Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Chuyện kể cho các gia đình - Sách 10

Thứ ba - 12/07/2022 03:33
Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Chuyện kể cho các gia đình - Sách 10
Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Chuyện kể cho các gia đình - Sách 10
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)


CHUYỆN MẸ GHẺ CON CHỒNG

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/


---------------------------------

- Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------
Mục Lục

Bài 1: CHUYỆN MẤT CHÚA HÀI ĐỒNG ĐÊM GIÁNG SINH.. 2
Bài 2: MÓN QUÀ GIÁNG SINH LẠ LÙNG.. 6
Bài 3: CHUYỆN NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ.. 10
Bài 4: CHUYỆN MẸ GHẺ CON CHỒNG.. 15
Bài 5: CHUYỆN MỘT ƠN GỌI 17
Bài 6: CÂU CHUYỆN ĐỔI ĐỜI 23
Bài 7: CHUYỆN NGƯỜI MẸ MỘT MẮT.. 28
Bài 8: LỜI TÂM SỰ CỦA HÒN ĐÁ CUỘI 35
Bài 9: MỘT ƠN HOÁN CẢI THẬT DIỆU KỲ.. 37
Bài 10: CHUYỆN MỘT ÔNG VUA THỜI XƯA.. 43
Bài 11: NHỮNG NÉT ĐẸP CỦA ĐỜI LINH MỤC.. 46
Bài 12: SỰ HỐI HẬN MUỘN MÀNG.. 50
Bài 13: SỰ TÍCH CON CHUỘT.. 53
Bài 14: CHUỘT NHÀ VÀ CHUỘT ĐỒNG.. 56

----------------------------

 

Bài 1: CHUYỆN MẤT CHÚA HÀI ĐỒNG ĐÊM GIÁNG SINH


(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 320)

Bạn thân mến,

Vào buổi tối đêm 24 tháng 12 vừa qua, có một sự cố đã xảy ra tại nhà thờ giáo xứ của tôi, đã làm xôn xao náo động mọi người.

Số là gần đến giờ lễ nửa đêm, thì ông từ nhà thờ phát hiện ra, tượng Chúa Hài Đồng ở hang đá trong nhà thờ, đã bị mất cắp.

Lúc bấy giờ ở sân nhà thờ, số người có đạo và không có đạo, đã qui tụ rất là đông, ở quanh các hang đá và ở các điểm trang trí chung quanh nhà thờ. Mà các cửa nhà thờ thì vẫn chưa mở. Bởi theo lệnh của Cha Sở, thì sát gần giờ lễ, các cửa nhà thờ mới được mở ra cho người ta vào, để tránh sự ồn ào, mất trật tự và thiếu trang nghiêm trong nhà thờ trước giờ lễ.

Khi nhìn vào hang đá, thì mọi người nhìn thấy các mục đồng vẫn còn nguyên. Các súc vật vẫn trong tư thế trang nghiêm thờ lạy Chúa. Còn Thánh Giuse và Mẹ Maria cũng rất cung kính cúi nhìn xuống máng cỏ. Chỉ có Chúa Hài Nhi là không còn nữa.

Về phần ông từ, thì ông đã khẳng định rất chắc chắn, là cách đây khoảng 10 phút, tôi có chỉnh sửa lại một vài bóng đèn chớp quanh Chúa Hài đồng, thì không thấy có gì khác thường.

Ông còn xác nhận: Từ nãy đến giờ, ngoài tôi ra, tôi cũng không hề thấy có bóng dáng một ai khác lai vãng trong nhà thờ này. Cho nên việc mất Chúa Hài Đồng, phải nói là một chuyện rất là lạ. Đối với ông, đúng là một chuyện không thể hiểu nổi.

Nhưng có một điều còn lạ hơn nữa, là ông từ đề nghị với Cha sở, là xin mang một tượng Chúa Hài Đồng ở một hang đá ngoài nhà thờ, đưa vào hang đá trong nhà thờ để thay thế, nhưng Cha lại không đồng ý. Cha bảo: Cứ để nguyên sự mất mát như vậy.

Trong thánh lễ đêm hôm đó, Cha Sở, với một giọng nói vừa mạnh, vừa run run vì xúc động. Cha thông báo cho cộng đoàn biết, là tượng Chúa Hài Đồng trong Hang Đá nhà thờ vừa bị mất cắp.

Cha giải thích cho mọi người rõ, về tính chất nghiêm trọng của hành vi đánh cắp này. Cha coi việc đánh cắp tượng Chúa Hài Đồng là một trọng tội, là một hành vi phạm thánh.

Rồi cuối cùng, từ trên tòa giảng, Cha tuyên bố rất dứt khoát, và tỏ ra rất giận dữ. Cha nói: "Tượng Chúa Hài Đồng, phải được mang trả lại nội trong đêm nay".

Rồi, trong các thánh lễ kế tiếp của ngày hôm sau, ngày chánh lễ 25/12, Cha Sở vẫn tiếp tục lập đi lập lại mệnh lệnh này, nhưng không thấy có hiệu quả gì. Máng cỏ vẫn còn trống trơn.

Suốt cả ngày lễ Giáng Sinh, Cha Sở cảm thấy không vui. Ngài như người mất thần. Bởi Ngài rất buồn vì sự việc đã xảy ra.

Mà Cha Sở buồn, nên cả Giáo xứ cũng buồn theo vì sự kiện này. Bầu khí của lễ Giáng Sinh không còn phấn khởi như mọi năm. Đi đâu, làm gì, dù ở chợ, dù ngồi bên mâm cơm, ai ai cũng đều bàn tán chỉ có một sự kiện duy nhất này thôi, đó là chuyện Chúa Hài Đồng đã bị mất tích.

Vào khoảng giữa chiều hôm chánh lễ, bỗng Cha sở trông thấy có một em bé, khoảng khoảng 6-7 tuổi, được những người lớn dẫn tới. Tay em, lại kéo theo một toa xe lửa xinh xinh mới toanh.

Khi đến gần, Cha Sở tỏ ra phẩn nộ thật sự, bởi trông thấy tượng Chúa Hài Đồng đã bị mất cắp, lại đang nằm trong toa xe lửa của em.

Em bé đã bị những người lớn ở nhà làm cho sợ hãi. Bây giờ gặp Cha sở, em lại càng cuống cuồng thêm.

Thấy vậy, Cha Sở dịu giọng, tỏ ra thân thiện, và để cho em bình tĩnh trả lời những câu hỏi của Cha.

Thì ra, để chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh năm nay, em đã nhịn ăn sáng từ nhiều tháng qua, để có tiền, mà mua cho được chiếc xe lửa này.

Em nói tiếp:

Thưa Cha, con rất thích chiếc xe lửa này từ lâu lắm rồi. Và mỗi khi qua lại siêu thị, con thầm ước mong làm sao có tiền để mua nó cho được.

Nhưng vì nhà nghèo, nên con không có tiền mua ngay, lại cũng không dám xin tiền ba mẹ để mua đồ chơi. Mãi cho đến gần lễ Giáng Sinh, tiền con để dành mới vừa đủ để mua nó.

Và đây cũng ước nguyện của con đã nói với Chúa từ nhiều tháng qua, mỗi khi đọc kinh xem lễ ở nhà thờ, cũng như những lúc con đọc kinh tối sáng tối ở gia đình, là khi nào con mua được chiếc xe lửa này, thì con xin mời Chúa hãy là “vị khách đầu tiên” cho chiếc xe lửa của con.

Chúa đã nhậm lời con. Con đã mua được chiếc xe. Nên con phải giữ lời hứa với Chúa.

*****

Sau khi nghe em trình bày, Cha Sở không biết phải nói làm sao, bởi những hy sinh cố gắng của em để chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh trong nhiều tháng qua, quả là quá lớn.

Nhất là tâm hồn của em rất đơn sơ trong trắng trong hành vi này. Em nghĩ sao, là em làm như vậy, theo những suy nghĩ rất đơn sơ và cũng rất đơn giản của em.

Dầu sao Cha Sở cũng ôn tồn giải thích cho em về những cái sai, những cái không đúng của em trong việc làm này.

Em xin lỗi Cha. Và em bồng Chúa Hài Đồng lên trao trả lại cho cha. Và em cũng không quên cám ơn Chúa Hài Đồng, vì Chúa đã đồng ý làm vị khách đầu tiên của chiếc xe lửa của em.
------------------------

Bạn thân mến,

Câu nguyện ông già Noel, trên chiếc xe nai, chở đầy ấp quà Giáng Sinh, đi rảo khắp các nơi, để phân phát quà cho các em thiếu nhi ngoan hiền, chăm học, bên phương trời tây, chỉ là niềm ước mơ thèm thuồng cho các trẻ em thiếu nhi bên Việt Nam.

Bởi ở Việt Nam, Cha Mẹ chưa có thói quen tặng quà cho con cái mình dịp Lễ Giáng Sinh.

Tuy mọi người công giáo đều biết, lễ Giáng Sinh là ngày Tết của các em thiếu nhi.

Nhất là các cha mẹ cũng đều biết, là cách phát quà, qua truyền thuyết ông già Noel, đã là một cách rất hay để giáo dục, để dạy dỗ, để hướng dẫn con cái mình, nhưng rất ít gia đình đã biết dùng phương thức này.

Dầu sao, thì em bé trong câu chuyện của chúng ta, đã phấn đấu, tự mình, tìm cho mình một món quà, để đón rước Chúa đến thăm, cũng rất đáng là cho chúng ta suy nghĩ.

Tuy việc làm của em rõ ràng là sai, rất là sai, nhất là việc luồng lách ẩn núp trong nhà thờ để làm sao có thể lấy cắp cho được tượng Chúa, chứng tỏ việc làm không lương thiện, không ai chấp nhận được, không ai được phép bắt chước.

Nhưng tâm tình của em và những chuẩn bị của em để đón rước Chúa, phải nói là có chất lượng để chúng ta suy nghĩ.

Bởi Chúa đã đến rồi, mà sao tâm hồn của chúng ta, là những người lớn, vẫn còn trống rỗng, vẫn còn lạnh tanh, vẫn còn khô khan, chưa thấy có một cảm nghiện nào do việc Chúa đến thăm chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng,
xin cho tâm hồn của con, được trở nên như những trẻ nhỏ, để con dễ dàng tiếp cận với Chúa, để con biết tích cực hơn và có nhiều sáng kiến hơn, trong việc đón rước Chúa, nhất là mỗi khi rước lễ, để con có thể nếm cảm được tình Chúa yêu con, qua việc Chúa đã bỏ trời xuống trần gian này, hòa mình sống với con. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=tCm54sscps4&t=2s

--------------------------------------

 

Bài 2: MÓN QUÀ GIÁNG SINH LẠ LÙNG


(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 322)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Vào ngày 03-12-1989, tại đảo Malta, là một đảo quốc, nằm giữa Địa Trung Hải, đã diễn ra một cuộc họp thượng đỉnh, giữa hai nhà lãnh đạo siêu cường Nga và Mỹ.

Trong cuộc họp này, tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã trao tặng cho chủ tịch Liên Sô Mikhail Gorbachev, một món quà Giáng Sinh rất lạ lùng, đó là một viên gạch rất cũ kỷ. Bên trên viên gạch đó, có vẻ một biểu tượng hòa bình, với những đường vẻ thật nham nhở, với màu nước sơn đã loang lỗ.

Có người thắc mắc:

Tại sao một viên gạch trơ trụi, loang lỗ, nham nhở, tầm thường đến như vậy, mà Tổng Thống Mỹ, lại dám trao tặng cho một lãnh tụ siêu cường, trong dịp lễ Giáng Sinh?

Thế nhưng, đối với những người am tường hiểu biết, thì mới thấy được những giá trị lớn lao phi thường, của viên gạch tầm thường này.

Bởi viên gạch này, chính là viên gạch đã được lấy ra từ bức tường Bá Linh vừa mới sụp đổ cách đó hai tháng.

Đây là viên gạch đánh dấu một khúc ngoặc mới của lịch sử, kết thúc một thời kỳ chiến tranh lạnh, kéo dài đã quá lâu.

Bởi cũng từ Hội Nghị này, hai siêu cường đã đồng ý giải trừ vũ khí nguyên tử, và cùng nhau hợp tác xây dựng hòa bình.

Do đó, món quà Giáng Sinh tuy có mộc mạc, nhưng lại ẩn chứa nỗi khát vọng hòa bình của con người, của cả nhân loại.

Viên gạch này, có thể được coi là một nhịp cầu, nối kết hai siêu cường, mở ra một thời kỳ mới:

- Từ đối đầu, đến đối thoại.
- Từ nghi ngờ đến cộng tác.
- Từ thù địch đến thân hữu.


Từ đây, hòa bình không chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là ngưng tiếng súng, mà hòa bình đã là hoa trái của những tâm hồn thành tâm, thiện chí, và biết cùng nhau hợp tác xây dựng những bước đi lên cho nhân loại, nhằm đem lại hạnh phúc cho con người.

*********

Bạn thân mến,

Đã hơn hai ngàn năm nay, nhân loại cũng đã nhận được từ Trời cao, một món quà mộc mạc đơn sơ tương tự như thế.

Nhưng giá trị của món quà này, phải nói là rất to lớn, phải nói là quá phi thường, đó là Bé Hài Đồng Giêsu, Con Thiên Chúa từ trời cao, giáng sinh xuống thế làm người, sinh sống như con người, sinh sống giữa con người.

Ngài đến trần gian trong âm thầm, không tiếng kèn, không tiếng trống.

Điểm đầu tiên Ngài đặt chân tới, đó là hang bò lừa ở Bêlem, thuộc nước Do Thái.

Nơi Ngài chọn để sinh ra là giữa đồng không mông quạnh, không có nhà cửa, không có nơi trú trọ.

Dấu chỉ duy nhất, để người ta có thể nhận ra Ngài, đó là:

“Một con trẻ sơ sinh, bọc trong tấm tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2, 12).

Một Đấng Tối Cao quyền năng, từ trời xuống, lại chấp nhận thân phận một con người, tầm thường, giới hạn, mong manh, và yếu đuối đến như vậy.

Ngài cũng đã được cưu mang trong dạ mẹ 9 tháng 10 ngày. Và đã được sinh ra một cách bình thường, như bao con trẻ sơ sinh khác.

Tuy là Con Thiên Chúa,

- Nhưng Ngài đã không sinh ra tại chính mái nhà thân yêu của mình ở Nazarét.
- Ngài đã không chọn cho mình một căn phòng trú trọ tử tế hơn ở Giêrusalem, hay ở Bêlem, như những lữ khách bình thường khác, để sinh ra.
- Ngài bị chối từ, bởi gia cảnh của Ba Mẹ Ngài quá nghèo, nên không đủ chi trả cho một chỗ qua đêm.


Ngài bị chối từ, cũng có thể là do các chủ quán sợ phiền phức, sợ bị ô uế, sợ bị xui xèo, sợ những điều không may lành xảy ra, khi phải chứa chấp một phụ nữ mang thai sắp sinh con.

Để diễn tả tình huống này, thánh Gioan đã ghi lại mấy dòng chữ thật thê thảm trong cuốn Phúc Âm của Ngài, ở đoạn 1, câu 11 như sau:

“Ngài đến nhà của Ngài,
nhưng những người nhà, đã chẳng có ai chịu tiếp nhận Ngài”. ( Ga 1,11).


Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Thế lại phải sinh ra trong hang lừa máng cỏ.

Nhưng để tìm cho được hang bò lừa trong đêm tối, ở một nơi xa lạ, ở một nơi hẻo lánh, thì chúng ta hãy nghĩ xem, thánh Giuse đã phải vất đến như thế nào ?

Nhưng hang bò lừa năm xưa, chắc chắn là rất khác với hang đá, mà chúng ta nhìn thấy tại các nhà thờ, hay tại các phố xá, hay tại các hàng quán.

Hang đá năm xưa, là một chuồng bò lừa thật sự:

- Các cây cối rào cản làm chuồng, đều đã bị xiêu vẹo.
- Nền đất của chuồng bò, gồm toàn rơm mục nát, ẩm ước, rất hôi tanh.


Bởi đây là nơi trú ngụ của các súc vật bò lừa chung chung, chẳng thuộc quyền sở hữu của riêng ai, cho nên chẳng có ai bận tâm để quét dọn.

Còn đêm tối trong hang thì phải nói là dày đặc, không có một chút ánh sáng, dù chỉ một chút ánh đèn leo lét thôi, cũng không có.

Ngoài trời thì đang tiết mùa đông, cho nên gió lạnh, giá rét, lùa vào khắp các nơi trong hang.

Đây là một trong những nỗi khổ đầu tiên của Con Thiên Chúa xuống thế làm người.

Có người cha người mẹ nào lại muốn sanh con của mình trong những điều kiện thiếu thốn, cùng cực, mất vệ sinh, tồi tệ đến như thế chăng?

Nhìn cảnh đứa con được sinh ra, không nơi nương tựa, không người giúp đỡ, cô đơn một mình, thiếu thốn đủ mọi thứ, trông thê thảm đến cùng cực, thì thử hỏi có cha mẹ nào, mà lại chẳng tuổi thân ???

Thật là chua xót biết bao, cho thân phận của một Con Thiên Chúa xuống thế làm người!

Khi chứng kiến những cảnh tượng này, ai mà lại không thắc mắc:

- Ơn cứu độ từ trời cao, tại sao lại đến với nhân loại, phải đi qua con cái đường tầm thường và thê thảm đến như thế ?

- Tại sao Thiên Chúa lại không chọn cách khác, cho bớt thê thảm hơn để làm người ?

- Tại sao Hài Nhi Giêsu, một món quà thật cao quí, từ trời cao, được Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, lại được gói ghém trong một dáng vẻ quá đơn sơ, mộc mạc, tầm thường, quá cô đơn, để rồi chẳng có mấy ai nhận ra ?

*****

Nhưng càng suy nghĩ, chúng ta lại càng thấy ấm lòng.

Bởi Thiên Chúa đến với con người trong những điều kiện thật thiếu thốn, chính là để chia sẻ thân phận mỏng dòn, yếu đuối, giới hạn của kiếp người, để cho những ai, đang sống trong cô đơn nghèo hèn, những ai đang bị hất hủi, những ai đang bị bỏ rơi, những ai đang bị gạt ra bên lề xã hội, đều có thể cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa tình thương, ngay trong chính cuộc sống đời thường của họ. Đây mới chính là niềm vui và là ý nghĩa đích thực của việc mừng Lễ Chúa Giáng Sinh.

Tiếc thay ngày nay, khi mừng lễ Chúa Giáng Sinh, người ta đã mất phương hướng.

Bởi người ta ăn mừng lễ Giáng Sinh, nhưng người ta không còn biết là ai Giáng Sinh nữa ???

Nếu là Chúa Giáng Sinh, thì người ta cũng không hiểu, Chúa Giáng sinh để làm gì ???

Bởi người ta đã loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.

Bởi người ta đã loại trừ Chúa ra khỏi xã hội của họ.

Ngày nay, người ta hiểu lễ Giáng sinh chỉ

- là ông già Noel,
- là cây thông,
- là đèn ông sao,
- là những đèn trang trí nhấp nhánh trông rất vui mắt,
- là những tiệc vui họp mặt, gặp gỡ bạn bè thân hữu,
- là những thiệp Giáng Sinh, với những lời chúc thật tốt đẹp, và những gói quà ý nghĩa trao tặng cho nhau.


Chỉ có thế thôi.

Còn món quà yêu thương, món quà cao quí nhất từ trời cao, trao ban cho con người, qua Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong hang lừa máng cỏ, thì người ta đã không còn hiểu ý nghĩa, cũng không có một chút cảm nhận nào, đã không còn được người ta quí trọng nữa. Thật đáng buồn thay !!!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hiểu được ý nghĩa đích thực của biến cố tình yêu, một tình yêu vĩ đại, mà Thiên Chúa dành cho con, qua Hài Nhi Giêsu nằm trong hang lừa máng cỏ.

Xin cho con biết trân trọng món quà cao quí này.

Nhất là xin cho con biết sống như Chúa, vì Chúa đã dám sống như con. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=YM-1_3E1dC8

-----------------------------------

 

Bài 3: CHUYỆN NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 324)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Có một anh mù đi thăm một người bạn. Vì đã lâu không gặp nhau, nên đôi bạn hàn huyên tâm sự mãi, mà quên cả thời gian.  Đến khi anh mù quyết cáo từ ra về, thì trời đã tối mịt. Người bạn nài nỉ cở nào, anh ta vẫn không chịu ở lại, lời lẽ đưa ra cở nào, anh ta cũng vẫn không chịu nghe.

Thế là người bạn đành chịu, nên mới đề nghị với anh mù: “Thôi, để tôi đốt cho anh cái đèn để anh đi, vì trời đã tối lắm rồi”.  

Tưởng rằng anh bạn chế diễu mình, nên anh mù phản ứng: “Anh nói như vậy là hơi “sốc” đó nghen! Đối với tôi, đã là mù, thì ngày hay đêm, sáng và tối, nào có khác gì nhau đâu”.

Người bạn vội vàng chống chữa: “Không, không, làm sao tôi dám đùa với anh. Ý của tôi, là anh nên cầm cái đèn cháy sáng trên tay, để cho mọi người thấy ánh sáng, mà tránh, để khỏi phải đụng vào anh”.

Nghe nói có lý, anh mù liền vui vẻ đồng ý, đưa tay cầm cái đèn lồng, có ống khói chắn gió, rồi thẳng bước ra cửa, để đi về nhà.  

Trên đường về, bỗng có một người đi ngược chiều, đụng phải vào anh, làm cho anh mù chao đảo, ngã lăn ra đường.

Quá tức giận, anh mù vừa lồm cồm ngồi dậy, vừa chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm đèn sáng như thế này, mà không thấy hay sao?”.

Người kia, nhẹ nhàng năn nỉ và xin lỗi: “Này anh bạn. Anh có cầm đèn à. Sao tôi  có thấy ánh sáng gì đâu. Như vậy là đèn của anh đã tắt từ lâu lắm rồi, mà anh có hay biết không?

*****

Bạn thân mến!  

Phúc âm theo thánh Marcô đoạn 10 từ câu 46 đến 52, có kể lại câu chuyện về một người mù thành Giêricô như sau:

Một hôm, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài, đi đến thành Giêricô.

Cùng đi theo đoàn, có rất đông dân chúng. Dọc đường, bỗng nghe có tiếng hô to của một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường.

Kinh thánh cho biết, tên của anh ta là Ba-ti-mê, là con của ông Ti-mê. Anh ta hô lên thật to:

“Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương đến tôi”.

Nhiều người cảm thấy khó chịu, nên quát nạt, bảo anh ta im đi. Nhưng, càng quát nạt, thì anh ta càng kêu gào to hơn:

“Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương đến tôi!”.

Chúa Giêsu đứng lại, và cho dẫn anh ta tới.

Một số người đứng bên cạnh, động viên anh ta: Cứ yên tâm. Đứng lên đi. Người gọi anh đó.

Anh mù, liền cởi bỏ ngay cái áo choàng đang vướng vít, vội vàng đứng dậy, và đi thẳng tới Chúa Giêsu.

Khi đến gần, Chúa hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh.

Anh mù đáp: Lạy Ngài, xin cho tôi được nhìn thấy.

Chúa nói: Anh hãy nhìn, thì sẽ thấy. Đức tin của anh sẽ cứu chữa anh.

Kinh Thánh nói: Lập tức, anh ta nhìn thấy được, và đã đi theo Chúa Giêsu. Anh vừa đi vừa ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.

Ở đây, chúng ta thấy có mấy điều lạ, đó là anh mù đã thấy nhiều cái, mà những người khác không thấy.

Chẳng hạn: Anh ta đã thấy ông Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia, là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế (Mc.10:47).

Chẳng hạn: Anh thấy quyền năng của ông Giêsu, có thể giúp đỡ anh một cái gì khác, còn cao hơn, còn quí hơn là vật chất nữa, còn quí hơn là tiền bạc nữa.

Anh thấy được những điều đó, khi anh đang trong tình trạng khốn khổ mù lòa của anh. 

Tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (Mc.10:51), đúng là một tiếng kêu của lòng tin. Tất cả sức mạnh của anh, là nằm ở nơi tiếng kêu cứu đó, một tiếng kêu cứu thật thống thiết, một tiếng kêu cứu thật bi ai, một tiếng kêu cứu của một con người đau khổ, nhưng đây cũng là tiếng kêu của một con người tràn đầy tin tưởng, chất chứa tràn trề hy vọng.

Tiếng kêu đó, nói lên một niềm xác tín vào sự hiện diện của một Đấng quyền năng, cho nên anh mới cầu cứu.

Nhiều người quát mắng, muốn bịt miệng anh lại, nhưng niềm tin của anh đã đặt trọn vào Chúa, nên anh chẳng còn sợ ai nữa, nên anh cũng chẳng còn phải sợ một mối đe dọa nào nữa.

Và càng bị đe dọa, thì anh càng kêu gào to hơn, tiếng kêu gào càng thống thiết hơn.

Cuối cùng, tiếng kêu của anh đã thấu đến tai Chúa Giêsu.

Chúa đã dừng lại, đã cho người đi gọi anh tới.

Khi biết mình được Chúa gọi, anh đã tỏ ra vui sướng tột cùng. Anh đã vội vàng cởi bỏ ngay cái áo choàng làm vướng vít bước đi của anh. Anh vừa đi vừa nhẩy, trong niềm vui sướng đầy phấn khởi khi đến với Chúa Giêsu. Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi con mắt tâm hồn của anh đã thật sự sáng rồi.

Lời cầu xin của anh, rỏ ràng là đã được Chúa đáp ứng. Chúa nói:

“Lòng tin của anh, đã cứu chữa anh”. (Mc.10:52)

Khi đã được chữa khỏi mù lòa rồi, thì lòng tin của anh lại thêm vững mạnh hơn.

Anh đã thấy mặt trời, anh đã gặp được Đấng đã cho anh ánh sáng. Anh không còn ngồi bên vệ đường nữa. Anh đã đứng lên. Anh đã đi theo Chúa Giêsu. (Mc.10:52)

Bởi từ nay, Chúa sẽ là ánh sáng soi dẫn cho cuộc đời của anh. Chúa sẽ từng bước dẫn anh đi, để anh có thể đạt tới sự thật, để anh có thể đạt tới sự sống vĩnh cửu.

*****

Bạn thân mến,

Nhìn người mù, rồi nhìn lại ta, ta mới thấy lòng ta đang bị che phủ bởi một màng bóng tối dày đặc. Chúa đang dẫn đường ta đi, mà nào ta có thấy ánh sáng của Chúa soi dẫn đâu.

Bởi xưa nay, ta vẫn có thói quen tìm ý riêng của ta để làm, chứ nào ta có tìm thánh ý Thiên Chúa đâu.

Hình như niềm tin của ta vào Chúa đã rất là hời hợt bên ngoài. Mọi việc đạo đức chỉ là thói quen, chỉ là hình thức.

Thực chất đức tin của ta đã tàn lụi hồi nào, mà ta nào có hay, có biết. Ta sống như một người không có niềm tin. Ta sống như một người không có niềm hy vọng. Cuộc sống gần như đã bế tắc. Ta không còn thấy có ngày mai. Ta không còn thấy có tương lai. Những mệt mỏi chán chường trong cuộc sống, đã làm cho ta ra như người mù, luôn phải dò dẫm trong đêm tối.

Ta không có một chút nếm cảm nào là Chúa yêu ta, nên ta cũng đã chẳng có một chút tình yêu nào dành cho Chúa.

Mỗi khi đọc kinh: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự”, mà sao ta không cảm thấy có một chút rung cảm nào của tình yêu.

Những ưu tư lo lắng cho cuộc sống, đã chiếm hết chỗ trong tâm hồn ta, đã làm cho tình yêu của Chúa nơi ta không còn chỗ để phát triển nữa.

Ta đã không còn thời gian để chắc chiu, để chăm sóc, để nuôi dưỡng tình yêu này, nên tình yêu Chúa nơi ta đã chết lần chết mòn lúc nào, ta cũng không hề hay biết nữa.

Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước người mù thành Giêricô, mà biết cởi bỏ những áo choàng, đang làm vướng vít cuộc sống của con, để con có thể  đứng thẳng lên, để con biết cố gắng mà bước ra khỏi chỗ thường ngồi bên vệ đường, để con có thể mạnh dạn mà đến với Chúa một cách thanh thản hơn, một cách mạnh dạn hơn.

Xin cho mắt con được sáng, để con thấy được những yếu đuối và những khuyết điểm, cả những cái giả hình và những cái đang che đậy, làm cho cuộc đời con luôn tăm tối.

Xin cho con biết phân định được, cái gì là quan trọng nhất, cái gì là cần thiết nhất cho cuộc đời con, để con còn biết mà dành tiền bạc, thời gian, tài năng, công sức mà đầu tư cho phần rỗi đời đời của con. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=K9V79Fy66nM&t=18s

--------------------------------------

 

Bài 4: CHUYỆN MẸ GHẺ CON CHỒNG


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 327)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Mẹ ghẻ con chồng, là chuyện ngàn đời, là chuyện của muôn thuở, là chuyện phim dài nhiều tập, được lập đi lập lại mãi, mà không hề có hồi kết thúc.

Thế nhưng, có một câu chuyện tôi sắp kể ra đây, lại có hồi kết thúc thật bất ngờ, thật đơn giản, thật nhẹ nhàng, có thể nói là rất đẹp.

Chính câu chuyện này đã làm cho tôi phải nặng lòng, đã làm cho tôi phải suy nghĩ rất nhiều về cuộc sống của tôi.

Và tôi cũng nghĩ, là sẽ rất hữu ích cho nhiều người nữa, cho nên tôi xin được phép kể ra đây:

Có một em bé trai, khi lên 6 tuổi, đã phải theo cha về với mẹ ghẻ.

Tất nhiên, khi về nhà mới, em sẽ phải làm đủ mọi thứ công việc trong nhà để phụ giúp mẹ.

Còn người cha, thì ngay từ sáng sớm đã phải đi làm, để lo kiếm tiền nuôi sống gia đình, có khi đến tối mịt mới trở về nhà.

Cha con chỉ gặp gỡ nhau trong bữa ăn tối. Nhưng cha con cũng không có giờ riêng, để tâm sự, để nói chuyện nhiều với nhau. Cho nên bé cứ vò võ một mình trong cô đơn, không có một ai để tâm sự, không có một ai để giải bày nỗi lòng không được vui.

Còn người mẹ kế thì chỉ là một người mới quen biết thôi. Dì rất ít nói. Dì lại rất nghiêm. Nhưng khi nói, thì Dì thường hay dùng những lời lẽ thật nặng nề, thật khó nghe.

Khổ nhất, là bé làm điều gì, thì Dì cũng không hài lòng. Cho nên, các vết roi cứ chồng chất lên nhau. Những lằn roi mới, cứ thi nhau chồng lên những vết thương cũ...

Dì là người muộn chồng, cho nên tính tình của Dì bị mọi người đánh giá là rất dữ. Bà con ruột thịt chẳng ai muốn lại gần.

Thế nhưng, không biết Chúa sắp xếp an bài làm sao, mà rồi để ba của bé lại gặp Dì. Thế là 2 người đã kết duyên, thành nghĩa vợ chồng....

Năm 15 tuổi, cha của bé mất. Dì đinh ninh là bé sẽ bỏ nhà ra đi. Nhưng không. Bé vẫn cứ tiếp tục ở lại, vẫn cứ tiếp tục mọi sinh hoạt bình thường như mọi ngày, và vẫn tiếp tục làm mọi công việc, như từ trước đến nay, như không có gì xảy ra.

Thế rồi, ngay ngày giỗ Tuần Thất, Dì lên tiếng đuổi khéo em:

- Mày có muốn về với bà nội thì cứ về?

Em cúi đầu, và nói trong nước mắt: Con đi rồi, thì mẹ ở với ai ?

Từ câu nói đó, bà mẹ ghẻ trầm tư hơn, suy nghĩ nhiều hơn về cuộc sống của mình.

Và bắt đầu từ Mùa Chay Thánh năm đó, Dì đã thay hẳn cuộc sống.

Em đã trở thành cậu ấm của gia đình. Hai mẹ con luôn yêu thương quấn quít bên nhau. Cậu đã học thành tài, đã đỗ đạt, đã đạt được mảnh bằng thạc sĩ, và đã có một chỗ đứng trong xã hội. Đúng là một phép mầu.

*****

Lạy Chúa, đọc xong câu chuyện này, con đã nghẹn ngào trong tiếng nấc. Con không biết phải nói gì với Chúa. Con cũng không biết phải trình bày với Chúa làm sao phải, cho hết nỗi niềm tâm sự của con.

Bởi lâu nay, con thường hay bực dọc, con thường hay khó chịu với kẻ này người nọ, vì họ không giống con, vì họ không chịu chiều theo ý con, vì họ không quan tâm giúp gỡ con, việc này việc nọ, những việc con rất thích, những việc con rất cần nữa.

Nhất là không bao giờ con nghĩ, là có biết bao nhiêu người đã và đang bực dọc đối với con, và rất khó chịu đối với con, do những chuyện buồn lòng trái ý, mà con đã vô tình, hay có khi cố ý gây ra cho họ.

Con đã chẳng bao giờ chịu nhìn lại chính bản thân con, để con biết chỉnh sửa, để con biết cố gắng hơn, mà sống hoà mình với mọi người.

Con luôn đòi hỏi, con muốn mọi người phải sống hoà hợp với con, mà con thì lại chẳng bao giờ cố gắng, để sống hoà hợp với người khác. Cho nên, có biết bao nhiêu là mâu thuẫn hằng ngày đã xảy ra với những người chung quanh, mà con cứ tưởng là lỗi ở họ, chứ không phải là lỗi tại con.

Con đã quên câu kinh thánh rất quan trọng này, một câu có thể coi được là kim chỉ nam cho cho cuộc đời con, và có thể coi đó là chìa khoá cho mọi thành công của con.

Câu đó đã được thánh Matthêu ghi lại trong Phúc Âm của Ngài, ở đoạn 7, câu 12 như sau:

“Tất cả những gì, con muốn người ta làm cho con, thì chính con cũng hãy cố gắng mà làm cho người ta đi”.

Hôm nay, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, con xin Chúa Thánh Thần đến giúp con, đổi mới cuộc đời con, chuyển hướng cuộc sống con, sao cho phù hợp với những gì, mà Chúa đã dạy con, và đang chờ mong nơi con. Amen.

-------------------
 

Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=vucf-LIOJqc


-------------------------------------

 

Bài 5: CHUYỆN MỘT ƠN GỌI


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 329)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Bệnh viêm xoang là một con bệnh, đã khiến cho đầu tôi đau nhức liên tục, và các việc làm thường ngày thường xuyên phải bị gián đoạn, vì đau nhức.

Trong một lần gặp gỡ bạn bè, có một anh bạn đã đề nghị với tôi, hay là nên đi châm cứu thử coi. Nói thật, tôi không tin lắm ở đông y, nhưng vì tôi đã đi chữa trị ở nhiều bệnh viện theo Tây y rồi, mà vẫn không khỏi. Hễ hết thuốc là bệnh trở lại. Cho nên lần này tôi muốn thử một phen xem sao.

Thế là tôi đã tìm đến phòng khám y học dân tộc của một nhà dòng, gần nhà tôi.

Phải công nhận, phương pháp châm cứu đã đem lại cho tôi hiệu quả đúng như lòng tôi mong đợi. Nghĩa là những cơn đau buốt ở đầu, đã thưa dần, và dường như có dấu hiệu ngưng hẳn.

Châm là dùng một cây kim nhọn, hay một que nhọn, tuy nhỏ thôi, nhưng thân lại dài, để đâm vào các huyệt, để kích thích các huyệt, bắt chúng phải làm việc.

Còn cứu là dùng một thanh ngải cứu, có hình tròn, lại có thân dài, giống như một điếu thuốc lá khổ lớn.

Khi cứu, thì người ta đốt cháy một đầu của cây ngải cứu, rồi hơ nóng một số huyệt trong cơ thể, để kích thích, để bắt các huyệt đó phải làm việc.

Hằng ngày, tôi được điều trị cả châm lẫn cứu.

Nhưng thú thật, tôi thích cứu hơn là châm, bởi mỗi lần châm, tôi lại phải nhìn những cây kim, vừa dài vừa nhọn, ấn sâu vào da thịt, đã làm cho tôi ớn lạnh tới xương sống.

Mỗi khi nhìn cô bác sĩ trẻ trung, di chuyển cây ngải cứu trên các huyệt đạo của tôi một cách nhuần nhuyễn, một cách thuần thục, tôi thầm cảm phục tay nghề của cô.

Cô đã không để cho cây ngải cứu ở quá xa, khiến cho sức nóng không thể tác động lên huyệt đạo của tôi. Cô cũng không để cho cây ngải cứu quá gần, khiến tôi phải bị phỏng da.

Sức nóng của cây ngải được cô điều phối thật tinh tế, thật điêu luyện, làm cho tôi có một cảm giác thư giãn, ấm áp, dễ chịu, do cây ngải cứu đem lại.

Sau nhiều ngày điều trị, tôi đã dần dần bắt chuyện dễ dàng hơn với cô bác sĩ, và có nhiều chuyện hơn để nói.

Trong lúc trò truyện, tôi được biết, cô đã từng là một bác sĩ tại bệnh viện Y Học Cổ Truyền Thành Phố, một trong những bệnh viện lớn nhất và cũng rất có uy tín.

Thế mà hiện nay, cô lại muốn làm đệ tử của nhà dòng này.

Cô đang trong thời gian tìm hiểu ơn gọi, để có thể trở thành một nữ tu.

Hiện nay, cô đã là đệ tử năm thứ hai của dòng, nghĩa là nếu mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, thì phải mất ít nhất là 4 năm nữa, cô mới được tuyên khấn lần đầu, mới chính thức trở thành nữ tu.

Rồi tiếp theo, là phải trải qua khoảng 5 lần khấn tạm, nghĩa là phải mất khảng, từ 5 đến10 năm nữa, thì cô mới được khấn trọn đời, mới thực thụ là thành viên của nhà dòng.

Một quá trình tìm hiểu, tu luyện và sống ơn gọi tu trì như thế, quả là rất công phu và mất đi rất nhiều thời gian.

Cô sẽ còn phải vất vả nhiều lắm, và còn phải cố gắng nhiều lắm. Vất vả công phu, không thua gì những năm cô học y khoa trước đây.

Thú thật, tôi rất ngạc nhiên trước một sự chọn lựa lạ lùng của cô gái này. Cô đã là bác sĩ, đã thành đạt, đã có chỗ đứng trong xã hội, và sự giàu có đang ở trong tầm tay, thế mà cô lại từ bỏ tất cả, lại muốn trở thành một nữ tu, âm thầm, đơn sơ, khiêm tốn phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân, để rồi sẽ chẳng còn ai nghe biết đến tên tuổi nữa.

Có một lần tôi thắc mắc hỏi cô bác sĩ:

“Tại sao cô không tiếp tục công việc tại bệnh viện lớn và rất uy tín đó? Tại sao cô lại từ chối một tương lai xán lạn, đầy hứa hẹn, để khởi đầu một chặng đường mới, để lại phải mất rất nhiều thời gian, và phải rất vất vả cực khổ, dò dẫm tìm hiểu một chân trời mới xa lạ này. Đang khi hiện tại, cô đã rất ổn định.”

Cô bác sĩ mỉm cười, và nhẹ nhàng trả lời cho tôi, bằng một câu hỏi:

“Chú định nghĩa thế nào là một tương lai xán lạn?”

Một câu hỏi thật bất ngờ, làm cho tôi hơi bối rối, nhưng tôi cũng cố gắng trả lời:

“Này nhé, bác sĩ là một nghề rất cao quý, nhiều người ấp ủ ước mơ. Phải mất biết bao nhiêu tiền, tốn biết bao thời gian, hao tốn biết bao công sức, mới có thể đạt được mãnh bằng bác sĩ.

Rồi khi đã là bác sĩ, thì để có được một chỗ làm ở trong một bệnh viện, cũng đâu phải là một chuyện dễ.

Hiện tại cô đã có được một chỗ làm rất ổn định, ở một bệnh viện lớn, rất uy tín. Đâu dễ gì ai mơ cũng được. Bởi ở bệnh viện này, cô có dư điều kiện để theo đuổi lý tưởng cao thượng của cô, là cứu giúp tha nhân, là phục vụ những người nghèo. Cô sẽ được mọi người nể trọng, và cô sẽ được giàu sang trong xã hội, sẽ không bị một ai khinh khi coi thường. Cô sẽ có nhiều cơ hội, để thăng tiến về danh, lẫn về lợi.

Vậy việc cô từ bỏ những điều tốt đẹp đó, để lựa chọn con đường tu, âm thầm, lặng lẻ, mất hết tất cả, làm lại từ đầu, như thế thì có phải là nghịch lý lắm chăng ?”

Dịu dàng, nhưng đầy dứt khoát, cô bác sĩ trả lời:

“Cháu đã từng làm việc ở khoa cấp cứu, đã từng chứng kiến nhiều cảnh đời rất đặc biệt. Cháu cũng đã tận mắt trông thấy nhiều cái chết rất thê thảm, rất là thương tâm, và cũng có khi rất bi đát nữa.

Từ đó, cháu mới nghiệm ra, là thân phận con người, sao quá yếu ớt, sao quá mong manh. Giữa cái sống và cái chết hình như không có ranh giới. Đang sống đó, lại chết đó. Từ cái sống bước qua cái chết, chỉ trong nháy mắt, chỉ trong tích tắc.

Ngẫm lại Lời Chúa dạy: “Được lời lãi cả thế gian, mà rồi mất linh hồn nào được lợi ích gì”, cháu mới thấy thấm thía làm sao.

Giàu có như các tỷ tỷ phú, tiền bạc rủng tỉnh dư thừa, muốn gì cũng có, muốn làm gì cũng được, thế mà đứng trước cái chết đành phải bó tay, tiền bạc chẳng giúp gì được cho họ. Bao nhiêu người thân thương ruột thịt, bao nhiêu người sùng bái ngưỡng mộ đứng chung quanh, cũng đành bó tay trước cái chết của người thân.

Còn những người có chức, có quyền, nắm trọn cán cân công lý trong tay, đã từng phân giải phải trái cho mọi người, phán quyết công lý như kẻ có quyền, thế mà khi đối mặt với cái chết, họ cũng đành phải chịu xuôi tay.

Rồi sau khi chết, mọi danh vọng, chức trọng, quyền cao, đều đã tan biến thành mây khói, mà đã chẳng để lại một dấu vết gì cho thế hệ sau.

Hay cho dù con người ta ở đời này là chi chi đi nữa, thì cũng sẽ kết thúc trong thân phận con người, thật mong manh, thật mỏng dòn, thật bi đát, thật thê thảm.

Tôi bắt đầu cảm thấy tò mò, trước những lý luận hơi bi quan của một con người trẻ, của một người trí thức có thế giá, tôi mới gặng hỏi:

“Cô có thể cho biết thêm, những hoàn cảnh nào đó, hay gặp phải trường hợp cụ thể nào đó, đã làm cho cô có những suy nghĩ như vừa kể, để rồi cô có một quyết định thật táo bạo, muốn thay đổi cuộc đời, theo chiều hướng không giống bất cứ một ai”.

Như thể gặp được một người đồng cảm, muốn thấu hiểu tường tận sự chọn lựa của mình, cô bác sĩ trẻ hào hứng, lần lượt kể chuyện như sau:

 “Cách đây vài năm, cháu đã chứng kiến một cái chết thương tâm của một cô con gái đang mang thai.

Chuyện là thế này, cô gái đó đưa mẹ chồng đi chợ về, ngang qua khu rừng cao su, đột nhiên một cơn lốc khá mạnh bỗng bùng lên, làm cho nhiều cành cây gẫy đỗ. Trong những cành cây đó, lại có nhiều tổ ong vò vẽ, thế là các đàn ong bay tứ tung một cách hỗn loạn.

Chẳng may, đúng lúc hai mẹ con vừa chạy xe tới, thế là chúng ùa đến bao vây họ, người mẹ nhanh chân hơn, bị thương tích ít hơn, nên đã thoát chết. Còn cô con gái, vì đang mang thai, lại vướng vít với chiếc xe,  nên bị đàn ong bao vây, chích chi chít lên thân thể.

Khi thai phụ được mang đến bệnh viện cấp cứu, thì 3 ngày sau cô ta đã tắt thở, vì nọc độc của ong trong cơ thể cô quá nhiều! Tai nạn đến với cô thật bất ngờ!

Lại một trường hợp khác, còn bất ngờ hơn, đó là một phụ nữ trẻ đang chạy xe bon bon trên đường, bỗng một cành cây khô từ trên cao rơi xuống, trúng ngay vào sau gáy, khiến cô bị liệt toàn thân, làm cho cô không còn năng động, hoạt bát, lanh lẹ như xưa được nữa. Cô bị liệt toàn thân, vì tai nạn hy hữu đó, và từ đấy, cô đã phải nằm một chỗ suốt quãng đời còn lại.

Câu chuyện thứ ba thì không có nhiều tính bất ngờ, cho bằng sự bất lực của con người trước cái chết.

Một chàng trai, khoẻ mạnh, trẻ đẹp, về quê nhà nghỉ hè sau hai năm du học ở trời tây. Đột nhiên, anh ta bị lên cơn sốt đữ dội. Gia đình vội vàng đưa anh ta vào bệnh viện để cấp cứu, để điều trị. Các bác sĩ đã cho biết nguyên nhân, là cơ thể của anh đã bị nhiễm siêu vi.

Mặc cho gia đình bỏ ra gần 3 tỷ bạc để lọc máu, để thay máu, và còn dùng nhiều phương pháp điều trị khác nữa, rất tối tân, rất hiện đại, chấp nhận việc hao tốn, nhưng cuối cùng, anh ta vẫn phải từ giã cõi đời, giữa tuổi thanh xuân, mang theo bao ước mơ tươi sáng của tuổi trẻ, và mang theo bao hy vọng, bao ước mơ của gia đình, sang thế giới bên kia.

Cô bác sĩ trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:

“Chú thấy không, trẻ đẹp, tài năng, giàu có đến như thế, mà vẫn không thoát khỏi kiếp phận mong manh của đời người.

Cháu còn được chứng kiến tận mắt nhiều, có thể nói là quá nhiều trường hợp thương tâm khác, tương tựa như vậy hằng ngày trong bệnh viện.

Và cháu đã nghĩ, việc kiếm tìm tiền của, địa vị, sức khỏe, sang trọng, chức quyền không thể là ưu tiên số một cho cuộc đời của cháu nữa, những thứ mà trước đây cháu đã từng xây mộng, và đã từng theo đuổi.

Bây giờ tất cả đều đã khác rồi, cháu muốn tìm kiếm một điều gì đó, tốt đẹp hơn, bền vững hơn. Và may mắn cho cháu, là cháu đã được Lời Chúa đánh động, để thực hiện một cuộc chọn lựa mới cho cuộc đời của cháu, đó là chọn Chúa làm gia nghiệp cho đời mình!

Cháu không muốn chọn Chúa một cách nửa vời, mà cháu muốn chọn Chúa một cách triệt để. Nghĩa cháu muốn dành trọn cuộc đời của mình, để sống với Chúa, để sống cho Chúa, và sống vì Chúa, và chỉ một mình Chúa mà thôi.”

Khi câu chuyện của cô bác sĩ kết thúc, cũng lại đúng vào lúc cây nhang ngải cứu vừa tàn. Tôi chào tạm biệt cô bác sĩ. Và trên đường về nhà, tôi vẫn tiếp tục miên man nghĩ suy về những mẫu chuyện của cô bác sĩ vừa kể.

Nhất là tôi vẫn thầm thánh phục về một quyết định thật táo bạo của cô, khi quyết tâm từ bỏ tất cả, để theo đuổi một ơn gọi, để quyết định đi vào đời tu, để quyết bước theo Thầy Giêsu, quyết chọn Chúa làm gia nghiệp cho đời mình.

Lạy Chúa, sau khi nghe câu chuyện kể về cô bác sĩ trẻ, lại trùng hợp với những câu Kinh Thánh mà con vừa đọc, trong Phúc âm theo thánh Marcô, đoạn 10, câu 20, khi Chúa âu yếm nói với chàng thanh niên, đã làm cho con suy nghĩ rất nhiều. Câu đó như sau:

“Anh chỉ còn thiếu có một điều này nữa thôi, là anh hãy đi về, bán hết những gì anh có, đem phân phát cho những người nghèo khó, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi sau đó, anh hãy trở lại theo tôi”.

Lời Chúa nói thật êm ái, thật nhẹ nhàng, thật dễ hiểu. Nhưng sao con thấy quá khó để thực hiện.

Nhưng con cũng lại thấy cô bác sĩ trẻ trong câu chuyện đã thực hiện được. Cho nên xin hết lòng bái phục Chúa, vì Chúa đã làm biết bao điều kỳ diệu, đã làm biết bao điều lạ lùng nơi các tâm hồn, mà với trí óc non nớt, hẹp hòi, và rất giới hạn của con, con không sao có thể hiểu nỗi.

Lạy Chúa, xin Chúa hãy cứ tiếp tục biến đổi nhiều tâm hồn, để họ cũng nghe, để họ cũng hiểu, nhất là để họ cũng biết sẵn sàng đáp trả lại tiếng Chúa gọi, một cách nhiệt tình, một cách hết mình, để cho cánh đồng truyền giáo của Chúa không phải bị thiếu thợ gặt. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=vucf-LIOJqc

-------------------------------------

 

Bài 6: CÂU CHUYỆN ĐỔI ĐỜI


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 331)
-------------------------------------

Ban thân mến,

Người ta kể lại rằng:

Tại một làng kia ở miền quê, có hai anh em, vì quá nghèo, vì quá khổ, cho nên đã đi ăn trộm, ăn cắp.

 Những thứ mà 2 anh thường trộm cắp, đó là đi bắt chó chạy rong khắp nơi trong làng. Cả những con chó trong sân nhà, mà 2 anh cũng bắt được. Không phải chỉ có bắt ban đêm, mà cả ban ngày 2 anh cũng đi bắt. Hình như nhà nào cũng đều là nạn nhân của 2 anh này.

Những con chó bắt được, thì 2 anh đem bán cho các hàng quán, hoặc bán cho các tay lái chó.

Một hôm, 2 anh bị dân làng bắt được tại trận. Bởi đi đêm riết, rồi cũng sẽ có ngày gặp ma. Dân làng quá phẫn nộ, họ kéo nhau tới rất đông. Họ đã trút hết tất cả những cơn giận ấm ức, chất chứa từ bấy lâu nay lên đầu 2 anh này.

Họ mặc sức mà phun ra những lời lẽ lăng mạ sỉ nhục thê thảm không thương tiếc.

Họ đã hành hạ 2 anh đủ kiểu, đủ cách.

Rồi cuối cùng, họ đã đè 2 anh xuống đất, lấy dao rạch 2 chữ “TT” ở trên trán, có nghĩa là “Tên Trộm” để cho chừa.

Sau khi đã hả hê, đã xả hết mọi cơn tức giận, họ đã thả cho 2 anh đi, và còn đe dọa: Từ nay trở đi, nhớ đừng có bén mãng lai vãng tới cái vùng đất này nữa.

Vì không chịu nổi cái sự nhục nhã này, nên người anh đã bỏ làng, tìm đến một vùng thật xa để sinh sống, để không còn ai biết được cái quá khứ nhục nhã của mình.

Thế nhưng, dù ở xa đến tận phương trời nào, thì anh ta cũng vẫn không bao giờ quên được cái nỗi nhục đã qua, nhất là khi có ai đó hỏi về ý nghĩa của 2 chữ TT đáng nguyền rủa ở trên trán, thì anh ta lại tìm cách nói quanh, thật lúng túng.

Tuy vết xẹo đã mờ nhạt, nhưng nếu chú ý một chút, thì ai ai cũng đều có thể đọc thấy được 2 chữ TT đó.

Còn người em thì ngược lại. Anh ta luôn tự nhủ với lòng mình rằng, là "Ta cần phải lấy lại lòng tin đã mất. Ta cần phải lấy lại uy tín nơi những người chung quanh".

Thế là anh vẫn cứ tiếp tục ở lại nơi xứ sở của mình.

- Anh quyết chí sửa mình.
- Anh quyết tâm làm lại cuộc đời.
- Anh nhất quyết làm việc. Việc gì anh cũng làm, mà làm thì không bao giờ ngại khó ngại khổ. Có khi người ta thấy anh ta hì hục làm việc cả ngày lẫn đêm. Anh không còn ươn lười như trước nữa.

Anh đã bỏ rượu.
Anh đã bỏ thuốc lá.
Anh đã bỏ cá độ, bỏ đá gà.


Còn bài bạc, số đề, số đuôi coi như là đã chấm dứt hẳn.

Nhất là mỗi khi, anh nhìn thấy 2 chữ TT trên trán của mình lúc soi gương, thì anh lại càng quyết tâm hơn nữa, xóa bỏ cho được 2 chữ TT đó, bằng cách sống lương thiện, sống đạo đức.

Chẳng mấy chốc, anh đã gầy dựng được một sự nghiệp đáng kể. Anh còn nghĩ ra nhiều cách để làm việc từ thiện bác ái, giúp đỡ kẻ này người nọ, những người nghèo khổ, những người có những hoàn cảnh túng bấn neo đơn.

Anh quyết lập công đức, bằng chính sức lao động của đôi tay mình. Anh cố gắng sống chan hoà tình yêu thương đối với hết mọi người trong làng.

Và cuối cùng, đúng như những gì anh đã dự tính, hai chữ "TT" trên trán của anh, đã chẳng còn làm cho ai quan tâm nữa.

Thế nhưng có một lần, có một người, đã lâu lắm mới có dịp trở về quê nhà, trông thấy là lạ, mới hỏi một ông cụ già, về ý nghĩa của hai chữ TT trên trán đó. Cụ già đã trả lời một cách thật đơn giản:

"Ông cũng không còn nhớ rõ lắm, nhưng cứ nhìn vào cách sống của anh ta, thì ông chắc, đó là dấu chỉ của trời ban cho, để đánh dấu sự Thánh Thiện của anh ta".

Bạn thân mến,

Thánh Phêrô và thánh Phaolô, đã trở thành thánh, là nhờ các ngài biết khép lại cái quá khứ không đẹp của mình.

Các ngài đã từng có một quá khứ lỗi lầm, một quá khứ đáng ân hận và đáng tủi nhục.

Đọc kinh thánh, chúng ta thấy: Đã có lần thánh Phêrô đã bị Chúa quở trách là Satan (Mt 16,23), mà từ xưa đến nay, và mãi mãi sau này, chắc không có vị thánh nào lại bị Chúa khiển trách nặng nề như vậy.

Rồi cái tội lớn nhất trong cuộc đời của Phêrô, đó là đã ba lần chối Thầy, mình không phải là môn đệ của Thầy Giêsu.

Còn Phaolô, thì ông đã từng xông xáo đi khắp nơi, để lùng bắt và giết hại những ai là môn đệ của Chúa Giêsu.

Rồi chính Phaolô cũng đã từng can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội.

Thế nhưng, mẫu số chung của hai ông, chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã, và đã biết dùng cả cuộc đời của mình, mà đi rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, để chuộc lại những lỗi lầm đã phạm.

Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, thì thánh Phêrô đã bắt gặp được cái nhìn của Chúa từ trên pháp đình, với một ánh mắt trìu mến thân thương, như nhắn gởi đến ông một sứ điệp:

"Phêrô ơi, sao con lại nở chối Thầy. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó, chẳng lẽ bây giờ không còn một chút tình nghĩa gì nửa sao?".

Tiếp theo, Phêrô lại nghe tiếng gà gáy trong đêm khuya, làm cho lương tâm ông bừng tỉnh ngộ, giúp ông nhớ lại lời của Thầy đã báo trước:

"Trước khi gà gáy, thì con đã chối Thầy ba lần".

Sau đó, Phêrô đã lầm lũi bước ra khỏi sân pháp đình, mà nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, và một cái gì đó đã chết trong lòng ông:

- Đó là niềm hãnh diện,
- Đó là niềm tự hào,
- Đó là sự tự tin quá mức trước đây, nay không còn nữa.


Ông đã cảm thấy mình quá yếu đuối. Ông đã cảm nhận được mình chỉ là cát bụi, mình rất yếu hèn, mình đã bị té ngã.

Mới hôm qua thôi, ông đã tuyên bố rất mạnh: "Dù mọi người có bỏ Thầy, riêng con, thì không bao giờ".

Thế mà, miệng hùm miệng hổ lại bị đã bị khoá chặt, khi vừa gặp gian nan, khi vừa gặp thử thách.

Ông đã cảm thấy mình quá hèn nhát, bởi đã chối Thầy đến ba lần, dù chưa có ai tra tấn, dù chỉ vài ba người đầy tớ đang sưởi lửa ở sân Toà Án, khi họ hỏi ông chỉ vài câu thật bâng quơ, thế mà ông đã run lên, thế mà ông đã chối Chúa Giêsu liên hồi, thế mà ông đã phủ nhận những liên hệ với Thầy và với anh em.

Thế nhưng, cũng nhờ cái đêm tủi nhục đó, mà tâm hồn của Phêrô đã "đổi mới":

- Ông đã biết ăn năn,
- Ông đã biết hối lỗi,
- Ông đã biết khiêm tốn hơn.


Nhờ đó, mà Chúa lại tiếp tục chọn Phêrô đứng đầu Giáo hội, đặt ông làm cột trụ cho Hội Thánh.

Còn thánh Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau, do một luồng sáng chói khác thường, mắt ông đã không còn thấy được gì nữa. Ông đã bị mù hoàn toàn trong ba ngày.

Con mắt thể xác ông tuy đã bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn của ông lại được sáng ra.

Ông đã thấy Chúa Giêsu, người mà ông cứ tưởng là đã chết, thế mà nay đã sống lại, và vẫn đang sống.

Chính Người đã nói với ông: "Ta là Giêsu, mà ngươi đang tìm bắt giết".

Bao lâu nay ông không tin có sự sống lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt những ai loan tin có sự sống lại, nhất là sự sống lại của tên tử tội Giêsu.

Nhưng giờ đây, ông đã tin có sự sống lại. Ông đã tin Chúa đã sống lại thật. Sự sống lại của Chúa đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của ông.

Và từ nay, ông đã trở thành vị tông đồ chuyên rao giảng sự sống lại của Chúa, cho mọi người ở khắp nơi trên thế giới, nhất là cho các dân ngoại.

*****

Nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta cũng phải nhận mình là rất yếu đuối. Bởi chúng ta cũng có những lúc bị vấp té, cũng có những lúc bị sa ngã.

Nhưng chúng ta cũng nên nhớ câu nói này của một vị thánh, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ:

"Lầm lỗi là chuyện bình thường của con người yếu đuối,
nhưng biết đứng lên, biết vực dậy, và làm lại cuộc đời, thì đó mới là một vị "Thánh".


Chúng ta hãy xem:

Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cũng đã từng có một quá khứ lỗi lầm thật tủi nhục.

Nhưng Chúa đã không trách phạt các ngài, mà còn tiếp tục tin tưởng và trao phó sứ mạng lớn lao cho các Ngài, đó là điều khiển Giáo Hột, đặt các Ngài là cột trụ của Hội Thánh, bởi các ngài đã biết đứng lên, bởi các ngài đã biết vực dậy.

Bạn thân mến,

Hôm nay, chúng ta mừng kính 2 vị thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (29.6), chúng ta chiêm ngưỡng 2 mẫu người đã té ngã, và đã quyết tâm làm lại cuộc đời.

Hai vị đã có nhiều kinh nghiệm đau thương vì những yếu đuối lỗi lầm, và các Ngài cũng đã có đầy kinh nghiệm trong việc đứng lên, làm lại cuộc đời, và đã trở nên thánh cả.

Xin các Ngài giúp chúng ta, biết noi theo gương của các Ngài, mà can đảm đứng lên, sau những lần vấp ngã, để chúng ta có thể cảm nghiệm được lòng thương xót bao la hải hà của Chúa dành cho chúng ta.

Lạy Chúa, qua lời bầu cử của thánh Phêrô và Phaolô, xin thương giúp con. Amen.

-------------------
 

Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=P4wh9PvLayc


------------------------------------

 

Bài 7: CHUYỆN NGƯỜI MẸ MỘT MẮT


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 333)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Nhân ngày 8/3 vừa qua, tôi đã đọc được một câu chuyện kể trên Internet của Lm. Trần Thanh Sơn, nói về tình mẹ rất hay.

Cha nói, đây là một câu chuyện có thật của một người bạn trẻ ở Malaysia.

Tôi xin được phép kể lại đây, như một kinh nhiệm quí giá, giúp cho chúng ta biết trân trọng và tôn vinh mẹ của chúng ta hơn, để tránh những vấp váp sai lỗi, kẻo phải ân hận suốt đời.

Người bạn trẻ này đã kể lại câu chuyện về mẹ mình như sau:

*****

Tôi có người mẹ chỉ có một mắt. Cái khuyết tật này của người mẹ đã làm cho tôi xấu hổ và mặc cảm vô chừng trước mặt bạn bè và trước mặt mọi người.

Vì mặc cảm này, cho nên tôi không bao giờ dám rủ bạn bè đến nhà chơi, và thật sự, tôi cũng chẳng muốn cho ai đến nhà.

Tôi luôn tự trách bản thân và trách cả mẹ tôi nữa:

- Tại sao lại như vậy.
- Tại sao mẹ mình lại chỉ có một mắt.
- Tại sao mẹ mình, lại không giống như mẹ của các bạn. 

Những mặc cảm, những xấu hổ này, cứ luôn ám ảnh trong đầu tôi, có khi tôi mất ăn ất ngủ, vì sợ các bạn biết rồi đàm tếu, rồi soi mói, rồi trêu chọc.

Biết được mặc cảm này, cho nên mẹ tôi hứa, là sẽ không bao giờ xuất hiện công khai ở nhà trường, để cho tôi được an tâm mà học hành.

Nhưng rồi một hôm, có lẽ là vì một chuyện gì đó rất cần, cho nên mẹ tôi đã vội vàng đến trường để gặp tôi.

Tôi đã trông thấy, nhưng vì mắc cỡ, và vì xấu hổ nữa, nên tôi đã lánh mặt, tôi đã không ra gặp mẹ. Bởi tôi sợ bạn bè trông thấy, rồi sẽ làm cho tôi đau khổ.

Nhưng sự lánh mặt đó, nào có giúp cho tôi được gì đâu, có giúp cho tôi được yên thân đâu. Bởi miệng chuyền miệng, rồi cuối cùng, các bạn bè và mọi người đều biết: Mẹ tôi chỉ có một mắt.

Thế rồi, sáng hôm sau, khi tôi vừa bước tới cổng trường, thì các bạn bè đã nhao nhao lên:

- Ê, tao đã biết rồi nha. Mẹ của mày chỉ có một mắt!

Rồi từ đó, các bạn đua nhau nói, đua nhau cười, mỗi đứa một kiểu, mỗi đứa một cách, để chọc ghẹo tôi.

- Tôi xấu hổ.
- Tôi đỏ cả mặt.
- Tôi ù cả tai.
- Tôi không muốn nghe gì nữa.
- Tôi tức tối.
- Tôi bực dọc.
- Tôi muốn đấm vào mặt mỗi đứa một cái.
- Tôi muốn độn thổ.

- Tôi muốn chui xuống đất, để tránh sự đùa cợt chế giễu của bạn bè.
- Tôi muốn quay trở về nhà, bỏ học luôn.


Nhưng may thay, tình cờ thầy giám hiệu xuất hiện, thầy kịp thời can thiệp, thầy đã dẹp được loạn, thầy còn răn đe:

“Em nào mà dám tiếp tục đưa chuyện mẹ của bạn ra để trêu chọc, thì sẽ bị kỷ luật, sẽ bị trừ hạnh kiểm, và có thể bị đuổi học.

Nhờ thế mà tôi đã an tâm, và đã tiếp tục học.

Nhưng suốt buổi học hôm đó, tôi nào có học được gì đâu. Đầu óc tôi cứ miên man suy nghĩ:

Tại sao lại như vậy. Mẹ hứa, là mẹ sẽ không bao giờ công khai đến trường.

Vậy mà tại sao mẹ lại đến trường, để cho bạn bè chế giễu mình. Tại sao mẹ không giữ lời hứa. Tại sao mẹ lại làm cho mình khổ.

Hôm đó, vừa khi bước chân vào nhà, tôi đã trút ngay tất cả các cơn giận, tôi đã ném tất cả những bực dọc khó chịu lên đầu mẹ tôi. Tôi đã lớn tiếng nói với mẹ: Mẹ có biết không, việc mẹ đến trường, đã khiến con thành trò cười cho mọi người!

Và tôi còn nói nhiều điều xấc xược, vô lễ nữa cho hả cơn giận.

Từ đó, tôi căm ghét mẹ tôi vô chừng. Và sự căm ghét này, không bao giờ nguôi ngoai. Tôi chỉ muốn mẹ tôi biến đi khỏi cuộc đời của tôi.

Phần mẹ tôi, thì mẹ cứ giữ thái độ im lặng, không hề đính chính, không hề phân trần, không hề nói lên một lời nào.

Còn tôi, thì tôi lạnh lùng đến mức, không hề quan tâm để ý tí gì đến những lời nói và những cử chỉ đã xúc phạm đến mẹ. Tôi chỉ muốn bỏ nhà ra đi. Tôi chỉ muốn thoát ly ra khỏi gia đình này, để không còn có liên hệ gì đến mẹ tôi nữa.

Chính vì thế, mà tôi quyết tâm cố gắng học hành, học thật chăm chỉ, học cho thật giỏi. Và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi du học ở Singapore.

Sau đó, tôi có công ăn việc làm. Tôi đã mua được nhà riêng. Tôi đã lập gia đình, và đã có 2 con.

Vợ tôi, là con nhà gia thế, cho nên tôi đã giấu nàng về gốc gác lý lịch của tôi. Tôi chỉ nói, là tôi đã sống trong viện mồ côi ngay từ nhỏ, cho nên không hề biết cha mẹ là ai.

Tôi hài lòng với cuộc sống. Tôi rất hạnh phúc bên cạnh vợ con. Tôi thích thú hưởng thụ những tiện nghi vật chất đang có.

Tôi cũng đã âm thầm, mua cho mẹ tôi một căn nhà nhỏ. Rồi thỉnh thoảng, tôi đã lén vợ, để gởi một ít tiền về quê cho bà, để bà có thể tự ổn định cuộc sống.

Tôi tự nhủ, như thế là quá đủ. Như thế là tôi đã chu toàn bổn phận làm con của tôi rồi.

Và tôi đã buộc mẹ tôi, là phải ở yên tại chỗ, không được phép có bất cứ liên lạc gì với tôi.

Rồi một ngày kia, bổng bất chợt mẹ tôi đến thăm, vì đã nhiều năm lắm rồi, bà không gặp mặt tôi, thậm chí bà cũng chưa hề bao giờ nhìn thấy các cháu.

Khi trông thấy một bà già có vẻ lam lũ, lôi thôi, lếch thết, đứng trước cổng nhà, đứa con trai lớn của tôi chạy ra trêu chọc, cười nhạo, và xua đuổi bà.

Còn đứa con gái thì nhỏ hoảng sợ chạy trốn, nấp mình bên mẹ nó.

Riêng tôi, khi đã nhận ra mẹ mình, thì tôi vừa giận, vừa lo, vừa sợ vợ tôi biết chuyện, cho nên tôi chạy ra cổng và hét to lên:

- Sao bà dám đến đây, làm cho con tôi sợ đến thế? Bà hãy đi ra khỏi đây ngay!

Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời:

- Ồ xin lỗi. Tôi đã nhầm địa chỉ! Rồi bà lặng lẽ quay đi.

Từ đó, tôi không thèm liên lạc gì với bà nữa trong suốt một thời gian khá dài. Bởi tôi tự nhủ: Hồi tôi còn nhỏ, mẹ đã làm cớ cho chúng bạn trên chọc tôi, làm cho tôi phải nhục nhã ê chề, đã làm cho tôi phải đau khổ.

Bây giờ, mẹ lại còn định phá huỷ cuộc sống hạnh phúc tôi đang có nữa hay sao?

Thế rồi một hôm, tôi nhận được một thư báo của Bưu điện gởi đến tận nhà, mời tôi đến dự buổi họp mặt với các bạn xưa nơi trường cũ, nhân kỷ niệm mừng 50 năm thành lập nhà trường.

Tôi đã thu xếp mọi công việc, để về tham dự buổi họp mặt này, bởi 50 năm mới có một lần.

Sau buổi họp mặt, tôi đã ghé qua nhà của mẹ. Có lẽ vì tò mò, hơn là vì muốn thăm mẹ.

Khi đến nơi, mấy người hàng xóm nói, là mẹ tôi vừa mới mất, chỉ cách đây vài ngày thôi.

Vì không biết ai là người thân ruột thịt, cho nên sở an ninh xã hội, đã đứng ra lo mai táng cho bà.

Họ lo mọi chuyện hậu sự cũng chu đáo lắm.

Tuy nghe một tin rất buồn, nhưng sao tôi lại dửng dưng, đã không hề nhỏ lấy được một giọt nước mắt.

Người ta trao lại cho tôi một lá thư của bà để lại. Lá thư viết như sau:

"Con yêu quý, lúc nào mẹ cũng nhớ đến con. Mẹ xin lỗi con, về việc mẹ bất ngờ, đã dám đi Singapore trái ý con, và đã làm cho các cháu phải sợ hãi. Mong con hiểu cho mẹ, là mẹ quá nhớ con.

Nhưng hôm nay mẹ rất vui, khi nghe tin con sắp sửa trở về trường xưa, để tham dự buổi họp mặt với các bạn bè cũ, nhân kỷ niệm 50 năm, ngày thành lập nhà trường.

Mẹ cũng rất ước ao đến nhà trường để nhìn con, dầu chỉ có thể nhìn thấy từ đàng xa.

Nhưng hôm nay, sức khoẻ của mẹ đã quá yếu, nên chắc là không thể thực hiện được ước mơ này.

Nhất là mấy ngày nay, mẹ không thể bước ra khỏi giường được nữa, cho nên mẹ mới mượn những dòng chữ này, để tâm sự với con. Hy vọng những dòng chữ này, một ngày nào đó, sẽ được trao đến tận tay con, sau khi mẹ qua đời.

Trươc hết, mẹ xin lỗi con, vì đã làm cho con phải xấu hổ với bạn bè, trong suốt thời gian con còn học ở nhà trường này.

Nhưng con có biết không, hồi con còn nhỏ, con bị một tai nạn, nên đã bị hư đi một mắt. Mẹ không thể ngồi đó nhìn con lớn lên, mà chỉ có một mắt. Cho nên mẹ đã quyết định, tặng chính con mắt của mẹ cho con. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có, để các bác sĩ có thể thành công, trong việc thay mắt của mẹ cho con.

Nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc làm này. Ngược lại, mẹ còn rất hãnh diện, vì con đã thành công trong cuộc sống, và đã có địa vị trong xã hội. Và mẹ cũng rất hãnh diện vì con, và về những gì mẹ đã làm cho con.

Nay, con đã học thành tài, con đã nhìn thấy được cả thế giới, với tất cả sự văn minh của nó, thay cho mẹ, bằng chính con mắt của mẹ. Mẹ rất cám ơn con. Mẹ yêu con nhiều lắm.

Ký tên: Mẹ...".

*****

Câu chuyện lại bất ngờ, được kết thúc ở đây. Tôi không biết sau đó, người con này đã làm gì, đã  ân hận đến mức nào, và nhất là, không biết đã có những thay đổi gì trong cuộc sống hay không?

Nhưng khi đọc qua câu chuyện này, tôi lại cảm nhận được 2 điều.

- Đó là tình yêu của người mẹ thì thật bao la. Ngược lại, người con thì rất vô tâm, có thể nói là bội bạc, có thể gọi được là bất hiếu.

- Và câu chuyện này, cũng cho thấy phần nào mối tương quan của chúng ta là con, đối với Thiên Chúa là cha.

Bà mẹ này đã yêu con mình đến nỗi trao tặng cho con chính con mắt của mình, và đã bán đi tất cả những gì mình có, để chạy chữa cho đứa con.

Còn Thiên Chúa chúng ta, thì Ngài đã trao ban cho chúng ta chính Người Con Một duy nhất của Ngài, và chính Người Con Một đó, cũng đã sẵn lòng chết một cách đau thương, chết một cách nhục nhã trên thập giá, để chuộc tội cho ta, để đền tội thay cho ta.

Mà, nói theo kiểu của thánh Phaolô, Người Con đó đã chết cho chúng ta, khi chúng ta hãy còn là tội nhân, hãy còn là kẻ phản bội, hãy còn là kẻ phản nghịch với Ngài.

Nghĩa là dù ta có bạc nghĩa, dù ta có vô tâm, dù ta có hững hờ như thế nào đi nữa, thì Thiên Chúa cũng vẫn nói với ta, như người mẹ đã nói trong lá thơ: “Mẹ yêu con nhiều lắm”.

Tất nhiên, tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, thì còn lớn hơn nhiều, so với tình yêu của người mẹ trong câu chuyện.

Tình yêu đó đã được Chúa Giêsu minh họa, qua hình ảnh của người cha nhân hậu, được thánh Luca ghi lại trong Sách Tin mừng của ngài, đoạn 15, câu 10.

Người cha đó, tuy không vui, nhưng cũng đã chiều ý con, mà chấp nhận sẵn sàng chia nửa gia tài của mình cho người con út. Và người con đó, sau khi đã phung phá hết tài sản của cha, đã trở về nhà với "thân tàn ma dại".

Người cha này lại niềm nở vui vẻ đón nhận lại đón nhận lại đứa con đi hoang, mà không hề có một lời hạch hỏi trách móc.

Ông cũng không cần đứa con phải nói một lời xin lỗi.

Tình yêu của người cha, đã làm cho người cha này nên mù quáng.

Trước mắt, ông chỉ thấy, đây là một đứa con đáng thương. Chỉ có thế thôi.

Trở lại người con trong câu chuyện.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta, đã thầm trách người con bất hiếu, đã xấu hổ vì có người mẹ một mắt. Bởi anh ta đã vô tâm quá mức, trước những tình yêu, mà người mẹ đã trọn vẹn dành cho anh. Một sự vô tâm đến mức bất nhân, bất nghĩa, và trở thành bất hiếu đối với mẹ mình.

*****

Nhưng nếu cứ nhìn vào cách ta đã từng đối xử với Chúa, thì coi chừng, có khi ta còn tệ hơn người con bất hiếu trong câu chuyện nữa.

Vậy ta hãy thử nhìn lên cây thánh giá Chúa, xem ta có một chút cảm nghiệm nào, hay có một chút rung động nào, về một tình yêu cao cả mà Thiên Chúa đã dành cho ta chăng, một tình yêu, đã khiến cho Chúa dám chết cho ta, chết vì ta, để đền tội thay cho ta.

Ta có nhớ không, chính Chúa đã có lần nói:

“Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người dám hy sinh mạng sống của mình vì bạn hữu”.

Ta là bạn hữu của Chúa, ta là môn đệ của Chúa, mà ta không cảm nghiệm được tình yêu cao quí mà Chúa đã dành cho ta, thì thử hỏi ta có còn xứng đáng là môn đệ của Chúa nữa được chăng?

Với sự vô tâm vô cảm này, thử hỏi ta có xứng đáng đón nhận tình yêu, mà Chúa dành cho ta chăng?

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin hãy uốn nắn lòng con, để con có thể nếm cảm được tình Chúa yêu con, để con biết sống xứng đáng hơn nữa là một người con hiếu thảo của Chúa. Amen.

-------------------
 

Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=EhclI-Yvv_c


-----------------------------

 

Bài 8: LỜI TÂM SỰ CỦA HÒN ĐÁ CUỘI


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 336)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Chúng ta hãy nghe viên đá cuội kể về nguồn gốc của mình như sau:

“Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ ở trên núi cao. Trải qua bao năm tháng dài đăng đẳng, bị mặt trời nung nấu thiêu đốt, tôi đã phải mang nhiều vết nứt nẻ trên thân mình.

Rồi một hôm, trong một cơn dông gió mưa bão, tôi đã bị vỡ ra, rồi lăn dài dọc theo sườn núi.

Tôi lại bị mưa bão và nước lũ, cuốn lôi tôi vào dòng sông, vào khe suối, khiến cho tôi phải bị thương tích đầy mình, do những va chạm, và nhào lộn liên tục.

Nhưng, chính nhờ những dòng nước, mà những vết thương của tôi lại được chữa lành, và tôi đã trở thành một hòn đá cuội láng mịn, có hình dáng đẹp như hôm nay”.

Bạn thân mến,

Bạn đã nghĩ gì, khi nghe lời tâm sự của hòn đá cuội?

Bạn cảm thấy thích thú, vì chuyến đi du lịch, rong chơi khắp nơi của hòn sỏi, hay bạn đã bị xúc động mạnh, vì ánh mắt lạc quan của hòn sỏi, trước một cuộc hành trình đầy biến động?

Bởi chính nhờ những gian khó, đầy chông gai đã vượt qua, và nhờ những vết thương đau đớn, mà hòn sỏi mới có được một hình hài thật đẹp và rất ấn tượng.

*****

Nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Cuộc đời của chúng ta, không phải lúc nào cũng là hạnh phúc, cũng không phải lúc nào cũng là bất hạnh.

Nhưng những bất hạnh và những hạnh phúc, luôn đan xen hoà lẫn vào nhau, làm nên cuộc đời của ta.

Nếu chúng ta biết cố gắng vượt qua được những bất hạnh, vượt qua được những gian khổ, vượt qua được những thử thách, vượt qua được những nỗi đau, thì chúng ta sẽ làm hoàn thiện chân dung của mình.

Trong mọi tình huống, chúng ta hãy suy ngẫm về cuộc hành trình của hòn đá cuội, để chúng ta sống tự tin hơn, để chúng ta cũng biết dùng tình yêu thương và sự lạc quan vui sống, mà xoa dịu và làm lành những vết thương nơi ta và nơi những người sống bên cạnh ta.

Ta nên luôn ghi nhớ điều này, là những va chạm, những gian lao thử thách đau thương trong cuộc sống, là một điều cần thiết, để tôi luyện chính bản thân ta, và làm hoàn thiện chân dung hình hài của ta, không có gì đáng, để chúng ta phải sợ hãi, để lẫn trốn, để tránh né.

Lạy Chúa, những tâm sự của hòn đá cuội, chính là một bài học dạy con về một cách sống, đó là phải nhắm một hướng để đi lên, phải chọn một con đường để đi tới.

Xin cho con có đủ nghị lực, để con có thể vượt qua được những đau thương và những gian lao thử thách trong cuộc đời.

Xin đừng để con chùn chân, hay lùi bước trước những nghịch cảnh, kẻo con lại bỏ lỡ những cơ hội, để rèn luyện con cho nên hoàn thiện hơn.

Xin luôn nhắc nhở con về lời Chúa đã căn dặn thánh Phaolô trong thư thứ 2 gởi cho giáo dân Corintô, đoạn 12, câu 9, như sau: “Ơn của Cha sẽ đủ cho con. Và sức mạnh của Cha sẽ được biểu lộ trong sự yếu đối của con”.

Xin cho cuộc hành trình của hòn đá cuội, trở thành mẫu mực, để nhắc nhở con, luôn biết hiên ngan mà bước tới, luôn biết cố gắng mà vươn lên, để con biết tự hoàn thiện chính bản thân con, như Chúa hằng mong muốn nơi con. Bởi Chúa đã dạy:

“Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con ở trên trời là Đấng hoàn thiện”. Amen.

-------------------
 

Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=4BqSQZRGIDE


-----------------------------

 

Bài 9: MỘT ƠN HOÁN CẢI THẬT DIỆU KỲ


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 338)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Cha Sta-nis-laus kể chuyện về gia đình của cha như sau:

“Tôi là một linh mục công giáo, dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Tôi có một người anh, cũng làm linh mục, thuộc dòng Tên.

Cha của chúng tôi là Đại Uý Kiểm lâm trong một thị trấn nhỏ ở Lu-xem-bourg.

Cha mẹ tôi rất sùng đạo, rất siêng năng đi tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày.

Mọi người, ai ai cũng đều khen ngợi gia đình chúng tôi, là một gia đình rất hạnh phúc, vì có ông bà cố đạo đức, nhất là vì gia đình này đã cống hiến được cho Giáo Hội tới 2 vị linh mục”.

Cha Sta-nis-laus nói tiếp:

“Vâng, đúng là như vậy. Gia đình chúng tôi rất hạnh phúc.

Nhưng mà ngay từ đầu, không phải mọi sự đều êm xuôi tốt đẹp như vậy đâu!

*****

Nhớ lại, khi chúng tôi còn bé, cha chúng tôi đã từng bỏ đạo, và mẹ chúng tôi, tuy còn đọc kinh cầu nguyện riêng tư, nhưng không hề đến nhà thờ, không hề đi lễ, kể cả lễ Chúa Nhật là luật buộc.

Và hai anh em chúng tôi cũng thế.

Bởi tất cả mọi người trong gia đình này, đều phải nghiêm túc chấp hành mọi ý muốn của cha tôi.

Có nhiều người thắc mắc hỏi tôi:

“Tại sao bất ngờ quá như vậy. Đúng là một chuyện lạ. Vậy thì, ơn gọi làm linh mục của 2 cha từ đâu mà ra?”

Cha Sta-nis-laus đã nhẫn nha kể lại chuyện xưa của gia đình cha như sau:

“Hồi đó, như thói quen hằng ngày, vào các buổi chiều, sau khi làm xong hết các công việc, cha tôi thường đến thăm một ông bạn, ở một cửa hàng bán thịt gần đó.

Ông là bạn thân nối khố của cha tôi từ những ngày còn thơ ấu. Ông cũng là chủ của cửa hàng này.

Khi gặp gỡ nhau, thì lần nào cũng vậy, 2 người huyên thuyên kể cho nhau nghe đủ thứ mọi chuyện, hết chuyện trên trời, đến chuyện dưới đất, hết chuyện thời sự chính trị, đến chuyện linh tinh xảy ra trong ngày tại địa phương.

Bỗng một hôm, khi 2 ông đang say sưa kể chuyện, thì một cụ già lọm khọm đến đứng trước cửa tiệm, xin mua một miếng thịt.

Bà nói, tôi đang trên đường đi lễ, sợ sau lễ quá tối quá muộn, nên tôi ghé xin ông để dành một phần thịt cho tôi.

Ông chủ tiệm hỏi: “Bà cần mua bao nhiêu?”

Bà trả lời: “Lần này tôi hết tiền rồi. Nên tôi đến xin ông cho tôi một miếng thịt, vừa đủ cho một mình tôi ăn thôi. Tôi không muốn mua chịu, vì sợ mai mốt, tôi không có tiền để trả”.

Ông chủ tiệm trả lời: “Bà cần thịt, nhưng mà tôi thì cần tiền”.

Cụ già trả lời: “Hiện tại, túi của tôi đã cháy khô, không còn một đồng xu dính túi.

Hay là như thế này, để bù lại, thì lát nữa đây, tôi đến nhà thờ dâng thánh lễ, tôi sẽ cầu nguyện cho ông một cách riêng, theo ý nguyện của ông”.

Ông chủ tiệm và cha tôi, tuy cả hai người đều coi thường tôn giáo, chẳng tin gì ở Thánh Lễ, cũng chẳng tin gì ở các bí tích, và càng không tin gì ở Giáo Hội, nhưng cả 2 người, đều là những người tốt bụng.

Và vì sự tốt bụng này, mà ông chủ tiệm cũng đã cắt một miếng thịt để riêng một bên dành cho bà cụ.

Nhưng, vì không tin gì ở tôn giáo, cho nên ông chủ tiệm muốn đùa một chút cho vui.

Ông nói: “Tôi được”.

Ông vội lau tay, rồi lấy một miếng giấy và một cây viết ở ngăn kéo phía dưới. Ông viết vội vàng mấy chữa đưa cho bà.

Đại khái là: xin bà dâng lễ cầu nguyện theo ý của tôi”.

Bà cụ cầm miếng giấy, xếp làm tư, cẩn thận cho vào túi.

Sau đó, nói lời cám ơn, bà cụ từ giả. Bà tiếp tục tới nhà thờ, để cho kịp tham dự thánh lễ.

Sau thánh lễ, bà cụ trở về, không quên ghé cửa hàng bán thịt để nhận miếng thịt.

Vừa gặp lại bà cụ, ông chủ cửa hàng thịt hỏi ngay : “Miếng gấy tôi xin cầu nguyện đâu. Bà cụ móc miếng giấy trong túi áo ra đưa cho ông.

Đang khi đó, ông lấy miếng thịt định tặng cho bà, đặt lên đĩa cân. Rồi lại ông cầm miếng giấy bà vừa trao, đặt lên dĩa cân phía đầu kia.

Đang khi đặt miếng giấy lên đĩa cân, thì ông nói: “Để xem thánh lễ bà dâng cầu nguyện cho tôi, đáng giá được bao nhiêu nha!”

Bỗng ông hoa mắt lên, hốt hoảng, gọi ba tôi lại xem:

Miếng giấy như thế này, mà lại nặng hơn miếng thịt.

Ba tôi cầm lấy một khúc xương cạnh đó, chất thêm lên đĩa cân có thịt.

Thật lạ lùng, cây cân vẫn không nhúc nhích gì. Miếng giấy vẫn nặng hơn miếng thịt và khúc xương.

Ông chủ tiệm lại chất thêm lên đĩa cân một tảng thịt nữa.

Cây cân vẫn không nhúc nhích gì.

Ba tôi liền tuyên bố: Như vậy là  cây cân của chú mày có vấn đề.

Ông chủ tiệm không tin là như vậy. Bởi, đây là cây cân ông vẫn thường dùng hằng ngày, để mua bán, nên không có chuyện cân hư.

Rồi ông chủ tiệm thử lấy miếng giấy ra, thì dĩa cân phía bên có thịt lại bị trì xuống, còn dĩa cân phía bên đầu kia, lại nhấc bổng lên.

Khi lấy hết thịt ra, thì 2 bên cân lại cân bằng, nghĩa là hoạt động bình thường.

Ông thử đặt lên cân những thứ khác nữa để cân, giống như ông vẫn thường làm hàng ngày, thì thấy cây cân hoạt động rất tốt, rất chính xác.

Ông lại thử đưa miếng giấy lên cân lại một lần nữa, dù ông có đổi phía bên nào, thì phía bên miếng giấy có ghi ý lễ vẫn nặng hơn.

Lúc bấy giờ, khá nhiều người chung quanh bu lại xem cái cân, và để xem sự lạ.

Ai ai cũng đều hết sức kinh ngạc.

Nhưng cũng nhờ thế, mà mọi người đều đã hiểu ra điểm giáo lý đã học từ hồi nhỏ, lúc rước lễ lần đầu, đó là: Thánh Lễ Misa là vô giá. Và, không thể tính giá trị của một Thánh Lễ bằng tiền bạc được.

Khi chứng kiến một chuyện lạ vừa xảy ra, ông cửa hàng thịt và ba tôi, đều đã được ơn hoán cải hoàn toàn.

Riêng ông chủ cửa hàng thịt thì hứa sẽ cung cấp thịt hàng ngày miễn phí cho bà cụ nghèo này.

Ông đã giữ lời hứa.

Và ông còn tìm nhiều dịp khác nữa, để làm các việc từ thiện bác ái xã hội một cách hết sức tích cực, những việc mà từ trước đến nay, ông chẳng hề có một chút quan tâm gì, và ông còn tìm nhiều dịp khác nữa để phân phát thịt miễn phí cho những gia đình nghèo, nhất là trong các dịp lễ.

Tiếng lành đồn xa.

Thế rồi mọi người, ai ai cũng đều kháo láo với nhau, là thịt ở cửa hàng của ông là rất ngon.

Từ đó, nhiều người ở khắp nơi đổ xô tới mua thịt nơi cửa hàng của ông.

Thế là số doanh thu hàng tháng của ông đã tăng nhanh một cách lạ lùng, chưa từng bao giờ có.

Còn phần gia đình tôi, ngay hôm sau, cha tôi và cả gia đình, tất cả đã đều bắt đầu đi lễ trở lại, không phải chỉ có đi lễ Chúa nhật, mà cả ngày thường, cha tôi cũng buộc mọi người, phải liệu thu xếp công việc mà đi lễ, để bù đắp lại cho những năm tháng bê trễ nguội lạnh đã qua.

Riêng cha tôi, ông còn được một ơn khác nữa, đó là ơn cảm nghiệm được sự hiện diện Chúa Giêsu ngự thật trong phép Thánh Thể. Cho nên, ngoài việc đi lễ và rước lễ hằng ngày, thì mỗi khi có dịp đi ngang qua nhà thờ, ông đều ghé vào nhà thờ để viếng Chúa.

Cả khi cửa nhà thờ đóng, ông cũng vẫn dừng chân lại ở tiền đường nhà thờ, đọc một vài kinh, nói với Chúa vài câu, cúi đầu từ giả Chúa, rồi ông mới tiếp tục công việc.

Nhất là trong nhà chúng tôi, kể từ ngày chứng kiến dấu lạ đó, thì bầu khí trong gia đình đã thay đổi khác hẳn.

Gia đình chúng tôi đã không còn có những chuyện linh tinh như trước nữa. Hạnh phúc Chúa ban cho gia đình chúng tôi thật là vĩ đại. Chúng tôi vui mùng khôn tả xiết.

Chúng tôi đã bắt đầu mến Chúa nhiều hơn, biết thương yêu nhau nhiều hơn, nhất là biết quam tâm đến những người khác nhiều hơn, siêng năng làm các việc từ thiện bác ái nhiều hơn, tham gia các sinh hoạt của giáo xứ nhiều hơn.

Gia đình chúng tôi bỗng trở nên một Tiểu Thiên Đàng.

Và Ơn Chúa gọi 2 anh em chúng tôi đi tu, cũng bắt đầu từ đó, bắt đầu từ những ngày được ơn hoán cải, bắt đầu từ những ngày biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể thật sự.

Lạy Chúa, Chúa làm được hết mọi chuyện, thật là kỳ diệu, thật là lạ lùng.

Xin cho con được yêu mến Chúa nhiều hơn nữa.

Xin cho con được thêm xác tín sự hiện diện của Chúa nơi Phép Thánh Thể, để con biết siêng năng tham dự thánh lễ nhiều hơn, biết cố gắng rước Chúa mỗi khi tham dự thánh lễ.

Nhất là xin Chúa hãy biến đổi con thành khí cụ bình an của Chúa, để con biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=gsBRcTff3iU

-------------------------------

 

Bài 10: CHUYỆN MỘT ÔNG VUA THỜI XƯA


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 340)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Mới rồi, tôi có đọc được trên một tờ báo cũ, kể lại một câu chuyện thời xưa như sau:

Có một ông vua, đang khi ngự trào, để bàn bạc việc nước với đông đảo quần thần, bỗng ông tỏ ra hết sức ngỡ ngàng ngạc nhiên, và tỏ ra hết sức lo lắng, vì không thấy ai có ý kiến gì, khác ý với những ý kiến của ông. Ai ai cũng đều rập khuôn, nhất trí theo ông. Ai ai cũng đều thống nhất hoàn toàn với những vấn đề ông đưa ra, và còn cho rằng: Những ý kiến của Vua là rất hay, là rất phải, là rất đúng. Không có gì để bàn bạc thêm. Không có gì để góp ý thêm nữa.

Trước sự kiện này, nhà vua tỏ vẻ lo lắng, áy náy thật sự.

Có người hỏi: Tại sao nhà vua không vui, mà lại tỏ vẻ lo lắng quá như vậy?

Nhà Vua trả lời:

“Trong tất cả triều thần đông đảo như thế này, mà không ai có ý kiến gì, khác với ý kiến của ta, thì, hoặc là triều đình này không có ai tài giỏi hơn ta. Mà điều này rõ ràng là không đúng, bởi ta đã cảm thấy rất cần có một hội nghị, nên đã triệu tập mọi người về đây, toàn là những người tài đức, toàn là những người giỏi giang, là để tham mưu cho ta, là để góp ý cho ta, là để cố vấn cho ta, là để hiến kế cho ta, trong việc điều khiển đất nước.

Đây là một chuyện đại sự, thế mà kết thúc lại không có gì.

Thử hỏi, một Hội Nghị như thế này có phải là một hội nghị ta mong đợi hay chăng?

Một Hội nghị như thế này có đem lại ích lợi gì cho đất nước hay chăng?

– Hay là  vì tất cả quần thần, đều là những người thích xu nịnh, cho nên không ai dám nói ra ý kiến của mình.

Đàng nào, dù thụ động hay dù xu nịnh, thì cũng đều là nguy cơ cho đất nước. Đó là điều làm cho ta rất lo lắng”.

Thiên hạ thời sau rất khen vị vua này. Bởi vì vua đó, là một con người cởi mở, là một con người luôn cầu tiến, là một con người biết coi trọng những ý kiến khác biệt, coi đó như một dấu chỉ tốt, đáng mừng cho đất nước, nhờ đó mà đất nước mới có khả năng tiến bộ, nhờ đó mà đất nước mới có khả năng đi lên, nhờ đó mà đất nước mới có khả năng phát triển.

*****

Bạn thân mến,

Câu huyện trên đây có thể áp dụng cho bất cứ xã hội nào, ở bất cứ thời đại nào, dù đời, dù đạo, dù trong chuyện lớn, dù trong chuyện nhỏ.

Chủ yếu của câu chuyện, là muốn dạy chúng ta một bài học, đó là: Khuyến khích ta, nên có những thái độ khác biệt, có khi cũng phải chấp nhận những chống đối nữa.

Nhưng nếu biết dùng những yếu tố khác biệt đó một cách khôn khéo, thì sẽ nảy sinh nhiều lợi ích, thì sẽ có nhiều khả năng tiến bộ.

Thực tế lịch sử đạo đời, đã chứng minh cho chúng ta thấy điều đó.

Vì thế, khi đọc bài Phúc Âm theo thánh Luca đoạn 12 câu 51, nói về những cọ sát gay gắt, giữa những khác biệt và những mâu thuẫn trong gia đình, trong nội bộ cộng đoàn, hoặc giữa cộng đoàn này với cộng đoàn khác, thì chúng ta thấy, Chúa Giêsu muốn làm nổi bật những cái khác biệt đó.

Và Chúa cũng muốn cho có những mâu thuẫn đó xảy ra, vì lợi ích cho cá nhân, vì lợi ích cho các gia đình, và vì lợi ích cho các cộng đoàn, để từ đó, sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, sẽ có nhiều tiến bộ, và sẽ sinh nhiều lợi ích thật sự.

Bởi chính Chúa đã nói: “Thầy đã đến, là để ném lửa vào trần gian, và Thầy những mong muốn, ước mong sao cho ngọn lửa ấy được bùng cháy lên!” Nghĩa là Chúa muốn lòng mọi người phải nóng lên. Chúa không muốn có ai ù lì, hay thụ động trong cuộc sống.

Và Chúa vẫn còn thao thức. Chúa vẫn còn trăn trở mãi, bao lâu lửa ấy chưa được bùng lên, trong trái tim của con người, trong trái tim của mỗi người chúng ta.

Xét trong thực tế, ở nhiều người, ở nhiều nơi, ở nhiều cộng đoàn, vẫn còn có nhiều cách sống thật dững dưng, vẫn còn có những thái độ sống rất lạnh lùng, rất thụ động, không có sức sống.

Có nghĩa là, đại đa số vẫn thích sống như lục bình trôi, vẫn thích sống ù lì, vẫn cứ thích ngủ mê trong những thói quen, trong những tập tục cố hữu đã có từ ngàn đời, vẫn thích ngủ mê trong những tật xấu, trong sự tự mãn, trong sự ích kỷ, trong sự hẹp hòi, đầy thành kiến của mình.

Do đó, để làm cho họ thức tỉnh, để lôi kéo họ ra khỏi tình trạng ù lì, chậm tiến và sai lầm đó, Chúa đã cố ý làm cho nổ tung, những xung đột, giữa các khuynh hướng khác nhau, chấp nhận những đấu tranh, chấp nhận có những chống đối.

Vì thế Chúa đã nói: “Anh em tưởng rằng, Thầy đến là để ban hoà bình cho trái đất này sao?

Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu. Thầy đến là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, nghĩa là từ những giáo lý của Chúa, thì năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba, cha chống lại con trai, con trai chống lại cha, mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ, mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”  (Luca 12,51-53).

Chính tình hình đó, mà nếu muốn tiếp tục sống, mà nếu muốn tiếp tục tồn tại, thì mọi người buộc phải suy nghĩ, buộc phải cố gắng, buộc phải phấn đấu, để tìm cho ra một hướng đi đúng đắn, để tìm cho ra một sự thật, để khám phá ra một chân lý mà theo, để tìm cho ra một phương thức để vượt khó, để đi lên, để có thể đạt tới lý tưởng hạnh phúc tốt đẹp thật sự.

Bạn thân mến,

Với đà cởi mở như hiện nay, đất nước Việt Nam chúng ta, Hội Thánh Việt Nam chúng ta, đang bước vào giai đoạn đó, một giai đoạn bùng nổ những khuynh hướng khác biệt nhau, với những suy nghĩ khác nhau, có khi chống đối nhau, ngay trong chính gia đình mình, hay giữa cộng đoàn của mình, giữa các thế hệ già trẻ, với những não trạng cũ mới, đã và đang dần dần vẽ nên những bức tranh, đúng như Chúa đã tiên báo.

Để cho những diễn tiến này không trở thành tiêu cực, thì chúng ta, các bậc phụ huynh, và những ai có trách nhiệm huấn luyện, giáo dục, đào tạo con người, cần phải biết đưa tinh thần đạo đức, vào trong các cuộc đối thoại, vào trong các cuộc tranh luận, vào trong các sinh hoạt, vào trong các cuộc gặp gỡ khác biệt này.

Sau đây là một vài gợi ý, rút ra từ thông điệp “Hoà Bình trên trái đất” (Pacem in terris) của ĐGH Gioan XXIII, ký ngày 11-04-1963, có thể áp dụng vào trong những suy tư của chúng ta.

- Gợi ý thứ I: Là chúng ta phải biết tôn trọng sự thật. Đừng có hồ đồ, đừng có vu khống, đừng có xuyên tạc, đừng có gian dối, đừng có thành kiến.

- Gợi ý thứ II: Là trong mọi việc, chúng ta phải đặt nền tảng trên công bằng, trên chân lý, trên lẻ phải, biết tôn trọng kẻ khác, và biết tôn trọng quyền lợi của kẻ khác.

- Gợi ý thứ III: Là khi đối thoại hay tranh luận, chúng ta phải cố gắng đối thoại hay tranh luận, trong bầu khí bác ái, yêu thương, được diễn tả qua những lời nói, qua những cử chỉ, qua những cách ứng xử, xuất phát từ những động lực của trái tim, xuất phát từ nội tâm tốt lành, lương thiện, đạo đức, nhằm để xây dựng.

Hãy luôn cảnh giác, đừng để cho những hận thù, những ghen ghét, hay những thành kiến, hay tính ích kỷ hẹp hòi chi phối.

Lạy Chúa, nếu chính Chúa đã muốn xảy ra những khác biệt, thì xin Chúa cũng thương giúp con, hiểu sao cho đúng, và ứng xử sao cho chuẩn những khác biệt đó, để Nước Chúa trong con và trong tất cả mọi người, càng ngày càng được mở rộng, theo những sắp xếp an bài của Chúa. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=WxYfYNFBs3g&t=7s

---------------------------------

 

Bài 11: NHỮNG NÉT ĐẸP CỦA ĐỜI LINH MỤC


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 343)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

 “Những nét đẹp của đời linh mục” là một bài viết của Linh mục Nguyễn Tầm Thường, thuộc dòng tên, được đăng ở trang Web mang tên của ngài.

Tôi xin được phép trích ra đây đôi đoạn, để chia sẻ vắn tắt với những ai tha thiết quan tâm đến Giáo Hội, và tha thiết quan tâm đến việc cầu nguyện cho các linh mục.

Đại khái cha viết: Cuộc sống quanh ta có biết bao là nét đẹp:

- Nét đẹp của thiên nhiên.
- Nét đẹp của hoa cỏ đồng nội.
- Nét đẹp của trăng sao.
- Nét đẹp của cá nước chim trời.
- Nét đẹp của những cánh đồng mênh mông bát ngát.
- Nét đẹp của của những dòng sông hiền hòa, trĩu nặng phù sa.
- Nét đẹp của thiên nhiên. 

- Và nét đẹp của con người.

Nét đẹp của con người, chính là nét đẹp của trí tuệ, nét đẹp về hình thể, nét đẹp của lòng nhân ái bao dung, nét đẹp trong những lời thơ, nét đẹp trong những tiếng hát v.v…

Đã có nhạc sĩ viết được những dòng nhạc sau đây: “Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp.”

*****

Thế nhưng, những nét đẹp của đời linh mục là gì?

Trong một bài viết của cha Antôn Đào Quang Chính, Dòng Đa Minh, đã có liệt kê ra được 6 cái nét đẹp, mà cha gọi là 6 cái niềm vui sướng của người linh mục:

“Cái sướng thứ nhất là được người ta gọi bằng “Cha”.

Cái sướng thứ hai là được xếp vào hàng khanh tướng, như một bài hát quen thuộc đã đề cao linh mục: “Chúa đã chọn con lên hàng khanh tướng”.

Cái sướng thứ ba là được nghe tội người khác.

Cái sướng thứ tư là được ngồi ở chỗ kính trọng.

Cái sướng thứ năm là không bao giờ sợ bị “lay-off”, nghĩa là không bao giờ sợ bị thất nghiệp.

Cái sướng thứ sáu là cha nói một tiếng, bằng chúng con nói mười tiếng.”

Thế nhưng, suy cho cùng, những niềm vui sướng ấy cũng chỉ dừng lại ở những khía cạnh hình thức bên ngoài mà thôi. Những niềm vui sướng ấy không nói lên được những nét đẹp từ căn tính và từ sứ vụ của người linh mục.

Những nét đẹp sâu xa từ căn tính và từ sứ vụ của đời linh mục, thì có thể thấy được 5 nét đẹp này, là nét đẹp của tâm linh, là nét đẹp của sẻ chia, là nét đẹp của tha thứ, là nét đẹp của hy sinh.

1. Trước tiên, nét đẹp tâm linh của người linh mục, là sự cầu nguyện.

Vì linh mục là con người của cầu nguyện, và là thầy dạy về sự cầu nguyện, cho nên hằng ngày linh mục phải nguyện gẫm, linh mục phải suy niệm Lời Chúa, linh mục phải giảng dạy Lời Chúa, linh mục phải viếng Chúa, linh mục phải Chầu Thánh Thể, và linh mục phải dâng Thánh lễ mỗi ngày.

Nói cầu nguyện là nét đẹp tâm linh trong đời linh mục, là bởi vì mỗi lần cầu nguyện và suy gẫm, linh mục có thời gian để nhìn lại chính mình, nhìn lại mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, nhìn lại mối tương quan giữa mình với giáo dân.

Mỗi lần nguyện gẫm và giảng dạy Lời Chúa, linh mục đã để cho Lời Chúa soi sáng, dẫn đường, để có thể nói lên những lời an ủi, để rao giảng những lời yêu thương, để đưa ra những lời chân thật, và để chuyển đạt những lời ban sự sống cho giáo dân.

Mỗi lần viếng Chúa, mỗi lần chầu Thánh Thể, linh mục được nuôi dưỡng nhờ sự cầu nguyện và nhờ sự chiêm ngắm Thánh Thể, là bí tích của tình yêu, một tình yêu cao trọng, một tình yêu, yêu cho đến cùng, mà Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đời đời, đã dành cho nhân loại.

Rồi, mỗi lần dâng Thánh lễ, là mỗi lần linh mục cùng kết hiệp với hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá, để dâng những suy nghĩ, những dự tính, những ước muốn, và dâng cả những lỗi lầm, những bất xứng trong đời linh mục lên cho Thiên Chúa Cha, để cầu nguyện cho bản thân, để cầu nguyện cho đoàn chiên mà Chúa trao phó.

2. Nét đẹp thứ 2 của người linh mục là sẻ chia.

Nhiều người đau khổ, tuyệt vọng, do những biến cố đau thương của cuộc sống giữa đời thường, đã tìm đến người linh mục, để xin những lời khuyên, để xin cầu nguyện, để lấy sức mà vượt qua được những khó khăn, để thêm nghị lực mà lướt thắng được mọi thử thách, để thêm can đảm mà chịu đựng những nỗi khổ đau về tinh thần, về vật chất, để hy vọng có Ngài sẻ chia.

Bởi kinh nghiệm cho thấy, khi đau khổ mà có ai lắng nghe, có ai thông cảm và chia sẻ, thì nỗi đau của ta sẽ vơi nhẹ đi rất nhiều.

Nhiều linh mục còn tổ chức mời các bác sĩ ở thành phố về giáo xứ để khám bệnh, để phát thuốc miễn phí cho bà con giáo dân, và cho cả những bà con láng giềng, không phân biệt tôn giáo.

Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát quà cho bà con giáo dân nghèo, vào mỗi dịp lễ Giáng sinh về, hay các dịp lễ Tết đến.

Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ những gia đình neo đơn.

Khi gia đình nào có tang chế, linh mục đến tại gia đình để cầu nguyện, để chia sẻ sự mất mát to lớn của gia đình.

Linh mục còn dâng thánh lễ cầu nguyện cho người quá cố, và tiễn đưa người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Đó là những nét đẹp của sẻ chia đầy yêu thương nơi người linh mục.

3. Còn nét đẹp thứ 3 của người linh mục là sự tha thứ.

Theo gương Chúa Giêsu, người linh mục là con người của tha thứ.

Ngài tha thứ cho những giáo dân nói xấu ngài, phê bình ngài, chỉ trích ngài và lên án ngài.

Ngài tha thứ cho những hối nhân với tòa giải tội.

Đây là những nét đẹp của lòng bao dung của cha mẹ, sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của con cái mình.

Ngài luôn đón nhận tất cả đoàn chiên, trong vòng tay nhân ái của người mục tử nhân lành.

4. Còn nét đẹp thứ 4 của người linh mục là hy sinh.

Làm linh mục đòi hỏi phải hy sinh nhiều lắm: Hy sinh thời giờ, hy sinh sức khỏe, hy sinh công sức, hy sinh những giây phút thư giãn của bản thân, để phục vụ cho nhu cầu tâm linh của mọi người.

Linh mục hy sinh sống đời độc thân, không có vợ con, để có điều kiện hơn mà phục vụ Giáo hội, và phục vụ con người hết mình.

Như vậy, nét đẹp nơi người linh mục là một sự hy sinh, quyết từ bỏ của cải vật chất, quyết từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, của đam mê xác thịt, từ bỏ những cám dỗ quyền lực, danh vọng, để sống đơn sơ, nhẹ nhàng, thanh thoát, hết mình cho sứ vụ mục tử, như Thầy Giêsu, đã làm gương, đã đi trước.

Để hy sinh được nhiều, thì đòi hỏi tình yêu phải thật cao, yêu Chúa và yêu người.

Tuy nhiên, ngày nay, tâm lý tự nhiên và cũng rất là người, thì ai ai cũng đều sợ hy sinh, ai ai cũng ngại khó, ngại khổ, và nhất là ai ai cũng đều rất sợ từ bỏ.

Linh mục cũng thế thôi. Bởi linh mục vẫn là những con người bình thường, nên những yếu đuối, nên những cám dỗ, và những giới hạn vẫn còn đó.

Do đó, các linh mục rất cần lời cầu nguyện và rất cần sự nâng đỡ của mọi người, thì mới có thể thực hiện được lý tưởng cao đẹp mà các ngài đang theo đuổi.

Lạy Chúa, lý tưởng của các linh mục là rất là đẹp. Nhưng nếu không có ơn Chúa giúp, thì các Ngài cũng không thể hoàn thành nổi. Nên, xin Chúa thương nâng đỡ, hướng dẫn các linh mục của Chúa, để cho những nét đẹp nơi các linh mục, luôn được toà sáng, luôn được rạng ngời nơi các tâm hồn. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=C5JdxUPZ_8c&t=49s

---------------------------------------

 

Bài 12: SỰ HỐI HẬN MUỘN MÀNG


 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 346)
-------------------------------------

Có một bác sĩ vội vàng lái xe thật nhanh quay về bệnh viện, sau khi nhận được một cú điện thoại của bệnh viện báo cho biết, là có một ca phẫu thuật rất khó và rất nguy hiểm, đang rất cần anh về gấp, để giúp giải quyết.

Khi vừa tới bệnh viện, vị bác sĩ này đã nhanh chân chạy vào phòng thay trang phục và đi thẳng vào khu phẫu thuật. Bác sĩ cố gắng tranh thủ từng giây từng phút với Tử Thần đang chờ đón bệnh nhân.

Tuy rất vội, nhưng vị bác sĩ cũng nhìn thấy người cha cậu bé bệnh nhân, đang bồn chồn ở khu vực chờ bác sĩ.

Vừa khi trông thấy bác sĩ vội vàng sắp bước vào phòng mổ, người cha nhanh chân bước tới, chận bác sĩ lại và hét thuật cho tiếng:

- Tại sao giờ này ông mới tới ? Ông có biết là mạng sống của con trai tôi là đang rất nguy hiểm lắm hay không? Ông không có một chút ý thức trách nhiệm nào của một vị bác sĩ hay sao?

Vị bác sĩ mỉm cười, nhẹ nhàng đáp lại:

Tôi xin lỗi. Tôi không có mặt ở trong bệnh viện này, nhưng tôi đã cố gắng hết sức để đến thật nhanh, vừa khi nhận được cuộc gọi của bệnh viện. Còn bây giờ, thì xin anh hãy bình tĩnh, để tôi có thể làm công việc của mình.

Người cha đã không tỏ ra dịu giọng, mà còn nói to tiếng, gắt gỏng hơn. Và sư giận dữ lại tăng lên đến tột độ:

- Bình tĩnh được sao ? Nếu bây giờ, người nằm trong phòng đó, lại chính là con trai của ông, thì liệu ông có bình tĩnh được không? Nếu con trai của ông đã chết, do chờ đợi một bác sĩ quá lâu, thì liệu ông còn có thể nói là bình tĩnh được sao ?

Vị bác sĩ cố lấy bình tĩnh, nhẹ nhàng đáp lại:

- Có Thiên Chúa chứng giám cho tôi. Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức của mình. Phần anh, xin anh hãy hợp tác với chúng tôi và cầu nguyện với Đấng Bề Trên, cho sự sống của con trai của anh và cho công việc giải phẫu của chúng tôi được thành công tốt đẹp.

Đang khi bác sĩ vừa nói, vừa bước vào phòng giải phẫu, thì người cha vẫn tiếp tục lẩm bẩm trong miệng, với những tiếng thở dài, trong nỗi đau đớn xót xa, đầy thất vọng:

- Sao người ta lại có thể có những lời khuyên đơn giản dễ dàng như vậy? Bởi nỗi đau của mình có lẽ chẳng ăn nhập gì với họ. Có lẽ chẳng liên quan gì tới họ. Có lẽ chẳng đụng chạm gì tới cuộc sống của họ, cho nên họ mới có những lời khuyên rẻ tiền như vậy thôi.

Cuộc giải phẫu đã kéo dài vài tiếng đồng hồ. Sau đó bác sĩ bước ra khỏi phòng phẫu thuật, mặt hân hoan, trong niềm vui tràn ngập, báo tin cho người cha:

- Cảm tạ Chúa, cuộc phẫu thuật đã thành công thật mỹ mãn: Con trai của anh đã được cứu sống.

Nói xong, vị bác sĩ vội vàng bước đi, mà không hề dừng lại, dù chỉ một chút, để nghe những lời cảm ơn, và những câu hỏi gì đó, mà người cha định hỏi.

Nhưng ông vừa đi, vừa ngoái cổ lại và nói:

- Nếu anh có muốn hỏi điều gì thì xin hãy hỏi cô y tá.

Người cha rất khó chịu về cái thái độ của bác sĩ, và quay sang than phiền với cô y tá:

- Bác sĩ gì mà sao cao ngạo đến mức như vậy ? Ông ta không thèm dừng lại một chút để nghe tôi nói lời cảm ơn.

Nhưng mà cô y tá đã trả lời cho người cha với hai hàng nước mắt tuôn trào trên má:

- Bác ơi, xin bác hãy thông cảm cho: Con ông ấy vừa qua đời trong một vụ tai nạn giao thông ngày hôm qua. Ông ấy đang lo việc mai sáng cho con của ông ta. Nhưng vì con trai của bác trong cơn nguy kịch, có thể chết, nên chúng tôi đã gọi điện thoại cầu cứu ông ta, vì ông ta là một bác sĩ giỏi nhất ở đây, để ông ta đến phẫu thuật cho con trai của bác. Và bây giờ, sau khi đã cứu sống con trai của bác, thì ông phải vội vàng quay trở về nhà, để tiếp tục lo chuyện hậu sự cho con trai yêu quý của mình.

Bỗng người cha xụp quỵ xuống nền gạch, ôm mặt khóc nức nở, trong sự hối hận đau đớn xót xa, thật thê thảm, vì những lời nói vô tâm, vô cảm lúc nãy của mình, và những thái độ thất lễ vô ơn của mình, đối với một vị đại ân nhân đã cứu sống con mình.

*****

Lạy Chúa, đã bao lần con đã phạm sai lầm như người cha trong câu chuyện này: Con chỉ thấy những nỗi khổ đau của con, chứ không hề thấy những khổ đau của bất cứ ai.

Đã bao lần con bức xúc, vì những người khác đã xúc phạm đến con, nhưng con lại dửng dưng, không nhận ra những xúc phạm, mà con đã gây ra cho kẻ khác.

Đã bao lần con muốn người ta phải hiểu con, nhưng mà chẳng mấy khi con chịu mở tớ đôi mắt ra, mở rộng lỗ tai ra, để nghe, để thấy, để hiểu những người sống bên cạnh con.

Xin Chúa thương tha thứ cho con.

Xin Chúa thương giúp con sửa sai những lỗi lầm này của con, để mỗi ngày, con một nên xứng đáng là con Chúa hơn, và xứng đáng được Chúa yêu thương hơn nữa. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=cz9GnKr-9cc

------------------------------

 

Bài 13: SỰ TÍCH CON CHUỘT


Năm Tý nói chuyện con chuột:
 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 348)
-------------------------------------

Bạn thân mến,

Nói về sự tích con chuột thì theo truyện cổ tích cho biết:

Con chuột là một vị thần ở trên trời, có tên gọi là Thử Thần, nôm na mà gọi là Thần Chuột.

Thử Thần được ngọc hoàng thượng đế phong tước cho, với chức danh là Thiên Khố Giám, nghĩa là thần canh giữ kho tàng Nhà Trời.

Thời xuân trẻ, vị Thử Thần này là một vị quan thanh liêm, cần mẫn, tận tụy, làm việc rất ngăn nắp, rất trật tự, rất khoa học, và rất có quy củ, không hề có chuyện tham lam trong nghề nghiệp, cũng không hề có chuyện gian manh, thủ đoạn hay lạm dụng chức quyền của mình, để làm những chuyện sai trái.

Nói tắt: Thử Thần là một vị quan trung thực, cho nên kho của Nhà Trời không hề có chuyện hư hao, thất thoát, hay mất mát một chút nào.

Nghĩa là kho tàng Nhà Trời được bảo đảm an toàn một cách tuyệt đối.

Chính vì những đức tính tốt này, mà Ngọc Hoàng Thượng Đế rất tin tưởng và đã phong thêm cho cái chức Phò Mã, nghĩa là con rể của triều đình Nhà Trời.

Thế nhưng, kể từ ngày lập gia đình với công chúa, con của Ngọc Hoàng Thượng Đế, thì do gánh nặng của gia đình, Thử Thần mới cảm thấy thiếu trước hụt sau, mới thấy phát sinh những nhu cầu mới của gia đình, của chức vị, của công việc, của giao tế.

Đang miên man lo nghĩ và rất lúng túng trước vấn đề nan giải, bế tắc, không biết cách nào để giải quyết những vấn đề thiếu hụt, đang làm đau đầu, thì bỗng Thử Thần mặt sáng rỡ lên, như đã tìm được một cái phao cứu hộ, khi nghe công chúa, con Vua Trời hiến kế cho:

Kho trời thì vô tận, nên có lượm vài hạt cát rơi rớt nơi cái kho vô tận ấy, thì cũng chẳng có ai mà quan tâm để ý gì đâu.

Từ đó, mỗi ngày, Thử Thần an tâm lót túi một chút đồ trong kho. Và cứ thế, cơ ngơi của Thử Thần ngày càng phình ra, ngày càng nguy nga đồ sộ ra.

Nhưng, Thử Thần quên mất một điều quan trọng này: là Trời có mắt. Cho nên, những việc trộm cắp đó của Thử Thần không qua mắt được Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Do đó, Ngọc Hoàng Thượng Đế đã đày Thử Thần xuống trần gian, cho làm một con vật mới.

Để tránh chuyện ăn cắp, Ngọc Hoàng Thượng Đế đã biến Thử Thần thành một con vật nhỏ thôi, với cái mõm cũng nhỏ thôi. Cái mõm lại chu chu và nhọn ra, để giảm bớt đi cái nhu cầu ăn uống.

Đã thế, Ngọc Hoàng Thượng Đế lại còn tạo cho Thử Thần con mắt nho nhỏ thôi, để bớt đi cái chuyện tò mò, soi mói, liếc qua, liếc lại, nhìn ngang, nhìn dọc.

Chưa hết, Ngọc Hoàng Thượng Đế lại tạo cho Thử Thần một cái đuôi dài ra, để nếu có lẫn trốn ở đâu, thì ai ai cũng đều biết. Nghĩa là dễ bị người ta phát hiện ra. Bởi dân gian thường nói: Giấu đầu thì lòi đuôi.

Từ đó, trên trần gian, người ta thấy xuất hiện một con vật mới. Con vật mới này đêm đêm cứ rình mò, hết chỗ này đến chỗ khác, hết nơi này đến nơi nọ, với hy vọng tìm được một nơi nào đó, mà con người ta sơ hở, thiếu cảnh giác, là ăn cắp lương thực của con người, để mà ăn.

Và khi con người khám phá ra được thủ phạm của các vụ trộm cắp lương thực đó, họ đã đặt tên cho con vật mới nhỏ bé đó là con chuột.

*****

Bạn thân mến,

Câu chuyện trên đây dạy cho chúng ta một điều rất quan trọng, đó là Thiên Chúa khi ban cho chúng ta một thân xác, trong thân phận làm người, trong xã hội loài người, thì ai ai cũng đều có một chức vụ nào đó, trong cuộc sống, trong gia đình, trong xã hội, trong tôn giáo, để chu toàn, để quản lý.

Và tất nhiên, khi chúc vụ đó được trao ban, thì Thiên Chúa cũng luôn đòi buộc con người đó phải hết lòng, hết sức, mà trung thành với chức vụ của mình. Và phải hết sức lo chu toàn công việc, mà mình được trao phó.

Vậy thì, đừng có ai lạm dụng chức vụ của mình, mà chận đầu, chận đuôi, cắt xén, hay là gian tham, trộm cắp, những ân huệ Thiên Chúa ban cho:

Chẳng hạn, như tiền bạc, của cải, tài năng, kể cà thời gian Chúa ban cho, để rồi chỉ biết sử dụng nó, mà lo cho lợi ích riêng tư của mình, hay cho gia đình mình, hay cho phe nhóm lợi ích của mình, mà chẳng hề quan tâm gì đến lợi ích của Chúa, hay cho thân nhân, hay cho những người sống bên cạnh mình.

Cuối cùng, hậu quả tất nhiên sẽ phải đến, đó là sự thê thảm khôn lường dành cho những người quản lý thất tín, bất trung.

Hậu quả thê thảm đó sẽ đến sau khi kết thúc những ngày sống ở trần gian này, nghĩa là sau khi chết.

Bởi lưới trời lồng lộng, thưa mà không dễ lọt qua được Mắt Trời đâu.

Mà có khi, chưa kịp đợi qua cõi đời này, nghĩa là chưa đợi phải qua cái chết mới là hình phạt, mà có khi hình phạt của Trời sẽ đến rất nhãn tiền, sẽ rất thê thảm, ngay trong cuộc sống hiện tại này, hôm nay, bây giờ, trước mắt, ai cũng có thể thấy được.

Lạy Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, xin Chúa cũng giúp cho mỗi người chúng con luôn biết sống xứng đáng là môn đệ của Chúa, xứng đáng là con Chúa, để chúng con đáng được Chúa yêu thương hơn nữa. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=n8sDre_1Pr0

--------------------------------

 

Bài 14: CHUỘT NHÀ VÀ CHUỘT ĐỒNG


Năm Tý nói chuyện con chuột

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 350

-------------------------------------

Bạn thân mến,

Chuột Nhà và Chuột Đồng là hai bạn thân với nhau.

Chuột Đồng là chuột sống ở nông thôn, ngày ngày ra đồng ăn lúa thóc, khoai củ, rau quả, nên cuộc sống rất vui vẻ, hạnh phúc, không hề có một chút bận tâm, hay lo âu nào.

Còn Chuột Nhà, là chuột sống trong một cái hang, ở một góc nhà, của một gia đình giàu có ở thành phố. Đợi khi chủ nhà đi vắng, thì Chuột Nhà mới chạy ra ăn trộm lấy thức ăn của chủ nhà để ăn, hoặc là ôm về nhà cho cả gia đình nhà nó ăn: Nào là đậu đỗ, lúa thóc. Nào là phô mai, thịt thà, dầu mỡ, mật ong, v.v… Toàn là những thức ăn thịnh soạn, cao lương mỹ vị. Cuộc sống của Chuột Nhà phải nói là cực kỳ phong phú và rất sung túc.

Thế rồi một hôm, Chuột Đồng mời Chuột Nhà đến chơi.

Chuột Nhà diện lễ phục thật trang trọng, đúng phong cách của một nhân vật thành phố. Chuột Nhà sau khi diện lễ phục, liền lên đường, nhanh chân, đi thẳng về chốn đồng quê để dự tiệc.

Chuột Đồng mang ra, nào là lúa đại mạch, rau quả, khoai củ, cây trái đủ loại, những thứ mà Chuột Đồng đã dự trữ được từ lâu nay. Tất cả đều được Chuột Đồng mang ra để đãi khách.

Chuột Nhà vừa ăn các thứ Chuột Đồng thiết đãi, vừa trịnh trọng bảo Chuột Đồng:

Này bạn, cuộc sống của bạn ở đây sao mà nó quá cơ cực, tầm thường giống như một con kiến. Còn chỗ của tôi đang ở, thì có biết bao là món ngon vật lạ. Hay là hôm nay, tôi mời bạn hãy lên thành phố với tôi, để hưởng một cuộc sống vinh sang cho sướng cái tấm thân.

Thế là Chuột Đồng theo Chuột Nhà lên thành phố sinh sống.

Vừa đến nơi, Chuột Đồng phải hoa cả mắt lên, vì thấy trong nhà bếp của chủ Chuột Nhà toàn là những thức ăn sang trọng, đủ thứ món ngon vật lạ: Nào là cơm trắng gạo tươi, lại có phó-mát, mật ong, và có biết bao nhiêu thứ rất là mắt nữa, lại thật hấp dẫn nữa. Đúng là Chuột Nhà nói không ngoa chút nào, bởi chỉ vừa khi trông thấy những món ăn đó thôi, mà nước rãi, nước miếng của Chuột Đồng đã chảy ra lênh láng. Không ngờ Chuột Nhà lại có nhiều thức ăn đến như vậy. Và không ngờ lại ngon đến mức như thế. Nó tấm tắc khen hết lời, và bày tỏ sự ngưỡng mộ Chuột Nhà hết mình.

Đang khi chúng đánh chén thật rôm rả, thật hào hứng, thì bỗng có tiếng người mở cửa bếp.

Vừa nghe thấy tiếng động, Chuột Nhà liền vội vàng, ba chân, bốn cẳng, một mạch chui tọt thẳng vào hang, trước sự ngỡ ngàng, ngơ ngác của Chuột Đồng, chẳng hiểu mô-tê làm sao, chẳng hiểu là chuyện gì xảy ra.

Đợi cho đến khi cảnh vật chung quanh trở lại yên tĩnh, Chuột Nhà mới bảo Chuột Đồng chui ra, để đánh chén tiếp. Nhưng, vừa cầm miếng phó-mát, định đưa lên miệng, thì lại có tiếng người mở cửa bếp. Cả Chuột Nhà lẫn Chuột Đồng lại một phen nữa vội vàng bỏ tiệc, để vội vàng chạy trốn vào hang.

Lúc này, Chuột Đồng đã đói lắm rồi, đói đến mức bụng kêu òng-ọc. Nó run run nói với Chuột Nhà: Thôi, tạm biệt anh bạn nhé. Bạn cứ ở đây, mà hưởng thụ những thứ ngon lành này đi, còn tôi, tôi không muốn cứ phải nôm nốp lo sợ như thế này nữa. Thôi, tôi xin quay trở về với kho thóc tầm thường của tôi. Thà với kho lương thực tầm thường đó, nhưng mà tôi có một cuộc sống rất bình an, và rất hạnh phúc.

*****

Bạn thân mến,

Qua câu chuyện vừa kể, chúng ta đã hiểu ra chân lý này, là tuy cuộc sống của chúng ta có đạm bạc, có giản dị, có tầm thường đối với kẻ này, người nọ, nhưng chúng ta lại có được một cuộc sống an bình, thanh thản, nhẹ nhàng, vui vẻ, và hạnh phúc.

Chúng ta không nên so đo, tính toán, ganh tị, hay than thân trách phận, khi so sánh mình với kẻ này, người nọ, để rồi dày vò bản thân. Vô tình, chúng ta đã làm cho cuộc sống của chúng ta không vui, mà cũng đã làm cho những người sống bên cạnh chúng ta thêm nhiều phiền lụy, khổ đau.

Chúng ta nên nhớ, ở đâu cũng có cái khổ riêng của nó, ở đâu cũng có thánh giá để vác.

Chính chúa Giêsu đã khẳng định điều đó.

Và chính Chúa Giêsu cũng đã can đảm đưa vai để vác lấy Thập Giá khổ nạn, thì mới cứu độ được nhân loại.

Lạy chúa, xin ban cho con ơn can đảm để vác lấy thánh giá những khổ đau cuộc đời con, trong cuộc sống của con, trong gia đình của con, ngoài xã hội con đang sống, để kết hợp với thập giá khổ đau của chúa Giêsu, nhờ đó, những thánh giá khổ đau của con, sẽ cũng sinh ơn cứu độ cho con và cho mọi người. Amen.

-------------------
Mời nghe: https://www.youtube.com/watch?v=0ymCsrM4OLE

--------------------------------------------------

Những sách đã in (33 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (3 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
----------------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây