Đây là một câu chuyện về một cậu bé 9 tuổi rất sợ bóng tối. Vào một buổi tối nọ, cha chú bé sai chú: MC4-B1
Đây là một câu chuyện về một cậu bé 9 tuổi rất sợ bóng tối. Vào một buổi tối nọ, cha chú bé sai chú ra chuồng ngựa cho ngựa ăn. Mặt chú bé trở nên xanh lè và bắt đầu run sợ.
Thấy thế, cha cậu cùng bước với cậu ra hành lang trước nhà, châm lửa vào đèn, đưa lên cao. Rồi ông nói với con, "Con thấy được tới đâu?"
Cậu bé trả lời, "Con thấy được nửa đường đến chuồng ngựa." Người cha liền đưa chiếc đèn cho cậu bé và nói: "Con hãy cầm lấy đèn này và đi hết nửa đường đến chuồng ngựa."
Khi cậu bé đi hết nửa đường, người cha liền hỏi lại, "Bây giờ con thấy bao xa?"
Cậu bé đưa cao chiếc đèn lên và đáp lớn rằng, "Con có thể thấy chuồng ngựa và cánh cửa chuồng ngựa". Người cha lớn tiếng: "Con hãy đi đến cửa chuồng ngựa."
Khi cậu bé đã đến cửa chuồng ngựa, người cha tiếp, "Bây giờ con hãy mở cửa và nói cho ba biết con thấy gì."
Cậu bé liền mở cửa và đáp lớn rằng: "Con có thể thấy những con ngựa!". "Tốt lắm!" người cha trả lời. "Bây giờ con hãy cho chúng ăn đi!"
Sau đêm đó, cậu bé không còn khiếp sợ đêm tối nữa. Quan trọng hơn nữa, cậu học được rằng, có nhiều sự việc trên đời không thể thực hiện cả một lúc được. Chúng phải được làm từ từ từng bước một.
Thí dụ, khi người cha lần đầu đưa cao chiếc đèn, cậu bé chưa thể thấy được chuồng ngựa. Cậu chỉ thấy được nửa đường đến đó. Thế nhưng nó cũng đủ giúp cho cậu can đảm đi hết quãng đường mà cậu có thể thấy được. Và khi cậu đã đi hết nửa quãng đường và đưa cao chiếc đèn lên một lần nữa, cậu chưa có thể thấy những con ngựa trong chuồng được. Cậu chỉ có thể nhìn thấy chuồng ngựa mà thôi. Thế nhưng nó cũng đủ để giúp cậu can đảm đi đến cửa chuồng ngựa. Chỉ khi nào cậu đến cửa chuồng ngựa thì cậu mới có thể mở cửa, nhìn thấy những con ngựa, và cho chúng ăn.
Câu chuyện về cậu bé nông dân thật là một bài quảng diễn thật hay về những gì xảy ra trong bài Phúc Âm hôm nay.
Chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay không phải là việc chữa lành của người mù thể lý. Nó không chỉ là một phép lạ làm cho người mù có thể nhìn thấy Chúa Giêsu lần đầu tiên.
Chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay chính là việc chữa lành người mù về tinh thần. Đó là một phép lạ làm cho người mù nhìn thấy Chúa Giêsu và tin vào Ngài lần đầu tiên.
Chúng ta hãy xét kỹ về phép lạ tinh thần và chúng ta nhận thấy là phép lạ này không xảy ra cùng một lúc. Nó xảy ra từ từ từng bước từng bước một.
Khi dân chúng hỏi người mù về sự lành bệnh của anh, anh trả lời: "Người đàn ông gọi là Giêsu... xức lên mắt tôi và dạy tôi, 'Hãy đi đến Siloam và rửa đi.' Như thế, tôi đã đi... rửa sạch và đã có thể nhìn thấy." Như thế tri giác đầu tiên của người mù về Chúa Giêsu chính là Ngài cũng chỉ là một con người y như anh ta vậy - một con người kỳ lạ, nhưng cũng chỉ là một con người khác mà thôi.
Khi các người Pharisiêu hỏi Người mù: "Anh nói gì về Đức Giêsu sau khi ông đã mở mắt cho anh?" Ông liền đáp, "Ngài là một tiên tri." Như thế, trong tri giác thứ hai của anh về Chúa Giêsu, người mù đã bước một bước tiến. Anh càng suy nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã làm, thì anh càng tin tưởng rằng Chúa Giêsu không chỉ là một con người bình thường như những người khác, nhưng Ngài chính là một tiên tri.
Tri thức cuối cùng của người mù về Chúa Giêsu đến về sau này trong ngày, khi anh gặp lại Chúa Giêsu một lần nữa. Chúa Giêsu nhìn thẳng vào mắt anh và nói, "Anh có tin vào Con Người không?"
Anh mù liền hỏi lại, "Người là ai, thưa Ngài, để tôi có thể tin vào Người?"
Chúa Giêsu trả lời, "Anh đang xem thấy Người, và chính là Người đang nói với anh đây."
"Tôi tin, lạy Chúa," anh trả lời, và anh đã quỳ xuống và thờ lạy Chúa Giêsu.
Và như thế tri thức sau cùng của anh ta về Chúa Giêsu đã bước tới một bước vĩ đại. Anh nhận thức Chúa Giêsu còn hơn là một người hay một tiên tri. Ngài chính là Chúa.
Xét lại, chúng ta thấy niềm tin của anh mù vào Chúa Giêsu không có xảy ra cả cùng một lúc. Nó xảy ra từ từ, từng bước từng bước một. Điều đó đưa chúng ta đến bài học áp dụng về câu chuyện người mù trong đời sống chúng ta.
Giống như người mù, chúng ta cũng được Chúa Giêsu kêu mời rửa sạch, không phải trong nước hồ Siloam, nhưng trong chính nước rửa tội. Y như người mù, sau khi chúng ta được rửa sạch trong nước rửa tội, chúng ta đã nhìn thấy Chúa Giêsu lần đầu tiên qua con mắt đức tin. Và giống như người mù, tình bạn hữu của ta với Chúa Giêsu đã bắt đầu triển nở từ ngày đấy trở đi.
Trong khi chúng ta trưởng thành, thì tình bạn hữu của ta với Chúa Giêsu cũng trưởng thành. Và chúng ta, một ngày rất gần, khám phá ra những sự kiện quan trọng: Tình bạn hữu với Chúa Giêsu chính là một cuộc hành trình đang xảy ra. Đó chính là những sự kiện không bao giờ đi đến kết cục được. Đó chính là những sự việc mà chúng ta phải tiếp tục tiến tới, từng bước từng bước một. Và nếu nó không tiến tới, nó bắt đầu chết, cũng giống như những tình bạn khác của ta vậy.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho chúng con ơn can đảm tiến tới từng bước một, luôn luôn trông cậy vào tình thương của Ngài sẽ dìu dắt chúng con mỗi một bước trên con đường này.
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn: MC4-B2
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Maisen vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai…Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
- Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban….. Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này: MC4-B3
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án ? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được ? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến: MC4-B4
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ, nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah, nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200 người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc, một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng ? Có bao nhiêu hành động của chúng ta bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng ?
Chúng ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự, thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối, nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta.
Nicôđêmô là nhân vật trung tâm trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông chỉ xuất hiện ba lần: MC4-B5
Nicôđêmô là nhân vật trung tâm trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông chỉ xuất hiện ba lần trong sách Tin Mừng (cả ba lần đều xuất hiện trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan), nhưng tính cách của ông rất hay. Ông là một người Pharisêu, và là một thành viên của Sanhedrim – tòa án tối cao Do thái.
Lần đầu tiên Nicôđêmô xuất hiện là trong bài Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay. Chúng ta được nghe kể lại rằng những lời giảng dạy và việc làm của Đức Giêsu đã gây ấn tượng nơi ông. Đối với ông, rõ ràng là trong những lời nói và hành động đó có bàn tay của Thiên Chúa. Do đó, ông đến với Đức Giêsu, nhưng đến một cách âm thầm, bởi vì ông không muốn bị người khác phát hiện ra. Nhưng chúng ta không nên quá khắt khe đối với ông trong cách tính toán này. Với sự kiện ông là một người Pharisêu, thật là một điều đáng ngạc nhiên, khi ông đến với Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã cho ông vinh dự được có một cuộc phỏng vấn dài với Người.
Khi Nicôđêmô xuất hiện lần thứ hai, ông đã dày dạn, khi dám đặt vấn đề với những kẻ chống đối Đức Giêsu. Lúc bấy giờ, những người Pharisêu đã có ý định giết Đức Giêsu, và sẵn sàng giết Người, mà thậm chí không cần đưa Người ra xét xử. Nhưng Nicôđêmô đã can thiệp, ông tuyên bố rằng ít nhất phải nghe Đức Giêsu nói một cách công bình, theo như lề luật đòi hỏi. Đây là lần ông công khai dính líu vào Đức Giêsu. Chính ông đã cung cấp một khối lượng lớn những thứ thuốc thơm đắt tiền để chôn cất người. Chúng ta có thể suy luận được điều gì về Nicôđêmô, qua ba lần xuất hiện ngắn ngủi này ? Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là một người cởi mở, và là một người thực sự muốn tìm kiếm chân lý. Lần xuất hiện lần thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, khi cứ khăng khăng rằng không được kết án Đức Giêsu, mà không đưa Người ra xét xử. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có, nhưng cũng là người quảng đại và có lòng thương xót nữa. Với tất cả những phẩm chất này, chúng ta có thể khen ngợi và bắt chước những tính cách hữu ích của ông.
Nhưng điều mà dường như Nicôđêmô không có khả năng thực hiện, đó là thẳng tiến và có một hành động chứng tỏ lòng tin nơi Đức Giêsu một cách trọn vẹn và công khai. Dường như ông không có khả năng can đảm để bước ra khỏi bóng tối, và dứt khoát quyết định đến với ánh sáng. Chúng ta có được hình ảnh một con người tốt, có thể trở thành một người vĩ đại. Một con người tầm thường là người không phải là đại thánh, mà cũng không phải là người tội lỗi.Khi suy nghĩ về Nicôđêmô, có thể chúng ta bước ra khỏi bóng tối, vì không e ngại hoặc xấu hổ công khai tuyên xưng lòng tin của chúng ta nơi Đức Giêsu, và nếu cần, chúng ta sẵn sàng trả bất cứ giá nào khi làm điều đó. Những ai tin tưởng sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời. Tuy nhiên, điều đó không đơn giản chỉ là vấn đề tin tưởng, mà còn là sống sao cho phù hợp với lòng tin đó.
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái: MC4-B6
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay ?
Kể từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng: MC4-B7
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiển. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai-cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.
Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu: "Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa ngàn đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người:" Như Môisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy".
Các bài Thánh Kinh của Phụng vụ Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B hôm nay đề cập đến Tình yêu: MC4-B8
Các bài Thánh Kinh của Phụng vụ Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B hôm nay đề cập đến Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tình yêu Cứu độ ấy đã khiến Thiên Chúa đành phải dùng hình phạt để trừng trị các thủ lãnh Do Thái bất trung bất nghĩa cuối thời quân chủ. Cũng Tình yêu Cứu độ ấy đã khiến Thiên Chúa Cha sai Con Một đến thế gian để thế gian- nhờ Con của Người- mà được cứu độ. Chúng ta hãy mở rộng cõi lòng đón nhận sứ điệp Lời Chúa và làm cho sứ điệp ấy thành hiện thực trong các môi trường trong đó chúng ta đang sống.
Tìm hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16.19-23: Đoạn sách Sử biên niên quyển thứ 2 kể lại chuyện các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng Ítraen học theo mọi thói hư đốn của các dân ngoại mà làm hoen ố Nhà của Đức Chúa ở Giêrusalem và sát hại các sứ giả do Thiên Chúa sai đến để nhắc nhở họ. Thiên Chúa đành phải dùng hình phạt để trừng trị và cảnh tỉnh họ, vì Thiên Chúa luôn yêu thương dân của Người.
2. Bài đọc 2: Ep 2,4-10: Thánh Phaolô khẳng định: Thiên Chúa giầu lòng xót thương và rất mực yêu thương chúng ta nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Sở dĩ chúng ta được cứu là do ân sủng của Thiên Chúa và do lòng tin của chúng ta chứ không phải do sức hay việc làm của chúng ta.
3. Bài Tin Mừng: Ga 3,14-21: Là một phần của cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và Ong Nicôđêmô. Ong Nicôđêmô là một người thông thái trong dân Ítraen và có nhiều cảm tình với Đức Giêsu. Nhưng ông còn nhút nhát và sợ dư luận nên chỉ dám tìm đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Trong cuộc trao đổi với ông, Đức Giêsu đã 'bật mí' nhiều điều rất thú vị và quan trọng, như việc người ta phải được 'tái sinh' trong Thần Khí để vào Nước Trời và việc "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian mà để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ."
Sứ điệp của Lời Chúa:
"Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ."
1) Đón nhận Sứ điệp Tình Yêu:
Công việc đầu tiên của các Kitô hữu chúng ta là đón nhận sứ điệp cũng là mạc khải vô cùng quan trọng về lý do và động lực (nếu chúng ta có thể nói như vậy) của việc Thiên Chúa Cha sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến thế gian. Đức Giêsu đến trần gian để con người được sống chứ không phải để con người phải chết. Vì chưng Thiên Chúa chỉ có thể là Tình Yêu. Mà Tình Yêu thì chỉ có thể cứu vớt chứ không thể kết án. Những ai không đón nhận Tình Yêu là tự loại mình ra khỏi dòng thác của Tình Yêu Tha Thứ và Cứu Vớt. Cũng như những ai không chịu để Anh Sáng Thiên Chúa soi dẫn là tự mình chọn sống trong tối tăm. Tâm tình xứng hợp chúng ta phải có là cảm tạ, ngợi khen và biết ơn Thiên Chúa Tình Yêu.
Cảm tạ ngợi khen và biết ơn vì Thiên Chúa đã yêu thương loài người bằng chính Tình Yêu Vô Hạn của Thiên Chúa. Để diễn tả Tình Yêu ấy, Thiên Chúa làm người đã lao động vất vả, vượt qua mọi thử thách cám dỗ, kiên định trọng lập trường chọn Thánh Ý Chúa Cha, chọn con đường tự hủy và chấp nhận hiến mình làm lễ tế toàn thiêu trên thập giá để cho mọi người được làm hòa với Thiên Chúa và được ơn cứu độ. Cách cảm tạ ngợi khen và biết ơn cân xứng nhất là chúng ta lấy tình yêu nhỏ bé và bất toàn của chúng ta đáp lại Tình Yêu Vô Cùng Vô Biên của Thiên Chúa. Trong cụ thể có nghĩa là chúng ta phải nỗ lực hết sức mình để xa lánh tội lỗi, để vất bỏ những cách suy nghĩ, hành động trái ngược với sự Thánh Thiện và lòng Yêu Thương của Thiên Chúa. Đó chính là việc hoán cải (metanoia) mà Mùa Chay mời gọi chúng ta thực hiện. Trước hết là hoán cải trong tư duy tức đổi mới tư duy. Kế đến là hoán cải trong thái độ và hành động. Suy nghĩ, thái độ và hành động của người hoán cải là suy nghĩ, thái độ, hành động của chính Đức Giêsu Kitô.
2. Làm chứng cho Sứ điệp Tình Yêu:
Còn có một cách khác để chúng ta cảm tạ ngợi khen và biết ơn Thiên Chúa Tình Yêu. Đó là chúng ta tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu. Trách nhiệm làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu của Kitô hữu các nước nói chung và của Kitô hữu Việt Nam nói riêng là một trách nhiệm vinh quang mà vô cùng nặng nề. Chúng ta thử hỏi - trong thế giới lúc một số chính quyền Phương Tây, bất chấp sự can ngăn của nhiều chính quyền khác và của chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và sự phản đối của các tầng lớp nhân dân các nước, dùng vũ lực tấn công Irắc- thì có bao nhiêu tín đồ Hồi giáo, Phật giáo hay An giáo, có bao nhiêu người không biết Chúa Giêsu Kitô cho rằng người Tin Lành, người Công giáo là những chứng nhân của Thiên Chúa Tình Yêu?
Chúng ta cũng có quyền tự hỏi: trong nước Việt Nam hiện nay có bao nhiêu người trong số 72 triệu người không Công giáo gặp được những chứng nhân sống động của Thiên Chúa Tình Yêu? Nói cách khác chúng ta thử hỏi có bao nhiêu trong số 8 triệu người Công giáo Việt Nam thực sự là chứng nhân của Thiên Chúa Tình Yêu? Như thế có nghĩa là người đi Đạo không chỉ giữ Đạo mà còn phải trưng bày Đạo ra trước mặt mọi người. Cũng có nghĩa là người đi Đạo không được quyền hiểu lơ mơ về Đạo, cũng như không có quyền tin một đàng sống một nẻo. Như thế có nghĩa là làm chứng không chỉ bằng lời nói (quá dễ và không đủ sức thuyết phục người thời nay) mà bằng việc làm, bằng cách sống như Đức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần, giám mục Long Xuyên đã viết trong bài "Yêu Mến Thánh Giá":
"Thời nay, tại Việt Nam này, người ta tin vào các chứng nhân sống đạo hơn bất cứ sách báo, tổ chức, lý thuyết nào. Chứng nhận sống đạo là những người có tâm đạo giầu cảm thương đối với những người đau khổ tội lỗi, phản ánh tình thương trên thánh giá của Chúa Giêsu"
Để có được tâm đạo giầu cảm thương, các Kitô hữu Việt Nam hay thuộc bất cứ quốc tịch nào phải biết học cùng Thầy Giêsu và phải nên giống Thầy Giêsu. Nếu tất cả đồng bào của chúng ta có dịp gặp gỡ, trao đổi với những người Công giáo thực sự là những chứng nhân sống đạo thì sớm muộn gì, bằng cách này hay bằng cách khác, họ sẽ đón nhận Thiên Chúa Tình Yêu như chúng ta đã đón nhận Người trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình. Cách làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu vừa trình bày ở trên rất ăn khớp với lời nói của Đức Giêsu với Ông Nicôđêmô: "Để ai tin vào Con của Người..." Lòng tin là điều kiện để con người khỏi phải chết mà được sống đời đời. Nhưng làm sao người ta có thể tin Con của Người là Đức Giêsu Kitô nếu như không bao giờ nghe nói đến Người? hay chẳng bao giờ nhìn thấy cách sống của những người đã sống lòng tin vào Người? Vẫn một kết luận: Kitô hữu là những người được Thiên Chúa sai đến để làm cho anh em đồng bào tin vào Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ được Cha sai đến trần gian để mọi người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Sống Lời Chúa
Mỗi ngày tôi tìm mọi cách để rao giảng Tin Mừng, làm chứng về Thiên Chúa Tình Yêu và giúp người khác tin vào Thiên Chúa là Cha và vào Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa và đã được Người sai đến để cứu độ mọi người.
Cầu nguyện với Lời Chúa
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ, ngợi khen và biết ơn Cha vì Cha đã sai Con Một Yêu Dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô đến thế gian để cứu độ chúng con và mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, để cứu độ chúng con và mọi người, Chúa đã rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đã gọi và chọn các Tông đồ, đã lập Hội Thánh và các Bí Tích, đã chết trên thập giá, đã ban Thánh Thần cho mọi tín hữu, đã sai các Tông đồ và các môn đệ đi khắp thế gian để làm cho người ta tin nhận Chúa. Chúng con cũng đã được ơn gọi làm môn đệ của Chúa. Nhưng chúng con chưa hoàn thành công việc Chúa giao, vì chúng con chưa sống chứng tá, chưa giúp được người khác tin nhận Chúa. Xin Chúa thứ tha cho chúng con và ban Ơn hoán cải cho chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng con 7 Ơn của Chúa để chúng con có đủ sức mạnh và phương cách làm chứng về Thiên Chúa là Tình Yêu, về Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ, về Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa Tình Yêu. ---------------------------
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn, hay báo thù và: MC4-B9
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn, hay báo thù và trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ không tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán thiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các tiên và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không lỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua của dân ngoại là Cyrô, Vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, Chúa phạt họ bằng cách gửi rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môisen làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi.
Chúa coi cái việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để tất cả những ai tin ở Người sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.
Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Êphêsô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả, mà Người đã yêu thương ta, đến nỗi khi tội lỗi khiến ta phải chết, thì Người đã cho ta được cứu rỗi qua Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Trải qua suốt dòng lịch sử Cựu ước, mỗi lần dân Chúa đi lầm đường lạc lối, mỗi lần họ bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai, thì Chúa lại sai các tiên tri, các tổ phụ đến cảnh giác họ. Và mổi lần họ ăn năn sám hối tội lỗi, thì Chúa lại mở rộng tay đón nhận họ trở về. Môisen được coi là người trung gian của lòng từ bi hay thương xót của Chúa. Những vị trung gian khác, ngay cả trước Môisen, đã sống đẹp lòng Chúa đến độ mỗi khi nhắc đến tên ho mà thôi, thì Chúa lại nguôi cơn giận và giang tay đón nhận họ trở về. Thiên Chúa cũng đối xử với ta như vậy, nếu ta thành tâm sám hối và từ bỏ đường tội lỗi.
Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái và cũng: MC4-B10
Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái và cũng là ”bậc thầy trong dân Ítraen” đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải thích rằng hoặc Ông là người vị vọng trong dân Do Thái, lại là tiến sĩ luật phái Pharisêu, sợ dư luận, nên đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm, để trách những cặp mắt dòm ngó, những lời đàm tiếu. Hoặc Ông là môn đệ đầu tiên bắt đầu tin theo Chúa một cách kín đáo, chưa dám công khai. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ đã đưa Nicôđêmô, một người khát khao chân lý và ánh sáng được gặp thấy chính Đấng đã phán: “Ta là đường, là Sự Thật và là Sự Sống“ (Ga 14-16). Trong đêm tối của tội lỗi, trong những thao thức băn khoăn đi tìm chân lý, Đức Giêsu đã mạc khải ”vén bức màn” bí mật của chương trình cứu độ của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của nhân loại.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, Nicôđêmô còn xuất hiện hai lần nữa. Một lần trong cuộc tranh luận về nguồn gốc của Đức Kitô: ”Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Chúa Giêsu, ông nói với họ: Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7, 50). Lần sau cùng vào buổi chiều ngày thứ sáu chịu nạn, Ni-cô-đê-mô cũng dự cuộc liệm xác của Đức Kitô: “Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược, trộn với trầm hương“ (Ga 19-39).
Trong cuộc gặp gỡ với Nicôđêmô trong Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm phụng vụ B hôm nay, sứ điệp quan trọng nhất mà Thiên Chúa muốn mặc khải cho tất cả những tâm hồn đang khao khát sự thật và ánh sáng chính là: ” Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Vì yêu thương con người đến tột cùng, Chúa Cha đã trao ban Chúa Con cho trần gian, để trần gian được cứu độ (3,16.35) và được sống (5,24-27; 6,39). Sứ mạng của Chúa Con là hoàn tất công trình cứu chuộc của Chúa Cha, đưa con người vào sự hiệp thông hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con. Lịch sử nhân loại, lịch sử dân Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi người tín hữu chúng ta đều là Lịch Sử Ơn Cứu Rỗi.
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3. 17-18). Như vậy:
1. Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha (xem 3,16-18; 14,1.10; 17, 21-25; 20,31), là đến với Đức Giêsu và gặp Người (6,35-37), là biết Người và cùng với Người biết Chúa Cha (10,38; 11,40; 14,7.20). Đức tin còn là một hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha (6,37.44.65).
2. Tin là nhìn lên Con Người (1,51) được giương cao (12,32) và đặt trọn niềm tin vào ĐẤNG Bị TREO LÊN trên Thập giá, Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi... Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện ghi trong sách Dân Số (chương 21, 4-9): trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn đã kêu trách Chúa, nên bị nạn rắn cắn. Chúa đã truyền cho Môsê: ”Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Con rắn đồng đã trở lên dấu chỉ của sự cứu sống. Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người bị hành hạ và bị treo trên thập tự giá. Tất cả những ai nhìn lên và tin vào Ngài, sẽ không bị con rắn xưa là ma quỷ ám hại. Ngày nay, người ta đã dùng dấu hiệu con rắn treo trên các nhà bán thuốc tây hay dùng trong y học như biểu tượng của sự cứu chữa bệnh tật.
3. Người tin (3,12) bước vào một cuộc sống mới (4,14; 6,27; 17,3). Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Mêsia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ (Ba lời thề hứa trong khi lãnh nhận Phép Rửa). Phải, chính trong đêm tối của tội lỗi mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm đều xấu”. (Ga 3-19).
Tin là bước đi trong ánh sáng, sống trong chân lý và hành động ngay chính: ”Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 19-21)
Kế hoạch Thiên Chúa là mỗi người được kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ. Đó là một mầu nhiệm, Vì, tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng nhờ ân thánh, chúng ta được sống lại, được cải tử hoàn sinh với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Cứ nhìn qua nếp sống hưởng thụ ăn chơi đàng điếm của những đô thị lớn trên khắp thế giới, kiểm điểm lại sự sa sút lòng đạo đức cũng như luân lý trong các gia đình di cư, chúng ta sẽ nhận định rõ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa trong thế giới hiện nay.
Mùa chay thánh, mùa ăn năn đền tội sám hối giúp mọi cá nhân tỉnh giấc ngủ say, ý thức thân phận tội lỗi của mình, sự yếu hèn của bản tính con người, để khiêm nhượng hơn, để tin tưởng hơn và mở lòng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, lãnh nhận chính tình yêu lớn lao của Ngài.
Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên: MC4-B11
1. Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên thánh thiện hơn không? Ngài kết án hay tìm cách giáo hóa con người? Ngài đã làm gì để giáo hóa?
2. Những nỗ lực của các nhà giáo dục có khả năng hữu hiệu biến người thụ giáo nên tốt lành thánh thiện không? Các nhà giáo dục có ban được sức mạnh cho những người thụ giáo với mình không? Còn Đức Giêsu, Ngài có làm được điều đó không? Với điều kiện gì về phía ta?
3. Chúng ta vẫn tự hào rằng mình tin vào Đức Giêsu, nhưng tại sao chúng ta xem ra vẫn còn rất là yếu đuối trước tội lỗi? Có điều gì không ổn trong đức tin của ta không?
Chia sẻ
1. Con người có thể thay đổi: người xấu thành người tốt
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào (đạo, đời), trong bất kỳ lãnh vực nào (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội), trong bất kỳ cấp độ địa vị nào (cao, thấp), tuổi tác nào (già, trẻ)... cũng đều có người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh, v.v... Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi: người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại. Thật vậy, có người rất ác rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó, hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người như Maria Mađalêna (x. Mt 26,6-13), người trộm lành (Lc 23,39-43); trong lịch sử Giáo Hội có những người như Augustinô...
2. Vai trò của giáo dục
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã hội. Con người - mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương - nếu không được giáo dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm (x. Rm 7,15-20). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe dọa, thưởng phạt...
3. Đức Giêsu đến để cải hóa, cứu độ con người bằng đức tin
Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã «sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ». Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với Ngài. Ngài đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện thực, bằng cách sai Đức Giêsu, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức Giê-su cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), biến họ nên thánh thiện (x. Rm 6,22), và hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23 ). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: «Ai tin thì sẽ được cứu độ» (Mc 16,16; x. Cv 16,31).
Đức Giê-su đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện mình muốn làm, và nói «không» với những điều ác mình không muốn làm (x. Rm 7,15-20). Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác quyết: «Ai tin vào Người thì được sống muôn đời», «Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án». Như vậy, sức mạnh đến từ đức tin, tin vào Đức Giêsu Kitô.
4. Giới hạn của giáo dục
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào phải làm, điều nào nên tránh. Nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy, và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê liệt được sức mạnh của ý chí. Đó chính là điều mà thánh Phaolô cảm nghiệm rất rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là «tội»: «Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (...) không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (...) Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi» (Rm 7,15-20). Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt, vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng lại được.
5. Sức mạnh và sự cứu rỗi đến từ đức tin vào Đức Giê-su
Trước tình trạng bi thảm ấy, thánh Phaolô đã phải kêu cứu: «Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?» (Rm 7,24). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả năng cứu ông: «Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!» (7,25). Điều này đã được Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời», «Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án». Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng xác nhận điều ấy: «Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa». Như vậy, muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đức tin tạo nên sức mạnh: «Mọi sự đều có thể đối với người tin» (Mc 9,23), vì «nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em» (Lc 17,6). Khả năng làm được tất cả mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giêsu nói: «Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được» (Ga 15,5), mà là quyền năng của Thiên Chúa, «vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,27). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giêsu, Đấng ban sức mạnh, ta có thể nói như thánh Phaolô: «Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được tất cả mọi sự» (Pl 4,13).
Tin vững vàng vào Đức Giêsu, ta sẽ thật sự trở nên mạnh mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giêsu, vẫn cảm thấy mình còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giêsu chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài thôi? Đức tin của ta vào Ngài là thứ đức tin nào: đức tin rẻ tiền (tin hờ, tin ngoài miệng) hay đức tin đắt giá (tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn thân thật sự)? Rất nhiều Kitô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin. Thật ra, tin là một việc quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Phêrô, khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống (x. Mt 14,25-31).
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giêsu biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi đức tin của con đã biến đổi con thế nào? Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa? Đáng lẽ có đức tin, con phải vượt hơn họ xa lắm! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ chưa thật sự tin? Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thật, một đức tin được minh chứng bằng hành động thật sự.
Càng tới gần lễ lá, phụng vụ như muốn giới thiệu cho dân Chúa thấy phảng phất đâu đây cây: MC4-B12
Càng tới gần lễ lá, phụng vụ như muốn giới thiệu cho dân Chúa thấy phảng phất đâu đây cây thập giá. Một thập tự xem ra chỉ là một cây gỗ bị đóng chéo lại, nhưng cây thập giá lại bao hàm cả một mầu nhiệm tình thương. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô ban đêm cho nhân loại thấy rõ chiều kích thẩm sâu của ơn cứu độ. Muốn đạt được nước trời, con người phải được tái sinh nơi Chúa Giêsu chết và phục sinh.
Cuộc đối thoại
Một cuộc đối thoại có nghĩa là tìm hiểu cách thẳng thắn và nghiêm túc về một vấn đề nào đó. Ong Nicôđêmô một đầu mục của người Do Thái và là một người thuộc bè biệt phái đã tới gặp Chúa Giêsu bban đêm. Khi xuất hiện trong cuộc đối thoại này, ông Nicôđêmô tỏ ra là một người hết sức thiện chí và nhiệt tình. Thay vì bắt bẻ Chúa Giêsu như các người Biệt phái khác, ông Nicôđêmô tỏ ra muốn tìm hiểu sự thật với tất cả tấm lòng của mình. Nicôđêmô đã có lần bí mật bênh vực Chúa Giêsu ( Ga 12, 32 ) và ông cũng được tham gia vào việc liệm xác Chúa Giêsu. Những vấn nạn và câu trả lời của Chúa Giêsu cho Nicôđêmô là những lời tiên báo cho nhân loại chúng ta hiểu rõ rằng để thấy được nước Thiên Chúa đang khởi sự với Chúa Giêsu, người ta phải được sinh lại bằng lòng tin nơi Đức Kitô chết và sống lại. Tin mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu đã nói về cái chết của Ngài bằng những từ ngữ:" được nhắc lên cao ".
Nhắc lên cao có nghĩa là được treo lên như Môsê treo con rắn đồng lên cao trong sa mạc để ai nhìn lên con rắn đồng thì được cứu khỏi rắn cắn. Hình ảnh này chỉ là tiên trưng mà thôi. Thập giá nơi Đức Kitô được treo lên là dấu chỉ của tình thương giải thoát. Thập giá là nơi con Thiên Chúa được tuyên dương. Chỉ nơi thập giá mới có ơn cứu độ. Nơi Người, tức nơi Đức Kitô ơn cứu chuộc chứa chan. Mầu nhiệm thập giá luôn tuôn trào vì luật Tin Mừng là" Nếu hạt lúa rơi xuống đất mà không chết đi, thì vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều hoa trái"( Ga 12, 24 ). Thập giá chính là mạc khải của Thiên Chúa Cha ngang qua người con của Ngài là Chúa Giêsu. Đây là chóp đỉnh của tình yêu thương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để lên án mà để đem lại sự sống và hạnh phúc cho con người.
Đạo tình thương. Đạo Thập giá
Chúa Giêsu đã nói lên tất cả sự thật qua cái chết của Ngài:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến thân vì người mình yêu"( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu đã thiết lập một đạo , một đạo dựa trên tình thương. Thánh Gioan nói:" Thiên Chúa là tình yêu ". Chúa Giêsu chính là tình thương cứu độ. Người Kitô hữu trong mùa chay này, khi trở về với lòng mình, chắc chắn nhìn lên thập giá sẽ hiểu rõ lòng thương xót của Chúa. Thập giá chính là ơn giải thoát. Đạo Chúa Kitô không phải là đạo tìm thập giá mà chính là để mọi người nghiệm ra tình thương cứu độ của Chúa Kitô. Đạo của Chúa Kitô cũng không phải là thực thi một số kinh kệ và giữ một số lề luật cách máy móc, nhưng đạo chính là tình thương, do lòng mến phát sinh ra. Chúa Kitô luôn diễn tả tình thương qua con người đầy xót thương của Ngài." Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ".
Mùa chay, toàn dân Chúa hãy xét lại thái độ sống đạo của mình để khi sống trong năm thánh hóa gia đình này dân Chúa sẽ khẩn cầu Chúa Thánh Thần đến đổi mới tâm hồn, đổi mới đức tin, nhờ đó mọi gia đình sẽ sống trong tình thương vô biên của Chúa. Thập giá phải là vinh quang cho mọi người vì chính nơi thập giá, con người tìm lại được sự sống vĩnh cửu, sự sống dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mọi người chúng con hiểu được tình thương của Chúa, nhờ đó chúng con biết yêu mến thập giá vì thập giá là nguồn ơn cứu độ của chúng con.
Bài Tin Mừng nói đến con rắn đồng thời sa mạc. Con rắn đồng ấy là hình ảnh tiên trưng cho chính: MC4-B13
Bài Tin Mừng nói đến con rắn đồng thời sa mạc. Con rắn đồng ấy là hình ảnh tiên trưng cho chính Chúa Giêsu là Đấng sẽ được treo lên Thập giá. Ai tin vào Ngài và ngước nhìn lên Ngài thì sẽ được cứu độ.
Ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay là: tội lỗi của con người - lòng nhân từ của Thiên Chúa - Thiên Chúa dùng những phương tiện (mà cao quý nhất là chính Chúa Giêsu) để tha thứ và cứu độ loài người.
B. ... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu mời Nicôđêmô và chúng ta nhìn lên Thánh giá. Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì ? Thấy tội lỗi của chúng ta ; thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa ; và nếu cái nhìn của chúng ta thấm đượm lòng sám hối, tin tưởng và mến yêu thì chúng ta sẽ được ơn cứu độ.
2. Hình con rắn đồng đã được loài người dùng làm biểu tượng cho ngành Dược. Ngày xưa trong sa mạc, con rắn đồng đã cứu dân Israel khỏi chết thì ngày nay các dược phẩm cũng cứu loài người khỏi nhiều thứ bệnh tật. Nhưng con rắn đồng ngày xưa và những dược phẩm ngày nay cũng chỉ là một chút bóng mờ của chính Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Chúa Giêsu trên thập giá mới là linh dược chữa trị mọi thứ bệnh tật và cái chết của linh hồn. Khi ta bệnh, ta tìm thuốc uống. Khi linh hồn ta bệnh, ta có tìm đến thập giá Chúa Giêsu không ?
3. Kỹ sư Frank Denton được giao nhiệm vụ thiết kế những bộ y phục đặc biệt cho những nhà phi hành vũ trụ. Một trong những phần quan trọng nhất của mỗi bộ y phục này là một ống dây cung cấp dưỡng khí cho các nhà phi hành. Khi thiết kế xong ông đặt tên cho 2 bộ y phục của 2 phi hành gia ấy, một là J 3.16 và bộ kia là J 3,17. Đó chính là 2 câu trong bài Tin Mừng hôm nay: Ga 3,16 là “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Còn Ga 3,17 là “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Ý của nhà thiết kế này là cầu mong cho cuộc du hành vũ trụ của các phi hành gia được an toàn nhờ sự che chở của Chúa: cũng như những bộ y phục đặc biệt cung cấp dưỡng khí rất cần thiết để giúp các nhà phi hành có thể đi từ vệ tinh mẹ đến vệ tinh con thế nào, thì Chúa Giêsu cũng rất quan trọng và cần thiết để giúp mỗi người chúng ta đi từ đất lên đến trời (Kể theo Mark Link, Sunday homilies, Year B). ---------------------------
Giữa đêm thanh gió mát, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do thái, đến gặp Đức Giêsu. Người: MC4-B14
Giữa đêm thanh gió mát, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do thái, đến gặp Đức Giêsu. Người đàm đạo với ông về sự sống muôn đời. Sự sống muôn đời là sự sống trong nước Thiên Chúa. Ai tin vào Con Người, Đấng từ trời xuống, thì được sống muôn đời. Tin vào Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống. Tin vào Con Một đến cứu độ thế gian. Tin vào Con Một là ánh sáng thế gian để thiên hạ thấy rõ những chuyện trên trời mà sống theo sự thật để mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa. Như vậy, họ sẽ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn thuở.
Đức Giêsu dẫn chứng lịch sử thời Môisen đã treo con rắn đồng lên cây cờ, để ai bị rắn lửa cắn mà tin nhìn lên rắn đồng thì được sống (Ds. 21, 19). Sự kiện đó và bao nhiêu việc lạ lùng khác yêu thương dân Người, cứu họ khỏi chết, cho họ được sống. Giờ đây Thiên Chúa không phải chỉ sai sứ giả phàm nhân như Môisen, để treo rắn đồng mà sai chính Con Một Thiên Chúa xuống thế gian chịu treo mình để không chỉ cứu một dân tộc, mà cứu cả thiên hạ được sống, không phải chỉ sống dưới đất, mà còn được sống trong vinh quang nước trời.
Thánh Phaolô cũng nói với giáo đoàn Êphêsô phải tin vào “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và rất mực yêu thương chúng ta, tin vào Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa”. Tác phẩm của loài người chỉ là chữ chết hay đá gỗ mà còn mất bao nhiêu kỳ công. Huống chi chúng ta là tác phẩm sống động của Thiên Chúa, được sáng tạo trong trái tim Đức Giêsu để thực hiện những công trình tốt đẹp của Thiên Chúa, thì kiệt tác biết chừng nào !
Hơn nữa chúng ta còn là tác phẩm do công trình cứu độ của Thiên Chúa, còn tốt đẹp gấp bội hơn nữa: “Dầu chúng ta đã chết vì phạm tội, Người vẫn cho chúng ta được sống với Đức Giêsu Kitô, được sống lại, được ngự trị với Đức Kitô trên cõi trời, thế mới rõ tình thương và ân huệ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô dồi dào phong phú vô cùng”.
Tin thì được sống tuyệt vời như thế ! Kẻ không tin thì khốn cùng, tận diệt như thế nào ? Họ chuộng bóng tối, làm điều xấu xa, mỗi ngày thêm bất trung bất nghĩa, học đòi các thói tục ghê tởm, làm nhơ nhuốc đền thờ, khinh dể nhạo báng, chê cười các ngôn sứ, khiến Chúa nổi cơn thịnh nộ để cho quân thù tiêu hủy triệt hạ, châm lửa đốt tất cả bọn chúng. Còn sót lại những ai không bị gươm giết, thì bị đày làm nô lệ (Bài đọc I).
Thực ra những hình phạt hữu hình ấy bây giờ ít xảy ra. Nhưng những đau khổ ngấm sâu tận đáy lòng kẻ không tin thì rất nhiều.
Vị cứu tinh vĩ đại của Ấn độ, thánh Grandhi đã nói: “Không nhờ cầu nguyện thì tôi điên từ lâu rồi. Chúng ta cần nhiều nhà thờ để bồi dưỡng sức mạnh tinh thần cho nhân dân”. Cầu nguyện và nhà thờ là biểu lộ lòng tin. Lòng tin đã cứu ông khỏi điên. Không tin, ông đã bị điên vì đau khổ rồi.
Giáo sư William James, người cha của khoa học tâm lý thực nghiệm, đã viết: “Phương pháp thần diệu nhất để diệt ưu tư là đức tin tôn giáo, vì đức tin là năng lực giúp loài người sống mạnh”. Không có đức tin, con người là mồi ngon của ưu tư và nhu nhược.
Bác sĩ Jung, ông tổ khoa chữa bệnh tâm thần kể: “Trong ba mươi năm gần đây, có những người thuộc đủ các nước văn minh trên thế giới, xin tôi chữa bệnh. Tôi chữa được mấy trăm người. Họ đau vì mất thăng bằng. Phải kiếm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh, mà tôn giáo thời nào cũng đem lại cho tín đồ hai kho tàng quý báu: kiên nhẫn và cậy trông”. Không có tôn giáo, thế giới văn minh sẽ mất thăng bằng, bệnh hoạn, rối loạn và tuyệt vọng.
Bà Carnegie, bậc thầy về sách học làm người, đã kể: “Ba má tôi làm việc cực nhọc lắm, từ 4 giờ sáng đến 8-9 giờ tối, liên lỉ 16 giờ một ngày mà vẫn bị nợ nần quấy rầy. Trên ba mươi năm đầu tắt mặt tối, ba tôi chỉ chuốc thêm nợ nần nhục nhã. Ba tôi mất ăn mất ngủ, sức lực hao mòn. Bác sĩ nói: Ông không thể sống được quá sáu tháng nữa đâu. Lo lắng chán nản quá, lúc lên đò qua sông lớn, ba tôi tính lao đầu xuống sông tự tử. Nhờ thoáng nghĩ đến lời mẹ tôi khuyên: Nếu ta kính mến Chúa và giữ lời Người, mọi sự sẽ được như ý. Một sức mạnh tin tưởng đổ dồn vào tim ông. Ông đã phấn đấu với cảnh nghèo khổ và sống thêm 42 năm nữa. Ông thọ được 89 tuổi” (Nguyễn hiến Lê dịch “Quẳng gánh lo đi và vui sống” của Carnegie. Tr. 206).
Nhờ đức tin Grandhi đã không bị điên, còn trở nên thánh nhân và vĩ nhân thế giới.
Nhờ đức tin tôn giáo, bao nhiêu bệnh nhân tâm thần đã được khỏi, sống mạnh mẽ và yêu đời.
Niềm tin tôn giáo còn tránh cho xã hội bao nhiêu thảm họa khác nữa. Dostoievsky, một văn hào bậc nhất Liên Xô nói: “Không còn Thiên Chúa, người ta muốn làm gì thì làm, bất chấp xấu xa, tàn ác”.
Ai tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô thì chẳng những sống lành mạnh ở đời này mà còn được sống vinh phúc muôn đời. Ai không tin vào Con Người thì phải chết muôn thuở.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã bao nhiêu lần nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (Mt. 9, 22). Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con được sống dồi dào và được sống đời đời.
Con người được Chúa Trời Đất mời gọi để hòa nhập bơi lội trong giòng sông ân sủng tình yêu bao: MC4-B15
Con người được Chúa Trời Đất mời gọi để hòa nhập bơi lội trong giòng sông ân sủng tình yêu bao la, nhưng nhiều khi con người lại muốn tự làm khổ giam nhốt mình vào một giọt nước nhỏ nhen, đóng kín lại trong cái vỏ ốc ích kỷ tội lỗi của mình. Những bức tranh của Thái Tuấn thật "tinh giản, ít màu, ít nét và để nhiều khoảng trống rộng rãi..." đã khiến người xem chiêm nghiệm được cõi nhỏ và cõi lớn của đời người, phân biệt được sự giải phóng thực sự nằm ở làn ranh nào. Đây chẳng phải là một sứ điệp khẩn thiết đáp ứng thời điểm khi con người chuyển mình bước vào năm 2000 với bao giành giật tranh chấp trùng điệp hay sao? Bằng ấy năm vui giập đầy đọa nhau đã đủ để mình dừng chân tìm ra giây phút phản tỉnh chưa?
Chúa Giêsu đã diễn tả nỗi tự đầy đọa này trong cuộc sống nhiều người bằng hình ảnh bóng tối và ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta làm những việc gian ác cho nên rõ ràng là họ ưa bóng tối hơn ánh sáng. Đúng vậy, ai làm bậy là ghét và tránh ánh sáng, vì họ sợ hành vi của mình bị lộ tẩy; nhưng con người có tác phong chân chính thì dám đi vào chỗ sáng, để thiên hạ thấy rõ họ hành động theo mệnh trời' (Gioan 3:19-21)
Họa sĩ Thái Tuấn là một người Công Giáo. Dù ông không trực tiếp nói lên điều đó, nhưng xem tranh của ông, người thưởng ngoạn như đang hòa nhập vào cuộc chuyển biến từ cái tôi nhỏ nhen tù túng tăm tối mà hòa vào được cái Ta đại thể vô biên tràn trề ánh sáng là chính Chúa Trời Đất. Đó là cuộc hành trình "tìm về quê nhà đã mất". Đây mới là cuộc giải phóng đích thật, giải phóng con mắt mù tối che vít bởi tham sân si tự đầy ải mình. Người vẽ tranh và người xem tranh cùng đang linh thao hay thiền, nối lại được vào cuống nhau từ bụng "mẹ" đã một lần từ giã. Quê mẹ đây có thể là chính người mẹ sinh ra mình, mà cũng có thể là quê hương hằng thể, vượt không gian và thời gian. Niềm khao khát tìm về này như phảng phất tâm tình đầy chất đạo trong ca dao Việt:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Vậy những gì đang làm mình "ruột đau chín chiều"?, những gì đang trói buộc giam nhốt khiến mình tự đầy đọa rời xa quê hương hằng thể, mà trở thành giọt nước nhỏ nhen tách rời khỏi giòng sông sung mãn?" Và cuộc giải phóng này thực sự chỉ bắt đầu khi mình mở rộng cái tôi hạn hẹp hiện tại mà lãnh nhận giòng sức sống bao la là chính Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sức sống: "Thiên Chúa yêu thế gian tới mức đem người con độc nhất của mình làm quà tặng, để phàm ai tin vào Người sẽ không tiêu vong, nhưng sẽ được trường sinh bất tử" (Gioan 3:16)
Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu: MC4-B16
Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín vững chắc rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh tật này qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Chúa Giêsu nói với ông cụ Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sự sống vinh cửu."
Tình yêu chúng ta đối với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát ngát đến nỗi Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai... Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Chính khi nhìn vào thập tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình yêu của Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa. Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xảy ra mỗi khi chúng ta phủ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc chọn lựa đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng với tình yêu của Thiên Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm nay chúng ta đã đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét lại những dốc lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả qua nếp sống chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào cuộc đời của bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi nơi tối tăm của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Lời Chúa cho hôm nay: Ánh sáng và bóng tối * The light and the darkness *
Sách 2 Sử Biên niên; Thiên Chúa đã gởi đến họ các tiên tri để kêu gọi họ trở về đường: MC4-B17
* Bài đọc 1: 2 Sbn 35, 14- 16; 19- 23= Sách 2 Sử Biên niên; Thiên Chúa đã gởi đến họ các tiên tri để kêu gọi họ trở về đường chính, nhưng họ đã từ chối./ God had sent them prophets to call them back to righteousness, but they... *Bài đọc 2: Eph. 2, 4- 10= Quà của Thiên Chúa: Người đã cho ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời. / God's Gift: Both with and in Christ Jesus He raised us up and gave us a place in the heavens. *Bài Tin Mừng(Gospel) Gioan 3, 14- 21= Hãy nhìn lên Đức Kitô với lòng tin và sám hối, những kẻ yêu bóng tối hơn ánh sáng không thể được cứu ./ Looking to Christ with faith and repentance! Those who love darkness rather than light cannot be saved.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Nhân loại ngày nay đang chối bỏ Thiên Chúa, họ chỉ tìm cái lợi vật chất mau qua mà quên sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, những gì thấy được thì chóng qua, những gì không thấy được thì trường cửu. Tôi đã làm gì cụ thể để đón nhận Chúa Cứu thế ? "Yes, God so loved the world that He gave His only Son that whoever believes ...but may have eternal life." ( Ga. 3, 16 )
2/ Đức Giêsu nói thêm về Ngài như là Ánh Sáng, nhưng thế gian lại thích bóng tối là sự xấu xa: "Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng, và không đến cùng ánh sáng, để việc làm của họ không bị chê trách." Bạn và tôi cũng thường lẩn tránh những việc làm công khai rõ ràng cho mọi nguời thấy; nhưng quên rằng Thiên Chúa thấu suốt hết mọi sự. Tại sao trong gia đình và cộng đoàn bạn đang sống lại bị đổ vỡ, chia rẽ? "Everyone who practices evil hates the light; he does not come near it for fear his deeds will be exposed." (Ga. 3, 20 )
3/ Bài đọc 2, Thánh Phaolô muốn ta khiêm tốn khi được cứu độ như sau: "Đây không phải bởi sức anh em, nhưng là một ân huệ bởi Thiên Chúa; cũng không phải việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện" Thường sau khi làm ta hay xin Chúa trả công cho nhau nhiều quá mà quên ơn Ngài. Vì mọi việc hoàn tất là bởi ơn Chúá, nhưng ta lại lấy để chúc tụng nhau. Tôi cần sửa lại những sai lầm nào còn đang tồn tại? "..this is not from you; it is the gift of God; it is not from works, so no one may boast.." ( Eph. 2, 8- 9)
4/ Sách Sử Biên niên nhắc nhở mọi người: "Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân". Câu này đang nhắc nhở mỗi tín hữu về cách sống đạo của mình hiện tại. Bạn thấy mình có sai lỗi như trên không và quyết làm gì để sửa đổi? "All the princes, the priests and the poeple added infidelity to infidelity, practicing all the abominations..." (Sb. 36, 14 )
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn để làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Word )
Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng...( Ga. 3, 21 ) He who acts in truth comes into the light...
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa kêu gọi: ( So what am I doing / For Action)
a/ Tôi quyết bỏ một tính xấu mà gia đình hay cộng đoàn đang kêu trách từ bao năm qua vẫn chưa sửa. b/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
D. Tôi dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
* Lạy Chúa, Đức Kitô đã nói: Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để việc làm của họ không bị chê trách. Xin giúp con sống luôn làm việc thiện để đến cùng Chúa là Ánh sáng. * Sách Sử biên niên đã nhắc nhở con: Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa. Xin cho con mau thoát khỏi bóng tối là sự ác để trở về với Chúa là sự Sống thật.
Lời hay ý đẹp: Người liêm chính chẳng có gì để che dấu. A person of integrity has nothing to hide
Đức Giêsu là mạch sống của người tín hữu khi hành trình gian truân từ dương thế về đến cõi trời.
Đạo Kitô giáo thời sơ khai có những người trở lại từ Do Thái giáo, là những người vốn vẫn trông đợi: MC4-B18
Đạo Kitô giáo thời sơ khai có những người trở lại từ Do Thái giáo, là những người vốn vẫn trông đợi Đấng Mesia tới. Một trong những công việc của các nhà rao giảng Kitô giáo là cắt nghĩa cho những người Do Thái ấy Cựu Ước đã nhắm nói về Đức Giêsu như thế nào.
Họ đã thực hiện công việc ấy bằng cách chứng tỏ rằng những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu Ước đều là những hình bóng của những nhân vật chính yếu và của những biến cố then chốt trong Tân Ước.
Chẳng hạn họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
Isaac là con trai độc nhất, Chúa Giêsu cũng thế.
Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Chúa Giêsu cũng thế.
Isaac bị dâng làm hy lễ, Chúa Giêsu cũng thế.
Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Chúa Giêsu cũng thế.
Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Chúa Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, Ngài đã so sánh giữa Adam và Chúa Giêsu Ngài viết:
“Con người đầu tiên là Adam, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adam sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống... Adam thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra... còn Adam thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời”(1Cr.15,45-49)
***
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn đưa ra một cặp song đôi khác giữa Cựu Ước và Tân Ước. Ngài nói:
“Môisê đã treo con rắn đồng lên trụ cột nơi hoang mạc, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả kẻ tin vào Ngài sẽ được sống vĩnh cửu”
Chúa Giêsu đang hình dung nơi tâm trí Ngài biến cố xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân số mô tả. Biến cố này thuật lại sự kiện dân Israel đang gay gắt phàn nàn Thiên Chúa và Môise về những khó khăn họ gặp phải nơi hoang mạc. Vì lời kêu ca phàn nàn ấy, lũ rắn đã xuất hiện và tấn công dân chúng. Thấy sự việc này xảy ra, đám dân khóc lóc với Môisê.
“Chúng tôi đã phạm tội vì đã nói lời phản nghịch với Chúa và với Ngài. Giờ đây xin Ngài hãy cầu xin Chúa xua đuổi lũ rắn này đi”.
Vì thế, Môisê đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền cho Môisê đúc một con rắn bằng kim loại và treo nó lên một chiếc trụ, để cho bất cứ ai bị rắn cắn cứ nhìn vào con rắn ấy thì sẽ được chữa lành. Vì thế, Môisê đã đúc một con rắn đồng và treo nó lên một cái cột. Bất cứ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì đều được chữa lành” (Ds 21: 7-9).
(Y khoa đã chọn hình ảnh con rắn cuộn tròn quanh cây trụ làm biểu tượng cho nghề chữa bệnh.)
Đức Giêsu đã so sánh biến cố Cựu Ước này với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá tại đồi Canvê.
Ngài giải thích rằng bất kỳ ai tin tưởng nhìn lên Ngài thì sẽ được chữa lành về mặt tâm linh, cũng như dân Do Thái đã được chữa lành khi ngước nhìn lên con rắn cuộn vòng quanh cây trụ.
Trong câu 16 của bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cũng ám chỉ hình bóng đó khi nói về việc Đức Kitô bị tử hình trên thập giá.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời” (Ga 3: 16)
Và câu 17 viết tiếp:
“Thiên Chúa đã không sai con Ngài đến thế gian để luận phạt, mà là để cứu độ” (Ga 3: 17)
Hai câu này, nằm trong chương ba của Phúc Âm thánh Gioan, được gọi là bản tóm tắt Kinh Thánh chúng ta hãy nghe lại lần nữa.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài ngõ hầu tất cả những ai tin vào Con Ngài, sẽ không phải chết nhưng được sống lại đời đời. Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến thế gian để luận phạt mà để cứu độ”.
Cách đây ít năm, rất nhiều người đọc Kinh Thánh gán cho hai câu ấy một ý nghĩa hết sức đặc biệt (câu Ga 3: 16-17). Anh chị em hãy nhớ lại thời kỳ thế giới bắt đầu có những chương trình phi hành không gian, các kỹ sư điều nghiên không gian đã thiết kế những bộ quần áo đặc biệt dành cho các phi hành gia trong phi thuyền điều hành và phi thuyền đổ bộ mặt trăng. Bản thiết kế của mỗi bộ quần áo đó có một phần dành cho việc thiết kế sợi dây cung cấp dưỡng khí, gồm một ống dài có khả năng co giãn được. Mục đích của sợi dây này là cung cấp khí Oxy cho các phi hành gia khi họ di chuyển trong không gian, hay đi từ phi thuyền này sang phi thuyền khác. Sợi dây cung cấp dưỡng khí cho phi hành gia điều hành được nối với một bình tiếp nạp nằm trong bộ y phục, bình này được gọi là J 3: 16. Còn bình tiếp nạp nằm trong bộ y phục của phi hành gia đổ bộ mặt trăng được gọi là J 3: 17
Nhà thiết kế Frank Denton nói rằng ông đã đặt tên cho hai bình tiếp nạp trong bộ y phục ấy dựa theo hai câu Tin Mừng Ga 3, 16 và 3, 17.
Ông đã lập luận cho việc đặt tên ấy như sau; Bình tiếp nạp J. 3, 16 và J.3, 17 cung cấp cho các phi hành gia những gì họ cần để tồn tại trong hành trình di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia trong không gian. Tương tự như thế, hai câu Tin Mừng Ga 3, 16 và Ga 3, 17 cũng cung cấp cho chúng ta những gì chúng ta cần để tồn tại trong cuộc hành trình di chuyển từ dương thế về quê trời của chúng ta.
Bài Phúc Âm này hôm nay vì thế thực là phong phú ý nghĩa. Trước hết, nó chứa đựng bản tóm lược tuyệt hảo của toàn bộ Kinh Thánh, thứ đến, nó cho chúng ta thấy bức minh hoạ tuyệt vời về sự tương hợp giữa Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước. Và sau hết, nó chứng tỏ cho thấy Chúa Giêsu là mạch sống của chúng ta trong hành trình từ dương thế về quê trời, tựa như dây cung cấp dưỡng khí là mạch sống cho các nhà du hành vũ trụ khi họ di chuyển từ trạm này qua trạm kia.
Nói cách khác, dây chuyền dưỡng khí cung cấp cho các phi hành gia khí oxy cần thiết cho sự sống thế nào, thì Đức Giêsu cũng cấp cho chúng ta ân sủng ban sức sống như thế.
Để kết thúc, chúng ta hãy nhớ lại những lời của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay. Những lời này đưa chúng ta đến đỉnh cao thích hợp với những gì chúng ta đã bàn đến. Ngài nói:
“Chính nhờ ân sủng Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi. Khi chúng ta kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được sống lại cùng với Con Ngài và cùng người Con ấy cai trị thiên giới... chính nhờ ơn sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi qua đức tin chẳng phải do kết quả những nỗ lực riêng của anh chị em mà do ân huệ của Thiên Chúa... Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được như hiện nay”.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”.
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có: MC4-B19
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Polixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín rồi hãy lấy mà ăn.
- Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng Đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đến đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi trên cung trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng là chính là ý tưởng của Chúa Giêsu mà Thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng chết vì bạn hữu”
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa..” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn. Bạo lực, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đoạ, mất lương tâm nghề nghiệp... Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v..v.. Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Nguời không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng lên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh củu... đó là cuộc sống từ trên trời ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1 Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hoả ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để lụân phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi” (Ga 3, 17-19)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh cứu chuộc chúng con.
Còn ai hành động theo sự thật thì đến với ánh sáng.
Sao lại đem chuyện con rắn bằng đồng ra mà so sánh với Đức Giêsu? "Như ông Môisê đã treo: MC4-B20
Sao lại đem chuyện con rắn bằng đồng ra mà so sánh với Đức Giêsu? "Như ông Môisê đã treo con rắn trong sa mạc, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy". Câu văn này nghĩa là gì? Sách Thánh kể lại rằng, trong thời xuất hành tìm về đất hứa. Dân Do Thái vì đói và khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môisê. Để trừng phạt họ, những con rắn hổ lửa đã xuất hiện và gieo chết chóc trong dân. Nhưng Thiên Chúa đã rủ lòng thương. Ngài sai ông Môisê treo một con rắn bằng đồng lên ngọn một cây sào: "Ai nhìn vào con rắn ấy sẽ được cứu sống" (Dân số,21.8).
Sở dĩ do sự so sánh bớt khập khiễng vì có từ treo: Đức Giêsu bị treo trên thập gía, như con rắn đồng được treo trên cái sào. Một từ nữa là từ "sống". Những người đã bị rắn độc cắn trong sa mạc sẽ được tiếp tục sống, nếu nhìn vào con rắn đồng. Những ai đi tìm sự sống đời đời sẽ tìm thấy sự sống ấy trong Đức Giêsu, nếu họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu ban sự sống. Sự sống dồi dào sung mãn. Chứ không chỉ ban sự sống phàm nhân. Ngài ban sự sống vĩnh cửu. Vì đâu mà con người được phước trọng làm vậy? "Bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi đã trao ban Con Một của Ngài". Nguồn suối bất tận là tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Lời Chúa khiến ta vững lòng trông cậy. Có người cho rằng Đấng Thiên Sai sẽ tiêu diệt kẻ tội lỗi. Thánh Gioan cho chúng ta biết không phải như vậy. Thiên Chúa không gửi Con Ngài đến để lên án thế gian, nhưng để nhờ Ngài thế gian được cứu.
Còn nếu có những người cứ giam hãm mình trong tối tăm, trong tội ác, thì cũng đừng lên án họ, chính họ đã lựa chọn sự tối tăm.
Nói như vậy có phải là nói rằng, những ai không tin theo Đức Giêsu, những người " ngoại" ( ngoài Kitô giáo) là những người bị lên án phạt đời đời chăng ? Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng, sự gặp gỡ Thiên Chúa thì sâu sa hơn nhiều: nó xảy ra trong một tấm lòng chân thành, trong những việc làm tốt lành, trong việc cởi mở đón nhận người khác. Thánh Gioan viết rất rõ: "Ai hành động theo sự thật thì đến với ánh sáng".
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người thợ săn Trên: MC4-B21
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người thợ săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson
Khi còn là cậu con trai, ông cố ý làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma tuý, nó huỷ hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quẹt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thuơng của Chúa.
Ông cố gắng chạy trốn Chúa làm sao, Chúa săn đuổi ông thế nào, làm sao Thiên Chúa đã chộp bắt được ông. Đó là chủ đề của bài thơ gây cấn đó.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay; “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quí của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn, khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không huỷ bỏ.
Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý cho chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu thương chúng ta thì rộng rãi, nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài “Ta yêu Người bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer. 21.3) Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn, tình yêu của Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ Ngai toà Đấng Tối Cao trên trời cao thẳm mà tới. chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua bí tích . tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Betlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rốt hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới.Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “Tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng tình thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
- "Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc... " (Ga 3,14) Sợi chỉ đỏ
Các bài đọc hôm nay minh họa cho sơ đồ thường gặp trong Thánh Kinh: Tội phạt hối cứu: MC4-B22
Các bài đọc hôm nay minh họa cho sơ đồ thường gặp trong Thánh Kinh: Tội phạt hối cứu, nghĩa là vì phạm tội nên con người bị phạt Ợ nhưng nếu biết sám hối thì được cứu.
- Bài đọc I (2 Sb 36,14-16.19-23): Trong cảnh khổ của thời lưu đày, dân do thái đã ăn năn nên Thiên Chúa cho vua Kyrô ra chiếu chỉ cho họ hồi hương.
- Bài Tin Mừng (Ga 3,14-21): Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng. Ai phạm tội mà nhìn lên nó thì được cứu.
- Bài đọc II (Êp 2,4-10): Tội lỗi khiến con người phải chết, nhưng nhờ Đức Giêsu nên con người lại được sống.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa. - Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em. - Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: 2 Sb 36,14-16.19-23 Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày: vì dân do thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
2. Đáp ca: Tv 136 Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày: buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Tin Mừng: Ga 3,14-21 Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
4. Bài đọc II: Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói "Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót". Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi... "
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân do thái thấy tình yêu của Ngài:
- Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
- Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
- Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
- Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
- Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận: "Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, do thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát "giận thì giận mà thương thì thương". Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
- Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất "giận" (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả "như nhân"). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
- Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất "giận" nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã "ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh" (St 4,15).
- Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy: luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" ; "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý: "Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ"
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ "bị Chúa phạt". Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người do thái lên án, nhưng phần Đức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như: người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 "Tội của chĐ đã được tha rồi"), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần:
- Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Đức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
- Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo do thái muốn giết Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không ?" (Ga 7,51)
- Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật: "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết: "Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng"
5. Nỗi buồn thánh
"Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion". Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
- Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
- Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
- Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân do thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
- Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào ? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày... mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
****
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối ? Có lối nào để trở về với ánh sáng ? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm. Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
****
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới. 3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế : Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Dù chúng ta phạm tội nhưng Ngài vẫn thương chúng ta. Vậy chút nữa đây khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt lấy hết tâm tình nói với Ngài câu "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
- Trước lúc rước lễ: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con Một của Ngài làm lương thực cho chúng ta.
VII. GIẢI TÁN
Hôm nay chúng ta được biết một điều rất an ủi là Thiên Chúa không muốn phạt ai cả mà chỉ muốn cứu mọi người. Bất cứ ai tội lỗi sám hối quay về với tình thương của Chúa thì đều được tha thứ. Chúng ta đều có tội, vậy chúng ta hãy sám hối quay về với Chúa, đón nhận sự tha thứ của Ngài.
Nếu phân biệt thế gian với thần thiêng, người ta dễ ngộ nhận tất cả những gì là tục lụy, là thấp: MC4-B23
Nếu phân biệt thế gian với thần thiêng, người ta dễ ngộ nhận tất cả những gì là tục lụy, là thấp kém, là xấu xa, không đáng tôn thờ, trân trọng, dễ bị gán ghép cho là tội lỗi và thế gian được gán cho là một trong ba kẻ thù nguy hiểm nhất: ma quỷ, xác thịt và thế gian. Thế gian xem ra gần gũi với con người nhất. Chính vì thế, người ta dễ lúng túng khi phải trực diện với lời khẳng định của thánh Gio-an: ”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ).
THẾ GIAN – THẾ NGAY
Trần gian hay thế gian vẫn là tạo vật quý hóa Thiên Chúa đã tạo dựng ra nó. Cái thánh thiêng hay linh thiêng vẫn là một cái gì linh thánh, cao siêu, vượt cái gì là tục hóa, là phàm trần, là xấu xa đê hèn. Thiên Chúa yêu thương thế gian vì chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên nó, đã ấp ủ, đã nuôi dưỡng nó và như thế, Ngài luôn yêu thương nó dù nó có bị gán cho ngôn từ gì đi nữa. Thế gian vẫn được phân chia ra nhiều loại, nhiều giới. Người ta có thể hiểu được nếu có một loại nào tội lỗi thì đó chỉ là một loại trong muôn loại, muôn loài Thiên Chúa đã dựng nên.
Ngay từ trang đầu tiên của sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã tạo dựng nên bầu trời, vũ trụ, cây cỏ, muôn loài trên trời dưới đất và cuối cùng Ngài tạo dựng nên con người. Vì được tạo dựng, mọi loài, mọi vật và con người đều được Chúa yêu thương ủ ấp, cho dẫu rằng con người có phản nghịch Thiên Chúa hay giới tội lỗi nào đó có bội phản Ngài, Đức Ki-tô chưa chắc đã loại trừ hay lên án họ, Ngài đến vì họ và cho họ: ”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 17 ).
Tôi còn nhớ, khi tiếp xúc với người Dân Tộc Kơho, cái ấn tượng đập vào đầu tôi là những người Dân Tộc trước kia thờ thần núi ( Yang Kơ ), thần rừng ( Yang bơnơm ) và đủ loại thần khác. Tuy nhiên, khi cắt nghĩa cho họ rằng người Dân Tộc cũng là con của Thiên Chúa, một Vị Thần lớn hơn mọi vị thần, một Đấng đã dựng nên mọi thần và dựng nên cả loài người: ”Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” ( St 1, 27 ). Người Dân Tộc Kơho đã hình dung ra một Đấng lớn lao vĩ đại, có quyền năng tuyệt đối, lớn hơn và có uy quyền hơn cả ông tổ của họ là Xơrơđen, con của nữ thần mặt trời.
Cảm nghiệm như thế, người Kơho cảm thấy vững dạ an tâm vì họ hiểu rằng chính vì yêu, vì giải thoát mà Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa đã đến thế gian và cũng chính vì yêu, để bảo tồn công trình cứu chuộc nhân loại mà Chúa đã sai các Môn Đệ, sai mọi người, sai Hội Thánh, đi khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng ( Mc 16, 15 ). Ta cũng nghiệm thấy rõ ràng ngay trong bữa Tiệc Ly, trong Lời Nguyện Hiến Tế, Chúa Giê-su đã xin: ”Không xin cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin cha gìn giữ họ khỏi ác thần” ( Ga 17, 15 ).
Thế gian hay thế ngay vẫn là tạo thành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ác thần hay ma quỷ mới bị lên án một cách vĩnh viễn vì nó đối nghịch với sự sáng là Chúa Giê-su Ki-tô. Thiên Chúa yêu thế gian có nghĩa là dù thế nào đi nữa Thiên Chúa vẫn không đặt giới hạn, không loại trừ mà Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và tìm cách cứu thoát.
ĐẠO CỦA CHÚA LÀ ĐẠO TÌNH THƯƠNG
Thiên Chúa là Tình Yêu. Đạo của Ngài thiết lập là Đạo Tình Yêu. Chính vì yêu, Thiên Chúa đã sai của Ngài đến thế gian, để ai tin vào con của Ngài thì được cứu độ. Tin Mừng của thánh Gio-an trong đoạn Ga 3, 14 – 21 đã dùng chữ nhắc lên cao và con rắn đồng mà Mô-sê tuân lệnh Chúa đã nâng cao trong sa mạc, ai nhìn lên con rắn đồng sẽ không bị rắn cắn chết. Trong lớp Giáo Lý cho anh chị em tân tòng người Koho, bài học hôm đó là: ”Tại sao Chúa Giê-su Ki-tô lại bị treo lên thập giá ?” Một cô gái Kơho đứng lên nói: “Thưa bap ( cha ), Chúa yêu con người, muốn cho con người được hạnh phúc, nên hy sinh chết trên thập giá để cho mọi người được vui tươi”. Tôi gật đầu tán thưởng, nhiều anh chị em Dân Tộc cũng vỗ tay tán thành. Xem ra anh chị em Kơho sau khi được cắt nghĩa, được khai mở trí khôn, được loan báo Tin Mừng, họ có một sự tin tưởng sâu sắc vào Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Một hôm, đang đi vào một buôn làng xa nhà xứ hơn 20 cây số, một già làng kể cho tôi một câu chuyện như sau: “...Anh chị em Dân Tộc chúng tôi từ ngàn xưa đã tin vào các thần, đau ốm là do thần nổi giận, muốn cho các thần nguôi ngoai cơn giận, gia đình có người đau phải mời thầy cúng. Chúng tôi vẫn tin nhờ thầy cúng người đau mới được khỏi bệnh. Đau ốm hồi xưa không biết đến bác sĩ, y sĩ và thuốc thang, nhưng đau đồng hóa với cơn giận của thần. Người Dân Tộc chúng tôi lúc xưa khi đau ốm không biết đến thuốc thang mà chỉ biết chạy tới thầy cúng tế, nên có lúc người đau ốm đã bị thiệt mạng rất nhiều. Điều ấy nói lên sự mê tín dị đoan của chúng tôi, nhưng thực sự chúng tôi lúc đó chưa hiểu”.
Ngày nay, khi anh chị em chúng tôi được học hỏi nơi các vị Thừa Sai, nơi người Kinh và nơi những người văn minh, chúng tôi hiểu ra rằng đau phải đi bệnh viện, đau phải tới bác sĩ để bác sĩ bắt mạch, kê toa cho thuốc. Tôi được dịp nói thao thao bất tuyệt về bệnh, về khoa học, về văn minh y học cho ông già làng và cắt nghĩa cho ông về niềm tin nơi Đấng Tạo Hóa, Đấng ấy là ông Trời, là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng đầy yêu thương. Đấng ấy đã tới thế gian vì yêu thương mọi người, Đấng ấy đến để cho chiên sống và sống dồi dào. Dưới cái nhìn của Thánh Gio-an, để cho chiên sống và sống dồi dào, Thiên chúa đã không tiếc bất cứ điều gì ngay đến Người Con Một duy nhất Ngài cũng hy sinh ( bài đọc 2 ).
Đức Giê-su Ki-tô đã nói: ”Khi nào Tôi được nâng lên cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”, hoặc: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu mến” ( Ga 15, 13 ). Cái chết trên thập giá là bằng chứng hùng hồn của Chúa Giê-su Ki-tô đã vì yêu mà hy sinh tất cả. Đó là tình yêu tự hiến. Chết mới được nói lên lời. Thập giá luôn là thách đố cho mọi người. Đạo Thiên Chúa là Đạo Tình Yêu, Đạo Thập Giá. Nhưng Đạo Thiên Chúa không có nghĩa là đi tìm thập giá để vác cho nặng mà là vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa Ki-tô.
Hoán cải trong Mùa Chay cũng có nghĩa là nhìn lên thập giá như dấu chỉ của lòng thương xót vô biên của Chúa. Đạo Ki-tô Giáo không có nghĩa là đạo của một Thiên Chúa hay phạt, nhưng là đạo của Thiên Chúa tình thương. Đúng như người Dân Tộc vẫn nói: ”Cái Đạo Tình Thương là cái đạo no cái bụng, chứ không no cái tai”.
Người Kơho vẫn giản dị, vẫn chân chất núi rừng vì họ đơn sơ chất phác, tin rằng Thiên Chúa tình thương là Thiên Chúa yêu họ, kính trọng họ như cha mẹ họ mến yêu, đùm bọc, săn sóc họ. Họ tin đời này dù có phải vất vả, dù có phải vác thập giá như Chúa Giê-su nói, nhưng họ được yêu thương, không bị phân biệt và được đối xử đồng đều, như thế họ sẽ được chính ánh sáng là Đức Giê-su Ki-tô chiếu tỏa và soi đường.
Người Kơho cũng như mọi người đều được mời gọi sống yêu thương, được mời gọi cộng tác vào công trình cứu chuộc của Chúa vì tất cả con người trên thế gian được Thiên Chúa tạo thành giống hình ảnh của Ngài, giống hình ảnh của Thiên Chúa, con người mặc lấy Đức Ki-tô Phục Sinh để nơi chính họ thắp sáng lên, làm đẹp thế gian và làm cho thế gian tràn ngập vinh quang của Đấng đã kinh qua cái chết để khải hoàn vinh thắng.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin cho tất cả chúng con được yêu mến Thập Giá của Chúa vì muốn vinh quang chúng con phải ngang qua sự đau khổ của Thập Giá Chúa.
Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT, Giáo Điểm Fyan, Giáo Phận Đà Lạt
1. CON NGƯỜI CÓ THỂ THAY ĐỔI: NGƯỜI XẤU THÀNH NGƯỜI TỐT
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào ( đạo, đời ), trong bất kỳ lãnh vực nào ( chính trị, văn: MC4-B24
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào ( đạo, đời ), trong bất kỳ lãnh vực nào ( chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội ), trong bất kỳ cấp độ địa vị nào ( cao, thấp ), tuổi tác nào ( già, trẻ )... cũng đều có người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh, v.v... Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi: người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại.
Thật vậy, có người rất ác rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó, hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người như Ma-ri-a Ma-đa-lê-na ( x. Mt 26, 6 – 13 ), người trộm lành ( Lc 23, 39 – 43 ); trong lịch sử Giáo Hội có những người như Thánh Âu-tinh...
2. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã hội. Con người – mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương – nếu không được giáo dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm ( x. Rm 7, 15 – 20 ). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe dọa, thưởng phạt…
3. ĐỨC GIÊ-SU ĐẾN ĐỂ CẢI HÓA, CỨU ĐỘ CON NGƯỜI BẰNG ĐỨC TIN Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã ”sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với Ngài.
Thiên Chúa đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện thực, bằng cách sai Đức Giê-su, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức Giê-su cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi ( x. Mt 9, 13; Lc 5, 32 ), biến họ nên thánh thiện ( x. Rm 6, 22 ), và hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi ( x. Mt 1, 21; Mc 2, 17; Rm 6, 6 . 18; Dt 9, 26b; 1 Ga 1, 7b ). Ngài còn có quyền tha tội ( Mt 9, 5 – 6; Mt 26, 28; Cv 10, 43; Cl 1, 14 ), và ban ơn cứu rỗi ( x. Lc 19, 9; Ga 4, 42; Cv 4, 12; 13, 23 ). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng Đức Tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” ( Mc 16, 16; x. Cv 16, 31 ).
Đức Giê-su đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện mình muốn làm, và nói “không” với những điều ác mình không muốn làm ( x. Rm 7, 15 – 20 ).
Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác quyết: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Như vậy, sức mạnh đến từ Đức Tin, tin vào Đức Giê-su Ki-tô.
4. GIỚI HẠN CỦA GIÁO DỤC
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào phải làm, điều nào nên tránh. Thế nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy, và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê liệt được sức mạnh của ý chí.
Đó chính là điều mà Thánh Phao-lô cảm nghiệm rất rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là tội: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (...) không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (...) Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” ( Rm 7, 15 – 20 ).
Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt, vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng lại được.
5. SỨC MẠNH VÀ SỰ CỨU RỖI ĐẾN TỪ ĐỨC TIN VÀO ĐỨC GIÊ-SU
Trước tình trạng bi thảm ấy, Thánh Phao-lô đã phải kêu cứu: “Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ?” ( Rm 7, 24 ). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả năng cứu ông: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta !” ( 7, 25 ). Điều này đã được Đức Giê-su xác định với Ni-cô-đê-mô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Trong bài đọc hai, Thánh Phao-lô cũng xác nhận điều ấy: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”. Như vậy, muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin vào Đức Giê-su Ki-tô.
Đức Tin tạo nên sức mạnh: “Mọi sự đều có thể đối với người tin” ( Mc 9, 23 ), vì “nếu anh em có Lòng Tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” ( Lc 17, 6 ). Khả năng làm được tất cả mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giê-su nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ), mà là quyền năng của Thiên Chúa, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1, 27 ). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giê-su, Đấng ban sức mạnh, ta có thể nói như Thánh Phao-lô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được tất cả mọi sự” ( Pl 4, 13 ).
Tin vững vàng vào Đức Giê-su, ta sẽ thật sự trở nên mạnh mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giê-su, vẫn cảm thấy mình còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giê-su chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài thôi ? Đức Tin của ta vào Ngài là thứ Đức Tin nào: Đức Tin rẻ tiền ( tin hờ, tin ngoài miệng ) hay Đức Tin đắt giá ( tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn thân thật sự ) ? Rất nhiều Ki-tô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin.
Thật ra, tin là một việc quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Thánh Phê-rô, khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống ( x. Mt 14, 25 – 31 ).
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giê-su biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi Đức Tin của con đã biến đổi con thế nào ? Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa ? Đáng lẽ có Đức Tin, con phải vượt hơn họ xa lắm ! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ chưa thật sự tin ? Xin Cha hãy ban cho con Đức Tin đích thật, một Đức Tin được minh chứng bằng hành động thật sự.
Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội kêu trách Chúa. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết: MC4-B25
Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội kêu trách Chúa. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Mô sê cứu chữa. "Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa liền nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống". Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Mô-sê, Đức Giê-su mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giê-su bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
Nhận thức về tội lỗi của ta.
Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giê-su đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giê-su đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
Nhận thức về tình yêu thương của Chúa.
Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hi sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã "yêu ta đến nỗi đã ban Con Một" của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giê-su đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu" ( Ga 15,13 ). Chính Người đã hi sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu ? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. , Người Do thái bị rắn lửa cắn sẽ chết. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ thánh giá chiếu tỏa sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Anh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi đưa ta trở về làm con cái Thiên chúa sự sáng. Anh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: "Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta" (Ga 12,32). Xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không. ? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2- Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không ?
3- Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa ? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không ?
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muốn đời”.
Anh chị em thân mến,
Để thử thách đức tin của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa đã yêu cầu ông giết con một của mình: MC4-B26
Để thử thách đức tin của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa đã yêu cầu ông giết con một của mình là Isaác để tế lễ cho Ngài, và ông đã vâng lời không điều kiện, ông vâng lời là vì ông đã tin vào Thiên Chúa toàn năng, ông đã tin rằng: lời hứa của Thiên Chúa dành cho ông sẽ vĩnh viễn không bị quên lãng, nhưng sẽ được thực hiện dù cho mất đứa con độc nhất này, và ông đã trở thành cha của những kẻ tin.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho ông Nicôđêmô thấy ý định của Thiên Chúa, hay nói cách khác, kế hoạch “cứu người” của Thiên Chúa khi Ngài nói: “Thiên Chúa vì yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một của Người...” Lần này Thiên Chúa không thử đức tin của ai cả, nhưng Thiên Chúa đã đem mạng sống của người Con duy nhất, bất tử, tinh tuyền của mình, để đổi lấy mạng sống hư mất, hay chết và tội lỗi của nhân loại, của chúng ta. Đó là tình yêu, tình yêu dâng hiến và cứu sống, tình yêu dâng hiến này có giá trị mãi mãi đến muôn đời, trí óc con người không thể dò thấu, hiểu nổi.
Hôm nay, nếu Thiên Chúa nói với anh chị em rằng: Ngài cần đứa con đầu lòng của các anh chị, cho nên Ngài yêu cầu anh chị -để bày tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa- hãy giết con của mình để làm của tế lễ cho Ngài, thử hỏi các anh chị có vui lòng vâng lời Thiên Chúa như tổ phụ Abraham ? Chắc chắn là không, vì không ai nở nhẫn tâm giết con mình, dù với mục đích cao cả là tế lễ Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã xử sự như thế khi cứu chuộc nhân loại tội lỗi: sát tế Con độc nhất của mình là Đức Giêsu Kitô.
Con Một của Thiên Chúa đã đến rồi đó, Ngài chính là Đức Giêsu Kitô. Ai tin Ngài thì sẽ được sống đời đời, chúng ta cũng tin vào Ngài rồi đó. Ngài đang ở đây, trong nhà thờ này nơi bí tích Thánh Thể mà chút xíu nữa, chúng ta sẽ rước Ngài vào trong tâm hồn của chúng ta, Ngài trở thành lương thực hằng sống nuôi dưỡng linh hồn và làm cho nó được sống đời đời. Chúng ta tin rồi đó.
Nhưng đức tin đã soi sáng và dẫn đưa chúng ta tiến thêm một bước nữa để trưởng thành hơn: đó là mỗi một người trong chúng ta đều là những con một của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta như trên thế gian này chỉ có một chúng ta mà thôi. Vì vậy mà Con Một của Ngài là Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy yêu thương anh chị em, như là yêu chính Ngài vậy. Yêu thương, đương nhiên là không đầu môi chót lưỡi, yêu thương đương nhiên không làm bộ làm tịch bên ngoài để cho mọi người thấy, nhưng chính là yêu như yêu Chúa vậy, nghĩa là yêu với tất cả tấm lòng chân thành, không vì chút sĩ diện hay khoe khoang, không vì để quảng cáo hay để tuyên truyền, nhưng là vì yêu Chúa trong con người của họ.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã đi được nửa chặng đường của mùa chay, có nghĩa là chúng ta càng ngày càng đến gần ngày đại lễ Vượt Qua của thời Tân Ước, tức là đại lễ Phục Sinh, càng đến gần ngày đại lễ, thì cơn cám dỗ của satan càng gia tăng mạnh mẽ, do đó mà chúng ta cần phải tỉnh thức và cầu nguyện, tỉnh thức để thấy, cầu nguyện để ngắm, thấy và ngắm Thiên Chúa đang ở trong người anh em chị em của chúng ta. Đó chính là niềm tin của chúng ta vào Con Một của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô Đấng cứu chuộc chúng ta. Đó cũng chính là sợi giây vô hình liên kết chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng gợi ý Chủ Nhật 4 Mùa Chay tại nhà thờ Chúa Thánh Thần - Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------------------------
MC4-B27. ÂN SỦNG & LÒNG TIN
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM B (26.03.2006)
fin I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Hãy hành động như tất cả tùy thuộc ở bạn và hãy cầu nguyện như tất cả tùy thuộc vào Thiên: MC4-B27
“Hãy hành động như tất cả tùy thuộc ở bạn và hãy cầu nguyện như tất cả tùy thuộc vào Thiên Chúa.” Sứ điệp của ba bài Thánh Kinh của Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay năm B này có thể tóm tắt trong câu châm ngôn ấy. Cũng tương tự như một câu nói bất hủ của Thánh Au-tinh đại ý như sau: “Thiên Chúa dựng nên con thì không cần có con, nhưng Thiên Chúa không thể cứu con, nếu không có con.”
Ơn sủng và lòng tin là hai yếu tố thiết yếu tạo nên Ơn Cứu Độ. Không có ơn sủng, không có ơn cứu độ. Nhưng không có lòng tin cũng không có ơn cứu độ. Ơn sủng là của Thiên Chúa, Người ban không cho con người. Lòng tin là sự đáp trả và đóng góp của con người. Thật là sự hợp tác kỳ diệu và tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật trong việc đem hạnh phúc thật đến cho tạo vật là loài người chúng ta!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16.19-23: Cơn thịnh nộ và lòng thương xót của Chúa.
(14) Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. (15) ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. (16) Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến ĐỨC CHÚA bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.
(19) Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hỏa đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc quý giá. (20) Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. (21) Thế là ứng nghiệm lời ĐỨC CHÚA phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.
(22) Năm thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba Tư, để lời ĐỨC CHÚA phán qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, ĐỨC CHÚA tác động trên tâm trí Ky-rô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: (23) "Ky-rô, vua Ba Tư, phán thế này: 'ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên ...!"
(2) Bài đọc 2: Ep 2,4-10: được cứu độ nhờ ân sủng.
(4) Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, (5) nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! (6) Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.
(7) Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. (8) Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; (9) cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. (10) Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 3,14-21: ai tin vào Con Một thì được cứu độ.
(14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
(16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Trong bài đọc 1 (2 Sb 36,14-16.19-23), chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và quảng đại đối với dân Ít-ra-en như thế nào: dù dân và những người lãnh đạo của dân có phản bội, bất trung, bất nghĩa thế nào đi nữa thì Chúa vẫn một mực yêu thương và thứ tha cho họ. Để lôi kéo dân trở về, Thiên Chúa sai các sứ giả đến dạy dỗ hướng dẫn dân. Thiên Chúa còn dùng cả nhà vua Ba Tư để thực hiện chương trình cứu độ của Người.
(2) Trong bài đọc 2 (Ep 2,4-10) Thánh Phao-lô Tông đồ xác định một điều hết sức quan trọng và cốt yếu trong giáo lý và thần học Ki-tô giáo: con người được cứu là nhờ lòng thương vô bờ bến của Thiên Chúa tức nhờ ơn sủng mà Thiên Chúa rộng lượng ban không cho con người, chứ không phải do công lao của con người. Nhưng nói thế không có nghĩa là con người không “có phần” trong đó. Phần của con người và là phần không thể thiếu (sine qua non) là lòng tin, là sự đáp trả của con người trước tấm lòng yêu thương và ân ban của Thiên Chúa.
(3) Trong bài Tin Mừng (Ga 3,14-21) Thánh Gio-an kể lại những lời khẳng định của Chúa Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một bậc thày trong dân Ít-ra-en thời Chúa Giê-su, về điểm cốt lõi của Ki-tô giáo: Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã ban Con Một Người cho thế gian để những ai tin vào Người thì được cứu!
Cũng là ân ban và lòng tin. Ở nơi nào hai yếu tố này gặp nhau thì ở nơi ấy phát sinh ơn cứu độ.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người / mỗi cộng đoàn chúng ta hãy:
đón nhận Ơn Sủng của Thiên Chúa & đáp lại Tình Thương của Người bằng TIN vào Con Một của Người là Chúa Giê-su Ki-tô!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống Lời Chúa hôm nay là:
(a) Mở rộng tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa đổ tràn Ơn Sủng của Người vào đó. Tâm hồn và cuộc sống của chúng ta càng rộng mở với Thiên Chúa thì chúng ta càng hứng được nhiều ơn sủng của Người.
đồng thời là:
(b) Đáp lại Tình Yêu của Thiên Chúa bằng một lòng tin sắt son vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô.
Mỗi người / mỗi cộng đoàn hãy tự kiểm điểm xem:
* Tâm hồn và cuộc sống của mình / của cộng đoàn mình có mở đủ rộng cho Ơn Chúa đổ vào không? Trong tâm hồn và cuộc sống của mình / của cộng đoàn mình có gì đang ngăn cản không cho Ơn Chúa đổ vào? Cá nhân và cộng đoàn phải làm gì để khai thông cho Ơn Chúa đổ vào tâm hồn và cuộc sống của mình?
* Cá nhân và cộng đoàn có thật sự tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Con Một Thiên Chúa không? Cá nhân và cộng đoàn phải thay đổi gì trong cách suy nghĩ và hành động để tăng cường lòng tin vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô?
IV. CẦU NGUYỆN
"Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì do Tình Yêu bao la như sông như biển mà Cha đã ban Ơn Sủng cho chúng con.
Chúng con xin Cha cho chúng con biết trân trọng Ân Ban của Cha mà luôn biết sống với Cha bằng tâm tình biết ơn và khiêm tốn.
"Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án"
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa và là Chúa chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã cứu chúng con bằng cuộc sống cũng như bằng cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con một lòng tin sắt son để chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa và không bao giờ phụ lòng và sự hy sinh vô cùng cao cả của Chúa. “Ánh sáng đã đến thế gian”
Lạy Chúa Thánh Thần là ánh sáng thần linh, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã soi sáng cho chúng con nhận ra và tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một của Thiên Chúa và là Chúa chúng con.
Chúng con xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con củng cố lòng tin và mở rộng hơn nữa tâm hồn và cuộc sống của chúng con để Ơn Chúa đổ xuống cho chúng con nhiều hơn nữa. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 16.03.2006
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước: MC4-B28
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao ? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ MC4-B29
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. 2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không? 3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội chính: MC4-B30
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là đời sống của Chúa Giêsu. Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một cớ vấp phạm, không một suy tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những chọn lựa mà chúng ta đang làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội lỗi hay chọn lựa ánh sáng sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm thấy bị vỡ mộng và khó chịu về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng của tôi. Cuộc sống của tôi dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình biết là cần phải làm thì lại không làm được.
Trong thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành việc xét mình hàng ngày, vào ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng ta nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều chúng ta cần phải làm mà đã không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình, nhận biết các tội đã phạm, giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí của mình và sẵn sàng đón nhận những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một chiến trường giữa hai lực lượng thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng khi khắc phục được tội lỗi và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta chịu thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái của ánh sáng và không trượt ngã vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con chiến đấu với các đam mê tội lỗi và nết xấu của con.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn: MC4-B31
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì ? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này ? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn”. Như vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai ? Tin vào mình chăng ? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng ? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu. Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng: MC4-B32
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy... Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa."
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối này thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên...
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Câu truyện dưới đây tác giả đặt sau bài suy gẫm, kiểu như để đọc thêm. Người dịch lại chuyển: MC4-B33
Câu truyện dưới đây tác giả đặt sau bài suy gẫm, kiểu như để đọc thêm. Người dịch lại chuyển lên đầu, để giúp minh hoạ cho nội dung bài Tin mừng hôm nay. Lý do là độc giả Việt Nam không thích suy luận trừu tượng, ưa những gì cụ thể. Truyện của nữ tác giả Ann Lamott trong sách Bird by Bird (Từng Con Chim).
Một em bé trai tám tuổi có người em gái sáu tuổi đang hấp hối chết vì bệnh ung thư máu. Để cứu được bệnh nhân người ta cần đến một loại máu tương tự. Cha mẹ giải thích cho con trai là đi thử máu để xem có thích hợp với máu của em gái không? Em nhanh nhẹn bằng lòng. Sau khi thử, hai loại máu hoàn toàn am hợp. Rồi các bác sĩ đề nghị em cho em gái mình vài phân khối máu để cứu em. Đứa anh lưỡng lự nói để suy nghĩ xem sao qua một đêm.
Sáng hôm sau, vừa thức dậy, em chạy đến phòng cha mẹ trả lời là em sẵn sàng hiến máu. Cha mẹ vui mừng đưa em vào bệnh viện, nơi con gái đang nằm chờ chết. Người ta đưa em lên giường để hút máu nơi cánh tay. Sau đó người ta tiếp máu cho bệnh nhân. Chỉ một vài lượng máu mà đứa con gái nhỏ thoát khỏi thần chết. Mọi người vui mừng. Một bác sĩ đến giường người cho máu để xem lại sức khỏe cho em. Đứa anh trai đang nằm lim rim mở to đôi mắt hỏi: "Thưa bác sĩ bao lâu nữa thì con mới chết?" Bác sĩ mỉm cười. Với tâm hồn ngây thơ, em cứ ngỡ cho máu như thế là mình sẽ chết thay cho em gái.
Trong câu truyện với Nicôđêmô Chúa Giêsu cũng đề cập đến việc Ngài sẽ chết thay cho nhân loại. Nhưng là chuyện tương lai, cho nên khó mà nắm bắt được hết ý nghĩa. Giọng văn của thánh Gioan thâm trầm, súc tích lại càng làm cho độc giả bối rối hơn. Mỗi câu, mỗi chữ gói ghém nhiều tư tưởng, đến nỗi dù đã ở trong nghề giảng thuyết nhiều năm, tôi vẫn phải ngồi bóp chán suy nghĩ lâu giờ. Bài Tin mừng đúng là một thách thức cho những khối óc lớn, làm sao giới lao động hiểu nổi? Tuy đã đọc nhiều lần trước đây, hôm nay tôi vẫn phải tự hỏi: Chúa Giêsu ám chỉ điều chi trong câu truyện thù tiếp với ông Nicôđêmô?
Làm thế nào mà giải thích nó cho thính giả bình dân? Phúc âm nhất lãm dễ hiểu hơn. Các câu truyện của chúng ngắn gọn và sống động. Hình ảnh rất cụ thể, dễ cho các nhà rao giảng khai triển đề tài. Tuy nhiên nhiều linh hồn đạo đức lại thích Phúc âm của thánh Gioan. Họ có thể ngồi hàng giờ, giở từng trang, nghiền ngẫm từng chữ cho tâm trí thoả niềm nguyện ngắm. Đoạn Tin mừng hôm nay thêm phần rắc rồi ở chỗ nó được trích ra ở khoảng giữa bài huấn giáo thật dài Chúa ban cho ông Nicôđêmô (3,1-21), bởi vậy khi đọc lên, người ta nghe như hoàn toàn lạc lõng và quá nặng nề đối với một cộng đoàn quen thuộc những bài đọc dễ hiểu hơn. Tôi cũng không dám chắc bài đọc 1 trích từ sách 2 Biên Niên Sử có thoáng hơn bài Tin mừng chăng? Xem ra nó là một bản tóm lược lịch sử cứu độ và như vậy nó cũng gây khó khăn không ít cho những người rao giảng. Khi đọc lần đầu tôi thấy chúng mơ hồ và có rất nhiều giọng điệu thần học bí nhiệm.
Rào trước đón sau như vậy tôi mới dám bầy tỏ trực giác của mình về nội dung Tin mừng, tuy nhiên cũng chưa thể đi thẳng vào đề tài, xác địch ngay những điều Phúc âm muốn nói, mà phải suy gẫm hàng giờ xem bằng những hàng chữ này, Thánh Thần muốn mặc khải những chi cho linh hồn tôi và linh hồn các thích giả của tôi.
Điều đầu tiên tôi khám phá ra trong bài huấn từ,Chúa Giêsu nhiều lần quy chiếu về lịch sử cổ xưa của dân tộc Do thái, đặc biệt về hành trình vượt sa mạc, tiến vào đất hứa. Trong mùa chay này giáo xứ chúng ta cũng có nhiều cuộc hành trình thiêng liêng tương tự. Phải lợi dụng chúng để chỉnh đốn lại tâm hồn mọi người. Vừa thoát khỏi ách nô lệ, Ai cập dân Israel tay sách, nách mang vượt qua nhiều con đường dài, khô cằn, vất vả, họ trở nên mỏi mệt, kêu trách ông Môisen đã hành hạ họ và như thế gián tiếp ta thán Thiên Chúa: Sách Dân số ghi lại như sau: “Từ núi Ho, họ lên đường theo Biển sậy, vòng qua lãnh thổ Êdom, trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Israel mất kiên nhẫn, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môise rằng: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc?" (4,21). Thiên Chúa nổi giận với họ, vì họ đã bất trung. Ngài cho rắn độc từ trong rừng bò ra cắn chết rất nhiều người. Các nhà chú giải cắt nghĩa rằng, đây là một loài rắn độc. Từ "Saraph" nghĩa là rắn lửa. Gọi như vậy vì các vết thương đỏ lên, rất độc và đau đớn.
Điều thứ hai là: ông Nicôđêmô đến nói chuyện với Chúa Giêsu vào ban đêm. Một người đang ngồi trong bóng tối tìm đến Ánh sáng soi đường. Và ông được bảo cho biết Đức Chúa trời phán xét thế gian. Ý tưởng thật dễ sợ. Những ai quen ăn ở độc ác nghĩ đến điều Thiên Chúa phán xét hẳn phải rùng mình sợ hãi. Đây không phải là chuyện đùa, phép công thẳng của Ngài đã từng được minh chứng qua dòng lịch sử. Cả một dân tộc bị Chúa phạt thua trận, đi đầy, thành quách bị phá đổ, cửa nhà tan hoang, không còn nghi lễ, không còn tư tế, trẻ nhỏ bị sát tế dâng tiến ngẫu tượng (bài đọc 1). Những ai ăn ở bất toàn cũng không thể đứng vững trước mặt Thượng Đế. Nguyên nghĩ về truyện này mà thôi đã thất lạnh sương sống, nói chi đến thực tế hãi hùng? Tuy nhiên án phạt của Thiên Chúa nối kết chặt chẽ với ơn thánh của Ngài. Thật lạ lùng! trí khôn nhân loại không thể hiểu thấu. Bởi lẽ án phạt lại là một hành động yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu, nơi Ngài không có bóng tối đố kỵ, ghét ghen. Mọi hành động của Ngài đều là yêu mến, phát xuất từ tình yêu. Điều lạ lùng trên hết mọi sự lạ! Cho nên án phạt là từ chối tình yêu của Đức Chúa Trời: "Kẻ không tin thì đã bị lên án rồi vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa". Do đó án Đức Chúa Trời tuyên trên nhân loại là sai con của Ngài, Ngôi Hai, nhập thể để giải phóng chúng ta khỏi tội, khỏi đêm tối Nicôđêmô. Ánh sáng đã đến trong thế gian chiếu trên bóng tối linh hồn mỗi người. Người ta muốn xa tránh ánh sáng này cũng không được nữa, bởi nó là ánh sáng thấu suốt mọi sự, chiếu trên tội lỗi của chúng ta và bày tỏ án phạt cho mỗi người. Nói cho đúng, dân Israel bị lưu đầy, đền thờ bị phá huỷ không phải vì Thiên Chúa mà do tội bât trung của mình, họ đã từ chối thắng trận, từ chối ơn bảo trợ của Đức Chúa Trời.
Chúa Giêsu nhắc nhớ ông Nicôđêmô về biến cố rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người Do thái vì bất trung. Ông Môsê đã làm gì để cứu dân? Thiên Chúa truyền cho ông treo một con rắn bằng đồng lên cây cọc giữa sa mạc. Bất cứ những ai nhìn lên, kêu cầu con rắn đó đều được chữa khỏi. Vậy thì con rắn đồng đứng làm biểu tượng cho ơn cứu rỗi đến từ Thượng Đế. Thiên Chúa một lần nữa lại là nguồn ơn giải phóng cho toàn dân, đúng như khi họ còn ở Ai cập. Với đức tin, một cái nhìn hướng về con rắn, hứa hẹn ơn cứu chuộc. Ngày nay chúng ta dễ dàng nhận thấy ý nghĩa song hành giữa Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá và con rắn đồng của Môsê. Nhưng đối với ông Nicôđêmô thì không, ông chưa thể nhìn ta vế thứ hai của câu truyện, vì thế ông chưa hiều được, ông cần cần nhờ sự soi sáng đến từ trời cao. Chúng ta cũng phải ngang qua những giây phút hoang địa của cuộc đời, những hoang tưởng trên con đường tiến về Thượng đế. Biết bao nhiêu cám dỗ xúi dục chúng ta thất vọng, mất tin tưởng vào sự cứu rỗi của Thiên Chúa, không phải chỉ trong những thử thách lớn, mà ngay trong các biến cố của cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần phải thường xuyên dừng lại, nhất là mùa chay này, nhìn lên Chúa cứu thế để xin thêm đức tin, chỉnh đốn lại cuộc sống. Đến đây tôi nhớ đến bài hát nổi tiếng của Johnny Cash:
"Tôi bước đi trên dấu đường đã vạch" (I walk the line). Anh hát về lòng trung thành của mình với người yêu: "Suốt cả thời gian ấy tôi đã mở to đôi mắt... bởi em là của tôi, tôi đang bước đi trên dấu đường đã vạch." Hôm nay cũng là thời gian và cơ hội để chúng ta mở to đôi mắt, nhìn những dấu chân đi hoang của mình suốt năm qua. Đặt ra những câu hỏi thích hợp để cật vấn lương tâm: Nếu tự do và mục tiêu của tôi là Đức Chúa Trời, thì tôi đã suy nghĩ thế nào khi chọn lựa các quyết định thường nhật? Tại sao tôi ngu xuẩn đến thế? Tại sao tôi không bước đi trên dấu đường đã vạch từ khi chịu phép thanh tẩy? Con đường hiện nay tôi đang tiến bước có dẫn đến Thiên Chúa hay không? Chúa Giêsu đến để bật sáng lên ngọn đèn trong đêm tối tương lai, nhờ ánh sáng của Ngài mọi sự đã rõ ràng, chúng ta nhận ra các chướng ngại vật, bấy lâu làm bao người vấp ngã. Đó là tham, sân, si, là các dục vọng, thói xấu làm điên đảo lòng người. Liệu chúng ta có cương quyết tránh xa? Hay lại dấn thân sâu đậm vào chúng hơn nữa? Đâu là những con đường giả tạo chúng ta đã theo đuổi? Lúc này, có đúng là chúng ta đang bước đi trên “dấu đường” Chúa Giêsu đã chỉ và ban ơn cho chúng ta dõi theo?
Sự lượng định lại giúp dễ nhận ra những thực tại bất ổn trong lương tâm mỗi người, tuy rằng làm như thế có thể khiến chúng ta thất vọng, nhát đảm về mình. Nhưng xin hãy can đảm kết án mạnh mẽ những thiếu xót của lòng mình và lắng nghe sứ điệp Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô hôm nay. Đừng liên tưởng về người khác mà là về chính bản thân.Thiên Chúa sẽ tuyên án trên chúng ta, cái án mà Ngài đã áp dụng cho toàn thể nhân loại: Sự tha thứ qua Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Đức tin chân chính sẽ khích lệ chúng ta ít nhìn về mình, nhưng về Chúa Giêsu, con rắn đồng treo trong "sa mạc" cuộc sống. Nhìn như thế sẽ giúp chúng ta được chữa lành nhanh chóng khỏi các vết thương do Satan, thế gian và xác thịt gây nên, hàn gắn các tương giao đã bị đổ vỡ, trái tim chai đá và độc ác, lòng đạo lạnh nhạt và muôn vàn thiếu xót khác.
Có tất cả hơn ba trăm lời tiên tri về Chúa Giêsu trong Kinh thánh Cựu ước. Ngài đã làm tròn tất cả. Hôm nay những hình ảnh được nhắc trong huấn từ Chúa dành cho ông Nicôđêmô là: Người Con duy nhất, Con Người, Con Một Thiên Chúa, Ánh sáng và Ơn cứu độ thế gian. Những tước hiệu này là đặc trưng của Phúc âm theo thánh Gioan. Nhưng cũng là tước hiệu thiết thân trong mỗi linh hồn tín hữu. Chúng mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau, tuy nhiên, tất cả đều quy hướng về Chúa Kitô. "Con loài người" phải được "dương cao" là tư tưởng chủ đạo trong bài diễn từ. Và thực sự Chúa Giêsu đã được "dương cao" trên thập tự. Một đằng sự kiện này tố cáo chúng ta đã trung thành với Thiên Chúa thế nào? Đàng khác nó đòi hỏi chúng ta phải tiến bước ra sao trên con đường tự do. Sự dấn thân theo Chúa phải trả giá bằng hy sinh và đau khổ cá nhân. Nhìn Chúa đang chịu "dương cao" trên thánh giá, tức khắc chúng ta hiểu điều đó. Nhưng "dương cao" cũng còn có nghĩa là sống lại. Nếu chúng ta nhìn lên Ngài sống lại, chúng ta sẽ hiểu được rằng: Chẳng có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không toàn thắng. Amen.
Bài đọc 1: 1 Ks 36, 14-16. 19-23
Bài đọc 2: Ep 2, 4-10
Tin Mừng: Ga 3, 14-21
Niềm vui được cứu độ - Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Kính thưa...
Bước vào thánh đường tham dự Thánh lễ hôm nay, chắc quý ông bà anh chị em hơi ngạc: MC4-B34
Bước vào thánh đường tham dự Thánh lễ hôm nay, chắc quý ông bà anh chị em hơi ngạc nhiên, vì ngay giữa Mùa Chay, mà bàn thờ lại có những bình hoa tươi, xinh xắn, còn Linh mục lại mặc lễ phục màu hồng. Tất cả như làm rộn lên trong từng người chúng ta một niềm vui. Vâng, đó là niềm vui của những con người nhận được một sự sống mới. Sự sống nhờ tin vào Đức Kitô. Và cũng thật lạ thường, "sự sống" ấy lại được Đức Kitô ban cho con người bằng "cái chết " trên thập giá của mình. Bởi vì, theo thánh Gioan, giờ Đức Giêsu chịu khổ nạn là lúc Ngài được "giương cao" , được tôn vinh. Thập giá không còn là dụng cụ của sự chết, nhưng trở thành Thánh giá biểu dương của sự sống, là ngai của Vua -Kitô đăng quang (Ga 3, 14; 8, 28; 12, 32).
Như thế, lời Chúa hôm nay là một câu trả lời tròn đầy cho thắc mắc: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" của các tông đồ khi các ông từ trên núi xuống sau sự kiện biến hình, trong Chúa Nhật 2 Mùa Chay; và đây cũng là lúc kiện toàn ý nghĩa cho lời tiên báo của Đức Kitô: "Phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại", mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật 3 Mùa Chay vừa qua.
Vì thế, trong giờ này, tôi muốn chia sẻ cùng quý ông bà anh chị em một vài suy nghĩ về niềm vui ơn cứu độ mà chúng ta đã nhận được nhờ ân sủng của Đức Kitô. Ngõ hầu, khơi lên trong từng người chúng ta một niềm tin và hy vọng vững chắc vào Đức Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta.
1. Niềm vui được giải thoát:
Trước hết đó là niềm vui được giải thoát từ nơi lưu đày trở về của dân Chúa mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một. Sau biến cố lưu đày, tác giả sách Ký sự đã nhìn lại suốt dọc dài lịch sử của dân Chúa để tìm ra nguyên nhân khiến dân tộc bị lưu đày và tìm cách làm cho dân Israel thực sự xứng đáng là một dân của lời hứa.
Khi nhìn lại cuộc sống của dân Israel, tác giả cho thấy rằng: "Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa...". Nghĩa là, họ đã không trung thành với giao ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa. Họ đã chạy theo cách sống dễ dãi của các dân ngoại xung quanh, phản bội Thiên Chúa, sống bất công với anh em. Không những thế, họ còn "nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa và nhạo báng các tiên tri ". Sống như thế, hình phạt lưu đày là điều không thể tránh khỏi. Ông kết luận: "Sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người và vô phương cứu chữa". Bị lưu đày, dân Chúa phải rời xa quê cha đất tổ, không còn được sống nơi miền đất Hứa. Cả dân tộc phải sống tha phương, cầu thực nơi đất khách quê người. Như thế, họ tuy còn sống, nhưng khác gì đã chết, mà không phải một người nhưng là cả một dân tộc, bởi vì, đất nước họ đã bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Đây là giai đoạn đau buồn và tủi hổ nhất của dân Do thái như lời diễn tả của tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca: "Trên bờ sông Babilon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ lại thành thánh Sion".
Có cảm nhận được nỗi buồn đó của dân tộc Do thái, chúng ta mới thấy được niềm vui to lớn của họ khi nhận được chiếu chỉ hồi hương của hoàng đế Cyrus, vua Batư: "Đây hoàng đế Cyrus, vua xứ Batư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất,...Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên". Không vui sao được, vì với chiếu chỉ này, họ sắp được hồi hương trở về Thánh Địa. Họ lại được lên Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa. Miệng họ lại được hát những khúc ca mừng trong những ngày lễ: "Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: "Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa! "Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân. Giêrusalem khác nào đô thị, được xây nên một khối vẹn toàn." (Tv 122, 1-3).
Thế nhưng, niềm vui này vẫn chưa được trọn vẹn, vì sau đó, họ vẫn còn tiếp tục chịu đô hộ bởi các đế quốc như Hy lạp, La mã. Do đó, từ trong tâm khảm, họ vẫn chờ đợi Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa.
2. Niềm vui của những kẻ tin:
Nỗi chờ mong của dân Do thái nay đã trở thành hiện thực với sự xuất hiện của Con Thiên Chúa. Chính Ngài là Đấng đem đến cho họ một sự giải thoát toàn diện, giải thoát khỏi tội lỗi, ban cho họ một sự sống mới, sự sống đời đời như lời Ngài nói với Nicôđêmô mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời". Tuy nhiên, để thực sự nhận được sự sống này, chúng ta cần phải tin vào Đức Giêsu như lời Ngài tuyên bố: "Tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời". Tin vào Đức Giêsu, nghĩa là, luôn hướng nhìn vào Đức Giêsu và dám phó thác trọn vẹn cuộc đời chúng ta trong tay Ngài, để Ngài dẫn chúng ta đi. Tới đây, có lẽ chúng ta nhớ tới hình ảnh của Phêrô đi trên mặt nước. Khi ông tin và nhìn thẳng vào Đức Giêsu, ông đi được trên mặt nước, nhưng khi ông nhìn xuống, ông liền bị chìm (x. Mt 14, 28-31).
Niềm vui này trong chúng ta sẽ còn lớn lao hơn nữa, nếu chúng ta ý thức rằng sự giải thoát này không phải do công trạng của chúng ta, nhưng là do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Êphêsô: "Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ".
Giờ đây, để thực sự xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, mỗi người chúng ta hãy can đảm dứt khoát nói không với những thói hư, tật xấu. Tới đây, tôi lại nhớ tới bài vè mà các em thiếu nhi vẫn đọc:
Một không hút chích xì ke,
Hai không nhậu nhẹt, rượu chè bê tha.
Ba không học thói trăng hoa,
quan hệ bất chính, Sida có ngày.
Bốn không bài bạc tối ngày,
chơi đề cá độ cửa nhà tan hoang.
Năm không thích mốt, đua đòi,
nay quần mai áo, nợ đòi tứ tung.
Sáu không lên mặt "yêng hùng",
đua xe bạt mạng như khùng như điên
Và với các em thiếu nhi, thì các em cũng cần nói không với các thói xấu như:
Bảy không nói dối đặt điều,
ba hoa chảnh choẹ sớm chiều bạn xa.
Tám không trốn học bỏ nhà,
đi bờ đi bụi quen đà hư thân.
Chín không kết nhóm nhập băng,
phá làng phá xóm họ hàng khinh chê.
Mười không nói tục chưởi thề,
đùa cợt bất nhã, bạn bè tránh xa.
Không những nói không với thói hư tật xấu, mỗi người chúng ta còn phải sống như con cái của sự sáng, nghĩa là luôn sống chân thật trong suy nghĩ, lời nói cũng như hành động, như lời dạy của Đức Giêsu: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa". Nếu tất cả chúng ta sống được như vậy, chúng ta chắc chắn sẽ "đựơc đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giêsu Kitô", và lúc đó niềm vui của chúng ta sẽ sung mãn và không bao giờ mất. Amen.
Lời Chúa cho hôm nay: Ánh sáng và bóng tối - Huyền Đồng
* The light and the darkness *
* Bài đọc 1: 2 Sbn 35, 14- 16; 19- 23= Sách 2 Sử Biên niên; Thiên Chúa đã gởi đến họ các tiên tri để kêu gọi họ trở về đường chính, nhưng họ đã từ chối./ God had sent them prophets to call them back to righteousness, but they...
*Bài đọc 2: Eph. 2, 4- 10= Quà của Thiên Chúa: Người đã cho ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời. / God's Gift: Both with and in Christ Jesus He raised us up and gave us a place in the heavens.
*Bài Tin Mừng(Gospel) Gioan 3, 14- 21= Hãy nhìn lên Đức Kitô với lòng tin và sám hối, những kẻ yêu bóng tối hơn ánh sáng không thể được cứu. / Looking to Christ with faith and repentance! Those who love darkness rather than light cannot be saved.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để: MC4-B35
1/ Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Nhân loại ngày nay đang chối bỏ Thiên Chúa, họ chỉ tìm cái lợi vật chất mau qua mà quên sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, những gì thấy được thì chóng qua, những gì không thấy được thì trường cửu. Tôi đã làm gì cụ thể để đón nhận Chúa Cứu thế ?
"Yes, God so loved the world that He gave His only Son that whoever believes.. .but may have eternal life." ( Ga. 3, 16 )
2/ Đức Giêsu nói thêm về Ngài như là Ánh Sáng, nhưng thế gian lại thích bóng tối là sự xấu xa: "Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng, và không đến cùng ánh sáng, để việc làm của họ không bị chê trách."
Bạn và tôi cũng thường lẩn tránh những việc làm công khai rõ ràng cho mọi nguời thấy; nhưng quên rằng Thiên Chúa thấu suốt hết mọi sự. Tại sao trong gia đình và cộng đoàn bạn đang sống lại bị đổ vỡ, chia rẽ?
"Everyone who practices evil hates the light; he does not come near it for fear his deeds will be exposed." (Ga. 3, 20 )
3/ Bài đọc 2, Thánh Phaolô muốn ta khiêm tốn khi được cứu độ như sau: "Đây không phải bởi sức anh em, nhưng là một ân huệ bởi Thiên Chúa; cũng không phải việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện"
Thường sau khi làm ta hay xin Chúa trả công cho nhau nhiều quá mà quên ơn Ngài. Vì mọi việc hoàn tất là bởi ơn Chúá, nhưng ta lại lấy để chúc tụng nhau. Tôi cần sửa lại những sai lầm nào còn đang tồn tại?
"..this is not from you; it is the gift of God; it is not from works, so no one may boast.." ( Eph. 2, 8- 9)
4/ Sách Sử Biên niên nhắc nhở mọi người: "Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân". Câu này đang nhắc nhở mỗi tín hữu về cách sống đạo của mình hiện tại. Bạn thấy mình có sai lỗi như trên không và quyết làm gì để sửa đổi?
"All the princes, the priests and the poeple added infidelity to infidelity, practicing all the abominations..." (Sb. 36, 14 )
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn để làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Word )
Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng...( Ga. 3, 21 )
He who acts in truth comes into the light...
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa kêu gọi: ( So what am I doing / For Action)
a/ Tôi quyết bỏ một tính xấu mà gia đình hay cộng đoàn đang kêu trách từ bao năm qua vẫn chưa sửa.
b/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
D. Tôi dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
* Lạy Chúa, Đức Kitô đã nói: Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để việc làm của họ không bị chê trách. Xin giúp con sống luôn làm việc thiện để đến cùng Chúa là Ánh sáng.
* Sách Sử biên niên đã nhắc nhở con: Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa. Xin cho con mau thoát khỏi bóng tối là sự ác để trở về với Chúa là sự Sống thật. Lời hay ý đẹp: Người liêm chính chẳng có gì để che dấu.
Qua bài Phúc âm, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em để ý đến câu, “Thiên Chúa không sai: MC4-B36
Qua bài Phúc âm, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em để ý đến câu, “Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.” Đồng thời chúng ta cũng nên suy niệm lối diễn tả của Phúc âm nơi câu nói trước đó, “Để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất.” Vì Phúc âm cũng nói, “Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi.” Ai trong chúng ta cũng đều tuyên xưng rằng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô nhưng tại sao chúng ta vẫn dùng ngôn từ Chúa phạt?
Đồng thời, cũng theo lời Phúc Am, nếu Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian vì sự luận phạt lại chính là người trần đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng và vì hành động của họ xấu xa thì chúng ta phải suy nghĩ và sống cách nào? Tại sao Phúc âm lại vơ đũa cả nắm khi viết rằng “Vì hành động của họ xấu xa” trong khi chúng ta đều nhận thấy đâu phải hành động nào cũng xấu xa! Chẳng lẽ cả đời chúng ta không có được hành động nào đáng gọi là tốt lành, thánh thiện? Phỏng có phải tại vì câu Phúc âm này mà có những bè phái cho rằng tất cả những hành động của chúng ta đều xấu hết vì đều phát sinh từ những con người tội lỗi chẳng khác gì kết quả của cây chua tất phải sinh trái chua? Thế nên câu hỏi được đặt ra, sự luận phạt gốc gác phát xuất tự đâu và ý nghĩa của câu Phúc Am “Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi” như thế nào?
Trước hết, tôi muốn nhấn mạnh một điều, đó là Phúc âm không phải là sách dạy luân lý thế tục hoặc Kinh Thánh không phải sách ghi chép lịch sử của những đám dân chỉ biết dùng miệng hô hào tin vào Chúa. Phúc âm hoặc Kinh Thánh dùng những sự kiện có thể nhận biết bằng suy nghĩ thế tục để giúp tâm trí một người chiêm nghiệm, suy gẫm hầu nhận thức thực thể chính mình. Phúc Am là những câu nói khôn ngoan được ráp nối lại thành câu truyện để chúng ta dễ nhớ và từ đó suy gẫm, phân tích, nghiệm chứng trong cuộc đời hầu nhận ra con người của mình không phải chỉ là xác thân có cuộc sống ngắn hạn nơi cuộc sống hữu hình này mà tất cả chúng ta đều có cuộc sống tiếp nối của linh hồn sau khi chết. Cuộc sống nơi trần gian này bao gồm hai phần, cuộc sống xác thân và cuộc sống tâm linh. Bình thường, chúng ta đã quá quen thuộc với lối suy luận thế tục nên chỉ hiểu lời Kinh Thánh theo quan niệm thông thường và khi nào vô tình thấy câu nói nghịch lý thì cố ý tảng lờ, cho rằng lời Chúa mình không hiểu nên chấp nhận bỏ qua; bỏ qua vì quá sợ hãi Chúa phạt lỡ mình dám láo lếu phân tích lời Phúc Am. Chẳng hạn, nơi Phúc Am thánh Máthêu có câu, "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng làm môn đệ ta. Kẻ yêu con trai, con gái hơn ta không đáng làm môn đệ ta" (Mt. 10:37) vậy câu này có nghĩa gì, làm sao chúng ta có thể áp dụng trong cuộc sống đức tin, và ai thực sự có thể yêu Chúa hơn cha mẹ, vợ chồng, hay con cái?
Nếu nhìn lại trong cuộc sống, giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, những chuyện phiền hà xảy đến hàng ngày là do bất đồng tư tưởng, ý nghĩ phát sinh ra thì chúng ta có thể nhận được quan niệm, ý nghĩ, ý muốn của một người đối với họ vẫn quan trọng tình nghĩa vợ chồng hay cha mẹ hoặc con cái. Suy vậy, nếu đem quan niệm hay ý nghĩ thay thế cho cha mẹ hay con cái, chúng ta sẽ nhận rõ được câu Phúc Am chỉ dùng cha mẹ, con cái làm ám dụ để nói lên điều kiện tâm trí của người muốn tìm hiểu và thăng tiến tâm linh theo Phúc Am. Như vậy, câu nói. "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng làm môn đệ ta. Kẻ yêu con trai, con gái hơn ta không đáng làm môn đệ ta" có nghĩa, kẻ nào vẫn còn lệ thuộc vào lối suy tư theo thói quen để tìm hiểu Phúc Am qua nhận định thế tục không thể nào hiểu được lời Phúc Am nói gì.
Tương tự như thế, lời Phúc âm nhắc nhở, “Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi” khiến chúng ta cần suy gẫm ý nghĩa của chữ tin. Nơi Phúc Am thánh Gioan đoạn 14 câu 12 được viết, “Quả thật Ta bảo các ngươi, kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta đi đến cùng Cha.” Chúng ta đều tuyên xưng rằng tin vào Chúa Giêsu nhưng không ai có thể làm được như Ngài thì chữ tin dùng trong Phúc Am mang nghĩa không giống như những ngôn từ chúng ta thường dùng mà có nghĩa khác. Chữ tin dùng trong Phúc Am có nghĩa đạt tới trạng thái nào đó. Như vậy, câu Phúc Am mang ý tứ, “Kẻ nào đạt tới trạng thái cuộc sống như Đức Giêsu diễn tả thì xử dụng được quyền năng như chính Ngài.”
Thế nên, bất cứ ai, suy gẫm, suy niệm, chiêm nghiệm Phúc âm, chiêm nghiệm những lời Đức Giêsu rao giảng thì mới tránh khỏi bị luận phạt. Bất cứ ai không chịu suy gẫm Phúc âm, đều bị kết án vì Lời Chúa là ánh sáng soi dẫn tâm trí chúng ta nơi hành trình tâm linh mà đã bị coi thường. Chúng ta có thể ví lời Chúa như ánh đèn trong đêm tối. Đèn có sẵn mà không dùng, tất nhiên lăn xuống hố hay đâm lề đường. Hoặc chúng ta có thể ví lời Phúc âm chẳng khác gì mâm cỗ được dọn sẵn, ai không ăn tất nhiên bị đói. Sự đói chính là hình phạt chứ đâu cần Chúa phải phạt. Lái xe trong đêm tối mà không có đèn, đâu cần ai phạt vẫn lăn xuống hố. Tương tự như thế, tất cả những hành động không được hướng dẫn bởi kết quả của sự chiêm nghiệm Phúc âm đều bị coi là hành động xấu xa. Điều này ai đạt tới sẽ ý thức được. Bất cứ ai chưa đạt tới thì nói mấy cũng không đem lại ơn ích gì.
Tóm lại, bài Phúc âm nhắc nhở chúng ta điểm quan trọng; lời Phúc âm là ánh sáng dẫn đường thăng tiến tâm linh. Ai không suy gẫm để áp dụng nơi cuộc sống, mọi hành động đều được coi là xấu xa hoặc là yêu sự xấu xa hơn sự sáng. Tin vào Đức Giêsu có nghĩa suy gẫm, chiêm nghiệm những câu nói Phúc âm để áp dụng trong cuộc sống và thăng tiến trong hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
Suy Niệm: "Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy." (Jn 3:14)
Trong sách Dân Số (Num 21:4-9) có ghi lại cuộc hành trình lâu dài của dân Do Thái trong sa: MC4-B37
Trong sách Dân Số (Num 21:4-9) có ghi lại cuộc hành trình lâu dài của dân Do Thái trong sa mạc. Điểm tới thì gần, nhưng đường đi thì xa ! Để thử lòng biết ơn và sự trung thành của họ Chúa đã để họ đi lang thang trong sa mạc suốt 40 năm trời. Khi vừa mới được giải thoát qua Biển Đỏ, có một số người vô tâm, đã coi trọng miếng ăn ơn ân huệ. Họ đòi trở về làm nô lệ để ăn no hơn là được tự do ! Sau đó, lại có những người tham vọng, hay chỉ trích, chống đối các người được Chúa chọn để lãnh đạo dân trong sa mạc. Có một số cũng ùa theo để phá rối. Để dạy cho toàn dân biết vâng phục, Chúa để cho rắn lửa ra cắn chết một sống người. Dân chạy đến kêu cầu với Môisen. Môisen đã cầu xin cho dân được cứu thoát nguy hiểm. Cách thức treo con rắn đồng tiên báo sự khổ nạn mà Đức Giêsu sẽ chịu để cứu dân khỏi chết. Cho dù hoàn cảnh nào, Chúa vẫn không bỏ dân và luôn tìm cách cứu họ khỏi sự chết đời đời.
Thực Hành: “Anh Chị Em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng. ” (Eph 2:4-5) Ngày nay, Chúa tiếp tục cứu chữa và ban ơn cho dân qua bí tích thánh thể. Mỗi lần dự lễ, là mỗi lần Kitô hữu được mời gọi tham dự cách tích cực bằng hiến tế mình để được sống với Chúa Phục Sinh.
Lịch sử nhân loại, lịch sử dân Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi: MC4-B38
Lịch sử nhân loại, lịch sử dân Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi người tín hữu chúng ta đều là Lịch Sử Ơn Cứu Rỗi. Đó là ý nghĩa sâu xa nhất của tất cả những điều Thiên Chúa muốn mặc khải cho con người. Thánh Phaolô đã tóm gọi tất cả lịch sử cứu độ trong câu: "Thiên Chúa giầu lòng thương xót" (Ep 2,4). Đức Gioan Phaolô đệ nhị đã long trọng tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa trong thông điệp "Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót" gửi toàn thể Hội Thánh và thế giới. Hơn bao giờ hết, lòng từ bi của Thiên Chúa rạng tỏ trong một thế giới sa đọa hôm nay. Cũng như dân Do Thái xưa; "tất cả hàng lãnh đạo Giuđa, các tư tế và dân chúng đã tăng gia thất trung bội nghĩa, chiếu theo các điều gở nơi các dân ngoại; họ đã làm nhơ uế nhà Giavê đã tác thành ở Giêrusalem" (2 V 14-15). Cứ nhìn qua nếp sống hưởng thụ ăn chơi đàng điếm của những đô thị lớn trên khắp thế giới, kiểm điểm lại sự sa sút lòng đạo đức cũng như luân lý trong các gia đình di cư, chúng ta sẽ nhận định rõ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa trong thế giới hiện nay. Mùa chay thánh, mùa ăn năn đền tội sám hối giúp mọi cá nhân tỉnh giấc ngủ say, ý thức thân phận tội lỗi của mình, sự yếu hèn của bản tính con người, để khiêm nhượng hơn, để tin tưởng hơn và mở lòng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, lãnh nhận chính tình yêu lớn lao của Ngài.
Đừng mần ngơ giả điếc như dân Do Thái xưa: "Đã bao lần và ngay từ tảng sáng, Giavê Thiên Chúa của tổ tiên họ đã gửi các sứ giả của Người đến, vì Người chạnh thương dân Người... Nhưng họ đã nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, đã khinh lời Người và chế diễu các tiên tri của Người." (2 V 15-16). Sứ giả rao giảng Lời Chúa hôm nay là ai nếu không phải là Hội Thánh Chúa và những vị đại diện Hội Thánh Chúa tại các địa phương?
Kế hoạch Thiên Chúa là mỗi người được kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ. Đó là một mầu nhiệm, Vì, tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng nhờ ân thánh, chúng ta được sống lại, được cải tử hoàn sinh với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Trong đêm tối, Nicôđêmô, một nhà quý tộc Do Thái, "thuộc bè biệt phái, một đầu mục của người Do Thái" đã đến gặp gỡ Đức Kitô. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ đã đưa Nicôđêmô, một người khát khao chân lý và ánh sáng được gặp thấy chính Đấng đã phán: "Ta là đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14-16). Dần dần, Nicôđêmô sẽ hiểu. Chiều ngày thứ sáu chịu nạn, Nicôđêmô cũng dự cuộc liệm xác của Đức Kitô: "Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược, trộn với trầm hương" (Ga 19-39).
Phải, chính trong đêm tối của tội lỗi mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: "Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm đều xấu". (Ga 3-19).
Chúa nhật thứ tư mùa chay càng giúp ta đi vào mầu nhiệm chết và phục sinh của Chúa Giêsu: MC4-B39
Chúa nhật thứ tư mùa chay càng giúp ta đi vào mầu nhiệm chết và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần trước thánh Gioan đã giới thiệu dung mạo của Chúa Giêsu qua việc Ngài loan báo với dân Do Thái và qua các môn đệ Ngài về sự chết, phục sinh của Ngài. Tiếp nối tư tưởng đó, các bài đọc sáng nay nhắm đưa ta vào con người thực tế của Chúa Giêsu và nhất là dẫn dân Chúa tới mầu nhiệm của lòng tin: Đức Kitô chết, sống lại.
1. Tìm hiểu ý nghĩa của Chúa nhật này ?
2. Và tìm chủ đích của vai trò sống đạo của ta là mục đích của Chúa nhật 4 mùa chay nhắm tới.
I. Ý NGHĨA CỦA CHÚA NHẬT THỨ TƯ MÙA CHAY:
Đoạn Tin Mừng của thánh sử Gioan 3, 14-21 thật rõ nét. Nó có chủ đích diễn tả đầy đủ ý nghĩa việc Chúa Giêsu chết và phục sinh. Xưa trong sa mạc, Môsê mỗi lần giơ cao con rắn đồng lên là dân được cứu thoát. Ai nhìn lên rắn đồng sẽ không bị rắn khác cắn chết, hủy diệt. Hình bóng của con rắn đồng trong sa mạc là tiên trưng cho việc Chúa Giêsu sẽ bị nhân loại treo lên trên thập giá vì tội lỗi của họ. Việc Chúa chấp nhận ý định của cha Ngài, chết treo trên thập giá, nhằm gỡ nhân loại khỏi tật nguyền thân xác và linh hồn. Tâm hồn con người đang bị chìm ngập trong vũng lầy của tội lỗi. Nay sẽ được giải thoát khỏi ách thống trị của tội nhờ vào một con người: Ađam mới là Đức Giêsu Kitô. Quả thực,gian trần này luôn bị chìm ngập trong tội lỗi của mình và của tổ tiên mình phản bội Chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban con một của Ngài xuống gian trần để giải thoát mọi người khỏi sự áp bức, ức chế của lề luật, của tội lỗi. Chúa Giêsu là ánh sáng. Sự sáng luôn chiếu dọi cho nhân loại. Nhờ ánh sáng ấy, con người sẽ tìm thấy chân lý, tìm thấy sự thật và tìm thấy chính mình. Đức Giêsu Kitô đến nhân loại, kêu gọi mọi người, ban ơn cứu độ cho mọi người và điều cốt yếu, Ngài muốn mời gọi tất cả mọi người sống trong tình thương của Ngài. Ơn cứu độ không dành riêng cho một người nào, một dân tộc nào. Ơn cứu độ đến với mọi người và muốn cho mọi người được giải thoát. Đức Giêsu Kitô là Sự Thật, là Đường, là Ánh Sáng. Ngài không muốn ai bị hư mất nhưng muốn ban sự sống đời đời cho mọi người biết tin vào sự sống và sự chết của Ngài.
Như vậy, đoạn Tin Mừng của thánh Gioan soi chiếu rõ nét cho hai bài sách thánh cựu ước và tân ước. Bài sách ký sự cho thấy sự thịnh nộ và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúa thịnh nộ vì sự bất trung của toàn thể dân chúng từ đầu mục, tư tế cho đến thứ dân. Mọi người đã làm cho đền thờ Chúa trở nên dơ uế vì lòng lì lợm và sự bắt chước thói hư, nết xấu của ngoại bang: thờ ngẫu tượng, bất trung với lề luật, với chính Giavê Thiên Chúa. Thiên Chúa đã phá hủy đền thờ Giêrusalem qua tay đế quốc Roma và dân còn sót lại đều bị lưu đầy qua Babylon. Tuy vậy, Thiên Chúa cũng đã giải thoát họ để ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia dùng lời nói của vua Ba Tư tên Cyrô: "Ai thuộc về Chúa, phó thác và gắn bó với Ngài sẽ được Thiên Chúa chúc phúc, ở với họ và gìn giữ họ”. Họ sẽ tiến về Giêrusalem huy hoàng. Thánh Phaolô lại làm sáng tỏ ý định cứu rỗi của Chúa Giêsu qua đoạn thơ Ephêsô 2,4-10. Theo thánh Phaolô, Thiên Chúa giầu lòng thương xót đã cứu chuộc dân Ngài qua chính sự chết và sự phục sinh của Ngài. Mặc dầu ta tội lỗi đáng chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, giải thoát ta bằng chính con người của Ngài để ta được sống với Ngài nhờ đức tin và ân sủng của Ngài, tiến về Giêrusalem mới là Thiên Đàng, là tình thương của Thiên Chúa. Ngay trong bài nhập lễ, ngôn sứ Isaia đã cất cao lên bài ca vui mừng của dân Do Thái tiến về Giêrusalem. Ta cũng hãy vui mừng bước tới Giêrusalem thiêng liêng, là Nhà Chúa, là thành lũy hạnh phúc. Như thế, giữa cảnh ăn chay kham khổ, bổn đạo xưa hướng lòng lên chiêm ngắm hạnh phúc Thiên Đàng, để thêm sức mạnh bước tới cùng.
II. VAI TRÒ SỐNG ĐẠO:
Trong mùa chay thánh Giáo Hội kêu gọi mọi người:” Sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối là quay trở về với chính mình, biết mình để sửa đổi những khuyết điểm và nâng cao, phát huy những ưu điểm, những tinh túy của mình. Phải biết mình mới mong sửa chữa, mới mong tiến bộ và tiến vững chắc được. Ai đã sinh ra trên trần gian này, đều vướng mắc tội do Ađam nguyên tổ để lại. Tội ấy đã được nước rửa tội tẩy xóa. Tuy nhiên, đời sống hằng ngày ta có nhiều khiếm khuyết, đều có nhiều tội lỗi do xác thịt yếu hèn của ta gây nên. Biết chấp nhận là yếu hèn, là số không, là tội lỗi, cần có nhiều ân huệ của Chúa, sẽ được Thiên Chúa gia ân giáng phúc. Đọc lại đoạn phúc âm của thánh Luca 18, 9-14, ta sẽ thấy vai trò khiêm nhượng của người thu thuế sẽ được Chúa thương xót như thế nào ? Người thu thuế đứng xa xa, đấm ngực mà nguyện rằng:” Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội”( Lc 18, 13 ).
Lời đơn sơ, khiêm tốn, xưng thú sự yếu hèn của mình sẽ được Thiên Chúa thứ tha và ban ơn cứu độ. Trái lại, người tưởng mình thánh thiện, ngoan đạo trước mặt Thiên Chúa như trong đoạn Tin Mừng Luca 18, 9-14 không được Thiên Chúa chấp nhận vì sự tự tôn, tự đại, tự kiêu căng, khoe khoang về lòng đạo đức của mình. Thái độ tin nhận và khiêm tốn là thước đo lòng đạo đức của ta. Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”( Ga 8, 12b ). Đi trong sự sáng là tránh xa mọi tội lỗi, là nhìn nhận sự yếu hèn, khiếm khuyết của ta và nhờ vào ánh sáng nhân từ của Chúa tế độ cho ta. Giáo Hội trong những ngày này khuyên nhủ con cái của mình sống cố gắng, hy sinh, sớm quay trở về với Chúa qua việc biết mình, để rồi thông cảm với sự yếu hèn của kẻ khác. Sự tuyên xưng Đức Giêsu Kitô chết và sống lại, cứu chuộc nhân loại sẽ đạt được nước trời. Vương quốc ấy là vương quốc ánh sáng, vương quốc chân thật và bình an. Ta hãy phó thác thật sự vào lòng nhân từ của Chúa và cất cao lời ca với tác giả thánh vịnh 22: " Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi".
Lòng từ bi của Thiên Chúa quả thật lớn lao. Ngài đã hy sinh mạng sống Ngài trên thập giá để cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa sai Đức Giêsu Kitô đến trần gian cho mọi người, không dành riêng cho dân Do Thái mà Ngài muốn kết tụ mọi người có lòng tin như ngôn sứ Isaia đã hát lên: "Hỡi Giêrusalem, hãy hân hoan, và hỡi tất cả các ngươi là những kẻ yêu quí thành ấy, hãy tụ họp lại; hỡi các ngươi là những kẻ ưu phiền, hãy hân hoan vui mừng, để các ngươi nhảy mừng và hưởng no đầy nguồn an ủi các ngươi”.
Đi vào thánh lễ sáng nay, chúng ta hãy hát to lời ngợi ca vì muôn ơn lành Chúa đã đổ xuống trên ta, để ta được sống bình an. Xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse mà chúng ta dành riêng trọn tháng này để kính Ngài, ban cho ta sự công chính, lòng trung thành và đức khiêm nhượng như Ngài hầu ta sống mỗi ngày một gắn bó hơn với niềm tin mà ta đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội.
Dưới ánh mặt trời” là tựa đề của rất nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ: Một bộ phim của: MC4-B40
“Dưới ánh mặt trời” là tựa đề của rất nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ: Một bộ phim của Hàn Quốc; một vở kịch hiện đang diễn những ngày này tại bãi biển Saint-Tropez của Pháp; đề tựa một cuốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim của nhà văn Pháp nổi tiếng George Bernanos: “Sous le soleil de Satan” ( dưới ánh mặt trời của Satan ), và ở Việt Nam là tên một ca khúc trong phong trào phản chiến của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang trước năm 1975, v.v... Khác nhau về nội dung, nhưng tất cả đều ngụ ý: dưới ánh mặt trời, chẳng có gì là bí mật, chẳng thể nào giấu giếm mãi những điều mờ ám, đen tối.
Lời Chúa Giê-su hôm nay là một câu tái khẳng định chắc nịch: “Ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng; ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng” ( Ga 3, 20a.21a ). Cuộc chiến giữa Ánh Sáng và Bóng Tối bùng nổ ngay từ thuở hồng hoang và chỉ kết thúc vào Ngày Tận Thế. Cha ông Việt Nam có câu: được vạ thì má cũng sưng ! Nhưng là con cái Sự Sáng, chúng ta không được phép thua cuộc, dù cho không chỉ sưng má, mà còn mất mát lớn lao: vô số người bị bóng tối ngự trị, trong đó một phần không nhỏ là những người mang danh Ki-tô hữu.
Ngày nay, người ta không thể quan niệm sống mà thiếu ánh sáng: ánh sáng được cung cấp từ điện năng với đủ mọi nguồn khác nhau, không chỉ giúp con người trong mọi hoạt động, đến nỗi nhiều nơi “không có đêm”, vì cuộc sống sôi động và rực rỡ đèn màu, cho cảm tưởng người dân những nơi đó không ngủ. Nhưng con người lệ thuộc rất nhiều vào ánh sáng: Không chỉ ở một show diễn nghệ thuật mới cần đến ánh sáng muôn vẻ muôn màu, mà ngay cả những buổi lễ trang nghiêm nhất cũng không thể nào thiếu âm thanh và ánh sáng. Cũng vì vậy, cuộc chiến dầu hỏa vốn được mệnh danh là “vàng đen” giữa các cường quốc tiêu thụ dầu khí còn ác liệt hơn cả chiến tranh lạnh trong thế kỷ qua, đẩy giá dầu không ngừng tăng và những kẻ chịu ảnh hưởng nhất, chính là người nghèo đói. Cái giá của ánh sáng thật đắt đỏ !
Thiếu ánh sáng mặt trời, động thực vật sẽ èo uột thiếu đi sức sống, thì dù có áp dụng tiến bộ khoa học hiện đại hoặc chăm bón đặc biệt đến đâu, động thực vật cũng không thể phát triển và sẽ tàn lụi. Vượt qua hàng trăm triệu cây số vũ trụ, xuyên qua nhiều lớp khí quyển trái đất, mặt trời đem đến sự sống cho hành tinh này. Không có nhiệt độ cao như lửa cháy hoặc như nước đun sôi, nhưng các tia mặt trời đủ loại lại làm sạch cả trái đất, tiêu diệt những vi khuẩn, những mầm bệnh gây hại cho nhân loại. Ngoài sự sống, mặt trời còn bảo vệ cả trái đất cùng muôn thọ tạo bên trong ( x. Tv 23 )
Nhưng ánh sáng mặt trời có rực rỡ, chói chang đến mấy, nếu con người cố tình đóng chặt cửa nhà, bít hết những khe hở, không cho ánh sáng chiếu rọi hoặc len lỏi vào để xua tan bóng tối và làm cho mọi vật trong nhà có sức sống và tươi vui, thì cũng chẳng giúp ích gì được. Chúa Ki-tô là MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH, là ánh sáng thế gian, một thế gian ưa nghiêng chiều về bóng tối, sẽ chẳng làm được gì cho con người, nếu như người đó cố tình bít tai, che mặt trước tất cả những lời mời gọi thiết tha, không chỉ một lần, mà liên tục trong cuộc sống, từ Ánh Sáng Phục Sinh.
Đó chính là tội “phạm đến Thánh Linh”: tội quay lưng lại với ánh sáng và lầm lũi đi trong đêm đen đến cùng ! Thảo mộc dù phơi mình dưới ánh nắng hoặc được trồng trong nhà hay là bị bỏ quên nơi góc tối, vẫn luôn có khuynh hướng quay về phía ánh sáng mặt trời, vì sự quang hợp cho phép nó tồn tại và phát triển không thể thiếu ánh sáng mặt trời. Con người được tạo dựng trong ánh sáng và để trở nên ánh sáng, lại nghiêng chiều và chạy theo bóng tối, thoả mãn dục vọng đê hèn.
Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện, để sau khi nhìn lại thân phận èo uột, cạn hơi tàn sức, suy kiệt sinh lực của mình, con người có đủ dũng cảm để mở toang cánh cửa tâm hồn mình, để cho Ơn Chúa vào soi sáng tận mọi góc tối và quét sạch mọi vết nhơ, bụi bặm. Tiếng Anh có câu: now or never ! Bây giờ hoặc là không bao giờ ! Như những loài ký sinh độc hại hoặc những vi khuẩn chực chờ lây nhiễm, tàn phá và giết hại con người, đều là những loài yếm khí, sợ ánh sáng, tội lỗi luôn lén lút và sợ ánh sáng, luôn tìm cách xâm nhập và đẩy con người càng xa ánh sáng càng tốt. Hãy cầu xin, để Ánh Sáng Chúa Ki-tô quét sạch chúng !
Đừng thử thách Thiên Chúa ! Đừng lạm dụng lòng kiên nhẫn của Chúa ! Song cũng đừng ỷ lại vào lòng nhân hậu của Người ! Tìm về ánh sáng không hẳn đã khó, nhưng giữ được ánh sáng cho mình, giữ cho mình luôn sống trong ánh sáng chan hoà, thật chẳng dễ dàng, vì phải luôn hết sức tỉnh táo và chủ động, để tháo gỡ thường xuyên những chướng ngại vật, những lớp bụi bặm thói hư nết xấu, xua đuổI các cám dỗ dục tình và ươn ái, để nhờ Ánh Sáng cho ta thêm mạnh sức chống trả và chiến thắng bóng tối tội lỗi.
Nhạc sĩ Trần Tiến có bài hát mang tựa đề “Mặt Trời Bé Con” ! Mỗi Ki-tô hữu cũng phải là một “mặt trời nhỏ” cho mọi người. “Mặt Trời Bé Con” này cũng phải mang dáng dấp, điện năng và hành động như Mặt Trời Chính – là Chúa Ki-tô – đơn thuần là vì nó kín múc nguồn năng lượng từ đó và thực hành bổn phận truyền giáo, vốn là bản chất của Ki-tô hữu: mang ánh sáng đến cho mọi người. “Các con là ánh sáng thế gian...”, “...để mọi người xem thấy việc các con làm, mà ngợi khen Cha các con ở trên Trời” ( Mt 5, 14a.16 b ). Thật khó chấp nhận: CHA là Ánh Sáng; con cái lại là bóng tối !
Theo truyền thống từ lâu đời, Chúa Nhật IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy: MC4-B41
Theo truyền thống từ lâu đời, Chúa Nhật IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên” (Rejoice Sunday, Laetare Sunday!), vì Ca Nhập Lễ mở đầu bằng câu “Hãy vui lên!... (Isaia 66, 10-11). Chúng ta hãy vui lên trong Chúa là Đấng đã yêu thương cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy vui lên nơi Thập Tự Giá là nguồn ơn cứu rỗi của chúng ta. Chúng ta hãy vui lên để hướng tâm hồn chúng ta về niềm vui Phục Sinh, sau những cố gắng hy sinh hãm mình, làm việc từ thiện trong suốt Mùa Chay Thánh.
Trong Thánh lễ hôm nay, các vị chủ tế có thể mặc áo lễ mầu hồng thay màu tím, có thể trưng bày hoa trên Bàn thờ, cũng có thể sử dụng các nhạc cụ trong trong Thánh lễ (theo phụng vụ, trong suốt Mùa Chay, chỉ đệm đàn nhẹ cho Ca đoàn hát).
Các Bài đọc hôm nay nói về tình yêu của Chúa đối với chúng ta, dù chúng ta là những kẻ tội lỗi.
Bài Đọc I (2 Ký Sự 36, 14-16, 19-23) nói đến tội lỗi của dân Chúa ngày xưa: “Từ các tư tế, đầu mục và dân chúng (Do thái) đều sống theo nếp sống tội lỗi ghê tởm của dân ngoại… làm ô uế Đền Thờ Chúa đã được thánh hiến… Dù Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi họ ăn năn thống hối, nhưng họ cứ ‘cứng lòng’... và vì thế, Thiên Chúa để cho ‘dân ngoại’ đến chiếm Thành Thánh Giêrusalem, phá hủy Đền Thánh và bắt mọi người đi lưu đày ở Babylon. Chỉ sau những năm bị lưu đày nhục nhã, họ mới ăn năn sám hối. Ngồi trên bờ sông Babylon, họ than khóc nức nở, thương nhớ về quê hương, về Thành Thánh Giêrusalem (Đáp ca: Thánh vịnh 136, 1-6) và sám hối lỗi lầm. Bấy giờ, họ lại được Thiên Chúa thứ tha, và đưa trở về quê hương.
Trong Bài Phúc Âm (Gioan 3,14-21), Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện Dân Chúa xưa sống trong sa mạc, vì tội lỗi phản nghịch, bị rắn cắn, và Thiên Chúa đã sai ông Moise treo con rắn đồng lên và ai nhìn lên con rắn thì được khỏi (Dân số 21, 9…) (Ngày nay, y khoa cũng dùng hình ảnh này làm biểu tượng). Từ hình ảnh đó, Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô về việc Chúa Giêsu sẽ bị chết treo trên Thập Tự Giá để cứu chuộc tội lỗi nhân loại, và ai tin sẽ được tha thứ: “Như ông Moise đã dương cao con rắn trong sa mạc, Con Người (Chúa Giêsu) cũng phải được dương cao như vậy, để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời…)
Đó là tình yêu cao cả của Thiên Chúa đối với chúng ta là những kẻ tội lỗi: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã cho chính Con Một của Ngài đến trần gian để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã chấp nhận cái chết đau đớn trên Thập Tự Giá, như một kẻ nô lệ, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của ma qủy, thế gian và xác thịt, để trở thành những người con cái tự do của Thiên Chúa. Đó là ơn huệ Chúa thương ban, chứ không do công nghiệp riêng của chúng ta (Bài Đọc II: Ephêsô 2, 4-10).
Hình phạt ‘khổ giá’ ngày xưa trong Đế Quốc Rôma, là một hình phạt rất đau đớn và nhục nhã, chỉ dành cho những người phải sống trong thân phận nô lệ. Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn vô tội, nhưng đã chọn cái chết trên Thập Tự Giá như một kẻ nô lệ, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Đó là tình yêu cao cả, Tình Yêu Thập Tự Giá, dù những người Do thái cho đó là ‘điều ô nhục’ và người Hy lạp cho đó là ‘điên rồ’ không thể chấp nhận được! (Côrintô 1:23).
Thật sự, chúng ta chỉ có thể hiểu được tình yêu Chúa trên Thánh Giá, khi chúng ta nhớ tới lời Thánh Gioan Tông Đồ: “Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1 Gioan 4: 8). Một tình yêu bao la, cao cả, vượt trên mọi sự hiểu biết của con người – Tình Yêu Thánh Giá.
Ngày nay, những người vô thần, những người ngoài Kitô Giáo cũng thường không hiểu được tình yêu đó. Họ không thể hiểu được làm sao chúng ta lại tôn thờ một người bị chết nhục nhã như vậy! Thánh giá luôn là một ‘điều điên rồ không thể chấp nhận được đối với những người không có lòng tin nơi Thiên Chúa, những người không thể hiểu được “Thiên Chúa là Tình Yêu!”
Trong niềm vui của Thánh lễ hôm nay ‘vì Chúa đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta’, chúng ta hãy vui lên và cùng hiệp lời cầu nguyện: Xin cho mọi người chúng ta biết dùng nhiều thời giờ hơn trong Mùa Chay Thánh để nhìn lên Chúa chịu chết Thánh Gía vì tội lỗi chúng ta, để chúng ta biết sám hối lỗi lầm, biết từ bỏ những ‘tính hư, tật xấu’, canh tân đời sống cho xứng đáng là con cái Chúa, là Cha yêu thương chúng ta, để cầu nguyện cho những người tội lỗi biết ăn năn trở về cùng Chúa, và cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa được trở về cùng Chúa.
Nếu chúng ta thật sự mừng Năm Thánh Phao-lô theo ý của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI thì: MC4-B42
Nếu chúng ta thật sự mừng Năm Thánh Phao-lô theo ý của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI thì chúng ta sẽ đào sâu những Giáo Huấn quan trọng của ngài (cũng là Giáo Huấn của Mạc Khải Ki-tô giáo). Một trong những Giáo Huấn quan trọng ấy là “do ân sủng và nhờ lòng tin mà chúng ta được cứu độ.” Đó cũng là ý nghĩa của ba bài Thánh Kinh mà Mẹ Hội Thánh cho chúng ta đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B này.
Ân sủng và lòng tin là hai yếu tố thiết yếu tạo nên Ơn Cứu Độ. Không có Ân sủng, không có Ơn Cứu Độ. Nhưng không có lòng tin cũng không có Ơn Cứu Độ. Ân sủng là của Thiên Chúa, Người ban cho con người “một cách nhưng không”. Lòng tin là sự đáp trả hay phần đóng góp của con người, nhưng cũng do tác động của ân sủng. Thật là sự hợp tác kỳ diệu và tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hóa và con người tạo vật trong việc đem hạnh phúc thật đến cho loài người là chúng ta!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16.19-23: Cơn thịnh nộ và lòng thương xót của Chúa.
(14) Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. (15) Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. (16) Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.
(19) Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hỏa đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc quý giá. (20) Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. (21) Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.
(22) Năm thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Ky-rô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: (23) "Ky-rô, vua Ba Tư, phán thế này: 'Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên ...!" 2.2 Bài đọc 2: Ep 2,4-10: được cứu độ nhờ ân sủng.
(4) Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, (5) nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! (6) Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.
(7) Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. (8) Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; (9) cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. (10) Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
2.3 Bài Tin Mừng: Ga 3,14-21: Ai tin vào Con Một thì được cứu độ.
(14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa trong/qua ba bài Thánh Kinh.
3.1.1 Trong bài đọc 1 (2 Sb 36,14-16.19-23), chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và quảng đại đối với dân Ít-ra-en như thế nào: dù dân và những người lãnh đạo của dân có phản bội, bất trung, bất nghĩa thế nào đi nữa thì Chúa vẫn một mực yêu thương và thứ tha cho họ. Để lôi kéo dân trở về, Thiên Chúa sai các sứ giả đến dạy dỗ hướng dẫn dân. Thiên Chúa còn dùng cả nhà vua Ba Tư để thực hiện chương trình cứu độ của Người.
3.1.2 Trong bài đọc 2 (Ep 2,4-10) Thánh Phao-lô Tông đồ xác định một điều hết sức quan trọng và cốt yếu trong giáo lý và thần học Ki-tô giáo: con người được cứu là nhờ lòng thương vô bờ bến của Thiên Chúa tức nhờ ơn sủng mà Thiên Chúa rộng lượng ban không cho con người, chứ không phải do công lao của con người. Nhưng nói thế không có nghĩa là con người không “có phần” trong đó. Phần của con người và là phần không thể thiếu là lòng tin, là sự đáp trả của con người trước tấm lòng yêu thương và ân ban của Thiên Chúa.
3.1.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 3,14-21) Thánh Gio-an kể lại những lời khẳng định của Chúa Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một bậc thày trong dân Ít-ra-en thời Chúa Giê-su, về điểm cốt lõi của Ki-tô giáo: Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã ban Con Một Người cho thế gian để những ai tin vào Người thì được cứu!
Cũng là ân ban và lòng tin. Ở nơi nào hai yếu tố này gặp nhau thì ở nơi ấy phát sinh ơn cứu độ.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa trong/qua ba bài Thánh Kinh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người / mỗi cộng đoàn chúng ta hãy: đón nhận Ơn Sủng của Thiên Chúa & đáp lại Tình Thương của Người bằng việc TIN vào Con Một của Người là Chúa Giê-su Ki-tô!
IV. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Là: 4.1 Mở rộng tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa đổ tràn Ơn Sủng của Người vào đó. Tâm hồn và cuộc sống của chúng ta càng rộng mở với Thiên Chúa thì chúng ta càng hứng được nhiều ơn sủng của Người.
đồng thời là:
Và là 4.2 Đáp lại Tình Yêu của Thiên Chúa bằng một lòng tin sắt son vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô.
Vì thế mà mỗi người và mỗi cộng đoàn hãy tự hỏi:
* Tôi/Chúng ta có thật sự tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa không?
* Tôi/Chúng ta phải thay đổi gì trong cách suy nghĩ và hành động để tăng thêm lòng tin vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô?
* Tôi/Chúng ta có mở rộng tâm hồn và cuộc sống của mình để đón nhận Ơn Chúa không?
* Trong tâm hồn và cuộc sống của tôi/chúng ta hiện có gì đang ngăn cản không cho Ơn Chúa đổ vào?
* Tôi/Chúng ta phải làm gì để khai thông cho Ơn Chúa đổ vào tâm hồn và cuộc sống của mình?
V. CẦU NGUYỆN
5.1 “Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa”
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con nguyện cầu cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và cho các Giám Mục, các linh mục, các phó tế và tu sĩ nam nữ để các vị ấy chu toàn trách nhiệm tái thiết cho Thiên Chúa những ngôi nhà là các tâm hồn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 "Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì do Tình Yêu bao la mà Cha đã ban Ân Sủng cho chúng con.
Chúng con xin Cha cho chúng con biết trân trọng Ân Ban của Cha mà luôn biết sống với Cha bằng tâm tình khiêm tốn và biết ơn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 5.3 "Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án"
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa và là Chúa chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã cứu chúng con bằng cuộc sống cũng như bằng cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con một lòng tin sắt son để chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa và không bao giờ phụ lòng và sự hy sinh vô cùng cao cả của Chúa. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Ánh sáng đã đến thế gian”
Lạy Chúa Thánh Thần là ánh sáng thần linh, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã soi sáng cho chúng con nhận ra và tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một của Thiên Chúa và là Chúa chúng con.
Chúng con xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con củng cố lòng tin và mở rộng hơn nữa tâm hồn và cuộc sống của chúng con để Ơn Chúa đổ xuống cho chúng con nhiều hơn nữa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. ---------------------------
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã: MC4-B43
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí: MC4-B44
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của “Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang lại.
Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô, nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1) Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13). Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm người”. Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại: “Con Người phải được nâng lên cao”. Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2) Ai tin vào Người không bị kết án. Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi. Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa... Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha: MC4-B45
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13). ---------------------------
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21: MC4-B46
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
1) Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa: a) Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
b) Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
c) Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ. 2) Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
a) Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
b) Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
c) Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
d) Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
e) Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
1) Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
2) Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
3) Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
TÌNH YÊU VÀ XÉT XỬ (Ga 3,17-21)
Đến đây chúng ta lại đối diện với một trong những điểm dường như nghịch lý trong Phúc Âm Gioan –nghịch lý giữa yêu thương và xét xử. Chúng ta vừa suy nghĩ về tình yêu của Chúa và bây giờ thình lình phải đối đầu với sự xét xử, buộc tội và kết án. Gioan vừa mới tuyên bố Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian; rồi ông tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nói: “Ta đã đến thế gian để xét xử” (Ga 9,39). Làm sao cả hai điều trên đây đều đúng được?
Chúng ta có thể tạo cho một người kinh nghiệm chỉ có tình yêu mà thôi, nhưng chính kinh nghiệm đó lại trở thành hình phạt cho người ấy. Chúng ta có thể cung ứng cho một người một kinh nghiệm vui sướng hạnh phúc, nhưng kinh nghiệm đó lại là một hình phạt cho người ấy.
Giả như chúng ta rất thích nhạc đại hòa tấu, dường như chúng ta cảm thấy rất gần gũi với Chúa trong tiếng vang rền của âm điệu hơn bất cứ nơi nào khác. Giả như chúng ta có một người bạn không biết gì về âm nhạc, chúng ta muốn giới thiệu với người bạn ấy cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình, để chia sẻ cho họ và tạo dịp tiện để họ được tiếp cận với vẻ đẹp vô hình của âm nhạc mà chúng ta thích thú. Chúng ta không có mục đích gì khác ngoài ra làm cho bạn mình thấy hạnh phúc trong một kinh nghiệm mới mẻ tuyệt vời. Chúng ta đưa người bạn ấy đến buổi hòa nhạc giao hưởng; chỉ trong chốc lát, người ấy thấy uể oải, chán ngán và dáo dác nhìn chung quanh hội trường. Người bạn ấy đã chịu hình phạt chính mình vì chẳng có chút âm nhạc nào trong tâm hồn cả. Cái kinh nghiệm nhằm đưa anh ta đến với niềm vui lại trở thành hình phạt cho anh.
Điều này cũng thường xảy ra cho con người khi đứng trước một nhân vật vĩ đại, cao trọng. Chúng ta có thể đưa người ấy đi xem các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, nghe một nhà truyền đạo lừng danh giảng thuyết, ngắm một cảnh đẹp nào đó, hoặc một cuốn sách hay để đọc. Nhưng phản ứng của họ lại trở thành một lời phán xét, một hình phạt cho chính họ. Nếu họ không thấy chút gì là đẹp, không có chút rung động nào, thì chắc hẳn đã có một điểm mù trong tâm hồn họ rồi. Người ta kể rằng có một du khách được đi xem triển lãm nghệ thuật. Trong phòng triển lãm có những tác phẩm vô giá, những kiệt tác vượt thời gian và không gian của những bậc thiên tài thực sự. Sau khi đi hết một vòng, người du khách nói: “Tôi không thấy mấy bức tranh cũ này của ông có giá trị gì”. Người hướng dẫn phòng triển lãm nói: “Thưa ông, tôi xin nhắc để ông nhớ các họa phẩm này không còn bị đem ra xử, nhưng chính chúng xử những người đến xem chúng”. Phản ứng của người này cho thấy ông ta là kẻ đui mù về nghệ thuật cách đáng thương hại.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Khi một người gặp Chúa với tâm hồn rung động trước sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Ngài, thì người ấy đang ở trên con đường cứu rỗi. Nhưng nếu đã gặp Chúa và vẫn không thấy Ngài có gì đáng yêu cả, thì người ấy đã bị phán xét. Chính phản ứng của người kết án người. Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong tình yêu để cứu rỗi người ấy, nhưng Chúa Giêsu đã trở thành một lời buộc tội người ấy. Chúa không buộc tội người Ngài yêu thương, nhưng chính người ấy đã tự kết án mình.
Người thù nghịch Chúa Giêsu là người đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng. Điều khủng khiếp đối với một người thất sự tốt lành thánh thiện, là luôn luôn có một yếu tố vô thức nào đó trong lòng vẫn lên án mình. Chính lúc so mình với Chúa, chúng ta mới thấy mình là thể nào. Alcibiades, một thanh niên tài ba, nhưng hư hỏng, của thành phố Athène, bạn của Socrates, thỉnh thoảng thét lên: “Socrates ơi, tôi ghét anh, vì mỗi lần gặp anh thì anh cho tôi thấy tôi là gì”. Một người làm ác chẳng bao giờ muốn sự sáng soi rọi điều ác mình. Nhưng một người làm lành chẳng bao giờ sợ ánh sáng.
Người ta kể rằng, có lần một kiến trúc sư đến với Plato đề nghị đưa cho ông ta một số tiền, ông sẽ xây cho Plato một ngôi nhà nhiều phòng mà ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy người trong phòng. Plato đáp: “Tôi sẽ tặng ông số tiền gấp đôi để ông xây một ngôi nhà mà ở trong phòng nào người ta cũng thấy được”. Chỉ kẻ làm ác mới không muốn nhìn thấy chính mình, cũng không muốn người khác nhìn thấy mình. Người như thế chắc chắn sẽ thù ghét Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ chỉ cho người ấy thấy rõ chính mình, đó là điều cuối cùng mà người ấy muốn thấy. Người ấy yêu thích bóng tối che dấu, và không muốn ánh sáng soi tỏ, phơi bày ra.
Phản ứng của một người đối với Chúa Giêsu bày tỏ con người thật của người ấy. Qua phản ứng đối với Chúa Cứu Thế, tâm hồn con người được phơi bày trần trụi. Nếu người ấy nhìn Chúa Cứu Thế với tình yêu, dù chỉ là mơ ước, người ấy vẫn còn hy vọng. Nhưng nếu người ấy chẳng nhìn thấy có gì đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, thì người ấy đã tự kết án chính mình. Đấng đã được phái đến trong tình yêu đã trở thành sự phán xét buộc tội người ấy.
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sư: MC4-B47
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân số 21,4-9, đã giải thoát các người Do Thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp theo sau: a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do Thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử Người còn hơn thế nữa.
Con Người sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời Quả thật Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời.
Câu này tóm gọn mặc khải: ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do Thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”: hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a) Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x 2,28’ 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b) Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c) Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã sử phạt mình vì đã mang lừa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d) Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.
TIN VÀ KHÔNG TIN (cc. 18-21)
Nếu tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là vô điều kiện, thì nó mời gọi lời đáp trả của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người bây giờ phải lựa chọn: chính bây giờ mà việc xét xử được thực hiện. Tính cách quyết liệt và lập tức của việc xét xử là hiệu quả sự hiện diện của Đấng mặc khải: Người hiện diện, con người bắt buộc phải lựa chọn và từ sự lựa chọn này phát sinh ngay từ bây giờ hoặc ơn cứu độ hoặc án phạt. Sự đối nghịch bóng tối/ánh sáng nhắc đến những đoạn văn rất quen thuộc với cộng đoàn Cumran. Thế nhưng Gioan tránh né khía cạnh định mệnh những người Etxênô: chính sự tự do của mỗi người kéo theo sự chia cách và từ đó sự xét xử. Đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng (12,46-48) lặp lại những chủ đề đó cùng với một loại từ ngữ, đến nỗi có vài nhà chú giải đã nghĩ rằng Ga 3,16-19 và 12, 46-50 có thể là hai bản dịch của cùng một bài giảng của cộng đoàn Gioan. Giả thuyết này (không thể xác định được) có cái lợi là chứng tỏ thánh sử đã soạn thảo Tin Mừng như thế nào: ông có sẵn nhiều nguồn và ông đã lựa chọn. Một vài mảng văn đã có thể được thêm vào trong những lần in ấn khác nhau. Chỉ có tác giả là người hoàn tất việc soạn thảo Tin Mừng, chịu trách nhiệm toàn tập.
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô và sự mặc khải tiếp theo, tạo thành một đỉnh cao về Chúa Kitô trong Tin Mừng Gioan. Cộng đoàn, đối mặt với Do Thái giáo, được mời gọi xác định căn tính của Chúa Giêsu và tách mình ra khỏi trào lưu Do Thái, cho dù nó có gần gũi với cộng đoàn (như trường hợp ông Nicôđêmô), bởi vì những người Do Thái đã không sẵn sàng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng mặc khải của Thiên Chúa, là Chúa Con nhờ người Thiên Chúa nói lời cuối cùng với nhân loại. ---------------------------
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm", "đưa mắt" hướng lên một hình ảnh: MC4-B48
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm", "đưa mắt" hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt "bốn mươi" năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm "một dấu hiệu chữa trị", một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người" (Kn 16,7).
Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái "nhìn" tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ "Đức tin", nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang "quay về" với Thiên Chúa.
Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.
Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần phải dám ngắm nhìn "Đấng chịu đóng đinh" đó, Đấng được "giương cao" trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao" ("upsothènai" trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được "giương cao) trên thập giá, vừa được "đưa lên" ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm "hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, "Thập giá" và "Phục sinh" thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: "Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất". Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ "vinh quang" của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: "'Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác... phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12,23-32).
Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được "gương cao" giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là "đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một "chóp đỉnh của đau đớn" và chết chóc", nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để "thấy" những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là "dấu chỉ": Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu "không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là "dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người" (Ga 3,16).
Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ "vinh quang" nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh "Lạy Cha".
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng... Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.
Người đã ban cho Con Một mình
Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: "Yêu và cho"! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một" hay "độc nhất" (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: "Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa". Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng "Con Một" Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất", Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
- Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một "sự sống từ trời" được ban tặng (Ga 3,3).
- Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
- Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ. - Công trình của Con Người cũng là "công trình của Thiên Chúa" (1Tm 2,4).
Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là "Đấng hằng sống" tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định "cứu độ phổ quát" của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận "ân huệ" đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ "hỏa ngục". Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn "sự sống" mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự "đối diện với Thiên Chúa".
Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn văn quả quyết hai điều:
- Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.
- Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.
Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc "lên án" không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng "diện kiến" tự kết án mình trở thành một thế giới "ở bên ngoài" Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng ta cần ghi nhận rằng, "bi kịch của thái độ vô tín" không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa "Đấng không đến để xét xử".
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: "Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa"
Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: "Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng". Sống là “hành động"! Đó là những "hành động", những "việc làm"; những "công trình". Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những "việc làm của con người" cũng được công nhận như những "việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…
Ga 3,14-21
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa: MC4-B49
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. Ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tìm đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí" (3, 5) .
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao; hễ ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7).
Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống, ban sự sống của Thiên Chúa. “Bị treo lên", Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên "Con Người bị đóng đinh và phục sinh” thì được Người ban cho sự sống đời đời.
Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-Dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L'evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
Léon-Dufour giải thích thêm: "trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lại, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu "bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Cái nhìn cứu sống"(G.Bessière, trong "Dieu si proche" năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương, Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: "Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ "treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiến sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy "tin". Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy? - "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng "để nhờ Người mà thế gian được cứu sống".
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng, như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: "Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng...”
2) Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp "Thư gởi những người công giáo Pháp", Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì "cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
Thánh Gioan viết cuốn Tin mừng của ông khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu về trời. Trí nhớ: MC4-B50
1. Thánh Gioan viết cuốn Tin mừng của ông khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu về trời. Trí nhớ của tuổi già, thường rất chính xác khi gợi lại những kỷ niệm thời thanh xuân, đã giúp ông nhớ lại một vài cảnh đặc sắc trong đời Chúa Giêsu và nhiều giáo huấn đặc biệt của Thầy. Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Nicôđêmô đến đàm thoại với Chúa Giêsu về đề tài đức tin và sự tái sinh thiêng liêng. Sau khi tường thuật, vị thánh sử gộp lại trong suy tư riêng một lô giáo huấn Chúa Giêsu đã ban hay đã gợi ý mà ông đã thâu thập và đào sâu. Ông trình bày chúng dưới ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh cùng trong lối văn riêng của mình, là nhớ thế đã cho chúng ta một vài phản ảnh sống động về một đức tin được trực tiếp nuôi dưỡng tận nguồn (Gioan dã biết Chúa Giêsu) cùng được suy niệm cách sâu xa (Gioan đã sống đức tin với tư cách môn đồ hết mực trung tín).
2. Ở đây thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô vẫn luôn gói trong các thư của ông là "mầu nhiệm" cứu rỗi do Thiên Chúa đem đến để ta tin: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần để cứu rỗi thế gian. Những ai được hưởng ơn rỗi là kẻ, khi gặp Chúa Kitô, đã tin vào Người.
3. Từ ngữ "Con Người" xuất phát từ ngôn sứ Đanien (7,13). Một cách chung chung, tước hiệu được Tin mừng Gioan áp dụng cho Chúa Giêsu để biểu thị vai trò cứu thế của Người qua việc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh, nên có thể hiểu như là "Con Thiên Chúa làm người". Như vậy ta thấy Chúa Giêsu là Đấng thể hiện được kiểu mẫu hoàn hảo của con người tự hoàn thành lấy mình vì đã tự vượt thắng mình trong Thiên Chúa. Thánh Gioan còn ghi lại: "Con Người đã bị giương cao". Đây là việc treo lên thập giá. Lời này ám chỉ đến câu chuyện Môsê treo con rắn đồng được sách Dân số kể lại (Ds 21,6-8) Sách kể rằng: khi đang ở trong một vùng nầy rắn rít lúc đi qua sa mạc, người Hy bá đã được kháng nhiễm một cách lạ lùng khỏl nọc độc của chúng bằng cách nhìn lên một con rắn đồng Môsê treo lên nơi cao. Câu chuyện này được thánh sử gợi lại như biểu tượng cho thực tại thiêng liêng của ơn cứu độ được ban cho hết những ai nhìn về thập giá Chúa Kitô vui lòng tin.
4. "Ai tin vào Người thì không bị án xử, kẻ không tin vào Người thì đã bị án xử rồi". Cách nói này cho thấy niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô bao hàm sự dấn thân dứt khoát và sau cùng sẽ đem lại công hiệu. Nghĩa là đức tin của tôi hôm nay (mà tôi luôn giữ vững) sẽ cứu tôi trong ngày tôi chết và trong ngày cánh chung. Giữa cái hôm nay và ngày sau hết của đời tôi, có thể xảy ra nhiều thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi vào vị thế khỏi bị kết án, nghĩa là đặt tôi trong ơn tha thứ của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón và trong tình bằng hữu của Ngài. Điều này giải thích cho thấy sự nồng nhiệt của đức tin tôi hôm nay có một tầm quan trọng rất lên đối với cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với Thiên Chúa; mỗi ngày hiện tại chuẩn bị ngày cuối cùng đời tôi. Song nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu, hồng ân lạ lùng là tình bằng hữu của Thiên Chúa cũng đến ngay bây giờ trong tôi và biến đổi tôi rồi. Niềm tin này lôi kéo tôi sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn trung thành với Tin mừng. "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng".
5. Sự tự do hành động mà Nicôđêmô được hướng cũng là một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, Đấng để con người bước đi theo ý họ, ngay cả trên đường nẻo gian tà, thù hận và chết chóc. Thiên Chúa chỉ muốn làm một điều là ban Con Một, sai Người đến giữa nhân loại để chịu đau khổ và chết chóc hầu cứu rỗi họ. Cả Chúa Cha lẫn chúa Con đều không muốn ép con người yêu, nhưng chỉ kêu mời họ yêu từ đỉnh thập giá. Hai Đấng cũng tránh không phán xét hay kết án con người ngay ở đời này. Chính con người và chỉ mình họ tự làm quan tòa cho mình, tùy như họ cởi mở đón nhận hay từ chối ánh sáng.
6. Như thế con người của Chúa Kitô, qua hành động và lời nói, tỏ hiện ra như là nơi gặp gỡ hay chia rẽ của nhân loại. Theo Tin mừng Gioan, mọi người đều phải đối chất với Chúa Kitô, dù chỉ là một cách mặc nhiên, khi họ thông đồng với sự ác, hay khi họ khát vọng chân lý, sự thiện. Từ khi Ađam ẩn núp khỏi mặt Thiên Chúa, con người luôn luôn có khuynh hướng trốn tránh Thiên Chúa, tha nhân và chính mình, để khỏi lộ tẩy các hành vi xấu xa của mình, nhất là những hành vi bên ngoài có vẻ tốt hảo. Ai cố ý quay lưng lại với chân lý dầu chân lý ra sao - thì liều mình chết trong sự mù quáng tội lỗi. Ngược lại, ai tỏ ra trung thành trong thực tế với chân tý mà mình đã thoáng thấy - dầu chân lý đó hạn hẹp mặc lòng – thì cũng được Chúa Kitô hứa cho sống và dược thông hiệp với Thiên Chúa Cha.