Vợ không có công sinh ra ta, nhưng có công nuôi dưỡng và dậy dỗ ta nên người GãSiêu 121
« Vợ không có công sinh ra ta, nhưng có công nuôi dưỡng và dậy dỗ ta nên người» (Khuyết danh) I.- Chồng than: Chiều chiều bìm bịp kêu chiều Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi Ban ngày làm việc tả tơi Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường *** Nằm chung thì bảo.....chật giường Nằm riêng lại bảo.....tơ vương con nào Lãng mạn thì bảo.....tào lao Đứng đắn lại bảo.....người sao hửng hờ *** Khù khờ thì bảo.....giai tơ Khôn lanh thì bảo.....hái mơ bao lần Cả đời cứ mãi phân vân Tơ lòng con gái biết mần sao đây. II.- Vợ Vợ, từ thiếu nữ hiền lành Ðến khi xuất giá trở thành... "quan gia" Vợ là con của người ta Và ta quen Vợ chẳng qua vì tình Có quan thì phải có binh Nên ta làm... lính hầu tình "quan gia" Con ta do Vợ sanh ra Nên ta với Vợ... chẳng bà con chi Tại vì hôm Vợ vu quy Ta lỡ làm... lính hầu đi bên nàng Làm lính chứ không... làm tàng Tính chất Vợ ta phải càng hiểu hơn Mỗi khi mà Vợ giận hờn Áp dụng "công thức giản đơn"... làm huề Khi Vợ đã ngỏ lời... chê Thì nên sửa đổi... "đa bê" tức thì (database) Mỗi khi Vợ nhờ chuyện gì "Program" Vợ viết nhớ ghi trong lòng Khi Vợ đã nói là... "không!" "Nguyên hàm bất định", đừng mong tìm dò Vợ mà nổi nóng dằn co "Bảo toàn định luật" phải lo sẵn sàng Khi nào cùng Vợ ra đàng "Bảy hằng đẳng thức" sẵn sàng lắng nghe Mỗi khi mà đã ngừng xe Phải lo... "chuyển vế " mở xe cho nàng Cùng Vợ đi vào nhà hàng Không nên tự ý "khai hàm tích phân" Hễ thấy Vợ cứ nhăn nhăn "Khảo sát hàm số" nhưng cần làm thinh Vợ... "input" chữ "Shopping" Thì... "output" phải áo xinh, váy đầm... Muốn Vợ đừng có... chầm bầm Credit cards cứ âm thầm... "khai căn" Nếu... lỡ mà có lăng nhăng "Giá trị tuyệt đối" một lần rồi thôi Tình Vợ mà có muôn đời Phải nhường Vợ chức "đương thời quan gia" Muốn Vợ trẻ mãi không già Lưng ta chắc phải như là... "parabol" Tính chất Vợ thì phải tuân Kẻ làm... lính phải luôn luôn thật thà Nấu cơm, đi chợ, quét nhà... Quan gọi thì... dạ , bẩm bà có ngay Quan thương sẽ cười suốt ngày Quan ghét... lính sẽ bị đày khổ sai Hễ ai có cười chê bai Ðổ thừa... thương Vợ chứ ai mà...đần Tính chất phải... học nhiều lần Nếu không áp dụng trăm phần trăm... thua!!! III.- Sợ Vợ Dù không sinh đẻ ra ta Nhưng công nuôi dưỡng thật là lớn lao Khi ta đau ốm xanh xao Vợ lo chăm soc hồng hào khoẻ ngay Sợ ta đi trật đường rầy Vợ liền theo dõi kéo ngay về nhà Khi ta tán tỉnh ba hoa Vợ liền "quát nạt "để mà răn đe Lời vợ dạy phải lắng nghe Mai sau "khôn lớn "mà khoe mọi người Nói ra xin hãy chớ cười Vợ ta ta sợ ! Vợ người ... còn lâu ! Vợ dặn Lái xe ra khỏi cổng nhà Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng: Một đừng mơ mộng Thơ - Trăng Đụng xe thi sĩ gẫy răng u đầu Hai đừng giữ ống nghe lâu Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia Ba đừng ghé quán rượu bia Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường Bốn đừng mua báo dọc đường Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười |Năm đừng liến láo con ngươi Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua Sáu đừng hoang phí thời gian Ngồi lâu trộm nghiá cô hàng càfé Bảy đừng thấy phở mà mê Bột ngọt loét dạ lại chê cơm nhà Tám đừng hò hát lang thang Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn Chín đừng dạo bước hoàng hôn Công viên hoa lá cô hồn rủ rê Mười đừng ghé rạp xi nê Tivi nhà sẵn, lẹ về coi phim Rõ chưa? ( vợ hét đứng tim ) Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng Mười đừng nhắc lại cho thông Nếu không.... tui quyết nhốt ông ở nhà
IV.- Vợ ta - Vợ người Vợ ta thì nạt thì đe Vợ người thì cứ... lăm le ... nhìn hoài Vợ ta thì chẳng đoái hoài Vợ người khen đẹp... dài dài quanh năm Vợ ta chê mắt... lá răm Vợ người trông tợ trăng rằm tiên nga Vợ ta nói mãi chẳng tha Mèo tơ e ấp, nết na dịu dàng Vợ ta đi tướng hai hàng Mèo tơ đi tướng sàng sàng thấy mê Vợ ta hay mắng hay chê Mèo tơ âu yếm cận kề sáng hôm Vợ mình, mình sợ mới khôn Vợ người mà sợ có hôm què giò ! Vợ ta, ta sợ chẳng lo Vợ người mà sợ , đồ bò đồ trâu !! *** Cô hàng xóm (Xin cáo lỗi cùng cố thi sỹ Nguyễn Bính) Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái cọc để phơi áo quần Hai người nhầm lẫn tứ tung Nàng như cũng có cái quần giống tôi Để rồi có một lần phơi Thế nào tôi lấy nhầm ngay của nàng ...Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng Thấy nàng hé cửa gọi sang thế này "Ấy ơi ấy hãy vào đây, Cho tui đổi lại cái này chút coi" Lần đầu tiên thấy nàng cười Nàng che một tấm vải dày ngang hông (?) "Cái quần duy nhất của em, Hôm qua anh lấy về bên ấy rồi" *** Thanh Niên nên lấy vợ sớm vì những lợi ích sau đây: 1/ Vợ dậy cho ta tính phục thiện (sẵn sàng nhận lỗi tuy mình không làm gì sai cả). 2/ Vợ dậy cho ta tính kiên nhẫn, chờ đợi không biết mệt (để vợ sửa soạn đi lễ hay đi sắm đồ). 3/ Vợ cho ta sức khỏe (không hút thuốc lá, uống bia, đi chơi khuya với mấy thằng bạn cô hồn). 4/ Vợ dậy cho ta sự tế nhị (không bao giờ chê bai dù cơm khét, canh mặn). 5/ Vợ dậy cho ta sự lễ phép (đi thưa, về trình). 6/ Vợ dậy cho ta sự rộng lượng (kiếm được bao nhiêu tiền, tặng vợ hết) 7/ Vợ là huấn luyện viên thể dục tại gia của ta ( làm vườn, cắt cỏ, đổ rác, giặt quần áo, lau dọn nhà cửa, mang vác khi theo nàng ra phố) 8/ Vợ dạy cho ta tính gọn gàng, trật tự ( chỉ được bày biện của riêng trong một góc tủ vợ cho). 9/ Vợ dạy cho ta sự công chính ( ra đường cứ thẳng một đàng mà đi, không nhìn ngang liếc dọc, nhất là ở chỗ có nhiều phụ nữ). 10/ Vợ giúp cho ta trở thành người cha gương mẫu ( thay tã, tắm rửa, cho con bú, ru con ngủ..vv..) 11/ Vợ dạy cho ta biết giá trị của hai chữ Tự Do (nay không còn nữa). 12/ Vợ dạy cho ta biết phấn đấu với nghịch cảnh ( muốn chết nhưng cứ sống chơi). *** Lợi ích do vợ đem lại nhiều khôn xiết kể. Ai không tin, cứ thử rồi biết. *** Bí quyết xây dựng hạnh phúc gia đình của những người vợ thông minh: Đời sống hôn nhân không giống như ngắm hoa dưới trăng, nói câu "em yêu anh" tưởng dễ, thực ra nó lại phước tạp hơn bạn nghĩ rất nhiều. Nếu như bạn muốn được mọi người yêu quý, bạn tất phải làm cho mình trở lên đáng yêu. Người vợ thông thường chú ý từ chính bản thân mình, đem tính nết dịu dàng, sự tinh tế và sự bền lòng của người con gái, giành lấy tấm lòng yêu quý của chồng, giữ cho đời sống gia đình hạnh phúc. 1. Hiểu rõ tâm lý của đàn ông Tâm lý của đàn ông có hai tính chất, một phương diện biểu hiện là người đàn ông, tính khí trượng phu, chứng minh hiệu lực, nǎng lực và uy vọng của chính mình, một phương diện khác anh ta lại giống như một đứa trẻ, cần phải có sự dịu dàng, yêu mến, sự quan tâm chǎm sóc và thông cảm của người vợ. 2. It oán giận, nhiều khích lệ Người chồng có những sở thích của bản thân như sự nghiệp, ăn uống hợp khẩu vị và trưng diện. Nếu như bạn cảm thấy không được thoải mái có thể tiến hành dẫn dắt thích hợp nhưng không cần hờn trách oán giận, quở mắng và bắt bẻ, đối với những điều chính đáng thì cần phải có nhiều sự khích lệ và ráng duy trì. 3. Hiểu cách khích lệ chồng Khen chồng mình trước mặt bạn bè, đồng nghiệp và thông gia. Nhưng khen cần có chừng mực và mức độ thích hợp, đồng thời lại cần "thực sự cầu thị" (làm việc cần sát hợp với thực tế), nếu không thì sẽ trái lại hoàn toàn, biến thành diễn cợt nói móc lẫn nhau. 4. Coi trọng tinh thần hoà thuận với mẹ chồng Người chồng sợ bố mẹ cáu giận cho là bất hiếu, trách nhiệm đó là "lấy vợ rồi nàng dâu đã quên mẹ chồng", nhưng lại sợ thân cận quá nhiều dẫn đến sự bất mãn của vợ. Vì thế, làm dâu, cần phải tôn trọng bố mẹ chồng, những ngày lễ tết hàng năm cần chủ động đề xuất việc thăm hỏi người già hoặc mời mọi người đến nhà mình chơi, cùng ăn cơm, để giành được tình cảm tốt đẹp, sự yêu thương và tôn kính của chồng đối với bạn. 5. Không nên chỉ chú ý đến hưởng thụ vật chất Cần phải chăm lo đầy đủ đến chồng và đến thực lực kinh tế gia đình, không nên đề xuất yêu cầu vật chất một cách quá đáng, yêu cầu phải rút tiền chi tiêu một cách hợp lý, điều đó sẽ khiến cho chồng bạn nảy sinh sự ngờ vực là bạn đã yêu người khác hoặc là bạn yêu quý những vật chất đó hơn. 6. Lý giải và giúp đỡ hành vi của chồng Đối với những hành vi và việc làm của chồng khi gặp lầm lỗi, bất trung, bất hiếu, cần dành cho anh ấy sự lý giải đầy đủ, không nên hạn chế, càng không chú ý theo sát. Người chồng phải giúp đỡ cha mẹ và mọi người trong gia đình, bạn không nên can thiệp quá sâu, càng không nên không biết phải phân biệt phải trái đúng sai. 7. Trước mặt chồng chớ ăn mặc sơ sài Không nên chỉ chú ý ăn mặc đẹp và lịch sự khi ở bên ngoài, về đến nhà thì tuỳ tiện. Hôn nhân làm cho bạn không chú ý đến việc ăn mặc, trang điểm và không chú ý đến quyền lợi sắc đẹp. Cổ nhân nói "Con gái vì vui vẻ mà đã trở nên xinh đẹp". Câu nói đó quả là đúng. 8. Không nên coi thường địa vị của chồng Lòng tự trọng của người đàn ông rất cao, đặc biệt không bằng lòng với công việc và mức thu nhập, địa vị không kịp với người vợ, trong lòng vốn đã rất mềm yếu, một khi bị mọi người coi thường đặc biệt là vợ, rất dễ bộc phát tình cảm chịu thụt lùi. 9. Không ngừng trao đổi tư tưởng tình cảm với chồng Cần học để biết nghệ thuật hấp dẫn chồng, vì chồng mà tạo nên lên một hoàn cảnh gia đình thoải mái, vui vẻ và hạnh phúc, khiến cho người chồng mong muốn được quan tâm chăm sóc gia đình, mà không phải đi "tránh nạn" và tìm kiếm niềm vui ở nơi khác. 10. Nắm vững năm giờ then chốt Năm giờ trước khi chồng đi làm và sau khi đi làm về là thời gian rất quan trọng. Tinh thần của người vợ sẽ phát sinh sự truyền cảm rất lớn đối với việc đó, tinh thần hăng hái khoẻ mạnh, sẽ đem lại cho gia đình niềm vui hạnh phúc và không khí hoà thuận vui vẻ. *** 7 thứ mà một người phụ nữ đẹp dễ đánh mất Nếu bạn là một người phụ nữ đẹp, hẳn bạn sẽ rất tự hào. Tuy nhiên có một lúc nào đó bạn tự hỏi bản thân mình đã đánh mất thứ gì quý giá chưa? Thực tế cho thấy, một người phụ nữ đẹp có thể đánh mất một số thứ, trong đó 7 thứ sau đây là quan trọng nhất. 1. Cơ hội Đây là thứ mà người phụ nữ đẹp rất dễ đạt được trong cuộc sống và công việc. Có lẽ vì vậy mà người phụ nữ đẹp thường có nhiều khát vọng và sẽ không còn quý giá những thứ đã đạt được, luôn tin rằng mình sẽ có cơ hội tốt hơn. Nhưng thật ra, khi nhìn lại mình bạn sẽ thấy mấu chốt dẫn đến sự thành công và cơ hội của bạn là do sắc đẹp đem đến, chứ chưa thực sự là tài năng của bạn. Trong khi đó, việc nắm bắt và tận dụng thành công các cơ hội tốt lại không bao giờ liên quan đến sắc đẹp. 2. Sự kiên trì Có lẽ đa số người đẹp đều muốn tránh xa các công việc khó khăn nặng nhọc, bởi lẽ họ không muốn bàn tay mình có vết chai, khuôn mặt phải nghĩ ngợi. Có lẽ vì vậy mà tính kiên trì không giúp ích gì được cho bạn và bạn sẽ dần dần tự đánh mất nó. 3. Sự khoan dung Những người phụ nữ đẹp luôn nhận được sự sủng ái và ngưỡng mộ của người xung quanh. Vì thế họ dần dần trở nên kiêu căng, thậm chí còn "hung hăng" là khác. Họ thích nổi tiếng, thích được ngưỡng mộ, quan tâm chiều chuộng, vì vậy họ xem thường người khác, đôi khi còn xúc phạm người khác. 4. Sự tín nhiệm Do mọi người cũng phần nào hiểu được tính cách của những người phụ nữ đẹp cho nên nếu là người phụ nữ đẹp, bạn rất dễ bị hiểu lầm. Bạn sẽ phải rất cố gắng nỗ lực để cho mọi người hiểu rằng bạn là người đẹp cả ngoại hình lẫn nội tâm. Có lẽ lúc này nhiều người đẹp than thở rằng sắc đẹp thật nhiều phiền toái. Bởi những người phụ nữ có khuôn mặt thật thà phúc hậu thường được sự tin tưởng, tín nhiệm của mọi người xung quanh. 5. Người đàn ông đứng đắn Người phụ nữ đẹp thường tự phụ và luôn thích có nhiều đàn ông theo đuổi. Luôn thích đàn ông trở thành "nô lệ" của mình. Trong khi đó những người đàn ông đứng đắn luôn có lòng tự trọng rất cao. Họ biết dừng lại đúng chỗ. Nếu như người đẹp không đoái hoài đến tình cảm của họ, hoặc gây khó dễ cho họ thì dĩ nhiên họ cũng sẽ lạnh lùng ra đi mà không hề nuối tiếc. 6. Sự tự do Người đàn ông nào lấy được một cô vợ đẹp hẳn sẽ phải chịu muôn vàn cực nhọc. Họ luôn phải che chở chăm sóc chịu đựng tha thứ cho vợ mình. Đôi khi còn phải đề phòng hoặc chiến đấu vì vợ đẹp. Lúc nào anh ta cũng phải dõi mắt theo vợ. Và tất nhiên, cô vợ đẹp kia sẽ chắc chắn không còn được tự do như trước nữa. 7. Sự yên ổn Một người phụ nữ đẹp thường là mục tiêu theo đuổi của nhiều người đàn ông. Vì vậy nếu không khéo léo hẳn họ sẽ gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống. Họ sẽ khó yên ổn bởi các "mũi tấn công" vẫn cứ liên tục triển khai. *** VỢ ƠI LÀ VỢ............. Vợ xấu là Bất tài Vợ đẹp là Bất hạnh Vợ bỏ là Bất lực Ế vợ là Bất trí Có vợ bé là Bất nhân Giựt vợ là Bất lương Vợ ly dị là Bất cần Còn ly dị vợ là Bất lợi Vợ ghen mà làm thinh là Bất chấp Vợ chồng bên nhau mãi là Bất tử Vợ chồng cãi lộn là Bất hòa Vợ giận không nói là Bất hợp tác Vợ chồng giận nhau là án binh Bất động Vợ chồng đánh nhau là Bất phân thắng bại Vợ bị đánh mỗi ngày vẫn không sợ là Bất khuất Ý vợ là Bất di Bất dịch Áo vợ mặc là Bất luận Cơm vợ nấu là Bất kiến Đồ đạc của vợ là Bất động sản Em gái của vợ là Bất khả xâm phạm Khen gái đẹp trước mặt vợ là Bất tiện Vợ được người ta khen nhiều là Bất ổn Vợ không cho lại gần là Bất thường Vợ không cho ngủ chung là Bất mãn Léng phéng mà vợ bỏ qua chỉ Bất quá tam Vợ bắt được quả tang (với ẻm) là Thiên Bất dung tha Vì vợ mà thi rớt là Bất đạt Vì vợ mà bỏ bạn là Bất tin Vì bạn không thương vợ là Bất công Vì vợ mà bỏ cha là Bất hiếu Vì cha mà phụ vợ là Bất nghĩa Vì tiền mà xem thường cha vợ là Bất kính Lương đưa hết cho vợ là luật Bất thành văn Tiền đưa vợ với tiền vợ chi là Bất đẳng thức Nói chung, lấy vợ là chuyện Bất đắc dĩ, Nhưng lại là chuyện Bất khả kháng. *** CHỒNG ƠI LÀ CHỒNG....... Chồng ngu đần là Vô phúc Chồng thông minh thì Vô sự Chồng bỏ là Vô sinh Ế chồng là Vô duyên Chồng đi ngoại tình là Vô đề kháng Giựt chồng là Vô lương tâm Chồng ly dị là Vô mưu Còn ly dị chồng là Vô mục đích Chồng ghen mà làm thinh là Vô tội Ghen với chồng là Vô cớ, nếu không nói là Vô hiệu Con riêng của chồng là Vô thừa nhận Vợ chồng bên nhau mãi mãi là Vô giá Vợ nhồng cãi lộn là Vô tận Chồng giận không nói là Vô hạn Vợ chồng đánh nhau là Vô luật lệ Chồng đánh mỗi ngày không sợ là thiên hạ Vô địch Nhưng đã bị chồng đánh là Vô phưiơng cứu chữa Ý chồng là Vô biên Áo quần chồng mặc là Vô hình Cơm chồng nấu là Vô vị Đồ đạc của chồng là Vô sản Nói xấu chồng là Vô công rồi nghề Ghẹo anh em trai của chồng là Vô tình Khen người khác đẹp trai trước mặt chồng là Vô ý Chồng được người ta khen nhiều là Vô tâm Chồng không muốn lại gần là Vô độ Trước khi ngủ với chồng cần phải Vô trùng Trốn chồng mà léng phéng là Vô kỷ luật,Vô chủ Chồng bắt được quả tang (với bồ) là Vô can Vì chồng mà thi rớt là Vô dụng Vì chồng mà bỏ bạn là Vô ân Vì bạn mà không thương chồng là Vô lại Vì chồng mà bỏ cha là Vô đạo, Vô ơn Vì cha mà phụ chồng là Vô liêm sỉ Vì tiền mà xem thường bố chồng là Vô lễ, Vô văn hóa Lương đưa hết cho chồng là Vô điều kiện Chi tiền của chồng là Vô tư, Vô nguyên tắc, và Vô trách nhiệm Lấy chồng là Vô nghĩa, Vô bổ, Vô ích, Nhưng nếu không lấy thì Vô vọng. *** TẠI SAO PHỤ NỮ …? - Vừa sinh ra, họ đuợc xếp ngay vào "phái đẹp", chẳng cần chờ ban giám khảo các cuộc thi hoa hậu cân đo, săm soi gì hết, rõ sướng ! Họ khoái sắm đồ đẹp, thích đi mỹ viện, sửa đi, sửa lại, độn cái này vô, lấy cái kia ra cũng đuợc cho qua, bởi họ là phái đẹp. Còn đàn ông mà làm như vậy dư luận lại chộn rộn: rõ là đồ pêđê, bóng lại cái … - Thử hỏi ở phòng khám béo phì có bao nhiêu bà, bao nhiêu cô bụng to cỡ "thùng nước lèo", hông bự cỡ "võ sĩ sumô". Ấy vậy mà nếu đàn ông bụng to đi chữa mập thì bị các bà, các cô nhòm nhòm, ngó ngó rồi ghé vào tai nhau: "Bụng bia, uống cho lắm vào mới vậy !". - Họ đựơc phép quyến rũ ta bằng các chiêu: ánh mắt, nụ cười, giọng nói .. khiến cánh đàn ông được gọi là phái mạnh bỗng yếu xìu: làm theo mong muốn của họ. Thế rồi dư luận cũng lên tiếng chê bai chúng ta mất đạo đức, làm bại hoại gia phong, tan nát gia đình. Họ lại còn rất khôn: Thích được người khác ôm, chứ nhất định không chịu bỏ tiền ra "ôm" ai ! Ngày Quốc Tế Phụ Nữ 08.03.200... Gã Siêu
Cách đây không lâu, một anh bạn từ bên Mỹ, chẳng biết sưu tầm được ở đâu, đã gửi cho gã một GãSiêu 122
Cách đây không lâu, một anh bạn từ bên Mỹ, chẳng biết sưu tầm được ở đâu, đã gửi cho gã một mẩu chuyện, đọc xong gã chẳng biết nên cười hay nên khóc. Mẩu chuyện ấy như thế này:
Lần đầu tiên mới tới Hà Nội, tôi không khỏi bỡ ngỡ khi tìm nhà của một người bạn, hiện làm trưởng một khu phố văn hóa.
Thấy có mấy đứa trẻ đang nô đùa ngoài đầu ngõ, tôi hỏi:
- Này các cháu, các cháu có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở đâu hay không ?
Một đứa bé trai, khoảng trên dưới mười tuổi, ngước nhìn tôi bằng ánh mắt xấc láo và ranh mãnh, rồi đáp gọn lỏn:
- Biết nhưng…đéo chỉ.
Tôi lắc đầu, tiếp tục đi sâu vào con hẻm văn hóa. Gặp một thanh niên, tôi liền hỏi:
- Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu phố văn hóa này ở chỗ nào hay không?
Gã trẻ tuổi chẳng thèm nhòm ngó gì đến tôi và trả lời cộc lốc:
- Đéo biết.
Miết rồi cũng tìm thấy nhà ông trưởng khu phố văn hóa. Khi gặp ông, tôi kể lại chuyện này cho ông ta nghe với lời than thở:
- Anh ạ, các bậc cha mẹ ở đây không dạy dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với những người khách lạ một cách thô bỉ và tục tĩu đến thế hả anh ?
Chẳng cần suy nghĩ, ông trưởng khu phố văn hóa đã thuận miệng trả lời tôi ngay:
- Có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó…đéo nghe.
Lúc ấy người con gái của ông bạn tôi, hiện là một cô giáo dạy môn văn, vừa từ nhà trường trở về và tôi liền đem câu chuyện ấy ra mà kể.
Thay vì trả lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin phép thuật lại một sự việc như sau:
Hôm ấy, cháu giảng bài văn, có đoạn trình bày thành tích anh hùng và dũng cảm của nhân dân ta đã đánh gục giặc Tây, đã đánh nhào giặc Mỹ…Cuối cùng, cháu kêu một em trai lớn nhất lớp và bảo:
- Em hãy định nghĩa xem hai chữ “dũng cảm là gì ?”
Nó đứng lên, suy nghĩ một lúc rồi đáp gọn lỏn:
- Thưa cô, nghĩa là…đéo sợ ạ.
Sau đó, trong cuộc tiếp xúc với ông bộ trưởng giáo dục và đào tạo, cháu liền đem câu chuyện thằng bé học trò đã cắt nghĩa hai chữ “dũng cảm” là…”đéo sợ” cho ông ta nghe.
Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm chiêu, ra điều suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng, ông nghiêm nghị nhìn tôi, rồi gật gù như một triết gia uyên bác vừa mới khám phá ra một chân lý cao siêu, ông ta chậm rãi đáp:
- Ừ, nó cắt nghĩa như thế thì cũng…đéo sai.
Nghe vậy, tôi chua chát nghĩ thầm trong bụng rằng:
- Giáo dục và đào tạo theo kiểu này thì đất nước mình…đéo khá lên được.
Gã nghĩ rằng mẩu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại được “phệu ra” với một chủ đích…châm chích chọc nào đó mà thôi. Nhưng câu chuyện dưới đây lại là một câu chuyện có thật một chăm phần chăm, do một cha già khả kính đã kể cho gã nghe.
Vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh, cha già đạp xe từ nhà thờ xứ tới nhà thờ họ lẻ để ban lễ vào lúc tám giờ. Cũng trong khoảng thời gian ấy, có hai vợ chồng nhà kia chẳng hiểu lục đục với nhau vì lý do gì, đã chửi bới nhau một cách thậm tệ.
Thế nhưng, đang lúc hăng say dọn cho nhau xơi những thứ cao lương mỹ vị, chị vợ nhác thấy bóng cha già sắp đi qua bèn đề nghị…đình chiến. Chị nói:
- Thôi, không cãi nhau nữa, cha đấy.
Anh chồng còn đang hậm hực và tức tối, từ trong nhà chõ mõm ra ngoài ngõ và quát lớn:
- Cha thì ông cũng…đéo sợ.
Ngay lúc đó, vị cha già khả kính của gã đạp xe ngang qua và đã nghe thấy “nguyên văn” câu nói ấy.
Như vậy, chẳng phải chỉ có người Hà Nội mới chửi, mà người Saigon cũng chửi. Chẳng phải chỉ có người miền Bắc mới chửi, mà người miền Nam cũng chửi. Chẳng phải chỉ có đờn ông mới chửi, mà đờn bà cũng chửi. Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, từ đông sang tây cũng như từ cổ chí kim.
Và gần đây, gã thấy hiện tượng này xem ra đã bùng nổ mãnh liệt và liên tục phát triển nơi giới…nữ sinh. Cứ nhìn những cặp môi ngây thơ và xinh đẹp ấy phát ngôn một cách bừa bãi, tuôn ra rông rổng những lời chửi bới cộc cằn. Chẳng khác gì các bà hàng cá, hàng tôm, hàng thịt… Dường như đối với các em mới nhớn này phải biết chửi mới là dân chơi thứ thiệc, chính hiệu con nai vàng ngơ ngác.
Tình cờ đi qua một đám nữ sinh đang chu mỏ lại bình loạn về lão nọ, lão kia. Nhưng những lão ấy là ai thế ? Gã xin thưa những lão ấy có khi là cha mẹ của họ, có khi là thầy dạy của họ và cũng có khi là…bồ bịch của họ nữa.
Nghe được những lời bình loạn này, hẳn nhiều người sẽ phải sởn gai ốc, nổi da gà và phát sốt phát rét lên ấy chứ. Nếu có sống lại, Đức Khổng Tử cũng phải thở dài thườn thượt, rồi sau đó lăn đùng ra mà chết, miệng vẫn còn nói những lời sau cùng như muốn cảnh báo:
- Hỉ ôi! Hỉ ôi! Hậu sinh khả…ố. Tứ đức công dung ngôn hạnh của ta biến sạch đằng nào cả rồi ?
Như trên gã đã xác quyết bằng cả hai tay lẫn hai chân rằng:
- Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, đã là người thì ai cũng có tình cảm. Và theo sự phân tích của người xưa, thì có bảy thứ tình cảm chi phối toàn bộ đời sống con người và được gọi là thất tình.
Vì vậy, gã xin cả tiếng lại dài hơi thanh minh thanh nga rằng: thất tình ở đây chẳng phải là mất đi tình yêu để rồi phát buồn phát sầu mà đi lang thang như người cõi trên. Trái lại, thất tình là bảy thứ tình cảm chất chứa trong lòng con người, đại khái như sau:
Thứ nhất hỉ là mừng. Thứ hai nộ là giận. Thứ ba ai là buồn. Thứ tư cụ là sợ. Thứ năm ái là yêu. Thứ sáu ố là ghét. Thứ bảy dục là muốn.
Kinh nghiệm cho thấy khi cái sự “nộ” tức là cái sự giận nổi lên đùng đùng, nó sẽ ám vào lục phủ ngũ tạng khiến cho đương sự như bị tẩu hỏa nhập ma, mặt đỏ tía tai và thế nào miệng cũng phát ra những lời chửi bới độc địa.
Vậy thế nào là chửi ?
Theo gã nghĩ chửi là biểu lộ sự nóng giận của mình bằng những lời lẽ thô lỗ, xúc phạm tới ông bà cha mẹ người ta, gán cho người ta những tên xấu xa của súc vật, hay cho người ta ăn những của lạ…Như vậy, sự chửi bới thường đi đôi với những lời nói tục tĩu.
Gã không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhưng xem ra cách chửi của dân An-nam-ta vừa trầm lại vừa bổng, vừa đậm đà lại vừa ý vị, ăn đứt những dân tộc khác trên trái đất này.
Nếu coi việc chửi bới là như một chứng bệnh, thì gã có thể phân chia thành hai loại.
Loại thứ nhất là chửi mãn tính.
Chửi mãn tính là thứ chửi thường xuyên. Người mắc phải chứng bệnh này, hễ mở mồm ra là phải chửi. Họ chửi một cách tự nhiên. Họ chửi một cách vô tư, không tội vạ chi sốt. Nếu không chửi thì xem ra họ sẽ bị nhạt miệng hay bị ngứa ngáy khó chịu.
Bất cứ câu nói nào của họ cũng phải được đệm theo một thứ tiếng lạ, như tiếng Đức hoặc tiếng Congo... Tất cả tạo thành một thứ hợp âm cho ngôn từ của họ được tròn trịa, được hài hòa và cân đối.
Hồi còn bé sống trong nội trú, tên nào chửi tục mà bị thầy giám thị vớ được, sẽ bị trừ điểm kỷ luật và chiều thứ năm, thay vì được đi “bát phố”, thì sẽ phải ở nhà để làm công tác. Vì thế, những tên “ghiền” chửi tục, đã bịa ra những từ nhẹ nhàng và thanh tao hơn để mà chửi, cho dù bản chất vẫn là thô tục.
Chẳng hạn như từ “điếu”:
- Ông điếu sợ…
Chẳng hạn như từ “bè mẹ”:
- Bè mẹ nó chứ, ông đánh cho vỡ mỏ ra bây giờ.
Thanh thử, đám trẻ cứ thoải mái qua mặt thầy giám thị cái vù, mà chẳng hề hấn chi.
Gã có một anh bạn mắc phải chứng bệnh này một cách “thâm niên quân vụ”. Là miền người Bắc, nhưng vì sống lâu năm với đám học trò nhỏ người miền Nam, nên tiếng đệm của anh ta cũng bị pha trộn.
Hầu như lúc nào trên môi miệng anh ta cũng vang lên điệp khúc “đủ mẻ”. Vì thế, gã đã phong cho anh ta cái hỗn danh là “ông thầy Đủ Mẻ”.
Ngày kia, anh ta đang lái xe phom phom đi trên đường phố, nhưng có lẽ vì lơ đãng hay sao ấy, anh ta đã va quẹt vào chiếc xe của một cô gái. Thế là nhanh như chớp, anh ta xuống xe, khoa chân múa tay mà chửi:
- Đủ mẻ, lái thế mà coi được à. Bộ đui bộ mù hay sao ?
Tội nghiệp cho cô gái, hai mắt rưng rưng như muốn khóc, lên tiếng năn nỉ ỉ ôi với anh ta:
- Đủ mẻ nó chứ, hễ đụng xe là phải chửi liền tù tì. Bắn chậm thì chết thế nào, thì chửi chậm cũng chết như vậy. Đó là quy luật của muôn đời, mày phải nhớ cho kỹ, rồi đem ra mà áp dụng mỗi khi…hữu sự nghe con.
Đặc biệt nhất là khi tâm hồn anh ta sảng khoái và ngồi vào bàn nhậu. Anh ta đã từng phát biểu thật hách xì xằng:
- Đã không “dzô”thì thôi, “dzô” thì là một chăm phầm chăm. Đủ mẻ thế mới đã!
Thậm chí anh ta còn cao hứng nghêu ngao hát:
- Đâu có tình yêu thương, ở đó uống rượu thật nhiều.
Đâu có tình bác ái, ở đó uống rượu không say.
Đâu ý hiệp tâm đầu, ở đó uống chăm phần chăm.
Còn rất nhiều những sự việc hay ho hấp dẫn về “ông thầy Đủ Mẻ” này, nhưng gã xin khép lại ở đây để tiếp tục bàn về chứng bệnh chửi.
Loại thứ hai là chửi cấp tính.
Chửi cấp tính là thứ chửi đột xuất, khi tự ái bị chạm mạch và sự nóng giận bốc lên đầu, khiến người ta chửi thành từng câu hay thành từng bài với ý đồ thâm hiểm nhằm hạ nhục đối phương, làm cho đối phương phải te tua nát nước.
Tùy theo tính tình của từng người mà cơn bệnh cấp tính này mang những âm độ khác nhau.
Trước hết, đối với với những kẻ nhát gan, không đủ can đảm biểu lộ sự bực tức ra bên ngoài, bèn nuốt giận mà chửi lén hay chửi thầm.
Chửi lén là chửi sau lưng, là chửi lúc người ta vắng mặt. Họ giống như hội đồng nhà chuột. Căm thù trước sự dã man của mấy lão mèo, dòng họ nhà chuột đã họp hội đồng và trong cuộc đại hội này, từ tên chuột cống đến tên chuột nhắt, tất cả đều to mồm chửi bới mấy lão mèo. Thế nhưng khi mấy lão mèo xuất hiện, thì họ hàng nhà chuột đều mạnh ai nấy trốn, bỏ của chạy lấy người. Giá như có một tí trí khôn để suy nghĩ, thì không thiếu những tên chuột khom lưng quì gối mà nịnh bợ mấy lão mèo.
Còn chửi thầm là chửi âm ỉ trong cõi lòng của mình mà không phát thành tiếng thành lời, bản lãnh lắm thì cũng chỉ lẩm bẩm nơi cửa miệng mà thôi. Nhiều khi cơn giận làm cho thâm gan tím ruột, mà bản mặt thì vẫn cứ phải tươi cười, cho dù cái cười có quay quắt và héo hắt.
Tiếp đến, đối với những kẻ bạo phổi thì sự bực tức được phát tiết ra bên ngoài, nhất là nơi miệng lưỡi bằng những lời lẽ cộc cằn và thô lỗ. Đồng thời, tùy theo đối tượng được nhắm tới, gã có thể chia loại chửi này thành hai kiểu.
Kiểu thứ nhất là chửi trực diện, hay nói theo ngôn ngữ tin học, thì đó là chửi trực tuyến, nghĩa là chửi thẳng vào mặt đối phương, chẳng cần phải nể nang, chẳng cần phải rào trước đón sau. Những “lời hay và ý đẹp” cũng như những món “cao lương mỹ vị” cứ tuôn ra ào ào, khiến cho đối phương bị tối tăm mặt mũi chẳng biết đâu mà đỡ. Nếu không có nội lực thâm sâu, thì chắc chắn sẽ bị…sụm bà chè mất thôi. Kiểu chửi này được bàn dân thiên hạ gọi chửi tưới hột sen, chửi như tát nước.
Kiểu thứ hai là chửi gián tiếp. Ta cứ gào to giữa làng và giữa xóm, giữa đường và giữa phố, để cho ai có tật thì phải giật mình. Ta cứ rút dây cho rừng phải động. Ta cứ nổ sấm bên đông cho động tới bên tây. Ta cứ nói đấy để cho đây phải chạnh lòng. Vì thế, kiểu chửi này được bàn dân thiên hạ gọi là chửi đổng, chửi khống, chửi lông bông, chửi xiên chửi xéo…
Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy quất cái roi xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên bèn đưa tay ra đỡ. Chẳng may cái roi dụng phải cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu.
Đứa bé nước mắt lưng tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu tiết bèn làm một màn chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc theo con đường duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm ĩ:
- Tiên sư bố nó. Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con người ta như thế kia à. Tiên sư bố nó…Tiên sư bố nó…
Gã có thể quả quyết được rằng việc chửi đổng hay chửi xiên chửi xéo nơi một số quí bà quí cô đã đạt tới trình độ nghệ thuật với chất lượng cao, nếu không muốn nói là tuyệt vời và trên cả tuyệt vời nữa.
Họ chửi có cung có điệu và có trầm có bổng. Họ chửi thành câu thành cú và thành bài thành bổn. Lời họ chửi chẳng khác chi một bài thơ, có bằng có trắc và có vần có vế. Tiếng họ chửi khi thì dồn dập như thác lũ, khi thì nỉ non ai oán như tiếng người vợ nức nở tiễn đưa người chồng vào nơi chín suối.
Trời bắt đầu nhá nhem. Bà hàng xóm ném một nắm thóc xuống khoảng sân đất và lên tiếng gọi:
- Chắt, chắt, chắt…
Bầy gà lục tục kéo nhau về, mổ những hạt thóc cuối cùng trong ngày trước khi lên chuồng.
Bà hàng xóm đếm đi đếm lại mà sao vẫn thiếu một anh gà trống choai. Rồi bà đếm lại đếm đi mà sao vẫn cứ thiếu. Và thế là bà ra đứng trước ngõ, mắt long lên còng cọc, cất cao giọng the thé mà chửi một bài cả thể.
Nhân vật được bà ưu ái nhắm tới thuộc vào hàng vô ngã, “impersonnel”, nên lời chửi của bà cũng vu vơ và bâng quơ. Tuy vu vơ và bâng quơ, nhưng lại nhằm trực tiếp tới một thằng cha nào đó đã cả gan dám ăn cắp gà của bà.
Tiếng chửi của bà nhờ gió chuyển tới các gia đình trong khu xóm:
- Cha tiên sư ông cụ,
ông kỵ bảy đời nhà nó.
Nó chẳng bỏ công nuôi,
mà lại muốn ăn không của bà.
Thì đây bà cho nó ăn….
Tới chỗ này thì xin cho gã tự đục bỏ và cắt xén, không dám viết thêm nữa vì sợ sẽ làm cho kẻ thanh sạch mất lòng khiết tịnh. Chỉ biết rằng anh gà trống choai của bà hàng xóm sáng hôm sau đã xuất hiện thật sớm trên khoảng sân đất. Anh ta vỗ cánh đùm đụp, rồi cất giọng ồ ề mà gáy. Có lẽ đêm hôm qua anh ta đã đi tán tỉnh, hay đi mừng sinh nhật của một chị gà mái tơ nào đó chăng ?
Về việc chửi bới cũng như về nhiều việc khác nữa, đôi khi đã xảy ra một nghịch lý đáng buồn trong phạm vi gia đình.
Thực vậy, cha mẹ nào cũng muốn dạy bảo con cái mình phải nghiêm túc trong lời nói, tránh đi những lời nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu. Thế nhưng, chính những bậc làm cha làm mẹ ấy lại luôn có những lời nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu ấy trên môi trên miệng của mình.
Một ông bố đã căn dặn con mình như sau:
- Mày nhớ nhé, không được nói tục nghe con. Mày mà nói tục, ông cha sở nghe thấy, thì ông ấy sẽ xẻo lưỡi mày đấy. Đủ mẻ mày đã nghe rõ chưa ?
Cũng thế, một bà mẹ luôn nhắc nhở đứa con gái cưng của mình phải thành thật. Thế nhưng, khi có người đến đòi nợ, bà đã trốn kỹ dưới bếp và sai đứa con gái ra nói người khách bất đắc dĩ ấy rằng bà đi vắng.
Đứa con gái mở cổng và rất ngây thơ nói với người khách:
- Thưa bác, má cháu bảo cháu ra nói với bác rằng má cháu không có nhà.
Cũng thế, buổi sáng nghe chuông nhà thờ vang lên, ông bố cuộn mình trong chăn, vội lên tiếng giục giã con cái:
- Nào, thức dậy, đi đái, lấy nước, súc miệng, đánh răng, rửa mặt, đi lễ.
Trong khi con cái uể oải thực thi những mệnh lệnh kể trên, thì ông bố vẫn cứ nằm ngủ nướng…nướng đến độ cháy khê cháy khét.
Thảo nào, khi người ta hỏi một cậu bé rằng:
- Em muốn gì ?
Cậu bé không ngần ngại trả lời:
- Em muốn làm người lớn.
Người ta hỏi tiếp:
- Tại sao lại thế ?
Cậu bé nhoẻn một nụ cười đầy bí mật và nói:
- Để được chửi tục, nói dối và nằm ngủ nướng mà không bị la mắng!
Cha mẹ nói một đàng nhưng lại làm quàng một nẻo, thành thử trống đánh xuôi kèn thổi ngược, những lời dạy bảo của họ không đủ sức thuyết phục con cái.
Phương thế giáo dục đạt hậu quả cao nhất, đó chính là gương sáng của cha mẹ, bởi vì chỉ gương sáng của cha mẹ mới là một bài giảng hùng hồn hấp dẫn được con cái mà thôi, chả thế mà người xưa đã bảo:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Để kết luận, gã nhớ lại lời người xưa đã khuyên:
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Có nghĩa là phải thận trọng đắn đo trước khi nói, để tránh đi những lời chửi bới và tục tĩu, trái lại hãy có những lời ôn tồn và thành thực để tạo được một bàu khí hòa thuận cũng như bắc được một nhịp cầu cảm thông, vì:
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy:
- Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình.
Hay như người Pháp cũng đã bảo:
- Khi chửi bới thì chính chúng ta lại là người đầu tiên phải nghe những lời tục tĩu ấy.
Hơn thế nữa, lòng đầy thì mới tràn ra ngoài. Căn cứ vào lời nói mà thiên hạ có thể đánh giá được con người chúng ta. Nếu lời nói của chúng ta cộc cằn và thô lỗ, thì con người chúng ta cũng cộc cằn và thô lỗ như vậy. Trái lại:
Trong tiếng Việt, người ta hay dùng kiểu viết tắt trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn như về GãSiêu 123
Trong tiếng Việt, người ta hay dùng kiểu viết tắt trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn như về học vị hay chức tước:
Ts có nghĩa là Tiến sĩ. Bs có nghĩa là Bác sĩ. Gs có nghĩa là Giáo sư. Lm có nghĩa là Linh mục…
Hiện giờ, người ta cũng hay dùng những chữ cái đầu tiên để đặt cho thương hiệu của mình.
Trong một bài báo mới đây bàn về phong trào xơi tiết canh lòng lợn, để có số đỏ và lấy hên cho công việc làm ăn, người ta đã nói đến những nhà hàng, những quán ăn tại Saigon nổi tiếng về món “lolotica”.
Cũng có công ti chuyên mua và bán hột vịt lộn đã tự đặt cho mình cái tên là “Hovilo”.
Gã còn nhớ vào khoảng năm 1981, cuộc sống còn chồng chất nhiều khó khăn. Công việc đồng ruộng thì nhiều vất vả, hơn nữa lại không quen, bởi vì lúc bấy giờ gã chỉ là một thư sinh, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, có trói gà thì cũng chẳng chặt, vì thế gã đành phải chuyển hệ, tập tễnh bước vào nghề nuôi heo. Gã làm quen và học hỏi kinh nghiệm nơi những vị…thâm niên trong nghề, từ khâu chọn mua heo giống, đến khâu chế biến thực phẩm bằng công thức, dựa theo những sản phẩm của địa phương mình, như gạo, cám, cá, bột xương, bột xò…Từ việc xây dựng chuồng trại, đến việc chữa trị những chứng bệnh thông thường. Với một “bồ hiểu biết” như vậy, gã bèn lăn xả vào cái nghề bất đắc dĩ này. Tuy nhiên, chuyện đầu tiên gã nghĩ tới để heo mau lớn, đó là phải xổ giun sán. Vì nếu thực phẩm vừa mới đưa vào đến ruột, đã bị bọn giun sán, loài ký sinh sống bám, sống nhờ… phỗng tay trên, thi nhau xơi trước, thì còn gì nữa đâu để con heo phát triển. Và thế là lại một lần nữa, gã phải thỉnh ý những “chuyên viên chuồng trại” xem loại thuốc nào hiệu nghiệm hơn cả. Họ bảo: - Ông cứ ra tiệm thú y, mua và quất cho mỗi con một liều TGS là xong ngay. Gã ngẫm nghĩ không hiễu TGS là cái thuốc quái quỷ gì mà “linh” quá vậy ? Sau khi cầm những gói thuốc trong tay, gã mới ngộ ra rằng: - TGS chính là Trị Giun Sán. Đơn giản chỉ có vậy mà gã cũng chậm…tiêu.
Cách đây khá lâu, để khử trừ nạn cướp bóc vốn xảy ra hằng ngày, nhất là vào những lúc đêm hôm khuya khoắt trên những còn đường vắng vẻ, ngành cảnh sát công an đã thành lập một lực lượng đặc biệt, mang tên gọi là SBC, có nghĩa là Săn Bắt Cướp.
Còn cách đây không lâu, báo Công An Thành Phố có một bài viết mang tựa đề “Theo chân tổ SĐB”. Chỉ mới liếc qua cái tựa đề này mà thôi, gã đã phải bỏ ra cả phút đồng hồ để động não xem SĐB nghĩa là gì. Tức anh ách vì đầu óc mình tối tăm không đoán ra nổi. Đến khi đọc bài viết thì mới à lên một phát và rất lấy làm thú vị: - SĐB có nghĩa là “Săn Đái Bậy”
Số là thành phố Sàigòn từ năm ngoái cho đến năm nay, thiên hạ vẫn còn đang phát động phong trào “Vì cuộc sống văn minh đô thị”. Và để cho khuôn mặt Sàigòn được văn minh và dễ thương, đúng với truyền thống của “Hòn ngọc Viễn Đông”, người dân cần phải giữ gìn vệ sinh công cộng, trật tự giao thông và nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác nữa…Trong việc giữ gìn vệ sinh công cộng, ngoài việc không được xả rác bừa bãi, lại còn thêm cái việc không được…đái bậy.
Đúng thế, theo tác giả Hoài Giang – Thanh Thủy của bài viết, thì người ta đã thành lập Đội Quản lý Đô thị. Nhiệm vụ của những người làm công tác thuộc đội này, ngoài việc xử phạt những trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, trật tự lòng lề đường, còn có chức năng khá đặc biệt là xử lý các trường hợp vi phạm liên quan đến vệ sinh môi trường, trong đó có việc đái bậy nơi công cộng.
Vì thế, tổ SĐB được hình thành và trực thuộc Đội Quản lý Trật tự Đô thị. Dĩ nhiên SĐB chỉ là kiểu nói vui của những người trong tổ, để chỉ công việc rất đặc biệt này mà thôi.
Mục đích của SĐB là chuyên môn săn lùng những kẻ “trút bầu tâm sự” ở những gốc cây, những công viên, những tường vách…nghĩa là trút ở những nơi không được phép trút. Tình trạng vô tư “giải quyết nỗi buồn” ngay giữa thanh thiên bạch nhật từ lâu đã trở thành một căn bệnh “mãn tính” và hiện đang có chiều hướng gia tăng và liên tục phát triển, bởi vì ngày càng có nhiều người, chẳng mắc bệnh “đái đường, thế mà lại thích đứng khơi khơi ngoài đường để “xả”, để “trút”! Cũng theo tác giả bài viết, thì việc săn lùng và biên phạt những hành vi kể trên cũng nhiêu khê và rắc rối, chứ chẳng dễ dàng và ngon lành gì, bởi vì phải bắt tại trận, nghĩa là phải “tóm” được đúng nơi và đúng lúc, nghĩa là ngay khi can phạm đang “hành sự”, rồi lại còn phải thêm bằng chứng với hình ảnh cụ thể, để can phạm hết đường chối cãi… Theo chân tổ SĐB của Quận 1, tác giả đã ghi lại một vài trường hợp điển hình:
Trường hợp thứ nhất: Săn hụt. Vào một buổi chiều đẹp trời, sau chầu nhậu sương sương, một người đàn ông bèn tấp vào gốc cây…rồi vô tư kéo khóa quần “trút bầu tâm sự”. Vừa lúc đó, tổ chuyên xử phạt những người đái bậy thuộc Đội Quản lý Trật tự Đô thị quận 1 xuất hiện. Vừa nhác thấy, người đàn ông đã ngay lập tức vội vã lủi nhanh vào khuôn viên Cung văn hóa Lao Động, khóa quần còn chưa kịp kéo lên. Vì không kịp ghi lại chứng cứ bằng hình ảnh, nên những người làm công tác đặc biệt này đành chịu thua, không thể phạt được gì. Khi được hỏi vì sao lại tè bậy, mà không vào nhà vệ sinh công cộng, các phạm nhân thường đưa ra những lý lẽ như sau: - Nhà vệ sinh công cộng quá đông, quá xa và lại quá bẩn. - Vào nhà vệ sinh công cộng thì tốn tiền. Mỗi lần 2.000 đồng. - Người khác cũng tè bậy chứ đâu phải chỉ có mình tôi. - Đang gấp, nên đứng ngoài đường cho…lẹ.
Trường hợp thứ hai: Phụ nữ. Có những phụ nữ bán hàng rong, khi “bí” cũng không chịu vào nhà vệ sinh công cộng, mà…quây mấy cái thúng đựng hàng hóa lại, rồi ngồi ở giữa mà…tè. Gặp trường hợp này, thì tổ SĐB đành chào chua. Cũng như trường hợp người tè bậy đưa giấy bác sĩ chứng nhận mắc bệnh về thận. Và tổ SĐB cũng đành phải bó tay. Kết thúc bài viết, tác giả đã cho biết: Chỉ riêng quận 1, quận trung tâm của thành phố mà thôi, trong năm 2007 đã lập được một thành tích đáng nể: Mức phạt cho mỗi lần đái bậy ngoài đường là 80.000 đồng. Nếu tái phạm sẽ bị phạt 100.000 đồng. Trong năm 2007, Đội Quản lý Đô thị quận 1 đã xử lý 2.045 trường hợp liên quan đến vệ sinh môi trường, trong đó hành vi đái bậy nơi công cộng cũng không phải là ít. Đọc xong bài báo và ghi lại một vài nét đại cương như ở trên, bỗng dưng gã cảm thấy buồn hơi bị nhiều. Gã tự hỏi: - Chẳng biết có nước nào trên thế giới thành lập được một lực lượng đặc biệt như tổ SĐB của Việt Nam không nhỉ ? Còn đâu nữa bài hát của Y Vân (?): - Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi! Còn đâu nữa hình ảnh của “hòn ngọc Viễn đông” với những con đường có lá me bay, đi dưới những vòm cây đan chéo vào nhau, như đi trong lòng một ngôi thánh đường cổ kính. Nhưng có lẽ điều đáng buồn hơn cả, đó là cái tinh thần chung, cũng như cái ý thức cộng đồng và trách nhiệm của người Việt mình hơi bị kém, thành thử mới ra…nông nỗi này.
Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam gã thấy xuất hiện hai chữ, vốn được báo chí và nhiều người sử dụng, đó là hai chữ “của chùa”. Chữ chùa ở đây chẳng liên quan đền miếu hay thánh thất chi cả, mà đơn giản chỉ có nghĩa là…chung. Của chùa là của chung và nhất là của nhà nước. Mà đã là của chung, thì ta mặc sức xài, mặc sức dùng, chẳng cần phải tiếc xót, chẳng cần phải so đo tính toán. Tiền bạc đã có người thanh toán. Hư hỏng đã có người sửa chữa. Cái “não trạng” cha chung không ai khóc”, dường như đã bén rễ sâu vào tim óc của người Việt chúng ta. Chẳng hạn như tại công sở, thì điện do xí nghiệp của nhà nước cung cấp, nên được liệt vào hàng của chùa. Bởi đó, ta cứ vô tư mở quạt, mở máy lạnh ở nơi làm việc và khi về cũng chẳng cần tắt. Của chùa mà.
Điện thoại trong công ty cũng là của chùa, nên ta cứ vô tư gọi để tán dóc với nhau, phe đờn ông con giai thì rủ nhau đi nhậu, còn phe đờn bà con gái thì tâm sự vụn đủ các thứ chuyện, từ chuyện trong nhà đến chuyện ngoài ngõ, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện vợ chồng đến chuyện bồ nhí…Lắm lúc như muốn nấu cháo nhừ cả chiếc điện thoại mà vẫn chưa chịu gác máy. Của chùa mà. Cái não trạng này xuất phát từ một quan niệm sống, đó là đặt cái riêng lên trên cái chung, làm gì thì làm miễn là mình có lợi, miễn là mình được việc thì thôi. Quan niệm này được áp dụng vào nhiều lãnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, gã chỉ đề cập tới phạm vi đường phố mà thôi.
Trở lại vấn đề SĐB, một hướng dẫn viên du lịch đã tâm sự trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 32, ra ngày 21 tháng 8 năm 2005, như sau: Một hôm, đoàn khách nước ngoài đang chụp hình lưu niệm tại nhà thờ Đưc Bà, bỗng có một chiếc xe @ chở hai thanh niên tấp vào bên hông nhà thờ, trước con mắt ngạc nhiên của những du khách, hai thanh niên kia vẫn cứ vô tư “trút bầu tâm sự” vào tường, rồi lên xe bỏ đi. Sự ngạc nhiên của những du khách đã được chuyển thành câu hỏi dành cho tôi: - Bộ đó là thói quen của người thành phố bạn hả ? Tôi chẳng biết giải thích ra sao, chỉ biết chống chế: - Chắc hai người đó say rượu.
Sau đó, tôi mau chóng chuyển qua đề tài khác và tôi biết họ không hài lòng với cách trả lời của tôi. Khi đoàn qua đường Đồng Khởi – Nguyễn Du, bỗng hai du khách lại gần tôi với dáng vẻ bối rối, họ nói ra chuyện họ đang cần: - Xin lỗi! Bạn có thể cho tôi biết nhà vệ sinh ở đâu ? Chẳng biết chỉ cho họ nhà vệ sinh nào, vì quanh đấy không có lấy một nhà vệ sinh công cộng, tôi đành dẫn hai du khách vào một quán ăn gần nhất, giải thích với họ để họ hiểu, rồi kêu một chai nước uống ngồi chờ. Xong việc trở ra, họ nói nhỏ với nhau: - Thật kinh khủng.
Thiết tưởng hai chữ “kinh khủng” trên đã quá đủ để diễn tả tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu tinh thần chung của những người sử dụng nhà vệ sinh nơi đó. Sàigòn là một thành phố xinh đẹp và hiện nay những tòa nhà nhiều tầng và hiện đại mọc lên như nấm, như để cạnh tranh với những thành phố lớn trên thế giới, vậy mà gã vẫn bắt gặp đâu đó trên các bức tường hai chữ “Cấm đái” một cách thô thiển. Và hình như chỗ nào có hai chữ đó, thì lại càng được chọn làm điểm hẹn để mà…tè. Thành thử đi qua những nơi ấy, thì phải bước cho thật nhanh, hay chịu khó bịt mũi và nín thở, vì xú khí bốc lên nồng nặc. Ai khó chịu mặc ai, miễn là ta xả được cái tâm sự buồn trong bụng thì thôi. Cũng từ quan niệm “làm gì thì làm miễn là mình có lợi, miễn là mình được việc thì thôi”, một cái tật khác góp phần làm nhếch nhác thành phố, đó là cái tật khạc nhổ và xả rác một cách bừa bãi.
Mấy ông bạn nhậu, thì ngồi đâu nhổ đấy. Hình như họ phải nhổ bớt nước bọt đi cho đỡ nhạt miệng, thì nhậu mới ngon và mới được lâu, bất chấp những cái nhăn mật và khó chịu của những người chung quanh. Bởi vì đối với những người này, thì đó là một thói quen, khó có thể sửa đổi. Còn việc xả rác nơi công cộng, cũng chỉ là chuyện nhỏ. Quan sát một tiệm phở, gã thấy khách ngồi ăn vô tư cho giấy lau bát lau đũa, cũng như những thứ thừa thãi như cọng rau, chiếc tăm xuống đất…Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, tiệm phở bỗng trở nên một bãi chiến trường, ngổn ngang những thứ phế thải. Có lần bước vào một chung cư ở bến Phạm Thế Hiển gã đã phải một phen kinh hồn khiếp vía. Gầm cầu thang là nơi cắm dùi của những kẻ vô gia cư. Ban ngày đi kiếm ăn chỗ này chỗ khác. Ban tối kéo về địa chỉ trên làm chốn tựa đầu cho giấc ngủ qua đêm.
Dọc theo hành lang là những gói rác. To cũng có mà nhỏ cũng có. Ấy là chưa kể những rác rưởi rơi vãi chỗ nào cũng có. Hành lang hay lối đi là phần đất chùa, mặc sức oanh kích, miễn sao phòng mình sạch sẽ và thơm tho là được rồi. Thậm chí có những người ở lầu trên vô tư ném rác xuống dưới. Chẳng cần biết những thứ rác ấy phiêu bạt nơi nao. Lòng lề đường cũng vậy, là phần đất chùa, nên ta cứ việc xả vì sẽ có người đến quét và thu hồi lại.
Chẳng hạn khi ngồi trên xe hơi, nhất là với mấy cô bạn gái, họ xơi đủ thứ: Nào trái cây, nào bánh kẹo, hầm bà lằng xáng cấu. Khi xơi xong, họ cứ thản nhiên ném xuống đường các thứ rác rưởi từ vỏ nhãn, vỏ chôm chôm, lõi bắp…đến các thứ giấy gói bánh, gói kẹo. Thậm chí có kẻ còn ném nguyên cả một bịch ni lông chứa đầy những thứ họ nôn ra vì bị say xe. Vô phúc cho ai đi qua, bị cái bịch ấy rơi vào đầu, thì cũng gắng mà chịu, chạy vội về nhà tắm gội và thay quần áo, chứ biết kiện ai bây giờ. Chính quan niệm “làm gì thì làm miễn là mình có lợi, miễn là mình được việc thì thôi”, đã góp phần cho nạn kẹt xe tại thành phố. Thực vậy, sau khi tan sở, ai cũng muốn mau chóng trở về nhà. Vì vậy, vào giờ cao điểm, xe cộ ùn tắc là lẽ dĩ nhiên. Thế nhưng, nếu người người đều tuân thủ luật giao thông, thì sự ùn tắc đó sẽ từ từ được giải quyết, không đến nỗi bị kẹt cả tiếng đồng hồ.
Đàng này, người ta chỉ sợ ông cảnh sát đứng bên lề đường và lăm le biên phạt, còn hệ thống đèn xanh đèn đỏ chỉ là chuyện nhỏ, người ta coi như pha, để rồi mặc sức luồn lách mà ngoi lên phía trước, được tí nào hay tí đó. Nếu không luồn lách được, thì tranh thủ leo lên vệ đường và dọt cho lẹ. Vì thế, đã kẹt lại càng kẹt hơn. Đã ùn tắc lại càng ùn tắc hơn.
Tóm lại, yếu tố quyết định cho mọi công việc, chính là yếu tố con người. Bởi đó, các cụ ta ngày xưa đã có lý khi khuyên nhủ con cháu: - Phải tu thân trước đã, sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Muốn đổi mới gia đình và xã hội, thì phải đổi mới tự bản thân. Muốn cho Sàigòn nói riêng và các thành phố khác trên đất nước này nói chung, có được một nếp sống văn minh, không hổ thẹn với bè bạn bốn phương, thì cần phải giáo dục con người Việt Nam có được cái tinh thần chung, cũng như cái ý thức cộng đồng và trách nhiệm. Không biết có phải do giáo dục, hay do “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, mà những người Việt sống ở nước ngoài, khi về quê hương, đã cư xử một phần nào giống với những người phương Tây, đó là trên môi miệng của họ có những chữ như: - Xin lỗi, cám ơn…
Khi mọi người đã có được cái tinh thần chung và ý thức trách nhiệm, thì chẳng cần phải sử dụng tới tổ SĐB, mà Sàigòn vẫn xứng đáng với tên gọi là hòn ngọc Viễn Đông: - Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi! Gã Siêu
Trong một bài chia sẻ về những mâu thuẫn trong cuộc đời Linh mục, một vị giảng thuyết kia đã GãSiêu 124
Trong một bài chia sẻ về những mâu thuẫn trong cuộc đời Linh mục, một vị giảng thuyết kia đã thao thao bất tuyệt như sau:
Ngày xưa, ngài chỉ được học qua quít về…nghệ thuật giảng thuyết, thế mà bây giờ, giảng thuyết lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu, giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích. Vậy phải làm thế nào để đáp ứng nhu cầu trên ?
Ngày xưa, ngài đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo, chuồng gà, bằng không thì sẽ bị chê là cù lần, chỉ biết cất mà không xây. Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì ông cha đi trước, làng nước theo sau.
Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử. Ngài phải làm sao để dung hòa được những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập.
Nếu vui vẻ thì bị hiểu là quá thân mật, còn nếu nghiêm nghị thì bị mang tiếng là khó tính.
Nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, còn nếu áo quần tề chỉnh thì bị khép vào hạng người quan liêu và cách biệt.
Nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham mê của cải vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả…
Từ đó, gã nghiệm ra lời cha ông chúng ta ngày xưa quả là chí lý lắm vậy thay:
- Ở sao cho vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn. Béo chê béo trục béo tròn, Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra.
Cùng một sự việc, nhưng người thì nói thế này, kẻ thì lại nói thế khác, người thì đánh giá một đàng, kẻ thì lại đánh giá một nẻo…Thành thử, những sự phát biểu cứ thiên biến vạn hóa, cứ loạn cào cào, đến quỷ thần cũng không lường nổi.
Tuy nhiên, sự đánh giá của chúng ta thường dựa vào những yếu tố chủ quan hơn là khách quan. Vậy những yếu tố chủ quan ấy là như thế nào ? Yếu tố thứ nhất, đó là tình cảm.
Tục ngữ thường bảo: - Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Và ca dao cũng đã quảng diễn ý tưởng trên bằng nhiều hình ảnh rất cụ thể: - Yêu nhau, trầu vỏ cũng say, Ghét nhau, cau đậu đầy khay chẳng màng. - Yêu nhau, xé lụa may quần, Ghét nhau, kể nợ kể nần nhau ra. - Yêu nhau, bốc bải dần sàng, Ghét nhau đũa ngọc, mâm vàng chẳng ăn. - Yêu nhau, yêu cả đường đi, Ghét nhau, ghét cả tông chi họ hàng.
Tình cảm là như một cặp kính đeo trên mắt. Khi yêu thì nó là màu hồng, còn khi ghét thì nó là màu xám, và sự đánh giá của chúng ta cũng theo đó mà thay đổi.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước kia, vua nước Vệ rất yêu thương Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua, thì phải tội chặt chân. Mẹ của Di Tử Hà ốm nặng. Đêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe của vua mà ra đi. Vua nghe thấy khen rằng:
- Có hiếu thật ! Vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân. Lại một hôm, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào, thấy ngọt, còn một nửa bèn đưa cho vua ăn. Vua khen:
- Yêu ta thật ! Của đang ngon miệng mà cũng biết để nhường cho ta. Về sau, vua không còn yêu thương Di Tử Hà như trước nữa. Một hôm
Di Tử Hà phạm lỗi, vua giận nói rằng:
- Di Tử Hà trước dám liều lấy xe củ ta mà đi. Lại một lần dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với ta đã lâu ngày.
Nói xong bèn đem Di Tử Hà ra trị tội. Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã ghi thêm lời bàn của mình như sau: Sự yêu ghét thường làm cho người ta mờ đi, không rõ được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra thế nào. Không nói gì yêu người này, ghét người nọ, cũng chỉ một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, còn lúc ghét cho ra thế kia. Cái thói thường yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua. Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng theo như thế, lúc yêu hậu bao nhiêu, thì đến lúc ghét lại bạc gấy nhiêu.
- Yêu nhau, cau bảy bổ ba, Ghét nhau, cau bảy bổ ra làm mười.
Lại chẳng những yêu ghét riêng một người, mà thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có can thiệp đến người ấy:
- Yêu nhau, yêu cả tông chi, Ghét nhau, ghét cả đường đi lối về.
Kinh nghiệm trên lại càng trúng phóc hơn nữa đối với những người đang yêu, bởi vì lúc bấy giờ:
- Yêu nhau muôn sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch, cũng kê cho bằng.
Đã đeo cặp kính tình yêu vào rồi, thì ở mọi nơi và trong mọi lúc đều thấy cuộc đời toàn màu hồng. Ngay cả những sai lỗi, khuyết điểm của “người ấy” cũng trở nên duyên dáng và dễ thương:
- Lỗ mũi em mười tám gánh lông, Chồng yêu, chồng bảo: “Râu rồng trời cho”. Đêm nằm thì ngáy o o… Chồng yêu, chồng bảo: “Ngáy cho vui nhà”. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu, chồng bảo: “Về nhà đỡ cơm”. Trên đầu những rác cùng rơm, Chồng yêu, chồng bảo: “Hoa thơm rắc đầu”.
Yếu tố thứ hai, đó là thành kiến. Thành kiến là những ý nghĩ đã có sẵn, khó mà thay đổi. Nó chính là một cục sạn nằm trong đầu óc của chúng ta. Khi đã có cục sạn ấy, thì khó mà lay chuyển.
Cũng như tình cảm, thành kiến giống như một cặp kính đeo trên mắt, khi có những ý nghĩ tốt thì nó màu hồng, còn khi có những ý nghĩ xấu thì nó trở thành màu xám.
Chẳng hạn một ông bố luôn nghĩ rằng:
- Con nít thì biết cái quái gì. Rồi từ đó ông kết luận
- Phàm những gì con nít làm, đều là đồ bỏ, chẳng đáng một đồng xu cắc bạc nào cả.
Chuyện rằng: Tagore là một thi sĩ Ấn Độ, nổi tiếng cả và thế giới. Hồi còn nhỏ, ngày kia cậu nhóc làm được một bài thơ và đưa cho ông bố coi thử. Chẳng biết ông bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: - Dở ẹc. Ngày hôm sau, cậu nhóc lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho ông bố coi thử. Lần này ông bố liền kê tủ đứng vào mũi cậu nhóc: - Đúng là bài thơ …con cóc. Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ. Lần này thì ông bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: - Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa.
Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu.
Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố bèn giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình.
Khi đã có cục sạn trong đầu, chúng ta khó mà nghĩ tốt và đánh giá cao những lời nói và việc làm của người khác.
Cách đây đã lâu, gã được đọc một bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình trên tờ Paris Match.
Người ta hỏi Đức Tổng: - Ngài có sợ Cộng sản hay không ? Đức Tổng vô tư trả lời: - Có chứ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn sợ Cộng sản. Thì ra cũng như bao nhiêu người Công giáo Việt Nam, trong đầu óc Đức Tổng đã có một cục sạn nhỏ cho rằng: - Công giáo không thể đi đôi với Cộng Sản, như vô thần không thể đứng chung liên danh với hữu thần. Nghĩ tới Cộng sản là nghĩ tới đấu tố, bắt bớ và cấm cách…
Trong khi đó, người Cộng sản Việt Nam cũng mang một cục sạn khá to trong đầu óc khi nhìn những người Công giáo như những kẻ chạy theo thực dân và làm tay sai tư bản, cản bước tiến của cách mạng, cho nên cần phải kìm kẹp, cần phải giới hạn và cần phải “sì tốp” bớt những sinh hoạt, ít nữa là bằng cách bắt chui đầu vào cái rọ của cơ chế “xin-cho”.
Trái lại, một khi đã có những thành kiến tốt, những ý nghĩ đẹp về người khác, chúng ta sẽ dễ dàng đánh giá cao những lời nói và những việc làm của họ, và xem đó như khuôn vàng thước ngọc để noi theo. Cho dù những lời nói và những việc làm ấy có ngớ ngẩn đến đâu chăng nữa thì cũng vẫn được coi như thần, như thánh.
Một cô đào nổi tiếng vừa mới lên xe hoa về nhà chồng. Mấy chàng nhà báo lẽo đẽo chạy cheo với đủ cả máy chụp hình, máy quay phim cùng mọi thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa, khiến mồ hôi mồ kê vãi ra như tắm.
Câu hỏi duy nhất được đặt ra, đó là: - Tại sao cô lại lấy anh ta làm chồng ?
Và cô đào nổi tiếng này đã trả lời một cách hết sức bất ngờ: - Sở dĩ tôi lấy anh ta làm chồng chỉ vì anh ta là….đờn ông.
Nếu suy nghĩ một chút thì câu trả lời này nào có điều chi hay ho và lạ lẫm. Nó cũ như trái đất. Nó giống như một câu danh ngôn đã xác quyết: - Chẳng có gì mới dưới ánh nắng mặt trời. Đã lấy chồng, thì đương nhiên anh chồng phải là đờn ông con giai, chẳng lẽ anh chồng ấy lại là đờn bà con gái hay sao ? Ngoại trừ trường hợp cô đào nổi tiếng này dân “pê-đê”, chuyên xài “săng pha nhớt”.
Thế nhưng, mấy anh nhà báo này lại mừng quýnh và cho rằng câu trả lời ấy thật nảy lửa, thật tuyệt chiêu, còn hơn là cả một sáng kiến mới. Cũng giống như ông thày bói, một khi đã tạo được cái uy tín nơi mấy bà mấy cô và bắt đầu hốt ra bạc, lúc bấy giờ dù có tán hươu tán vượn, thì mấy bà mấy cô hâm mộ vẫn cứ quì gối nhắm mắt mà tin theo, coi như thần bảo và thánh phán:
- Số cô chẳng giàu, thì nghèo, Ba mươi tết có thịt heo trong nhà. Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ, có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
Chuyện rằng: Ngày kia người ta dọn lên cho thánh Don Boscô một chiếc bánh “ga tô” thật ngon. Trong lúc đó có hai bà cùng ngồi nói chuyện với ngài. Hai bà đưa mắt quan sát xem ngài sẽ ăn chiếc bánh “ga tô” này như thế nào.
Bà này ghé vào tai bà kia và nói: - Cha Don Bosco là một vị thánh sống, tôi tin chắc ngài chỉ ăn một chút xíu mà thôi. Nghe thấy vậy, ngài bèn cầm lấy một con dao, cắt một miếng bánh ngọt thật to, rồi ăn ngồm ăn ngoàm, ăn lấy ăn để, thậm chí còn phùng cả má và trợn cả mắt, suýt nừa thì mắc nghẹn. Rồi sau đó, uống một ly cối nước trà nóng và tỏ ra khoái trá, cứ y như dân phàm ăn tục uống vậy. Trước sự việc bất ngờ này, bà kia bèn ghé vào tai bà này và cũng khẽ nói:
- Thánh nhân là thế đó, ngài ăn uống như vậy trước mặt chúng ta là cố ý tỏ ra rằng ngài không phải là thánh như mọi người vốn thường nghĩ tưởng. Ôi sự khiêm nhường của ngài quả là cao vòi vọi…
Sống trên đời, ai trong chúng ta cũng đều mong muốn được người khác yêu thương. Tuy nhiên để được người khác yêu thương, chúng ta cần phải trở nên một người khả dĩ yêu thương được. Chứ lúc nào cũng kiêu căng hợm hĩnh, lúc nào cũng vênh vang tự đắc…thì ai mà yêu thương cho nổi.
Chuyện rằng: Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp. Một người đẹp và một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp đẹp, lấy làm lạ bèn hỏi dò thằng trẻ con trong nhà trọ, thì nó trả lời rằng: - Người thiếp đẹp tự tôn là đẹp mà mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết là xấu mà quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của nàng nữa. Dương Chu gọi học trò lại mà bảo: - Các con nhớ lấy câu ấy. Người ta giỏi mà bỏ được cái nết “tự cho mình là giỏi”, thì đi đến đâu ai mà chẳng tôn trọng, chẳng yêu quí. Sống trên đời, ai mà chẳng mong muốn được người khác nghĩ tốt về mình và đánh giá cao những việc mình làm. Tuy nhiên, để được nghĩ tốt và được đánh giá cao như thế, chúng ta cần phải tạo ra những ý nghĩ tốt, những thành kiến đẹp và những tình cảm nồng hậu nơi những người chung quanh.
Chuyện rằng: Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: - Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ? Mạnh Thường Quân trả lời: - Ngươi xem trong nhà ta còn thiều thứ gì, thì mua. Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại và bảo: - Các ngươi công nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều tha cho cả. Nói đoạn, bèn đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân: - Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó má đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về. Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: - Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy. Nếu gã nhớ không lầm thì ông thánh Augustinô có lần đã nói: - Hãy yêu, rồi muốn làm gì thì làm. Cùng một thể thức ấy, gã xin được nhái theo: - Hãy tạo cho mình những hình ảnh đẹp, những ý nghĩ tốt nơi người khác, rồi muốn làm gì mà chẳng được. Hay như trên gã cũng đã phát biểu: - Để được yêu thương, thì điều cần thiết là phải trở nên một người khả dĩ…yêu thương được. Gã Siêu
Theo Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức, chữ lệch có hai nghĩa chính: 1- Lệch là xéo, nghiêng qua GãSiêu 125
Theo Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức, chữ lệch có hai nghĩa chính: 1- Lệch là xéo, nghiêng qua một bên, chẳng hạn như chênh lệch, thiên lệch. 2- Lệch là so le, không đều, không bằng, chẳng hạn như đũa lệch. Trong mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin bàn về hiện tượng lệch, nhất là trong phạm vi tình yêu.
Lệch TRƯỚC HẾT, LỆCH LÀ NGHIÊNG QUA MỘT BÊN Nếu hiểu lệch là nghiêng về một bên, theo kiểu: Ai đội mũ lệch, xấu mặt người ấy, thì trong phạm vi tình cảm, hiện tượng lệch cũng chỉ là một hiện tượng rất bình thường. Thực vậy, khi bàn về cái đẹp, có người đã phát biểu: Đẹp là con cóc cái dưới mắt con cóc đực. Lời phát biểu này muốn nói lên rằng: Trên cõi đời này chỉ có cái đẹp chủ quan, chứ chẳng hề có cái đẹp khách quan, được xác định bằng những số đo lý tưởng của vòng số một, vòng số hai và vòng số ba. Cũng thế, khi bàn về tình yêu, có người cũng đã phát biểu: Con tim có những lý lẽ riêng của nó. Lời phát biểu này cũng muốn nói lên rằng: Tình yêu là một cái gì rất mực riêng tư, đặt căn bản trên những yếu tố hết sức chủ quan, khiến nó trở thành như một mầu nhiệm, mà người ngoài không tài nào hiểu nổi. Chính vì thế mà trong tình yêu, luôn xảy ra những chuyện chéo cẳng ngỗng. Chẳng hạn bà mẹ vì thương đã chọn vợ cho anh con giai. Cô gái được bà mẹ chấm vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, thế mà anh con giai cứ lắc đầu nguầy nguậy, để rồi cuối cùng rước về dinh một cô gái vừa xấu lại vừa đen, cứ vô tư ăn nói bô bô, cái dáng bên ngoài là dáng đờn bà, nhưng cái cốt bên trong lại là cốt đờn ông! Chẳng hạn gã có một anh chàng học trò tên là Dũng. Ngay từ hồi còn học lớp đệ thất đã được bè bạn đặt cho cái hỗn danh là Dũng…đen. Dũng đen không phải vì cứ vác banh ra đá vào giữa trưa với cái nắng chói chang của vùng Thất Sơn, nhưng đen từ cái “gien” trong bụng đen ra. Thế nhưng anh chàng Dũng đen này lại lấy được một cô vợ trắng nõn trắng nà, trắng còn hơn cả trứng gà bóc, khiến bàn dân thiên hạ cứ tưởng chị ta là một…cô đầm chính hiệu Pháp quốc! Vốn mang tích cách chủ quan, nên tình cảm thường nghiêng về bên này, hoặc ngả sang bên kia, khó có ai yêu thương một cách đồng đều. Hiện tượng được gọi là thiên tư, thiên vị và có mặt ở nhiều lãnh vực khác nhau.
Thứ nhất là trong gia đình. Con cái hay kêu la trách móc cha mẹ vì thương đứa này mà ghét đứa kia. Có những “đứa con bất đắc dĩ”, mà ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, dường như đã bị cha mẹ bỏ quên, và nếu có chấp nhận, cũng chỉ vì miễn cưỡng mà thôi. Khi lớn lên, những đứa con này được khen thì ít, mà bị chê thì hơi nhiều. Chẳng hạn: Mày là đứa con thiếu tháng, nên chân tay hậu đậu, đụng vô chuyện nào là hỏng chuyện nấy. Đôi khi gã cũng thấy trong gia đình, có những đứa con được diễn tả là “ngồi nhà mát mà ăn bát vàng”, có nghĩa là được “cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa”, chẳng phải đưa ngón tay ra lay thử bất kỳ công việc nào. Còn ăn uống, thì bao giờ cũng được dành cho miếng to hơn, miếng ngon hơn. Trong khi đó, những đứa con khác phải làm đầu tắt mặt tối với những công việc nặng nhọc, mà chẳng dám mở miệng than van, oán trách. Cựu Ước kể lại câu chuyện về tổ phụ Giuse như sau: Giacóp rất yêu thương Giuse, vì Giuse là con út, lại được sinh ra trong lúc ông đã già. Ông may cho Giuse một chiếc áo choàng dài tay…Tất cả những điều đó đã làm cho những người anh sinh lòng ghen ghét. Họ càng bực bội tức tối hơn nữa khi Giuse kể cho họ nghe giấc mơ về những bó lúa của các anh bỗng nghiêng mình chào kính bó lúa của Giuse, cũng như giấc mơ mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao bỗng sụp lạy Giuse. Cuối cùng, chính vì lòng ghen ghét mà những người anh đã tìm cách ám hại Giuse và bán Giuse sang Ai Cập. Đứng trước hiện tượng con yêu con ghét và nếu chẳng may mình lại là đứa con bị ghét, thì cũng hãy bình tĩnh tìm hiểu, đừng vội kết án cha mẹ, bởi vì cha mẹ có quyền yêu thương đứa con đau yếu hơn đứa con khỏe mạnh, đứa con ngoan ngoãn vâng lời hơn đứa con cứng đầu ngỗ nghịch. Nhiều lúc phải đấm ngực mình mà rằng: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chính vì những sai lỗi của mình đã làm cho mình trở thành kẻ dễ bị ghét.
Thứ hai là ngoài xã hội. Rời khỏi ngưỡng cửa gia đình, đứa bé bước chân vào xã hội và môi trường đầu tiên đứa bé được tiếp xúc, chính là nhà trường. Và tại đây cũng đã thấy xuất hiện sự thiên tư, thiên vị. Tình cảm của thầy cô nghiêng về đứa học trò này hơn đứa học trò kia. Thực vậy, gã đã từng chứng kiến: Có đứa học trò hầu như lúc nào cũng được điểm cao, hầu như lúc nào cũng được thầy cô sai bảo việc nọ việc kia, hầu như lúc nào cũng được khen ngợi trước bàn dân thiên hạ. Trong khi đó, cũng có những đứa học trò bị thầy cô… đì, cứ nhìn thấy cái bản mặt là đã không ưa. Đây cũng chỉ là chuyện bình thường, ngay như Chúa Giêsu trong nhóm mười hai tông đồ, Ngài cũng đã dành cho Phêrô, Giacôbê và Gioan những tình cảm đặc biệt hơn. Ngay cả đến ông trời, hình như cũng đối xử không được công bằng cho lắm. Có người mở mắt chào đời đã được phú ban cho một sắc đẹp “chim sa cá lặn”, “nghiêng thành lệch nước”, có kẻ sinh ra đã phải ngậm đắng nuối cay số kiếp “em là gái trời bắt xấu”. Và ca dao cũng đã từng diễn tả: – Trời sao trời ở chẳng cân, Người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra.
TIẾP ĐẾN, LỆCH LÀ SO LE Khi nói lệch là so le, thì cũng có nghĩa là không đều, không bằng, để rồi dẫn tới những sự khác biệt. Trong cuộc sống, gã nhận thấy có những cái lệch tạo nên vẻ đẹp. Chẳng hạn trong một bức tranh có màu nhạt, thì cũng phải có màu thẫm, có màu lạnh thì cũng phải có màu ấm và luật phối cảnh quy định bên cạnh một cây cao thì phải có căn nhà thấp. Cũng vậy, trong một bản nhạc có nốt trầm thì cũng phải có nốt bổng, có nhịp mạnh thì cũng phải có nhịp yếu. Tuy nhiên, có những cái lệch không được đẹp mắt cho lắm. Chẳng hạn cái lệch về thước tấc của một đôi vợ chồng trẻ, như ca dao đã diễn tả: – Bây giờ chồng thấp vợ cao, Như đôi đũa lệch so sao cho vừa. Riêng trong phạm vi tình yêu, có một cái lệch dễ gây va chạm và đổ vỡ, đó là lệch “gu”, khác biệt nhau về sở thích. Thực vậy, chúng ta thường nói: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Cha mẹ chỉ sinh ra hình hài bên ngoài của đứa con còn tính tình bên trong của nó, thì do trời đem lại. Chuyện rằng: Doãn Văn Tử thấy con không giống mình, nên giận lắm, cứ đánh đập nó luôn. Một hôm nói với Tử Tư rằng: Vì không giống tôi, nên nó không phải là con của tôi. Tôi nghi ngờ mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ nó. Tử Tư nghe vậy liền bảo: Cứ như ông nói thì vợ vua Nghiêu, vua Thuấn cũng đáng ngờ ư? Hai ông này là bậc thánh đế, mà sao đẻ ra Đan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế thì con cứ gì phải giống cha? Cái đạo thường thì cha mẹ làm sao đẻ con ra làm vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ ra con ngu, thì cũng là thế thường tự nhiên, chớ nào phải tội người vợ. Doãn Văn Tử nghe hiểu ra, nên không từ con bỏ vợ nữa. Nếu suy nghĩ, gã thấy cái “gu”, hay cái sở thích cũng là một yếu tố nhỏ bé góp phần vào việc hình thành tính tình riêng của một con người. Nếu bảo rằng: Bá nhân bá tánh, mỗi người có một tính tình riêng. Thì cũng có thể nói được rằng: Bá nhân bá…thích, mỗi người đều có một sở thích, một cái “gu”riêng. Đúng là năm người thì mừơi ý, cứ như trăm hoa đua nở. Ngay cả trong đời sống vợ chồng cũng rứa. “Thế nào là một cặp vợ chồng lý tưởng ?” Đó là tựa đề một chương trình truyền hình, gây được nhiều thích thú cho người xem. Từng cặp vợ chồng xuất hiện riêng rẽ trước ban giám khảo và trả lời những câu hỏi được đặt ra. Nếu cặp vợ chồng nào có được những câu trả lời hoàn toàn giống nhau, thì sẽ được chọn làm cặp vợ chồng lý tưởng. Thí dụ ban giám khảo hỏi: Bạn muốn ăn gì? Nếu người chồng trả lời là cà ghém mắm tôm, thì người vợ cũng phải trả lời là cà ghém mắm tôm, thì mới được điểm. Thí dụ ban giám khảo hỏi: Bạn muốn tiết kiệm trước hay mua sắm trước? Nếu người vợ trả lời là tiết kiệm trước, thì người vợ cũng phải trả lời là tiết kiệm trước, thì mới được điểm. Thí dụ ban giám khảo hỏi: Bạn sợ gì? Nếu người vợ trả lời là sợ ma, thì người chồng cũng phải trả lời là sợ ma, thì mới được điểm. Xem như vậy, thì có lẽ chẳng bao giờ tìm được một cặp vợ chồng lý tưởng, hoàn toàn giống nhau trong mọi sở thích, trong mọi vấn đề. Bước vào hôn nhân, chúng ta không hủy diệt những khác biệt của nhau, nhưng tìm cách sống chung với những khác biệt ấy. Tuy nhiên, nếu không cố gắng, thì những khác biệt ấy sẽ trở thành đầu mối sinh ra những căng thẳng và đổ vỡ. Gã xin liệt kê nơi đây một số những khác biệt về sở thích, một số những trường hợp lệch “gu”, để bàn dân thiên hạ cùng suy gẫm và tìm cách giải quyết.
Về quan niệm sống Người thì thích mua sắm và trang bị cho gia đình đầy đủ mọi tiện nghi, bởi vì phải an cư rồi mới lạc nghiệp. Kẻ chỉ muốn tiết kiệm, rồi dần dần mua sắm, để khỏi vay công mắc nợ, bởi vì tích tiểu thành đại, kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người thì thích giao lưu rộng rãi, tham gia các phong trào, các đoàn thể, kết bè kết bạn để được thăng tiến ngoài xã hội. Kẻ chỉ muốn tạo bầu khí thân mật trong gia đình, chỉ cần có vợ chồng và con cái mà thôi. “Hai vợ chồng trẻ đã cãi nhau kịch liệt về quan hệ bè bạn của mình. Vợ thì không chịu nổi việc bất cứ người nào anh chồng cũng chơi được, bởi vì theo anh ta, mỗi người đều có những mặt hay, những mặt dở, quan trọng là mình biết chọn ra những điểm phù hợp để chơi, chứ không như chị, lúc nào cũng rặt mấy cô bạn từ thời phổ thông cho đến giờ, không muốn mở rộng mối quan hệ mới mẻ nào nữa, thì làm sao chịu nổi. Đờn ông thì phải giao du rộng rãi…” (Gia đình, số 49, năm 2006).
Về chuyện giải trí Người thì mê bóng đá, kẻ chỉ thích bóng chuyền. Người thì khoái phim Mỹ, kẻ chỉ khoái phim Hàn. Người thì thích nhạc rock, kẻ chỉ yêu nhạc trữ tình. Người thì kết sách khoa học kỹ thuật, kẻ chỉ kết sách văn học với những truyện tình lãng mạn. Tôi quen biết một anh chồng trẻ mê bóng đá, được liệt vào hàng tín đồ của túc cầu giáo. Dù sớm hay dù muộn, dù ngoại quốc hay Việt Nam, anh đều không bỏ qua một trận nào cả. Có những trận đấu quốc tế ở bên Tây, bên Mỹ được truyền hình vào hai ba giờ sáng, anh cũng vẫn chịu khó ngồi coi. Ngặt một nỗi nhà chỉ có một chiếc TV, được đặt trong phòng ngủ. Để khỏi làm cho chị vợ bị mất giấc ngủ, hay lẩm bẩm càu nhàu, anh đã phải lấy mền trùm kín người và trùm lên cả chiếc tivi, không cho âm thanh và ánh sáng lọt ra ngoài, rồi thu mình trong đó mà theo dõi trận đấu. Đôi lúc hứng chí, quên béng mất sự đề cao cảnh giác, anh cũng vẫn gào lên: Vào. Hay: Dzô. Có chị vợ đã biểu lộ sự bực bội của mình như sau: Thỉnh thoảng vào những dịp lễ hay kỷ niệm ngày cưới, mình cũng muốn thiết kế một bữa ăn có nến, hoa và nhạc cho thêm phần thú vị, thì anh chồng lại chê vợ là sến. Mình mở nhạc trữ tình, thì anh chồng lại tắt ngay, và thay vào đó là những bản nhạc rap sôi động. Nhà có mỗi cái tivi, nên đôi khi vợ chồng giận nhau vì chẳng ai nhường ai, người đòi xem phim hành động, kẻ đòi xem phim tình cảm, người đòi xem tin tức thời sự, kẻ đòi xem ca múa nhạc. (Phụ nữ Chủ Nhật, số 50, ra ngày 17.12.2006).
Về chuyện ăn uống Người thì thích canh chua cá lóc, kẻ chỉ thích canh thịt dồn khổ qua. Người thì muốn ăn mặn, kẻ chỉ muốn ăn ngọt. Người muốn ăn cơm khô, kẻ chỉ muốn ăn cơm nhão. Thành thử mỗi khi cơm gần chín, chị vợ bèn phải đổ thêm nước sôi vào một bên, để tạo thành một nồi cơm nửa khô nửa nhão. Một chị vợ khác đã tâm sự: Mình thích các món canh có vị chua và cá rán, nhưng biết khẩu vị đó không hợp với chồng, nên cũng cố chiều chồng, làm những món ăn hợp với khẩu vị của anh ta. Một vài bữa thì được, nhưng quanh năm suốt tháng như thế thì chị thấy khó quá, không ăn nổi. Vì thế, bữa cơm chỉ có hai người, nhưng bao giờ cũng có hai bát canh, hai món thức ăn hoàn toàn khác nhau. Những hôm đi làm về mệt mỏi, chị làm qua loa bữa cơm, thế là anh ta giận sự không quan tâm của vợ, bỏ ra quán cơm đầu ngõ. Chị tự ái. Hai người thấy lòng cách xa dần”. (Gia đình, số 49, năm 2006). Để kết luận, gã xin ghi lại nơi đây cách “giáo dục sở thích của chồng” mà một chị vợ đã áp dụng, để cùng nhau gẫm suy: Anh rất thích ăn canh khổ qua, còn tôi thì không ưa đắng mà lại thích chua. Để vừa lòng “ông xã”, tôi bèn nấu cho anh một tô canh khổ qua và luộc thêm một tô rau muống, lấy nước vắt chanh cho riêng mình, cũng là để mâm cơm thêm phần phong phú. Tôi cứ tưởng ông xã sẽ vui khi có đến hai thứ để lựa chọn, nhưng thật bất ngờ, khi bưng mâm cơm lên bàn, anh yên lặng nhíu mày và buông một câu buồn bã: Em đem mâm cơm xuống đi. Tôi ngạc nhiên hỏi: Tại sao vậy? Anh nghiêm mặt trả lời: Chỉ có hai vợ chồng mà mỗi người một tô canh, mất tình cảm quá. Thực sự tôi rất buồn, nhưng nghĩ lại anh đang muốn được thể hiện cái “tôi” của đấng mày râu, khi mới bắt đầu làm chồng. Tôi đành yên lặng bưng tô canh “sở thích” của mình đem đi đổ. Và quả thật, như một người thắng thế, ông xã tôi đã tươi cười suốt cả bữa cơm hôm ấy. Từ đó, tôi cố công tìm hiểu những sở thích của ông xã và nếu thấy “chấp nhận được”, tôi luôn làm theo. Điều đó khiến ông xã tôi luôn cảm thấy hài lòng về tôi. Mỗi lần đi chợ, tôi lại đùa: Còn thích đắng nữa không? Và lại nhận được từ anh một nụ cuời. Phần tôi dần dà cũng “ghiền” luôn vị đắng cúa bát canh mà chồng tôi thích. Còn anh thì đắng mãi cũng đâm chán. Biết thế nhưng tôi cứ vờ như đang được chiều anh, vẫn tiếp tục bát canh đắng hàng ngày và chờ một ngày anh tự yêu cầu thay đổi. Hình như được chiều quá, chồng tôi cũng đâm quen và cứ coi sở thích của mình là tối thượng. Một lần tôi thực hiện món kho có ngũ vị hương mà tôi rất thích. Bữa ấy, ngồi vào mâm cơm, anh lại nhăn mũi: Mùi thế này, ngon gì, sao mà ưa thế? Tôi im lặng, không phản ứng gì, cũng không đem cất món kho đi, ngược lại tôi ngồi “chén” món kho này một cách ngon lành. Vài hôm sau, tôi lại cố tình nấu một món kho có ngũ vị hương, nhưng không quên nấu một món khác tương tự mà anh rất thích. Bữa ăn được dọn lên và tôi chờ đợi. Quả nhiên chồng tôi lại tiếp tục câu nói hôm trước: Mùi thế này, ngon gì, sau mà ưa thế? Bây giờ tôi không yên lặng nữa: Em đã tôn trọng sở thích của anh rất nhiều, đúng không? Vì anh, em đã “ghiền” món canh khổ qua mà trước đây em rất ghét. Vậy tại sao anh lại không tôn trọng sở thích của em? Anh không thích mùi ngũ vị hương, thì đã có món khác cho anh. Chẳng lẽ em không được quyền thích một món nào cho riêng mình sao? Ban đầu, anh có vẻ bất ngờ, nhưng rồi anh lại yên lặng. Và chị đã cứu được một bàn thua trông thấy. Tác giả Ngọc Bích đã kết luận như sau: Hai con người khác nhau sống chung dưới một mái nhà, tránh sao cho khỏi những bất đồng về cá tính, sở thích, góc độ đánh giá, cảm nhận, kinh nghiệm, kiến thức, quan điểm sống. Vấn đề là cả hai có biết chấp nhận và cùng nhau khắc phục hay không mà thôi. Những bất hòa nho nhỏ, nếu mỗi cá nhân không chú ý ứng xử tế nhị thì sự khó chịu dần dần làm lòng người trở nên băng giá, lâu dài sẽ trở thành vô cảm. Khi xảy ra “sự cố”, phải biết đâu là giới hạn, đâu là điểm dừng…tránh tình trạng” kẻ chua, người đắng”. Ai cũng có “cái tôi”. Dẹp bỏ bớt đi “cái tôi” của từng người, để dung hòa lẫn nhau, sẽ giúp nuôi dưỡng tình yêu và giữ vững hạnh phúc gia đình. (Phụ Nữ Chủ Nhật, số 52, ra ngày 31.12.2006). Gã Siêu
Vừa mới nhận được một chuyện vui nho nhỏ, viết về đờn bà con gái, gã xin kể lại đây để bàn GãSiêu 126
Vừa mới nhận được một chuyện vui nho nhỏ, viết về đờn bà con gái, gã xin kể lại đây để bàn dân thiên hạ cùng suy gẫm và nhận định xem thực hư như thế nào.Số là ông vua xe hơi, Henry Ford, sau khi chết được đưa lên thiên đàng. Tại cổng thiên đàng đã có thánh Phêrô đứng chờ sẵn để đón chào. Vừa gặp ông ta, thánh Phêrô đã mỉm cười và cho biết: - Hồi còn sống, ngươi đã làm nhiều điều lợi ích cho xã hội, chẳng hạn như đã sáng chế ra phương pháp dây chuyền, làm cho kỹ nghệ xe hơi thay đổi cả và thế giới. Với thành quả này, ngươi sẽ được một ân huệ, đó là có thể chuyện trò với bất cứ ai ở trên thiên đàng.Suy nghĩ một lát, ông ta xin được gặp Thượng Đế. Và thế là thánh Phêrô bèn lập tức dẫn ông ta ra mắt Thượng Đế. Vừa gặp Ngài, ông ta liền hỏi ngay: - Thưa Ngài, lúc chế tạo ra đờn bà con gái, Ngài đã suy nghĩ như thế nào ?Thượng Đế nghe xong, bèn vặn lại: - Ngươi nói như vậy là có ý nghĩa gì ?Ông ta bèn trả lời: - Sản phẩm của Ngài còn có quá nhiều sơ sót. Phía trước thì bị phồng lên, còn phía sau thì lại bị nhô ra. Máy thường kêu to mỗi khi chạy nhanh. Tiền bảo trì và nuôi dưỡng quá cao. Thường xuyên đòi hỏi nước sơn mới. Cứ đi hai mươi tám ngày, thì lại bị chảy nhớt và không làm việc được. Chỗ bơm xăng và ống xả lại quá gần nhau. Đèn trước hơi bị nhỏ. Tiêu thụ nhiên liệu thì nhiều khủng khiếp.Thượng Đế nghe qua liền bảo: - Ngươi hãy đợi ta một chốc để ta xem lại bản thiết kế.Thượng Đế bèn cho triệu tập toàn bộ các kỹ sư thiết kế và cơ khí trên thiên đàng lại để xem xét quá trình thi công. Sau một thời gian..."ngâm kíu", họ trình lên Thượng Đế một bản báo cáo.Xem xong bản báo cáo này, Thượng Đế bèn phán rằng: - Mọi điều ngươi vừa nói, đều hoàn toàn đúng. Bằng sáng chế của ta thật có nhiều sai sót. Thế nhưng, nếu tính về phương diện kinh tế, thì hiệu quả lại rất cao: Có gần 98% đờn ông con giai trên thế gian xài sản phẩm do Ta chế tạo, trong khi đó chưa đầy 10% đờn ông con giai xài sản phẩm của ngươi.Từ câu chuyện trên, gã nghiệm ra rằng thì là: nhân vô thập toàn. Ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình, chẳng riêng gì đờn bà con gái, mà ngay cả đờn ông con giai cũng thế mà thôi. Phải chăng điều đó cũng đã được Thượng Đế tính toán, cũng như đã được nằm sẵn trong chương trình và ý định tuyệt vời của Ngài.Thực vậy, nếu Ngài dựng nên con người trong tình trạng hoàn hảo và thánh thiện, thì có lẽ lúc bấy giờ thế gian này sẽ chán phèo và buồn tênh, bởi vì nó phẳng lặng như mặt nước hồ thu và con người sẽ chẳng còn tạo được cho mình một chút công trạng nào cả. Với những khuyết điểm mang trong thân phận, con người phải cố gắng, phải phấn đấu từng giây từng phút. Chính những cố gắng và phấn đấu này đã góp phần làm nên vẻ đẹp của con người.Từ ngàn xưa, các cụ ta vốn thường quan niệm: - Gái trong khung cửi, giai ngoài chân mây.Có nghĩa là đờn bà con gái thì lo quán xuyến những công việc trong nhà, như bếp núc và nuôi dạy con cái. Còn đờn ông con giai thì lo gánh vác những công việc ngoài ngõ, tức là những công việc mang tính cách xã hội. Tuy nhiên, trong những tháng năm gần đây, nhất là kể từ khi phong trào giải phóng phụ nữ, hay nói cách khác kể từ khi phong trào đờn bà con gái vùng lên đòi bình đẳng với đờn ông con giai, thì phe ta dần dần thoát ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, để dấn thân vào xã hội và cũng đã gặt hái được những thành công rạng rỡ, chẳng thua gì cánh mày râu. Chẳng hạn như bà Golda Meir, một khuôn mặt chính trị sáng giá của Do Thái. Bà đã từng giữ chức bộ trưởng ngoại giao từ năm 1956 đến năm 1966, rồi nắm giữ chức thủ tướng từ năm 1969 đến năm 1974. Tuy mang tiếng thuộc về phe liễu yếu đào tơ, nhưng bà đã thực sự dùng những biện pháp mạnh trong đường lối lãnh đạo của mình. Chẳng hạn như bà Margaret Thatcher, cũng là một khuôn mặt chính trị sáng giá của dân Ăng Lê. Bà là lãnh tụ của đảng Bảo Thủ vào năm 1975, giữ chức thủ tướng suốt ba nhiệm kỳ, từ năm 1979 đến năm 1990, và cũng đã dùng những biện pháp mạnh để giải quyết các vấn đề bang giao quốc tế, thí dụ việc sử dụng quân đội chống lại Argentina về hòn đảo Falkland. Và theo sự đánh giá của bàn dân thiên hạ, thì hiện nay có hai phụ nữ quyền lực nhất thế giới, đó là bà Angela Merkel, thủ tướng nước Đức và bà Condoleezza Rice, bộ trưởng ngoại giao của Mỹ...Và còn rất nhiều khuôn mặt đờn bà con gái khác đang từng làm mưa làm gió tại nhiều lãnh vực khác nhau.Tuy nhiên, dù ở trong nhà hay ở ngoài ngõ, thì một nét duyên ngầm, nhưng lại rất hấp dẫn của đờn bà con gái, đó là sự dịu hiền và tế nhị được biểu lộ qua từng ánh mắt, từng lời nói, từng cử chỉ, khiến cho phe đờn ông con giai phải chết mê chết mệt, chết đứ chết đừ. Thế nhưng trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những người đờn bà rất hung dữ, chẳng còn tí tẹo nào là dịu hiền và tế nhị. Sự hung dữ này rất có thể do di truyền và nằm sẵn trong máu huyết, trong lục phủ ngũ tạng của họ. Bản chất của họ là hung dữ, theo kiểu phát biểu của Nho giáo: - Nhân chi sơ, tính vốn...dữ. Gã xin đưa ra hai trường hợp.Trường hợp thứ nhất tiêu biểu cho trường phái phương tây, đó là bà vợ của Socrate.Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã biết Socrate là một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ xưa, lý thuyết của ông còn ảnh hưởng cho tới ngày nay, thế nhưng tai hại thay, ông lại là nạn nhân của một bà vợ hung dữ. Bà đã khinh thường ông, coi ông chỉ là hạng "dài lưng tốn vải", cũng như "trói gà không chặt".Có lần sau một trận xỉ vả thậm tệ, tức quá bà liền đổ cả một chậu nước dơ lên người ông, nhưng ông vẫn thản nhiên nói với mọi người: - Trời có sấm sét, ắt hẳn sẽ đổ mưa.Lần khác, bà đã hất tung hất té mâm cỗ ra ngoài sân. Mâm cỗ mà ông đã cẩn thận làm để đãi bạn bè. Và thế là ông bèn ngồi yên lặng nhặt lên cho bằng hết. Món nào còn ăn được thì ăn, bằng không thì bỏ đi, mà chẳng than van một lời. Trường hợp thứ hai tiêu biểu cho trường phái phương đông, đó là bà vợ của Trần Qúi Thường.Theo điển tích người xưa, thì chúng ta được biết: Trần Quí Thường, quê tại tỉnh Hà Đông bên Tàu, có một người vợ nổi tiếng hung dữ. Mỗi lần Tô Đông Pha đến chơi, thì đều được nghe bà vợ này la hét, chửi bới thật ồn ào và quá đáng.Thấy vậy, thi sĩ dòng họ Tô mới làm một bài thơ châm biếm, trong đó có câu: - Hốt văn Hà Đông sư tử hống, Trụ tượng lạc thủ tâm mang mang.Có nghĩa là: - Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống, Tay run, gậy rớt, lòng kinh hãi.Từ điển tích này, người ta mới dùng cụm từ "sư tử Hà Đông" để ám chỉ người vợ hung dữ. Tuy nhiên, ngoài cụm từ này, bàn dân thiên hạ còn dùng một vài danh xưng khác nữa.Chẳng hạn danh xưng "bà chằn". Theo truyện thần thoại, thì chằn là một con yêu tinh dữ tợn và hay ăn thịt người, đã bị Thạch Sanh giết chết. Vì thế hai chữ bà chằn được dùng để chỉ người đờn bà hung dữ.Chẳng hạn danh xưng "bà la sát". Theo tiếng Phạn (Ấn Độ), thì bà la sát là một con quỷ ăn thịt người. Dựa vào đó, người bình dân dùng ba chữ bà la sát để chỉ người đờn bà hung dữ, mặc dù chữ bà trong tiếng Phạn và trong tiếng Việt chỉ đồng âm mà thôi, chứ không đồng nghĩa một tí ti nào cả. Nếu nhái theo tựa đề tập thơ "Em là gái trời bắt xấu", thì có những người, đờn bà cũng như đờn ông, vốn hung dữ tự bản tính: Thoạt sinh ra thì đã hung dữ. Nhưng có nhưng người, đờn ông cũng như đờn bà, do hoàn cảnh bên ngoài tác động mà trở nên hung dữ.
Thực vậy, có những bà và những chị, tự bản chất vốn hiền như ma...sơ, thế nhưng, một khi đã nắm được tí quyền trong tay, hay một khi đã kiếm được nhiều tiền, không cần phải cậy dựa vào người chồng nữa, thì bỗng nhiên trở thành hung dữ.Sự hung dữ ở đây cần phải được hiểu về cả ba phương diện: tư tưởng, lời nói, cũng như việc làm. Về tư tưởng thì luôn áp đặt những ý nghĩ của mình lên chồng con theo kiểu cả vú lấp miệng em. Về lời nói thì sẵn sàng tuôn ra những ngôn từ đao to búa lớn và không ngần ngại chửi bới, tung hê và văng đủ thứ ra cho chồng con xơi. Về việc làm thì luôn dùng biện pháp mạnh, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, mặc dù mình chỉ là phái...yếu. Gã xin đưa ra một thí dụ cụ thể. Thí dụ này được trích từ một bài viết mang tên "Khi vợ gia trưởng" của Văn Nhuệ, được đăng trên tuần báo Gia đình số 38, năm 2006.Chị là một người năng động, giỏi giang và rất có năng lực quản lý. Chẳng thế mà con đường thăng tiến của chị được bạn bè ví lên "như diều gặp gió". Chị được đề bạt làm phó giám đốc một công ty lớn và luôn được "uy" với cấp dưới. Ở cơ quan, chị quyết định chuyện gì, thì cấp dưới phải nhất nhất thi hành.Khi về nhà, chị cũng thể hiện "năng lực quản lý" ấy đối với chồng con. Phải thừa nhận chị là một người đảm đang. Dù bận bịu với công việc ở cơ quan, nhưng chị vẫn quán xuyến mọi chuyện trong nhà. Sau giờ làm việc, về đến nhà chị xắn tay áo lao vào chuyện bếp núc, chuyện học hành của con cái, cũng như công việc của chồng.Trong nhà ai có việc riêng tư gì, thì chị cũng tham gia giải quyết và yêu cầu người đó thực hiện những gì mình đã chỉ bảo. Con trai đi dự sinh nhật bạn gái, chị dắt đi mua quà tặng vì cho rằng: - Phải tặng quà làm sao để người nhận không đánh giá thấp người nhà mình. Chồng chị có chuyện xích mích với đồng nghiệp, chị yêu cầu anh giải quyết theo phương án của chị, mặc cho anh phân tích những cái sai trong phương án ấy. Nhiều khi chị còn tự ý đi gặp đồng nghiệp của chồng để dàn xếp, khiến anh bị một phen mất mặt. Chị không yên tâm khi chồng con quyết định bất cứ sự gì. Chị tin rằng cách giải quyết của chị mới đạt hiệu quả nhất. Chị không cho ai bàn bạc. Chị không cần ai góp ý. Chị thường nhắc đi nhắc lại điệp khúc: - Tôi đã quyết định thì mọi người phải nghe theo...Khi chồng con phản đối, thì chị lý sự: - Tôi làm thế chỉ vì muốn mang lại điều tốt cho mọi người.Chị yêu cầu chồng sau giờ làm việc không được đi uống bia hay la cà với bạn bè, vì chị khẳng định: tại những nơi ấy đều có những tệ nạn xã hội. Chị mua sắm vi tính, nhưng nhất định không chịu cài đặt internet vì sợ chồng con truy cập các trang Web "đen".Mỗi buổi sáng, trước khi đến sở, chị căn dặn chồng con phải làm việc này việc kia. Và ban tối, chị kiểm điểm chồng con xem đã thực hiện như thế nào. Việc gì không làm được, thì chị lên mặt "dạy chồng", "chửi con". Chị có quá nhiều yêu cầu đối với chồng con, song bản thân lại tự cho mình quyền được làm "mọi chuyện mình thích". Với chị mọi người làm cái gì cũng sai, còn cái đúng luôn thuộc về chị.Hậu quả là con cái vì sợ chị nên không dám cãi lời. Còn chồng chị thì mỗi ngày một "chán vợ" hơn.Theo những nhà... "ngâm kíu" thì hiện nay nhiều anh chồng đang có xu hướng "thuần" và qui phục chị vợ hơn. Rất có thể đây là kết quả của công trình "nuôi chồng khỏe, dạy chồng ngoan" của chị vợ. Trong gia đình, vì nhiều nguyên nhân có khi vì quá thành công trên đường đời, có khi vì những thất bại chua cay, anh chồng đang âm thầm nhường lại quyền làm chủ cho chị vợ. Chính vì thế, chị vợ thừa thắng xông lên, dễ dàng lấn át vị trí của anh chồng, dường như chị ta đứng ở một vị trí cao hơn để chỉ huy mọi người trong nhà.Để diễn tả tình trạng này người xưa đã dùng câu tục ngữ: - Lệnh ông không bằng cồng bà.Thực vậy, lệnh là cái chiêng đồng nhỏ, tiếng thanh, thường được dùng làm hiệu xuất quân. Còn cồng là cái chiêng đồng lớn, tiếng trầm, thường được dùng làm hiệu thu quân. Mặc dù ông phát lệnh xuất quân, nhưng nếu bà đánh cồng để thu quân, thì tiếng cồng chắc chắn sẽ át tiếng lệnh, khiến mọi người cứ phải theo đó mà rút lui.Tại nhiều gia đình, gã thấy quyền hành của chị vợ...to lớn hơn quyền hành của anh chồng gấp bội. Và cũng từ đó, người ta sử dụng câu nói đùa này để chế diễu các ông chồng...sợ vợ! Tuy nhiên, các chị vợ cũng cần phải lưu ý: sự chịu đựng cũng như nhường nhịn nào cũng có giới hạn của nó, bởi vì tức nước vỡ bờ, tới lúc người chồng không thể nào chịu đựng, nhường nhịn, và nể nang được nữa, thì buộc lòng phải phản ứng lại. Và những phản ứng lúc bấy giờ thường là những phản ứng gắt gao và thảm khốc, gây nên những đổ vỡ.Không thiếu gì những người chồng vốn nổi tiếng hiền lành, nhưng một khi đã tức giận, thì lại thường cộc cằn, phản ứng một cách quyết liệt và mạnh mẽ.Được hỏi về chuyện sợ vợ của mình, phần lớn các anh chồng đều đồng ý với câu trả lời như sau: - Chúng tôi chẳng hề sợ vợ, vì nếu sợ thì còn đâu là cái bản lãnh của một đấng tu mi nam tử. Chẳng qua chỉ vì chúng tôi nể vợ mà thôi, không muốn làm to chuyện, khiến cửa nhà bị tan hoang. Nếu có đôi co và cãi vã, hàng xóm biết được, thì chỉ tổ "xấu thiếp hổ chàng". Thôi thì cứ nhịn đi cho xong chuyện.Vì vậy, đừng thấy chồng cả nể mà đã vội được đàng chân lân đàng đầu, mặc sức o ép chồng con. Sự hiền lành và tế nhị bao giờ cũng là nét duyên thầm của người phụ nữ. Chẳng thế mà nền luân lý Khổng Mạnh ngày xưa đã đòi hỏi người con gái phải có tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Để kết luận, gã xin kể lại một thí dụ cụ thể khác nữa:Trong những lúc ngồi hàn huyên tâm sự với bè bạn, chị thường khoe chồng mình là một người hiền lành như...cục đất. Chẳng bao giờ dám nổi nóng đánh đập hay chửi bới vợ con. Tuy nhiên, đối lập với sự điềm đạm và ít nói của anh là tính cách nóng "như Trương Phi" của chị. Không ít lần giận chồng và bực con, chị đã đập phá chén bát, quẳng vứt đồ đạc, thét lên những lời quá quắt khó nghe, khiến bố con anh tròn mắt hãi hùng.Vẫn bằng cái giọng tự tin thái quá, chị luôn thanh minh thanh nga: - Tính mình hễ tức giận là sôi máu lên, không thể kiềm chế được, phải đá thùng đụng nia, hoặc xả hết những dồn nén trong lòng ra ngay lập tức. Cũng may mà ông xã nhường nhịn, không cố chấp, chứ nếu chẳng ai chịu nhường ai, thì có lẽ đã lôi nhau ra tòa từ lâu rồi.Chị cười cười, thừa nhận sự nóng nảy cộc cằn đã thấm sâu vào bản chất của chị, nên dù biết là sai mà vẫn cứ chứng nào tật nấy... Thế nhưng, trong thâm tâm chị vẫn tự hào về khả năng điều khiển chồng và vị trí làm gia trưởng của mình.Anh là người hiền lành, thương vợ thương con và sống có trách nhiệm với những người thân yêu. Chẳng bao giờ anh quát mắng, chỉ trích hay dằn vặt cả khi chị và hai đứa con lỗi lầm và sai phạm. Anh luôn nỗ lực xây dựng bầu không khí đầm ấm, yên vui, tràn ngập thường xuyên trong gia đình.Trái ngược với anh, chị là một phụ nữ luôn thích ăn to nói lớn, có gì chướng tai gai mắt là không để bụng được, phải nói hụych toẹt ra cho bõ tức. Chính vì tính cách này mà từ thời con gái cho đến bây giờ, chị đã gây hiểu lầm và làm mất lòng không ít người.Những lúc vợ chồng gần gũi và tâm tình, anh thường nhẹ nhàng khuyên bảo chị nên sửa bỏ thói tật ấy, bởi vì sự nóng vội chẳng giải quyết được việc gì, mà còn làm cho mọi chuyện thêm rắc rối, phức tạp, thậm chí còn hạ thấp giá trị của chính mình. Hơn thế nữa, thói tật này càng không nên có ở người phụ nữ, vì nó làm mất đi vẻ dịu dàng, thùy mị, vốn là những đặc tính gắn liền với phái đẹp. Chị ậm ừ cho qua chuyện, chứ không để tâm tiếp thu ý kiến xây dựng của anh.Chị cứ đinh ninh rằng anh quá hiền lành, nên mình có thiếu nữ tính một chút cũng chẳng gây nên hậu quả gì nghiêm trọng. Chính vì những suy nghĩ nông cạn ấy, nên chị chẳng những không làm cho mình đẹp hơn trong mắt anh, mà còn vô tình đẩy anh vào trạng thái hụt hẫng và thất vọng. Chị đâu ngờ rằng điều đó đã ảnh hưởng nặng nế tới cuộc hôn nhân của anh chị.Lần ấy, mấy người bạn học cũ đang công tác ở miền quê, mới có dịp lên tỉnh, nên đã đến thăm vợ chồng chị, rồi họ rủ nhau ra quán bia ở đầu phố "liên hoan đánh dấu buổi gặp gỡ khó quên này". Không muốn chồng sa đà vào nhậu nhẹt, chị định ngăn cản, nhưng thấy anh tíu tít, hớn hở cùng bạn ôn lại những kỷ niệm thời học trò, nên chị đành miễn cưỡng để họ kéo anh đi.Suốt từ bốn giờ chiều cho tới mười giờ tối, lòng chị nóng như lửa đốt, đứng ngồi không yên. Từ ngày lấy nhau, chưa bao giờ anh chè chén về muộn khiến chị phải lo lắng như lúc này. Chuông đồng hồ điểm mười một tiếng. Chị đùng đùng nổi giận đi về phía quán bia, bụng bảo dạ: - Phải cho cả bọn một bài học.Xuất hiện giữa đám bạn đang cười nói rôm rả của anh, chị xối xả mắng chửi anh là phường mê rượu chè, chẳng đếm xỉa gì đến vợ con ở nhà phải trông chờ và lo lắng. Chị gạt phăng lời giải thích của anh: - Bạn bè xa cách lâu ngày mới gặp lại đông đủ, nên vui quá không để ý tới thời gian.Chị lôi tay chồng và nói như ra lệnh: - Anh về nhà ngay, phải biết chọn bạn mà chơi. Những người này lần sau đừng có hòng đặt chân tới nhà của tôi.Ông chủ quán khuyên chị có gì thì cũng nhẹ nhàng mà nói, vì trời đã khuya, chớ quấy rầy hàng xóm. Thế nhưng, chị bèn quay sang rủa ông là kẻ hám lợi, lại còn bênh vực và chứa chấp những thằng say rượu.Tới nước này thì anh không còn im lặng như những lần trước, mà bất ngờ giật mạnh tay ra khỏi sự co kéo của chị và giơ thẳng cánh tát chị một cái nổ đom đóm mắt: - Cô im ngay. Tôi cấm cô không được phép xúc phạm tới những người bạn thân của tôi.Chị không chịu thua, mà còn lu loa, gào thét to hơn, khiến cuộc gặp mặt của anh và các bạn đang vui bỗng trở thành...bi kịch. Anh hổ thẹn với bạn bè vì có một người vợ thô lỗ, không biết cách đối nhân xử thế.Sự kiện này là như giọt nước tràn ly, bởi vì sau đó anh đã quyết định ly hôn trước sự ngỡ ngàng của chị... (Phụ nữ Chủ nhật, số 41, ngày 15.10.2006). Cùng một thể thức ấy, gã nghĩ rằng: - Một cọng rơm, cũng có thể làm gãy lưng con lạc đà!!! Gã Siêu
Phàm những gì quá độ, đều bất ổn. Trong khi đó, nhân đức luôn đứng ở giữa, ở cái mức trung dung. GãSiêu 127
Phàm những gì quá độ, đều bất ổn. Trong khi đó, nhân đức luôn đứng ở giữa, ở cái mức trung dung. Từ nhận định trên, gã đi vào mối liên hệ giữa anh chồng với chị vợ và đã nhận ra những thái độ quá quắt, dẫn đến những chuyện không hay trong đời sống tình cảm của cá nhân cũng như gia đình. Thái độ thứ nhất, đó là coi vợ như đầy tớ, để rồi mặc sức “khủng bố”. Trước hết là khủng bố về mặt tinh thần bằng những cấm đoán, áp đặt tư tưởng và lập trường của mình trên tư tưởng và lập trường của vợ, theo kiểu phu xướng vụ tùy, xuất giá tòng phu, khiến người vợ lúc nào cũng phải vâng lời tối mặt. Tiếp đến là khủng bố về mặt thể xác bằng những đánh đập, hành hạ, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, khiến vợ phải mang thương tích, đồng thời lúc nào cũng phải sống trong tình trạng căng thẳng và ngột ngạt. Thậm chí đôi khi còn dẫn tới một cái chết oan uổng và tất tưởi. Gã xin đưa ra một trường hợp điển hình cho những bạo hành trong gia đình: Sau khi cưới, những ngày tháng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì gia đình bắt đầu có mối bất hòa và rạn nứt. Ban đầu từ chuyện mẹ chồng nàng dâu, cho đến những chuyện cỏn con của đời sống vợ chồng. Cứ không bằng lòng điều gì, chẳng cần góp ý với chị một câu nào, anh liền đánh đập chị như một thú tiêu khiển. Hết đánh, rồi tới đập phá đồ đạc và chửi bới đe nẹt chị. Khi bị anh đánh đâp thâm tím cả mặt mày, chị quay sang cầu cứu bố mẹ chồng, nhưng cũng chẳng nhận được một sự an ủi nào. Tệ hơn nữa, bố mẹ chồng còn gọi điện, mời bố mẹ đẻ lên để “nói chuyện”. Đích điểm của những lần nói chuyện ấy chỉ là những lời lẽ chửi bới, nhục mạ, hay nhẹ nhàng nhất thì cũng dạy cho chị và và gia đình bên ngoại một bài học…(Báo Gia đình, số 13 ra ngày 26 tháng 3 năm 2007). Thái độ thứ hai, đó là coi vợ như bà chủ, để rồi lúc nào cũng khúm núm và nơm nớp sợ hãi. Đây là tác phong đã được Tú Xương miêu tả: – Làm trai rửa bát quét nhà, Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em đây. Phần đông các ông chồng trên trái đất này đều mắc phải một chứng bệnh, được gọi toạc móng heo ra, là chứng bệnh “sợ vợ”. Các ông ấy đã lý sự cùn với nhau để bênh vực cho chứng bệnh vốn dĩ đã trở nên “di căn” hay “mãn tính” của mình. Chẳng hạn: – Mình sợ vợ mình, chứ đâu có sợ vợ người ta đâu mà lo. Chẳng hạn: – Mình đâu có sợ vợ, mà chỉ nể vợ. Chẳng hạn: – Mình làm vậy cốt để cho cửa nhà được êm ấm. Tuy nhiên, dù biện minh thế nào chăng nữa, thì râu quặp cũng vẫn chỉ là râu quặp mà thôi. Những anh chồng sợ vợ vốn thường sống và thực thi hết mình lời khuyên bảo sau đây: – Kính vợ đắc thọ, Sợ vợ sống lâu. Nể vợ ta hết u sầu, Để vợ lên đầu, thì trường sinh bất lão. Ngoài hai thái độ bất cập kể trên, nhiều lúc gã còn gặp thấy một thái độ khác, tuy không đến nỗi tệ hại, nhưng cũng không kém phần bất ổn đó là cái thói nịnh vợ. Thái độ này, hình như cũng đã được Tú Xương bàn đến như sau: – Vuốt râu nịnh vợ con bu nó. Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Sỡ dĩ như vậy bởi vì trong thâm tâm, anh chồng luôn dành cho chị vợ một địa vị…tối ưu: – Nhất vợ nhì giời. Lắm lúc anh chồng nịnh một cách rất trơ trẽ, khiến người được nịnh là chị vợ cũng cảm thấy ngượng ngùng. Những lời lẽ nịnh bợ ấy sẽ phản tác dụng vì trở nên bôi bác giả hình, như muốn che lấp một ý đồ đen tối nào đó. Để tránh đi tình trạng bi đát trên, hôm nay gã xin…”cắt thuốc” và đưa ra mấy thang “độc chiêu”, thay vì phải khen vợ thì lại được vợ khen. Anh chồng phải nắm đàng chuôi, phải ở vào cái thế “thượng phong” và phải chơi “nước cờ cao”…Như vậy mới xứng với đấng mày râu, mới đáng với bậc tu mi nam tử. Thang thuốc gã đưa ra gồm bốn vị: – Thứ nhất: đưa lương đủ. Thứ hai: tối ngủ nhà. Thứ ba: giúp việc bà. Thứ tư: quà đúng lúc. Bây giờ gã sẽ bàn rộng tán dài về từng vị trong thang thuốc tuyệt vời ấy. Thứ nhất: đưa lương đủ. Kinh nghiệm cho thấy: để làm được chuyện nọ chuyện kia, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề…tiền đâu. Trong phạm vi gia đình, quốc gia cũng như quốc tế, ai nắm được túi tiền, thì người đó cũng nắm được quyền lực, để rồi chi phối và bắt người khác phải quy phục mình răm rắp. Gã xin đưa ra một thí dụ, chẳng hạn như những đồng tiền viện trợ. Nước Mỹ vốn là nước hào phóng nhất trong vấn đề viện trợ cho các…chư hầu. Thế nhưng, một khi đã ngửa tay nhận lãnh những đồng tiền viện trợ, thì chắc chắn sẽ phải đi vào quĩ đạo của Mỹ. Mỹ bảo sao phải nghe vậy, bằng không thì sẽ bị cắt viện trợ. Lúc đó sẽ dở khóc, dở cười và dở mếu nữa. Thành thử, dù là viện trợ nhân đạo, nhưng cũng vẫn kèm theo những điều kiện. Và những điều kiện này thường được hiểu ngầm với nhau, chứ ít khi được viết ra trên giấy trắng mực đen. Trong phạm vi gia đình cũng vậy. Sở dĩ uy quyền của chị vợ tương đối lớn, bởi vì chị vợ vốn là “tay hòm chìa khóa”, nắm giữ tiền bạc trong gia đình. Với vai trò của người quản lý khôn ngoan, chị vợ nào cũng muốn thâu tóm tất cả vào một mối. Vì thế, chị vợ không những muốn kiểm soát tiền lương cũng như tiền lậu, tiền bổng cũng như tiền lộc của anh chồng, mà còn muốn cứ đúng hẹn, anh chồng phải giao nộp đầy đủ, không thiếu một đồng, không thừa một cắc. Sự giao nộp đầy đủ này đem lại rất nhiều lợi ích. Trước hết, chị vợ biết đường mà chi tiêu cho gia đình. Thực vậy, sống trong thời buổi gạo châu củi quế, vật giá leo thang đến chóng cả mặt. Vì thế, ngân sách trong gia đình thường bị thâm thủng và thiếu hụt, đôi khí tới mức độ trầm trọng. Nắm được đầu vào, chị vợ mới có thể lên kế hoạch cho đầu ra một cách hợp tình và hợp lý, liệu cơm mà gắp mắm, cái gì không cần thiết thì gạch bỏ, chứ không bóc ngắn cắn dài, con nhà lính tính nhà quan, để suốt đời cứ bị nợ nần chồng chất. Tiếp đến, vì tiền bạc được quản lý một cách hết sức chặt chẽ, nên chị vợ sẽ giúp cho anh chồng tránh được những thói hư tật xấu, những tệ đoan xã hội. Đúng thế, các cụ ta ngày xưa đã bảo: – Có tiền mua tiên cũng được. Chính vì thế, người thời nay cũng nhận xét và thấy được rằng: – Đờn ông, muốn hư thì phải có tiền. Hay nói cách khác: – Tiền dễ làm cho cánh đờn ông trở thành hư. Thực vậy, có tiền anh chồng mới dễ dàng cùng với bè bạn chén thù chén tạc. Tăng một chưa hết, lại lê lết qua tăng hai. Có tiền, anh chồng mới dễ dàng bén mảng tới những nơi được tận cùng bằng chữ…ôm. Chẳng hạn như bia ôm, cà phê ôm, karaoke ôm…Thậm chí ở Hà Nội, theo như báo chí dăng tải, còn có cả…thịt chó ôm nữa! Có tiền, anh chồng mới dễ dàng sa đà vào cờ bạc cũng như hút sách. Và tệ hại hơn nữa, thay vì đem tiền về để nuôi sống vợ con, anh chồng lại dùng vào việc phát triển những tình cảm sai trái và ngoài luồng, bằng cách bao gái, hay nuôi…bồ nhí, khiến cho gia đình bị đổ vỡ tan hoang. Mặc dù quản lý chặt chẽ, nhưng chị vợ cũng nên xét tới những nhu cầu chính đáng của anh chồng, chẳng hạn như tiền xăng nhớt, cà phê cà pháo…để rồi tuồn vào ví của anh chồng một số tiền còm. Chị vợ nên nhớ rằng tiền bạc là phương tiện làm cho cuộc sống trở nên tươi hồng, chứ không phải là cùng đích phải theo đuổi bằng bất cứ giá nào. Đừng biến mình trở thành một thứ ngân hàng, hay kho bạc của nhà nước: có đầu vào mà chẳng có đầu ra. Nhập vô thì hồ hởi, xuất ra thì nhăn nhó. Thiết tưởng mỗi người nên xác tín về giá trị của tiền bạc: Nó có uy lực riêng của nó. Tuy nhiên, uy lực ấy không phải là vô song và tuyệt đối như người ta vốn thường sánh ví: Tiền bạc có thể mua được một ngôi nhà, nhưng không mua được một mái ấm. Tiền bạc có thể mua được một chiếc giường êm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành. Tiền bạc có thể mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian. Tiền bạc có thể mua được sách vở, nhưng không mua được kiến thức. Tiền bạc có thể mua được địa vị, nhưng không mua được lòng tin phục. Tiền bạc có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sức khẻo. Tiền bạc có thể mua được tình dục, nhưng không mua được tình yêu….
Thứ hai: tối ngủ nhà. Đây là một vị thuốc rất cần cho sức khỏe của gia đình, nhất là đối với các gia đình trẻ, mới được bố mẹ cho…ra riêng. Thực vậy, lúc bấy giờ, tình yêu còn đang mặn nồng và hơn thế nữa trong chiếc tổ ấm dễ thương ấy, thường chỉ có hai vợ chồng: đi ra thì cũng chỉ ta với mình, đi vào thì cũng chỉ mình với ta. Có thêm chăng nữa, chỉ là một đứa con. Cứ tưởng tượng ra xem: chị vợ sau khi nấu nướng xong xuôi, ngồi đợi anh chồng về để cùng ăn. Thế nhưng, anh chồng lúc đó lại đang bận lai rai với các chiến hữu, ba hoa đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, bởi vì tửu nhập thì ngôn xuất, rượu vào thì lời ra. Cái cảm giác chờ đợi, khiến cho chị vợ dễ dàng bực bội và tức tối, bởi vì: – Ngồi chờ không bực cho bằng ngồi chực nồi cơm. Thức ăn nguội dần, chị vợ ngồi xơi một mình mà nuốt chẳng trôi. Bực bội tức tối đã đành mà còn thắc thỏm lo âu: – Giờ này anh ấy đang ở đâu và với ai ? Trên đường về có gặp phải tai nạn gì không ? Mãi tới khuya anh chồng mới về tới nhà trong tình trạng chân nam đá chân chiêu, toàn thân bốc lên một mùi rượu nồng nặc, ấy là chưa kể tới cái cảnh anh chồng…OK thau, cho chó ăn chè. Như vậy, làm sao chị vợ có thể chịu đựng nổi. Ngoài ra, ban ngày bàn dân thiên hạ phải lao động cật lực, đầu tắt mặt tối, người nào việc nấy. Vì thế, khi màn đêm buông xuống mới chính là lúc người ta nghỉ ngơi, chơi bời, du hí. Bóng đêm như đồng lõa, ma dẫn lối quỉ đưa đường, khiến cho anh chồng loạng quạng mò tới những địa chỉ đen. Và ở đó, anh chồng làm gì và với ai thì chỉ có ông trời mới biết được mà thôi. Vì thế, tối ngủ nhà là thượng sách. Giống như trong thời chiến, binh lính thường phải cắm trại một trăm phần trăm. Riêng ban đêm thường có lệnh giới nghiêm, người dân ai ở nhà nấy, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Cũng vậy, tối về ngủ nhà dưới sự chăm sóc và quản lý chặt chẽ của chị vợ, anh chồng sẽ như một cầu thủ ở trong cái thế…việt vị, bất nhóc nhách, chẳng còn sơ múi gì nữa. Và như vậy, theo sự diễn tả của truyện Tây Du Ký, thì anh chồng sẽ tránh được biết bao nhiêu thứ yêu tinh, biết bao nhiêu ổ nhền nhện, biết bao nhiêu hang tội lỗi…Một cuộc sống trong lành và mạnh khỏe như mở ra và chờ đón ở phía trước.
Thứ ba: giúp việc bà. Thời buổi bây giờ là thời buổi nam nữ bình quyền. Người chồng ngang hàng với người vợ. Và người vợ cũng ngang hàng với người chồng. Vì thế, cả hai đều phải chia sẻ trách nhiệm và bổn phận với nhau. Ngày nay, nhiều chị vợ không phải chỉ biết làm bạn với nồi niêu xoong chảo nơi xó bếp, mà còn anh dũng tiến ra ngoài xã hội, đảm nhận những công việc quan trọng và cũng đã gặt hái được những thành quả sáng chói. Nếu để cho chị vợ, một vai gánh việc nước, một vai lo việc nhà, thì e rằng quá sức chịu đựng của loài người ? Vì thế rất cần sự quan tâm và giúp đỡ của anh chồng. Có lẽ cái thời chồng chúa vợ tôi cần phải qua đi, vì không còn thích hợp. Thực vậy, ngày xưa có những ông chồng sau giờ làm việc trở về nhà, thì liền ngồi đọc báo, xem TV và…chờ cơm. Việc bếp núc được coi như là việc riêng của người vợ. Cái não trạng này đang dần dần được thay đổi. Nhiều anh chồng cũng đã lăn xả vào bếp để tiếp sức với chị vợ. Nếu không thổi được nồi cơm, thì cũng có thể làm được một món ăn, chẳng hạn như luộc rau, kho thịt… Nếu không làm được món ăn, thì cũng có thể ngồi nhặt hành, băm tỏi…Thấy anh chồng đầy thiện chí như vậy, chị vợ nào mà chẳng vui mừng như mở cờ trong bụng. Thậm chí khi nhìn thấy đôi bàn tay “hậu đậu” và lóng ngóng của anh chồng, chị vợ bèn giành lấy công việc về cho mình một cách đầy yêu thương và trìu mến: – Thôi anh nghỉ đi, để em làm. Ngoài chuyện bếp núc, anh chồng còn có thể giúp đỡ chị vợ những việc lặt vặt thuộc nhiều lãnh vực khác nữa, chẳng hạn như trang hoàng nhà cửa, dạy bảo con cái, trồng bông tưới kiểng, nuôi gà nuôi vịt… Tóm lại, cả hai cùng cộng tác với nhau trong việc tổ chức và điều hành gia đình, để gia đình thực sự trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc. Những sự giúp đỡ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, nhưng lại có sức hâm nóng tình yêu và làm cho bầu khí gia đình thêm ấm cúng.
Thứ tư: quà đúng lúc. Trong hoàn cảnh khó khăn, người ta chỉ mong sao được ăn no và mặc ấm. Để ăn no, thì lắm khi “ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”. Để mặc ấm, thì áo đụp, áo kép đắp lên người hai ba lớp miễn sao cho khỏi run lên lập cập Thế nhưng, khi hoàn cảnh khó khăn ấy đã qua đi và một tương lai tươi sáng đã hé mở, thì từ chỗ ăn no mặc ấm, người ta ước mơ được ăn ngon mặc đẹp. Và thế là phú quí sinh lễ nghĩa. Trong những tháng năm gần đây, gã đã thấy xuất hiện tại Việt Nam nhiều lễ hội để tôn vinh phe đờn bà con gái. Ngoài những lễ hội cổ truyền như tết Nguyên đán, còn có: – Ngày tình yêu 14 tháng 2. – Ngày phụ nữ quốc tế, mồng 8 tháng 3. – Ngày tưởng nhớ công ơn mẹ hiền vào Chúa nhật thứ hai trong tháng năm. – Nếu chị vợ đi dạy học thì có ngày nhà giáo 20 tháng 11. Nếu chị vợ làm bác sĩ, thì có ngày thầy thuốc 27 tháng 2. Ngoài ra, trong lãnh vực riêng tư còn có một số những ngày khác, đánh dấu những kỷ niệm khó quên trong đời, chẳng hạn ngày sinh, ngày cưới…Và nếu là người Công giáo, thì còn có ngày mừng kính thánh bổn mạng. Vì thế, một anh chồng lịch sự và tế nhị, cần phải ghi những ngày đáng nhớ này vào sổ tay của mình, để rồi cứ đúng hẹn lại lên. Hãy biểu lộ tình cảm và sự ga lăng của mình vào đúng những ngày trọng đại ấy bằng một cử chỉ đặc biệt, chẳng hạn như mời chị vợ đi ăn nhà hàng, hay tổ chức một bữa cơm thân mật trong gia đình. Hay bằng một quà tặng nào đó. Dĩ nhiên, quà tặng phải tùy theo túi tiền của mình. Có khi không cần đến một quà tặng đắt giá, chỉ một bông hồng mà thôi cũng đủ làm cho chị vợ cảm động đến chớp chớp đôi mắt và rưng rưng như muốn khóc. Hỡi những anh chồng khốn khổ ơi! Xin hãy nghe lời xúi dại của gã chỉ một lần: – Chịu khó uống thang thuốc bắc gã đã cắt, gồm bốn vị chính: Đưa lương đủ, tối ngủ nhà, giúp việc bà, và quà đúng lúc. Gã sẽ bảo đảm “chăm phần chăm” thế nào các anh cũng được chị vợ của mình khen lấy khen để và bỗng dưng trở thành những con người thật dễ thương mà chẳng mất đồng xu cắc bạc nào cả. Gã Siêu
Gã không biết chợ búa xuất hiện từ bao giờ, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa. Thực vậy, ngay khi con người GãSiêu 128
Gã không biết chợ búa xuất hiện từ bao giờ, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa. Thực vậy, ngay khi con người kiếm được hay làm ra các sản phẩm của mình, chẳng hạn như thú rừng săn bắn hay hoa quả trồng trọt…Nếu dùng không hết, thì mang đi đổi chác.
Và những nơi người ta thường tụ họp để đổi chác các sản phẩm của mình được gọi là chợ. Rồi từ đó đến nay, chợ không ngừng phát triển.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, thì chợ là nơi gặp nhau giữa cung và cầu các hàng hóa, các dịch vụ…là nơi tập trung mua bán giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Quy mô và tính chất của chợ tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế.
Chợ có vai trò chủ yếu là nơi tiêu thụ hàng hóa, đồng thời cũng có ảnh hưởng kích thích ngược lại đối với sản xuất. Ngoài ra, đối với đồng bào dân tộc, chợ còn là nơi sinh hoạt vănh óa.
Hơn thế nữa, quy mô và tính chất của chợ lại rất đa dạng. Có loại chợ mang tính chất nông thôn tự sản tự tiêu. Có loại chợ mang tính chất khu vực hay một vùng rộng lớn. Thông thường, các mặt hàng mua bán ở chợ rất phong phú và gồm nhiều thứ. Thế nhưng, cũng có loại chợ chỉ mua bán những mặt hàng nhất định, như chợ gạo, chợ chợ vải, chợ trâu bò…
Tùy theo điều kiện, địa điểm và nhu cầu, chợ có thể họp hằng ngày, hay chỉ họp theo phiên nhất định trong tháng. Có loại chợ một năm chỉ họp mấyngàytết.
Vì vậy, có thể xem chợ là sự phản ánh trình độ phát triển và nếp sống kinh tế – xã hội của một địa phương. (TĐBKVN, cuốn 1, trang 486).
Dựa vào câu định nghĩa trên, gã xin phân chia và đưa ra những kiểu chợ khácnhau. Trước hết, tùy theo thời gian nhóm họp, thì có:
Chợ đông là chợ họp thật sớm, lúc mặt trời ló dạng và có nhiều người:
- Trai khôn tìm vợ chợ đông. - Chợ đông sao chẳng bán hàng, Chờ tan buổi chợ, dạo hàng bán duyên.
Chợ mai là chợ chỉ họp trong buổis áng.
Chợ trưa là chợ gần tan, lúc mặt trời đứng bóng, nhưng đồng thời cũng ám chỉ những cô gái đang“toan về già”:
- Em về giục mẹ cùng cha, Chợ trưa dưa héo kẻo mà buồn thay.
Chợ chiều là chợ họp vào buổi chiều, nhưng đồng thời cũng ám chỉ cảnh ếẩm, rời rạc và chán nản:
- Chợ chiều nhiều khế ế chanh, Nhiều cô gái lạ nên anh chàng ràng.
Chợ đêm là chợ họp suốt đêm trong những ngày gần tết.
Chợ phiên là chợ họp định kỳ:
- Lấy chồng phải gánh giang san, Chợ phiên còn nhỡ, giang san còn gì ? Tiếp đến, tùy theo cách thức nhóm họp, thì có:
Chợ chạy là chợ họp ở những nơi bị cấm. Vì thế, khi thấy cảnh sát xuất hiện là…a lê hấp, ôm hàng chạy te tua, chạy vắt giò lên cổ, chạy có cờ luôn.
Chợ la là chợ họp dọc theo lề đường, vừa bán vừa rao hàng inh ỏi.
Chợ chồm hổm hay chợ trời là chợ họp ngoài trời, không nhà lồng, không quầy, không sạp.
Chợ nổi là chợ họp dưới sông, trên những ghe xuồng. Đây là một nét đặc biệt của vùng đồng bằng sông Cửu Long, mà những năm gần đây đã được đem vào chương trình du lịch miệt vườn. Ngoài ra, gã cũng xin ghi nhận thêm hai kiểu chợ đặc biệt khác nữa, đó là chợ người và chợ đen. Chợ người là nơi những kẻ thất nghiệp tụ họp để chờ được thuê mướn. Còn chợ đen, hay chợ âm phủ là nơi bán đồ lậu, hoặc bán với giá cao hơn giá qui định.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây hiện tượng mở chợ tùm lum được phát triển ở nhiều địa phương. Xã nào cũng mở chợ, phường nào cũng mở chợ. Người ta chỉ cần tìm mặt bằng, bỏ vốn xây một cái nhà lồng bề thế, rồi phân chia thành những sạp nhỏ, mà bán cho dân kinh doanh để kiếm lời.
Tuy nhiên, nếu không khéo tính toán, thì chợ đã xây xong, nhưng chẳng ai thèm tới thuê mua, như chợ Văn Thánh ở Saigon, hay được dùng làm chỗ cột trâu cột bò, bằng không thì cũng bỏ hoang, như một số chợ thuộc tỉnh An Giang.
Khi nền kinh tế được đi lên và mức sống của dân chúng xem ra khấm khớ và sáng sủa hơn, người ta thấy xuất hiện ồ ạt tại các thành phố một loạichợmới,đ Cũng theo định nghĩa của “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, thì siêu thị là một loại cửa hàng tổng hợp bán lẻ với diện tích bán hàng qui mô lớn và nhiều ngành hàng khác nhau, có từ vài ngàn đến vài vạn mặt hàng, được trang bị các phương tiện hiện đại để di chuyển hàng và người trong phạm vi của mình, thỏa mãn việc thanh toán nhanh cho hàng nghìn lượt khách muat rong một giờ.
Siêu thị là sản phẩm của một quá trình đô thị hóa. Thực vậy, khi những nhu cầu tiêu thụ tăng cao, mà người tiêu thụ lại không có nhiều thời gian, để đi từ cửa hàng này đến cửa hàng khác, mà mua sắm đồ dự trữ cho nhiều ngày trong tuần, nên cần phải có siêu thị.
Siêu thị thường được xây dựng ở ven ngoại thành phố, gần tuyến giao thông, thuận tiện cho người đi tới bằng phương tiện công cộng, có bãi để xe cho khách đến mua hàng. (TĐBKVN, cuốn 3, trang 760).
Siêu thị ở Việt Nam và nhất là ở Saigon, không phải chỉ được xây dựng ở ven ngoài thành phố, như siêu thị Cora Miền Đông và Cora An Lạc, mà còn nghiễm nhiên cắm dùi tại nhiều con đường lớn trong thành phố.
Có những siêu thị rất to lớn và hoành tráng, nhưng cũng có những siêu thị rất khiêm tốn và nhỏ bé.
Từ ngày siêu thị được mọc lên như nấm sau cơn mưa và trở nên gần gũi với sinh hoạt của dân chúng, thì nhiều người bỗng có thêm một sở thích, một cái khoái mới, đó là…cái khoái đi siêu thị. Cái khoái này có nhiều điểm lợi::
Thứ nhất là vì siêu thị nào cũng trang bị máy lạnh, nên vào đó ta trốn được cái nắng chói chang bên ngoài, đồng thời lại còn được hít thở những lọn không khí dịu mát, làm tỉnh táo cả thần hồn.
Thứ hai là vì vào đó ta được tha hồ nhìn những con người qua lại, “dập dìu tài tử giai nhân, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”, cũng như được tha hồ ngắm những mặt hàng phong phú bày bán.
Thứ ba là vì vào đó, nếu trong túi rủng rỉnh những tiền, ta có thể mua được những hàng hóa chất lượng cao, mà không bị lừa gạt bởi hàng dổm, hàng nhái, như ngoài chợ trời, mặc dù giá cả trong siêu thị hơi bị cao.
Và sau cùng, đi siêu thị còn là dấu chỉ chứng tỏ ta cũng là người văn minh và tiến bộ.
Thời buổi bây giờ người ta nghiêng về lãnh vực chuyên môn, nên các siêu thị cũng rất đa dạng. Có những siêu thị chuyên về cái ăn, bán đủ mọi thứ thực phẩm, từ con cá rô và cá lóc đến những thứ hải sản cao cấp.
Có những siêu thị chuyên về cái mặc, bán đủ mọi thứ áo quần, từ “nội y” đến “ngoại y”, từ “hàng hiệu” đến hàng xoàng xoàng bậc trung, thứ nào cũng có và tiền nào của nấy.
Có những siêu thị chuyên về cái nghe và cái nhìn, bán đủ mọi thứ máy móc, từ chiếc TV màn hình tinh thể lỏng đến các loại đàn, như “ọc”, “gui-ta”…nhưng chắc chắn là không có “đàn bà” hay đàn “tỳ bà”.
Hôm nay, gã được mấy tên bạn rủ đi “tham quan” siêu thị kim khí điện máy ở trên tỉnh, một siêu thị mới được cắt băng khánh thành và đưa vào sửdụng.
Vì là dân Hai Lúa trong ruộng, nên trước khi đi cũng phải chăm sóc cái ngoại hình bên ngoài: Nào là rửa mặt và cạo râu, nào là đóng bộ áo quần “vía” nhất, để xóa đi những nét cơ cực lầm than và làm cho mình được…oách hơn một tí.
Trong lúc dạo quanh một vòng, từ trệt lên lầu, rồi lại từ lầu xuống trệt, gã vừa đi vừa suy gẫm và đưa ra ý nghĩ méo mó cũng như những so sánh khập khiễng của mình.
Trước hết, bọn gã dừng chân ở khu vực bán những dụng cụ khuếch đại âm hanh.
Nhìn vào những gian hàng, gã thấy: Nào là “amplie”: Có cái to như chiếc tủ gỗ, có cái gọn nhẹ như một món hàng xách tay. Nào là “micro”: Cái có dây, cái không dây và có cái chỉ nhỏ như đầu đũa để cài trên áo. Nào là những cặp thùng, lớn bé đủ mọi kích cỡ… Tiếng nhạc phát ra như đưa hồn lạc vào cõi thiên thai.
Những người bán còn cănd ặn::
- Chúng tôi có chuyên viên đến lắp ráp tại nhà và dành giá đặc biệt cho những cơ sở như nhà thờ, nhà sinh hoạt, hộit rường…
Gã thầm nghĩ:
- Ở nhà, anh chồng nào cũng đã có một dàn âm thanh nổi rồi, cần gì phải mua và thuê người đến lắp ráp nữa. Dàn âm thanh nổi ấy chính là…bà xãvậy.
Đúng thế, mỗi buổi chiều khi tan sở về nhà, anh chồng thường được nghe những bản nhạc êm dịu từ dàn âm thanh ấy với những lời ca cẩm về tình trạng vật giá leo thang, thức ăn mắc mỏ, ngân sách thiếu hụt…Tiếp đến là về những ngang bướng ngỗ nghịch của cậu con trai, hay những thái độ khó hiểu của cô con gái.
Tuy nhiên, nếu chẳng may anh chồng đã sai lỗi điều chi, hay đã làm sự gì cho chị vợ buồn lòng, thì lập tức dàn âm thanh ấy liền đổi tông, phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc với tất cả công xuất chát chúa của nó, khiến cho anh chồng, nếu có đủ bản lãnh, thì bịt tai chịu vậy, bằng không thì bỏ nhà xuống phố:
- Ô ta buồn, ta đi lang thang bởi vì ai…
Cái gay của dàn âm thanh này, đó là nó rất ít khi bị trục trặc kỹ thuật, đồng thời nó lại có thể tự động phát thanh bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc hàng xóm đang cần sự thinh lặng để nghỉ ngơi.
Và hơn thế nữa, thời gian bảo hành của nó lại dài bằng cả cuộc đời, thành thử phải gắng sức mà tập cho mình cái nhân đức…vâng lời chịu vậy, nếu không muốn cho cửa nát nhà tan, và xấu chàng hổ thiếp đối với bàn dân thiên hạ.
Rời khu vực âm thanh khuếch đại, bọn gã ghé thăm khu vực bán tủ lạnh.
Ở đây cũng vậy, sản phẩm thật là phong phú: Đủ mọi thứ nhãn hiệu như: Sanyo, National. Toshiba… Đủ mọi thứ kiểu cọ và kích cỡ: To có, nhỏ có, vừa vừa cũng có. Đủ mọi thứ công dụng: Bảo trì thức ăn, giữ tươi rau trái, rồi lại còn làm kem, làm đá….
Những cô bán hàng xinh xinh, luôn niềm nở tươi cười và không ngừng nhắcđi nhắc lại lời khuyến mãi:
- Ai mua tủ lạnh của chúng tôi, thì sẽ được tặng thêm những khuôn làm đá, những hộp đựng thức ăn và được chuyên chở miễn phí đến tận nhà…
Nghe xong những lời dụ khị này, gã bèn suy đi nghĩ lại trong lòng rằng:
- Ở nhà, anh chồng nào cũng đã có một chiếc tủ lạnh to đùng rồi, nên dinh về làm chi nữa cho thêm phiền phức. Và tủ lạnh trong gia đình cũng lại là chính…bà xã đấy!!!
Kinh nghiệm cho gã thấy: Chiến thuật “tủ lạnh” vốn dĩ là chiến thuật thường được các chị vợ sử dụng, mỗi khi xảy ra “chiến tranh giữa các vì sao”.
Thực vậy, sau một cuộc tranh luận đầy gay go dẫn tới sự cãi vã đầy căng thẳng trước một vài bất đồng nho nhỏ nào đó, mặc dù chiến sự vẫn còn tiếp diễn và chưa phân thắng bại, thì chị vợ bèn lập tức áp dụng chiến thuật “tủ lạnh”,với một nét mặt đầy băng giá, không cười và cũng chẳng nói.
Sau một chầu nhậu nhoẹt đàn đúm với bè bạn, anh chồng lỡ về muộn sau giờ…giới nghiêm, hay sau những lời phân trần hơn thiệt rất chân thành, mà anh chồng vẫn không chịu “ăn…nhời”, thì thế nào chị vợ cũng áp dụng chiến thuật “tủ lạnh” với một trái tim mùa đông, không hề biểu lộ một chút cảm thông. Mặc cho anh chồng muốn làm gì thì làm, còn chị vợ vẫn cứ bất hợp tác.
Và nhất là nếu anh chồng chẳng may có những bước chân đi hoang, lỡ ngán cơm nhà mà xuống phố ăn phở, thì chiến thuật “tủ lạnh” lại càng được khai thác triệt để. Đêm nằm mỗi người quay một hướng, như miền Bắc và miền Nam ngày xưa, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, cấm vận về mọi phương diện, cũng như về mọi lãnh vực. Khiến cho anh chồng như bị tê liệt, bị dồn vào cái thế “việt vị và bất nhóc nhách”.
Cũng như tủ lạnh ngoài thị trường, tủ lạnh trong nhà cũng chất chúa trong khoang của nó những thứ đặc sản tuyệt vời như: Ổi, xoài, cóc, tầm duộc, me…và một rúm muối ớt.
Đồng thời, như những chiếc tủ lạnh đời mới có công dụng xả băng khi được mở ra, thì chiếc tủ lạnh trong nhà cũng sẽ tan băng, nếu như anh chồng biết điều một chút.
Thực vậy, mặc dù chiến tranh nóng không còn bùng nổ, nhưng chiến tranh lạnh vẫn cứ kéo dài, sẽ làm cho anh chồng trở nên héo hắt và quay quắt. Chi bằng hãy biết hạ mình xuống, năn nỉ ỉ ôi cho dù có phải gãy lưỡi đi chăng nữa, hãy biết thành thật khai báo, can đảm nhận lấy khuyết điểm và sẵn sàng thề thốt uốn nắn sửa đổi, thì chắc chắn sẽ được hưởng sự khoan hồng tha thứ. Lúc đó, băng giá sẽ tan, mùa xuân sẽ trở lại và chị vợ không còn giữ khuôn mặt đưa đám và đôi mắt treo cờ tang nữa.
Tiếp đến, bọn gã cùng nhau đứng ngắm nghía khu vực bán máy vi tính.
Phải công nhận rằng trong những năm gần đây ngành tin học đã tiến được những bước khổng lồ. Các loại máy vi tính thi nhau ra lò như trăm hoa đua nở, mỗi loại đều có rất nhiều những chức năng, mà người sử dụng chẳng bao giờ dùng hết. Nào là máy để bàn, nào là máy xách tay…. Kè kè một cái “lap-top” bên mình, bỗng cảm thấy oai hẳn ra. Chẳng VIP, thì cũng là giám đốc. Mà chẳng giám đốc, thì cũng là dân áp phe, áp chảo thứ thiệc, chính hiệu con nai vàng ngơ ngác.
Loại máy nào cũng được những cô bán hàng giới thiệu là cực mạnh và cực nhanh. Ổ dĩa cứng có thể lưu giữ cả một tủ sách lớn, rồi lại còn biết bao nhiêu chương trình có thể cài đặt, thiên hình vạn trạng…
Cứ việc ngồi ở nhà, bấm con chuột vài cái, là có thể đi tham quan vòng quanh thế giới, cũng như có thể liên lạc với bạn bè khắp bốn phương trời…
Nghe vậy, gã bèn mỉm cười:
- Ở nhà, anh chồng nào mà chẳng có một dàn vi tính cực mạnh và cực nhanh. Dàn vi tính ấy cũng lại là chính…bà xã của mình.
Thực vậy, ổ dĩa cứng của chị vợ có thể lưu giữ rất nhiều sự kiện xảy ra trong dĩ vãng, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chẳng hạn tiền lương chính thức và tiền kiếm thêm mỗi tháng được bao nhiêu ? Số tiền ấy đã được chi cho những khoản nào ? Tất cả đều được ghi nhớ cho đến đồng xu cuối cùng.
Đặc biệt là trong lãnh vực tình cảm “ngoài luồng” của anh chồng. Nếu chẳng may tình cờ chị vợ vớ được một bức thư có những lời lẽ mùi mẫm, bất chợt nghe được một giọng nói thỏ thẻ qua điện thoại, hay vô tình thấy được mấy bà hàng xóm xì xào bàn tán về những quan hệ thiếu trong sáng của anh chồng…thì lập tức tất cả đều được ghi vào bộ nhớ.
Sau đó, bất cứ lúc nào những sự việc ấy cũng đều có thể được mang ra tra hỏi, chì chiết và day dứt, để rồi trở thành điệp khúc của một “bài ca không bao giờ quên”. Còn nếu anh chồng đã thực sự…ăn vụng, tình hình sẽ trở nên ngột ngạt và căng thẳng hơn nhiều.
Một chiếc máy tính, thỉnh thoảng cũng cần phải được nâng cấp và cài đặt thêm những chương trình mới. Thế nhưng, đối với chị vợ thì hơi bị khác một chút, đó là chị ta có thể tự nâng cấp về nhiều phương diện, chẳng hạn: Nâng cấp về dung nhan bằng cách đi mỹ viện, nâng cấp về áo quần bằng cách mua sắm tại các cửa hàng, cho dù nhiều bộ chẳng bao giờ được chị ta mặc lấy mộ tlần.
Có một câu chuyện kể lại rằng:
Nhân dịp sinh nhật, chị vợ muốn nâng cấp cho anh chồng, nên đã tự động đi mua sắm quà tặng. Đi từ trưa cho đến tận chiều mới về. Vừa bước chân vào nhà chị vợ đã ríu rít khoe:
- Em vào tiệm mua giày tặng anh, nhưng khổ nỗi em không biết cỡ bao nhiêu. Vừa khi ấy, em mới nhìn xuống và phát hiện ra giày của mình đã…tơi tả hết rồi. Vả lại, bà chủ hứa trước sẽ bán với giá cực rẻ, nên em mới mua một đôi. Sang hiệu quần áo, nhưng lại không tài nào nhớ rõ “size” của anh là bao nhiêu. Mà ông chủ ở đó nói chỉ giảm giá cho một bộ duy nhất với mỗi khách hàng, nên em cũng chỉ thử và mua có một bộ. Đến tiệm mũ, thì cô chủ nói cái mũ này hợp với khuôn mặt của em hơn, còn anh thì cô ấy chưa gặp, nên không rõ…
Anh chồng nghe tới đây bèn sốt ruột:
- Thế thì rốt cuộc sinh nhật này em định tặng chồng cái gì nào ?
Chị vợ hồn nhiên nói tiếp:
- Em tặng…em cho anh, bộ chưa đủ sao? Anh không nhớ là hồi mới cưới, anh vốn thường nói: Em là món quà vô giá của cuộc đời anh!!!
Một chiếc máy vi tính, đôi lúc cũng dở quẻ, không chịu hoạt động. Rõ ràng tối hôm trước mình còn ngồi làm việc với nó tới tận khuya, thế mà sáng hôm nay nó bèn trở chứng, khởi động thế nào cũng chẳng được. Đã sử dụng máy, thì thế nào cũng sẽ bị nó móc. Âu đó cũng chỉ là qui luật của muôn đời.
Chị vợ cũng vậy, có những ngày bỗng dưng chị ta nổi giận đùng đùng, nhưng cũng có những lúc chị ta bỗng chìm vào cõi thinh lặng, một sự thinh lặng dễ sợ, đến nổi cả gai ốc…Tính khí thay đổi thất thường đến quỉ thần ũng không lường nổi.
Tuy nhiên cũng đừng nên hỏi xem chị ta có sự gì bất ổn, bởi vì:
- Hôm nay trời nhẹ lên cao, “Em buồn” không hiểu vì sao em buồn.
Siêu thị kim khí điện máy là cả một tòa nhà rộng lớn với ba tầng lầu. Phải dành cả một buổi để đi tham quan. Trước mặt gã, còn rất nhiều khu vực khác nữa, chẳng hạn: Khu vực bán điện thoại di động, khu vực bán đầu dĩa, khu vực bán các thứ máy phục vụ cho nhà bếp như lò nướng, lò viba, máy quay sinh tố…
Những loại máy móc này, gã xin nhường lại cho quí anh chồng suy gẫm, để xem có được những đường nét nào xêm xêm và hao hao giống với chị vợ yêu của mình không nhé. Gã Siêu
Trong một số báo gần đây, gã đã phân tích lời các cụ ta ngày xưa đã bảo: Ông ăn chả, bà ăn nem GãSiêu 129
Trong một số báo gần đây, gã đã phân tích lời các cụ ta ngày xưa đã bảo: Ông ăn chả, bà ăn nem. Đại khái có nghĩa là: Nếu ông có bồ nhí, thì bà cũng phải có kép nhỏ.Nói như vậy, thì hơi bị oan cho quí bà quí cô một tí, bởi vì người phụ nữ thường sống bằng cả trái tim của mình và tình yêu đối với họ bao giờ cũng chiếm địa vị số một. Do đó, họ thừơng chung thủy và ít khi đi hoang trong tình yêu.Còn đờn ông con giai thì khác. Tục ngữ cũng đã bảo: Đờn ông những tám lá gan. Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người. Vì thế, chuyện ăn nem của các ông chồng xem chừng có vẻ như khí bị nhiều. Thực vậy, khung cửa đầu tiên để cho tình yêu đi vào người đờn ông thường là con mắt. Người đờn ông dễ bị hớp hồn bởi vẻ đẹp bên ngoài. Chẳng thế mà “ranh ngôn thời nay” đã bảo: Lập gia đình giống như đi ăn nhà hàng với bạn bè. Bạn gọi món bạn muốn, nhưng khi nhìn thấy những gì người khác gọi, bạn lại ước chi mình đã gọi giống như vậy. Câu ranh ngôn này thực đúng với kinh nghiệm, với qui luật của muôn đời:Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Trong những năm gần đây, báo chí tại Việt Nam không còn dùng cái phạm trù “chả và nem” nữa, bởi vì nó đã xưa rồi Diễm ơi, nhưng lại thích dùng cái phạm trù “cơm và phở”. Cơm ám chỉ bà xã, còn phở ám chỉ bồ nhí.Gã xin ghi lại nơi đây những lời phát biểu thật hăng tiết vịt trong cuộc đấu láo vung vít tại một câu lạc bộ “bồ nhí”. Mấy ông to gan lại bạo phổi, muốn thiết lập phòng nhì, đã vuốt chòm râu dê của mình mà xuất khẩu thành thơ. Ông thì ngâm nga: Vợ là địch, Bồ bịch mới là ta. Khi chiến sự xảy ra, Ta buộc về với địch, Nằm trong lòng địch, Ta vẫn nhớ đến ta. Có ông lại cười khà khà mà ví ví von von: Sáng chở cơm đi ăn phở. Trưa chở phở đi ăn cơm. Chiều cơm về nhà cơm, Phở về nhà phở. Tối Nằm với cơm, mà vẫn mong về phở. Nói thế thì nói, nhưng vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác: Vợ là cơm nguội của ta Nhưng là phở tái của cha láng giềng!!! Hôm nay, gã xin dựa vào một tài liệu bất ngờ chộp được ở đâu đó để phân tích về những cái lợi và những cái hại của cơm và của phở. Nhận định thứ nhất, đó là cơm thường được ăn khi đói, còn thường được ăn khi…thích. Thực vậy, thiên hạ thường bảo:Con người ăn để mà sống, chứ không sống để mà ăn. Như một chiếc máy, muốn chạy tốt thì cần phải nạp đủ nhiên liệu, con người cũng vậy, chính khi ta ăn là lúc ta nạp nhiên liệu vào cho cơ thể, nhờ đó cơ thể mới có thể lao động: ăn để mà sống. Như thế, ăn trở thành một sinh hoạt chính yếu nơi con người. Ta phải vất vả, bới đất nhặt cỏ, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới tìm được chén cơm manh áo cho bản thân và gia đình.Tuy nhiên, nếu nghĩ rằng: sống để mà ăn, thì chuyện đời lại mang một ý nghĩa khác. Lúc bấy giờ, người ta sẽ ăn cho khoái khẩu, hay ăn cho thỏa mãn…nhục dục, như một số nhà đạo đức đã lên tiếng chỉ trích. Và thánh Phaolô cũng đã diễn tả:Họ lấy cái bụng của mình làm chúa. Bình thường, nếu đói thì phải ăn, bẵng không, tay chân sẽ bủn rủn, thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng buồn xua. Lúc ấy, bỗng cảm thấy mình là “người Việt mắt hoa” chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, hay lại cảm thấy như có cả một sư đoàn kiến đang lổm ngổm bò trong bụng. Đối với người Việt Nam, thực phẩm được nhồi nhét vào cái bao tử rỗng tuếch lúc bấy giờ thường là cơm. Chín hột gạo mới được một hột cơm: Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần. Tóm lại, cơm thường được ăn khi đói, còn phở thì khác. Phở thường được ăn khi…thích. Cũng vậy, khi hứng tình nổi lên, nhất là trong túi lại rủng rỉnh có một nắm tiền, anh chồng chán cơm bèn đi tìm…phở để xơi cho đã thèm, hay nói cách khác, chán bà xã bèn đi tìm…bồ nhí để mà hú hí nơi phòng khách sạn, nơi quán bia ôm hay cà phê đèn mờ. Nhận định thứ hai, đó là cơm thì thường đơn giản, còn phở thì thường đa dạng. Thực vậy, chỉ việc vo gạo và cho vào nồi, rồi đổ nước và đun lên, thế là xong ngay một nồi cơm. Đơn giản chỉ có vậy. Hơn thế nữa, ngày nào ta cũng xơi cơm, ít là hai lần, thành thử cơm trở thành một thứ thực phẩm quá quen thuộc. Thậm chí, đôi lúc vì quá quen thuộc mà hóa ra nhàm chán. Trong lúc nhàm chán, “ngấy đến tận cần cổ”, thấy cơm mà nuốt chẳng vô, người ta bỗng thèm phở.Đi qua một tiệm phở, chỉ cần ngửi thấy cái hương vị thơm tho bốc lên từ thùng nước lèo, là nước miếng đã đầy tràn cả miệng. Phở thật tuyệt vời và đa dạng.
Trước hết, phở đa dạng về chủng loại. Ở miền Nam gã thấy có phở gà, phở bò. Riêng về phở bò, thì có phở tái và phở chín. Nhưng ở miền Bắc, có lần đi chơi vịnh Hạ Long, bất ngờ ghé vô một quán bên đường để ăn sáng, gã còn thấy có cả phở vịt và phở ngan nữa. Có lẽ vì sợ bị lây nhiễm bệnh cúm gà, mà thiên hạ đã chế biến thành những thứ phở “tương cận” chăng ? Trước năm 1975, tại Saigon có những tiệm phở thật nổi tiếng, đã từng…chui vào văn học sử, vì được ngòi bút của mấy ông văn thi sĩ đá động tới. Thậm chí báo Văn Học còn phát hành cả một số đặc biệt, để chỉ nói về phở mà thôi. Điểm qua những tiệm nổi tiếng, gã thấy người ta ca tụng phở gà ở đường Hiền Vương, phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ, phở Quyền và phở 94 hình như ở đường Võ Tánh, Phú Nhuận…Tại những tiệm nổi tiếng này, người ta phải xếp hàng và chờ đợi tới phiên của mình, mới có được một tô phở nóng.
Tiếp đến, phở còn đa dạng về khẩu vị. Bước vào một tiệm phở, ta có thể gọi tái hay chín. Mà tái thì còn có thể là tái nạm gầu, rồi cộng thêm với nước béo. Trước một tô phở nóng hổi như đang bốc khói, tùy sở thích ta có thể nêm tương đậu và tương ớt, vắt thêm một vài miếng chanh, rồi lại còn ngắt mấy cọng rau thơm mà bỏ vô. Quả thực là đậm đà khó quên. Chẳng thế mà phở đã trở thành một món ăn đặc sắc của người Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngòai nước. Và ông Clinton, tổng thống nước Mỹ, khi sang thăm Việt Nam, đã đi bát phố và cũng đã xơi một tô phở. Từ Saigon ra Hà Nội, ban sáng ghé vô tiệm phở mà cảm thấy tức anh ách, bởi vì phở Hà Nội không có tương ớt và rau thơm, mà chỉ có bột ngọt, nên nó có vẻ nhạt nhẽo vô duyên sao ấy. Chính vì những lý do trên, phở thường thơm tho và hấp dẫn hơn cơm, ấy là gã chưa nói tới những trường hợp gặp sự cố, nồi cơm bị trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét…thật là chán mớ đời. Cũng thế, bà xã suốt ngày ở với ta, sáng tối đụng đầu nhau theo kiểu: Đi ra chỉ mình với ta, Đi vào thì cũng chỉ ta mới mình. Miết rồi hóa nhàm hóa chán. Ấy là gã chưa nói tới trường hợp có những bà vợ, một khi đã “đưa chàng về dinh” thì không còn lo lắng tới ngoại hình của mình nữa. Trước kia chải chuốt bao nhiêu, thì bây giờ lại lôi thôi lếch thếch bấy nhiêu. Mặt mũi thì lem luốc chẳng còn hình tượng người ta. Áo quần thì xốc xếch ống cao ống thấp. Trong khi đó, bồ nhí thì lại đa dạng về cách thức ăn mặc và chiều chuộng, thành thử “cuốn hút” hơn, khiến ông chồng cứ chết mê chết mệt, chứ chẳng phải bùa mê thuốc lú nào cả. Nhận định thứ ba, đó là cơm thường được ăn ở nhà, còn phở thường được ăn ở quán, mà bầu không khí ở quán thường thì vui hơn ở nhà. Thực vậy, bầu không khí ở nhà thường tẻ nhạt, nhất là khi bà vợ mắc phải chứng bệnh…than. Ông chồng suốt ngày vất vả làm việc để kiếm tí tiền còm, như cánh chim tha mồi về tổ. Và khi về tới tổ, thường mong muốn được nghỉ ngơi, được chiều chuộng cho bõ công sức lao động của mình. Thế nhưng, vừa chui đầu vào nhà là đã phải nghe những điệp khúc buồn. Nào là thời buổi gạo châu củi quế. Nào là vật giá leo thang. Nào là con cái ngang bướng ngỗ nghịch. Nào là bệnh tật đau yếu…Thôi thì trăm thứ bà giằng. Bầu không khí tẻ nhạt đã đành, mà nhiều lúc nó còn trở nên căng thẳng và ngột ngạt. Chẳng hạn như khi người ta còn đang bất đồng ý kiến với nhau về chuyện mua sắm hay về chuyện dạy bảo con cái. Chẳng hạn như khi người ta còn đang giận hờn với nhau về chuyện ông xã đi phố với một bóng hồng lạ lẫm hay về chuyện bà xã bị bể hụi, vay mượn tùm lum nên nợ nần cứ giáng xuống trên đôi vai gầy. Trong khi đó, ở quán người ta được tự do ăn, tự do nói, tự do cười, nhất là khi gặp được mấy tên bạn chí cốt nữa, tha hồ mà “xả sú bắp”, cộng thêm vào đó mấy cô chiêu đãi viên cứ lượn qua lượn lại trong bộ áo quần quá nghèo đến độ thừa da thiếu vải. Còn cô bồ nhí thì lại sẵn sàng gắp giùm mồi để bỏ vào miệng, sẵn sàng nâng hộ cốc để đổ bia vào mồm, sẵn sàng cho mượn bờ vai để tựa đầu, cũng như sẵn sàng cho mượn cặp đùi để gếch chân, rồi lại còn khăn nóng khăn lạnh…Thảo nào mấy ông xã cứ vắt óc đưa ra một ngàn lẻ một lý do để dối gạt bà xã, nào hội họp, nào chiêu đãi, nào tiếp khách…tha hồ mà ghé quán. Cho tới lúc này thì phở đang chiếm phần ưu thế, dầu vậy cuộc đời bao giờ cũng có những chữ “nhưng” chết tiệt của nó. Chính vì những chữ nhưng chết tiệt này mà cơm dần dần lấy lại được vị trí số một của mình. Nhận định thứ tư, đó là cơm thường được bảo quản kỹ nên nguy cơ bị ngộ độc thấp, còn phở thường không được bảo quản kỹ nên nguy cơ bị ngộ độc cao. Thực vậy, cơm được nấu chín và để trên bếp, tới khi ăn mới bắc xuống, nên bữa ăn trong gia đình bao giờ cơm cũng nóng và canh cũng sốt, cho nên rất an toàn và bảo đảm cho sức khỏe. Trong khi đó phở thì khác. Cách đây không lâu, báo chí tại Việt Nam đã phanh phui hầu hết những cơ sở làm bánh phở, tại Hà Nội và Saigon, vì muốn cho bánh phở được dẻo, dai và dòn, người ta đã dùng hàn the và thậm chí còn dùng cả “phoọc môn” ướp xác chết, mà cho vào bột gạo. Tất cả đều là những chất độc hại cho cơ thể.Thêm vào đó, thịt dư từ ngày hôm qua, bây giờ được tái phối trí bằng cách mấu lại cho thực khách xơi. Hay thịt được thái ra, để khơi khơi giữa trời và đất, mặc cho bụi bậm từ xe cộ và những người qua lại trên đường được cơn gió thổi tới mà bám vào. Rồi trong tiệm, ngổn ngang trên sàn những giấy lau bát, những giấy chùi miệng, những cọng rau không còn lá và cả những nước miếng, đờm rãi người ta khạc nhổ mà tương xuống. Có lần gã quan sát thấy vì đông khách, nên ông đầu bếp mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thậm chí có cả những giọt mồ hôi vô tư rớt vào thùng nước lèo hay vô tư rơi xuống đống thịt đã được thái sẵn. Sống trong gia đình với bà xã, ta không sợ bị lây nhiễm bệnh tật, mà hơn thế nữa, còn được o bế về sức khỏe một cách tận tình và chu đáo: Dù không sinh đẻ ra ta Nhưng công nuôi dưỡng thật là lớn lao. Khi ta đau ốm xanh xao Vợ lo chăm sóc hồng hào khỏe ngay. Chẳng thế mà để chống lại với những chứng bệnh do tệ đoan xã hội gây nên, người ta đang hô hào trở về nếp sống chung thủy, một vợ một chồng. Chứ còn lang bang hết cô này tới cô kia, không sớm thì muộn cũng sẽ rơi vào tình trạng liệt kháng nặng nề và trầm trọng. Ngày xưa người ta thường nói đến những chứng bệnh nguy hiểm như phong tình, hoa liễu, giang mai…Vi trùng “gồ nô”được phe chị em ta trao ban cho ta, để rồi bây giờ ta lại đem về tặng lại cho bà xã ta và gây nên hệ lụy đớn đau cho con cho cháu ta. Tuy nhiên, những chứng bệnh đã từng vang bóng một thời, đã từng làm mưa làm gió ấy, dường như đã chìm vào dĩ vãng, bởi vì hiện nay người ta đang ngán ngẩm trước cơn bệnh thế kỷ, cơn bệnh Sida vốn chưa có thuốc chữa và một trong những con đường lây nhiễm HIV, đó là quan hệ tình dục một cách bừa bãi. Nhận định thứ năm đó là khi ăn cơm, ta muốn ăn bao nhiêu cũng được và lại đỡ tốn tiền. Còn khi ăn phở, ta chỉ được ăn theo một chế độ nào đó và luôn phải…xùy tiền ra. Đúng thế, cuối tháng lĩnh lương, ta chỉ việc hân hoan đem về giao nộp cho bà xã, còn mọi sự lỉnh kỉnh khác như tính toán cộng trừ nhân chia…bà xã sẽ phải lo tất tật. Lúc bấy giờ ta có thể vểnh chòm râu cá chốt lên mà phán: Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện đời lên xuống anh hỏi làm gì. Hay rít một điếu thuốc lào rồi “quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Đến bữa, ta chỉ việc xơi, xơi bao nhiêu cũng được. Thậm chí xơi cho đến độ căng rốn cũng chẳng ai bảo sao. Trong khi đó, lỡ đèo bòng bồ nhí ta phải lo toan mọi sự từ A cho tới Z, từ nơi ăn cho tới chốn ở, từ những nhu cầu chính yếu của kiếp người cho tới cả những phụ tùng lỉnh kỉnh của đờn bà con gái. Tất cả đều lệ thuộc vào cái vấn đề “đầu tiên”. Nếu không có những thủ tục đầu tiên này, thì e rằng ta sẽ bị bồ nhí đá văng cái rụp. Và nếu ví ta yếu, thì đường ai người ấy đi, bởi vì tình nghĩa đôi ta chỉ có thế mà thôi. Tóm lại, khi không có tiền ta vẫn có thể về nhà ăn cơm, chứ đừng dại dột vác cái bản mặt tới tiệm phở. Hay nói cách khác, vì phở tốn tiền hơn cơm, nên ta chỉ có thể ăn phở khi ví ta đã căng phồng mà thôi. Phở làm cho ta tốn tiền hao bạc đã đành, mà nhiều lúc phở còn làm cho ta thân bại danh liệt. Không thiếu gì những ông tai to mặt lớn, chỉ vì nghe theo những lời đường mật của bồ nhí, hay chỉ vì không đủ khả năng cung phụng cho những nhu cầu của bồ nhí, nên đã can đảm ăn hối lộ, anh dũng biển thủ công quĩ, để rồi bây giờ âm thầm nằm trong nhà đá bóc lịch, “vắt chân lên trán” mà ngẫm nghĩ chuyện đời. Và sau cùng, nhận định thứ sáu đó là cơm thì ta phải ăn thường xuyên, còn phở thì không nhất thiết phải là như thế. Như trên gã đã xác quyết: Cơm chính là thức ăn thường xuyên, mỗi ngày ta đều phải dùng tới hai ba lần ở nhà. Còn phở thì khác, xuân thu nhị kỳ ta mới đến tiệm. Thậm chí có người cả đời vẫn chưa biết mùi phở là như thế nào. Cũng thế, bà xã ở cạnh ta hai mươi bốn trên hai mươi bốn, ngày cũng như đêm. Còn bồ nhí thì khác, chỉ những lúc ta rửng mỡ và thừa tiền, hay những lúc ta thất bại chua cay, bị đời đá lên đá xuống, ta mới tìm chỗ giải khuây để trút bầu tâm sự hay để trả thù cuộc đời đen bạc. Chính vì thế, ta có thể kết luận một cách mạnh mẽ như sau: Dù phở hấp dẫn hơn cơm, nhưng ta chỉ có thể ăn cơm trừ phở, chứ chẳng thể nào ăn phở trừ cơm. Đúng thế, nếu thử ăn phở dăm bữa liền, thế nào ta cũng cảm thấy xót ruột và nóng cả người, nóng âm ỉ từ trong lục phủ ngũ tạng, để rồi tìm về với cơm là món ăn truyền thống. Cũng vậy, sau những bước chân đi hoang, cặp kè với bồ nhí, thế nào cũng có lúc lương tâm thức giấc, ta bỗng nhớ tới vợ tới con. Ấy là gã chưa nói tới tình huống ta bất đắc dĩ phải ở ngoài vòng phủ sóng vì hết tiền, vì ốm đau hay vì thân bại danh liệt…Không sớm thì muộn, những ông chồng bạc bẽo ấy cũng sẽ ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Chả biết lúc bấy giờ bà xã có còn đủ khoan dung mà tha thứ cho hay không mà thôi. Ý thức được những tình huống não nùng và bi đát do phở gây nên, không chi bằng bây giờ , hỡi những ông chồng “yêu rấu”, ta hãy quyết tâm trở thành những ông xã….ngoan: Chồng em không thích ăn quà, Đi đâu cũng thích về nhà ăn cơm. Con bò trọn kiếp nhai rơm Chồng em trọn kiếp ăn cơm…ở nhà. Tới đây gã xin mượn mấy dòng thơ…thẩn của một tác giả tên là Linh Cơ, như một kết luận: Hạnh phúc thay đời ta có Cơm Những người chồng tốt được danh thơm, Đều nhờ Cơm cả, yêu Cơm lắm, Đi đâu xa cũng nhớ về Cơm.
Mấy ông hư chẳng thiết gì Cơm Ăn bánh trả tiền, Phở ngọt thơm, Đã “quen mui thấy mùi ăn mãi” Đầy bụng về nhà chán bỏ Cơm Mong ai cũng một dạ cùng Cơm Ăn mãi ngon lành, mãi ngọt thơm Cơm tẻ no, Phở cho chả thiết, Đi đâu xa cũng nhớ về Cơm Gã Siêu
Cách đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này: Có ba người cùng tôn GãSiêu 130
Cách đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này: Có ba người cùng tôn giáo, gồm một nhà truyền giáo, một anh tài xế lái xe đò và một bác nông dân có vợ và mười đứa con. Ba người đều thâm niên bốn mươi năm chức nghiệp, đã qua đời cùng một giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa, để xin vào thiên đàng. Ba người cùng tới một lúc, nên Thánh Phêrô mới nói: – Các anh hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước? Nhà Truyền Giáo nói: – Hai anh dành cho tôi vào trước được không? Anh tài xế và bác nông dân đều kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh cất tiếng cùng một lúc: – Chúng tôi xin nhường ngài vào trước. Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phêrô và chững chạc tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ trước Thiên Nhan và tâu: – Muôn lạy Chúa, con là nhà truyền giáo đã làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt bốn mươi năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên đàng trước. Chúa ngắm nhìn nhà truyền giáo với tấm lòng yêu thương dạt vào và rồi xuất khẩu thành thơ, Ngài phán: – Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha Con giảng giáo dân ngủ gật gà Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta. Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra. Anh tài xế nói với bác nông dân: – Bác nhường cho tui vào trước nhé vì tui thường chở bác đi đây đi đó. Bác nông dân gật đầu chấp nhận vào sau chót. Anh tài nhanh nhảu cúi đầu chào thánh Phêrô và tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ xuống, rồi ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu: – Muôn tâu lạy Chúa! Con làm tài xế xe đò, suốt bốn mươi năm con phục vụ đồng bào, chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên đàng sớm. Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười: – Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa kiện con vì bị thương dập mũi, trầy trán gì đó mà Cha chưa kịp xem hết. Cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán: – Xe đò chuyên chở khách đi xa Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi! Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta! Anh tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ. Đến lượt bác nông dân, bác rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì, thì làm sao vào nổi Thiên đàng, nên rất hồi hộp lo âu! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phêrô và nhỏ nhẹ thưa: – Bẩm ngài, con được phép vào chưa? Thánh Phêrô gật đầu và nói: – Con hãy vào trình diện Chúa đi. Bác nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa Thiên đàng cả trăm mét, bác đã quỳ xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu và khúm núm tâu: – Bẩm lạy Cha nhân từ! Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và mười đứa con, ban tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà thân yêu của Cha là con sung sướng lắm rồi. Cha muốn con làm bất cứ việc gì, con cũng xin vâng theo! Chúa nhìn bác nông dân một cách trìu mến và Ngài phán: – Con quả thực có công lớn. Rồi Ngài đọc mấy vần thơ chợt nghĩ ra: – Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy! Suốt bốn mươi năm con chịu nổi Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay. Từ hình ảnh bác nông dân âm thầm chu toàn những bổn phận của mình, gã bỗng nhớ tới mấy câu ca dao về đường tu, thì cũng có dăm bảy đường: – Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu… dòng. Là con nhà có đạo, chúng ta thường hiểu chữ tu là dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Lý tưởng ấy được thực hiện bằng hai cách, đó là tu triều và tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của từng dòng. Tuy nhiên, nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn nắn những sai lỗi, để trở thành một con người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đồng thời gia đình chính là môi trường thuận tiện để chúng ta thực hiện lý tưởng đời tu của mình. Vì thế, ngoài tu triều và tu dòng, chúng ta còn có một cách tu khác nữa, đó là tu nhà hay tu tại gia, nghĩa là cứ ở tại nhà, cứ sống trong gia đình của mình mà tu bằng cách sửa đổi những khuyết điểm và chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau. Các cụ ta ngày xưa đã từng nói: Phải tu thân trước đã, rồi sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Việc tu thân này tiên vàn phải được thực hiện ngay tại gia đình của mình, bởi vì nhiều khi chính những sai lỗi của chúng ta đã làm cho những người thân yêu buồn phiền, cuộc sống trở nên ngột ngạt và tình yêu đi dần tới chỗ rạn vỡ. Muốn được thương thì chúng ta cần phải trở nên một người thương được. Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Bởi đó, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Đang khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực, để bào chữa. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà nghiêm khắc với người khác. Đáng lý ra chúng ta phải rộng rãi với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình. Ngoài ra, gia đình còn là một xã hội thu nhỏ, trong đó chúng ta có được những mối liên hệ với nhau. Vì thế, việc tu nhà hay tu tại gia đòi buộc chúng ta phải chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình, để làm cho gia đình thực sự trở thành một mái ấm ngập tràn hạnh phúc. Trước hết, là vợ chồng chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận, trung thành và giúp đở lẫn nhau. Hiện nay, nền tảng gia đình đang bị lung lay tận gốc rễ và hôn nhân đang rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Số những đôi vợ chồng lôi nhau ra toà để ly dị mỗi ngày một gia tăng. Vậy phải làm thế nào để cứu vãn tình trạng đen tối này? Theo gã nghĩ: Cái qui luật muôn đời của tình yêu, chính là sự hy sinh. Thực vậy, thánh nữ Têrêsa đã bảo: Tình yêu chân thật phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Hãy cho tình yêu vào máy mà cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là tình yêu thứ thiệc, bằng không thì đó chỉ là một tình yêu dỏm mà thôi. Và tình yêu thứ thiệc này thì đáng giá bằng cả cuộc đời. Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy tình yêu và sự hy sinh luôn gắn bó mật thiết với nhau. Hy sinh mà không có tình yêu thì đó chỉ là những sự thừa thãi. Còn tình yêu mà vắng bóng hy sinh, thì đó chỉ là những lạm dụng và giả dối, như Tagore đã nói: Tại sao hoa kia lại tàn và suối kia lại cạn. Xin thưa, chỉ vì người ta đã hái hoa mà ép vào ngực, chỉ vì người ta đã đắp đập chặn suối. Nếu không biết vượt qua tính ích kỷ thì tình yêu cũng sẽ khô cạn và tàn héo như vậy. Hy sinh càng lớn sẽ làm cho tình yêu càng thêm nồng thắm. Và với một tình yêu nồng thắm người lại càng dễ chấp nhận những hy sinh to lớn hơn cho nhau và vì nhau. Đỉnh cao của hy sinh cũng như của tình yêu đó là dám chết cho người mình yêu. Thế nhưng, chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau cũng không phải là việc dễ dàng. Chuyện rằng: Một người đàn ông nọ đi xưng tội. Cha giải tội ra việc đền tội bằng cách hôn kính Thánh Giá ba lần. Ông ta bèn chạy về nhà, ôm chầm lấy bà xã và hôn lấy hôn để những ba lần, bởi vì ông ta thầm nghĩ: Bà xã chính là cây Thập Giá Chúa đã gửi vào cuộc đời của ông ta. Tiếp đến là cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Sống trong thời buổi “gạo châu củi quế”, vật giá leo thang đến chóng cả mặt, nên chu toàn được bổn phận sinh sản và nuôi dưỡng con cái không phải là chuyện dễ. Thảo nào mà nạn ngừa thai tràn lan khắp nơi và Việt Nam ta đứng hàng đầu về nạn phá thai. Cùng với những tiến bộ về những phương tiện truyền thông: Nào điện thoại di động, nào nối mạng internet…Nhiều bậc làm cha làm mẹ đã không theo kịp con cái, thành thử việc giáo dục đã gặp phải không ít những khó khăn. Tuy nhiên, đối với phần lớn người Việt Nam, con cái vẫn còn là một điều tốt lành đáng được mong ước. Trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là lắm con, nhiều cháu, lắm tiền, nhiều bạc. Sở dĩ như vậy vì con cái sẽ làm cho bầu khí gia đình được đầm ấm, được tươi vui như tục ngữ đã bảo: Con đàn như tre ấm bụi. Mặc dù vốn biết rằng: Con cái đôi lúc đã trở thành một gánh nặng, thế nhưng cha mẹ vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc trong lành và đơn giản nơi con cái. Thiếu con cái là thiếu ánh sáng nơi con mắt. Nhiều tiền mà không con thì vẫn chưa hẳn là giàu. Trái lại đông con mà ít tiền, thì vẫn chưa hẳn là nghèo. Hơn nữa, nhiều khi con cái chính là chiếc gạch nối, chính là nhịp cầu cảm thông giữa hai vợ chồng. Đáng lý ra hai vợ chồng đã cãi cọ, đánh lộn hay lôi nhau ra tòa xin ly dị, nhưng vì con cái, họ không nỡ làm như vậy. Vì con cái, họ quên đi và tha thứ cho nhau. Vì con cái, họ tìm cách hòa giải cùng nhau. Vì con cái, họ sẵn sàng chập nhận mọi hy sinh gian khổ. Bởi vì nhà không có tiếng cười của trẻ thơ, thì vắng lặng, buồn tẻ như một ngôi mộ chết. Ngoài ra, là con cái, chúng ta có bổn phận phải yêu mến, trọng kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ. Làm sao kể ra cho hết những khổ đau, những vất vả, những hy sinh cha mẹ đã phải chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nuôi dạy chúng ta nên người. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh người mẹ đã phải thức trắng nhiều đêm để canh giữ giấc ngủ cho đứa con, khi nó đau ốm. Chúng ta hãy nghĩ đến những giọt mồ hôi chảy xuống trên khuôn mặt người cha trong những giờ lao động cực nhọc ngoài đồng ruộng nóng cháy, trong hầm đá mệt mỏi, hay tại nhà máy ồn ào đinh tai nhức óc….tất cả những việc ấy để làm gì nếu không phải là để kiếm tiền về nuôi sống chúng ta và gia đình. Bởi đó, chúng ta mắc nợ cha mẹ nhiều lắm, không phải chỉ mắc nợ về tiền bạc vật chất, mà còn mắc nợ về tình yêu thương. Một khi đã mắc nợ về tình yêu thương thì chỉ có thể đáp trả lai bằng tình yêu thương mà thôi. Ca dao đã nhiều lần khuyên nhủ: – Dạy con, con chớ quên lời, Yêu cha mến mẹ suốt đời không quên. Cũng trong chiều hướng ấy, ca dao còn xác quyết: – Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu. Thuở xưa, có một anh chàng nghe nói về Phật, thì thích lắm, bèn quyết tâm đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp lên đường. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, và gian nguy hiểm trở, chàng ta vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả: Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng. Ngày kia, tại một sườn núi nọ, anh chàng tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm. Mừng quá, anh chàng khẩn khoản: – Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ dùm cho con với. Ông lão mĩm cười: – Ồ! Chỗ nào mà không có Phật. Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư? – Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả. Ông cụ cười ha hả: – Cháu ngốc thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư? – Thế thì Phật chết rồi sao? – Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không? – Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát mong. – Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé. Con hãy quay trở về và trên đường, nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái, thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy. Chàng trai hối hả quay trở về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa, bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: – Ôi Đức Phật yêu quí của con. Sau cùng, là anh chị em với nhau, chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau. Người ta thường bảo: Chuyến đò nên nghĩa, miếng trầu nên duyên. Trong cuộc sống, có những người chúng ta mới chỉ gặp nhau một vài lần, trao đổi với nhau đôi ba câu chuyện, thế mà tình nghĩa đã mặn nồng, huống nữa là đối với anh chị em ruột thịt, là những người cùng sống với chúng ta dưới một mái nhà, cùng chia sẻ với chúng ta những nỗi vui buồn, cũng như cùng có chung một dĩ vãng. Vì thế, chúng ta càng phải yêu thương nhau hơn. Hơn thế nữa, anh chị em còn có chung một ngồn gốc, được sinh ra bởi cùng một cha một mẹ, cùng mang trong mình cùng một dòng máu. Chính vì thế tục ngữ đã diễn tả: Một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Nếu chúng ta không yêu thương những người cận kề với chúng ta, nếu chúng ta không yêu thương chính thân xác chúng ta, chính máu huyết chúng ta, thì làm sao có thể yêu thương những kẻ xa lạ. Tuy nhiên, trong cuộc sống, chúng ta thấy không thiếu gì những người anh em với nhau, chỉ vì đồng tiền cắc bạc, hàng rào bờ dậu…đã đi tới chỗ giận hờn và thù oán, không còn thèm nhìn mặt nhau nữa. – Anh em khinh trước, làng nước khinh sau. Nếu anh em trong gia đình mà không bảo ban, đùm bọc được nhau, thì làm sao có thể khuyên nhủ và nêu gương cho những người chung quanh. Ông bố nọ trên giường hấp hối, đã gọi những người con của mình đến và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo: – Các con hãy bẻ đi. Ai nấy đều bẻ được chiếc đũa một cách dễ dàng. Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo: – Các con hãy bẻ đi. Ai nấy đều cố gắng hết mình, nghiến răng trợn mắt, vận dụng hết mọi nội công, mà cũng chẳng tài nào bẻ nổi bó đũa. Từ sự việc trên, ông đã khuyên nhủ: – Bố sắp sửa ra đi và trở về cùng ông bà tổ tiên, lời nói sau cùng bố muốn trối lại cho các con, đó là các con hãy yêu thương, đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau. Chính nhờ sự yêu thương, đoàn kết và đùm bọc ấy, các con sẽ tạo được sự hòa thuận giữa các con đã đành, mà hơn thế nữa, các con còn tạo được sức mạnh để không một ai có thể chèn ép, bóc lột các con được. Hình ảnh bó đũa cũng là hình ảnh mà mỗi người chúng ta cần phải khắc ghi. Nếu từ trước đến giờ, chúng ta đã có những tị hiềm, những giận hờn, thì hãy mau mắn xóa bỏ và làm hòa cùng nhau. Là những người anh chị em cùng một cha một mẹ, cùng một cội nguồn, chúng ta phải biết thực sự yêu thương, hoà thuận và giúp đở lẫn nhau, bởi vì: – Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. Để kết luận, gã xin mượn lại câu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ thứ 5 tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột. Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế đẩu trên một cái bàn, rồi leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói tiếp: – Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à. Gã Siêu
Cách đây mấy năm, cứ mỗi khi hè về, các đài truyền hình tại Việt Nam đều thi nhau trình chiếu bộ GãSiêu 131
Cách đây mấy năm, cứ mỗi khi hè về, các đài truyền hình tại Việt Nam đều thi nhau trình chiếu bộ phim “Tây Du Ký” để phục vụ quí vị con nít. Chính vì thế, sáng hôm nay, khi gã chuẩn bị đi chợ, thì đứa cháu con ông bác đến bên và năn nỉ ỉ ôi: Chú nhớ mua cho cháu chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không nhé. Chẳng là thấy bọn nhóc hàng xóm, đứa nào cũng trang bị cho mình một chiếc mặt nạ. Đứa thì đeo mặt nạ Đường Tăng. Đứa thì đeo mặt nạ Trư Bát Giới. Vì thế, đứa cháu gã nhất định đòi cho bằng được chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không. Ghé vô tiệm bán đồ chơi con nít, gã nhìn thấy đủ thứ mặt nạ, làm bằng giấy cũng như làm bằng nhựa, từ “Người nhện” cho đến con sư tử. Từ cô gái mắt to cho đến thằng quỉ dữ. Thôi thì hầm bà lằng. Cầm chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không, mang về cho đứa cháu mà bỗng dưng gã cảm thấy buồn rười rượi, bởi vì gã nghiệm rằng trong cuộc sống hiện nay có quá nhiều người đeo mặt nạ để đến với nhau. Thế nhưng, trước hết mặt nạ là gì? Mặt nạ là một thứ mặt giả, được làm bằng những chất liệu khác nhau, như “các tông”, nhựa dẻo, kim loại. Tùy theo công dụng của nó, mà chúng ta có được những thứ mặt nạ khác nhau. Trong quân đội, những người lính được trang bị chiếc mặt nạ chống hơi độc, khi tấn công vào những cao ốc hay những đường hầm bị coi là nguy hiểm. Tại thẩm mỹ viện, các bà các cô đến để chăm sóc sắc đẹp, cũng thường được các chuyên viên đắp cho một chiếc mặt nạ bằng kem, bằng bột, bằng dưa leo, bằng cà chua, bằng lòng trắng trứng gà, để tẩy và dưỡng da mặt. Tại bệnh viện, người ta cũng thường chụp vào mặt bệnh nhân một chiếc mặt nạ, để gây mê, hay để giúp cho bệnh nhân được thở dưỡng khí. Trong lãnh vực thể thao, những người thợ lặn được trang bị chiếc mặt nạ để có thể thở dưới nước. Hay những vận động viên đấu kiếm cũng được trang bị chiếc mặt nạ bằng sắt để phòng chống những tai nạn có thể xảy ra. Tuy nhiên, người ta thường hay dùng mặt nạ để che dấu bộ mặt thật của mình trong những lễ hội. Theo phong tục phương Tây, mặt nạ thường được sử dụng trong hai lễ hội chính yếu sau đây: Lễ hội thứ nhất là lễ hội giả trang, hay “Carnaval”, được tổ chức vào ngày thứ ba trước thứ tư lễ tro. Người Pháp gọi ngày thứ ba này là “thứ ba béo” (mardi gras). Trong ngày thứ ba béo, người ta mặc sức ăn uống, nhảy nhót, đeo mặt nạ và cải trang thành con người hay con vật mà mình muốn diễn tả. Lễ hội này chấm dứt vào lúc 12 giờ đêm, để rồi ngày Thứ Tư Lễ Tro, người ta sẽ ăn chay kiêng thịt, xức tro trên đầu, như dấu chỉ của cõi lòng sám hối ăn năn và chính thức bước vào mùa chay. Phải chăng đây là một sự bù lỗ cho những hy sinh hãm mình người ta thực hiện trong suốt bốn mươi ngày đêm trong mùa chay? Lễ hội thứ hai là lễ hội “Halloween”, được tổ chức vào tối ngày 31 tháng 10. Đây là một lễ hội dành riêng cho quí vị con nít. Buổi tối hôm ấy, bọn nhóc được hóa trang và mang mặt nạ quỉ dữ, đi tới từng nhà và người trong nhà thường phải cho bọn nhóc ấy bánh kẹo. Từ những sự việc kể trên, hai chữ “mặt nạ” được mang thêm một nghĩa bóng, đó là sự giả hình và gian dối. Chẳng hạn như khi chúng ta nói: Hãy lột mặt nạ những kẻ hắc ám. Nếu hiểu đeo mặt nạ là sống bằng sự giả hình và gian dối, thì có lẽ con số những kẻ đeo mặt nạ hơi bị nhiều trong xã hội rồi đấy. Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại “Lời nói của người bán cam” như sau: Ở Hàng Châu có người bán các thứ quả, khéo để dành cam, lâu ngày mà không ủng, vỏ vẫn đỏ hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc, đem ra chợ bán giá đắt, mà người ta lại tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về bóc ra, hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ hỏi người bán cam: Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả dối lắm! Người bán cam cười và nói: Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông kêu ca! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải gì một mình tôi? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương, oai vệ, hách dịch vô cùng! Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, mà bề trong chẳng như bông nát là gì? Ông không chịu xét những hạng người ấy, mà đi xét quả cam của tôi. Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới thác ra truyện bán cam để dạy người đời chăng? Vì vậy, bàn dân thiên hạ mới có câu thơ: – Trông em, anh tưởng sao mai, Biết rằng trong có như ngoài hay không ? – Nhác trông cứ tượng tô vàng, Nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa. Báo chí tại Việt Nam trong những ngày gần đây đã phanh phui biết bao nhiêu quan chức đã dùng bằng giả để leo lên ghế nọ ghế kia. Vào chợ mua sắm, chúng ta gặp phải biết bao nhiêu loại hàng giả. Nếu không tinh ý thì khó mà phân biệt được. Thậm chí người ta đã tổ chức cả một hội chợ tại Hà Nội đề trình bày những mẫu mã hàng thiệc và hàng giả. Bác nông dân mua chai thuốc diệt cỏ, mang về xịt trên ruộng đồng. Xịt xong cỏ không chết mà còn liên tục phát triển, thành thử bị thất thu. Thì ra đó chỉ là thuốc dổm. Có anh bạn quí từ xa ghé thăm, bèn vội chạy ra tiệm mua một chai rượu tây XO hẳn hoi để đãi khách. Thế nhưng, thoạt khi mở nắp, mùi cồn nồng nặc xông lên mũi. Hóa ra đó là hàng nhái. Đổ đi thì tiếc, mà uống vào thì nhức đầu. Tuy nhiên, điều bi đát hơn cả đó là người ta đến với nhau bằng những chiếc mặt nạ, người ta cư xử với nhau bằng sự giả dối, người ta luôn “đóng kịch” với nhau ở mọi nơi và trong mọi lúc. Sự gian dối và lường gạt dường như đã trở thành một nguyên tắc chỉ đạo, giúp chúng ta gặt hái những thành công trên đường đời. Trước hết là trong lãnh vực thương mại: Muốn mau kiếm lời, thì phải gian dối bằng mọi cách. Nào là cân thiếu và thước hụt. Nào là hàng giả và hàng nhái. Nào là nói thách và nói dối. Có nói thành không và không nói thành có. Buôn bán mà cứ thật thà như đếm, thì thà rằng dẹp tiệm đi còn hơn. Chính vì vậy, người xưa đã bảo: Thật thà như thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng. Tiếp đến là trong lãnh vực quân sự: Muốn mau chiến thắng thì làm sao phải lừa được kẻ địch. Gã nhớ không rõ lắm, hình như trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” có kể lại một sự việc như sau: Tào Tháo dẫn một đội quân hùng tấn công Gia Cát Lượng. Thấy lực lượng của mình vừa ít lại vừa yếu, Khổng Minh bèn dùng kế nghi binh. Ông buộc cành cây vào đuôi ngựa, rồi đánh cho ngựa phi nước đại, làm cho cát bụi tung bay mịt mù. Địch quân thấy vậy hoảng sợ chạy trốn và Khồng Minh đã chiến thắng một cách dễ dàng. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng thế. Việt Cộng tuy ít, nhưng dùng chiến thuật du kích, bất ngờ tấn công chỗ này chỗ khác. Rồi gây hoảng sợ bằng cách tung tin đồn thất thiệt, đã chiếm được tỉnh nọ tỉnh kia. Tạo hoang mang bằng cách bắn đọp đọp chỗ này vài tiếng, chỗ kia vài tiếng, ngụy trang máy cày thành chiến xa, lái đi ầm ầm trong đêm, làm cho tâm lý quân đội và người miền Nam bị chao đảo và hốt hoảng. Chính vì sự chao đảo và hốt hoảng này đã dẫn tới tình trạng co rúm và thua chạy, dù chẳng bị tấn công. Trong lãnh vực chính trị cũng thế: Để chạy đua vào những chức vụ quan trọng như tổng thống, dân biểu, nghị sĩ…các ứng cử viên đã tự đánh bóng mình bằng những hình ảnh đẹp đẽ và những lời tuyên bố đao to búa lớn thật nảy lửa. Nhưng sau khi đã an tọa trên chiếc ghế của mình, thì mọi sự vẫn như cũ. Dám ăn dám nói là chuyện đương nhiên, còn có dám làm hay không, thì việc này còn phải ”ngâm kíu” và xét lại. Người ta thường bảo: Nghề luật sư là nghề thường xuyên phải giả dối, thường xuyên phải đóng kịch. Chính một luật sư bên Âu châu đã phát biểu: Nghề diễn viên rất cần cho nghề luật sư. Khi ra tòa, nếu mô tả được đúng tình cảm định khoác cho mình, thì rất có ảnh hưởng đến người nghe, là bồi thẩm đoàn và ba tòa quan lớn: không giận mà làm như giận, không thương mà làm như thương, như vậy bảo đảm “chăm phần chăm” là sẽ thành công. Cũng vị luật sư này đã kết luận một cách chua chát: Đã là người thì ai mà lại chẳng đóng kịch. Cha mẹ đóng kịch trang nghiêm với con cái mà trong thâm tâm chưa chắc đã là trang nghiêm. Càng điêu luyện thì càng dễ thành công. Thực vậy, kinh nghiệm đời thường nhiều khi cho thấy: muốn thành công, thì đừng bao giờ nói ra ngoài miệng những gì mình suy nghĩ trong lòng. Dù trong lòng có ghét cay ghét đắng, thì ngoài miệng vẫn ngọt như mía lùi, vẫn bùi như lạc rang. Kinh nghiệm này cũng đã được tục ngữ ca dao Việt Nam diễn tả: Khẩu phật tâm xà. Miệng Nam mô, bụng bồ dao găm. Ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại mẩu chuyện mang tựa đề là “Ác ngầm” như sau: Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh rất lấy làm thích thú và đem lòng yêu thương người con gái ấy. Phu nhân là Trịnh Tu biết thế, chính mình cũng tỏ ra yêu mến người con gái ấy, có khi lại còn tỏ ra yêu mến hơn cả nhà vua nữa. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả. Vua khen: Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, nên cũng đem lòng yêu mến tân nhân của ta, thật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy. Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng: Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi nhà ngươi. Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì sẽ được vua yêu mến mãi đấy. Tân nhân nghe theo lời ấy, từ đó mỗi khi trông thấy vua, là che ngay cái mũi lại. Vua thấy thế, bảo với phu nhân rằng: Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao? Phu nhân thưa: Tôi không được rõ. Đợi vua cưỡng hỏi nữa, phu nhân mới thưa rằng: Tôi nghe đâu tân nhân có nói hơi vua khí nặng, rất lấy làm khó chịu. Vua phát giận bảo: À nếu thế thì xẻo cái mũi nó đi. Vua nói đoạn, thì một viên hầu cận cầm dao ra xẻo ngay cái mũi của tân nhân. Sở dĩ như vậy là vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng chực sẵn ở đấy trước, rằng: Hễ nghe vua phán gì, thì phải làm ngay lập tức. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh cụ thể để diễn tả về hạng người giả hình, đeo mặt nạ đạo đức. Nào là họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà góa. Nào là họ nói mà không làm, và nếu có làm thì cũng tìm cách kiếm chác cho mình một chút hào quang để nghênh ngang với đời. Nào là họ chịu khó tắm rửa cơ thể và lau chùi những đồ dùng, nhưng tâm hồn lại chất đầy tội ác. Nào là họ giống như mồ mả, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong chỉ toàn dòi bọ và xú khí…Và Ngài đã kết luận: Hãy nghe những lời họ nói, nhưng đừng làm theo những việc họ đã làm. Gã xin đưa ra một vài trường hợp người ta cư xử với nhau theo sự giả dối. Trước hết trong phạm vi gia đình, vợ chồng thường đeo mặt nạ đối với nhau: Có những anh chồng luôn tỏ yêu thương và chu toàn những bổn phận đối với vợ con, nhưng đồng thời vẫn cứ lăng nhăng lít nhít, hở một tí là đèo bòng bồ nhí. Chắc hẳn khi trở về gia đình, những anh chồng này phải đeo cái mặt nạ đạo mạo, mực thước. Nhưng khi đến với bồ nhí lại đeo cái mặt nạ hào hoa phong nhã. Tiếp đến trong phạm vi nhà trường, thày cô thường đeo mặt nạ đối với học trò của mình. Người Việt Nam chúng ta vốn có truyền thống “tôn sư trọng đạo”, quí mến những bậc thầy: Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Sở dĩ như vậy là do ảnh hưởng của Nho giáo. Thực vậy, đối với Nho giáo thì trên cõi đời này có ba hạng người chúng ta phải tỏ lòng trọng kính, đó là quân sư phụ, có nghĩa là vua thầy và cha. Ông thầy là biểu tượng của sự hiểu biết đã đành, mà còn là biểu tượng của tác phong đạo đức, xứng đáng được gọi là bậc mô phạm, làm khuôn mẫu cho bàn dân thiên hạ noi theo. Thế nhưng, trong mấy ngày qua báo chí tại Việt Nam đã phanh phui chuyện một ông thầy hiếp dâm học trò của mình là một nữ sinh lớp 12 tại Cần Thơ. Thậm chí một ông thầy khác ở Kiên Giang còn có hành vi đồi bại đối với sáu bảy em tiểu học của mình. Những ông thầy này, khi đứng trên bục gỗ để giảng dạy, hẳn cũng bệ vệ, oai phong lắm lắm, nhưng hành động của họ đã làm cho chiếc mặt nạ đạo đức ấy bị rơi rụng, để rồi họ hiện nguyên hình là những…con quỉ râu xanh! Để kết luận, gã xin kể lại vở kịch “Hầu Tước” của Albert Thompson. Vở kịch ấy có nội dung như thế này: Sau khi Đức Quốc Xã bị sụp đổ và Thế giới đại chiến lần thứ hai kết thúc, quân đội Đồng Minh đi lục soát trong các trai tập trung để tìm kiếm những nạn nhân khốn khổ và bất hạnh bị nhốt trong đó. Và họ đã gặp được một quả phụ còn sống sót. Chồng bà là một người Do Thái đã trở lại Công Giáo và đã bị thủ tiêu. Bà biết được rằng lúc phải ra đứng trước những họng súng thù địch, ông vẫn không ngừng cầu nguyện: Lạy Chúa, xin tha thứ cho họ. Thế nhưng, người con trai của bà không thể nào chịu đựng nổi cảnh thương tâm này. Oán giận nổi lên bừng bừng, anh ta đã nhào tới, cướp lấy một khẩu súng và điên cuồng nhả đạn vào đám mật vụ, làm cho một người trong bọn bị thương nặng. Tên mật vụ này, khi hấp hối trong bệnh viện, đã cho mời bà quả phụ đến để xin tha thứ, và rồi sau đó cả hai cùng đọc một kinh “Lạy Cha”, như dấu chỉ của sự hòa giải. Vở bi kịch này đã thành công và gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp mỗi khi trình diễn và đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả. Tuy nhiên, có một lần trình diễn, khi tới chỗ tên mật vụ và người góa phụ cùng đọc kinh “Lạy Cha”, thì diễn viên đóng vai tên mật vụ đang hấp hối bỗng dừng lại, nhất định không chịu đọc câu: Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Anh ta đứng phắt dậy, xua tay và nói lớn: Tất cả đều đóng kịch, đóng kịch hết. Mỗi ngày, vợ chồng, cha mẹ và con cái đều đọc kinh “Lạy Cha”, thế mà gia đình vẫn cứ lục đục và bất hòa, cơm chẳng lành và canh chẳng ngọt, thiếu điều muốn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau và cho chén dĩa bay ra ngoài sân. Phải chăng chúng ta cũng đang đóng kịch và đeo mặt nạ với nhau? Mỗi ngày có hàng triệu người đọc kinh “Lạy Cha” thế mà nhân loại vẫn sôi sục vì khủng bố, vì chiến tranh. Phải chăng người ta cũng đang đóng kịch và đeo mặt nạ với nhau? Hãy chấm dứt những thái độ đóng kịch và hãy vứt bỏ những chiếc mặt nạ giả nhân giả nghĩa, để đến với nhau bằng tất cả tấm lòng chân thành của mình. Gã Siêu
Trong một bài viết ngăn ngắn trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, Đoàn Văn Thường đã ghi lại sự nghiệp GãSiêu 132
Trong một bài viết ngăn ngắn trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, Đoàn Văn Thường đã ghi lại sự nghiệp của các chị vợ, đại khái tác giả viết như thế này: Vợ là bậc thầy của ta, vì các cụ ngày xưa đã từng bảo “bán tự vi sư”, nửa chữ cũng đã là thầy, huống hồ vợ đã dạy cho ta trọn cả một chữ…nhẫn! Thực vậy, sau khi lấy vợ, ta lập tức quen ngay với sự nhẫn nhục và chịu đựng. Nhiều bố, khi còn là giai tơ, tính tình nóng nảy hung dữ, thế mà vợ vào, bỗng trở nên hiền lành dễ bảo. Chỉ nguyên chuyện này mà thôi, vợ cũng xứng đáng được tôn phong lên hàng “sư mẫu”. Vợ là nhà xã hội học của ta, vì vợ dạy cho ta biết lao động là vinh quang, cụ thể qua việc nấu ăn, giặt tã, lau nhà, tắm con. Vợ là nhà đạo đức học của ta, vì vợ dạy cho ta biết yêu thương, đùm bọc, chia sẻ và quan tâm đến người khác, chẳng hạn như bố mẹ vợ, anh chị em vợ và bạn bè của vợ. Vợ là bác sĩ riêng của ta, vì vợ luôn nhắc nhở ta ăn cơm nhà và tránh phở đường phố, bởi vì phở dù ngon cũng chỉ ngoài da, cơm khê cũng thấm ruột già ruột non; cũng như không được bén mảng tới các quán xá vì thực phẩm ở đó mất vệ sinh, dễ nhiễm khuẩn lây bệnh.Vợ luôn cấm ta nhậu nhẹt, nhằm bảo vệ lá gan của ta khỏi bị u xơ, không nhiễm siêu vi B. Ăn ngủ theo đúng giờ giấc của đồng hồ sinh học, tránh xa xì trét, rất tốt cho sức khoẻ tinh thần lẫn thể xác. Nếu kể công đức của các chị vợ theo kiểu này, thì có mà đến tận thế cũng chẳng hết. Từ những sự việc trên, gã toan lấy tựa đề cho chuyện phiếm hôm nay là “dạy chồng”. Nhưng xem ra chữ “dạy” hơi bị nặng, làm mất mặt phe ta, vốn là các bậc tu mi nam tử, nên đành phải dùng chữ “luyện”, cho nó nhẹ nhàng, êm dịu hơn, nhưng nội dung cũng vẫn chỉ là một: Dạy con từ thuở còn thơ, luyện chồng từ thở bắt bồ làm quen. Chuyện dạy chồng hay luyện chồng không phải chỉ là chuyện mới, mà còn là chuyện cũ, cũ như trái đất vậy! Đúng thế, để chứng minh cho sự thật này, gã xin đưa ra hai mẩu truyện nho nhỏ, được trích từ sách “Cổ học Tinh hoa”. Mẩu truyện thứ nhất: Vợ của Hứa Doãn là Nguyễn Thị. Nhan sắc kém lắm. Khi Hứa Doãn mới lấy về, làm lễ cưới xong, trông thấy vợ quá xấu, muốn lập tức bỏ đi thẳng, bèn hỏi Nguyễn Thị rằng: Đàn bà có “tứ đức”, vậy nàng được mấy đức? Nguyễn Thị thưa: Thiếp đây chỉ kém có “dung” mà thôi. Rồi nàng liền hỏi: Kẻ sĩ có “bách hạnh”, dám hỏi chàng có mấy hạnh? Hứa Doãn trả lời: Ta có đủ cả bách hạnh. Nguyễn Thị nói: Trong bách hạnh thì đức là đầu. Chàng là người hiếu sắc, không hiếu đức, sao lại bảo là có đủ cả bách hạnh được? Hứa Doãn nghe nói thế, thì bèn lấy làm xấu hổ và kể từ đó, hai vợ chồng yêu mến, kính trọng nhau suốt cuộc đời. Và như vậy, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, chị vợ đã dạy cho anh chồng một bài học nhớ đời, cũng như đã luyện cho anh chồng chừa bỏ được tính háo sắc, khinh cơm trọng phở mà toan chạy theo bồ nhí. Truyện thứ hai: Án tử làm tể tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe theo hầu. Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc. Lúc chồng về, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng bèn hỏi: Tại làm sao? Nàng nói: Án Tử người gầy thấp, bé nhỏ, làm đến Tướng nước Tề, danh tiếng lừng lấy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông vẫn có ý chín chắn và khiêm nhường, như chưa bằng ai. Còn chàng, cao lớn đẫy đà, chỉ mới làm được một tên đánh xe tầm thường, hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng, lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng nữa. Nên thiếp xin từ giã chàng mà đi. Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ dạng vênh váo, chừa được cái tính nông nổ. Án Tử thấy thế, lấy làm lạ bèn hỏi. Tên đánh xe đem việc nhà kể lại. Án Tử bèn cất cho làm đại phu. Theo gã nghĩ: cũng chỉ với một vài lời sửa lưng nhẹ nhàng, lấy cái địa vị hèn hạ, cái dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ, mà sửa được tâm tính chồng và đem lại thanh danh cho chồng. Đúng là: Chồng khôn vợ được đi hài, vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông. Làm trai lấy được vợ hiền, như cầm đồng tiền mua được của ngon. LuyenChongChuyện dạy chồng hay luyện chồng không phải chỉ là chuyện bên Tàu, mà còn là chuyện bên ta, nhưng tuỳ theo từng địa phương, mà cách dạy và luyện ấy được biến đổi, thiên hình vạn trạng, đến quỷ thần cũng không lường nổi. Có những nơi, các chị vợ luôn dùng tới biện pháp mạnh, khiến cho các anh chồng khiếp bạc cả con mắt: Ai về Bình Định mà coi, con gái Bình Định cầm roi dạy chồng. Một anh bợm nhậu đã kể lại câu chuyện cá biệt của mình một cách công khai trên báo chí về cách dạy và luyện của chị vợ mang tính cách bạo lực: Chuyện xảy ra hơn 10 tháng nay, bỗng một ngày khi tỉnh rượu, tôi thấy mình bị trói, khắp thân người ê ẩm. Tôi kêu lên. Hai đứa con lớn chạy vô bảo: Má đi chợ rồi, để con mở trói cho ba. Qua hai đứa con, tôi mới biết mình bị vợ trói và đánh. Ban trưa cô ấy về, rồi hất hàm mà bảo: Ông chừa chưa? Từ nay trở đi, nếu ông còn nhậu và la lối, tôi sẽ xử với ông như vậy đó… (Trần Văn Tiệm, Long An). Có những nơi, các chị vợ sử dụng biện pháp “cấm vận”, tuy nhẹ nhàng, nhưng cũng đủ làm cho các anh chồng… cạch đến già: chồng bát, chồng đĩa, chồng sứ, chồng sành, chồng ở chẳng lành, chồng ra bờ tre! Người ta thường bảo: Nhân vô thập toàn. Phàm đã là người, thì ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Anh chồng cũng như chị vợ. Chẳng ai là một người hoàn toàn trên cõi đời này cả. Về những sai lỗi khuyết điểm của anh chồng, kể ra thì cũng khá nhiều, nào là đầu óc gia trưởng, chồng chúa vợ tôi, coi vợ chả là cái đinh gì hết. Vợ thì nhất nhất phải tuyệt đối vâng lời chồng, như chủ trương của Khổng Tử: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì vâng lời cha, đi lập gia đình thì vâng lời chồng, chồng chết thì vâng lời con. Nào là thói trăng hoa, thích phở hơn cơm, đèo bòng bồ nhí. Nào là tật rượu chè say xỉn, mê nhậu hơn mê vợ. – Chồng em nó chẳng ra gì, Tổ tôm sóc đĩa nó thì chơi hoang. Nói ra xấu thiếp, hổ chàng, Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà. Riêng hôm nay, gã muốn đề cập tới một chứng bệnh mà nhiều chị vợ vốn thường hay ca cẩm, than trách về anh chồng của mình, đó là chứng bệnh…lười. Về chứng bệnh này, ca dao đã diễn tả: – Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Hay như Tú Xương cũng đã viết: – Việc nhà phó mặc cho bu nó, Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh. Nếu chịu khó phân tích một chút, gã nhận thấy không hẳn ông trời sinh ra hai loại đàn ông, một loại chăm và một loại lười. Bằng chứng là có những anh chồng, khi còn ở với bu thì chăm, mà lấy vợ rồi thì bỗng dưng lười. Có những anh chồng trong thời gian bồ bịch với nhau thì chăm, nhưng một khi đã rước nàng về dinh thì bỗng dưng cũng lười. Có những anh chồng ở cơ quan với sếp thì chăm, mà về nhà ở với vợ thì cũng lại bỗng dưng lười…Như vậy, phải chăng chị vợ đã góp một phần không nhỏ vào chứng bệnh lười của anh chồng? Tuy nhiên, để chữa tận căn, theo gã nghĩ có hai việc chị vợ cần phải làm ngay.
Việc thứ nhất là phải xoá bỏ những thành kiến của mình. Thực vậy, nhiều chị vợ vốn nghĩ rằng: Việc nhà là lãnh vực riêng tư của phe đờn bà con gái, anh chồng không được xớ rớ tới. Chị vợ rất sợ bị mang tiếng là hư, là đoảng, khi bàn dân thiên hạ nhìn thấy anh chồng của mình thổi cơm, rửa bát, quét nhà. Hơn thế nữa, nhiều chị vợ còn cho rằng đó là lãnh vực độc quyền và chỉ có mình mới làm được mà thôi. Nếu “bà” không ra tay “cứu khốn phò nguy”, quán xuyến trong ngoài, thì cửa nhà sẽ ngập chìm trong nhơ bẩn, mất trật tự, vô tổ chức và mọi người sẽ bị chết đói. Mặc dù luôn kêu than rằng mình đầu tắt mặt tối, vất vả từ sáng cho đến tận khuya, mệt đứ đừ không kịp thở. Nhưng nếu anh chồng muốn chia sẻ đỡ đần, thì chị lại không ưng, bởi vì dưới mắt chị anh chồng chỉ là tay “hậu đậu”, trói gà không chặt, đụng đâu hỏng đó. Nếu anh chồng có lau nhà, thì chị sẽ phải lau lại. Nếu anh chồng có rửa bát, thì chị cũng sẽ phải rửa lại. Nếu anh chồng có giặt quần áo, thì chị lại cũng sẽ phải giặt lại. Những chị vợ này quên rằng các công việc trên bọn đờn ông con giai đều biết làm, thậm chí còn làm một cách xuất sắc. Bằng chứng là những tay đầu bếp giỏi nhất đều là đờn ông, những bác thợ may khéo nhất cũng là đờn ông và những chú thợ uốn tóc đẹp nhất cũng lại là đờn ông tuốt. Và anh con giai nào đã đi lính, thì đều biết rằng trong suốt thời gian ở quân trường, mình đều phải tự làm mọi việc kể trên mà chẳng cần tới một bàn tay phụ nữ nào giúp đỡ cả. Giày vớ không bóng loáng, áo quần không thẳng ly, giường chiếu không phẳng phiu, thì thế nào cũng bị phạt, một trăm cái hít đất là ít! Cũng có những chị vợ nghĩ rằng: Nếu mình không chịu khó cưng chiều như thế, thì e rằng anh chồng sẽ đi tìm sự cưng chiều ở một địa chỉ khác ngoài luồng. Những chị ấy quên rằng vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, anh chồng đã mê cái bản thân chị, hay mê cái nồi niêu xoong chảo, cái chổi cùn rế rách của chị? Bây giờ được cưng chiều, anh chồng chỉ cần thêm một tí gia vị, củ hành củ tỏi, là những lời khen ngợi, thế là chị mát lòng mát ruột, sẵn sàng làm tất tật mọi sự, đúng là “khéo mồm miệng, đỡ tay chân”. Rồi cứ thế, cứ thế mà tiến, cho đến lúc chị “ngộ” ra rằng mình bỗng già trước tuổi, tóc tai bù xù, áo quần xốc xếch, chẳng còn hình tượng người ta nữa, trong khi đó anh chồng lại đang tung tăng ngoài vòng phủ sóng, thì e rằng đã quá muộn!
Việc thứ hai là đưa ra một chương trình “luyện” chồng. Trước hết, chị vợ cần phải giúp cho anh chồng xác tín rằng làm việc nhà sẽ đem lại niềm vui và nhất là có lợi cho sức khoẻ. Hoạt động tay chân sẽ làm cho “thùng nước lèo” của anh chồng vơi giảm, nhờ đó mà kéo dài tuổi thọ, bởi vì vòng bụng càng to, thì vòng đời càng ngắn. Tiếp đến là chị vợ cần phải đưa ra một chương trình cụ thể, mang tính cách tiệm tiến, từng giai đoạn, từ việc dễ tới việc khó, để anh chồng thích thú thực hiện, không nản lòng thất vọng. Gã xin mượn tạm cái chương trình luyện chồng của chị Thu Nga, được đăng trên Phụ Nữ Chủ Nhật số ra ngày 16.8.2009 như sau: Chồng chị là con út và cũng là con trai duy nhất trong một gia đình có đến chín cô con gái, nên anh được mọi người hoan hỉ chào đón, và cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Thế là chị phải bắt tay vào công cuộc “cải tạo” anh ngay lập tức. Đầu tiên, những việc dao cưa kìm búa của đờn ông, dứt khoát phải thuộc về anh. Hai đứa ở trọ, căn phòng bé xíu, điện đóm chập chờn, nên lắm thứ hư hỏng. Anh quen thói công tử, nhất nhất việc gì cũng gọi thợ. Chị mặc anh muốn gọi ai thì gọi, nhưng tiền công thì anh phải tự thanh toán. Lương tháng nộp đủ cho chị, nên mấy khoản chi thêm này làm anh héo hon. Đó là chưa kể mỗi lần gọi được ông thợ cũng nhiêu khê. Rốt cuộc, anh đành tự thân vận động, đương nhiên là với sự trợ giúp của chị. Thắng lợi bước một, chị rón rén tiếp bước hai: Tập cho anh làm việc nhà. Hai vợ chồng son, cơm nước đơn giản, rửa có vài cái chén chứ có gì đâu mà đùn đẩy. Nhưng vì muốn “luyện” anh, nên chị phải giở bài “em mệt” để nhờ vả. Năm lần bảy lượt, anh nhăn nhó, nhưng cũng miễn cưỡng động tay động chân. Anh làm xong, bao giờ chị cũng nhiệt tình cám ơn, như thể anh là đấng phu quân hào hoa nhất trên đời. Cùng với độc chiêu đó, chị dần dà tập cho anh phơi quần áo, lau nhà. “Ăn hiếp” anh như vậy, chứ chị cũng biết giữ sĩ diện cho anh. Mỗi lần có khách ở quê ra, chị lại đóng vai thục nữ ngoan hiền, chăm lo tất cả, để anh rảnh rang ngồi xem tivi và tiếp chuyện khách. Nhưng anh theo thói quen, vẫn cứ nhào vô phụ giúp vợ. Có bữa má chồng lên chơi, mắt tròn mắt dẹt nhìn ông con trai cưng hì hụi lau nhà, bà buông lời mát mẻ: Mày cưng vợ mày dữ ha! Chị sợ điếng người, trong khi anh vẫn tỉnh bơ ôm lấy má: Nịnh vợ mới có cơm ăn chứ má! Má cười cho qua chuyện, chứ trong bụng chắc xót xa cho ông con dữ lắm. So với ngày mới cưới, giờ thì anh đã “lên đai” lắm rồi. Chuyện phụ giúp vợ dọn nhà cửa hay chăm sóc con cái chỉ là chuyện nhỏ. Thỉnh thoảng chị lại trêu: Dạy con từ thuở còn thơ, dạy chồng từ thuở bơ vơ mới về. Anh liền vênh mặt: Nam nhi chi chí, sá gì mấy việc vặt của đờn bà. Thương vợ thì giúp, chứ còn khuya mới dạy được thằng này đấy nhé! Hãy kiên nhẫn trong sự nghiệp luyện chồng, bởi vì mưa dầm thấm đất, lạt mềm buộc chặt. Với chiến thuật này, dù anh chồng có lười biếng, muốn trốn việc nhà, thì cũng khó bề tẩu thoát. Tới lúc đó, chị vợ thế nào cũng được bàn dân thiên hạ tấm tắc ngợi khen vì đã thành công lớn trong việc “nuôi chồng khoẻ, dạy chồng… ngoan”! Gã Siêu
Cách đây mấy bữa, gã mới đọc được một mẩu chuyện như sau: Dọc theo triền núi Trường Sơn, có GãSiêu 133
Cách đây mấy bữa, gã mới đọc được một mẩu chuyện như sau: Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ cổ từ lâu đời, trên tấm bia có khắc dòng chữ: Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người. Đây là câu nói của Hy Thanh, người đang bị vùi sâu dưới lòng đất lạnh. Nhưng tại sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ bia của chàng? Sự việc đại khái như thế này: Thời bấy giờ, Hy Thanh căm cụi chịu khó đi học nghề tìm mạch nước. Thấy vậy, bạn bè đều khinh chê: Dưới đất lúc nào mà chẳng có nước, cần chi phải học với hành. Còn gia đình thì nguyền rủa: Học làm gì cái nghề vô tích sự ấy, đi đâu thì đi. Vì tự ái, Hy Thanh đã bỏ nhà ra đi. Ban ngày chàng vất vả kiếm sống, ban đêm tìm đến nhà chùa xin ngủ nhờ, cắn răng chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề”vô tích sự” ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, mọi giếng nước đều khô cạn, nhiều người đã chết vì khát. Lúc bấy giờ, người ta chợt nhớ đến chàng và chạy tới để cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước ngầm, rồi đào bới và nước đã vọt lên, chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ khắp bốn phương hay tin bèn kéo nhau đến xin uống. Họ vui mừng và không tiếc lời ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì bị khát lâu ngày, đã uống quá độ, nên lăn đùng ra chết. Và thế là người ta quay phắt lại một trăm tám mươi độ, lên tiếng mạt sát chàng thậm tệ, nhưng vẫn chịu khó uống nước mà chàng đã khơi lên. Đám người có thân nhân bị chết, bèn xúm lại, đánh đập chàng không thương tiếc. Và rồi trước khi chết, chàng đã nói: Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người. Câu nói này đã làm cho gã phải băn khoăn, thiếu điều muốn “vắt chân lên trán” mà suy gẫm đến nỗi “đêm quên ăn, ngày quên ngủ”. Và giờ đây gã xin chia sẻ cùng bàn dân thiên hạ những tâm tự vụn vặt, không đầu không đuôi, chẳng ra ngô mà cũng chẳng ra khoai của gã.
Vế thứ nhất: Tôi thương người. Nhìn vào con người, gã thấy con người chúng ta thật là dễ thương và cũng thật là đáng thương. Trước hết, con người thật là dễ thương. Đúng thế, ở vào bất cứ thời điểm nào, con người cũng đều mang lấy một vẻ đẹp cho riêng mình. Giống như khi nhìn cảnh bình minh, gã thấy được vẻ đẹp của buổi sáng rạng đông, còn khi ngắm cảnh hoàng hôn, gã cũng thấy được vẻ đẹp của buổi chiều tà. Mỗi cảnh có nét đặc sắc riêng của nó. Giống như khi nhìn chiếc mầm non, thì mầm non có vẻ đẹp riêng, còn khi ngắm một cành cây sai trái, thì cành cây sai trái cũng có vẻ đẹp riêng. Mỗi loại, mỗi thứ đều có một giá trị của nó. Cũng vậy, mỗi chặng đường, mỗi giai đoạn, mỗi lứa tuổi đều có một giá trị và một vẻ đẹp riêng của mình. Tiên vàn là tuổi thơ. Vẻ đẹp của lứa tuổi này là vẻ đẹp của đơn sơ và trong trắng. Một em bé đẹp từ ánh mắt long lanh đến nụ cươi hồn nhiên. Thảo nào mà người ta gọi tuổi này là tuổi thiên thần. Tiếp đến là tuổi choai choai. Vẻ đẹp của lứa tuồi này là vẻ đẹp của phát triển, đang chập chững làm người…nhớn, vì bắt đầu biết suy tư và đôi lúc cũng ra dáng ông cụ non. Vẻ đẹp của một chiếc lá xanh, sau khi đã thoát khỏi tình trạng mầm và chồi, nhưng cũng chưa quá lớn để gánh lấy trách nhiệm của cuộc sống, nên rất cần được chăm sóc. Thảo nào mà người ta đã gọi tuổi này là tuổi trăng tròn, tuổi đôi tám, tuồi đưa duyên, tuổi học trò, tuổi ô mai. Rồi sau là tuổi trưởng thành. Vẻ đẹp của lứa tuổi này là vẻ đẹp của lao động và bươn chải, vẻ đẹp của hăng say và nhiệt thành. vẻ đẹp của thành công và chiến thắng. Cuối cùng là tuổi già. Vẻ đẹp của lứa tuổi này là vẻ đẹp của khôn ngoan và dày dạn, vẻ đẹp của kinh nghiệm và từng trải, như tục ngữ đã diễn tả: Cây già tốt lõi. Gừng và quế, càng già càng cay. Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Sự phân chia về lứa tuổi là như thế, còn sự phân chia về giới tính lại càng tuyệt vời hơn nữa. Phái nam có vẻ đẹp của phái nam, đó là vẻ đẹp của bắp thịt và sức mạnh, vẻ đẹp của suy tư và quyết định, vẻ đẹp của một anh gà trống. Còn phái nữ có vẻ đẹp của phái nữ, đó là vẻ đẹp của dịu hiền và mềm mại, vẻ đẹp của tế nhị và yêu thương, vẻ đẹp của một chị gà mái. Nói về vẻ đẹp của phái nữ, xem ra cũng bằng thừa, giống như “giảng cho các đấng các bậc, giải tội cho các sơ các dì, và bắt rận cho chó vậy, bởi vì từ ngàn xưa cho tới ngày hôm nay, các nàng vốn được gọi là phái đẹp rồi cơ mà. Mà các nàng cũng xứng đáng mang “tước hiệu” ấy, bởi vì các nàng quả thực là rất đẹp với những đường cong của đồi núi: Em đẹp bàn tay ngón thon thon, Em xinh đôi má nắng hoe tròn. Vì đẹp như thế, nên các nàng cũng rất dễ thương: Một thương tóc bỏ đuôi gà, hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Mới chỉ nhìn sơ qua cái hình dong, gã đã thấy con người thật là dễ thương, còn nếu xét tới cái bản tính, thì con người lại càng dễ thương hơn nữa. Thực vậy, theo Khổng tử thì “nhân chi sơ tính bổn thiện”, con người thuở ban đầu vốn tốt lành, nhưng rồi dần dần trở nên xấu xa do ảnh hưởng của xã hội và những người chung quanh. Còn theo Kitô giáo, Thiên Chúa dựng nên con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi hơi vào lỗ mũi, qua đó trao ban cho con người sự sống cùng với một tấm linh hồn. Vào cái thuở ban đầu ấy, con người được Thiên Chúa đặt vào vườn địa đàng, sống trong tình yêu thương thân mật với Thiên Chúa. Lúc bấy giờ, con người cũng thật tốt lành vì chưa phạm tội, nên cũng rất dễ thương dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Không những chỉ dễ thương, mà con người còn thật là đáng thương nữa. Thực vậy, từng giây và từng phút trên mặt đất này chiến tranh cùng vơí biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn đã xảy ra, khiến cho rất nhiều người lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, và nỗi bất hạnh của họ dường như chẳng có cơ may được giải quyết, thì cũng đủ để thấy được rằng: Con người thật là đáng thương. Nếu có dịp ghé thăm các bệnh viện, ở đó biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn với đủ mọi chứng bệnh. Họ đớn đau trong tuyệt vọng, khi các bác sĩ đành phải bó tay vì không còn phương cách trị liệu nào khác, thì cũng đủ để thấy được rằng: Con người thật là đáng thương. Cũng từng giây và từng phút, cái chết đã cướp đi sinh mạng của biết bao nhiêu người, để lại cảnh tang tóc cho những người thân yêu còn ở lại. Cứ nhìn những giải khăn xô buộc hờ hững trên mái đầu xanh của người vợ trẻ và những đứa con thơ, thì cũng đủ để thấy được rằng: Con người thật là đáng thương.
Vế thứ hai: Nhưng rất sợ lòng người. Vấn đề ở đây đó là phải xác định xem “lòng” là cái gì khiến chúng ta phải sợ hãi? Đối với người Việt Nam, trong cuộc sống “ăn” là một vấn đề thật quan trọng, bởi vì có thực mới vực được đạo. Chẳng thế mà người ta đã phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, vất vả ngược xuôi cũng chỉ để tìm chén cơm manh áo, bảo đảm những nhu cầu vật chất cho bản thân và gia đình. Nỗi băn khoăn lo lắng hầu như của mọi người, đó là nỗi lo lắng về cơm áo gạo tiền. Vấn đề ăn chiếm một chỗ đứng quan trọng, nên ngôn ngữ Việt Nam thật phong phú để diễn tả động tác này. Khi kính cẩn người trên thì bảo: Mời, xơi. Khi vui vẻ với bè bạn thì bảo: Nhậu, chén, lai rai. Khi bực bội với kẻ dưới thì bảo: Đớp, hốc. Mở cuốn Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức, gã thấy nhiều chữ được ghép với tiếng ăn, như ăn giỗ, ăn cưới, ăn chay. Và cũng còn rất nhiều tiếng ăn khác chẳng liên quan gì tới miệng lưỡi, như ăn đòn, ăn cướp, ăn quịt… Tổng cộng, gã đếm được cả thảy 173 tiếng. Vì ăn là một trong những sinh hoạt chính yếu của con người, phải ăn thì mới sống, nên người Việt Nam thường nhấn mạnh đến bụng, dạ, lòng… Trong khi người tây phương nhấn mạnh đến trái tim và tâm hồn. Cũng theo Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức, thì: Dạ là cái bao tử. Bụng là phần dưới của thân mình, gồm bao tử, gan và lá lách. Còn lòng thì gồm các bộ phận trong ngực và bụng. Nơi gã đang ở, để tỏ lòng kính trọng ai, thì khi làm thịt heo, người ta thường biếu cho người ấy bộ lòng chay gồm quả tim, rồi một ít gan, một ít lá lách…Khi xơi món lòng lợn tiết canh, thì không phải chỉ có dồi, ruột non mà còn có cả tim gan phèo phổi. Hay như tục ngữ cũng bảo: Đẻ con chẳng dạy chẳng răn. Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng. Tuy nhiên chữ lòng cũng như chữ bụng, chữ dạ còn được dùng để ám chỉ tính tình, tình cảm và nhất là ý muốn của mỗi người. Thực vậy, ý muốn và sự tự do chính là một qùa tặng tuyệt vời Thiên Chúa đã trao ban cho con người và làm cho con người trở nên cao cả. Một ông vua đầy uy quyền cũng không thể bắt gã làm điều gã không muốn. Thậm chí ngay cả Thiên Chúa cũng đành phải chào thua trước sự tự do của con người, như lời ông thánh Âu Cu Tinh đã viết: Ngài sẽ không thể cứu chuộc tôi nếu như chính bản thân tôi lại không muốn. Ý muốn và sự tự do làm cho con người trở nên cao cả, nhưng đồng thời cũng có thể biến con người thành nguy hiểm và dễ sợ. Nếu không biết điều khiển và quản lý chặt chẽ, nó sẽ đọng lại, kết tủa và hóa kiếp con người thành một con thú hoang. Đây là điều mà các vị tiền bối đã diễn tả: Con người vừa có thể là một thượng đế, lại vừa có thể là một con vật. Trong mỗi con người đều có tiềm ẩn một con thú hoang. Từ ý muốn, hay nói một cách cụ thể hơn, từ cái lòng của mình mà phát sinh ra những hành động. Bởi vì: Tư tưởng thì hướng dẫn cho hành động, và lòng đầy thì mới tràn ra ngoài. Cái lòng mà đã tốt, thì thường phát sinh ra những hành động tốt. Còn cái lòng mà đã xấu, thì cũng thường phát sinh ra những hành động xấu. Do ảnh hưởng của tội lỗi, cũng như do ảnh hưởng từ bên ngoài, mà cái “tính bản thiện” vốn có ngay từ đầu dần dần bị mai một và lòng người trở nên nham hiểm, cũng như luôn hướng chiều về đàng xấu, đàng trái: Sông sâu còn có người dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chính Đức Kitô cũng đã có lần dạy: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Ai có tai nghe thì nghe! Và rồi Ngài đã cắt nghĩa cho các môn đệ được rõ: Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài. Còn cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế. Quả là một lời giảng dạy tuyệt vời, xác định được nguồn gốc của mọi tội ác chính là cõi lòng con người. Gã còn nhớ ngày xưa còn bé, khi học giáo lý có một câu như sau: Hỏi: Tội bởi đâu mà ra? Thưa: Tội thì bởi trong lòng mà ra. Cõi lòng là nơi chất chứa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, cõi lòng chính là hang ổ của tội ác. Thảo nào mà bàn dân thiên hạ đều rất sợ lòng người. Trong cõi lòng của con người, thì ý muốn ngự trị như một bà hoàng. Chính ý muốn xác định hay đưa ra mục đích của việc làm. Và chính cái mục đích ấy phần nào biến đổi việc làm của chúng ta trở nên xấu. Một việc tự bản chất là xấu, thì ở mọi nơi, trong mọi lúc và với bất kỳ mục đích nào, mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực, xấu vẫn là xấu mà thôi, bởi vì muc đích không thể nào biện minh cho hành động. Chẳng hạn ăn trộm là một việc tự bản chất là xấu, thì dù gã có đi ăn trộm để giúp đỡ người nghèo, thì hành động ăn trộm của gã vẫn cứ xấu như thường. Trong khi đó, một hành động tốt nhưng vì mục đích hay ý hướng xấu, thì cũng sẽ trở nên xấu, hay ít nữa cũng bị mất cái phẩm chất tốt ấy đi. Chẳng hạn gã làm phúc bố thí nhưng cốt để cho người ta khen ngợi, thì việc làm phúc bố thí ấy đã bị mất đi rất nhiều giá trị của nó. Và như vậy, cái ý muốn cũng như cái ý hướng của cõi lòng quả thật cũng rất là… đáng sợ. Tuy nhiên, gã còn nhận thấy một sự nguy hiểm khác nữa, đó là thói giả hình, bên ngoài thi tốt đẹp, nhưng cái tốt đẹp bên ngoài ấy chỉ nhằm che lấp những ý đồ đen tối bên trong, như mồ mả bên ngoài quét vôi trắng bóc, nhưng bên trong lại đầy giòi bọ cùng mọi thứ xú khí. Đây là hạng người mà cha ông chúng ta đã gọi là hạng “khẩu Phật tâm xà”, “miệng Na mô bụng bồ dao găm”. Ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Ca dao cũng đã diễn tả một cách rất thú vị về họ: Na mô, một bồ dao găm. một trăm con chó, một lọ mắm tôm, một ôm rau húng, một thúng rau răm… Na mô, một bồ dao găm, một trăm giáo mác, ột vác dao bầu, một xâu thịt chó… Đây mới chính là điều làm cho gã phải khiếp sợ. Khiếp sợ đến phát run lên cầm cập, bởi vì mình chẳng còn phân biệt được lành và dữ, tốt và xấu, đồng thời còn có nguy cơ bị sập bẫy bất cứ lúc nào. Thế nhưng, làm sao có thể tách biệt được cái hình dong bên ngoài và cái cõi lòng bên trong, bởi vì cả hai gắn bó mật thiết với nhau và làm thành một người. Vì thế, điều gay go nhất, đó là làm sao có thể chung sống hòa bình với những kẻ có lòng dạ độc ác. Và hơn thế nữa, làm sao có thể hoán cải được những kẻ “lòng chim dạ chó” trở nên những người tốt lành. Bởi vì, như lời ca của một bài hát mà thỉnh thoảng gã cũng vẫn ngâm nga: Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai. Một khi đã cảm hóa được lòng người thì đâu còn phải sợ hãi nữa. Gã Siêu -------------------------------
Lâu rồi, gã có đọc một bài viết, hình như của Bs Phạm Hồng Quang trên báo Tuổi Trẻ Cười thì GãSiêu 134
Lâu rồi, gã có đọc một bài viết, hình như của Bs Phạm Hồng Quang trên báo Tuổi Trẻ Cười thì phải? Bài viết mang tựa đề “To và nhỏ”, đại khái như thế này:
“Ở một đất nước rất nhỏ, có một thủ đô rất to. Trong thủ đô rất to, có những con đường rất nhỏ. Trên những con đường rất nhỏ, có những biệt thự rất to. Những biệt thự rất to, toàn của các cô vợ nhỏ. Các cô vợ nhỏ là của các ông quan rất to. Các ông quan rất to, có những chiếc cặp rất nhỏ. Trong những chiếc cặp rất nhỏ, có các dự án rất to. Các dự án rất to, nhưng mang lại hiệu quả rất nhỏ. Hiệu quả rất nhỏ, nhưng thất thoát rất to. Thất thoát rất to, nhưng tìm ra rất nhỏ. Tìm ra rất nhỏ, nhưng xử lại rất to. Xử rất to, nhưng kết quả rất nhỏ… Tiếp nối bài viết trên, hôm nay gã cũng muốn tán một chút về đề tài to và nhỏ. Ngày xưa, dọc theo quãng đường từ thác Prenn lên Đàlạt, gã thấy bên vệ đường có nhiều tấm bảng gỗ màu xanh với những hàng chữ, đại khái như: Phòng cháy hơn chữa cháy. Lửa cháy rừng điêu tàn. Thực vậy, chỉ cần một mẩu thuốc lá của một du khách bất cẩn ném xuống, là có thể tạo nên một đám cháy lớn, thiêu huỷ cả một cánh rừng, bởi vì ước vọng của tàn lửa là đốt cháy và đốt cháy không ngừng. Một đám cháy lớn đã khởi đi từ một tàn lửa nhỏ. Phải chăng đó cũng chính là quy luật của cuộc sống. Phàm đã là người sống trong cuộc đời, thì ai cũng ước mơ. Và ước mơ nào thì cũng tốt đẹp và hoành tráng. Tuy nhiên, người ta lại thường hay quên mất rằng: Để ước mơ tốt đẹp và hoành tráng ấy trở thành sự thật, cần phải được bắt đầu bằng những việc nhỏ. Bình thường, đời người là một chuỗi những việc nhỏ đan chen vào nhau. Nếu tấm vải tượng trưng cho cuộc đời, thì mỗi việc nhỏ chính là một sợi chỉ vô danh đã dệt nên tấm vải ấy. Không có những sợi chỉ, thì cũng chẳng có được tấm vải. Hồi còn bé, gã đã say mê đọc truyện các thánh Tử đạo và mong ước một ngày nào đó mình sẽ đưa cổ ra cho “bọn quân dữ” chém một nhát, hay đưa thân ra cho chúng bắn một phát, thế là nghiễm nhiên gã có tên trong sổ bộ các vị anh hùng tử đạo, được cả và thiên hạ mộ mến. Thế nhưng, lớn lên một chút, gã nhận thấy mộng ước như vậy chỉ là điều viển vông và hão huyền như đi trên mây trên gió, bởi vì hiện nay chuyện bắt bớ cấm cách một cách đẫm máu khó có thể xảy ra, và nếu có xảy ra, thì “bọn quân dữ” cũng sẽ thực hiện một cách rất tinh vi và khoa học, thậm chí đến cả quỉ thần cũng không lường nổi. Và hơn thế nữa, hành vi tử đạo chỉ là một kết quả đương nhiên của một cuộc sống trung thành với đức tin, bởi vì cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy. Nếu cuộc sống hôm nay đã khô khan nguội lạnh, đã bê tha tội lỗi, thì khi gian nan thử thách xảy đến, người ta sẽ khó lòng đứng vững trong đức tin, nếu không muốn nói rằng người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa, hay sẽ dễ dàng chối Chúa như Phêrô. Ai trung thành trong việc nhỏ, thì rồi mới sẽ trung thành trong việc lớn. Ai liên tục phản bội trong những việc nhỏ, thì rồi cũng sẽ phản bội trong việc lớn. Như trên gã đã trình bày: Cuộc đời chỉ là một chuỗi dài những chuyện nhỏ được đan chen vào nhau. Những chuyện nhỏ này, có khi đem lại những tai hại to, nhưng cũng có khi đem lại những thành công lớn.
Trước hết là những chuyện nhỏ nhưng đem lại tai hại to.
Người ta thường bảo: Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn trộm một con bò. Không phải chỉ trong một sớm một chiều, mà người lương thiện bỗng trở nên kẻ tội phạm. Tiến trình phạm tội là cả một chuỗi dài những sai lỗi nhỏ mọn, để rồi kết thúc bằng việc sa vào vòng tội ác, huỷ diệt cả một cuộc đời. Chẳng hạn một cậu bé học trò, lúc ban đầu trốn học theo bè bạn đi chơi. Trốn miết thành thói quen, rồi cuối cùng bị nhà trường đuổi và chính cậu cũng nản lòng, không còn theo kịp chương trình, đành phải bỏ dở việc học. Và thế là cánh cửa tương lai bị khép lại. Lối vào ngày mai của cậu bị tắc nghẽn. Chẳng hạn một anh chàng ghiền xì ke ma tuý, lúc ban đầu có thể chỉ là đơn giản nghe theo lời bạn bè rủ rê và mời mọc. Chính chàng cũng thầm nghĩ trong bụng: Thử một lần cho biết mùi đời. Hút một điếu chỉ là chuyện nhỏ. Thế rồi chàng trở thành con nghiện lúc nào cũng không hay. Như viên bi rơi xuống trên một triền dốc. Nó cứ lăn mãi lăn hoài cho tới tận cùng con dốc mới thôi. Chàng lần lượt phạm hết tội ác này đến tội ác khác. Đã ghiền thì phải có tiền để mua thuốc. Và để có tiền thì chàng phải dối gạt cha mẹ, đánh đập vợ con, lừa đảo bạn bè, hay ăn trộm ăn cắp. Và rồi trong một giây phút mù quáng nào đó, chàng cũng sẵn sàng cướp của giết người, chỉ để kiếm tí tiền còm. Nhất là trong lãnh vực tình yêu, chỉ vì những chuyện nhỏ, mà niềm hạnh phúc bị tiêu tan và gia đình bị đổ vỡ. Gã xin lươm lặt một vài kinh nghiệm nhỏ, được đăng tải trên báo Phụ Nữ, để chứng minh cho sự thật não nùng và bi đát trên. Kinh nghiệm thứ nhất, tính ham nhậu của chàng chỉ là chuyện nhỏ: Chàng và nàng quyết định lấy nhau. Gia đình nàng phản đối vì chàng có sở thích lớn là…nhậu. Tính ham nhậu của chàng đã có thừ thời sinh viên, khi hai người mới yêu nhau. Cứ cuối tuần là chàng và mấy người bạn cùng phòng ở ký túc xá lại ra quán bia hơi bên lề đường nhâm nhi vài lít. Nàng giận lắm vì chàng mải lai rai quên cả cái hẹn với nàng. Thậm chí trong lần ra mắt bên nhà vợ tương lai, chàng đã quên luôn việc cần phải tạo ra một hình ảnh chàng rể tốt vì chàng đã nhậu “tới bến” với hai người anh của nàng, khiến nàng phải gọi taxi đưa chàng về nhà. Tuy nhiên, nàng vẫn hăng hái bênh vực: Nhân vô thập toàn. Làm người ai mà chẳng có những khuyết điểm. Kẻ này cờ bạc. Kẻ kia đèo bòng bồ nhí, trong khi chàng tính tình trung thực, hiếu thảo với cha mẹ và yêu thương nàng hết lòng. Chàng chỉ có một khuyết điểm tí tẹo là hay nhậu. Chuyện nhỏ như con thỏ. Chàng nhậu chỉ vì công việc, chỉ vì nể nang bạn bè. Nàng tin rằng khi đã có vợ có con, kề vai gánh lấy trách nhiệm gia đình, chàng sẽ chia tay với ma men. Nhưng rồi cuộc tình của nàng đã kết thúc trong đổ vỡ cũng vì chuyện nhỏ này. Chính nàng đã phải khai trước toà án: Ngày nào chàng cũng say xỉn. Tiếp khách hàng cũng nhậu. Gặp bạn bè cũng nhậu. Đến ngày cuối tuần, không có lý do gì cũng nhậu, bằng cách gầy độ với mấy ông hàng xóm. Tôi buồn chán, nên có lần bồng con về quê sáu tháng, chàng năn nỉ và thề bỏ rượu, tôi đã tha thứ và gia đình đoàn tụ. Sau đó, chàng vẫn chứng nào tật ấy và tôi không thể chịu đựng được nữa. Chuyện nhỏ bây giờ không còn nhỏ nữa mất rồi. Kinh nghiệm thứ hai, tính hay ghen của nàng chỉ là chuyện nhỏ. Chàng là nhân viên phòng kinh doanh nhà đất. Nàng là con gái rượu của một đại gia. Họ đến với nhau quả là môn đăng hộ đối, xứng đôi vừa lứa. Tuy nhiên, nàng chỉ có mỗi tội là… hay ghen. Lúc bấy giờ, chàng cho là chuyện nhỏ. Mặc dù bực bội, nhưng đôi khi chàng lại cảm thấy hay hay, vì có yêu, thì nàng mới ghen. Thành thử, chàng chẳng hề nghĩ tới việc chia tay, bởi vì sau mỗi lần chàng giận, nàng luôn năn nỉ xin chàng bỏ qua. Hơn thế nữa, nàng lại xinh đẹp, giỏi nội trợ, điều kiện gia đình quá tốt. Chàng nghĩ lấy nhau rồi nàng sẽ hiểu rõ chàng là người sống nghiêm túc, không lăng nhăng, lúc bấy giờ nàng sẽ không còn lý do gì để mà ghen. Nhưng rồi cuộc hôn nhân của chàng cũng đã vội chết yểu khi chưa kịp “mừng tuổi lên hai”, do chàng không chịu đựng nổi sự ghen tuông đến bệnh hoạn của nàng. Thực vậy, ngày nào đi làm về, chàng cũng bị nàng “đánh hơi”, kiểm tra xem có mùi nước hoa, có vết son hay sợi tóc cô nào vương trên áo chàng hay không. Chàng cũng bị nàng kiểm tra điện toại xem đã gọi, đã nhắn tin cho những ai. Cô nào nằm trong danh sách “tình nghi”, liền bị nàng gọi điện thoại để điều tra và đe doạ không được đến gần chàng. Điều làm chàng mệt mỏi nhất, đó là nàng còn hay bày trò tuyệt thực, đòi tự tử…mỗi khi chàng nổi cáu, mắng nàng vì tội ghen bóng ghen gió hay về nhà trễ. (Dựa theo bài viết của Thuỳ Dương trong báo Phụ Nữ thứ ba, số ra ngày 19.1.2010).
Các cụ ta ngày xưa thường bảo: Yêu nhau củ ấu cũng tròn, Trái bồ hòn cũng ngọt. Khi tình yêu còn mặn nồng, nhất là vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì những thói hư tật xấu chỉ là chuyện nhỏ. Thế nhưng, một khi đã bước vào hôn nhân và chung sống với nhau, nhất là khi tình yêu đang có những triệu chứng nhạt phai và giảm sút, thì những thói hư tật xấu ấy không còn là chuyện nhỏ nữa, nhưng đã trở thành chuyện lớn, nguyên nhân dẫn tới đổ vỡ, bởi vì đó chính là giọt nước cuối cùng làm tràn ly, đó chính là cọng rơm sau hết làm gãy cả cái lưng con lạc đà! Kinh nghiệm thứ ba, dư luận cũng chỉ là chuyện nhỏ. Chàng là một đại gia, goá vợ và có hai con. Nàng là một cô gái duyên dáng, giỏi giang, được nhiều chàng trai theo đuổi, nhưng cuối cùng nàng đã lên xe hoa để được chàng rước về dinh. Mặc dù những người chung quanh đã xì xào bàn tán, nhưng nàng cho đó chỉ là chuyện nhỏ. Nàng hy vọng với tất cả thiện chí và những việc làm tốt lành của mình, nàng sẽ đánh tan được cái dư luận đầy ác ý ấy. Vì thế, sau đám cưới, cả chàng lẫn nàng đều cố gắng thu xếp ổn thoả những mối liên hệ gia đình. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian ngắn mà thôi, sau đó nàng bắt đầu cảm thấy bị chao đảo, khi mà ngày nào cũng phải nghe những lời bóng gió: Làm vú em đặng có kinh nghiệm để mai mốt làm mẹ tốt hơn. Chàng cưới nàng là để có người hầu hạ, chứ có yêu gì nàng đâu. Còn hai đứa con, lúc nào cũng chê bai rằng: Dì không bằng mẹ ngày xưa. Lúc đầu chàng còn cố gắng phân tích thiệt hơn cho nàng và dỗ dành con cái. Nhưng rồi sự việc cứ liên tục xảy ra theo chiều hướng xấu, khiến chàng đành phải buông xuôi. Có lần chàng đã nói với nàng: Thôi thì tuỳ em chọn lựa, muốn ở với anh nữa thì ở, bằng không thì cứ việc ra đi. Câu nói ấy làm cho nàng đau đớn và nghiệm ra rằng: Những gì người khác nói đều chính xác. Chàng chỉ biết có con riêng và người vợ cũ mà thôi. (Dựa theo bài viết của Nghi Anh trong báo Phụ Nữ thứ sáu, số ra ngày 8.1.2010). Thiết tưởng trong hoàn cảnh này, cả hai đều phải có can đảm gác bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu, thậm chí còn phải…”ngồi xổm” trên cả dư luận nữa, nếu thấy rằng những lời đồn thổi ấy đều vô căn cứ, không đúng sự thật và chất đầy những ý đồ đen tối. Bởi vì: Dư luận thì vốn thường luận dư. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Vì thế chó cắn mặc chó, đôi ta vẫn cứ tay trong tay cùng nhau sánh bước trong cuộc đời:Mặc người nói ngả nói nghiêng, ta đây vẫn vững như kiềng ba chân. Những chuyện nhỏ chỉ hoàn thành được một cái lỗ bé như lỗ cua đào, nhưng nếu không kịp thời vít lại, thì khi mùa lụt đến, nó có thể làm vỡ cả một con đê. Và khi con đê đã vỡ, hậu quả thật khó mà lường nổi. Cũng giống một tàn thuốc lá rơi vãi có thể đốt cháy cả một khu rừng. Tiếp đến là những chuyện nhỏ nhưng đem lại thành công lớn.
Đứng từ xa, gã thấy sa mạc thật mênh mông, nhưng đến gần thì cái mênh mông ấy được kết thành bởi muôn vàn hạt cát nhỏ. Đại dương thì bao la, nhưng cái bao la ấy được tạo nên bởi những cái gì, nếu không phải là bởi những giọt nước vô danh tiểu tốt! Cũng vậy, đằng sau những thành công vẻ vang, đằng sau những cuộc đời rạng rỡ chính là những cố gắng âm thầm, chính là những nỗ lực liên tục. Hay nói cách khác, chính là những…chuyện nhỏ. Chẳng hạn thánh nữ Têrêsa, một vị thánh nổi tiếng, mà người công giáo nào cũng biết đến. Cuộc sống của ngài chỉ kéo dài vỏn vẹn được có hai mươi bốn tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, không làm những phép lạ kỳ diệu, không có những lời giảng dạy hùng hồn và cũng không hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng, trái lại thánh nữ chỉ âm thầm chu toàn những việc nhỏ trong nhà dòng. Thế nhưng, chính những việc nhỏ này đã làm cho ngài trở thành một vị thánh lớn trong Giáo Hội. Việc nhỏ nhưng thành công lớn. Hẳn rằng nhiều lúc chúng ta cũng đã “tâm phục khẩu phục” những thiên tài trong lãnh vực này, hay trong phạm vi kia. Thế nhưng, cái thiên tài ấy, phần nhỏ do trời ban, còn phần lớn là do đã khổ công tập luyện, đã siêng năng học hỏi, như tục ngữ cũng đã nói: Có công mài sắt, có ngày nên kim. Phải chăng những tập luyện và học hỏi ấy chỉ là những chuyện nhỏ, nhưng chúng ta lại không có đủ kiên nhẫn để thực hiện cho đến cùng mà thôi. Trong công việc làm ăn buôn bán cũng vậy. Những thương gia giàu có thuộc vào hàng “nứt đố đổ vách”, những khuôn mặt tài phiệt cỡ lớn, khả dĩ làm lũng đoạn cả thị trường quốc tế, thế mà nhiều người trong số họ đã khởi đi từ thân phận nghèo túng, khố rách áo ôm. Tiền bạc và gia sản của họ hôm nay, phần nhỏ do may mắn, nhưng phần lớn là do cần kiệm và chí thú làm ăn. Sở dĩ như vậy, vì họ luôn tâm niệm: Năng nhặt, chặt bị. Sau cùng, tình yêu và gia đình cũng không thoát khỏi quy luật chung này. Có người cho rằng: Chết cho người mình yêu, thì dễ hơn là sống với người mình yêu. Bởi vì chết cho người mình yêu là một hy sinh lớn, nhưng lại không dễ gì xảy ra. Trong khi ấy, sống với người mình yêu liên tục đòi hỏi những hy sinh, tuy nhỏ nhưng lại kéo dài bằng cả cuộc đời. Chẳng hạn ban chiều đi làm về, thay vì ngồi đọc báo hay xem TV chờ cơm tối, chàng vội vào bếp phụ với nàng một tay. Việc làm tuy nhỏ, nhưng chắc chắn sẽ làm cho khuôn mặt của nàng thêm rạng rỡ và nụ cười của nàng thêm xinh. Chẳng hạn vào sinh nhật của chàng, nàng bèn trổ tài nữ công gia chánh, làm một bữa cơm thịnh soạn để chúc mừng chàng, cũng như để khoản đại mọi người trong gia đình. Việc làm tuy nhỏ, nhưng sẽ đem lại cho chàng niềm vui lớn. Chẳng hạn vào ngày phụ nữ quốc tế, chàng tặng cho nàng một bông hồng. Bông hồng chẳng đáng bao nhiêu, chỉ là chuyện nhỏ, nhưng sẽ để lại một dấu ấn kỷ niệm thật lớn, không bao giờ quên trong trái tim nàng. Những việc làm và những hy sinh nhỏ này sẽ làm cho tình yêu thêm nồng thắm và được lớn lên. Với một tình yêu nồng thắm và được lớn lên như thế, người ta lại càng sẵn sàng chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau, đảm bảo cho một mái ấm ngập tràn hạnh phúc. Gã Siêu -------------------------------
Cặp vợ chồng lý tưởng”, đó là tựa đề của một chương trình truyền hình thật hấp dẫn và ăn khách GãSiêu 135
“Cặp vợ chồng lý tưởng”, đó là tựa đề của một chương trình truyền hình thật hấp dẫn và ăn khách. Năm cặp vợ chồng bước vào phòng thu hình. Người điều khiển sẽ tách riêng mỗi cặp, chồng đứng một nơi, vợ ngồi một nẻo và hỏi từng người một. Rồi sau đó, cặp vợ chồng nào mà cả hai đều trả lời hoàn toàn giống nhau cho tất cả những vấn đề được đặt ra, mới được chọn làm cặp vợ chồng lý tưởng. Chẳng hạn người điều khiển hỏi: - Bạn thích ăn cơm nhão hay ăn cơm khô? Nếu người vợ trả lời là cơm nhão và người chồng cũng phải trả lời là cơm nhão, thì mới được điểm. Chẳng hạn người điều khiển hỏi: - Khi ra riêng, bạn sẽ vay tiền để mua sắm đồ đạc hay cứ chịu khó tiết kiệm để rồi mua sắm sau? Nếu người vợ trả lời rằng tiết kiệm trước, mua sắm sau, và khi được hỏi, người chồng cũng phải trả lời y chang như vậy, thì mới được điểm. Từ đó, cặp vợ chồng lý tưởng sẽ phải là cặp vợ chồng hoàn toàn hoà hợp, cả hai cùng nhất trí, cùng đồng ý với nhau trong tư tưởng, trong lời nói, cũng như trong hành động: Mình với ta tuy hai mà một. Họ chỉ còn là một tâm hồn và một ước mơ, một trái tim và một việc làm. Tuy nhiên, tìm được một người chồng hoàn hảo, hay một người vợ tuyệt vời đã là một chuyện rất khó, còn khó hơn cả việc mò kim dưới đáy biển, đơn giản chỉ vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình, cho nên người chồng hoàn hảo hay người vợ tuyệt vời chỉ là điều không tưởng, chẳng hề có trong cuộc đời này. Tìm kiếm một cặp vợ chồng lý tưởng, hoàn toàn ăn ý với nhau, còn khó hơn thế nữa. Dù gã có đốt đuốc đi tìm giữa ban ngày, thì cũng chẳng hề thấy, bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Ấy là gã chưa nói đến mỗi người còn là một mầu nhiệm, một thế giới biệt lập với những khoảng trời riêng tư. Và kinh nghiệm cũng cho hay: Trong cuộc sống chung, vợ chồng sẽ không thể nào tránh khỏi những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Thậm chí đối với một số cặp vợ chồng, những bất đồng, cãi vã và xô xát vốn chỉ là những chuyện rất bình thường, xảy ra như cơm bữa. Thế nhưng, nếu bình tĩnh ngồi phân tích, gã nhận thấy giận vợ hay làm cho vợ giận, trong cả hai trường hợp, phe ta chỉ toàn thua là thua, từ chết đến bị thường mà thôi. Trước hết là trường hợp vợ giận Bản tính của đờn bà con gái vốn dịu hiền, vì thế đứng trước những tức tối, phản ứng của các chị vợ thường âm ỉ và dai dẳng, khiến cho anh chồng phải một phen ngậm đắng nuốt cay, xất bất xang bang, giống như hiện tượng cháy ngầm trong hoá học, tuy âm thầm nhưng vẫn có thể cưa đứt cả sắt thép. Bình thường, chị vợ vốn hay nói dài, nói dẻo, nói giai, nhưng khi đã giận rồi, thì bỗng trở thành…”tắt tiếng”. Và một khi chị vợ đã quyết tâm, thì trời có đánh, thánh có vật cũng không can nổi. Từ một người nói nhiều như đài phát thanh, chị có thể câm nín, nhịn nói cả tuần lễ. Bộ mặt lầm lỳ như công an hình sự. Có cậy miệng cũng chẳng thèm phát ngôn lấy được một lời, làm cho anh chồng càng ngày càng bị căng thẳng và khổ sở, bởi vì mỗi khi bước chân vào nhà, đều phải đối mặt với một “pho tượng đá”, để rồi cuối cùng anh chồng đành phải xuống nước, năn nỉ ỉ ôi, chị vợ mới mở lượng khoan hồng mà tha cho. Sau cơn giận nín lặng thuộc vào hàng cao thủ võ lâm của chị vợ, nhiều anh chồng mới sáng mắt và ngộ ra rằng: vợ nói nhiều còn dễ chịu hơn là vợ lầm lì, tắt tiếng. Thái độ thứ hai là ca tới ca lui cái điệp khúc “trở về mái nhà xưa”. Thực vậy, cứ mỗi lần cãi nhau và khi yêu cầu không được giải quyết một cách thoả đáng, nhiều chị vợ bèn chẳng nói chẳng rằng, tự động gấp quần áo, xếp đồ đạc, khăn gói quả mướp lên đường về với …bu! Để rồi anh chồng phải lí nhí bẩm báo với mẹ vợ: - Mẹ ơi, con có chuyện muốn thưa với mẹ. Thực ra con và vợ con đều không có lỗi chi cả, chỉ hiểu lầm nhau mà thôi. Mong mẹ khuyên nhủ nhà con giùm. Thế nhưng, sự đời đâu có đơn giản. Mặc dù được mẹ can gián, nhưng chị vợ vẫn cứ tiếp tục làm reo, ở thêm ba bốn ngày cho hả giận. Và lần nào cũng vậy, anh chồng phải đích thân sang nhà ngoại, đóng vai “bị can”, xuống nước van xin lượng từ bi hì xả, mới được ân xá và rước chị vợ trở về. Có thể nói được rằng, đối với người đàn ông, không có việc gì khổ sở hơn là việc đó. Về với bu là còn may phúc bảy mươi đời, vì dù sao anh chồng cũng đã biết được địa chỉ nơi đến, một địa chỉ an toàn tuyệt đối, nên yên chí phần nào. Trong khi đó, có những chị vợ đùng đùng nổi giận đã anh dũng bỏ nhà ra đi cái một, không hề tiếc xót, không hề nhung nhớ và cũng chẳng hề hé môi cho biết là mình đi đâu, làm cho anh chồng một phen băn khoăn lo nghĩ toát cả mồ hôi hột: Bà con họ hàng thì không có, thuê phòng khách sạn thì không đủ tiền, hỏi han bạn bè thì chẳng ai biết, gọi điện thoại thì không trả lời, thậm chí còn tắt cả nguồn, hay chỉ nghe tổng đài léo nhéo tạm thời không liên lạc được, vì ngoài vòng phủ sóng. Trong khi đó con cái thì nheo nhóc, nhà cửa thì bừa bãi, khiến anh chồng bèn phải xuống thang, rót từng lời mật ngọt để dỗ dành, nhắn tin vào máy chị vợ. Cuối cùng, sau ba ngày thấm đòn, khi bố con hốc hác, bơ phờ vì ngôi nhà không có đờn bà, chị vợ mới chịu trở về với vẻ mặt kênh kiệu của người chiến thắng, kèm theo một thông điệp: - Tôi về là vì các con mà thôi, không êm thì tôi sẽ đi tiếp cho mà biết. (Phỏng theo Phụ nữ Thứ tư, số 67 ra ngày 28.7.2010). Như vậy, hẳn mọi anh chồng đều nghiệm ra rằng: Đừng dại dột mà làm cho vợ giận, bởi vì cuối cùng đều phải xuống nước mà năn nỉ đến gãy cả lưỡi, cũng lại từ chết đến bị thương mà thôi. Tiếp đến là trường hợp giận vợ Kinh nghiệm cho hay tính hiếu thắng dường như là một cái gì đã được Tạo Hoá cài đặt sẵn trong máu huyết của phe đờn ông con giai. Vì thế, trong những cuộc “nội chiến”, anh chồng thường phấn đấu dành phần thắng cho bằng được, thậm chí đôi lúc không ngần ngại dùng đến chiến thuật cả vú lấp miệng em, mình sai mà vẫn cứ cãi chày cãi cối. Hơn thế nữa, bản tính của đờn ông con giai vốn nóng nảy và thẳng thừng, vì thế đứng trước những bực bội, phản ứng của các anh chồng thường bộc phát một cách mãnh liệt bằng những lời chửi bới và bằng những hành động mang tính cách bạo lực, như thương cẳng chân hạ cẳng tay và để lại những đổ vỡ tan hoang, giống như hiện tượng cháy bùng trong hoá học, nổ tung làm tan xác pháo. Bình thường, anh chồng vốn ít nói, nhưng khi đã điên tiết vì cơn giận bốc lên đầu và bị tẩu hoả nhập ma, thì lại hay nói to và nói tục với những lời lẽ cộc cằn và thô lỗ, để rồi khi hạ nhiệt và cơn giận tan đi, lại phải một phen uốn lưỡi xin lỗi chị vợ. Ngoài ra, cũng không ít anh chồng còn xử lý bằng bạo lực, như đập vỡ nồi niêu xoong chảo, đánh đập đấm đá chị vợ. Rốt cuộc thì cũng lại từ chết đến bị thường, từ thua đến thua mà thôi. Suy gẫm về thái độ “vũ phu chi cục mịch” này, gã thấy làm như vậy quả là vô cùng dại dột. Bởi vì khi tỉnh cơn mê, lại phải bỏ tiền ra mua sắm những nồi niêu xoong chảo đã bị đập bể. Nếu chị vợ bị đánh phun máu đầu, lại phải bỏ tiền bạc và thời giờ ra chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ…bị đi tàu suốt sang thế giới bên kia, thì chắc chắn ông chồng sẽ được luật pháp sờ vào gáy, cho ngồi nhà đá mà đếm lịch. Rồi tương lai gia đình và con cái sẽ như thế nào? Nheo nhóc và tan hoang là cái chắc. Chính vì thế, một anh chồng đã thề quyết với bè bạn: - Tớ hứa từ nay sẽ không bao giờ đánh vợ nữa. Tốn kém lắm! Mọi người đều ngạc nhiên: - Sao lại tốn kém? Anh chồng buồn sầu trả lời: - Vợ tớ thích làm đẹp, tớ hoàn toàn đồng ý. Nhưng càng ngày cô ấy càng quá đáng. Hôm trước cô ấy hỏi ý kiến để đi xâm môi, tớ không đồng ý, vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ môi vợ tớ đã thật dễ thương rồi. Mua son gì tớ cũng chịu, chứ đi xăm nó hâm hâm tái tái, như miếng thịt trâu ôi, nhìn thấy mà ghê. Tớ cương quyết: Em mà xâm môi, anh nhất định sẽ không bao giờ hôn em nữa. Đồ thật còn chẳng ăn, ai lại ăn đồ giả. Yên lặng được một thời gian, lần này cô ấy chẳng thèm hỏi han gì, qua mặt tớ cái vù. Các cậu thấy đấy, cái mũi của vợ tớ trước giờ vốn hênh hếch nhìn có duyên đáo để. Thế mà hôm nay cô ấy đem về trình diện tớ một cái mũi dọc dừa thẳng tưng, chóp mũi còn cao hơn cả cái trán. Tớ mở tủ xem ngân quĩ thì thấy thiếu mất mấy triệu đồng. Khổ quá! Đang dành tiền tính đổi cái xe đạp cà tàng cổ lỗ sắp thành sắt phế thải rồi. Cũng phải lên đời, chuyển hệ thành xe máy chứ. Tức quá, tớ gọi cô ấy lại, xáng cho nguyên một bạt tai. Của đáng tội, tớ đánh nhẹ thôi chứ đâu có mạnh tay. Lần đầu tiên kể từ khi cưới nhau, tớ đánh vợ tớ. Các cậu biết chuyện gì xảy ra không? Cái mũi “mỹ viện” của cô ấy lệch sang một bên, nhìn giống như một cục thịt thừa. Cô ấy soi vào gương mà cứ khóc thút thít khiến tớ ân hận quá chừng. Nắn mãi cũng không làm sao cho mũi ngay ngắn lại được. Đành phải chở vợ tớ tới mỹ viện, tốn thêm mấy triệu đồng nữa để họ chỉnh cái mũi lại như cũ. Tớ chỉ đánh vợ một lần duy nhất mà thôi, tởm tới già. Giận quá mất khôn. Tốn một lần chưa đủ hay sao mà lại muốn tốn thêm một lần nữa. Kinh nghiệm sống sượng trên đây đáng cho mọi anh chồng vũ phu suy gẫm trong cung cách cư xử với chị vợ của mình. Làm thân đờn ông đã khó, còn làm anh “chồng giỏi chồng ngoan” lại càng khó hơn. Vì vậy, một anh chồng thấm thía sự thua lỗ mỗi khi đôi co với vợ, đã ví von bằng ngôn ngữ bóng đá như sau: - Các anh chồng nên xác tín rằng cãi nhau với vợ chỉ là “đá giao hữu”, chứ không phải là đá ăn thua, một mất một còn. Phải biết thua trong danh dự mới là cao thủ, và sau đó chỉ sợ không đử sức nhận…”bồi thường chiến tranh” mà thôi. Một anh chồng khác cũng đã rút tỉa, từ những lần “va chạm, cọ quẹt” với chị vợ, một kinh nghiệm để đời: - Trong những cuộc “nội chiến” với vợ, không gì dại bằng giành phần thắng về cho mình, bởi lẽ ngay sau đó chắc chắn sẽ bị trừng phạt, sẽ bị trả đũa, sẽ bị dạy cho một bài học để biết thế nào là lễ độ. Cũng giống như dân An Nam ta ngày xưa, dù có anh dũng đánh thắng Trung Quốc, thì khi hoà bình trở lại, vẫn cứ phải triều cống và lệ thuộc, thì mới được yên thân! Anh chồng này còn bật mí thêm hai điều thật quí giá: - Một là vợ bao giờ cũng đúng. Hai là nếu vợ sai, thì phải nhẩm đi nhẩm lại cho tới lúc hoàn toàn xác tín vào điều một. Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã từng bảo: - Lệnh ông không bằng cồng bà. Vợ muốn là trời muốn. Thậm chí còn xếp ông trời đứng sau lưng chị vợ: - Nhất vợ, nhì trời. Sở dĩ như vậy cũng dễ hiểu, bởi vì vợ lúc nào cũng có lý, cho dù là cái lý ngang như cua bò! Trong một bài viết trên báo Phụ nữ Thứ sáu, số ra ngày 06.8.2010, tác giả Trần Trung Hoà cho biết: Trong một cuộc khảo sát 50 nữ sinh viên sắp ra trường với câu hỏi: Đức tính nào của người chồng mà phụ nữ thích hơn cả? Có đến 87% trả lời là thích tính hài hước. Vì vậy, khi tranh cãi với chị vợ, các anh chồng không nên dùng lý lẽ sắc bén hay những câu nói gây tổn thương, mà chỉ nên tranh luận bằng thứ ngôn ngữ có tính hài hước. Đôi khi cũng phải miệng lưỡi chút xíu, vì đặc điểm của phụ nữ là ưa nịnh. Người phương Tây đánh giá cao những anh đờn ông giỏi “nịnh đầm”. Nhiều khi chỉ một câu nói pha trò là có thể tránh được cả một cuộc chiến đau đầu. Chẳng hạn khi chị vợ bảo nhất thiết phải có hành ngon để nấu ăn, tại sao anh chồng lại không mở miệng ra mà nói: - Vợ anh nấu ăn, thì không cần hành vẫn cứ ngon ngất trời! Hay: - Anh đã cố đi tìm những năm cái chợ mà vẫn không tìm ra thứ hành ngon nhất. Chỉ toàn hành héo, anh sợ đem về, em lại mắng, nên không dám mua. Chị vợ biết tỏng anh chồng nói ngoa, nhưng nghe đến câu “anh sợ đem về, em lại mắng”, thì làm sao mà còn giận, còn hờn được nữa. Lắm khi lại anh chồng lại còn được khoẻ re, bởi vì dẻo miệng lưỡi, khoẻ tay chân, vì khéo nói, nên chẳng phải làm chi cả. Một anh bạn từ bên Mỹ vừa mới gửi về một bài thơ, để gã dùng làm tài liệu…ngâm kiú. Bà thơ mang tựa đề là “Sợ vợ” như sau: Ngồi buồn kiếm chuyện nói chơi, Nhất vợ nhì trời... là chuyện tự nhiên. Đàn ông sợ vợ thì sang, Đàn ông đánh vợ tan hoang cửa nhà. Đàn ông không biết thờ bà Cuộc đời lận đận kể là vứt đi. Đàn ông sợ vợ ai khi, Vợ mình, mình sợ xá gì thế gian!!! Đàn ông khí phách ngang tàng, Nghe lời vợ dạy là hàng trượng phu. Đàn ông đánh vợ là ngu, Tốn tiền cơm nước, ở tù như chơi. Lấy nàng từ thuở mười nhăm, Đến khi mười chín tôi đà năm con. Nàng thì trông hãy còn son, Tôi thì đinh ốc, bù lon rã rời. Nắng mưa là chuyện của trời, Tề gia nội trợ có tôi bao thầu. Suốt ngày cày cấy như trâu, Chiều về rửa chén cũng ngầu như ai. Nấu cơm, đi chợ hàng ngày, Bồng con, thay tã tôi đây vẹn toàn. Lau nhà, lau cửa chẳng màng, Ôi thời oanh liệt ngang tàng còn đâu. Nhiều khi muốn hộc xì dầu, Xin nàng nghỉ phép, nàng chau đôi mày. Nàng đòi thi đấu võ đài, Tung ra một chưởng, chén bay ào ào. Nhớ xưa mình mới quen nhau, Em ăn, em nói ngọt ngào dễ thương. Cho nên tôi mới bị lường, Mang thân ngà ngọc cậy nương nơi nàng. Than ôi thực tế phũ phàng, Mày râu một kiếp thôi đành đi đoong. Một lòng thờ vợ sắt son, Còn non còn nước thì tôi còn...thờ Để kết thúc, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nho nhỏ “Tuy gần mà xa”, giúp cho bàn dân thiên hạ cùng suy gẫm, hầu bắc được một nhịp cầu cảm thông và tạo được một bàu khí đầm ấm trong gia đình của mình. Có một nhà hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng: - Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau? Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử đã trả lời: - Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự chủ! Nhà hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo: - Nhưng tại sao phải hét lên trong khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ nghe? Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời, nhưng không câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng. Sau cùng ông bảo: - Khi hai người đang giận nhau, thì trái tim của họ không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm, họ cảm thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe, thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy. Ngưng một chút, ngài lại hỏi: - Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ. Rồi ngài lại tiếp tục: - Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà, thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Và qua ánh mắt đó, họ đã biết đối phương nghĩ gì và muốn gì? Và nhà hiền triết kết luận: - Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, hãy giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau. Nếu không, thì sẽ có một ngày, khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng lúc càng xa và các con sẽ không còn tìm được đường quay trở lại với nhau. Thật là trên cả tuyệt vời!!! Gã Siêu
Kính vợ đắc thọ, Sợ vợ sống lâu, Nể vợ ta hết u sầu, Để vợ lên đầu, Thì trường sinh bất lão. GãSiêu 136
Kính vợ đắc thọ, Sợ vợ sống lâu, Nể vợ ta hết u sầu, Để vợ lên đầu, Thì trường sinh bất lão. Cứ mỗi lần lễ tình nhân, hay ngày tôn vinh mẹ hiền trở về, là mấy anh con giai lo toát cả mồ hôi, chạy đôn chạy đáo để mà mua bông mua quà, còn mấy ông viết lách thì hết lời ca tụng và tôn vinh phe đờn bà con gái, khiến cho cánh kẹp tóc cứ vểnh tai cối lên mà nghe, cánh mũi nở to như trái cà chua và cảm thấy đời bỗng dưng “dzui”. Dịp mồng tám tháng ba, ngày quốc tế phụ nữ năm nay, có một anh chàng độc thân vui tính đã viết: - Đời không có đờn bà con gái giống như một ngày mà không có mặt trời. Ủ dột và tê tái. Nếu như anh chàng độc thân này mà rời bỏ binh chủng “phòng không” của mình, để gia nhập lực lượng “lính thủy đánh bộ”, chắc chắn anh ta sẽ được liệt vào hàng “tôn thờ” bà xã theo kiểu: - Kính vợ đắc thọ, Sợ vợ sống lâu, Nể vợ ta hết u sầu, Để vợ lên đầu, Thì trường sinh bất lão. Mà quả đúng như vậy, nếu bà xã là mặt trời, thì lúc nào mà chẳng ở vào cái thế “thượng phong”, vì mặt trời luôn luôn chẳng chiếu sáng trên đầu chúng ta. Ngày xưa khi học về ca dao tục ngữ, gã vẫn còn nhớ bài “Mười thương”: - Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Năm thương cổ yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng qua tua dịu dàng. Bảy thương nết ở khôn ngoan, Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. Chính thương cô ở một mình, Mười thương con mắt có tình với ai. Thế nhưng, ngày phụ nữ đòi quyền sống và sướng năm nay, một anh bạn của gã tận mãi bên Đan Mạch, không biết tự mình sáng tác, hay đã đọc được ở đâu đó, bèn gửi cho gã một bài thơ cùng một thể thức và cũng mang tựa đề là “Mười thương” được nhái theo bài ca dao trên, gọi là để góp tiếng ngợi ca phe kẹp tóc: - Một thương đôi má của nàng, Xoa toan mỹ phẩm, anh tàn tháng lương. Hai thương giọng ngọt như đường, Nàng xin một tiếng, vua nhường mất ngôi. Ba thương đo đỏ đôi môi, Anh không hôn được, sợ trôi son nàng. Bốn thương mười ngón thiên đàng, Móng nàng lạ lắm: lúc vàng, lúc xanh. Năm thương đôi mắt long lanh, Liếc tình, cọp cũng biến thành nai tơ. Sáu thương cái nết ngây thơ, Quen nàng một tháng, anh khờ ba năm. Bảy thương cái mặt chầm dầm, Đòi mua vài cái áo đầm mới vui. Tám thương mái tóc buông xuôi, Làm anh té xỉu bởi mùi dầu thơm. Chín thương nàng biết nấu cơm, Lớp khê, lớp khét, thằng bờm chạy xa. Mười thương tính chẳng xa hoa, Vòng vàng không khoái, hột xoàn nàng mê. Đời trai sao lắm ê chề, Thương xong mười cái anh về chăn trâu. Gọi là góp tiếng để ngợi ca phe kẹp tóc theo cái kiểu này, thì đúng là tên phản phé, đâm sau lưng các…nữ chiến sĩ rồi còn gì. Riêng phần gã, gã xin mượn phần đất của bài viết hôm nay, để tôn vinh công sức của các chị vợ. Thực vậy, có người đã định nghĩa chữ “vợ” như sau: - Vợ là mẹ các con ta, Thường kêu “bà xã”, hiệu là “phu nhân”. Vợ là tổng hợp bạn thân, Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền. Vợ là ngân khố, kho tiền, Gửi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra. Vợ là biển cả bao la, Đôi khi nổi sóng, khiến ta chìm phà. Vợ là âm nhạc, thi ca, Vừa là cô giáo, vừa là luật sư. Cả gan đấu khẩu vợ ư? Cá ươn không muối, chồng hư cãi lời. Chồng ơi! Đừng có dại khờ, Vợ đi, thì biết cậy nhờ vào ai? Vợ là phước, lộc, thọ, tài, Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen. Bài thơ trên đã quảng diễn một cách phong phú ý tưởng của câu “ranh ngôn”: - Vợ không có công sinh ra ta, nhưng lại có công nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người. Hay như một câu ca dao thời nay: - Dù không sinh đẻ ra ta, Nhưng công dưỡng dục thật là lớn lao. Dựa vào câu “ranh ngôn” cũng như câu ca dao trên, gã thấy công sức của chị vợ được chia thành hai loại: Loại thứ nhất, đó là công sức nuôi dưỡng. Mặc dù thỉnh thoảng cũng có tí luật trừ, đó là một vài anh đờn ông bỗng dưng giỏi chuyện bếp núc, phụ trách chế biến các món ăn ở những khách sạn năm sao và một vài chị đờn bà bỗng dưng mù tịt việc nấu nướng, chỉ nguyên việc thổi một nồi cơm, thì cũng đã trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét. Tuy nhiên, phải công nhận rằng lãnh vực bếp núc là lãnh vực riêng của các nàng. Có bàn tay phụ nữ, bữa ăn được cải thiện trông thấy. Không còn cảnh chém to kho mặn… Chính vì thế, nhiều anh chàng sinh viên đã gạ gẫm bạn gái của mình góp gạo thổi cơm chung. Rồi sau đó, việc gì đến, ăt sẽ phải đến. Và chuyện…ăn cơm trước kẻng đương nhiên sẽ xảy ra, với những hậu quả thật não nùng và bi đát , mà phần thiệt thòi bao giờ cũng nằm ở phía các nàng. Ngày nay, hình như người ta thích dành cho mình cái danh hiệu là “từ mẫu”, tức là mẹ hiền. Mấy ông bác sĩ, mấy ông thày thuốc và ngay cả những vị lang băm cũng đều ra sức tự phong cho mình cái nhãn hiệu ấy: - Lương y như từ mẫu. Trong khi đó, mấy cô giáo nhà trẻ cũng say mê tập cho các em thuộc lứa tuổi babilac hát vang: - Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô giáo, Đi đến trường, cô giáo như mẹ hiền. Cô và mẹ là hai cô giáo, Mẹ và cô cũng như mẹ hiền. Và bây giờ đến lượt các chị vợ cũng rất mong muốn được làm mẹ của các anh chồng. Dĩ nhiên, sự mong muốn này được biểu lộ ra không phải trong tư tưởng, cũng như không phải trong lời nói, mà được biểu lộ ra trong những việc làm cụ thể, bằng cách “nuôi chồng khỏe và dạy chồng ngoan”. Hiện giờ, chuyện an toàn thực phẩn đang là một vấn đề nóng bỏng được thiên hạ bàn tán. Phở thì có “phọc môn”, bún thì có hàn the, thịt lợn thì đang bị lở mồm long móng, thịt gà thịt vịt thì đang bị dịch cúm gia cầm, lúa gạo thì nhiễm thuốc trừ sâu và phân hóa học… Cũng chính vì thế, để bảo đảm sức khỏe cho các thành viên trong gia đình, các chị vợ đều bắt mọi người phải ăn cơm nhà, vừa bảo đảm, lại vừa đủ chất dinh dưỡng. Còn đâu nữa mỗi buổi sáng ra quán làm một tô phở tái béo ngậy, rồi nhâm nhi ly cà phê đen mà ba hoa chích chòe đủ mọi chuyện trên trời dưới đất với nhóm bạn hữu. Thậm chí, nhiều khi đi dự đám tiệc, chị vợ cũng bắt anh chồng phải ăn cơm ở nhà trước cho chắc bụng. Hơn thế nữa, lỡ có uống dăm ba ly, thì cũng khó mà say được. Nhiều chị vợ còn ra sức chăm sóc anh chồng một cách chu đáo, vượt ngoài mức độ cần thiết, cứ như một người mẹ chăm sóc đứa con bé bỏng của mình. Chẳng hạn sau mỗi bữa cơm, phải “tráng miệng” bằng hai trái chuối, và trước khi đi ngủ, phải “lót lòng” bằng một ly cối đầy sữa…Thành thử anh chồng cứ mỗi ngày một phát tướng và vòng số hai cứ liên tục phát triển. Chị vợ đâu có ngờ rằng cái vòng này càng to ra, thì vòng đời càng teo lại! Nếu chẳng may anh chồng quá vui mà bị xỉn, thì đã có chị vợ lo pha nước chanh, đắp khăn nóng và thậm chí còn bôi vôi vào gan bàn chân để được mau tỉnh. Còn nếu chẳng may anh chồng bị đau yếu thì đã có chị vợ vội tìm thầy chạy thuốc, dành cho một chế độ “bồi dưỡng” mà ngày thường có nằm mơ cũng chẳng thấy. Vì thế, người ta đã bảo: - Khi ta đau ốm xanh xao, Vợ lo chăm sóc, hồng hào khỏe ngay. Anh chồng mà nhõng nhẽo…chả muốn ăn, thì liền được rót vào tai những lời ngọt ngào: - Bộ anh hổng còn thương em nữa sao? Em đã bỏ công lo lắng cho sức khỏe của anh từng ly từng tí, để vợ chồng mình được ăn ở đời kiếp với nhau. Vậy mà anh hổng chịu nghe lời em. Tới nước này, thì anh chồng cũng giống như em bé, ầm một cái, ăn cho bà xã được vui lòng. Tuy nhiên, đôi lúc sự chăm sóc trên cả tuyệt vời này, khiến cho anh chồng…ngao ngán. Nguyễn Niệm trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 7 ra ngày mồng 2 tháng 3 năm 2008, đã đưa ra một trường hợp điển hình như sau: Một hôm, mấy tay “chiến hữu” đến rủ anh chồng đi…nhậu. Lúc anh chồng chuẩn bị lên đường, chị vợ bèn dặn dò đủ thứ: - Nè, anh nhớ uống vừa phải thôi, còn chừa đường về. - À, mà khi nhậu, anh phải nhớ ăn nhiều, bằng không sẽ bị đau bao tử nghe chưa! Đến khi anh chồng phóng xe ra tới đầu ngõ, chị vợ còn réo gọi, chạy theo đưa cho anh chồng chiếc áo mưa và nói: - Sao anh bỏ áo mưa ở nhà, lỡ trời đổ mưa, bị cảm lạnh lại khổ thân. Thái độ chăm sóc chồng trên mức…bình thường của chị vợ trước mặt đám “chiến hữu” khiến anh chồng ngượng chín cả người, thiếu điều muốn độn thổ mà thôi… Loại thứ hai, đó là công sức dạy bảo. Chị vợ không phải chỉ bỏ công sức ra nuôi chồng khỏe, mà còn bỏ biết bao nhiêu công sức ra để giáo dục, nhờ đó mà anh chồng được “thuần hóa” và trở nên người “ích quốc, lợi gia”. Thực vậy, gã đã từng thấy có những anh con giai, thuở còn độc thân, thì ngang tàng không ai chịu nổi, thế nhưng, cưới vợ xong chỉ một thời gian ngắn là bỏ được cái thói ngông nghênh của mình, chí thú làm ăn, khiến cho bà con lối xóm phải tâm phục, khẩu phục. Thì ra, sự dạy bảo của chị vợ, tuy âm thầm mà lại hiệu quả, theo kiểu “mưa dầm thấm đất”. Gã đã sưu tầm được một số những lời dạy bảo đầy êm dịu của những chị vợ, xin ghi lại nơi đây để những anh chồng cùng suy gẫm và đem ra thực hành, khi gặp phải những tình huống tương tự. Trước hết, khi còn ở trong nhà thì phải biết chia sẻ công việc “tề gia nội trợ” với chị vợ, chứ đừng lên mặt thầy đời, chỉ tay năm ngón. Một anh chồng đã thú nhận sự thất bại của mình trước những lời dụ dỗ ngọt ngào của chị vợ như sau: - Vợ tui là khéo nhất nhà, Rất hay sai vặt, nhưng là sai hay! Anh ơi giúp em tí này, Mang hộ cái đấy vào đây anh à. Cái này thì hãy mang ra, Mang vào cái đấy mang ra cái này. Vào ra giúp hộ tối ngày, Cái tai vẫn khoái, cái tay vẫn đều. Vợ tui đúng thật là siêu, Sai mà sai khéo, sai yêu, sai tình. (Bắc Tiếu) Còn khi ra ngoài ngõ, thì phải nhớ lời vợ dặn: - Lái xe ra khỏi cổng nhà, Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng: Một đừng mơ mộng thơ trăng, Đụng xe, thi sĩ gẫy răng u đầu. Hai đừng giữ ống nghe lâu, Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia. Ba đừng ghé quán rượu bia, Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường. Bốn đừng mua báo dọc đường, Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười. Năm đừng liến láo con ngươi, Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua. Sáu đừng hoang phí thời gian, Ngồi lâu trộm nghía cô hàng cà phê. Bảy đừng thấy phở mà mê, Ăn vào loét dạ, lại chê cơm nhà. Tám đừng hò hát lang thang, Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn. Chín đừng dạo bước hoàng hôn, Công viên hoa lá cô hồn rủ rê. Mười đừng ghé rạp xi nê, Ti vi nhà sẵn, lẹ về coi phim. Rõ chưa, vợ hét đứng tim, Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng. Mà này! Nhắc lại cho thông, Nếu không, tui quyết nhốt ông ở nhà. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chị vợ luôn có những hành động phù hợp, để giáo dục anh chồng: - Sợ ta đi trật đường rày, Vợ liền theo dõi kéo ngay về nhà, Khi ta tán tỉnh ba hoa, Vợ liền “quát nạt” để mà răn đe. Tới đây gã xin kể lại một câu truyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa” để thấy được rằng nếu chịu khó nghe lời vợ dạy, thì sẽ trở nên một con người đức độ và thành đạt. Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe theo hầu. Vợ tên đánh dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc. Lúc chồng về nhà, nàng xin từ bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi: - Tại làm sao ? Nàng nói: - Án Tử người gầy thấp và bé nhỏ, nhưng làm đến tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông ấy vẫn có ý chín chắn và khiêm nhường, như chưa bằng ai. Chớ như chàng cao lớn đẫy đà, mới chỉ làm được một tên đánh xe tầm thường và hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng. Thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi. Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chừa được cái tính nông nổi. Án Tử thấy thế, lấy làm lạ, bèn hỏi. Tên đánh xe bèn đem việc nhà mà kể lại. Án Tử bèn cất cho làm đại phu. Sở dĩ Án Tử chừa bỏ được cái thói “tự cao hão” và làm tới chức đại phu cũng chỉ vì đã nghe lời vợ dạy, Tuy nhiên, đôi khi cũng có những anh chồng cứng đầu cứng cổ, thì lúc đó chị vợ sẽ áp dụng chiến thuật “bất bạo động”: không nói, không cười, không cộng tác và không làm gì hết. Hay tạo nên một tình huống “chiến tranh lạnh”: ban ngày thì mặt mũi ủ rũ như treo cờ tang, còn ban đêm thì…”cấm vận”, mỗi người ngủ một nơi. Sau cùng, “tối hậu thu” được đưa ra một cách âm thầm, đó là chị vợ sẽ lặng lẽ khăn gói quả mướp về với bu, để dạy cho anh chồng một bài học thế nào là vâng lời vợ và thế nào là lễ độ với vợ. Tới đây, muốn được ổn định lại cuộc sống, anh chồng đành phải năn nỉ ỉ ôi, xin chị vợ tha thứ, để rồi “mời nàng về…dinh”. Kinh nghiệm cay đắng này, sẽ làm cho anh chồng mau mắn “hạ quyết tâm”: - Vợ mà dạy, phải lắng nghe, Mai sau “khôn lớn”, mà khoe mọi người. Tóm lại, gã xin kính cẩn nghiêng mình trước những chị vợ đã cư xử như một người mẹ và đã góp rất nhiều công sức vào sự nghiệp “nuôi chồng khỏe, dạy chồng ngoan”. Gã Siêu
Chồng ngu đần là Vô phúc Chồng thông minh thì Vô sự Chồng bỏ là Vô sinh Ế chồng là Vô GãSiêu 137
Chồng ngu đần là Vô phúc Chồng thông minh thì Vô sự Chồng bỏ là Vô sinh Ế chồng là Vô duyên Chồng đi ngoại tình là Vô đề kháng Giựt chồng là Vô lương tâm Chồng ly dị là Vô mưu Còn ly dị chồng là Vô mục đích Chồng ghen mà làm thinh là Vô tội Ghen với chồng là Vô cớ, nếu không nói là Vô hiệu Con riêng của chồng là Vô thừa nhận Vợ chồng bên nhau mãi mãi là Vô giá Vợ nhồng cãi lộn là Vô tận Chồng giận không nói là Vô hạn Vợ chồng đánh nhau là Vô luật lệ Chồng đánh mỗi ngày không sợ là thiên hạ Vô địch Nhưng đã bị chồng đánh là Vô phưiơng cứu chữa Ý chồng là Vô biên Áo quần chồng mặc là Vô hình Cơm chồng nấu là Vô vị Đồ đạc của chồng là Vô sản Nói xấu chồng là Vô công rồi nghề Ghẹo anh em trai của chồng là Vô tình Khen người khác đẹp trai trước mặt chồng là Vô ý Chồng được người ta khen nhiều là Vô tâm Chồng không muốn lại gần là Vô độ Trước khi ngủ với chồng cần phải Vô trùng Trốn chồng mà léng phéng là Vô kỷ luật ,Vô chủ Chồng bắt được quả tang (với bồ) là Vô can Vì chồng mà thi rớt là Vô dụng Vì chồng mà bỏ bạn là Vô ân Vì bạn mà không thương chồng là Vô lại Vì chồng mà bỏ cha là Vô đạo, Vô ơn Vì cha mà phụ chồng là Vô liêm sỉ Vì tiền mà xem thường bố chồng là Vô lễ, Vô văn hóa Lương đưa hết cho chồng là Vô điều kiện Chi tiền của chồng là Vô tư, Vô nguyên tắc, và Vô trách nhiệm Lấy chồng là Vô nghĩa, Vô bổ, Vô ích, Nhưng nếu không lấy thì Vô vọng. Gã Siêu
Trước khi viết những hàng chữ này, gã bèn phải cả tiếng thanh minh thanh nga đôi điều với bàn GãSiêu 138
Trước khi viết những hàng chữ này, gã bèn phải cả tiếng thanh minh thanh nga đôi điều với bàn dân thiên hạ, để mong có được một chút cảm thông nào đó.
Điều thứ nhất, đó là mấy bữa nay gã sống thật phất pha phất phơ, cà lơ thất thểu, thần hồn nát thần tính, bồng bềnh như kẻ bị tai nạn chạm mát thần kinh, tỉnh dậy bỗng quên tất tật mọi sự, hay như người cõi trên, liêu xiêu chân không đụng tới đất, chẳng phải vì gã muốn làm thi sĩ “mơ theo trăng mà vơ vẩn cùng mây”, nhưng chỉ vì bị cái máy vi tính nó vật mờ cả mắt.
Thực vậy, cái máy vi tính của gã đang chạy êm ru bà rù, bỗng dưng giở quẻ, đình công bãi thị. Bấm tới bấm lui nó cũng chẳng chịu nghe lời. Mời chuyên gia tới thì nghe hắn phán :
- Chiếc đĩa cứng có vấn đề.
Gửi lên công ty bảo hành, họ liền chuyển về cho một chiếc đĩa khác mới toanh. Nhưng than ôi, bao nhiêu công sức chắt chiu, bao nhiêu sự hay ho và đẹp đẽ tọng vào cho nó, bỗng chốc bị bay hơi, khiến gã như kẻ bị phá sản hay như người bị quân trộm cướp ưu ái đến viếng thăm. Ngay cả địa chỉ của cụ chủ nhiệm khả kính cũng biến mất tiêu. May mà gã còn ghi vào sổ tay, nên bài này mới bay qua bên nớ được.
Thành thử gã mới ngán ngẩm nhận ra rằng :
- Càng văn minh thì càng bị lệ thuộc vào máy móc. Và một khi máy móc bị trục trặc hay hỏng hóc, thì ta chỉ còn nước cứ đứng ngẩn...tò te, theo kiểu : “đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư”!!!
Sự cố này đến nay vẫn chưa khắc phục được hoàn toàn.
Điểm thứ hai, đó là nhiều kẻ đầu óc “san nặng” cho rằng gã như kẻ cuồng sĩ múa bút vườn hoang, tán hươu tán vượn, cà kê dê ngỗng, thiên binh thiên tướng, nhưng lại rất thiên tư thiên vị, chỉ biết bênh vực phe mình, tức là cánh đờn ông con giai, trong khi đó lúc nào cũng sẵn sàng chõ mõm vào để bới lông tìm vết mà phá thối phe ta, tức là cánh đờn bà con gái.
Qủa là oan ôi ông địa cho gã quá, bởi vì lúc nào gã cũng muốn giữ cái thế cân bằng, đã châm bên nọ thì cũng phải chích bên kia. Bằng cớ là trong mấy số báo vừa qua, gã đã mổ xẻ đôi ba tật xấu của phe mình, được tạm gọi là...bệnh đờn ông.
Vì thế, để tạo cho được trạng thái đề huề giữa giai và gái, giữa nam và nữ, kể từ số này gã xin giải phẫu một vài thói hư của phe ta, được tạm gọi là...tật đờn bà, chứ không dám gọi là...bệnh đờn bà đâu nhé. Bởi vì nếu gọi là “bệnh đờn bà” thì hẳn có kẻ đầy ác ý sẽ phong cho gã là “bác sỡi sản khoa hay phụ khoa” chi đó, thật là nguy tai.
Gã bèn chắp cả hai tay mà vái tứ phương thiên hạ :
- Nhà em...hỏng dám đâu.
Tật thứ nhất, đó là tật nhớ dai và nói dài. Khi viết hai chữ “nhớ dai”, gã xin bàn dân thiên hạ, từ già chí trẻ, vui lòng hiểu cho một cách nghiêm văn chỉnh, chứ đừng hiểu xiên hiểu xẹo, hiểu méo hiểu mó, nhất là hiểu theo kiểu nói lái thì hỏng bét. Có tội đấy!!!
Hai chữ “nhớ dai” bỗng làm cho gã nghĩ tới chiếc máy vi tính, bởi vì lúc này gã vẫn còn bị cơn ác mộng của nó đè nặng. Trên một tờ báo, người ta đã đưa ra câu hỏi :
- Tại sao máy vi tính lại thuộc về giống cái ?
Và người ta đã ghi nhận được nhiều điểm của máy vi tính rất gần và rất giống với đờn bà con gái :
1- Ngay cả những người tạo ra nó cũng chẳng thể nào hiểu được nó.
2- Một lỗi, dù là nhỏ nhất của bạn, cũng sẽ được ghi nhớ tức thời.
3- Người khác không thể nào hiểu được loại ngôn ngữ mà máy vi tính dùng để trao đổi thông tin với nhau.
4- Khi trang bị máy vi tính, tức là bạn đang trút phân nửa hào bao cho các thứ phụ tùng lỉnh kỉnh.
5- Bạn luôn muốn thử máy của người khác.
6- Máy vi tính lỗi thời rất nhanh.
7- Tuy nhiên, các máy vi tính có một lợi thế lớn hơn nhiều so với đờn bà con gái, bởi vì chúng có nút “tắt và mở”
Riêng phần gã, gã xin thêm một đặc tính khác nữa, đó là chẳng biết được lúc nào và tại sao nó lại trục trặc hay ngục ngặc, cũng giống như anh chàng chẳng thể nào biết được lúc nào và tại sao chị nàng lại…nổi giận đùng đùng và nghỉ chơi với mình.
Nếu gã nhớ không lầm thì có một vài ông triết gia khỉ gió nào đó đã đưa ra những câu định nghĩa hết sức “vô lý”, chẳng hạn :
- Trí nhớ là một khả năng để quên.
- Ai nghĩ đến quên thì ắt sẽ nhớ.
Trong phạm vi lý luận, người ta lại khoái cái món “vô lý” như thế thì phải, bởi vì các bậc thày trong thiên hạ thường nghiệm ra rằng :
- Điều gì càng tối, thì lại càng sâu. Chứ còn đơn giản, ai cũng biết thì còn hay ho gì nữa.
Cho nên cần phải phát ngôn làm sao để thiên hạ không thể hiểu nổi, phải nể phục mình sát đất và thế là nghiễm nhiên mình nhảy tót lên hàng sư phụ.
Chuyện lý luận hay suy tư như vậy, gã dốt đặc cán mai làu táu, nên chẳng dám ý kiến ý cò gì sốt. Riêng trong phạm vi đời thường, người ta thấy đờn ông con giai vốn có đầu óc tổng hợp, cái gì cũng đại khái chủ nghĩa, “qualoarement”, nên rất ư là hay quên.
Hồi còn nhỏ, mỗi lần ra đường, bà mẹ thường phải nhắc đức con giai đầu húi cua của mình như sau :
- Con phải nhìn trước nhìn sau kẻo xe nó đụng. Nhớ mang theo cái áo đi mưa, kẻo lại ướt như chuột lột lúc nào cũng không hay.
Gã có một thằng bạn, thỉnh thoảng hai đứa lại rủ nhau lên thành phố. Tối hôm trước, thằng bạn tự tay gấp quần áo bỏ vào sắc, thế mà lần nào cũng vậy, không quên cái này thì cũng sót cái kia. Có lần khi chui vào phòng tắm nhà người ta, hắn mới phát giác ra rằng mình quên không mang theo quần đùi, nên vội khều gã lại và nói nhỏ với gã :
- Cậu chịu khó xuống phố mua cho tớ hai chiếc quần xà loỏng. Mau lên nhé.
Còn việc hắn mặc quần tây mà quên không kéo “phẹc-mơ-tuya”, thì đó chỉ là chuyện nhỏ, vốn xảy ra thường ngày.
Tuy nhiên, dưới một góc cạnh nào đó, cái quên cũng có những lợi ích của nó. Bởi vì nếu phải nhớ hết mọi sự, chẳng bao giờ được phép quên, ắt hẳn đầu óc sẽ không còn đủ chỗ chứa cho những dữ kiện được nạp vào, bấy giờ nó sẽ nổ tung và điên lên mất, chỉ vì bị...quá tải mà thôi.
Chính vì thế, có người đã phát biểu như sau :
- Đôi khi quên những điều mình biết cũng làm lợi ích.
- Biết quên là một hạnh phúc hơn là một nghệ thuật.
Kinh nghiệm bản thân cũng cho gã hay :
- Nhiều lúc gặp phải chuyện buồn, mình cũng muốn quên phứt đi tất cả. Quên đời và quên người. Có quên đi thì mới được ngủ mới yên. Bằng không thì cuộc sống cứ nặng trình trịch như đeo cối đá vào cổ vậy.
Trong khi đó, đờn bà con gái thì ngược lại, vốn có đầu óc phân tích, sợi tóc chẻ làm bốn, luôn chú trọng tới những chi tiết nhỏ mọn nhất, nên rất ư là nhớ dai.
Chính vì thế, hồi ở tiểu học, cánh con gái thường dẫn đầu những môn học thuộc lòng, lên trung học phe kẹp tóc thường giỏi về sinh ngữ và khi thò chân vào cuộc đời, họ thường thích hợp với nghề thư ký, dạy học, nội trợ…là những nghề đòi phải có óc tỷ mỉ và nhớ dai.
Gã có một bà chị ở bên Mỹ, trước khi về Việt nam bốn tháng, bà chị ấy đã truyền cho gã cả một “bộ luật chương trình”, ngày nào phải đi đâu, phải làm gì...Rồi lại còn hỏi xem có cần phải thay đổi hay bổ túc gì không ? Gã chỉ biết trả lời :
- Cứ về đã, rồi hạ hồi phân giản, tới đâu hay tới đó.
So với chiếc máy vi tính thì đờn bà con gái nhiêu khê và rắc rối hơn nhiều. Đối với chiếc máy vi tính, một văn bản hay một hình ảnh đã được lưu vào bộ nhớ, lúc nào mình muốn bỏ đi thì chỉ cần bấm chọn tận gốc rồi nhấn nút “delete”, thế là xong, an toàn chăm phần chăm. Chứ còn đờn bà con gái ấy hở, một khi đã nhớ thì nhớ mãi nhớ hoài, nhớ vào tận tim gan phèo phổi, chẳng thể nào bỏ được. Mình càng cố gắng xóa đi thì họ lại càng nhớ dai hơn, thành thử tình huống trở nên rất ư là phức tạp.
Sau đây gã xin ghi lại tâm sự buồn của một ông chồng có bà vợ nhớ dai. Tâm sự buồn này đã được đăng tải trên báo Phụ nữ Chủ nhật. Gã xin trích dẫn nguyên con như thế này :
Cho dù các nhà khoa học có phát minh ra loại máy tính hiện đại nào có bộ nhớ tốt đến đâu đi nữa, tôi cam đoan rằng nó vẫn không bằng trí nhớ của...vợ tội.
Thưở mới yêu nhau, sự “nhớ dai” của nàng làm tôi hạnh phúc và tuy đó không phải là yếu tố quyết định, nhưng lại là một trong những lý do khiến tôi cưới nàng làm vợ. Lấy nhau rồi, tôi mới nhận ra sự nhớ dai của nàng làm tôi khổ sở.
Thuở yêu nhau, không có sinh nhật của người nào trong gia đình tôi mà nàng không nhớ. Vào những ngày đó, bao giờ nàng cũng dành cho gia đình tôi những bất ngờ thật dễ thương, không phải những món quà, mà chính sự quan tâm sâu sắc, sự tinh tế chu đáo của nàng làm cho mọi người trong nhà rất có cảm tình với nàng. Ba mẹ tôi giục tôi “cưới vợ thì cưới liền tay” bởi ông bà sợ vuột mất cô dâu quí. Mấy đứa cháu thì tối ngày cứ quấn lấy nàng khiến tôi có khi phải ganh tị với nàng.
Còn thói quen của mọi người trong nhà, thì nàng nhớ chính xác không sai vào đâu được : mẹ tôi kiêng món gì, ba tôi thích đọc loại sách nào, còn đứa em gái tôi thích mặc đồ “size” bao nhiêu...Tóm lại, nàng có thể nhớ tất tần tật những gì mà một thằng tôi sống trong gia đình từ bé đến lớn cũng không biết, chứ đừng nói là nhớ. Cho đến khi cưới xong, gia đình tôi vẫn an tâm hài lòng về sự chu đáo của cô con dâu mà theo mẹ tôi “còn hơn cả những đứa con ruột tao đẻ ra nữa”.
Chỉ có tôi mới biết tôi phải khổ sở bởi tính nhớ dai của nàng như thế nào. Trước khi cưới, có lần nàng bảo tôi :
- Anh hãy dọn dẹp lại phòng riêng của mình coi xem có gì cần “niêm phong” lại không thì làm trước khi em về, đừng để sau này em phát hiện ra là “mệt” đó!
Tôi hiểu nàng “ám chỉ” cái gì và câu nói với mệnh đề “nếu...thì...” của nàng còn bao hàm cả sự “đe dọa”, bởi trước kia tôi đã “thật thà thú thiệt” với nàng về những mối tình thời sinh viên của mình mà quên mất một câu đúc kết vô cùng chí lý là : “thật thà thường thua thiệt”. Nàng muốn tôi “dọn dẹp” những lá thư tình, những hình ảnh hay những kỷ vật có liên quan đấy mà.
Lúc đó, tôi nghĩ thật đơn giản :
- Có gì mà phải dọn, miễn là mình chỉ còn yêu cô ấy và lấy cô ấy mà thôi là đủ rồi.
Vả lại, bấy giờ tôi cũng chẳng nhớ mình để những thứ đó ở đâu. Tôi quan niệm những gì qua rồi thì thôi, tính tôi không thích những hoài niệm cũ với quá khứ. Vậy mà, chỉ sau tuần trăng mật, nàng bắt đầu ra tay “thanh lý” cái mớ bòng bong trong phòng tôi và không mấy khó khăn truy ra một đống “kẻ thù của những bà vợ hay ghen” : thư từ, hình ảnh, vài chiếc khăn tay và cả những thứ tôi từng tặng cô người yêu cũ nhưng bị trả lại kèm với những lời yêu đương vô cùng thắm thiết.
Thế là nàng yên lặng suốt mấy ngày sau đó. Bình thường sự ít nói của nàng đáng yêu vô cùng, nhưng lúc đó tôi chỉ thấy rờn rợn một sự lạnh lùng bao phủ hai vợ chồng. May mà tôi vừa tận hưởng những gì ngọt ngào nhất của tuần trăng mật, chứ nếu không, có lẽ nàng trừng phạt tôi bằng “mật đắng” mất. Nàng đọc tất cả không sót một chi tiết nào và sau này cứ mỗi lần có dịp là nàng lại lôi ra, không để “dằn vặt” thì cũng để “dằn mặt” tôi vì đã để cho nàng xem những thứ cấm kỵ đó.
Và chính cái trí nhớ chết tiệt của nàng đã hỗ trợ cho nàng trong việc công kích tôi. Đi ngoài đường, nếu tôi có lỡ dại ngoái nhìn một người nào đó trông quen quen thì nàng nhỏ nhẹ :
- Giống chị ấy quá hở anh ?
Khi tôi khen nàng cao và trắng, thì nàng hờn dỗi :
- May mà em giống chị ấy ở chỗ cao và trắng, nên anh mới lấy, chứ nếu không...dễ gì.
Rõ ràng những tấm ảnh nàng bắt gặp được đã in tạc vào bộ nhớ của nàng mất rồi. Những lúc đó tôi chỉ còn biết chịu trận. Người ta nói :
- Cái gì chẳng phải trả giá.
Tôi biết mình đang phải “trả giá” cho sự “sơ sót của mình, nhưng tôi không nghĩ hậu quả lại kéo dài và dai dẳng đến vậy...
Sau nhiều lần nhún nhường, tôi nổi cáu thực sự. Thế nhưng, khi thấy nàng thút thít :
- Tại sao biết em nhớ dai như vậy mà anh còn cố tình để em thấy những thứ đó làm chi ?
Tôi mới nhận ra lỗi là ở tôi cũng như ở cái trí nhớ dai dẳng của nàng, chứ nào phải nàng muốn làm khổ tôi.
Nếu có được một điều ước, tôi sẽ ước cho vợ tôi đừng có trí nhớ tốt như vậy, tương đương bộ nhớ của Pentium IV. Sẵn đây cũng xin nhắn nhủ cùng những người vợ có thói quen thích lôi quá khứ của chồng ra “nhắc nhở” rằng :
- Các ông chồng dù có thương vợ đến đâu cũng không thể chịu đựng nổi cái kiểu đào xới quá khứ của chồng lên như thế, tìm hiểu quá khứ của chồng chỉ để thông cảm và hiểu hơn về người chồng của mình thì tốt, bởi ai chẳng có quá khứ, nhưng đừng đay nghiến, xỏ xiên hay chỉ trích, bởi đó cũng là một phần cuộc sống của mỗi người, hơn ai hết lại là của người mình đầu ấp tay gối, kề cận mỗi ngày. Trân trọng quá khứ của chồng hóa ra cũng chỉ là một cách yêu thương và tôn trọng chồng vậy!
Chắc hẳn trong khối óc của đờn bà con gái, trung khu thần kinh về nhớ chắc hẳn nằm cận kề với trung khu thần kinh về nói. Vì thế, một khi đã nhớ dai thì chắc chắn họ cũng sẽ nói dài. Lòng đầy thì ắt hẳn phải tràn ra ngoài mà thôi.
Như chúng ta đã biết :
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Ngôn ngữ và tiếng nói chính là một quà tặng quí giá Thượng đế ban tặng cho con người, để truyền thông những tư tưởng, những ý nghĩ, nhờ đó hiểu nhau hơn và xích lại gần nhau hơn.
Thế nhưng, ngôn ngữ và tiếng nói lại là điều chúng ta thường sai lỗi hơn cả, bởi vì với ngôn ngữ và tiếng nói, chúng ta có thể sai lỗi ở mọi nơi, trong mọi lúc và với mọi người.
Gã không rõ có ai đó đã phát biểu một câu được liệt vào hạng “ranh ngôn” như thế này :
- Nơi nào có hai hay ba chị đờn bà tụ tập lại, thì nơi đó bỗng trở thành một cái chợ.
Lúc bấy giờ chị đờn bà nào cũng nghiêm nhiên là một phóng viên vỉa hè. Họ thu lượm và thông truyền cho nhau đủ mọi thứ tin tức từ trong nhà cho ra đến ngoài phố, từ chuyện riêng tư cho đến chuyện công cộng, chị đờn bà nào cũng cảm thấy ngứa cái lỗ miệng, nên rất khỏe nói : nói dẻo, nói dai, nói dài.
Gã không đồng ý với mấy câu ca dao vốn ca tụng cánh đờn ông con giai :
- Đờn ông nông nổi giếng khơi,
Đờn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,
Dù là vụng dại cũng là đờn ông.
Thực vậy, trong cuộc sống không thiếu gì những anh đờn ông khù khờ và dại dột, đồng thời cũng không thiếu những chị đờn bà khôn ngoan và giỏi giang, chẳng thế mà có chị đờn bà đã làm tới chức nữ hoàng, thử tướng, bộ trưởng...
Thế nhưng, không phải cứ nói dẻo nói dài mà sự thực và phần thắng sẽ thuộc về mình, bởi vì :
- Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều,
Người khôn mới nói nửa điều đã khôn.
Tuy nhiên, nói dẻo nói dài nói dai mà thôi chưa kinh khủng cho bằng việc nói day và nói dứt.
Thực vậy, một anh chồng, ở sở thì bị cấp trên chèn ép, cấp ngang ganh tị, cấp dưới bướng bỉnh. Trở về nhà chỉ thầm ước một điều là sẽ tìm thấy khuôn một mặt dịu hiền, một nụ cười tươi thắm, một lời nói ngọt ngào của chị vợ để quên đi những buồn đau và cực nhọc :
- Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
- Lạ thay nết nói nết cười,
Nết sao lại khiến cho người muốn thương.
Thế nhưng, có chị vợ lại thường xuyên càu nhàu và cạu cọ. Cứ thấy anh chồng vác mặt về là liền “a lê hấp” nhào vô đay nghiến và day dứt :
- Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua người ta thế nọ. Người ta kiếm tiền như nước đem về cho vợ cho con, còn anh sao vô tài bất tướng quá vậy. Khốn thân tôi, khổ thân tôi...
Ngay cả những lúc thân mật, chị vợ ấy cũng sẵn sàng rót vào tai anh chồng những lời nói chua như giấm và cay hơn cả ớt. Nhất là những khi xảy ra chuyện xích mích, thì nói dẻo nói dài nói dai mà thôi chưa đủ, chị vợ ấy còn nói xiên nói xẹo, nói bóng nói gió, nói móc nói méo, xóc vào đến tận tâm can tì phế anh chồng.
Hai chủ đề thường được chị vợ đem ra mà day dứt đối với anh chồng, đó là chuyện “cơm áo gạo tiền” và chuyện “tình lem nhem”, cho dù chưa được phối kiểm hay chỉ là những tin đồn thất thiệt.
Đến nước đó, anh chồng chỉ còn hai cách giải quyết :
- Một là yên lặng bỏ đi, hai là thượng cẳng chân hạ cẳng tay, cho cô ấy một trận để câm miệng lại.
Cả hai cách giải quyết đều bất ổn và bất lợi cho bản thân cũng như cho gia đình.
Gã cũng xin ghi lại nơi đây nỗi buồn của một anh chồng có chị vợ vốn nói dẻo và nói dài, nói day và nói dứt :
...Khi yêu nhau thì hầu như các cô rất dịu dàng, e lệ và ít nói. Nhưng khi đã yên bề gia thất, thì cái sự nói dài tỷ lệ thuận với năm tháng và tuổi tác. Những lời dễ thương âu yếm thì con êm tai, chứ đi làm về mệt mà nghe những chuyện ngày xưa dai nhách thì thật khổ. Đôi khi giận cá chém thớt, cằn nhằn con rồi la rầy luôn cả chồng, coi chồng như con.
Các ông kiếm cớ kéo dài thời gian ở ngoài đường để khỏi bị “nhai lỗ tai”, rồi những chuyện gì xảy ra thì chỏ có trời mới biết! Có ông tâm sự rằng :
- Ước gì có thể ghi âm “bài ca không quên” của vợ để được quyền bấm nút stop bất kỳ lúc nào muốn, chứ thực tế ngoài đời thì đành chịu thua.
Cuộc sống ngày càng cuốn hút con người vào tốc độ của nó. Những giây phút hiếm hoi ở nhà, ở bên nhau nên là những giây phút êm đềm. Hãy nói những lời yêu thương mật ngọt. Nếu mệt quá thì chí ít là nên...im lặng để có thể thư giãn nghỉ ngơi. Chuyện gì thủng thẳng lúc hai vợ chồng bình tĩnh cùng trao đổi. Đừng làm khổ nhau vì những chuyện không đáng, nhằm giữ cho mái ấm luôn là “một cõi đi về”.
Sau cùng là nói gian và nói dối. Nói dối chồng con trong việc chi tiêu, nói dối bè bạn trong việc giao tế, buôn bán và nhất là nói gian cho người khác. Cũng lại một câu “ranh ngôn” khác phát biểu :
- Nơi nào có hai hay ba chị đờn bà tụ lại với nhau, chắc chắn nơi đó có nói hành nói xấu, bằng không thì cứ chặt đầu tôi đi.
Nói đúng sự thật những sai lỗi của người khác còn có thể thông cảm, chứ phóng đại tô màu, bóp méo sự thật, hay dựng chuyện cốt để vui cười với nhau hay để hạ nhục, thì đó là điều bất ổn làm mất đi danh dự của người khác, khó mà đền trả cho được, bởi vì :
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời nói ra khỏi miệng, thì bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp.
Bởi đó, người xưa đã khuyên :
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Để kết luận, gã xin ghi lại lời một người mẹ khuyên cô con gái rượu của mình sắp sửa đi làm dâu thiên hạ như sau :
Cái nắng ban trưa thật chói chang như đổ lửa, oi bức đến độ làm cho mồ hôi mồ kê chảy xuống ròng GãSiêu 139
Cái nắng ban trưa thật chói chang như đổ lửa, oi bức đến độ làm cho mồ hôi mồ kê chảy xuống ròng ròng. Đang vật lộn với giấc ngủ chập chờn, thì bỗng chuông điện thoại reo vang. Lồm cồm bò dậy, tưởng người đẹp nào cơ chứ, ai dè hóa lại ra cụ chủ nhiệm đáng kính nhà ta. Sau một hồi vòng vo tam quốc, cà kê dê ngỗng đủ thứ chuyện trên trời cũng như dưới đất, cụ mới “dô đề” :
- Thiên hạ bên tây sắp dắt nhau đi nghỉ hè rồi đó, chú mày mau viết cho một mẩu, gọi là để bàn dân thiên hạ đề cao cảnh giác, phòng bệnh còn hơn chữa bệnh nhé.
Giữa lúc còn đang ngái ngủ, gã bèn trả lời “phăng xi lô” chẳng so đo và tính toán :
- Ôi giào, chuyện nhỏ mà.
Bây giờ ngồi vào bàn, đầu óc rỗng tuênh, bởi vì từ hồi cha sinh mẹ đẻ cho tới lúc này, đã măm mươi mấy tuổi rồi, mà nào có biết hè hiếc là đí gì đâu. Chỉ khi còn là “chú học trò thò lò mũi xanh” thì mới được nghỉ, bằng cách “tung hê” sách vở, rời xa trường lớp, về quê với bu được mấy tháng. Chứ một khi đã thò chân vào cuộc đời, thì làm gì có cơ may được đi hè trong tình trạng thắt lưng buộc bụng, kinh tế suy thoái, mắc chứng “viêm màng túi kinh niên”, làm không đủ ăn như hiện nay ở Việt Nam.
Và thế là gã bỗng nghiệm ra rằng :
- Không cái dại nào bằng cái dại mồm dại miệng.
Bởi vì như các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời vừa tuột ra khỏi miệng, thì bốn ngựa cũng khó mà đuổi theo.
Thành thử những người khôn ngoan mới khuyên nhủ :
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Đã trót hứa với cụ chủ nhiệm, thì cũng phải cố mà làm, như Nguyễn Du đã bảo :
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu ?
Để lấy khí thế cũng như tạo thêm niềm hứng khởi, gã bèn đứng lên, bắn một điếu thuốc lào. Thuốc ngấm vào tận lục phủ ngũ tạng, thở phào một cái và lim dim đôi mắt theo làn khói tỏa, gã bỗng thấy cuộc đời mới đẹp làm sao. Và thế là vội chạy ngồi vào bàn mà viết lấy viết để, kẻo tí nữa nó lại quên béng đi mất.
Phần lớn người Việt Nam hôm nay sống trên mảnh đất này chả dám nghĩ tới chuyện nghỉ hè. Cũng như phần lớn người Việt Nam ở nước ngoài, khi mới chân ướt chân ráo tới định cư ở quê một hương thứ hai, chả dám tơ tưởng đến việc xách va li cùng với bà xã và bày trẻ đi tắm biển hay lên núi thở hút những lọn khí trong lành.
Sở dĩ như vậy vì hôm nay ở đó và ngày xưa ở đây, mình chỉ là thân trâu ngựa, nai lưng ra kéo cày để mà kiếm sống. Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm. Trong những ngày tháng xám xịt ấy thì nghỉ có nghĩa là bản thân và gia đình phả...treo niêu. Bởi vì :
- Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Hơn thế nữa, đồng lương trong những giờ làm phụ trội ấy cũng nhích hơn một chút, nên người ta hy vọng rằng sẽ “ky cóp” được thêm tí tiền còm, bảo đảm cho những sinh hoạt cần thiết cũng như cho tương lai về lâu về dài, bởi vì :
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng nhặt thì chặt bị.
Cho đến hôm nay, cuộc sống đã được ổn định và tương lai đã lóe sáng, chứ không còn âm u như chiều đông ảm đạm hay tăm tối như cuối con đường hầm, người ta mới bắt đầu tính đến chuyền đi nghỉ hè và mơ ước những giờ phút thênh thang, thoải mái lang bang thăm chỗ này chỗ nọ.
Bây giờ “đi nghỉ hè” đối với nhiều người Việt Nam ở nước ngoài, không phải là một cái “mốt thời thượng” theo kiểu “phú quí sinh lễ nghĩa”, hay “trưởng giả học làm sang” nữa, mà là một nhu cầu chính đáng, vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Thực vậy, trong một bản nhạc có nốt bổng thì cũng có nốt trầm, có dấu ngân thì cũng có dấu lặng. Nếu cứ bổng mãi và cứ ngân mãi thì hẳn sẽ đứt gân cổ lăn quay ra mà chết. Còn nếu cứ trầm hoài, lặng hoài thì đâu phải là bản nhạc nữa.
Horace, một thi sĩ gốc La mã, trong tác phẩm Odes đã viết như sau :
- Thần Apollo đâu có dương mãi cây cung của mình.
Lời phát biểu này muốn nói lên rằng :
- Đối với cây cung, có lúc dương thì cũng phải có lúc chùng. Chứ cứ dương mãi dương hoài, lúc nào dây cũng căng cũng thẳng, thì chẳng bao lâu nó sẽ bị gẫy hay bị đứt.
Tác giả sách Giảng viên trong Cựu ước đã xác định đại khái như sau :
- Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời.
Một thời để chào đời , một thời để lìa thế...
Một thời để khóc lóc, một thời để vui cười...
Một thời để làm thinh, một thời để lên tiến...
Một thời để yêu thương, một thời để thù ghét...
Một thời để gây chiến, một thời để làm hòa.
Và như thế, ắt phải có :
- Một thời để làm việc, một thời để nghỉ ngơi.
Gã xin “no table” nghĩa là miễn bàn tới những kẻ mắc bệnh “lươi huyền” mãn tính, hay nói một cách cụ thể hơn, mang tật lười biếng quanh năm, bởi vì họ nghỉ suốt hai mươi bốn trên hai mươi bốn, họ chơi suốt ngày này qua ngày khác, chẳng cần cuối tuần hay hè hiếc chi cả.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả rất nhiều về họ. Trước hết họ là hạng người “há miệng chờ sung”. Chuyện rằng tại ngôi làng nọ có một anh chàng lười vào hạng siêu đẳng, được tôn làm sư phụ. Mặc dù bụng đang đói cồn đói cạo, nhưng lại được nằm dưới gốc một cây sung đầy trái chín, thế mà vị sư phụ khả kính này cũng chẳng thèm đứng lên, hái mà ăn, cứ nằm há mồm và chỉ nhai tóp tép trái nào rơi vào chính miệng mình mà thôi. Vì thế, chẳng bao lâu sư phụ bèn giã từ cõi sống mà về chầu tiên tổ.
Thứ đến, họ là hạng người làm ít ăn nhiều. Làm chẳng bao nhiêu mà ăn thì quả là...có vấn đề :
- Ăn như rồng cuộn, làm như cà cuống lội ngược.
- Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng.
Tác phong của họ được mô tả :
- Ăn thì ăn những miếng ngon,
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.
- Ăn rồi nằm ngả nằm nghiêng,
Có ai lấy tớ thì khiêng tớ về.
Hình ảnh tiêu biểu cho hạng người lười này là hình ảnh của một ông chú…thân thương :
- Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Đối với những người chăm chỉ làm việc, nghỉ ngơi không phải chỉ là một quyền lợi, mà nhiều lúc còn là một bổn phận cần làm ngay, nghĩa là… phải nghỉ, phải ngơi.
Nói thế, hẳn nhiều người cho rằng gã đang về hùa với những kẻ lười biếng, chỉ thích ngồi nhà mát mà ăn những bát vàng. Đứng trước mọi công việc, chỉ thầm mong được người ta chọn làm người chỉ đạo nghĩa là đứng chỉ tay mà chẳng phải đụng vào, hay được người ta bàu làm giám đốc nghĩa là chỉ dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm.
Thế nhưng, ở đây gã xin thề độc thề địa :
- Chết sa...đó là sự thật.
Bởi vì phen này gã nói có sách, mách có chứng hẳn hoi, chứ chẳng phải tán hiêu tán vượn và phệu ra đâu nhé.
Thực vậy, trong Tin mừng có lần Chúa Giêsu đã xác quyết :
- Cha Ta làm việc và Ta cũng làm việc.
Mà theo luật thì :
- Đã làm việc cật lực thì cũng phải được nghỉ ngơi.
Đúng thế, Sách Sáng thế ký đã kể lại việc Thiên Chúa dựng nên trời và đất cùng muôn vật muôn loài như sau :
Ngày thứ nhất Ngài dựng nên ánh sáng, rồi phân rẽ ánh sáng và bóng tối, Ngài gọi ánh sáng là ngày và bóng tối là đêm. Ngày thứ hai Ngài dựng nên một cái vòm và nước, rồi phân rẽ chúng, Ngài gọi cái vòm là trời. Ngày thứ ba Ngài bắt nước phải tụ lại một nơi để lộ ra chỗ cạn. Ngài gọi chỗ cạn là đất và khối nước là biển, rồi đất trổ sinh mọi thứ cây cỏ. Ngày thứ tư Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng muôn vì tinh tú. Ngày thứ năm Ngài dựng nên chim trời cá biển cùng mọi loài sinh vật trên mặt đất. Ngày thứ sáu Ngài dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Thế rồi ngày thứ bảy, sau khi hoàn tất công trình, Ngài đã nghỉ ngơi.
Không những Thiên Chúa nghỉ ngơi mà Ngài còn muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng nhỉ ngơi như vậy sau khi đã làm việc. Đúng thế, sách Xuất hành đã kể lại việc Thiên Chúa truyền cho ông Mai sen mười điều răn được khắc ghi trên hai bia đá tại đỉnh Sinai. Điều răn thứ ba đã mói rõ như sau :
- Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ, dù đang vụ cày hay vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.
Điều răn này rất quan trọng và được quy định một cách khắt khe :
- Ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày sabát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Đức Chúa, kẻ nào làm việc trong ngày ấy sẽ bị xử tử. Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sabát tại những nơi mình ở.
Dân Do thái đã tuân giữ điều răn này một cách rất nghiêm minh. Trên đường trở về miền đất hứa, họ phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm và suốt khoảng thời gian này, Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng manna bởi trời. Thế nhưng, họ phải lượm manna ngay từ hôm trước mà dành sẵn cho ngày thứ bảy. Thậm chí khi bị quân địch xông đánh vào ngày thứ bảy, họ thà chịu chết chứ không cầm vũ khí chống cự.
Từ chỗ nghiêm minh họ đã đi đến chỗ khắt khe và thái quá. Chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao bọn biệt phái lại chỉ trích việc Chúa Giêsu chữa lành cho những người đau ốm vào ngày thứ bảy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã có lập trường dứt khoát của riêng mình :
- Ngày sabát được phép làm điều lành...Ngày sabát được dựng nên vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát.
Như vậy việc nghỉ ngơi ngày sabát thời xưa hay ngày Chúa nhật thời nay là một điều răn buộc phải tuân giữ. Cùng với sự ổn định về kinh tế, trong dịp cuối tuần người ta được nghỉ không phải chỉ một ngày mà những hai ngày, đó là ngày thứ bảy và Chúa nhật.
Lần kia, sau khi các môn đệ đi thực tập truyền giáo trở về và đang kể cho Ngài nghe những việc mình đã làm và những điều mình đã dạy, Chúa Giêsu liền khuyên các ông như sau :
- Các con hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
Như vậy nghỉ ngơi quả là một điều cần thiết, bởi vì kinh nghiệm bản thân cho thấy :
- Có nghỉ ngơi thì mới hoàn tất một cách tốt đẹp, hay ít nữa có nghỉ ngơi thì mới bắt đầu lại một cách hăng say.
Vì thế, sau một giờ học chăm chỉ người ta có những giây phút giải lao. Sau một ngày làm việc miệt mài, người ta có những giờ ban đêm để ngủ nghỉ. Sau một tuần làm việc cần cù người ta có những ngày cuối tuần để xả hơi. Sau một năm làm việc vất vả , người ta có những tuần phép để đi đây đi đó, mà gã xin tạm gọi chung chung là đi...nghỉ hè. Và sau một đời làm việc nhọc nhằn, người ta có những tháng năm để...hưu dưỡng.
Nghỉ ngơi không phải chỉ là điều cần thiết, mà lắm lúc còn là điều bắt buộc :
- Phải nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe cho bản thân, phải nghỉ ngơi để có thời giờ chăm sóc cho gia đình và những người thân yêu.
Nhiều đứa con đã hư hỏng chỉ vì cha mẹ mải mê mánh mung không để ý tới chúng. Nhiều ông chồng đã mất toi bà vợ “xinh xỉnh xình xinh” của mình cũng chỉ vì miệt mài áp phe áp chảo hay ngâm kíu ngâm kiếc, yêu việc hơn yêu vợ, không ngó ngàng chi đến nhà với cửa, tới khi “ngộ ra” thì quá muộn, nàng đã xé toạc tờ hôn phối hay đã khăn gói bước theo kẻ khác để được chiều chuộng và quan tâm hơn.
Nghỉ ngơi là điều cần thiết và bó buộc, thế nhưng, phải nghỉ ngơi như thế nào ? Đó mới là chuyện quan trọng cần phải bàn bạc. Gã tạm chia sự nghỉ ngơi làm hai loại, sự nghỉ ngơi của quí vị con nít và sự nghỉ ngơi của quí vị người nhớn.
Trước hết là sự nghỉ ngơi của quí vị con nít.
Như chúng ta đã biết con nít vốn hiếu động, nhất là bọn nhóc tì “húi cua”, vì thế trong những lúc rảnh rỗi, không thể nào bắt chúng ngồi yên như pho tượng hay quì “chắp tay xỏ lỗ mũi” mà cầu nguyện hồi lâu, bởi vì chúng luôn nghí ngoáy, quay bên nọ, ngó bên kia. Đối với chúng, nghỉ có nghĩa là chơi. Hễ lúc nào nghỉ ngơi là lăn xả vào vui chơi lúc ấy. Nhưng phải chơi ra làm sao ?
Các cụ ta ngày xưa vốn căn dặn :
- Học ăn học nói học gói học mở.
Điều căn dặn này cho thấy chúng ta phải học tất cả từ những điều tầm thường và nhỏ mọn nhất. Chơi tuy dễ mà lại khó, tuy đơn giản mà lại phức tạp, bởi vì rất nhiều người đã chẳng chơi cho phải phép. Chính vì thế, trên lá cờ của thế vận hội người ta thêu hai chữ “Fair Play”, có nghĩa là “Chơi Đẹp”. Để được chơi đẹp, thiết tưởng những người có trách nhiệm hướng dẫn nên nhắc quí vị con nít mấy điều sau đây :
Thứ nhất là phải chơi cho đúng lúc.
Thực vậy, người ta thường bảo :
- Giờ nào việc nấy.
Học thì phải cho ra học, còn chơi thì phải cho ra chơi. Ngồi trong lớp học, thay vì nghe thày cô giảng bài, lại vác cờ ca rô ra mà chơi với nhau, chắc chắn là bấn ổn rồi. Thời giờ là vàng. Hãy biết lợi dụng nó để trau dồi kiến thức, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc sống. Bởi vì thời giờ đã qua đi thì sẽ chẳng bao giờ trở lại.
Người xưa cũng đã xác quyết :
- Ấu bất học, lão hà vi.
Bé mà không học, thì lớn lên chỉ còn cách “ bị gậy” đi ăn mày. Lúc đó có hối tiếc thì e rằng đã quá muộn.
Thứ hai là phải chơi cho đúng nơi.
Thực vậy, người ta cũng thường bảo :
- Mỗi việc đều có chỗ của nó.
Nhà thờ là để cầu nguyện. Trường lớp là để học hành. Sân bãi là để vui chơi. Nếu chúng ta lộn chuồng, chẳng hạn : chơi trong trường lớp, cầu nguyện ngoài sân bãi và học trong nhà thờ...thì quả thực chẳng ổn tí nào.
Thứ ba là phải chơi cho đúng cách.
Trong một cuốn sách bàn về thể thao, một tác giả Ăng lê đã viết như sau :
- Đừng bao giờ đổ lỗi cho người khác cũng như đừng bao giờ ăn gian và che dấu sai lỗi của mình. Dù được hay thua, cũng phải chơi cho đúng cách và chơi cho thật đẹp. Phải tôn trọng tinh thần thể thao hơn là chiến thắng.
Ngoài ra, chơi cho đúng cách còn có nghĩa là phải biết tự chủ, đừng cố tình chơi xấu làm người khác bị tổn thương. Chẳng hạn cố tình “cốp” vào chân đối phương đễ họ bị “đo sân” và phải bỏ dở cuộc chơi.
Khi về già, tướng Wellington, ngày kia đã trở lại thăm trường cũ. Ông đưa mắt nhìn khoảng sân rộng, nơi mà hồi xưa ông đã vui chơi với bạn bè. Rồi bằng một dáng bộ trầm ngâm, ông nói :
- Chính tại sân chơi này mà tôi đã thắng được Napoléon.
Đúng thế, chính tại sân chơi này, ông đã học được những bài học của sự can đảm, tự tin, cộng tác và yêu thương để rồi khi bước xuống cuộc đời ông đã thắng được mọi nỗi khó khăn, kể cả việc thắng được Napoléon tại Waterloo.
Tiếp đến là sự nghỉ ngơi của quí vị người nhớn.
Sự nghỉ ngơi này xem ra nhiêu khê và rắc rối hơn. Thời gian nghỉ ngơi phải là thời gian bồi bổ cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Thực vậy, nhờ nghỉ ngơi, thân thể lấy lại được sức khỏe, nhờ rảnh rỗi mà chúng ta có thể trau dồi thêm cho mình những điều cần thiết, chu toàn bổn phận tôn giáo, chăm sóc đến những người thân yêu như vợ chồng, con cái hay thực hiện công việc bác ái đối với những người chung quanh. Thế nhưng, rất nhiều lần người ta đã không làm như vậy.
Đúng thế, có những ông chồng đi làm về liền nằm dài trên ghế mà đọc báo hay xem truyền hình và...…chờ cơm, chẳng hề phụ giúp cho bà vợ trong chuyện bếp múc và nhà cửa. Nhất là vào cuối tuần, những ông chồng ấy liền vù đi đánh bài hay nhậu nhoẹt với bè bạn, mãi tới sáng thứ hai mới dẫn xác về. Thành thử những ngày nghỉ cuối tuần, đáng lẽ ra phải là dịp cho mọi người đoàn tụ và xum họp, thì bây giờ đường ai người ấy đi, việc ai người ấy làm. Ngày Chúa nhật cũng giống như ngày thường, gia đình lãnh lẽo và trống vắng như...Chùa Bà Đanh. Thậm chí có bà vợ đã phải tâm sự :
- Cuối tuần, mình rất muốn anh ấy ở nhà để vợ chồng tâm sự với nhau, cha mẹ trò chuyện cùng con cái, nhờ đó gia đình được thêm phần ấm cúng. Nhiều lúc mình mong nhận được những lời an ủi, hay ít nhất một bờ vai để tựa đầu mà cũng chẳng thấy. Nghĩ cũng tủi. Một mình vò võ. Chồng đi đằng chồng. Con cái đi đàng con cái. Biết làm sao bây giờ ?
Trên đây mới chỉ là sự nghỉ ngơi ngắn hạn như cuối ngày hay cuối tuần. Còn sự nghỉ ngơi tương đối dài hơn, chẳng hạn như nghỉ hè, thì sao ?
Với một cuộc sống ổn định và nhất là với một số “đô la” kha khá dằn trong bóp hay trong túi áo, người ta có quyền nghĩ đến và vẽ ra cả một chương trình cho chuyến đi nghỉ hè.
Đây không còn là là chuyện riêng tư của một thiểu số, nhưng đã trở thành chuyện chung chung của nhiều người. Kẻ phương tây thì chạy sang phương đông và trái lại người phương đông lại chạy sang phương tây. Kẻ phương bắc chạy xuống phương nam và trái lại người phương nam lại chạy lên phương bắc…thôi thì cứ loạn cào cào, muốn đi đâu thì đi, miền là có…tiền.
Riêng người Việt Nam mình ở nước ngoài thì nên như thế nào ?
Nếu ngân sách eo hẹp, người ta có thể dắt bầu đoàn thê tử đi từ thành phố này qua thành phố khác trong cùng một nước. Chẳng hạn ra biển để tắm nắng, hay lên núi để nhìn mây bay bay cũng như nghe suối chảy róc rách và thác đổ ầm ầm.
Còn nếu tiền bạc rủng rỉnh, người ta có thể đi nghỉ hè xuyên lục địa, từ nước này đến nước khác. Nhất là những nơi có nhiều danh lam thắng cảnh. Trong số những nước được đưa vào chương trình, thì hẳn phải có tên Việt Nam.
Thực vậy, người Việt Nam trở về Việt Nam là thượng sách, bởi vì Việt Nam chính là quê hương của mình. Và nếu dẫn theo con cái nữa thì lại càng tuyệt vời. Bởi vì con cái, nhiều đứa sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, chả có mấy tí hiểu biết về Việt Nam. Dẫn chúng về để chúng nhìn thấy đất nước mình hầu tạo được một gắn bó nào đó. Bằng không, một thời gian sau chúng hoàn toàn bị “Tây hóa” hay “Mỹ hóa” và sẽ bị…mất gốc.
Về Việt Nam quả thực mang nhiều cái lợi.
Cái lợi thứ nhất, đó là hâm nóng lại tình nghĩa ruột thịt, bè bạn, làng xóm.
Đúng thế, người Việt Nam mình vốn trọng nhân nghĩa, như tục ngữ đã xác quyết :
- Miếng trầu nên nghĩa, chuyến đò nên duyên.
Thế nhưng, tình nghĩa ấy dù có mặn nồng, nhưng không được hâm nóng, thì dần dần cũng sẽ nguội. Thời gian và không gian sẽ gậm nhấm và làm cho nhạt phai, như tục ngữ đã bảo :
- Xa mặt, cách lòng.
Hay như người dân tộc Tày-Nùng đã nói :
- Đường không qua lại cỏ tranh mọc,
Anh em không đi về thành người dưng.
Cái lợi thứ hai đó là giá cả sinh hoạt ở Việt Nam khá rẻ so với những nơi khác. Vì thế, với đồng đô la, người ta có thể mua sắm đủ thứ ở Việt Nam. Với đồng đô là, người ta có thể giúp đỡ bà con, thiết đãi bạn bè mà không hao xót lắm. Với đồng đô la, người ta có thể sống thoải mái trên đất nước này...ngay cả việc “sắm” cho mình một cô vợ trẻ cũng không quá tốn kém.
Và còn nhiều cái lợi khác nữa tùy theo đích nhắm của từng người. Dĩ nhiên gã không bao giờ làm quảng cáo cho các hãng du lịch, nhưng chỉ muốn nói lên tình cảm chân thành nhất của những con người rời xa quê hương, bởi vì :
- Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Có những người, thoạt đầu khi nói về Việt Nam thì đã dãy đay đảy như đỉa phải vôi, bởi vì còn đeo nặng dĩ vãng hay mang một thành kiến nào đó. Nhưng rồi khi đã về, thấy ấm lên tình người và không ngần ngại hẹn gặp lại nhau một ngày gần nhất.
Tuy nhiên, trong việc trở về Việt Nam cũng có một vài chuyện lôm côm, những chuyện lôm côm này gã đã từng mổ xẻ nhiều lần.
Chuyện lôm côm thứ nhất đó là bệnh nổ. Nhiều ông ở bên đó chỉ là dân cu li cu leo, nhưng về bên này bèn nổ tung và nghiễm nhiên trở thành bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên này, chuyên viên nọ. Có những ông ở bên đó phải chạy đi vay ngân hàng hay bè bạn mới có tí tiền còm dằn túi, nhưng về bên này liền ăn tiêu xả láng cho thiên hạ phục sát đất. Có những ông ở bên đó chỉ biết nói chuyện với Mỹ bằng tay và rất thạo chia động từ “to quơ”, nhưng về bên này mở mồm ra nói, thì câu nào cũng chêm nấy tiếng Ăng lê cho ra vẻ con nhà học thức...Rồi thì chê ỏng chê eo nhưng điều kiện sinh sống tại Việt Nam.
Chuyện lôm côm thứ hai đó là bệnh lừa gạt. Với các mác Việt kiều, người ta sẵn sàng gạt tiền của người khác bằng cách bỏ vốn ma đầu tư cho những công ty ma, nghĩa là chẳng có trên thực tế. Với cái mác Việt kiều, người ta sẳn sàng lừa tình của những cô gái nhẹ dạ. Mặc dù ở bên đó đã đùm đề vợ con, nhưng về bên này vẫn muốn kiếm tí tình còm vắt vai để được chiều chuộng thỏa mãn mà chẳng tốn kém bao nhiêu...
Riêng các bà các cô, thì nhiều người về bên này bỗng dưng máu “shopping”, mua sắm nổi lên đùng đùng. Vì hàng ở bên này vừa rẻ lại vừa đẹp, nên nhìn thấy cái gì cũng mua cũng sắm.
Gã đã từng tháp tùng vợ chồng một chú em đi...chợ. Chị vợ luôn tay chỉ trỏ :
- Cái này, cái kia...và cái kia nữa.
Lúc đầu anh chồng còn vui vẻ để chứng tỏ mình “ga lăng”, nhưng rồi khuôn mặt bắt đầu đổi sắc, nhăn nhó và kèm theo cả một vài lời gắt gỏng :
- Mua gì mà mua lắm thế.
Thậm chí anh chồng phải lén tới chi nhánh ngân hàng rút tiền “ngoài dự tính” để trang trải cho những mua sắm phụ trội. Cuối cùng, những thứ mua sắm phụ trội này đành phải để lại Việt Nam vào tối hôm trước lúc ra phi trường vì không còn chỗ để mà chứa...
Kể ra thì còn dài dòng lắm. Nhưng thôi.
Chung quanh nhà chả có cây phượng nào. Mà phượng ở Việt Nam bây giờ cũng thay đổi theo thời tiết, nở hoa vào khoảng cuối tháng ba và khi hè về thì đã tàn. Riêng cái nắng thì vẫn chói chang như đổ lửa. Chính trong bầu khí oi ả này, gã bỗng nhẩm đi nhẩm lại bài “Hè về” đượm sắc tình Việt Nam của Hùng lân như một kết thúc :
Một trong những chứng bệnh của phe đờn ông con giai, khiến cho quí bà quí cô nhiều khi phải GãSiêu 140
Một trong những chứng bệnh của phe đờn ông con giai, khiến cho quí bà quí cô nhiều khi phải nhăn mặt “âm thầm gậm nhấm nỗi đớn đau cô đơn” của mình, đó là chứng bệnh nhậu.
Để diễn tả nỗi đớn đau vò võ ấy, người ta đã nhái theo bài hát “Hòn vọng phu” như sau :
- Bao nhiêu đêm cầm roi đứng đợi chồng về,
Bao nhiêu đêm vòng tay đứng nghe chồng thề.
Không hiểu bên Thụy sĩ, người ta nhậu ra làm sao và nhậu theo phong cách nào ? Chứ còn tại Việt Nam, người ta nhậu ở mọi nơi, trong mọi lúc và với bất kỳ lý do nào. Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu và thậm chí muốn nhậu là nhậu, chẳng cần lý do nào sốt.
Vì vậy, phong trào nhậu cứ “liên tục phát triển”. Chả thế mà đất nước mình thuộc vào hạng nghèo rớt mùng tơi, nhưng lại có mặt đầy đủ những thứ bia nổi tiếng trên thế giới và hàng năm người ta sản xuất ra không biết bao nhiêu triệu lít bia.
Rồi trong những ngày gần đây tại Saigon, xuất hiện hàng loạt những “làng nướng”, làng “lẩu”…Cứ chiều chiều đi ngang qua những thứ làng này, mùi thịt thà cá mú bốc lên làm điếc mũi hàng xóm. Tất cả những điều ấy, gã đã có dịp trình làng.
Riêng hôm nay, gã sẽ nhìn hiện tượng nhậu dưới góc độ của anh đờn ông cũng như của chị đờn bà, để rồi đi đến một kết luận cụ thể, đó là ta phải nhậu như thế nào cho đáng mặt mày râu.
Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào chi tiết, gã xin đề cập tới vị sư tổ của trường phái nhậu, đó chính là Lưu linh.
Theo sách vở thì Lưu linh tự là Bá luân, người đời Tấn. Ông thuộc nhóm “thất hiền”, tức là một trong bảy vị hiền tài ở Trúc lâm, tính tình phóng khoáng, thích uống rượu lại giỏi thơ văn. Ông đã để lại cho đời một bài thơ bất hủ, ca ngợi cốt cách phong lưu của việc uống rượu. Bài thơ ấy mang tựa đề là “tửu đức tụng”. Chả thế mà trong “Cung oán ngâm khúc” có câu :
- Cờ tiên, rượu thánh ai bằng,
Lưu linh, Đế thích là làng tri âm.
Tục truyền trằng : vào một đêm trăng thanh gió mát, ông ngồi uống rượu và ngâm thơ với các “chiến hữu” trên một chiếc thuyền. Trong lúc cao hứng, ông đứng lên, loạng choạng bước tới mũi thuyền. Nhìn thấy vầng trăng lung linh dưới đáy nước mà cứ ngỡ là lơ lửng trên bàu trời, ông liền giang tay nhảy xuống ôm lấy trọn vầng trăng và bị thế là…dòng nước cuốn trôi.
Từ đó cho đến nay, dân bợm nhậu vốn thường được gọi là đệ tử của Lưu linh và tôn ông làm sư tổ của mình.
Nhiều người cho rằng :
- Đối với phần lớn đờn ông con giai, thì tình yêu đi vào trái tim thường phải rẽ qua ngả đường của bao tử.
Điều đó chứng tỏ rằng anh đờn ông con giai nào cũng khoái ăn ngon. Thế nhưng, đồ ăn thịnh soạn mà thiếu chất cay cay để đưa mồi thì cũng hóa thành nhạt nhẽo như người xưa đã bảo :
- Cỗ không rượu như kiệu không cụ. Đi rước kiệu mà không có cha chủ sự thì còn ra cái thể thống chi nữa.
Chính vì vậy, rượu đã xuất hiện từ một thuở rất xa xưa và có mặt trên từng cây số nơi các dân tộc, từ đông sang tây, từ cổ chí kim và làm thành nét đẹp riêng của văn hóa. Chả thế mà trong ngành du lịch, người ta đã đưa ra chiêu bài nền “văn hóa ẩm thực” của dân tộc mình để thêm phần hấp dẫn hầu dễ bề móc túi du khách.
Gã không biết ai là người đầu tiên đã chế biến nên rượu. Thôi thì đành dựa vào Kinh thánh vậy. Theo sách Sáng thế ký : sau cơn đại hồng thủy, khi nước đã rút hết, thì Noe đã trông nho và làm rượu. Ông cũng đã nhậu một chầu túy lúy với những xị rượu đầu tiên của mình.
Và thế là chuyện nhậu được phổ biến và trở thành một tập tục của loài người. Hai tên bạn khố rách áo ôm lâu ngày gặp nhau, thế nào cũng phải làm xương xương với nhau vài táo. Các chính khứa hội đàm “mí” nhau và khi cuộc hội đàm kết thúc, thế nào cũng phải có màn chiêu đãi tiệc tùng.
Cũng bởi lẽ ấy, mà các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Nam vô tửu như kỳ vô phong, có nghĩa là đờn ông con giai mà không biết uống rượu thì như cờ treo mà không có gió. Ủ rũ.
Gã xin ghi lại nơi đây tâm sự buồn của một anh con giai không biết nhậu, được đăng trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” :
“ Khi còn độc thân mỗi lần được bạn bè mời đi dự đám tiệc, tôi đều phải len lén chọn những bàn tập trung phái nữ và cũng chọn cho mình một loại thức uống giống y như họ là một chai...nước ngọt! Trong lúc bạn bè cùng “hệ” đang hí hửng với những ly bia vàng óng, sóng sánh bọt, tưng bừng hô vang “Zdoô, zdoô...” một cách hết sức sôi động, thì tôi chỉ biết cắm cúi gắp lấy gắp để cho đến món cuối cùng hầu được...ra về! Đến khi lập gia đình, điều kém nay mắn này lại càng được bộc lộ rõ ràng hơn. Ngay vào ngày cưới, thường chú rể là người “bị” uống nhiều nhất. Hết bàn này đến bàn khác, hết người này chúc mừng đến người kia mời mọc. Mặc dù đã “tự nhủ lòng” phải kiềm chế tối đa để bảo đảm cho một đêm tân hôn...cực kỳ tỉnh táo, nhưng trước những lời chúc tụng quá ư chân thành của bạn bè, của bà con hai họ, tôi cũng ráng gồng mìn...uống, như để nuốt cạn từng lời chúc mừng chí tình chí nghĩa ấy! Cho tới bàn cuối cùng, tôi chỉ còn nhớ được mang máng hình như có ai đó đã...vác tôi ra xe taxi rồi đưa về nhà trước khi tàn tiệc cưới! Đến khi giật mình tỉnh giấc đã là bảy giờ sáng của ngày hôm sau và điều chắc chắn rằng trong đêm tân hôn đó, chú rể vẫn còn là chú rể và tất nhiên cô dâu cũng vẫn còn là cô dâu, chẳng chút mảy may xây xước. Đâu đã hết, điều kém may mắn ấy vẫn còn theo đuổi tôi cho đến bây giờ. Chẳng là gia đình bên vợ tôi rất đông người, bốn anh em trai cộng thêm với ba người anh cột chèo, vị chi là bảy người và ai cũng uống bia như uống...nước mía, chỉ lẻ loi mình tôi là “yếm thế”. Những lúc giỗ tết, tôi chỉ còn biết ngồi khép nép bên vợ để được “che chở” khỏi bị ép uống...Có thể nhiều bà vợ cứ nghĩ chồng mình không biết uống rượu là một điều hạnh phúc, nhưng các bà đâu có thể hiểu hết được những “nỗi thẹn thùng” của các ông mỗi khi đụng chuyện. Đàn ông đàn ang như tôi mà không biết uống rượu quả đáng xấu hổ. Vì thế, nếu cho tôi một điều ước, tôi sẽ chẳng do dự nói ngay rằng : Phải chi tôi cũng biết...nhậu”.
Nếu như cô gái lỡ thời đã tâm sự :
- Không chồng khổ lắm chị em ơi!
Thì hẳn anh chàng này cũng phải lớn tiếng mà kêu lên :
- Không nhậu khổ lắm anh em ơi!
Đã vậy, nhiều lúc chẳng muốn nhậu mà cũng vẫn bị nhậu và bắt buộc phải nhậu, thì nào có khoái, có vui sướng gì cho cam. Dĩ nhiên ở đây gã không bàn tới những vị sáng say chiều xỉn tối lăn quay, thuộc hàng cao thủ võ lâm, bợm nhậu mãn tính hay dân ghiền hạng nặng, dám vỗ ngực tuyên bố :
- Thà bỏ...vợ còn hơn bỏ...nhậu.
Nhưng chỉ xin dề cập đến những đấng thường thường bậc trung, mỗi khi nhậu đều có những lý do chính đáng và lắm lúc có cả giấy phép của…bà xã nữa. Vậy tại sao những đấng ấy lại nhậu, hay nói một cách khác, những đấng ấy nhậu để làm gì ? Dựa vào một bài báo trên “Phụ nữ Chủ nhật” gã xin bổ túc và đưa ra những lý do khiến người ta nhậu một cách rất chính đáng.
Lý do thứ nhất, đó là phải nhậu thì mới có tiền.
Mới nghe qua lời phát biểu này thì thấy nó có vẻ vô lý, bởi vì theo luật kinh tế : càng đông vui thì lại càng hao. Nhậu miết thì thể nào cũng mắc chứng “viêm màng túi” kinh niên. Thế nhưng, nếu suy nghĩ một chút, gã thấy cũng đúng.
Có một anh bạn, chủ một doanh nghiệp tư nhân, vốn được xem là “chuyên gia” nhậu. Gọi điện thoại tìm anh ta thường được nghe con gái anh ta trả lời :
- Ba con đi nhậu rồi.
Vợ anh ta phải “thay” chồng quán xuyến công việc sản xuất , trông coi cơ sở kiêm luôn nghề...”chỉ điểm” :
- Anh ấy đang ngồi với ông nọ, ông kia ở quán...
Còn anh ta thì lại tâm sự :
- Nhậu hoài chán lắm, ở nhà với vợ con thích hơn, nhưng có nhậu mới ký được nhiều hợp đồng làm ăn. Hoàn tất hợp đồng, lời lỗ gì cũng lại…nhậu tiếp để kiếm hợp đồng mới, cứ thế mà nhậu quanh năm.
Có lẽ đúng như vậy. Thời buổi kinh doanh cạnh tranh khốc liệt, cơ sở của anh ta thì nhỏ, vốn ít nhưng đều đều có hợp đồng để làm, đủ trả lương công nhân, nhà xưởng, điện nước, thuế má và quan trọng nhất, đã nuôi sống cả gia đình bố mẹ, vợ chồng và ba cô con gái. Tuy rằng trong đó có công sức không ít của người vợ : hiểu chồng và giúp chồng.
Lý do thứ hai đó là nhậu để tỏ ra có tí quyền, tí chức và cũng bề thế như ai.
Một anh bạn khác, ngoài những tiệc nhậu ở nhà hàng được người ta mời, anh ta cũng thường tổ chức nhậu tại nhà với danh nghĩa là đám giỗ. Giỗ bên nội, rồi giỗ bên ngoại. Khách được mời toàn những nhân vật có “máu mặt”, thiên hạ nhìn vào phải nể phục sát đất quyền cao chức trọng của anh ta. Có lần người ta thắc mắc không biết là giỗ ai, hỏi ra mới hay :
- Giỗ người em họ của ông nội, mà khi mất mới có vài tuổi, gia chủ cũng chẳng còn nhớ tên là gì, nên chỉ gọi là giỗ...ông trẻ!
Lý do thứ ba đó là nhậu để thắt chặt tình bè bạn.
Như trên gã đã nói : hai tên bạn cũ lâu ngày gặp nhau thì chỉ cần làm mấy ly là sống lại biết bao nhiêu kỷ niệm êm đẹp của một thuở xa xưa. Hơn thế nữa, khi rượu đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng, lúc bấy giờ các chiến hữu tha hồ mà “nổ”, sẵn sàng tỏ lộ tâm can tì phế của mình. Những chuyện không thể nói với bà xã, thì lúc này là lúc thuận tiện nhất để tuôn ra rông rổng cho các chiến hữu.
Nếu ở nhà :
- Nhất vợ nhì giời.
Còn bây giờ và ở đây :
- Trời chỉ bằng cái vung, thì bà xã chắc chắn cũng chẳng là cái thớ gì cả.
Rượu mở mang trí hóa, giải bớt cơn sầu và làm cho tình nghĩa tuôn chảy tràn trề và lai láng khiến các chiến hữu sẵn sàng cảm thông, không phải chỉ chín bỏ làm mười, mà nhiều khi chín bỏ làm mười một mười hai không chừng. Và khi tới màn chót của vở kịch, các chiến hữu sẽ hôn nhau chùn chụt, hay ôm lấy nhau mà khóc thút thít, lâm ly bi đát hơn cả đờn bà con gái bội phần.
Sau cùng, lý do thứ tư đó là nhậu để nói cho thiên hạ biết rằng :
- Ta đây là loại đờn ông chính hiệu con nai vàng.
Thực vậy, bộ râu là dấu chỉ để phân biệt đờn ông đờn bà, như các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Đờn ông không râu bất nghì,
Đờn bà không vú lấy gì nuôi con.
Thế nhưng, ngoài bộ râu ra, việc nhậu cũng đã trở nên dấu chỉ để phân biệt đờn bà đờn ông. Sở dĩ như vậy vì dân nhậu hầu như toàn đờn ông, còn đờn bà hầu như chẳng thấy...nhậu bao giờ.
Gã chỉ xin nói “hầu như” mà thôi, bởi vì cũng có những chị đờn bà uống rượu như hũ chìm và cũng có những chị đàn bà...mọc râu mọc ria, oai ra phết. Trong khi đó lại có những anh đờn ông chỉ biết “phá mồi” và cằm thì nhẵn nhụi trơn tru, có vác kính lúp ra soi cũng chẳng tìm thấy được một cọng râu.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là khi nhậu sừng sừng, người ta mới dễ bề tỏ ra mình là đấng “nam nhi đại trượng phu”. Gã tìm thấy trên báo “phụ nữ Chủ nhật” tâm sự của một anh bạn đi tìm “bản lãnh đờn ông” trong việc nhậu như thế này :
“Sau khi lấy vợ, nếu không đi nhậu, các chiến hữu cho rằng bây giờ tôi sợ vợ, “không xài được”. Tự ái nổi lên, chứng tỏ ta đây không sợ ai hết. Thế là từ đó tôi luôn luôn sống trong tình trạng “ bạn nhậu một bên và em một bên”. Cho đến lúc vợ tôi “tuyên chiến” với nhậu, nàng luôn than vãn cằn nhằn, kêu ca, nổi giận bảo rằng thật bất hạnh khi kết hôn với một cái...hũ hèm, thì tôi thực sự hoảng hốt. Buồn quá, tôi lại tiếp tục tìm vui trong men nhậu. Khi nhậu, tôi được các chiến hữu tung hô, được em út tôn sùng và nhiều thứ mà lúc tàn canh tôi không có được...Trong bàn nhậu tất cả đều bình đẳng, hơn thế nữa, nó giải tỏa biết bao buồn bực. Cùng lứa với tôi, bạn bè nhiều đứa đã giàu sang thành đạt, còn tôi vẫn cứ quèn. Nhưng trong bàn nhậu, “nhà ngói cũng như nhà tranh”, tôi cũng ngon như ai nếu biết chịu chơi và chịu chi...Vợ tôi cho rằng tôi là người yếu đuối, nhưng khi nhậu tôi thấy mình có đủ “bản lãnh đờn ông”.
Bản lĩnh đờn ông này được bạn cảm nhận khi ruợu đã thấm vào như sau :
Bạn cảm thấy mình là người thông minh. Ý kiến bạn hoàn toàn đúng và dĩ nhiên ý kiến kẻ khác hoàn toàn sai. Bạn sẵn sàng “nhả ngọc phun châu” với bất kỳ ai, về bất cứ đề tài nào, còn thiên hạ đang vểnh tai hướng tới bạn để lắng nghe. Rốt cuộc, sự cãi vã là điều không thể tránh khỏi khi mọi người đều...thông minh.
Bạn cảm thấy mình là người giàu nhất trên thế giới, thậm chí sãn sàng bao luôn bữa tiệc, hay mua thêm rượu mời mọi người cùng uống, bởi vì bạn luôn có sẵn một núi tiền. Đối với bạn, thân xác chỉ là cát bụi, danh vọng chỉ là mây khói và tiền bạc chỉ là...bùn đất mà thôi.
Bạn cảm thấy mình là người gan dạ, sẵn sàng đánh nhau với bất cứ ai. Chỉ cần một lời nói trái tai, lập tức người ấy trở thành kẻ thù của bạn. Không một ai có thể đánh bạn phun máu đầu, bởi vì bạn không hề lùi bước trước bất kỳ đối thủ nào. Bạn là người gan dạ cơ mà. Khi đã xỉn rồi, bạn cứ giữa đường mà đi, mặc cho xe cộ thi nhau tránh. Thậm chí, bạn còn dám bò bằng “bốn chân” về nhà trước mặt vợ con và hàng xóm.
Bạn cảm thấy mình là người lịch sự, bởi vì bạn luôn mồn xin lỗi thiên hạ. Thậm chí khi bị va vào cột đèn sưng u cả đầu, thế mà bạn vẫn cứ đứng xin lỗi cho tới bao giờ cái cột đèn trả lời mới thôi. Có khi bạn xin phép chủ nhà để đi về tới mười lần mà vẫn luẩn quẩn chưa ra khỏi được phòng nhậu.
Bạn cảm thấy mình là người rất cẩn thận, thậm chí còn nhớ móc chân vào sườn xe đạp trước khi làm một giấc ngủ ngon lành ngay bên lề đường.
Sau cùng, bạn cảm thấy mình là người có trí nhớ tốt bởi vì những việc tưởng chừng như đã qua đi từ đời tám tai ông Bành tổ, thế mà bạn vẫn nhớ và nhắc đi nhắc lại hàng chục lần, chỉ vì sợ kẻ khác quên hay không hiểu.
Những biểu lộ “bản lĩnh đờn ông” trên đây khi rượu vào, nếu ở mức độ trung bình thì tạo được một bàu khí vui vẻ và đôi lúc đem lại nét dễ thương, nhưng nếu đi tới chỗ thái quá, chắc chắn sẽ tạo nên những bất ổn, bởi vì :
- Rượu thì trắng, nhưng uống vào sẽ làm cho mặt đỏ và nhuộm đen tư cách.
Gã xin ghi lại nơi đây bài thơ của Đăng Châu :
- Đêm qua anh đi nhậu về,
Đợi anh, em thấy tái tê cõi lòng.
Khi đi lịch sự đàng hoàng,
Khi về xất bất, xang bang phát rầu.
Nào đâu chiếc kính đổi màu,
Cái máy di động mua đầu mùa xuân.
Nào đâu cái mũ phớt đen,
Cái “dây bao tử”...mất luôn, khỏi tìm.
Nói ra sợ tiếng sợ tăm,
Van anh, anh hãy giữ thân giữ mình.
Như xưa anh vốn hiền lành,
Cứ ăn nhậu miết, riết thành hư thân.
Muốn cho vợ quí, con thương,
Van anh sớm bỏ con đường bê tha.
Đêm qua anh đi nhậu về,
Đàng hoàng lịch sự bay đi...rất nhiều.
Từ đó, gã tự hỏi :
- Phe đờn bà con gái sẽ nhìn hiện tượng nhậu như thế nào và sẽ nghĩ gì về kẻ say xỉn ?
Công bằng mà nói :
- Phe đờn bà con gái không uống rượu, nhưng lại rất khổ vì rượu.
Không cần nói ra thì ai cũng biết những hậu quả nghiêm trọng rượu đã gây nên. Nếu nhậu ở nhà thì mệt cho bà xã, vừa phải lo nấu nướng, lại vừa phải lo thu dọn. Chiến trường thật ngổn ngang và nồng nặc khi cuộc vui vừa tàn. May phúc nếu các chiến hữu còn tỉnh táo biết đường về và ông chồng leo lên giường ngủ một giấc. Bằng không, các chiến hữu cứ ngồi cù cưa, hát hỏng hay tâm sự còm với nhau, còn ông chồng lại quay ra quậy phá, chửi bới hàng xóm, đánh đập vợ con thì quả thật là hết nước nói.
Trái lại, nếu nhậu ở tiệm chắc chắn sẽ phải hao tốn giữa lúc kinh tế gia đình đang gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng không đảm bảo được sự trong sáng. Có giời mới biết. Ấy là gã chưa đá động tới những tai hại về sức khỏe, nhất là về hạnh phúc, bởi vì hầu hết các gia đình lục đục hay hục hặc với nhau phần lớn đều có chung một hiện tượng, đó là ông chồng say xỉn.
Một tác giả thuộc phe kẹp tóc, sau khi quan sát những biến động trong khu xóm, đã ghi nhận như sau :
“Có hai gia đình ly dị thì cả hai ông chồng đều là những hũ hèm, dù họ đều là những người có học, một ông kỹ sư và một ông phó giám đốc. Có ba phụ nữ góa bụa còn khá trẻ, thì ba người chồng của họ đều chết vì rượu. Một người chồng vì say, gây ra tai nạn giao thông bị chấn thương sọ não. Một người khác không say nhưng lại do một kẻ say tông vào anh, gây thương tích nghiêm trọng và anh đã mất ở bệnh viện. Một người chồng khác qua đời vì đã “tự tử dần” trong rượu, bởi vì rượu đã hủy hoại lá gan lẫn nhân cách của anh ta...Và cho dù không gây ra điều gì nghiêm trọng chăng nữa, thì chẳng người vợ nào hứng thú khi ông chồng mỗi tối về nhà với bộ mặt đỏ gay, mồm sặc mùi rượu và “ấn tượng” hơn là còn nôn thốc nôn tháo. Một phụ nữ có đứa con đau ốm liên miên, chị bảo vì nó là “đứa con của tối thứ bảy”. Chồng chị hay nhậu mỗi cuối tuần và sau khi đã ngà ngà ông ấy liền tìm đến chị và kết quả là đứa con duy nhất của họ cứ oặt ẹo hoài…Một bà mẹ suốt đời quá khổ vì có ông chồng uống rượu, nên khi cô con gái xinh đẹp tới tuổi lấy chồng, có bao chàng trai theo đuổi, bà chỉ yêu cầu chàng rể tương lai một điều kiện duy nhất, đó là không uống...rượu”.
Theo một tài liệu mới đây của Hội đồng Giám mục Pháp, thì hàng năm tại nước này có tới 40.000 người chết vì rượu và rượu là nguyên nhân thứ ba gây nên tử vong, sau bệnh ung thư và các bệnh tim mạch. Vì thế, các Giám mục Pháp không ngần ngại gọi rượu là chất ma túy độc hại.
Trước những hậu quả nghiệt ngã ấy, theo gã ghi nhận thì lập trường cánh đờn bà con gái được chia thành hai phe.
Phe thứ nhất là phe chống đối quyết liệt, nhất định không thỏa hiệp với nhậu. Phải dùng mọi biện pháp từ yêu thương đến cứng rắn khai trừ rượu cho bằng được. Chẳng hạn trong những dịp giỗ tết, phải giảm bớt lượng rượu tối đa, phải nghe ngóng và khi thấy có hơi men trong nhà, thì lập tức và kiên quyết dập tắt.
Phe thứ hai là phe nghĩ rằng : già néo thì đứt dây, trước một hiện tượng hiển nhiên không thể xóa bỏ được, đành phải tìm giải pháp sống chung với rượu. Cũng như đồng bào vùng đồng bằng sông Cửu long, năm nào cũng bị ngập nước, nên đành phải đưa ra những cách thế sống chung với lụt. Giải pháp này được một chị mô tả như sau :
“Không cho ổng đi thì không được, vì làm sao mà ngăn chặn. Tôi đành vớt vát : anh nhậu in ít thôi. Dĩ nhiên là tôi được nghe ổng hứa những lời ngọt ngào như rót vào tai : Ừ, anh biết rồi, chỉ phá mồi chứ uống có vài lon…Tranh thủ việc ổng còn biết nể vợ và nghe lời vợ mà tôi kềm bớt, giữ ổng ở nhà được bữa nào hay bữa nấy. Ví dụ có ai mời thì tôi lấy lý do sinh nhật con, kỷ niệm ngày gặp nhau, quen nhau, yêu nhau, cưới nhau...để tổ chức tại nhà cho ổng bớt đi. Thậm chí đến cả lần cãi nhau đầu tiên, tôi cũng tổ chức kỷ niệm bằng một bữa ăn thịnh soạn ngon lành. Thế mà cũng không giữ chân được ổng mọi nơi mọi lúc. Dù cứng tay chiều chồng, buộc được ổng ở nhà một tháng, thì con ma men trong người ổng ít ra cũng sổng hết một hai ngày. Mà những ngày ấy thì ôi thôi không sao kể xiết. Nói ra thì ổng bảo : Có phải ngày nào anh cũng đi đâu, có phải anh mèo mỡ gì đâu. Tiền lương anh nộp hết cho em. Lâu lâu mới nhậu một bữa thì phải cho anh nhậu lâu lâu chứ ? Chồng tôi vốn rất hiền và thương vợ, tuy lúc sỉn ổng có quậy, nhưng là quậy hiền, nên tôi vừa giận lại vừa buồn cười, vừa tức lại vừa thương mà chẳng thể nào bỏ ổng được. Bạn có biết không, ổng lấy cớ lâu lâu mới được vợ “thả” cho đi một lần, nên ông cũng thả giàn luôn, tới khi “lết bánh” mới về. Đến nhà, ổng dùng khổ nhục kế như tự đá vào vách, đập đầu vào tường...để mình thấy tội nghiệp, sợ ổng đau, trúng gió nên ráng mà lôi ổng vào giường để xoa dầu. Vậy mà ổng còn làm eo, có chịu đi liền cho đâu. Cứ nằm ì ra đó...Đó là lúc xỉn chưa tới bến, chứ còn khi tới bến rồi, ổng mở cửa tủ mà tưởng mở toa lét, báo hại bao nhiêu quần áo đều bị ướt đẫm, phải mang đi giặt...Rồi lại còn cái nạn chờ chồng, chỉ có những bà có chồng nhậu mới thấu hiểu. Chuyện mất tiền, mất xe, thậm chí cả tai nạn đâu phải là hy hữu. Mà đang vui, chẳng ông nào chịu điện thoại về một tiếng vì ngán bị bạn chê là sợ vợ, mà ổng cũng không muốn gọi vì ngán bị mình càm ràm làm ổng mất vui. Thà cứ xả láng đi rồi về chuộc lỗi sau vậy. Dù đang giận và đang tức, mà thấy ổng chân nam đá chân chiêu lò dò về đến nhà, ngã vật xuống đất, thì nỗi vui mừng đã chế ngự được bao nhiêu tức giận...Thôi thì giảm được chừng nào hay chừng nấy. Cũng đành chấp nhận giải pháp sống chung với rượu. Miễn là ổng biết hạn chế, biết yêu thương mình lúc tỉnh, thì mình cũng sẵn sàng chiều ổng mỗi khi ổng xỉn”.
Trước khi kết luận, gã xin kể lại một vài mẩu chuyện trên báo “Công an Thành phố” để làm giảm bớt bầu khí căng thẳng.
Mẩu chuyện thứ nhất được gọi là “nụ hôn kinh hồn”. Đây không phải là là nụ hôn “cẩu xực” làm mất cái lỗ tai đối thủ của võ sĩ Mike Tyson trong một trận đấu quyền anh đầy tai tiếng. Mới đây ông Hai, một đệ tử Lưu linh, vì quá hứng trong một chầu nhậu đến “quỷnh cà ná”, đã ôm lấy ông Tư, người cùng xóm, tỉ tê tâm sự, rồi đột nhiên cắn một phát, tiện đứt cái lỗ tai của chiến hữu do tình cảm trào dâng như men rượu đế. Sau đó vì quá hối hận, ông Hai đã cầm dao chặt phăng ngón tay trỏ của mình để mong...chuộc lại lỗi lầm!
Mẩu chuyện thứ hai được gọi là “người có võ gồng”. Trong một bữa nhậu, khi đã xừng xừng, một anh bạn bèn nổ :
- Tao có võ gồng. Một khi đã gồng lên thì dao chém vào đều bật tung ra hết.
Thấy các chiến hữu không tin, anh ta bèn sắn áo lên, đưa ra một cánh tay gân guốc và bảo :
- Cho tụi bay thử.
Nghe vậy, một chiến hữa bèn vác dao làm liền. Phập một nhát, tay anh ta đầm đìa những máu. Và thế là anh ta hét toáng lên :
- Tao nói giỡn, tại sao tụi bay lại làm thật.
Từ những điều vừa trình bày, gã xin lặp lại câu hỏi :
- Phải nhậu như thế nào cho đáng mặt mày râu ?
Theo gã nghĩ :
- Tự bản chất rượu không phải là điều xấu.
Bởi vì chính Thánh vịnh cũng đã viết :
- Chúa ban rượu ngon làm no thỏa lòng người.
Và thánh Phaolô còn khuyên Timôthê như sau :
- Vì con đau bao tử, nên hãy cố mà dùng một chút rượu.
Các bác sĩ cũng nói :
- Uống ít rượu mỗi ngày, có thể làm giảm nguy cơ tim mạch.
Sở dĩ rượu dẫn tới những hậu quả xấu là do người uống rượu không biết kềm chế và không biết tự đặt cho mình những lằn mức, những giới hạn.
Thực vậy, khi ngồi vào bàn nhậu, phải biết giữ lấy nhân cách của mình. Rồi lại còn phải biết khi nào nên uống, còn khi nào phải sì tốp. Và khi đã đủ, thì dù có bị mời mọc, cũng phải thôi và một giọt cũng không.
Một tác giả khác đã tóm lược như sau :
“Cái chính là người nhậu phải có “bản lãnh đờn ông”, biết lúc nào thì dừng lại. Hoàn cảnh gia đình mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả đều phải nằm trong giới hạn cho phép. Mà người cấp phép lại chính là bà...vợ yêu quí của mình”.
Và như vậy :
- Mình phải làm chủ rượu, chứ đừng bao giờ để cho rượu làm chủ mình.
Tôi vẫn thừơng lên tiếng phản đối cụ chủ nhiệm đã thiên vị, để Gã Siêu múa bút tấn công bới
Tôi vẫn thừơng lên tiếng phản đối cụ chủ nhiệm đã thiên vị, để Gã Siêu múa bút tấn công bới móc nói xấu phe kẹp tóc hơi nhiều, đã thế cái mặt « gã » còn câng câng ra cái điều thách thức...
- Cụ phải để cho con vài trang kể tội đàn ông thì mới công bằng.
Cụ giẫy nẩy như bỏng nứơc sôi :
- Đâu có đựơc, bộ cô em không biết rằng năm nay là năm Tỵ à? Qua đâu có dám dại dột cõng rắn cắn gà nhà, để cô em vạch áo đàn ông cho qúy bà xem lưng !
Coi bộ năn nỉ không xuôi, tôi bèn thay đổi chiến thuật, đe « nghỉ chơi » với Mục vụ. Lời hăm dọa xem chừng hiệu nghiệm, có sợ «rứơc voi về dầy mả tổ» hay không, thì cụ cũng phải dành cho con vài tấc giấy để phục hồi bình đẳng, bình quyền lại cho phái yếu !
«Tội lớn nhất của đàn ông là yêu đàn bà nhiều qúa, nếu yêu bớt đi thì sẽ tránh được bao nhiêu tội khác ...», tôi không đồng ý, nên đổi lại thứ tự «yêu nhiều bà qúa, nếu yêu một bà thì sẽõtránh được nhiều tội khác .. »
Nếu chỉ có người đàn ông mới nhìn thấy nét đẹp của đàn bà, thì chỉ có đàn bà mới nhận ra đâu là tật xấu nơi ngừơi đàn ông !
Qủa thật không sai, vì một trong «tứ đại mỹ nhân» của lịch sử Trung Quốc, Dương qúy Phi, với hơn bảy mươi kí lô, dĩ nhiên nàng không thể được xếp loại mình dây, trường túc,vóc hạc, thân gầy, xác ve, miệng chu, mỏ dẩu... như minh tinh màn bạc hoặc các top model thời đại bây giờ, thế mà Đường Minh Hòang u mê, lú mề, để giặc đuổi, bỏ thành chạy te tua. Cô nàng Monica Lewinsky chỉ vớiù cặp môi tề tề trông đến mất vệ sinh, mà làm Tông Tông Clinton súyt nữa thì đầu ly dị với cổ, thân tàn ma dại ! Gần đây nhất, nhân vật thứ ba của Pháp, Roland Dumas cũng mới trộ khám vào tù bóc lịch cũng chỉ vì chiều ý ngừơi tình, bà cũng chẳng có sắc đẹp siêu đình đổ quán gì cho cam. Còn đương kim Thái Tử Anh Quốc đã thờ ơ bỏ bê cô vợ trẻ đẹp như Tiên Nga giáng trần, đeo đuổi theo bà già «có nhan sắc của người đàn ông không đẹp giai mấy!», đến đây thì tôi phải công nhận là các ông có «hoa mắt» khác đàn bà chúng tôi thật!
Tội của đàn ông đếm ra thì rất nhiều như : lười, bẩn, hay quên, bê bối, độc đoán, rượu chè, cờ bạc, hút sách, vui đâu chầu đấy...nhưng cái tội khó tha thứ nhất nơi người đàn ông muôn đời vẫn là cái tội lắm bà, cái tật ...mê gái ! Hay nói văn huê hơn thì gọi là những anh chàng Don Juan, Casanova, nghĩa là có máu Đào Hoa ! Nhất là những ông có nhiều dịp phải chường mặt, chường mũi ra trứơc đám đông, phải giao tế với nhiều tầng lớp xã hội, thì máu đào hoa lại càng đậm đặc!
Để chỉ lòng tham vô đáy của đàn ông, các cụ ông đã phải vuốt râu gật gù công nhận:
- Sông bao nhiêu nước chẳng vừa
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng
Tại sao vậy cà ?
Vì , đàn ông là:
- “Loài» bạc tình nhất trong các lòai biết hứa hẹn và cũng là «loài » «có mới nới cũ » nhất trong các loài biết thề thốt!
- «Loài» tương cận với con «Lừa»: bạn có thấy con “Lừa” nào nói thật chưa?
- Chiếc thùng rỗng đáy: vì không có đáy, bạn có tống thứ nào vô cũng chẳng bao giờ đầy, có điều là với cái thùng bạn có thể vá viu lại, hoặc vứt đi thay cái mới, nhưng đàn ông lại không đơn giản như vậy.
- Cái gậy ông ăn mày : bạ đâu chọc đấy
- Kameleon : tắc kè đổi theo mầu bất cứ chỗ nào chú ta đứng, ít bà nào có thể vừa làm chủ cả thể xác lẫn trái tim của người đàn ông.
Các ông vẫn ao ước có được ngườiø vợ hiền thục, đảm đang, biết chiều chồng và hy sinh cho con, không se sua đua đòi, dễ nghe, dễ bảo, và chung thủy, nhưng các ông vẫn khát khao dáng dấp một người tình nóng bỏng, hấp dẫn, duyên dáng, õng ẹo và biết… nũng nịu để tô hồng cuộc đời. Ở trong nhà thì các ông chủ trương ‘cái nết đánh chết cái đẹp’ nhưng khi ra khỏi nhà thì lại đòi hỏi « cái đẹp đè bẹp cái nết » !
- Mây lang thang: bạn đãù thấy áng mây nào dừng yên lại một chỗ chưa ? hay chỉ tự do bay mãi không ngừng trên bầu trời cao thẳm, tư tình cùng trăng gíó và đùa cợt với muôn vì sao ?
- Căn nhà trống: vì trống tuếch, trống toác nên ngọn gió nào lúa vô cũng chịu!
- Cái ống cống: bất cứ thứ nước nào chẩy vào cũng sẵn sàng tiếp thu! vv và vv.
Chuyện xưa kể lại rằng tại xứ Ba Tư, có một bạo chúa nọ, hoang đàng và trác táng, mặc dù cả ngàn cung nữ và các nô lệ ngày đêm phục dịch, nhưng vẫn không sao làm cho Vua hài lòng, người đàn bà nào không mua vui được cho nhà Vua thì sẽ bị chém đầu. Một hôm, có người con gái tuyệt vời xinh đẹp đến xin được hầu hạ nhà vua, hằøng đêm nàng dâng lên Vua những câu chuyện cực kỳ lý thú cùng với lối kể thật duyên dáng, sau mỗi đêm, nhà Vua bằng lòng để ngươi con gái ấy sống thêm một ngày nữa, rồi những ngày kế tiếp. Càng nghe,Vua càng thích thú, say sưa, mê man, và như bị thu hút bởi sự quyến rũ huyền hoặc nơi người con gái, Vua bỏ ăn, quên ngủ chỉ để nghe cô kể chuyện, cho đến đêm thứ một ngàn lẻ một thì nàng cảm hóa được vị bạo chúa kia, và nhà Vua bãi bõ lệnh giết nàng. Người con gái ấy đã tiết kiệm được một ngàn lẻ một cái đầu của những cô gái vô tội.
Hết duyên, hết tình, bởi vậy các ông cũng đừng trách là tại sao:
- Đàn bà cứ có nói không
Hễ muốn lấy chồng, lại bảo đi tu
Hoặc bị các nàng ỡm ờ trả lời như cô bạn tôi :
- Nhà em ở đâu ?
- Dạ, nhà em ở gần cái chùa ạ!
- Thế cái chùa ở đâu?
- Dạ thưa, cái chùa ở cạnh nhà em.
Các vị Vua như Càn Long hoặc Đường Minh Hòang bên Tầu, nổi tiếng là có lắm cung tần, mỹ nữ, mỗi Đấng có không dưới vài ngàn bà.
Bên Nam ta,Vua Long Đĩnh, còn gọi là Ngọa Triều, đã biết đàn bà lúc còn rất « nhí « đú đởn rượu chè cả trăm thứ linh dược hun đúc cơ thể, no say, cũng vì ăn chơi trác táng quá độ, nên vị Vua này không chịu đi mà cũng chẳng thèm đứng, chỉ biết nằm và đến khi chết cũng là...chết nằm.
Thái Tông Hoàng Đế, băng hà khi mới tròn hai mươi tuổi, trong lúc Vị «con Giời » này đang tòm tèm vớùi người đẹp Thị Lộ, nàng hầu của quan cận thần Nguyễn Trãi, Thiên Tử bèn chết dẫy đành đạch không kịp trăn trối, còn dòng họ nhà Nguyễn Trãi thì bị tru di tam tộc.
Trong thời bình, các Thiên Tử được no hơi, ấm cật và rửng mỡ, những ông Giời con này chỉ lo ăn chơi ngao du sơn thủy, đi săn bắn và săn… đàn bà, lo sưu tầm một ngàn lẻ một thú vui và món nhậu, ngòai các món sơn hào hải vị của hòang gia, phải kể đến những món ăn chơi như : Dơi hấp mật gấu, vựơn lắc đầu, hoặc «chuột sa chĩnh sâm», tức là bảy đời nhà chuột bị ép phải ngốn toàn là sâm, mà phải là loại sâm đặc biệt qúy hiếm, đến anh chuột đời thứ bẩy, vị « con Giời» chỉ việc há họng, bấu đuôi anh chuột một phát, bị đau, anh chỉ kịp thét lên được tiếng «chít » rồi đâm đầu chui tọt vào miệng Thiên Tử. Các món qủy quái này làm như vẫn chưa đủ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu «chuộng của lạ» của qúy ông Giời con, nên các tay đầu bếp bèn bịa thêm những món oái oăm, mới nghe qua đã phát ớn lạnh nổi lông gà như : hổ mang nhồi sọ khỉ, mãng xà hầm óc diều hâu...cộng thêm anh «cửu xà lung linh tửu», rượu mật rắn...Thiên Tử tha hồ say sưa, chỉ còn thiếu món «xương rồng» là chưa có tên trong danh sách ẩm thực của hoàng cung mà thôi ! Chẳng hiểu ăn vào có được tăng tuổi thọ hoặc bổ thận, bổ tì ở chỗ nào - chứ cả như tôi, nếu có được « get one, free one» cho không, biếu không chắc cũng chẳng dám rớùù - thế mà đại đa số các ông « con Giời» này đã «bổ ngửa» toi mạng lúc còn rất trẻ.
Ngày nay các ông Vua dầu hỏa Á Rập, mỗi lần di chuyển là vác theo phải trên hai mươi bà vợ, to, bé, lớùn, nhỏ, mập, gầy đủ cỡ để hầu hạ Vua. Ông Vua nước láng giềng tí hon Brunei đã treo gíá mua người đẹp một đêm với 50,000 Đô la Mỹ, tức là hơn một trăm năm lương của một công chức bên Việt Nam, những cuộc sống vương gỉa ăn chơi phung phí trên sự đau khổ và nghèo đói của dân gian, và luật đa thê tại các xứ Cà Ry Nị vẫn còn tồn tại, đàn ông Hồi Giáo được quyền cươi đến bốn bà vợ, trong khi đàn bà nơi xứ này bị coi thường rẻ rúng hơn cả con lừa.
Tại các nước dân chủ lập hiến, sau khi sắc lệnh độc thê được ban hành, mỗi khi đệ nhất phu nhân bước chân ra khỏi cửa, ngoài « body guard » canh theo sát nút, Tông Tông còn phái thêm các thám tử ngầm theo dõi rất cẩn mật, không phải để bảo vệ bất trắc xảy ra cho phu nhân, nhưng là cốt để canh chừng bà vợ dở chứng trở về bất tử thì còn biết lối ra hiệu cho các cô bồ nhí chuồn êm bằng cửa hậu.
Trước 75 , khi có lệnh cấm trại một trăm phần trăm, thì các ông sĩ quan bay bướm hào hoa trong thời chiến của nền đệ nhị Cộng Hòa miền Nam ta được lợi dụng bay nhẩy trốn bà xã, vì «chẳng ai xấu xí và vô duyên như vợ mình để lén đi xây tổø tò vò với đào, nhiều khi vắng nhà liền tù tì cả tháng, thỉnh thoảng mới lò mò tạt về thật lẹ thì cũng lại rón chân cò chuồn êm rất nhanh. Đôi khi, những bà vợ, mò lên tận tiền đồn thăm chồng, bắt gặp những vật lạ mà ông chồng chưa kịp phi tang, mặc dù các ông đã lau mép kỹ lưỡng, nhưng ác thay, nếu lửa và khói không thể nào che được mắt phàm nhân, thì mấy ông có bồ nhí cũng không thể nào đậy nổi những con mắt ‘lục lăng’ của các bà vợ ! Sau màn la lối đập phá mỏi chân tay, y ỷ khóc lóc trong nhà không xong thì các bà sẽ vác ghế ra ngồi đầu hè mà bù lu, bù loa kể lể thảm thiết làm y như bắt vạ hàng xóm phải lo canh...xác ông chồng hộ bà, và phải lo đi đánh ghen hội đồng dùm bà. Tôi nhớ hồi còn học lớp đệ tam, có một tên chuyên môn phá phách và nổi tiếng nham nhở ưa chọc gái, bố hắn là sĩ quan một sao. Hôm thầy gọi lên trả bài, không thuộc, hắn ta ấp úng :
- Tại vì tối hôm qua, em phải chở má em đi đánh ghen !
Cả lớp cười ồ!
Kế cạnh nhà tôi, có ông gìa gân «mât nết », gọi là già Ba Chi vì ông chôm cả ba chị em, chẳng hiểu ông có ‘ruyên’ ngầm ở chỗ nào, hay là ông có tí của mà « mía ngọt ông đánh cả cụm ». Hồi bà vợ lớn đi sanh, cô em kế lên giúp chị rồi chẳng biết vì lý do nào, mà sau đó, cô em khăn gói qủa mướp đến ở chung. Và đến khi cả hai bà chị dẫn nhau đi vào nhà thương Từ Dũ thì cô em út lên trông cháu, cũng bị ông «thuổng » nốt ! Ông hãnh diện tự khen mình là người đàng hòang nên chẳng bỏ rơi bà nào ráo trọi, làm như biết thân, biết phận «anh em ta, cùng mẹ cha », nên chẳng bà nào ghen tương lườm ngúyt bà nào, cả ba bà đều có cửa tiệm làm ăn buôn bán đề huề, và coi bộ các «cao dân » - các «anh em ghẻ» cũng thân thiện với nhau ra phết!
Không hiểu một đứa con có máu đào hoa và một đứa chẳng có cái hoa, đứa nào làm các cho ông bô, bà bô phải lo lắng hơn ? Tôi có thằng em bà con ở Quận Cam, ngày hắn mới giựt được mảnh bằng Bác Sĩ, bà dì hãnh diện lắm, bà vênh váo treo gía ngọc cho cậu ấm «con gái nào bố chết táng vào hàm rồng mới lấy được thằng Lãõm ! ». Với cái « mác » bác sĩ to như cái mẹt, cùng với vóc dáng cao ráo đẹp trai như tài tử xi nê, cậu lại chịu khó chải chuốt, mặc veston cao cổ, đeo kính râm, trông rất bảnh trai, ăn đứt anh chàng Lê Minh của điện ảnh Hồng Kông. Các nữ độc gỉa thân yêu của Mục Vụ, có thể đâm đơn gửi về tòa sọan, chúng tôi sẽ chuyển liền tút xuỵt !
Khi cậu bắt đầu tròm trèm bốn chục và công ăn việc làm đã vững chắc, thì dì bắt đầu dòm ngó gia đình các bà bạn có con gái mà dì gọi là gia phong lễ giáo, cu cậu tế nhị viện cớ bận việc, chưa nghĩ tới việc lập gia đình. Chả là thời còn sinh viên, cậu có đem mấy cô nghệ sĩ về ra mắt dì dượng, cô nào cũng xinh xắn, nhí nhảnh lẫn… đỏng đảnh, sợ cậu qúy tử của mình bị yêu ma đào mỏ hoậc bị mọc sừng tua tủa, dì viện cớ vin theo tướng học nói các cô không phải là hiền mẫu, có lẽ vì chưa đến thời kỳ yêu đậm hoặc chưa đến giờ ‘đói vợ’, nên từ đó hắn im bặt, chẳng nhắc tới cô nào nữa. Vì có cái mã « gentleman », mấy cô em, mấy bà chị họ lợi dụng bắt hắn làm ‘escort boy’ hoặc làm tài xế trong những cuộc hội hè tiệc tùng, đôi khi còn bắt hắn phải làm vú em, dắt lũ cháu đi piscine hoặc đi xinê, đi sở thú. Thấy thế, dì phàn nàn :
- Nó khó lấy vợ là tại tụi mày, bố ai dám nhào vô.
Dượng tôi chép miệng trách thằng con khó tính :
- Già kén kẹn hom, lấy phải cô vợ còm mới trắng mắt ra, kén mãi, thế nào rồi mày cũng vớ phải con mụ gìa cóc đế ! vừa già vừa xấu xí vô duyên cho mà xem !
Hắn vẫn chẳng rục rịch gì, đám bạn cùng lứa đã ký bản án tử hình gần hếát, có những anh chàng đã cưới lên cưới xuống cả mấy đời vợ.
Bạn bè trêu chọc :
- Hay là mày mê nhằm vợ người hở mày? Cho ông chồng một liều thuốc chuột là xong chứ gì ?
Hoặc :
- Mày là bác sĩ mắt, tai, mũi, họng, chứ có phải là bác sĩ sản khoa đâu mà ngán đàn bà?
Hắn vẫn không đính chính, chỉ lẳng lặng mỉm cười, dì thở dài, lo lắng ra mặt, sợ cậu ấm bị nhiễm chứng bệnh thời đại, chân mười giờ mười, đi hai hàng, nghĩa là mê cả đàn ông lẫn đàn bà, yêu cả nam lẫn nữ. Quýnh quáng, bà so sánh liều :
- Đẹp trai không bằng chai mặt, giá như thằng cu Tửng vậy mà hay hơn!
Chẳng là anh cu Tửng về Việt Nam mới có tám lần, mà đã vác sang được ba bà vợ.
Những năm gần đây có lan tràn chiến dịch «go home» của những anh Việt Kiều kén vợ, khát vợ, mồ côi vợ, bị vợ chê hoặc trốn vợ… về nước ưu tiên là øtìm « một tấm », vì ở hải ngoại các ông được xếp vào hàng thứ ba sau.. con KiKi, «ta về ta tắm ao ta, nhưng ao ta không cho ta tắm!», cu Tửng cũng được xếp trong liste này.
Quen miệng gọi là cu Tửng vì biết hắn hồi còn bé, hắn vừa lùn, vừa đẹt, vừa quắt lại vừa còi, làm nghề bán bảo hiểm nhân thọ, nhưng khi phải đối diện với đàn bà con gái thì hắn câm như thóc, thế mà sau khi nghe thầy bói tán tụng :
- Giời ơi !, số gì mà làm khổ đàn bà đến thế này, đã yêu hai bà rồi mà lại còn có mấy bà khác thương thầm nữa! Đào hoa qúa là đào hoa!
- Dạ, có cô nào đâu ạ?
- Thì đã nói là yêu thầm mà lỵ !
Quả lời bói mò của ông thầy thật linh thiêng, anh ta mò về Việt Nam, chẳng hiểu duyên cớ ra răng, mà hắn tán được hai cô, có lần cả hai cô đột nhập vào phòng hắn không hò hẹn, bốn con mắt sắc như dao cạo chạm nhau như muốn lột da mặt nhau ra, hắn đứng yên như trời trồng, cà lăm không ú ớ nên lời, cô ả lên cơn mệt tim thở phì phò như người sắp hết hơi, đỡ được cô này lên, thì cô kia lên cơn suyễn nghẹt thở, hắn bèn chạy lại ôm cô kia, cứ thế hai cô thay phiên nhau làm nũng, cô nào cũng chờ cô kia bỏ hắn để chiếm trọn vẹn trái tim, nhưng coi bộ cả hai nàng đều có tính cả nể, nặng nợ duyên tình, nên chẳng ai dám phụ rẫy hắn cho đến ngày xuất ngoại.
Về Việt Nam, các chàng ViKi được thể tha hồ rủ nhau ăn nhậu và ăn vụng vung vít, đấng nào lỡ nhấp nhó món này thì nên cẩn thận, chùi mõm cho sạch, chớù coi thường khinh «địch» mà bị biến thành Thái Giám bất đắc dĩ thì khốn! Vì các bà có thể dễ dàng nhắm mắt làm ngơ để các ông ăn hối lộ, ăn gian, ăn tham hoặc ăn quỵt... nhưng mà ăn vụng thì khó lòng tha thứ.
Trong buổi Đại Nhạc Hội gây qũy xây nhà thờ tại miền bò vàng «Tếch Xịt », nữ ca sĩ Khánh Ly đã cảnh giác các ông băm nhăm :
- Bên này, dao thớt rẻ, đàn bà chúng tôi lại học thêm được nghề...mài dao, « phập » một phát là ...xong!”
“Có tiền, có tật !” Các ông có tiền thì chắc chắn là có mèo, có vợ bé. Vua Đường Minh Hoàng có tới ba ngàn cung phi, nhưng chưa thấy sử sách ghi lại bà Quận Chúa nào có ba ngàn ông chồng?
Câu chuyện vui kể lại rằng, sau khi chết, dưới âm ty Diêm Vương ra lệnh cho những anh chàng Đào Huê nào khi còn sống đã dê cô em vợ thì đứng xếp vào cột ghi số một, anh nào mèo nhè vợ bạn thì xếp vào cột số hai. Thấy có anh chàng lớ ngớ mãi mà không chịu đứng vào hàng nào cả, lấy làm lạ, Diêm Vương bèn hỏi :
- Cái anh kia, tại sao lại không chịu xếp hàng, chẳng lẽ ta bắt lầm nhà ngươi chăng?
Chàng ta run run trả lời :
- Dạ thưa Ngài, tôi không biết phải đứng vào đâu, vì khi còn sống, tôi đã lỡ dê cô em vợ và trót lấy luôn cả vợ bạn nữa.
Diêm Vương vuốt râu mỉm cười
- Thế thì mày lên đây, ngồi chung với tao!
Khi nào các tinh cầu còn quay thì tật Đào Hoa của đàn ông còn dài và còn nhiều, thay lời kết tôi xin cống hiến qúy ông bài vè lục bát, chứng tỏ nói có sách, mách có chứng hẳn hòi :
Trên trời có bẩy tê tê.
Có ông mười vợ không chê vợ nào.
Vợ cả thì đẹp như sao.
Vợ hai chín nhũn như đào chín cây.
Vợ ba khéo vá, khéo may.
Vợ tư dệt cửi ở ngay trong nhà.
Vợ năm thì đi buôn hồng,
Buôn phải hồng nhũn, một đồng ba đôi.
Vợ sáu thì đi buôn nồi,
Buôn phải nồi thủng, một nồi ba vung.
Vợ bảy thì lủng bủng, lùng bùng.
Vợ tám đánh vỡ cả vung lẫn nồi.
Vợ chín thì nấu cháo bồi,
Chồng ăn chẳng được, bị đôi trận đòn
Vợ mười có vú mà lại không con.
Đang viết dở dang thì chuông điện thoại của cụ chủ nhiệm réo làm tôi quên mất tiêu, không biết bà nào hay lủng bủng, bà nào bị chồøng «oánh » tơi bời hoa lá, và bà nào có con mà lại không có vú . Ấy chỉ mới có mười bà mà coi bộ đã vất vả như thế, thì “mụ“ đến độ nào!
Nếu kiếp sau có bị Tây Vương Mẫu đầy xuống trần gian, tôi chỉ xin được làm Hoàng Minh Đế!
Lời bàn của Gã siêu
Rất hoan nghênh sự góp mặt của Bà Chằng, nhưng chỉ xin “chõ mồm” vào một vài điểm nho nhỏ trong bài viết để được gọi là “đóng cửa dạy” nhau.
Trước hết, Bà Chằng vốn là phe kẹp tóc, thế mà lại tự dành lấy cho mình quyền phê phán phe ta, chấm cô này đẹp, cô kia xấu...,Bởi vì cái đẹp thì rất ư là chủ quan, như một câu ranh ngôn đã bảo : đẹp chính là con cóc cái dưới mắt con cóc đực. Dù có nặng tới bảy mươi ký lô, thì đối với Đường mình hoàng, Dương quí phi lúc nào cũng rất...tuyệt vời.
Tiếp đến, sau một hồi “rũa” đờn ông te tua, thế mà cuối cùng Bà Chằng lại muốn kiếp sau mình được làm Hoàng minh đế, nghĩa là được làm đờn ông. Và hơn thế nữa, một thứ đờn ông cao cấp, có những hơn ba ngàn bà vợ. Như vậy, đờn ông quả là có giá và hình như luôn nắm thế…thượng phong. Hóa ra gậy bà lại đập lưng bà mà thôi.
Từ ngàn xưa và cho tới ngày hôm nay, phe đờn ông con giai vốn được bàn dân thiên hạ gọi GãSiêu 142
Từ ngàn xưa và cho tới ngày hôm nay, phe đờn ông con giai vốn được bàn dân thiên hạ gọi là phái khỏe. Mà họ khỏe thực. Vừa bước vào tuổi mới lớn, các cơ bắp liền nổi lên cuồn cuộn, đúng với vóc dáng vai u thịt bắp. Họ ăn không biết no, như các cụ ta đã bảo :
- Nam thực như hổ, nữ thực như miu, có nghĩa là đàn ông con giai ăn như hùm, còn đờn bà con gái thì ăn như mèo.
Cũng vì cái sức khỏe trời cho ấy, mà cánh đờn ông con giai thường phải cáng đáng những công việc nặng nhọc, đòi buộc phải mạnh mẽ và dũng cảm. Cũng vì cái sức khỏe trời cho ấy, mà cánh đờn ông con giai thường là chỗ dựa cho phe đờn bà con gái, vốn được bàn dân thiên hạ gọi là phái yếu. Bởi vì có yếu thì mới cần dựa, chứ khỏe thì cần quái gì mà phải dựa với dẫm.
Có một bà vào lứa tuổi sồn sồn đã tâm sự vụn “mí” gã như sau :
- Những ngày nghỉ cuối tuần, mình mong anh ấy ở nhà để mình tìm thấy một bờ vai tựa đầu, thế mà anh ấy cứ đi biền biệt, ăn nhậu và bài bạc với đám bè bạn chiến hữu, mãi tới sáng thứ hai mới thò mặt về, thử hỏi còn nhờ cậy được cái chi ?
Hơn thế nữa, phe đờn ông con giai còn là mục tiêu cho quí bà quí cô phô bày vẻ đẹp của mình. Chả lẽ ngồi trang điểm suốt cả mấy tiếng đồng hồ, để rồi cuối cùng thở dài ngao ngán :
- Chỉ mình tôi nhìn tôi trong gương thôi ư ?
Mấy hôm nay đọc báo, gã đã ghi lại một câu “ranh ngôn” như thế này :
- Thượng đế chẳng phải là một Đấng hoàn hảo, mười phân vẹn mười, bởi vì người ta đã phải lập ra biết bao nhiêu mỹ viện nhằm tu sửa phần nào tác phẩm do Ngài tạo nên và quí bà quí cô cũng đã tốn biết bao nhiêu tiền bạc, thời giờ và công sức để hoàn thiện cái vẻ đẹp và Ngài đã phú ban cho.
Chính vì luôn nghĩ mình là phải khỏe, nắm ưu thế và giữ một vai trò quan trọng, mà có tới 99% cánh đời ông con giai đều mắc phải chứng bệnh “sĩ” và chứng bệnh “nổ”. Vậy thế nào là bệnh “sĩ” và thế nào là bệnh “nổ” ?
Trước khi đi sâu vào hai chứng bệnh này, gã xin kể lại câu chuyện về “con chó đá” :
Tại làng kia có một gia đình gồm hai bố con. Ông bố thì chí thú làm ăn và luôn hòa nhã vui vẻ với mọi người. Còn cậu con giai thì chuyên cần học hành, dùi mài kinh sử, mơ ước có một ngày ra giúp dân giúp nước. Ai nấy đều kính nể và quí mến gia đình này.
Ngày nọ, ông bố đi ngang qua ngôi đình làng thì tượng con chó bằng đá trước cổng bỗng đứng lên và vẫy đuôi chào. Ông bố bèn hỏi :
- Tại sao vậy ?
Con chó đá trả lời :
- Vì gia đình ông ăn ở tốt lành với bà con lối xóm, nên thiên đình đã quyết định khoa thi này con ông sẽ đỗ trạng nguyên.
Thế nhưng, cũng kể từ ngày hay tin ấy, hai bố con đã thay đổi hẳn nếp sống và cách cư xử của mình. Ông bố thì hà hiếp dân chúng và lúc nào miệng cũng la lối :
- Ta là bố quan lớn.
Còn cậu con giai thì sinh ra rượu chè, cờ bạc và hút sách. Trong cơn say, cậu con giai luôn mồm lảm nhảm :
- Ta là trạng nguyên khóa này. Ta là trạng nguyên...
Rồi cũng một ngày nọ, ông bố lại đi ngang qua ngôi đình làng, lần này thì con chó đá đứng yên bất động vì nó chỉ là một pho tượng. Ngạc nhiên, ông bố bèn hỏi :
- Tại sao vậy ?
Con chó đá bèn trả lời bằng một giọng thiểu não :
- Vì bố con ông ăn ở thất đức, nên thiên đình đã quyết định gạch tên con ông trong kỳ thi này.
Và quả thực trong cuộc thi năm ấy, cậu con trai đã rớt cái ạch và trượt vỏ chuối te tua.
Riêng phần mình, gã nhận thấy hai bố con gia đình này quả là đại biểu xứng đáng cho những kẻ mắc chứng bệnh sĩ và nổ mãn tính, như tục ngữ đã bảo :
- Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.
Gã không phải là một nhà ngôn ngữ học, nên đành phải ngồi mở sách vở ra mà tra cứu và tìm hiểu. Theo “Tự điển Việt Nam” của Lê văn Đức, thì :
- Sĩ là người học trò và từ đó cũng ám chỉ là người tài giỏi. Còn diện là cái bản mặt, chẳng hạn như khi nói : bạch diện thư sinh. Và như thế, sĩ diện là thể diện của người học trò, đồng thời cũng ám chỉ danh dự bên ngoài của một con người.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết trong xã hội Việt Nam thời xưa, kẻ sĩ được mọi người kính nể và trọng vọng. Chẳng thế mà Nguyễn công Trứ đã ca tụng :
- Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Hai câu trên được diễn dịch như sau :
- Tước có năm bậc là công hầu bá tử nam thì sĩ đều được liệt vào trong đó. Dân có bốn nghề là sĩ nông công thương thì sĩ được đứng hàng đầu.
Tuy nhiên, con nhà bình dân nghèo túng, đôi lúc cũng đã mỉa mai nhạo cười :
- Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
Hay như :
- Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Giữ lấy cái sĩ diện, cái danh dự của mình là điều tốt, bởi vì nếu không còn sĩ diện, nếu không còn danh dự thì thà rằng chết quách đi cho rồi.
Tuy nhiên, nếu nó đi tới chỗ thái quá thì sẽ trở thành chứng “sĩ diện hão” hay gọi một cách vắn tắt là “bệnh sĩ”.
Bệnh sĩ là một chứng ung thư não, hay nói cách khác, trong óc có những khối u. Một nữ ký giả trên báo Phụ nữ Chủ nhật đã đưa ra những phát hiện” lâm sàng” của chứng bệnh này như sau :
- Có những ông chẳng có vai trò gì cả, thế mà cũng cứ tưởng tượng ra một vai trò rất rõ rệt, rất quan trọng cho mình. Có những ông rất giỏi khâu nịnh nọt và luồn cúi cấp trên, nhưng đối với cấp dưới thì vẫn oai, vẫn oách như thường. Có những ông ở cơ quan thì sợ từ cô thư ký trở lên, nhưng về nhà thì luôn hét ra lửa đối với vợ con. Ngược lai, có những ông ở nhà thì rất ư là sợ vợ, nhưng ra đường hoặc đến chỗ đông người thì cứ phải chứng tỏ mình là...gia trưởng, là lãnh đạo!!!
Tú xương cũng đã diễn tả về tác phong của những ông này như sau :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời cá bộ anh.
Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại mẩu chuyện về “vợ chồng người nước Tề” như sau :
Người nước Tề có hai vợ, vợ cả và vợ lẽ. Ngày ngày chồng cứ sáng ra đi, tối đến mới về, mà hôm nào về cũng no say phè phỡn. Hai vợ thường hỏi :
- Đi ăn với ai, mà đi luôn thế ?
Anh ta nói :
- Ta đi ăn toàn với những bậc giàu có, sang trọng cả.
Một hôm, vợ cả bảo vợ lẽ :
- Chồng ta chơi bời toàn với nhưng bậc giàu sang, mà sao không thấy một người giàu sang nào đến chơi nhà nhỉ ? Ta thử dò xem chồng ta đi những đâu và chơi với những ai ?
Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi cùng làng này, xóm khác, chẳng thấy một người nào đứng lại nói chuyện với chồng mình cả. Khi đi đến phía đông ngoài thành, thấy có đám cất mả, người ta đang tế lễ ăn uống, thì đánh thoáng một cái, đã thấy chồng lật đật lại đấy, xin những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn xong lại ngong ngóng đi chỗ khác…
Bấy giờ chị ta mới rõ cái cách chồng ngày ngày no say là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về, kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than rằng :
- Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị em mình lại gặp phải một người chồng đê mạt quá đến như thế!
Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau ở giữa sân sụt sùi khóc. Ngay lúc ấy, anh chồng ngất ngưởng ở đâu về, vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ như những hôm trước.
Ôi! Đem con mắt tinh đời mà coi, thì ngày nay những kẻ cầu công danh phú quí hồ dễ không mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn không tủi, không ngấm ngầm khóc với nhau như hai vợ người nước Tề này!
Kết thúc câu chuyện, tác giả đã đưa ra một lời bàn như sau :
Lấy đức, lấy tài, lấy học thức, đường đường chính chính mà được công danh phú quí thì còn gì bằng. Nhưng nịnh nọt, luồn cúi, làm những việc đê hạ, mất cả phẩm giá con người, để chen chúc vào đám công danh, để cầu lấy chút phú quí, thì tưởng không còn gì đáng khinh hơn.
Thế mà đến lúc được công danh phú quí, lại còn vác mặt làm cao, ra dáng hách dịch, thiên hạ người ta biết ra, thì còn ai cho vào đâu nữa. Tưởng rằng khuất một người để đè nén muôn nghìn người, nhưng dù người ta có e lệ bề ngoài, trong bụng người ta cũng không sao trọng được.
Thày Mạnh Tử đặt ra câu chuyện người nước Tề này, thật là phơi bày được cái xấu xa của những kẻ quen thói cầu công danh phú quí “hôn dạ khất ai, kiêu nhân bạch nhật”, đêm khuya van lạy, ban ngày vênh váo khinh người vào những thời buổi mạt tục vậy.
Tuy nhiên nếu bệnh sĩ, một chứng ung thư não, có bướu trong óc, như vừa trình bày, được phát triển tới thời kỳ di căn, Và nếu nó di căn ra tới mồm tới miệng, thì biến chứng và trở thành bệnh nổ.
Bệnh nổ nơi phe đờn ông con giai thường dễ nhận thấy hơn cả nơi bàn tiệc. Bởi vì lúc bấy giờ, rượu là như một chất kích thích, làm cho miệng họ ngứa, khiến mồm họ văng ra đủ thứ ngôn từ đao to búa lớn. Chả thế mà các cụ đã bảo :
- Rượu vào lời ra.
Tệ hơn nữa, những thứ ngôn từ đao to búa lớn này lại chẳng êm tai chút nào :
- Tửu nhập tâm, như hổ nhập lâm. Có nghĩa là rượu một khi đã thấm vào lục phủ ngũ tạng, thì như cọp dữ giữa rừng.
- Tủu nhập tâm, như cẩu cuồng tọa thị. Có nghĩa là rượu một khi đã thấm vào tâm can tì phế, thì như chó điên cắn càn ngoài chợ.
Cũng nữ ký giả kia trên báo Phụ nữ Chủ nhật đã đưa ra những phát hiện lâm sàng như sau :
“Không có gì cũng nổ, mà có một chút xíu thì nổ đến văng cả miểng, nhất là khi họ nhậu lai rai với nhau...Chuyện đông tây kim cổ, từ vi mô đến vĩ mô, lãnh vực nào mấy ông cũng có vẻ thông thạo, uyên bác cả. Càng nổ lại càng hăng.
Gặp dân tay mơ không có kinh nghiệm, thì rất dễ là nạn nhân của mấy ông.
Càng nổ nhiều lại càng tỏ rõ những lỗ hổng về kiến thức. Người ta nói “thùng rỗng kêu to” mà. Nếu chỉ dừng lại ở bàn nhậu, thì sự nổ ấy chẳng tác hại nhiều lắm.
Nhưng có ông lại nổ cả trong công việc nước, thế mới khổ. Có ông với một chút chức quyền và một chút chuyên môn lại cứ hay khoái “sáng kiến, tối kiến”, can thiệp thô bạo vào những lãnh vực chuyên môn khác mà ông chẳng thạo, “ý kiến ý cò” chỉ đạo tham mưu, thể nghiệm thể nghiếc, bắt người khác phải vắt chân lên cổ mà chạy, chẳng cần biết thiệt hại do mình gây ra như thế nào. Mà có biết đi nữa thì cũng “lý gio lý trấu”, tại-bởi-vì khách quan này nọ, cùng lắm là...rút kinh nghiệm cho lần sau.”
Quả là :
- Đã dốt thì lại hay nói chữ!!!
Đúng như vị nữ ký giả kia đã nhận xét : chứng bệnh nổ không phải chỉ xuất hiện nơi bàn tiệc. Trái lại, theo gã nghĩ chứng bệnh ấy luôn liên tục phát triển ở mọi nơi và trong mọi lúc ngay giữa lòng cuộc đời.
Hồi còn bé, lúc đang học nội trú, thằng bạn đã đưa tặng cho gã tấm “cạc vi dít” của bố nó. Trong tấm cạc này, gã đọc thấy như sau :
- Ông Nguyễn văn Mỗ.
Nhân viên Phủ Tổng thống.
Mắt gã mở tròn xoe đầy khinh ngạc. Và tự đáy lòng, gã quả tình đã “khẩu phục tâm phụ” ông bố kia...quá chời, đâu phải như bố mình, suốt đời chân lấm tay bùn, làm bạn với “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, dân nhà nông chính hiệu con nai vàng.
Gã đem câu chuyện này kể lại với một vị đờn anh. Vì đờn anh này bèn ôm bụng cười sằng sặc, rồi ngoác miệng ra mà phán :
- Ố là là. Ố là là. Có chi mà ghê gớm vậy. Ông ta đích thị chỉ là một nhân viên tắm ngựa cho tổng thống mà thôi.
Số là thời bấy giờ, Tổng thống Ngô đình Diệm hình như thích cưỡi ngựa thì phải. Ấy vậy cho nên người ta mới nuôi ngựa trong dinh Độc lập. Chính mắt gã đã nhìn thấy những con ngựa vừa cao, vừa to lại vừa khỏe...vào những buổi chiều thứ năm, khi đi dạo ngang qua hàng rào của dinh.
Té ra ông bố kia chỉ là kẻ phụ trách quét chuồng ngựa trong dinh Độc lập, nhưng trên tấm cạc và trong đời thường vẫn hãnh diện vì mình là nhân viên phủ tổng thống. Ai không biết cội nguồn, gốc gác thì chỉ có nước phục sát đất mà thôi.
Riêng đối với ông bố kia, bằng đó cũng đã đủ để ông rất lấy làm hãnh diện. Ông có thể huýt sáo và nghêu ngao :
- Hãy ngước mặt nhìn đời...
Rồi coi trời bằng vung với nửa con mắt.
Nếu gã không lầm, thì chứng bệnh nổ hiện đang chiếu cố và tấn công mạnh mẽ phe đờn ông con giai, mang nhãn hiệu trình tòa là…Việt kiều.
Đúc kết từ những cuộc điều tra âm thầm, cũng như những cuộc thăm dò dư luận công khai, gã đã rút ra một kinh nghiệm sống sượng như sau :
- Thiên hạ càng mù tịt về dĩ vãng của mình, thì mình lại càng dễ nổ...mà đã nổ, thì phải nổ lớn, nổ vô tư, nổ hung hăng con bọ sít cho đáng đồng tiền bát gạo.
Sau khi đã luồn lách và mánh mung chui ra khỏi cái quê hương rách nát tả tơi, khó thương này và được định cư ở đất nước thứ hai, hay thứ ba chi đó, tức là đã hết cơn bĩ cực tới thời thái lai, thì cánh đờn ông liền nổ ngay lập tức, chẳng “oong đơ” trì hoãn chi hết.
Ngày xưa mình chỉ là anh binh nhì “đơ giem cùi bắp”, thì bây giờ phải vỗ ngực tự xưng là sĩ quan Biệt động, sĩ quan Nhảy dù...Toàn là những binh chủng thứ dữ không à. Đã khoe thì phải kheo cho đến nơi đến chốn, chứ ai lại thèm bảo mình là địa phương quân , là nghĩa quân hay là lính ma lính kiểng.
Ngày xưa mình chỉ là anh lao công bệnh viện, chuyên môn đi hốt và đốt những bông gạc, rác rưởi nhà thương, thì bây giờ phải tự phong lên làm bác sĩ cho nó oai và cho nó oách. Ai rỗi hơi đâu mà đi sưu tra lý lịch của mình. Chỉ hơi sượng sùng một tí khi đụng mặt những thằng bạn thân thuở nào mà thôi.
Sau khi định cư được vài năm và cuộc sống tương đối đã có phần ổn định, thì bèn làm mọi cách để quên đi cái gốc gác “annammít” của mình. Ra đường, nếu gặp đồng hương đồng hao, thì luôn mồm luôn miệng :
- Hai...Bai...
Còn gặp dân Mẽo chính gốc Huê kỳ, dân Ăng lê chính tông nước Anh hay dân Phú lãng sa chính hiệu Pháp quốc, thì liền cúi xuống lí nhí bảo mình :
- Tôi là người Nhật.
Hay :
- Tôi là người Đại hàn...
Rõ thật :
- Nhận vơ lấy vợ thằng Nhân,
Nó cho bát bún, nó vần cả đêm!
Thì ra :
- Thấy người sang, bắt quàng làm họ.
Xin tạm quên đi cái gốc gác, cội nguồn :
- Tôi là người Việt Nam.
Khi trở về quê hương và thăm lại những người thân quen, thì bệnh nổ lại càng tăng thêm phần trầm trọng của nó. Bởi vì người bên ni làm sao biết được kẻ bên nớ “làm nghề nghiệp gì cùng mê tính xấu nào ?”
Trước hết là nổ trong cung cách tiêu xài. Có những người ở bên nớ vừa ăn lương thất nghiệp và vừa tìm việc làm chui ở nhà để kiếm thêm tí tiền còm. Có những người ở bên nớ phải đi vay mượn khả dĩ dằn túi một mớ. Với xấp đô la trong tay, thì suốt những ngày ở Việt Nam, họ mặc sức tiêu xài, mua sắm như muốn chứng tỏ với mọi người thân quen rằng :
- Ta rất thành công ở bên nớ và tiền bạc chỉ là chuyện nhỏ.
Mai mốt có phải kéo cày để trả nợ, thì...hạ hồi phân giải. Còn bây giờ phải chơi trội cái đã.
Tiếp đến là nổ trong lời nói. Mới đi được mấy năm, chẳng biết ở bên nớ học được mấy tiếng Ăng lê, hay chỉ toàn nói với thiên hạ bằng tay, “English by hand”, thế mà về Việt Nam, mở mồm mở miệng ra toàn những “pao” với “mai” :
- Con cá này nặng mấy pao ?
- Từ đây lên thành phố là bao nhiêu mai nhỉ ?
Thật tội nghiệp cho đám bà con nhà quê cứ ngẩn tò te, chẳng biết pao với mai là cái đí gì sốt.
Ngoài ra là nổ trong việc ăn uống. Thứ gì của đất nước cũng bị chê là thiếu tiêu chuẩn, thiếu chất lượng, không đảm bảo vệ sinh. Cho con uống sữa thì phải là thứ sữa nhập từ bên nớ. Khi uống bia, nếu là dân Việt kiều Úc, thì phải chọn bia Foster, theo đúng phong cách Úc.
Ngày xưa, khi ở Việt Nam thì đớp thịt chó như điên, còn bây giờ nếu ai lỡ mời thịt chó thì chối nguây nguẩy :
- Em chả...Em chả...
Rồi lại còn cao giọng mà lên lớp :
- Ăn thịt chó là...dân man di mọi rợ.
Nhiều lúc nghe qua, gã cũng nóng gáy muốn chửi thầm trong bụng cho một chặp :
- Tiên sư anh nhé. Anh cũng “Mít đặc”, mà tôi cũng “Mít đặc”. Chửa chi mà anh đã quay lại khinh bỉ chính cái nôi đã nuôi anh khôn lớn.
Sau cùng là nổ trong việc phét lác. Ở bên nớ, đi hầu bàn hay rửa bát cho thiên hạ, thì về bên ni bèn tự xưng là chủ nhà hàng. Ở bên nớ, đi quét dọn thư viện, thì về bên ni bèn tự phong là quản thủ thư viện. Con cái mới học được một tí chữ, thì đã vội khoe đứa nào cũng giỏi, đứa nào cũng nhất...coi thiên hạ chẳng có ký lô nào sốt. Rồi còn trăm ngàn sự lỉnh kỉnh khác nữa.
Để kết luận, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nữa, cũng trích từ sách “Cổ học tinh hoa”. Chuyện rằng :
Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan. Có tên đánh xe theo hầu.
Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cây dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi :
- Tại làm sao ?
Nàng nói :
- Án tử người gầy thấp, bé nhỏ làm đến tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông vẫn khiêm nhường như chưa bằng ai. Chớ như chàng cao lớn đẫy đà, chỉ mới làm được một tên đánh xe tầm thường hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng nữa. Nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi.
Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chừa được cái tính nông nổi. Án tử thấy thế, lấy làm lạ bèn hỏi. Tên đánh xe đem việc nhà kể lại. Án tử bèn cất cho làm đại phu.
Lời bàn của câu chuyện trên cũng đáng cho gã suy gẫm :
Tên đánh xe của Án tử thực là sang vì vợ, nhờ được người vợ giỏi, biết lấy cái địa vị hèn hạ, cái dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ, mà sửa được tâm tính chồng và thành được thân danh cho chồng.
Tiếc thay, ở đời bây giờ có biết bao nhiêu kẻ chỉ là đầy tớ người ta, mà đã vênh váo lên mặt, nghênh ngang tự đắc như tên đánh xe, mà lại không có được những người vợ như người vợ tên đánh xe để khuyên răn chồng, làm cho chồng biết tự sỉ mà phấn chí tu tỉnh cho ra người.
Trước khi chia tay, một lần nữa gã bèn long trọng kêu gọi phe đờn bà con gái hãy vùng lên kể tội cánh đờn ông con giai.
Bài kể tội xin cứ vô tư gửi về cho cụ chủ nhiệm. Và khi thấy nó xuất hiện trên báo, thì chắc chắn là...có thưởng đấy nhé.
Từ xưa cho đến rày, gã vốn bị mang tiếng là thiên tư, thiên vị, chỉ biết bốc thơm phe ta, tức GãSiêu 143
Từ xưa cho đến rày, gã vốn bị mang tiếng là thiên tư, thiên vị, chỉ biết bốc thơm phe ta, tức là cánh đờn ông con giai hay cánh húi của, mà lại bốc thối phe mình, tức là cánh đờn bà con gái hay cánh kẹp tóc, mặc dù theo “mo den” bây giờ, nhiều cô chẳng còn cái tóc để mà kẹp.
Thậm chí cô em gái của gã, cũng đã nhiều lần trề môi mà bảo :
- Anh chỉ khéo bôi bác người ta mà thôi, liệu hồn đấy, không thì có ngày sứt tai, phù mỏ và vỡ mặt ra ấy chứ.
Mặc dù đã dại dột nghe theo ý kiến ý cò của cụ chủ nhiệm, cố gắng tạo lấy cái thế cân bằng, nghĩa là một khi đã lỡ “chêu chọc” phe đờn bà con gái, thì lập tức phải có một mẩu khác “châm chích” phe đờn ông con giai.
Thế nhưng mà tự thâm tâm, mỗi khi được dịp nói xấu cánh kẹp tóc, gã luôn cảm thấy khoái tỉ, chữ nghĩa tuôn ra rong rỏng. Nói thật đấy, bởi vì như các cụ ta ngày xưa đã phán :
- Dấu bàn dân thiên hạ thì được chứ làm sao dấu nổi Thiên Chúa.
Thành thử gã đành phải thú nhận như Nguyễn Du :
- Rằng hư quen thói đi rồi.
Cũng trong chiều hướng tạo lấy cái thế cân bằng mà hôm nay gã xin bàn đến một vài chứng bệnh của phe đờn ông con giai.
Trong số báo trước, gã vừa mới sờ tới chứng bệnh “sợ vợ” của các đức ông chồng, bỗng giật nảy mình và tỉnh hẳn cơn mơ, vội coi lại số trang và đếm lại số chữ đã viết, thì thấy rằng mình đã “vượt chỉ tiêu trên giao”, đành phải “xì tốp” và hẹn...hạ hồi phân giải.
Bởi vì nếu viết thêm, thì sẽ lấn sân, chiếm dụng phần đất của người khác. Vừa tốn sức lao động, lại vừa bị những kẻ thối mồm kê tủ đứng :
- Học ở đâu cái thói nói dài, nói dẻo, nói dai y như...đờn bà vậy.
Và đúng hẹn lại lên, hôm nay gã xin bàn tiếp về chứng bệnh sợ vợ.
Chuyện rằng :
Thôn làng nọ, không hiểu vì giếng nước có chất gì, hay vì ông tổ xì hơi bảy mươi đời không được táng vào địa thế hàm rồng mà vào địa thế đuôi lươn, nên từ thế hệ này qua thế hệ khác, đều lâm vào cảnh âm thịnh dương suy, hầu hết cánh đờn ông con giai ở đây đều có giòng máu sợ vợ trong huyết quản. Lớn lên, anh nào anh nấy đều râu quặp.
Mỗi khi có việc phải giao lưu với dân làng khác, thì họ đều bị bàn dân thiên hạ coi thường và diễu cợt :
- Làm trai rửa bát, quét nhà,
Vợ gọi thì dạ : bẩm bà em đây.
Tức khí vì bị chạm nọc, các ông chồng trong làng từ già cho đến trẻ, nhất là cánh xồn xồn, bèn tổ chức một cuộc đại hội với bảng hiệu :
- Đờn ông đòi quyền sống.
Họ đã bầu được một vị bí thư kiêm chủ tịch. Vị này đã đưa ra nghị quyết và kêu goi :
- Kể từ nay, tất cả phe đờn ông con giai chúng ta phải đoàn kết lại, dứt khoát phải vùng lên, phá tan sự kìm kẹp và bẻ gẫy cái cồng của phe đờn bà con gái. Chúng ta phải đòi hỏi cho được sự bình đẳng giữa nữ và nam. Để đạt tới mục tiêu đã đề ra, chúng ta sẽ dùng chiến thuật bất bạo động : không cày ruộng, không gặt hái, không thổi cơm, không quét nhà, không tắm heo, không cọ chuồng lợn và cả không...
Mọi người tham dự đều vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Bàu khí thật ồn ào, ai nấy đều hung hăng như con bọ sít, khua chân múa tay. Và đại hội chắc chắn sẽ thành công tốt đẹp.
Thế nhưng, trong đám đờn ông con giai ấy có một tên Giuđa phản phé, lẻn vào phòng vệ sinh, dùng điện thoại di động, báo cáo với bà xã của mình về diễn biến đấu tranh của cánh đờn ông, để mà...lấy điểm.
Và thế là…...Alêhấp. Chỉ năm phút sau, giữa lúc các ông chồng đang say men chiến thắng, mắt lim dim nâng cốc chúc mừng, thì các bà vợ liền ập tới. Mặt bà nào bà nấy đùng đùng sát khi. Tay cầm chổi cùn rế rách và phang túi phang bụi. Còn miệng thì ngoác lên tới tận mang tai, vừa la lại vừa hét :
- Này nhé, đòi sướng thì bà cho sướng...Này nhé, đòi sướng thì bà cho sướng.
Bọn đờn ông bèn :
- Dĩ đào vi thượng sách, Phương kế hay hơn cả, đó là chạy trốn.
- Thần thấy nguy thần tẩu”, có nghĩa là gặp nguy thì em xin...biến.
Tất cả bọn đờn ông con giai đều ba chân bốn cẳng trốn tiệt đi đằng nào không biết, mất cả tăm lẫn tích. Chỉ còn lại mỗi mình cụ chủ tịch kiêm bí thư vẫn ngang nhiên bám trụ.
Bỏ của chạy lấy người, nhưng ngoái cổ lại phía sau, nhìn thấy vậy, anh chồng nào cũng mừng thầm vì đã chọn đúng người, không hổ danh cho...phe ta.
Nào ngờ cụ chủ tịch kiêm bí thư nhà ta đã chết đứng từ lâu. Vì quá sợ, cụ liền bị nhồi máu cơ tim, đi đoong luôn, chẳng kịp ngáp và cũng chẳng kịp bước chân tháo chạy như các...đồng chí đồng rận của mình.
Chuyện khác kể lại rằng :
Một trận mưa đám mây bất ngờ đổ xuống làm cho anh chồng kia không kịp chạy ra sân thu gom quần áo đang phơi. Và thế là anh chồng kia liền bị bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà đông tích cho một trận tơi bời hoa lá cành.
Thấy vậy anh chồng này, là người hàng xóm, bèn mở miệng chê bai, phóng thanh qua dậu mồng tơi mà rằng :
- Sao ông hèn quá vậy, sao ông nhát quá vậy...được đằng chân lân đằng đầu, để cho bà ấy làm tới hoài mãi sao ? Phải tay tui thì...
Vừa nói đến đây, bỗng bà vợ xuất hiện. Bà đứng chống nạnh, trừng mắt và phán :
- Phải tay tui thì sao ?
Và thế là anh chồng này bèn cúi mặt xuống như muông chim, miệng thì ấp a ấp úng :
- Dạ, phải tay em, thì em xin thu gom từ trước lúc trời mưa ạ.
Mencken có nói một câu đang cho gã suy nghĩ :
- Khi một người đờn ông và một người đờn bà lấy nhau, thì họ chỉ còn là một người. Tuy nhiên, cái khó đầu tiên là phải quyết định xem đó là người nào ?
Trong trường hợp sợ vợ, thì người đờn bà đã lấn trọn phần sân của người đờn ông. Và như vậy, khi người chồng đánh mất bản lãnh của mình, trở nên “người vợ của vợ mình”, thì đó là một sự thất sủng, một sự mất giá của người đờn ông.
Thật tội nghiệp cho những nhà gà mái thì gáy, còn gà trống thì lại câm lặng...
Mặc dù biết như vậy, nhưng không hiểu tại sao cánh đờn ông phần lớn đều sợ vợ ?
Có thể lúc ban đầu, do “galăng vốn sẵn tính trời”, hơn nữa lại muốn cho bàu khí gia đình được trong ấm ngoài êm mà anh chồng nể chị vợ. Nào ngờ, được đằng chân lân đằng đầu, chị vợ thừa thắng xông lên, dành dân chiếm đất, để rồi cuối cùng anh chồng rơi tõm vào cái tình trạng sợ vợ lúc nào cũng không hay, thậm chí còn hãnh diện về thành tích của mình nữa, như nhiều anh chồng đã phát biểu :
- Mình sợ vợ mình chứ có sợ vợ thiên hạ đâu mà lo. Nào có mất mát chi.
- Ta sợ vợ ta, vì vợ ta có công sinh ra con ta...
Cũng lại chuyện rằng :
Có một anh chồng, sau khi nhìn vào gương, bỗng thấy mình thuộc nòi râu quặp, đã tâm sự với bè bạn bằng ngôn ngữ bóng đá như sau :
- Tôi đã đánh giá nhầm cô ấy trước khi cưới. Hồi đó tôi nghĩ rằng mình cần một thủ môn để giữ khung thành.
- Còn bây giờ thì thế nào ?
Anh chồng thở dài, lắc đầu và nói :
- Ai dè tôi đã vớ phải một trọng tài nghiêm khắc, lúc nào cũng sẵn sàng thổi phạt và lăm le rút thẻ vàng, thẻ đỏ, lại còn tính đuổi tôi ra khỏi sân nữa.
Từ lời tâm sự cay đắng của anh chồng trên, gã nhận thấy một lý do khác nữa khiến cánh đờn ông luôn sợ vợ, đó là ngán ngẩm trước sự chế tài và cấm vận của phe đờn bà, nên đành sợ vợ đi cho nó xong chuyện.
Một anh chồng khác cũng đã tâm sự trên báo Phụ nữ Chủ nhật như sau :
“Chẳng biết ai như thế nào, chứ riêng tôi thì sợ vợ một phép. Vợ tôi chẳng phải bự con hay miệng hùm gan cọp gì, mà ngược lại bé tí tẹo. Tôi thì béo to béo tốt, nhờ vợ nuôi mà tròn trèm có 80 ký hà. Còn bà nhà tôi thì phì nhiêu với 42 ký nhờ đã sanh cho tôi cả công chúa lẫn hoàng tử, chứ lúc trước nàng chỉ cò 38 ký thôi. Ấy thế mà chẳng hiểu sao tôi vẫn cứ sợ nàng mới chết chứ. Thật xấu hổ khi kể chuyện mình sợ vợ cho quí ông chồng khác cùng biết, nhưng tôi nghĩ tôi cũng chẳng phải “đặc biệt” gì.
Tiền lương của tôi tháng nào cũng nộp đầy đủ, thiếu một xu nàng cũng biết. Nàng rất khéo tính toán, mỗi tháng chỉ chừa cho tôi 150.000 đồng để ăn sáng. Tướng ta như tôi mỗi buổi sáng 5.000 đồng thì ăn được gì ? Nhưng tháng nào nàng cũng bỏ ống heo tới 200.000 đồng tiền cà phê và thuốc lá, chỉ vì tôi không biết uống cà phê, lại không biết hút thuốc lá, nhờ thế mà nàng tiết kiệm được bằng ấy tiền.
Bất cứ chuyện gì từ chuyện ăn uống đến chuyện dạy con học, nói chung là từ A đến Z một tay nàng lo toan, tôi không phải động tay vào, tôi chỉ có việc tháng tháng đưa tiền lương về cho nàng một cách đầy đủ.
Nếu có vậy thì tôi cũng không tức đến nỗi phải viết ra đây. Đằng này cả...chuyện ấy. Chẳng là nhà tôi không mấy rộng rãi nên cả bốn người : vợ chồng con cái đều nhét vô một phòng, mà giường ngủ thì cũng chỉ có một cái.
Khi xưa lúc chưa có con thì còn tương đối thỏa mái. Giờ sinh ra hai con “kỳ đà”, nên tôi phải xuống đất mà nằm. Nhiều đêm chuyện gì xảy ra phải xảy ra, nhưng với tôi thì không. Mỗi khi tôi khều nàng là nàng trừng mắt nhìn tôi rồi nhìn xấp nhỏ và chẳng hiểu vì sao lúc đó tôi chỉ nín khe chứ không “phụ nam vùng lên” cho nàng biết tay...”
Các cụ ta ngày xưa đã dạy :
- Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Có nghĩa là từ những cái nhỏ mọn và tầm thường đến những cái nhiêu khê và phức tạp, chúng ta đều phải học tất tật, huống hồ để trở nên “chồng giỏi chồng ngoan”. Đây quả là một nghệ thuật vừa tế nhị lại vừa rối rắm.
Cũng trên báo Phụ nữ Chủ nhật, gã đọc được một bài trích từ tạp chí “Reader’s Digest” số tháng 5 năm 2000, viết về bí quyết để trở nên “chồng giỏi chồng ngoan”, gã chỉ xin lẩy ra một vài điểm hay ho mà thôi :
- Trong bữa ăn với khách khứa, nhớ cười cò mồi một cách thú vị cho mọi người cười theo, mỗi khi vợ mình kể chuyện, cho dù câu chuyện đã nghe qua hàng trăm lần trước đó và chỉ muốn hét toáng lên rằng : biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
- Phải dành cho vợ độc quyền sử dụng “rờ mót” TV mỗi tối.
- Phải lắng nghe, cấm không được than phiền mỗi khi vợ cao hứng gào lên một bài hát nào đó với giọng rè rè như ống bơ dỉ.
- Cuối tháng, không bao giờ được tính riêng số tiền điện thoại những cuộc gọi đường dài của vợ là bao nhiêu.
- Chấp nhận để vợ sử dụng từ “vợ chồng chúng tôi” mỗi khi kể với ai đó về công việc mà mình đã vắt kiệt sức làm một mình. Chẳng hạn như “vợ chồng chúng tôi” mới sơn lại nhà, sửa lại hàng rào vào ngày chủ nhật vừa rồi...
- Mỗi tối nhớ hỏi thăm về công việc của vợ và nhẫn nại lắng nghe hết những kể lể, than phiền dài lê thê như mưa dầm tháng bảy.
- Khi chơi trò gì với vợ, đô-mi-nô chẳng hạn, đừng dại dột nói cô ấy chơi dở hay sai luật, cho dù đấy là sự thật “chăm phần chăm”.
- Trong những cuộc cãi lộn, cho dù là lúc tức giận nhất, cũng đừng bào giờ phán rằng : càng ngày cô càng giống...bà ngoại. Và khi hòa bình trở lại, phải tuyệt đối xin lỗi một cách vô điều kiện.
- Phải chăm chú nhìn mỗi khi vợ mặc thử năm hay sáu chiếc áo chẳng khác gì nhau, trước khi gật gù tâm đắc : em mặc cái thứ nhì là tuyệt nhất.
- Mỗi khi vợ đi làm đầu về, phải trầm trồ xuýt xoa như thể đây là kiểu tóc tuyệt vời, một sự sáng tạo đầy ấn tượng, cực kỳ mốt...hết ý!!!
- Cuối cùng, phải cố tìm thấy sự quyến rũ và gợi tình của vợ, thậm chí cả khi cô ta đầu bù tóc rối, quần áo nhàu nát và rộng lùng bùng như một đống vải quấn quanh con lạc đà.
Bài này kèm theo một tái bút đầy ngậm ngùi như sau :
- Ôi, ngồi dịch những hàng chữ này mà muốn...rơi cả nước mắt. Đàn ông xứ Tây cũng không khác đờn ông xứ ta là mấy!
Từ những điều trên, gã xin đúc kết lại thành một kinh nghiệm để đời :
- Muốn trở nên “chồng giỏi chồng ngoan” thì đừng bao giờ quên rằng : lấy vợ là phải bắt đầu yên lặng, chấp nhận và chịu đựng.
Hay như Tú Xương, muốn trở thành “chồng giỏi chồng ngoan” thì chỉ cần mỗi một việc phải làm ngay, đó là :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Thấy chuyện làm “chồng giỏi chồng ngoan” nhiêu khê và rắc rối như vậy, nên có một anh chàng nhiều lúc đã thầm mơ và ước được làm ông Adong, bởi những lẽ sau đây :
- Adong là người đàn ông duy nhất, nên không bị Eva so sánh và móc lò : sao anh đoảng thế, chẳng được như người ta.
- Adong là người không có cái được gọi là gia đình bên vợ.
- Thời Adong chưa có các cửa hiệu, các siêu thị và thời trang.
- Adong không lo cảnh thất nghiệp, phải đi kiếm việc làm, cũng chẳng lo cảnh Eva ngồi lê la đôi mách với...hàng xóm.
Đã bàn đến những anh chồng sợ vợ, thì không thể bỏ qua những anh chồng hảo hớn, lúc nào cũng sẵn sàng nổi máu kẻ cả đối với chị vợ. Thái độ của những anh chồng này, gã xin tóm tắt vào mấy chữ “Đ” như sau :
- Độc đoán, đày đọa và đánh đập...vợ mình.
Thái độ trên xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo của Nho giáo. Bởi vì Khổng Mạnh vốn chủ trương trọng nam khinh nữ, một khi đã mang thân phận đờn bà con gái thì cần phải sống cái đạo “tam tòng” :
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Có nghĩa là ở nhà thì phục tùng bố. Khi lập gia đình thì phục tùng chồng. Còn khi chồng ngỏm thì phục tùng con.
Từ đó mà luôn luôn phải :
- Phu xướng phụ tùy. Có nghĩa là chồng phán thì vợ phải vâng theo.
Ôm mớ lý thuyết này mà đi vào thực hành, các ông chồng luôn nắm giữ vai trò “gia trưởng”, coi vợ như đầy tớ, có bổn phận phải phục dịch cho bản thân mình, đúng với tiêu chuẩn :
- Chồng chúa vợ tôi.
Quan niệm này ngày nay đã bị đảy lui trước những phong trào nổi lên như : phụ nữ đòi quyền sống, nam nữ bình quyền...Dầu vậy, đôi lúc nó vẫn còn tái xuất giang hồ ở chỗ này hay chỗ khác, dưới hình thức nọ hay hình thức kia.
Trước hết, về phương diện tư tưởng, các ông chồng này luôn tỏ ra độc đoán, cho ý nghĩ của mình là đúng và bắt mọi người phải tuân theo. Tác phong của họ là “ cả vú lấp miệng em”. Dù bộ ngực của nhiều người trong bọn họ lép kẹp vì là dân “hít tô phe” nghĩa là nghiện thuốc phiện, hay xì ke ma túy.
Tiếp đến, về phương diện lời nói, các ông chồng này luôn tỏ ra gắt gỏng, cộc cằn và thô lỗ, theo kiểu “dùi đục chấm mắm tôm”. Mở mồm ra là :
- Cái con mẹ mày...cái con mụ kia.
Trong khi đó, môi miệng của họ lại dẻo quẹo đối với bồ nhí hay đối với người dưng nước lã, thôi thì :
- Anh anh, em em...mình ơi, mình à...
Cứ ngọt xớt như đường cát và mát như đường phèn ấy chứ lị!
Còn về phương diện việc làm thì phải diễn tả cho đúng mức bằng hai động tác :
- Đày đọa và đánh đập.
Đày đọa bằng cách bắt chị vợ phải làm hết mọi công việc nặng nhọc, từ buôn bán ngoài đường đến bếp núc trong nhà. Còn họ thì lúc nào cũng phải thuốc lào ngon, trà tàu đặc...để mà bàn chuyện chính chị chính em, chuyện trên trời dưới đất với mấy ông bạn già, rồi ngước mặt nhìn đời bằng nửa con mắt. Tác phong của họ đã được diễn tả như sau :
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Tới bữa thì phải cơm bưng nước rót. Lắm khi nhà nghèo không đủ tiền mua gạo, thế mà vẫn phải có tí thịt...cho ông chồng nhắm rượu. Có gia đình còn phải dành riêng cho anh chồng một mâm riêng, khi anh ta xơi xong thì mới tới lượt vợ con và những người trong nhà. Thiếu điều chị vợ còn phải đứng mà quạt theo kiểu :
- Em hầu quạt...mo.
Đày đọa như thế chưa đủ, đến khi tẩu hỏa nhập ma, cơn giận nổi lên đùng đùng, thì liền ném nồi niêu. xoong chảo, bát đũa…ra ngoài sân. Nếu chưa hả cơn nóng, thì bèn thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh đập chị vợ một cách không thương tiếc.
Nghĩ về thái độ “vũ phu chi cục mịch này”, gã thấy làm như vậy quả là vô cùng dại dột. Bởi vì khi tỉnh cơn mê, nếu nồi niêu bát đũa bị bể vỡ, lại phải bỏ tiền ra mà mua sắm. Nếu chị vợ đánh bị phun máu đầu, lại phải bỏ tiền bạc và thời giờ ra mà chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ...bị đi tàu suốt sang thế giới bên kai, thì chắc chắn ông chồng này sẽ được luật pháp sờ vào gáy, cho ngồi nhà đá mà đếm lịch. Rồi tương lai gia đình và con cái sẽ như thế nào ?
Một anh chồng đã thề quyết với bè bạn như sau :
- Tớ hứa từ nay sẽ không bao giờ đánh vợ nữa. Tốn kém lắm.
Mọi người đều ngạc nhiên :
- Sao lại tốn kém ?
Anh chồng buồn sầu trả lời :
- Vợ tớ thích làm đẹp, tớ hoàn toàn đồng ý. Nhưng càng ngày cô ấy càng quá đáng. Hôm trước cô ấy hỏi ý kiến để đi xâm môi, tớ không đồng ý vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ môi vợ tớ đã thật dễ thương rồi. Mua son gì tớ cũng chịu, chứ đi xăm nó hâm hâm tái tái, như miếng thịt trâu ôi, nhìn thấy mà ghê. Tớ cương quyết : Em mà xâm môi, anh nhất quyết sẽ không bao giờ hôn em nữa. Đồ thật còn chẳng ăn, ai lại ăn đồ giả. Yên lặng được một thời gian, lần này cô ấy chẳng thèm hỏi han gì, qua mặt tớ luôn. Các cậu thấy đấy, cái mũi vợ tớ trước giờ vốn hênh hếch nhìn có duyên đáo để. Thế mà hôm nay cô ấy đem về trình diện tớ một cái mũi dọc dừa thẳng tưng, chóp mũi còn cao hơn cả cái trán. Tớ mở tủ xem ngân quĩ thì thấy thiếu mất một triệu rưỡi. Khổ quá! Đang dành tiền tính đổi cái xe đạp cà tàng cổ lỗ sắp thành sắt phế thải rồi. Cũng phải lên đời, chuyển hệ thành xe máy chứ. Tức quá, tới gọi cô ấy lại, xáng cho nguyên một bạt tai. Của đáng tội, tớ đánh nhẹ thôi chứ đâu có mạnh tay. Lần đầu tiên kể từ khi cưới nhau, tớ đánh vợ tớ. Các cậu biết chuyện gì xảy ra không ? Cái mũi “mỹ viện” của cô ấy lệch sang một bên, nhìn giống như cục thịt thừa. Cô ấy soi vào gương mà cứ khóc thút thít khiến tớ ân hận quá. Nắn mãi cũng không làm sao cho mũi ngay ngắn lại được. Đành phải chở vợ tớ tới mỹ viện, tốn thêm một triệu rưỡi nữa để họ chỉnh cái mũi lại như cũ. Tớ chỉ đánh vợ một lần duy nhất mà thôi, tởm tới già. Giận quá mất khôn. Tốn một lần chưa đủ hay sao mà lại muốn tốn thêm một lần nữa.
Kinh nghiệm sống sượng trên đây đáng cho mọi anh chồng vũ phu suy gẫm trong cung cách cư xử với chị vợ của mình.
Làm thân đờn ông đã khó, còn làm anh “chồng giỏi chồng ngoan” lại càng khó hơn.
Và để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện như sau :
Hôm đó, một nhóm các cô gái đi tới câu lạc bộ “tìm bạn”, nơi mà người ta quảng cáo có rất nhiều chàng trai để các cô làm quen. Khi họ đến, người hướng dẫn nói :
- Chúng tôi có năm tầng. Các cô cứ đi theo thứ tự từ tầng một và có thể dừng lại bất cứ chỗ nào các cô thấy thích hợp.
Họ đi vào tầng một, thấy tấm biển với hàng chữ :
- Ở đây có những chàng trai thấp và chất phác.
Họ liền cười ồ và tiếp tục lên tầng hai. Tại tầng hai, họ thấy tấm biển với hàng chữ :
- Ở đây có những chàng trai thấp và đẹp.
Các cô thấy chưa đủ tiêu chuẩn, nên tiếp tục lên tầng ba. Tại tầng ba, họ thấy tấm biển với hàng chữ :
- Ở đây có những chàng trai cao và chất phác.
Các cô muốn các chàng trai tốt hơn nên đi tiếp. Tại tầng bốn, họ thấy tấm biển với hàng chữ :
- Ở đây có những chàng trai cao và đẹp.
Các cô rất hào hứng vì thấy càng lên cao, tiêu chuẩn càng tăng và chất lượng càng bảo đảm. Các cô thầm nghĩ :
- Còn một tầng nữa, tội gì mà không lên.
Vì thế, các cô tiếp tục leo lên tầng năm. Tại tầng năm, họ thấy tấm biển với hàng chữ :
- Ở đây chẳng có chàng trai nào cả. Tầng này được xây chỉ để chứng minh rằng : ở trên đời, không có cách nào làm cho phe đờn bà con gái được vừa ý.
Đọc xong mẩu chuyện trên, gã đã phải mất trọn một đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà suy gẫm. Rồi sau đó, lồm cồm bò dậy, bắn một phát thuốc lào, tớp một ngụm trà nóng, rồi vỗ bụng cười…hề hề.
Đờn ông con giai còn những chứng bệnh nan y nào nữa ?
Xin các bạn cứ vô tư và mặc sức kể ra bằng cách viết và gửi về tòa soạn. Bảo đảm cụ chủ nhiệm sẽ trả tiền thù lao.
Chẳng hiểu cụ chủ nhiệm khả kính của chúng ta mắc phải chứng bệnh “dị ứng” chết tiệt nào GãSiêu 144
Chẳng hiểu cụ chủ nhiệm khả kính của chúng ta mắc phải chứng bệnh “dị ứng” chết tiệt nào mà hễ nhận được những sự phản đối của độc giả, nhất là độc giả thuộc phe kẹp tóc, thì cụ liền nổi máu tam bành lục tặc, nổi giận đùng đùng, phùng má trợn mắt như Trương Phi trong “Tam quốc chí diễn nghĩa”, quyết làm cho ra ngô ra khoai.
Chả thế mà, có lần gã vô ý tán hươu tán vượn về “sự ngược đời của đờn bà con gái”, liền bụ cụ phang cho một trận tơi bời hoa lá, tối tăm mắt mũi.
Và rồi Cụ đã phán :
- Bộ chú mày muốn xơi cà chua ủng và trứng ung của các cô nường hay sao mà dám bạo gan bạo phổi, mở mồm mở miệng bốc thối phe địch đến thế.
Không kịp để cho gã phân bua, Cụ liền méo mó nghề nghiệp mà “ra việc đền tội” :
- Hãy may mau viết ngay một bài nói xấu đờn ông con giai cho ta. Liền tút xuỵt, không oong đơ gì sốt.
Trở về với thực tại. Số trước, gã đã nổi hứng mần một “quả” về dung nhan “kiều diễm” của các chị vợ. Thế nhưng, vốn biết thân phận mình hẩm hiu, còn đen hơn cả mõm chó mực, thành thử hôm nay gã phải ép mình ép xác mà cà kê dê ngỗng về khuôn mặt hốc hác của những anh chồng.
Sở dĩ như vậy, bởi vì gã đã di “dép râu” trong bụng Cụ chủ nhiệm nhà ta, nếu không viết thì rồi cụ cũng bắt phải viết. Hình như lúc nào cụ cũng chỉ muốn “dĩ hòa vi quí”, có âm có dương, có nếp có tẻ, có đực có cái, có mình có ta...
Theo một số nhà nhân chủng học thuộc hạng “gà mờ” thì rất có thể vào cái thuở xa xưa ấy, nhân loại đã trải qua một thời kỳ sống trong chế độ mẫu hệ. Nghĩa là người mẹ nắm mọi quyền hành trong nhà cũng như ngoài ngõ.
Trong chế độ mẫu hệ này, thì phe đờn bà con gái được lên ngôi, nắm đầu và chỉ huy tất tật.
Hồi đó, các cô nường đi cưới chồng, chứ không phải là các anh chàng đi cưới vợ như ngày hôm nay. Phe đờn bà con gái thì lãnh đạo, còn cánh đờn ông con trai thì chỉ đóng vai trò trang trí cho vui cửa vui nhà, đúng là :
- Phụ xướng phu tùy, có nghĩa là vợ nói thì chồng phải theo. Đã bảo thì đừng có gân cổ ra mà cãi.
Chứ đâu có phong cách nho nhe :
- Phu xướng phụ tùy, có nghĩa là chồng nói thì vợ phải theo.
Tàn tích của chế độ “phong kiến hồng quần” này còn rơi rớt lại trong một vài câu tục ngữ, chẳng hạn như :
- Một trăm con giai,
Không bằng lỗ tai con gái.
- Ba đồng một chục đờn ông,
Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.
Ai ngờ dây đứt, lồng rơi,
Nó bò lổm ngổm, mỗi nơi một thằng.
Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay thì chế độ phong kiến rất êm dịu và rất dễ chịu này đã “phẹc mê bu tích”, nghĩa là đã đóng cửa tiệm từ lâu, để nhường chỗ cho cánh đờn ông con giai lên ngôi.
Bằng sức lao động và sản xuất của mình, cánh đờn ông con trai đã thoát khỏi tình trạng nô lệ, để nắm vai ông chủ. Điều này gã thấy nhan nhản trong kho tàng văn chương bình dân của người An nam mình.
Các cụ ta ngày xưa đã chẳng bảo :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Có nghĩa là đẻ được một “thằng cu” thì đã là có, chứ còn đẻ được cả trăm “cái đĩ “ cũng vẫn kể như là không.
Rồi các cụ cũng đã nâng anh đờn ông con giai lên tới tận chín tầng mây khi nói :
- Đờn ông nông nổi giếng khơi,
Đờn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà.
Dù là vụng dại cũng là đờn ông.
Còn rất nhiều những câu đại loại như thế nữa, gã chẳng dám kể ra, kẻo mà như bà huyện Thanh quan đã diễn tả :
- ...Đau lòng con quốc quốc.
- Và...mỏi miệng cái gia gia.
Cánh đờn ông con giai được ưu thế trong nhiều lãnh vực, gã chỉ xin đan cử một lãnh vực rất mực bình thường, chẳng hạn như lãnh vực tuổi tác :
- Giai ba mươi tuổi đang xoan.
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
Có kẻ đã sánh ví cuộc đời của anh đờn ông con giai tựa như đoàn tàu lửa :
- Ở tuổi hai mươi, họ muốn đỗ ở mỗi ga.
- Sang ba mươi tuổi, họ chỉ có thể đỗ ở một ga.
- Đến bốn mươi tuổi, họ muốn đỗ, nhưng họ không được phép đỗ ở một ga khác.
- Quá tuổi năm mươi, họ muốn đỗ nhưng họ không thể nào đỗ được.
- Và khi họ sáu mươi, thì ngay đến việc khởi động họ cũng không thể, thì làm sao mà đỗ được đây.
Về phương diện này, để an ủi phe đờn bà con gái, gã bèn trích một câu trong cuốn “Tục ngữ phong dao” của Ôn như Nguyễn văn Ngọc, trang 350, gọi là để nói có sách, mách có chứng :
- Giai ba mươi tuổi mà già,
Gái bốn mươi tám đang ra má hồng!!!
Chính vì sự đổi ngôi này, mà có một vị chân tu, mặc dù tuổi đời đã xế bóng, thế mà lúc nào cũng mỉm cười, để lộ hàm răng như răng trẻ thơ, nghĩa là chẳng còn một cái răng nào sốt.
Thiên hạ thấy vậy, bèn rất lấy làm ngạc nhiên và hỏi :
- Tại sao cụ cứ cười hoài vậy ?
Như được gãi đúng chỗ ngứa, vị chân tu không phải chỉ cười ruồi, mà còn há miệng cười một cách hả hê, cười ngặt cười nghẹo đến vãi cả và nước mắt, âm thanh thì rộn rã như tiếng chuông nhà thờ.
Sau một hồi cười dài như xe lửa kéo còi, vị chân tu mới lồm cồm bật mí.
- Tại sao ta lại không cười được ? Này nhé, Đức Chúa Trời dựng nên loài người ta có đờn ông và đờn bà. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà làm đàn ông thì sướng hơn làm đờn bà. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Đó là lý do thứ nhất khiến ta cười hoài.
- Còn lý do thứ hai ?
- Này nhé, làm đờn ông thì một là lấy vợ, hai là đi tu. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà đi tu thì sướng hơn là lấy vợ. Có đúng vậy không hề ?
Thấy thiên hạ yên lặng gãi đầu chẳng giám trả lời, vị chân tu bèn phán luôn :
- Mấy cái lão này chả biết đí gì sốt. Người đời đã chẳng bảo : tu là cõi phúc tình là giây oan đó sao.
- Dạ thưa đúng.
- Đó là thứ hai khiến ta cười mãi.
- Còn lý do thứ ba ?
- Thứ ba hử ?
Vị chân tu bèn rít một điếu thuốc lào kêu ro ro, rồi lim dim đôi mắt mà khẽ nói :
- Này nhé, thiên hạ đi tu thì một là làm cha hai là làm ma...xơ, đại loại là như thế. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà làm cha thì sướng hơn làm ma...xơ bội phần. Có đúng vậy không hề ?
Lần này, thiên hạ cũng lại yên lặng gãi tai chưa kịp trả lời, thì vị chân tu đã vội cướp đài nói luôn phăng xi lô :
- Mấy cái lão này lại chẳng biết đí gì sốt, không sướng mà sao mấy ma...xơ cứ biểu tình, lập kiến nghị đòi cho được làm...cha. Thế có ngược đời không cơ chứ ?
- Dạ thưa đúng.
- Chính vì thế mà ta cười vang lên như nắc nẻ. Ví dù có các vàng thì ta cũng chả dám làm ma...xơ đâu.
Gã chẳng biết ý kiến ý cò của vị chân tu này có lệch lạc nhiều lắm không. Riêng bản thân mình, gã cảm thấy làm thân đờn ông con giai cũng nhiều cái nhiêu khê, phức tạp và rắc rối, ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, chứ chẳng phải êm ru bà rù đâu.
Hẳn là bàn dân thiên hạ đều biết rằng :
Thuở ban đầu, Đức Chúa Trời đã dựng nên ông Adong và cho ông sống trong vườn địa đàng. Cảm thương cái cảnh cô đơn vò võ của Adong, Đức Chúa Trời bèn đợi lúc ông ngủ say, rồi lấy một nửa chiếc xương sườn của ông mà dựng nên Eva.
Sau khi hoàn tất tác phẩm của mình, Đức Chúa Trời bèn dẫn Eva vô ra mắt Adong. Vừa nhìn thấy bà, ông đã mừng húm mà hô vang :
- Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.
Kiểu diễn tả của dân Giu-dêu như trên xem ra có vẻ hơi vòng vo, chứ còn diễn tả theo kiểu người Việt Nam ta thì khỏe re, Adong chỉ cần chớp chớp hai hàng mi, rồi khe khẽ kêu lên với một giọng đầy trìu mến :
- Mình ơi.
Hai chữ “mình ơi” này quả thật là tuyệt vời, quả thật là hết ý!!!
Vì Eva được dựng nên bởi nửa chiếc xương sườn của mình, nên suốt đời Adong hằng loay hoay tìm kiếm nửa chiếc xương sườn kia của mình. Chính vì thế, dân “Phú lãng xa” vốn gọi bà xã của mình là :
- Ma moitié, có nghĩa là “hỡi nửa kia của anh ơi!”
Bởi vậy cho nên đờn ông hướng tới đờn bà, con giai hướng tới con gái và ngược lại, âu cũng là chuyện rất bình thường và rất tự nhiên, vốn nằm sẵn trong bản tính con người :
- Trai thấy gái lạ,
Như quạ thấy gà con.
Thế nhưng, chính cái khuynh hướng bình thường và tự nhiên này đã gây nên nhiều rắc rối cho phe đờn ông, nhất là cho những anh con giai mới nhớn. Chuyện rằng :
Có một vị thiền sư kia ngày nọ dẫn chú đệ tử của mình xuống núi. Trên đường, hai thày trò gặp mấy cô thôn nữ đang đi cấy, cười nói vui vẻ. Thấy vậy, chú đệ tử bèn hỏi sư phụ của mình :
- Thưa thày, đó là cái chi vậy ?
Vị thiền sư chưa biết trả lời ra làm sao, thì bỗng nhìn thấy mấy cô thôn nữ đội những chiếc nón lá, bèn trả lời :
- Ồ có gì đâu, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi.
Kể từ lúc bấy giờ, chú đệ tử chẳng nói chẳng rằng. Một sự im lặng thật là dễ sợ. Về đến nhà, cứ thừ ra như người mộng du hay đi trên mây ấy. Vị thiền sư lân la hỏi chuyện, miết rồi chú đệ tử mới dám thỏ thẻ bày tỏ nỗi lòng :
- Thày ơi, sao con nhớ mấy cái...nón ấy quá. Con thương mấy cái nón ấy lắm.
Mang thân phận đờn ông “vai năm thước rộng, thân mười thước cao” theo “mô đen” của anh chàng Từ Hải mà Nguyễn Du đã diễn tả trong truyện Kiều, mà nhảy vào lòng cuộc đời, lắm lúc cũng thật là nhiêu khê và rối rắm như nắm bòng bong.
Nếu chẳng may sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, trong một gia đình làm ruộng, suốt ngày đánh vật với “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, thì bị bọn con gái sẽ chê ỏng chê eo :
- Chàng nông nãi vũ phu chi cục mịch,
Lấy yếm thắm chỉ đào chi cho uổng công.
Còn nếu may được sinh ra dưới một ngôi sao sáng, trong một gia đình giàu có, được ăn học đến nơi đến chốn, thì cũng bọn con gái ấy lại mở miệng, trề môi ra mà liệt vào hạng “trói gà không chặt”, ham chi mà ham :
- Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
Rồi thiên hạ cũng lại bảo :
- Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
Khi có được mấy cọng râu lún phún, tập tễnh bước vào đời, đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân, thì cũng lại gặp phải những phiền toái.
Nếu mình cặp kè với một cô bồ thuộc loại con nhà giàu, thì bị thiên hạ coi khinh, nhìn mình bằng nửa con mắt và phong ngay cho cái học vị “kỹ sư đào mỏ”.
Nếu mình vớ được một cô vợ cao, cao về thân thể cũng như cao về kiến thức, thì thiên hạ lại lo cho mình :
- Chồng thấp mà lấy vợ cao,
Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa.
Còn nếu ông tơ bà nguyện xe lầm sợi tơ duyên, cột chân mình lại với một cô nàng hơn mình tí tuổi đời, thì chắc chắn thiên hạ chẳng chịu buông tha, lại chõ mồm vào mà bình luận lung tung :
- Chồng già, vợ trẻ là tiên,
Vợ già, chồng trẻ là duyên...con bò.
Tử tế hơn, thì họ bảo :
- Chồng lớn, vợ bé thì xinh,
chồng bé, vợ lớn ra tình chị em.
Nếu vớ được một cô vợ đẹp như tiên giáng trần, hay ít nữa cũng như một cây trúc mà tục ngữ đã diễn tả :
- Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.
Với một cô vợ đẹp và xinh như vậy, thì dễ gì mà đã được hạnh phúc và sung sướng, bởi vì khi đi ở ngoài đường, lắm lúc tức hộc cả máu mồn, cũng tại bọn đờn ông chiếu cố, ngoái nhìn đến sái cả cần cổ. Chẳng lẽ lại nổi máu Hoạn thư, ghen lấy ghen để. Bản lãnh lắm thì mới tự an ủi lấy mình :
- Thôi thì bông hoa đẹp cứ để cho cả và thiên hạ nhìn ngắm chán chê mê mỏi, có mất mát đí gì đâu mà sợ.
Ấy thế mà vẫn còn bị thiên hạ cho mình là kẻ tầm thường và dại khờ.
Có một người đàn ông đã hỏi Đức Chúa Trời :
- Tại sao Ngài tạo ra đờn bà đẹp thế ?
- Thì ngươi mới yêu được cô ta.
- Nhưng tại sao họ lại nông cạn vậy ?
- Để cô ta có thể yêu được ngươi ấy mà.
Hay như Somerset Maugham đã phát biểu :
- Tại sao những người đờn bà đẹp lại lấy những người đờn ông tầm thường ? Xin thưa : vì những người đờn ông khôn ngoan sẽ không lấy những người đờn bà đẹp.
Trong thời gian bồ bịch, anh con giai lại còn phải tỏ ra hết sức “ga lăng”, chiều chuộng “cô nường bé bỏng” của mình cho tới mức, đúng là phải :
- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.
Thế mà nhiều lúc cũng vẫn còn bị “thất sủng” với những độc chiêu, chẳng hạn như : nào giận, nào hờn, nào phạt, nào nghỉ chơi…và không chừng còn bị cho leo cây, như lời tâm sự với nhau của hai nữ sinh khoa điện, mà gã đọc được trên báo Phụ nữ Chủ nhật như sau :
- Hôm qua tao định cắt cầu dao với lão ta rồi. Con giai gì mà điện trở kém quá, tao đến muộn có 45 phút mà lão ta đã nóng đỏ cả dây tóc lên rồi! Lần sau mà còn như vậy thì tao cho đứt cầu chì luôn.
Cô bạn nghe xong bèn tiếp lời :
- Mày còn hiền quá đấy, phải tao thì lão ta đã bị một trận tóe hồ quang ra ấy chứ...Cái lão chập mạch ấy sao mày ham quá vậy. Thử xem lão ta đẹp ở chỗ nào mà cảm ứng được mày cơ chứ. Người thì dài ngoẵng như cây bút thử điện. Đầu tóc thì bù xù không ra nối tiếp, cũng chẳng ra song song, lại còn ngủ ngày như cái “tăng phô”. Mày đi với lão trông lệch pha bỏ xừ. Là con gái, mày phải chủ động nắn dòng cho lão ta mới được. Khi hắn quá dòng mà mày chịu tụt áp, thì lão ta sẽ xem thường mày ngay cho mà xem…
Thế thì có trời mới hiểu được lòng dạ đờn bà con gái. Thật đúng như lời một câu danh ngôn đã bảo :
- Chỉ có hai khoảng thời gian trong đời anh đờn ông không hiểu gì về đờn bà, đó là trước và sau đám cưới.
Suy gẫm về câu danh ngôn này, gã bèn thở dài thườn thượt mà rằng :
-Thế thì hết bố nó rồi còn gì.
Thực vậy, một tác giả, dày dạn trên “tình trường”, đúc kết lại những kinh nghiệm riêng tư của mình, đã bật mí cho cánh đờn ông con giai như một lời tâm sự chân thành, để mà suy gẫm và tùy nghi “đối phó”, hay theo ngôn từ của những cuộc thi hoa hậu hôm nay thì để mà tùy nghi…“ứng xử” :
- Nếu bạn hôn cô ta, cô ta bảo bạn không đứng đắn. Còn nếu bạn không hôn, cô ta bảo bạn chẳng phải đờn ông.
- Nếu bạn khen cô ta, cô ta bảo bạn nói dối. Còn nếu bạn không khen, cô ta bảo bạn không biết nhìn người.
- Nếu bạn chiều theo ý cô ta, cô ta bảo bạn nhu nhược. Còn nếu bạn không chiều theo, cô ta bảo bạn chẳng hiểu gì cả.
- Nếu bạn tới thăm cô ta thường xuyên, cô ta bảo chán ngấy. Còn nếu bạn không tới thăm thường xuyên, cô ta nghi ngờ bạn bắt cá hai tay.
- Nếu bạn ăn mặc “mô đen”, cô ta bảo bạn là dân chơi. Còn nếu không, cô ta bảo bạn là cù lần cù lèo, quê ba bốn cục.
- Nếu bạn ghen, cô ta bảo đó là tật xấu. Còn nếu bạn không ghen, cô ta bảo bạn chẳng biết yêu là đí gì.
- Nếu bạn tỏ ra lãng mạn, cô ta bảo bạn không tôn trọng cô ta đúng mức. Còn nếu không, cô ta bảo bạn không thích cô ta.
- Nếu bạn đến trễ một phút, cô ta bảo bạn đã để cô ta phải chờ gần chết. Còn nếu cô ta đến trễ, cô ta bảo con gái là như vậy đó.
- Nếu bạn tới thăm cô gái khác, cô ta bảo bạn không nghiêm túc trong tình cảm. Còn nếu cô ta được chàng trai khác tới thăm, cô ta bảo đó là chuyện thường tình của con gái.
- Nếu bạn thỉnh thoảng mới hôn cô ta, cô ta nói bạn lạnh lùng. Còn nếu bạn hôn cô ta thường xuyên, cô ta bảo bạn lợi dụng.
- Nếu bạn không xách nặng giúp cô ta, cô ta bảo bản chẳng lịch sự. Còn nếu bạn xách, cô ta bảo đó chỉ là ý đồ đen tối, âm mưu dụ dỗ.
- Nếu bạn nhìn cô gái khác, cô ta bảo bạn không đáng tin cậy. Còn nếu cô ta được chàng trai khác ngắm, cô ta bảo đó chỉ là ngưỡng mộ mà thôi.
- Nếu bạn nói, cô ta muốn bạn nghe. Còn nếu bạn nghe, cô ta lại muốn bạn nói.
Quả thật là nguy tai, thậm nguy tai ấy chứ. Đến quỉ thần cũng chẳng hiểu nổi đờn bà con gái :
- Ở sao cho vừa lòng người.
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục, béo tròn.
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Tới khi lập gia đình, bước vào hôn nhân, chính thức sống chung hòa bình “mí nhau”, cánh đờn ông con giai cũng không thoát khỏi cảnh lận đận và long đong. Vì thế, thiên hạ đã sánh ví :
- Trong đời anh đờn ông, khi còn độc thân là như một con công; Khi đã đính hôn là như một con sư tử; Còn khi đã kết hôn, là như một con…lừa.
Sở dĩ như vậy, đó là vì :
- Trai có vợ như rợ buộc chân.
Bởi thế, dân Ý đại lợi đã bảo :
- Cưới vợ là bán đứt sự tự do của mình...Cưới vợ là tự tạo cho mình những điều phiền muộn.
Và rồi họ đã kết luận :
- Trong đời anh đờn ông có hai ngày sướng nhất, đó là ngày cưới vợ và ngày chôn vợ.
Xem ra điều kết luận này thật là...quá đáng. Dầu vậy, thì thân phận của anh chồng cũng chẳng được sáng sủa hơn bao nhiêu. Bởi vì trong hôn nhân, chị vợ là người được hưởng lợi trăm bề.
Gã xin đưa ra một vài thí dụ nho nhỏ, chứng tỏ anh con giai khi đã có vợ thì bị “bóc lột” đến tận xương, tận tủy.
Này nhé, sau nhiều năm dài học hành chăm chỉ anh chồng mới khều được cái bằng bác sĩ, thế mà phóc một cái, chị vợ bỗng nghiễm nhiên trở thành bà bác sĩ.
Sau biết bao nhiêu ngày tháng chí thú mần ăn, đổ cả mồ hôi hột...anh chồng mới ngoi lên được cái chức giám đốc, thế mà ngày trước ngày sau, chị vợ bèn tót ngay lên thành bà giám đốc, mà chẳng gẫy một tí móng tay móng chân nào.
Sau những năm dài đấu tranh cực kỳ gian khổ, anh chồng mới ngồi được vào cái ghế tổng thống, thế mà chị vợ chỉ đi làm cảnh, cho thêm phần màu mè hoa lá, cũng lập tức được cả và thiên hạ cúi gập mình xuống mà xưng tụng là “First Lady”, có nghĩa là đệ nhất phu nhân, vợ tổng thống, hay...bà tổng thống.
Còn nếu cuộc tình mà tan vỡ, để rồi anh đi đường anh, em đi đường em, tình nghĩa đôi ta chỉ có vậy mà thôi, thì chị vợ vẫn được lợi như thường.
Trong một cuộc chia tay kia, chị vợ nói với anh chồng :
- Tôi là đờn bà, nên phàm cái chi là giống cái thì thuộc về tôi, còn phàm cái gì là giống đực thì thuộc về anh.
Anh chồng nghe nói bùi tai bèn gật đầu cái rụp. Và thế là chị vợ bèn chỉ vào từng đồ vật trong nhà mà nói :
Tóa hỏa tam tinh, nói chậm thì hết, anh chồng bèn chỉ vội vào con dao rựa mà bảo :
- Đực rựa.
Và rồi anh chồng bèn chộp vội lấy con dao rựa mà ra khỏi nhà. Thật là bẽ bàng và cay đắng cho thân phận những kẻ...đực rựa như gã vậy thôi.
Ngày nay, pháp luật đã gióng lên tiếng nói để bảo vệ quyền lợi của những anh chồng chẳng may bị đứt gánh giữa đường, nên đã qui định là phải chia đôi, “half anh half”, mỗi bên năm chục phần trăm.
Nhưng dù thế nào chăng nữa, xét theo khía cạnh kinh tế, thì hôn nhân vẫn là một cuộc đầu tư có lợi cho...đờn bà con gái.
Không biết có phải vì lý do trên hay còn nhiều lý do khác nữa cộng lại, chẳng hạn như vì lý do tình cảm, muốn cho gia đình được trong ấm ngoài êm, hay vì lý do tâm sinh lý...mà các anh chồng thường hay nể chị vợ. Và từ chỗ nể đến chỗ sợ, đoạn đường ngắn chủn, chẳng bao xa. Thậm chí có anh chồng còn tuyên bố một cách hắch xì xằng :
- Mình sợ vợ mình chứ có sợ vợ thiên hạ đâu mà lo. Nào có mất mát chi!
Đáng lý ra gã sẽ còn viết thêm mấy trang nữa về chuyện này, nhưng vì phần đất có hạn. Hy vọng số sau, gã sẽ mổ xẻ về những căn bệnh trầm kha của cánh đờn ông, trong đó dĩ nhiên phải có cái bệnh đáng yêu, đó là cái bệnh...sợ vợ.
Chừ thì gã chỉ xin kết luận bằng một câu danh ngôn :
- Thật tội nghiệp cho nhà nào có gà mái gáy, còn gà trống thì lại im.
Chẳng biết câu nói này của dân Ý đại lợi đúng được bao nhiêu phần trăm đây ???
Không biết bên Thụy Sĩ thì thế nào, chứ còn ở Việt Nam, hàng năm cứ vào ngày 08 tháng 3, vốn GãSiêu 145
Không biết bên Thụy Sĩ thì thế nào, chứ còn ở Việt Nam, hàng năm cứ vào ngày 08 tháng 3, vốn được gọi là ngày quốc tế Phụ nữ, phe đờn bà con gái được dịp lên nước, ngước mắt nhìn đời bằng nửa con mắt, nhất là coi cánh đờn ông con giai chẳng còn ký lô ram nào sốt.
Đúng ra trong đời thường, vợ vẫn là vợ và chồng vẫn là chồng, đờn ông vẫn là đờn ông và đờn bà vẫn là đờn bà. Gia đạo phép nước vẫn nghiêm. Thế nhưng, bọn nhà báo vốn nói láo ăn tiền, đã tô màu và phóng đại, thổi một cơn bão làm cho các bà các cô phổng cả mũi, thiếu điều nhiều đấng mày râu muốn bắt chước Tú Xương mà :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Vì sống trong giòng chảy cuộc đời, nên hôm nay, gã cũng xin lượm lặt những mô tả của bàn dân thiên hạ, đã được đăng tải rải rắc trên các báo, đồng thời cũng thêm mắm thêm muối, hành tỏi bột ngọt tí chút để phác họa về dung nhan kiều diễm của các bà vợ, vốn được coi là “nội tướng” trong gia đình.
Vậy thế nào là vợ ?
Có một nhà văn khôi hài người Mỹ, đã sánh ví vợ với các loại đồng hồ, đại khái như thế này :
- Vợ đẹp, sính thời trang giống như chiếc đồng hồ đeo tay, lúc nào cũng phải đeo, một phút không được rời.
- Vợ chanh chua giống như chiếc đồng hồ báo thức, chỉ nên để ở trong nhà. Bởi vì nếu nổi cơn tam bành, cô ta có thể làm ầm lên ngay cả giữa lúc đêm khuya thanh vắng.
- Vợ hiền thục giống như chiếc đồng hồ bỏ túi. Bất cứ lúc nào muốn hỏi, cô ta liền trả lời thật thà, không lừa dối. Đáng tiếc là đồng hồ loại này hiện giờ hơi hiếm.
- Vợ khỏe mạnh giống như chiếc đồng hồ đeo tay kiểu cổ, dùng lâu cũng không hỏng.
- Vợ ốm đau giống như chiếc đồng hồ dổm, chạm vào là hỏng và luôn phải sửa chữa.
- Vợ thật thà trung thực giống như chiếc đồng hồ treo tường. Cô ta chỉ làm nghĩa vụ trong gia đình, không cùng chồng đi ra ngoài.
Những sánh ví trên được đăng trên báo Phụ nữ Chủ nhật, chẳng hiểu đúng hay sai, bởi vì hiện gã còn đang phục vụ trong lực lượng “phòng không”, nên kinh nghiệm chả được mấy tí.
Có một bài thơ đã định nghĩa...vợ như sau :
- Vợ là mẹ các con ta.
Thường kêu bà xã, hiệu là phu nhân.
Vợ là tổng hợp : bạn thân,
Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền...
Vợ là ngân khố, kho tiền,
Gởi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra.
Vợ là biển cả bao la,
Đôi khi nổi sóng khiến ta chìm phà,
Vợ là âm nhạc, thi ca,
Vừa là cô giáo, vừa là luật sư.
Cả gan đấu khẩu vợ ư ?
Cá ươn không muối, chồng hư cãi vờ (vợ).
Chồng ơi! Đừng có dại khờ,
Không vợ, đố biết cậy nhờ tay ai ?
Vợ là phước lộc thọ tài...
Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen.
Trích dẫn bài thơ này, không chừng những kẻ thối mồm lại liệt gã vào hàng “râu quặp” mất thôi. Tuy nhiên, vô tư mà nói, khi nghĩ về vợ bá tánh thường chia ra làm hai phe, chống đối nhau kịch liệt : phe khen và phe chê, phe nâng và phe hạ, phe bốc thơm và phe bốc thối. Trước hết, gã xin điểm qua lập trường của phe bốc thối, rồi sau đó của phe bốc thơm, để tạo nên một cái kết...có hậu.
Chuyện kể rằng : có một anh chồng chẳng may ngỏm cù tỷ, đi tàu suốt sang thế giới bên kia. Anh chồng mon men đến cửa thiên đàng thì bị thánh Phêrô chặn lại.
Sau khi nghe hết bản lý lịch trích ngang cùng với những chi tiết lỉnh kỉnh, chẳng hạn như quê ở đâu, tên là chi, làm nghề nghiệp gì cùng mê tính xấu nào ? Thánh Phêrô bèn lắc đầu quầy quậy, nhất định không cho vào, bởi vì anh chồng này không có tên trong sổ thiên đình.
Anh chồng bèn năn nỉ ỉ ôi :
- Lạy thánh cả, xin thương con với ?
- Nhưng ngươi có điểm chi đặc sắc để ta thương được ?
Nghe vậy, anh chồng liền mắt sáng như đèn ô tô, trả lời phăng xi lô, không một chút do dự :
- Bẩm lạy thánh cả, con có vợ cơ ạ.
Thánh Phêrô vuốt chòm râu bạc ra dáng suy nghĩ rồi gật đầu :
- Thôi được, ta cho ngươi vào, bởi vì ngày xưa ta cũng có vợ và cũng phải khổ vì vợ, đoạn trường ai có qua cầu mới hay, nên ta rất thông cảm với ngươi.
Té ra Thánh Phêrô cũng như nhiều người khác đôi lúc cũng đã cảm thấy vợ là một gánh nặng, một thập giá Đức Chúa Trời đặt lên vai anh đàn ông. Hay như tục ngữ cũng đã bảo :
- Trai có vợ như rợ buộc chân.
Thực vậy, cũng theo một bài trên báo Phụ nữ Chủ nhật, thì những “cựu binh” trên “chiến trường tình ái”, còn được mệnh danh là “mặt trận không tiếng súng”, đã chẳng ngần ngại đưa ra một cách lén lút sáu điều thần tiên khi chưa có vợ :
Một là bạn không cần bắt chước Jame Bond, đóng vai “điệp viên không không thấy” trước những tờ giấy báo tiền điện nước, điện thoại, cùng vô vàn những khoản phụ thu lỉnh kỉnh khác nữa.
Hai là bạn không cần phải học những kỹ năng làm bếp, giặt giũ, rửa chén...bởi vì mẹ, chị hoặc em gái bạn đã gánh hết những công việc “lu xa bu” này. Nhất là bạn chẳng bao giờ phải pha sữa cho em bé giữa đêm khuya, đơn giản chì vì bạn không có vợ, thì làm sao có em bé.
Ba là bạn không mất nhiều thời gian bào chữa cho lý do vắng nhà, về trễ, hay họp “đột xuất”, cũng không quá lo lắng về xuất xứ của những “vật thể lạ” trong túi quần, túi áo.
Bốn là các vật dụng của bạn có thể “đi hoang” ở hốc bà tó nào đó trong xó nhà mà không bắt buộc phải luôn ở đúng vào vị trí cố hữu của nó. Bạn cũng có thể nằm ngủ dưới đất, hay ngủ chung hòa bình với những con vật cưng như con chó, con mèo...Những điều này tuyệt nhiên không được chấp nhận khi bạn đã có vợ.
Năm là bạn không phải căng mắt tìm trên báo xem trong tuần siêu thị nào tổ chức khuyến mãi để đưa vợ đến mua sắm.
Sáu là bạn được tùy nghi dán ảnh của một cô ca sĩ hoặc người mẫu mà bạn yêu thích vào bóp hoặc trong phòng ngủ...Bạn cũng có thể an tâm mua một món đồ trị giá 2.000 đồng với số tiền...20.000 đồng mà không sợ bị cằn nhằn, nhăn nhó vì mua nhầm và vì...tiếc của.
Vâng, còn nhiều, rất nhiều và hơn thế nữa. Ai dám bảo có vợ là sung sướng ? Tuy nhiên, nói vậy thôi, chứ kể lể dông dài làm chi kẻo thiên hạ đâm…oải, mà chẳng thèm lấy vợ nữa thì thật nguy tai, loạn mất thôi.
Một khi đã bước chân vào con đường tình ái cong cong, thì dù được vợ cưng hay bị vợ đày, anh chồng cũng xất bất xang bang. Gã xin ghi lại tâm sự của hai anh chồng, mà gã lượm lặt được trên báo, nói lên nỗi khổ của kẻ bị vợ đày, cũng như của người được vợ cưng.
Trước tiên là anh chồng bị vợ đày.
Anh ta bảo :
Vợ tôi rất yêu chồng, thương con và đảm đang trong việc thu vén cho gia đình, nhưng ngặt nỗi rất độc đoán và cửa quyền, đôi khi trở nên cáu gắt và…cộc lốc. Ý nàng là ý trời. Nói không ngoa chứ lau nhà, đổ rác tôi cũng phải hỏi ý kiến nàng.
Nhà thì sau khi đã miết ngón tay xuống sàn để kiểm tra, nàng liền phán :
- Lau được rồi.
Còn rác thì nàng bảo :
- Chịu khó hôi một tí, mai hẵng đổ, vì bao rác còn vơi, lúc này bao nhựa đắt nên phải tiết kiệm.
Phụ nàng làm bếp, nêm canh bằng nước mắm hay muối tôi cũng phải hỏi nàng. Lỡ mặn một tí, hay lỡ nhạt một tẹo thì tôi liền bị kê tủ đứng :
- Sao mà đoảng vậy, có thế cũng không xong.
Nhất là mỗi khi có tiệc tùng, thì tôi chỉ là một tên đày tớ để cho nàng sai vặt đến toát cả mồ hôi hột. Nhiều khi nhìn thấy vợ người ta dịu hiền và tế nhị mà tôi đâm phát thèm :
- Nếu ai bán cái dịu dàng,
Tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên.
Dịu dàng như phép thần tiên,
Làm vơi mệt nhọc, làm quên buồn phiền.
Như vậy, xem ra anh chồng này muốn bắt chước Tú Xương, thế mà cũng chẳng xong :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em đây.
Tiếp đến là anh chàng được vợ cưng.
Anh ta tâm sự :
Đã tám năm nay, tôi phải khổ muôn phần vì bị vợ...chăm sóc quá chu đáo. Mọi sinh hoạt hàng ngày của tôi, từ chuyện ăn uống, tắm giặt đến nghỉ ngơi giải trí...cũng phải nhất nhất tuân thủ theo sự sắp đặt của cô ấy.
Này nhé, chẳng hạn ăn sáng tôi chỉ được quyền chọn một trong ba thứ : xôi, bánh mì ốp la và phở. Ngoài ra, bất kỳ thứ gì cô ấy cũng không đồng ý vì đủ lý do. Mà phải tự tay cô ấy làm hoặc mua về nhà cho tôi kia, chứ để tôi tự đi ăn một mình là cô ấy không yên tâm chút nào.
Ngay đến cả quần áo mặc hàng ngày cô ấy cũng tự tay giặt ủi cho chồng. Cô ấy đã ủi bộ nào là tôi cứ phải mặc bộ ấy, không có ý kiến ý cò gì hết. Còn nếu như tôi lại tự ý ủi một chiếc áo nào khác để mặc là y như rằng khi phát hiện ra, cô ấy sẽ giận hờn cả tuần, cho là tôi không còn yêu thương, tin tưởng vợ nên mới coi thường vợ như vậy.
Đồ ăn cũng thế, có bữa cô ấy nấu một món mới học được trên tivi, nhưng tôi không sao ăn được, thế là cô ấy cũng tấm tức khóc, “chụp mũ” cho chồng là không còn yêu thương nữa.
Ở cơ quan tôi, không ai là không biết tôi được vợ nuôi nấng, chăm sóc chu đáo thế nào, thậm chí họ còn giễu cợt, gọi tôi bằng cái tên :
- Chồng khỏe chồng ngoan.
Theo kiểu các bà mẹ thi đua thực hiện khẩu hiệu của nhà nước :
- Đẻ con khỏe, dạy con ngoan.
Thế nhưng, tôi góp ý đến mấy cũng bằng thừa. Cô ấy còn động viên, an ủi tôi :
- Ối dào, các lão ấy không được vợ chăm sóc nên ghen tị với anh chứ có gì đâu mà lạ!
Cứ thế, hai năm gần đây tôi bắt đầu sợ về nhà. Sợ phải uống nước chanh, mà ngày nào cô ấy cũng tự động pha, khi tôi vừa về tới nhà, bất kể tôi thích hay không. Sợ phải nghe cô ấy giục đi tắm, giục ăn cơn, mặc dù tôi rất muốn được nghỉ ngơi chốc lát trong yên tĩnh, hoặc nghe một bản nhạc cổ điển êm dịu...
Thế là tôi bắt gặp mình có thói quen không về nhà ngay sau giờ làm việc từ khi nào không rõ. Lúc thì cùng bạn bè đi đâu đó uống vài ly bia. Lúc thì một mình ngồi ở quán cóc với ly cà phê đen nguội ngắt nguội ngơ mà không biết mình đang suy gẫm điều gì. Cũng có buổi tôi lại thích phóng xe chầm chậm trên những con đường vắng vẻ đơn côi...
Nói chung, tôi làm bất kỳ một việc gì đó để không phải về nhà sớm. Lúc đầu, vợ tôi tưởng tôi thay lòng đổi dạ, tư tình với ai đó. Cô ấy hết hậm hực tới buồn rầu, mất ăn mất ngủ. Nhưng khi biết tôi về trễ chỉ vì những chuyện không đâu, cô ấy mới yên tâm nhưng vẫn không bỏ được thói quen chăm sóc chồng một cách quá đáng mỗi khi tôi trở về nhà.
Mong sao đừng có người đàn ông nào trên trái đất này phải...khổ như tôi.
Theo gã, thì nỗi khổ của anh chồng này chính là nỗi khổ của một con chim trong lồng, cho dù chiếc lồng được làm bằng vàng mà nhiều kẻ vốn ước mơ.
Đúc kết lập trường của phe bốc thối vợ, gã xin kê ra sự khác biệt giữa vợ và sách mà thiên hạ đã ghi nhận :
1- Sách càng cổ càng hiếm thì lại càng giá trị, còn vợ thì khác, càng trẻ, càng đẹp thì lại càng...tốt.
2- Bạn có thể quên ngày mua sách, nhưng không bao giờ được quên ngày sinh nhật vợ, hoặc kỷ niệm ngày cưới.
3- Bạn có thể sở hữu rất nhiều sách, nhưng chỉ có được một vợ mà thôi.
4- Mua sách, bạn có thể tự mình quyết định, nhưng cưới vợ nhất thiết phải có sự đồng ý của cả hai bên. Nếu bạn không cần cô ấy, thì cô ấy cũng không nhất thiết cần đến bạn.
5- Mua sách là sự đầu tư một lần, còn cưới vợ là bắt đầu của một sự đầu tư dài hạn.
6- Hiện nay, mua sách bạn có thể được khuyến mại, được tặng thưởng...nhưng cưới vợ thì bạn phải mua thêm rất nhiều thứ đi kèm.
7- Sách đem lại cho bạn những chân trời mới, còn vợ thì luôn trông chừng để bạn đừng ra khỏi nhà.
8- Sách dù thâm thúy đến đâu cũng có lúc hiểu được, còn vợ nghĩ gì thì vĩnh viễn bạn không thể hiểu nổi.
9- Sách không bao giờ tranh luận với bạn, còn với vợ thì bạn suốt đời chỉ là người nghe.
10- Bạn có thể đối xử với sách như với một người tình tri kỷ, nhưng không thể đối xử với vợ như một quyển sách.
Bây giờ, gã xin đề cập đến lập trường của những người bốc thơm vợ.
Sau đám cưới, người ta đã hỏi về cảm tưởng của một chú rể già, hơn bốn mươi tuổi mới chịu lấy vợ. Và chú rể già này đã không ngần ngại trả lời :
- Nếu biết rằng lấy vợ sướng như thế, thì mình đã cưới phứt cách đây ba chục năm rồi.
Sở dĩ như vậy, vì theo một tác giả, để đối lại với sáu điều “thần tiên” khi chưa vợ mà gã đã ghi lại ở trên, thì lấy vợ trái lại có rất nhiều mối lợi như sau :
Thứ nhất, nếu không có vợ thì ai là người đẻ con cho bạn, rồi cùng với bạn nuôi dưỡng chúng hầu bạn có được niềm vui khi lên chức...ba bày trẻ, bố xấp nhỏ.
Thứ hai, nếu không có vợ có con làm sao bạn hiểu và làm được những công việc không tên của người phụ nữ, như bếp núc, giặt giũ, rửa bát, pha sữa...như ngày trước bạn cứ đùn đẩy những việc “lu xa bu” này cho mẹ, chị hay em gái của bạn.
Thứ ba, vợ là người chăm lo cửa nhà sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp. Điều lạ là những vật dụng cá nhân của bạn đi hoang, bất kể chỗ nào trong nhà cũng được vợ để vào vị trí cũ và chỉ cần bạn hỏi vợ :
- Mắt kiếng của anh đâu rồi ?
Lập tức vợ bạn sẽ trả lời vanh vách như thuộc lòng.
Thứ bốn, nếu bạn thích ngủ chung với những con vật cưng như con chó, con mèo...khi còn độc thân, thì bảo đảm trong vòng tay ấm áp của vợ, bạn sẽ cảm thấy tuyệt vời hơn nhiều.
Thứ năm, vợ là người nhắc nhở khi bạn “lầm đường lạc lối” trong công việc hay trong chuyện tình cảm, hoặc nhắc bạn đi cắt tóc khi tóc bạn dài, mua sắm quần áo, nón mũ, giày dép...giúp và soạn cho bạn bộ đồ vía để bạn đi hội họp hay đi dự tiệc.
Thứ sáu, bạn sẽ được thưởng thức những bữa ăn ngon, vì vợ luôn biết rằng :
- Đường đến trái tim của người đàn ông phải đi qua bao tử.
Và khi “trái gió trở trời” vợ nấu cho bạn tô cháo hành hột gà để bạn giải cảm. Khi lỡ xỉn, vợ pha cho bạn ly nước đá chanh để...giã rượu.
Thứ bảy, điều quan trọng là lấy vợ rồi, bạn sẽ có thời gian đầu tư vào sự nghiệp, không còn suy nghĩ lung tung, rồi đi nhậu khi thấy bạn mình chuẩn bị làm đám cưới.
Thứ tám, sau cùng người ta có vợ thì bạn cũng phải có vợ, nếu bạn không đi...tu. Bằng không, người ta sẽ nói :
- Bạn...có vấn đề đấy.
Dựa trên những lợi ích thiết thực trên, có lẽ các bà các cô sẽ phải tổ chức một cuộc đại hội, thảo ra một tuyên ngôn kêu gọi :
- Bớ những đấng mày râu, bớ toàn thể phe đàn ông con giai đang phục vụ trong “lực lượng phòng không”, hãy mau mau lấy cho mình cái vợ, bởi vì có vợ lợi lắm anh em ơi.
Không hiểu liệu có tên nào phản động, đầu óc đầy sỏi đá, kỳ thị chủng tộc, phân biệt giai cấp, mà kê tủ đứng vào cái bản kêu gọi này :
- Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.
Tuy nhiên, nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ, bàn dân thiên hạ đều phải công nhận sự đóng góp không nhỏ của vợ vào sự nghiệp của chồng, như tục ngữ đã bảo :
- Của chồng, công vợ.
- Chồng như đó, vợ như hom.
- Giàu vì bạn, sang vì vợ.
- Chồng sang vì bởi vợ ngoan.
- Gái ngoan làm quan cho chồng.
Hay như một câu danh ngôn phương tây đã xác quyết :
- Đằng sau những thành công của người chồng, đều có bóng dáng của người vợ.
Đây là một sự thật chẳng thể nào chối cãi. Cứ thử nhìn vào mấy ông tổng thống nước Mẽo là chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực vậy, sự thành công của tổng thống John Kennedy, chắc chắn phải có những đóng góp của bà Jacqueline, bởi vì bà luôn tháp tùng ông trong những tháng tranh cử và những năm nhiệm kỳ của mình.
Cũng thế, sự thành công của tổng thống Bill Clinton, chắc chắn phải có bàn tay của bà Hilary, bởi vì bà đã giúp ông rất nhiều để hoàn thành nhiệm vụ của mình và đã chống đỡ ông khi “xì căng dan” tình cảm lem nhem của ông bùng nổ, bằng không thì ông dám đã bị đi đoong lắm.
Và gần đây, sự đắc cử tổng thống của ông George Bush cũng có những góp phần của bà Laura. Trong thời gian tranh cử, bà thường nói :
- Tôi chỉ là một người vợ bình thường, biết pha trà, nướng bánh, chăm lo cho gia đình...
Khi được hỏi về sự hậu thuẫn của bà, ông Bush đã thừa nhận trên đài CNN :
- Quyết định sáng suốt nhất trong cuộc đời tôi là đã kết hôn với bà ấy.
Để kết luận, gã xin ghi lại bài thơ “luận về vợ” của Bá Hy :
- Vợ ngon như sữa đậu nành,
Uống rồi cứ muốn để dành uống thêm.
Đêm đông vợ ấm hơn mền,
Không cho chị gió vén rèm chui vô.
Vợ như thóc lúa đầy bồ,
Chẳng sợ bỏ đói, tha hồ rong chơi.
Không vợ cực lắm ai ơi,
Phải làm tất bật bở hơi tai...hà.
Có vợ như có vườn hoa,
Hương thơm “nồng nặc” thở ra hít vào.
Vợ là “lãnh đạo” tối cao,
Đôi khi nổi dóa hết gào lại rên.
Vợ là cỗ máy loại bền,
Đa năng đa dạng cộng thêm mượt mà.
Nàng là cố vấn của ta,
Tiền lương nộp đủ bài ca ngọt ngào.
Trên trời có mấy vì sao,
Dưới đất chẳng có chỗ nào thiếu em.
A-di-đà-phật...Xe duyên,
Cho tôi vớ được cô tiên “vợ nhà”.
Và như vậy, có lẽ Đức Chúa Trời cũng mỉm cười khi nhìn thấy Adong Eva sánh vai cùng nhau bước đi trong vườn địa đàng.
Lễ Giáng sinh và tết tây trở về, bước chân xuống phố, hay chui đầu vào những cửa tiệm, đâu đâu GãSiêu 146
Lễ Giáng sinh và tết tây trở về, bước chân xuống phố, hay chui đầu vào những cửa tiệm, đâu đâu gã cũng thấy được hàng chữ :
- A merry Christmas and a happy new year.
Và cũng hàng chữ ấy được in trên từng cánh thiệp thiên hạ gửi cho nhau nhân dịp này.
Việt nam ta luôn mở rộng vòng tay đón nhận mọi luồng văn hóa. Tây có mà Tàu cũng có. Đầu an-nam-mít, mà đít có khi là Phăng-xe, có khi là Ăng lê, có khi là khỉ khô gì nữa…thì chỉ mình ông trời mới biết.
Vì thế, cũng “ a happy new year” cho nhau khi năm mới bắt đầu. Ngoài ra, trong dịp tết nguyên đán, người ta cũng chúc cho nhau ba trăm sáu mươi lăm ngày hạnh phúc. Và khi đi dự đám cưới, người ta cũng toe toét cái miệng mà cầu cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc. Thế nhưng, hạnh phúc có hay không ?
Giáo lý nhà Phật vốn thường bảo :
- Đời là bể khổ và mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Như thế, thì thật khó mà tìm thấy hạnh phúc trên cõi đời này. Ấy vậy cho nên những người bi quan mới nghĩ rằng hạnh phúc chỉ là một khái niệm trừu tượng, chẳng hề tồn tại. Thậm chí, có những tay tỷ phú, giàu nứt đố đổ vách, mà vẫn than van : đời mình gom lại liệu được mấy giờ hạnh phúc. Hay chán đời đi tìm cái chết để “phẹc mê bu tích” chấm dứt một kiếp người lầm than khổ ải.
Ngày xửa ngày xưa có một ông vua sống trong cung điện nguy nga lộng lẫy, thế mà lúc nào lòng cũng rầu rĩ, chút xíu nữa thì râu ria ra rập rạp…Người ta bày đủ trò đủ cách cho ông vua được “dui” : nào là tiệc tùng linh đình, nào là cung nữ nhảy múa, nào là đờn hát xướng ca…thế mà ông vua vẫn cứ buồn rười rượi.
Thế rồi, một kẻ lạ mặt đã xin vào chầu và dâng lên ông vua cao kiến của mình :
- Nếu bệ hạ mặc được chiếc áo của một người hạnh phúc nhất nước, thì lúc ấy căn bệnh “buôn huyền” mãn tính sẽ được thuyên giảm liền tù tì.
Nghe vậy, ông vua bèn truyền cho mọi quan chức và binh đội, tất tật đều phải lên đường, lùng sục khắp nơi, thậm chí chẳng được bỏ sót bất kỳ một hang cùng ngõ hẻm nào, miễn sao đem về cho ông vua tấm áo của con người hạnh phúc nhất nước.
Tuy nhiên, đi tới đâu cũng chỉ cảm thấy sặc sụa mùi đau khổ. Và hình như khổ đau đã phủ bóng lên từng cây số. Bên cạnh chiếc nôi hồng của trẻ thơ, đã thấy phảng phất bóng dáng của thần chết. Bên cạnh ánh mắt rạng rỡ của đôi tình nhân, đã hằn lên vết chân của phản bội, bất trung. Bên cạnh nụ cười mãn nguyện của cặp vợ chồng trẻ, đã để lại dấu ấn của biết bao nhiêu vất vả, cực nhọc…
Quan với quân đi mãi đi hoài mà cũng chẳng thấy được một khuôn mặt hạnh phúc. Thất vọng, họ kéo lê từng bước chân mệt mỏi trở về kinh đô chịu tội với ông vua. Đang lúc ấy, tai họ bỗng nghe thấy một giọng hát véo von và hồn nhiên, chắc hẳn phải là của một người hạnh phúc lắm.
Họ vội vã bước tới và nhận ra một em nhỏ đang ngồi trên mình trâu vô tư nghêu ngao. Họ hăm hở xông đến với ý đồ đen tối lột phăng chiếc áo em nhỏ đang mặc mà đem về dâng cho ông vua.
Thế nhưng, khi mặt đã đối mặt, họ mới chưng hửng và hụt hẫng. Thì ra em nhỏ quá nghèo, chẳng có được một tấm áo che thân, nên phải cởi trần trùng trục.
Thảo nào mà Nguyễn công Trứ đã phải than van :
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Còn bàn dân thiên hạ, kẻ thì bảo :
- Phàm trên cõi đời này, chẳng có chi là sung sướng, nên người ta mới phải mong ước…Hạnh phúc là một cái gì thật mơ hồ, khiến chúng ta bắt buộc phải khát khao đợi chờ.
Người thì nói :
- Hạnh phúc như một thứ tiếng vang, nó trả lời nhưng không bao giờ đến.
Tuy nhiên, chủ trương như trên xem ra có phần bi quan yếm thế, chẳng khác gì đeo cặp kính râm mà soi mói nhìn vào cuộc sống. Kinh nghiệm đời thường cho thấy : Ai trong chúng ta cũng đã từng có những khoảng khắc sướng rên mé đìu hiu, nhưng giây phút khoái tỷ tuyệt cú mèo và chúng ta bảo rằng :
- Mình rất ư là hạnh phúc tràn trề.
Dù mùa đông lạnh lẽo, thì thỉnh thoảng cũng có được một vài ngày nắng ấm đột xuất. Đau khổ dù đằng đẵng đeo đuổi kiếp người thì cũng có được đôi ba ngày vui. Dù ngày vui mau qua và rất họa hiếm, thậm chí chỉ được đếm trên đầu ngón tay, hay dù thế nào chăng nữa thì cái được gọi là hạnh phúc vẫn có đó. Nhưng hạnh phúc là cái chi chi ?
Dẫn vào một bài bàn về hạnh phúc trên báo Figaro, được báo “Kiến thức ngày nay” trích dịch, tác giả đã ghi nhận như sau :
- Không có một từ nào mù mờ về nghĩa bằng từ “hạnh phúc” Hạnh phúc không thể nói lên bằng lời, không thể diễn tả, cũng không thể nắm bắt…Càng không thể mua được bằng tiền. Nhà thơ Pháp Jacques Prévert có lần đã viết : “Trên tấm bảng đen của sự bất hạnh, mặc cho bao dè bỉu, cậu bé dốt đặc đã vẽ được gương mặt của hạnh phúc”. Vậy hạnh phúc là gì ?
Đứng trước câu hỏi này, chính bản thân gã cũng cảm thấy bí, bèn phải vác tự điển ra để mà tra cứu. Trước hết, theo “Việt nam Tự điển” của Lê văn Đức, hạnh phúc có nghĩa là điều may mắn cho cuộc đời. Chúc ông được nhiều hạnh phúc thì cùng có nghĩa là chúc ông được nhiều may mắn.
Đọc xong câu định nghĩa trên, gã cảm thấy ấm ức, không ổn và còn thiêu thiếu một cái gì ấy, bởi vì rất nhiều người suốt đời chẳng gặp được điều chi may mắn như trúng số, thi đỗ…mà họ vẫn cứ sống phây phây hạnh phúc, như hình ảnh của cặp vợ chồng con nhà nghèo :
- Râu tôm nấu với ruột bầu.
Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.
Còn theo tự điển “Larousse” của mấy ông tây, hạnh phúc có nghĩa là một tình trạng được hoàn toàn hài lòng. Câu định nghĩa này hơi “siêu” nhưng xem ra lại đúng hơn.
Như thế, người ta khó mà được định nghĩa được hạnh phúc bằng lời nói hay bằng ngôn từ, nhưng chỉ cảm nhận được nó mà thôi. Tuy nhiên, cách thức cảm nhận hạnh phúc của mỗi người lại khác nhau, nên mới nhiêu khê và rắc rối.
Thực vậy, có khi cùng một cảnh ngộ, nhưng mỗi người lại cảm nhận một cách khác nhau. Với người lạc quan thì đó là niềm hạnh phúc, còn với người bi quan thì đó lại là nỗi buồn khổ. Chẳng hạn hai người cùng đi du lịch Đalạt, được hỏi cho biết cảm tưởng của mình về thành phố này. Người thứ nhất trả lời :
- Đây là một thành phố buồn. Mưa rơi và gió lạnh chẳng đi được tới đâu, suốt ngày co ro nơi xó nhà.
Trái lại, người thứ hai hồ hởi nói :
- Đây là một thành phố tuyệt cú mèo. Khí hậu thì mát mẻ, cảnh sắc thì đẹp đẽ.
Hơn thế nữa, mỗi người thường lại nhắm tới một thứ hạnh phúc cho riêng mình. Chẳng hạn tiền đôi khi là hạnh phúc của kẻ nghèo, chỗ trú chân đôi khi là hạnh phúc của kẻ lang bạt và mái ấm gia đình đôi khi là hạnh phúc của kẻ cô đơn..
Lắm lúc hạnh phúc đơn sơ của người này lại là hạnh phúc cháy bỏng của người kia. Chẳng hạn trên đường phố : Một người phụ nữ sang trọng đi chiếc xe Dream láng coóng, trong khi đó cặp vợ chồng nghèo đang đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng, phía trước là thằng cu con. Anh chồng thỉnh thoảng lại cạ chiếc cằm đầy râu của mình lên mái đầu thằng cu con, làm nó cười khúc khích vì nhột. Chị vợ ngồi sau tủm tỉm đấm nhẹ lưng anh chồng và nhắc : cẩn thận kẻo té.
Người phụ nữ sang trọng kia đã nhìn cảnh tượng ấy bằng ánh mắt thèm khát. Còn anh chồng nghèo lại mơ có chiếc xe Dream cho đỡ cực cái thâm ròm của mình. Đúng như dân La mã ngày xưa đã bảo :
- Ta muốn tìm hạnh phúc của người, còn người thì lại thèm hạnh phúc của ta.
Cha ông chúng ta cũng đã phát biểu :
- Được voi đòi tiên.
- Đứng núi này, trông núi nọ.
Nhiều khi quả thực hạnh phúc rất đơn sơ. Chẳng hạn ngày xưa mỗi khi tết đến được bố may cho bộ quần áo mới, hay mỗi khi mẹ đi chợ về cho một chiếc kẹo là gã liền cảm thấy vui sướng quá chừng chừng. Bộ quần áo mới và chiếc kẹo ấy chính là niềm hạnh phúc đối với gã hồi nhỏ. Còn bây giờ, chẳng hạn mỗi khi viết xong một mẩu chuyện phiếm, gã bèn bắn một phát thuốc lào, điếu kêu lênro ro, mắt lim dim thả hồn theo khói và thầm nghĩ :
- Ôi đời sao mà đẹp thế.
Và như vậy, nói nôm na theo kiểu bình dân học vụ thì hạnh phúc chính là cái tình trạng “sướng rên”, “khoái tỉ” của mỗi người.
Gã rất tâm đắc với ý tưởng sau đây của Chamfort :
- Hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ. Càng ít rắc rối bao nhiêu, thì càng ít hư hỏng bấy nhiêu.
Mới đây, gã đã đọc một bài của Phương Thủy trên báo Phụ nữ Chủ nhật, trong đó có đoạn như sau :
“Hạnh phúc cũng có giá. Song ít ai biết được giá của hạnh phúc là bao nhiêu. Có khi rất đắt, có khi rẻ lắm, nhưng cũng có khi vô giá hoặc được cho không một cách hào phóng. Cũng có khi người ta đem hạnh phúc ra mua bán hoặc đánh đổi. Nhưng mà chỉ có thể bán hạnh phúc đi, chứ không thể nào mua được nó…”
Sau đó, tác giả đã đưa ra một vài trường hợp cụ thể của việc bán đứt hạnh phúc của mình :
“ Một anh bạn trai đã bộc bạch chân thành : Mình nghèo, lấy vợ nghèo, chỉ mong có nhiều tiền nên lao vào việc kiếm tiền. Ngày ấy hạnh phúc của mình là tiền. Bây giờ, nhà mình giàu có, nhưng con cái bị bỏ bê, hư hỏng, nghiện ngập. Vợ mình suốt ngày ca cẩm, mình chán lắm…Một cô bạn gái xinh đẹp khác thì buồn sầu : hồi ấy mình chán “lão chồng” suốt ngày chỉ nghiên với cứu. Vài đồng lương kỹ sư thì có mà ăn cám. Tưởng theo “tay” này khôn lanh, nhiều tiền sẽ hạnh phúc. Nào ngờ…Tôi bắt gặp ánh mắt luyến tiếc của cô nhìn về phía “lão chồng” cũ cũng có mặt ngày hôm ấy. Cũng phải thôi. Cô và tay chồng mới, một gã lái xe, quá chênh nhau về trình độ học vấn. Đã thế, “chàng” đi rông khắp nơi, bồ bịch khắp chốn thì được, nhưng về nhà lại ghen đứng ghen ngồi với vợ. Vì vậy, cô được “bảo quản” rất cẩn thận…”
Trong cả hai trường hợp kể trên, anh bạn trai và cô bạn gái đều đã bán đứt hạnh phúc của mình. Anh bạn trai thì bán đứt cho những đồng tiền còm, còn cô bạn gái đã bán đứt cho tên lái xe nọ với giá là một căn nhà ba tầng với đầy đủ tiện nghi. Nhưng mà hỉ thương ôi…
Còn trường hợp thứ ba là tình yêu đơn phương của một cô gái :
“Suốt bao nhiêu năm liền, vào những ngày thứ bảy, cô đạp xe hai mươi cây số, từ nơi cô sống về thành phố chỉ để nhìn người cô yêu vài phút. Chỉ vài phút thôi vì sau đó thế nào anh chàng cũng viện cớ để bỏ đi, sau khi hứa về một cuộc hẹn vào tuần sau. Những giây phút ấy đối với cô là hạnh phúc quí giá mà cô nâng niu suốt nhiều năm, cho tới ngày anh chàng đi lấy vợ. Giá của cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy là những năm tháng tuổi trẻ của cô. Tôi nói :
- Đắt quá.
Nhưng cô lắc đầu :
- Không đâu. Hạnh phúc được gặp anh ấy mỗi tuần là nguồn ánh sáng của mình ngày ấy…Nếu không, chưa chắc mình đã sống nổi.
Có thể cô có lý. Tôi đã không định giá được niềm hạnh phúc ấy.”
Hạnh phúc luôn có đó, nhưng làm thế nào để bản thân mình được hạnh phúc ?
Như trên gã đã đã viết : cách thức cảm nhận về hạnh phúc của mỗi người thật khác nhau. Vì thế, hạnh phúc luôn hệ tại ở lòng mình. Thực vậy, câu chuyện sau đây đã xác nhận sự thật trên :
Đức Khổng tử ngày kia đi chơi núi Thái sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ ngao du ở ngoài đồng, mặc áo cừu, thắt lưng dây, tay gẩy đàn cầm, vừa đi vừa hát. Thấy vậy, Đức Khổng Tử bèn hỏi :
- Tiên sinh làm thế nào mà vui vẻ thế ?
Ông Vinh Khải Kỳ trả lời :
- Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất, mà ta được làm người, đó là một điều đáng vui. Trong loài người, đờn ông quí hơn đờn bà, mà ta được làm đờn ông, đó là hai điều đáng vui. Người ta sinh ra có kẻ đui mù, có kẻ què quặt, mà ta hoàn toàn khỏe mạnh, nay đã chín mươi, đó là ba điều đáng vui…Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người. Ta nay xử cảnh thường đợi lúc hết, thì có gì là lo buồn.
Đức Khổng tử nói :
- Phải lắm, tiên sinh thế là biết cách tự làm cho mình hạnh phúc mà hưởng sự vui thú ở đời.
Từ đó, gã nghiệm ra bí quyết thứ nhất để cuộc đời được hạnh phúc, đó là biết khám phá ra những niềm vui nho nhỏ ẩn dấu trong những sự việc của cuộc sống thường ngày, như người xưa đã nói :
- Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc, tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Niềm vui nho nhỏ ấy có khi được ẩn dấu ngay cả trong những khổ đau phải chịu, bởi vì nhiều lúc trong niềm vui lại có nỗi buồn và trong nỗi buồn lại có niềm vui. Hay như một câu danh ngôn đã bảo :
- Đau khổ là chiếc cầu dẫn tới hạnh phúc.
- Không đau khổ, thì chẳng thể hiểu được hạnh phúc.
Và như thế, cách thức cảm nhận giống như một cặp kính chúng ta đeo vào mắt. Nếu cặp kính màu hồng, chúng ta sẽ thấy mọi sự đều tươi hồng và đáng yêu, nên chúng ta sẽ được hạnh phúc. Còn nếu cặp kính màu xám, chúng ta thấy mọi sự đều đen xám và đáng ghét, nên chúng ta sẽ phải khổ đau. Đúng là :
- Người vui, cảnh cũng vui lây,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.
Bí quyết thứ hai để cuộc đời được hạnh phúc đó là một cuộc sống trong sáng, không hổ thẹn với lương tâm. Thực vậy, người hạnh phúc là người không bị lương tâm cắn rứt. Trái lại, kẻ đi vào con đường cong queo, xiên xẹo sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được hạnh phúc.
Gã còn nhớ hình ảnh của Cain trong sách Sáng thế ký. Ghen tức vì lễ vật của Abel được Thiên Chúa chấp nhận, Cain đã giết em mình ngoài đồng vắng. Thế nhưng, liền sau đó, dù đi tới đâu và dù ở nơi chân trời góc biển xa lạ nào chăng nữa, Cain vẫn cảm thấy như đôi mắt Thiên Chúa đang nhìn mình trừng trừng để rồi cuộc đời của Cain trở nên bất ổn. Một khi đã bị lương tâm dày vò vì tội ác và cuộc đời trở nên bất ổn thì làm sao thấy được hạnh phúc.
Bescus là một gã thanh nien đã phạm tội giết cha của mình. Hắn thực hiện hành vi tội ác ấy một cách tinh vi, chẳng ai biết được. Nhưng kỳ lạ thay, là từ hôm đó hắn luôn luôn nghe thấy những con chim én bay lượn và lặp đi lặp lại :
- Mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha.
Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng hắn vẫn không cảm thấy được yên lòng. Cuối cùng hắn đã phải thú nhận tội lỗi của mình.
Cặp mắt Thiên Chúa hay tiếng chim én…tất cả chỉ là những hình ảnh nói lên sự dày vò cắn rứt của lương tâm. Thực vậy, trước mỗi việc làm, lương tâm sẽ lên tiếng báo động cho chúng ta hay đó là điều tốt hay điều xấu, đó là điều được phép hay không được phép.
Còn sau mỗi việc làm, lương tâm sẽ đóng vai quan tòa xét xử. Nếu đã làm điều tốt, chúng ta sẽ được vui mừng. Còn nếu đã làm điều xấu, chúng ta sẽ bị dằn vặt, mặc dù việc làm của chúng ta thật kín đáo, chẳng một ai hay biết.
Cũng trong chiều hướng ấy, mà hình như cụ Tú Lãm trong “Nửa chừng xuân” của Khái hưng, đã có lời khuyên sau đây :
- Cha chỉ có ba thứ gia bảo này ông cha để lại cho cha, nay cha truyền lại cho hai con mà thôi, là : giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch và đem hết nghị lực ra làm việc.
Bí quyết thứ ba để cuộc đời được hạnh phúc, đó là hãy ra sức cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc. Đúng vậy, Abbé Delile đã nói :
- Hạnh phúc chỉ dành riêng cho những ai làm nhiều người được sung sướng.
Gã cảm thấy lời Kinh thánh sau đây như là qui luật của muôn đời :
- Cho thì sướng hơn là nhận.
Hay nói một cách khác :
- Càng hy sinh vì người khác thì lại càng hạnh phúc. Nếu hạnh phúc là một thứ tiền, thì càng cho lại càng lời.
Đúng vậy, kinh nghiệm bản thân đã cho gã hay, mỗi khi cực chẳng đã phải ngửa tay xin tiền người khác, sao mà gã cảm thấy ngại ngùng, chẳng biết mở mồm mở miệng ra ăn nói thế nào cho phải phép, mặc dù số tiền xin xỏ ấy được dùng vào công việc chung đem lại lợi ích cho mọi người và mặc dù ăn tục nói phép vốn dĩ là “nghề” của gã. Nhiều khi cầm đồng tiền của người khác mà nghĩ thật tủi nhục, chỉ muốn ứa cả nước mắt, nhưng vì lơi ích chung đành phải cắn răng chịu vậy.
Thiên hạ thì : Cái có ló cái ngu. Chẳng thế mà bên Ăng lê, có kẻ quẳng tiền ra xây khách sạn năm sao cho…chó. Còn mình thì chỉ sợ : Cái khó bó cái khôn. Bởi vì phàm để làm mọi việc, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề tiền đâu, cho nên đành phải lật ngược thế cờ : Cái khó ló cái khôn. Dù chỉ là thứ khôn vặt, khôn lỏi mà thôi.
Trái lại, mỗi khi gã bố thí cho người nghèo, hay cho người ăn mày ngồi bên vệ đường, dù chỉ một vài đồng tiền còm, thì lập tức gã liền cảm nhận được một niềm vui nhè nhẹ len lén đi vào tâm hồn, khiến nhiều lúc gã đã phải cười ruồi một mình, hay huýt sáo vu vơ cho hả bớt niềm vui.
Cũng trong ý nghĩ ấy, Thánh nữ Têrêsa đã cho biết :
- Từ khi tôi biết quên mình, tôi được sống hạnh phúc như chưa từng ai thấy.
Báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” đã móc được một mẩu chuyện nho nhỏ trên “internet” như sau :
Có hai người đàn ông bệnh nặng, được xếp chung một phòng tại bệnh viện. Người nằm gần cửa sổ được phép mỗi buổi chiều ngồi dậy một tiếng đồng hồ để thông khí trong phổi, nên đã lợi dụng thời gian này để kể lại cho người kia những sinh hoạt bên ngoài : nào là bày ngỗng đang bơi lội trên mặt hồ, nào là đôi tình nhân tay trong tay dạo chơi dưới vòm cây, nào là đoàn quân diễu hành đang đi qua…
Người kia mỗi ngày đều chờ đợi khoảng thời gian ấy để được hòa nhập với cuộc sống bên ngoài.
Ngày và đêm trôi dần cho tới một buổi sáng cô y tá phát giác ra người nằm bên cạnh cửa sổ đã qua đời. Khi mọi việc đã ổn định, người đàn ông còn lại yêu cầu được chuyển đến cạnh cửa sổ.
Bác ta nhổn dậy bằng tất cả sự cố gắng của mình và nhìn ngắm thế giới bên ngoài. Thế nhưng, đối diện với cửa sổ chỉ là một bức tường xám xịt. Bác ta hỏi cô y tá xem cái gì khiến người bạn khốn khổ cùng phòng đã mô tả cho bác ta nghe những điều tuyệt diệu qua cửa sổ.
Cô y tá cho biết người đàn ông đó bị mù và thậm chí cũng chẳng thấy được cả bức tường xám xịt nữa. Cô y tá nói :
- Sở dĩ ông ta kể như vậy vì muốn cho bác được vui và được hạnh phúc, đồng thời khuyến khích bác can đảm hơn lên.
Tuy nhiên, để dễ dàng thực hiện ba bí quyết trên, đồng thời cũng để cuộc đời được hạnh phúc, thì người ta rất cần đến một niềm tin tôn giáo.
Một vị thánh ẩn tu nọ sống khắc khổ trong khu rừng vắng. Ngày kia có người hỏi :
- Làm sao ngài có thể chịu đựng nổi ?
Thánh nhân nói :
- Ông hãy đến và nhìn qua cái lỗ này thì sẽ rõ.
Người kia đến và thấy sau tường hang rêu phủ, có một lỗ hổng để lộ ra một góc trời.
Thấy họ không hiểu, thánh nhân liền cắt nghĩa :
- Góc trời đó là niềm an ủi và hạnh phúc của tôi.
Một người khác vừa đau ốm lại vừa nghèo túng thế mà vẫn cứ sống hạnh phúc. Thiên hạ bèn hỏi tại sao, thì bác ta đã trả lời :
- Vì tôi biết sử dụng cái nhìn với đôi mắt sáng suốt.
Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của họ, bác ta vội cắt nghĩa :
- Trước hết tôi nhìn lên trời và nhớ rằng nước trời mới là quê hương đích thật của tôi. Rồi tôi nhìn xuống đất và hình dung ra nắm bụi đất của thân xác khi tôi đã chết. Và sau cùng, tôi nhìn chung quanh và thấy nhiều người còn khổ hơn tôi. Ba cái nhìn ấy làm tôi hạnh phúc, chúng khử trừ mọi tiếng than van và trách móc.
Tìm được hạnh phúc trên cõi đời này đã là chuyện khó, nhưng giữ được hạnh phúc trong cuộc sống của mình lại càng khó hơn.
Không hiểu ở bên nớ thế nào, chứ còn ở bên ni thì cứ vào giữa tháng 11, giới học trò lại lao GãSiêu 147
Không hiểu ở bên nớ thế nào, chứ còn ở bên ni thì cứ vào giữa tháng 11, giới học trò lại lao xao lên phương án cho một ngày, được gọi la ngày nhà giáo, ngày tết của các thày cô. Đó là ngày 20 tháng 11.
Đây là cơ hội để tôn vinh và tưởng nhớ đến công ơn của các thày cô, những người đã hy sinh cuộc đời cho thế hệ tương lai, như lời cổ nhân đã dạy :
- Nhất niên chi kế mạc thụ cốc, thập niên chi kế mạc thụ mộc, bách niên chi kế mạc thụ nhân. Có nghĩa là kế một năm không gì bằng trồng lúa, kế mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì bằng trồng người.
Chả thế mà Viện Đại học Công giáo tại Đalạt ngày xưa đã lấy cho mình cái huy hiệu cây thông xanh với hai chữ : thụ nhân.
Trong ngày vui ấy, học trò ríu rít tặng hoa, tăng quà cho các thày cô. Nhà gã ở cạnh trường và có được một vườn bông nho nhỏ, quanh năm ra sức chăm sóc. Thế nhưng, vào ngày này, thế nào cũng được xấp học trò chiếu cố, kéo đến và…vặt trụi. Tuy nhiên nhìn vào những khuôn mặt hớn hở, những cặp mắt ngây ngô và những bước chân tung tăng… gã cũng cản thấy vui lây vì mình đã làm được một việc tốt lành và hữu ích cho tuổi thơ vùng khỉ ho cò gáy này.
Chính vì lẽ ấy, mà lịch năm thánh tại Việt Nam cũng đã ăn theo, chọn ngày này để cầu nguyện cho các thày cô. Còn gã thì chỉ xin ăn ké, lợi dụng nước đục thả câu, để tán dông tái dài về đề tài này tí chút.
Ngày xưa có những chú bé, đầu còn để chỏm, thế mà cũng đã mong vào “tràng la tinh”, tức là vào chủng viện với ước mơ được làm…cha. Sở dĩ như vậy chỉ vì các cha được ăn bánh tây, ở nhà tây, đi giày tây và ra tới ngõ đều được bàn dân thiên hạ, bất kể già trẻ lớn bé, khoanh tay cúi đầu chào :
- Con xin phép…lạy cha ạ.
Những chú bé ấy cũng như các tông đồ, mặc dù đã theo Chúa, nhưng vẫn còn mang nặêng đầu óc xôi thịt, muốn được làm lớn và được ngồi bên tả bên hữu trong vương quốc của Chúa, theo kiểu vinh thân phì gia, một người làm quan cả họ được nhờ. Thế nhưng, với sự trợ giúp của ơn Chúa, với sự hướng dẫn của các bề trên, ước mơ lúc ban đầu tuy vẫn đục, nhưng dần dần được thanh lọc để rồi kết tinh thành lý tưởng dấn thân phục vụ.
Ngày nay, nhiều cô cậu học trò khi được hỏi về nghề ngỗng tương lai, cũng đã trả lời :
- Lớn lên, em sẽ làm cô giáo.
Đây quả là một chọn lựa can đảm bởi vì giữa thời buổi xô bồ, đang lúc mọi người nhắm mắt chạy theo dòng chảy của tiền bạc mà lại đi chọn lựa nghề giáo, một nghề nghèo rớt mùng tơi, thì chỉ có thể là anh dũng hay dại khờ mà thôi.
Cũng như chú bé “nhà tràng”, nhiều cô bé đã vô tư ươm mơ làm cô giáo, chỉ vì mỗi khi ra đường đều được mọi người gọi là cô, lúc nào cũng áo quần bảnh bao, đồng thời còn nhận được rất nhiều quà trong những dịp lễ tết.
Gã còn nhớ, hồi bé lúc ở bậc tiểu học, năm nào cũng được đi tết thày. Bởi vì như các cụ đã từng dạy con cháu :
- Mồng một tết cha, mồng hai tết chú, mồng ba tết thày.
Đồ lỡi của mối đứa là ba trái trứng gà, được mẹ túm cẩn thận trong một chiếc khăn. Cả lớp mấy chục đứa nên trứng chất đầy cả một cái chum và thày cứ việc xơi trứng đến mệt xỉu. Rủi thay đứa nào bị vấp ngã làm bể trứng thì chỉ có nước đứng khóc hu hu dọc đường mà thôi. Được thày xoa đầu, lì xì cho tí tiền còm hay một cái kẹo, cũng đã vội chạy về khoe với bu.
Tuy nhiên, nghề nào thì cũng có mặt phải và mặt trái, niềm vui và nỗi buồn của nó. Vậy niềm vui của nhà giáo là gì ? Gã xin thưa : Niềm vui thứ nhất, đó là thày cô đã góp phần vào việc hướng dẫn và đào tạo các em trở nên những con người hiểu biết và hữu ích.
Thực vậy, nhờ thày cô mà chúng ta biết đọc biết viết, biết cộng trừ nhân chia và biết mở ra thế giới bên ngoài…Nhờ thày cô mà chúng ta biết rèn luyện nhân cách để thăng tiến bản thân. Chính vì thế mà người ta vốn gọi thày cô là nhà kỹ sư của tâm hồn, vì không thày đố mày làm nên.
Niềm vui thứ hai, đó là thày cô đã góp phần vào việc xây dựng xã hội.
Thực vậy, nếu yếu tố con người là tiền vốn đầu tư cho đất nước, thì tuổi thơ cũng chính là tương lai của quốc gia. Đào tạo các em trở thành những người hiểu biết và hữu ích là các thày cô đã làm cho quê hương này được phát triển và đi lên phơi phới, chả mấy chốc mà hóa kiếp thành rồng lớn, rồng nhỏ, dễ như trở bàn tay. Chính vì thế mà người xưa cũng đã bảo :
- Lương sư hưng quốc. Có nghĩa là thày giỏi thì nước mạnh.
Do bởi những đóng góp này mà nhà giáo luôn được trọng kính ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày xưa cũng như hôm nay. Bên đông cũng như bên tây.
Ở Việt Nam, nền luân lý mang nặng ảnh hưởng của Khổng giáo. Và theo Khổng giáo, thì trong xã hội có ba hạng người chúng ta phải kính phải trọng, đó là quân sư phụ, vua thày và cha. Cho dù người thày ấy chỉ dạy chúng ta được có một chút xíu, bởi vì :
- Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Một chữ cũng là thày và nửa chữ cũng là thày.
Từ đó chúng ta thấy “tôn sư trọng đạo” kính thày va mộ đạo vốn là một nét đẹp của truyền thống dân tộc.
Ở bên Tây cũng vậy. Người ta thường bảo :
- Phải trọng kính thày cô hơn cả cha mẹ, bởi vì cha mẹ trao ban cho chúng ta sự sống, còn thày cô chỉ vẽ cho chúng ta cách sống tốt đẹp.
Gã còn nhớ hồi nhỏ có được học một bài về lòng nhớ ơn thày. Bài này kể lại hình như ông Carnot, sau khi đã gặt hái những thành công rực rỡ trên đường đời, ngày kia ông trở về thăm quê cũ, mọi người trong làng ra nghênh đón ông một cách trọng thể và coi ông như là một vị anh hùng của dân tộc.
Thế nhưng, vừa đến đầu làng, ông đã vội vàng xuống ngựa, chạy thẳng tới và ôm hôn một cụ già, khiến cho cụ già ấy vô cùng xúc động. Cụ già ấy chính là thày giáo trường làng, đã từng dạy cho ông những bài học vỡ lòng, khi ông cắp sách đến trường. Ông nói lớn cho mọi người cùng nghe :
- Chính nhờ thày mà tôi được như ngày hôm nay.
Như trên gã đã phát biểu thật hách xì xăng :
- Phàm bất cứ nghề ngỗng nào trên đời thì cũng có mặt phải và mặt trái, niềm vui và nỗi buồn. Vậy nỗi buồn của nhà giáo là như thế nào ?
Rất tiếc, nghề ngỗng của gã không phải là nghề gõ đầu trẻ, thành thử vốn liếng kinh nghiệm tích lũy chẳng được bao nhiêu. Thôi thì cứ việc giương mắt ếch mà nhìn, thấy cái gì, viết cái ấy. Lỡ có thêm tí mắm muối, hành tỏi để được đậm đà, thì cũng mong bàn dân thiên hạ thông cảm, chứ đừng cho nhà báo…nói láo ăn đòn đấy nhé.
Phàm làm bất cứ công việc gì trên thế gian thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề…tiền đâu ? Qui luật của muôn đời ấy mà ! Không hiểu ở bên tây thế nào, chứ còn ở bên ta, nhà giáo vốn thường được gọi là những người bán cháo phổi. Vất vả rất nhiều mà tiền lương ba cọc ba đồng, chẳng được bao nhiêu. Nuôi sống bản thân đã khó, huống nữa là nuôi sống vợ con và gia đình. Vi thế, người ta thường hay diễn tả :
- Nhà giáo húp…cháo mà ăn.
Cũng vì đồng lương ba cọc ba đồng, bụng đói đầu gối phải bò…Và thế là các thày cô, ngoài giờ đến trường và đứng lớp còn phải kiếm sống thêm bằng những nghề phụ, được gọi là những nghề tay trái.
Có thày thì đi chạy xe ôm. Thế nhưng, chẳng may gặp khách hàng là những cô cậu học trò của mình, thì chỉ còn nước cúi gầm mặt xuống, mong được đằng vân độn thổ như Tôn Ngộ Không trong Tây du ký mà thôi.
Có cô thì mở lớp dạy thêm và thế là bị cuốn theo chiều gió của đồng tiền để rồi cũng mánh mung câu học trò. Nào là dạy trước ở cua những bài sẽ giảng trong lớp. Nào là khi ngày thi sắp đến thì cắt nghĩa đề cho nhóm nhỏ thân yêu. Vì thế, những em học thêm sẽ cảm thấy khỏe re khi tới lớp, bởi vì thế nào mình cũng sẽ được điểm cao. Nào là những em học thêm sẽ được ưu đãi.
Có một cô bé đã vô tư hỏi mẹ :
- Má à, hôm nay cô chọn năm bạn vào đội học sinh giỏi, nhưng không có con. Sao kỳ vậy hả má, bởi vì năm ngoái con đứng hạng nhì cơ mà.
Rồi hôm qua, đi học về cô bé đã nằm sõng sượt, vùa kể vừa rơm rớm nước mắt :
- Hôm nay cô chọn thêm mười bạn nòng cốt của lớp mà vẫn chẳng có con. Nòng cốt là giỏi phải không má ? Như vậy là con bỗng bị tụt xuống hạng mười sáu, mười bảy rồi còn gì. Con chẳng muốn đi học nữa đâu.
Bỗng cô bé “à” lên một tiếng. Nó ngồi bật dậy và nói :
- Thôi đúng rồi. Tại con không đi học thêm ở nhà cô đấy thôi. Con nghĩ kỹ rồi. Mười lăm bạn cô chọn, bạn nào cũng đi học thêm hết. Vậy là cô không công bằng gì cả.
Nghe thế, người mẹ như cảm thấy nhói trong lòng vì thực tình, bà không muốn cô bé phát hiện ra điều ấy chút nào, bởi nó xúc phạm người thày quá.
Mẩu đối thoại này đã được đăng trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” làm cho gã cũng phải xót xa. Nếu ngày xưa các cụ ta đã bảo :
- Kim tiền hắc nhân tâm, có nghĩa là vàng bạc làm mờ lòng người.
Thì hôm nay, đồng tiền cũng đã làm mờ mắt một số các thày cô, để rồi không còn có được thái độ “chí công vô tư”, nhưng ngả bên này, nghiêng bên nọ. Báo chí cũng đã phê phán rất nhiều về nạn “học thêm”, khiến cho các em nhỏ phải học quá sức mình, không còn thời giờ nghỉ ngơi, bởi vì :
- học ngày không đủ, tranh thủ học chiều học tối.
Còn những bậc cha mẹ, dù thương con, cũng phải cố gắng chắt bóp để bắt con cái đi học thêm, bởi vì con người hàng xóm học thêm mà con mình lại không thì cũng chẳng ra làm sao. Hơn thế nữa, để được đẹp lòng thày cô, không bị trù dập, thì cũng chỉ có con đường một chiều, đó là học thêm mà thôi.
Tiếp đến, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những khuyết điểm. Vì thế, thày cô cũng là người cho nên không tránh khỏi những sai sót của mình. Chính những sai sót này, đôi khi đã tạo nên những bất mãn, những bực bội và làm giảm bớt sự trọng kính đối với các thày cô.
Gã xin ghi lại nơi đây hai sự việc cũng đã được đăng trên báo “Phụ nữ Chủ nhật”. Sự việc thứ nhất được một bà mẹ bật mí như sau :
Con trai tôi kể chuyện : vào những tiết học toán, cả lớp con không còn là học sinh nữa, mà thành những con bò, còn lừa tất. Cô giáo chỉ vào từng đứa, hét lên :
- Một con bò, hai con bò, cả một lũ bò.
Tôi ngạc nhiên :
- Hôm nọ là bò rồi cơ mà.
Con trai tôi thật thà :
- Lẽ ra là lừa, nhưng chắc là cô quên. Nhưng mà lừa hay bò thì cũng thế cả thôi.
Ngày khác, cháu nói :
- Hôm nay cô giáo con không gọi học trò là lừa hay bò nữa.
Rồi cháu cao giọng bắt chước tiếng cô :
- Óc của các trò chỉ đáng đem cho heo ăn mà thôi. Sao mà ngu thế không biết.
Em gái cháu cười bò ra, vô tư. Trong lúc tôi đang buồn bã, chưa biết nói gì, thì cháu thở dài :
- Cô gào thét nhiều quá, vừa điếc tai, vừa mất bao nhiêu thời gian học.
Ngược lại, có những cô giáo không hề la hét, mà chỉ nói rất nhẹ nhàng :
- Hình như đầu em chỉ chứa toàn đậu phụ mà thôi, có phải như vậy không ?
Hoặc hạ giọng mỉa mai một cô bé mặc bộ quần áo đắt tiền mà bài không thuộc :
- Em tưởng rằng làm người mẫu thời trang thì chẳng cần phải học. Đúng vậy không ?
Lại có cô điều khiển lớp học bằng cây thước :
- Quên vở hả ? Bốp.
- Không thuộc bài hả ? Bốp.
- Chưa làm bài hả ? Bốp.
Không ai có thể thoát khỏi cây thước của cô, kể cả những học sinh giỏi và ngoan, bởi vì có rất nhiều lý do đáng được ăn thước. Thế là cả tiết học, học trò thấp thỏm chờ đến phiên mình “ăn thước”, cứ căng người lên mà chờ đợi, có được mấy kiến thức chui vào đầu đâu ?
Viết tới đây, gã bỗng nhớ tới một vị thày đáng kính, rất yêu thương học trò, những cũng vì yêu thương ấy, khiến thày rất hay chửi bới. Thí dụ, một học trò tên là Thông, chẳng may hôm ấy không thuộc bài, thì liền bị một chầu xỉ vả :
- Tên mày là Thông, mà chẳng thông thái chút nào, cứ thế này thì lớn lên sẽ đi thông cống mà thôi.
Sự việc thứ hai là tự ái quá cao của các thày cô. Cứ nghĩ rằng mình đứng trên bục giảng là được đặc ân “vô ngộ”, không thể sai lầm, giống y như Đức thánh “Pha Pha” vậy.
Một cô giáo dạy văn, khi biết mình sai về một chữ nào đó, chẳng hạn như “trà đạp” thay vì “chà đạp” đã nói với các em học sinh như sau :
- Cô xin lỗi vì cô đã sai. Các em chữa bài đi, “chà đạp” chứ không phải là “trà đạp” đâu. Cô đã hơn ba mươi năm đứng trên bục giảng và hôm nay một em đã chỉ cho cô thấy mình sai.
Rồi quay sang em đã chỉ ra chỗ sai, cô nói :
- Cám ơn em. Từ hôm nay em có thể nghỉ học ở lớp này vì em giỏi rồi, tôi không còn gì để dạy em nữa. Cả lớp mở vở ghi bài mới.
Lời cám ơn này đã làm cho mọi người chới với và hụt hẫng.
Nỗi buồn còn len lỏi vào cả cách thức giảng dạy. Thực vậy, thế giới và con người không ngừng chuyển biến. Mỗi thời có những đổi thay riêng của nó. Ngày xưa, cách thức giảng dạy có phần nghiêm khắc hơn, bởi vì :
- Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
Người tây phương cũng bảo :
- Bác sĩ nghiêm khắc với bệnh nhân thế nào, thì thày cô cũng phải nghiêm khắc với học trò như vậy.
Gã còn nhớ thày giáo già dạy lớp mẫu giáo, khi tập dánh vần, lúc nào thày cũng cầm sẵn một chiếc roi mây, đứa nào nói ngọng hay chữ “r” mà không cong lưỡi lên thì liền bị một roi. Chính nhờ vậy mà bọn gã phát âm tương đối chuẩn.
Còn thày dạy Pháp văn khi gã ở bậc trung học. Ngày nào thày cũng khảo bài cả lớp. Và hễ tên nào không thuộc thì lập tức bị thày phán :
- Hạ mã. Có nghĩa là quì xuống.
Nhờ sự nghiêm khắc ấy mà bọn gã học rất tiến, để rồi bây giờ gã có thể xác quyết :
- Tất cả vốn liếng tiếng “Phăng xe” còn đọng lại cho tới ngày hôm nay, thì hầu hết là do công lao của thày.
Hiện giờ, cách thức giảng day có phần thoải mái hơn. Thày phải tôn trọng trò. Nếu thày cho trò ăn đòn, thì không khéo sẽ bị lôi ra ba tòa quan lớn như tại các nước bên tây.
Tuy nhiên, nỗi buồn lớn hơn hết của các thày cô hôm nay, đó là hình như lòng trọng kính dường như đang bị sút giảm. Mặc dù báo chí vẫn hô hào và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”, nhưng trong thực tế, không thiếu gì những sự việc đáng tiếc đã xảy ra.
Thày giáo tên Cảnh, dạy môn toán, mắc chứng hay la mắng và hù dọa học trò, nhất là khi chúng không thuộc bài. Thế rồi một buổi sáng, khi bước chân vào lớp, thày nhìn thấy trên bàn một củ hành tây thật to. Hình như bọn học trò này muốn gửi cho thày một thông điệp. Thông điệp ấy gói gọn trong củ hành tây ấy, bởi vì :
- Củ hành, có nghĩa là Cảnh hù.
Một cô bé khác trả thù thày như sau : ruộng nhà thày nằm sát cạnh ruộng nhà cô bé. Và thế là mỗi khi đi làm cỏ, nhổ được cọng cỏ nào, cô bé liền ném sang ruộng nhà thày…cho bõ tức.
Đúng là nhất quỉ nhì ma, thứ ba học trò. Có những nghịch ngợm dễ thương, những cũng có những nghịch ngợm hỗn láo cần phải lên án. Không thiếu gì những trường hợp trò đã thượng cẳng chân, hạ cẳng tay đối với thày cô. Cách đây không lâu, báo “Công an Thành phố” có đăng tải một mẩu tin nho nhỏ với tựa đề “Học kém đâm…giận thày”, đại khái như sau :
“Khu nhà tập thể của giáo viên tại ấp Phú lâm, xã Phú thành B, huyện Tam nông, tỉnh Đồng tháp, từ ngày hai mươi tháng mười một đến ngày mồng bảy tháng mười hai đã ba lần bị cháy. Lần sau cùng, khi ngọn lửa được dập tắt thì khu nhà chỉ còn trơ trọi một đống tro. Toàn bộ quần áo, sách vở, giáo án, sổ liên lạc, bài kiểm tra…đều bị thiêu rụi. Mỗi thày cô chỉ còn lại duy nhất một bộ quần áo mặc trên người. Trước sự việc nghiêm trọng này, Công an huyện Tam nông quyết làm rõ vụ việc. Thủ phạm là Nguyễn hoàng Nam mới chín tuổi, ở cách khu nhà tập thể chừng năm mét. Nam là con trái út trong nhà, rất lì lợm nhưng luôn được cưng chiều. Trong lớp, nhiều lần Nam không thuộc bài nên bị thày phạt. Từ đó Nam nghĩ phải…trả thù bằng cách đốt nhà thày.
Học trò giảm sút lòng trọng kính đã là một sự việc đáng buồn. Thế nhưng, đáng buồn hơn nữa, khi những bậc phụ huynh về hùa với con cái mình mà hành hung và xin “tý huyết” thày cô. Hay lợi dụng chức quyền mà chửi bới, trù dập thày cô. Vì bênh con, nhiều bậc cha mẹ đã có những hành động đáng tiếc.
Hôm đó, chẳng hiểu thày sơ ý hay vì nóng giận đã cho một cậu ấm, con một vị chức sắc mấy thước kẻ. Khi hay biết tin ấy, vị chức sắc kia đã đi dọc theo những con đường làng, vừa đi vừa chửi thày một cách thậm tệ :
- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con cái nhà người ta như thế à. Tiên sư cha nó.
Chắc hẳn là còn nhiều nỗi buồn hơn nữa, nhưng bằng đó mà thôi cũng đủ làm cho gã cảm thấy thấm thía và cay đắng. Trong nghề nhà giáo, có những cái nghịch lý, nhất là các cô giáo dạy ở những lớp nhỏ, chẳng hạn con mình không day lại đi dạy con người khác. Những nghịch lý ấy phần nào được diễn tả trong một bài thơ của Đoàn thị Lam Luyến, gã xin mượn tạm và viết ra đây :
- Em là cô giáo mầm non,
nghề chi mà dễ sớm con muộn chồng.
Đêm thì vắng, ngày thì đông
Chăm thì chăm thế, mẹ chồng vẫn chê!
Sáng sớm đi, tối muộn về
Trong nhà chân đất, dép lê ngoài đường,
Chồng thì khi giận khi thương.
Trẻ thì đứa ấm, đứa ương lạ đời.
Trẻ ngoan thì cô mới cười
Con mình thì nhãng, con người mình chăm
Lương mình chẳng đủ mình ăn
Thì em cấy ruộng cho bằng người ta.
Rồi tác giả đã kết luận :
- Trẻ thơ như chiếc lá diều
Em là ngọn gió một chiều đương thu.
Mặc cho những nghịch lý, mặc cho những nỗi buồn, nghề nhà giáo vẫn cao trọng, vẫn tốt đẹp. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, quê hương này vẫn luôn cần đến, vì lương sư hưng quốc, và kế trăm năm không gì bằng trồng người.
Hôm nay, ông trời bỗng trở chứng. Một cơn bão nhỏ từ biển Đông kéo về. Mưa rơi rả rích. Gió GãSiêu 148
Hôm nay, ông trời bỗng trở chứng. Một cơn bão nhỏ từ biển Đông kéo về. Mưa rơi rả rích. Gió thổi vù vù. Đang “cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ, trong trái vải cô đơn”, chập chờn với giấc ngủ ban trưa, sướng rên hết ý, thì bỗng nghe tiếng chuông reo. Mắt vẫn nhắm. Trườn mình, vươn cánh tay với chiếc điện thoại. Giọng nói khàn khàn của cụ chủ nhiệm vang lên, làm gã tỉnh hẳn. Cụ phán :
- Hãy mau viết cho ta một mẩu chuyện phiến về hè.
Thế rồi cụ cúp máy cái rụp, chẳng để cho gã… khà khịa, châm chích chọc một vài lời hay hay tả oán bằng sáu câu vọng cổ có mùi. Nếu như thuở ban đầu, Đức Chúa Trời phán một lời liền có mọi sự, thì gã cũng nghiệm ra rằng cụ chủ nhiệm “yêu rấu” của gã cũng khoái cái món phán như vậy lắm lắm.
Nói tới mùa hè, đôi mắt gã lim dim, bâng khuâng tơ tưởng tới thuở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. Lúc bấy giờ, mùa hè sao mà đẹp đẽ và nên thơ quá chừng, nó đã khấy động tâm can và làm bừng lên những tình cảm vui buồn lẫn lộn, nhưng chắc chắn niềm vui phải nhiều hơn nỗi buồn.
Niềm vui lớn nhất là được “tung hê” sách vở, được nghỉ ngơi thảnh thơi, đầu óc thoáng đãng, không còn phải bận tâm với những bài học, bài làm, bài thi…Và nếu ở nội trú, thì lại còn được trở về nhà với ba với má, với chị với em, tha hồ mà bắt nạt.
Riêng nỗi buồn thì chỉ phơn phớt và thoảng qua như gió thổi, vì phải giã từ mái trường thân yêu, xa rời thày cô và bè bạn. Vì thế, những ngày trước khi nghỉ hè, dân học trò thường chuyền tay nhau những tập “lưu bút ngày xanh”, ghi lại những tình cảm thân thươngnhất của mình. Có khi hai đứa cùng ở một xóm, đi cùng một đường, ngày nào cũng đụng mặt nhau…thế mà khi thò bút viết cũng phải làm ra vẻ lâm ly bi đát như sắp sửa ngàn trùng xa cách, đúng như một bài hát đã diễn tả :
- Mỗi khi đến hè lòng man mác buồn.
Khi đã khôn lớn và bước chân xuống cuộc đời, không hiểu người khác ra sao, chứ phần gã thì chả còn biết hè hiếc là cái đí gì cả. Ngày nọ nối kiếp ngày kia, quần quật kéo cày, tối tăm cả mặt mũi. Rảnh dăm ba phút, thì chỉ kịp bắn một điều thuốc lào mà thả hồn theo khói…Tối về đánh một giấc cho tới sáng, rồi điệp khúc buồn lại tiếp nối.
Bên cạnh nhà gã có một thằng bạn, tên là Cam. Hắn đi dạy học ở phương xa, thỉnh thoảng được về phép thăm vợ thăm con. Chỉ những ngày hè mới thực sự thong dong, tha hồ mà hú hí. Vì thế, cứ mỗi mùa hè, hắn lại hì hục nặn đúc một tác phẩm trình làng, đến độ “vợ quen dạ” năm nào cũng cho ra lò một nhóc tì để đời, khiến lũ con nít trong xóm hát vang mỗi đêm trăng sáng :
- Mỗi năm đến hè bà Cam có bầu…
Bây giờ thì gã xin nghiêm chỉnh suy nghĩ tí chút về sự nghỉ ngơi và gã bỗng nhận ra rằng Đức Chúa Trời quả là một người cha nhân từ và dịu hiền.
Theo sách Sáng thế ký, sau sáu ngày tạo dựng thì ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi. Dĩ nhiên, đã là Đức Chúa trời thì chả cần phải nghỉ ngơi, nhưng sở dĩ sách Sáng thế ký ghi lại như vậy là để nêu gương cho con người. Thực vậy, trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa đã truyền cho ông Môisen mười điều răn, trong đó điều răn thứ ba được qui định rành mạch như sau :
- Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh.
Như vậy, sự nghỉ ngơi trong ngày sabát khởi nguồn từ Thiên Chúa và nếu con người có nghỉ ngơi thì cũng chỉ là bắt chước Thiên Chúa mà thôi. Đối với người Do thái, cứ bảy ngày lại có một ngày nghỉ và được gọi là ngày sabát. Cứ bảy năm lại có một năm nghỉ và được gọi là năm sabát. Cứ sau bảy lần bảy năm, nghĩa là sau bốn mươi chín năm, thì năm thứ năm mươi sẽ là năm nghỉ và được gọi là năm thánh, năm toàn xá. Nghĩ cũng sướng.
Một trong những việc chính yếu trong ngày sabát, trong năm sabát, cũng như trong năm thánh hay năm toàn xá là nghỉ ngơi. Không phải chỉ con người mới nghỉ ngơi mà cả ruộng đất cũng được nghỉ ngơi nữa, chứ không như chúng ta hôm nay : làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, rồi lại còn lợi dụng tối đa, múc cạn kiệt cả nguồn tài nguyên thiên nhiên theo kiểu : vắt cù chày ra nước, đãi cứt sáo lấy hạt đa…
Chúa Giêsu cũng vậy. Sau khi các môn đi thực tập truyền giáo trở về và đang huyên thuyên “báo cáo” những thành tích gặt hái được, thì Ngài đã lên tiếng khuyên nhủ :
- Các con hãy tìm nơi thanh vắng và nghỉ ngơi một chút.
Xem đó, gã thấy Đức Chúa Trời quả là khôn ngoan và lòng lành vô cùng khi đòi buộc chúng ta phải nghỉ ngơi. Thực vậy, con người không phải là một cái máy, bởi vì cái máy có thể chạy liền tù tì hai mươi bốn trên hai mươi bốn, nếu bộ phận nào hỏng hóc thì lập tức được thay thế. Con người thì khác. Nếu hỏng hóc thì có nhiều nguy cơ ngỏm củ tỉ chứ khó mà thay thế. Và hơn thế nữa, yếu tố con người mới là yếu tố quan trọng. Lao động phải phục vụ cho con người, chứ không phải con người phục vụ cho lao động. Vì vậy, phải biết tổ chức sao cho cuộc sống này còn đáng sống một tí chứ.
Bản nhạc có nốt trầm nốt bổng, có dấu ngân dấu lặng. Nếu chỉ toàn nốt bổng thì sẽ đinh tai và nhức óc. Nếu chỉ toàn dấu ngân thì sẽ dài cổ ra đứt hơi mà chết. Cây cung có lúc căng lúc chùng. Nếu lúc nào cũng căng thì chẳng bao lâu sẽ gẫy. Con người cũng vậy, có giờ làm việc thì cũng có giờ nghỉ ngơi. Nếu cứ miệt mài lao động, làm việc mãi, làm việc hoài thì chẳng mấy chốc mà phát khùng, phát điên.
Trong những năm dài sau giải phóng, ở Việt Nam đi đâu cũng đụng phải cái khẩu hiệu :
- Lao động là vinh quang.
Những kẻ thối mồm thối miệng còn chõ mõm phệu thêm vào đó một lô một lốc, chẳng hạn như :
- Lang thang thì chết đói.
Hay nói thì ở tù.
Lù khù thì sống lâu.
Thế mà hôm nay, nhà nước cũng đã phải qui định : mỗi tuần làm việc năm ngày. Thứ bảy và chúa nhật nghỉ khỏe re, hơn cả con bò kéo xe. Chỉ khổ cho dân buôn thúng bán mẹt. Nghỉ làm thì cũng có nghĩa là treo niêu và nghỉ ăn luôn. Bởi chưng :
- Có làm thì mới có ăn.
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Vì thế, ai phè phỡn, nghỉ ngơi mặc ai, còn ta, ta vẫn phải ra sức kéo cày kiếm cơm nuôi vợ nuôi con.
Dân Nhật, những năm trước đây đã lao động cật lực để tái thiết đất nước sau cuộc thế chiến thứ hai. Họ đã hùng hục làm việc bất kể ngày và đêm. Khi nền kinh tế đã ổn định thì cũng chính là lúc họ nhận ra dân mình có nhiều người bị “stress”, hay nói nôm nói na là bị căng thẳng thần kinh, bị khủng hoảng tâm lý và thích làm người…cõi trên. Vì thế ngày nay, dân Nhật đã “xì tốp” bớt cái nhịp điệu sản xuất, dành nhiều thời giờ hơn cho sự nghỉ ngơi. Và dân Nhật là dân đi nghỉ hè nhiều nhất ở nước ngoài.
Và như thế, nghỉ ngơi là một nhu cầu chính đáng, phải đạo và sinh nhiều ơn ích, nhất là đối với những người đã làm việc cật lực. Tuy nhiên vấn đề được đặt ra, đó là phải sử dụng thời gian rảnh rỗi để nghỉ ngơi như thế nào ?
Một cô nàng ở bên Mỹ có lần đã tâm sự “mí” gã như sau :
- Là người vợ, mình chỉ mong đến những ngày nghỉ cuối tuần để đi mua sắn những sự lỉnh kỉnh cần thiết cho gia đình, rồi giặt giũ, sắp xếp lại cho ngăn nắp trật tự và nhất là mọi người sẽ xum họp, gặp mặt nhau đông đủ. Thế nhưng, cái mơ ước nhỏ nhoi và bình thường này cũng chẳng thực hiện được, bởi vì từ thứ bảy tới sáng thứ hai, anh ấy đều lặn mất tăm, biệt vô âm tín. Anh ấy cùng với những người bạn ngồi rút xì phé hay binh xập xám với nhau, chả còn giây phút nào để mắt ngó ngàng tới nhà cửa và gia đình. Có những chuyện mình cần tâm sự với anh ấy mà chẳng được. Có những lúc mình cần một bờ vai để tựa đầu mà cũng chẳng thấy. Dĩ nhiên anh ấy có quyền xả hơi sau những ngày vất vả mệt mỏi. Nhưng xả hơi theo kiểu này thì xem ra có phầ…không êm.
Những ngày đầu khi mới đặt chân lên vùng đất lạ, người Việt chúng ta thường lao mình vào chuyện kiếm tiền để sớm ổn định cuộc sống và nếu còn dư được chút đỉnh, liền gửi về giúp đỡ cho những người thân yêu còn trụ lại trên quê hương này. Vì thế, ngoài giờ lao động chính thức, còn phải cố gắng làm thêm, để tích lũy cho mình tí tiền còm. Chả ai dám nghĩ đến chuyện đi nhỉ hè.
Bây giờ cuộc sống tương đối sáng sủa, nên nhiều người đã lên chương trình cho mùa hè của mình. Chương trình ấy lệ thuộc vào cái ngân sách, cái hào bao của gia đình. Nhiều tiền thì đi xa. Ít tiền thì đi gần.
Nếu kinh tế đang hồi khủng hoảng, ngân sách bị thâm thủng. Đầu vào thì ít mà đầu ra thì lại nhiều. Kiếm chả được bao nhiêu, chẳng đủ bù lỗ cho những nhu cầu cần thiết, ấy là gã chả dám nói đến những kiểu tiêu xài con nhà lính tính nhà quan, vung tay quá trán khiến cho công nợ chồng chất. Trong trường hợp như thế, thì chỉ có nước nghỉ hè tại nhà. Nghĩa là đóng cửa lại, nằm ngủ cho đã con mắt. Đọc mấy cuốn sách, để làm đẹp cho cuộc đời, làm giàu cho kiến thức. Viết mấy bức thư, để nối lại nhịp cầu tình cảm với những người thân quen rải rắc khắp bốn phương trời.
Khá hơn một tí, thì dẫn vợ con, bàu đoàn thê tử đi chơi chỗ này chỗ khác. Nào là lên núi để được thở hút những lọn khí trong lành. Nào là xuống biển để được đùa dỡn với những ngọn sóng. Nào là thăm các khu vực giải trí như “Disney Land”…để cả nhà được vui vẻ.
Tuy nhiên, có người lại thích đếm những bước chân âm thầm. Lặng lẽ đi tìm những cảm giác mạnh, còn hơn là xem phim kinh dị toát mồ hôi lạnh của Hitchcook, bằng cách chui vào những sòng bạc, vật lộn với đỏ đen, để rồi khi ra khỏi đó, thân hình phờ phạc và theo cách diễn tả của ngắm mười lăm sự thương khó thì :
- Con mắt thì lõm vào, mặt mũi thì xanh xao, chẳng còn hình tượng người ta nữa.
Đau hơn cả là đã nướng toàn bộ số tiền được chắt chiu qua bao nhiêu ngày tháng gian nan cực khổ đổ mồ hôi hột, không phải chỉ của mình mà nhiều khi còn cả của vợ con nữa. Vì thế, cha ông chúng ta ngày xưa vốn thường cảnh cáo :
- Cờ bạc anh đánh có chừng,
Hết khăn đến áo dây lưng cùng quần.
- Cờ bạc là bác thằng bần,
Áo quần bán bán hết, ngồi trần tô hô.
- Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, cho chân vào cùm.
- Đêm nằm nghĩ lại mà coi,
Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà.
Nếu may mắn có số đỏ viếng thăm, có thần tài phò trợ, thì số tiền kiếm được ở sòng bạc cũng chả làm nên trò trống, hay cơm cháo gì, bởi vì người ta sẽ tiêu phung tiêu phí, rốt cuộc của thiên lại giả địa mà thôi :
- Tiền buôn tiền bán thì để trong nhà,
Tiền cờ tiền bạc để ra ngoài đường.
- Của làm ra để trên gác,
Của cờ bạc để ngoài sân,
Cùa phù vân để ngoài ngõ.
Lắm lúc nằm vắt chân lên trán thấy mình đã quá dại, liền hối hận và dốc quyết chừa bỏ, thế nhưng rồi chứng nào vẫn tật nấy, chó đen vẫn giữ mực và mèo vẫn hoàn mèo mà thôi, bởi vì :
- Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm.
Giống như một ông thi sĩ nghiện rượu nào đó đã ngang nhiên tuyên bố :
- Say sưa nghĩ cũng hư đời.
Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
- Những lúc say sưa cũng muốn chừa.
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên mới không chừa được.
Chừa được mà ông cũng chẳng chừa.
Còn bây giờ, nếu dằn túi được một xấp tiền khá bộn, theo kiểu “xu hào rủng rỉnh mán ngồi xe”, thì thiên hạ có quyền nghĩ tới chuyện đi nghỉ hè ở nước ngoài. Nếu cắm dùi tại Thụy sĩ, thì làm một vòng Châu Âu hay bay qua Mỹ. Còn nếu ở Mỹ thì vù sang Châu Âu. Đây quả là một sự lý thú, bởi vì :
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
- Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ, biết ngày nào khôn.
Tuy nhiên, phần lớn những chuyến ra nước ngoài như vậy, thường là để thăm họ hàng hay bè bạn. Mục đích của việc thăm viếng này quả thực tốt đẹp vì nó bắc được một nhịp cầu cảm thông, hâm nóng lại những tình cảm phần nào đã nguội lạnh, phai nhạt vì sinh kế và công ăn việc làm. Thế nhưng, nhiều lúc nó cũng đã gây nên những phiền toái và tế nhị.
Người Việt mình vốn trọng tình nghĩa và sống theo tình cảm, nên khi có bạn đến thăm, thì chẳng lỡ lòng nào để bạn khăn gói quả mướp ra ngoài khách sạn mà ở. Thể nào cũng phải níu kéo để bạn lưu lại tại nhà mình, rồi lại còn phải chén thù chén tạc “mí” nhau, không chừng còn phải nằm ghếch chân lên nhau mà tâm sự vụn. Thôi thì đủ mọi chuyện trên trời dưới đất, từ chuyện ngày xưa đến chuyện hôm nay, từ chuyện người quen đến chuyện kẻ lạ ở khắp tứ phương thiên hạ, từ chuyện trong nước đến chuyện ngoài nước, từ chuyện chính chị chính em đến chuyện thầm kín riêng tư…Như thế nó mới vơi nỗi nhớ và đáng đồng tiền bát gạo cho một chuyến đi.
- Bạn đến chơi đây, ta với ta.
Tuy nhiên, nếu chỉ lưu lại một hai ngày thì xem ra mọi sự đều tốt đẹp bởi vì thoang thoảng hoa nhài thì lại thơm lâu.
Thế nhưng, có người đã tính toán hơi kỹ, lấy nhà của bạn làm nhà của mình cho đỡ tốn tiền khách sạn cùng trăm thứ bà giằng khác nữa, lấy điện thoại của bạn làm điện thoại của mình, lấy xe cộ của bạn làm xe cộ của mình, thiếu điều muốn lấy vợ của bạn làm bạn của mình nữa mà thôi….khiến cho sinh hoạt của gia đình bạn bị xáo trộn.
Một khi sinh hoạt bị xáo trộn, thì sẽ trở nên gánh nặng. Người ta muốn tống khứ vị khách bất đắc dĩ này đi mà chẳng dám mở mồm mở miệng, hay chẳng dám nói nên lời, khiến cho bầu khí trở nên ngột ngạt và căng thẳng. Tình cảm ngày đầu tay bắt mặt mừng tươi hồng thế nào thì nay bỗng tàn tạ và héo úa. Gia đình bạn ấm ức, tức như bị bò điên Ăng lê đá mà vẫn phải cắn răng chịu vậy. Đôi khi vì thế mà vợ chồng bạn lườm nguýt và âm thầm cấu véo lẫn nhau.
Theo gã thấy, thì hiện nay về thăm quê hương là cái mốt đi nghỉ hè tiện lợi mọi bề. Một là được nghỉ ngơi, nhất là ở những miền nông thôn khỉ ho cò gáy mà bầu khí còn tinh nguyên, chưa bị ô nhiễm. Hai là được thăm lại quê hương cùng với những người họ hàng bà con và bè bạn thân thích. Ba là giá cả phải chăng, không đến độ bị cứa cổ hay bị đút đầu vô máy chém. Bốn là góp được phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng đất nước, bởi vì những đồng tiền được mang về, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp giúp cho xứ sở này tươi đẹp hơn.
Tuy nhiên, không phải là không có những lạm dụng đáng tiếc đã xảy ra. Thực vậy, hẳn ai cũng đã biết sự chênh lệch về mức sống giữa bên nớ và bên ni. Hơn thế nữa, đồng đô la lại có giá. Thành thử , với một dúm đô la trong tay, người ta có thể tiêu xài vung vít, theo kiểu nhất dạ đế vương, tha hồ mà mua sắm, tha hồ mà ăn chơi phè phỡn, kể cả việc tha hồ mà lấy vợ, lấy chồng…
Có những ông chồng, khi ở nước ngoài thì một lòng một dạ chung thủy với vợ con. Nhưng khi về thăm quê hương, xa vợ xa con thì lại sinh tật, kiếm tí bồ nhí để vừa được giải sầu, vừa được chăm sóc, lại vừa đỡ tốn tiền mà còn bảo đảm an toàn, không lo bệnh nọ hay sợ tật kia. Lúc nào họ cũng sẵn sàng mở miệng hô lớn :
- Nhất phu nhất phụ.
Nhưng trong thực tế thì họ lại thực hiện ý đồ đến tối :
- Mỗi mụ một nơi.
Khi ở bên Mỹ thì chỉ có một vợ. Còn lúc ở Việt Nam thì cũng chỉ có một vợ mà thôi. Báo chí tại Việt Nam gần đây có đăng tải một vụ như thế với hàng tít lớn : “Hỗn loạn trong tiệc cưới của chàng Việt kiều”. Đại khái như thế này :
“Lúc đó là 19 giờ 15 phút ngày 16 tháng 4 năm 2000, chú rể Lê văn Nhân và cô dâu đang niềm nở chào đón quan khách đến dự đám cưới của mình tại lầu 1, khách sạn New World, bỗng xuất hiện một người đàn bà ẵm theo hai đứa con, sấn xổ bước tới chỗ cô dâu chú rể. Nhìn thấy bà ta, chú rể giật thót người, nhưng vẫn giả lả nói cười với khách. Người đàn bà ấy tên là Nguyễn thị Hồng quát to :
- Anh tính sao ? Anh tưởng mẹ con tôi không về Việt Nam được hay sao mà tổ chức đám cưới rình rang thế này ?
Bị chất vấn bằng những lời chì chiết, đay nghiến, chú rể gân cổ sửng cồ :
- Tôi không biết bà là ai.
Đoạn anh ta xô đẩy ba mẹ con chị Hồng ra ngoài.
Thấy vậy, nhân viên bảo vệ khách sạn liền đến can thiệp. Chị Hồng tay cầm xấp ảnh, miệng không ngớt giải thích và chứng mình cho mọi người hiểu rằng chị là vợ chính thức của chú rể, rồi xông vào giằng co với cô dâu. Tình huống diễn ra khá phức tạp, bởi đi theo ba mẹ con chị Hồng có gần một trăm đàn bà con gái, trong số đó có hơn chục người đã xông thẳng vào đám cưới. Đến nước này, cô dâu và chú rể phải vội vàng thối lui vào phía trong. Nhờ sự có mặt kịp thời của Công an phường Bến thành, tình trạng lộn xộn, bát nháo tại đám cưới mới chấm dứt.
Nội vụ đã được Công an phường làm rõ ngay sau đó.
Lê văn Nhân, sinh năm 1972, định cư ở Mỹ, kết hôn với Nguyễn thị Hồng vào ngày 18.2.1995 tại Mỹ và đã có với nhau hai mặt con. Chị Hồng than thở :
- Anh Nhân mới sinh tật từ trước tết đến nay. Tôi và gia đình của anh đều khuyên nhủ anh bỏ ý định cưới nữ nghệ sĩ U.T. làm bé, nhưng anh đã bỏ ngoài tai.
Được biết, sau bốn lần về Việt Nam và làm quen với nghệ sĩ hài U.T, Lê văn Nhân đã sắp đặt kế hoạch cưới…chui.
Đoạn tường thuật kể trên, gã xin mượn tạm trong báo Công An thành phố. Câu chuyện còn dài, nhưng bằng đó mà thôi cũng đủ cho thấy có những kẻ xấu lạm dụng những ngày nghỉ ngơi, trở về quê hương để thực hiện những ý đồ mời ám, khiến cho con sâu làm rầu nồi canh.
Để kết thúc, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nho nhỏ như sau :
Khi về già, tướng Wellington ngày kia đã trở lại thăm làng cũ. Ông đưa mắt nhìn khoảng sân trường xưa, nơi trước kia ông đã chơi đùa với bè bạn. Rồi với một dáng bộ suy nghĩ, ông nói :
- Chính tại nơi đây, tôi đã thắng được Napoléon.
Qua lời này, ông muốn bảo rằng :
- Chính tại sân chơi này, tôi đã học được những bài học quí giá của lòng can đảm, tự tin, kỷ luật, cộng tác và yêu thương, nhờ đó sau này trong cuộc đời tôi đã chiến thắng được những khó khăn, kể cả việc chiến thắng Napoléon tại Waterloo.
Là người Việt Nam chúng ta sẽ bảo :
- Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Như vậy, cũng phải học cả nghỉ ngơi nữa.
Là dân có đạo, chúng ta sẽ nói :
- Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, thì cũng phải làm vì danh Đức Kitô.
Như vậy, cũng phải nghỉ ngơi vì Đức Kitô nữa.
Dù là kẻ khố rách áo ôm, vai nặng chân trơn, đang tán hươu tán vượn tới đây, thì bỗng nghe thấy giọng hát trong trẻo của quí vị nhi đồng trên truyền hình với bài “Hè về” của Hùng lân :
- Hè về trong khóm trúc mền đầu bờ,
Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ,
Hè về gieo ánh tơ.
Lòng gã bỗng rộn lên một niềm vui dạt dào, cứ tưởng như mình đang khăn gói quả mướp lên đường sang Thụy sĩ nghỉ hè và luôn thể ghé thăm cụ chủ nhiệm…”yêu rấu”.
Trước cửa nhà gã, có một khoảng sân rộng được lát bằng gạch tàu. Ban tối, nhất là những đêm trăng GãSiêu 149
Trước cửa nhà gã, có một khoảng sân rộng được lát bằng gạch tàu. Ban tối, nhất là những đêm trăng sáng, bọn nhóc thường tụ tập ở đó để chạy nhảy vui đùa…Thế nhưng hôm nay, chúng kéo nhau đến để tập múa lân. Tiếng trống vang dội trong xóm vắng :
Tiếng trống dồn dập làm cho gã bỗng sực nhớ ra rằng : trung thu đã gần kề. Mà đúng vậy, bước chân ra đường, từ chợ thành thị cho đến chợ thôn quê, đâu đâu cũng thấy người ta bày bán đèn lồng và bánh ngọt.
Thế nhưng, phần lớn số đèn và bánh này được dành cho con nhà giàu, hay cho những xếp nhớn, bởi vì đây chính là dịp dân lính lác biểu lộ tình cảm đối với các xếp của mình bằng quà biếu. Còn bọn khố rách áo ôm thì chỉ đứng nhìn mà thèm rỏ rãi. May mắn lắm thì mới được bu mua cho khi trung thu đã qua rồi. Số hàng ế ẩm bị tồn đọng này, các chủ tiệm cũng muốn tống khứ đi cho khuất mắt, nên được bán với giá rẻ mạt. Vì thế, con nhà nghèo chịu khó “ăn” trung thu muộn một chút cũng không sao. Méo mó có vẫn hơn không kia mà. Và lỡ bị đau bụng thì cũng phải cắn răng chịu vậy. Song le Đức Chúa Trời vốn lòng lành vô cùng, nên Ngài thường ban cho con nhà nghèo một cái bao tử với chất lượng cao, dù xơi phải những thứ quá “đát” thì cũng chẳng hề hấn gì.
Tết trung thu, như tên gọi, đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu, mùa đẹp đẽ nhất trong năm với trăng thanh và gió mát. Theo Toan Ánh trong “Tín ngưỡng Việt Nam” thì tết Trung thu bắt đầu từ thời vua Duệ Tôn, đời nhà Đường.
Số là vào một đêm rằm tháng tám, trăng tròn sáng tỏ, nhà vua bèn hứng chí bèn làm một vòng ngự chơi ngoài thành mãi tới tận khuya. Lúc bấy giờ có một ông lão, râu tóc bạc phơ, chống gậy trúc tới bên nhà vua, rồi kính cẩn chào và hỏi :
- Bệ hạ có muốn lên cung trăng hay không ?
Nhà vua trả lời :
- Có.
Vị tiên liền giơ chiếc gậy lên trời. Và thế là ngay lập tức có một cây cầu, một đầu giáp trăng, một đầu giáp đất. Tiên ông liền đưa nhà vua lên cầu và chẳng bao lâu đã đến cung trăng. Phong cảnh nơi đây thật tuyệt vời với những nàng tiên nữ xinh như mộng, xiêm y cực kỳ, múa nay hết ý. Đang say xưa ru hồn vào cõi trên, thì tiên ông đã đưa nhà vua trở lại hạ giới.
Để kỷ niệm ngày được chu du nguyệt điện, nhà vua đã đặt ra tết trung thu. Trong tết này, người ta uống rượu thưởng trăng, vì thế còn được gọi là tết trông trăng.
Nói đến trung thu thì không thể nào bỏ qua ông Trăng, chị Hằng và chú Cuội.
Trước hết là ông Trăng. Người Việt Nam chúng ta vốn dạt dào tình cảm, nên đã xếp những kẻ xa lạ và ngay cả những vật vô tri giác vào lãnh vực thân thương của mình, vì thế mới có chú ba tàu, anh bảy cà ry, ông trời, ông trăng…cho nó thêm phần gần gũi :
- Ông trăng xuống cô gái đẹp, thì gái đẹp cho chồng.
Ông trăng xuống anh đàn ông, thì đàn ông cho vợ.
Thực chất ông trăng chỉ là một vệ tinh của trái đất và xoay quanh trái đất mỗi tháng một vòng. Chúng ta thấy được mặt trăng nhờ ánh sáng mặt trời chiếu vào. Dựa trên những bức hình của phi thuyền Apollo gửa về, thì dung mạo của mặt trăng cũng lồi lõm, cũng rỗ chằng rỗ chịt, chứ nào phải mặt hoa da phấn…
Thế nhưng, mấy ông thi sĩ, nhất là thi sĩ bên Tàu, thường nhìn mặt trăng bằng cặp kính tươi hồng của mình. Và dưới cặp kính tươi hồng ấy, thì mặt trăng còn được gọi là cung Quảng hàn, nơi ở của Thái âm thần nữ, vợ của thần Thái dương, tức là mặt trời.
Tiếp đến là chị Hằng. Sách “Hoài Nam Tử” cho biết :
Hằng Nga vốn là vợ của Hậu Nghệ. Ông ta đã dùng ba tấc lưỡi năn nỉ ỉ ôi bà Tây Vương Mẫu và đã xin được một viên thuốc trường sinh. Vốn thuộc nòi nể vợ, nên ông ta đã trao cho Hằng Nga cất giữ viên thuốc quí hiếm ấy. Biết chồng là kẻ độc ác, lại toan tính làm phản, Hằng Nga liền vội vã nuốt trửng viên thuốc và hóa thành cô tiên mà bay lên cung trăng. Vì thế, người ta thường gọi mặt trăng là Hằng Nga, là chị Hằng. Ngoài ra danh từ này còn được dùng để chỉ người con gái đẹp, như trong “Cung oán ngâm khúc” có câu :
- Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương trờ đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
Tuy nhiên có sách lại bảo :
Hằng nga bay lên cung trăng và ra mắt Thái âm thần nữ, kể rõ sự tình và xin thần nữ che chở. Thái âm thần nữ liền hóa phép biến Hằng Nga thành con cóc và đem giấu ở một nơi kín đáo trong cung Quảng hàn cho tới ngày nay.
Sau cùng là chú Cuội. Theo người Tàu thì chú Cuội chính là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương đã tu và đắc đạo thành tiên, nhưng sau vì làm nhiều điều xằng bậy trên thượng giới, nên đã bị Ngọc hoàng nổi giận, bắt đày xuống cung trăng, trao cho việc chặt và bóc vỏ cây quế đỏ. Thế nhưng cây quế đỏ này lại cứng như thép, nên ngô Cương chặt mãi, bóc hoài cho đến bây giờ cũng chẳng xong. Vì vậy mỗi đêm nhìn lên mặt trăng, chúng ta mới thấy bóng Ngô Cương đang lúi húi ở dưới gốc cây quế.
Thế nhưng, theo người Việt chúng ta thì Ngô Cương lại chính là chú Cuội. Còn cái bóng mà người Tàu gọi là cây quế đỏ, thì lại chính là cây đa thần. Vì thế mới có câu :
- Thằng cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Sự tích chú Cuội, hẳn chúng ta đã rõ. Đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, chú phải coi nhà. Buồn tình, chú bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh :
Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, chú bèn cười ngặt nghẹo đến vãi cả nước mắt. Lần khác, chú ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Chú cũng kêu la thất thanh :
Thế nhưng, lần này chẳng một ma dại nào đến tiếp cứu cho chú cả. Vì thế, dân gian mới bảo :
- Bắc thang lên đến tận mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười,
Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.
Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà chú Cuội bỗng trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt : nói dối như cuội. Hay nói một đàng làm một nẻo : hứa cuội có nghĩa là hứa lèo, hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được đí gì sốt, đầu voi đuôi chuột, trăm voi không được một bát nước xáo.
Lớn lên, chú đánh lừa được một lão trượng hiền lành và lão trượng này đã cho chú một cây đa thần mà lá có thể làm người chết sống lại. Lão trượng dặn chú mang về phải trồng ở mé đông và phải luôn tưới cho cây được xanh tươi, đồng thời còn cho chú hay cây đa thần này rất kỵ nước tiểu. Nếu trồng cây ở hướng đông thì mọi người phải đi tiểu ở hướng tây, không thì cây sẽ dông lên trời mất.
Hàng ngày chú vào rừng đốn củi. Ở nhà chị vợ vẫn tưới cây rất chăm chỉ theo lời chỉ dẫn của chú. Cho tới một hôm vì mải mê công việc nên quên tưới, chợt thấy chú về đến ngõ, chị vợ sực nhớ ra nhiệm vụ của mình. Sợ đi múc nước bị chú trông thấy sẽ la mắng, nên chị vợ vội chạy lại gốc cây, tốc váy lên và…tè vào đó. Vừa tè xong, thì cây đa bỗng từ từ nhổ gốc và bay lên trời.
Về tới nhà, thấy cây dông lên trời, trong tay lại sẳn có chiếc cuốc, chú lền móc ngay vào gốc cây, mong giữ được cây lại. Nào ngờ, chú chẳng giữ được cây mà lại còn bị cuốn theo cây bay lên cung trăng cho đến tận hôm nay. Thành thử cứ mỗi độ trung thu về, bọn nhóc tì thường hay ca hát :
- Bóng trăng trắng ngà,
Có cây đa to,
Có thằng Cuội già,
Ôm một mối lo…
Dĩ nhiên, còn nhiều điều phải nói về ông Trăng, chị Hằng và chú Cuội cũng như về những tập tục dân gian của ngày tết trung thu, chẳng hạn như thi cỗ, thi đèn và múa lân... Nhưng bằng đó mà thôi cũng đã đủ để cho thấy : tết trung thu trước kia là tết của người nhớn, nhưng dần dần được chuyển hệ và biến thành tết của trẻ nhỏ.
Toan Ánh cũng viết :
“…Để đón tết, các em có những đèn xếp, đèn lồng sặc sỡ thắp sáng, kéo nhau thành từng đoàn vui reo ca hát, tối tối cùng nhau nhởn nhơ, cùng đi đường này ngõ khác. Đây là dịp để người nhớn đặc biệt quan tâm và chăm sóc tới các trẻ nhỏ, nhất là những em tàn tật, mồ côi và bất hạnh…”
Ăn theo vào đó, gã xin tán dông tán dài đôi điều về tuổi thơ.
Thực vậy, Thánh vịnh đã coi con nít là quà tặng Đức Chúa trời ban cho những bậc làm cha làm mẹ vì thế chắc chắn nó phải mang nhiều vẻ đẹp tuyệt vời.
Người ta đã gọi tuổi thơ là tuổi thần tiên, cặp mắt của nhóc tì là cặp mắt của thiên thần và hương thơm của trẻ nhỏ xuất phát từ thiên đàng, mặc dù người ta chẳng hề nhìn thấy các thiên thần, chưa một lần bước chân vào thiên đàng và cũng chả biết thế giới thần tiên là đí gì, ngoại trừ một vài kẻ đã được diễm phúc lạc vào đó, chẳng hạn bên Tàu thì có vua Duệ Tôn, vua Đường Minh Hoàng…Bên ta thì có Lưu Thần, Nguyễn Triệu, Từ Thức…nhưng tất cả đều đã nằm yên trong phần đất của cổ tích.
Ông thánh Phaolô trong bức thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrinthô cũng đã cho biết một môn đệ được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng có lẽ cách diễn tả đúng nhất, vẫn là mắt chưa hề thấy và tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm…
Còn Chúa Giêsu, Ngài đã khám phá ra nơi trẻ nhỏ vẻ đẹp của các nhân đức nên Ngài không phải chỉ yêu mến, chúc lành và bênh vực mà hơn thế nữa còn lấy trẻ nhỏ làm khuôn vàng thước ngọc cho người nhớn phải noi theo :
- Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước trời đâu.
Nhìn vào trẻ nhỏ chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu nhân đức cao đẹp.Trước hết, nơi trẻ thơ không có hận thù, bạo lực mà chỉ có một tình yêu thương dạt dào và không biên giới.
Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của hòa bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, gã thấy hay hay nên “cóp pi” ra đây để cả và thiên hạ cùng đọc.
“…Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ đi thám thính cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã, tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước chân đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần. Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết. Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù…Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại…Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai ? Tại sao nó lại can đảm múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó ? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như vậy ? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được sống trong trận càn quét sắp tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm như vậy vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, phùng má thổi phù phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi. Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ : trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau mau lánh nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa may chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “đứa bé của hòa bình” như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta”.
Tiếp đến, nơi trẻ thơ không có mưu mô và gian dối, mà chỉ có một sự đơn sơ thành thực.
Một ông bố kia mắc nợ như chúa chổm. Vừa mới thò mặt ra ngoài, bỗng thấy thiên hạ tới đòi tiền, bèn vội thụt vào và căn dặn đứa bé :
- Tí nữa họ đến, con cứ bảo với họ rằng bố đi vắng nhé.
Khi vị khách bất đắc dĩ này gõ cửa, đứa bé đã vô tư nói :
- Bố cháu sai cháu ra thưa với bác rằng bố cháu đi vắng.
Chả thế mà bên tây người ta thường bảo :
- Chân lý xuất phát từ môi miệng trẻ thơ. La vérité sort de la bouche des enfants.
Còn bên ta thì nói :
- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.
Sau một thời gian đi vắng, muốn biết rõ những sự việc xảy ra ở nhà thì chỉ cần hỏi bọn nhóc, chúng sẽ vô tư phun ra cho bằng hết, kể cả những sự việc người nhớn muốn dấu diếm và che đậy.
Thế nhưng, ngày hôm nay, những nét đẹp này dần bị phai nhòa, thậm chí còn bị bôi xóa trong tâm hồn trẻ thơ. Vì thế, gã mới giám cả tiếng lại dài hơi mà la lên rằng :
- Tuổi thơ đã bị đánh cắp.
Vậy ai đã đánh cắp tuổi thơ của các trẻ nhỏ ?
Gã không phải là một chuyên viên về xã hội xã hiếc hay tâm lý tâm liếc gì cả, nên chả dám múa rìu qua mắt thợ, hay đánh trống qua cửa nhà sấm, mà chỉ xin mạo muội đưa ra một vài nhận xét thô thiển dựa vào những điều mắt thấy tai nghe mà thôi.
Tên trộm xa đánh cắp tuổi thơ chính là xã hội.
Thực vậy, nhìn vào môi trường sống hiện nay, gã thấy tình trạng đạo đức dường như đang xuống cấp hay tuột dốc không phanh. Nhan nhản khắp nơi những bạo lực, những gian tham, những đồi trụy…Trên báo chí và truyền hình, không ngày nào mà không có những vụ cướp bóc và trấn lột, xì ke và ma túy, cưỡng bức và hiếp dâm.
Trẻ nhỏ hôm nay không mấy đứa còn thích chơi những trò chơi dân gian. Chẳng hạn con giai thì chơi rồng rồng rắn rắn, chơi đánh khăng, chơi đánh núm, chơi thả diều…Con gái thì chơi chuyền, chơi trải gianh, chơi ô quan, chơi nhảy giây, nhảy cò cò…Nhưng lại có sẵn những trò chơi điện tử. Có đứa thay vì học bài, đã miệt mài ngồi bấm máy loạn cào cào hết giờ này qua giờ khác, như ngày xưa thiên hạ ghiền tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, đọc ngày quên ăn, đọc đêm quên ngủ vậy. Mà trò chơi điện tử thì nhan nhản những bạo lực, nào bắn súng, nào bỏ bom, nào triệt hạ tàu bay, tàu bò, tàu thủy. Và để ăn dỗ tiền của con nít, người ta khéo chế tạo ra những đồ chơi hấp dẫn chúng : nào kiếm, nào gươm, nào đao, nào chùy…Thôi thì đủ món ăn chơi, không thiếu một thứ gì sốt.
Chả thế mà trong những năm gần đây tại Việt Nam đã xảy ra những vụ học trò đấm đá thày cô và ở bên Mỹ đã xảy ra những vụ nhóc tì vác súng bắn nhau loạn cào cào nơi sân trường cũng như nơi công viên, đâu còn hình ảnh đứa bé của hòa bình nữa.
Thế nhưng thủ phạm chính, tên trộm gần đã đánh cắp tuổi thơ lại chính là gia đình và đặc biệt là cha mẹ.
Thực vậy, có những bậc cha mẹ luôn hục hặc, thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau, cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, rồi lôi nhau ra ba tòa quan lớn mà ly dị. Những đứa con bị hất ra ngoài đường, đi bụi đời, lang thang kiếm sống bằng những công việc nặng nhọc. Nếu may mắn còn được sống trong mái gia đình, thì cũng chẳng tìm thấy một tình yêu thương chăm sóc, Những em nhỏ bất hạnh này chẳng có được tuổi thơ. Và nếu có, thì cũng chẳng giữ được cho mình.
Tuy nhiên, phần lớn cha mẹ đã đánh cắp tuổi thơ của con cái mình với những hình thức giáo dục sai lạc.
Chẳng hạn có những đấng làm cha làm mẹ đã cố tình bôi xóa sự đơn sơ chân thật của con cái bằng cách dạy cho chúng gian tham. Một cô giáo đã tâm sự qua mục “triển lãm cách dạy con” của báo “Phụ nữ Chủ nhật” như sau :
“Chiều qua, trên đường đi làm về, nhìn thấy mấy hàng cam tươi bên hông chợ Phạm văn Hai, tôi bèn rẽ vào mua. Trước đó, một bà mẹ trẻ đón con trai từ trường mẫu giáo về cũng vừa ngồi trên xe Dream cúi xuống lựa cam cho vào bịch ny lông. Trong khi lựa, chị vô tình làm rớt một trái cam khá lớn xuống đất. Sau đó, thay vì nhặt trái cam lên, trả vào thúng cam của chị bán hàng, thì người mẹ này lại thản nhiên cho vào giỏ xe của mình sau khi bịch cam chị lựa đã được cân và trả tiền đầy đủ. “Mẹ ơi, đó là trái cam của cô bán hàng chớ mẹ ?” Cậu bé ngạc nhiên hỏi mẹ. Người mẹ trẻ không ngờ cặp mắt ngây thơ của cậu con trai đã kịp phán hiện ra…sự “lầm lẫn” của mẹ nó, nhưng chị lờ đi. Thằng bé tưởng mẹ không nghe thấy, khẽ giật vạt áo mẹ, hỏi lớn hơn : “Mẹ ơi, đó là trái cam của cô bán hàng bị rơi xuống đất, chớ có phải của mình đâu mà mẹ lượn lên cho vào giỏ xe hở mẹ ?” Bất ngờ, người mẹ quay lại, tát đánh “bốp” vào mặt con, vừa tức giận la lên : “Mày có câm miệng ngay đi không hả thằng khùng. Mắt mũi mày để đâu mà không thấy đó là cam trong bịch của mình bị rớt ra ngoài, mà còn cứ hỏi mãi.” Bị đánh oan, cậu bé ôm mặt, òa khóc nức nở. Chiếc xe Dream của người mẹ lao vút đi, nhưng tiếng khóc oan ức cùng câu hỏi chưa được giải đáp trong lòng cậu bé thì vẫn còn lưu lại trong tôi cho đến ngày hôm nay…”
Cũng có thể chính sự nghiêm khắc, thiếu cảm thông của cha mẹ đã đẩy con cái tới chỗ gian dối. Cũng trong mục “triển lãm cách dạy con” có một mẩu như sau :
“…Cách đây vài tháng, cháu gái tôi xin phép ba mẹ đi cắm trại hè với các bạn. Anh đồng ý cho cháu đi đến sáu giờ chiều. Hôm đó, sau khi cắm trại xong, trên đường trở về, các bạn rủ nhau đi ăn kem. Cháu tôi cảm thấy lo lo, nhưng nghĩ bụng : “Đã xin phép, chắc lỡ trễ một chút cũng không sao.” Và rồi cháu tôi vui với các bạn đến bảy giờ tối. Thế nhưng, đáp lại lời “Thưa ba, con mới về” là một cái tát như trời giáng vào mặt cháu. Sẵn tay, anh túm mái tóc dài của cháu và tay kia cầm kéo (đã chuẩn bị trước), “xẹt” một cái ngắn đến cổ, gần nửa phần tóc cháu. Mớ tóc đen mượt vội rơi xuống đất. Thế là từ đó, cháu gái tôi có một mái tóc “tém” rất “mô đen”. Và cũng từ đó, mỗi khi muốn cùng đi chơi, giải trí với các bạn, cháu tôi đều nói dối là đi học nhóm, hoặc mượn tập, vở…Chiều này, anh của nhỏ bạn cháu từ nước ngoài về, ngỏ ý “khao” các bạn của em một chầu hải sản tươi sống, cháu tôi buộc phải nói dối là cùng đi học nhóm. Thế mới được sự đồng ý của ba. Cháu nói nhỏ với tôi rằng : “ Chính ba cháu buộc cháu phải nói dối, cô ạ.” Tôi nghe mà không khỏi giật mình. Bây giờ thì cháu tôi chỉ nói dối những chuyện đơn giản, mai sau cháu sẽ quen dần, rồi chuyện gì sẽ xảy ra ? Còn cháu út, vì không có dịp tụ tập, vui chơi với các bạn, nên dần dà các bạn cô lập cháu với lý lẽ “có rủ nó cũng chẳng đi”. Theo thời gian, cháu út đã trở nên mặc cảm, chán nản và mặc dù trước mặt vẫn ngoan ngoãn, lễ phép, nhưng sau lưng đã bắt đầu tỏ thái độ “phản đối” ba.
Ngoài ra, còn có những bậc cha mẹ tập cho con cái mình thói bạo lực, vũ phu chi cục mịch.
Có lần gã được chứng kiến cảnh hai nhóc tì bịch nhau. Một đứa chạy về méc bố và ông bố đã làm quân sư quạt mo, vẽ đường cho hiêu chạy. Ông ấy đã phán với nó như sau :
- Mày cứ sang nhà nó, phết cho mó một trận. Mày mà không phết được nó thì về đây tao sẽ phết cho mày te tua.
Tương tự như thế, vào một buổi chiều người mẹ đón thằng bé học ở trường mẫu giáo, chị bỗng thảng thốt hỏi : “Sao lại trầy mặt như thế này ?” Thằng bé trả lời : “Bạn Hải cào mặt con”. Người mẹ liền quay hỏi cô giáo : “Hải là thằng nào vậy cô ?” Cô giáo trả lời : “Cháu Hải về rồi chị ạ, nhưng ban nãy cháu đã bị rầy và xin lỗi cu Bim rồi, xin chị đừng giận, các cháu chỉ đùa và lỡ tay một tí thôi mà. Không thể trút giận vào cô giáo, người mẹ quay ra quát thằng bé : “Sau ngu thế, mai mốt bạn nào cào con, thì con cứ cào lại nó, ai đánh mình, thì mình phải đánh lại gấp đôi cho nó sợ chứ, đứng yên ra đấy cho người ta cào cả mặt”. Dạy cho con đánh nhau như vậy quả là hết nước nói…”
Cha ông chúng ta thường bảo :
- Học ăn học nói, học gói học mở.
Trẻ nhỏ cần phải được học kể cả những cái đơn sơ và tầm thường nhất, thế nhưng nhiều bậc cha mẹ lại quên mất sự thật này, để rồi vô tình đẩy con cái vào những thói hư tật xấu. Một tác giả trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” cũng đã ghi nhận như sau :
“Một lần tôi tới nhà người bạn chơi, lúc đó mọi người trong nhà đang quây quần bên một đứa nhỏ chừng ba tuổi. Trông đứa bé mập mạp, trắng trẻo thật dễ thương, tôi đến gần và nựng bé, bỗng bé kêu lên : “Đ.M. mày”. Tôi thật ngỡ ngàng, nhưng mọi người trong gia đình ấy lại cười ồ và lặp lại cái từ xấu xa kia nhiều lần, như thể kích thích bé nói lại lần nữa.”
Gã bỗng nhớ lại một mẩu chuyện khác trong sách “Cổ học tinh hoa” như thế này :
Vợ thày Tăng tử đi chợ, thấy con khóc đòi theo, bà nói :
- Con ở nhà, rồi khi về, mẹ sẽ làm thịt heo cho con ăn.
Lúc vợ về, thày Tăng tử bèn bắt heo làm thịt. Thấy vậy bà vợ bảo :
- Mình chỉ đùa thôi.
Nhưng thày lắc đầu và nói :
- Đừng khinh trẻ thơ không biết chi. Cha mẹ làm gì thì con cái thường bắt chước làm theo. Nay mình nói dối con là mình đã dạy con nói dối rồi đó.
Nói xong, thày bèn đi làm thịt heo cho con ăn thật.
Nhưng thôi, viết nữa thì chỉ thêm buồn. Cùng với tiếng trống tập múa lân : Tùng tùng cắc tùng tùng… tùng tùng cắc tùng tùng…Xin hãy trả lại tuổi thơ cho con em chúng ta.
Sau khi viết xong bài “ông xã” với thói độc tài và độc đoán của mấy anh chồng cà chớn, gã cảm GãSiêu 150
Sau khi viết xong bài “ông xã” với thói độc tài và độc đoán của mấy anh chồng cà chớn, gã cảm thấy thơ thới hân hoan như vừa mới giải tỏa được nỗi u uất trong lòng, bởi vì từ rày mà đi, lỡ có vác cái bản mặt ra ngoài đường, thì cũng không sợ các bà các cô lườm nguýt vì tội hay nói dông nói dài, nói xỏ nói xiên về phe…ta.
Và thế là gã bèn tự thưởng cho mình một điếu thuốc lào, rồi lơ tơ lơ mơ, vểnh mấy cọng râu cá chốt mà suy gẫm chuyện đời. Đang lúc ngon trớn, “xì tốp” lại không kịp, nên chi gã bèn tiếp tục kể tội đờn ông với cái thói đào hoa phong…đòn gánh, chuyên môn dùng những lời đường mật, hay vung tiền dụ khị con gái nhà người ta làm…bồ nhí cho mình.
Hôm nay người ta không thể nào chấp nhận chủ trương :
- Trai năm thê bảy thiếp.
Trong khi đó :
- Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Thế nhưng, đối với xã hội ngày xưa thì đó lại là chuyện thường ngày ở huyện. Vì cớ làm sao lại xảy ra như thế ?
Vốn thuộc nòi “bần cố nông”, khố rách áo ôm, gã nhận thấy rằng nghề làm ruộng có nhiều công việc nặng nhọc, từ khâu dọn đất, xuống giống, cấy dặm và làm cỏ, đến khâu bón phân và xịt thuốc, từ khâu gặt hái, phơi phóng đến khâu dí bồ… Ngay cả việc bán lúa cũng cần tới những người khỏe mạnh để cân đo đong đếm.
Những công việc nặng nhọc này đòi hỏi phải có nhiều người, chứ chỉ một hay hai người thì không thể nào cáng đáng cho xuể. Mà muốn có nhiều người trong gia đình, thì phương cách bảo đảm và an toàn nhất, chính là lấy nhiều vợ.
Vì thế, các xã hội nông nghiệp ngày xưa vốn chủ trương đa thê, tạo thành một vòng tròn khép kín trong cái đại gia đình để của cải khỏi bị thất thoát ra người dưng nước lã.
Hơn thế nữa, nhiều khi thiên hạ còn đánh giá sự giàu sang và uy quyền cũng như cốt cách phong lưu của một người qua số vợ mà người ấy đã cưới, cũng như qua số thê thiếp mà người ấy đã “tậu”.
Cái khó là anh chồng phải làm thế nào để điều khiển được một nội cung toàn đờn bà con gái của mình, tránh đi những sự hờn ghen, lườm nguýt và cấu xé lẫn nhau, vì bà nào cũng chỉ muốn được lên ngôi “ái khanh” mà thôi. Vì thế, trong thiên hạ mới có câu :
- Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả.
Chuyện rằng :
Với một sinh lực dồi dào và với một thân thể cường tráng, năm bảy mươi ba tuổi, Nguyễn công Trứ vẫn còn cưới nàng hầu. Và ông có tất cả mười bốn bà vợ.
Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi, ông đã chẳng ngần ngại đáp :
- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam. Nghĩa là năm mươi năm về trước, anh mới chỉ có hai mươi ba tuổi hà.
Còn hôm nay, với phong trào giải phóng phụ nữ, đờn bà con gái đòi bình đẳng với đờn ông con giai, thậm chí còn muốn lấn sân, vượt lên trên theo kiểu qua mặt không cần bóp còi :
- Ba đồng một chục đờn ông,
Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.
Ai ngờ dây đứt, lồng rơi,
Nó bò lổm ngổm mỗi nơi một thằng.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xóa bỏ tập tục đa thê, đồng thời chủ trương chế độ một vợ một chồng , nên chị em phụ nữ thường thỏ thẻ, tỉ tê tâm sự mí nhau :
- Chém cha cái kiếp chồng chung.
Hay :
- Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.
Tuy nhiên, luật là một chuyện, còn lệ lại là một chuyện khác. Và nhiều khi :
- Phép vua thua lệ làng.
Vì thế cho nên vẫn có những chuyện lôm côm trong lãnh vực này, mặc dù luật hôn nhân và gia đình của các dân các nước đề hết sức rõ ràng và minh bạch.
Tới đây, gã xin ghi lại một vài mẩu chuyện tưởng như đùa mà lại hóa ra có thật ở Việt Nam trong những ngày gần đây, đã được báo Công An đăng tải.
Chuyện thứ nhất, đó là hợp đồng xin làm…vợ.
Cách đây bảy năm, T. là một cô sinh viên từ Quảng Ngãi vào học đại học Kinh tế tại Thành phố Hồ chí Minh. Chỉ sau một thời gian ngắn, T. quen với P. (do môi giới của một chủ quán cà phê), một cán bộ đã ngoài bốn mươi tuổi, nhưng trông còn dáng vẻ trai trẻ và tỏ ra thông cảm với cô nữ sinh viện đang gặp khó khăn về cuộc sống vật chất. Thế là lần gặp sau, P. chẳng ngần gại đưa ngay cho T. bản hợp đồng xin…làm vợ được qui định như sau :
Suốt bốn năm đại học, T. và P. chung sống với nhau như vợ chồng. P. sẽ đài thọ từ A đến Z về mọi chi phí để học tập. Riêng T. phải phục vụ chu tất cho P. như một người vợ thực sự, nhưng không để xảy ra chuyện có con và trong thời gian này, T. không được phép có bạn trai. Nếu không thực hiện đúng các điều trên, P. sẽ cắt hợp đồng trước hạn.
Thế nhưng, để có cuộc sống an nhàn ăn học mà chẳng mất mát gì (?), T. nghĩ cuộc sống thật giản đơn về chuyện suốt bốn năm trời, mặc dù phải chung sống với một người đàn ông lừa lọc, nên đã đồng ý với hợp đồng.
Suốt bốn năm đèn sách với cuộc sống bất đắc dĩ để đổi lấy tấm bằng đại học Kinh tế loại trung bình, đến khi T. tỉnh ra thì mọi chuyện đã rồi. Và T. hết sức đau đớn khi biết mình không còn khả năng làm mẹ, bởi suốt thời gian chung sống với P. do phải thực hiện đúng hợp đồng nên T. đã nhiều lần đi phá thai.
Chuyện thứ hai, đó là góp vàng xin…làm vợ bé.
Cách đây mấy năm, một hôm đang đi trên đường, cô Út, ngụ tại Bến Tre, chẳng may bị choáng váng và không còn biết gì nữa. Khi tỉnh dậy, mới hay mình đang nằm trong bệnh viện là nhờ một người khách tốt bụng có tên là NVT đưa cô tới đây.
Năm đó cô Út đã ngoài ba mươi tuổi. Khi cha mẹ qua đời để lại cho cô một tài sản nho nhỏ, song nhờ biết cách làm ăn nên đã tạo được một cơ ngơi khá ổn định. Trong lần tai nạn này, cô luôn “biết ơn” anh T. vì đã khổ công giúp đỡ cô.
Vì vậy, trong nhiều lần thiếu vốn làm ăn, cô Út sẵn lòng trợ giúp và tình cảm nẩy sinh ngày càng sâu đậm. Cho tới một ngày, cả hai quyết định phải có cuộc họp mặt cùng gia đình T. để phân trần.
Trong cuộc hội ngộ, cô Út thưa :
- Thưa mẹ, thưa chị (mẹ và vợ anh T.), con và anh T. lỡ thương nhau…Con biết phận mình nên chấp nhận làm vợ nhỏ. Con xin đóng góp hai cây vàng để lo chuyện nhà cửa…
Sau đó, cả nhà cùng vui vẻ bên mâm cơm tác hợp thêm một “thành viên” của gia đình.
Thế rồi, một thời gian dài họ vẫn sống êm ấm giữa hai người đàn bà cùng một tấm chồng. Nào ngờ mới đây bỗng nhiên chị T. đòi lại chồng (!), anh T. tuyên bố bỏ cô Út để về với “vợ ruột” và không chịu “lỗ vốn” nên cô Út cũng nổi sung đòi lại hai câyvàng.
Mọi chuyện khi vỡ nhẽ thì cả ba đều vi phạm luật hôn nhân gia đình, riêng cô Út có lẽ là người đau nhất.
Chuyện thứ ba, đó là tờ ly hôn có…hai bà vợ cùng ký.
PHV, ngụ tại Đồng nai, cưới vợ là LTT vào năm 1986. Thời gian sau, T. sinh con đầu lòng. Em gái T. tên là LTH, đến ở giúp đỡ chị gái lúc sanh nở. Ai dè chị T. vừa cứng cáp thì H. bỗng có thai. Chị T. truy hỏi mãi, H. mới thú nhận hậu quả này do quan hệ với anh rể. Thế là chị T. đành phải chấp nhận cuộc sống một chồng, hai vợ với V. và H.
Từ đó, V. làm chồng còn sung sướng hơn cả làm…vua. Chị em T. và H. tha hồ làm lụng vất vả để cung phụng cho V. Vậy mà nào có được yên. V. luôn đánh đập ngược đãi hai bà vợ bất cứ lúc nào anh ta cảm thấy không hài lòng.
Đầu năm 1999, hai chị em bị hành hạ đến độ không còn chịu nổi, bèn hè nhau cùng viết đơn xin ly hôn với V.
Những truờng hợp hi hữu kể trên phải chăng chỉ là những tia nắng cuối cùng còn sót lại và lóe lên khi hoàng hôn đã buông xuống, hay chỉ là một thoáng âm ấm trước khi đi vào giá lạnh bóng đêm theo kiểu mặt trời lặn nhưng sức nóng vưỡn còn.
Chế độ đa thê đã bị cấm tiệt, nhưng xem ra một vài “cụ trong rân” vưỡn còn tiếc xót cho “thời oanh liệt” nay còn đâu và thế là những cụ ấy tìm cách luồn lách mà đèo bòng vợ nọ con kia. Vì thế, trong dân gian mới nảy sinh ra hai tiếng “bồ…nhí”.
Mấy anh lơ xe đò, sáng tỉnh này chiều tỉnh kia và để lấp đầy khoảng trống trong lúc chờ tài, bèn kiếm thêm một cô bồ nhí để được chiều chuộng và chăm sóc, thành thử vợ cả một nơi, còn bồ nhí một nẻo. Nếu không bị phát giác và đổ bể, thì lúc nào anh ta cũng oang oang ngoác mồm ra mà thề sống thề chết mí đầu gối rằng :
- Mình lúc nào cũng trung thành, cũng thủy chung quá cỡ thợ mộc.
Sở dĩ như vậy vì lúc này và ở đây anh ta chỉ có một bà mà thôi. Vì thế thiên hạ bèn gọi cái sự một vợ một chồng của mấy anh lơ xe đò là :
- Nhất phu nhất phụ, mỗi mụ một nơi.
Còn những ông Việt kiều, vì đồng Mỹ kim rất có giá ở đất nước nghèo túng này, nên với một dúm đô la trong tay, ông ta có thể tiêu xài vung vít, mặc sức thỏa mãn những thói hư tật xấu của mình. Với sức hấp dẫn của những tờ giấy bạc màu xanh ấy, ông ta có thể kiếm cho mình không phải một mà là dăm ba cô bồ nhí một lúc cũng dễ như trở bàn tay vậy.
Chính cụ chủ nhiệm đã từng cả tiếng lại dài hơi mà than van với gã và gã cũng đã từng bật mí cho bàn dân thiên hạ trong bài về “bà xã” như sau :
“Ở Thụy sĩ cũng như ở các nước Âu Mỹ nói chung, các đấng ông chồng mày râu thường về Việt Nam chim chuột…lang chạ hay kiếm đại bà vợ bé nào đó để dành, lâu lâu vừa trở lại thăm quê hương, vừa đi nghỉ hè, lại vừa có sẵn của xài mà vợ con không mấy khi hay biết.”
Chẳng hiểu lời than thở trên đây có bi quan lắm không ? Và nếu có đúng, thì đúng được bao nhiêu phần trăm ? Chắc chỉ có mình Đức Chúa Trời phép tắc và thông suốt vô cùng thì mới biết được mà thôi.
Còn ở trong nước, ngoài cái kiểu “nhất phu nhất phụ mỗi mụ một nơi” của mấy anh lơ xe, thì một vài vị quan chức và dân mánh mung, thừa tiền nhưng lại thiếu đạo đức, được lúc ăn no rửng mỡ cũng vơ đại cho mình một cô bồ nhí để trang trí cho cuộc đời, cũng như để đáp ứng những đòi hỏi của con lợn lòng.
Vậy thế nào là bồ nhí ?
Theo sự suy luận thô thiển của gã, thì trước hết bồ có nghĩa là phe cánh, chẳng hạn như khi đánh bạc, người ta thường cặp bồ, hay bắt bồ mí nhau.
Còn trong ngôn ngữ dân gian,thì bồ có nghĩa là bạn thân. Riêng trong mối liên hệ giữa đờn ông và đờn bà, giữa con giai và con gái, bồ còn có nghĩa là người tình hay người yêu.
Tiếp đến là chữ nhí. Nếu gã không lầm thì chữ nhí, dưới một góc cạnh nào đó, cũng đồng nghĩa với chữ nhỏ.
Hồi học lớp đệ ngũ, trong lớp của gã có hai cô nường tên là Thủy. Một cô thì “ăn gì to lớn đẫy đà làm sao”, còn một cô thì ngược lại, mai cốt cách tuyết tinh thần, vừa thấp, vừa bé, lại vừa ốm tong ốm teo. Cô nường này mà leo qua cầu khỉ chắc chắn sẽ bị gió thổi bay và nếu có đi thi sắc đẹp, thì thế nào cũng ẵm được cái vương niệm “hoa hậu tăm tre Việt Nam”.
Và để phân biệt, thiên hạ đã đặt cho mỗi cô nường một cái…hỗn danh.
Với cô nường to lớn đẫy đà, thiên hạ gọi đó là :
- Thủy…tồ.
Còn với cô nường hoa hậu tăm tre Việt Nam, thiên hạ bảo đó là :
- Thủy…nhí.
Lê văn Đức trong “Việt Nam Tự điển” còn chua thêm một nghĩa nữa cho chữ nhí, đó là lẳng lơ và liến xáo. Chẳng hạn nhí nhảnh có nghĩa là lẳng lơ, hay se sua quần áo, sửa sang điệu bộ cốt được nhiều người để ý đến.
Gã nhận thấy quan hệ tình cảm giữa con giai và con gái, giữa chàng và nàng được phân ra từng hồi.
Hồi thứ nhất, từ gặp nhau rồi đến yêu nhau. Và khi đã chịu đèn và thương nhau, thì người ta lập tức liền có bồ, có người tình hay có người yêu. Còn nói theo kiểu phim nhiều tập Hồng Kông, thì người ta có bạn giai hay bạn gái.
Hồi thứ hai, từ yêu nhau rồi đến lấy nhau. Và khi đã lấy nhau, thì người ta nghiễm nhiên trở thành anh chồng hay chị vợ, ông xã hay bà xã, ngoài ra còn một lô những danh xưng khác người ta gán cho nhau tùy theo mức độ tình yêu còn mặn nồng hay đã phai lạt. Thí dụ như :
- Mình ơi ! Đằng ấy ơi !
Hay :
- Cái con mụ kia hở !
Hồi thứ ba, từ lấy nhau rồi đến sinh con đẻ cái, người ta bỗng dưng được thăng cấp, được lên đời, trở thành cha thành mẹ, thành ba thành má, thành bố thành…bầm. Trong hồi này, người ta cũng thường gọi nhau bằng những danh xưng tùy mức độ đậm nhạt của tình yêu.
Thí dụ như :
- Bố thằng cu…Mẹ cái đĩ.
Hay :
- Cha tiên sư cái con mẹ mày.
Ngoài ba hồi chính của chuyện tình trên đây, thỉnh thoảng gã cũng ghi nhận được một hồi phụ. Hồi phụ này thường nằm lửng lơ con cá vàng đâu đó trong hồi thứ ba, nghĩa là sau khi đã lấy nhau, đã sinh con đẻ cái, bỗng dưng anh chồng dở quẻ, thiết lập “deuxième bureau”, tiếng phú lãng sa có nghĩa là phòng nhì.
Tuy nhiên, không phải chỉ phòng nhì mà thôi, đôi khi còn có cả phòng ba, phòng bốn…Cũng không phải chỉ có V2 mà thôi, đôi khi còn có cả V3, V4…nữa. Những kẻ đi “tình tang” như thế được thiên hạ gọi là có…mèo, hay có bồ…nhí.
Như có lần gã đã phân phô cùng bàn dân thiên hạ : có bồ, có người tình hay có người yêu thì khác với có mèo hay có bồ nhí. Bởi vì loại có trên thường là công khai, hợp pháp, mang nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi, còn loại có dưới bao giờ cũng thầm lén vụng trộm, chui lủi và bất hợp pháp.
Trong một cuộc đấu láo vung vít mí nhau tại câu lạc bộ “bồ nhí”, mấy ông to gan lại bạo phổi, thiết lập phòng nhì, đã vuốt chòm râu dê của mình mà xuất khẩu thành thơ.
Ông thì ngâm nga :
- Vợ là địch,
Bồ bịch mới là ta.
Khi chiến sự xảy ra,
Ta buộc về với địch,
Nằm trong lòng địch,
Ta vẫn nhớ đến ta.
Có ông lại cười khà khà mà ví ví von von. Coi vợ là cơm và bồ nhí là phở :
- Sáng,
Chở cơm (vợ) đi ăn phở.
Trưa,
Chở phở (bồ) đi ăn cơm.
Chiều,
Cơm về nhà cơm,
Phở về nhà phở.
Tối,
Nằm với cơm,
Mà vẫn mong về phở.
Hai mẩu thơ trên dĩ nhiên không phải của gã phệu ra đâu, nhưng là của một tác giả tên là Duyên Trường, được đăng trên tờ báo Phụ nữ Chủ nhật. Gã xin thanh minh thanh nga như thế để khỏi bị mang tội “thuổng văn” thiên hạ.
Nói về những hậu quả do bồ nhí đem lại, thiết tưởng không cần bàn rộng tán dài làm chi, bởi vì cả và thiên hạ đều đã hay biết. Gã chỉ xin tóm gọn vào mấy chữ T sau đây.
Trước hết là tốn tiền.
Thực vậy, cô bồ nhí nào cũng biết cái vị trí và thân phận bấp bênh của mình, nên phải nhanh tay lẹ con mắt, vơ vét về càng nhiều càng tốt, kẻo khi chiến tranh bùng nổ, xẻ nghé tan bầy, thì cũng có được tí chút làm vốn, đảm bảo cho tương lai hậu vận.
Vì thế, cô nường lúc nào cũng nhõng nhẽo và vòi vĩnh, đòi cái này, xin cái kia…từ cái tổ uyên ương đến những chi phí hằng ngày. Và trong lúc máu hào hoa phong nhã nổi lên đùng, anh đờn ông chỉ biết chi và cho mà thôi. Tiền bạc cứ tiếp tục đội nón ra đi. Và lỡ túng thiếu, anh đờn ông sẵn sàng bán trời không văn tự chứ nói gì đến biển thủ công quĩ.
Tiếp đến là tan tình.
Anh đờn ông một khi đã có bồ nhí, thường có hai thái độ. Một là tỏ ra cưng chiều chị vợ để che dấu và lấp liếm tội lỗi của mình. Hai là tỏ ra vũ phu, luôn chửi bới và đánh đập vợ con để có nhiều dịp chuồn đi mà hú hí mí bồ nhí. Nhưng làm sao dấu mãi cho được bởi vì cái mũi của chị vợ sẽ rất thính trong những tình huống như thế.
Một khi chuyện tình dan díu bị bại lộ, thì tình yêu chị vợ dành cho anh chồng sẽ vỡ tan thành từng mảnh, rất khó mà hàn gắn, bởi vì nó đã khoét sâu trong lái tim chị vợ một vết thương lòng không thể nào cứu chữa. Và nếu có hàn gắn, có cứu chữa được phần nào, thì nó cũng khập khiễng, chổng chểnh như cầu ba chân.
Cổ nhân đã từng diễn tả :
- Cốc nước đổ xuống đấât làm sao hốt lại cho đầy.
Sau rốt là tiêu tùng tất tật.
Bản thân đương sự sẽ bị thân bại danh liệt, bằng không thì cũng bị một phen hú vía. Biết bao chính khứa mất chức vì đã tòm tem mí bồ nhí, thậm chí chả còn mặt mũi nào để về nhà đuổi gà cho vợ bởi vì lúc ấy làm gì còn có vợ, và nếu còn thì chị vợ cũng chẳng dễ gì mà chấp nhận…cho tái hồi mà đuổi gà.
Gần đây nhất là vụ tổng thống Bill Clinton nước Cờ hoa đã lẹo tẹo với cô thư ký tập sự tại Nhà Trắng tên là Monica Lewinsky. May mà ông tổng thống này cứng tướng nên mới vượt qua cửa ải một cách khó khăn và vất vả, toát cả mồ hôi hột. Nếu có dịp, gã sẽ điểm qua những khuôn mặt chính khứa nổi cộm từ đông sang tây, từ cổ chí kim…đã ngã ngựa chỉ vì những chuyện tình còm như thế.
Gia đình của đương sự sẽ bị gẫy đổ. Chị vợ cắn răng chịu đựng mãi cũng không ổn. Kéo quân gia tới đánh ghen một cách ồn ào cũng không xong. Còn ông ăn chả bà ăn nem, chị vợ cũng đi tìm một bờ vai để tựa đầu, hay một giải tình còm để vắt vẻo ngang lưng, bù lỗ cho những giây phút trống vắng thì cũng chẳng ra làm sao.
Và nếu lôi nhau ra ba tòa quan lớn để ký vào đơn ly dị, thì gia đình lập tức sẽ tiêu tùng và phần thiệt hại sẽ nằm về phía con cái. Bởi vì, kể từ lúc bố một nơi, mẹ một nẻo, con cái có hai nhà nhưng rốt cuộc chẳng có được một mái ấm dung thân.
Vậy đâu là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này ?
Nguyên nhân thứ nhất đó là bổn tính anh đờn ông vốn hướng tới chị đờn bà. Phải chăng đây là một quy luật mà Đấng Tạo hóa đã khắc ghi vào thiên nhiên cũng như vào lái tim con người. Như hai cực âm và dương thu hút nhau thế nào, thì đờn ông và đờn bà, con giai và con gái cũng thu hút nhau như vậy.
Vì thế, tục ngữ đã bảo :
- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con.
Cộng thêm vào đó là cái thói hào hoa phong đòn gánh, cứ thích của lạ nên cắm đầu cắm cổ nhào vô, như con thiêu thân lao mình vào lửa :
- Đờn ông những bảy lá gan,
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.
Rồi vợ mình không khen lại cứ nhè vợ thiên hạ mà khen theo kiểu : Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Thế mới rách việc.
Bởi đó, hỡi những anh chồng đèo bồng bồ nhí, hãy can đảm đấm vào ngực mình mà rằng :
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…
Tuy nhiên, đôi lúc chị vợ đã vô tình hay cố ý đẩy anh chồng vào con đường tội lỗi mà cũng chẳng hay.
Thí dụ mỗi khi anh chồng đi làm về, vừa bước chân vào nhà, đã lập tức nghe thấy những tiếng quát tháo của chị vợ :
- Sao về trễ thế, hẳn lại đi nhậu ở đâu chứ gì ?
- Con cái chi mà lì như trâu, nói hoài cũng không chịu nghe…
Rồi lại còn áo quần xốc xếch, tóc tai luộm thuộm…Chị vợ đã đánh mất cái duyên dáng, cái dịu dàng thưở nào, để lộ rõ cái bản mặt bà la sát, nói dài nói dẻo nói dai nói day nói dứt…Và như thế, gián tiếp khuyến khích anh chồng đi tìm sự “tươi mát” ở một nơi khác.
Trên một số báo Phụ nữ Chủ nhật, tác giả Minh Huê đã sánh ví cuộc đời là chiến trường, còn vợ hiền là hậu phương. Anh lính từ chiến trường trở về cốt chỉ mong được thấy một hậu phương thanh bình để nghỉ ngơi. Còn nếu hậu phương mà cũng đầy khói lửa thì…thảo nào…chả trách.
Gã xin ghi lại nơi đây những dòng thơ của tác giả trên để thay cho lời kết luận :