“Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an. Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Bầy giờ người Do-thái bảo Người rằng: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giê-su trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người Do-thái đáp lại: “Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói. Trong thời gian Người ở lại Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giê-su không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta. - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 2:13-25)
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại hình ảnh một Chúa Giê-su khác hẳn với hình ảnh chúng ta thường: MC3-B51
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại hình ảnh một Chúa Giê-su khác hẳn với hình ảnh chúng ta thường gặp. Không phải một Chúa Giê-su “hiền lành và khiêm nhường”, nhưng một Chúa Giê-su giận dữ và hành động của Người như mang vẻ bạo lực. Người thẳng tay đuổi mọi kẻ buôn bán và đổi tiền cũng như các con vật ra khỏi Đền Thờ. Người thách thức kẻ thù “cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày Người sẽ xây dựng lại”. Thực là khó hiểu về một Chúa Giê-su như vậy.
Tuy nhiên việc các môn đệ Chúa Giê-su “nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh” và “nhớ lại Người đã nói điều đó” sẽ giúp chúng ta hiểu được hành động và lời nói khác thường của Người. Vậy điều trước hết các môn đệ Chúa đã nhớ lại là gì? Để hiểu sự giận dữ của Chúa Giê-su khi thanh tẩy Đền Thờ, họ “nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Lời Kinh Thánh nói trên đã giúp các môn đệ Chúa hiểu tại sao Người phải chết. Chúa Giê-su đã “nhiệt tâm lo việc nhà Chúa” khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng và chữa lành. Người đã nhiệt tâm đến độ sẵn sàng chấp nhận cái chết để chu toàn “việc nhà Chúa”, tức chu toàn sứ mệnh cứu độ trần gian mà Chúa Cha đã trao cho Người. Chúa Cha sai Người đến để cho mọi người thấy Thiên Chúa đã yêu thương họ như thế nào. Người đã chứng minh cho tình yêu của Thiên Chúa bằng cách thiệt thân trên thập giá, vì không có tình thương nào lớn lao hơn tình yêu của người sẵn sàng thí mạng sống vì người mình yêu thương. Nói tóm lại, điều thứ nhất các môn đệ hiểu được khi họ nhớ lại lời Kinh Thánh, đó là cái chết cứu độ của Chúa Giê-su.
Điều thứ hai các môn đệ Chúa nhớ lại, đó là những lời Chúa Giê-su đã nói với người Do-thái: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Sau khi chết, ngày thứ ba Chúa Giê-su đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa đã giúp họ hiểu Đền Thờ Chúa Giê-su muốn nói ở đây có nghĩa là chính thân thể Người. Đã mấy lần khi còn sinh thời Chúa Giê-su làm cho kẻ chết trỗi dậy. Lần sau cùng là Người cho anh La-da-rô được sống lại sau khi anh đã được an táng trong mộ bốn ngày rồi. Tất cả đều là những phép lạ lớn lao. Tuy nhiên, “tôi sẽ xây dựng lại”, hoặc tự mình trỗi dậy từ kẻ chết, thì quả thực là một dấu lạ lớn lao nhất trên các dấu lạ. Dấu lạ ấy sẽ nói cho chúng ta biết Đấng tự mình sống lại phải là vị Thiên Chúa Toàn Năng, điều mà Chúa Giê-su muốn trả lời cho những người Do-thái muốn thấy dấu lạ chứng tỏ Người là ai. Vậy khi nhớ lại lời Chúa Giê-su nói về việc xây dựng lại Đền Thờ trong ba ngày, các môn đệ hiểu và tin Người đã sống lại từ kẻ chết.
Như thế, sứ điệp bài Tin Mừng hôm nay muốn nói về sự chết và phục sinh của Chúa Ki-tô. Phụng vụ Lời Chúa đang chuẩn bị tâm hồn chúng ta để tưởng niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh trong những ngày sắp tới. Các môn đệ Chúa đã “nhớ lại” lời Kinh Thánh và lời Chúa Giê-su là để tin vào Người. Cũng vậy, khi cử hành những ngày Tuần Thánh, chúng ta “nhớ lại” sự chết và sống lại của Chúa Giê-su là chúng ta tin Người là Đấng nào, chứ không chỉ là hành vi đơn thuần của ký ức.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thánh Gio-an ghi lại ở cuối bài Tin Mừng: “Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu là Người làm. Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ”. Vậy tôi phải làm sao để Chúa Giê-su tin là tôi thực sự tin vào Người? Chúng ta đừng bắt chước những người ở Giê-ru-sa-lem tin vì đã chứng kiến phép lạ Chúa làm. Đó chưa phải là đức tin đích thực, nhưng là đức tin dựa vào đầu óc. Chúa Giê-su muốn chúng ta có một đức tin ở trong trái tim, vì “Người biết chúng ta hết thảy… Chính Người biết có gì trong lòng con người”. Vậy thì tận đáy lòng, chúng ta có thể thưa với Người mỗi khi tham dự Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”.
Gio 2:13-25: 13 Và lễ Vượt Qua của người Do thái đã gần, Đức Giêsu lên Giêrusalem. 14 Người thấy trong đền thờ những người bán bò, chiên và bồ câu, và những người ngồi đang đổi tiền. 15 Làm một cái roi bằng dây, Người xua đuổi tất cả ra khỏi đền thờ, cùng với chiên và bò. Người đổ tung tiền của những người đổi bạc, và lật nhào bàn ghế. 16 Với những người bán bồ câu, Người nói: “Hãy đem tất cả ra khỏi đây, ngưng làm nhà Cha tôi thành cái chợ.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã được viết: “Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ hủy hoại tôi.”
18 Rồi người Do thái đáp lại và nói với Người: “Dấu lạ nào ông chỉ cho chúng tôi thấy để ông làm chuyện đó?” 19 Đức Giêsu đáp và nói với họ: “Các ông hãy phá huỷ điện thờ này đi; trong ba ngày, tôi sẽ dựng lên lại.” 20 Rồi người Do thái nói: “Mất bốn mươi sáu năm để điện thờ này được xây dựng, thế mà ông dựng nó lên lại trong ba ngày sao?” 21 Nhưng Người đang nói đến điện thờ thân thể của Người. 22 Vậy, khi Người được trỗi dậy từ cõi chết, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều nầy; họ tin vào kinh thánh và lời Đức Giêsu đã nói.
Chương hai gồm hai câu chuyện: phép lạ tại Cana, như là dấu lạ đầu tiên để các môn đệ tin: MC3-B52
Chương hai gồm hai câu chuyện: phép lạ tại Cana, như là dấu lạ đầu tiên để các môn đệ tin vào Chúa Giêsu (2:1-11) và việc thanh tẩy đền thờ và loan báo đền thờ thân thể Người, như là dấu lạ cho người Do thái, nhưng họ không hiểu (2:13-25). Đoạn 2:13-25 gồm hai phần song song với nhau: - phần 2:13-17 gồm: hành động của Chúa Giêsu (c.14-15), lời của Người về nhà của Thiên Chúa bị làm thành cái chợ (c. 16), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 17); - và phần 2:18-25 gồm: hành động của người Do thái (c. 18), lời của Chúa Giêsu về điện thờ mới (c.19), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 22). Trong phần nầy có thêm ghi nhận việc không hiểu của người Do thái (c. 20) và lời giải thích của thánh sử (c. 21). Phần thứ hai hoàn thành phần thứ nhất.
Theo thánh Gioan, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người còn lên đó nhiều lần khác nữa (6:4; 11:15; 12:1; 13:1). Ba sự kiện: lễ Vượt Qua, thanh tẩy đền thờ và loan báo việc sống lại liên kết với nhau rất ý nghĩa. Mỗi dịp lễ Vượt Qua là lúc đền thờ được sử dụng cách đặc biệt để cử hành biến cố Thiên Chúa đưa dân Do thái ra khỏi kiếp nô lệ ở Ai cập. Chúa Giêsu thanh tẩy đến thờ là để phục hồi lại phẩm giá cho nhà của Thiên Chúa, vì những người buôn bán trong đền thờ đã tục hóa khi làm nơi đó thành cái chợ. Trong bối cảnh nầy, Chúa Giêsu loan báo một điện thờ mới, xứng đáng cách tuyệt đối làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đó là thân thể phục sinh của Người. Muốn được thế, Người phải chịu hủy hoại, cũng vào dịp lễ Vượt Qua (2:17; 19:14).
Điện thờ mới gắn liền với sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã đi từ một đền thờ, ieros, Giêrusalem cụ thể, với những gian nhà và không gian chung quanh (2:14.15) đến một không gian hẹp hơn. Đó chỉ là điện thờ, naos, là nơi để cử hành các nghi thức thờ phượng Thiên Chúa (2:19.20. 21). Đền thờ Giêrusalem tượng trưng cho cơ chế và quyền bính của Do thái giáo. Chúa Giêsu không nói gì đến việc phá hủy đền thờ và quyền bính nầy, theo như lời cáo buộc sau nầy (Mc 14:58; Mt 26:61). Việc thanh tẩy đền thờ dẫn đến việc loan báo dựng lên một điện thờ mới chứng tỏ đền thờ cũ không cần thiết nữa và phải được thay thế (cf. 4:21).
Việc thay thế sẽ không là xây dựng một đền thờ trong bốn mươi sáu năm, mà trong ba ngày. Thân thể Chúa Giêsu chính là điện thờ. Người sẽ chết và sống lại trong ba ngày. Sự chết của Người được ám chỉ trong trích dẫn Thánh vịnh 69:10: “Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ hủy hoại tôi” và trong mệnh lệnh “Các ông hãy phá huỷ điện thờ này đi” (2:19). Trong khi để chỉ sự sống lại, thánh Gioan đã cố ý dùng chữ egeiro, có hai nghĩa: dựng lên một căn nhà hay một đền thờ, và làm cho đứng dậy, trỗi dậy. Động từ nầy được dùng để chỉ việc Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết (2:22; 21:14).
Điện thờ là nhà của Thiên Chúa, là nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa. Nơi đó sẽ không còn là một không gian, mà là một đấng: Chúa Giêsu Kitô Sống Lại.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta hầu như ít thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài luôn: MC3-B53
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta hầu như ít thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài luôn ôn hòa, dịu hiền, khiêm nhượng và hình như luôn muốn chấp nhận phần thua thiệt. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Gioan 2, 13-25 lại cho chúng ta một hình ảnh của Chúa Giêsu nổi cơn thịnh nộ:” Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà tôi đây phải bị thiệt thân”. Chúa Giêsu dùng roi đuổi những người bán bồ câu, chiên, bò và lật nhào bàn ghế của những người đổi tiền.
CƠN THỊNH NỘ THÁNH CỦA CHÚA GIÊSU:
Thường thì chúng ta vẫn thấy hình ảnh của Chúa Giêsu “ hiền lành và khiêm nhượng”. Ngài chấp nhận cái hôn giả dối của Giuđa, Ngài bảo Phêrô hãy bỏ gươm vào vỏ, Ngài im lặng trước những lời cáo oan của kẻ thù, Ngài chấp nhận tha thứ cho những người làm hại Ngài, đóng đinh Ngài vào thập giá. Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là một lời xin vâng làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha.Hôm nay khi lên đền thánh Giêrusalem đúng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài nhiệt thành vì Cha của Ngài, do đó, Ngài không thể chịu đựng nổi cái cảnh người ta biến nhà Cha của Ngài thành nơi buôn bán, đổi chác, thành hang trộm cướp. Lòng nhiệt thành của Ngài thiêu đốt Ngài khiến Ngài không thể chịu nổi cảnh ồn ào, náo nhiệt như cái chợ. Dù rằng những việc buôn bán chỉ diễn ra ngoài khu vực tiền đình, nơi dành cho dân ngoại, nơi dành riêng buôn bán dùng vào việc tế tự trong Đền thờ của những người đi hành hương về Đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu vẫn không thể chịu đựng nổi sự bất kính của những con người không biết gì về nơi thờ phượng. Ngài gọi đây là nhà của Cha Ngài, nhà cầu nguyện. Ngài nổi cơn thịnh nộ vì Ngài muốn thanh tẩy Đền thờ dù Ngài biết rằng sự nổi giận của Ngài có thể khiến Ngài phải thiệt thân.
CỨ PHÁ HỦY ĐỀN THỜ NÀY ĐI, NỘI BA NGÀY, TÔI SẼ XÂY DỰNG LẠI:
Khi lên Đền thờ Giêrusalem, Chúa vẫn tỏ ra rất kính trọng ngôi Đền thờ này, một ngôi Đền thờ mà Salomon và nhiều người đã vất vả xây dựng để dâng kính Thiên Chúa. Ngài gọi đây là nhà của Cha Ngài ngự và nơi đây là nhà cầu nguyện. Do đó, Ngài trân trọng công trình xây dựng của con người. Tuy nhiên, khi nói đến việc phá hủy Đền thờ này, một ngôi Đền mà Salomon và dân chúng đã phải nỗ lực, tốn biết bao tiền của, biết bao nhiêu công sức để xây dựng trong hơn 40 năm trời, thì phá hủy nó đi và trong ba ngày Chúa lại xây dựng lại quả Ngài ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Ngài. Đền thờ ở đây, chính là thân xác của Chúa Giêsu. Chúa phục sinh sẽ là Đền thờ mới. Nhân loại sẽ thờ phượng Đền thờ là thân thể phục sinh của Chúa cách đích thực. Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy tâm hồn mỗi người chúng ta.
HÃY TU SỬA ĐỀN THỜ TÂM HỒN: Chúa ban cho mỗi người một tâm hồn. Chúa muốn mỗi tâm hồn chúng ta phải trở thành một Đền thờ cho Chúa ngự. Bới thế, quay trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn, làm mới cuộc đời là những điều cần thiết giúp chúng ta có một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự trị. Mỗi thánh lễ phải là một hy tế để chúng ta dọn dẹp tâm hồn hầu rước Chúa vào lòng chúng ta. Bởi vì như viên sĩ quan chúng ta phải thưa với Chúa:” Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con nhưng xin Chúa chỉ phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Mùa chay là cơ hội thuận tiện để Kitô hữu sửa đổi ngôi nhà tâm hồn. Mùa chay cũng là mùa để mọi Kitô hữu đón nhận ân sủng của Chúa. Chúa đã chết để gánh tội trần gian dù rằng Ngài không có một tội nào. Chính vì thế, người môn đệ Chúa đừng bao giờ để tâm hồn mình trở thành chợ búa nghĩa là tâm hồn lỉnh kỉnh tội lỗi và những tính hư nết xấu. Người môn đệ Chúa đừng bao giờ để những đam mê của thế gian lấn át, và đẩy xa Chúa Thánh Thần:” Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây “. Người môn đệ hãy làm cho đền thờ của mình trong sạch và người môn đệ của Chúa cũng phải nhìn ngắm và giúp người khác sửa đổi lại ngôi Đền thờ tâm hồn của họ đã bị xuống cấp, đã bị dột nát.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết tôn trọng đền thờ Giáo xứ, Giáo họ, Giáo phận và đặc biệt biết sửa sang Đền thờ tâm hồn của chúng con để Chúa yêu thương ngự trị. Amen.
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống ? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt: MC3-B54
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống ? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc con người suốt đời.Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được xác định. Vì chữ tín càng cao, con người càng được mọi người kính nể. Chúng ta thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo đường, đến tận núi Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do thái. Mười Điều Răn chính là cách diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244). “Mười Điều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa trên chúng ta” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người. Con người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vậy “ trước khi ban Mười Điều Răn cho Israel, Thiên Chúa mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Đối với Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn đề. “Giới răn thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc thần trong thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê. Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm tin và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất hứa.
“Mười Điều Răn đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong thực tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có trách nhiệm” (Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là cách duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là “phương tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa” (Life Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì biến phương tiện thành mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất của lề luật. Nói khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu mới không ngần ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một Đấng “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29) lại có thể “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế ho.” (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã phải quát lên: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Đền Thờ làm Người hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức thường tình để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải lớn lao về bản chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ vào thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành động của Đức Giêsu mang tính cánh chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên sai của Người” (Ga 2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau cái chết và phục sinh của Người được trả lời thỏa đáng. “Đền Thờ ấy sẽ được một thực tại mới thay thế là Đức Kitô tràn đầy Thần khí” (Faley 1994:248). Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ trở nên trung tâm thu hút mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh, Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong “thần khí và sự thật” (4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân loại (c.25; 1:47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn thanh tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ rườm rà, nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người nhận biết Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người” (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như bước vào “thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín hữu và cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa !” (ĐGH Gioan Phaolô II, “Ngày Xin Ơn Tha Thứ”, VietCatholic, 19/3/2000).
Đức Giáo Hoàng đã tô một nét son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về những lạm dụng tình dục của một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận người Kitô hữu đã không cố sức cứu người Do thái trong thời Đệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
Chúa Nhật I mùa Chay mời gọi ta bước vào một cuộc thay đổi theo lời giảng mở đầu của: MC3-B55
Chúa Nhật I mùa Chay mời gọi ta bước vào một cuộc thay đổi theo lời giảng mở đầu của Chúa Giê-su: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Phụng vụ Chúa Nhật II giúp ta chiêm ngưỡng ý nghĩa đích thực của cuộc thay đổi qua biến cố Hiển dung của Chúa Giê-su trên núi cao. Còn Chúa Nhật hôm nay dẫn ta vào chương trình thay đổi cụ thể trong những mối tương quan của cuộc sống, tức là tương quan giữa ta với Thiên Chúa, với người khác và với chính mình. Chương trình ấy được gồm tóm trong Mười điều răn Chúa ban cho ta qua ông Mô-sê, trong cuộc sống của Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Thiên Chúa xuống thế làm người mà tuyệt đỉnh biểu lộ sự khôn ngoan chính là lúc Người chịu đóng đinh trên thập giá.
1. Mười điều răn là trật tự cuộc sống Thiên Chúa muốn ta sống theo (bài đọc Cựu Ước – Xh 20:1-17)
Muôn loài chim trời cá biển và loài vật trên mặt đất sống theo bản năng bẩm sinh của chúng. Nhưng con người thì khác, vì ta có linh hồn, lương tâm và ý chí tự do nên hành vi của ta còn mang tính chất luân lý nữa. Để giúp ta sống đúng với ý nghĩa cuộc sống khi Thiên Chúa tạo dựng ta “giống hình ảnh Người”, Người đã ban cho ta những luật lệ làm tiêu chuẩn sống sao cho tốt lành đạo đức và trở nên thiện hảo. Đó là Mười điều răn, gồm tóm những quan hệ giữa ta với Chúa, với tha nhân, với mọi tạo vật và với chính mình.
Có lẽ quá quen thuộc với Mười điều răn, với những lời mở đầu “chớ, phải, ngươi hãy, ngươi không được”, nên ta cũng ít nghĩ đến nội dung của chúng muốn nói lên điều gì. Tuy nhiên, trong bầu khí mùa Chay, Mười điều răn có thể mang ý nghĩa thích hợp với việc sám hối khi chúng trình bày một trật tự của cuộc sống thường đã bị tội lỗi của ta làm tổn thương, đảo lộn hoặc phá bỏ.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho ta một bức họa đầy đủ về trật tự trước và sau khi nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh Chúa. Khi tạo dựng vũ trụ muôn loài và con người, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự trong một trật tự hẳn hoi. Trật tự ấy đặt con người trong vị trí dưới các thiên thần một chút, nhưng lại ở trên các tạo vật khác vì họ được ban quyền thống trị (đặt tên) chúng. Nhưng con người lại phải phụng thờ Thiên Chúa, Đấng dựng nên họ. Con người được ban quyền “canh tác” mặt đất, tiếp tục giữ cho nó được xinh tươi đẹp đẽ, góp phần vào cộng cuộc tạo dựng của chính Thiên Chúa. Trật tự này đã bị tội tổ tông đảo ngược. Con người bất tuân lệnh Thiên Chúa. Sự sống đã bị cái chết chiến thắng. Đau khổ thể xác lẫn tinh thần thay thế cho sung sướng hạnh phúc. Mặt đất đối nghịch với sự canh tác của con người, trở nên “khô cằn” làm cho con người “phải đổ mồ hôi trán” mới có miếng ăn. Bất hòa giữa Ca-in và A-ben tượng trưng cho trật tự huynh đệ bị tổn thương.
Trật tự của việc Thiên Chúa tạo dựng biểu lộ đức khôn ngoan của Người cũng là đề tài cho các tác giả Thánh vịnh viết lên bao nhiêu bài ca tụng. Hầu hết các Thánh vịnh đều xoay quanh việc ca ngợi đức khôn ngoan của Thiên Chúa, kêu gọi ta hãy sống theo trật tự ấy, nghĩa là sống theo luật pháp Chúa, thánh ý và huấn lệnh của Người (Tv 18).
Sống trong trật tự bị đảo lộn này, những tương quan của ta đã mất đi do tội lỗi. Thay vì sống để thờ phượng kính mến Chúa và yêu thương tha nhân, ta lại trở nên thù địch với Chúa và anh chị em. Thay vì lo lắng chăm sóc cho tha nhân, ta lại “giết” họ bằng miệng lưỡi vu oan giá họa. Thay vì giúp đỡ anh chị em thiếu thốn, ta lại “trộm cắp” bằng cách coi thường công bình xã hội, lo tìm tư lợi và làm giầu bằng những bất công gây ra cho người khác… Cứ như vậy, ta đã làm cho trật tự cuộc sống của ta không còn như Mười điều răn đã chỉ dạy nữa. Do đó, ta cần được kêu gọi sám hối để nhìn lại trật tự đã đổ vỡ ấy mà sửa sai và cố gắng sống một cuộc sống mới. Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay không chỉ kêu gọi sám hối một cách vu vơ, nhưng hết sức thực tế, dựa trên những mối tương quan trong cuộc sống mà ta có thể thay đổi bằng việc xét mình hằng ngày và xưng tội thường xuyên. Nhắc lại cho ta hôm nay về Mười điều răn là nhắc nhở ta phải tái lập “trật tự” đã bị trục trặc hoặc mất đi vì tội lỗi ta phạm, là mời gọi ta hãy trở về sống theo “đức khôn ngoan” của Thiên Chúa.
2. “Đấng Ki-tô bị đóng đinh” là sức mạnh và sự khôn ngoan Thiên Chúa sử dụng để tái lập trật tự tạo dựng (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 1:22-25)
Thánh Phao-lô luôn luôn có lối suy tư thần học vô cùng độc đáo. Trong cái nhìn cứu độ mang chiều kích vũ trụ, hoặc trong toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô đề cao vai trò tất yếu và tối thượng của Chúa Ki-tô bị đóng đinh. Muốn nói tới cứu độ, ta phải nhìn về tình trạng hư mất của nhân loại do tội lỗi. Tội lỗi đã đảo lộn trật tự khôn ngoan của Thiên Chúa và làm yếu đi quyền năng của Người nơi thụ tạo. Vậy thì muốn cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sẽ sử dụng sự ngôn ngoan và sức mạnh của Người, thể hiện nơi Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Ki-tô là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Đức Ki-tô bị đóng đinh là tác nhân của việc cứu độ, cho nên rao giảng việc Thiên Chúa cứu độ nhân loại tức là rao giảng Đức Ki-tô bị đóng đinh. Ở đây thánh Phao-lô ghi lại hai phản ứng trước việc rao giảng của ngài. Thứ nhất, người Do-thái cho rằng Thiên Chúa cứu độ ta bằng “những điềm thiêng dấu lạ” chứ không phải bằng cái chết của Đức Ki-tô. Thứ hai, người Hy-lạp tin rằng ta được cứu độ hay giải phóng là nhờ “lẽ khôn ngoan” của triết học chứ không phải do lẽ “điên rồ” của một người bị chết đóng đinh thập giá. Còn theo quan điểm và hơn cả một quan điểm nữa, tức là lòng tin của Phao-lô, thì “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Tại sao hơn được? Đó là vì cái điên rồ của Thiên Chúa là cái điên rồ của tình yêu vô điều kiện và cái yếu đuối của Thiên Chúa mềm lòng trước thảm họa của nhân loại đã khiến Người trao nộp Con Một để cứu độ họ!
Chúa Ki-tô đến với ta để biểu dương tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa. Người đã rao giảng, làm phép lạ và cuối cùng đã lấy cái chết để nói lên sức mạnh và tình yêu ấy. Nói tóm lại, Người tự nguyện chịu chết trên thập giá để tái lập trật tự đã bị tội lỗi chiếm đoạt và khuynh đảo. Người đã chịu đóng đinh, đầu hướng lên trời, chân đạp đất, để đặt con người lại đúng vào vị trí của họ, tức là phụng thờ Thiên Chúa và thống trị muôn loài. Thiên Chúa sử dụng tình yêu và sức mạnh trong cái chết khổ hình của Đức Ki-tô để cứu độ ta. Đây quả thực là một đề tài giúp ta cảm tạ Chúa và tin vào sức mạnh quyền năng của Người.
3. Chúa Giê-su tái lập trật tự Đền Thờ và việc cá nhân Ki-tô hữu phải tái lập trật tự tâm hồn mình (bài Tin Mừng – Ga 2:13-25)
Phụng vụ Lời Chúa lấy lại câu truyện Chúa Giê-su xua đuổi những kẻ buôn bán trong Đền thờ, đồng thời Người nói về cái chết và phục sinh của Người. Đền thờ nguyên thủy là nơi xứng đáng để Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người. Vua Đa-vít và Sa-lô-mon cùng với dân Ít-ra-en đã tốn bao năm tháng, công sức và vật lực để kiến tạo một ngôi nhà cho Chúa ngự. Nhưng rồi Đền thờ dần dần biến thành nơi đổi tiền hoặc mua bán chiên cừu dùng cho việc tế lễ. Ý nghĩa đích thực của Đền thờ đã bị thay đổi. Đền thờ tượng trưng cho sự phụng thờ Chúa nay tượng trưng cho những thực tại thế tục. Thiên Chúa đã bị thay thế bằng tiền bạc và lòng tham. Nghĩa là trật tự đã bị đảo ngược. Chúa Giê-su xuất hiện trong Đền thờ để làm một cuộc tái lập trật tự. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16).
Không hiểu nếu Chúa Giê-su bước vào đền thờ tâm hồn ta, liệu Người sẽ nói gì? Người bảo ta phải đem những thứ gì ra khỏi tâm hồn? Người nhắc nhở ta về ý nghĩa của tâm hồn là “nhà Thiên Chúa”. Nhưng ta sẽ phản ứng như thế nào đây? Đó chính là việc làm của ta trong mùa Chay thánh này.
Chúa Giê-su nói đến sự Phục sinh của Người: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Quả là một lời thách thức kỳ diệu. Chúa Giê-su khéo léo ám chỉ về việc Phục sinh của Người, nhưng Người lại ngầm nhắn nhủ ta hãy tin vào quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Người trong chiến thắng tội lỗi. Người đã sống lại thì Người cũng có thể làm cho tâm hồn đã chết do tội lỗi của ta được sống lại. Ta được sống lại trong nước rửa tội và tiếp tục được phục sinh qua Bí tích Giải tội. Như thế, câu truyện Chúa thanh tẩy Đền thờ cần được lập đi lập lại nơi tâm hồn Ki-tô hữu, để ta luôn luôn xứng đáng cho Chúa được ở lại với ta.
4. Sống Lời Chúa
Tội lỗi tác hại và làm xáo trộn trật tự công việc tạo dựng của Thiên Chúa. Nhưng qua Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa đã tái tạo trật tự và đưa công việc tạo dựng con người vào một tiến trình kỳ diệu. Người đã lấy công nghiệp cứu độ của Chúa Ki-tô để thay đổi căn tính của ta, cho ta được làm dưỡng tử và cho ta cuộc sống mới theo Thánh Thần. Nơi Chúa ki-tô, ta nhận ra được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là sự khôn ngoan nhập thể sống giữa loài người như một gương mẫu sống động để mời gọi ta bước theo. Theo Chúa Ki-tô là ta có thể đưa cuộc sống mình trở về trong trật tự Thiên Chúa đã sắp đặt, nghĩa là sống trọn vẹn Lề Luật Chúa hoặc những tương quan giữa ta với Thiên Chúa và anh chị em. Suy nghĩ: Sau khi Chúa Giê-su thanh tẩy Đền thờ và ở lại Giê-ru-sa-lem, thì “Có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ… Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng họ” (Ga 2:23.25). Sự kiện này nói cho tôi biết điều gì? Chúa Giê-su biết có gì trong lòng tôi? Người muốn tôi tin vào Người bởi lý do nào? Đức tin nào mới giúp tôi để cho tình yêu của Chúa thanh tẩy và thánh hóa tâm hồn?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn tội lỗi và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lể, Chúa Nhật III mùa Chay).
Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chú: MC3-B56
Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC) trong thành Giêrusalem Cổ, trên đồi Moriah (nơi được coi như Abraham đem con trai duy nhất là Isaac đến hiến tế cho Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Sáng Thế 22, 1-18). Đền thờ này bị người Babylon thời vua Nabuchodonosor II phá hủy vào năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng Giêrusalem và bắt người Do Thái đi lưu đày ở Babylon. Đến năm 536 (BC), người Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái thiết Đền Thờ hùng vĩ như trước. Đến năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại hùng vĩ hơn. Đến năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống lại sự cai trị của người Rôma, Đại Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp tan cuộc vùng dậy, phá hủy hoàn toàn Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã nói trước vào khoảng năm 30: “Sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào…” (Mt. 24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp nơi trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần 2 ngàn năm mất nước, người Do Thái lại tìm cách trở về và khôi phục lại quê hương là nước Israel ngày nay từ năm 1948. Đền Thờ Giêrusalem luôn luôn là trung tâm thờ phượng của người Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở các nơi trở về thờ phượng Chúa tại Đền Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái Giáo thời đó. Vì thế, người ta lợi dụng dịp này , biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời.
Trong bài Phúc Âm Thánh lễ hôm nay (Gioan 2, 13-25), Chúa Giêsu đã phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách thanh tẩy Đền Thờ cho xứng đáng nơi thờ phượng: “Mang tất cả những thứ này đi nơi khác! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Trước phản ứng của người Do Thái, Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ giết đi, nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống lại.
Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá hủy hoàn toàn để chấm dứt thời gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước, và việc thờ phượng Thiên Chúa không phải chỉ lệ thuộc vào ‘Đền Thờ’, nhưng quan trọng là thờ phượng Chúa trong ‘tinh thần và chân lý’ (Gioan 4,23-24), bằng tâm hồn và lương tâm ngay thẳng của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của Chúa đã được ghi rõ trong sách Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi theo ham muốn xác thịt. Đó cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay Thánh để sửa đổi các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.
Vào Thánh Đường nào chúng ta cũng nhìn thấy Thánh Giá là ảnh tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những hy sinh đau khổ Chúa Giêsu đã phải chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng ta thấy rõ hậu quả của tội lỗi mà chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1 Corinto 1, 22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế gian, nhưng rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ cho là điên rồ.
Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta phải nhắc bảo nhau, cha mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái phải giữ thái độ xứng đáng khi đến các nơi Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh lễ cuối tuần. Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo, nhất là các người có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh, và các Thừa Tác Viên Thánh Thể… Tất cả mọi người khi vào Thánh Đường phải giữ cử chỉ cung kính, nhất là khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất cao cả, thánh thiện vào lòng chúng ta. Nói chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng chứ không phải nơi để trò chuyện, không phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần, khoe áo!
Thánh Đường giáo xứ cũng là trung tâm thờ phượng của mỗi giáo xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là chung tay xây dựng và gìn giữ Thánh Đường luôn xứng đáng là nơi thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, là trung tâm tinh thần của giáo xứ, là gia đình thiêng liêng của chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh Đường, chúng ta cùng dâng lễ thờ phượng Chúa chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin, chứ không phải chỉ là việc cá nhân hay riêng cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa trong một gia đình Giáo xứ đầm ấm.
Sau hết, tâm hồn mỗi tín hữu cũng là một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta phải thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua việc giữ mình sạch tội: xét mình, ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng ngày; đặc biệt qua việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Xin Chúa thương thanh tẩy, thánh hóa chúng ta trong Mùa Chay Thánh này.
Đền thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em. Người ta đến Đền thờ để tìm gặp: MC3-B57
Đền thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em. Người ta đến Đền thờ để tìm gặp sức mạnh của Chúa, người ta đến Đền thờ để tìm sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Có thể nói Đền thờ là nơi gặp gỡ của tình yêu thương. Vì thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta xây dựng Đền thờ mình trong tình yêu thương đúng nghĩa của nó.
Đối với người Do Thái, kể từ thời vua Salomon, họ đã có được một ngôi Đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Như thế, Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp tôn giáo của người Do thái từ mọi miền của đất nước vào dịp lễ vượt qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua biển đỏ về Đất Nước, để tạ ơn, để xá tội, để xin ơn...Đền thờ Giêrusalem vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc. Bởi đó, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất thánh thiêng. Nhưng dần dần người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi thương mại, tuy dù với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính Đền thờ.
Vừa bước vào Đền Thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh tượng chướng tai gai mắt. Người ta buôn bán chiên bò và trao đổi tiền bạc. Đám đông ồn ào náo nhiệt gây mất trật tự. Chúa Giêsu vốn quý trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ buôn bán. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã khiến Ngài nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân. Lòng nhiệt thành khiến Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là Đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện. Không cầm mình được trước cảnh tượng Đền Thờ thiêng liêng bị biến thành nơi thương mại như thế, Ngài thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh. Ngài thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã xua đuổi con buôn, xô đẩy lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện, nơi gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong Đền thờ. Vậy mà Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ. Ngài bãi bỏ việc phụng tự của họ. Ngài đã tuyên bố: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là Đền thờ thân thể Ngài. Nghe Ngài nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết Đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Ngài bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày. Họ không tin lời Ngài. Họ cho rằng Ngài nói phạm thượng.
Chúa Giêsu đã nói: "Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". Chúa Giêsu muốn phá hủy nhưng gắn liền với xây dựng. Còn ngược lại các vị lãnh đạo tôn giáo đang phá hủy mà cứ tưởng là mình đang xây dựng điều tốt đẹp. Chúa Giêsu đã xua đuổi con buôn, xô đổ bàn ghế những người đổi tiền. Hay nói đúng hơn Ngài dẹp bỏ trật tự cũ để xây dựng trật tự mới. Ngài phá hủy những gì gây hại cho con người, gây cản trở mối hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và với nhau. Vì thế, việc buôn bán đổi chác gây ồn ào trong Đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho Đền thờ không còn là đền thờ nữa; nó không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và nhân loại. Trái lại nó trở thành nơi bóc lột, trộm cướp,...đang làm hủy hoại tôn giáo thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái. Chính vì thế, việc phá đổ giết chết là việc của giới lãnh đạo tôn giáo Do thái. Cần phải phá hủy nó đi. Còn việc của Thiên Chúa là cần xây dựng lại Đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Chúa Kitô Phục sinh. Để từ nay, Chúa Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài, người ta sẽ "thờ phượng Thiên Chúa trong Chân lý và Sự thật".
Người Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, máy móc. Họ nghĩ rằng dâng cúng vào Đền Thờ nhiều tiền bạc, nhiều lễ vật là Chúa sẽ hài lòng, Thiên Chúa sẽ "xí xóa" tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng của cải vật chất để có thể hối lộ được Thiên Chúa. Từ suy nghĩ đó đã dẫn họ đến hành động sống bê tha tội lỗi; họ nghĩ dù sống gian tà, độc ác, bất công với tha nhân đến thế nào đi nữa; họ sống tội lỗi ngập đầu ngập cổ đi nữa nhưng chỉ cần đợi vào dịp đại lễ, vào dịp hành hương lên Đền Thờ, họ sẽ dâng cúng thật nhiều tiền của thì họ nghĩ rằng mình sẽ được tha thứ hết. Làm như thế họ vừa được bình an vừa được tiếng là mình đạo đức. Điều này đã làm cho họ sống đạo bề ngoài mà không cần phải hoán cải đời sống không tuân giữ giao ước Thiên Chúa nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu thấy họ cần dẹp bỏ cách thờ phượng cũ đó, để mang tâm tình mới, biết thờ phượng Thiên Chúa trong tình yêu thương. Con người cần biết sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa và với nhau.
Trong cuộc sống, đôi khi một số người trong chúng ta có quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với tha nhân ngoài xã hội. Người ta chỉ lo đọc thật nhiều kinh, dự nhiều lễ nhưng không biết yêu thương tha nhân đang ở chung quanh mình. Thậm chí có nhiều người siêng năng đọc kinh và đi lễ nhưng khi về nhà thì cứ chửi rủa hàng xóm, ghen ghét và nói xấu anh em mình. Chắc chắc điều đó Chúa Giêsu không muốn rồi. Hay là, người ta không thể nhắm mắt đi lễ trong khi bên lề đường có nhiều người đói khổ cần chúng ta giúp đỡ. Đền thờ phải là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Đến Đền thờ, chúng ta cần biến đổi để trở nên con người của sự hiệp thông, của tình bác ái yêu thương. Chúng ta cần xây dựng ngôi đền thờ trong tình yêu thương, chia sẻ, trong đó mọi người biết sống liên đới với nhau.
Mọi người chúng ta đều là Đền thờ của Thiên Chúa ngự trị (Cv 7, 49 - 51; 1Cr 3, 16, 2Cr 6, 16). Thiên Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem. Thiên Chúa muốn chúng ta sống có lương tâm trong sạch để xứng đáng là Đền Thờ uy nghi cho Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa muốn chúng ta hãy xây dựng lòng mình bằng những ý nghĩ và hành động yêu thương tha nhân để xây đựng Đền thờ thiêng liêng thờ phượng Thiên Chúa.
Chính vì thế Chúa Giêsu đã xác định, chính Ngài sẽ trở thành Đền thờ mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên Đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Chúng ta phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính cõi lòng con người mình để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa, xứng đáng nơi thể hiện tình yêu thương đối với Thiên Chúa và với nhau. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống hiệp thông trong tình yêu thương. Như thế là chúng con đang xây dựng và trang hoàng ngôi đền thờ thiêng liêng và uy nghi thánh thiện cho Thiên Chúa ngự. Chính nơi đó chúng con sẽ gặp gỡ được chính Chúa và gặp gỡ được anh em mình. Amen.
Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa Giê-su trong Tin Mừng Gio-an thường mang ý nghĩa biểu: MC3-B58
Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa Giê-su trong Tin Mừng Gio-an thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ được thánh Gio-an kể lại là để nói lên một thực tại khác về Chúa Giê-su. Thí dụ phép lạ khiến ông La-da-rô sống lại cho ta biết Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống. Cũng vậy, việc Chúa lên Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế Đền Thờ là để nói lên rằng Chúa Giê-su sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không còn ngự trị trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong Đức Ki-tô, để “những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4:23). Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là Chúa Ki-tô chắc chắn phải là một đề tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa Chay về cách thờ phượng và cầu nguyện của ta.
a) “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người ”
Khác với các sách Tin Mừng nhất lãm, sách Tin Mừng Gio-an nói Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần và việc tẩy uế Đền Thờ xảy ra ngay ban đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời của Chúa Giê-su nói trong dịp này cũng mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không phải những câu trích dẫn ngôn sứ I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của chính Chúa Giê-su nói với mọi người: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Do đó lệnh truyền của Chúa Giê-su không chỉ đòi ta phải suy tư về ý nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải có những hành động cụ thể để thanh tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân xác và tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh tuyệt vời nếu ta hiểu tất cả con người Chúa Giê-su là Đền Thờ Thiên Chúa ngự. Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa. Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự trong Chúa Giê-su, mà còn nhờ Chúa Giê-su ở lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Đến với loài người qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa muốn mọi sự đổi mới. Đời sống mới của ta phải theo lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của Chúa Giê-su, Đấng đến để kiện toàn Lề Luật. Việc phụng tự biểu lộ quan hệ giữa ta với Thiên Chúa cũng phải đổi mới. Đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn là trung tâm thờ phượng, nơi duy nhất người ta đến với Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa Giê-su thay thế cho Đền Thờ và là nơi thể hiện việc thờ phượng đích thực. Chúa Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem... Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Chỉ trong Chúa Giê-su mới có sự thật toàn vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn. Do đó chỉ trong Người mới thể hiện việc thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa Giê-su còn muốn mỗi người môn đệ phải là “người thờ phượng đích thực” và trở nên một đền thờ sống động, hoặc những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh Người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3:16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Người là Đầu và ta là chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi ta hiệp cùng Giáo Hội thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Ki-tô thì việc thờ phượng đó là đích thực. Ta cũng hiểu được tại sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời nguyện với câu: Nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Ki-tô, Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ phượng của ta không bao giờ có thể đạt tới mức thập toàn được.
b) “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”
Nếu ý thức ta là đền thờ Thiên Chúa ngự, ta sẽ thấy lời nói trên của Chúa Giê-su bắt ta phải suy nghĩ về tình trạng đền thờ của ta. Trước hết Chúa gọi tâm hồn ta là “nhà Cha tôi” và lúc nào cũng phải là nơi xứng đáng để Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn thấy nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó là tâm hồn ta biến thành “nơi buôn bán”. Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn bán tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy dẫy trong khung cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là “sào huyệt của bọn cướp”. Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ ít khi quan tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng đạo đức của khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra tại nhiều nơi hành hương trên thế giới hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và Giê-ru-sa-lem, ta cũng khó mà kiếm được vài ba chỗ có được khung cảnh cầu nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ có Na-da-rét và núi Tám Mối phúc là còn khung cảnh thanh tĩnh giúp ta sống lại những quan hệ mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Tại những nơi hành hương nổi tiếng như Lộ-đức và Fatima, chung quanh Đền thánh việc buôn bán sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn những buôn bán bên trong tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần bán thánh vẫn là điều khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã bị ràng buộc trong cơ cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát. Không có tiền, làm sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh nhạc, giám đốc giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có những giáo phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty “gây quỹ”, đặt chỉ tiêu cho các giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh thần buôn bán ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là tình trạng buôn bán trong tâm hồn mỗi Ki-tô hữu. Chúa Giê-su dạy ta “đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi đem “tất cả” ra khỏi tâm hồn ta. Tâm hồn ta trước hết phải là “lều hội ngộ” để Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa Giê-su, sự thật toàn vẹn và Thần Khí đầy tràn, phải chiếm hữu tất cả con người của ta để loại trừ đi cảnh buôn bán và sào huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô cho ta thấy sự trái ngược giữa hoa quả của Thần Khí và hoa quả của tính xác thịt, là những điều có thể gặp thấy trong tâm hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những gì thuộc tính xác thịt ra khỏi tâm hồn và thay thế bằng những hoa quả tốt lành của Thần Khí, ta sẽ là một đền thờ xứng đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5:19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là mùa “dọn dẹp tâm hồn”, tôi có chương trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn tôi? Tôi phải đem “tất cả những thứ này” ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là những thứ gì? Tôi hiểu thế nào là thờ phượng trong sự thật và thần khí? Chúa Giê-su là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu gì về Thiên Chúa? Và thần khí của Người dạy tôi sống như thế nào? Việc thờ phượng với tính cách cá nhân và cộng đồng của tôi như thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng của toàn thể Giáo Hội một cách tích cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô như thế nào? Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp cho Giáo Hội được lành mạnh thêm và chiếu tỏa hình ảnh Chúa Ki-tô hơn ngay trong cộng đoàn đức tin tôi thuộc về?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình... Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện.”
- dựa theo lời của thánh Têrêxa (Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
Một lần nữa, qua bài đọc Tân Ước, Phụng vụ Lời Chúa tiếp tục mời gọi chúng ta suy niệm: MC3-B59
Một lần nữa, qua bài đọc Tân Ước, Phụng vụ Lời Chúa tiếp tục mời gọi chúng ta suy niệm về vai trò của Chúa Ki-tô trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Theo kế hoạch của Chúa Cha, Đức Ki-tô đã chết để đền bù tội lỗi của mọi người (Chúa Nhật I). Đức Ki-tô tỏ ra cho chúng ta tình yêu quảng đại và nhân từ của Thiên Chúa (CN II). Với mầu nhiệm thập giá, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy đâu là sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa (CN III). Xét những hành động của Đức Ki-tô được trình bày qua ba bài đọc trên, chúng ta chỉ thấy: Người đã chết, Chúa Cha không tha cho Người như đã tha cho I-xa-ắc con ông Áp-ra-ham, và Người chịu khổ hình thập giá. Những sự kiện này đều là dấu chỉ nói lên yếu kém và điên rồ đối với người đời. Nhưng Phao-lô đã lấy những sự kiện ấy của cuộc đời Chúa Giê-su để làm nền tảng thần học cho luận đề về ơn cứu độ: chính trong sự yếu kém và điên rồ của thập giá, Thiên Chúa đã biểu lộ sự khôn ngoan và quyền lực của Người.
a) Ô nhục của thập giá
“Chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Với những lời này, thánh Phao-lô nói lên phản ứng tức thời của mọi người khi đối diện với thập giá. Đóng đinh thập giá là khổ hình dành riêng cho nô lệ trong thế giới La-Hy (x. Ph 2:8) và người Do-thái coi đó là một sự ô nhục (Dt 12:2; 13:3). Nếu vậy thì làm sao sự cứu chuộc lại có thể được thể hiện qua khổ hình thập giá và cái chết ô nhục như thế? Những người chứng kiến Đức Ki-tô chết trên đồi Can-vê đã chế nhạo và thách thức Người xuống khỏi thập giá. Trước đây, ngay đến các môn đệ có lẽ cũng khiếp sợ khi vừa nghe Đức Ki-tô tiên báo cuộc Khổ nạn và Người sẽ bị nộp cho dân ngoại. Dù vừa mới nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, ông Phê-rô cũng không thể chấp nhận lời Người vừa tiên báo (Mt 16:21-23).
Nhưng Chúa Giê-su và tiếp theo Người là các môn đệ đã luôn luôn đề cao cái ô nhục của thập giá, chính là vì có một thứ mầu nhiệm ẩn dấu đem lại cho thập giá một ý nghĩa. Vậy thứ mầu nhiệm ẩn dấu ấy chính là ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà Đức Ki-tô đã nhận biết và tuyệt đối tuân theo.
Thánh Phao-lô giúp chúng ta nhận ra sự khôn ngoan và quyền lực của Thiên Chúa thể hiện trong chính cái ô nhục của thập giá. Truyền thống nguyên thủy đã dạy cho Phao-lô sau khi ông trở lại biết rằng “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15:3). Dữ kiện của truyền thống nguyên thủy này giúp cho Phao-lô suy nghĩ về cái chết trên thập giá của Đức Ki-tô. Hình thức chết nhục nhã này hẳn phải có một ý nghĩa phong phú. Đức Ki-tô bị treo trên cây (thập giá) như một kẻ bị nguyền rủa, đó là để chuộc lại chúng ta khỏi lời nguyền rủa của Lề Luật, “khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa” (Gl 3:13). Thân xác của Người là “thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta” đã chịu treo trên thập giá để “Thiên Chúa lên án tội trong thân xác Con mình” (Rm 8:3). Như vậy, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã bãi bỏ Lề Luật (sổ nợ bất lợi) khi đóng đinh Lề Luật vào thập giá và tước bỏ mọi quyền lực của đối phương (Cl 2:14-15), hòa giải với muôn vật, hiệp nhất giữa Do-thái với dân ngoại để họ cùng làm nên một thân thể mà thôi (Ep 2:14-18).
b) Cuộc sống bị đóng đinh của Ki-tô hữu
Môn đệ phải đồng hóa số phận mình với số phận của Thầy họ. Điều này Chúa Giê-su đã đòi hỏi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Trong cuộc sống hằng ngày của Ki-tô hữu, con người tội lỗi của họ đã chịu đóng đinh (Rm 6:6) đến độ nó đã được giải thoát hoàn toàn nhờ khôn ngoan của thập giá (1 Cr 2:6-9). Do đó, họ cũng phải sống theo sự khôn ngoan của thập giá, tức là theo gương Chúa Giê-su trở nên khiêm nhường và vâng phục Thiên Chúa (Pl 2:1-8).
Một đề nghị sống nữa cũng được thánh Phê-rô nhắc nhở là Ki-tô hữu phải chiêm ngắm Đức Ki-tô như là “gương mẫu” cho họ dõi bước theo Người, Đấng “đã mang tội lỗi chúng ta vào thân thể mà đưa lên cây thập giá” (1 Pr 2:21-24).
Cuối cùng có lẽ chúng ta cần đổi lại thái độ đối với thập giá Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô luôn là gương mẫu trong phạm vi này, vì “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6:14).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Đề tài về Thập giá thích hợp với mùa Chay như thế nào? Quan trọng đối với mầu nhiệm Phục sinh thế nào? Quan trọng đối với chương trình sống mùa Chay của tôi thế nào?
Não trạng của những người Hy-lạp và Do-thái có thể là não trạng của tôi đối với thập giá Chúa Ki-tô không?
Một tác giả tu đức viết: Bạn hãy nhìn lên tượng chịu nạn. Nếu bạn chỉ tìm một Chúa Ki-tô không chịu đóng đinh, bạn có thể lầm Ngài với một người khác. Nếu bạn chỉ tìm thập giá mà không có Chúa Ki-tô chịu đóng đinh trên ấy, bạn sẽ không vác nổi đâu. Phải là cả hai: Chúa Ki-tô với thập giá. Áp dụng thế nào vào hoàn cảnh của tôi?
Thánh Phao-lô viết: “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.” Tôi hiểu và sống lời này như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài tôn vinh thánh giá, hoặc đọc lời nguyện sau đây:
Lạy Chúa Giê-su, nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này thì thật là phiền toái. Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn vì phải chia tay với những người thân yêu, vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở. Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý, nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giê-su, trước cái chết thập giá, Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui, và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác, để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn. Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết. Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi, chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu. Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức. Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần. Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con. Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 49)
Tại các nhà thờ ở Hoa-kỳ, người ta vẫn còn thấy tệ nạn là nhiều người đi lễ mà miệng vẫn nhai: MC3-B60
Tại các nhà thờ ở Hoa-kỳ, người ta vẫn còn thấy tệ nạn là nhiều người đi lễ mà miệng vẫn nhai kẹo cao su, rồi đi lên rước lễ như không biết gì tới luật phải giữ chay lòng ít nhất một tiếng trước đó. Nhai chán rồi, người ta lại còn dính kẹo cao su dưới gầm ghế. Một cha xứ bạn tôi, đã cho người đi gỡ những miếng kẹo cao su ấy và đựng trong một hộp bằng plastic khá to. Rồi một ngày Chúa Nhật, trong các thánh lễ, sau phần chia sẻ Lời Chúa, ngài có đôi lời nhắn nhủ giáo dân, giơ cái hộp kẹo cao su trước mắt mọi người và hỏi: Thưa ông bà anh chị em, đây là những miếng kẹo cao su chúng tôi gỡ được duới gầm các ghế ông bà anh chị em đang ngồi. Với những miếng kẹo cao su nhai tóp tép trong khi chúng tôi và những anh chị em khác đang cử hành Thánh Thể, thì những người nhai kẹo cao su đã biến nhà Chúa thành cái gì? Mọi người im lặng. Một số gương mặt cúi xuống.
Câu truyện bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giê-su không chỉ nhắc khéo những người biến Đền Thờ thành nơi buôn bán, mà Người còn thẳng tay xua đuổi đám thương mại, tái lập sự tôn nghiêm cung kính của nơi thờ phượng. Qua sách Tin Mừng, chúng ta thường chiêm ngắm một Chúa Giê-su đang rao giảng, đang chữa lành bệnh tật hoặc làm những phép lạ đáp ứng nhu cầu của dân chúng. Ở bất cứ nơi nào, sự hiện diện của Người cũng tỏa ra một vẻ hiền từ, ân cần chăm sóc và dẫn dắt. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay kể lại, Chúa Giê-su, được gọi là Thái Tử của sự bình an, đã xử sự không giống như sách Tin Mừng mô tả trước đây. Đứng trước cảnh hỗn độn, biến tiền đường nhà Chúa thành cái chợ trời, Chúa Giê-su quyết định phải có một hành động nào đó để thay đổi tình huống. Hành động Chúa Giê-su xua đuổi đám con buôn, tuy có một chút bạo động, nhưng chẳng có ai bị chết chóc hay bị thương, là hành động không phải do máu nóng bốc lên đầu, nhưng là do lòng nhiệt thành đối với Đền Thờ, một biểu tượng nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa trong thành Giê-ru-sa-lem.
Giới chức tại Đền Thờ muốn can thiệp vào việc làm của Chúa Giê-su, xem ra cũng vẫn còn bình tĩnh và họ tới căn vặn Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Chúa Giê-su nhân cơ hội này muốn tỏ ra cho họ biết Người là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì, Người bảo: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Thánh sử Gio-an giải thích thêm: “Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người.” Ngay lúc ấy, những người nghe Chúa nói không hiểu ý của Người. Nhưng sau khi Chúa sống lại, họ mới hiểu là Người muốn nói về thân xác phục sinh của Người. Nói tóm lại, chúng ta sẽ hiểu ý của Chúa như thế này: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là một công trình kiến trúc đồ sộ, biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa đối với dân Israel, đồng thời cũng là nơi để con cái Israel đến gặp gỡ với Thiên Chúa qua việc thờ phượng và cầu nguyện. Nhưng Đền Thờ cũ này sẽ được thay thế bằng Thân thể Phục Sinh của Đức Ki-tô. Đức Ki-tô Phục Sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người. Đức Ki-tô Phục Sinh là Đền Thờ mới, Đền Thờ đích thực và là nơi để nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.
Trong mùa Chay, khi dùng câu truyện Tin Mừng Chúa Giê-su tẩy uế Đền Thờ để hé mở cho chúng ta thấy hình ảnh Phục Sinh của Đức Ki-tô, Giáo Hội mời gọi chúng ta tiếp tục suy niệm về sứ vụ của Chúa Cứu Thế. Qua việc tiên báo về cuộc Tử nạn, rồi củng cố đức tin của các môn đệ và của chúng ta bằng biến cố Biến hình trên núi Ta-bô-rê, và hôm nay qua dấu chỉ tẩy uế Đền Thờ để cho chúng ta thấy sự Phục Sinh trong tương lai, Chúa Giê-su muốn chúng ta hãy tin vào sứ vụ cứu thế của Người. Chúa Giê-su đã để cho người ta phá hủy đi chính thân xác của Người, để rồi sau đó thân xác ấy sống lại vinh hiển và trở thành Đền Thờ Mới và làm nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với nhân loại.
Tuy nhiên, khi trình bày biến cố Chúa Giê-su tẩy uế Đền Thờ, Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta sứ điệp cốt yếu của mùa Chay: Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng. Chúng ta là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy chúng ta hãy mở rộng cửa để Chúa Giê-su có thể đến và tẩy uế đền thờ tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy để cho Chúa lật đổ những giá trị trần thế mà từ lâu chúng ta vẫn tôn thờ, vẫn theo đuổi, đến nỗi gạt bỏ đi những giá trị của Tin Mừng, những giáo huấn đạo đức của Chúa và Giáo Hội dạy bảo. Chúng ta hãy để cho Chúa biến đổi tâm hồn chúng ta thành một đền thờ mới, một nơi để Chúa hiện diện và nơi để chúng ta gặp gỡ Người. Chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su, kết hiệp với Người để thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Nghĩa là cần phải đổi mới phong cách chúng ta thờ phượng Thiên Chúa. Không phải chỉ là hình thức câu nệ, nhưng trong tinh thần con thảo đối với Cha trên trời, tình anh chị em với Chúa Ki-tô. Không phải với môi miệng giả dối, những hình thức chỉ có tính cách khoe mẽ bề ngoài, nhưng là với con tim chân chính, con tim nhận biết sự thật: Thiên Chúa đã yêu nhân loại đến nỗi trao phó Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô cho chúng ta. Có lẽ đó là một vài gợi ý thực tế chúng tôi muốn nêu lên, để tất cả chúng ta cùng với ơn Chúa và nhờ cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su, cố gắng tẩy uế tâm hồn chúng ta trong mùa Chay và được sống lại trong con người mới với Đức Ki-tô.
Chúa Nhật III Mùa Chay nầy có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Xh 20: 1-17 Bản văn Xuất Hành trình bày Thập Giới. Việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên của Thập Giới.
Ga 2: 13-25 Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, bởi vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
1Cr 1: 22-25 Ở giữa bài đọc I và bài Tin Mừng, bài đọc thứ hai được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô chiếm một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn sắp đến gần: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Xh 20: 1-17)
Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc xuất hành ra khỏi: MC3-B61
Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói nó là cơ sở của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong bộ Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào trong bối cảnh của cuộc Thần Hiện, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.
Có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài dị biệt. Điểm dị biệt dể thấy nhất chính là lý do khác nhau được nêu lên về việc tuân giữ ngày sa-bát trong hai bản văn. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn nầy đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
1. Tính chất cổ xưa của Thập Giới: Tính chất cổ xưa của Thập Giới là chắc chắn. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
Thập Giới được ban trong khung cảnh của cuộc Thần Hiện trên núi thánh Xi-nai. Ở viện bảo tàng Louvre, có một tấm bia đá trên đó ghi khắc Bộ Luật Ba-by-lon của vua Hammourabi, vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên. Ở đỉnh của tấm bia đá nầy như đỉnh của một ngọn núi, biểu thị thần Shamash và vua Hammourabi. Vua nầy nhận được tước hiệu: “Vua Công Chính mà thần Shamash đã ban luật”. Chúng ta cũng không thể không liên tưởng đến vua Hy-lạp là Minos. Vào cũng một thời kỳ này, vua leo lên ngọn núi thánh Crète để suy niệm và cầu nguyện suốt chín năm; sau đó vua ra sức làm cho sự công chính ngự trị trong vương quốc của mình. Thế giới của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên có những truyền thống chung và sử dụng những hình ảnh tôn giáo tương tự nhau.
2. Nội dung của Thập Giới: Thập Giới trình bày một tổng đề của những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định để diễn tả lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định để diễn tả lệnh truyền phải làm: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12).
Hình thức phủ định nhắc nhớ hình thức mà chúng ta gặp thấy trong một cuốn sách của Ai-cập có nhan đề “Những người đã qua đời”, ở đó người qua đời tự bào chữa mình trước tòa án của thần Orisis, thần của những người chết:
Tôi đã không ăn cắp… Tôi đã không giết người… Tôi đã không nói láo… Tôi đã không ngoại tình… Tôi đã không làm chứng gian… Tôi đã không khinh thường Thiên Chúa trong lòng…
Luân lý của người Ai-cập gần với luân lý Kinh Thánh hơn luân lý của người Ca-na-an và của những dân tộc khác miền Cận Đông hay của dân Hy-lạp. Thập Giới được phân chia thành những giới luật, chúng nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
2.1- Bổn phận đối với Thiên Chúa:
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được phủ phục thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến cả “ngàn đời”. Cách nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chưng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối tương quan của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Tuy nhiên, trong Thập Giới chúng ta không gặp thấy lệnh truyền: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Cách thức phát biểu nầy xuất hiện muộn thời hơn trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5, thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên) và chịu ảnh hưởng của các ngôn sứ bút ký như ngôn sứ A-mốt và nhất là ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên).
Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh truyền nầy nhằm nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
2.2- Bổn phận đối với tha nhân:
Với những bổn phận đối với tha nhân Thập Giới trở về luân lý phổ quát, bởi vì chúng có giá trị luôn mãi và khắp nơi. Nhưng ở đây điều cốt yếu là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý rằng những ý định ẩn kín ở trong lòng được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong tâm trí con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng huấn lệnh “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” cũng không được gặp thấy ở Thập Giới. Lệnh truyền nầy được gặp thấy ở sách Lê-vi (19: 18).
3. Nét độc đáo của Thập Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt nầy sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 22-25)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô mà chúng ta đã có dịp tìm hiểu nhiều đoạn văn trong suốt những Chúa Nhật Thường Niên trước đó. Đoạn trích ngắn mà chúng ta đọc hôm nay được cấu trúc rất chặc chẽ. Một cách nào đó, đoạn trích dẫn nầy tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của nó rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
1. Bối cảnh của bức thư:
Xin được nhắc lại vắn tắt: những bất hòa đã xảy ra giữa các tín hữu Cô-rin-tô về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân nói đến người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
2. Thập giá đối với người Do thái:
Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a, Đấng ấy chứng thực tính chính thống sứ mạng của mình bằng những điềm thiêng dấu lạ, Đấng Mê-si-a đầy quyền năng đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng theo đó Đấng Mê-si-a đã có thể chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác, thánh nhân đã bị họ bách hại.
3. Thập giá đối với người Hy-lạp:
Đối với người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô rao giảng cho họ “Một Con Người”. Đoạn trích của bức thư nầy tự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
4. Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh:
Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo. Thập giá cũng không là một sự chứng minh. Nhưng thập giá chính là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ẩn dấu ở nơi sự kiện đó, là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nầy đó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách biệt Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân chủ ý giương cao “hình ảnh duy nhất của Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: Đức Giê-su phẩn nộ, “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài muốn nói rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài của nó; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo của nó: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi đã băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại nầy mà những kẻ bán súc vật được dùng vào các hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua:
Thánh ký nói với chúng ta “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái” thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.
Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua của năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin Mừng Gio-an). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn giáo sĩ …Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu của Dân Mới của Ngài và sẽ được gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gio-an:
Tin Mừng Gioan đặt việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh ký muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô (Đấng Mê-si-a). Đức Giê-su đã được Gioan tẩy giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là thân thể của Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Sau nầy, những kẻ tố cáo Ngài xuyên tạc lời của Ngài: “Tên này đã nói: tôi có thể phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa…” (Mt 26: 61). Điều mà thánh ký muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan dùng từ “Đền Thờ” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, thánh ký sử dụng từ “Đền Thánh” là nơi cực thánh của Đền Thờ.
Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (cốt yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành phách mạnh của phiên tòa nầy. Người đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.
Cuối cùng, thánh ký ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”; như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi: MC3-B62
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe: MC3-B63
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi sự đều xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa. Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng liêng cũng có thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán. Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay, Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác. Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự thật.
Một hôm có người lạ mặt đến báo tin cho bác thợ giày nghèo là Chúa sẽ đến thăm ông. Được tin: MC3-B64
Một hôm có người lạ mặt đến báo tin cho bác thợ giày nghèo là Chúa sẽ đến thăm ông.
Được tin, ông hốt hoảng vì thấy nhà mình chật hẹp, lụp xụp, dơ bẩn quá, làm sao xứng đáng tiếp rước Chúa, nhưng mấy thuở mà Chúa đến nhà mình. Thật vinh dự quá mà cũng bê bối quá!
Thế rồi ông mở tung cửa, chạy ra ngoài đường kêu gọi người đến giúp dọn dẹp nhà cửa. Vừa kêu gọi dứt tiếng, ông chạy vội vào nhà lấy chổi quét, lấy vải lau… Bỗng ông thấy có một người vào giúp dọn dẹp với ông. Vì bận quá, ông không hỏi người đó là ai, từ đâu đến. Và hai người cùng lo làm việc.
Họ hốt những đống rác đổ ra ngoài, gom đồ cũ hôi thối để đi, xách nước rửa nền nhà sạch sẽ, quơ cuộn màng nhện giăng cùng nhà….
Làm mệt quá mà công việc còn bề bộn. Bác thợ giày than thở:
-Nhà cửa dơ bẩn thế này, quét dọn chừng nào mới xong. Người khách bình thản khích lệ:
-Bác cứ yên tâm. Thế nào rồi cũng xong.
Đến chiều, bóng đêm bắt đầu buông xuống, bác phải lo bữa ăn tối. Nhìn lại nhà cửa, bác thấy cũng sạch sẽ gọn gàng, nên nói:
-Bây giờ thì Chúa có thể đến nhà tôi. Nhưng không biết Người đã đi tới đâu đây…
Người lạ mặt phụ giúp bác quét dọn nhà cửa từ sáng tới giờ nói:
-Ta đã đến từ sáng tới giờ và phụ don dẹp nhà cửa với con đây.
Câu chuyện vừa rồi xem ra rất phù hợp với hoàn cảnh khi xưa Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem dọn dẹp Đền Thờ nơi Thiên Chúa ngự trị. Đó là dịp trước lễ Vượt Qua của người Do Thái. Lễ Vượt Qua nhằm ngày thứ mười lăm tháng Nissan, tức là khoảng tháng tư dương lịch. Và theo luật pháp, mọi người nam Do Thái sống cách Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đến dự lễ. Lễ Vượt Qua là lễ quan trọng nhất của dân Do Thái. Không những các tín hữu trong xứ Palestine đến dự lễ Vượt Qua mà còn có tất cả các tín hữu Do Thái sống tản mác khắp thế giới đều mơ ước và hy vọng dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Giêrusalem được gọi là Thành Thánh hay Đền Thánh nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế mà giờ đây họ biến nơi đây thành dịch vụ thương mại trần thế. Họ kinh doanh lễ vật và tiền nộp thuế với giá “cắt cổ”.
Trước hết thuế đền thờ là sắc thuế mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp, đó là phần dành riêng cho việc dâng các của lễ và lễ nghi trong Đền Thờ hằng ngày. Tiền thuế phải nộp là nửa đồng tiền Do Thái (Sekel), bằng gần hai ngày lương công nhật thời đó. Tiền La-mã, Phê-ni-ci-a vì là tiền của ngoại bang, in hình vua ngoại đạo, bị coi là ô uế, chúng không được dùng để nộp vào Đền Thờ cho Thiên Chúa. Khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới với đủ loại tiền, nên các con buôn mới có cơ hội làm giầu. Việc những kẻ đổi tiền lời tự nó là phải lẽ. Kinh Tamud qui định: “Mỗi người cần có đồng nửa Sekel, người ấy phải chi cho kẻ đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là những kẻ đổi tiền bạc nhân danh tôn giáo mà ăn lời quá đáng: Để đổi lấy một đồng nửa Sekel, khách phải trả tiền hoa hồng tương đương với một phần tư tiền lương một công nhật. Do đó lợi tức đổi tiền bạc đem lại cho các con buôn thật lớn!
Về phần lễ vật là bột để làm bánh tiến, dầu, hương và cả chiên, bò, chim câu. Các khách đến tham dự ai cũng phải dâng vào Đền Thờ một lễ vật: Người giầu thì dâng chiên bò; nghèo dâng lễ vật nhỏ như chim câu, dầu, hương v.v. Nhưng luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn. Các chức sắc quản trị Đền Thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét khách phải trả lệ phí một phần mười hai Sekel. Khốn nỗi nếu khách hành hương mua con từ ngoài Đền Thờ, chắc chắn con vật ấy bị từ chối; còn con vật mua ở trong Đền Thờ có khi phải trả đắt gấp mười lăm lần so với giá mua bên ngoài. Sự bất công xã hội này càng thêm tệ hơn vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Chính vì sự vô lương tâm bóc lột khách hành hương, đã khiến Chúa Giêsu nổi giận và nói: “Nhà Ta là gọi là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Mt,21,13).
Ngày nay các Kitô hữu không buộc phải đến tận Giêrusalem để làm việc phượng tự. Đền Thánh Thiên Chúa được xây dựng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Không những chúng ta có thể mau chóng đến Đền Thờ hằng ngày, mà Đền Thánh ngày nay có chính Chúa Giêsu ngự trị ngày đêm trong phép Thánh Thể. Lễ vật ngày nay cũng thật phong phú đa dạng. Nến, hoa, hương nhang và mọi thứ nhu cầu hữu dụng; tiền dâng cúng sẽ giúp vào việc lo cho Nhà Chúa và cho cả những bạn thân của Chúa là người nghèo trong cộng đoàn dân Chúa cũng như cho tất cả mọi phần tử khốn khó trong xã hội. Còn có cả những lễ vật cao quí hơn nữa, đó chính là trái tim yêu mến, biểu lộ bằng hy sinh hãm mình, bác ái, cầu nguyện, vâng theo đường lối Giáo Hội. Của lễ sống động và cao quí nhất ngày nay là chính Đức Kitô tử giá xưa kia dâng tiến lên Chúa Cha trên đồi Canvê, nay còn dâng tiến lên Chúa Cha trên bàn thờ mỗi khi cử hành Thánh lễ Misa. Hồng ân vô giá này sẽ tràn đổ trên Giáo Hội và các linh hồn. Niềm tin vào Chúa Kitô sẽ là sức mạnh vô song và chắc chắn nhất như Chúa đã nói: “Cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày ta sẽ xây dựng lại”. Quả thật sự chết và phục sinh của Chúa đã giải phóng các tâm hồn tin yêu bước theo chân Ngài.
Có một đền thờ rất cần thiết mà chắc là ai cũng biết, đó là đền thờ tâm hồn. Mỗi người chúng ta luôn phải dọn dẹp sạch sẽ, xua đuổi những tà vạy nham nhở trong lòng, như Chúa đã vào Đền Thờ để xua đuổi những thứ trần tục. Đền thờ rất linh thiêng, được xây dựng nhờ phép rửa tội và trở thành con Thiên Chúa. Nhưng đam mê nhiều lúc nó đã biến chúng trở nên sự dối trá của tiền bạc, tham lam, bất công, ghen tương, thù nghịch, dục vọng xấu xa v.v. Ở đời này đền thờ tâm hồn luôn phải được chuẩn bị chu đáo, đẹp đẽ để Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, để Chúa Giêsu nên một với ta trong bí tích Thánh Thể. Nhờ đó chúng ta mới được đồi dào ân sủng khi làm việc lành phúc đức. Đó cũng là Đền Thờ Vĩnh Cửu cho đời sau. Mọi lẽ sống của cuộc đời đều phải qui về đó. Tất cả đời này sẽ qua đi hết, chỉ còn có đền thờ tâm hồn tồn tại mãi muôn đời với. Đây là niềm hy vọng của chúng ta và cũng là ước muốn yêu thương vô cùng của trái tim Chúa.
Tháng 11-2005, chương trình truyền hình Dateline của NBC có trình chiếu phóng sự về một: MC3-B65
Tháng 11-2005, chương trình truyền hình Dateline của NBC có trình chiếu phóng sự về một vấn nạn đang xẩy ra cho nhiều thanh niên thiếu nữ tại Hoa Kỳ. Đây là một tệ trạng của một số đàn ông bị nô lệ bởi tình dục. Họ lợi dụng sự ngây ngô của trẻ em trong tuổi mới lớn, tìm cách hàn huyên tâm sự với các em trên "internet" để rồi đưa đến những cuộc hẹn họ lén lút. Một phóng viên giả dạng thành một bé trai 14 tuổi, dùng ngôn ngữ của lứa tuổi này, vào "chat room" để trao đổi tâm tình với một số người đàn ông, em giả bộ nói là em đang ở nhà một mình, và người bạn trai có thể đến thăm em tại nhà trong khi ba mẹ đi vắng.
Đúng như dự đoán của các phóng viên, từng người một, họ đã rơi vào cạm bẫy, và khi những người đàn ông này tìm đến nhà của bé trai, thì họ đã gặp các phóng viên nhà báo, nhưng không biết rằng những hành vi của họ đang bị quay phim một cách kín đáo. Khi biết chuyện bị bại lộ, mỗi người phản ứng một cách khác nhau. Có người thì ù té chạy để nhà báo không biết được tông tích của mình, có người thì cố chấp cắt nghĩa rằng cuộc hẹn hò chỉ có mục đích thăm hỏi mà thôi. Người khác thì khóc lóc và nhìn nhận căn bệnh của mình. Có người tỏ ra thất vọng vì thấy rằng tương lai của họ sẽ rất mờ tối một khi phóng sự này được đưa lên truyền hình. Trong vòng ba ngày, họ bắt quả tang 19 người, thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội. Trong số đó có cả thầy giáo và bác sĩ.
Bài đọc I hôm nay bắt đầu bằng những lời của Thiên Chúa: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với ta... Ta là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét ta, ta phạt... còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến trọn đời" (Ex 20:2-6). Bài Phúc Âm thì kể lại sự giận dữ của Đức Kitô khi người ta đã biến đền thờ thành một nơi buôn bán đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ và nói: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây và đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Jn 2:13-16).
Khi nói đến hai chữ "nô lệ" người ta thường chỉ nghĩ đến cảnh xiềng xích, bị hành hạ như dân Do Thái ngày xưa trên đất Ai-Cập, hay vào những thế kỷ gần đây, khi người Phi Châu bị bắt làm nô lệ cho người da trắng. Hình thức nô lệ buôn bán và hành hạ con người ngày nay hầu như không còn nữa, nhưng con người của thời đại văn minh điện tử kỹ thuật lại đang bị nô lệ dưới nhiều hình thức khác. Điều đáng buồn là khi mang thân phận nô lệ, họ không biết được mình đang bị nô lệ.
Nô lệ cho tiền bạc và sự giầu sang hưởng thụ. Làm một "job" chưa đủ, phải làm thêm một "job" khác để có nhiều tiền hơn. Nhiều tiền thì xây nhà lớn hơn, đi xe hiệu sang trọng hơn, quần áo phải mua sắm hợp thời trang hơn. Khi để tâm lo lắng về vật chất, thì người ta không còn giờ để nghĩ đến những vấn đề tâm linh. Không có giờ cho gia đình, cho con cái. Kết quả là vợ chồng ly dị, con cái theo băng đảng hay bỏ nhà đi hoang. Khi chú tâm vào vật chất thì sẽ coi nhẹ việc tâm linh. Một tuần dành cho Chúa 60 phút thì lại đi muộn về sớm. Bỏ ra một hai trăm đô để dự một khóa tĩnh tâm thì đắn do hơn thiệt. Lời của Đức Kitô không sai: "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được"(Mt 6:24).
Còn rất nhiều sự nô lệ thời đại khác không thể kể hết được: cờ bạc, rượu chè, danh vọng v.v. Vì mù quáng sống trong tình trạng nô lệ, con người đã bị lu mờ trước những khắc khoải và đau thương của nhân loại. Họ đã không nghe được tiếng kêu than của những thai nhi bị kết thúc cuộc đời trong oan uổng. Họ đã coi thường nhân phẩm của con người và không ngần ngại tổ chức để lừa đảo phụ nữ và trẻ em hầu thỏa mãn những khát vọng vô luân. Họ bỏ rơi và quên lãng những người già yếu đã một đời hy sinh cho gia đình và xã hội. Họ đã quên lời mời gọi của Nước Trời và chỉ sống cho giây phút hiện tại dựa trên tiêu chuẩn và giá trị của trần gian.
Lậy Chúa, chúng con đang sống trong một thế giới nơi mà trật tự đang bị đảo lộn, nơi mà người ta tìm mọi cách để xóa bỏ hình ảnh của Chúa. Xin giúp mỗi người chúng con nhận ra sự nô lệ của mình. Xin giải thoát chúng con khỏi những đam mê và nô lệ của thời đại. Xin cho chúng con chỉ làm nô lệ cho một mình Thiên Chúa, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống.
Trong tờ báo Xã Hội Mới xuất bản tại Canada năm 1983, có đăng tin nhà khảo cổ John Cardo: MC3-B66
Trong tờ báo Xã Hội Mới xuất bản tại Canada năm 1983, có đăng tin nhà khảo cổ John Cardo Whisky, sau khi đọc cuốn sách nói về căn biệt thự của một nhà đại phú, đã bị chôn vùi trong lòng đất cách đây hơn 100 năm tại làng Gamusky, nước Sô Viết.
Ông đã ra công khai quật đất đai trong vùng này suốt 2 năm trời, để tìm kiếm cho được di tích của căn biệt thự lịch sử này. Kết quả, ông tìm được một cái bình rượu bằng vàng, một bộ xương người thiên cổ với những đồ trang sức quí giá. Các tảng đá, gạch ngói và hình thể căn nhà bị sụp đã được thu góp lại và để trong viện bảo tàng khảo cổ.
Nhân dịp làm việc trong một nghĩa trang cổ kính cùng người nhân công gia, đã 35 năm phục vụ tại nghĩa trang này. Tôi quan sát thấy ông mỗi khi đào lỗ chôn người chết, ông thường chăm chú quan sát đất đá một cách tì mỉ. Hỏi lý do tại sao thì ông cho hay: Mồ mả là nơi an nghỉ, là căn nhà cuối cùng trên cõi đời của người chết, nên người ta thường để dành nhiều của cải quí giá. Rồi ông chỉ cho tôi một ngôi mộ sừng sững trước mắt được xây như một lâu đài, ông bảo: "Đó là lâu đài của dòng tộc Saragossa người Bồ Đào Nha, mà người cháu 5 đời của họ là cô Mary Michaela, đã tìm lại được tổ tiên mình chết năm 1892. Cô đã xây cất ngôi mộ đó thành nhà của gia tộc. Trên bàn kính tổ chỉ có một tấm bia đá cũ phai mòn hầu hết nét chữ".
Có dịp được tiếp xúc và phỏng vấn cô thì cô trả lời: "Tôi muốn tìm lại căn gốc của gia tộc tôi, của cây đã sinh ra tôi, nó là một gia sản quí giá. Nhờ căn nhà gia tộc này mà tôi hiện diện trên đời".
Vua Salomon sau bao chiến trận oai hùng, ngài đã xây một lâu đài nguy nga cho mình để ghi nhớ chiến công. Còn Chúa và Hòm Bia Thánh thì Ngài vẫn giữ lại trong căn lều vải, trong cái gia sản quí giá mà suốt 40 năm trời lưu lạc Đức Giavê đã ngự.., đã sống với dân, đã cứu thoát dân tộc mình khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập. Nhưng qua thời lập quốc, dân không phải cảnh lưu đầy nữa, Chúa muốn vua xây cho Ngài một đền thờ, vua Salomon đã khởi công xây dựng trong suốt 46 năm, theo đúng như cách chỉ dạy của Chúa. Đền thờ Thiên Chúa mà Sách Thánh nói đến chính là Đền Thánh Jerusalem mà các môn đệ trầm trồ ca ngợi.
Những năm Chúa khởi công giảng đạo, Ngài thường tới đền thờ này giảng dạy và đã có lần Ngài khóc thương nó, vì người ta lạm dụng làm thành nơi uế tạp, làm thành hang trộm cướp, chốn buôn bán, trao đổi tiền bạc.... Và vì nhiệt thành bảo vệ nhà Chúa, Ngài đã đánh đuổi họ ra khỏi đền thờ.
Tôi còn nhớ cuộc nội chiến 1954 tại Việt Nam, nhiều cụ ông cụ bà phải rời khỏi làng di cư vào Miền Nam, đã khóc xướt mướt khi phải bỏ ngôi nhà thờ làng. Các cụ đã khóc vì phải xa bỏ tòa Đức Mẹ, tòa Chúa, tòa Giải Tội, giếng nước Rửa Tội, chỗ quen ngồi dự lễ, cầu kinh... nơi nuôi dưỡng Đức Tin từ tấm bé. Điều đó không lạ, vì nó là gia sản tinh thần cha ông để lại.
Nhưng còn có ngôi Đền Thờ quý giá hơn nữa, mà Chúa muốn nói đến là chính "Thân xác và linh hồn anh chị em là đền thờ Thiên Chúa", đừng biến thành hang trộm cướp, thành nơi chứa chấp mọi thứ gian tà. Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi từ ngày được rửa tội, được Xức Dầu thánh hóa như Xức Dầu Bàn Thờ tế lễ Chúa. Được lãnh nhận ơn thánh qua Phép Thêm Sức, được chỉnh trang, làm mới lại khi lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Được xức dầu và xông hương khi qua đời và được an táng trong nơi đất thánh...
Chúa khóc cho đền Jerusalem bị người ta lợi dụng, và Chúa cũng khóc thương cho đền thờ linh hồn chúng ta bị ma qủy chiếm ngự, bị trần gian dùng làm kho chứa những sự đồi bại, bị chính chúng ta mở cửa tiếp nhận tội lỗi, tiếp nhận hương nhang thờ lạy tà thần, tiếp nhận tiền vàng giấy... Và đánh đuổi Chúa ra khỏi cung lòng mà Ngài đã xức dầu. Đánh đuổi cả các thánh ra khỏi các bàn thờ ngũ quan, là nơi chúng ta đã tiếp nhận muôn gương lành của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chỉ dạy.
Nhân Mùa Chay, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về đền thờ quí giá này, chúng ta hãy hồi tâm suy nghĩ, nhận định và đổi mới tư tưởng, hành động, việc làm... Hầu giữ đền thờ thân xác và linh hồn luôn xứng đáng làm nơi Chúa ngự đời này và đời sau.
Để tiếp theo ý nghĩa hướng về phục sinh của Bài Phúc Âm tuần trước, bài Phúc Âm về biến: MC3-B67
Để tiếp theo ý nghĩa hướng về phục sinh của Bài Phúc Âm tuần trước, bài Phúc Âm về biến cố Chúa Biến Hình trên núi, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Chay Năm B tuần này Giáo Hội lấy từ bài Phúc Âm của Thánh Ký Gioan, bài Phúc Âm về việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ, một việc làm mà ngay sau đó, khi trả lời cho thành phần hạch hỏi Người về vấn đề dấu hiệu nào chứng tỏ cho thấy Người thực sự có quyền ra tay xua đuổi đám bán buôn ở đền thờ, Người cho họ biết việc Người làm ấy có liên quan đến việc phục sinh của Người sau này. Chúng ta nên lưu ý là, chu kỳ Phụng Vụ Năm B bao giờ cũng theo Phúc Âm Thánh Ký Marcô. Tuy nhiên, có lẽ vì Phúc Âm Thánh Ký Marcô hơi ngắn, do đó, trong chu kỳ phụng vụ Năm B này, Giáo Hội đã phải sử dụng đến một số bài Phúc Âm của Thánh Gioan xen kẽ, như ở Mùa Vọng có Chúa Nhật Thứ Ba, ở Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có Chúa Nhật Thứ 2 (cho cả chu kỳ năm A và C), ở Mùa Chay sáu tuần có Chúa Nhật Thứ Ba, Tư và Năm, ở Mùa Phục Sinh Phúc Âm Thánh Gioan được sử dụng hầu hết cho cả ba chu kỳ, chứ không riêng gì chu kỳ B, trừ Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh có Chúa Nhật 17-21, và Lễ Chúa Kitô Vua (cho cả 3 chu kỳ).
Riêng Mùa Chay, Giáo Hội chọn ba bài Phúc Âm liền theo Thánh Ký Gioan, 3, 4 và 5, trước Chúa Nhật Thương Khó hay Lễ Lá. Chính vì vị trí của ba Chúa Nhật trước Tuần Thánh mà ba bài Phúc Âm Thánh Gioan đề hướng về và chất chứa cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, một cuộc Vượt Qua từ đau khổ tới vinh quang, từ tử giá đến phục sinh. Bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba theo Thánh Ký Gioan cho Mùa Chay chu kỳ Năm B này đã cho thấy rõ sự kiện ấy, qua câu Chúa Giêsu trả lời cho những người Do Thái muốn xem dấu lạ để biết được Người thực sự có quyền thế trên con người hay chăng: “Hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. Thánh Ký Gioan đã phải chú thích ngay trong bài Phúc Âm là Chúa Giêsu có ý nói đến đền thờ thân xác của Người, chứ không nói đến đền thờ Giêrusalem bấy giờ đầy nguy nga tráng lệ được xây cất hết sức công phu trong vòng 46 năm mới xong, một nơi được Người khẳng định là “nhà của Cha Tôi” đã bị đám con buôn sặc mùi lợi lộc biến thành khu phố chợ đến nỗi Người đã phải thẳng tay thanh tẩy.
Ở đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu biết trước cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua ba ngày về thời gian, một cuộc Vượt Qua trực tiếp liên quan đến thân xác của Người, và là một cuộc Vượt Qua gây ra bởi bàn tay tham lam hận thù của đám thợ xây Do Thái (như được Người bóng bẩy nói đến trong dụ ngôn bọn tá điền làm vườn nho – Mt 21:33-46). Thế nhưng, nhân vật chủ chốt của cuộc Vượt Qua này không phải là chính bọn tá điền làm vườn nho, mà là chính nạn nhân, chính vật tế thần là Đấng Thiên Sai, Người Con Duy Nhất được Cha sai đến thu hoa lợi nhưng bị bọn tá điền này sát nhân đoạt của, chiếm gia tài (x Mt 21:38). Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, Nạn Nhân của cuộc Vượt Qua cũng là nhân vật chủ chốt trong cuộc Vượt Qua này mới lên tiếng thách thức đối phương:”Hãy cứ phá đền thờ này đi…”
Tất nhiên, dân Do Thái, một dân tộc rất tôn kính đền thờ của họ, làm sao có thể dám ra tay làm điều này, dám ra tay phá ngôi đền thờ của cha ông họ, phá một nơi linh thiêng nhất của dân tộc họ, nơi Thiên Chúa ngự trị giữa họ (1Kgs 8:29-30). Thế nhưng, dù họ không có ý phá, phá về thể lý ngôi đền thờ linh thiêng của họ này, về thiêng liêng, họ cũng đã phá nó rồi, ở chỗ, họ tục hóa nó bằng sinh hoạt phàm tục bất xứng của họ ở đó, một sinh hoạt chỉ biết kiếm chác lợi lộc trần gian bất xứng với khu vực đền thờ linh thiêng, một tình trạng tục hóa như thế mà thành phần lãnh đạo và tôn sư giảng dạy lề luật trong dân vẫn mần ngơ không nói năng gì.
Chính vì chỉ biết sống đạo theo hình thức bề ngoài, theo lễ nghi, một cách giả hình, mà đám thợ xây lãnh đạo và tôn sư của dân này đã không dám đụng đến đền thờ vật chất, dù khu đền thờ của chung dân tộc họ bị một thiểu số tục hóa bằng sinh hoạt trần gian, nhưng đã dám ra tay phá ngôi đền thờ đích thực xứng đáng nhất cho Chúa ngự trị là thân xác của Đấng Thiên Sai nữa. Tại sao lại xẩy ra trường hợp đám thợ xây Do Thái dám phá đền thờ chính là thân xác của Chúa Kitô, nếu không phải vì họ đã để cho đền thờ của họ bị tục hóa mà không biết. Tình trạng tục hóa đền thờ đây không phải chỉ xẩy ra nơi đền thờ Giêrusalem của họ mà thôi, mà còn xẩy ra ngay khu vực đền thờ bản thân của họ nữa, vì nơi khu vực ngoại vi đền thờ bản thân họ này hằng diễn ra những việc làm giả hình, những việc làm vụ hình thức, theo lễ nghi, theo luật lệ, chứ không “theo tinh thần và chân lý” (Jn 4:24) của những kẻ tôn thờ Thiên Chúa đích thực (x Jn 4:23). Nếu Chúa Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi con buôn ra khỏi khu vực ngoại vi của đền thờ Giêrusalem trong bài Phúc Âm hôm nay thế nào, Người cũng đã nghiêm nghị ra tay thanh tẩy khu vực ngoại vi của đền thờ bản thân thành phần lãnh đạo và tôn sư của dân Do Thái như vậy (xem cả đoạn 23 của Phúc Âm Thánh Mathêu).
Việc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ trong bài Phúc Âm hôm nay, tuy là một việc bề ngoài, nhưng có một ý nghĩa hết sức sâu xa, ở chỗ, Người muốn dọn lòng cho con người để họ có thể thực sự tin tưởng chấp nhận Người, Đấng là Thiên Chúa Nhập Thể, Đấng muốn đến ngự giữa chúng sinh, không phải ở một đền thờ nào đó, mà là nơi chính cõi lòng mỗi người, qua việc họ tin tưởng nhận biết Người. Đó là lý do Thánh Phaolô đã nguyện ước “chớ gì Chúa Kitô ngự trị trong lòng anh em nhờ đức tin” (Eph 3:17). Và đó cũng là lý do, ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Ký Gioan đã đề cập đến vấn đề đức tin của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu: “Trong khi Người ở Giêrusalem vào lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh Người, vì họ thấy được những dấu lạ Người đã làm. Về phần mình, Chúa Giêsu không hề tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người#. Người không cần ai làm chứng về bản tính loài người.
Người quá biết những gì chất chứa trong lòng con người”. Ở đây, theo chiều hướng của cả bài Phúc Âm thì đoạn cuối liên quan đến đức tin của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu này cho thấy, Chúa Giêsu đã biết lòng người ta tin tưởng Người bấy giờ chỉ vì họ thấy dấu lạ Người làm, tức sống theo những cái bề ngoài mà thôi, chứ không hay chưa đi sâu vào thực tại của những dấu lạ chỉ đường dẫn lối như ngôi sao cho ba chiêm vương gia Đông Phương đến bái thờ Hài Vương Giêsu ở Bêlem. Chính vì lòng tin do bởi được xem dấu lạ mà một khi họ thấy những gì ngược lại, họ sẽ không tin nữa, sẽ mất đức tin. Chẳng hạn như trường hợp họ thấy con người đã từng làm phép lạ cho kẻ chết sống lại, đã cứu được nhiều người khỏi mọi thứ tật nguyền bệnh hoạn mà không tự cứu được mình, tức không thể xuống khỏi thập giá (x Lk 23:35; Mk 15:29-32).
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lợi dụng chính cái hiếu kỳ bề ngoài này của dân Do Thái để làm cho họ tin, ở chỗ, cho họ thấy một dấu lạ trên hết các dấu lạ, một dấu lạ không ai có thể làm được ngoại trừ chính Thiên Chúa, đó là dấu lạ Người để cho con người sát hại mình nhưng sau ba ngày Người sống lại từ trong kẻ chết (x Jn 10:17-18).
Người mình vẫn tự coi là con của chim Tiên, mà sao có điều lạ là tự đáy lòng mỗi người đều: MC3-B68
Người mình vẫn tự coi là con của chim Tiên, mà sao có điều lạ là tự đáy lòng mỗi người đều cảm thấy một cái gì chận lại khiến không làm sao bay lên nổi, hoặc là mỏi mệt rã cánh không muốn bay nữa. Chắc phải có lý do sâu xa của nó?
Du Tử Lê trong bài thơ "Lưu Vong Khúc” đã diễn tả cái cánh mỏi này khi chứng kiến những màn lố lăng của cảnh đổi đời:
Chính vì tan tác nên nhăng nhố
Đến cả sân chơi cũng bẩn rồi
Cố mà chơi nốt trò chơi dở
Đến lúc đi thì đi thảnh thơi...
Bạn nói thêm chi về mối nhục,
Ta hiểu vô cùng chuyện áo cơm.
Mặc ai khất thực mà vênh váo
Luýnh quýnh canh thừa, ngố chợ đông... Khi chim bị rắn thôi miên
Trong cuốn Xả Buông Nỗi Sợ (Let go of Fear) tác giả Carlos Valles đã kể lại việc chứng kiến một cảnh thật xẩy ra khi ông đang đi trong khu vườn bên bờ rừng Ấn Độ. Hôm đó ông tình cờ thấy một con chim đang đậu trên cành. Thân nó cứng đờ ra như bị thôi miên. Nó muốn bay lên mà bay không nổi. Và cái mỏ nó run lẩy bẩy đập vào nhau không cách nào hót nổi. Ông lấy làm lạ về hiện tượng này, nên chú tâm tìm hiểu. Thì ra lý do kia rồi. Ở mãi xa dưới gốc cây, một con rắn rung chuông đang cất cao cổ như toan tính phóng lên. Con rắn biết sức mạnh của nó. Con chim có cả một bầu trời thênh thang mà không thể nào thoát nổi. Thấy cảnh tượng tội nghiệp, Carlos Valles liền ho lên mấy tiếng. Con rắn thấy tiếng động của loài người liền rụt cổ xuống và có vẻ thèm thuồng và tức bực bò đi. Còn con chim thì vừa sực hoàn hồn. Nó vừa thấy một điều mà trong cơn sợ hãi tột cùng nó đánh mất. Đó là kiến tính, là phút giây bỗng thấy được sự thật, thấy được niềm tin vào chính mình, là nhận ra rằng con rắn ở xa như vậy, mà nó thì có cánh. Chỉ cần vỗ cánh bay lên là con rắn hết đường làm ăn.
Giờ đây con chim thảnh thơi như tìm lại được đôi cánh. Nó hân hoan hót vang làm vui cả một bầu trời và thênh thang bay vút lên thật nhẹ nhàng.
Chờ đón mùa hoa Trina Paulus với cuốn sách tu đức bán chạy nhất trong n hiều năm liền: Hope For the Flowers, tạm dịch là Chờ Đón Mùa Hoa. Cái đặc biệt của cuốn sách này là rất ít chữ mà chỉ có hình vẽ thôi. Mà lại toàn là hình sâu róm, sợ quá!
Con sâu róm sinh ra trên một cành cây trong một "gia đình êm ấm”. Một hôm nó nhận ra mình đã trưởng thành, cần "đi xuống cuộc đời”. Và nó đã bò xuống. Nó lấy làm lạ là tại sao nó toàn gặp những con sâu đang đi hối hả về phía trước. Nó hỏi đi đâu, thì những chú sâu không có giờ trả lời, chỉ ngoắc tay thật nghiêm trọng. Nó cũng sinh tò mò đi theo. Một lúc lâu thì nó thấy một cái cột thật cao, ngọn chạm tới trời. Nhìn kỹ hơn, nó nhận ra đó là một cái cột toàn sâu lúc nhúc đang chen nhau bò lên. Nó hỏi trên đó có gì thì không đứa nào trả lời. Thấy đông đứa hăm hở như vậy chắc là có gì hồ hởi lắm. Vậy là nó cũng hòa mình vào đám đông ”ai sao tôi dzậy” mà cố sức leo lên, đạp văng nhiều thằng khác mà đạt mục tiêu. Lên đến lưng chừng thì nó ”thấm mệt cuộc đời”, ”ngựa nản chân bon”, bèn nghĩ chuyện bỏ cuộc. Chắc là chả có gì đâu. Và nó bò được xuống đất. Hú hồn.
Nhưng rồi nó đâm hồ nghi chính nó. Hay là mình chẳng giống ai. Nó quan sát thấy ”người ta” miệt mài tranh nhau bò lên thế kia, ắt là phải có cái gì chứ. Thế là nó lại ra sức trèo lên một lần nữa. Lần này nó hung hãn hơn trước. Đấm đá kỹ hơn. La hét kỹ hơn. Tỏ ra ta đây lắm. Và cuối cùng nó đã leo lên được đỉnh cao chót vót. Nhưng cũng chính là lúc nó thất vọng nhất. Chẳng có gì. Thì ra cái cột ”danh vọng” cuộc đời này được tạo bằng chính những con sâu. Nhìn sang rừng cây bên canh, nó thấy một đàn bướm đủ màu tung tăng vỗ cánh thảnh thơi. Nó có dịp ”tĩnh tâm” để phát giác một điều lạ là ở cành cây đang đeo lủng lẳng những cái tổ kén. Một vài con sâu đang chịu nằm trong "mồ tối" đó. Ở một tổ khác nó thấy rõ một con bướm vừa bung ra. Thì ra cái tổ kén là nơi con sâu chịu bị vùi giập để lột xác.
Đúng rồi. Nó là ”con của chim Tiên.” Mặc dù đang thấy hiện trạng là con sâu, nhưng nó biết bản chất của nó là có thể mọc cánh thành bướm bay lên được. Với điều kiện nó phái lột xác. Tiến trình thật gay go. Nhưng đâu còn con đường nào khác nữa!
Tin vui gửi những cánh chim rã mỏi (Chúa nhật 3 Mùa Chay)
Quả thực, mình không bay lên nổi, không vươn lên được, trước hết là vì bị những thống khổ cuộc đời đánh cho mờ cả mắt, tối tăm mặt mày! Người ăn đòn lại sinh hung hãn đấm đá gỡ gạc chôm chỉa cho bớt tủi, cho vơi nỗi sầu, bớt trống rỗng hụt hẫng, thành ra cái vòng hệ lụy nghiệt ngã hành hạ đầy đọa nhau không lối thoát. Việc gỡ gạc chôm chỉa như kiếp sâu phát sinh như một phản ứng tự động từ trong máu, cho nên ngay cả những sinh hoạt tôn giáo cũng có thể bị làm cho méo lệch thành nơi kiếm chác chút phù du thay vì tìm được đường giải thoát thảnh thơi. Đức Giêsu đã có lần cảnh cáo mạnh tay với những hạng người này: "Đừng làm nhà Cha ta thành nơi buôn bán" (Gioan 2:16).
"Nhà Cha Ta" không nhất thiết chỉ là ngôi nhà thờ nơi xứ đạo, mà có thể là nhà thờ trong tâm hồn mỗi người. Hành động của Đức Giêsu như một chấn động mạnh có sức thay đổi cả một lối nhìn và một lối sống, làm nên một cuộc hoán cải tận gốc rễ (metanoia). Mình không thể tiếp tục đi con đường hiện tại chỉ khiến mình lệt bệt không vươn lên được mà còn làm khổ nhiều người. Và cuộc lột xác lúc này thật cần thiết, dám bắt đầu lại.
Xả buông là một bí mật của đời sống. An Nguyên đã tâm sự trong "Bí Tích Buông Ra": "Khi mùa thu đến, nhiều lúc tôi muốn ôm lấy thân cây, tựa đầu vào chúng và hỏi xem chúng cảm thấy thế nào khi bị mất mát, khi phải từ bỏ, khi chịu trơ trụi và đứng chờ đợi để được đong đầy lại. Nghe thì đơn giản, thật dễ dàng, nhưng thực tế lại rất khó...
Từ từ, chậm rãi,
Nàng ăn mừng "Bí Tích Buông Ra".
Trước hết, nàng bằng lòng
để màu xanh thắm của nàng phai đi,
đổi thành màu cam. màu vàng và màu đỏ;
Cuối cùng là màu nâu, màu úa;
Và nàng buông ra chiếc lá cuối cùng.
Bị tước đoạt trơ trụi, nàng đứng lặng im.
Đứng dựa vào bầu trời mùa đông...
Nàng đứng nhìn chiếc lá cuối cùng rời nàng
nhẹ nhàng rơi xuống đất.
Nàng đứng lặng im,
mặc một màu trống rỗng trơ trụi.
Là cành cây, nàng tự hỏi:
Những chiếc lá bỏ đi hết rồi,
Tôi còn cho bóng mát thế nào được,
không lẽ tôi trở nên vô ích từ đây?!
Ban mai và hoàng hôn nhìn nàng âu yếm. Chúng củng cố niềm hy vọng của nàng. Chúng giúp nàng hiểu rằng sự phụ thuộc và cần thiết của nàng, sự trống rỗng và sẵn sàng đón nhận của nàng sẽ đem lại cho nàng một vẻ tươi đẹp mới. Mỗi ngày nàng kiên nhẫn, vui vẻ đứng "Bí Tích Chờ Đợi".
Bầu trời mùa xuân nhẹ tới, đem lại cho nàng sự tươi mát, thoải mái. Và từ từ nàng nhìn thấy những cành cây khô cằn bật lên những chồi non, rồi lá xanh. Một sức sống mới bừng lên, một niềm tin mới xác quyết. Nàng nhảy mừng cử hành "Bí Tích Sự Sống".
Này nhé: Sâu có thể trở thành bướm. Những mô đất đá cằn cỗi nay bỗng bật lên những mầm nụ mới. Vậy tại sao con người lại không được như thế, cứ cố bám lấy lớp dầy vỏ cứng khiến đời sống mỗi ngày mỗi tàn tạ?! Nhà thơ Luân Hoán thấy cảnh như vậy liền cất lời tự tình:
Cám ơn đất đá trổ thơ
Lòng ta hạt bụi vu vơ bám hoài.
Liệu tôi đã bắt đầu dám lột xác vươn mình lên hay vẫn tiếp tục bám vào lớp bụi bặm phù du tự đầy đọa mình và làm khổ nhiều người? Những gì tôi đang cần xả bỏ để bắt đầu sống thảnh thơi hơn? Và tôi muốn đổi lời thơ Luân Hoán thành lời phản tỉnh cho chính mình:
Cám ơn đất đá trổ hoa
U mê hạt bụi lòng ta bám hoài.
Như các tiên tri thời Cựu Ước, trong vai trò tiên tri của chính Đấng Cứu thế, Chúa Kitô hết: MC3-B69
Như các tiên tri thời Cựu Ước, trong vai trò tiên tri của chính Đấng Cứu thế, Chúa Kitô hết lòng tôn kính đền thờ Giêrusalem: Để giữ trọn lề luật, 40 ngày sau giáng sinh, Người được cha mẹ tiến dâng trong đền thờ (Lc 2, 22-31); Người theo cha mẹ viếng đền thờ hàng năm. Đặc biệt, lần viếng đền thờ năm 12 tuổi, Chúa Giêsu ở lại đền thờ để nhắc thánh Giuse và Đức Mẹ về nhiệm vụ thiên sai của Người (Lc 2, 41-49); Chúa Giêsu còn coi đền thờ là nhà của Cha, nhà cầu nguyện… Cả thời gian ra đi rao giảng của Chúa Giêsu cũng bắt nhịp với những lần hành hương đền thờ (Ga 2, 13-14; 5, 1.14; 10, 22-23).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, tại đền thờ Giêrusalem, nơi Chúa Kitô rất mực tôn quý, có những người đổi chác, buôn bán. Tuy nhiên, lề luật Dothái giáo quy định rất nghặt, khi chia đền thờ thành nhiều phần. Phần ngoài cùng là nơi mọi người có thể đến. Phần này gọi là “sân chư dân”, nơi dành cho mọi người. Càng tiến sâu vào đền thờ, càng là những thành phần quan trọng, không phải ai cũng được vào. Vì thế, những người đổi chác, buôn bán sẽ không bao giờ được bén chân vào bên trong đền thờ. Họ chỉ có thể buôn bán, đổi chác ở sân “chư dân”. Cùng lắm, họ chỉ có thể dừng chân ở tiền đường đền thờ.
Mặt khác, sau nhiều lần bị đô hộ, bị bắt lưu đày, cùng nhiều lý do khác, đến thời Chúa Giêsu, dân Dothái đã tản mác nhiều nơi, sống ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì thế, họ sẽ từ những nơi ấy, có khi rất xa xôi, hành hương đền thờ Giêrusalem. Quá xa như thế, họ không tiện mang theo lễ vật, không tiện đổi tiền dọc đường. Vì thế, có nhiều người buôn bán, đổi chác tại khuôn viên đền thờ là việc làm rất thuận tiện, giúp khách hành hương có đủ phương tiện cần thiết khi đi hành hương. Như vậy, việc làm của những người buôn bán và đổi chác chẳng những không sai trái, mà lẽ ra, rất đáng được khuyến khích?
Chúa phẫn nộ với những kẻ đang buôn bán, đổi chác, vì cho rằng họ “biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2, 15), có phải là quá đáng? Hành động nóng nảy thái quá của Chúa khi “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những kẻ đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ…”, là những hành động hiếm thấy nơi Chúa Giêsu. Tại sao hôm nay Chúa lại có thái độ lạ thường như thế? Hay còn lý do nào khác khiến Chúa không thể chấp nhận những gì đang diễn ra?
1. Đâu là câu trả lời cho thái độ của Chúa Giêsu? Người Dothái, dù ở bất cứ nơi nào, không bao giờ quên niềm tin tôn giáo và đền thờ. Cả đức tin lẫn đền thờ, đều là niềm hãnh diện lớn của họ. Họ tin rằng, đền thờ là biểu tượng Thiên Chúa ngự giữa họ. Ngày nào đền thờ còn, ngày ấy đức tin và đời sống tôn giáo còn được bảo đảm, phúc lành của Thiên Chúa còn tuôn đổ trên họ. Vì đền thờ quan trọng như thế, nên đời sống đức tin được tập trung và diễn tả nơi đền thờ. Họ mong muốn, ít là một lần trong đời, được hành hương đền thờ. Đặc biệt, được hành hương vào dịp lễ Vượt Qua, bậc lễ quan trọng nhất, là niềm hạnh phúc lớn không thể tả của họ.
Nhưng bất cứ ở đâu, thời nào, việc gì, vẫn có những kẻ thừa cơ hội, lợi dụng thời thế để vơ vét cho bản thân mình. Những người đổi tiền, buôn bán nơi đền thờ thường phạm vào ba tội lớn, khiến Chúa Giêsu phẫn nộ với họ:
Tội lớn thứ nhất, tội của các tư tế: Những người buôn bán, đổi chác là con cháu, phe cánh, ăn chịu với những tư tế, những người trông coi đền thờ. Cả những tư tế, hoặc những người trông coi đền thờ, lẫn cả chính họ đều là những kẻ giả tâm, lợi dụng nơi thánh, lợi dụng tôn giáo để làm giàu. Đặc biệt, các tư tế, và những người trông coi đền thờ, lẽ ra phải hết lòng hết dạ lo cho việc thờ tự, lo cho “nhà cầu nguyện” thành nơi xứng hợp, thì họ lại làm vấy bẩn đền thờ bằng những áp phe, những vụ lợi, kiếm tiền, chia chác…
Hơn thế, là những nhà lãnh đạo đức tin của dân chúng, lẽ ra, các tư tế, các người trông coi đền thờ phải chuẩn bị chính tâm hồn của họ cho xứng đáng với ơn gọi, đồng thời là trọng trách mà Thiên Chúa trao phó cho họ, thì ngược lại, họ lại làm cho lòng họ đầy tiêu cực, thậm chí tội lỗi, tham lam, thủ đoạn… Họ trở thành những kẻ giả hình khi dâng lễ tế trước mặt dân chúng: bên ngoài thì tế lễ, bên trong đầy sự tội.
Tội lớn thứ hai, tội của chính những người buôn bán, đổi chác nơi đền thờ: Họ buôn bán giá cao, đổi chác rẻ mạt, chèn ép, xiết cổ khách hành hương, để kiếm lợi càng nhiều, càng tốt. Như vậy, cả những tư tế, và những người buôn bán, đổi chác chia nhau những đồng tiền nhơ nhớp mà họ có được nhờ tìm mọi thủ đoạn để móc túi khách hành hương. Chúa Giêsu không thể nào chấp nhận tội ác này.
Tội thứ ba, tội của chung các tư tế và người buôn bán, đổi chác: Việc dâng lễ vật bằng chiên, hoặc bò, hoặc bồ câu đều là quy định của lề luật Dothái giáo. Vì thế, người hành hương đền thờ có thể đến đền thờ mua các loại thú vật này để dâng lễ. Trước khi đưa lễ vật vào đền thờ dâng qua tay tư tế, những con vật ấy đều phải được nhân viên kiểm soát xem xét con vật có lành lặn hay không. Những nhân viên này luôn luôn kiểm soát gắt gao. Họ dồn khách hành hương vào thế kẹt khi từ chối không kiểm duyệt con vật nào mua từ nơi khác đến. Không được kiểm duyệt và xác nhận, cũng có nghĩa là không được dâng lễ vật. Như vậy khách hành hương buộc phải mua các con vật của những người buôn bán quanh đền thờ với giá cắt cổ. Khách hành hương bị bóc lột trắng trợn. Hơn thế, hình thức bóc lột lại được những kẻ lợi dụng mặc cho một lớp áo đức tin tôn giáo. Họ vi phạm luật công bằng. Chúa không thể nào làm ngơ trước những tội công khai như thế.
Chính vì những xấu xa đang diễn ra xung quanh đền thờ, nơi lẽ ra phải được cung kính hết sức, Chúa Giêsu đã quyết định làm một hành động đầy ý nghĩa: thanh tẩy đền thờ. Nhà của Thiên Chúa không thể bị xúc phạm. Nhà cầu nguyện không thể trở thành nơi chợ búa ồn ào, hỗn độn. Chúa Giêsu đã trả lại cho đền thờ ý nghĩa thờ tự đúng đắn của nó.
2. Hướng về đền thờ trên mọi đền thờ là chính Chúa
Trong khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu không dừng lại ở ngôi đền thờ bằng gạch đá. Người hướng chúng ta đến chính bản thân Người. Chính thánh Gioan tông đồ cho biết, sau khi phẫn nộ với những người buôn bán và đổi chác, họ chất vấn Chúa Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” … Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.
Chúa Giêsu là Đền Thờ mới, Đền Thờ đích thực. Người là Đền Thờ vĩnh cửu, không do tay con người phàm làm ra, nhưng xuất phát từ chính Thiên Chúa, mang lại hoa trái cứu độ cho trần gian. Như ngày xưa, hòm bia Thiên Chúa trú ngụ trong Nhà Tạm, thì ngày nay, nơi chính ngôi Đền Thờ Chúa Giêsu ấy, Thiên Chúa lưu trú và ở lại với loài người. Nơi Chúa Giêsu, từ nay nhân loại tôn thờ, ca tụng dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Cũng từ chính nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ chúc phúc, sẽ ban ơn lành, sẽ trao lề luật mới là chính Lời Thiên Chúa để giáo huấn loài người, đưa họ dần dà tiến về chính Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để truất phế ý nghĩa của ngôi đền thờ gạch đá, Chúa Giêsu phải bước vào tử nạn và sống lại. Đền Thờ thân xác Người cần phải được phá hủy, rồi sẽ được tái thiết lại trong ánh sáng huy hoàng của ngày lễ Phục Sinh. Đền Thờ Chúa Giêsu vẫn mãi mãi tiếp tục hành trình hiện diện giữa trần gian của mình khi Hội Thánh không ngừng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể. Vì nơi đâu có Thánh Thể Chúa Giêsu, nơi đó là bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa, là dấu hiệu tình thương, ân phúc của Thiên Chúa tiếp tục tuôn đổ tràn đầy trên nhân thế. Ngôi Đền Thờ Chúa Giêsu, cũng là chính Thánh Thể của Người, là dấu chỉ dẫn đường cho chúng ta tiến về Thiên Chúa, nếu chúng ta biết nương náu nơi Người, nương náu nơi Ngôi Đền Thờ tràn đầy sự sống này.
Liên kết với Đền Thờ Giêsu như thế, Thiên Chúa cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ của Người. Nơi đền thờ tâm hồn mỗi người, Thiên Chúa yêu thích ngự vào, ban ơn cứu rỗi, ban sức sống thần linh, để mỗi ngày, đền thờ tâm hồn ta càng xứng đáng, càng thánh thiện, vươn lên chính sự thánh thiện của Đền Thờ Chúa Giêsu.
Bởi vậy, khi cử hành phụng vụ Chúa nhật thứ III mùa Chay, lắng nghe giáo huấn của Hội Thánh về đền thờ, chúng ta không quan trọng hóa việc xây nhà thờ gạch đá cho bằng thực tâm chỉnh đốn tâm hồn mình. Bởi từ lâu, đã có nhiều người tưởng mình đang sống, nhưng thực ra, họ đã chết. Từ lâu, chúng ta vẫn tưởng đó là những ngôi đền thờ, nhưng thực ra, đó chỉ là một căn chòi đổ nát thảm hại. Chết chóc và đổ nát là bởi họ bị ảnh hưởng của không biết bao nhiêu sự nhơ uế và thói xấu ở đời. Họ bị ô nhiễm bởi ham hố tiền bạc, của cải, dục tình, quyền lực, tiếng tăm… Biết bao nhiêu ngôi nhà tâm hồn con người đổ sập do bởi những lối nhìn, lối nghĩ, lối sống… ích kỷ, thực dụng và gây nguy hiểm cho anh chị em quanh mình…
Mùa Chay là mùa tu sửa đền thờ tâm hồn. Chúng ta hãy làm cho đền thờ của mình xứng đáng với Đền Thờ Chúa Giêsu, bằng cách tìm mọi phương thế, dùng mọi cách thức mà Hội Thánh đề nghị trong mùa Chay để sống những ngày mùa Chay này thật ý nghĩa. Ra công sống chiều kích của mùa Chay như thế, chính là lúc chúng ta chết với Chúa Giêsu. Chúng ta hy vọng, đến ngày Phục Sinh, chúng ta cùng được phục sinh với Người.
Anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần”. Đền thờ Chúa là “nhà Thiên Chúa”. Nhà Chúa là: MC3-B70
“Anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần”. Đền thờ Chúa là “nhà Thiên Chúa”. Nhà Chúa là “nhà cầu nguyện”: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha ta thành nơi buôn bán” (Gioan 2: 16). Vì “nhà ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện” (Mat 21:13). Như vậy, nếu chúng ta là đền thờ Chúa, là nhà của Chúa, mà nhà Chúa là “nhà cầu nguyện”, thì chúng ta cũng phải là “người cầu nguyện”, và cuộc sống của chúng ta là “đời cầu nguyện”.
Ta là người cầu nguyện và cuộc sống ta là đời cầu nguyện. Điều này có thể nào trở thành mẫu mực cho đời sống người Kitô hữu không? Câu trả lời là “có”. Chúng ta phải trở thành người cầu nguyện và đời chúng ta phải là một đời cầu nguyện. Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy cầu nguyện luôn khỏi phải sa chước cám dỗ. Tinh thần mau kíp nhưng xác thịt nặng nề” (Mt 26:41), không phải Ngài chỉ nói với Phêrô mà còn nói với mọi người chúng ta nữa. Vì ai cũng biết rằng tinh thần chúng ta luôn luôn sẵn sàng, luôn luôn mau mắn đáp trả lời Chúa, nhưng xác thịt, thân xác chúng ta thì không.
Tuy nhiên, khi Chúa bảo Phêrô và chúng ta “hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, thì Ngài không chỉ muốn chúng ta dừng lại ở khía cạnh tiêu cực, là sợ tội, hoặc xin Chúa cứu giúp mình khỏi phải thua cơn cám dỗ. Nhưng Ngài còn muốn Phêrô cũng như chúng ta phải luôn ở gần, ngay bên cạnh để tâm sự, để chia sẻ, và để lắng nghe Chúa nữa: “Linh hồn thầy buồn đến nỗi chết. Hãy ở lại đây và tỉnh thức với thầy” (Mt 26:38) . Và khi nghe Chúa nói những lời ấy, thì hiểu rằng không phải chỉ có chúng ta mới cần được an ủi, mà cả Chúa nữa. Ngài cũng đang cần chúng ta an ủi. Đây chính là niềm hạnh phúc và vinh dự lớn lao cho chúng ta - những thụ tạo yếu hèn của Chúa - lại có thể làm cho Chúa được vui. Có thể an ủi được Ngài.
Tóm lại, là người cầu nguyện hay đời cầu nguyện không chỉ học thuộc và đọc nhiều những kinh do các thánh nhân hoặc những người đạo đức dọn sẵn. Nó cũng không hẳn căn cứ vào những Thánh Lễ hoặc những giờ chầu Thánh Thể chúng ta tham dự. Hoặc những tràng Mân Côi, những buổi đền tạ lâu giờ. Tất cả đều tốt, và đều cần để chúng ta gần gũi, tiếp cận, và thân mật với Chúa. Nhưng cốt lõi của cầu nguyện chính là những tâm sự phát xuất từ cõi lòng, những cái mà Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu gọi là những lần “hướng tâm”, những rung động của con tim yêu mến được trao đổi giữa ta và Chúa. Một hình thức cầu nguyện không phải chỉ bằng lời, bằng tiếng, hoặc bằng số lượng, mà là những giây phút thật sự lắng đọng, hòa tan giữa ta và Chúa. Ta nghe Chúa, Chúa nghe ta. Chúa an ủi ta, ta ủi an Chúa. Những giây phút Cha con trò truyện và tâm sự với nhau một cách thoải mái, tự nhiên và tình nghĩa.
Nhiều lần chúng ta tự hỏi, đôi bạn trẻ nói với nhau những gì mà kéo dài từ giờ này qua giờ khác. Tại sao họ cảm thấy thích thú, cần thiết, và mong mỏi được nói và được nghe nhau như thế? Chúng ta cũng tự hỏi, hai bố con hoặc hai mẹ con làm gì và nói gì với nhau từ giờ này qua giờ khác. Và rồi cũng với kinh nghiệm của chính mình, chúng ta hiểu những buổi nói truyện như thế không phải lúc nào cũng là những câu truyện mang tính cách trang trọng, nghiêm chỉnh, nhưng phần lớn chỉ là những câu truyện rất bình thường như trời mưa, trời nắng. Cơm, áo, nghề nghiệp. Học hành, tình cảm, nhức đầu, sổ mũi, đau bụng... Tóm lại, đó là những sự việc xẩy ra thường ngày trong cuộc sống. Những truyện mà hầu như ai cũng đã nghe, đã nói, và đã cảm nghiệm trong chính cuộc đời của mình.
Nhưng cái làm cho những câu truyện tầm thường kia trở thành “khác thường” và có tính hấp dẫn, khiến cho những người trong cuộc không còn cảm thấy yếu tố thời gian, và “quên đường về” chính là tình yêu. Và đó là nhịp đập của hai con tim, của hai tâm tình hòa hợp. Chính tình yêu đã làm cho những câu truyện ấy trở nên thu hút và hấp dẫn. Nó làm cho hai tâm hồn cảm nhận và chia sẻ được với nhau, sung sướng được ở bên nhau. Hạnh phúc được nghe nhau nói. Nó khác hẳn những giờ phút nặng nề, chia trí, lo ra, và ngán ngẩm khi chúng ta vì thiếu lòng yêu mến Thiên Chúa mà bắt buộc phải có mặt trong thánh đường vào những ngày Chúa Nhật. Và đó là lý do tại sao các thánh nhân quí trọng và cần thiết những giờ phút cầu nguyện. Đó cũng là lời giải thích tại sao Chân Phước Têrêsa Calcutta mặc dù bận bựu trăm công, ngàn việc, vất vả, mệt nhọc, những vẫn quì hàng giờ trước Thánh Thể. Bởi vì đời của các thánh là đời cầu nguyện, và các ngài là những người cầu nguyện.
Chúng ta sẽ hỏi, thế các thánh nhân nói gì với Chúa trong những giờ cầu nguyện như thế? Câu trả lời là các ngài nói với Chúa như đứa trẻ thơ nói với bố hay mẹ mình. Trong những lúc như vậy, các em cười nhiều hơn nói, vì chính lúc đó, không phải là các em mà là bố hay mẹ các em nói và đem lại cho các em những giây phút hạnh phúc. Các em chẳng cần phải xin gì, chẳng cần phải nói gì mà lại được tất cả. Vì có bao giờ các em nhỏ lại bị thiếu thốn hoặc đói khổ khi ở giữa bố mẹ!
Cầu nguyện như vậy không phải chỉ là những lời than van, kêu khóc, hoặc xin xỏ. Cũng không phải là đọc cho to, hát cho lớn, cho lâu, cho nhiều là được, mà là sự kết hợp và tan hòa giữa ta với Chúa. Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa. Những lúc mà không chỉ chúng ta được bổ sức, được an ủi, được chữa lành, mà chính Chúa cũng được an ủi, được vui mừng vì chúng ta đã tiếp đón, đã hầu cận, và đã lắng nghe Ngài. Những lúc mà tiếng than não nề của Chúa năm xưa trong vườn Cây Dầu: “Linh hồn thầy buồn rầu đến chết” được ta lắng nghe và chia sẻ. Lắng nghe bằng con tim yêu mến rồi chia sẻ bằng hành động bác ái, thông cảm, chấp nhận tha nhân là những Giêsu đang tiều tụy, buồn khổ và não nề trong vườn Câu Dầu của thế giới quanh ta.
“Hãy mang những thứ này đi khỏi đây” (Gioan 2:16). Lời Chúa Giêsu nói với những người đổi tiền, buôn bán chiên, bò, hay bồ câu cũng là lời Chúa nói với mỗi người chúng ta nếu như chúng ta muốn trở thành người cầu nguyện và đời sống chúng ta trở nên đời cầu nguyện. Những thứ chiên, bò, bồ câu, tiền ở đây là tính ích kỷ, lòng tham lam, tính hay giận hờn, cao ngạo, ham mê danh vọng, nhất là dục vọng cuồng nhiệt đang làm như bẩn, nhộn nhịp, và ồn ào căn nhà tâm hồn, và khiến cho tâm trí chúng ta lo ra, xao xuyến. Bao lâu những thứ chiên, bò, bồ câu, và tiền bạc ấy còn đó thì nhà chúng ta, tức linh hồn chúng ta, và trái tim chúng ta không còn chỗ cho Chúa nữa. Lúc đó không còn là nhà cầu nguyện, mà biến thành “hang trộm cướp”. Nơi mà những tranh dành quyền lợi. Nơi mà tính ích kỷ, tham lam, hẹp hòi. Nơi mà những mơ ước quyền lực, và dục vọng làm mất đi vẻ đẹp và giá trị căn bản của cuộc đời và tâm hồn con người.
Mùa Chay, mùa chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn Cứu Độ. Sự chuẩn bị này phải được nhìn dưới khía cạnh tâm linh, có nghĩa là phải sửa soạn linh hồn mình cho trong trắng, cho tinh sạch. Nhất là phải đốt lên ngọn lửa yêu mến để xua tan bóng tối tội lỗi, gạt bỏ mọi trở ngại để chúng ta trở thành đền thờ cho Chúa ngự trị bằng cách đem Chúa về nhà mình. Nói một cách khác, là mời Chúa trở lại căn nhà của Ngài là linh hồn chúng ta để nghe Chúa nói và nói với Chúa. Yên ủi Chúa và xin Chúa an ủi chúng ta. Và như thế chúng ta sẽ là những người cầu nguyện, và đời chúng ta sẽ là đời cầu nguyện.
Có những lần tôi đi chợ, len lõi và đôi khi phải chen lấn để vượt lên phía trước, vậy mà cũng có: MC3-B71
Có những lần tôi đi chợ, len lõi và đôi khi phải chen lấn để vượt lên phía trước, vậy mà cũng có những lúc phải dừng lại. Quan sát kỷ, thì không phải những người đi chợ làm cho sự lưu thông bị tắt nghẽn. Nhưng chính những người ngồi mới làm cản trở lưu thông. Họ ngồi với một chướng ngại vật phía trước, chiếm một khoảng không gian rộng cùng với những vật dụng trên đó. Họ kêu mời những người đi ngang qua, ghé mắt vào những món hàng mà họ bày bán. Nhưng bổng nhiên, có một sự náo động và lưu thông được dể dàng trở lại. Thì ra xuất hiện bóng dáng một người, mặc bộ đồ đặc biệt, với chiếc băng vấn trên tay áo. Đây là người trong ban quản lý chợ, anh ta đi để lập lại trật tự cho nơi buôn bán.
Công việc đó cứ diễn ra mỗi ngày: Cứ có những người bán rong, và cũng vẫn phải có người lập lại trật tự. Vì người ta chỉ biết tìm lợi ích riêng tư mà không nhìn thấy những ích lợi chung, nên ban quản lý chợ cứ phải làm việc, phải đi, phải dẹp, để lập lại trật tự.
Chúa Giêsu là người quản lý đền thờ, còn hơn thế nữa, Ngài còn là chủ đền thờ. Ngài không thể chịu được khi nhìn thấy đền thờ không có một chút trật tự nào hết. Đền thờ là nơi tôn nghiêm mà giờ đây đã trở thành nơi ồn ào náo nhiệt của buôn bán. Đền thờ là nơi cầu nguyện , mà giờ đây trở thành nơi trao đỗi và gian lận. Đền thờ là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa, mà giờ đây con người đã biến thành nơi của riêng mình để biếng thành nơi phục vụ cho lợi ích riêng tư. Ngài mới lập lại trật tự trong đền thờ.
Đi xa hơn nữa, Ngài muốn hướng con người đến ngôi đền thờ thật sự là tâm hồn của mỗi người. Đền thờ vật chất, theo thời gian , nó chẵng còn giá trị và sẽ bị phá đỗ, vì nó là sản phẩm do con người tạo nên, nó sẽ bị biến chất. Thiên Chúa không cần một đền thờ đã bị biến chất. Ngài cần một đền thờ thật sự trong tâm hồn mỗi người, đền thờ đó luôn phải xứng đáng với những gì mà Thiên đã xây dựng nên nó từ thuở ban đầu. Nếu nó không xứng đáng, Ngài sẽ không ngần ngại dùng roi để lập lại trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài được xứng đáng hơn.
Có thực mới vực được đạo.
Câu nói mà bao nhiêu người đã dùng nó để biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Biện hộ cho hành vi lười biếng: nào là con nghèo khổ quá, không còn thời gian đến nhà thờ, không thể giữ đạo được, không thể chăm sóc con cái cho tốt được. Nào là không có thời gian để làm việc bác ái, không có thời gian để sống đạo cho tốt. Nhưng cuối cùng là gì ? chẵng qua là vì lười biếng, ích kỷ, muốn tìm những lợi lộc cho bản thân mà chúng ta bất chấp tất cả. Chúng ta để ra bên ngoài tất cả những luật công bằng, yêu thương, chúng ta cũng chẵng cần biết đến Thiên Chúa của mình đã nói gì, đã dạy những gì.
Còn thân xác nầy, chúng ta xem nó như là vật sở hữu riêng của chính mình, để rồi chúng ta tùy tiện xử dụng nó vào bất cứ công việc gì cũng được, xấu có , tốt cũng có, ngay chính có, mà bất chính cũng có. Chúng ta quên rằng thân xác nầy là do chính Thiên Chúa dựng nên, và thân xác nầy là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Do đó chúng phải có bổn phận gìn giữ thân xác luôn tốt đẹp để xứng đáng đón rước Chúa. Nếu giờ nầy Chúa đến viếng ngôi đền thờ của mỗi người chúng ta, thử hỏi Ngài có thể yên tâm ngự trong đó cách thoải mái được không ? Hay Ngài phải giận dữ tìm một chiếc roi để dẹp tất cả những chướng ngại vật đang ngổn ngang trong ngôi đền thờ nầy.
Chúng ta thử nhìn lại xem, giờ nầy cái gì đang thống lĩnh và chiếm hết tâm hồn của mình. Có phải là Thiên Chúa mà chúng ta hằng tôn thờ hay là chúng ta đã đem Thiên Chúa để bên ngoài , còn hiện tại, chúng ta đang tôn thờ cái gì ? Có phải là tiền bạc, hay địa vị chức quyền, hoặc những đam mê nào khác. Để tất cả những cái đó thống lĩnh cuộc sống và điều khiển tất cả mọi hành động của chúng ta. Con tim đã chay lì khô cứng, ngôi đền của Thiên Chúa không còn được một trật tự tốt đẹp nữa. Thiên Chúa sẽ đánh đổ những tiền bạc, tẩy chay dọn sạch những gì đang được bày biện trong tâm hồn chúng ta để Ngài tái lập trật tự cho ngôi đền thờ của Ngài. Đó là những lúc chúng ta gặp thất bại với những toan tính bất chính, và cũng là những lúc công việc làm ăn không được thuận lợi, mặc dù mình đã cố gắng hết sức. Những lúc đó chúng ta có biết nhớ đến Chúa, nhìn lại chính mình, thì thật hạnh phúc biết bao.
Xin Chúa ban ơn giúp cho mỗi người được trở nên xứng đáng là ngôi đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
Một ngày kia tôi đi xa, khi trở về thì thấy ở vách tường phía trước phòng ở đầy những vết dơ: MC3-B72
1. Một ngày kia tôi đi xa, khi trở về thì thấy ở vách tường phía trước phòng ở đầy những vết dơ do một số em nhỏ có lẽ do vô ý thức đã chọi những trái bàng vào vách tường, làm mủ dính gây bẩn, điều này làm tôi khó chịu, cho nên mau mau đi chùi rửa. Có thể nói, đó là tâm lý chung của mọi người, ai cũng muốn giữ sạch sẽ nơi mình ở, dù chỉ là nơi ở tạm. Vì thế, chúng ta chẳng ngạc nhiên gì khi thấy Chúa Giêsu giận dữ xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem, nơi Ngài xem đó là nhà Cha của Ngài.
Qua hành động này Chúa muốn nhắc nhở chúng ta điều gì ? Phải chăng Ngài ước muốn chúng ta quan tâm chăm sóc, trân trọng đối với ngôi nhà TC: ngôi nhà vật chất là nơi thờ phượng cũng như đền thờ thật của TC là tâm hồn của chúng ta.
2. Người Do thái thời Chúa Giêsu họ có rất nhiều hội đường, một cộng đoàn Do thái khá đông là có thể có một hội đường, để các ngày lễ, ngày Sabbat họ tựu lại để cầu nguyện, học hỏi Lời Thiên Chúa. Nhưng chỉ có một đền thờ chính thức, duy nhất ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem được gọi là Đền thánh vì là nơi tượng trưng cho Thiên Chúa ngự. Những dịp lễ lớn người Do thái có thói quen hành hương về Đền thờ Giêrusalem.
Theo tục lệ, khách hành hương lên Đền thờ phải dâng của lễ, người giàu thì thường dâng bò hay chiên, kẻ nghèo thì một cặp bồ câu. Dân buôn bán lợi dụng đem bày bán những thứ này ngay ở sân Đền thờ cho khách hành hương. Luật Do thái cũng buộc người đàn ông hằng năm phải nộp thuế cho đền thờ nữa (1/2) đồng tiền của người Do thái. Tiền Lamã lúc ấy rất thông dụng, nhưng vì in hình vua ngoại đạo, nên không được lưu hành trong Đền thờ. Vì thế con buôn cũng lợi dụng đổi chác tiền bạc để kiếm lời.
Đền thờ Giêrusalem đã bị tục hoá, biến thành cái chợ, không hơn không kém. Việc phụng tự đã trở nên tấm bình phong để người ta tìm kiếm những lợi lộc vật chất, là nơi để người ta phô trương... Đứng trước tình trạng tục hóa, Đức Giêsu rất đau lòng, không nén nổi cơn thịnh nộ, Ngài đã ra tay hành động để nhắc nhở về việc thờ phượng đích thực và trả lại cho Đền thờ sự tôn nghiêm cần thiết phải có của nó.
3. Giờ đây, qua đoạn Phúc Âm này, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cần có một sự quan tâm, trân trọng chăm sóc đối với đền thờ của Thiên Chúa: đền thờ vật chất cũng như đền thờ thật của TC là con người của chúng ta:
* Trước hết đó là đền thờ vật chất. Chúa Giêsu đã sử dụng nhiệt tâm và cả sức mạnh thể lý để bênh vực bảo vệ "Nhà Cha". Cũng vậy, chúng ta cũng phải biết vận dụng mọi khả năng của chúng ta để: xây dựng, gìn giữ nơi thờ phượng ; tham gia những sinh hoạt của Giáo Hội để làm sáng danh Chúa.
* Kế đến cùng xây dựng Đền thờ thật của Thiên Chúa. Xây dựng, chăm sóc cho ngôi nhà thờ hữu hình, tích cực xây dựng Giáo hội là cần thiết, nhưng chưa đủ ; mỗi Kitô hữu chú tâm xây dựng con người mình thành nơi thờ phượng đích thực của Thiên Chúa.
Nhờ Bí tích Rửa tội, thân xác của mỗi chúng ta được trở nên Đền thờ Chúa Ba Ngôi, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng ta suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Thiên Chúa. Đó chính là những cản trở làm Chúa khó đến với ta. Chúa Giêsu cũng giận dữ nói với mọi người chúng ta: "Hãy đem những thứ nầy đi khỏi đây" cho khuất mắt Ta. Chúng ta nghĩ sao ? Khi nơi ta ở dơ bẩn thì cảm thấy khó chịu, lẽ nào ta lại cam chịu để tâm hồn chúng ta đầy vết nhơ tội lỗi !
Không riêng gì bản thân mọi người, mà gia đình Kitô hữu, cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy các thành viên có biết yêu thương, khoan dung đối với nhau không? Nếu có được những điều đó là dấu hiệu Thiên Chúa ngự trị, rất đáng mừng. Ngược lại, khi để những thứ ngẫu tượng khác ngự trị như: ích kỷ, hận thù, gian dối thật là điều đáng buồn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra rằng gia đình chúng con, thân xác chúng con là hình bóng Giêrusalem trên trời, để chúng con không những biết dọn dẹp, trang hoàng ngôi nhà thờ vật chất mà điều cần thiết hơn là phải làm đẹp nội tâm của chúng con ngay từ bây giờ, nhất là trong những ngày chay thánh này. Amen.
Nếu đặt bài Phúc âm của ngày Chúa nhật vừa rồi và bài Phúc âm của ngày Chúa nhật này nằm: MC3-B73
Nếu đặt bài Phúc âm của ngày Chúa nhật vừa rồi và bài Phúc âm của ngày Chúa nhật này nằm kề với nhau, thì có lẽ là chúng ta sẽ cảm thấy ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng không phải là vì chúng ta nhìn thấy được những nhân vật siêu phàm hay những bài học chí lý cho cuộc sống; Thế nhưng chúng ta ngỡ ngàng trước sự thay đổi đột ngột của dung mạo đức Giêsu. Chúa nhật vừa rồi chúng ta đã cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, hãnh diện chiêm ngắm một Đức Giêsu vinh hiển, sáng láng, rạng ngời. Sự vinh hiển ấy, mặc dù chúng ta không tận mắt chứng kiến, nhưng chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được phần nào khi nghe các môn đệ này thổ lộ niềm vui và hạnh phúc của mình: "Thưa Thầy ! Nếu được ở mãi nơi này tốt quá".
Còn Chúa nhật hôm nay thì sao ? Có lẽ là chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy cung cách ứng xử của Chúa Giêsu lạ lùng, nếu không muốn nói là bộp chộp nóng nãy như ngày hôm nay. Thánh Gioan thuật lại là hôm ấy, nhân dịp đại lễ Vượt Qua sắp tới, Chúa Giêsu cũng có mặt ở Giêrusalem như mọi người theo luật đã định. Thế nhưng lần này, khi bước vào Đền thờ, dường như Người không còn tự chủ được nữa. Đền thờ từ muôn thuở vẫn được coi là biểu tượng duy nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, là nơi để người ta cầu nguyện gặp gở Chúa. Thế mà giờ đây, nó đã không hơn không kém một cái chợ: ồn ào, mua bán, đổi chác, gian lận, bóc lột. Người ta tụ họp lại nơi đây không còn giống như ngày trước, khi ở chân núi Sinai, lúc Thiên Chúa ban mười điều răn mà bài đọc Cựu Ước hôm nay đã kể lại một cách linh thiêng cảm động. Lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã khiến Người giận dữ đánh đuổi tất cả mọi thứ ra khỏi đền thờ: "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau về con người của Đức Giêsu. Phải chănglà Giáo hội đã không suy nghĩ, không tiên liệu trước, khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, để vô tình gây nên một sự ngỡ ngàng như đã nói ở trên? Thưa không! Nếu đọc hai câu chuyện này trong tinh thần và trong ý nghĩa của Mùa Chay, thì không những là không đối chọi nhau; Mà ngược lại, hai câu chuyện ấy còn bổ túc cho nhau, làm nên một gợi ý liên tục và chính xác trong việc sống Mùa Chay. Rõ ràng là nếu như trong ngày Chúa nhật vừa rồi, chúng ta nghe Chúa Giêsu dạy rằng: muốn đạt tới vinh quang thì phải bước lên con đường thập giá; Muốn có được hạnh phúc thì phải vượt qua con đường của sự đau khổ, thì trong bài phúc âm hôm nay, thập giá ấy, sự đau khổ mà mình phải vượt qua ấy chính là việc tỉa gọt, đổi mới con người và cung cách sống đạo của mình, mà việc thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu là hành động biểu tượng.
Thưa anh chị em! Chính thái độ quyết liệt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, đòi buột chúng ta là những người thường xuyên có mặt trong ngôi nhà thờ này, phải duyệt xét lại thái độ của chính mình. Chắc chắn rằng Chúa không bao giờ xua đuổi những con người thành tâm thiện chí, mà Người chỉ loại trừ những nếp sống giả hình: Lời nói và việc làm không đi chung với nhau. Mỗi người chúng ta hãy tưởng tượng xem; Nếu bây giờ Chúa có mặt ở đây, thì Người sẽ nói với chúng ta điều gì: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng hạnh phúc với chủ ngươi !, hoặc chổ khác "Hỡi bọn giả hình khéo léo kia, các ngươi hãy ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi chợ búa !"
Ai trong chúng ta cũng biết rằng nhà thờ là nơi thánh thiêng để tôn thờ, cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Thế mà rất nhiều lúc chúng ta cũng nhận thấy rằng: không khí chợ búa dường như cũng còn man mác đâu đó, khi mà chúng ta đến nhà thờ trong thái độ mà người ta gọi là "mắt trước mắt sau". Mình phải xuất hiện với bộ trang phục nào cho đúng mốt, với kiểu tóc nào cho sành điệu. Vâng! Chúng ta phải nhìn nhận rằng: không có một kiểu quần áo nào là xấu cả, nhưng chính nó sẽ làm cho mình quê mùa khó coi khi chúng ta xử dụng nó ở những nơi không thích hợp.
Chẳng ai khoác lên mình bộ áo dài gấm Thái Tuấn hay veston để đi tắm biển, và cũng chẳng ai đến công sở làm việc với bộ đồ ngủ. Vậy thì tại sao chúng ta không can đảm chọn cho mình, hay giúp con cái chọn lấy một bộ quần áo thích hợp mỗi khi bước vào ngôi nhà thánh thiêng này. Rồi nhà thờ là nơi mà chúng ta chính thức được nghe Lời Chúa: "Các con đừng xét đoán nhau"; Nhưng rất nhiều khi chúng ta vô tình làm cho nó trở thành một nơi để đánh giá lòng đạo đức của người khác: người này thế này, người kia thế nọ. Và cũng chính vì chúng ta đã làm sai đi cái ý nghĩa tốt đẹp của nó mà nhiều lúc chúng ta đến nhà thờ là để thắp sáng hào quang cho mình hơn là cho Chúa. Chúa không cần đến nhà thờ; mà chỉ có chúng ta mới cần nhà thờ. Và rồi con người cũng chẳng cần gì đến nhà thờ nếu họ sống xa lạ, nếu họ đối xử lạnh nhạt với nhau. Điều đó hàm chứa một lời xác định rằng: Nhà thờ chỉ là nhà thờ đúng nghĩa khi nó là trung tâm điểm để dân Chúa được hiệp thông với nhau.
Thưa anh chị em ! Bước vào Chúa nhật thứ ba Mùa chay này, chúng ta có được một cơ hội thật tốt để nhìn lại mối liên hệ của mình đối với ngôi nhà thờ hữu hình này. Đồng thời cũng được mời gọi làm mới lại ngôi nhà thờ thiêng liêng là chính con người của mình: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?". Vậy chúng ta hãy làm noi gương Đức Giêsu làm mới ngôi đền thờ hữu hình bằng cách trả lại cho nó tất cả sự tôn nghiêm thánh thiện qua cung cách và thái độ của mình mỗi khi bước vào ngôi nhà này. Hãy noi gương Đức Giêsu làm mới lại ngôi đền thờ thiêng liêng là chính con người của mình bằng cách mỗi ngày cố gắng thay thế những tham vọng, bất trung, ghen ghét, hận thù bằng lòng khoan dung, khiêm tốn, thông cảm và thứ tha. Thực hiện tốt hai mối liên hệ này là chúng ta đang sống đúng tinh thần của Mùa Chay, đang bước đi trên con đường dẫn tới sự sống đời đời.
Tin Mừng Gioan thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người buôn bán chiên bò, chim câu và: MC3-B74
Tin Mừng Gioan thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người buôn bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. "Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). Thái độ quyết liệt của Đức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình. Bởi vì, Người không muốn nhà Cha của mình bị xúc phạm, nơi thánh thiêng trở thành cái chợ.
Tuy nhiên, Nhà thờ là nơi qui tụ các kitô hữu họp nhau lại để cầu nguyện, học hỏi, chúc tụng ngợi khen Chúa, lãnh nhận các bí tích và nhất là tham dự Thánh Lễ để gặp được Chúa. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những Đền Thờ do tay con người làm ra, đặc biệt Người còn ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh của Người và do chính tay Người dựng nên. Vì thế, Thánh Phaolô Tông Đồ nói rằng: "Đền Thờ Thiên Chúa chính là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em".
Ngày nay, nhà thờ được xây dựng nguy nga, tráng lệ, được trang bị khá nhiều tiện nghi để mọi người thoải mái cầu nguyện, đọc kinh xem lễ. đây là điều rất đáng mừng vì đã có nơi để mỗi người dể dàng tìm gặp Chúa. Điều cần chú ý là làm thế nào để ai cũng có thể gặp gỡ tâm sự và lắng nghe Chúa chỉ bảo qua bầu khí thanh tịnh và ấm áp trong nhà thờ. Nhưng đền thờ đích thực chính là tâm hồn của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết tôn trọng với chính bản thân của mình. Nghĩa là luôn giữ cho tâm hồn thanh sạch, trong sáng không chìu theo những dục vọng của xác thịt. vì tất cả những điều ấy làm cho tâm hồn ta không còn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự. cũng như phải có thái độ cung kính, tôn thờ và yêu mến mỗi khi tôi bước vào nhà thờ. Mỗi người trong chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, và là đền thờ nơi Thiên Chúa ngự, nên cần phải dọn lòng mỗi khi rước Chúa. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy trở nên đền thờ đích thực cho Ngài ngự vào. Muốn vậy, ta cần phải biến đổi con người của mình không chỉ nơi hình thức bên ngoài mà cả trong tâm hồn: trong cách nhìn sự vật, trong cách đánh giá người khác...
Noi gương Thầy Giêsu: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa..."(Ga 2,17). Hãy làm mọi việc vì lợi ích của người khác chứ không vì bản thân của mình. Đừng đánh giá nhau qua hình thức bên ngoài, nhưng qua tấm lòng nhân ái vì mọi người: Thánh Phaolô viết, chỉ có tình yêu đích thực mới giúp ta vượt qua những gian nan, khó nhọc, cay đắng, tủi nhục xảy đến trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu mùa chay là dịp thuận tiện, là cơ hội để con sám hối và quay về với Chúa. Xin cho con đừng tự mãn với những gì mình đã đạt được , nhưng giúp con canh tân con người của mình để mỗi ngày con xứng đáng là đền thờ của Chúa hơn. Amen.
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ.: MC3-B75
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ. Nhưng sâu xa hơn Chúa muốn nhắc mọi người phải lo thanh tẩy tâm hồn mình là nơi Thiên Chúa hằng hiện diện.
Người Do Thái quan niệm, muốn thờ phượng Thiên Chúa phải đến Đền thờ và có lễ vật. Còn Đức Giêsu, Ngài cho thấy đền thờ và lễ vật không dẫn con ngừơi đến với Thiên Chúa nếu như tâm hồn chúng ta khép kín hay bị lấp đầy bởi những tham lam, ích kỹ và ghanh tỵ. Nên Ngài thay thế tế vật thành tinh thần thờ phượng. Chính vì vậy mà Ngài có thể gặp gỡ Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: "thờ Chúa trong tinh thần và chân lý". Ga 4, 23-24
Trong cuộc sống, chúng ta tìm Chúa khắp nơi, nhưng Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn của mỗi người. Như lời Thánh Phaolô dạy rằng: "Anh em không biết sao, chính anh em là đền thờ của Thiên Chúa." Nên điều quan trọng không phải tìm Chúa nơi này hay nơi kia nhưng là làm sao để tâm hồn mình trở thành nơi Thiên Chúa ngự.
Quả thật, điều này không đơn giản như chúng ta nghĩ. Bởi vì, những người buôn bán xem ra rất gần gũi với đến thờ, nhưng Tin Mừng cho thấy đây là những người xa cách Thiên Chúa hơn ai hết. Họ đã đặt sai bậc thang giá trị khi xem tiền bạc ưu tiên hơn việc Thờ phượng Thiên Chúa. Lẽ ra đền thờ là nơi tôn nghiêm, nơi ngự trị của Thiên Chúa và là nơi con người đến đó để gặp gỡ Ngài, nhưng họ đến để buôn bán, để kinh doanh. Tâm hồn họ bị giới hạn trong suy nghĩ và hành động. Việc thờ Thiên Chúa bị đóng kín trong không gian vật chất và bị trói buộc trong cách giữ lề luật máy móc. Khi tâm hồn đầy những lo toan, những bận tâm về danh lợi thì sẽ không con chỗ cho Thiên Chúa hiện diện.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải có lòng nhiệt tâm yêu mến Chúa và lề luật một cách thật sự với một tinh thần ngay chính. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh rất nhiều. Vì thờ phựơng không chỉ đơn thuần là lễ phẩm dâng hiến cho Thiên Chúa hay các nghi thức bên ngoài, nhưng phải thực thi điều công chính bằng đời sống của mình. Cũng như Đức Giêsu: "vì nhiệt tâm nhà Chúa mà phải thiệt thân"(Ga 2, 17). Nếu nhìn với cái nhìn trần thế, quả thật đây là một điều điên dạy. Ngày nay, con người chỉ làm những gì có lợi cho mình, ách giữa đàng không dạy gì mang vào cổ. Thế nhưng, thời buổi kinh tế đã đưa con người đến chỗ mạnh được yếu thua, nhân nghĩa, hy sinh, nhường nhịn là những từ mà người ta dường như loại bỏ và đi vào quên lãng. Chúng ta không sống theo thời đại "ai làm sao tôi làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo". Nhưng Chúa Giêsu dạy cho ta khôn ngoan thật là sống theo đường lối Chúa.
Đ ền thờ chính là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Mỗi năm Mùa chay đến rồi lại đi, chúng ta có thực sống tinh thần chay tịnh: ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và bác ái trong việc bố thí và phục vụ tha nhân? Có sẵn sàng thanh tẩy tâm hồn mình sạch hết những lo lắng, bận tâm về danh, lợi, thú? Để tâm hồn ta xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự.
Lạy Chúa! Ước gì Lời Chúa hôm nay thấm nhập vào tâm hồn mỗi người chúng con, để biến đổi chúng con thành đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
Gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài vào trong đền thờ. Chúa Giêsu hết:: MC3-B76
Gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài vào trong đền thờ. Chúa Giêsu hết sức đau lòng trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Nguời người lố nhố kỳ kèo bớt một thêm hai, người mua trả giá xuống, kẻ bán lại chần chừ, đâu đó có tiếng người cãi cọ, văng tục nữa. Người đổi tiền thì rủn rẻn những đồng tiền vừa trao đổi, vui cười tít mắt vì lợi nhuận đã thu được. Gần đến lễ Vượt Qua nhiều người Do thái từ mọi miền trở về để mừng đại lễ của họ. Đây là cơ hội vô cùng tốt đẹp để những người buôn bán trong đền thờ hưởng lợi, trong số những người được hưởng lợi đó làm sao lại không có giới tư tế quản lý Đền thờ ? Việc chính là dâng những lễ tế thờ phượng Thiên Chúa, nhưng sự ngọt ngào, hấp dẫn của đồng tiền lại che lấp tất cả, che cả Chúa ! Đền thờ của Thiên Chúa đó sao ? Thật đáng buồn, đáng tức giận !
Chúa Giêsu không chỉ buồn, không chỉ giận mà còn đau, đau nhiều lắm. Chúa đã dùng dây làm roi để đánh, vừa đánh vừa đuổi. Người ta thường bảo " giận quá thì mất khôn " , nhưng Chúa Giêsu giận mà không mất khôn. Vì Chúa không đánh họ cho chết bỏ, đánh cho hả dạ, đánh cho đã tức mà đánh để dạy: " đừng biến nhà ta Cha ta thành nơi buôn bán và là sào huyệt của bọn trộm cướp " . Thực ra những thứ đuợc bày bán trong sân Đền thờ cũng nhằm phục vụ cho việc thờ phượng bên trong Đền thờ như cung cấp các lễ vật để tế lễ cho Thiên Chúa, dịch vụ đổi tiền để giúp tiện lợi trong việc đóng thuế cho Đền thờ. Nhưng điều đáng tiếc là những việc đó đã làm sai lệch việc thờ phượng, vì người bán thì chạy theo lợi nhuận, người mua thì nghĩ rằng nhờ những thứ đó họ có thể mua lòng được Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa khi nhận lễ vật thì phải nghe theo lời họ cầu xin, họ kêu ngạo quá chừng, không thể chấp nhận được.
Họ xem Thiên Chúa là sở hữu riêng ở trong tay mình. Thiên Chúa là chủ tể mọi loài, là Đấng tạo thành vạn vật, nhưng giờ đây con người đã vô phép bắt Thiên Chúa phải nghe theo lời con người như nô lệ phải vâng lời ông chủ, bởi ông chủ có tiền trong tay. Thật vô lý láo xược vô cùng. Đúng là châu chấu đá xe mà ! thật không biết tự lượng sức mình. Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là kẻ phản động, vì Chúa Giêsu không có chức tư tế, cũng không hề có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Họ hỏi Chúa Giêsu: " Ông con kia, ông lấy quyền gì mà làm như thế ? " Chúa Giêsu trả lời họ: " Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày, ta sẽ xây lại. " Chúa Giêsu muốn ám chỉ Ngài là Đền thờ mới, nhưng người Do thái không hiểu. Quả thực Chúa Giêsu là Đền thờ mới, Ngài đòi hỏi phải có nền phụng tự mới. Chúa Giêsu đánh đuổi người buôn bán, xô đẩy các súc vật, hất tung những đồng tiền của họ là một hành động tiên tri; vì các thứ ấy không có lý do tồn tại nữa, Chúa Giêsu đến thay thế mọi sự, Người chính là Đền thờ mới, trên thập giá Người hiến mình làm lễ vật tiến dâng cho Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đền thờ mới, nơi đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: " không ai đến được với Cha mà không qua Thầy " .
Mỗi Kitô hữu chúng ta nhờ Bí tích Rửa tội và Thánh Thể được trở nên đền thờ của Chúa. Là Đền thờ của Chúa nghĩa là nơi Chúa ngự, nơi anh chị em chung quanh có thể gặp được Chúa. Chúng ta hãy xét mình xem, Đền thờ của Chúa nơi chúng ta có còn chỗ cho Chúa ngự không hay ta dã để cho tội lội và các sự xấu xâm chiếm hết chỗ rồi. Mùa chay là thời gian thích hợp để chúng ta thanh tẩy lòng mình nên tinh sạch va mới mẻ bằng cách tránh xa tội lỗi, xin Chúa tha tội giúp chúng ta sống xứng đáng làm con cái Chúa, là nơi Chúa ngự, là nơi anh chị em gặp Chúa.
Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được: MC3-B77
Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế. Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn. Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao?
Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận cho trâu bò.
Đời sống động vật là như thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân. Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác, không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai chữ ' buôn bán hay chợ búa'. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa, thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.
Trên tờ tuổi trẻ Online Thứ Năm, 12/3 có bài viết của tác giả Trần Thị Thanh với nhan đề: MC3-B78
Trên tờ tuổi trẻ Online Thứ Năm, 12/3 có bài viết của tác giả Trần Thị Thanh với nhan đề: "Rãi tiền lẻ khắp đền chùa!". Trong đó có đoạn viết: "Cứ mỗi dịp gần tết kéo dài đến tháng ba (âm lịch) hằng năm, cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ vào lễ chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ "10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7". Tức 100.000 đồng tiền chẵn thì đổi được 70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên dùng để "sắp lễ" (200, 500 đồng). Không biết bao nhiêu triệu đồng tiền "bé" được quay vòng cả năm không chán: người đi lễ đổi tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay, nách, đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay lại bắt đầu.
Chỉ xót thương cho văn hóa đi chùa và xót thương cho "viên ngọc điêu khắc và kiến trúc" chùa Mía đã bị những đồng tiền của người "đồng cốt quàng xiên" làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh. Du khách, người có liêm sỉ đều thấy xao xác cái cảm giác thần linh bị báng bổ. Ông ngọc hoàng, ngài thiên lôi, bà Liễu Hạnh, rồi đến ông Quan Công, bà bồ tát, 18 vị la hán, tất tật đều bị ép ngồi ôm (hoặc trông nom)... tiền lẻ.
Đáng sợ, đã thành 'đại dịch' kinh niên, ở Bắc Ninh có đền thờ Bà Chúa Kho, nạn sắp lễ bằng tiền rồi rải khắp di tích đã trở thành công nghệ. Dài dằng dặc khu vực đường dẫn vào đền là chi chít biển quảng cáo cho dịch vụ đổi tiền, sắp lễ. Níu kéo, chèn ép, lừa lọc, chửi bới cũng là bởi sắp tiền lẻ.... Cái lệ 'mua thần bán thánh' kiểu này diễn ra ở rất nhiều đền, chùa".
Đọc bài viết này làm tôi liên tưởng đến một cảnh tượng thậm chí còn bát nháo hơn thế đang diễn ra ngay tại một nơi cực kỳ thánh thiêng đối với Dân Dothái, đó là Đền thờ Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu.
Quả vậy, chúng ta biết rằng Đền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái. Nó được coi như con ngươi của đạo Giavê Thiên Chúa. Tuy nhiên theo thời gian, Đền Thờ ấy đã bị tục hoá, bị giải thiêng nhiều mặt vì nạn buôn thần bán thánh và thói ham danh ham lợi của một số người. Điều này khiến Chúa Giêsu nỗi giận, cơn giận mà người ta gọi là cơn giận thánh. Ngài đã thực hiện ngay một cuộc thanh tẩy quyết liệt nhằm trả lại ý nghĩa đích thực của Đền thờ; đồng thời qua đó, Ngài cũng muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể Ngài.
Đọc lại lịch sử dân thánh, ta thấy Đền Thờ Giêrusalem mang nhiều ý nghĩa nghĩa rất quan trọng:
- Trước hết, Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.
Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của nó, vốn là "Nhà cầu nguyện".
- Thứ đến, Đền thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Quả thế, Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người và đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước: "Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta...".
Thế mà các giới chức Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi....). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo ... đều được tôn trọng và đón nhận. Đối với Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi dành cho hết mọi người.
- Sau nữa, Đền thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.
Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chổ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.
Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được 3 ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.
- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên "Aba"- lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.
- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: "Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời".
- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội.
Và trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được thánh hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: "Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần ngự trong đền thờ ấy". Đó là một hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ thế nào đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Vậy hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa ? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi và bao nhiêu thói hư tật xấu khác?
Xin Chúa Giêsu hằng yêu thương thanh tẩy đền thờ tâm hồn của chúng ta mỗi ngày, đặc biệt trong Mùa Chay thánh này. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi, lật nhào khỏi lòng trí chúng ta những gì làm cho tâm hồn ra ô nhơ và trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc: MC3-B79
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Đền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Đền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Đền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Đền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Đền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Đền thờ?
Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Đền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.
Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Đền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Đức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Đền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Đền thờ. Đổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.
Đền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Đức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Đó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Đền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Đức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46).
Khi người Do thái hỏi xem Đức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Đền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Đền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).
Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Đức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện.
Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.
Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.
Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.
Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?
Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.
Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Đấng sáng tạo.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:
Lạy Chúa là Đấng sáng tạo và quan phòng muôn loài. Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu. Đặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị. Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa, và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông của đời con. Amen.
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến: MC3-B80
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti...
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá ( église - church ): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ... là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ ( Église - Church ): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là "bọn Nhà Thờ" hay "Nhà Thờ", mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư ? Chuyện lớn đấy ! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có "chức vụ cao trọng" được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào ( x. Mc 2,27 ). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào ? Chuyện "phép vua thua lệ làng" hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành " người hầu thiên hạ" thì cũng không phải là việc một sớm một chiều ( x.Mc 9,35 ). Chuyện "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện" là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng "cha chú" đó đây, thì cũng dễ bị hứng "búa rìu" cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. "Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân" ( Quản Trọng ). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây ? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành ( x.Mt 19,16-19 ). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức "thờ ngẫu tượng". Chúa Kitô cũng đã từng ví "của tiền" ( dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị ) như một vị thần, khi nói rằng không được làm tôi hai chủ ( x.Lc 16,13 ). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh...( 1 Cr 1,22 ). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá "thân thể Người" để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy ( x.Ga 15,20 ). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie -Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI... là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo "chủ nghĩa cơ hội" thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa (Nguồn vietcatholic.org)
Sống cái nhà, già cái mồ”. Ông bà ta thật chí lý. Ai cũng cần có căn nhà để sống. Thương thay: MC3-B81
“Sống cái nhà, già cái mồ”. Ông bà ta thật chí lý. Ai cũng cần có căn nhà để sống. Thương thay! Cũng có người cả một đời không dựng nổi cho mình một căn nhà cho đàng hoàng. Có khi nhà là một căn lều mục tử nay đây mai đó. Có khi nhà là ghe, là thuyền, là thúng lênh đênh. Có khi nhà là xe, là tàu trên đường gập ghềnh vạn dặm…
Nhà cửa của mỗi người có khác nhau do hoàn cảnh, số phận vẫn nhưng có một điểm chung là ai cũng yêu quí căn nhà của mình và làm cho căn nhà ấy trở nên xinh đẹp, sạch sẽ, sáng sủa, mát mẻ và nhất là trở nên mái ấm hạnh phúc.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Vô Hình, nhưng Ngài cũng có những căn nhà hữu hình thật đặc biệt vì “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân người” (Tv 149, 4a). Căn nhà của Thiên Chúa không chỉ là Đền Thờ được xây dựng bằng vật chất để con người bước vào gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa mà còn là mỗi con người với cả linh hồn và thân xác.
Nếu nhà của Thiên Chúa được tiên tri Malakia cho biết “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), thì con người ta, linh hồn và thân xác ta cũng đã được hiến thánh để trở nên “Nhà của Thiên Chúa” nên “nhà cầu nguyện” cho mỗi người, nên “nơi Thiên Chúa ngự trị”.
Quả thực, vì những căn nhà là “thân xác con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa” đã bị hư đi do tội lỗi, nên mới có chuyện Con Một Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm và nhờ bửu huyết của chính xác phàm Thiên Chúa ấy mà tẩy sạch mọi tội lỗi nhơ uế nơi căn nhà của Thiên Chúa ban đầu thưở tạo dựng.
Chúa Giêsu trở nên Đền Thờ mới của Thiên Chúa, và Ngài cũng đã ước muốn cho mọi người nhờ Ngài, mà xây dựng lại cho Thiên Chúa một ngôi nhà xứng đáng.
Hôm nay, Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán trong đền thờ, làm ô uế đền thờ, Ngài muốn cho mỗi chúng ta cũng phải tấy uế tâm hồn mình, để xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị.
Thiết tưởng, mỗi người chúng ta khi đón nhận lời Chúa hôm nay, hẳn phải biết xấu hổ vì trong khi ta yêu chuộng, gìn giữ sự sạch sẽ cho căn nhà trần gian của mình, thì ta vẫn thản nhiên để cho căn nhà của Thiên Chúa nơi tâm hồn mình hỗn độn.
- Hỗn độn vì tham lam những đồng tiền, vì mê muội tôn thờ đồng tiền như cứu cánh, vì tất bật quay cuồng kiếm cho có được nhiều tiền mà không ngại lỗi phép công bằng, lỗi đức bác ái.
- Hỗn độn vì những dục tình, vì tự tôn vinh sức khỏe sắc đẹp của mình tưởng như không bao giờ mai một, vì ảo tưởng chút hạnh phúc phù du như cùng đích cuộc đời.
- Hỗn độn vì lòng hơn thua chiếm lấy một ngôi vị, một chỗ đứng, một khẳng định cho một vinh danh hão huyền chóng mất.
- Hỗn độn vì bao đam mê vật chất phù du chiếm trọn trái tim, linh hồn, thân xác con người chúng ta.
Và trong tình trạng hỗn độn ấy, tâm hồn, thân xác con người không là “nơi cho Thiên Chúa ngự trị”, không còn “là nhà cầu nguyện cho mình và cho muôn dân”, không còn là căn nhà xinh đẹp của Thiên Chúa, dành cho Thiên Chúa.
“Tôi tin xác loài người sẽ sống lại” cũng đồng nghĩa với “tôi tin thân xác tôi là đền thờ của Thiên Chúa” là “nhà cầu nguyện”. Như thế, hẳn tôi sẽ không thể chiều theo ý hướng hạ của thân xác tôi, vì nếu cứ để cho tội lỗi đột nhập vào tâm hồn tôi qua con đường thân xác, thì hẳn là, tôi đã không giữ gìn căn nhà của Thiên Chúa cho tinh tuyền, cho xinh đẹp sạch sẽ, cho xứng đáng để Thiên Chúa “vui thích ở lại trong tôi”.
Thời nay, có quá nhiều trang phục đẹp, có quá nhiều cách thể dục, thẩm mỹ làm cho thân xác ra trẻ trung xinh đẹp. Cả bạn và tôi, và cả nhiều người trong chúng ta đang rất khỏe, trẻ, đẹp, nhưng hãy hỏi lại lòng mình xem có xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị hay không.
Chắc chắn vì những tội lỗi thầm kín bên trong ta mà ta không dám trả lời rằng “thân xác con xứng đáng để Chúa ngự trị”.
Thời gian đã qua gần một nửa mùa chay thánh. Cơ hội thuận tiện đã trở nên thuận tiện hơn. Lời Chúa trở nên thúc bách hơn: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.
Chúa Giêsu đang muốn mời gọi chúng ta kết hiệp với Ngài để ơn cứu rỗi cho chính mình thành hiện thực. Như vậy, Ngài cũng mời gọi ta hãy để cho thân xác ta cũng kết hiệp với thân xác đau thương của Ngài, thân xác lễ tế của Ngài, để thân xác ta được tẩy sạch tinh tuyền xứng đáng là nhà của Thiên Chúa.
Người đã đến để xây dựng lại Nhà của Thiên Chúa. Mỗi chúng ta, cùng xây dựng lại đời sống con người gồm tâm hồn và thân xác cho mới mẻ, cho sạch sẽ, sáng láng, xứng đáng là nhà của Thiên Chúa ngự trị.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhất quyết vứt bỏ những thứ hỗn độn ra khỏi con người con, để lòng con nên tinh tuyền sạch sẽ xứng đáng nơi thờ phượng Chúa, nơi Chúa ngự trị mà đón nhận ơn cứu độ của Chúa. A men
PM. Cao Huy Hoàng - 09-3-2012 -----------------------------
Việc tẩy uế đền thờ tạo dịp để đức Giê-su đề cập với giới lãnh đạo Do Thái một đề tài nón: MC3-B82
Việc tẩy uế đền thờ tạo dịp để đức Giê-su đề cập với giới lãnh đạo Do Thái một đề tài nóng bỏng và then chốt: phải phụng thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ? Thật vậy, đền thờ Giê-ru-sa-lem là trái tim của dân tộc Do Thái, nơi đó họ dâng lễ vật phụng thờ lên Gia-vê, đồng thời thanh tẩy mình khỏi tội nhơ. Thế nên khi đức Giê-su thách thức: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại!” các tư tế lập tức có phản ứng; tuy nhiên các môn đệ lại dần hiểu ra rằng: đây là một mạc khải vĩ đại mà đức Giê-su không chỉ tuyên bố, nhưng đã thực tế minh định bẳng chính sự kiện Vượt Qua vĩ đại của riêng Ngài. ‘Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, và họ tin rằng… Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói đây là chính thân thể Người’.
‘Làm sao thờ phượng, hay đúng hơn, đi vào tương quan với Thiên Chúa cách chân thực nhất?’ là vấn nạn thầm kín của nhiều tâm hồn qua bao thời đại. Các tư tế Do Thái nghĩ rằng mình đã có lời giải đáp rõ ràng: cứ lên đền thánh Giê-ru-sa-lem dâng lễ vật theo luật định. Sau này người phụ nữ Sa-ma-ri bình dân và tầm thường cũng sẽ nêu cùng một vấn nạn: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Giải đáp vấn nạn này, đức Giê-su cũng thẳng thừng không kém: “Giờ đã đến, và chính là lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 19-26)
Nối kết hai đoạn văn này lại với nhau, ta tìm thấy một mạc khải quan trọng bậc nhất: nơi thờ phượng Thiên Chúa xứng hợp nhất chính là Đền Thờ Đức Giê-su, và chốn duy nhất để tôn thờ Chúa Cha là trong thần khí và sự thật. Hay nói cách khác, chỉ duy nhất nơi Đức Giê-su Ki-tô, ta mới tôn thờ được Chúa Cha cách chân thực trong thần khí và sự thật.
- Nếu người Do Thái và Sa-ma-ri vẫn hiểu ‘thần khí’ là sức mạnh của Gia-vê, thì đức Giê-su chắc đang đề cập tới một sức mạnh gì đặc biệt hơn hẳn. Đúng vậy, đó là sức mạnh mà Người sẽ thực hiện, cũng chính tại Giê-ru-sa-lem, qua cái chết thập giá và sống lại của mình: sức mạnh cứu độ. Thờ phương Chúa Cha trong ‘thần khí’ của tha thứ và xót thương thì chỉ có Ki-tô hữu mới có thể làm được, nhờ đức Giê-su dạy cho biết.
- ‘Sự thật’, đối với Ki-tô hữu, sẽ không phải là triết lý gì cao siêu, nhưng là một điều cụ thể và thực tế mà ai cũng có thể hiểu được. Tông đồ Gio-an đã từng khảng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1, 8-10). Sự thật là thế đó! Không thể phụng thờ một Chúa Cha đầy từ tâm và xót thương nếu không chân thành nhìn nhận sự thật mười mươi ‘tôi đã phạm tội’. Đó cũng là cách thờ phương Thiên Chúa độc đáo nhất mà chỉ Ki-tô hữu mới tích cực chu toàn.
Đức Giê-su không chỉ muốn tẩy uế đền thờ Giê-ru-sa-lem, Người thậm chí còn công khai yêu cầu phá bỏ hoàn toàn để xây dựng lại một đền thờ mới. Phải chăng điều này đồng nghĩa tới việc kẻ phụng thờ phải từ bỏ lề thói tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu phượng tự của các tôn giáo cổ điển, để triển khai một lối phụng thờ mới tập trung vào một Thiên Chúa từ nhân cứu độ, trong thái độ thẳng thắn và khiêm tốn nhìn nhận con người tội lỗi và yếu hèn của mình, đồng thời kín múc lấy nguồn nước hằng sống là ơn cứu độ của thập giá đức Ki-tô. Công việc này không thể một sớm một chiều, “đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà trong ba ngày ông xây lại được sao?” Phải, không thể, nếu không dứt khoát đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của đức Ki-tô Giê-su.
Nếu thế, tôi phải dứt khoát thôi, nhất là trong mùa chay thánh này!
Lạy Thiên Chúa cứu độ, xin dạy con biết tôn thờ Chúa trong thần khí và sự thật. Trước hết xin giúp con can đảm phá huy đền thờ Giê-ru-sa-lem con đã mất bao công sức xây dựng nên. Từ nay, con muốn dứt khoát đi vào con đường thập giá: khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và mở rộng lòng đón lấy ơn cứu độ. Như Phao-lô, con không muốn tôn thờ một Thiên Chúa nào khác ngoài đức Ki-tô thập giá. Amen
Từ ngày 06 – 11.02.12 vừa qua, chúng tôi có dịp tham quan Singgapor và Malaysia. Ở đất nước: MC3-B83
Từ ngày 06 – 11.02.12 vừa qua, chúng tôi có dịp tham quan Singgapor và Malaysia. Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn tích cực về người con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải quan Singgapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan Singgapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền (200 USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09.02.12 khi ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả thực, nhìn lên truyền hình tối thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái Việt Nam: Công – dung – ngôn – hạnh của truyền thống Việt Nam nay còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức. Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha ông ta bảo rằng: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng đời con cháu hôm nay thì dường như: “cái đẹp đang đè bẹp cái nết”. Người ta chuộng cái đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn vinh trai tài – gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn . . . Ngày nay, người ta nói nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao đổi, mua bán, lạm dụng . . . mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư Sư về sư ốm tương tư Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến cáo họ: “Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán”. Đó là đền thờ vật chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thờ tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Hãy sống cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện Xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen
Chúa Giê-su rất hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: MC3-B84
Chúa Giê-su rất hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giê-su và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, hai môn đệ Gia-cô-bê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giê-su liền quở trách Gia-cô-bê và Gioan vì đã tỏ ra không bao dung cũng chẳng có chút nhân từ. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột … Chúa Giê-su vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục và hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giê-su vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu đóng đinh vào thập giá với những đớn đau khủng khiếp, Chúa Giê-su chẳng những không oán hận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giê-su là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không bao giờ nổi giận.
Dù rất hiền lành, Chúa Giê-su cũng không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ. Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Gioan 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giê-su rất hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà ‘cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giê-su, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa.
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giê-su cũng dạy rằng mỗi người chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy”. (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giê-su sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng Lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giê-su đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: “Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn.” (Lc 17, 1-2)
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” ( Icor 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giê-su cứu chuộc, được xức dầu thánh hiến bằng Thánh Thần, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Theo Phúc Âm Nhất Lãm, sau cuộc nghênh đón trọng thể của dân chúng rước Chúa Giêsu vào: MC3-B85
Theo Phúc Âm Nhất Lãm, sau cuộc nghênh đón trọng thể của dân chúng rước Chúa Giêsu vào Đền Thánh Giêrusalem, Người đã đơn phương xua đuổi con buôn ra khỏi nơi linh thiêng, mặc dù họ đã được các thầy tư tế cho phép hành nghề.
Dĩ nhiên, họ đã phải nộp đầy đủ các khoản hoa chi, thuế má, hay phí kiểm tra chất lượng các vật hy tế. Hơn nữa, lợi dụng luật cấm dân chúng không được phép tự ý mua lễ vật bên ngoài đem vào, họ nâng giá vô tội vạ, thường gấp hàng chục lần giá thị trường.
Vì thế Chúa Giêsu mới nổi cơn thịnh nộ.
Người liền lấy dây làm roi, mà xua đuổi tất cả chiên, cũng như bò, ra khỏi Đển Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người lật tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2, 15 -17) Trong khi Phúc Âm Nhất Lãm đều chép lại lời quở mắng của Chúa Giê su còn đanh thép hơn nữa: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện,(Is 56,7) thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp.”(Mt 21, 13. Mc 11, 17. Lc 19, 46)
Ngày nay, nhiều chốn linh thiêng cũng vẫn tiếp tục bị ô uế, chẳng phải vì cảnh buôn bán bát nháo chiên bò, chim câu như xưa nữa, mà khéo léo che đậy tinh vi hơn. Có nơi bị biến tướng thành chốn rạp hát, vũ trường. Có nơi còn thành chốn ca ngợi tà thuyết, truyền bá văn minh sự chết. Có nơi trá hình thành điểm giao dịch buôn thần bán thánh, biến thành hang ổ của tập đoàn tội ác.
Cơn giận Chúa làm sao nguôi được?
Còn đền thờ sống động của tín hữu, cũng chẳng mấy tươm tất, sạch sẽ, hay sáng sủa cho cam, mà trái lại, cũng hoen ố bụi bặm, rác rười, ruồi nhặng, xú uế hôi hám, vì chất chứa thói mê tật xấu. Vì thế ông Gioan Tẩy Giả đã mời gọi ăn năn, sám hối, để chào đón Chúa đến viếng thăm. Nhưng hình như lời kêu gọi ấy chỉ vang vọng trong hoang mạc, chưa kịp dội vào vào tâm hồn kẻ tin vào Chúa.
Làm sao Chúa không nổi cơn thịnh nộ?
Nhưng Ngài vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt,
Nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí (Tv 78, 38)
Thánh Phaolô đã phải tha thiết nhắn nhủ trong thư gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về chính mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1, Cr 6, 19 – 20)
Lạy Chúa, nhờ vào lòng thương xót vô biên của Ngài, xin thanh tẩy đền thờ tâm hồn con, để con trở nên thanh sạch, xứng đáng đón nhận Lời Hằng Sống.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin giúp con thấy được những lỗi lầm, vấp phạm và tội lỗi, để con sớm sám hối, canh tân, đổi mới, hầu con được ơn cứu rỗi. Amen.
Trong đoạn Tin Mừng tuần này, Chúa Giêsu đã nổi giận thực sự. Nỗi giận dữ đi kèm với hành: MC3-B86
Trong đoạn Tin Mừng tuần này, Chúa Giêsu đã nổi giận thực sự. Nỗi giận dữ đi kèm với hành động chứ không đơn giản chỉ là những lời quở trách ta thường nghe: “Khốn cho các ngươi…” Người chắp dây thừng làm roi đánh đuổi những người buôn bán trong đền thờ, xô đổ bàn ghế của họ… Hẳn là họ căm tức lắm, nhưng vì Người làm điều đúng nên không ai dám phản kháng. Họ chỉ vặt lại Người: “Ông lấy quyền nào…?” Vẫn là một câu chất vấn xưa cũ! Tôi làm sai nhưng người chỉ ra cái sai đó phải có “quyền” tôi mới phục. Một kẻ “trôi sông lạc chợ” mà dám lên lớp tôi à? Mặc dù hắn nói đúng, tôi cũng sẽ tuyên bố hắn là thằng “khùng” nói năng nhảm nhí mà không thèm chứng minh điều gì cả. Nói đến chữ “khùng”, tôi bỗng giật mình! Chẳng phải thư thánh Phaolô ở bài đọc 2 đó sao? “Sự điên rồ của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người” (1Cr. 1: 25) Đã có bao nhiêu người “điên khùng” đi qua đời tôi? Đã bao nhiêu lần Chúa dùng lời lẽ “điên khùng” của những người anh em để cảnh tỉnh tôi? Tôi chưa tỉnh hay tôi không muốn tỉnh? Tôi đắm chìm trong mớ biện luận vòng vo mà không hề biết rằng giữa “chính biện” và “ngụy biện” đôi khi không có chỗ cho một sợi tóc. Những người buôn bán trong đền thờ hẳn cũng như tôi:
- Tôi phục vụ cho nhu cầu tế tự kia mà. Chẳng phải Thánh Giuse và Đức Mẹ cũng đã từng mua đôi chim câu ở đây để tế lễ theo luật Mô-sê trong ngày dâng Chúa vào đền Thánh và chịu phép cắt bì đó sao?
- Tôi không làm việc này thì cũng có người khác làm, có cầu ắt có cung, tôi có buôn bán hay không cũng chẳng thay đổi được gì!
- Tôi buôn bán ở đây hồi nào tới giờ mà có ai nói gì đâu?
Và bao nhiêu thứ biện chứng khác… Tôi cố tình quên đi một điều rằng: Có những cái sai mà người ta lặp đi lặp lại một cách tự nhiên và công khai thì lâu dần nó sẽ được đại đa số chấp nhận và coi là chuyện bình thường, nhưng không phải vì thế mà nó trở thành “đúng”.
Tôi chợt nhớ đến chuyện thầy giáo Đỗ Việt Khoa 6 năm trước: Một con người trung thực và dũng cảm đã mạnh dạn tố cáo chuyện gian lận thi cử trong môi trường giáo dục mà điển hình là trường thầy đang dạy. Tôi những tưởng sẽ có nhiều người đứng lên đồng tình ủng hộ. Tôi những tưởng môi trường giáo dục sẽ được cải thiện. Tôi những tưởng thầy Khoa sẽ là điển hình để lớp trẻ noi theo. Tôi vui mừng phấn chấn khi thấy thầy Khoa trên chương trình Người Đương Thời của VTV. Thế rồi, điều gì đã xảy ra?
- Cô giáo chủ nhiệm ngày xưa của thầy Khoa đã nói với thầy: “Em làm việc đó làm gì! Cô sợ rồi em sẽ không có chỗ đứng trong ngành GD – ĐT.” Và quả thật, thầy đã bị cô lập trong chính ngôi trường mình dạy.
- Thầy Khoa bị hai gã bảo vệ trường xông vào nhà hành hung và giật máy ảnh quăng xuống mương nước. Đó là chưa kể bao nhiêu lời đe dọa tứ phía vây quanh.
- Giáo sư Văn Như Cương – một vị giáo sư tên tuổi và có uy tín - đã ngỏ lời nhận thầy Khoa về dạy ở trường mình nhưng sau đó đã đổi ý vì cho rằng thầy bị tâm thần.
- Và đau đớn hơn, tháng 5/2010, thầy Khoa đã quyết định xin nghỉ việc với lý do: “… lý do tôi xin nghỉ việc là sự thờ ơ của cấp trên. 4 năm qua, tôi bị ép không hoàn thành nhiệm vụ, không được nâng lương mà theo pháp lệnh công chức mới thì 2 năm không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị đuổi việc. Tôi bất lực, quá sức chịu đựng. Tôi thực lòng không muốn bỏ, nhưng tôi còn lựa chọn nào khác đâu... Trước mắt sẽ về giúp việc nhà, nuôi dạy hai đứa con trong dịp hè. Sau đó đi kiếm việc đâu đó.”
Tôi có trong số những người quy kết cho thầy Khoa bệnh “tâm thần” không? Có lẽ cũng có một cách nào đó mà tôi không hay, bởi tôi chỉ nhìn ra ngoài chứ có nhìn vào bên trong bản thân mình đâu! Lời Chúa hôm nay nhắc tôi dọn dẹp lại đền thờ Thiên Chúa là chính tâm hồn của tôi từ nền tảng 10 giới răn trong bài đọc 1 trích sách Xuất Hành. Nhìn vào bên trong, tôi cũng thấy cảnh chợ búa dập dìu, cân đo đong đếm, mặc cả râm ran:
- Còn sớm mà, 6 giờ Cha mới lên bàn thờ.
- Trước giờ con cúng nhà thờ cũng nhiều, xin Cha chiếu cố chuẩn cho trường hợp của con con…
- Chừng nào Đức Cha đổi Cha sở này đi, tôi mới đi xem lễ lại.
- Tôi không thể bỏ bạn hàng trong ngày Chúa Nhật được, thôi thì, khoản lợi này tôi dâng lại một phần cho Chúa.
- Trong ngày ăn chay kiêng thịt, tôi “nghiên cứu” xem thứ gì được phép ăn: À, trứng gà thì không cấm!
- Cha mẹ là của chung, vậy mỗi đứa nuôi một tuần luân phiên.
- Tôi nhử cho nó đến nhà tôi chửi mắng để tôi nhân cơ hội đó đập nó một trận kiểu “tự vệ hợp pháp”.
- Thương trường là chiến trường. Tôi không triệt hạ nó thì làm sao tôi tồn tại?
- Tôi chỉ đi vui vẻ, giao tế chút đỉnh chứ có ý phản bội Vợ (hoặc Chồng) tôi đâu!
- Tôi bênh vực hay làm chứng cho ai đây khi mà thầy Khoa cũng phải… buông xuôi?
Và thế là, đền thờ vẫn có đó, hàng tuần tôi vẫn rước Chúa ngự vào, nhưng chung quanh vẫn xôn xao mua bán, cò kè bớt một thêm hai… Không thấy Chúa lấy roi đuổi đánh?!?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết thường xuyên nhìn chăm sóc tâm hồn qua bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ đó, chúng con biết dọn dẹp sao cho xứng đáng; gạt bỏ những hư hèn, biếng nhác; xua đi những ngụy biện, đa đoan; hất tung những oán hờn, ghen ghét; quét sạch những tham lam, nhục dục… Xin cho tâm hồn chúng con không còn cảnh trả treo chợ búa mà xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự mỗi ngày. Amen.
Trừ những tên trộm và những người không tin có Thượng Đế, còn tất cả mọi người đều công nhận: MC3-B87
Trừ những tên trộm và những người không tin có Thượng Đế, còn tất cả mọi người đều công nhận: Đền thờ là nơi linh thánh. Với những người Do Thái và nhất là những người Công giáo, thì đền thờ còn mang ý nghĩa cao hơn: Đó là nơi Thiên Chúa ngự trị. Thế mà câu chuyện hôm nay lại là một câu chuyên lộn xộn xảy ra trông đền Thánh Giêrusalem. Cả nước Do Thái, chì có một đền thờ duy nhất đó là Giêrusalem. Giêrusalem là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của cả một dân tộc. Đền thờ ấy được xây vô cùng hoành tráng, kéo dài suốt bốn mươi sáu năm mới hoàn tất. Bao nhiêu năm trời, mọi sinh hoạt trong đền thánh vẫn êm xuôi. Ấy vậy mà vào dịp lễ vượt qua, một lễ vô cùng quan trọng của năm nay lại xảy ra lộn xộn. Nhưng oái oăm thay, người gây ra sự lộn xộn ấy, lại chính là Chúa Giêsu.
Lý do là khi vào trong đền thờ, Chúa thấy trong dãy hành lang đền thánh, có một cái chợ không bảng hiệu; nơi ấy, có những bàn đổi tiền, vì người Do Thái sống ở khắp các đất nước tụ về, nên có nhiều loại tiền khác nhau. Bên cạnh đó lại có những lồng, những cũi nhốt đầy chim bồ câu, chiên dê, bày bán một dãy dài. Chứng kiến cảnh tượng khó coi ấy, kèm theo những mùi nồng nặc bốc lên, Chúa Giêsu đã không chịu được, Ngài đã lấy dây làm roi xua đuổi những người buôn bán ấy.
Những người buôn bán ấy đã phản ứng quyết liệt. Họ hỏi Chúa, ông lấy quyền gì mà làm thế? Chúa đã trả lời rất rõ ràng: Nhà Ta là nhà cầu nguyện, mà các ngươi lại biến thành hang trộm cướp ư? Một câu hỏi nhắc đến một chân lý quan trọng: Nhà của Chúa là nhà để cầu nguyện. Đó là mục đích duy nhất của đền thánh.
Ngôi nhà thờ được dựng lên, để trở thành điểm hẹn cho những người con của Chúa. Để nơi ấy, người ta có thời gian gặp gỡ và tâm sự với Thiên Chúa. Để nơi ấy, người ta có thể cử hành nghi thức cao đẹp nhất, mà không có sinh vật nào có thể làm được. Đó là tế lễ lên Thiên Chúa Đấng tạo dựng nên mình.
Cũng chính vì thế, qua lời chỉ đạo của Chúa, trong việc xây dựng đền thờ, người ta không được dùng tiền bạc mình có, để mua danh cho mình. Việc đóng góp là tốt đẹp, là công phúc. Nhưng không vì thế, qua việc đóng góp, là dịp để khoe khoang, để vênh vang trước người khác. Làm thế, là mình đã hủy hoại công phúc của mình. Điều này, cũng còn liên hệ đến cả những người đứng ra xây dựng. Đừng vì nhu cầu bức bách, mà ngủ quên, để cho những người lắm của, dùng việc xây dựng nhà thờ, làm cơ hội để mua lấy danh dự hão huyền cho mình. Phải can đảm và cương quyết như Chúa, mới là người đi đúng đường.
Gợi ý suy niệm
1- Bạn đến nhà thờ mỗi tuần, mỗi ngày để làm gì vậy? 2- Bạn góp phần xây dựng nhà Chúa, vì công phúc đời sau, hay tiếng khen đời này?
Mẹ Têrêsa có dịp qua Việt Nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn: MC3-B88
“Mẹ Têrêsa có dịp qua Việt Nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ. Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình. Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ. Khi đến Việt Nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương, quận 3. Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba Nữ Tu theo Mẹ ( trong số đó có vị Bề Trên Tổng Quyền hiện nay là Sr. Nirmala Joshi ). Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành Nhà Nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại. Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.
Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3. Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy. Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào Nhà Nguyện và bảo: “Chúa kìa”, với một thái độ tự nhiên, giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về. Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút, trước khi bắt đầu câu chuyện. Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào Nhà Nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về. Thái độ Mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ. Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.
Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ. Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một. Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai. Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình. Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị… ( Trần Duy Nhiên, Hình ảnh Mẹ Têrêsa đối với tôi ).
Bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Vui ( Gaudete Sundae ), hay Chúa Nhật Hồng, vì Thánh Gioan Tiền Hô đem niềm vui cứu độ đến nhân loại. Ngài là chứng nhân của Ánh Sáng, cũng như Mẹ Têrêsa gần đây là chứng nhân hiện đại của Đức Giêsu.
Chứng nhân Gioan đã làm gì để thuyết phục dân chúng tuôn đến nghe rao giảng và ăn năn sám hối ? Nếu không phải là ngài đã dám nói thật, sống thật và chết cho sự thật.
Nói thật
Thánh Gioan liên tiếp ba lần thưa “Không,” khi các tư tế và các thầy Lêvi xét hỏi, điều tra về nhân thân. Ngài quyết liệt phủ nhận những danh xưng ngộ nhận. Nói thẳng, nói thật, nói đúng lúc, nói chính xác, là đức tính cần thiết và tiên quyết của người chứng. Danh chính, ngôn thuận, sự tất thành.
Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải nói thật, huống chi chứng nhân: “Có” thì nói “có”, “không” thì nói “không.” Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” ( Mt 5, 37 ). Thánh Giacôbê lập lại lời Chúa dạy và khuyên nhủ: “Nhưng hễ “có” thì phải nói “có’, “không” thì phải nói “không,” như thế anh em sẽ không bị xét xử.” ( Gc 5, 12 ).
Chứng nhân Gioan không hề lợi khẩu, bẻm mép, xảo ngôn, ngụy biện, hòng mê hoặc, hay mị dân như xưa nay người ta quen ứng xử. Ngài không bạc nhược, nể nang, sợ hãi, cũng chẳng ấm ớ hội tề, rằng, thì, là, mà, cũng như không hề giấu diếm nỗi bất bình, khi chỉ tận tay, day tận mặt nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đến với ngài, chịu phép rửa: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” ( Mt 3, 7 ).
Sống thật
Ngôn hành hợp nhất, nói sao làm thế, chứng nhân Gioan sống hoàn toàn chay tịnh, đơn giản từ cái ăn đến cái mặc, vô gia cư, vô sản chuyên chính nghiêm minh, chẳng hề môi mép, vờ vịt, giả bộ nghèo khó. “Rượu lạt, rượu nồng em sẽ đều không uống” ( Lc 1, 17 ). Nếp sống thanh bần tận cùng đã lay động lòng người, cảm hóa, thuyết phục mọi người vội vã tìm đến nghe giảng dạy, ăn năn sám hối và chịu phép rửa.
Khổ tu với thái độ khiêm nhường, hãm mình, chuyên tâm cầu nguyện và thực hiện hoàn hảo Thánh Ý Chúa, Thánh Gioan chỉ dám đơn sơ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đánh động lòng người quay về đường ngay nẻo chính. Đức Giêsu ngợi khen thánh Gioan: “Tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa… Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan.” ( Lc 7, 26 – 28 ).
Chết cho Sự Thật
Không những sống theo lời chứng, Thánh Gioan còn sẵn sàng chịu chết cho Sự Thật, khi công khai can ngăn vua Hêrôđê lấy chị dâu làm vợ. “Ngài không được phép lấy bà ấy” ( Mt 14, 4 ). Không hề run sợ trước bạo quyền, Ngài không hèn nhác tránh né nhiệm vụ ngôn sứ. Cũng chẳng làm ngơ, giả mù sa mưa trước gương mù, gương xấu của nhà lãnh đạo, sẵn sàng đánh cược mạng sống để bảo vệ luân lý, đạo đức và Sự Thật.
Thời nay càng khẩn thiết cần đến chứng nhân trung tín, nhiệt thành và dám hy sinh trọn vẹn, như Thánh Gioan Tiền Hô. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã thao thức trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi: “Ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy.” Bởi vì Giáo Hội quá dư thừa thầy dạy, thầy giảng, thầy lý thuyết, mà quá thiếu thốn chứng nhân hợp nhất ngôn hành.
“Thủy thủ lặn dưới đáy biển, phi hành gia bay trên phi thuyền đều dấn thân mạo hiểm vì khoa học. Ngày nào con bỏ tất cả và bất cứ giây phút nào cũng sẵn sàng liều mình vì Chúa, người ta mới tin đời nội tâm con” ( Đường Hy Vọng, số 84 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi, cải hóa tâm hồn chúng con, loại bỏ tất cả những gì thuộc về cái tôi, bản ngã, tất cả những đam mê thế gian, trần tục, của cải, danh vọng, chức tước, quyền lực, ham muốn, để xứng đáng đón Chúa ngự vào.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương khiêm nhường và dấn thân xả kỷ, xin giúp chúng con thoát tục tòng thiên, biết ưu tiên chọn Chúa, theo Chúa và sống Lời Chúa luôn. Amen.
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông: MC3-B89.
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công Giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio, đến Rubens... đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy Giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất. Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan Tẩy Giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết".
Đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy Giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho Sự Sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa” ( Nguyên Hưng ).
Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm, Thánh Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” ( Ga 1, 6 – 7 ). Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu nói về Gioan: “Ðây còn hơn cả ngôn sứ nữa” ( Mt 11, 9 ). Và Chúa còn nói thêm: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” ( Mt 11, 11 ). Nhưng so với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn. Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Ðấng Cứu Thế không ? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông ( Ga 1, 20; Cv 13, 25 ). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần. Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Xađốc, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” ( Mt 3, 7 ). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình ( Mt 14, 3 – 12 ). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện ( Mc 6, 20 ). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và rồi bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Thánh Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên ngài đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ ( Ga 1, 36 ) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, họ xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người ( Ga 1, 27 ) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” ( Ga 3, 30 ).
Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương, bị đế quốc Rôma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay. Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa của vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành, bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống. Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Ðạo Hồi Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở Giáo Đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi Giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi Giáo Syria gọi Thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi Giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi Giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với... lũ vậy. Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu ?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục, trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả” ( x. Báo Khuyến học & Dân trí, thứ sáu, 28.11.2008 ).
Lm. Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là "nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sàigòn Giải phóng ngày 18.5.1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi !
Học hành "hạn chế": y chang dốt,
Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn... tồi.
"Vượt mức chỉ tiêu" ? Nên bớt nửa,
"Có phần sơ sót" ? Hãy nhân đôi...
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. ( Long Vân )
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể xét tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân ? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học ( hypothèse de travail )… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan.” ( x. Giả dối lan tràn, tại sao ? Lm. Nguyễn Hồng Giáo, OFM ).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín ( 1Tx 5, 24 ). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” ( Ga 14, 6 ). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài ( Mt 25, 22 ), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn ( Mt 25, 21; Mt 28, 19 ). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô Giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Đức Giêsu Nadarét là một sự kiện rất đặc biệt. Những người đồng hương nhận ra Ngài là một người: MC3-B90
Đức Giêsu Nadarét là một sự kiện rất đặc biệt. Những người đồng hương nhận ra Ngài là một người như bao người; tuy nhiên, sau khi Ngài chết và sống lại, người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngài là Đấng sống ơn gọi làm người cách trọn vẹn, là Người sống theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha dù phải chết. Thiên Chúa là tất cả đối với Đức Giêsu.
I. Thập Giới diễn tả Ý Muốn Thiên Chúa
Thiên Chúa khi sai Môsê đi giải phóng dân Israel khỏi Aicập, đã nói: “khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này” (Ex.3, 12). Môsê đã dẫn dân đến núi này, và Thiên Chúa đã “thần hiển” với Môsê và dân (Ex.19). Thập giới là điều khoản Thiên Chúa giao kết với Israel, nghĩa là, nếu dân Israel giữ các điều khoản này, Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa của dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ dân.
Điều khoản giao ước không thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng giúp dân Israel triển nở và hạnh phúc. Một khi người ta giữ giao ước, những người được hưởng nhờ đầu tiên là gia đình và những người thân yêu, sau đó là những người lân cận, rồi tới những người trong đất nước. Khi giữ giao ước, con người sẽ sống an bình với chính mình, và sau đó với người khác. Giao ước Thiên Chúa ban cho con người, không nhằm lợi cho Thiên Chúa nhưng cho con người. Tuy vậy, khi con người tuân giữ không vi phạm thập giới, thì Thiên Chúa được con người. Vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ hơn khi con người triển nở và sống hạnh phúc hơn.
Vi phạm thập giới là dấu chỉ cho con người biết họ đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị, dù ngôi vị đó là Thiên Chúa hay tha nhân. Thiên Chúa tạo dựng con người, nên theo lẽ công bình, con người phải tôn kính Ngài. Thờ phượng là từ ngữ dùng để chỉ lòng và thái độ kính trọng đặc biệt dành cho Thiên Chúa. Cha mẹ sinh ra mình, mình cũng phải có thái độ hiếu thảo. Không tôn kính Đấng tạo dựng, không tôn kính cha mẹ, là bất công đối với Thiên Chúa và với cha mẹ mình. Vi phạm những điều khác của thập giới, là xúc phạm đến quyền lợi của người khác, chẳng hạn như giết người, cướp của người ta. Khi vi phạm thập giới, người ta biểu lộ có điều gì đó trục trặc, gây xáo trộn nơi chính tâm hồn mình, và gây xáo trộn bất an trong tương quan với người khác, ngay cả đối với những người thân và những người xung quanh.
II. Đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ
Sau khi chịu phép rửa ở sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã trải qua thời gian dài tĩnh tâm cầu nguyện, Ngài ý thức hơn sứ mạng của Ngài, và Ngài đã khởi đầu sứ mạng rao giảng. “Nước Thiên Chúa đang tới gần, hãy thống hối và tin vào Tin Mừng.” Hôm nay khi lên đền thờ dự lễ Vượt Qua, một lễ lớn nhất đối với người Do Thái, kỷ niệm Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Aicập, Ngài đã thấy một việc trái tai gai mắt: người ta buôn bán ngay trong đền thờ. Để có thể phục vụ những người từ xa tới có của lễ dâng cho Thiên Chúa, thì người ta đã đem cả súc vật đến bán; cũng có bàn đổi tiền cho những khách phương xa tới. Đức Giêsu đã phản đối. Ngài lấy dây làm thành roi đánh đuổi những người buôn bán chiên cừu trong đền thờ, lật đổ bàn của những kể đổi tiền, nói với những người bán bồ câu: “đem những thứ này ra khỏi đây, đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ.”
Đức Giêsu đã bị phản ứng: “ông lấy quyền gì mà làm như vậy?” Theo luật, chỉ những người trách nhiệm mới có quyền cho phép hay không cho phép người ta buôn bán trong đền thờ. Đức Giêsu lấy quyền gì mà đánh đuổi người ta? Cứ theo “phép đời,” Đức Giêsu làm trái vì Ngài làm như thể Ngài có quyền mà thực Ngài không có; thế nhưng Đức Giêsu nói với họ: “cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại.” Câu trả lời của Đức Giêsu là câu trả lời “như không trả lời” Ai dám làm điều đó, ai dám tin vào lời Đức Giêsu mà dám phá đền thờ này. Tác giả Tin Mừng “giải thích” Ngài nói về đền thờ của Ngài, nghĩa là Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Nhưng chuyện giải thích này chỉ có thể làm sau khi Ngài chết và sống lại, chứ lúc đó, ai mà hiểu như vậy.
Đức Giêsu có quyền làm điều đó. Ngài ý thức điều đó và Ngài đã làm cho dù đối với người khác Ngài không có quyền làm như vậy. Ngài coi đền thờ là Nhà Cha Ngài. Ngài có quyền từ Thiên Chúa là Cha Ngài. Qua những hành vi “bất bình thường” như thế này, giúp các tông đồ và các tín hữu sau này hiểu rõ chân tướng của Ngài hơn. Ngài và Thiên Chúa có một mối tương quan đặc biệt, mà Ngài dám gọi Thiên Chúa là Cha Ngài. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh và biểu tượng giúp người ta hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Ngài liên kết với Thiên Chúa và phản ánh Thiên Chúa tuyệt đến độ người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
III. Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh
Người Do Thái tìm phép lạ để biết điều gì đó có đến từ Thiên Chúa hay không; người Hylạp tìm kiếm những điều khôn ngoan vì đối với họ: chỉ có khôn ngoan mới là giá trị thật; tuy nhiên, với thánh Phaolô, Đức Giêsu chịu đóng đinh là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối. Kể từ khi biết Đức Giêsu, Phaolô coi những điều khác như phân bón, rác rưởi. Biết Đức Giêsu là mối lợi tuyệt vời đối với Phaolô (Pl.3).
Với cái nhìn tổng hợp và không loại trừ, ta có thể nói Đức Giêsu chịu đóng đinh là một “phép lạ” cả thể và là sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa ban cho con người. Qua cách sống kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện, qua những hành vi dứt khoát chọn Thiên Chúa trên hết như việc đánh đuổi những người buôn bán khỏi đền thờ, qua việc vâng phục thánh Ý Cha trên tất cả như trong vườn dầu và trên thập giá, Đức Giêsu dạy con người biết sống sao cho đúng trên đời này. Đức Giêsu là mẫu gương sống.
Thiên Chúa là trên hết đối với Đức Giêsu, và cũng phải như vậy đối với những ai muốn là môn đệ của Ngài. Tất cả đời sống và hành vi của Đức Giêsu chuyển động và quy hướng về Thiên Chúa. Đức Giêsu đã vâng phục Thiên Chúa cho đến bằng lòng chấp nhận chết trên thập giá. Đức Giêsu chịu đóng đinh, là mẫu gương sống của Phaolô và của tất cả các Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là tiêu chuẩn sống của Đức Giêsu? Tại sao bạn nghĩ như vậy? 2. Con người là đền thờ của Thiên Chúa, bạn có được Thiên Chúa mời gọi thanh tẩy tâm hồn dịp Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ không? Bằng cách nào?
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh: MC3-B91
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu tố con người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria: Không phải thờ phương Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý.
Với những lời xác quyết trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người. Con người với thân xác và tâm hồn chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để xứng đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau, hay gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền thờ thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
Thế nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?
Chúng ta thường gọi 10 giới răn là căn bản lề luật Thiên Chúa. Người Do thái gọi đó là “Thập điều”: MC3-B92
Chúng ta thường gọi 10 giới răn là căn bản lề luật Thiên Chúa. Người Do thái gọi đó là “Thập điều” (Decalogue) của Thiên Chúa nói lên ý muốn cứu độ của Ngài. Mười lời đó không phải bản tuyên xưng đức tin, một bản tóm lược luân lý, nhưng là những lời nhắn nhủ của Chúa gửi đến con cái của Ngài. Trong mùa Chay, chúng ta hãy đến dưới chân núi Sinai, như ngày xưa dân Israel tập họp dưới núi thánh, để nghe lời thân mật của Chúa. Chúa nói như Cha nói với con, Cha khuyên bảo con. Tất cả Thập điều đều tóm tắt trong một câu và phải được khắc ghi vào tâm khảm mỗi người: “Ngươi hãy thương yêu”. Hãy yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Tình thương đó, khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã tỏ ra một cách cực độ khi chịu đóng đinh trên thập giá. Phaolô gọi đó “là cớ vấp phạm cho người Do thái, một sự điên rồ cho người ngoại giáo”. Làm sao hiểu được tình thương của Thiên Chúa? Yêu đến bỏ trời xuống thế, yêu đến chết trên thập giá để đền tội chúng ta.
Thiên Chúa đã cứu rỗi chúng ta bằng phương cách chúng ta không thể hiểu nổi.
Trong khi có người tự cho là thông thái như dân Hy lạp dùng lý luận để tự cứu vãn, trong khi người Do thái tự cho là có thể dùng chay giới, giữ luật lệ để vào thiên đàng thì Thiên Chúa dùng tình thương và tình thương đến điên dại như Phaolô suy tưởng.
Tình yêu Chúa Cha nung nấu tâm can của Chúa Giêsu và bộc lộ ra bên ngoài hôm nay bằng một cử chỉ táo bạo mà Gioan đã chứng kiến và tường thuật lại. Đó là việc Chúa xua đuổi con buôn bán ra khỏi đền thờ. Lễ vượt qua của dân Do thái gần đến, Chúa Giêsu lên đền thờ. Ngài thấy trước mắt trong khuôn viên đền thờ Cha Ngài, diễn ra một cảnh hỗn loạn không thể chịu được. Người ta bày bán chiên bò. Người ta mở bàn đổi tiền bạc. Ngài chắp giây thừng làm roi, hất tung bàn ghế và đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ. Ánh mắt Ngài chiếu sáng và miệng Ngài hô to: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.”
Ngài phẫn nộ để cho mọi người biết Ngài là ai.
Ngài tỏ uy quyền của Đấng Thiên Sai, như lời tiên tri Malachia đã loan báo; Ngài xuất hiện trong đền thánh để tẩy uế nơi tôn nghiêm này. Nhà chức trách đền thờ hiểu điều đó nên họ không vặn hỏi lý do mà chỉ đòi một dấu chứng minh. Chúa trả lời cách khô khan: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”; “Ngài có ý nói đền thờ là thân thể Ngài.”
Ngài cho biết “Con Chiên chân thật của Thiên Chúa chính là Ngài” (Gio. 1,29) đến trong đền thờ. Nghi lễ của đạo cũ đã quá thời. Ngài là Con Chiên Pascal bị tế sát vì chúng ta (1Cor. 5,7-8) và sẽ dẫn đưa chúng ta vào “trong nhà của Cha Ngài” (Gio. 14,2).
Bằng cử chỉ hôm nay, Chúa Giêsu không có ý bãi bỏ những nơi thờ phượng, nhưng đã chấn chỉnh và nói lên bản chất chân thật của nó. Dưới con mắt của Gioan, đền thờ của Đạo mới chính là Thánh Thể của Chúa Giêsu, rồi đây sau 3 ngày nằm trong nhà mồ, sẽ khởi hoàn sống lại.
Là người tín hữu trong Giáo hội, chúng ta có bổn phận lo cho Chúa có một nơi thờ phượng trang nghiêm xứng đáng, vì “nhiệt thành với nhà Chúa”. Nhưng đừng quên xua đuổi quét sạch những gì làm hoen ố tâm hồn chúng ta là đền thờ Chúa ngự.
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát: MC3-B93
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? #ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó? Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng "đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: "Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Ngài ám chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, "đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần khí và sự thật" (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che mắt thánh". Họ chỉ che được mắt thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại: MC3-B94
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi nước và Thần Khí" như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!" (Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái: "Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong, Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (c.17). Ở đây, các môn đệ áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu, hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Đừng biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác. Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: "Nào anh em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới:
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5,17)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho: MC3-B95
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự.
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1. Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật.
Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ, dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2. Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng.
Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng.” Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3. Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta.
Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha.” Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không? 2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không? 3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự ?
Hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngưỡng trước ngôi Đền thờ đích thực là thân thể của: MC3-B96 VL
Hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngưỡng trước ngôi Đền thờ đích thực là thân thể của Chúa Kytô- ngôi đền thờ bị người Dothái phá đổ, nhưng sau ba ngày, Người sẽ xây dựng lại bằng chính sự phục sinh vinh hiển. Ngôi Đền thờ này có gì khác với đền thờ Giêrusalem hoành tráng? Chúng ta cùng xem.
Chúng ta biết Đền thờ Giêrusalem được vua Hêrôđê Cả trùng tu từ năm 20 trước công nguyên và kéo dài tới thời tổng trấn Rôma Albinus khoảng năm 63 sau công nguyên (scn) mới hoàn thành. Biến cố mà Tin mừng Gioan ghi lại có lẽ xảy ra vào khoảng năm 27 scn, lúc đó những phần chính yếu đã làm xong. Đền thờ gồm có cung thánh, sân tư tế, sân đàn ông, sân đàn bà và sân ngoại giáo rất rộng. Người Dothái luôn tự hào về Đền thờ của họ bởi nó được xây dựng nguy nga, to lớn xứng đáng nơi Thiên Chúa ngự và thích hợp cho mọi người đến cầu nguyện, dâng lễ vật Sự việc diễn ra trong Tin mừng mà Gioan ghi lại xảy ra tại sân ngoại giáo. Đây là nơi dành cho dân ngoại lui tới và là nơi diễn ra việc buôn bán trục lợi với những mánh khoé bất chính, những thủ đoạn lộ liễu. Việc buôn bán này do các tư tế Đền thờ cầm đầu. Con cháu họ giữ việc buôn bán đổi tiền. Gia nhân của họ cầm dùi cui, sẵn sàng đánh những ai cản trở việc buôn bán của con cháu họ.
Thật ra, việc buôn bán chiên cừu, bồ câu cho khách hành hương để dâng lễ vật là một việc chính đáng, vì vừa giúp khách hành hương khỏi phiền phức đem lễ vật từ xa đến vừa thu lợi cho Đền thờ trong việc bảo quản sửa sang. Việc đổi tiền ngoại quốc ra tiền Đền thờ cũng là việc phải lẽ. Bởi dân Dothái thời Chúa Giêsu bị thống trị bởi đế quốc Rôma. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bằng bạc, một đồng cân nặng 3,8 g và tương đương với 0, 875 quan vàng. Mặt phải của đồng tiền in đầu hoàng đế Tibêriô đội vòng nguyệt quế với dòng chữ: Tiberius Caesar Augustus, Divi Augusti Filius (Hoàng đế Tibêriô Augustô- con của thần August). Mặt trái của đồng tiền là hình hoàng hậu Livia hay thần chiến thắng trên một cỗ xe tứ mã với Tư tế Pontif.
Người Dothái cho rằng đồng tiền Roma là đồng tiền dơ bẩn không xứng đáng để dâng cúng vào Đền thờ. Thế nên để có tiền dâng vào Đền thờ theo tín ngưỡng, người Rôma chấp nhận cho người Dothái sử dụng một loại tiền khác gọi là tiền Đền thờ. Loại tiền này được người dân dâng cúng vào Đền thờ khi có dịp, muốn vậy thì phải đổi tiền Rôma để lấy tiên này.
Vấn đề ở đây là thay vì các thầy Tư tế và gia nhân của họ phục vụ vì mục đích tốt đẹp, họ lại lợi dụng để thu lợi bất chính cho mình. Người dân biết, nhưng phải im lặng vì động đến họ là động đến nồi cơm, là động đến món lợi tức kếch xù và vì thế, sẽ bị gây khó dễ khi đến cầu nguyện và tế lễ.
Chính trong khung cảnh đó, Chúa Giêsu đã can thiệp. Sự can thiệp của Chúa được thể hiện qua hành động và lời nói. Về hành động, Gioan miêu tả khá tỉ mỉ: Chúa Giêsu cầm một dây thừng dùng làm roi, đuổi những lái buôn chiên bò; Người lật nhào, đổ tung bàn ghế của những người đổi tiền; cùng với hành động là lời quở trách với những người bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi làm nơi buôn bán". Chúa Giêsu muốn thanh tẩy đền thờ như ngôn sứ Dacaria đã loan báo thuở xưa (x. Dcr 14,21), bởi đền thờ cũng như nền phụng tự đó đã lỗi thời và xuống cấp về luân thường đạo lý, cần phải được canh tân đổi mới.
Phản ứng tự nhiên của nhóm người thân cận hàng Tư tế là hạch sách Chúa Giêsu: Ông lấy quyền ai mà dám làm điều này? Nếu lấy quyền Chúa, ông hãy làm một dấu lạ chứng tỏ Chúa sai ông đi? Trả lời cho thái độ hạch sách đó, Chúa Giêsu nói: "Phá Đền thờ này đi, nội 3 ngày tôi sẽ xây dựng lại". Thánh sử Gioan, trong lối hành văn của mình, nhiều lần sử dụng kỹ thuật "gây hiểu lầm" (Technique of misunderstanding), gây ít nhiều khó khăn cho thính giả, cụ thể là cho người Dothái. Rõ ràng câu nói của Chúa Giêsu không có ý nói đến ngôi Đền thờ xây bằng đá, trang hoàng bằng vàng này, mà chỉ ám chỉ chính thân thể của Người. Chúa Giêsu chính là Đền thờ và Người đến để thay thế ngôi Đền thờ Giêrusalem bằng đá bằng chính thân thể Người. Câu trả lời của Chúa còn mô tả cái chết thân xác của Người. Một cái chết chiến thắng vì trong giới hạn 3 ngày, Người sẽ chỗi dậy. Một cái chết phá huỷ Đền thờ cũ để xây dựng một ngôi Đền thờ mới thờ "Thiên Chúa trong chân lý và Thánh Thần" như Chúa đã từng dạy.
Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự và là nơi mời gọi con người đến cầu nguyện và giao hoà với Thiên Chúa. Dĩ nhiên rồi. Nhưng một khi biến nơi thánh thiêng đó trở nên nơi "buôn thần bán thánh", nơi đầu trộm đuôi cướp thì rõ ràng đã đi ngược lại với ý tưởng tốt đẹp của Thiên Chúa. Chính vì thế, cần phải một cuộc canh tân đổi mới và thanh tẩy nơi thờ phượng đó cho xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự. Riêng với người Kytô, ngôi đền thờ thiêng liêng không chỉ được xây dựng bằng những vật liệu kiên cố, được trang hoàng nguy nga tráng lệ mà còn được xây đựng bằng chính tâm hồn của mỗi người. Thật thế, tâm hồn chúng ta được sánh ví là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, là nơi Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị. Ngôi đền thờ thiêng liêng này vượt xa giá trị của những ngôi đền nguy nga hoành tráng đôi khi chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật và kiến trúc, nhưng không mang lại giá trị cứu chuộc.
Thật thích hợp trong Mùa Chay thánh hướng chúng ta đến sự cần thiết để thanh tẩy tâm hồn, thanh tẩy ngôi đền thờ thiêng liêng để mãi mãi tâm hồn chúng ta là nơi Thiên Chúa ngự trị. Xin cho mỗi người chúng ta chuẩn bị thật tốt ngôi đền thờ này để nơi đây vang mãi bài ca tình yêu Tự Hiến của Con Thiên Chúa.
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho: MC3-B97
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người.
1.- Ngữ cảnh
Bài Tin Mừng này lấy phần cuối của Lời tựa (Bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê, cc.14-15) và phần đầu của hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (cc. 16-20).
Tin Mừng không phải là bản công bố một loạt các chân lý rõ ràng và tách biệt. Ngược lại, đây là một bản tường thuật lôi kéo độc giả vào, đặt câu hỏi cho độc giả, gây ra những nỗi ngờ vực và những câu hỏi. Nhưng chính là nhờ cứ tiếp tục tự hỏi trong công việc giải thích, mà độc giả–thính giả trở thành môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng bước đi đàng sau Thầy. Đọc lần đầu tiên, hoặc đọc những đoạn rời rạc, độc giả thấy ý nghĩa của Tin Mừng không rõ ràng. Do đó độc giả cần có can đảm đọc tiếp, và cứ để cho những thắc mắc mở ra và chờ đợi các câu trả lời đến dần dần.
Cùng với việc Đức Giêsu xuất hiện, hành trình của các môn đệ cũng bắt đầu. Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Galilê. Qua các hành động của Người, Nước Thiên Chúa cũng đến gần.
2.- Bố cục
Bản văn gồm hai đoạn nhỏ có thể văn khác nhau:
1) Một “bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c. 14a), b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15);
2) Bài tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (1,16-20):
a- Đức Giêsu thấy (cc. 16.19), b- Đức Giêsu gọi: đến, theo (cc. 17.20a), c – Các ông đáp: từ bỏ và đi theo (cc. 18-20b).
Người ta thường coi “bộ ba” Gioan Tẩy Giả – Phép Rửa – Cám Dỗ như một phần Mở của TM Mc, còn “bản tóm tắt” là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Toàn bản văn chúng ta đang khảo sát là phần khai mạc sứ mạng của Đức Giêsu với khởi đầu công việc rao giảng của Ngài và việc kêu gọi các môn đệ. Trong Mc, có nhiều đoạn nhắc lại và nối kết hai điểm này: x. 3,7-12.13; 6,6b.7-12).
Tuy nhiên, người ta cũng có thể coi 1,1-15 là một khối, được đóng khung bởi hai từ “Tin Mừng” (cc.1 và 15) (x. Gnilka). Sang phần kế tiếp, tác giả đưa vào một phần mới với “biển hồ Galilê”. Như thế, có thể nói, nhờ lối cấu trúc đóng khung, ta hiểu lúc đầu Tin Mừng được giới thiệu tổng quát, sau sẽ được giới thiệu chi tiết.
Các câu 14-15 long trọng giới thiệu các lời nói đầu tiên của Đức Giêsu theo Mc, do đó, cần lưu ý đến tầm quan trọng của những lời này. Trong Mt và Lc, Đức Giêsu đã nói trước khi đi vào đời sống công khai: qua ba mẩu đối thoại với quỷ (Mt 4,3-10; Lc 4,3-12); trước đó, Mt 3,14-15 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Gioan Tẩy Giả, còn Lc 2,48-49 kể lại mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu với Đức Maria tại Đền Thờ. Những lời đầu tiên của Đức Giêsu có ý nghĩa đối với nền thần học Mt và Lc, thì hẳn cũng có ý nghĩa đối với nền thần học Mc… Nhưng bản văn song song đích thực chính là lời nói công khai đầu tiên của Đức Giêsu được ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại:
a) So sánh Mc với Mt
Mt 4,17
Mc 1,14-15
Đức Giêsu rao giảng
Đức Giêsu bắt đầu rao giảng
Tin Mừng của Thiên Chúa: Thời kỳ đã mãn
Anh em hãy sám hối
vì Nước Trời đã đến gần
Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng
Công thức của Mt thì ngắn và mờ nhạt hơn công thức của Mc. Điểm nòng cốt (Nước Thiên Chúa và hoán cải) được đóng khung bởi hai yếu tố bổ sung: “thời kỳ đã mãn”, và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”.
Ngay trong bản văn Mt, câu nói ngắn ngủi của Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả nói trước đó: Tác giả Mt dùng cách đó để khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng (việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Thầy). Nhưng vì thế, khi so sánh với bản văn Mt, ta thấy bản văn Mc phong phú hơn, độc đáo hơn, đặc biệt với từ “Tin Mừng” đặt trên môi miệng Đức Giêsu.
b) So sánh Mc với Lc (Lc 4,14-15):Tác giảLc nói rằng Đức Giêsu giảng dạy nhưng không ghi lại một lời nào của Người; ngược lại, ngay sau đó, trong câu truyện hội đường Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu đọc đoạn văn Is 61, mà theo Lc, là cả môt chương trình. Mà Lc lại dùng động từ “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai) (Lc thích dùng động từ này hơn là danh từ “Tin Mừng”). Đây là điểm song song đáng lưu ý với bản văn Mc. Trong cả hai bản văn, quang cảnh khai mạc cuộc đời công khai của Đức Giêsu là một Tin Mừng.
Mc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của “Tin Mừng” (HL. euangelion) khi ngài dùng từ này mà đóng khung bản văn của ngài: “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” và “anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Từ ngữ “Tin Mừng” được lặp lại ba lần để đóng khung hai đoạn văn trong cùng một phân đoạn, khiến ta hiểu đây là “từ chìa khoá” vừa của phần Mở vừa của “bản tóm tắt”. Đàng khác, nếu từ “Tin Mừng” đóng khung những lời nói đầu tiên của Đức Giêsu, điều này có nghĩa là, muốn hiểu những lời này, ta phải đi từ “Tin Mừng”.
3.- Vài điểm chú giải
- Tin Mừng (14.15): Tác giả dùng từ ngữ “Tin Mừng” ở dạng tuyệt đối (= không có bổ ngữ theo sau) 5 lần, mà ta có thể phân phối thành hai loạt: trong quan hệ với việc rao giảng cho Dân ngoại (13,10; 14,9; 16,15) và khi nói về việc các môn đệ bị bách hại và phải biết hy sinh (8,35; 10,29). Trong hai bản văn cuối cùng, đáng lưu ý là “Tin Mừng” được đặt song song với Đức Giêsu: “vì tôi và vì Tin Mừng”, y như là một sự đồng hoá. Tin Mừng được nói đến y như là một nhân vật. Trong tác phẩm Mt, từ ngữ này chỉ được dùng 3 lần trong thuật ngữ “Tin Mừng về Nước Trời”, còn Lc thì không bao giờ sử dụng. Hẳn đây là sáng kiến của riêng tác giả Mc. Nhưng cũng rất có thể là ngài đã nhận lấy ý niệm này từPhaolô, vì vị tông đồ đã sử dụng từ ngữ “Tin Mừng” khoảng 60 lần, và có tới khoảng 30 lần dùng từ ngữ này ở thể tuyệt đối (Các bản văn chính: 1 Tx 2; 1 Cr 9; Rm 1; 15; Pl 1 và 4). Từ ngữ này có nhiều nghĩa:
+ việc loan báo một sứ điệp hạnh phúc: nội dung của sứ điệp này;
+ hoạt động truyền giáo của tông đồ Phaolô nơi Dân ngoại; + giá trị tối cao mà thánh Phaolô phải đón nhận vì vượt quá ngài vô cùng; + nhất là, đây luôn luôn là một thực tại sống động, năng động, một biến cố đang diễn tiến: sự xuất hiện của vinh quang (2 Cr 4,4), sự mạc khải đức công chính của Thiên Chúa đang hoạt động để cứu độ loài người (Rm 1,16). Phaolô có thể nói rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa quyền năng do phục sinh từ cõi chết” (Rm 1,4) hoặc Tin Mừng là “quyền năng của Thiên Chúa để cứu thoát mọi kẻ tin” (Rm 1,16). Nhìn theo quan điểm cứu độ, Phaolô cũng như Máccô đồng hoá Đức Giêsu và Tin Mừng (so sánh Mc 1,14-15 với Rm 1,1-5.16).
Các độc giả của Phaolô, sống trong đế quốc, đã quen với những từ ngữ như “quang lâm”, “giáng lâm”, “tiền hô”, “công bố” (HL. kêrygma)… Nhưng tư tưởng của Phaolôkhông bắt nguồn trực tiếp từ nghi thức đón tiếp hoàng đế, mà là từ một nền tảng Cựu Ước: từ các câu chuyện các vua Saun, Đavít và Salômôn (x. 1 Sm 31; 2 Sm 1,4; 1 V 1) trong đó Tin Mừng có ý nghĩa là chiến thắng, giải phóng, sự hiển ngự của một vị vua. Đặc biệt từ sách Sách Yên Ủi Israel (Is 40–55) trong đó có từ ngữ “Tin Mừng”: hai lần ngài đã quy về Is 52,7 (x. Rm 10,15; Ep 6,15). Sách II Isaia đã dùng từ “Tin Mừng” mà áp dụng cho một biến cố cụ thể: biến cố giải phóng những người lưu đày, nhờ chiến thắng của vua Kyrô và sắc lệnh cho phép họ hồi hương và tái thiết Đền Thờ. Khi giải phóng Dân Người, Đức Chúa (Yhwh) tỏ ra cho Dân ngoại thấy Người là Đấng Cứu độ đầy quyền lực, là Đấng công chính, Đấng yêu thương. Thiên Chúa đã thiết lập triều đại của Người khi tích cực can thiệp mà cứu độ Dân Ngài và tỏ mình ra cho họ. Vậy Tin Mừng là việc công bố cho muôn dân biết cuộc đăng quang này của Thiên Chúa.
Đối với Phaolô và cả Mc nữa, Tin Mừng là một cuộc đăng quang hoàng đế, là một triều đại bắt đầu (x. Rm 1,1-4). Nhưng nếu Phaolô đặt biến cố đăng quang vào lúc Đức Giêsu chết và sống lại, Mc lại đưa biến cố ấy ra trước, đặt vào đời sống công khai của Đức Giêsu. Đối với Mc, quyền lực của Đấng Phục Sinh đã được bày tỏ cách kín ẩn trong những lời nói và việc làm của Đức Giêsu trần thế. Được loan báo trong bản tóm tắt, Tin Mừng sẽ được bung ra trong những bài tường thuật kế tiếp: lời rao giảng với uy quyền, cuộc chiến đấu chống Satan, các phép lạ và, có thể, trước tiên, việc chọn lựa các môn đệ. Từ đó, biến cố cứu độ khởi đầu cho Triều Đại của Thiên Chúa (“Tin Mừng của Thiên Chúa”: Mc 1,14) chính là bản thân Đức Giêsu (“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”: 1,1) đang hành động và rao giảng, Người chính là “Triều-Đại-hiện-thân” (Origiênê). Như Phaolô nói, và như Mc đã hiểu rất đúng: Tin Mừng của Thiên Chúa, chính là Con của Người. Và Đức Giêsu có thể nói: “Triều Đại (Nước Thiên Chúa) đang ở đó” bởi vì chính Người đang ở đó.
Sự song song giữa hai bản văn của Phaolô (Rm 1,1-5 và Rm 1,16-17) và Mc (Mc1,14-15) còn cho thấy một yếu tố khác nữa: lời đáp của con người với biến cố cứu độ hệ tại một thái độ duy nhất, đức tin. Hoán cải, chính là tin vào Tin Mừng, nghĩa là đón nhận Tin Mừng và dấn thân phục vụ Tin Mừng.
- Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ: Trong Mt, có một bản văn hầu như tương tự bản văn Mc, còn trong Lc, hoàn cảnh khác hẳn: đây là một bản văn độc đáo với ba yếu tố: giảng dạy đám đông, mẻ cá lạ lùng và việc kêu gọi Phêrô. Có thể nói bài tường thuật về việc kêu gọi các môn đệ đầu tiên đã có trong truyền thống ở dạng độc lập.
Đọc lướt qua, chúng ta có ấn tượng đây là một sự kiện tầm thường. Đọc kỹ hơn, ta thấy hoàn cảnh không đơn giản mấy. Trong thực tế, có hai bài tường thuật nhỏ, khá giống nhau, ta có thể đọc riêng rẽ, nhưng chúng được nối kết với nhau về thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh, làm thành một khối rất thống nhất.
Nói là hai bài tường thuật vì các đoạn văn này được xây dựng theo cùng một mẫu, theo cách lược đồ (làm bảng nhất lãm thì thấy rõ). Ta có thể đọc thêm bài tường thuật về ơn gọi của Lêvi (x. 2,14) để thấy những đặc điểm tương tự.
Phêrô-Anrê
Giacôbê-Gioan
Lêvi
1.
Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê
Đi xa hơn một chút
Đi ngang qua (trạm thu thuế)
2.
Người thấy Simon với em là Anrê
Người thấy Giacôbê với người em là Gioan
Người thấy Lêvi con Anphê
3.
đang quăng lưới xuống biển vì họ làm nghề đánh cá
đang vá lưới ở trong thuyền
đang ngồi ở đó (trạm thu thuế)
4.
Người bảo Các anh hãy theo tôi (tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá)
Người liền gọi các ông
Người bảo ông Anh hãy theo tôi
5.
Lập tức hai ông bỏ chài lưới
Và các ông bỏ cha mình là Dêbêđê (ở lại trên thuyền với những người làm công)
Ông đứng dậy
6.
mà đi theo Người
mà đi theo Người
đi theo Người
Có hai yếu tố không đổi: khi đi ngang qua, Đức Giêsu thấy ai đó với nghề nghiệp; Người kêu gọi, người ấy bỏ nghề, đi theo Người. Đây là cái khung trong đó ta chỉ cần thay đổi tên người được gọi và kiểu sống của kẻ ấy.
Trong thực tế, sự song đối không hoàn toàn sít sao. Nếu đọc các bài tường thuật từ trái qua phải, ta nhận thấy rằng, cứ sang một cột, lại mất đi một yếu tố. Nhưng dù cho hai bài tường thuật đầu vừa theo một lược đồ tương tự vừa có thể tách rời nhau, ta vẫn có thể nói rằng dường như chúng không được viết độc lập với nhau; trái lại, chúng bổ túc cho nhau rất khéo. Cho dù công thức “họ làm nghề đánh cá” được dùng cho Simôn và Anrê, ta vẫn hiểu rằng Giacôbê và Gioan cũng làm nghề ấy. Mỗi bài mô tả một phương diện của nghề đánh cá (quăng lưới; vá lưới) nhưng cả hai mới cung cấp một bức hoạ đầy đủ về nghề này. Muốn biết bốn người đã bỏ gì lại, phải cộng các chi tiết của hai bài: lưới, thuyền, cha; nghĩa là: nghề nghiệp và gia đình. Nhưng đặc biệt hai câu 17 và 20 soi sáng lẫn nhau: Lời hứa “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người” chỉ được ngỏ với Simôn và Anrê, nhưng rõ ràng cũng có liên hệ đến Giacôbê và Gioan. Câu “Người gọi các ông” (bản văn 2) không nhắc lại “Các anh hãy theo tôi” (bản văn 1). Câu 17 xác định đối tượng của việc Đức Giêsu kêu gọi (một sứ mạng), còn c. 20 giải thích lời mời gọi bước theo Đức Giêsu (một ơn gọi). Như thế, những chi tiết hơi khác nhau trong hai bài lúc đầu đã khiến người ta nghĩ đến những bài tường thuật tiểu sử, nhưng vì đặc tính đúc sẵn của chúng, có lẽ phải coi đây là một thể văn riêng. Nhiều nhà chú giải cho rằng bài tường thuật này đã dựa theo một bài mẫu là ơn gọi ngôn sứ Êlisa (x. 1 V 19,19-21). Những điểm giống nhau giữa hai bản văn cho thấy tác giả đã dựa vào sách 1 Vua, những chỗ khác nhau cho thấy rằng ngài cũng có quan điểm riêng của ngài.
+ Giống nhau: Hai bản văn có cùng một cấu trúc, hầu như có cùng những từ ngữ giống nhau: Êlia (như Đức Giêsu) đi qua, gặp một người đang làm việc, mời người ấy đi theo mình. Người môn đệ mới liền bỏ nghề và cha mà đi theo Thầy. Trong trường hợp Êlisa, điểm thứ năm chi tiết hơn: ông huỷ tất cả những gì liên hệ với cuộc sống trước đây, và ông từ giã cha mẹ (= hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ). Điều lạ lùng là yếu tố này chỉ được nhắc lại trong một bài tường thuật về một ơn gọi hụt do Lc viết (9,61-62) ở cuối một chuỗi ba câu truyện (Mt chỉ ghi giữ hai truyện đầu: Mt 8,18-22): Ở đây ta gặp lại lời xin được từ giã gia đình và lời nói về “cái cày”. Như vậy, dường như truyền thống liên hệ đến ơn gọi của Êlisa, bằng ảnh hưởng trực tiếp nhưng cũng bằng tương phản, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tác các bài tường thuật về ơn gọi trong Tin Mừng. Các điểm khác nhau còn cho thấy rõ điều này hơn.
+ Khác nhau:
(1) Từ biệt cha mẹ. Câu trả lời của Êlia có thể có vẻ hàm hồ, nhưng Do Thái giáo coi lời ông như một lời cho phép. Còn trong ba bài tường thuật của Lc (9,57-62), Đức Giêsu không chấp nhận bất cứ sự chậm trễ nào. Trong cuộc kêu gọi các ngư phủ, không hề có lời nào cho thấy họ xin từ biệt cha mẹ. Ngược lại, mọi sự đi theo chiều hướng một sự đoạn tuyệt tận căn.
(2) Êlia “gặp thấy” Êlisa gần như do tình cờ và dùng một cử chỉ mà mời ông đi theo. Ngược lại, Đức Giêsu “thấy” những kẻ Người gọi, một cái nhìn diễn tả một sự lựa chọn trước; ngoài ra, Người còn nói một lời (“Hãy theo tôi”) chứng tỏ uy quyền tuyệt đối của Người.
(3) Êlisa đi theo Êlia chỉ như một người tôi tớ; còn bốn người được Đức Giêsu kêu gọi, thì được Người cho biết sẽ giao cho họ một sứ mạng. Các từ ngữ gợi ý một sự chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trong thực tế Đức Giêsu xác định một sự thay đổi hoàn toàn chiều hướng sống.
Lời Đức Giêsu làm cho bốn ông trở thành “ngư phủ lưới người” chính là trọng tâm, xoay quanh đó là bài tường thuật ơn gọi nhằm một sứ mạng. Chúng ta nhận thấy có những điểm nổi bật:
+ Sáng kiến của Đức Giêsu cho thấy uy quyền tối cao và tính hữu hiệu của lời Người. Không phải là người môn đệ đi tìm một vị thầy dạy suy tư, nhưng là Đức Giêsu đi bước trước. Như Yhwh đã thấy Môsê, đã nhận ra Giêrêmia, Đức Giêsu thấy, chọn và gọi những kẻ Người muốn. Ngay từ đầu, Người đã xử sự như thầy và chúa tể.
+ Lời đáp của kẻ được gọi: tuyệt đối vâng lời Đức Giêsu, như trường hợp các ngôn sứ; đoạn tuyệt trọn vẹn với hoàn cảnh trước đó (gia đình và nghề nghiệp); dâng mình hoàn toàn cho Đấng kêu gọi để sống với Người một cuộc sống mới.
+ Đức Giêsu kêu gọi để giao phó một sứ mạng. Đối với Giáo Hội tiên khởi, bài tường thuật này là nền tảng cho quyền bính tông đồ. Sứ mạng của các ông không đến từ các ông, nhưng từ một tiếng gọi và nó bén rễ trong sự kiện các ông đã bước theo Đức Giêsu.
- “Kẻ lưới người như lưới cá” (halieis anthrôpôn) (c. 17): Tại Sumer (thiên niên kỷ iii) và tại Mari (thiên niên kỷ ii), trong một ngữ cảnh nói về chiến tranh, tấm lưới cá là một dụng cụ giúp đạt chiến thắng trên kẻ thù và là biểu tượng diễn tả việc Thượng Đế thực thi công lý. Trong nhiều bản văn ngôn sứ, đặc biệt Gr 16,16; Kb 1,14-15, ta thấy những tư tưởng và hình ảnh này liên hệ đến việc Yhwh phán xét Israel: trong dụ ngôn chiếc lưới (x. Mt 13,47-49), hình ảnh ám chỉ cuộc chọn lọc trong ngày tận thế. Nhiều cách diễn giải: “you will catch men as if you were catching fish” (Barrow Eskimo), “just like you catch fish, I will make catch men (San Blas), “give power to bring men” (Black Bobo), “make you become ones who are men bringers (Moré), “fishers who fish (or catch) men” (Bratcher & Nida).
- “Lập tức hai ông bỏ …”: Tác giả Mc chỉ áp dụng hai lần động từ HL aphiêmi, “leave, abandon”; “rời bỏ, bỏ rơi” cho các tông đồ (ở đây và 14,50). Có lẽ ngài muốn nói: bỏ của cải mình cũng chẳng ích gì nếu lại bỏ rơi Đức Giêsu trước cái chết, hay chỉ “theo Người xa xa” (14,54). Kể từ việc tuyên xưng đức tin tại Xêdarê và lời loan báo Khổ Nạn lần đầu, Mcđưa vào vào đề tài con đường (x. 8,27. “Con đường” đánh dấu các chặng lên Giêrusalem: 9,33; 10,32). Nhưng trên con đường này, mặc dù đi đàng sau, các môn đệ không muốn theo Đức Giêsu tiến về cuộc Khổ Nạn. Ngược lại, người môn đệ chân chính, là anh mù Báctimê, khi đã thấy, thì theo Đức Giêsu trên con đường này (10,52). Kể từ nay, bước theo Đức Giêsu, chính là vác thập giá (x. 8,34). Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan chỉ thực sự đi theo Đức Giêsu khi mang Tin Mừng đến cho mọi người (x. 1,38; 2,15), và hy sinh mạng sống “vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng” (8,35).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tóm tắt hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
* Gọi bốn môn đệ đầu tiên (16-20)
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người là vị Tôn sư và Chúa tể. Người không giải thích cho các môn đệ biết chương trình hoạt động của Người, Người không đề nghị hay hứa hẹn, không tìm cách thuyết phục, Người chỉ đơn giản kêu gọi bước theo Người. Ngoài ra, bởi vì ngoại trừ trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu không làm gì mà không có các môn đệ. Điều này có hai ý nghĩa: 1) Ngay khi xuất hiện, Đức Giêsu tạo lập một cộng đoàn, một gia đình (x. 3,20-35) gồm các môn đệ, để họ “ở với Người và để Người sai đi” (3,14). 2) Các ông là những người tiếp nối công trình của Người, các ông phải làm chứng về những hoạt động của Người. Người ta trở thành môn đệ khi đón nhận tiếng gọi của Đức Giêsu. Mở lòng ra liên tục với tiếng gọi này chính là đặc điểm thường hằng của người môn đệ.
Ở đây, chúng ta ghi nhận Simôn nổi lên như người thứ nhất trong anh em do chính sáng kiến của Đức Giêsu (sẽ có lúc tên ông không được nêu ra đầu tiên nữa: x. 16,7); chính Người đã tách ông ra khi thiết lập Nhóm Mười Hai, Người đã đổi tên Simôn thành “Phêrô” (x. 3,13-19).
+ Kết luận
Vậy bài tường thuật này có một ý nghĩa thần học. Nhưng còn giá trị lịch sử thì sao? Dường như bài này đã gây nhiều vấn nạn, và các Tin Mừng viết sau (như Lc và Ga) đã trình bày việc kêu gọi đúng thực tế hơn. Dù vậy, bên kia tính chất lược đồ thần học, bài này cũng phản ánh những nét lịch sử:
- Các môn đệ đã thực sống quanh Đức Giêsu (“bước theo, đi đàng sau” là động từ xác định quan hệ của một nhóm môn đệ với một vị thầy (Rabbi).
- Con người Đức Giêsu có sức thu hút người ta đi theo Người vô điều kiện (nhiều đoạn Mc cho thấy như vậy). - “Bước theo” Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu. - Có thể coi câu nói “những kẻ lưới người” là câu nói của chính Đức Giêsu, vì không có bản song song trong truyền thống kinh sư Do Thái hay Hy Lạp.
5.- Gợi ý suy niệm
Tác giả muốn nêu bật sự nối tiếp giữa cuộc đời Đức Giêsu và Giáo Hội. Cuộc đời Đức Giêsu được giới thiệu bởi một vị Tiền Hô “bị nộp”. Cuộc đời các ông cũng sẽ được mạc khải bởi một Đấng “bị nộp” và “sống lại”. Đọc câu truyện hôm nay, thực sự phải nhận ra, đây chính là Đấng Phục Sinh vừa xuất hiện trên bờ biển, liên kết con người vào Tin Mừng bằng lời quyền năng của Ngài. Kể từ nay, Galilê chính là toàn trái đất, và bốn vị tông đồ là cộng đoàn mênh mông gồm những người bước theo Đức Giêsu.
Người Kitô hữu hôm nay cũng là những người đã nhận được lời kêu gọi: “Hãy theo tôi”. Họ không tự ý ra trình diện Đức Giêsu, không thỉnh nguyện được tham gia vào công trình của Người. Đức Giêsu cũng không nhận họ như là những cộng sự viện có tiền lương và có thời gian nghỉ hè. Người kêu gọi họ. Tiếng gọi của Người rất đòi hỏi, nhưng đưa lại trọn vẹn ý nghĩa cho cuộc đời họ.
Đức Giêsu không đề nghị cho họ một chương trình đã được hoạch định sẵn, nhằm thuyết phục họ là dấn thân theo chương trình ấy là chuyện hợp lý. Người gọi họ đến với Người. Thật ra tiếng gọi của Người cũng là mộtmệnh lệnh: điểm quy chiếu và định hướng duy nhất cho họ là bản thân Đức Giêsu. Người đi trước họ, và họ phải bước theo Người. Nội dung cơ bản của tiếng gọi, tức của cuộc sống mới của các môn đệ, là sự quy hướng về Đức Giêsu, sự hiệp thông đời sống với Người. Người môn đệ ký thác vào sự hướng dẫn của Người.
Tiếng gọi này đặt người môn đệ vào trong mộttương quan riêng tư với Đức Giêsu, làm cho người ấy trở nên thành viên của mộtcộng đoàn và tạo ra tương quan của người ấy với những người được gọi khác. Đi theo Đức Giêsu không phải là từng cá nhân riêng lẻ, nhưng là một cộng đoàn các môn đệ. Nhưng không phải là các môn đệ mà là Đức Giêsu, bằng tiếng gọi của Người, xác định ai thuộc về cộng đoàn này.
Tiếng gọi này là mộtlời mời để cho Người đào tạo: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (c. 17). Người trao cho họ mộtnhiệm vụ mới và Người chuẩn bị họ. Họ sẽ dẫn những người khác đi trên cùng một nẻo đường mà họ đang theo, tức sống hiệp thông với Đức Giêsu.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn: MC3-B98
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm hồn.
Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy:”Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh:”Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi”(Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 20,1-17.
Thiên Chúa đã dùng ông Maisen giải phóng dân Israel ra khỏi ách nộ lệ của Ai cập. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa ban bố lề luật cho Maisen và ông đã truyền lại cho dân chúng. Luật ấy được gọi là “Thập giới” hay “Mười điều răn”. Đối với họ “mười điều răn” là cách đọc được ý muốn của chính Thiên Chúa ngõ hầu sống hiệp thông với Ngài. Đó chính là điểm cốt lõi, cho dầu phần lớn các điều răn còn được thấy ở những nơi khác ngoài Israel.
Thập giới không phải là xiềng xích nặng nề, kìm hãm tự do con người, nhưng là luật chỉ đạo của Thiên Chúa để hướng dẫn và bảo đảm bước đường tiến tới tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa đòi Israel phải tuyệt đối trung thành và tuân giữ các điều răn của Ngài. Có như vậy, Ngài mới là Chúa của Israel và Israel là dân riêng của Ngài. Ngày nay, chúng ta là dân riêng của Ngài. Điều mà Ngài đòi hỏi Israel cũng là điều Ngài đòi hỏi chúng ta ngày nay.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1,22-25.
Thánh Phaolô rao giảng Đức Kitô bị đóng đinh. Theo Ngài, nhờ thập giá Đức Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha, nhưng thập giá lại là điều ô nhục đối với người Do thái và là sự điên rồ đối với người Hy lạp. Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế quyền năng chứ không hèn yếu ; người Hy lạp trông một sự can thiệp của Thiên Chúa phù hợp với sự khôn ngoan của họ, và đối với Đấng ấy, cái chết không được phép chạm đến.
Nhưng thánh Phaolô lại quả quyết rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá và sự khôn ngoan của Thiên Chúa trổi vượt hơn sự khôn ngoan của con người. Do đó, Ngài tự hào về sự khôn ngoan của thập giá bởi vì sức mạnh của Ngài tỏ lộ trong sự yếu đuối:”Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
+ Bài Tin mừng: Ga 2,13-25.
Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán ở sân đền thở Giêrusalem. Đền thờ là nơi dân Chúa thập phương tụ họp lại để tỏ lòng tôn thờ và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa. Đền thờ phải là nơi trang nghiêm dành cho việc thờ phượng. Nhưng người ta vì ham lợi lộc đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán, ồn ào nhộn nhịp. Đức Giêsu vì nhiệt thành với Thiên Chúa đã dám chấp nhận nguy hiểm dẫn đến cái chết khi nghĩ đến câu Thánh vịnh:”Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”(Tv 68,10).
Để trả lời cho những thách thức của họ, Đức Giêsu nói:”Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”(Ga 2,21). Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài. Và “Nhà Cha” thực sự từ nay sẽ là “đền thờ thân thể Ngài”, và Ngài sẽ là vị tư tế duy nhất muôn đời. Nhưng nhân tính của Ngài sẽ chỉ giữ vai trò trên sau khi bị phá hủy và trỗi dậy (Ga 2,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thanh tẩy đền thờ Thiên Chúa.
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA.
Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18.000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ:”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:
a) Những khách hành hương.
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2 .200.000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ.
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền.
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền thờ.
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ:”Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”(Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ:”Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp”(Is 56,7).
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA.
1. Hai loại đền thờ.
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái:”Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành ? Người Do thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
a) Đền thờ vật chất.
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng.
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói:”Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ chúng ta.
a) Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta:”Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi”(Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay. b) Bênh vực nhà Chúa.
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất.
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý , ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cửû chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ.
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi ? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng liêng.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em”.
Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói:”Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giầu có đã thành công: Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ.
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay: hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường, Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp, Con tự hào với tất cả niềm tin, Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ, Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa, Ngôi thánh đường của đời con, Không thể xong trong một sớm một chiều, Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả, Chính Ngài, con không quá lời đâu: Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc, Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con. (Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ: Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em.
nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MC-B – Ga 2, 13-25) miêu tả hình ảnh một Chúa Giê-su khác hẳn: MC3-B99
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MC-B – Ga 2, 13-25) miêu tả hình ảnh một Chúa Giê-su khác hẳn với hình ảnh thường gặp: Không phải một Đức Ki-tô “hiền lành và khiêm nhường”, mà là một Chúa Giê-su giận dữ và hành động của Người như mang vẻ bạo lực. Người thẳng tay đuổi mọi kẻ buôn bán và đổi tiền cũng như các con vật ra khỏi Đền Thờ ("Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." – Ga 4, 14-16).
Thật khó hiểu khi được chứng kiến Đức Giê-su bộc lộ cơn giận bất thường như vậy. Chỉ cần nhìn theo con mắt trần gian cũng đã thấy được Đức Giê-su là một mẫu người rất hiền lành và có một tấm lòng bao dung độ lượng không ai sánh kịp. Còn nhìn theo lăng kính siêu nhiên thì vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên bản tính của Người là nhân từ bác ái ("Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường." – Mt 11, 29-30). Người luôn bộc lộ một tấm lòng khoan dung độ lượng bao la (“hãy yêu kẻ thù, ai tát mình má trái, thì hãy đưa cả mà phải cho họ tát tiếp, họ lấy áo ngoài thì cho luôn cả áo trong” – Lc 6, 27-29; “tha thứ cho anh em đã xúc phạm đến mình không chỉ 3 hay 7 lần, mà là bảy mươi lần bảy.” – Mt 18, 21-22) và một đức tính khiêm nhường tuyệt đối (“Thầy là Thầy là Chúa mà còn quỳ xuống rửa chân cho anh em thì anh em hãy rửa chân cho nhau.” – Ga 13, 13-14; “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” – Pl 2, 8). Vậy mà lần này Người đã nổi cơn thịnh nộ dữ dội như vậy là vì sao?
Đền thờ là ngôi nhà của Thiên Chúa, cũng là nơi dân Chúa tập trung để bày tỏ lòng tôn kính phụng thờ Đấng Toàn Năng hằng hữu. Vì thế, Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào những ngày sa-bát, những ngày đại lễ, người Do-thái ở các nơi tề tựu hành lễ rất đông. Trong những dịp đó, dân chúng thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dùng làm lễ vật dâng tiến theo nghi thức Do-thái giáo thời đó. Tuy nhiên, người ta đã lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời, biến nơi linh thiêng thành chốn ô uế. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là quy lỗi cho những người buôn bán, mà là đối với những người trông coi đền thờ – bọn luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu. Họ đã làm ngơ để những bọn con buôn vào buôn bán, mà vì sao họ làm ngơ? Tất nhiên là vì lợi nhuận do đám người buôn bán đóng thuế. Không đóng thuế, chắc chắn không thể làm ăn gì được. Vì thế, nói đám người kinh sư luật sĩ làm ngơ còn là nhẹ, mà phải nói là họ đã cố tình để xảy ra tình trạng bát nháo trong đền thờ nhằm trục lợi cá nhân. Cơn thịnh nộ của Chúa là điều tất yếu vậy.
Hành động của Đức Giê-su Ki-tô không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của đám người kinh sư, luật sĩ; nhưng sâu xa hơn, đó là Người phủ nhận hoàn toàn cung cách thờ phượng đã biến chất (chẳng khác gì cảnh buôn thần bán thánh diễn ra nhan nhản ở thế kỷ XXI này). Ngoài ra,Đức Giê-su – thông qua vịêc tẩy uế đền thờ được xây dựng bằng vật chất – còn giới thiệu ngôi đền thờ đích thực là tâm linh hướng thượng của tín hữu (như Lời Người trao đổi với người phụ nữ Sa-ma-ri: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." – Ga 4, 21-24).
Cũng đã có nhiều người cho rằng khi trả lời người phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Ki-tô đã phủ nhận những đền thờ xây dựng bằng vật chất. Nếu như vậy, thì tại sao Người lại nổi giận xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem và nói đó là "nhà Cha tôi"? Đức Giê-su không phủ nhận, vì – hơn ai hết – Người hiểu rất rõ Đền thờ xây dựng bằng vật chất là một biểu tượng không thể thiếu cho lòng tôn kính thờ phương của loài người đối với Đấng Tối Cao. Loài người với nhãn quan và tâm lực trần tục, thường thì phải có một điểm tựa, một điểm xuất phát hiện thực, để từ đó hướng tâm hồn lên cõi siêu linh. Đức Ki-tô nổi cơn thịnh nộ là nhằm xác định tầm quan trọng của nơi thờ phượng Thiên Chúa, nhiên hậu Người mới dẫn mọi người tới ngôi Đền thờ đích thực là nơi cung lòng mỗi người và cuối cùng là đích điểm: "Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người" (Ga 2, 21).
Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô đã một lần nữa nhắc lại Lời dạy đừng chú trọng hình thức bên ngoài mà phải coi trọng cái cốt lõi, cái chân lý đích thực ẩn kín bên trong. Đừng khua chiêng gõ mõ khi làm việc thiện, đừng đứng ở ngã ba ngã tư lải nhải khi cầu nguyện; cũng vậy, việc thờ phượng Thiên Chúa không cứ ở núi này núi nọ, đền nọ miếu kia, mà phải là "thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật". Và cũng chính điều đó khiến đám luật sĩ đặt câu hỏi: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" và được Đức Giê-su trả lời: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." (Ga 2, 18-19).
Đền thờ Giê-ru-sa-lem là một công trình xây dựng ròng rã 46 năm mới xong, vậy mà phá bỏ đi, chỉ cần ba ngày là Đức Giê-su sẽ xây lại được! Ai nghe cũng thấy là chuyện không tưởng, nên chẳng lạ khi thấy đám người Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" (Ga 2, 20). Đến như vậy mà đám người Do-thái vẫn chưa sáng mắt thì làm sao mà sáng lòng cho nổi! Chỉ đến khi Sự Thật phơi bày, mới đấm ngực thốt lên: "Quả thật người này là Con Thiên Chúa" (Mt 27, 54). Lời tiên báo của Chúa đã thành hiện thực: Ngôi Đền Thánh Giê-su Ki-tô bị dân Do-thái phá hủy tan tành, thì ngày thứ ba đã khôi phục hoàn toàn, tráng lệ hơn, sáng láng hơn: Chúa đã phục sinh vinh hiển.
Đối với Ki-tô hữu ngày nay thì sao? Tất cả những sự kiện và Lời dạy của Chúa đã được lịch sử chứng minh rất cụ thể và được trình thuật lại trong Kinh Thánh thật chi tiết, không còn cảnh như mấy người Do-thái ngơ ngác tự hỏi "xây một Đền thờ hoành tráng như thế mà chỉ trong 3 ngày thôi ư?" Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người vẫn chưa ý thức được, đó là ngôi Đền thờ do chính Đức Giê-su xây dựng là Giáo hội cho đến nay, đã hơn 2000 năm trôi qua, tuy rằng rất nguy nga lộng lẫy, nhưng vẫn thực sự chưa được tẩy uế như mong muốn của Người đã xây dựng nên. Thật thế, những lầm lỗi khiếm khuyết của Giáo hội xuyên qua lịch sử 20 thế kỷ, cũng không phải là it. Bởi vậy ngày 12/3/2000, Thánh Gioan-Phaolô II đã chính thức thanh tẩy Giáo hội, ngài “đã đi tiên phong trong việc khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm của quá khứ. Ngày 12-3-2000, ngài chính thức xin lỗi toàn thế giới về những sai trái và lỗi lầm mà Giáo hội đã vi phạm hoặc làm ngơ trong suốt 2000 năm lịch sử.
Tiếp đó, từ ngày 20 đến ngày 26-3-2000, ngài thực hiện chuyến viếng thăm Israel. Đây là cuộc hành hương về nguồn theo chân Mô-sê và Đức Ki-tô. Trong nghi lễ được cử hành tại đài tưởng niệm Yad Vashem ở Giê-ru-sa-lem, và tại Bức Tường Than Khóc vào ngày 26-3-2000, Đức Gio-an Phao-lô II đã lặp lại lời xin lỗi người Do-thái về các sơ suất lầm lỡ mà Hội Thánh khi xưa đã phạm.” (xc “Thánh thiện và tội lỗi” của Đức GM Giuse Vũ Văn Thiên – trang web HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM).
"Lầm lỗi là bản tính của con người", chuyện đó không có gì đáng trách, nhưng nó sẽ thật sự đáng trách phạt nếu người lầm lỗi không nhìn ra được mà ăn năn hối cải để xin ơn tha thứ như Thánh Gioan-Phaolô II đã làm. Ngoài ngôi đền thờ chung là Giáo hội, mỗi Ki-tô hữu còn là ngôi Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Muốn thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật, thì xuất phát điểm phải là Đền thờ Thánh Linh nơi cung lòng mỗi người phải luôn được thanh tẩy hàng ngày hàng giờ. Khi nhắc đến công việc tẩy uế ngôi Đền thờ Thánh Linh trong cung lòng mỗi Ki-tô hữu, có người thì cho rằng "Chuỵên nhỏ! Chỉ cần đến toà hoà giải là mọi chuyện xong xuôi hết!"; nhưng cũng không ít người thì cho rằng khi "bàn tay đã chót nhúng chàm" khó lòng tẩy sạch, thì chi bằng nhúng chàm luôn cả thân mình cho yên chuyện.
Cả 2 thái độ cực đoan ấy (một bên thì lạc quan tếu, còn một bên thì bi quan thái quá) đều không thể chấp nhận. Anh đến toà hoà giải là để xin ơn tha thứ, Chúa luôn sẵn sàng "cho" nhưng anh có biết dọn dẹp cung lòng và mở rộng cửa đón "nhận" hay không. Đến toà hoà giải lấy lệ và theo luật, mà cửa lòng cứ khép kín, cung lòng không tẩy uế, thì cũng chẳng khác gì xua đuổi hơn là đón tiếp, liệu Chúa có vào cung lòng anh được không? Còn anh bi quan thái quá cũng không được. Anh nên nhớ ngôi đền thờ Chúa Thánh Thần nơi con người anh là do chính Thiên Chúa tạo dựng, không lý gì Người lạibỏ rơi anh, dù ngôi đền ấy có rác rưởi dơ dáy đến đâu chăng nữa. Điều quan trọng là bản thân anh có thực lòng mong muốn và quyết chí thanh tẩy hay không mà thôi. Nếu lòng anh đã mở, chí anh đã quyết, Thiên Chúa sẽ ban Thần Khi và anh sẽ được sạch.
Nói tóm lại, ngôi Đền Thánh Linh cá vị mỗi Ki-tô hữu cũng như ngôi Đền Giáo hội đều rất cần được thanh tẩy. Tất nhiên, với ngôi đền Giáo hội thì không thể chỉ ỷ lại vào một mình Đức Giáo hoàng, cũng như ngôi Đền Thánh Linh cá vị chỉ trông cậy vào vị Mục tử đại diện Chúa Ki-tô nơi toà hoà giải. Các ngài không thể làm gì được nếu không có sự đồng lòng cộng tác, quyết tâm hoán cải nơi mỗi Ki-tô hữu cũng như toàn thể Giáo hội. Đến như Thiên Chúa "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài." (Thánh Au-gus-ti-nô), huống hồ! Cách cộng tác vời Thiên Chúa chính là đức tin của tín hữu. Vâng, nếu anh tin và nhìn rõ được sai lầm của mình mà dốc lòng thanh tẩy thì anh sẽ được sạch (Mt 8, 1-4 ; Lc 5, 12-16 ; 18. 42). Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa thương ban Thần Khi cho chúng con để chúng con vững lòng tin cậy, biết tôn trọng bảo vệ sự trong sáng ngôi đền thờ Giáo xứ, Giáo phận và Giáo Hội toàn cầu, đặc biệt biết sửa sang dọn dẹp ngôi Đền thờ tâm linh của chúng con để xứng đáng là nơi Chúa yêu thương ngự trị. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Bertrand Révillion viết:” Khi đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Chúa Giêsu muốn: MC3-B100 Simon Hoà
Bertrand Révillion viết:” Khi đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Chúa Giêsu muốn dọn chỗ cho sạch sẽ, dẹp bỏ những đồ đạc cồng kềnh trong Nhà Cha khỏi mọi thứ dư thừa, tất cả những gì không lie6nm quan đến niềm tin ! Và để làm điều đó, Người đã không ngần ngại nổi cơn thịnh nộ ! Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta hầu như ít thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài luôn ôn hòa, dịu hiền, khiêm nhượng và hình như luôn muốn chấp nhận phần thua thiệt. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Gioan 2, 13-25 lại cho chúng ta một hình ảnh của Chúa Giêsu nổi cơn thịnh nộ:” Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà tôi đây phải bị thiệt thân”. Chúa Giêsu dùng roi đuổi những người bán bồ câu, chiên, bò và lật nhào bàn ghế của những người đổi tiền. Thường thì chúng ta vẫn thấy hình ảnh của Chúa Giêsu “ hiền lành và khiêm nhượng”. Ngài chấp nhận cái hôn giả dối của Giuđa, Ngài bảo Phêrô hãy bỏ gươm vào vỏ, Ngài im lặng trước những lời cáo oan của kẻ thù, Ngài chấp nhận tha thứ cho những người làm hại Ngài, đóng đinh Ngài vào thập giá. Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu là một lời xin vâng làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha.Hôm nay khi lên đền thánh Giêrusalem đúng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài nhiệt thành vì Cha của Ngài, do đó, Ngài không thể chịu đựng nổi cái cảnh người ta biến nhà Cha của Ngài thành nơi buôn bán, đổi chác, thành hang trộm cướp. Lòng nhiệt thành của Ngài thiêu đốt Ngài khiến Ngài không thể chịu nổi cảnh ồn ào, náo nhiệt như cái chợ. Dù rằng những việc buôn bán chỉ diễn ra ngoài khu vực tiền đình, nơi dành cho dân ngoại, nơi dành riêng buôn bán dùng vào việc tế tự trong Đền thờ của những người đi hành hương về Đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu vẫn không thể chịu đựng nổi sự bất kính của những con người không biết gì về nơi thờ phượng. Ngài gọi đây là nhà của Cha Ngài, nhà cầu nguyện. Ngài nổi cơn thịnh nộ vì Ngài muốn thanh tẩy Đền thờ dù Ngài biết rằng sự nổi giận của Ngài có thể khiến Ngài phải thiệt thân. Khi lên Đền thờ Giêrusalem, Chúa vẫn tỏ ra rất kính trọng ngôi Đền thờ này, một ngôi Đền thờ mà Salomon và nhiều người đã vất vả xây dựng để dâng kính Thiên Chúa. Ngài gọi đây là nhà của Cha Ngài ngự và nơi đây là nhà cầu nguyện. Do đó, Ngài trân trọng công trình xây dựng của con người. Tuy nhiên, khi nói đến việc phá hủy Đền thờ này, một ngôi Đền mà Salomon và dân chúng đã phải nỗ lực, tốn biết bao tiền của, biết bao nhiêu công sức để xây dựng trong hơn 40 năm trời, thì phá hủy nó đi và trong ba ngày Chúa lại xây dựng lại quả Ngài ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Ngài. Đền thờ ở đây, chính là thân xác của Chúa Giêsu. Chúa phục sinh sẽ là Đền thờ mới. Nhân loại sẽ thờ phượng Đền thờ là thân thể phục sinh của Chúa cách đích thực. Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúa ban cho mỗi người một tâm hồn. Chúa muốn mỗi tâm hồn chúng ta phải trở thành một Đền thờ cho Chúa ngự. Bới thế, quay trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn, làm mới cuộc đời là những điều cần thiết giúp chúng ta có một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự trị. Mỗi thánh lễ phải là một hy tế để chúng ta dọn dẹp tâm hồn hầu rước Chúa vào lòng chúng ta. Bởi vì như viên sĩ quan chúng ta phải thưa với Chúa:” Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con nhưng xin Chúa chỉ phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Bertrand Révillion viết tiếp:” …Tiến tới Phục Sinh, chính là đuổi ra khỏi đền thờ của trái tim chúng ta, tất cả những gì làm chúng ta quay lưng lại chính sự sống lại của chúng ta “. Mùa chay là cơ hội thuận tiện để Kitô hữu sửa đổi ngôi nhà tâm hồn. Mùa chay cũng là mùa để mọi Kitô hữu đón nhận ân sủng của Chúa. Chúa đã chết để gánh tội trần gian dù rằng Ngài không có một tội nào. Chính vì thế, người môn đệ Chúa đừng bao giờ để tâm hồn mình trở thành chợ búa nghĩa là tâm hồn lỉnh kỉnh tội lỗi và những tính hư nết xấu. Người môn đệ Chúa đừng bao giờ để những đam mê của thế gian lấn át, và đẩy xa Chúa Thánh Thần:” Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây “. Người môn đệ hãy làm cho đền thờ của mình trong sạch và người môn đệ của Chúa cũng phải nhìn ngắm và giúp người khác sửa đổi lại ngôi Đền thờ tâm hồn của họ đã bị xuống cấp, đã bị dột nát. Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dọn trước ‘ ngôi đền nội tâm” của chúng con, làm cho thông thoáng sạch sẽ, dành không gian cho Thiên Chúa.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Cơn giận của Chúa gọi là cơn giận gì ? 2.Mùa chay là cơ hội giúp chúng ta làm gì ? 3.Tại sao Chúa Giêsu lại nổi cơn thịnh nộ ? 4.Tiền bạc, danh vọng, quyền lực, tiện nghi có phải là mối nguy cản trở con đường chúng ta đến với Chúa không ?