“Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an. Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giê-su trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người Do-thái đáp lại: “Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói. Trong thời gian Người ở lại Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giê-su không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta. - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 2:13-25)
Có lần trên chuyến xe sáng Chúa Nhật về Đà-lạt, ngang qua các vùng Hố-nai, Gia-kiệm…, tôi nhận: MC3-B101
Có lần trên chuyến xe sáng Chúa Nhật về Đà-lạt, ngang qua các vùng Hố-nai, Gia-kiệm…, tôi nhận thấy giáo xứ nào cũng đông người “đi lễ” đến nỗi rất nhiều giáo dân phải đứng ở ngoài nhà thờ, ra gần tới quốc lộ. Thanh niên thì ngồi ngay trên xe máy, phì phà điếu thuốc và tán gẫu. Các cô quần áo rất đẹp cũng đang cười đùa. Tôi bỗng nghĩ tới bài Tin Mừng hôm nay, Chúa thanh tẩy Đền Thờ, và tự hỏi: Ngày nay nếu Chúa Giê-su hiện diện ở những giáo xứ này, Người sẽ làm gì? Có lẽ đã nhiều lần “hiện thân” của Chúa là cha xứ hoặc cha phó từng quát tháo và đuổi những kẻ đi lễ kia vào ngay nhà thờ! Bên Mỹ nhiều linh mục cũng chẳng nhân từ hơn đâu, các ngài ra lệnh hễ cha “bước lên phản bàn thờ” là phải lập tức đóng cửa ra vào lại!
Nhưng Chúa Giê-su còn “giận dữ” hơn chúng ta tưởng. Thánh sử Gio-an nêu lên những hành vi dồn dập của Chúa Giê-su, làm như Người đang trút giận vậy. Người lấy dây làm roi xua súc vật ra khỏi Đền Thờ. Người lật đổ các bàn đổi tiền và hất tung tiền bạc của những người làm nghề đổi bạc. Người quát đuổi những kẻ bán chim bồ câu. Nói tóm lại, tất cả những sinh hoạt của dân chúng tại Đền Thờ được coi là “bình thường”, thì đối với Chúa Giê-su là “bất thường” bởi vì chúng “biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Sự giận dữ là xấu hay tốt tùy thuộc vào lý do khiến người ta phải giận dữ, chứ không tùy thuộc vào cường độ giận dữ. Ở đây Chúa Giê-su có lý do để rất giận dữ, mà lý do còn được ghi trong Kinh Thánh nữa: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa. Đúng vậy, khi những kẻ thù của Chúa Giê-su ngoan cố, hạch sách, chống đối, bày mưu kế, thì cùng lắm Chúa Giê-su cũng chỉ thở dài “buồn khổ vì lòng họ chai đá” (Mác-cô 3:5) hoặc “khóc” như Người đã khóc thương Giê-ru-sa-lem (Lu-ca 19:41), bởi họ đã xúc phạm đến cá nhân Người. Nhưng hễ đụng tới Cha của Người, hoặc “nhà Cha” của Người, Người sẽ không bỏ qua đâu! Người sẽ hành động tới cùng, thậm chí dù có phải “thiệt thân” chăng nữa. Vậy thế nào là vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa?
Chúng ta đừng bỏ qua một lời nào trong lý do trên nhé, vì lời nào cũng quan trọng cả. Khi chúng ta làm điều gì, cái lý do “vì” rất là quan trọng. Vì muốn nói dối cha mẹ để đi chơi, cô con gái đưa ra lý do giả tạo như đi thư viện học bài. Vì muốn noi gương Thầy Giê-su và vì thương một người bạn tù còn vợ con đang chờ đợi ở nhà, cha thánh Maximilian Kolbe đã hy sinh chết thay cho anh trong trại giam Đức quốc xã. Còn Chúa Giê-su, hôm nay Người giận dữ và thanh tẩy nhà Cha Người là vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa. Việc nhà Chúa không phải chỉ là cái Đền Thờ Giê-ru-sa-lem nguy nga kia đâu, mà là tất cả sứ mệnh Chúa Cha đã trao cho Người. Việc nhà Chúa của Chúa Giê-su là làm chứng cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương trần gian đến nỗi sai Người đến để chết cho họ. Là rao giảng Tin Mừng cứu độ và ơn sám hối. Là thực hiện phép lạ như những dấu chỉ kêu gọi người ta nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Là trừ quỷ để giải thoát những người con cái Thiên Chúa đã bị giam cầm lâu ngày. Là đào tạo các tông đồ và môn đệ, rồi sai họ đi thực tập việc tông đồ. Cuối cùng là lo việc nhà Chúa đến sẵn sàng chấp nhận chết khổ nhục trên thập giá! Nhiệt tâm là yếu tố quan trọng giúp Chúa Giê-su không mệt mỏi thi hành sứ mệnh, khiêm nhường làm theo thánh ý Chúa Cha và can đảm vượt mọi khó khăn, thậm chí yêu thương đến cùng, đến hơi thở cuối cùng.
Sống sứ điệp Tin Mừng
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa” là những lời chắc chắn làm chúng ta phải suy nghĩ. “Việc nhà Chúa” của tôi là những gì? Trước hết có phải là những bổn phận Chúa trao cho tôi không? Bổn phận với Chúa? Với gia đình? Với cộng đoàn? Với sở làm? Tôi nhiệt tâm lo việc nhà Chúa hay lo kiếm tiền hoặc danh lợi? Nếu tôi đang tham gia một vài công tác hoặc chức vụ trong giáo xứ, tôi có làm vì thực sự muốn cho danh Chúa được rạng rỡ hơn không? Hay chỉ vì muốn được chức nọ chức kia hoặc được người ta kính nể? Quả thực Chúa Giê-su đã “thiệt thân” vì lo việc nhà Chúa, vì cứu độ chúng ta! Chúa không đòi chúng ta phải chết như Người, nhưng là “thiệt thân” bằng những hy sinh nho nhỏ hằng ngày mà thôi!
(Xuất hành 20,1-17; 1Côrintô 1,22-25; Yoan 2,18-25)
Phúc Âm: Ga 2, 13-25
"Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại".
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta. Suy Niệm:
Chúa Nhật 3 Mùa Chay Năm B
Xuất hành 20,1-17; 1Côrintô 1,22-25; Yoan 2,18-25 Suy niệm: Những Ðền Thờ
Trong dịp lễ Vựơt qua của người Dothái năm 28, Chúa Yêsu xuất hiện ở đền thờ Yêrusalem. Hằng: MC3-B102
Trong dịp lễ Vựơt qua của người Dothái năm 28, Chúa Yêsu xuất hiện ở đền thờ Yêrusalem. Hằng năm, Người vẫn có thói quen trẩy lễ nơi đây như những người Dothái đạo đức khác. Ta còn nhớ cũng tại đây, lúc lên 12 tuổi, Người đã long trọng công bố: "Tôi phải ở tại nhà Cha tôi, để lo việc Người trao phó" (Lc 2,49). Chính lòng nhiệt thành đối với nhà Thiên Chúa đã thôi thúc Người xua đuổi các con buôn đang mải miết làm ăn nơi tôn nghiêm thánh thiện (Yn 2,17). Lần này Người công bố một lời khác, cũng long trọng và hàm chứa nhiều ý nghĩa: "Hãy phá đền thờ này và sau 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Yn 2,19). Nhưng đền thờ nào phải phá? Ðền thờ nào phải xây? 1. Những Ðền Thờ Ngẫu Tượng
Chúa Yêsu tự ví thân xác mình như một đền thờ, nhưng là một đền thờ phải phá đi, vì Người sẽ chết để sống lại vinh quang. Thân xác phục sinh của Người chính là Ðền thờ vĩnh cửu, nơi mà loài người phải thờ phượng Chúa Cha một cách chân thật trong Thần Trí.
Người Dothái không nghĩ được ý nghĩa sâu sắc của lời Chúa Yêsu nói. Họ chỉ nghĩ tới ngôi đền thờ bằng đá do đại vương Hêrôđê đã khởi sự xây lại từ 46 năm trước đó. Chính các môn đệ cũng chưa hiểu liền. Sau biến cố Phục sinh, họ nhớ lại và nhờ suy niệm trong lòng, nhờ tìm kiếm trong Thánh Kinh, họ mới dần dà đi sâu vào mầu nhiệm của Thầy Chí Thánh, như một Yoan và một Phaolô đã làm. Chúa Kitô muốn rằng: chúng ta cũng phải vượt qua bình diện hữu hình của cái nhìn nhân loại, để vươn tới những thực tại thiêng liêng của mầu nhiệm Thiên Chúa.
Lòng trí con người vốn có xu hướng tôn thờ ngẫu tượng là những cái hấp dẫn và có lợi trước mắt, làm cho nó dễ mù quáng. Lời Chúa Yêsu nói và việc Người làm trong năng lực Thánh Thần nhằm giải thoát chúng ta khỏi sự mê hoặc ấy của ngẫu tượng. Trước tiên Thần Trí Người thúc bách chúng ta phá đổ đền thờ ngẫu tượng lý trí.
Không phải chỉ có người Hylạp xưa, mà cả chúng ta hôm nay vẫn khó chấp nhận sự điên rồ của Thập giá. Ðó là một nhục nhã cho trí óc (1C 1,24). Ðối lại, thánh Phaolô khẳng định rằng: Ðức Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá là một bằng chứng cho sự khôn ngoan tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, vì sự điên rồ tột độ của cái chết ấy nói lên tình yêu tột độ của Thiên Chúa đối với loài người (1C 1,24). Chỉ có đức tin Kitô giáo mới hiểu và chấp nhận nổi điều nghịch lý đó. Quả vậy, thực tâm tin vào Ðức Yêsu Kitô chết treo trên Thập giá, có nghĩa là chấp nhận cái nhìn ngược đời của Thiên Chúa và sống một nếp sống không rập theo khuôn thói thế gian phản nghịch với Người. Chính đó là khôn ngoan đích thực, một đức khôn ngoan vượt qua giới hạn của lý trí và đem lại ơn cứu độ cùng với sự sống đời đời, giống như ánh sáng Phục sinh đã xuất hiện từ trong bóng tối sự chết và thắng vượt sự chết.
Ðứng trước cái thế giằng co giữa đức tin và lý trí, tuy chúng ta phải nghĩ như thánh Anselmô rằng: "Ðức tin cũng cần được lý trí lĩnh hội", nghĩa là tôi phải biết tôi tin ai, tôi tin gì và vì sao tôi tin; nhưng câu nói của thánh Augustinô còn đúng một cách sâu sắc hơn nữa: "Tôi tin để tôi hiểu", vì đức tin làm cho tôi thấy ý định cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Như thế đức tin đem khoa luận lý siêu nhiên của tình yêu và hy vọng bổ túc cho khoa luận lý tự nhiên của lý trí hay suy tính, và đức tin làm cho lý trí chấp nhận rằng Thiên Chúa có thể biến cái nghịch lý thành phương tiện cứu rỗi.
Chúa Kitô còn muốn người ta phá đổ một đền thờ ngẫu tượng khác: đó là ngẫu tượng "Vị Thiên Sai vinh quang trần thế". Ða số người Dothái thời bấy giờ, kể cả những môn đệ của Người, đã mơ ước một Ðấng Cứu thế có quyền năng đem lại thịnh vượng vật chất và vẻ vang thế tục cho họ, để họ đua đòi với thiên hạ. Họ muốn rằng: Người phải là Vị cứu tinh đó. Nhưng Người đã quyết liệt khước từ, vì Nước Người không ở trần gian và sứ mạng của Người tiên vàn không phải là xây dựng đời sống vật chất, mà là đổi mới tâm hồn nhân loại. Chúa Kitô muốn rằng chúng ta phải hoán cải, phải thay đổi kiểu nhìn và lối sống cho phù hợp với đức công chính và luật thương yêu là đòi hỏi của Chúa Cha. Ðấng giải hòa chúng ta với Người trong Con Một yêu dấu. Sự hoán cải nội tâm và giải hòa với Thiên Chúa bằng tình yêu như thế chắc chắn sẽ có những âm hưởng xã hội trong tương quan giữa con người với con người và đóng góp hữu hiệu vào việc xây dựng một thế giới nhân đạo, huynh đệ và hạnh phúc hơn. Do đó người ta có thể nói: Nước Trời lành-mạnh-hóa và củng cố Nước trần gian từ bên trong. Sứ mạng của Chúa Kitô cũng như các tín hữu đối với thế giới, trước tiên là một sứ mạng tinh thần, dùng sức mạnh của tình thương và ánh sáng của Thánh Thần để biến đổi và nâng cao phẩm chất đời sống loài người. Tính háo danh và óc vụ lợi của người Dothái ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay là một ngẫu tượng đã và đang ngự trị trong lòng ham muốn và ý chí thống trị của tâm thức nhân loại. Ta phải phá đền thờ ngẫu tượng ấy, cũng như Chúa Kitô đã đánh tan hình ảnh sai lạc mà dân Dothái phác họa về sứ mạng Thiên Sai của Người. Người đã cho họ thấy một thực tế phũ phàng là: Ðấng Cứu thế phải chết trên Thập giá một cớ vấp phạm không thể chấp nhận đối với người Dothái- (1C1,24). Nhưng chính cái chết ô nhục ấy đã đem lại cho ta: vinh dự được làm con Thiên Chúa và được cứu độ muôn đời.
Cõi lòng con người chưa được cứu độ quả là một đền thờ chứa đầy ngẫu tượng: ngẫu tượng dị đoan mê tín, gắn liền với sai lầm và dối trá, ngẫu tượng hận thù, ngẫu tượng hưởng thụ, ngẫu tượng tiền tài, ngẫu tượng tự mãn. Ðạo Chúa cấm tôn thờ các ngẫu tượng ấy, như bảng Mười Ðiều Răn của Giao Ước Sinai đã công bố (Xh 20,1-17). Chỉ có một Ðấng duy nhất đáng tôn thờ: đó là Cha Ðức Yêsu Kitô và cũng là Cha chúng ta ở trên trời. Ðền thờ Người không phải là những ngôi nhà bằng đá, nhưng là những tâm hồn sống động xây quanh Người Con yêu dấu của Người: Ðức Yêsu Kitô, đền thờ của Giao Ước mới. 2. Phụng Tự Mới, Ðền Thờ Mới
"Hãy phá đền thờ này và sau 3 ngày, Ta sẽ xây dựng lại" (Yn 2,19). Người Dothái, khi nghe lời đó, đã hiểu theo nghĩa đen và nghĩ rằng Chúa Yêsu có ý định phá ngôi đền thờ bằng đá, trung tâm phượng tự của dân tộc họ. Vì thế họ chất vấn Người tại chỗ, và sau này trước tòa án công nghị, họ sẽ tố cáo Người và đòi xử án tử hình cho Người (Mc 14,58). Quả thực trung tâm phượng tự ấy bị thu hẹp bởi ranh giới quốc gia và chủng tộc, và nơi đây người ta sát tế chiên bò để làm lễ đền tội. Ðền thờ ấy, từ nay, trong chế độ Tân Ước, đã hết ý nghĩa, vì thế phải được thay thế bởi một đền thờ mới, để thờ phượng Chúa Cha trong Thần Trí và Sự Thật. Việc phượng tự mới không dành riêng cho một dân tộc nào, nhưng mở rộng cho cả loài người, quy tụ trong Ðức Kitô. Tế vật không còn phải chiên bò nữa, nhưng chính là Con Thiên Chúa.
Theo thần học của thánh Phaolô, Ðức Kitô đã trở thành tội vì ta, trong thân phận xác thịt tội lỗi của ta (Rm 8,3). Người chấp nhận để cho thân xác Người bị phá hủy hầu đền tội thay ta và kết án tội thế gian ngay nơi thân xác Người. Một khi Người đã tự nguyện để cho thân xác mình bị dập nát và hạ xuống lòng đất, thì đền thờ ngẫu tượng không có quyền đứng ngạo nghễ trong lòng ta nữa. Phải phá nó đi để xây dựng lại đền thờ Thiên Chúa như một công trình sáng tạo mới, trong đà mạnh mẽ vươn lên cõi sống.
- "Hãy phá đền thờ này, đền thờ do bàn tay loài người làm ra" (Mc 14,58). Cái tôi tội lỗi trong ta phải chết đi với các đam mê của nó, để con người mới sống lại với tinh thần của Thiên Chúa. Việc phượng tự hẹp hòi và bị giới hạn bởi các nghi thức bề ngoài của lề lối cũ, phải được thay thế bằng việc phượng tự nội tâm, thiêng liêng là cách thờ phượng chân thật, vì được thôi thúc bởi Thần Trí của Ðức Kitô Phục sinh và dựa theo ánh sáng của mạc khải tròn đầy trong Con Thiên Chúa.
- "Sau ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại một đền thờ không do bàn tay loài người làm ra" (Mc 14,58; Yn 2,19). Ba ngày là thời gian Người sẽ chết trước khi chỗi dậy trong năng lực Thánh Thần. Từ đó Người trở nên đền thờ thiêng liêng, nơi phát xuất nguồn nước hằng sống (Yn 7,37-39; 19,34). Thân xác đã chịu chết và sống lại của Người chính là dấu chỉ bí tích nền tảng, làm phát xuất Ơn Thánh mà ta đã lãnh nhận qua bảy bí tích, nhất là bí tích Rửa tội và bí tích Thánh Thể. Nhờ đó ta thờ phượng Chúa Cha cách xứng hợp và được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô đã bị sát tế vì ta. Khi ta được sát nhập vào Thân Mình Ðấng Phục sinh, ta thực sự trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần (1C 3,16; 6,19). Và cả Giáo Hội là một đền thờ rộng lớn (Ep 2,19-21), trong đó phụng vụ được cử hành để thờ phượng, tôn vinh Chúa Cha.
Việc phượng tự mới của chúng ta cũng phải tuân theo định luật Vượt qua của mầu nhiệm Chúa Cứu thế: đền thờ cũ với các ngẫu tượng phải phá đi. Con người cũ với các tội lỗi, phải chết đi. Như thế Ðức Kitô Phục sinh sẽ hoạt động trong ta, và xây dựng lại ngôi đền thờ mới ngay giữa lòng ta, nơi mà Thần Trí Người sẽ ngự trị, sẽ khơi dậy tâm tình nghĩa tử và làm phát lên lời cầu nguyện thiết tha: "Abba, lạy Cha yêu dấu" (Yn 4,6; Rm 8,15). Ðó chính là thờ phượng Chúa Cha trong Thần Trí và Sự Thật (Yn 4,23). Giảng Lễ
Có lẽ không bao giờ chúng ta thấy Chúa Yêsu có thái độ như trong bài Phúc Âm hôm nay. Dường như khi bước vào đền thờ Yêrusalem, Người không còn tự chủ được nữa. Người đi vào nơi cầu nguyện, thế mà trước mắt chỉ có cảnh chợ búa mua kém bán hơn, ồn ào lủng củng. Nhà của Cha Người không còn là nơi gặp gỡ giữa tâm hồn đạo đức và dân đã được tuyển chọn với Chúa Cả trời đất và Chúa của dân Israel nữa! Người ta đã tụ họp lại đây, đâu còn giống như ngày trước, khi ở chân núi Sinai, lúc Chúa ban 10 điều răn như bài đọc Cựu Ước hôm nay còn kể lại. Thay vào quang cảnh phụng vụ của buổi lễ ký kết giao ước xưa, nay chỉ còn cảnh buôn bán bóc lột nhau. Chịu làm sao nổi một cảnh tượng như vậy! Ðấng được Chúa Cha sai xuống trần thế tái lập giao ước, không dẹp cảnh khốn nạn kia đi sao được! Lòng nhiệt thành đối với Nhà Chúa, đối với Giao ước nung nấu tâm can Người. Người phải nhào vào, đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ cho Cha Người, rửa lại bộ mặt cho tôn giáo giao ước. Làm như vậy, Ðức Kitô đã tỏ ra là Cứu thế, là Ðấng thánh hóa các tâm hồn, là vị phải đến để đưa tôn giáo vào con đường chính đáng.
Nhưng đó chỉ là hành động tượng trưng. Việc xua đuổi hạng con buôn ra khỏi đền thờ chỉ thành công trong một lúc, cùng lắm trong một ngày. Phúc Âm không nói có một sức kháng cự nào. Nhưng liền sau đó, Ðức Kitô đã gặp ngay phải não trạng của người Dothái. Chính đầu óc tội lỗi này đã đẻ ra cảnh chợ búa ở ngay trong đền thờ. Họ chạy lại hạch Chúa Yêsu: "Ông tỏ ra có uy quyền gì mà dám làm như vậy? Nghĩa là: Ông lấy quyền đâu mà dám đi ngược lại thứ tôn giáo của chúng tôi?" Câu hỏi thật bất ngờ và sâu sắc. Nó diễn tả đúng não trạng của người Dothái luôn luôn đòi dấu lạ. Phải có những phép lạ tương đương với các công cuộc kỳ diệu mà xưa kia Chúa đã làm cho cha ông họ, mới làm họ tin được. Sách Thánh nhắc nhở cho họ biết Chúa đã làm vô vàn kỳ công cho dân tộc này. Họ hãnh diện nhưng đồng thời lại trở nên cứng lòng. Họ tin vào mình và vào truyền thống, đến nỗi không còn gì nhạy cảm nữa đối với những lời tinh thần. Vì còn có thể có lời tinh thần nào nữa ở ngoài đầu óc của họ, bởi lẽ họ là dòng dõi của người con tinh thần là Isaac? Họ trở thành biệt phái, kỳ thị đối với hết mọi người cư xử khác họ. Thế nên có lần họ dám kể Chúa Yêsu vào hàng ngũ Bêelzêbút. Muốn diễn tả nôm na, thì đã có lần họ gọi Người là đồ quỷ! Thái độ của họ làm ta có thể liên tưởng tới một vài thái độ hằng gặp ở nơi chính chúng ta, để chúng ta nên biết đó là thái độ có thể đi đến chỗ giết Chúa và bóp nghẹt chân lý.
Chúa Yêsu đã phản ứng thế nào trước một thái độ như vậy? Có thể nói, Người đã chẳng biết phải đáp lại thế nào. Lời nói như đã đứng nghẹn ở nơi cổ Người, để cuối cùng thốt ra thành một câu thật đầy ý nghĩa: "Cứ phá đền thờ này đi, ba ngày sau Ta sẽ xây lại". Dĩ nhiên, những người Dothái kia đã chẳng hiểu gì. Nói đúng hơn, họ đã hiểu theo chiều hướng cố hữu của mình: Ông Yêsu này thật là lộng ngôn phạm thượng. Làm náo loạn trong đền thờ chưa đủ, ông ta còn muốn phá đổ đền thờ này đi, để xây một đền thờ khác. Ông ta khinh bỉ và thù nghịch đền thờ của ta đến như vậy! Họ ghi thêm một tội nữa vào bảng cáo trạng sau này dùng vào việc lên án Chúa. Nhưng đó không phải là ý Người.
Ðối với Người, các ngôi đền thờ bằng gạch đá không phải là điều quan trọng. Người đã nói thẳng với người phụ nữ thành Samaria: kẻ tôn thờ chân thật, phải thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý. Người đến để tìm những con người như vậy. Mà Người là Chân lý, là Sự thật, là Lời-Thiên Chúa nhập thể. Ai muốn thờ phượng trong chân lý, phải nghe tiếng Người, phải giữ Lời Người, như nhiều lần Người đã quả quyết với dân Dothái. Chính Chúa Cha cũng đã tuyên bố: Người là Con yêu dấu, và chúng ta phải nghe Lời Người, như ta đã đọc thấy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Nhưng người Dothái cứng đầu, họ không vâng lời. Họ không để Lời Chúa giáo dục họ đi trong Giao ước 10 điều răn. Nên đền thờ của họ đã trở nên nơi buôn bán; tôn giáo của họ đi đến chỗ vụ hình thức và pháp luật. Chúa Cứu thế phải cải tạo não trạng này, chứ không cần thanh tẩy đền thờ. Người thánh hóa đền thờ để nói rằng Người sẽ cải tạo những tâm hồn mà Người biết rõ đang sống trong tội lỗi.
Chính đền thờ các tâm hồn mới cần được thanh tẩy. Và đối với những tâm hồn chai đá, phải đập nát để xây dựng lại hầu trái tim mọi người trở thành trái tim thịt biết yêu mến và biết nghe lời.
Nhưng làm thế nào? Ðức Kitô đã chấp nhận gánh lấy tội lỗi của mọi người trên vai. Người đã mặc lấy thân xác của loài người. Người bằng lòng để thân xác mình chịu đóng đinh vào thập giá. Thân thể Người sẽ bị tan nát trong đau thương, để từ đó sống lại với sức mạnh thánh thiện của thần tính, thân xác Người trở thành đền thờ mới cho người ta cầu nguyện.
Ðó là con đường Người đã đi. Không có đường lối cứu độ nào khác. Người mời ta đi vào con đường ấy trong mùa Chay này. Gương Người chịu chết để tiêu diệt tội lỗi cho ta, khuyến khích ta trong những tuần lễ này phải kết hiệp với Người mà thanh tẩy tâm hồn và đời sống. Bảng 10 điều răn ta đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta kiểm điểm lại đời sống. Biết đâu tâm hồn và đời sống ta hiện nay không như đền thờ Yêruselem ngày trước. Phải đuổi, phải xua những gì không phù hợp với tín ngưỡng và Phúc Âm ra khỏi đời sống của mình. Nhất là phải diệt cho đến tận gốc của tội lỗi, là sự chai lì đối với Lời Chúa. Không còn nhạy cảm khi nghe Phúc Âm nữa, mà như người Dothái, dường như phải chờ thấy phép lạ mới sửa đổi đường lối sống đạo hiện nay. Chúa Yêsu đã trả lời cho người Dothái rồi: cứ phá đền thờ này đi, ba ngày sau, Người sẽ xây dựng lại. Dân này đòi dấu lạ, nhưng họ sẽ chẳng được thấy dấu lạ nào khác ngoài dấu lạ như Yôna thuở xưa. Ông đã ở trong bụng cá ba ngày, thì Con Người cũng sẽ sống lại sau ba ngày nằm trong lòng đất. Và dấu lạ này đòi người ta phải tham dự. Mọi người có bằng lòng chết với Ðức Kitô, họ sẽ mới cùng Người được sống lại. Chẳng có phép lạ nào khác có thể thay đổi được não trạng và đời sống tội lỗi của con người, ngoại trừ chính việc người ta phải cùng Ðức Kitô đóng đinh tội lỗi vào Thập giá.
Chúng ta đang tham dự Thánh lễ. Chúng ta muốn kết hiệp với Ðức Kitô trong mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa.
Chúng ta chỉ thành tâm tham dự Thánh lễ này, nếu giờ đây ta cùng nhau dứt khoát đem ý chí muốn tiêu diệt tội lỗi lên bàn thờ, để ta dâng mình với Ðức Kitô trong mầu nhiệm hy tế, hầu ơn sống lại của Người sẽ khiến ta đổi đời và canh tân đời sống sau khi bước ra khỏi nhà thờ này. Như vậy ta mới thật sự kết hiệp với Chúa trong mầu nhiệm thanh tẩy đền thờ là chính tâm hồn và đời sống của ta. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Sau khi xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đến hỏi Chúa MC3-B103 Lương
Sau khi xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đến hỏi Chúa Giêsu: Ông có thể làm một phép lạ nào để chứng minh rằng ông có quyền làm như thế không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Thánh Gioan đã ghi chú: Ngôi đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thân xác Ngài. Vì thế khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại, các môn đệ mới nhớ rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Chúa Giêsu đã nói.
Như thế có nghĩa là ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài nói. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang, thì những điều ấy mới được sáng tỏ. Nói cách khác, biến cố phục sinh chính là luồng ánh sáng chiếu soi, nhờ đó mà chúng ta hiểu được những biến cố và toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách trọng thể, thánh Gioan cũng đã viết: Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Ngài sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài. Rồi khi Ngài biến hình trên đỉnh Taborê, lúc xuống núi Ngài đã căn dặn các ông không được tiết lộ cho bất kỳ ai biết những việc xảy ra cho đến khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Phúc Âm đã ghi chú: Các ông tuân giữ lời căn dặn ấy, nhưng vẫn thắc mắc: từ trong kẻ chết sống lại có ý nghĩa gì? Tất cả những điều vừa trình bày có phần nào giống với công việc của người thợ rửa hình. Anh ta rọi phim xuống tấm giấy. Lúc bấy giờ chỉ là tấm giấy trắng, không hình ảnh, không màu sắc. Thế nhưng sau đó, anh ta đem ngâm tấm giấy đã được rọi vào thau đựng thuốc: Thế là hình ảnh và màu sắc bắt đầu hiện lên trên tấm giấy ấy. Cũng thế, những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu, mới đầu không có gì đặc biệt. Nhưng sau biến cố phục sinh, ý nghĩa sâu xa của nó mới bắt đầu xuất hiện.
Từ đó chúng ta hãy nhìn cuộc đời chúng ta qua ánh sáng của sự phục sinh. Đúng thế, nếu không có sự phục sinh thì đời sống của chúng ta chỉ là một mớ hỗn mang, một chùm những sự kiện vô nghĩa, nếu không muốn nói là phi lý. Bởi vì người giàu và kẻ nghèo, người đạo đức thánh thiện và kẻ gian ác bất lương rồi cũng sẽ bằng nhau trước cái chết. Nếu không có ánh sáng của sự phục sinh, thì chết là hết, là trở về với hư vô và cát bụi. Thế nhưng, với ánh sáng của sự phụng sự, thì tất cả đều chuyển biến, tất cả đều đổi thay, tất cả đều mang một giá trị và ý nghĩa. Đúng thế, nếu như cuộc đời tôi chất đầy những đắng cay và chua xót, thì không có nghĩa là tôi đã thất bại, bởi vì nếu tôi biết thánh hoá, biết chấp nhận những đắng cay chua xót ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì rồi mai ngày tôi sẽ sống lại và được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc Nước Trời. Dưới ánh sáng của sự phục sinh thì dù cuộc sống hiện tại của chúng ta có vắn vỏi, có buồn phiền, thì mãi mãi vẫn là một kho tàng quý giá, bởi vì nhờ nó mà chúng ta có thể chiếm được sự sống đời đời, cũng như nhờ nó chúng ta có thể lãnh nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Có một người nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày Chúa Nhật. MC3-B104
Có một người nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày Chúa Nhật. Tại đó, ông thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi!
Đôi khi chúng ta cũng đến với Chúa bằng hình thức bên ngoài mà chằng có tâm tình bên trong. Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những người đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế. Họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chuá bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Ngài cũng ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Thân thể Ngài cũng bị phá huỷ bởi sự gian ác của con người, nhưng rồi Ngài sẽ sống lại sau ba ngày trong mồ.
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ ví tựa như những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy “vải thưa che mắt thánh”. Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Mùa Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
Tin Mừng quả là điên rồ, nhưng điên rồ như thế nào? Bài đọc phụng vụ hôm nay trích trong thơ thứ MC3-B105
Tin Mừng quả là điên rồ, nhưng điên rồ như thế nào? Bài đọc phụng vụ hôm nay trích trong thơ thứ nhất Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp kiếm tìm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ ( 1Cor 1,22).
Vậy, phải chăng Tin mừng thật điên rồ, thật vô lý, và dẫn con người đi vào lầm lạc? Sự khôn ngoan mà con người thường hay đề cao có thực sự phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Chúa (Kn 7,26) hay không?
Chắc chắn, Thánh Phaolô muốn khẳng định rằng, sự khôn ngoan theo quy chuẩn xã hội loài người sẽ bị cáo chung bởi Tin mừng. Tin mừng đưa dẫn chúng ta tiếp cận sự khôn ngoan không theo dạng thức mà thế gian vẫn hướng về. Cũng trong lá thư này, Thánh Phaolô đã nhắc các độc giả, để giúp họ biện phân đâu là sự khôn ngoan đích thực. “ Khi anh em được Chúa kêu gọi, trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song, những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…(1,26-27). Sự xét định theo tiêu chí của thế gian không phải là đường lối của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã tóm kết nghịch lý này, khác với suy nghĩ bình thường của xã hội loài người, khi Ngài tuyên bố “ Phúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó ” và “Những ai tìm mạng sống mình, sẽ mất nó. Ai liều mất mạng mình vì tôi, sẽ tìm được chính mạng sống ấy (Mt 5,3; 10,39).
Đức Giêsu không phải là người hùa chạy theo đám đông, hay dễ theo xu hướng của cộng đồng xã hội. Thay vì rập theo não trạng chung của dân chúng, Ngài lại tuyên bố những điều hoàn toàn trái ngược. Chúng ta cũng thấy điều tương tự trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu lên Giêrusalem, Ngài thấy trong đền thờ có một khu vực người ta đang bán bê, chiên, bồ câu, và có những người đổi tiền ngồi đó. Đức Giêsu mạnh tay xua đuổi họ ra ngoài, và còn lật tung những bàn đổi tiền, khiến tiền bạc đổ vãi tung tóe. Ngài truyền lệnh đem tất cả thứ đó ra khỏi đền thờ, “ Đừng biến nhà Cha ta thành nơi bán buôn”.
Việc mua bán trong khu vực đền thờ hồi xưa, không bị coi là một sự phạm thánh. Thậm chí, người Do Thái còn xem đó là một việc đạo đức tốt lành. Khách hành hương thường mua những lễ vật để tiến dâng cho Chúa. Điều này chẳng có gì xấu. Vả lại việc mua bán này chỉ diễn ra tại khu vực tiền sảnh bên ngoài đền thờ, là những chỗ mà ngay cả dân ngoại vẫn có thể lui tới. Khách hành hương đến đền thờ cần có lễ vật, và những người buôn bán giúp họ thực thi bổn phận tôn giáo rất chính đáng. Có lẽ, vì luật Do Thái cấm tôn thờ ngẫu tượng, nhưng việc buôn bán giao dịch lại phải dùng tiền Rôma có in hình Xêda, hoàng đế của đế quốc, nên phải chăng vì thế mà Đức Giêsu đã phản ứng gay gắt ? Có phải thế không? Chúng ta sẽ từ từ tìm ra câu trả lời, và khám phá ra ý nghĩa sâu xa của câu chuyện nêu trên.
Đối với dân Israel, đền thờ là chốn linh thiêng nhất, biểu thị cho việc Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Ngài. Tác giả Thánh vịnh đã viết “ Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng (Tv 27,4). Tin mừng thuật lại, sau này các học trò của Đức Giêsu nhìn vào hành động của Ngài trong đền thờ Giêrusalem như một hành vi tiên tri, diễn bày niềm tin sâu xa mà tác giả thánh vịnh đã miêu tả: “Vì nhiệt tâm lo cho nhà Chúa, mà con đã chịu thiệt thân (Tv 69,4)”. Đi sâu vào ý nghĩa của biến cố, chúng ta mới có thể nhận ra rằng, những quy chuẩn theo não trạng con người dễ làm cho chúng ta trở nên mù tối trước những thực tại thánh thiêng. Chúng ta cần phân định đâu là những gì hợp pháp mang tính phàm tục, và đâu là những gì thuộc phạm trù linh thánh.
Khi những vị đầu mục Do thái giáo cai quản đền thờ tra vấn Đức Giêsu, đòi Ngài phải minh chứng bằng một dấu chỉ cho thấy Ngài có quyền hành xử như vậy, Đức Giêsu một lần nữa lại tuyên bố sự cáo chung của những quy chuẩn khôn ngoan theo não trạng con người. Ngài nói” Cứ phá hủy đền thờ này đi, sau ba ngày ta sẽ xây lại”. Họ chỉ biết nghĩ về một ngôi đền thờ bằng gỗ, bằng đá, nhưng Đức Giêsu nói về ngôi đền thờ khác, là chính thân xác Ngài. Sự sống lại của Ngài là dấu ấn chung cuộc, khải thị cho thế giới về những gì Ngài đã nói, đã hành xử. Ngài muốn nói về sự khôn ngoan đích thực cho thế giới hôm nay, một thế giới trong đó người ta vẫn nghĩ tưởng rằng cái chết là dấu chấm hết cuối cùng. Đức Giêsu chính là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa, và sự hiện diện của Ngài diễn bày cho chúng ta chân lý này.
Tất cả những điều đó bị coi là ngu xuẩn đối với họ. Những luật lệ theo quy ước và não trạng hạn hẹp đã khiến họ trở nên mù tối trước chân trời rộng mở của chân lý vĩnh hằng.
Tin mừng không phải là những gì xuẩn ngốc hay ngu dại. Tuy nhiên, sống giữa một thế giới đầy sợ hãi, khi con người thường hay sống cố thủ và tự mãn, người ta vẫn nghĩ tưởng Tin mừng là như thế. Lá thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ vừa qua nói về vấn đề hòa bình đã bị quần chúng công kích mạnh mẽ. Người ta cho rằng Giáo hội quá ấu trĩ và không đi sát với những trào lưu chính trị của thế giới. Lá thư nêu bật giáo huấn về sự phân bổ của cải sao cho công bằng và hợp lý, đồng thời phải phân phối những tiện ích xã hội để phục vụ đồng đều cho hết mọi người. Chế độ tư bản, khuyến khích người ta làm giàu, khuyến khích quyền tư hữu một cách ích kỷ, mà không lo cho thiện ích chung, là một chế độ đáng bị lên án và cần phải loại trừ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị và cả Đức Thánh Cha Bênêđictô đều nhấn mạnh về giáo huấn này. Lệnh truyền của Thiên Chúa là phải chăm lo cho sự sống nội tại nơi từng mỗi con người. Nhưng điều này dường như con người xã hội hiện nay vẫn không chấp nhận. Người Công giáo từ lâu đã cố gắng hòa nhập với xã hội, nhưng có một nguy hiểm to lớn là chúng ta dễ bị chao đảo về đức tin, hoặc đức tin trở nên suy yếu, khi chúng ta đang từ từ bị xã hội đồng hóa, bị thỏa hiệp và chúng ta không dám can đảm nêu bật căn tính của mình.
Chúng ta có dám can trường sống đức tin, phần nào có vẽ như “điên rồ” trong cái nhìn của thế giới ngày hôm nay hay không?
Dầu ôliu nguyên chất được Đức Giám Mục làm phép vào Thứ Năm Tuần Thánh được gọi là MC3-B106
Dầu ôliu nguyên chất được Đức Giám Mục làm phép vào Thứ Năm Tuần Thánh được gọi là dầu thánh dùng vào việc thánh hiến các dụng cụ thánh và xức dầu trong một số bí tích. Có ba loại dầu khác nhau và phân biệt nhờ mầu sắc, mùi vị khác nhau. Mùi vị, mầu sắc có được là do dầu được pha trộn với một hợp chất tinh tuyền được lấy từ một số loại cây tuyển chọn, rồi dùng tinh dầu này pha với tinh dầu của trái ôliu.
Hàng năm trong Tuần Thánh linh mục địa phận quy tụ với giám mục địa phận trong lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh. Sau khi truyền phép linh mục chánh xứ nhận dầu mang về giáo xứ để dùng trong năm. Dầu này được cất cẩn thận trong tủ khoá.
Trong Cựu Ước có nhiều đoạn ghi lại việc xử dụng dầu trong các nghi thức đăng quang quan trọng trong xã hội cũng như trong phụng vụ Giáo Hội. Nghi thức xức dầu dùng trong các ngày lễ vua đăng quang hay linh mục thượng phẩm. Muốn biết thêm chi tiết xin xem các đoạn trong sách Xuất hành chương 30 và sách Lêvi chương 8.
Nguồn gốc chữ Chrism có lẽ cùng nguồn gốc với chữ Christ có nghĩa ‘Đấng được Xức Dầu tấn phong). Các thánh giáo phụ ghi nhận việc xức dầu là dấu chỉ bề ngoài xác định niềm tin bên trong mắt thường không thể nhìn thấy nhưng nói lên đức tin của tâm hồn. Thánh Ambrô kính viếng dầu thánh như là dấu chỉ của ân sủng. Các vị khác coi dầu thánh như là vật thánh ban ân thánh hoá cho các Kitô hữu. Đức Giáo Hoàng Bênidictô 16 xác định
Dầu Thánh là dấu chỉ của ân sủng Chúa.
Dầu thánh được dùng trong các trường hợp thánh hiến thánh đường, chuông và bàn thờ, chén thánh, dĩa thánh bởi những dụng cụ này được dùng trong việc cử hành thánh lễ. Dầu thánh dùng trong bí tích thanh tẩy. Có hai lần xức dầu. Xức dầu lần đầu mang ý nghĩa thanh tẩy và thánh hiến em bé đó cho Thiên Chúa. Xức dầu lần hai mang í nghĩa ban ơn sức mạnh để trong tương lai chu toàn ba nhiệm vụ của Kitô hữu đó là sứ vụ linh mục, tiên tri và vương đế. Bí tích thêm sức người đó được xức dầu để nhờ ơn Thánh Thần Chúa hướng dẫn đồng thời ban sức mạnh chu toàn tốt đẹp ba sứ vụ nêu trên. Xức dầu bệnh nhân giúp người bệnh được mạnh nếu điều đó làm đẹp lòng Chúa đồng thời tăng sinh lực chống lại các cám dỗ và nếu có tội thì được tha. Khi truyền chức linh mục giám mục xức dầu hai tay linh mục. Khi truyền chứ giám mục thì giám mục chủ tế sức dầu trên đầu vị tâm giám mục với ý nghĩa thánh hiến và thánh hoá con người và công việc người đó sẽ đảm trách.
Dầu thánh được dùng trong phụng vụ mang ý nghĩa đặc biệt. Dầu ôliu được chọn làm dầu thánh vì tự bản chất của dầu vừa tốt cả về phẩm lẫn ít bị thái hoá do khí hậu và thời gian nên dầu được chọn biểu trưng cho sự giầu mạnh, bền bỉ và tốt lành của ân sủng Chúa. Hương thơm được pha trộn tượng trưng cho các đức tính cao quí, ngạt ngào hương thơm, tốt lành trong đạo. Dầu tượng trưng cho sức mạnh trong khi hương thơm tượng trưng cho sự bền bỉ.
Việc xức dầu tượng trưng cho việc lãnh nhận ân sủng Chúa và sức mạnh tinh thần cần thiết giúp người Kitô hữu sống đạo, chống lại tàn phá, huỷ diệt của cơn cám dỗ đồng thời toả hương thơm Lời Chúa cho tha nhân.
Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện MC3-B107
Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là "Hãy làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử nhân.
Tất cả sự kiện này không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA - chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
Câu truyện của Paul Kordenbrock cũng giống câu truyện của người đàn bà tại giếng nước.
Phúc Âm ghi lại: "Bà để gầu nước lại và đi về làng và nói với mọi người, 'Hãy đến mà xem Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.' "
Phúc Âm thêm rằng mọi người đã rời làng và đến gặp Chúa Giêsu.
Và như thế, người đàn bà, từng là người tội lỗi nhất, đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Kitô Giáo. Sau khi bà khám phá ra Chúa Giêsu, bà đã ra đi chia sẻ sự khám phá của bà với bạn bè và tha nhân.
Và đấy thực sự chính là những gì Paul Kordenbrock đã làm. Sau khi khám phá ra Chúa Giêsu, anh đã ra đi chia sẻ sự khám phá của mình với những bạn tử tù. Anh nói cho họ, "Hãy đến và gặp người đã làm những sự vĩ đại cho tôi." Và như thế, anh chàng tội lỗi nhất đã trở nên nhà truyền giáo đầu tiên của những tử tù trong trại Cải Tạo Tiểu Bang Kentucky.
Khi chúng ta để Chúa Giêsu Kitô vào trong đời sống của chúng ta, thì những điều phi thường mới có thể xảy ra. Chúa Giêsu có thể biến đổi đời sống chúng ta triệt để, y như Ngài đã biến đổi cuộc sống của người đàn bà và cuộc sống của Paul.
Qua chúng ta, Chúa Giêsu có thể với tới và biến đổi đời sống của những người khác, giống như Ngài đã chạm tới và biến đổi đời sống của những người khác qua người đàn bà xứ Samaria và qua Paul.
Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết khám phá ra Chúa trong Mùa Chay này. Và qua sự khám phá của chúng con, xin hãy giúp chúng con trở nên những nhà truyền giáo trong gia đình và cộng đoàn của chúng con.
Đền thờ là nơi thờ phượng, cầu nguyện và là nơi mọi người gặp gỡ nhau trong tình yêu thương của MC3-B108 Dalat
Đền thờ là nơi thờ phượng, cầu nguyện và là nơi mọi người gặp gỡ nhau trong tình yêu thương của người con Chúa Chúa Giêsu luôn yêu mến, hiếu thảo và vâng lời Chúa Cha. Yêu mến Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng yêu mến Đền Thờ là nơi mọi người thờ phượng, tôn kính Chúa Cha. Do đó, trong những năm đi rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu thường lui tới các Đền Thờ để loan báo Tin Mừng. Hôm nay, Ngài lên Đền Thờ Giêrusalem, nơi đó nhiều khách hành hương tới để cầu nguyện, tôn thờ Chúa, nhưng cũng chính nơi Đền Thờ này, Chúa Giêsu đã thấy nhiều người lợi dụng buôn bán, làm ồn ào, náo động, làm mất đi vẻ tôn nghiêm, thánh thiêng của Đền Thờ, nên Ngài đã dùng giây roi xua đuổi bọn buôn bán bò, những người đổi tiền, Ngài nói :” Đưa tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán “.
Đền thờ hay Nhà thờ luôn là nơi có Chúa ngự trị, chính vì thế, Chúa Giêsu và các môn đệ thường lui tới các Đền Thờ Do Thái để cầu nguyện, rao giảng và tôn vinh Thiên Chúa Cha. Kinh Thánh thuật lại, Chúa Giêsu về quê hương Nagiarét, Ngài vào Đền Thờ, người ta đưa cho Ngài cuốn Thánh Kinh, lật ra Ngài gặp ngay đoạn Kinh Thánh của ngôn sứ Isaia nói :” Thần Khí ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu, tấn phong và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..”. Chúa Giêsu luôn ý thức Đền Thờ là nơi Chúa và con người gặp gỡ thân mật với nhau. Nhà thờ là nhà của Thiên Chúa, là cửa Thiên đàng. Nên, Chúa Giêsu thường rao giảng trong các Hội đường, nơi Đền thờ, đặc biệt là Đền Thờ Giêrusalem. Vì thế, hôm nay khi đến Đền Thờ Giêrusalem để tôn thờ Chúa Cha, cầu nguyện và rao giảng. Cảnh tượng ồn ào, náo động của những con buôn, lợi dụng chỗ thờ phượng để kinh doanh, buôn bán, đổi tiền, đổi bạc…Những người này ăn gian, nói dối, lừa bịp đã làm mất đi sự thánh thiêng của Đền Thờ. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ thánh, Ngài liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên, bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Chúa giận dữ vì thái độ, hành động xấu của những người buôn bán muốn biến Đền Thờ thành chợ, thành nơi buôn bán vv…
Ngày nay, sự giận dữ của Chúa Giêsu và hành động xua đuổi bọn con buôn, người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ vẫn nhắc nhớ chúng ta rằng:” Nhà thờ là nơi thờ phượng, là nơi tôn nghiêm, mọi người phải luôn giữ sự thánh thiêng cho Nhà thờ “. Hành động của Chúa Giêsu và lời nói của Chúa Giêsu chính là lời thức tỉnh chúng ta về những cử chỉ, thái độ, cách ứng xử, trang phục của chúng ta đối với việc thờ phượng Chúa nơi các Nhà thờ, Đền thờ vv…Đối với Nhà thờ chúng ta phải có thái độ cung kính, mến yêu và giữ gìn sự trang nghiêm, thánh thiêng cho Nhà thờ vì nơi đây là nơi Thiên Chúa ngự trị. Kinh Thánh có thuật lại một câu chuyện thật đáng ghi nhớ :” Khi ông Giacóp đi về quê mẹ để trốn anh đang tìm giết mình, gặp trời tối. Giacóp phải ngủ lại ở dọc đường, nằm gối đầu trên một hòn đá.Ban đêm ông nằm mơ thấy một cái thang bắc từ đất lên trời, đầu thang có Thiên Chúa ngự xuống, trên các bậc thang có các thiên thần lên xuống tấp nập. Sáng ngày thức dậy, ông Giacóp nói ‘ Thực có Thiên Chúa ngự nơi đây mà tôi không biết.Nơi đây thật đáng kính sợ biết bao.Vì đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa dẫn vào Thiên đàng ‘.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người Kitô hữu và tất cả chúng con luôn biết mến yêu, bảo vệ, gìn giữ và trân trọng Nhà thờ vì chính nơi đây Thiên Chúa ngự trị để gặp gỡ con người, gặp gỡ chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Tại sao Chúa lại nổi cơn thịnh nộ khi lên Đền Thờ Giêrusalem? 2.Ngài dùng gì để xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ ? 3.Đối với những người đổi tiền, Chúa Giêsu đã có thái độ nào ? 4.Chúng ta phải có thái độ nào đối với Nhà Thờ ? -----------------------------
Chúng ta luôn quen với một hình ảnh Đức Giê-su khiêm nhường, hiền lành. Những an cần người an MC3-B109
Chúng ta luôn quen với một hình ảnh Đức Giê-su khiêm nhường, hiền lành. Những an cần người an ủi những kẻ than khóc, lầm than, những dịu dàng Người nâng tay đỡ dậy những người bệnh tật, những ưu tư và sẻ chia với các tông đồ... tất cả họa lên một chân dung Người mục tử nhân lành, yêu thương, trách nhiệm. Hôm nay trong bài Tin Mừng, chúng ta bắt gặp một Giêsu khác. Một Giêsu không ngần ngại xắn tay áo lên, lấy dây thừng đuổi lũ bò, chiên ra khỏi đền thò. Chắc hẳn những chú này chạy tán loạn khắp sân đền thờ. Rồi tiền bạc của những kẻ đổi bạc NGười đổ tung và lật nhào bàn ghế. Lại một cảnh náo loạn, mà chắc phải gọi là đại loạn xảy ra trong đền thờ. Gia súc chạy lung tung, người hò hét bắt giữ, người thì né tránh để khỏi bị súc vật tông vào mình, chỗ thì nhốn nháo vơ lại tiền bị làm đổ, người thì chạy lại nhặt tiền rơi...
Chúa Giêsu đã làm cho hình ảnh đẹp đẽ của mình bị méo mó và xấu xí trước mặt bao nhiêu là người. Chúa Giêsu không ngại “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Để Đền Thờ Giêrusalem thanh sạch, Chúa Giêsu không sợ hình tượng của mình bị người ta nhìn xấu xí. Nói đúng ra người ta buôn bán và đổi chác không phải trong Đền thờ mà là ngoài sân ngoài Đền thờ, sân dành cho dân ngoại. Việc đổi chác và mua bán này là cần thiết cho những người hành hương từ nơi xa đến có nhu cầu dâng lễ vật và nộp thuế. Vì ở xa nên không thể dẫn theo bò hay lừa để làm lễ vật, lo cho bản thân còn chưa xong thì lấy sức đâu mà lo cho một sinh vật nữa. Tuy nhiên, ở nơi đổi chác này chính là một cái chợ, là nơi làm giàu cho các tư tế bóc lột của dân nghèo. Cái gì cũng đắt hơn so với giá bình thuờng từ mười đến mười lăm lần. Cũng là chuyện bình thường ai cũng phải chấp nhận. Ví dụ như mua chai nước suối ở ngoài giá chỉ một đồng, mua ở phi trường giá gấp mấy lần, nhưng vẫn phải mua, bấm bụng mà mua, vừa mua vừa tiếc đứt ruột, vừa mua vừa làu bàu khó chịu mà vẫn phải mua. Lên Đền Thờ có ba việc phải làm là cầu nguyện, dâng lễ vật và nộp thuế cho nên đắt đỏ mấy cũng phải chu toàn bổn phận.
Đức Giêsu đã dùng sức mạnh cơ bắp để làm cho nhà Đức Chúa thanh sạch, Người đã giận dữ và phẫn nộ vì vinh quang Thiên Chúa. Có khi nào ta nhìn thấy một linh mục, một tu sĩ nào đó giận dữ chưa hay nghe được các vị ấy nói lời khó nghe? Nếu có, chúng ta đánh giá vị tu sĩ đáng kính mà ta hằng ngưỡng mộ bấy lâu nay ra sao? Phải chăng ta sẽ nói: ồ cứ tương cha hiền chứ. Ồ không ngờ sơ lại nói như thế... và còn nhiều xét nét khác. Có thể các Ngài cũng học theo gương Chúa Giêsu đôi khi mà nói lớn tiếng, mà hành động khác thường để vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện. Còn tôi, tôi có dám đứng lên như Chúa Giêsu hôm nay để làm cho Đền Thờ trong sạch?
Hơn nữa, chính bản thân chúng ta là Đền Thờ, có khi bị ô uế, ta có dám rũ bỏ những yếu đuối đó, đứng lên, quyết tâm chừa và đôi khi bị mang tiếng xáu, để Đèn Thờ linh hồn chúng ta trong sạch không?
Chúa Giêsu ám chỉ Đền Thờ mà Ngài sẽ xây trong ba ngày là chính Thân Thể ngài, Thân Thể Ngài hiện diện mọi nơi mọi lúc: Khi cử hành phụng vụ, khi cầu nguyện và hiện diện nơi người anh chị em của mình nhất là những người đang cần chúng ta hướng đôi tay về, những người nghèo khổ cả tinh thần lẫn vật chất, những người đang khát khao đón nhận sự chia sẻ của chúng ta.
Việc Đức Giêsu thanh tấy Đền thờ hôm nay cũng là một lời nhắc nhớ chúng ta thanh tẩy chính mình, xét duyệt lại đời sống đức tin trong vai trò mình đang đảm nhận. Có bao giờ mình dùng Nhà Chúa để tạo cho mình cơ hội kiếm chác kinh doanh lấy lợi nhuận? Có bao giờ mình dùng nhà thờ để đánh bóng tên tuổi mình cho nhiều người biết để có danh vọng hay có chỗ đứng với người ta? Có bao giờ mình dùng Đền thờ để tạo thanh danh và quyền lực cho bản thân không?
Xin Chúa Giêsu giúp chúng ta can đảm như Người, giữa ồn ào và tấp nập giữa chợ đời, dám đứng lên thanh tẩy những gì thuộc về Thiên Chúa.
Trong tháng kính thánh Giuse, vị cha nuôi âm thầm của Đức Giêsu, chúng ta cũng cầu xin Ngài cho chúng ta học đòi gương mẫu thinh lặng , âm thầm sống bên Con Thiên Chúa của Ngài để yêu thương và phục vụ. Amen Cầu nguyện
Lạy Chúa, Đền thờ của Chúa phải được thanh sạch, tinh tuyền. Xin cho chúng con biết nghiêm trang khi đến nhà Chúa đồng thời biết giữ cho Đền thờ tâm hồn của mình trong sạch để đón Chúa ngự vào trong linh hồn. Amen Maria Nguyễn Thị Minh Du
Dòng Đa Minh Rosa Lima
Lễ Vượt qua của người Do thái thường diễn ra tại Đền thờ. Vào dịp này, Chúa Giêsu lên dự lễ, Người MC3-B110
Lễ Vượt qua của người Do thái thường diễn ra tại Đền thờ. Vào dịp này, Chúa Giêsu lên dự lễ, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi Đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chứng kiến cảnh tượng Chúa làm, các môn đệ khám phá ra lòng nhiệt thành với nhà Cha nơi tâm hôn Chúa Giêsu, họ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi” (Tv 69,10).
Thật là tệ! Đền thờ, nhà của Thiên Chúa đã bị biến thành nơi chợ búa. Mục đồng thì mang cừu đến bán, kẻ bán chim câu mong kiếm được vài đồng, kẻ giữ Đền thờ cũng vậy...
Đền thờ Giêrusalem
Luật Do thái cấm mua bán nơi Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung túng cho dịch vụ này để nhằm chuộc lợi. Kẻ đổi tiền ăn bớt phần trăm, người bán coi đó như là cách thế làm tiền, khiến người mua thì phải mua đồ lễ một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến, với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường. Các tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng có món tiền bỏ túi riêng. Thay vì nhắm đến việc giúp những người từ xa đến khó có thể mang theo lễ vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết, vì việc mua bán vẫn có thể thực hiện bên ngoài Ðền thờ. Nếu tiện lợi, sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Chúa đuổi họ, vì họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Chúa lên tiếng cảnh giác họ : “Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ.
Chúa Giêsu là Đền Thờ
Thật ra, cơn giận của Chúa Giêsu không nhằm chống lại những người buôn bán cho bằng chống lại chính việc thờ phượng bị thương mại hóa theo kiểu ấy. Khi lật nhào các quày buôn bán, Ngài lật đổ chính tôn giáo và phá hủy đền thờ. Hành động đó gây phẩn nộ cho tất cả mọi người, nhất là khi biết rằng đền thờ Giêrusalem có một vị trí trong tâm hồn mọi người Do thái. Họ hỏi Ðức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Mc 2,18) Và Ngài đáp: “Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Mc 2,19).
Thánh Gioan tường thuật chi tiết chính xác quan trọng ấy. Đền thờ Chúa Giêsu nói đây chính là Thân thể Người, hiện thân của Chúa Cha. Khi sánh ví Người là Đền Thờ, Chúa Giêsu khẳng định chính mình là Đền Thờ Thiên Chúa Cha ngự trị. Chúa Giêsu chính là sự tôn vinh Thiên Chúa. Theo thánh sử Gioan, chúng ta được tiên báo về cái chết và sự sống lại của Ðức Kitô : thân thể của Người, vốn bị bạo lực của tội lỗi hủy hoại trên thập giá, Thiên Chúa gặp gỡ con người qua sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, nhân tính của Người chính là Ðền Thờ đích thực, là nơi Thiên Chúa mặc khải chính mình, để phán bảo và gặp gỡ con người; và những ai thờ phượng Thiên Chúa đích thực không phải là những kẻ giữ cửa của Ðền thờ vật chất, cũng chẳng phải những người nắm giữ quyền lực hay có kiến thức về tôn giáo, nhưng là những ai thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần Khí và sự thật” (Ga 4, 23).
Chúng ta là Đền thờ
Thánh Phaolô nói : “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?.. Đền thờ của Thiên Chúa là thánh thiêng, anh chị em cũng vậy” (1 Cr 3,16-17). Như thế, chân lý và phẩm giá Thiên Chúa được liên kết với sự thật và phẩm giá con người. Thánh Phaolô cảnh cáo : “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và ai xúc phạm Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy” (1Cr 3, 17).
Người ta xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa bằng nhiều cách. Nếu người Do thái xưa kia đã biến Đền Thờ thành nơi buôn bán. Và Chúa Giêsu đã nổi giận đến nỗi thắt dây thừng thành roi để đánh đuổi họ và lật đổ bàn ghế của họ. Ngày nay, có nhiều nơi dùng Thánh Đường để buôn thần bán thánh, nhưng cách xúc phạm thông thường nhất là phạm đến Đền thờ trong tâm hồn và thân xác của mỗi người và của tha nhân.
Phá thai là một hình thức xúc phạm nặng nề đến Đền thờ Thiên Chúa. Không những xúc phạm, mà còn phá hủy những Đền thờ nhỏ bé của Thiên Chúa, tước quyền Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên các thai nhi ấy theo hình ảnh của Ngài.
Linh hồn cũng là Đền thờ Thiên Chúa. Chúng ta xúc phạm đến Đền thờ này bằng cách xúi dục người khác phạm tội, làm dịp cho người khác phạm tội, làm gương mù cho người khác, nhất là trẻ em (x. Mc 9:42), hay làm lơ không nhắc nhở khi mình có trách nhiệm. Có nhiều người nghĩ rằng mình không làm hại ai là đủ rồi. Thật ra những người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn người khác, mà lơ là bổn phận của mình, cũng là xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa vì mình không chu toàn bổn phận bảo trì và xây dựng những ngôi Đền Thờ mà Thiên Chúa đã trao cho.
Khi đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người là gìn giữ đền thờ bản thân chúng ta. Tâm hồn chúng ta là cung thánh Chúa ngự. Chúa biết rõ những khao khát nồng nhiệt nhất của chúng ta: đó là được Ngài cư ngụ trong cõi lòng mình, chỉ một mình Chúa thôi. Chúng ta hãy để cho Ngài bước vào cuộc đời, gia đình, và cả cõi lòng của chúng ta nữa. Để được như thế Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng với Chúa.
Lạy Mẹ Maria, nơi cư trú đặc biệt của Con Thiên Chúa, xin đồng hành với chúng con và xin nâng đỡ chúng con trong hành trình Mùa Chay này, để chúng con có thể tái khám phá ra vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô, Ðấng sẽ giải thoát và cứu độ chúng con. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ -----------------------------
Mất bao nhiêu công, của và thời gian mới xây dựng được đền thờ. Thế mà Chúa lại bảo phá hủy MC3-B111
Mất bao nhiêu công, của và thời gian mới xây dựng được đền thờ. Thế mà Chúa lại bảo phá hủy đền thờ này đi, người Do Thái hẳn sẽ tức giận vì lời nói ấy của Chúa Giêsu. Bây giờ ai cũng hiểu đền thờ ấy chính là thân xác mang đầy vết nhơ tội lỗi, phá hủy đi để mang lấy thân xác mới trong Chúa Phục Sinh. Thân xác mới là Đền Thờ Thiên Chúa cư ngụ.
Sự trong sạch của thân xác.
Một thân xác khiết tinh là một mơ ước của các bậc tu trì trong các tôn giáo. Giữ cho thân xác khiết tinh để nhìn rõ sự vật, nhìn rõ vào thân phận con người luôn chịu sự dữ bủa vây. R. Tagore đã cảm nghiệm trong sâu xa của tâm thức: “Tôi sẽ luôn luôn giữ gìn tư tưởng lánh xa mọi điều giả dối, vì hiểu chính người là chân lý đã nhóm trong tâm trí tôi nguồn sáng lý trí.” (Lời Dâng, số 4). Sự thông tuệ trong chân lý đòi hỏi sự vượt bậc việc tiết chế trong thân xác, bởi vậy các bậc hiền triết xưa kia thường tìm nơi núi cao, vắng vẻ, tránh xa trần thế, ít lệ thuộc vào vật chất nhất để sống nhiệm nhặt, kiểm soát thân xác khỏi những u mê, mở rộng đường chân, thiện, mỹ. Lời Chúa trong tám mối phúc thật dạy: “phúc cho ai giữ tâm trí trong sạch, họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8). Mối phúc thật gắn liền sự khiết tinh thân xác với việc lãnh nhận chân lý. Chúa Giêsu nói phá đền thờ vật chất là nói đến con đường thanh luyện thân xác để nhìn ngắm Thiên Chúa trong Đền Thờ thân xác Phục sinh.
Niềm vui của Tin Mừng.
Thoát khỏi xiềng xích của một nền văn minh sự chết, con người mới thấy niềm vui được triển nở trong Tin Mừng. Gặp gỡ Thiên Chúa nhiều lần, nhiều cách, ở nhiều khúc quanh của cuộc đời, để thưa với Chúa: “ “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa” (Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 3). Nơi Thiên Chúa, con người mới đủ mạnh sức kiến tạo trần thế này một niềm vui sống thực sự. Trong cuốn Sadhna, Thực nghiệm tâm linh, R.Tagore viết: “Cha hỡi, hãy quét sạch mọi tội lỗi cho con, vì trong tội con đứng về phe hữu hạn”. Đứng về phía hữu hạn, chống lại tình yêu của cha, đó là kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi làm cuộc sống thêm buồn tẻ va bi ai. Lời cầu nguyện ấy cũng tựa như lời cầu xin: “xin Chúa phá hủy đền thờ này đi, để Chúa ban lại cho con ngôi Đền Thờ Chúa ngự”. Từ ấy, mới có thể yêu mến cuộc đời này như tặng phẩm tuyệt diệu của Thiên chúa ban cho nhân loại.
Phá hủy đền thờ “cái tôi”.
Hiên ngang, tràn đầy dũng lực ơn thiêng, bước vào giao chiến với sự dữ, lời mời gọi của Mùa Chay: “Được Chúa Thánh Thần đưa vào hoang địa” (Mt 4, 1) .
Con người thời nay được nhiều tiến bộ khoa học tạo cho nhiều tiện nghi, hưởng thụ, nhưng lại không thể tạo cho con người sống hạnh phúc. Để sống hạnh phúc, hạnh phúc ấy cần được kiến tạo tự nơi chính mình, chứ không từ vật chất, địa vị, quyền lực. Đức Đạt Lai Lạtt Ma chi sẻ kinh nghiệm của mình: “Thật cần thiết trong việc phát khởi thiện chí và thái độ tốt, càng nhiều càng tốt. Với thiện chí và thái độ tốt, hạnh phúc, ngắn hạn và dài hạn, cho chính ta và tha nhân sẽ hiện hữu.”
Với người Kitô hữu việc gặp gỡ Thiên Chúa thường xuyên là cần thiết để xây dựng tình bạn với Thiên Chúa, ra khỏi ích kỷ của mình: “Chỉ nhờ sự gặp gỡ này – hay sự gặp gỡ mới mẻ này – với tình yêu của Thiên Chúa, được triển nở thành một tình bạn phong phú, chúng ta được giải phóng khỏi sự chật hẹp và khép kín của mình. Chúng ta trở thành con người đầy đủ khi chúng ta trở thành hơn là con người, khi chúng ta để mình được Thiên Chúa đưa vượt qua chính mình để đạt tới sự thật đầy đủ nhất về hiện hữu của mình. Ở đây chúng ta tìm thấy nguồn mạch và cảm hứng cho mọi nỗ lực phúc âm hoá của chúng ta. Bởi nếu chúng ta đã nhận được tình yêu phục hồi ý nghĩa cho cuộc đời mình, làm sao chúng ta có thể không chia sẻ tình yêu ấy với người khác?” (Tông huấn: Niềm Vui Tin Mừng, số 8).
Bạn thân mến!
Ai cũng sợ phá hủy đền thờ vật chất, nơi mình đã dày công, tích góp, bon chen, dành dụm, mới xây lên được ngôi đền cho chính mình. Chúa bảo phải phá đi! Chỉ trong ba ngày Chúa ban cho lại ngôi Đền Thờ đích thật.
Xin cho chúng con dám liều lĩnh phá hủy cái tôi ích kỷ để sống cái chung phẩm vị con người, phá hủy lối sống hưởng thụ để sống chia sẻ hạnh phúc, phá hủy con người cũ để sống con người mới trong Chúa phục Sinh.
Cứ mỗi độ xuân về, người dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ MC3-B112
Cứ mỗi độ xuân về, người dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ hội đầu năm. Từ một hai thập kỷ trở lại đây, nhờ đời sống kinh tế được cải thiện, những lễ hội truyền thống sau một giấc ngủ dài trong thời bao cấp, được khôi phục khắp nơi, đua nhau nở rộ như nấm mọc sau mưa. Đương nhiên, nhưng lễ hội này đều góp phần tích cực giúp con người hướng thiện, nhưng khá nhiều lễ hội bị nhuốm màu thương mại và mê tín dị đoan, mang theo những hệ lụy không đẹp do cách hành xử thiếu văn hóa, thậm chí còn cướp giật, đánh nhau đến đổ máu. Lễ hội đang bị lạm dụng nghiêm trọng và làm mất đi ý nghĩa linh thiêng.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền thờ Giêrusalem là nơi thiêng thánh cũng bị lạm dụng. Người ta buôn bán chiên bò, chim câu và đổi tiền. Tất cả những dịch vụ này cũng núp dưới danh nghĩa phục vụ khách hành hương, nhất là vào dịp lễ trọng của người Do Thái là lễ Vượt qua. Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh này. Người đã nghiêm khắc xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cả bốn thánh sử đều ghi lại sự kiện này, nhưng Thánh Gioan là người diễn tả hành động của Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ quyết liệt nhất: “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ…”. Tuy vậy, nếu ba tác giả của Tin Mừng nhất lãm đều nói đến việc Đức Giêsu “đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ”, thì thánh Gioan lại cho biết, Chúa chỉ yêu cầu mang các loại hàng hóa xâm nhập Đền Thờ và làm cho nơi thánh trở thành chốn thương mại. Phải chăng Thánh Gioan muốn nói với chúng ta: Chúa Giêsu không xua đuổi con người tội nhân, nhưng xua đuổi những hành động tội lỗi, và như thế, Người mời gọi chúng ta hãy thanh tẩy cách sống Đức Tin.
Chúng ta vui mừng và tạ ơn Chúa vì giáo dân Việt Nam vẫn chăm chỉ đi lễ, tham dự các nghi thức phụng vụ. Tỷ lệ người tín hữu đi lễ Chúa nhật đạt ở mức rất cao. Tuy vậy, nếu để ý chi tiết đến tâm tình của các tín hữu trong đời sống Đức Tin, chúng ta sẽ thấy khá nhiều người chưa có đời sống nội tâm, tức là Đức Tin và giáo huấn của Chúa chưa thấm nhập cuộc đời của họ. Nói cách khác, nhiều người tín hữu vẫn mang hai khuôn mặt, một khuôn mặt ở trong nhà thờ sốt sắng hiền lành, một khuôn mặt ngoài xã hội gian dối mưu manh. Nhiều người khác lại có một Đức Tin pha tạp, vừa tin và cầu nguyện với Chúa, vừa có những thực hanh mê tín dị đoan, nhất là nơi những người kinh doanh buôn bán. Họ viện cớ “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, nên dù là người Công giáo mà vẫn thờ thần tài, vẫn xem bói, xem hướng, xem ngày xem giờ… Đây là thái độ “bắt cá hai tay” không phù hợp với Đức Tin. Thái độ này đã nhiều lần bị Chúa Giêsu đã lên án.
Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới. Thanh tẩy Đức Tin là điều kiện thiết yếu để chúng ta đổi mới cuộc đời. Bởi lẽ, nhờ Đức Tin tinh tuyền, chúng ta mới có thể sống Đạo chân thành trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
Nhờ Đức Tin được thanh tẩy, chúng ta xác tín và trung thành với Thiên Chúa, Đấng độc nhất đáng tôn thờ. “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta!”. Đó là khoản đầu tiên trong luật Giao ước mà Chúa đã truyền cho dân Do Thái qua ông Môisen (Bài đọc I). Trải qua những biến chuyển của mọi thời đại, Do Thái giáo luôn tự hào vì là tôn giáo độc thần, tức là chỉ có Thiên Chúa là Đấng họ tôn thờ. Họ sắt son một lòng với Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ luật Ngài truyền, kể cả khi phải đổ máu, như trong thời kỳ bị người Hy Lạp chiếm đóng và thôn tính. Đức Tin tinh tuyền nơi Thiên Chúa là nền móng cho việc thực hành các lệnh truyền khác liên quan đến đức hiểu thảo, đức công bằng, đức trong sạch, đức công chính và các nhân đức khác trong cuộc sống.
Những lệnh truyền của luật Giao ước chính là Mười Điều Răn của Chúa, được tuyên xưng và áp dụng trong đời sống Kitô hữu. Khi xét mình hòa giải với Chúa, chúng ta dựa trên những nguyên tắc căn bản này để lượng giá những lời nói, tư tưởng, hành vi của mình. Rất tiến, nhiều Kitô hữu, nhất là những bạn trẻ, không thuộc kinh Mười Điều Răn, vì vậy, họ không định hướng được cuộc đời của mình. Họ nói tin vào Chúa mà không biết Chúa là ai và phải làm gì để thực hành Đức Tin.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Người cũng dùng máu Người đổ ra trên thập giá để thanh tẩy tội lỗi của nhân loại. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội không ngừng rao giảng mầu nhiệm thập giá, “điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (Bài đọc II). Trái lại với sự xét đoán của thế gian, Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có những lúc, người tin vào Chúa bị coi như những người điên rồ hoặc những người đi ngược dòng. Tuy vậy, cũng như sự điên rồ của thập giá đã cứu vớt nhân loại, những ai theo Chúa Giêsu, dù có thể bị coi là ngu dại, chắc chắn sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và niềm vui của Đấng phục sinh.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy trong xã hội tân tiến ngày nay, vệ sinh được MC3-B113
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy trong xã hội tân tiến ngày nay, vệ sinh được chú trọng vào hàng đầu để mọi người có một sức khỏe tốt cho đời sống. Vì vậy ít người muốn ở dơ hay sống trong một môi trường dơ bẩn vì sợ bệnh tật và hại cho sức khỏe. Muốn được sạch sẽ, chúng ta phải tắm rửa, dọn dẹp và lau chùi thường xuyên. Cũng vậy, muốn có một đời sống tinh thần hay tâm linh lành sạch, chúng ta cũng phải tẩy sạch bụi bậm là tội lỗi thường xuyên. Tội lỗi làm cho đời sống tinh thần của chúng ta thành ô uế, dần dần chết đi và dần dần xa Chúa, cũng như không xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự. Hơn nữa, Thiên Chúa không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Để có thể rước Thiên Chúa vào và ở lại trong tâm hồn, chúng ta cần thường xuyên xét mình để nhận ra những tội lỗi, và mau chạy đến với Bí Tích Hòa Giải hay Giải Tội để lãnh nhận ơn tình yêu tha thứ của Chúa. Mùa Chay là dịp thuận tiện để chúng ta tẩy sạch những tính hư tật xấu trong tâm hồn. Mùa Chay trong Năm Phụng vụ thường xảy ra vào mùa Xuân của thiên nhiên, cho nên Mùa Chay được gọi là Mùa Xuân của tâm hồn. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể nhận ra những tội lỗi để tẩy sạch?
Lời Chúa trong Chúa nhật thứ ba mùa chay hôm nay là một động lực thúc đẩy chúng ta thành thật nhìn vào đời sống tinh thần, và cho chúng ta những cách thức để nhận ra tội lỗi của mình. Trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su, vì lòng nhiệt thành, đánh đuổi những con buôn ra khỏi Đền Thờ. Ngài trách mắng họ: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.” Chúng ta biết Đền Thờ, là nơi Chúa ngự, trong đạo chúng ta có nhiều nghĩa. Thứ nhất là Giáo hội trong đó bao gồm tất cả mọi người và cũng là Thân Thể Thánh Thiện Của Chúa Ki-Tô; thứ hai là Ngôi Nhà Thờ Giáo Xứ này mà chúng ta thường xuyên đến thờ phượng, cầu nguyện và chịu các Bí tích. Và thứ ba là tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Ở đây tôi xin được đề cập đến Đền Thờ là Ngôi Nhà Thờ Giáo Xứ Thánh Giuse của chúng ta, và Đền Thờ là tâm hồn mỗi người chúng ta mà thôi. Chúng ta thấy khi vào Ngôi Nhà Thờ này, nhìn lên cung thánh, chúng ta thấy Ngôi Nhà Tạm là nơi đặt Mình Thánh Chúa, là nơi Chúa ngự. Ở trên, chúng ta nhìn thấy cây Thánh Giá, nhắc nhở chúng ta về sự đau khổ của Chúa Giê-su, và là hy lễ toàn thiêu của Ngài dâng lên Thiên Chúa Cha đền thay tội lỗi của chúng ta. Qua Cây Thánh Giá, chúng ta nhận thấy rõ tình yêu cao vời của Chúa, và hậu quả tội lỗi của chúng ta, thúc đẩy chúng ta cải thiện đời sống, ăn năn sám hối, như những chữ trên băng rô treo trên tường, và xa lánh những dịp đưa chúng ta đến phạm tội.
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khẳng định rằng Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ cho là điên rồ. Vì yêu thương, Chúa đã hiến thân xác và chịu chết trên thập giá để ban cho chúng ta ơn tha thứ và ơn sủng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa Cha. Vì thế, khi vào Ngôi Nhà Thờ này, chúng ta phải luôn ý thức là nơi Chúa ngự, có sự hiện diện của Chúa. Ngôi Nhà Thờ này còn là trung tâm thờ phượng và cầu nguyện của giáo xứ chứ không phải nơi để trò chuyện, ồn ào, do đó chúng ta phải có thái độ trang nghiêm, cử chỉ cung kính, tắt điện thoại di động cũng như không sử dụng những vật dụng điện tử. Khi đến tham dự thánh lễ thờ phượng Chúa, chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa như một gia đình Giáo xứ đầm ấm, chứ không phải chỉ cá nhân, hay chỉ ca đoàn hát hay chỉ một nhóm mà thôi. Nếu chúng ta muốn Chúa thương ban những ơn lành hay nhận lời cầu nguyện thì chúng ta phải có lòng tôn kính, và phải cố gắng ý thức gìn giữ Ngôi Nhà Thờ được sạch sẽ, không xả rác, không nhai sinh gôm, hay ăn uống bừa bãi. Ngoài ra, tất cả chúng ta có bổn phận đóng góp, dâng cúng tài chánh để gìn giữ, bảo trì và sửa chữa Ngôi Nhà Thờ này xứng đáng là nơi Chúa ngự. Ngoài ra về phương diện tinh thần, chúng ta cố gắng gìn giữ Ngôi Nhà Thờ Giáo Xứ chúng ta sạch sẽ bằng cách thành tâm tạo tình yêu thương hiệp nhất, hy sinh phục vụ Chúa và mọi người. Và tránh những hành động, lời nói và việc làm tạo nên những sự ô uế là những sự ganh ghét, nghi ngờ và chia rẽ trong cộng đoàn giáo xứ.
Ông bà anh chị em thân mến. Đền Thờ còn là thân thể, tâm hồn của mỗi người Ki-tô hữu chúng ta. Thánh Phaolô nhấn mạnh và cho chúng ta biết rằng: “Thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần” và “thân thể anh chị em là chi thể của Đức Kitô.” Để gìn giữ tâm hồn chúng ta lành sạch và xứng đáng là nơi Chúa ngự, cũng như có một sự liên hệ tốt lành với Thiên Chúa và tha nhân, và cũng vì lòng yêu thương, Thiên Chúa ban cho chúng ta những phương cách để sống trong ơn sủng của Ngài, và để xét mình, nhận ra những bụi bậm tội lỗi, để được tẩy sạch. Bài đọc I trích sách Xuất Hành hôm nay giúp chúng ta cách thức xét mình bằng 10 điều răn của Chúa. Chúng ta nhận thấy 3 điều răn đầu tiên đặc biệt chú trọng tới sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Thứ nhất, yêu mến Thiên Chúa hết lòng và trên hết mọi sự. Thứ nhì, chớ kêu tên Thiên Chúa cách vô cớ. Và thứ ba, giữ ngày Chủ Nhật. Qua 3 điều răn này, Chúa dạy chúng ta chỉ yêu mến và kính thờ một Chúa mà thôi. 7 điều răn sau chú trọng tới mối liên hệ của chúng ta với tha nhân: phải thảo kính cha mẹ; không được giết người; không được ngoại tình; không được trộm cắp; không được làm chứng gian hay nói những điều gian dối hại người; không được ham muốn vợ người ta; và cuối cùng không được ham muốn bất cứ vật gì của người khác.
Chúng ta hãy xét mình xem sự liên hệ của chúng ta với Chúa và tha nhân như thế nào? Chúng ta có yêu mến, thờ phượng Chúa trên hết và trước hết mọi sự không? Chúng ta có sống công bằng, quảng đại, bác ái, yêu thương, ngay thẳng với cộng đoàn và người khác không? Chúng ta có tinh thần hiệp nhất, yêu thương và cùng chung sức xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa không?
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện Chúa Giê-su tẩy sạch đền thờ trong bài Tin mừng là một sự thúc đẩy chúng ta nhìn vào đời sống để nhận ra tình trạng, sự liên hệ của chúng ta với Chúa và tha nhân ra sao, và qua 10 Điều Răn Chúa dạy trong bài đọc 1, chúng ta nhận ra những sự nhơ bẩn trong tâm hồn cần được thanh tẩy để trở nên lành sạch. Thật ra, chúng ta phải thường xuyên thanh tẩy tâm hồn, thành tâm và dứt khóat quét sạch các nhơ bẩn, bụi bặm của tội lỗi, để mỗi người và nhà thờ giáo xứ chúng ta xứng đáng trở nên Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự, có một đời sống tinh thần và sự liên hệ tốt lành, khỏe mạnh với Chúa, trong ơn sủng tình yêu, và với mọi người, trong mùa Chay thánh, mùa Xuân của tâm hồn này.
Tương quan huynh đệ bền vững thế nào là tùy thuộc vào cách ứng xử có tình, có lý; giá trị tinh thần MC3-B114
Tương quan huynh đệ bền vững thế nào là tùy thuộc vào cách ứng xử có tình, có lý; giá trị tinh thần và đạo đức có đủ, có đẹp, nơi một tâm hồn mới thực sự cao quí. Cảm nhận về sự hoàn hảo bằng giác quan thường được chú ý nhiều hơn cả là xinh đẹp, chắc chắn; quan niệm về sự hoàn hảo nơi tâm hồn là bình an, niềm vui cùng với tinh thần quảng đại tha thứ. Cha ông chúng ta nói thương cho roi cho vọt, còn kinh nghiệm những người làm công tác giáo dục là : cứng quá thì dễ gẫy, mềm quá thì dễ hỏng việc, nhưng dở dở ương ương, thì ma chê quỉ hờn, và không thể có kết quả như ý được.
Lần tìm điểm căn bản thế nào là quá cứng, quá mềm hay không lở dở, xem ra vẫn bị bỏ ngõ để ta tự suy xét, chọn lựa mà thôi. Làm sao chúng ta có thể đặt giá trị tiền của và giá trị tinh thần đúng chỗ, đúng vị trí của chúng ? Ai có thể giúp ta chăm chỉ làm việc, thành kính, thờ phượng, tận hưởng niềm vui vật chất, tinh thần cho xứng hợp ? Lời Chúa hôm nay như một tình cờ Chúa Giêsu giận dữ vì người ta sống sai lạc với niềm tin thờ phượng, ăn có nơi, chơi có chốn ! phải chăng các luật sĩ, biệt phái, cùng một số đông dân chúng không hiểu điều căn bản nhà Chúa là nhà cầu nguyện ?
Chúa Giêsu tại Đền thờ năm xưa đã lấy roi vọt để giáo dục, để minh định Đền thờ là nhà Chúa, là nơi cầu nguyện, mọi người không ai được lẫn lộn, dù vô tình hay cố ý. Ngày nay, nhà thờ công giáo không bị giới hạn nữa, dường như có mặt khắp nơi và có đủ mọi kiểu dáng, điều ấy cho thấy Thiên Chúa luôn hiện diện, người Kitô hữu lúc nào cũng cần hiệp nhất ! Không biết lúc này, ta có ý thức tâm hồn của mình đang được Chúa hiện diện hay còn ngổn ngang đủ mọi thứ sự cản lối, tâm trí thiếu sự kết hiệp.
Xưa kia một số đông đã làm hoen ố Đền thờ, vì lợi nhuận vật chất, ngày nay chúng ta không đến nhà thờ để kinh doanh buôn bán, có chăng là tính toán một chút, cha xứ này dâng lễ 35 hay 45 phút ! Cha ông chúng ta đề cao sự đoan trang, cái đẹp bền vững : “cái nết đánh chết cái đẹp.”, hay cụ Nguyễn Du cho rằng : chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài; thế nhưng người trẻ hôm nay nói ngược lại : cái đẹp đè bẹp cái nết”. Cái đẹp hình thức được suy tôn, biết bao lợi nhuận đeo bám chúng ta, hay việc đến nhà thờ chưa phải vì lòng mến yêu phụng thờ, cũng có khi vì thiếu hiểu biết thế nào là hạnh phúc thật ! Nhiều bậc cha mẹ hiện nay cũng chia sẻ kinh nghiệm về việc giáo dục dạy dỗ con, gặp đứa dại khờ thì vất vả lo sợ không an tâm, gặp đứa thông minh chúng lại dễ chống đối, bất đồng với cha mẹ.
Có lẽ sự giận dữ của Chúa Giêsu tại Đền thờ hôm xưa, phần nào chia sẻ gánh nặng trách nhiệm của các bậc làm cha mẹ đối với con cái, và ai cũng cần đến sự khôn ngoan, cứng, mềm đúng chỗ nhằm dạy con cháu nên người hữu ích. Để bảo vệ hạnh phúc cho con cháu, Chúa Giêsu còn phải nổi nóng ở Đền thờ, vì thế không cha mẹ hay nhà giáo dục nào, có thể im lặng, ngần ngại gian khó, kể cả phải hy sinh thời gian cho việc xây dựng một xã hội công bằng yêu thương. Câu chuyện quở trách và cứng rắn của Chúa Giêsu, dù sao cũng nói lên một thực tại : hễ là người, thì dù giầu hay nghèo, nếu không biết khôn ngoan phòng tránh, đều có nguy cơ bị lệ thuộc vào sức mạnh của đồng tiền !
Đền thờ giáo xứ của chúng ta hôm nay, tuy không có cảnh buôn bán náo nhiệt, nhưng Chúa muốn mỗi người hãy mưu ích cho Đền thờ tâm hồn, nhất là sau hai tuần mùa chay, ta phải tự hỏi mình đã sống, đã làm đẹp Đền thờ giáo xứ, làm đẹp Đền thờ tâm hồn và Đền thờ gia đình đến đâu rồi ? Hy vọng rằng, với lòng nhiệt thành xây dựng gia đình, xây dựng giáo xứ và đặc biệt là việc hy sinh giáo dục con cái, chúng ta sẽ gặp được tình yêu thương của Chúa Giêsu trợ giúp.
Với sự lộn xộn trong đền thờ Giêrusalem, việc đổi tiền và buôn bán súc vật xem ra là thiếu hiểu biết. Chúng ta đây chẳng bao giờ làm điều ô uế, xúc phạm đến uy danh của Đền thờ. Đúng là vì thiếu hiểu biết, nên đã xảy ra sự lộn xộn bất bình thường nơi Đền thờ, vì không hiểu cha mẹ luôn yêu thương, nên con cái có thể cư xử với đấng bậc sinh thành thật vô duyên, đáng ăn đòn. Chúa Giêsu hôm nay vẫn luôn xua đuổi, quét sạch những nhơ nhớp, ra khỏi đền thờ tâm hồn con người, điều cần nơi mỗi người là biết phân định giá trị tinh thần phải được đặt lên trên hết.
Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn mình, hãy ý thức thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Cầu chúc cho các bậc làm cha mẹ, những nhà giáo dục thời đại hôm nay, tuyệt đối không phải dùng roi để sửa dạy con cháu, nhưng là nhờ gương sáng, nhờ hiểu biết thánh ý Chúa, nhờ tình yêu thương nơi Chúa Giêsu luôn làm mới lại tâm hồn của ta và con cháu chúng ta. Amen.
Có một người mang biếu tôi mấy quả quýt, họ nói: “Quýt này con để dành ăn nên không có MC3-B115
Có một người mang biếu tôi mấy quả quýt, họ nói: “Quýt này con để dành ăn nên không có thuốc đâu!”. Nghe mà xót xa! Hóa ra quýt bán cho khách hàng thì phun thuốc, bất chấp độc hại, miễn là lợi nhuận kinh tế ra sao? Còn quýt để dành ăn mới sạch, mới bảo đảm an toàn thực phầm? Xem ra vì lợi nhuận mà người ta bất chấp tất cả, họ coi thường tính mạng của tha nhân. Phải chăng đạo đức xã hội đã xuống cấp đến mức con người không còn áy náy khi làm hại người khác để thu quén cho bản nhân?
Biết xấu vẫn làm là căn bệnh nan y của thời đại hôm nay. Nhưng còn một căn bệnh nữa đó là thấy việc xấu vẫn làm ngơ, dửng dưng, bàng quan cũng không kém phần trầm kha.
Có rất nhiều người thấy kẻ xấu ăn trộm nhà hàng xóm hay người bạn đi cùng vẫn làm ngơ, coi như không thấy. Họ là người ích kỷ.
Có rất nhiều cha mẹ thấy con cái đi đàng tội lỗi, vẫn im lặng như đang đồng lõa. Họ là người thiếu trách nhiệm.
Có rất nhiều bạn trẻ thấy bạn bị hãm hại, đánh đập vẫn đứng yên, khoanh tay đứng nhìn. Họ là người nhu nhược.
Người làm điều xấu thì đáng ghét và người im lặng trước sự xấu thì đáng khinh. Thế nên, khi nhìn thấy người làm điều xấu mình cũng cảm thấy nuối tiếc cho họ. Họ đã đánh mất đi hình ảnh đẹp của họ nơi chúng ta. Nhưng còn đáng buồn hơn khi nhìn thấy người tốt dửng dưng với cái xấu, với tệ nạn xấu đang tràn lan.
Làm người phải biết phân biệt cái đúng, cái sai. Khi nhỏ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học vất vả, ta dễ xem thường bạn bè. Khi ra đường ta thấy ai đó vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường, ta thấy chướng mắt. Đó là những cái sai, cái xấu mà ta không bao giờ chấp nhận. Nhưng liệu rằng, bản thân ta đã bao giờ làm điều gì đó ngăn chặn những cái xấu ấy, hay chúng ta vẫn yên lặng cho qua để yên ổn bản thân?
Năm xưa Chúa Giê-su đã không dửng dưng trước cái xấu. Ngài đã hành động trong giận dữ mà người ta nói là “cơn giận thánh”. Ngài không thể chấp nhận sự dữ tồn tại. Ngài không thể khoanh tay nhìn cái xấu hoành hành. Phúc âm kể rằng: khi Chúa Giê-su vào trong đền thờ và Ngài thấy người ta buôn bán, cãi nhau, lừa đảo làm ô uế đền thờ. Chúa đã tức giận. Chúa đã xua đuổi con buôn khỏi đền thờ. Chúa không chấp nhận biến nhà Chúa thành nơi buôn bán, lừa lọc. Cho dù việc làm của Chúa đụng đến cái ăn của nhiều người. Từ các thượng tế đến dân buôn. Họ sẽ mất mối lợi từ đền thờ. Họ sẽ cùng nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không lùi bước khi phải đương đầu với sự dữ. Ngài đã làm tất cả để bảo vệ đền thờ.
Cuộc sống này sẽ bớt đi cái xấu nếu chúng ta dám nói không với tội lỗi. Và càng đẹp hơn nếu chúng ta cùng liên kết với nhau xua đuổi sự dữ. Xin đừng lãnh cảm với đồng loại. Hãy dám nói sự thật để bảo vệ công lý. Hãy can đảm ngăn chặn những việc xấu của anh em, của bè bạn và của những người đang chung sống với chúng ta. Có thể chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Nhưng chân lý sẽ thắng. Sự dữ sẽ bị đẩy lui nếu ai ai cũng đồng lòng tiêu diệt sự xấu để trả lại nền văn minh tình thương cho cuộc sống. Nhất là cho công lý và hòa bình được thực hiện trên quê hương chúng ta. Amen
Theo thống kê, cả nước ta có khoảng 7000 lễ hội lớn nhỏ khác nhau, được chia thành các loại : MC3-B116
Theo thống kê, cả nước ta có khoảng 7000 lễ hội lớn nhỏ khác nhau, được chia thành các loại : lễ hội dân gian, lễ hội mang tính tôn giáo hoặc tín ngưỡng, lễ hội mang tính cách quốc gia… Báo chí đã nhiều lần đề cập đến những lễ hội quá bạo lực, tranh giành, cướp bóc, đánh nhau phải cấp cứu như Lễ hội Làng Gióng vừa qua. Có những lễ hội quá dã man như Lễ hội Chọi trâu, Chém lợn. Có những lễ hội bị phàm tục, biến thái như Lễ hội Đền Trình. Những lễ hội này đang dần mất đi ý nghĩa tôn giáo và văn hóa, nó biến thành nơi tranh giành, bạo lực, cờ bạc và nhiều thứ trá hình khác nữa. Chính quyền chấp thuận và khuyến khích nhiều lễ hội không phải vì nhu cầu văn hóa, tâm linh cho bằng họ muốn lấp đầy một khoảng trống tâm linh trong xã hội Duy Vật Vô Thần. Nhưng có lẽ lý do khác hơn mà nhiều người có thể nhìn thấy, đó là những người có trách nhiệm càng tổ chức lễ hội càng có nhiều tiền, nhiều nguồn lợi. Vì thế, việc buôn thần bán thánh, các hình thức thu lợi tại các lễ hội này cũng là một vấn đề gây tranh cãi.
Ngày xưa, luật của Thiên Chúa được ban cho con người không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng là để uốn nắn và điều khiển hành vi của con người, giúp con người sống tương quan tốt đẹp đối với Chúa và tạo nên cuộc sống hài hòa giữa con người với nhau. Khi ban cho Israel lề luật, Thiên Chúa không dùng luật để trói buộc Israel, nhưng là muốn tiếp tục bảo vệ Israel như Ngài đã từng bảo vệ và đã dùng sức mạnh để đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Như thế, việc Israel chu toàn luật của Thiên Chúa còn là để thể hiện lòng yêu mến, biết ơn đối với tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vậy, việc thờ phượng Thiên Chúa của Israel là để thể hiện lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa, phát xuất từ lòng tôn kính và biết ơn. Tuy nhiên, các thầy thượng tế và những người lãnh đạo Israel đã biến các ngày lễ tôn thờ Thiên Chúa trở thành dịp để thu lợi hơn là dịp để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa.
Hàng năm, lễ Vượt qua là lễ buộc mọi người từ khắp nơi phải trở về Giêrusalem. Mỗi gia đình phải dâng của lễ tạ ơn Thiên Chúa, nộp vào đền thờ các phần hoa lợi trong năm, đồng thời thi hành các tục lệ và nghi thức ăn tiệc vượt qua. Để kiếm lợi, các thầy thượng tế đã tổ chức đổi tiền ngay tại sân đền thờ, đồng thời buôn bán những con vật để làm của lễ như chiên, bò, chim câu. Họ làm như thế để thu lợi nhuận và áp dụng bảng giá chặt chém không khác gì các lễ hội ngày nay. Thấy cảnh tượng ồn ào, hỗn loạn và phàm tục đang diễn ra ngay trong sân nhà Thiên Chúa, Đức Giêsu đã không thể chấp nhận, Ngài đã xô đổ bàn ghế của họ, lấy dây làm roi để xua đuổi chiên bò ra khỏi đền thờ. Ngài còn cảnh cáo họ rằng : Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.
Xua đuổi những người đổi tiền và những người buôn bán ra khỏi đền thờ là Chúa Giêsu đã đụng chạm đến tầng lớp thế lực là các thượng tế và luật sĩ. Làm như thế, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ bị chống đối, nhưng vì lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đã hành động quyết liệt như vậy, vì Ngài không chấp nhận con người nhân danh Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cá nhân, biến nơi thánh thành nơi phàm tục, biến những việc thiêng thánh thành hàng hóa buôn bán. Việc buôn bán, đổi chác tại đền thờ phản ánh sự bắt tay và buôn bán với sự dữ và sự xấu, là một thỏa thuận, đồng lõa ngay từ trong tâm hồn. Những người này đã dùng Thiên Chúa và các việc đạo đức như là cái màn che cho mình, biến Thiên Chúa thành nguồn lợi cho cá nhân mình.
Những người Do Thái đã chất vấn Chúa Giêsu : Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy ông có quyền làm như thế ? Họ muốn xem một dấu lạ chứng tỏ Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, thực hành công việc của Thiên Chúa và là người được Chúa sai đến để tái lập trật tự, canh tân việc thờ phượng và là người bảo vệ sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa. Trước đòi hỏi của những người Do Thái, Chúa Giêsu đã báo trước cho họ một dấu lạ : Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Những người Do Thái và kể cả các tông đồ khi đó cũng chưa thể hiểu được lời của Chúa Giêsu, họ nghĩ là Chúa muốn nói về đền thờ Giêrusalem. Chúng ta còn nhớ khi tố cáo Chúa Giêsu để gây sức ép tử hình Ngài, họ đã cắt xén lời này của Chúa Giêsu và tố cáo Người rằng : Tên này đòi phá hủy đền thờ Giêrusalem. Sau này, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các tông đồ mới hiểu điều Chúa nói hôm nay muốn ám chỉ đền thờ là thân xác Ngài.
Có nhiều kẻ chứng kiến các phép lạ thì tin vào Người, nhưng Người không tin họ, vì Người biết họ hết thảy… chính Người biết những gì trong lòng con người. Điều đó nhắc cho chúng ta rằng, khi con người tin và đến với Thiên Chúa thì cần phải có một thái độ chân thành và yêu mến thực sự, vì Chúa biết rõ lòng con người. Chúng ta có thể che mắt người đời qua cái vỏ đạo đức thánh thiện, nhưng chúng ta không thể che mắt Thiên Chúa, vì Ngài thấu suốt tâm hồn và suy nghĩ của mỗi người.
Bài đọc một cho chúng ta nghe lại những điều luật mà Thiên Chúa đã ban cho Israel và đã ký kết với họ như một giao ước. Bộ luật này đòi con người phải dành cho Thiên Chúa một vị trí ưu tiên tuyệt đối, không thể bắt cá hai tay, không thể vừa tôn thờ Thiên Chúa lại đồng thời cúng bái thần minh dân ngoại hoặc những thần minh vật chất như tiền bạc, danh vọng. Đồng thời, luật này cũng đòi con người phải chu toàn những bổn phận đối với nhau vì Danh Thiên Chúa. Vì vậy, khi xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nếu Israel tuân giữ luật của Chúa, thì Thiên Chúa mãi mãi che chở, bảo vệ họ và còn nhận họ làm dân riêng của ;ngược lại, nếu bất tuân, họ sẽ bị hủy diệt. Cam kết là như thế, nhưng thực ra, dân Israel đã mau chóng bỏ qua giới răn, lề luật của Thiên Chúa, quên ơn Thiên Chúa. Họ thờ cúng các thần minh của dân ngoại và quay lại chống đối Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn không hủy diệt họ mà Ngài lại cứu họ bằng cách cho Con của Ngài là Chúa Giêsu đến để cứu nhân loại qua cái chết trên thập giá.
Thư Corintô cho thấy, Chúa Giêsu chịu đóng đinh là trọng tâm của mọi lời rao giảng của các tông đồ, dù điều này khiến cho người Do Thái khó chịu hoặc những người Hy Lạp khó chấp nhận. Tác giả cho thấy, Chúa Giêsu, qua hy tế thập giá, Ngài đã vình viễn chấm dứt các việc tế tự tại đền thờ Giêrusalem và chấm dứt cả sứ mạng của đền thờ. Từ đây, nơi Thiên Chúa ngự không còn là đền thờ nữa mà là chính con người, thân xác của chúa Giêsu, Ngài là đền thờ Thiên Chúa và chính Ngài đã dâng chính mình là hy lễ đền tội cho toàn nhân loại. Chỉ những ai được ban ơn mới có thể hiểu và đón nhận mầu nhiệm này của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin và đón nhận Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, là Đấng canh tân việc thờ phượng Thiên Chúa. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cần có thái độ tôn trọng sự thánh thiện của Thiên Chúa và đền thờ của Ngài, dành cho Chúa sự kính trọng, tôn thờ cả hình thức bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Hãy nhiệt thành với Thiên Chúa và thanh luyện thái độ của bản thân trong việc thờ phượng Thiên Chúa. Hãy dành cho Chúa một lòng yêu mến chân thành được thể hiện qua việc tôn kính, thờ phượng Chúa mỗi ngày. Đừng bao giờ so sánh hoặc đặt Chúa ngang hàng với tiền bạc, của cải, nhưng phải dành cho Chúa một sự ưu tiên tuyệt đối, nhất là đừng bao giờ dùng Thiên Chúa và việc đạo đức bên ngoài để che đậy sự giả dối và những gian tham bên trong.
Gia đình là đền thánh của Thiên Chúa đang bị nhiều người coi thường và biến thành nơi phàm tục, nơi buôn bán và hang trộm cướp bởi sự gian dối, bê tha, bởi lối sống hưởng thụ, ích kỷ. Hãy thanh tẩy đền thờ gia đình của mình, đừng để bất cứ tiền bạc hay của cải vất chất làm hoen ố đời sống gia đình, làm méo mó các tương quan giữa cha mẹ và con cái.
Trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội, mỗi chúng ta được thánh hiến để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình khỏi tội lỗi và những thói quen xấu. Hãy gạt bỏ khỏi mình những film ảnh, sách báo và những trang web xấu xa, vì nó hủy hoại tâm hồn chúng ta và nó là thủ phạm bôi bẩn linh hồn là đền thờ Thiên Chúa. Hãy trang hoàng đền thờ Thiên Chúa nơi chúng ta bằng những việc bác ái, hy sinh, việc lành, việc tốt ; những việc làm nhân ái, những cử chỉ đẹp. Nhất là hãy thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa trong tâm hồn qua cầu nguyện và sống trong sự hiện diện của Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta siêng năng đến với Bí tích Giải tội để được tình yêu của Thiên Chúa thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi và thêm ơn giúp chúng ta sống và bảo vệ linh hồn và thân xác chúng ta trong sạch, xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
Ngay từ thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa đã thiết lập lề luật để con người tuân giữ: “Hết mọi MC3-B117
Ngay từ thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa đã thiết lập lề luật để con người tuân giữ: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2:16-17). Bà Eva cho biết vị trí cây này ở ngay giữa Vườn Địa Đàng (St 3:3).
Ăn để sống, thế mà có thứ ăn vào thì sống, có thứ ăn vào thì chết. Cuộc sống đời thường cũng vậy, không phải ẩm thực nào cũng tốt. Có thứ ăn vào thì tốt, có thứ ăn vào thì hại, có thứ ăn vào thì khỏe, có thứ ăn vào thì bệnh. Đó là quy luật về ẩm thực, về dinh dưỡng. Cẩn tác vô ưu, vì cái miệng có thể hại cái thân!
Cuộc sống có nhiều loại luật – luật tự nhiên, luật môi trường, luật hôn nhân và gia đình, luật giao thông, luật dân sự, luật quân đội,… Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, tổ chức dù lớn hay nhỏ đều có quy luật. Đời và đạo cũng có luật riêng. Như chiếc hàm thiếc hoặc chiếc dây cương để điều khiển con ngựa, luật giúp con người sống đàng hoàng hoặc chấn chỉnh cách sống. Lề luật cần thiết nhưng không quan trọng bằng con người. Người Pharisêu thấy các môn đệ bứt lúa ăn trong ngày sa-bát, họ liền chê trách và cho đó là phạm luật, nhưng Chúa Giêsu thẳng thắn nói với họ: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2:27). Luật vị nhân sinh là thế.
Trong luật còn có những điều khoản khác nhau. Vi phạm luật là phạm pháp, là có tội, nhưng mức độ phạm tội cũng khác nhau. Người áp dụng luật để xét xử cũng phải dùng lòng yêu thương mà xét xử.
Cuộc sống có nhiều thứ luật, từ hội đoàn tới làng xã, từ quốc gia tới quốc tế, nhưng các luật đó vẫn chỉ là nhân luật – luật của con người, quan trọng nhất vẫn là Thiên Luật, và mọi lề luật đều phải dựa vào Luật Trời, Luật của Thiên Chúa. Với người Công giáo, chúng ta có Mười Điều Răn (Thập Giới) và Sáu Điều Răn Hội Thánh. Luật Tân Ước tóm gọn còn 2 điều là Mến Chúa và Yêu Người. Còn Luật Cựu Ước có hơn 600 điều.
Will Durant (1885-1981 – văn sĩ, sử gia và triết gia Hoa Kỳ) có triết lý sống rất lạ: “Con người trở nên tự do khi nhận ra mình bị luật lệ ràng buộc”. Lề luật như sợi dây “trói buộc” người ta, nhưng chính sợi dây đó lại làm cho người ta được tự do. Thật là kỳ diệu!
Trình thuật Xh 20:1-17 cho biết rằng Thiên Chúa đã truyền ban các khoản luật để con người theo đó mà sống. Trước tiên, Ngài nói: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời”.
Luật Chúa là luật tự nhiên, không gì trái ngược. Ngài cho biết thêm: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh”. Phần này, nghe có vẻ dài dòng, nhưng là những điều có trong Sáu Điều Răn Hội Thánh. Không xa lạ, vì rất nhiều nhà thờ thường đọc kinh Mười Điều Răn và Sáu Điều Răn Hội Thánh vào các ngày Chúa Nhật. Nhưng có thể vì chúng ta thuộc lòng, đọc quen quá rồi, thế nên có thể chỉ đọc mà quên suy.
Thiên Chúa tiếp tục truyền dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Phần này, chúng ta cũng thấy có trong Mười Điều Răn, tất nhiên cũng là những điều quen thuộc.
Cựu Ước có cách nói tiêu cực: Cấm, đừng, chớ, không được,… Tân Ước có cách nói tích cực: Phúc cho… Cách nói thay đổi theo sự phát triển của xã hội, của con người, cách nghĩ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Đó là điều bình thường mà thôi. Như chúng ta biết, tất cả mọi sự đều thay đổi theo thời gian, kể cả luật pháp, cũng chỉ vì muốn con người sống tốt, hy vọng con người càng ngày càng hoàn thiện hơn. Mình sống tốt thì vừa lợi cho mình vừa lợi cho tha nhân, hữu ích cho xã hội và Giáo Hội, và như vậy cũng đẹp lòng Thiên Chúa.
Vì chúng ta bất toàn nên cần giữ luật. Luật có thể giúp con người hoàn thiện. Với kinh nghiệm giữ Luật Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:8-9). Rõ ràng là đa lợi ích!
Trong lời ăn tiếng nói, con người thường ưa dùng lối tỷ giảo (cách so sánh), có lẽ vì con người thích những gì cụ thể để dễ hiểu: Sắc như dao cau, đen như mực, trắng như bông, đẹp như tiên, xấu như quỷ,… Với những gì siêu phàm thì càng khó hiểu hơn, thậm chí là không thể hiểu. Tuy nhiên, tác giả Thánh Vịnh vẫn khéo léo giúp chúng ta dễ hiểu với lối so sánh thực tế: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh, thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11).
Mỗi con người là một thế giới bí ẩn, người thế này, kẻ thế khác, chẳng ai giống nhau, từ thể lý đến tinh thần. Hằng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến những điều trái ngược nhau: Người thích điều thiện, kẻ ưa điều ác. Thật ư? Thật vậy. Nếu không thích thì sao người ta dễ giết nhau chỉ vì xích mích nhỏ? Có những người, cả trẻ và lớn, đi đâu cũng giấu sẵn dao, gặp “sự cố” là rút ra “chơi” liền, tức là họ đã mưu tính trước. Vậy không là thích điều ác sao?
Thánh Phaolô nói về các sở thích khác nhau: “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:22-23). Sở thích của Thánh Phaolô cũng là sở thích của những người muốn nên giống Đức Kitô, muốn hoàn thiện, muốn nên thánh.
Thánh Phaolô giải thích: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:24-25). Điên rồ mà khôn ngoan, yếu đuối mà mạnh mẽ. Với phàm nhân, điều đó hoàn toàn nghịch lý và không thể hiểu; nhưng với người có đức tin, điều đó lại là thuận lý, có thể hiểu. Thập giá là đường dẫn tới cái chết ê chề, nhưng lại hóa thành chìa khóa mở cửa Vương Quốc Trường Sinh. Vô cùng kỳ diệu!
Trình thuật Ga 2:13-25 nói về cách Chúa Giêsu áp dụng luật: Thẳng thắn và cương quyết.
Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Ngài thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Cả đám đông thế mà không dám cự nự gì, trong khi Chúa Giêsu chỉ có mình ên. Chắc hẳn họ biết mình sai, biết Chúa Giêsu làm đúng, thế nên họ tháo chạy. Người ta luôn sợ sự thật, kẻ xấu biết mình sai nên chỉ hành động lén lút, bị phát hiện thì bỏ chạy. Sợ sự thật bị phơi bày nên mới chạy.
Rồi Chúa Giêsu nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Ngày nay, không ai dám buôn bán trong nhà thờ, nhưng người ta có nhiều cách buôn bán tinh vi hơn – cả tinh thần lẫn vật chất. Thế nhưng người ta cũng có nhiều cách tinh vi để chống chế, để biện hộ, với nhiều chiêu thức “kỳ lạ” lắm.
Ngày xưa, những người buôn bán trong Đền Thờ là dân thường. Ngày nay, dân thường làm sao “có cửa” để làm như vậy? Chắc chắn họ phải có chức, có quyền. Thế thì những “con buôn” ngày nay là ai? Liệu chúng ta có dám nhìn thẳng vào sự thật? Ai dám nói ra, ai dám phanh phui, và ai dám phản đối? Nói theo ngôn ngữ ngày nay, ai dám thẳng thắn làm như vậy thì… “chết chắc”. Nghĩa là họ sẽ bị cô lập, bị mọi người xa lánh, bị ghét bỏ, ghét hơn ghét tội. Tiền bạc có sức mạnh khó cưỡng lại nên người ta gọi là “ma lực”. Kinh khiếp thật đấy!
Bọn con buôn chưa thể hại Chúa Giêsu lúc đó, nhưng chắc chắn họ rất ghét Ngài, tìm mọi cách cấu kết với nhau để triệt hạ Ngài. Những ánh mắt của họ lúc đó như những tia lửa, những cặp mắt mang hình trái lựu đạn, lòng họ hậm hực, miệng họ nguyền rủa,… Vì thế, các môn đệ của Ngài nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69:10).
Người Do-thái ấm ức lắm, cay cú lắm, nên họ hỏi vặn Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Ngài thản nhiên đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Họ hiểu gì nổi! Do đó, họ mới ngây ngô nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”. Nếu chúng ta là người Do-thái lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng gãi đầu, bứt tóc, mắt chữ O và miệng chữ A, rồi cũng chẳng hiểu mô tê gì ráo trọi. May thay, Thánh Gioan cho chúng ta biết: “Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài”.
Khi người Do-thái hỏi ngớ ngẩn như vậy, ngay cả các môn đệ cũng ngớ ra, chả hiểu Thầy mình nói gì. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều đó, họ mới thực sự tin vào Kinh Thánh và lời Sư Phụ đã nói.
Cuộc đời luôn nhiêu khê, kẻ thế này, người thế nọ, kẻ cố chấp, người phục thiện. Trong số những người bị đánh đuổi ra khỏi Đền Thờ, không phải ai cũng khó chịu, ghen ghét, mà có những người chợt “sáng mắt” và tâm phục khẩu phục. Thánh Gioan cho biết: “Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Ngài bởi đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm”. Nhưng Thánh Gioan cũng cho biết thêm: “Chính Đức Giêsu không tin họ, vì Ngài biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Ngài biết có gì trong lòng con người”.
Tác giả Thánh Vịnh tâm niệm: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119:105). Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết tâm niệm như vậy trong suốt cuộc đời, nhất là trong Mùa Chay Thánh, và đặc biệt hơn là Mùa Chay này, vì không ai chắc mình còn được sống Mùa Chay năm tới nữa hay không.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết phục thiện chứ đừng cố chấp, nhất là khi chúng con được Ngài sửa dạy. Xin giúp chúng con can đảm bảo vệ sự thật, dám đối mặt với những gì trái ngược với Thánh Luật. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Nếu chúng ta để ý thì kể từ Chúa nhật thứ ba mùa chay, các bài Phúc Âm của ngày Chúa nhật đều MC3-B118
Nếu chúng ta để ý thì kể từ Chúa nhật thứ ba mùa chay, các bài Phúc Âm của ngày Chúa nhật đều có thể sử dụng bài Phúc Âm của Chúa nhật năm A. Lý do là vì ba Chúa nhật sau cùng của mùa chay được Giáo hội dùng làm điểm nhấn cho ba đề tài: Chúa Giêsu là Mạch Nước Trường Sinh, Chúa Giêsu là Ánh Sáng Thật và Chúa Giêsu là Sự Sống Lại. Bởi thế Chúa nhật hôm nay chúng ta có thể suy niệm Phúc Âm kể việc Chúa gặp gỡ thiếu phụ Sa-ma-ri ở bờ giếng Gia-cóp. Tuy nhiên, Giáo hội cũng cho chúng ta suy niệm một đề tài riêng của năm; năm B: Thanh tẩy Đền thờ.
Sự kiện Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Phúc Âm ghi lại. Ta có thể suy niệm sự kiện này theo lời kể của thánh Mác-cô như thói quen được làm trong năm B. Thế nhưng Giáo hội đã chọn Phúc Âm của thánh Gioan để cho chúng ta suy niệm và chỉ có ngài ghi lại câu nói của Chúa một cách khác biệt: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Các Phúc Âm Nhất Lãm đều nhắc đến chữ “sào huyệt của bọn cướp” (Mt 21,13; Mc 11,17; Lc 19,46) và chữ này giúp ta liên tưởng tới lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7,11). Chắc hẳn khi không dùng ngôn ngữ của truyền thống Kinh Thánh như các Phúc Âm Nhất Lãm, thánh Gioan đã có ý nhấn tới chuyện buôn bán.
Đền Thờ và buôn bán được nhắc đến ở đây có gì liên quan tới nhau? Thưa: Có liên quan, vì người ta đã lẫn lộn giữa Đền Thờ và việc buôn bán. Thực ra việc buôn bán tự nó không phải là xấu, kể cả khi người ta làm việc đó ngay trong sân của Đền Thờ vì mục đích đề phục vụ Đền Thờ một cách vô vị lợi. Thế nhưng đó mới chỉ là lý thuyết, thực tế có lẽ không đơn giản như vậy. Buôn bán tức nhắm đến lợi nhuận, là sinh lời, là được thua, là vụ lợi, là vật chất. Đền Thờ hoàn toàn thuộc một lĩnh vực khác. Đền Thờ không thể trở thành một nơi người ta dựa vào đó để thu lợi nhuận, để kiếm trác, để mà được thua, để vụ lợi. Đền Thờ như chính lời Chúa Giêsu nói: “nhà Cha”. Đền Thờ là nhà của Thiên Chúa- Nhà Chúa. Nơi có những người con đến gặp Cha của mình, nơi tình Cha-con được thể hiện. Người Do Thái đã sử dụng sai mục đích của Đền Thờ, đã biến Đền Thờ, nơi lẽ ra con người chỉ có thể phục vụ ở đó như những người con trong gia đình thì lại thành nơi trục lợi, kinh doanh, thành một cái chợ, một trung tâm thương mại. Lần đầu tiên trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lên tiếng xua đuổi những kẻ lạm dụng Đền Thờ, làm ô uế Đền Thờ, tục hóa Đền Thờ.
Sự kiện này khi được đọc lên ngày hôm nay, nó còn có giá trị nhắc nhở gì không? Liệu thời nay có còn ai đó đang âm thầm hoặc công khai dựa vào Đền Thờ (Nhà Thờ) để trục lợi, để kinh doanh, kiếm trác? Và người ta dễ có hàng trăm, hàng ngàn lý do, có khi rất đạo đức để biện minh cho việc buôn bán đó.
Phần tiếp theo của bài Phúc Âm, Chúa Giêsu chuyển hướng Đền Thờ vào chính thân thể Người: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Và thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là thân thể Người”. Vấn đề lại bước sang một lãnh vực lớn hơn. Giờ đây không còn phải chỉ là Đền Thờ mà là chính Người- Vị Thiên Chúa làm người. Đền Thờ là nơi quy tụ, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thân thể Đức Giêsu là chính Người không chỉ là nơi quy tụ, gặp gỡ mà còn là nguồn suối của ơn cứu độ, sự giải thoát và phục hồi. Các ông cứ phái hủy đi gợi cho chúng ta sự phá hủy đáng sợ của tội nguyên tổ. Tổ tông đá phá hủy rồi, một sự phá hủy ghê gớm tưởng chừng như không gì có thể phục hồi lại được. Vậy mà “nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Các môn đệ lúc đó nghe, họ đâu có hiểu được tại sao Chúa lại nói như thế. Chính thánh Gioan làm chứng rằng: “Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”.
Chúa Giêsu là Đền Thờ đích thực, Đền Thờ đem lại ơn cứu độ và sự giải thoát. Đền Thờ này cũng nhắc chúng ta vấn đề ban đầu, đó là vấn đề buôn bán. Chính Chúa Giêsu có đang bị con cái mình biến thành một đối tượng để thương mại không? Người chính là Đấng chúng ta tin yêu và phó thác hay chỉ là một đối tượng để chúng ta được một cái gì. Mùa chay quả là thời gian của thanh luyện, một mùa để thanh luyện đức tin.
Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu MC3-B119
Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.
Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.”Nơi buôn bán“, “Hang trộm cướp“, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5). Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” ( Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện“
Đền thờ là nơi Thánh,là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được. Xậy dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
Với bất kỳ tôn giáo nào, Đền Thờ chính là nơi trang trọng nhất để con người gặp gỡ vị thần linh MC3-B120
Với bất kỳ tôn giáo nào, Đền Thờ chính là nơi trang trọng nhất để con người gặp gỡ vị thần linh của mình tin cậy. Và vì thế, Đền Thờ phải nói là nơi được xây cất không chỉ kỹ lưỡng mà còn phải trang trí, tô vẽ cho thật đẹp và dùng những vật liệu qúy giá và đắt tiền.
Dân Do Thái cũng thế, với lòng thành kính dâng lên Thiên Chúa nên họ đã xây cấn đền thờ Giêrusalem thật hoành tráng. Vì tính chất cũng như đặc thù như thế, Giêrusalem phải mất 46 năm cũng như mất biết bao nhiêu tiền của mới xây dựng được như mọi người thấy.
Đền thờ chính là nơi thờ tự, nên mà con người gặp Thiên Chúa và dâng lên Thiên Chúa của lễ của mình theo mỗi thời điểm. Thánh Gioan thuật lại cho ta là Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác cùng lên Giêru-salem để tế lễ.
Khi đến Giêrusalem, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc làm mất đi vẻ trang nghiêm của Đền Thờ. Thấy thế, Ngài không ngần ngại chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Không những thế, Chúa Giêsu đã hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Đứng trước cảnh tượng đó, dĩ nhiên dân chúng đã bất bình. Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?".
Nghe thế, Chúa Giêsu nói: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại"
Ta thấy cuộc tranh luận ngày càng gắt gao. Người Do Thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Chuyện Chúa Giêsu muốn nói ở đây không phải là cái đền thờ bằng gạch đá này nhưng Chúa Giêsu muốn nói đến chính thân mình của Ngài. Và, ta thấy ngay cả các môn đệ cũng không hiểu được lời của Chúa Giêsu. Chỉ sau khi chết và sống lại các môn đệ mới hiểu điều Chúa Giêsu nói.
Chuyện quan trọng đó chính là thân mình của mỗi người chúng ta, là Đền Thờ của Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, nhìn lại hình ảnh Đền Thờ Giêrusalem với cảnh hoang tàn bởi người ta mua bán, đổi tiền, kiếm ăn trên đó ta cũng phải nhìn lại chính cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta, lẽ ra cũng phải có tâm tình như Vua Đavit là Vua ước ao xây cho Thiên Chúa một ngôi Đền Thờ xứng với Thiên Chúa. Vua ngẫm nghĩ rằng Vua sẽ xây nhà cho Thiên Chúa nhưng Ngôi nhà mà Chúa hứa xây cho Vua Đavit không phải là ngôi nhà bằng gạch đá nhưng là một ngôi nhà sống động, nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ dòng dõi của Vua Đavit.
Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này thật sự để rồi nơi Chúa Giêsu con người được gặp gỡ Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Và, Chúa đến trong trần gian này để ghi dấu ấn cho những ai tin vào Chúa qua bí tích Thanh Tẩy. Qua bí tích Thanh Tẩy, con người được cùng hiệp nhất với Thiên Chúa để rồi con người cũng trở nên những đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Đã là đền thờ thì phải thanh sạch, không được vương tội lụy trần gian.
Trải qua bao nhiêu năm lãnh bí tích Thanh Tẩy nhưng rồi cái đền thờ di động chính là tâm hồn của ta như thế nào? Chắc có lẽ giờ này mà Chúa đến Chúa còn giận hơn khi Chúa đến đền thờ Giêrusalem. Chắc có lẽ đền thờ của mỗi người chúng ta thì chúng ta hiểu hơn ai hết.
Có khi ta nghĩ rằng những người Do Thái thời đó thế này thế nọ... Họ không biết gìn giữ Đền Thờ và họ làm cho đền thờ ra ô uế. Thế nhưng, nếu như nghĩ lại bản thân ta, đôi khi đền thờ của ta còn ô uế hơn như thế nữa.
Đời ta, nhiều khi nghĩ lại rất buồn cười đó là ta thấy rõ hơn ai hết về cuộc sống tạm bợ này. Thế nhưng, vẫn mang trong mình tính ích kỷ, bon chen, hơn thua, giận hờn... Chính khi ta sống tâm tình như thế là ta hủy diệt đời ta, ta hủy diệt tâm hồn của ta và khi đó Chúa không thể nào ngự vào tâm hồn của ta được.
Ta nhớ Thánh Phaolô quả quyết: "Ai phá huỷ Ðền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em." (1 Cr 3, 13-17)
Và như vậy, khi nhìn lại đền thờ tâm hồn của mỗi người chúng ta, chúng ta lại xin Chúa hãy đến, hãy thánh hóa, hãy tẩy rửa đền thờ tâm hồn của chúng ta. Có như thế Chúa mới có chỗ trong cung lòng của chúng ta được. Và, điều mà Chúa cũng muốn nơi mỗi người chúng ta chính là đền thờ đích thực của Thiên Chúa để rồi bất cứ ai nhìn vào ta họ cũng thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn của ta.
Ngày nay, cũng khó nói bởi vì ai ai cũng phải chạy đua với cuộc sống để rồi giữ đạo được ngày Chúa Nhật cũng là may lắm. Còn lại thời gian, ai ai cũng chạy đua với cuộc sống để rồi gạt Chúa ra khỏi đời của mình.
Thật ngạc nhiên có một gia đình kia bỏ Chúa gần hai mươi năm qua. Tôi nhẹ nhàng nói với họ rằng hãy tập sống đời sống cầu nguyện, hãy tạ ơn Chúa vì những ơn lành mà Chúa đã ban cho mình. Khi mình nhìn thấy những ơn lành thì mình tạ ơn Chúa.
Tưởng chừng mình sẽ cảm hóa được suy nghĩ cũa họ nhưng không. Khi nghe những lời đó, người chồng vui vẻ nói rằng con thấy con sống như thế này là thoải mái lắm rồi, có thấy Chúa gì đâu?
Đáng tiếc thay là họ đã nhận được quá nhiều ơn của Chúa nhưng họ đã không cảm nhận được đó là ơn của Chúa. Thôi thì thêm lời cầu nguyện cho họ để đến một lúc nào đó trong cuộc đời họ nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời họ.
Phần ta, ta hãy luôn cảm nhận rằng tất cả những gì ta có đó là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho ta. Có như thế, ta mới tạ ơn Chúa, ta mới ý thức rằng Chúa luôn ở trong cuộc đời ta, Chúa luôn hiện diện trong đời ta và ta chính là đền thờ mà Thiên Chúa ngự.
Có như thế ta mới đi nói với người khác rằng Chúa ở trong tôi và tôi ở trong Chúa. Nếu sống được như vậy, ta mới cảm thấy bình an thư thái vì lúc nào ta cũng là đền thờ của Chúa và Chúa ngự nơi đền thờ là tâm hồn ta vậy.
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta luôn luôn dọn mình, dọn lòng, dọn tâm hồn mình thanh sạch để mời Chúa vào ngự vào lòng ta.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán ra MC3-B121
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi sân đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lý do Ngài làm như vậy là vì: Đền thờ là nơi tôn nghiêm, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự trự, Đền thờ là nơi dành để dân thập phương qui tụ lại để cầu nguyện và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa nhưng người Do thái đã biến thành nơi buôn bán.
Thật vậy, từ thời Cựu ước, dân Thiên Chúa đã đặt niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đền Thờ. Niềm tin đó dựa vào những sự kiện sau đây:
Sự kiện thứ nhất là giấc mơ của tổ phụ Gia-cóp tại Bết Ên: Sau khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, Gia-cóp đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Gia-cóp lấy một hòn đá để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Gia-cóp chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Thiên Chúa đứng bên trên thang và hứa với ông nhiều điều: ban đất cho ông, dòng dõi ông đông đúc như sao trên trời, sẽ ở với ông, gìn giữ ông…(x. St 28, 10-22). Sau giấc mơ, tổ phụ Gia-cóp đã thốt lên rằng: “Quả thật, có ĐỨC CHÚA ở nơi này mà tôi không biết!”; “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác.”;
Sự kiện thứ hai là Nhà xếp: Sau khi giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai-cập, ông Mô-sê được lệnh bởi trời dựng Nhà xếp tức là thánh đường di động để dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong Nhà xếp để đồng hành với dân Người. Cho nên, ông Mô-sê mới khẳng định rằng: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4,7);
Sự kiện thứ ba diễn ra tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: Khi Sa-lo-mon vừa cung hiến thánh đường Giê-ru-sa-lem mà ông đã xây xong, ông truyền đem Hòm bia giao ước vào Đền thờ thì có áng mây sà xuống bao phủ nơi cực thánh, hình ảnh đó là dấu chỉ Thiên Chúa ngự xuống giữa dân Người (x. 1V 8,10-11).
Tuy nhiên, Bết Ên, Nhà xếp hay Đền thờ Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng của Nhà thờ (Thánh đường) công giáo ngày nay. Người công giáo tin tưởng có Chúa ngự thật trong Nhà thờ. Vì nơi Nhà thờ đã được làm phép hay cung hiến luôn có cất giữ Thánh Thể, tức là có Đức Giêsu hiện diện cả nhân tính lẫn thần tính.
Vì sự hiện diện của Chúa nơi Nhà thờ nên người giáo giáo luôn gắn bó với Nhờ thờ. Hầu hết các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời của người công giáo đều diễn ra tại Nhà thờ: Khi mới sinh ra, chúng ta được cha mẹ đem đến Nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, trở thành con cái Thiên Chúa. Khi đến tuổi khôn, chúng ta được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Giao hòa cũng tại Nhà thờ. Sau khi lãnh nhận Bí tích Giao hòa lần đầu chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Từ đó, chúng ta có thể đến Nhà thờ hằng ngày để tham dự thánh lễ Misa và lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Khi đến tuổi trưởng thành, chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thêm sức với đầy đủ bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần cũng tại nhà thờ. Các anh chị đến tuổi lập gia đình cũng đem nhau đến nhà thờ để thề nguyền chu toàn các bổn phận vợ chồng, cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Những người sống đời dâng hiến được cam kết với Chúa và Giáo hội bằng một nghi thức truyền chức hay khấn dòng cũng được diễn ra tại Nhà thờ. Khi kết thúc cuộc đời trần thế, mỗi người công giáo cũng được đem đến Nhà thờ để được linh mục dâng thánh lễ và cử hành các nghi thức sau hết.
Ngoài ra, Nhà thờ là nơi người công giáo có thể đến để thi hành những nhiệm vụ khác liên quan đến phần rỗi đời đời, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ phượng Thiên Chúa không chỉ mang tính riêng tư mà còn mang tính tập thể, cộng đoàn. Vì Nhà thờ là nơi thích hợp nhất để cầu kinh, ca hát, xin ơn, cảm tạ, chúc tụng Thiên Chúa. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được bồi dưỡng bởi ơn trên bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được nghe Lời Chúa, được nghe giảng dạy để mọi người hiểu đúng giáo lý và sống tốt bổn phận của mình. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được sống hiệp thông với Thiên Chúa và liên kết với mọi thành viên trong cộng đoàn xứ đạo và trong Giáo hội.
Chính vì Nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi Chúa ngự và là nơi diễn ra các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời người kitô hữu nên Nhà thờ rất cần thiết. Thông thường, mỗi giáo xứ, giáo họ đều có một Nhà thờ hay nhà nguyện. Nhà thờ hay nhà nguyện thường được xây dựng nên bởi công sức của mọi thành phần trong giáo xứ. Người công giáo thường rất quảng đại trong việc đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ. Không những nhiệt tình khi xây dựng mà họ còn ra sức bảo vệ Nhà thờ có khi bất chấp cả tính mạng. Đúng như thánh vịnh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10).
Tuy nhiên, trong thực tế không phải ai cũng có tinh thần đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ hay nhiệt thành trong việc bảo vệ Nhà thờ. Đó là điều mà mỗi người công giáo chúng ta phải xét mình lại. Nếu ngày hôm nay, Đức Giêsu đến một số các Nhà thờ công giáo chắc chắn Ngài cũng sẽ nỗi nóng và xua đuổi nhiều người ra khỏi Nhà thờ hay khuôn viên Nhà thờ. Đó là thái độ của những người xả rác bừa bãi trong khuôn viên hay thậm chí trong Nhà thờ. Đó là thái độ của những người cố tình ngồi ngoài nhà thờ để tham dự thánh lễ trong khi bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều chỗ. Đó là thái độ thiếu tôn kính của nhiều người khi vào Nhà thờ: đứng ngồi không ngay ngắn, nói chuyện riêng, nghe điện thoại, quay fim chụp hình và làm những việc riêng khác đang khi tham dự thánh lễ. Đó là chưa nói tới hiện tượng phá nhà thờ bởi các nhà chức trách tại một số nước thiếu tự do tôn giáo đây đó trên thế giới như tại Trung quốc.
Trên đây, chúng ta đề cập đến ngôi Nhà thờ vật chất. Nhưng có một Đền thờ quan trọng hơn Nhà thờ vật chất rất nhiều đó là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Tất cả các Nhà thờ vật chất được xây dựng nên đều nhằm mục đích giúp ích cho đền thờ tâm hồn. Thật vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”(1Cr 3,16). Tuy nhiên, cũng như nhiều Nhà thờ bị tàn phá bởi con người, nhiều Đền thờ tâm hồn cũng đang bị tục hóa trở thành nơi tôn thờ Ma quỷ. Đó là những người ham mê tiền của nên tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của người khác. Đó là những người tham quyền, nên bất chấp mọi thủ đoạn kể cả giết người để đạt được mục đích. Đó là những người ham mê sắc dục nên đã bán rẻ thân xác của mình cũng như làm hại thân xác của tha nhân. Và nhiều hình thức khác tương tự đang làm tục hóa Đền thờ của rất nhiều tâm hồn.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự xét mình để quyết tâm gìn giữ Đền thờ tâm hồn bằng cách giữ gìn thân xác sạch sẽ và tâm hồn sạch tội, nhất là tội trọng. Vì khi phạm tội trọng tức là chúng ta đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mà rước Ma quỷ vào. Để bảo vệ đền thờ tâm hồn cần phải tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, đó là Mười điều răn, Cựu ước gọi là “Thập Giới”. Đó là điều mà Thiên Chúa đã ban bố cho Môi-sê và ông đã truyền lại cho dân chúng rằng: “Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.” (x. Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17).
Xin cho tất cả mỗi người chúng ta luôn biết đóng góp công của xây dựng, tu sửa và bảo vệ Nhà thờ vật chất. Đồng thời, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết tôn trọng tâm hồn của mình là Đền thờ của Thiên Chúa bằng cách năng đến Nhà thờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh, nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp MC3-B122
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh, nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận sự phụng tự của họ và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống của thần linh. Đương nhiên thế giới các thần linh không thuộc thế gian này, nhưng đền thờ được coi là nơi cư ngụ của các thần linh. Cho nên, thời Cựu Ước đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người. Nhưng đó chỉ là dấu chỉ tạm thời sẽ được thay thế bằng một dấu chỉ loại khác trong thời Tân ước: Thân Thể Chúa Kitô và Giáo Hội Người.
Thời các tổ phụ không có đền thờ mà chỉ có nơi thánh để thờ phượng Chúa như Bêtel (nhà của Thiên Chúa: St 12,8), Bersabê (St 26,25), Sikhem (St 33,18tt). Đặc biệt Núi Sinai là nơi thánh và đã được thánh hiến do việc Thiên Chúa tỏ mình (Xh 3,19). Trong suốt cuộc hành trình về đất hứa, dân Israel đã dùng Nhà Tạm (đền thờ lưu động) nhờ đó Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt họ (Xh 26-27). Sau khi chiếm lại hòm bia khỏi tay người Philitin (2Sm 6), Đavít thiết lập thánh địa liên tộc ở Giêrusalem. Và khi đã cất cho mình một cung điện, ngài mơ ước xây một đền thờ cho Giavê (2Sm 7,1-3). Vua Đavít chuẩn bị ba ngàn tấn vàng, ba mươi ngàn tấn bạc, đồng, sắt, gỗ, đá nhiều vô kể. Ngài kêu gọi nhiều nhân công: thợ đá, nghệ nhân chạm trỗ và đủ thứ thợ cao tay trong mọi ngành nghề (2Sm 22,1-16). Nhưng tiếc thay ông không thực hiện được. Kế nghiệp cha, Salomon đã cho xây dựng một Đền Thờ nguy nga, lộng lẫy và tráng lệ trong vòng bảy năm (1V 5,15-7,51).
Chúa Giêsu tỏ lòng tôn kính sâu đậm đối với đền thờ Giêrusalem nơi Người đã được Đức Maria dâng hiến (Lc 2,22-39). Trong các đại lễ, Người lên đó như lên để gặp gỡ Cha Người (Lc 2,41-50). Chúa Giêsu luôn coi đền thờ là nhà của Thiên Chúa, một ngôi nhà để cầu nguyên, nhà của Cha Người. Cho nên hôm nay, Ngài lên án, nổi giận khi người ta biến nó thành nơi buôn bán (Mt 21,12-17; Ga 2,16tt). Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành nơi buôn bán, đổi chác tiền bạc. Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
Hôm nay, Chúa Giêsu một mặt ra tay thanh tẩy đền thờ vật chất mặc khác tiên báo cho chúng ta biết về đền thờ thiêng liêng nữa. Đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại. Nhờ vậy, qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất. Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa. Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với dòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp. Vậy, nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ: đừng biến nhà Cha ta thành hang trộm cướp.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mùa Chay này là dịp tốt nhất để thanh tẩy tâm hồn. Chúng ta hãy nhanh chóng thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ ngẫu tượng tiền bạc vì chưng, bài đọc 1, Sách Xuất Hành dạy: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Thứ hai, trong tinh thần năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần dân Chúa trong giáo xứ chúng ta hãy trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Một đền thờ trong đó các thành viên biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau. Một đền thờ mà trong đó có Thiên Chúa ngự trị không còn bị những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối chi phối nữa!
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình và giáo xứ chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
“Các ngươi cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Một câu nói táo bạo không thể tưởng được. Theo luật Do Thái, ai nói phạm đến Đền thờ là MC3-B123
Một câu nói táo bạo không thể tưởng được. Theo luật Do Thái, ai nói phạm đến Đền thờ là bị ném đá. Ông Navót thời vua Akháp, đã bị ném đá vì hoàng hậu Ysaven đã vu cáo cho ông nói phạm đến Đền thờ. Chúa Giêsu không bị ném đá vì nhờ hậu thuẫn của dân chúng. Câu nói của Chúa Giêsu là một vấn đề chúng ta cần suy nghĩ. Chúa muốn gì khi tuyên bố một câu kinh khủng như thế?
Đền thờ là trung tâm thờ phượng của người Do Thái từ khi vua Salômôn đã xây dựng. Trước đó, từ thời Môsê, khi dân Do Thái lưu lạc trong hoang địa, Thiên Chúa chỉ ngự giữa dân Người trong Lều tạm gọi là Lều Chứng Tri, trong đó có Hòm Bia. Đi đến đâu, dân vẫn mang theo Lều đó và Môsê, khi cần mới vào xin ý kiến của Chúa.
Sau khi định cư, Hòm Bia được đặt vào trong một Đền thờ nhỏ để dân đến đó cầu nguyện như thời tiên tri Samuen, Hòm Bia được đặt ở Silô. Vua Đavít đã kiệu Hòm Bia về Giêrusalem, đặt Hòm Bia vào trong một Đền Thờ nhỏ nhưng cũng được làm bằng gỗ quí. Vua cũng định xây một Đền Thờ xứng đáng cho Chúa như lòng vua ước nguyện, nhưng Chúa không để cho vua Đavít xây mà chọn vua Salômôn làm việc đó.
Từ khi Đền Thờ nguy nga được xây dựng tại Giêrusalem, việc phụng thờ Chúa được thực hiện tại đó, xem như trung tâm thờ phượng của toàn dân và cũng là nơi Chúa ngự trị giữa dân Người. Đền thờ là nơi thánh, dành riêng cho việc thờ phượng và ai phạm đến Đền thờ sẽ bị ném đá. Thế nhưng hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán một lời không thể chấp nhận được đối với người Do Thái. Tại sao thế?
Tuy có Đền thờ nguy nga, việc thờ phượng của người Do Thái dần dần đã trở thành những lễ nghi không hồn. Lòng đạo đã bị xói mòn vì thói quen, vì thế Chúa phán qua các tiên tri: “Dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng”. Và một ngày nào đó tiên tri Êdêkien đã được thấy thị kiến là Vinh quang của Chúa rời bỏ Đền thờ…Và sau cùng vua Nabukôđônôso sẽ phá hủy Đền thờ và dân Do Thái bị lưu đày sang Babilon, và khóc dài suốt bảy mươi năm nơi đất khách: “Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến lễ hương cũng chẳng còn. Chẳng còn nơi để dâng của lễ đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương”.
Đây cũng là kinh nghiệm quí báu cho dân thấy rằng, việc thờ phượng không chỉ là những của lễ mà là tâm hồn chân thật.
Sau cuộc lưu đày, Đền thờ được xây lại và việc thờ phượng được nội tâm hơn.
Chúa Giêsu tôn trọng Đền thờ và xem đó như nhà của Cha Ngài, là nhà cầu nguyện. Nhưng hôm nay, khi bước vào Đền thờ, Ngài thấy cảnh buôn bán tấp nập, không còn gì là nơi thờ phượng: “Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi!” Một lời phán như một lời tuyên án. Vì nếu các ngươi đã biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán thì để Đền thờ này làm gì? Đâu còn là nhà cầu nguyện nữa, đâu còn là nơi cực thánh nơi Chúa ngự nữa.
Thờ phượng Chúa không thể đi đôi với trục lợi. Thiên Chúa không cần của lễ chiên bò, Ngài chỉ muốn những tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con thay của lễ chiên bò…”.
“Các ngươi hãy phá Đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Một lời xem ra như một thách thức. Những ông Pharisêu xem như một lời nói ngoa vì phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong. Không ai biết Ngài muốn nói gì và xem đó như một lời phạm thượng. Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền thờ Người muốn nói đây là chính thân thể Người”. Các môn đệ cũng không hiểu ngay lúc đó mà sau này, khi Chúa từ cõi chết sống lại, các ông mới hiểu. Hôm nay, chúng ta được hiểu vì mọi sự đã hiển nhiên. Nhưng chúng ta có hiểu thực sự không? Chúng ta có biết rằng Đền thờ của chúng ta hôm nay không chỉ là những ngôi nhà bằng gỗ đá mà bằng chính Đấng đã từ trời xuống, xây dựng cho chúng ta một Đền thờ bằng cái chết và phục sinh của Ngài không? Ngài chính là Đền thờ duy nhất, xứng đáng để chúng ta thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý. Chỉ có sự thờ phượng đó mới thực sự đẹp lòng Đấng đã trao phó Con Một Người cho chúng ta. Chỉ có Người Con Một đó thay cho chúng ta để dâng lễ tạ ơn liên lỉ, Người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Từ nay, mọi hy sinh, mọi lời cầu, mọi của lễ của chúng ta đều quy tụ vào Đền thờ duy nhất đó, vì thế Giáo hội luôn cầu xin “nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”. Ngài là bàn thờ và là của lễ, sách Khải Huyền đã viết như thế, nhưng hơn thế nữa, Ngài là Vị Thượng tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế duy nhất, nhưng Ngài cũng muốn chúng ta trở thành một dân thánh, một dân tư tế như thánh Phêrô đã nói: “Hãy để cho Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô”. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Chúng ta là một dân tư tế thánh. Chúng ta là những kẻ được tuyển chọn để thành một dân tư tế. Như thế Giáo hội chính là Đền thờ mới của Thiên Chúa. “Hãy phá Đền thờ này đi”. Đền thờ Giêrusalem giờ này chỉ còn là kỷ niệm, là hình bóng của Đền thờ mới xây là thân thể Chúa Kitô.
Tiến xa hơn, thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Côrintô cũng dạy rằng: “Anh em là Đền thờ của Thiên Chúa” “Thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần”. Vinh dự cho chúng ta biết bao! Nhưng mấy người đã hiểu được hồng ân cao quí này? Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được nâng lên đến một địa vị cao quí mà chúng ta không hay biết.
Thánh Phaolô còn nói: “Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa (là thân xác), Thiên Chúa sẽ hủy diệt người ấy”. Không có lời nào mạnh mẽ hơn! Vì thế, sống là sống cho Thiên Chúa và chết là chết cho Thiên Chúa.“Hãy dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa”. Chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã tẩy sạch Đền thờ Giêrusalem để cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần tẩy sạch đền thờ của chúng ta để xứng đáng làm tư tế để thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã rất mực yêu thương chúng ta và đã thánh hiến chúng ta bằng phép rửa tội, đổ tràn tình yêu Thánh Thần vào lòng chúng ta bằng phép Thêm sức, để chúng ta thành con yêu dấu của Người. Xưa kia Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái và dạy họ: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”. Thì hôm nay, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải thánh thiện hơn để xứng đáng với tình yêu vô biên của Người.
Mùa Chay chính là lúc chúng ta lắng nghe lời Chúa chăm chú hơn, đi theo đường nẻo của Người, giữ lời của Người như Chúa Giêsu đã giữ lời của Chúa Cha, sống hoàn toàn theo ý Cha. Như thế, cuộc sống trần gian của chúng ta sẽ thành của lễ đẹp lòng Cha. Chúng ta còn yếu đuối lỡ lầm, nhưng lòng thương xót của Cha trên trời còn rộng hơn sự yếu hèn của chúng ta. Hãy tin tưởng bước tới trong Chúa Giêsu, vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hãy tìm về Ngài như nguồn tình thương vô biên dành sẵn cho chúng ta. Đừng ngại ngùng cầm lấy dây thừng, đánh đuổi những kẻ buôn bán làm nhơ nhớp Đền thờ của chúng ta. Chúa Giêsu đã gánh chịu tất cả vì chúng ta, chúng ta hãy đi vào con đường hẹp là con đường hoán cải để có thể cùng Ngài cứu vớt chính mình và anh em chúng ta, những người đang cần ơn cứu độ. Chúa Giêsu mong mỏi biết bao thấy chúng ta dám cùng Ngài vác thập giá để cùng sống lại với Ngài trong vinh quang!
Vác thập giá với Ngài chúng ta cần được can đảm. Thánh Thể chính là của ăn Chúa ban cho chúng ta nhờ đó chúng ta mạnh đủ để bước theo Ngài trên con đường hẹp Ngài đã đi. Hãy ăn lấy Chúa chúng ta vì Ngài đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta. Ăn lấy Ngài để như tiên tri Êlia xưa ăn bánh trong sa mạc và đã đi suốt bốn mươi đêm ngày đến điểm hẹn.
Cuộc sống chúng ta vẫn không dễ dàng, nhiều cam go thử thách đang chờ chúng ta trên mọi nẻo đường, hãy ăn lấy lương thực hằng sống để đi đến điểm hẹn muôn đời. Vinh quang Chúa sẽ là phần thưởng cho những ai dám theo Ngài đến cùng. Hãy tô điểm cho đền thờ tâm hồn chúng ta bằng những bông hoa bác ái, khiêm nhu để đón chào tân lang của chúng ta mỗi ngày. Có thể chúng ta còn ngại ngùng, e sợ, hãy nghe tiếng mời gọi của tình yêu và tin tưởng. Chúa chúng ta là Thiên Chúa nhẫn nại nhẹ nhàng, Ngài sẵn sàng tiếp đón chúng ta dù chúng ta không xứng. Hãy dành cho Ngài tất cả để Ngài biến đổi tất cả thành tình yêu vì Ngài chính là Tình Yêu nhập thể.
Người Mỹ có một câu châm ngôn rất đáng chúng ta suy nghĩ là: “sự thất bại nặng nề nhất của MC3-B124
Người Mỹ có một câu châm ngôn rất đáng chúng ta suy nghĩ là: “sự thất bại nặng nề nhất của con người là đánh mất lòng nhiệt thành” Câu châm ngọn đó có thế áp dụng cả trong Đạo lẫn ngoài đời. Ở ngoài đời thi câu châm ngôn đó vừa được chứng nghiệm một cách hùng hồn trong kỳ bấu cử Tống Thống thứ 46 của Hoa Kỳ vừa qua. Còn trong Đạo thì chúng ta tìm thấy hai nhân vật nổi tiếng khắp thế giới phù hợp với câu chân ngôn ất. Đó là Thánh Phao-lô, Tông đồ dân ngoại, với lòng nhiệt thành là điểm nổi bật nhất trong đời sống tâm linh và rao giảng Tin Mừng của ngài. Đó là Chúa Giêsu Nagiarét thì là lòng nhiệt thành bảo vệ sự tinh tuyền của Đền Thánh Giêrusalem là nhà của Thiên Chúa mà Ngài đã không ngại đương đầu với những người lãnh đạo Đền thờ. Những người này đã làm cho Đền thờ ấy ra ô uế, nên khi bị Chúa quở trách thì họ sinh lòng thù ghét và tìm cách hãm hại Ngài.
Mùa Chay là mùa hoán cải nên chúng ta cũng cần nhìn lại xem tình yêu và lòng nhiệt thành của chúng ta đối với Đạo Chúa và đối với con người (vì những gì thực sự liên quan tới con người thì cũng liên quan tới Thiên Chúa) có còn sống động nữa không?
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 20,1-17): "Luật do Môsê đã ban ra" Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Đừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta; Ta tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai kính mến Ta và tuân giữ các giới răn Ta.
Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt.
Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, súc vật, ngoại kiều trọ trong nhà ngươi, tất cả không được làm việc gì. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo dựng trời, đất, biển, và tất cả mọi vật trong đó, rồi Người nghỉ trong ngày thứ bảy: cho nên Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày Sabbat.
Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người, chớ phạm tội ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối hại anh em mình, chớ tham lam nhà của kẻ khác, chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu. .
Hoặc đọc bài vắn này: Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17 Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat.
Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 1,22-25): "Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho nhiều người, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những người được gọi" Anh em thân mến, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Đức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Chúa Cha, vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.
(3) Trong bài Tin Mừng (Ga 2,13-25): "Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
(1°) Nếu chúng ta chỉ đọc cách hời hợt bài đọc 1 (Xh 20,1-17), chúng ta sẽ chỉ thấy mười giới răn khô khẳng khó nuốt; Còn nếu chúng ta đọc nó với cả tấm lòng, chúng ta sẽ khám phá ra tấm lòng đầy tình thương của Thiên Chúa. Thật vậy nền tảng và động lực của mười điều răn là Giao Ước. Nguyên do của Giao Ước là Tình Thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương dân Israel và nhân loại, nên Thiên Chúa muốn cho họ được hạnh phúc. Để giúp dân Israel và mọi người tìm được hạnh phúc, Thiên Chúa ban mười điều răn như những nẻo đường, những phương thế thích hợp. Chúng ta thấy Thiên Chúa hết lòng với Ít-ra-en và mong Ít-ra-en toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa. Tình Yêu chỉ được đáp lại bằng Tình Yêu! Tấm lòng cần được đón nhận và hồi đáp bằng tấm lòng!
(2°) Thánh Phao-lô Tông đồ, trong bài đọc 2 (1 Cr 1,22-25), cho ta thấy ngài sốt sáng nhiệt thành như thế nào trong việc rao giảng Chúa Ki-tô bị đóng đinh thập giá. Đó là điều mà con người - dù văn minh và khôn ngoan như người Hy-lạp hay đạo đức thánh thiện (được chọn là dân riêng, được các ngôn sứ dạy dỗ qua các thời đại) như người Do-thái - chẳng sao hiểu nổi, bởi vì câu chuyện thập giá là câu chuyện tình của Thiên Chúa toàn trí, toàn năng và chí ái. Deus Caritas est! Thiên Chúa là Tình Yêu! Người phàm làm sao hiểu được Thiên Chúa, hiểu được Tình Yêu của Người!
3°) Thánh Gio-an, trong bài Tin Mừng (Ga 2, 13-25), tường thuật lại một sự kiện nổi bật trong những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu ở trần thế: tẩy uế Đền Thờ Giêrusalem. Sự việc này chẳng khác gì “đổ dầu vào lửa” trong bối cảnh có nhiều người Do-thái đang tìm cách loại trừ Chúa Giêsu. Phải nhìn nhận rằng đây là lần đầu tiên trong Phúc âm chúng ta thấy Chúa Giêsu nổi giận, trước cảnh “trái tai gai mắt” đang diễn ra trong khu vực xung quanh Đền Thờ Giêrusalem. Thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu như một ngôn sứ đang bốc lửa xông vào cuộc chiến để bảo vệ quyền lợi của Thiên Chúa và sự tinh tuyền của nơi thờ thờ Người. Lửa bốc trong lòng, lửa tràn ra lời nói và hành động của Chúa Giêsu! Vì nhiệt tâm với Nhà Chúa (Cha) mà Chúa Giêsu sẽ bị bắt, bị đánh đập tàn bạo, bị kết án dã man và bị giết chết tàn bạo trên thập giá. Nhưng ngọn lửa Tình Yêu ấy đã biến Người thành Của Lễ Toàn Thiêu đẹp lòng Thiên Chúa Cha và đem lại Ơn Cứu Rỗi cho muôn người.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là tấm lòng, là tình yêu cháy bỏng của Thiên Chúa, nhất là của Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thể đối với Thiên Chúa Cha và đối với loài người.
Vậy chúng ta hãy tin và đón nhận tình yêu ấy cũng như hãy để cho tình yêu ấy đốt cháy chúng ta.
Nói cách khác hãy đáp lại tình yêu ấy bằng một tình yêu cháy bỏng!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã chọn ký kết giao ước Xi-nai và ban mười giới răn cho dân Ít-ra-en để họ sống theo đường lối của Người. Người cũng là Đấng Thiên Chúa đã sai Con Một là Đức Giê-su Ki-tô xuống trần gian để tỏ lòng yêu thương con người và cứu chuộc con người bằng cái chết trên cây gỗ.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta là nuôi dưỡng một tâm hồn sốt mến, một lòng nhiệt thành, một tình yêu cháy bỏng đối với Thiên Chúa là Tình Yêu và với công cuộc cứu độ của Người.
Kiểm chứng:
* Tâm hồn tôi có “rạo rực” mỗi khi nghĩ/nghe/nói về Chúa không?
* Tâm tư tôi có “thao thức” trước nỗi thống khổ của con người, nhất là của những người thấp cổ bé miệng, bị khinh khi miệt thị và loại trừ không?
* Lương tâm tôi có “day dứt” trước cảnh đói nghèo, bất công, tham nhũng, quan liêu và trước các tệ nạn xã hội không?
* Chọn lựa của tôi có là “dũng cảm” bênh vực công lý và lẽ phải, - bằng lời nói và việc làm - dù bị thiệt thòi cách này cách khác, hay là “im lặng đồng lõa và thỏa hiệp” để được yên thân? yên chỗ?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 «Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đờ.» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa hãy vì giao ước Người đã ký kết với loài người mà thương yêu tha thứ cho loài người, nhất là cho những người thành tâm thiện chí, sống theo giới răn của Chúa hay lương tâm của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi sẽ phải thiệt thân» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, sống hết lòng hết sức với Đạo Chúa và đồng loại là anh chị em của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Thưa anh em, trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, càng ngày càng thấu hiểu cung cách hành động của Thiên Chúa mà yêu mến và ngưỡng mộ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Người nói với những kẻ bán bồ câu: «đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người phục vụ các cơ sở tôn giáo và các lễ nghi phụng tự, để họ gìn giữ sự tinh tuyền thánh thiện của các nơi thánh và của các việc thờ phượng ấy.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Trước và sau tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại MC3-B125
Trước và sau tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại không biết đến ít nhiều lễ hội.
Theo thống kê 2009 trên vi.wikipedia, hiện cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Hải Dương và Phú Thọ.
Qua những lễ hội này, chúng ta thấy được một phần nào truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Điều này rất bổ ích, nhất là cho thế hệ trẻ! Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có khá nhiều nơi đã lạm dụng lễ hội để kinh doanh, buôn bán và mê tín dị đoan. Từ đó, kéo theo một loạt những hệ lụy không đẹp như trộm cắp, đánh đập, chửi bới và hành xử thiếu văn hóa ngay chốn linh thiêng…, làm cho lễ hội nhuốm màu trần tục!
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại việc những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu đã biến đền thờ là chốn linh thiêng, là nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc. Thấy vậy, Đức Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi để trả lại cho đền thờ đúng với ý nghĩa của nó.
Qua đó, Ngài muốn dạy cho chúng ta rất nhiều bài học sau biến cố này.
1. Lý do khiến Đức Giêsu đánh đuổi con buôn
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga, tráng lệ vào bậc nhất thời đó. Đền thờ này được dùng vào việc tôn thờ Thiên Chúa và là nơi quy tụ những người Dothái hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua.
Câu chuyện căng thẳng giữa Đức Giêsu và dân chúng đã xảy ra đúng vào thời điểm này.
Khởi đi từ việc Đức Giêsu quan sát và thấy được người ta đổi tiền, mua bán súc vật ngay trong đền thờ, làm cho đền thờ trở nên ô uế!
Điều đáng nói là: theo quy định, những con vật được dùng vào việc tế lễ phải là con vật lành lặn không tỳ vết. Những người chính thức được các chức sắc chỉ định mới đủ thẩm quyền để tuyên bố con vật xứng đáng sau khi đã kiểm tra! Tuy nhiên, con vật đủ kiều kiện để dùng vào việc tế lễ phải là con vật được mua trong nơi quy định của các tư tế và nó sẽ đắt gấp 15 lần so với bên ngoài. Hơn nữa, người mua còn phải trả một loại phí không nhỏ cho những người kiểm tra!
Bên cạnh đó, nơi đây còn diễn ra chuyện đổi tiền. Theo luật thì buộc mỗi người Dothái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, tương đương với hai ngày lương công nhật.
Vì là lễ Vượt Qua không chỉ dành riêng cho người Dothái tại chỗ, mà còn cho cả những người Dothái ở nhiều nơi khác hội tụ về, nên tiền họ mang theo cũng đủ loại…. Nhưng tiền nộp vào đền thờ lại chỉ được chấp nhận là thứ tiền của người Dothái, vì họ cho rằng chỉ có tiền này mới xứng đáng để nộp thuế đền thờ, các thứ tiền khác là ô uế!
Chính vì lý do đó nên việc đổi tiền đã diễn ra tại nơi đây với giá cắt cổ.
Chứng kiến cảnh tượng đó, cộng thêm: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn”(Tv 68.10), nên Đức Giêsu đã bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Ngài đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền (x. Ga 2, 14-17).
Khi có hành vi ấy, Đức Giêsu cho thấy những hệ lụy đầy bất công của những kẻ lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ, đó là: họ đã nhân danh tôn giáo để đè đầu cưỡi cổ và bóc lột dân, nên Ngài đã không thể chấp nhận tình trạng ấy diễn ra ngay tại nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa, vì thế, Đức Giêsu nói: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Lời cảnh cáo này của Đức Giêsu cho thấy Ngài đã nhắc lại lời của Ngôn Sứ Isaia khi xưa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
2. Thực trạng đời sống đạo của chúng ta
Khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu mặc khải và dạy cho chúng ta những bài học thật bổ ích, đó là:
Cần cẩn trọng và đừng nên mừng vội khi thấy mỗi Chúa Nhật và các dịp lễ trọng, người đi lễ nườm nượp và ngồi chật kín cả nhà thờ, nhất là tuần làm phúc (trước Tuần Thánh) và Tuần Thánh. Có lẽ về khía cạnh này, Giáo Hội Việt Nam đứng đầu bảng trên toàn thế giới. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng và rất nên khuyến khích cũng như phát huy.
Tuy nhiên, điều đáng tự hào ấy lại cần phải xem xét lại, vì biết bao nhiêu người chỉ tập chung vào những chuyện bên ngoài như đi “xem lễ” chứ không “sống thánh lễ” trong đời sống của mình.
Lại có những người siêng năng tham dự thánh lễ và chăm chú nghe giảng rồi lên rước lễ rất sốt sắng như thiên thần. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, họ sẵn sàng chửi bới, nói hành nói xấu, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng… không khác gì dân chơi thứ thiệt hạng sang ngoài đời! Hơn nữa, việc đi lễ, thuộc kinh là một chuyện, còn chuyện coi bói, xem quẻ, thờ ông địa, bái gốc đa, khấn gốc gạo với viện cớ rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành…” lại là chuyện thường tình xảy ra hằng ngày ngay tại các cộng đoàn tín hữu với những sinh hoạt tôn giáo sầm uất!
Và, vẫn còn đó những người rất năng nổ tham gia chuyện quyên góp để xây dựng những công trình tôn giáo, nhưng đền thờ tâm hồn lại không màng chi đến hoặc có quan tâm thì cũng chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa! Vì thế, việc xây dựng đền thờ tâm hồn với những nét đẹp như: từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, xây dựng tình huynh đệ, tạo sự hiệp nhất, liên đới, cảm thông…, thì lại quá xa lạ đối với những người xem ra có vẻ đạo đức ấy!
Hơn nữa, điều đáng buồn nhất, đó là nhiều khi chúng ta lại đi lại chính vết xe của những nhà lãnh dạo tôn giáo khi xưa, đó là: nhân danh lề luật, tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa để làm bình phong, nhằm ngụy trang cho những thói lưu manh, gian dối bẩn thỉu của mình!!!
Tắt một lời, tin Chúa như vậy là hình thức, là vỏ bọc, là đầu môi chóp lưỡi, còn thực chất bên trong là rỗng tuếch! Tin Chúa như vậy được ví như tin có mùa vụ. Tin lúc thuận tiện. Tin khi có lợi mà thôi….
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học cho chúng ta hôm nay chính là: ngoài việc tôn kính nhà thờ, nhà nguyện là nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta còn có một đền thờ khác, đó là đền thờ thân xác của mỗi người. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa” (1 Cor 3, 16).
Vì vậy, mỗi người chúng ta phải có bổn phận xây dựng cho mình một ngôi đền thờ xứng đáng để cho Thiên Chúa ngự. Ngôi đền thờ này phải được xây dựng bằng nền móng vững chắc là đức tin và lòng mến thật tâm. Cần phải được trang trí bằng những việc đạo đức, bác ái, khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
Mặt khác, chúng ta đang sống trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy canh tân để đổi mới. Canh tân lối sống cũ không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Đổi mới từ con người tội lỗi, hình thức, hào nhoáng bên ngoài thành con người có chiều sâu nội tâm bên trong qua việc ăn năm sám hối thật lòng….
Ước gì sứ điệp Lời Chúa hôm nay được chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận và sống sao cho thật đẹp lòng Chúa, ngõ hầu xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Amen.
Trong những năm gần đây, báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi MC3-B126
Trong những năm gần đây, báo chí thường chạy những bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa trong những dịp lễ hội đầu năm: nào là chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần, nào là buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương, nào là hỗn loạn xin lộc đền bà Chúa Kho, v.v... Mục đích đi chùa chiền là để cầu an, hay cầu tài, cầu lộc. Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy mà thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi, hay bị những người bán hàng chặt chém. An bình đâu không thấy chỉ thấy bất an vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời hay mua cho người này mà không mua cho người kia, v.v... Thế mới thấy rằng chính não trạng vụ lợi muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn hoá và tín ngưỡng.
Cũng với não trạng ấy, người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền Thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng, thành một nơi bát nháo để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi. Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền Thờ, “nhà của Cha Ngài,” bị tục hoá, giải thiêng, và làm cho trở nên ô uế. Ngài đã hành động thẳng thắn để trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta có thể thấy Đền Thờ Giêrusalem mang ba ý nghĩa rất quan trọng sau đây:
1. Trước hết, Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết.
Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của Đền Thờ, vốn là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa và con người.
2. Thứ đến, Giêrusalem còn là dấu chứng của tình yêu và hiệp nhất.
Quả không sai khi nói rằng Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người, đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước. Thánh Vịnh Lên Đền 122 đã nói lên ý nghĩa này: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên Đền thánh Chúa!’ Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân”.
Thế mà các giới chức Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi…). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận. Tắt một lời, Đền Thờ phải là nơi dành cho tất cả mọi người.
3. Sau nữa, Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng tinh tuyền.
Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó ta không ngạc nhiên khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời, qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân Thể của Ngài.
Quả vậy, Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được ba ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên “Aba” - lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Hãy nhớ rằng trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem đi chăng nữa, cũng đã tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ bền vững thiên thu. Thế nhưng hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để ta làm mới lại tâm hồn của mình. Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương thanh tẩy tâm hồn chúng ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật nhào những gì làm cho tâm hồn chúng ta ra ô nhơ để trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
Không được biến đền thờ thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn MC3-B127
Không được biến đền thờ thành nơi buôn bán. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Không tôn trọng nơi tôn nghiêm, là không tôn trọng những người đang hiện diện hoặc đến đây thờ phượng Thiên Chúa.
Người ta có thể lý luận "những người buôn bán này đang làm một việc bác ái", họ tạo điều kiện thuận tiện cho những người dâng lễ có của lễ để dâng kính Thiên Chúa. Thực ra khi làm như vậy, họ đã đặt cái lợi về vật chất trên Thiên Chúa và coi thường Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Đừng biến thân xác mình, con người mình thành nơi buôn bán, thành đối tượng buôn bán. Thân xác chúng ta là thánh vì thuộc về Thiên Chúa. Chính Đức Yêsu cũng coi thân mình Ngài là đền thờ: "Cứ hủy đền thờ này và trong ba ngày Ta sẽ xây lại"!
Nếu chúng ta để đam mê thống trị mình, nếu chúng ta còn mê say tiền bạc, danh vọng, địa vị chức quyền, thì Thiên Chúa không có chỗ nhất nơi chúng ta. Bài Tin Mừng còn giúp chúng ta nhìn lại xem đâu là thái độ của tôi đối với thân xác, với sức khỏe, với con người toàn diện của tôi?
Với đức Yêsu, Thiên Chúa là nhất đối với Ngài. Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, dù bị những người có quyền hành không đồng ý và tra hỏi: "ông lấy quyền gì mà làm như vậy?". Hôm nay Đức Yêsu đuổi họ ra khỏi đền thờ, nhưng ngày mai thì sao? những người này có tiếp tục tôn trọng đền thờ không, hay mai họ vẫn làm như cũ? Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm. Ngài vẫn làm cho dầu bị người ta ghét bỏ, cho dù người ta không vâng theo ngay trong ngày mai. Đức Yêsu sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, bất chấp tất cả.
2. Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá
Cho dù người Hy Lạp coi trọng và tìm kiếm khôn ngoan, cho dù người Do Thái sính phép lạ, thì Phaolô vẫn "rao giảng Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh".
Cứ sự thường nếu không đáp ứng mong ước, không thỏa mãn thị hiếu của người ta, thì sẽ thất bại! Ấy vậy Phaolô vẫn rao giảng "Đức Yêsu Kitô chịu đóng đinh" cho dù không đáp ứng mong ước của người đương thời. Sở dĩ vậy vì rao giảng "Đức Yêsu chịu đóng đinh" là điều tuyệt đối cần thiết. Đức Yêsu chịu đóng đinh thập giá là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối.
"Đức Yêsu chịu đóng đinh", đòi người ta xét lại cách sống của mình. Đức Yêsu đã chọn điều gì? Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tôi có cùng cách sống và chọn lựa với Đức Yêsu không?
Rao giảng Đức Yêsu chịu đóng đinh, là rao giảng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu không yêu, tại sao Thiên Chúa lại để Con của Ngài bị khốn khổ như vậy? Nếu không yêu, tại sao Đức Yêsu phải chịu đau đớn khổ cực và ô nhục dường ấy?
Đức Yêsu chịu đóng đinh, là niềm vinh dự, mối tự hào của mọi kitô-hữu. Đức Yêsu chịu đóng đinh, biểu tượng và bằng chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
3. Ta là Thiên Chúa, ngươi không được...
Nội dung của thập giới là gì? Hãy tôn thờ Thiên Chúa, thảo kính cha mẹ và yêu thương con người! Đừng xúc phạm con người, đừng chà đạp nhân phẩm!
Tại sao tôi không được làm điều này điều kia? Thập giới cho thấy khi tôi vi phạm lệnh cấm của thập giới, là tôi xúc phạm con người và Thiên Chúa. Thập giới có là để bảo vệ con người. Ngày sabbat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.
Luật Cựu Ước lấy con người là chuẩn, còn luật Tân Ước lấy Đức Yêsu làm chuẩn. Luật Cựu Ước dạy "hãy yêu thương tha nhân như chính mình", còn luật Tân Ước dạy: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga.13, 34-35).
Luật Cựu Ước cho thấy: nếu xúc phạm con người sẽ bị xử, còn luật Tân Ước cho thấy: nếu không yêu thương, sẽ bị xét xử (Mt.25, 31tt).
Chính Đức Yêsu là Đấng làm cho lề luật nên trọn "Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để làm nên trọn".
Xin cho chúng ta trở nên giống Đức Yêsu trong mọi sự.
Ngày nay người ta nói nhiều đến tục hóa. Thế giới tục hóa, con người tục hóa, nhà thờ, nhà chùa MC3-B128
Ngày nay người ta nói nhiều đến tục hóa. Thế giới tục hóa, con người tục hóa, nhà thờ, nhà chùa cũng tục hóa! Vậy tục hóa là gì?
Người xưa hay dùng chữ “hoàn tục” để nói về người bỏ tu để về với thế gian. Thực ra, tục hóa không chỉ là hoàn tục của người đi tu mà còn nói về một trào lưu loại bỏ sự hiện diện của thần linh để đưa tinh thần thế tục vào chính sự linh thánh.
Cụ thể ta vẫn thấy ở Việt Nam rất nhiều ngôi Chùa hoàn toàn để tham quan du lịch, người ta còn cổ vũ cả một tour du lịch tâm linh tại Bái Đính. Các nước phương tây đã sử dụng các ngôi nhà thờ cổ kính để làm nơi tham quan du lịch và tìm lợi nhuận như nhà thờ Đức Bà Pari . . . Sự tục hóa len lỏi trong cả những việc bác ái từ thiện. Trước đây việc bác ái hoàn toàn dựa vào sự hảo tâm của bá tánh, ngày nay nhiều nhà thờ, nhiều hội dòng cũng biết kiếm tiền bằng cách kinh doanh buôn bán nhân danh gây quỹ từ thiện. Ở thời đại này ta rất dễ thấy bóng dáng các nữ tu, các đệ tử, các thầy dòng đứng bán tranh ảnh, băng dĩa, đồ dùng ở những nơi hành hương hay những ngày lễ hội lớn nơi các giáo xứ. . .
Nhiều nhà thờ nhân danh người nghèo để biến sân nhà thờ thành nơi thuê mướn mặt bằng để đám tiệc linh đình, ca hát, nhảy nhót trên cả lễ đài vẫn để dùng làm lễ Chúa nhật! Điều tệ hại là khuôn viên nhà thờ thì không có khu vệ sinh để đáp ứng nhu cầu tối thiểu nên ta vẫn vô tình nhìn thấy những cách thiếu tôn kính nơi tường rào chung quanh hay một góc khuất nào đó quanh nhà thờ của những người say sỉn, thiếu ý thức. . . Đây là điều mà Đức Cha Giuse giáo phận Xuân Lộc đã thấy nhà thờ bị tục hóa nên đang đề nghị các giáo xứ chấm dứt dùng sân nhà thờ để cho thuê đám cưới.
Phúc âm kể rằng ngày hôm ấy Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài thấy người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để kiếm lời. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương kiếm lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.
Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chúa bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình.
Thế giới tục hóa vẫn là lời mời gọi chúng ta đem đạo vào đời. Đem ánh sáng lời Chúa thánh hóa thế gian đang hư đốn bởi tham sân si. Hãy dùng lời Chúa để canh tân xã hội. Người ky-tô phải làm sao dậy men tin mừng trong đời sống của mình. Đừng vì lợi nhuận mà bán rẻ lương tâm, mà tục hóa những nơi linh thánh, nhất là trong chính thân xác con người là đền thờ của Chúa. Xin đừng tục hóa đến độ xem thường thân xác để chỉ tìm thú vui bất chính, để thỏa mãn tính xác thịt mà tìm lợi nhuận trên thân xác.
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói mùa chay là mùa giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chúa thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chúa, tâm hồn con là đền thờ của Chúa, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề MC3-B129
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm hồn.
Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xh 20,1-17
Thiên Chúa đã dùng ông Maisen giải phóng dân Israel ra khỏi ách nộ lệ của Ai cập. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa ban bố lề luật cho Maisen và ông đã truyền lại cho dân chúng. Luật ấy được gọi là “Thập giới” hay “Mười điều răn”. Đối với họ “mười điều răn” là cách đọc được ý muốn của chính Thiên Chúa ngõ hầu sống hiệp thông với Ngài. Đó chính là điểm cốt lõi, cho dầu phần lớn các điều răn còn được thấy ở những nơi khác ngoài Israel.
Thập giới không phải là xiềng xích nặng nề, kìm hãm tự do con người, nhưng là luật chỉ đạo của Thiên Chúa để hướng dẫn và bảo đảm bước đường tiến tới tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa đòi Israel phải tuyệt đối trung thành và tuân giữ các điều răn của Ngài. Có như vậy, Ngài mới là Chúa của Israel và Israel là dân riêng của Ngài. Ngày nay, chúng ta là dân riêng của Ngài. Điều mà Ngài đòi hỏi Israel cũng là điều Ngài đòi hỏi chúng ta ngày nay.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,22-25
Thánh Phaolô rao giảng Đức Kitô bị đóng đinh. Theo Ngài, nhờ thập giá Đức Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha, nhưng thập giá lại là điều ô nhục đối với người Do thái và là sự điên rồ đối với người Hy lạp. Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế quyền năng chứ không hèn yếu; người Hy lạp trông một sự can thiệp của Thiên Chúa phù hợp với sự khôn ngoan của họ, và đối với Đấng ấy, cái chết không được phép chạm đến.
Nhưng thánh Phaolô lại quả quyết rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá và sự khôn ngoan của Thiên Chúa trổi vượt hơn sự khôn ngoan của con người. Do đó, Ngài tự hào về sự khôn ngoan của thập giá bởi vì sức mạnh của Ngài tỏ lộ trong sự yếu đuối: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
+ Bài Tin mừng: Ga 2,13-25
Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán ở sân đền thở Giêrusalem. Đền thờ là nơi dân Chúa thập phương tụ họp lại để tỏ lòng tôn thờ và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa. Đền thờ phải là nơi trang nghiêm dành cho việc thờ phượng. Nhưng người ta vì ham lợi lộc đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán, ồn ào nhộn nhịp. Đức Giêsu vì nhiệt thành với Thiên Chúa đã dám chấp nhận nguy hiểm dẫn đến cái chết khi nghĩ đến câu Thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 68,10).
Để trả lời cho những thách thức của họ, Đức Giêsu nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,21). Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài. Và “Nhà Cha” thực sự từ nay sẽ là “đền thờ thân thể Ngài”, và Ngài sẽ là vị tư tế duy nhất muôn đời. Nhưng nhân tính của Ngài sẽ chỉ giữ vai trò trên sau khi bị phá hủy và trỗi dậy (Ga 2,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thanh tẩy đền thờ Thiên Chúa
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18.000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:
a) Những khách hành hương
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2. 200.000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền thờ
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA
1. Hai loại đền thờ
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành ? Người Do thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
a) Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ chúng ta
a) Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
b) Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi ? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng liêng
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em”.
Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói: “Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giầu có đã thành công: Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay: hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường, Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp, Con tự hào với tất cả niềm tin, Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ, Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa, Ngôi thánh đường của đời con, Không thể xong trong một sớm một chiều, Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả, Chính Ngài, con không quá lời đâu: Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc, Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con. (Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em.
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
Văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy MC3-B130
Văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp luật; đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Còn văn thi sĩ Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn: pháp luật và đạo đức”. Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Và chắc chắn chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119 (rất dài, với 176 câu). Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).
Trong xã hội loài người, bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế giới gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên cần phải có luật để tái lập trật tự.
Bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa. Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có thể thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây là SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.
Xin “mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều răn…” thay vì Năm Điều Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần thiết về giáo huấn của Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử dụng kinh Năm Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con họp nhau kính lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là “năm”. Chuyện nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!
BIẾT LUẬT
Cựu Ước có đề cập Thập Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng thời trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Các Phúc Âm nhất lãm lặp lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.
Tiếp theo, Thiên Chúa nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước” mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?
Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà Ngài hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh vực khác. Đó là công lý. Chính Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rất rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Đối với các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được giết người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG được làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ ràng, rất rạch ròi.
Là Kitô hữu, ai cũng biết luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).
GIỮ LUẬT
Giữ luật không chỉ là duy trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).
Thánh Vịnh gia cũng chân nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại”.
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói rằng chín người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!
Quả thật, Chúa Giêsu là “dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại, và rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại người đó là “đầu đất” hoặc “đầu tôm”. Tồi tệ thật!
Đối với “nhà thông thái” Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên Chúa đã xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn, và chẳng bao giờ phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài. Nhưng Ngài rất công minh chính trực, công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ” cho những người chịu thua thiệt ở đời này.
HƯỞNG LUẬT
Trình thuật theo Thánh sử Gioan cho biết rằng…
Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Bản tính thẳng thắn và nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).
Ui da! Ngôi Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!”. Bó toàn thân luôn chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, đúng ra là họ phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!
Tất cả còn trong “bức màn bí ẩn”. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chắc chắn chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”. Quả thật, đó là điều chúng ta phải suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!
Lạy Thiên Chúa duy nhất mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi”. Đôi khi con còn mắc những chứng bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên con vẫn làm ngơ những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin Ngài thương giúp con nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương xót họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp con can đảm chấp nhận mọi thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
----------------------- (*) Hội Thánh có năm điều răn: – Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc; – Thứ hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần; – Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh; – Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc; – Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.
Bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm MC3-B131
Bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế gới gọi là hòa bình.
Luật vị nhân sinh – luật vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật, bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn. Còn lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa.
THẬP GIỚI
Thiên Chúa đã tạo dựng con người, cho con người tự do, vì chính Ngài “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).
Phúc âm nhất lãm lặp lại Giới răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.
Rồi Thiên Chúa nói tiếp: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng có luật “tru di tam tộc” chăng?
Nghe cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt” nhưng thực ra không phải vậy. Ngài không độc đoán, vì Ngài luôn yêu thương và hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ngài rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” cái này thì Ngài lại “thưởng công” cái khác. Công lý là thế. Chính tác giả Thánh vịnh đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.
Sách Xuất hành, chương 20, câu 9-17 “liệt kê” các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười: “Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”.
VUI, BUỒN VÌ LUẬT
Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Tác giả Thánh vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9). Tác giả Thánh vịnh chân nhận “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sư “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, lệ thuộc, hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, người ta thường nói vậy.
Cuộc sống luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói: “Chín người mười ý”, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh PhaoLô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24).
Thiên Chúa là “dị nhân” đúng nghĩa, với những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, nhìn rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thức tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ đã chết lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật là buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, hoặc không muốn người khác hơn mình!
Riêng thánh Phaolô, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Cũng có lần Thiên Chúa đã nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).
THỰC HÀNH LUẬT
Thánh sử Gioan kể: Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Ngài nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, hẳn là phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy!
Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.
Chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và nghĩ: “Kỳ vậy ta?”. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” chính Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”! Thật đáng để chúng ta phải trầm tư suy nghĩ nhiều với câu hỏi của Chúa: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28).
Lạy Chúa, chúng con chợt thấy mình như những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người đáng tin cậy, trong khi xung quanh chúng con có nhiều thần ô uế, thần bạc tiền, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… Đôi khi chúng con còn mắc những bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên chúng con vẫn bỏ mặc những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Chúng con xin lỗi Chúa. Xin Ngài thương giúp chúng con nhận ra chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời giúp chúng con dám chấp nhận mọi thứ dù phải thiệt thân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Mỗi độ xuân về, những hoạt động tín ngưỡng pha lẫn với mê tín dị đoan lại nở rộ khắp nơi, như MC3-B132
Mỗi độ xuân về, những hoạt động tín ngưỡng pha lẫn với mê tín dị đoan lại nở rộ khắp nơi, như nấm mọc sau mưa. Con người tưởng tượng các thần linh cũng giống như mình, cũng tham lam hối lộ và mánh mung, nên họ tìm cách “đút lót” các vị ấy bằng cách dâng nhiều lễ vật. Cái mà họ gọi là “tín ngưỡng” thực ra là một hình thức mua thần bán thánh. Nhiều cuộc hội hè thường đi liền với bạo lực, cướp bóc gian dối lừa đảo. Có những người lợi dụng tín ngưỡng để kinh doanh thương mại. Cách làm tiền này được mang một tên rất đẹp: du lịch tâm linh. Một số người công giáo bị ảnh hưởng bởi quan niệm tín ngưỡng hỗn tạp này. Vì thế, họ vừa tin Chúa, vừa có những thực hành ngược lại với đức tin. Họ viện cớ “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” để biện minh cho những hành động mê tín. Thánh Gioan hôm nay kể lại việc Chúa Giê-su vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Khi chứng kiến cảnh chợ búa ồn ào, Người đã xua đuổi những người buôn bán và chiên bò ra khởi Đền thờ. Người hất tung những bàn đổi tiền và tuyên bố: “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Hành động của Chúa gây sửng sốt cho những người có mặt. Tác giả Gioan đã gọi đó là một hành động xuất phát từ lòng nhiệt thành với Nhà Chúa. Chúa Giê-su không chấp nhận một hình thức thờ phượng nhuốm màu thương mại kinh doanh hay chỉ hào nhoáng bên ngoài. Người muốn canh tân và đưa con người trở về với một nền phụng vụ đích thực, đó là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Việc thờ phượng Chúa không bị lệ thuộc vào không gian, thời gian, hay với một số bộ lạc dân tộc nào đó, nhưng dành cho những ai thành tâm yêu mến Chúa với trái tim chân thành. Khởi đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã mượn lời ngôn sứ Giô-en để kêu gọi chúng ta: Hãy trở về. Trở về vì chúng ta đi lạc đường, không tuân giữ giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Trở về là những cố gắng nỗ lực để bước đi những bước mới, trong hân hoan, tín thác vào tình thương của Chúa. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, nhắc đến một sự trở về trong tâm tình thờ phượng. Bởi lẽ, việc thờ phượng Chúa phản ánh chính đời sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta đang thờ phượng Chúa với phong cách nào? Bài đọc I là nội dung của Luật giao ước, chúng ta vẫn quen gọi là “Mười điều răn” hay “Thập điều”. Sau khi đã ra khỏi Ai Cập và đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, Ông Môi-sen, vị thủ lãnh của dân, mời gọi mỗi người hãy nhớ lại Luật của Chúa. Ông nhắc lại Luật giao ước Chúa đã ban cho Ông, để rồi Ông truyền lại cho dân Israen. Đây chính là cốt lõi căn bản của lề luật, giúp người Do Thái trung thành với Chúa là Đấng tạo dựng và là Đấng giải phóng. Trước khi vào Đất Hứa, Ông Môi-sen cảnh báo trước việc dân Do Thái sẽ bị cám dỗ theo các thần ngoại để thờ ngẫu tượng: “Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Đừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta”. “Thập điều” không chỉ là luật dành riêng cho người Do Thái, mà là luật Thiên Chúa khắc ghi nơi tâm khảm của con người, thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Nói dối, trộm cắp, tham lam, ngoại tình, giết người, bất hiếu… đối với thời đại và nền văn hóa nào cũng là xấu. Trong lời giáo huấn của ông Môi-sen, việc tuân giữ ngày Sabat được nhấn mạnh và kèm theo là những hướng dẫn chi tiết: “Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi”. Ki-tô giáo đã áp dụng giáo huấn này bằng việc thánh hóa ngày Chúa nhật, tức là nghỉ ngơi công việc, tham dự thánh lễ và làm việc bác ái. Tại sao phải thờ phượng Chúa? Vì Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ và con người. Thờ phượng Chúa giống như vâng lời cha mẹ, vì lòng hiếu thảo và biết ơn sinh thành. Thờ phượng Chúa cũng là dấu chứng tỏ con người yêu mến và phụ thuộc vào Chúa, đồng thời trông mong Người ban cho những ơn cần thiết để sống tốt ở đời này. Đối với những người vô thần hoặc những người không cùng niềm tin với chúng ta, việc thờ phượng Chúa và tuân giữ luật của Ngài bị coi như lạc hậu, viển vông. Thánh Phao-lô đã so sánh giữa sự khôn ngoan của Thiên Chúa với sự khôn ngoan của loài người (Bài đọc II). Thập giá Đức Ki-tô là sự điên dại đối với loài người, nhưng lại là sự khôn ngoan vô biên của Thiên Chúa. Đó chính là trường học về sự hy sinh, khiêm nhường, yêu thương và sống vì hạnh phúc của tha nhân. Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới. Cùng với canh tân đời sống, chúng ta cần nhìn lại và đổi mới cách thức thờ phượng Chúa, để thực sự gặp gỡ Ngài trong đời. Nhờ cuộc gặp gỡ này, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui và hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng chúng ta.
Bước vào một nhà sách Công Giáo, ta chọn cho mình một tấm ảnh Chúa Giêsu đang nở nụ MC3-B133
Bước vào một nhà sách Công Giáo, ta chọn cho mình một tấm ảnh Chúa Giêsu đang nở nụ cười rất tuyệt vời. Tấm ảnh có đề dòng chữ: “Chúa cười cho con an tâm”, lòng ta tự hỏi, có bao giờ Chúa buồn bực không?
Nhìn ngắm nụ cười ấy, ta thấy lòng mình bình an đến lạ. Đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, ta để cho hồn mình được chất vấn. Tôi có đang làm cho Thầy Giêsu vui lòng hay phải buồn bực? Hôm nay, khi vào đền thờ “Người thấy trong đền thờ có những kẻ bán chiên bò bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền” (Ga 2, 14 ). Ta hãy quan sát thái độ của Thầy Giêsu. “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,15). Tình trạng Đền Thờ trong tâm hồn ta đang như thế nào? Ta có cần Thầy Giêsu thanh tẩy tâm hồn mình? Dành cho mình một khoảng lặng, ta chợt nhận ra bấy lâu nay, ta đã quá thờ ơ với Thầy. Có lẽ, chính thái độ thờ ơ của ta đã làm tắt nụ cười của Thầy. Ta phải để Thầy bước vào cuộc đời mình và để Thầy dẫn vào một trật tự mới. Nơi ấy, ta dám sống thật với chính mình, dám sống cho những đòi hỏi của Tin Mừng. Có một đền thờ rất kiên cố mà bấy lâu nay ta dành công gầy dựng, đó là đền thờ của những tham vọng, của những tính toán nhỏ nhen, của những lọc lừa dối trá. “Các ngươi cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Ta hãy can đảm phá hủy đền thờ mà chính mình xây dựng, tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thầy, chính Thầy sẽ xây dựng cho ta một tâm hồn mới. Một tâm hồn luôn thành tín yêu thương là một tâm hồn có Chúa. Để mỗi khi sống và làm bất cứ việc gì ta điều cần đến tình thương của Chúa. Chúa sẽ hướng dẫn ta và ban cho ta một trái tim tràn đầy tình yêu. Tâm hồn ta sẽ vui mừng hớn hở. Hãy đến với Chúa Giêsu bằng một tâm hồn tươi vui như thế. Mọi tính toán lọc lừa, mọi tham vọng của ta, hãy để Thầy phá bỏ.
Lạy Chúa Giêsu! Mỗi lần con xa Chúa, mỗi lần con sai lỗi, xin hãy sửa dạy con bằng tình yêu nồng ấm của Chúa. Xin dạy con biết làm một người con ngoan và dễ dàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. Chúa biết rõ tình trạng của con, xin cho con biết phụng thờ Chúa và luôn ý thức lời Chúa đã phán “Nhà Cha ta là nhà cầu nguyện” (Lc 19,46). Amen.
Ồn ào như cái chợ”. Vâng, cái chợ là nơi quy tụ và thu hút đông đảo mọi người thuộc mọi tầng MC3-B134
“Ồn ào như cái chợ”. Vâng, cái chợ là nơi quy tụ và thu hút đông đảo mọi người thuộc mọi tầng lớp đến để mua bán, trao đổi các mặt hàng. Dọc bên đường phố cũng có các quán ăn nhỏ hay những tạp hóa… Tất cả những hoạt động ấy nhằm đem lại lợi ích và nhu cầu cho người bán và người mua. Nơi đó rất ồn ào từ tiếng người và tiếng máy móc cùng tiếng xe máy. Ngược với sự ồn ào là thinh lặng, những bảng hiệu “xin giữ thinh lặng” được treo ở các nhà chùa và nhà thờ nói lên sự trang nghiêm linh thiêng mà mọi người phải giữ. Nơi đây không có sự buôn bán trao đổi hàng hóa, mà là một nơi để khẩn nguyện, xin ơn, một nơi để trao tình bác ái và yêu thương cho nhau. Bởi đó, khi đến những nơi như vậy, chúng ta phải có một thái độ tôn trọng.
Trong Tin Mừng Gioan có thể cho chúng ta thấy rõ về thái độ tôn trọng. Thuở xưa, người Do thái đem các con vật vào đền thờ để bán, có kẻ ngồi đổi tiền. Trước cảnh tượng ấy, Chúa Giêsu liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả ra khỏi đền thờ (x. Ga 2, 15). Họ không chấp nhận hành động ấy của Người, nên đã xin Người một dấu lạ chứng tỏ quyền ấy. Chúa Giêsu liền nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2, 18-19). Thật là trớ trêu, họ tin vào Thiên Chúa, ngày càng ca ngợi Chúa; mặt khác, họ lại không đủ ý thức trước thái độ tôn kính Thiên Chúa như thế nào. Bởi đó, đền thờ trở nên nơi buôn bán cho họ.
Với cụm động từ “buôn” và “bán” cùng phép ẩn dụ, Chúa Giêsu có những hành động, lời nói nhằm báo trước về những hành động chính họ sẽ làm cho Con Người. Chính họ sẽ bán Con Một Thiên Chúa và Người Con sẽ bị đánh đòn, phải chết nhưng sẽ sống lại. Vâng, có lẽ Chúa rất đau khổ trước những việc làm của họ. Vì họ thật không hiểu biết gì mặc dù đã biết đã thấy những phép lạ Người làm. Do đó, Ngài hiểu rõ lòng người có gì. Phần chúng ta, khi nghe Lời Chúa, chúng ta có thể nhớ lại hình bóng của những kẻ đã bán Chúa. Đồng thời, có khi chúng ta cũng thấy thấp thoáng hình bóng chính mình nơi họ. Ngày nay, có rất nhiều kẻ buôn bán: bán sản phẩm, bán lời nói hay làm chứng gian, bán ý tưởng,.. Chúng ta sẽ dễ vướng vào việc bán Chúa. Đến với Chúa, Chúng ta có thái độ nào? Bạn đang làm công việc nào và nơi nào bạn thường lui tới? Thật sự thì không ai không mắc khỏi sai lầm hay phạm tội. Nhưng điều quan trọng là chúng ta hãy cố gắng hết sức mình để sửa đổi, phần còn lại Thiên Chúa sẽ lo cho chúng ta.
Có ba điều trong cuộc sống không bao giờ bền vững. Đó là ước mơ, tài sản và thành công của thế gian. Bởi đó, chúng ta hãy đi tìm những gì bền vững nhất và mang lại hạnh phúc thật cho cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, đôi khi chúng con không biết rằng những lời nói và việc làm sai trái là lúc chúng con cũng đang dần bán Chúa và bán chính mình con cho sự dữ. Cậy vì lòng nhân từ của Chúa, xin Chúa giúp chúng con ý thức hơn về những điều chúng con nói và những việc chúng con làm, để mỗi ngày con sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
Thánh Phaolô đồng hóa đến thờ thân xác và Đền thờ Thiên Chúa cư ngụ, để nói đến việc thanh tẩy MC3-B135
Thánh Phaolô đồng hóa đến thờ thân xác và Đền thờ Thiên Chúa cư ngụ, để nói đến việc thanh tẩy đền thờ thân xác là điều quan trọng để nên Đền thờ Chúa ngự.
Con người của thực tại.
Không thể chối cãi với con người thực tại giống như những người buôn bán trước đền thờ, nhiều những ngổn ngang dự tính, mua bán, đổi chác…
Để dẹp bỏ, đôi khi vừa cầu nguyện Chúa giúp sức lại vừa sợ Chúa nhận lời. Trong tâm tình “Lời dâng” của thi hào R. Tagore cũng nhận ra: “Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ.” (Bài số 28, bản dịch Đỗ Khánh Hoan).
Quyền năng Thiên Chúa.
Giống như câu hỏi của Thánh Phaolô: “ Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm 7, 24 – 25). Trong con người khi muốn dẹp bỏ tội lỗi luôn có một cuộc tranh luận, với mình và đôi khi cả với Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? ” (Ga 2, 18). Dầu sao Chúa cũng biết con người của tội lỗi này, Chúa sẽ đón nhận bằng sự chết thay cho tội lỗi của nhân loại để nhân loại được cứu.
Sống theo Chúa để hiểu.
Có những lần các môn đệ theo Chúa không hiểu được những điều Chúa làm, Chúa dạy, Chúa cũng bảo các môn đệ trong bữa tiệc ly cuối cùng: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu” (Ga 13, 7). Để hiểu luôn cần ở lại với Chúa và để Người mở lòng mở trí.
Kiên trì theo Chúa, kiên trì sửa chữa lại chính mình, từng cố gắng, năm này qua năm khác, mùa chay, mùa vọng, liên tiếp nối tiếp nhau. Ăn chay, hãm mình, chiến đấu với tội lỗi, đương đầu với cám dỗ. Nỗ lực không ngừng như người chiến binh, có bị thương, có thể gục ngã, đứng dậy, được chữa lành sau nhiều năm, nhiều lần, mới hiểu được lòng Chúa yêu thương và giữ gìn, cùng ban thêm sức mạnh. Nhận ra nơi chính mình được Chúa thương và từ đó trở nên chứng nhân của lòng thương xót, như Thánh Phêrô “Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22, 32)
Lạy Chúa! Xin tẩy sạch chúng con khỏi tội lỗi, vì trong tội chúng con chống lại tình yêu của Chúa và xa cách Người. Xin cứu chữa chúng con!
Chúa lên Giê-rú-sa-lem, Trung tâm Thành Thánh, dõi xem đền thờ. Nhiều người buôn bán rình MC3-B136
Chúa lên Giê-rú-sa-lem, Trung tâm Thành Thánh, dõi xem đền thờ. Nhiều người buôn bán rình chờ, Đổi tiền đổi bạc, hững hờ dối gian. Bò lừa súc vật tràn lan, Kẻ qua người lại, lạm càn chốn đây. Chắp thừng đánh đuổi bọn này, Chúa truyền ra khỏi, buồn thay thế trần. Nhiệt tình thiêu đốt tấm thân, Nơi đền Nhà Chúa, canh tân tỏ bày. Các ông phá hủy đền này, Ta xây dựng lại, ba ngày sẽ xong. Những người Do-thái động lòng, Giê-su mạc khải, trong vòng thời gian. Đền thờ thân thể biến tan, Ba ngày sống lại, ngập tràn vinh quang.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Hằng năm, Chúa vẫn lên đền thờ để kính viếng, cầu nguyện và giảng dậy. Hôm nay, lần sau cùng Chúa lên đền thờ trước khi chịu khổ nạn. Lời tiên báo của Chúa: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Chúa Giêsu nhìn nhận đền thờ như là nhà Cha của Ngài. Đền thờ là nơi mọi người tụ họp để thờ phượng Thiên Chúa. Đền thờ là nơi tế lễ, cầu nguyện, hội họp và nghe giải thích Kinh Thánh.
Nhiều người đã đến đền thờ để dâng cúng của lễ với lòng thành tạ ơn và dâng của lễ đền tội. Lạm dụng lòng thành của các giáo hữu, các chức sắc trong đạo đã cho phép buôn bán súc vật và đổi chác tiền bạc trong phần tiền đình của đền thờ. Dần dần vì lòng tham lam, đã biến sân đền thờ thành nơi buôn bán xô bồ. Chúa Giêsu có thái độ rất rõ ràng. Ngài đã lên tiếng đả kích công việc trần tục này và đã thách thức giáo quyền về cách sống đạo.
Suy nghĩ về hành động của Chúa Giêsu về việc thanh tẩy đền thờ, chúng ta được nhắc nhở rằng đền thờ là nhà Thiên Chúa ngự giữa loài người. Nhà thờ cần được gìn giữ sạch sẽ, gọn gàng và nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, tôn kính các thánh và là nơi tụ họp cộng đoàn để cử hành phụng vụ.
Đến nhà thờ là đến với Chúa cùng tha nhân. Chúng ta sẽ tìm thấy nguồn ủi an và niềm vui hoan lạc bên nhau khi chúng ta cùng hát kinh ca tụng Chúa. Chính Chúa Giêsu là Chủ và là trung tâm điểm của mọi sinh hoạt phụng vụ. Chúa đã hiến tế thân mình cho Chúa Cha trên thánh giá. Chúa còn hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để an ủi và chờ đón chúng ta đến với Chúa.
Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Mỗi khi tụ họp nơi nhà thờ là chúng ta được chia xẻ nguồn ân phúc mà chính Chúa tặng ban. Chúa nhủ rằng nơi nào có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Chúa, Chúa sẽ ở giữa họ. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thanh tẩy thân xác và linh hồn của chúng con. Để chúng con xứng đáng lãnh nhận lòng yêu thương vô ngần trong trái tim Chúa và chia xẻ tình yêu thương tới mọi người anh em chung quanh.
Vào những năm cuối của thập niên 1980, một bộ phim khá nổi tiếng thời bấy giờ do Liên Xô MC3-B137
Vào những năm cuối của thập niên 1980, một bộ phim khá nổi tiếng thời bấy giờ do Liên Xô sản xuất đã được trình chiếu rộng rãi ở trong miền nam. Bộ phim có tựa đề ‘Sám hối’. Có lẽ, cảnh ấn tượng và ý nghĩa nhất của bộ phim chính là phần kết của tác phẩm. Tác giả cho diễn xuất cảnh một thanh niên tìm đến một đền thờ để cầu nguyện, sau khi đã cảnh tỉnh và thể hiện tâm thức sám hối,. Anh ta đứng trước ngã ba đường và hỏi một cụ già : “Thưa cụ, đây có phải là con đường dẫn đến đền thờ hay không?”. Cụ già nheo mắt với đầy vẻ tinh anh và đĩnh đạc trả lời : “Này anh bạn trẻ, con đường này nếu không dẫn đến Đền thờ thì nó được làm ra để làm cái gì”.
Cuộc sống của mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng là một con đường, và con đường đó phải hướng về đền thờ đích thực là chính Đức Giêsu. Ngài là ‘Đền thờ mới’ của Tân ước, là trung tâm của mọi sinh hoạt phượng tự và cũng là đối tượng của niềm tin mà chúng ta phải quy chiếu vào. Đây là sứ điệp nồng cốt mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn bày.
Đức Giêsu thanh tẩy Đền thờ
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa tiến vào đền thờ ở Giêrusalem, và dùng roi xua đuổi phường bán buôn ra khỏi nơi đó. Sự kiện này được thánh ký Gioan thuật lại với nhiều ý nghiã thần học rất sâu xa. Trong phần kết của Tin mừng thứ tư, Thánh ký đã viết: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên Chúa và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài (Ga 20,21). ‘Tin’ là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ Tin Mừng Gioan và đã được thánh ký nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. Trình thuật hôm nay cũng lột tả đích nhắm này. Biến cố Chúa lên Giêrusalem trong dịp lễ vượt qua để thanh tẩy đền thờ nhằm tiên báo về cuộc vượt qua mới mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện bằng hành vi hiến tế của Ngài trên Thập giá. Vì vậy, không phải vô tình mà Thánh Gioan thuật lại câu nói của Chúa Giêsu : “Cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Đền thờ Giêrusalem chỉ là hình bóng, còn Đền thờ mới và cũng là Đền thờ đích thật, chính là thân thể mầu nhiệm nơi Chúa Giêsu. Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ, để ai tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Đền thờ Giêrusalem cũ rất kiên cố và được xây dựng ròng rã trong suốt 46 năm, đã bị sụp đổ tan tành vào năm 70 sau công nguyên. Song, Đền thờ tân ước là chính Đức Giêsu sẽ mãi mãi không thể bị phá hủy, mặc dầu Đức Giêsu đã bị phân thây trên Thập giá như một tên trộm cướp. Ánh sáng Phục sinh là chìa khóa giải đáp cho mọi vấn nạn nhân sinh, và vinh quang của ‘Đấng Sống lại’ sẽ luôn phủ ngập ngôi Đền thờ mới này.
Vì thế, trong trình thuật hôm nay, thánh Gioan cắt nghĩa : “Vậy, khi Người từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại những điều Người đã nói. Họ tin vào Kinh thánh và tin vào lời của Đức Giêsu (Ga 20,22). Đồng thời, trong dịp lễ vượt qua năm ấy, nhiều người đã tin vào danh Đức Giêsu (c. 23). Đức tin là điểm nhấn mà thánh Gioan muốn nhắm đến.
Thập giá, con đường dẫn đến Đền thờ mới
Trong cựu ước, dân Do Thái dùng lễ vật chiên bò hay bồ câu để hiến dâng cho Thiên Chúa, biểu tỏ hành vi thờ phượng. Vì thế mới có chuyện buôn bán trong đền thờ như được thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Trong tân ước, Đền thờ mới chính là Đức Giêsu. Ngài vừa là tế nhân vừa là tế vật. Ngài dâng lên Chúa Cha của lễ là chính thân thể được sát tế của Ngài, đồng thời Ngài cũng là vị Thượng tế đời đời một cách đúng nghĩa nhất. Chúng ta nhớ lại điều tương tự khi Chúa nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp : “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem.. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Chân lý (Ga 4, 21- 24). Chúa Giêsu muốn vén mở cho đám đông về chân dung cứu thế của Ngài, và dung mạo Messia nơi Ngài sẽ được hiển thị cách tròn đầy ngang qua Thập giá. Vì thế, Giáo hội chọn bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay để trình bày về linh đạo của thánh Phaolô, đồng thời đó cũng phải là sự chọn lựa duy nhất mà mỗi người chúng ta cần thể hiện. Thánh tông đồ viết : “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cor 1, 22 – 23). Sau đó thánh Phaolô giải thích cho giáo đoàn biết rằng, đây là một nghịch lý vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã thể hiện ngang qua cái chết của Đức Giêsu. Quả thật, đây là một nghịch lý đối với não trạng con người, bởi vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn sự khôn ngoan của loài người. Cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. Nghịch lý còn được các thánh ký nói tới rất nhiều lần. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp kém trong kiếp người hèn hạ, một Thiên Chúa vô cùng thánh thiện lại bị kết án và chết cách nhục nhã như một tên tội phạm. Nghịch lý này cũng được lập lại một lần nữa trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa vén mở về sự phục sinh vinh thắng của Ngài. “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây lại”.
Thập giá, lề luật mới của tình yêu
Trong Tin mừng Gioan, thánh ký thuật lại cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô. Ngài nói : “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thập giá là cách thức thể hiện tình yêu của Thiên Chúa một cách tròn đầy nhất. Tình yêu ấy được hiện lộ cách rõ nét khi Con Người được giương cao giống như con rắn đồng trong sa mạc Sinai ngày xưa (c 14). Đức Giêsu đã thiết định một lề luật mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thập giá, và lề luật đó chính là luật của tình yêu. Giao ước mới được ký kết bằng máu Thập giá đã thay cho giao ước cũ. Vì vậy, Chúa Giêsu nói đi nói lại về lề luật mới mà Ngài thiết định, đó là luật của tình yêu, là luật tối thượng và duy nhất mà Chúa đã để lại cho các môn sinh như một di chúc thiêng liêng. “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu (Ga 14,34). Vì thế Giáo hội đã chọn bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay để nhắc đến thập giới, là lề luật cũ của dân Do Thái khi xưa. Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để phá hủy nhưng để hoàn thiện bộ luật cũ bằng chính hy lễ và cái chết của Ngài trên Thập giá. Thập giới cũ gồm 10 điều răn, tóm lại trong 2 chiều kích, ‘Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình’. Cũng vậy, lề luật mới được viết nơi Thập giá của Chúa Giêsu cũng gồm 2 thanh gỗ đan nối với nhau, thanh dọc (vertical) và thanh ngang (horizontal). Thanh dọc vút lên trời cao ám thị về tình yêu đối với Thiên Chúa và thanh ngang vươn hướng đến tha nhân ám thị về tình yêu đối với đồng loại.
Kết luận
Chúng ta trở về với câu nói của bà cụ trong bộ phim Sám hối vừa nói ở trên: “Nếu con đường này không dẫn đến đền thờ thì nó được làm ra để làm gì?”. Cũng vậy, cuộc đời chúng ta nếu không hướng về Đền thờ đích thực là Thập giá của Đức Giêsu thì chúng ta sống để làm cái gì?. ‘Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta’ (Đức Cha Lambert de la Motte). Đó không phải là đối tượng để chúng ta chỉ cung chiêm hoặc suy ngắm, nhưng chúng ta cần phải sống và thực hành linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin mỗi ngày.
Người Do Thái rất coi trọng đền thờ Giêrusalem, đó là nơi thánh thiêng, là linh địa và là niềm MC3-B138
Người Do Thái rất coi trọng đền thờ Giêrusalem, đó là nơi thánh thiêng, là linh địa và là niềm kiêu hãnh, niềm tự hào của họ. Ngôi đền thờ đầu tiên được xây dựng dười thời vua Salomon vào khoảng năm 976 BC nhưng sau đó bị dân Ba tư tàn phá. Sau cuộc lưu đày Babylon, người Do Thái lại bắt tay vào tái tạo ngôi đền thờ của họ vào khoảng năm 516 BC. Cho đến năm 169 BC, người Xyri do vua Antiocô dẫn đầu đánh chiếm Giêrusalem và lại một lần nữa ngôi đền rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Vùng đất Palestin rơi vào tay quân Rôma vào khoảng năm 63 BC và dân Do Thái tiếp tục xây cất lại ngôi đền Thánh của mình.
Theo luật Do Thái, những ai đến tuổi trưởng thành đều phải đi hành hương ở đền thờ Giêrusalem ít nhất một lần trong năm. Như vậy vào các dịp lễ lớn, có rất nhiều người kéo nhau về đền thờ Giêrusalem. Chúng ta có thể tưởng tượng khung cảnh náo nhiệt như một lễ hội. Nơi nào có nhiều người thì các dịch vụ cũng đua nhau xuất hiện vì lợi ích kinh tế, vì lo toan của cuộc sống: bán bò, chiên, chim câu cho khách hành hương mua làm lễ tế, các dịch vụ đổi tiền… Đó cũng là điều bình thường nếu như sự việc không diễn ra ngay trong sân của đền thờ. Một nơi vốn trang nghiêm lại trở thành nơi buôn bán, một nơi để cầu nguyện lại trở náo nhiệt bởi những lời mời mọc của người bán buôn. Đền thờ trở thành một khu chợ phiên.
Người ta đến đền thờ để tìm giây phút thinh lặng cầu nguyện với Chúa, để tâm hồn mình được thư thái bình an. Thế nhưng đến đền thờ, người ta có cảm tưởng đang đi chợ với các lời mời mọc, chào đón. Đền thờ không còn là nhà của Chúa nữa. Lúc bấy giờ, các vị tư tế đang ở đâu, hay là họ cũng đồng thuận để biến sân đền thờ trở thành chợ phiên vì ham mê lợi lọc vật chất. những người buôn bán có lỗi gì ở đây. Họ chẳng phải đang giúp khách hành hương sao? Nhưng Đền thờ là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, con người lại loại Thiên chúa ra một bên để lo cho nhu cầu vật chất của mình. Chính trong bối cảnh đó mà Chúa giêsu đã can thiệp. Cũng dễ hiểu khi Chúa Giêsu giận giữ vì nhà Cha Ngài không còn là nơi tôn nghiêm. Lần nay, Chúa Giêsu vào đền thờ với tư cách là Messia – Con Thiên Chúa, là người quản trị đền thờ. Ngài phải ra tay tái lập lại sự tôn nghiêm. Hành động của Chúa Giêsu còn ngụ ý rằng chính ngài sẽ thay thế các lễ tế bằng con vật, và Ngài là lễ vật tinh tuyền nhất để dâng lên Chúa Cha.
Mỗi người chúng ta cũng là đền thờ của Chúa Thánh Thần, là nơi Chúa cư ngụ. Khi Chúa đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ cũng chính là lúc Chúa xua đuổi những cái xấu xa ra khỏi tâm hồn chúng ta. Như vậy mỗi người có trách nhiệm chăm sóc cái đền thờ ấy chính là thân xác của mình, để khi người khác nhìn vào không phải là một cửa ngõ ham mê vật chất, đam mê tội lội mà là hình ảnh Đức Kitô đang hiện diện một cách sống động. Mùa chay giúp chúng ta tái khẳng định lại sự chọn lựa của chúng ta: một mớ vật chất hỗn độn hay là chọn Chúa. Xin chúa thanh lọc tâm hồn để mỗi người chúng ta xứng đáng hơn là đền thờ của Chúa.
Những năm gần đây, báo chí thường có bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa, trong MC3-B139
Những năm gần đây, báo chí thường có bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa, trong những dịp lễ hội đầu năm: Nào là cảnh chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần. Nào là cảnh buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương. Nào là tình trạng hỗn loạn xin lộc Đền bà Chúa Kho. Mục đích đi chùa là để cầu an, cầu tài, cầu lộc. Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy, mà lại thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi, hay bị những người bán hàng chặt chém. An bình đâu không thấy, chỉ thấy bất an vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời, hay mua của người này mà không mua của người kia. Thế mới thấy rằng: Chính cái não trạng vụ lợi, muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình, đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn hoá và tín ngưỡng.
Cũng với não trạng ấy, người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng, thành một nơi bát nháo, để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi. Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền thờ, “nhà của Cha Ngài” bị tục hoá, bị ô uế. Nên Ngài đã hành động một cách quyết liệt, để trả lại ý nghĩa đích thực của Đền thờ. Đồng thời Ngài muốn mạc khải cho chúng ta một Đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta thấy Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết giữa Thiên Chúa và con người. Thực vậy, Đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời Đền thờ cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để thờ phượng, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ. Thế nhưng, một số người đã biến Đền thờ thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu đã xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền thờ, để trả lại chỗ đứng của Đền thờ, là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa và con người.
Qua Bí tích Rửa tội, ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy” (1 Cr 3,16). Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho ta. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn ta, hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm hay đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem chăng nữa, thì cũng bị tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn ta mới là đền thờ bền vững thiên thu. Thế nhưng hằng ngày ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa ngự chưa? Hay là ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế, bởi những toan tính ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác? Mùa Chay là thời gian thuận tiện, để ta làm mới lại tâm hồn mình. Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương thanh tẩy tâm hồn ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật nhào những gì làm cho tâm hồn ta ra ô uế, để trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự trị.
Ước gì ta biết điểm tô đền thờ tâm hồn mình bằng những việc đạo đức và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, để tâm hồn ta xứng đáng là nơi Chúa ngự.
Việc Chúa thánh tẩy đền thờ Giêrusalem đã được 4 tác giả Tin mừng ghi lại: Chúa Giêsu vào đền MC3-B140
Việc Chúa thánh tẩy đền thờ Giêrusalem đã được 4 tác giả Tin mừng ghi lại: Chúa Giêsu vào đền thờ và dùng quyền năng đuổi nhưungx kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ: “Đừng làm cho nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.Những hoạt động của Chúa Giêsu trong thành thánh nói lên sứ mạngThiên Sai của Người đối với nhân loại.
Hành động mạnh mẽ, quyết liệt của Chúa Giêsu đã làm cho các thủ lĩnh Do Tháitức giận, con buôn ngỡ ngàng và họ hạch hỏi, đòi xin một dấu lạ minh chứng Chúa có quyền hành động như thế nơi đền thờ. Lợi dụng cơ hội đó, Chúa lập lại dấu chỉ mà Ngài đã nói trong Phúc âm Nhất Lãm. Đó là dấu chỉ tiên tri Gioana. Ngài nói: “Cứ phá đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ xây lại”. Người Do Thái hiểu nghĩa vật chất. Đền thờ Giêrusalem vua Hêrôđê trùng tu năm 19-20 trước công nguyên và hoàn tất năm 62-64. Còn Chúa Giêsu hiểu nghĩa tinh thần: Thân xác Ngài chính là đền thờ Thiên Chúa, những người Do Thái sẽ phá hủy và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.
Thánh Gioan đã nhìn thấy biến cố Chúa thanh tẩy đền thờ có tương quan đến mầu nhiệm vượt qua của Chúa: Sự chết và sự phục sinh của Ngài. Biến cố này làm cho thủ lãnh Irael bất mãn, họ tìm cách giết Ngài. “Nhưng lúc người ta giết Ngài, Chúa thực sự tỏ ra thân xác Ngài là đền thờ đích thực, nhà của Thiên Chúa, cửa Thiên Đàng” (Ga 1, 51). Ngài chính là Đấng quyền năng trên sự sống và sự chết, trên vũ trụ và con người.
Lễ vượt qua của Do Thái sẽ được thay thế bằng Lễ vượt qua mới: máu chiên được thay thế bằng Chúa Kitô. Đền thờ vật chất Giêrusalem được thay thế bằng đền thờ mới là Giáo Hội và thân thể tín hữu (Ep 2,21. 4,12; 1Cr 3,16). Hy tế thập giá của Chúa Giêsu thay thế cho lễ tế chiên bò trong lễ vượt qua cuối cùng.
Theo Tin mừng Gioan, lần đầu tiên chúng ta chứng kiến cơn thịnh nộ của Chúa Giêsu. Bình thường Ngài rất hiền lành, độ lượng. Cơn giận của Chúa thể hiện qua hành động “Xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những kẻ đổi bạc, Ngài đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ…”. Chúa bực tức nóng giận khi thấy đền thờ bị biến thành nơi buôn bán, kinh doanh, hang trộm cướp… Điều này cho thấy Chúa Giêsu rất coi trọng đền thờ, nơi mà Ngài gọi bằng danh từ rất tôn kính mến yêu, đó là “Nhà Cha Tôi” “Nhà cầu nguyện”. Đền thờ là nhà Cha của Ngài, nên Đức Giêsu có sứ mạng bảo vệ, phục hồi bầu khí thiêng liêng cho đền thờ, vì là nơi con người đến gặp gỡ Thiên Chúa và tôn thờ Thiên Chúa. Chúa hành động như thế là vì lòng nhiệt thành với Nhà Chúa: “Nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây phải thiệt thân”.
Ngày nay trong Giáo hội Việt Nam, nhà thờ mọc lên như nấm, nhiều nhà thờ mới được xây dựng với muôn hình vạn trạng khắp nơi. Người ta thi đua xây nhà thờ thật lộng lẫy, hoành tráng. Nhưng không để tâm xây dựng nhà thờ tâm hồn nơi mà Chúa Giêsu có thể ngự đến một cách sống động, đó là tâm hồn mỗi Kitô hữu chúng ta. Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cr 3,16).
Xây dựng nhà thờ vật chất tương đối dễ, có tiền là xây nhà thờ được. Nhưng xây đền thờ tâm hồn quả là không dễ, có tiền cũng không xây được. Xây dựng đền thờ Thiên Chúa trong tâm hồn người Kitô hữu bằng những hành động sống đạo thiết thực: vun đắp tình yêu thương trong cộng đồng gia đình và xã hội, thực thi bác ái trong đời thường, sống lương thiện, công bằng… Nói cách khác, mến Chúa và yêu thương anh em là cách thế ta đang xây dựng và làm đẹp đền thờ Thiên Chúa nơi tâm hồn mỗi người tín hữu.
Nhà thờ là nơi tôn nghiêm quy tụ mọi tín hữu đến gặp gỡ Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Nếu hôm nay, Chúa Giêsu đến các nhà thờ trong giờ cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh Chúa hay đọc kinh… Có lẽ Chúa cũng không hài lòng vì người tín hữu chưa yêu mến, tôn kính “Nhà Chúa”, bầu khí chợ búa vẫn vương vẫn trong nhà thờ: đi tham dự lễ cho vui, hẹn hò gặp nhau trong giờ lễ, đi đến nhà thờ để trình diện áo quần, kiểu tóc, khoe khoang công đức, lo ra chia trí, nói chuyện trong nhà thờ… Có lẽ Chúa cũng mời chúng ta ra khỏi nhà thờ, Ngài không muốn “nhà thờ”, “Nhà Cha Ngài” bị xúc phạm.
Hơn nữa, có những tín hữu đi dự lễ không bao giờ vào nhà thờ: ở ngoài, ngồi trên xe dự lễ, ngồi gốc cây nói chuyện… bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều ghế trống, đi dự lễ cho có mà chẳng có một chút lòng yêu mến đối với Thiên Chúa. Có lẽ Chúa Giêsu lại phải bực dọc mời họ vào trong nhà thờ để tham dự thánh lễ sốt sắng hơn, và khuyến cáo họ sống đạo chân thành, loại bỏ những lỗi sống đạo hình thức thiếu tâm tình yêu mến.
Thánh lễ là lễ hy sinh của Chúa Giêsu trên thập giá được hiện tại hóa trên bàn thờ để tiếp tục ban ơn cứu độ cho nhân loại, thì mỗi thánh lễ mang sức sống mới của Đức Giêsu Kitô phục sinh. Người chính là đền thờ mới, nơi nhân loại tôn thờ Thiên Chúa cách đích thực.
Có những người lầm đường vì vô ý trượt ngã, có những kẻ cố tình quên đi lời răn dạy của tiền MC3-B141
Có những người lầm đường vì vô ý trượt ngã, có những kẻ cố tình quên đi lời răn dạy của tiền nhân, chỉ vì thích mạo hiểm, muốn làm giầu tiền của vật chất, khi té ngã, khó có thế đứng dậy được. Có một số bậc làm cha mẹ, thấy con sai lầm, mà không dám sửa chữa, sợ con phật ý, dẫn đến nguy hiểm chết người. Chỉ vì cả nể, vì thành tích, để rồi có những sinh viên tốt nghiệp, ra trường, kiến thức rỗng, gây nhiều thiệt hại cho ra đình, xã hội. Khuynh hướng tự nhiên trong ứng xử là tốt khoe, xấu che, không ai dại dột tới độ “cầm pháo cho người ta đốt”, chẳng ai thích thú gì khi được người ta đặt cho danh hiệu “anh hùng rơm”. Tiếc xót mà xã hội hay nói tới đó là quyền lợi bị xâm phạm, cái mất lớn và đáng sợ hơn là mất uy tín, lương tâm bất ổn, Kitô giáo chúng ta xem điều đáng sợ nhất là tâm hồn dơ bẩn, cuộc sống không niềm tin.
Đền thờ, nhà thờ, là chốn linh thiêng, vậy mà người ta vô tâm đến buôn bán làm ô uế, làm ảnh hưởng xấu đến sự linh thánh của đền thờ. Đức Giêsu hôm xưa hết sức giận dữ, lấy dây thừng bện làm roi xua đuổi, Ngài đòi mọi người hãy trả lại đúng ý nghĩa ban đầu, đền thờ phải là nơi dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Hành động gay gắt của Đức Giêsu cho thấy giữa “biết và sống” là một khoảng cách, giữa lợi lộc vật chất và đời sống tâm linh luôn là một cám dỗ to lớn đáng ngại. Xét theo lý lẽ ở đời, cha mẹ là người có quyền la mắng con cháu, cha mẹ phải có trách nhiệm nhắc nhớ con cháu về lời nói việc làm của chúng. Xét theo tình cảm tự nhiên: con khôn cũng là con mẹ, mẹ dại cũng là mẹ con. Dù ở mức độ lý hay tình, hẳn Đức Giêsu vẫn mơ ước con người hãy đặt tình yêu thương vào trong mọi tương quan với Chúa và tha nhân.
Người xưa có câu: sói vào nhà, không mất gà cũng mất vịt. Rõ ràng, một khi sự xấu xâm nhập vào gia đình, tâm hồn con người bị dơ bẩn, cho dù giầu sang phú quý, dù có xức dầu thơm hảo hạng, người ta sẽ không thể tránh khỏi bất hạnh, tâm trí, môi miệng làm sao lại không thốt lên lời hôi tanh ? Trong đời sống thiêng liêng, sự xấu hay tội lỗi, nếu cứ lì lợm ở mãi trong tâm hồn, không những đè bẹp ta chết, mất linh hồn, mà sẽ còn làm ảnh hưởng không ít đến con cháu, người thân. Có thể lúc ban đầu, những vị trông coi, quản lý đền thờ, họ nghĩ việc đổi tiền, bán của lễ cho khách hành hương là việc làm bác ái, không phải là không có lý. Rõ ràng về lâu về dài, “vật chất, lợi nhuận”, đã xâm nhập và làm xáo trộn khung cảnh linh thiêng của đền thờ, sự xấu lớn dần và biến nơi thờ phượng thành nơi buôn bán.
Trong mưu toan tính toán rất tự nhiên, bất cứ ở đâu dễ buôn bán làm giầu được, người ta gọi là cơ hội trời cho, do đó không thể chậm trễ, dù nơi đó là nhà thờ, hay đền thờ. Khi quyền lợi bị phá đổ, những người Do thái tỏ ra rất bực tức họ hỏi: “ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy ?”. Đức Giêsu đã trả lời thật chí lý: “các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội rong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Đúng, không có ai đủ can đảm đập phá đền thờ để xem Đức Giêsu sẽ thực hiện phép lạ thế nào, vì thế mà họ đã hiểu rất nên tôn trọng về đền thờ vật chất do cha ông họ xây dựng. Từ việc trả lại vẻ sạch đẹp linh thiêng cho đền thờ vật chất, mỗi người mới đủ khôn ngoan để bảo quản đền thờ, đủ uy tín chăm lo cho sự thanh sạch tâm hồn, vì đền thờ, vì tâm hồn đều là nơi Thiên Chúa ngự.
Lấy lại vẻ đẹp cho đền thờ Giê-ru-sa-lem, là trả lại bầu khí trang nghiêm thánh thiện cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cũng còn nói lên ý nghĩa con cháu phải tôn trọng công sức của tiền nhân họ mất 46 năm vất vả xây dựng. Thanh sạch tâm hồn, là lấy lại được vẻ đẹp ban đầu Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Một khi con người đã làm đền thờ ô uế, con người đã làm cho tâm hồn dơ bẩn, rất cần phải có uy quyền và sự thẳng thắn: thương cho roi cho vọt. Đức Giêsu đã mạnh mẽ thanh tẩy đền thờ, Ngài còn có ý nói tới đền thờ tâm hồn chúng ta ; hãy kêu cầu, đặt tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn mong muốn chúng ta hãy xem lại bàn thờ gia đình, nhà thờ giáo xứ, đền thờ tâm hồn, dù hoàn cảnh, thời thế, có khác xưa, nhưng Thiên Chúa vẫn ưa thích hiện diện và ngự thật nơi tâm hồn thanh sạch mà thôi.
Người ta có kể câu truyện “dạy con” như sau: có một ông chồng phấn khởi mang về nhà một cuốn sách dầy cộm, ông ta nói với người vợ, “bà nó ơi”, tôi vừa kiếm được cuốn sách giáo dục con đây rồi, phen này thằng bé nhất định phải nên người hữu ích. Chị vợ, thôi đi ông ơi, cứ dạy con theo lối cũ đó là kinh nghiệm của tiền nhân: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. “Gương bày lôi kéo” đã là cách giáo dục con cháu tuyệt vời rồi, từ xa xưa, Đức Giêsu đã có ý nhắc chúng ta phải thường xuyên lưu ý đến sự thanh sạch, đừng cậy dựa vào tài liệu sách vở, hãy cậy dựa vào tình yêu và ơn Chúa để tâm hồn luôn sạch đẹp. Suốt ba năm đi rao giảng, giáo huấn, chữa bệnh, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ, và rồi Chúa Giêsu chỉ tập trung vào giới luật mến Chúa yêu người. Hiểu sai, hiểu nhầm, đều có nguy cơ sai đường lạc lối, thanh tẩy đền thờ vật chất là cần thiết, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta hãy ý thức việc sám hối, kêu cầu sự hiện diện của tình yêu Chúa, hầu tâm trí môi miệng và cách cư xử của chúng ta mãi ngập tràn tình yêu thương. Amen.
“Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ "
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong Bài Phức âm Chúa Nhật II Mùa Chay Năm B tuần trước chúng ta được chiêm ngắm gương MC3-B142
Trong Bài Phức âm Chúa Nhật II Mùa Chay Năm B tuần trước chúng ta được chiêm ngắm gương mặt uy nghi sáng chói của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi Tabor. Trong Bài Phức âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B tuân này chúng ta được chứng kiến gương mặt giận dữ của Chúa Giêsu Kitô khi “Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"
Chúng ta không thể không suy nghĩ về câu chuyện hi hữu này của Phúc Âm Gioan; nhưng chúng ta nên tập trung và đi sâu vào nguyên nhân của sự việc, động lực và mục đích của lời nói và việc làm Chúa Giêsu, chứ không nên chú tăm vào gương mặt bừng bừng giận dữ của Chúa.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,-13-25: Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,-13-25:
3.1 Tầm quan trọng của Đền thờ Giêrusalem dối với Do-thái giáo: Đền thờ Giêrusalem là trung tâm của Do-thái giáo, vì gian cực thánh của Đền thờ ấy là nơi Thiên Chúa ngự trị và hiện diện giữa cộng đoàn Israel là dân riêng của Ngài. Trước khi vua Salomon xây đền thờ Giêrusalem cho Thiên Chúa ngự thì Thiên Chúa của Israel hiện diện trong Hòm Bia và trong một thời gian dài Hòm Bia ấy được đặt trong Lểu, vì dân Israel lúc đó sống và di chuyển trong hoang địa.
3.2 Đền thờ Giêrusalem bị người Do-thái xúc phạm: Địa điểm quan trọng và bất khả xâm pham của Đền thờ Giêrusalem là gian cực thánh. Ngoài gian cực thánh ấy Đền thờ có nhiều gian và hành lang khác nhau. Những nơi này không quan trọng bă2ng gia cực thánh những cũng là những nơi thánh thiêng, bất khả xâm phạm. Thế nhưng những người lãnh đạo Đên thờ Giêrusalem, vì quyền lợi vật chất, đã cho phép người ta đặt các bàn đổi tiền và buôn bán chiên bò cừu chim câu trong hành lang của Đền thờ. Chúng ta biết những người Do-thái từ phương xa về Giêrusalem dâng lễ phải có lễ vật dâng tiến. Mà muốn mua lễ vật thì phải đổi tiền bản địa của mình ra tiền của Đền thờ vì chỉ có tiền của Đền thờ mới mua dược lễ vật. Những người làm nghề đổi tiên và bán lễ vật trong hành lang Đền thờ độc quyền làm ăn ở đây nên ra tay bóc lột những khách hành hương. Những người lãnh đạo Đền thờ cũng vì thê mà có phần ăn chia của bất công bóc lột.
3.3 Chúa Giêsu nổi giận: Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phản ứng quyết liệt bằng việc làm và lời nói. Tin Mừng Gioan ghi lại: “Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"
3.4 Người Do-thái phản bác và không tin: Nhiều người Do-thái chất vấn Chúa Giêsu dùng quyền gì mà làm những việc ấy. Có một số người tin Chúa Giêsu, nhưng một số đong không tin.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,-13-25:
4.1 Các Kitô hữu có bổn phận bảo vệ Đền thờ của Thiên Chúa: Đó là điều hiễn nhiên, Nhưng ngày nay không chỉ những thánh đường hay nhà thờ nhà nguyện mới là đền thờ của Thiên Chúa. Mỗi tâm hồn, mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu đếu là đền thờ của Thiên Chúa. Vì thế bảo vệ Đền thờ của Thiên Chúa ngày nay bao hàm cả ý nghĩa bảo vệ con người, bảo vễ sự sống. bảo vệ quyền nhân quyền.
4.2 Muốn bảo vệ Đền thở của Thiên Chúa các Kitô hữu phải có lòng nhiệt thành và lòng dũng cảm chống lại những thế lực thù nghịch tìm mọi cách xâm phạm các đền thờ của Thiên Chúa.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 2,-13-25:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho chúng con để Người dậy chúng con cách bảo vệ các đền thờ của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay. Xin Cha lắng nghe lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi người lớn bé già trẻ đều có lòng khát khao gặp được Thiên Chúa trong các đền thờ của Người trên thế giới hôm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy can đảm bảo vệ các Đền thờ của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Người bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu trân trọng tính thánh thiêng của các đền thờ của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những người đang thành tâm hoán cải trong Mùa Chay thánh này để họ có được lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa là nhà thờ và các tâm hồn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con Con rất yêu dầu của Cha để Người dậy dỗ và làm gương cho chúng con trong cách sống của người con ngoan con thảo của Cha.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con lòng nhiệt thành vì Nhà Cha mà bảo vệ các đền thờ của Thiên Chúa bằng lời nói và việc làm cụ thể.
Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến để đưa mọi người về với Cha. Amen.
Sàigòn ngày 05 tháng 03 năm 2021 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Tin mừng thánh Gioan hôm nay mời gọi chúng ta cùng hành hương tiến lên đền thờ dự lễ, như MC3-B143
Tin mừng thánh Gioan hôm nay mời gọi chúng ta cùng hành hương tiến lên đền thờ dự lễ, như Đức Giê-su về Giêrusalem tham dự ngày lễ Vượt qua của Đạo Dothái.
Trong đoàn người hành hương Giê-ru-sa-lem, không ai nhận ra Đền thờ Giêrusalem đã bị tục hoá, không ai thấy cần phải thanh tẩy Đền thờ, không ai coi Đền thờ là nhà Cha mình, không ai còn nhiệt tâm với Nhà Chúa, ngoại trừ Đức Giê-su.
Vâng, tất cả đều mất ý thức về Đền thờ, chỉ còn mình Đức Giê-su. Đền thờ được xây dựng với mục đích thờ phượng và là nơi Thiên Chúa ngự trị. Thế mà con người ngang nhiên chuyển đổi mục đích, biến nơi thờ phượng thành chợ búa và tiền bạc thành đối tượng tìm kiếm của con người… Chuyển đổi mục đích của Đền thờ như thế, con người đã công khai xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi Đền thờ và rước tiền bạc vào Đền thờ chiếm chỗ Thiên Chúa.
Vì nhiệt tâm với Nhà Chúa, Đức Giê-su đã nổi nóng, một cơn nóng của người con thấy Cha mình bị xúc phạm trầm trọng, cơn nóng của tình yêu khi chứng kiến những cảnh phản bội trắng trợn của con người, cơn nóng giận của vị Thiên Chúa làm người khi tận mắt chứng kiến con người thản nhiên biến nơi thờ phượng thành chợ búa, kiếm tiền… “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”.
Hành động mạnh tay của Đức Giê-su làm cho người Do-thái phải chú ý. Họ vặn hỏi Người: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giê-su trả lời: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi! Nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”.
Phải mất 46 năm mới xây xong Đền thờ Giê-ru-salem. Thế mà Đức Giê-su tuyên bố “phá Đền thờ, rồi tự mình xây lại trong ba ngày”, nghĩa là làm sao? Đức Giê-su muốn nói rằng ngoài đền thờ vật chất là Giê-ru-sa-lem, còn có một Đền thờ thiêng liêng và sống động khác. Đó chính là Thân thể Người.
Giống như người Do-thái, hành động của Đức Giê-su trong Tin mừng cũng gây chú ý cho người Ki-tô hữu chúng ta ngày nay. Nhưng khác với người Do-thái, chúng ta không phẫn nộ và cũng không vặn hỏi Đức Giê-su, mà chúng ta tự hỏi mình và tự hỏi nhau rằng:
Trong cộng đoàn phụng vụ hôm nay, có bao nhiêu người ý thức được như Chúa Giêsu coi Đền thờ là nhà của Cha mình cần phải gìn giữ?
Có bao nhiêu người ngày hôm nay hiểu được lời Đức Giê-su đã nói trong Tin mừng, để luôn ý thức rằng ngoài đền thờ vật chất ra còn có một ngôi đền thờ thiêng liêng sống động. Đó chính là Hội Thánh, Thân Mình màu nhiệm Đức Ki-tô, mà Người là Đầu, còn chúng ta là chi thể?
Có bao nhiêu người ngày hôm nay còn nhiệt thành với Nhà Chúa, với việc Đạo, mà không thờ ơ trễ nải, để gìn giữ và xây dựng những ngôi Đền thờ dâng kính Chúa, nhất là những ngôi Đền thờ thiêng liêng bằng việc thực thi “Mười Điều Răn Chúa” trong cuộc đời?
Có bao nhiêu người ngày hôm nay thấy Đền thờ vật chất cũng như thiêng liêng đã bị tục hóa và băng hoại, cần phải nhanh chóng và mạnh tay thanh tẩy, để trả lại sự trang nghiêm cho Đền thờ, xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị?
Câu trả lời xin nhường lại cho mỗi người chúng ta khi để lương tâm mình đối diện với Chúa.
Tại một hội đường Do thái nọ, người ta không chuyền tay nhau chiếc giỏ quyên tiền như vẫn thường MC3-B144
Tại một hội đường Do thái nọ, người ta không chuyền tay nhau chiếc giỏ quyên tiền như vẫn thường thấy ở các nhà thờ Kitô giáo. Cách quyên tiền của họ là bán vé vào cửa trong những dịp lễ lớn; vì vào những ngày ấy, rất đông tín đồ đến hội đường, và đó cũng là những dịp cho người ta tỏ ra hào phóng.
Đúng vào một dịp lễ lớn, một cậu bé chạy đến hội đường để tìm cha cậu; nhưng người gác cửa không cho vào, vì cậu bé không có vé. Cậu bé phân bua với người gác cửa: “ Thưa bác, cháu có một chuyện rất quan trọng.” Nhưng người gác cửa từ chối: “ Những người không mua vé như chú mày thì luôn luôn phịa ra những lý do quan trọng để vào hội đường.” Cậu bé cố năn nỉ: “ Xin bác làm ơn cho cháu vào. Cháu có chuyện khẩn cấp lắm, bác ạ. Cháu chỉ vào một phút rồi ra ngay thôi.” Người gác cửa có vẻ động lòng. Ông nói với cậu bé: “ Được, nếu vậy thì vào đi. Nhưng nếu tao thấy chú mày cầu nguyện trong đó thì đứng có trách!”
Việc cầu nguyện trở thành một phương tiện để người ta trục lợi! Tôn giáo trở thành một tổ chức độc quyền. Lại cũng có trường hợp người ta biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành những nơi buôn thần bán thánh. Quyên góp tiền để trang trải các chi phí sinh hoạt là chuyện hợp lý, nhưng người ta thường biến thánh đường thành những địa điểm để quyên góp dưới nhiều hình thức nhân các dịp lễ lớn từ thức ăn cho đến những sinh hoạt vui chơi ca hát.
“Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ, có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.” ( Ga 2:13-15) Đây là lần duy nhất Đức Giêsu nổi giận: “ Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Lý do Đức Giêsu nổi giận và có hành động quyết liệt, vì người ta đã biến Đền Thờ là nơi tôn kính, gặp gỡ Thiên Chúa, là nơi cầu nguyện thành một thứ chợ búa. Ngài thanh tẩy Đền Thờ.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu là một sự chống lại việc thương mại hóa tôn giáo và việc trần tục hóa khung cảnh thiêng liêng của đền thờ. Nhưng qua đó, Đức Giêsu còn muốn phê phán hệ thống thờ phượng của người Do Thái. Đối với Ngài, các lễ nghi và hiến tế súc vật trong đền thờ không còn phù hợp nữa. Ngài muốn thay thế lối thờ phượng với hiến tế lễ vật bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Ngài cũng phản đối đường lối tôn giáo chật hẹp theo chủ nghĩa dân tộc cục bộ, độc quyền bằng đường lối mở rộng cho hết mọi dân tộc. Đền thờ không phải là nơi để bảo vệ ích kỷ hẹp hòi cho một dân tộc nào mà là một nơi thờ phượng và cầu nguyện cho mọi quốc gia, mọi dân tộc.
Từ việc thanh tẩy Đền Thờ về vật chất, Đức Giêsu hướng chúng ta đến việc thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mỗi người. Khi thấy Đức Giêsu có hành động quyết liệt về việc biến đền thờ thành sao huyệt của bọn cướp, thành nơi buôn bán, những người Do thái đã hỏi Ngài: “ Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giêsu đã trả lời: “ Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Ngôi Đền Thờ mà Ngài hứa sẽ xây dựng lại trong ba ngày, đó chính là cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đây cũng là lời ám chỉ đền thờ linh hồn nơi thân xác của chúng ta như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Côrintô: “ Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là một phần thân thể của Đức Kitô sao?” ( 1 Cr 6:15a) Ai phá hủy đền thờ của Thiên chúa nơi chính mình và nơi người khác thì hãy thức tỉnh với lời của thánh Phaolô: “ Ai phá hủy Đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” ( 1 cr 3:17)
Tôi là đền thờ, nhưng phải là đền thờ như thế nào để Thiên Chúa không hủy diệt?
Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B này có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên MC3-B145
Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B này có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”.
Xh 20: 1-17
Bài Đọc I trích từ sách Xuất Hành trình bày Thập Giới trong đó việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên.
1Cr 1: 22-25
Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, dành một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
BÀI ĐỌC I (Xh 20: 1-17)
Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói là căn bản của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào bối cảnh của cuộc Thần Hiển, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.
Trong Ngũ Thư, có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài tiểu dị. Hai bản văn nêu lên hai lý do khác nhau về việc tuân giữ ngày sa-bát. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn này đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
Tính chất cổ xưa của Thập Giới Có nhiều dấu chỉ cho thấy tính chất cổ xưa của Thập Giới. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
Thập Giới được Thiên Chúa ban trong khung cảnh cuộc Thần Hiển trên núi thánh Xi-nai. Ở viện bảo tàng Louvre, có một tấm bia đá trên đó ghi khắc Bộ Luật Ba-by-lon của vua Hammourabi, vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên. Ở đỉnh của tấm bia đá này như đỉnh của một ngọn núi, biểu thị thần Shamash và vua Hammourabi. Vua này nhận được tước hiệu: “Vua Công Chính mà thần Shamash đã ban luật cho vua”. Chúng ta cũng không thể không liên tưởng đến vua Hy-lạp là Minos. Vào cũng một thời kỳ này, vua leo lên ngọn núi thánh Crète để suy niệm và cầu nguyện suốt chín năm; sau đó vua ra sức làm cho sự công chính ngự trị trong vương quốc của mình. Thế giới của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên có những truyền thống chung và sử dụng những hình ảnh tôn giáo tương tự nhau.
Nội dung của Thập Giới Thập Giới trình bày một tổng đề về những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định tức lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định tức lệnh buộc: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12). Thập Giới được phân chia thành những giới luật để nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
Hình thức phủ định nhắc nhớ hình thức mà chúng ta gặp thấy trong một cuốn sách của Ai-cập có nhan đề “Những người đã qua đời”, ở đó người qua đời tự bào chữa mình trước tòa án của thần Orisis, thần của những người chết:
Tôi đã không ăn cắp… Tôi đã không giết người… Tôi đã không nói láo… Tôi đã không ngoại tình… Tôi đã không làm chứng gian… Tôi đã không khinh thường Thiên Chúa trong lòng…
Luân lý của người Ai-cập gần với luân lý Kinh Thánh hơn luân lý của người Ca-na-an và của những dân tộc khác miền Cận Đông hay của dân Hy-lạp. Thập Giới được phân chia thành những giới luật, chúng nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
2.1- Bổn phận đối với Thiên Chúa
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn này chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến “ngàn đời”. Lối nói song đối nghịch đảo nàydiễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chừng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối quan hệ của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Tuy nhiên, trong Thập Giới chúng ta không gặp thấy lệnh buộc: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Biểu thức này chịu ảnh hưởng của các ngôn sứ bút ký như ngôn sứ A-mốt và nhất là ngôn sứ Hô-sê.
Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh buộc này nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
2.2- Bổn phận đối với tha nhân
Với những bổn phận đối với tha nhân, Thập Giới trở về luân lý phổ quát, có giá trị thường hằng và khắp nơi. Điều cốt yếu ở nơi những bổn phận này là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, những ý định ẩn kín ở trong lòng con người được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong lòng con người. Khẳng định nà ychuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng lệnh buộc “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” cũng không được gặp thấy ở Thập Giới. Huấn lệnh này được gặp thấy ở sách Lê-vi (19: 18).
Nét độc đáo của Thập Giới Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt này sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có một vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 22-25)
Đoạn văn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô được cấu trúc rất chặc chẽ. Một cách nào đó, đoạn trích này tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của đoạn trích này rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
Xin được nhắc lại cách vắn tắt: các tín hữu Cô-rin-tô bất hòa với nhau về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ này, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng thánh nhân đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn ngoan, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân đề cập đến việc người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại này.
Thập giá đối với người Do thái Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a đầy quyền năng, Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ và đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Vì thế, thánh nhân bị họ bách hại ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác.
Thập giá đối với người Hy-lạp Người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan thì hình ảnh một con người bị đóng trên thập giá chẳng khôn ngoan một chút nào. Thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô lại rao giảng “Một Con Người”. Đoạn trích thư nàytự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo, cũng không là một sự chứng minh mà là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở nơi sự kiện đó ẩn dấu sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nàyđó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân có chủ ý chỉ giương cao “hình ảnh Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: cơn phẩn nộ của Đức Giê-su: “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Đối với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài loan báo rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt này, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
Khung cảnh bên ngoài Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại này mà những kẻ bán súc vật được dùng làm hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.
Khung cảnh lễ Vượt Qua Thánh ký nói với chúng ta “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái”, thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.
Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái này được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nàyphải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua vào năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua này đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa này của Tin Mừng Gio-an). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn tư tế…
Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi phải tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu Dân Mới của Ngài và sẽ được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
Văn mạch của Tin Mừng Gio-an Tin Mừng Gioan đặt việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố này như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh Gioan muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô (Đấng Mê-si-a). Đức Giê-su đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là thân thể Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nàyđi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Sau này, những kẻ xuyên tạc lời của Ngài khi tố cáo Ngài bằng cách thay chủ từ “các ông” trong câu nói của Ngài bằng chủ từ “tôi” trong câu lập lại của họ: “Tên này đã nói: tôi có thể phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa…” (Mt 26: 61). Điều mà thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan dùng từ “Đền Thờ” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, thánh ký sử dụng từ “Đền Thánh” là nơi cực thánh của Đền Thờ.
Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (cốt yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành điểm nhấn của phiên tòa nầy. Ai đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.
Cuối cùng, thánh Gioan ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”. Như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh này có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện này một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
Có thể nói chưa bao giờ thấy Đức Giê-su bộc lộ cơn giận như trong bài Tin Mừng hôm nay (CN III MC3-B146
Có thể nói chưa bao giờ thấy Đức Giê-su bộc lộ cơn giận như trong bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MC-B – Ga 4, 14-16). Thánh sử Gio-an trình thuật: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Nếu không được biết Đức Giê-su từ trước, mà chỉ nhìn hành động của Người xảy ra trước mắt, chắc chắn sẽ cho đó là một người cộc cằn thô lỗ, thiếu văn hóa. Nhưng nếu được diện kiến Người nhiều lần và chỉ cần nhìn theo con mắt trần gian cũng đã thấy được Đức Giê-su là một mẫu người rất hiền lành khiêm nhường và có một tấm lòng bao dung độ lượng không ai sánh kịp. Đến ngay như đám kinh sư luật sĩ Ít-ra-en vốn là những kẻ chỉ muốn tìm chứng cớ để hãm hại Người, vậy mà họ đã không tìm được khuyết điểm nào.
Còn nhìn theo lăng kính siêu nhiên thì vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên bản tính của Người là nhân từ bác ái (“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” – Mt 11, 29-30). Với một châm ngôn “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13), Người luôn dạy dỗ các môn đệ một tình yêu vô bờ bến (yêu đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu, yêu cả kẻ thù – Mt 5, 43), một tấm lòng khoan dung độ lượng bao la (“ai tát mình má trái, thì hãy đưa cả má phải cho họ tát tiếp” – Mt 5, 39; tha thứ cho anh em đã xúc phạm đến mình không chỉ 3 hay 7 lần, mà là bảy mươi lần bảy – Mt 18, 21…) và một đức tính khiêm nhường tuyệt đối (“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường, hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” – 1Pr 5, 5; “Thầy là Thầy là Chúa mà còn quỳ xuống rửa chân cho anh em thì anh em hãy rửa chân cho nhau” – Ga 13, 14). Vậy mà lần này Người đã nổi cơn thịnh nộ dữ dội như vậy là vì sao?
Đền thờ là biểu tượng ngôi nhà của Thiên Chúa, cũng là nơi dân Chúa tập trung để bày tỏ lòng tôn kính phụng thờ Đấng Toàn Năng hằng hữu. Vì thế, Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào những ngày Sa-bát, nhất là những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, người Do Thái ở các nơi tề tựu hành lễ rất đông. Trong những dịp đó, dân chúng thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dùng làm lễ vật dâng tiến theo nghi thức Do Thái giáo thời đó. Tuy nhiên, người ta đã lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời, biến nơi linh thiêng thành chốn ô uế. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là quy lỗi cho những người buôn bán, mà kẻ gây ra cảnh trái tai gai mắt như vậy thực chất là những người trông coi đền thờ (bọn luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu). Họ đã làm ngơ để những bọn con buôn vào buôn bán, mà vì sao họ làm ngơ? Tất nhiên là vì lợi nhuận do đám người buôn bán đóng thuế hoặc ngầm ngấm đút lót hối lộ. Không đóng thuế hoặc hối lộ, chắc chắn không thể làm ăn gì được. Vì thế, nói đám người kinh sư luật sĩ làm ngơ còn là nhẹ, mà phải nói là họ đã cố tình để xảy ra tình trạng bát nháo trong đền thờ nhằm mục đích trục lợi cá nhân. Cơn thịnh nộ của Chúa là điều tất yếu vậy.
Hành động của Chúa Giê-su không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là Người phủ nhận hoàn toàn cung cách thờ phượng đã biến chất (chẳng khác gì cảnh buôn thần bán thánh diễn ra nhan nhản ở thế kỷ XXI này). Ngoài ra, thông qua việc tẩy uế đền thờ được xây dựng bằng vật chất, Chúa Giê-su còn giới thiệu ngôi đền thờ đích thực là chính thân thể Người (“Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giê-su đáp: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Người Do Thái nói: ”Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.” – Ga 2, 18-22).
Ngoài ra, Người còn muốn nhắc đến ngôi Đền Thờ tâm linh, như Lời Người trao đổi với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (Ga 4, 21-26).
Cũng đã có nhiều người cho rằng khi trả lời người phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã phủ nhận những đền thờ xây dựng bằng vật chất, vậy tại sao Người lại nổi giận xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem và nói đó là “nhà Cha tôi”? Đức Giê-su không phủ nhận, vì – hơn ai hết – Người hiểu rất rõ Đền thờ xây dựng bằng vật chất là một biểu tượng không thể thiếu cho lòng tôn kính thờ phương của loài người đối với Đấng Tối Cao. Loài người với nhãn quan và tâm lực trần tục, thường thì phải có một điểm tựa, một điểm xuất phát hiện thực, để từ đó hướng tâm hồn lên cõi siêu linh. Nói cách khác, tâm lý chung của loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin. Vì thế, Đức Ki-tô nổi cơn thịnh nộ là nhằm xác định tầm quan trọng của nơi thờ phượng Thiên Chúa (Đền thờ xây dựng bằng vật chất), nhiên hậu Người mới dẫn mọi người tới ngôi Đền thờ đích thực là nơi cung lòng mỗi người và cuối cùng là đích điểm: “Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2, 21).
Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô đã một lần nữa nhắc lại Lời dạy đừng chú trọng hình thức bên ngoài mà phải coi trọng cái cốt lõi, cái chân lý đích thực ẩn kín bên trong. Đừng khua chiêng gõ mõ khi làm việc thiện, đừng đứng ở ngã ba ngã tư lải nhải khi cầu nguyện; cũng vậy, việc thờ phượng Thiên Chúa không cứ ở núi này núi nọ, đền nọ miếu kia, mà phải là “thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật”. Và cũng chính điều đó khiến đám luật sĩ đặt câu hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” và được Đức Giê-su trả lời: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 4, 18-19).
Đền thờ Giê-ru-sa-lem là một công trình xây dựng ròng rã 46 năm mới xong, vậy mà phá bỏ đi, chỉ cần ba ngày là Đức Giê-su sẽ xây lại được! Ai nghe cũng thấy là chuyện không tưởng, nên chẳng lạ khi thấy đám “Người Do Thái nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” (Ga 4, 20). Đến như vậy mà đám người Do Thái vẫn chưa sáng mắt thì làm sao mà sáng lòng cho nổi! Chỉ đến khi Sự Thật phơi bày, mới đấm ngực thốt lên: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27, 54). Lời tiên báo của Chúa đã thành hiện thực: Ngôi Đền Thánh Giê-su Ki-tô bị dân Do Thái phá huỷ tan tành, thì ngày thứ ba đã khôi phục hoàn toàn, tráng lệ hơn, sáng láng hơn: Chúa đã phục sinh vinh hiển.
Đối với Ki-tô hữu ngày nay thì sao? Tất cả những sự kiện và Lời dạy của Chúa đã được lịch sử chứng minh rất cụ thể và được trình thuật lại trong Kinh Thánh thật chi tiết, không còn cảnh như mấy người Do Thái ngơ ngác tự hỏi “xây một Đền thờ hoành tráng như thế mà chỉ trong 3 ngày thôi ư?” Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người vẫn chưa ý thức được, đó là ngôi Đền thờ do chính Đức Giê-su xây dựng là Giáo hội cho đến nay, đã hơn 2000 năm trôi qua, tuy rằng rất nguy nga lộng lẫy, nhưng vẫn thực sự chưa được tẩy uế như mong muốn của Người đã xây dựng nên (Đức Giê-su). Thật thế, những lầm lỗi khiếm khuyết của Giáo hội xuyên qua lịch sử 20 thế kỷ, cũng không phải là it. Bởi vậy ngày 12/3/2000, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã chính thức thanh tẩy Giáo hội vì “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Ki-tô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người.” (theo “VietCatholic –19/3/2000”). Không những chỉ là dịp này, mà trong suốt triều đại, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã đề ra phương châm và cùng với Giáo hội thực hiện một cách cụ thể và hữu hiệu: “canh tân và sám hối”.
“Lầm lỗi là bản tính của con người”, chuyện đó không có gì đáng trách, nhưng nó sẽ thật sự đáng trách phạt nếu người lầm lỗi không nhìn ra được mà ăn năn hối cải để xin ơn tha thứ như Thánh GH Gioan-Phaolô II đã làm. Ngoài ngôi đền thờ chung là Giáo hội, mỗi Ki-tô hữu còn là ngôi Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Muốn thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật, thì xuất phát điểm phải là Đền thờ Thánh Linh nơi cung lòng mỗi người phải luôn được thanh tẩy hàng ngày, hàng giờ. Khi nhắc đến công việc tẩy uế ngôi Đền thờ Thánh Linh trong cung lòng mỗi Ki-tô hữu, có người thì cho rằng “Chuỵên nhỏ! Chỉ cần đến toà hoà giải là mọi chuyện xong xuôi hết!”; nhưng cũng không ít người thì cho rằng khi “bàn tay đã chót nhúng chàm” khó lòng tẩy sạch, thì chi bằng nhúng chàm luôn cả thân mình cho yên chuyện.
Cả 2 thái độ cực đoan ấy (một bên thì lạc quan tếu, còn một bên thì bi quan thái quá) đều không thể chấp nhận. Anh đến toà hoà giải là để xin ơn tha thứ, Chúa luôn sẵn sàng “cho” nhưng anh có biết dọn dẹp cung lòng và mở rộng cửa lòng đón “nhận” hay không. Đến toà hoà giải lấy lệ và theo luật, mà cửa lòng cứ khép kín, cung lòng không tẩy uế, thì cũng chẳng khác gì xua đuổi hơn là đón tiếp, liệu Chúa có vào cung lòng anh được không? Còn anh bi quan thái quá cũng không được. Anh nên nhớ ngôi đền thờ Chúa Thánh Thần nơi con người anh là do chính Thiên Chúa tạo dựng, không lý gì Người lại bỏ rơi anh, dù ngôi đền ấy có rác rưởi dơ dáy đến đâu chăng nữa. Điều quan trọng là bản thân anh có thực lòng muốn và quyết chí thanh tẩy hay không mà thôi. Nếu lòng anh đã mở, chí anh đã quyết, Thiên Chúa sẽ ban Thần Khi và anh sẽ được sạch. Hãy in sâu vào tâm trí câu châm ngôn của Thánh Au-gus-ti-nô: “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (“Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” – ibid).
Nói tóm lại, ngôi Đền Thánh Linh nơi cá vị mỗi Ki-tô hữu cũng như ngôi Đền Giáo hội đều rất cần được thanh tẩy. Tất nhiên, với ngôi đền Giáo hội thì không thể chỉ ỷ lại vào một mình Đức Giáo hoàng, cũng như ngôi Đền Thánh Linh cá vị chỉ trông cậy vào vị Mục tử đại diện Chúa Ki-tô nơi toà hoà giải. Các ngài không thể làm gì được nếu không có sự đồng lòng, quyết tâm nơi mỗi Ki-tô hữu cũng như toàn thể Giáo hội. Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa hãy ban Thần Khi cho chúng con, để chúng con vững lòng tin cậy, biết tôn trọng bảo vệ sự trong sáng ngôi đền thờ Giáo xứ, Giáo họ, Giáo phận và Giáo hội toàn cầu; đặc biệt biết sửa sang dọn dẹp ngôi Đền thờ tâm hồn của chúng con để Chúa yêu thương ngự trị.
Ôi! “Lạy Chúa là Ðấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xinnhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III MC-B).
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu vào đền thánh Giêrusalem, “ Người thấy trong MC3-B147
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu vào đền thánh Giêrusalem, “ Người thấy trong đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người lấy dây làm roi mà xua đuổi. . . Người nói với những kẻ bán bồ câu: Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán “. Đức Giêsu đã rất giận giữ cho thấy Người coi trọng “Nhà Cha “ như thế nào! Còn hơn thế nữa, Người tự nhận là Đền thờ của Thiên Chúa : “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Điều này phải sau cuộc phục sinh của Người, các môn đệ mới nhận ra, các ông đã tin vào kinh thánh và vào Đức Giêsu.
Lạy Chúa,
Mỗi một ngôi thánh đường, dù lớn, dù nhỏ, như Thánh Giáo hòang Gioan PhaoLô II đã nói: ” nhà thờ nào cũng là của anh chị em và là nhà của Thiên Chúa. Anh chị em hãy coi trọng nhà thờ như một nơi chúng ta có thể gặp gỡ Cha của chúng ta “. Mỗi một công đòan cần có một ngôi nhà thờ. Chính trong nhà thờ, nơi mọi người tụ họp cầu nguyện, nơi thuận tiện để lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu luôn hiện diện trong nhà Cha của Người. Chúa hằng chờ đợi mỗi người chúng con mỗi ngày đến để tâm sự với Người nơi nhà Tạm, lãnh nhận Người trong Thánh Thể. Thế nhưng, nhiều khi con người lại quên mất điều ấy. Đức Cha Anfonso Nguyễn Hữu Long trong một bài viết mới đây sau chuyến thăm của Đức Hồng Y Bộ Trưởng bộ Loan báo Tin mừng đã từng nhận xét về Giáo hội Chúa tại Việt Nam . Ngài viết “Chúng ta còn loay hoay dồn nhiều công sức vào việc xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nhiều cuộc lễ hòanh tráng , tốn phí nhiều , trong khiviệc xây dựng và củng cố các đền thờ tâm hồn vẫn còn bị lơ là. Nhân lực , vật lực dành cho việc xây cất và tổ chức lễ lạt thì nhiều, mà dành cho việc Loan báo Tin Mừng thì quá ít. . . “. Đó là một thực tế đáng buồn hiện nay. Chúng con hiểu rằng ngôi nhà thờ mà Chúa nói đến trong Tin Mừng hôm nay còn là chính Chúa. Mỗi người chúng con có thể kín múc được sự sống đời đời từ nơi Người? chúng con có dám tự nhận mình cũng phải trở nên đền thờ Chúa như lời Thánh PhaoLô căn dặn “ Anh em không biết rằng thân thể anh em là đền thờ Thiên Chúa sao? “ . Phần con, con có tự nhận mình là một viên gạch, góp phần vào việc xây dựng nhà Chúa cho xứng hợp? Mỗi lần đến nhà Chúa, con có mang trong lòng một tình yêu chân chính ,một lòng mến sốt sắng, lòng trông cậy Chúa ở bên con, hay đến nhà Chúa với thái độ thờ ơ, bàng quan, vô cảm. Thậm chí mang theo hằn thù, chia rẽ, đầy những toan tính sự đời. Đến nhà Chúa nhưng vẫn chồng chất cồng kềnh với mọi lo toan về tiền của, danh lợi. Không những không đón nhận được từ nơi Chúa điều gì, nhưng lại sẵn sàng để lại những trách móc, tị nanh, đòi hỏi Chúa phải thỏa mãn cho con theo ý riêng của con. Và khi ra về, Chúa ở lại trong nhà thờ, còn con, con lại thênh thang giữa đời với bao bon chen, lạc thú . Tự bản thân con có lo tu sửa đền thờ tâm hồn mỗi ngày để trở nên xứng đáng làm nơi Chúa ngự , hay mãi mang nặng ích kỷ, vụ lợi ?
Xin cho con nhân những ngày mùa Chay Thánh này biết nhìn lại mình, con có xứng đáng hơn những người buôn bán, đổi chác tiền của ngày xưa ? hay nếu ngày hôm nay, con không chịu sám hối và Tin vào Tin Mừng để Chúa phải xua đuổi ra khỏi đền thờ, thì khốn cho con .
Xin Chúa giúp con biết thực sự hối lỗi mình, biết sửa đổi hầu mỗi ngày nên xứng đáng hơn, trở thành những viên đá sống động góp phần xây dựng Đền thờ Thiên Chúa nơi con.
Chúa Giê-su là Đấng rất hiền lành và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài mời MC3-B148
Chúa Giê-su là Đấng rất hiền lành và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29).
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột … Chúa Giê-su vẫn bình thản như không. Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục và hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giê-su vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu đóng đinh vào thập giá với những cơn đau khủng khiếp, Chúa Giê-su chẳng những không oán hận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Ngài.
Tóm lại, Chúa Giê-su là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến người ta nghĩ rằng Ngài không bao giờ nổi giận.
Chúa Giê-su không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Chúa Giê-su không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin mừng Gioan ghi lại: “Ngài thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Ngài nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Gioan 2, 14-16).
Thật không ngờ! Một Chúa Giê-su rất hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà ‘cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Mt 12,20), giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giê-su, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Ngài vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa, đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16) hoặc: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19).
Chúa Giê-su cũng dạy rằng mỗi người chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy” (Ga 14, 23).
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giê-su sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Ngài, đã thánh hoá bằng Lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Ngài trong bí tích Thánh Thể để bồi bổ đền thờ này vạn lần cao đẹp hơn.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giê-su đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Ngài ra nhơ uế thì Ngài đau xót gấp trăm. Thế nên, Ngài nghiêm khắc lên án những người xúc phạm: “Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn” (Lc 17, 1-2).
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy” ( I Cor 3, 13-17).
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ bản thân
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15, 19-20).
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giê-su cứu chuộc bằng Máu thánh Ngài, được xức dầu thánh hiến bằng Thánh Thần, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Cần trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong khi Giáo hội khởi đầu mùa Chay vào Lễ Tro, Thứ Tư 14/02/2018; thì cũng chính vào ngày MC3-B149
Trong khi Giáo hội khởi đầu mùa Chay vào Lễ Tro, Thứ Tư 14/02/2018; thì cũng chính vào ngày đó, một vụ xả súng kinh hoàng ở Parland, bang Florida của Mỹ làm cho ít nhất 17 người thiệt mạng và khoảng 50 người bị thương. Ngay ngày hôm sau, 15/02/2018 (tức ngày cuối cùng của năm Đinh Dậu 2017), tin tức về vụ thảm sát làm cho 5 người trong một gia đình bị giết một cách dã man tại Sài Gòn lan tràn. Chưa hết, theo báo cáo chính thức của Bộ Y Tế, từ ngày 15 đến 22/02/2018 (27 tháng chạp đến mồng 4 Tết) đã có trên 6.200 người phải vào viện do đánh nhau, trong đó có 15 người tử vong. Bên cạnh đó hiện tượng cướp bóc, giựt dọc một cách trắng trợn tại những chỗ đông người trong những dịp đầu năm… làm cho nhiều người cảm thấy bất an.
Có lẽ vì thế mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn chủ đề cho sứ điệp Mùa Chay năm nay từ câu Kinh Thánh trong Tin Mừng của Matthêu: “Vì sự ác lan tràn, nên lòng mến của nhiều người sẽ ra nguội lạnh” (24,12). Đức Thánh Cha đã giải nghĩa câu Kinh thánh này như sau: “Câu này ở trong đoạn Chúa nói về thời tận thế và ở trong bối cảnh thành Jerusalem, trên Núi Cây Dầu, chính tại nơi khởi đầu cuộc thương khó của Chúa. Khi trả lời một câu hỏi của các môn đệ, Chúa Giêsu loan báo sầu muộn lớn và mô tả tình trạng trong đó cộng đồng tín hữu có thể lâm vào: đứng trước những biến cố đau thương, một số tiên tri giả sẽ lường gạt nhiều người, đến độ đe dọa làm cho tâm hồn họ bị tắt lịm lòng mến là trung tâm của toàn thể Tin Mừng.”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, đứng trước thực trạng đền thờ Jerusalem bị người ta xúc phạm, biến thành nơi kinh doanh, buôn bán kiếm tiền và trở thành nơi toan tính, lường gạt nhau… Đức Giêsu đã đứng dậy, mạnh mẽ tuyên bố và ra tay loại trừ những sự xấu đó ra khỏi đền thờ. Hành động thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu hôm nay nhắc nhở chúng ta về tình trạng “sự ác lan tràn” do các tiên tri giả mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến trong sứ điệp mùa chay 2018 của Ngài.
Ngài đã triển khai những hình dạng của tiên tri giả đó giống như người làm nghề “mê hoặc rắn”, điều khiển sự độc ác của nó bởi một phương pháp thôi miên, bùa chú. Những tiên tri giả này điều khiển đam mê, cảm xúc của con người để họ chỉ tìm khoái lạc trong tất cả: nhục dục, quyền lực và cả đồng tiền. Như vậy tự bản chất dục vọng, quyền lực và đồng tiền không xấu, nó chỉ xấu bởi những người dồn hết năng lực của mình để kiếm tìm những điều đó, và hạnh phúc của họ là ở nơi những điều đó.
Dạng thức khác của tiên tri giả giống như những “lang băm” (những thầy thuốc dỏm). Đức Thánh Cha nói những lang băm này: “Cống hiến những giải pháp đơn giản và tức thời cho những đau khổ, nhưng thực ra những liều thuốc này hoàn toàn vô hiệu: bao nhiêu người trẻ tìm phương dược giả dối trong ma túy, trong những quan hệ “dùng rồi bỏ” (qua đường), kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính!. Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn gian và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm! Những kẻ lường gạt ấy cống hiến những điều vô giá trị, nhưng chúng lại tước mất điều quí giá nhất như phẩm giá, tự do và khả năng yêu thương.”
Quả thật, những tiên tri giả đó đã và đang gieo rắc “sự ác lan tràn”. Từ thời Đức Giêsu, vì đồng tiền, vì những ham mê thế gian mà người ta đã đánh mất đi sự linh thánh ngay trong nơi Đền Thánh, kể cả những người có phận vụ thánh. Và cho đến ngày nay, sự ác vẫn tiếp tục lan tràn vì thói mê hoặc của ma quỷ đã gieo vào lòng con người; vì những liều thuốc dỏm của chúa tể các thầy lang băm chính là ma quỷ để con người chạy theo những liệu pháp chóng qua mà không lo chữa trị tận căn.
Nhìn lại tội ác nơi xã hội cũng như nơi mỗi người chúng ta, chung quy lại cũng chỉ vì những điều vừa nêu trên. Vì tiền bạc mà người ta bất chấp tất cả, kể cả việc bán rẻ linh hồn của mình cho ma quỷ. Vì những đam mê dục vọng mà người ta buông thả con người, đắm chìm trong những giá trị thấp hèn. Vì danh vọng quyền lực mà người ta đã luồn cúi hoặc tiêu diệt, đạp đổ nhau…
Đáng ngại hơn là sự dữ do con người dùng những liều thuốc dỏm của “thầy lang băm” vì thấy nó hấp dẫn, tức thời. Để quên nỗi buồn người ta đã tìm đến với xì ke, ma túy hoặc những chất gây nghiện khác. Một số bạn trẻ ngụy biện cho việc sống thử trước hôn nhân là điều cần thiết để trắc nghiệm cho hôn nhân sau này. Một số người phá thai một cách dễ dàng vì cho rằng đó là việc ngoài ý muốn. Một số người đi xem bói hoặc những việc đồng bóng khác vì muốn chính mình điều khiển cuộc đời mình, theo ý mình, chứ không theo sự quan phòng của Chúa… Đức Thánh Cha nói họ tưởng mình có tất cả, nhưng thực sự họ đã mất nhân phẩm, tự do và khả năng yêu thương.
Hôm nay Đức Giêsu thanh tẩy Đền Thờ, là một sự thật cho thấy sự ác sẽ được đẩy lùi nếu để Đức Giêsu bước vào trong ngôi đền thờ là tâm hồn, thân xác và cuộc đời của chúng ta. Ngài biết rõ những ngổn ngang, những ô uế, những dơ bẩn… trong tâm hồn của mỗi người. Hãy cùng với Đức Giêsu sống tình con thảo với Chúa trong những việc đạo đức sốt sắng hơn, nhiều hơn trong mùa Chay này. Hãy cùng với Đức Giêsu thực hành việc làm phúc bố thí để “giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta”(SĐMC 2018). Hãy cùng với Đức Giêsu ăn chay hãm mình để biết làm chủ những cảm xúc, giải tỏa những bạo lực bên trong con người, là nguyên nhân dẫn đến những tội ác; đồng thời cũng giúp ta cảm nhận được những thiếu thốn của người khác, từ đó dễ dàng yêu thương tha nhân hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn và thân xác chúng con để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta đang trong mùa sám hối, tức là mùa Chay, thời gian cố gắng từ bỏ nếp sống tội lỗi MC3-B150
Chúng ta đang trong mùa sám hối, tức là mùa Chay, thời gian cố gắng từ bỏ nếp sống tội lỗi để hoàn toàn quay trở lại với Chúa. Phương tiện giúp chúng ta xét lương tâm là các điều răn Chúa ban trên núi Xi-nai và các giá trị Tin Mừng nằm trong lời giảng của Chúa Giê-su cũng như trong lối sống của Người. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay quả là một bản xét mình để chúng ta nhìn lại tình trạng mối tương quan giữa mình với Chúa và mình với anh chị em.
Qua bài đọc Cựu Ước, Luật Mô-sê nhắc nhở chúng ta về các bổn phận đối với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta. Người là Thiên Chúa duy nhất chúng ta phải thờ phượng. Như Thiên Chúa đã dẫn dắt Ít-ra-en ra khỏi nhà nô lệ Ai-cập, Người cũng giải thoát chúng ta khỏi hậu quả của tội nguyên tổ để chúng ta được trở lại làm con Chúa. Để gìn giữ chúng ta trong mối tương quan cha con với Chúa, Chúa muốn chúng ta chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi, chứ không thờ thần nào khác. Rồi với phận làm con, chúng ta được mời gọi hãy làm rạng danh Cha mình, không dùng danh Người để làm những chuyện bất xứng hoặc làm hoan ố danh Cha. Để có thể biểu lộ tình cha con cách cụ thể hơn, Chúa muốn chúng ta dành thì giờ để sống tình yêu ấy, bằng cách dành cho ngài một khoảnh khắc, đó là ngày sa-bát đối với dân Chúa ngày xưa và ngày Chúa Nhật đối với chúng ta ngày nay. Tham dự Thánh lễ Chúa Nhật là cách tốt nhất, để chúng ta lắng nghe Chúa dạy dỗ qua Kinh Thánh và kết hợp với Người qua Thánh Thể.
Song song với bổn phận đối với Chúa là bổn phận đối với tha nhân. Chúng ta được nhắc nhở hãy xét lại mối tương quan gia đình qua việc thảo kính cha mẹ, sống những tương quan nhân bản và xã hội, để tránh làm tổn thương và thiệt hại cho người khác. Nếu chúng ta đã nhận Thiên Chúa làm Cha, thì đương nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận mọi người là anh chị em của chúng ta và phải yêu thương họ như Chúa yêu thương chúng ta.
Qua các điều răn, Thiên Chúa đã dạy chúng ta một lối sống. Tuy nhiên, điều tuyệt vời hơn thế nữa, đó là Người đã ban cho chúng ta Chúa Ki-tô, một gương mẫu của lối sống ấy. Thánh Phao-lô đã gọi Chúa Ki-tô là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và ngài hãnh diện rao giảng Đức Khôn Ngoan đó. Chúng ta hãy xem Chúa Giê-su đã biểu lộ cách sống bổn phận đối với Thiên Chúa như thế nào qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Trước sự kiện Đền Thờ bị những người buôn bán biến thành cái chợ, Chúa Giê-su đã biểu lộ “lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa” bằng cách đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Dĩ nhiên đây chỉ là một trong muôn vàn hành vi khác của Chúa Giê-su, cho chúng ta thấy Người đã chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với anh chị em như thế nào. Điều đặc biệt câu chuyện này muốn nói với chúng tahôm nay là Chúa Giê-su đã sống mối tương quan thân mật của Người với Thiên Chúa. Gương mẫu này nhắc nhở chúng ta phải luôn phát huy lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta có thể cảm thấy Mười điều răn không thúc đẩy chúng ta mạnh mẽ sống phận làm con Chúa và làm anh chị em với nhau cho bằng gương sống của Chúa Giê-su. Hành động Chúa Giê-su làm hôm nay biểu lộ lòng yêu mến Chúa của Người. Nhưng đó cũng có thể là công việc Người muốn làm cho mỗi người chúng ta vì ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. Đúng vậy, đền thờ tâm hồn của chúng ta cần được thanh tẩy, để Thiên Chúa được tôn vinh trong và nhờ chúng ta. Đền thờ ấy cần được thanh tẩy và Chúa Giê-su cũng đang chờ đợi để Người có thể ra tay đuổi những con vật nhơ nhớp ra, lật đổ bàn đổi tiền là những lối suy nghĩ của thế gian tội lỗi, nhất là khôi phục lại lòng nhiệt thành vì nhà Chúa nơi chúng ta. Thiếu lòng nhiệt thành ấy nên chúng ta đã lơ là trong những bổn phận thiêng liêng: đi dự Thánh lễ cho qua lần, không cầu nguyện riêng, không suy niệm Lời Chúa, không tới giúp đỡ những anh chị em cần đến chúng ta, không làm những cánh tay bước chân nối dài để phục vụ những người khốn khổ… Nhìn đi nhìn lại, ta đã đi một nửa mùa Chay rồi. Thời thuận lợi và cứu độ dành cho ta cũng không còn mấy nữa. Vậy chúng ta hãy nhìn lên mẫu gương sống động là Chúa Giê-su, Đức Khôn Ngoan nhập thể, để học biết “mến Chúa yêu người” như Chúa dạy chúng ta!