Bầu khí căng thẳng do sự kiện Chúa Giêsu vào đền thờ đánh đuổi những kẻ "buôn thần bán thánh" ra khỏi nơi thờ phượng vẫn chưa dịu xuống. Trong khi người Dothái, nhất là mấy vị thủ lãnh và phe cánh bị Chúa Giêsu "sờ gáy" bực tức ra mặt, thì vẫn có vài người hiểu chuyện, đó là Nicôđêmô- thủ lãnh Pharisêu. Nhờ có ông- qua cuộc đối thoại với Chúa Giêsu, giúp chúng ta khám phá nhiều vấn đề thú vị.
Thánh Gioan mô tả việc ông Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm hẳn phải có lý do của nó. Thật sự thì sau lần gặp gỡ này, thánh sử còn cho ông Nicôđêmô xuất hiện một lần nữa, đó là vào lúc mai táng Chúa Giêsu. Ông cùng với ông Giôxép đem theo 100 cân mộc dược trộn với trầm hương để tẩm liệm xác Chúa (x. Ga 19, 39). Như thế, được gặp gỡ Chúa, Nicôđêmô đã biến đổi con người mình. Ông biến đổi từ chỗ đến gặp Chúa trong bóng tối vì sợ nghi kỵ bởi ông là thủ lãnh dân Dothái đến việc ông can đảm bước ra ánh sáng, sẵn sàng đi theo Chúa, dành cho Chúa những gì quý báu nhất trong ngày mai táng. Như thế, điều chúng ta khám phá ở đây là, Nicôđêmô đã nhìn ra điều mà lâu nay vẫn còn tiềm ẩn trong bóng tối đó là chính Chúa Kytô, Ánh sáng của thế gian đã đến. Và chính Người đã hy sinh chính mạng sống mình vì nhân loại.
Trong cuộc đối thoại đó, vấn đề "sinh lại bởi Ơn trên" được Nicôđêmô thắc mắc nhiều nhất. Mà thắc mắc cũng đúng thôi. Bởi theo ông, làm gì có chuyện người sinh ra rồi sau đó lại trở vào dạ mẹ lần thứ hai? Và để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu đã giúp ông cũng như cho mỗi người chúng ta tìm ra câu trả lời.
Trước hết hình ảnh con rắn đồng được Chúa Giêsu nhắc đến xảy ra vào thời xuất hành của dân Dothái. Chúng ta biết, trong hành trình về Đất hứa, dân Chúa phải trải qua 40 năm trường trong hoang địa, thiếu thốn đủ bề. Chính vì thế, dân Dothái đã mất kiên nhẫn, thiếu niềm tin vào Thiên Chúa. Họ trở mặt quay lưng lại với Thiên Chúa. Họ trách mắng Thiên Chúa và ông Môsê tại sao lại đưa họ ra khỏi Aicập, để họ chết trong sa mạc, không thức ăn, không đồ uống,... (x. Ds 21, 4-9). Chính vì thế, Thiên Chúa đã cho đại dịch rắn lan tràn vào trong vùng có con cái Israel trú ngụ, cắn chết nhiều người. Dân hối hận, kêu cầu Môsê để ông cầu khẩn Thiên Chúa. Theo ý Chúa, ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng với lòng tin sẽ được thoát chết. Sách Khôn ngoan đã giải thích về hiện tượng này nhằm tránh cho dân một lối nhìn ma thuật : "Việc ai nhìn lên thì được cứu không phải do vật được nhìn, mà là do Chúa, Đấng cứu độ của mọi người" (x. Kn 16,7).
Chúa Giêsu liên kết hình ảnh con rắn đồng bị treo lên với chính hình ảnh của mình. Thật vậy, Chúa Giêsu cũng phải chịu treo lên cây thập giá để lôi kéo toàn thể nhân loại lên cùng Chúa và nhất là để ai nhìn lên hình ảnh của Đấng chịu đóng đinh với niềm tin thì sẽ được "sự sống đời đời".
Như thế, mầu nhiệm Thập giá chính là tình yêu "điên rồ" nhất mà Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Tình yêu "điên rồ" này đã được Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô, đó chính là ý định cứu độ của Thiên Chúa khi sai chính Con Một của mình đến thế gian. Người Con đến không phải để lên án nhưng để nhờ đó thế gian được cứu độ qua chính cái chết trên thập giá của mình. Chính vì thế, điều quan trọng để được cứu độ chính là tin vào danh Con Một của Thiên Chúa.Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn mạc khải cho Nicôđênô biết chính Người là Ánh sáng thật của Thiên Chúa. Ánh sáng đó giờ đây đã đến thế gian. Việc chọn lựa ánh sáng hay bóng tối mà cụ thể là chọn điều lành hay làm điều xấu, chọn Chúa hay chọn ác thần, tất cả đều do con người tự do quyết định.
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đã được tỏ bày qua Đức Giêsu Con Một của Người và mời gọi con người đáp trả bằng tự do chứ không ép buộc. Sự đáp trả đó được minh chứng bởi cuộc xét xử đang được thực hiện. Trong cuộc xét xử đó, hoặc con người khước từ Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận Ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt; Hoặc cởi mở đón nhận Ánh sáng, đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa thì phải thay đổi cuộc sống để bước theo đường lối của Thiên Chúa. Có như thế, con người mới trở thành "dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa" cho trần gian này.
Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta nhận chân giá trị đích thực của thập giá mà Chúa Giêsu đã dùng để cứu rỗi nhân loại. Chúa Kytô chính là Ánh sáng và Thập giá của Người chính là nguồn ơn cứu độ, là vinh quang, là tình yêu tự hiến của chúng ta. Ước gì cây Thập giá -nguồn Ánh sáng cứu độ trần gian, được mỗi người chúng ta không ngừng tuyên xưng và loan truyền cho thế giới này. Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Những ngày này quanh quẫn bên người mẹ đang thoi thóp thở những làn hơi cuối ở quê nhà, thỉnh thoảng mẹ lại thều thào nói đang đến được một vùng tràn đầy ánh sáng có rất nhiều thiên thần bay lượn vây quanh. Rồi khi cắn chặt răng quằn quại với cơn đau điến người thịt xác, mẹ mê sảng la lên qủy ma đang chực chờ ẩn hiện đưa mẹ đến một nơi xa thật xa vô cùng tăm tối.
Tìm đọc một vài tin tức địa phương để 'thư giản' vãn thời gian, điều đầu tiên đập ngay vào mắt là chuyện dài... cúp điện! Người dân ở đây cơ hồ như quen với lúc tối lúc sáng lúc có lúc không đã từ lâu nên chẳng mấy ai thở than. Mà giả như có muốn thì cũng chẳng biết nơi đâu mà trút tiếng thở dài!!!
Có ai đó nói rằng bất hạnh của người này là hạnh phúc của người kia. Điều này thật vô cùng đúng mỗi khi điện cúp vì đây là cơ hội bằng vàng cho những tay đạo chích. Thời tiết oi bức khó chịu nên sau một ngày dài làm việc khi vừa bước vào nhà mà điện đóm lại không có, việc đầu tiên là mở tung mọi cửa sổ rồi tắm một cái cho đã đời. Bọn trộm chuyên nghiệp chỉ chờ có thế! Dùng những cần dài với móc câu trét đầy 'keo dính chuột' cực mạnh, chúng câu bất cứ cái gì mà khổ chủ vô ý bỏ quên!
Đau đớn hơn, họ còn là nạn nhân của những tên trộm ngày thời đại -những cái gọi là 'đầy tớ nhân dân': đám quan lại tham ô hủ hóa dùng đủ mọi thủ đoạn tinh vi đến man rợ rợn người đục khoét công qủy nhởn nhơ vênh vang sống ung thối trên mồ hôi nước mắt của chính đồng bào máu thịt -những người dân tội nghiệp ba miền hiền lành khốn khổ ngụp lặn miệt mài lây lất sống cháo buổi mai khoai buổi chiều. Ngày cũng như đêm! Bóng tối đương nhiên đồng nghĩa với xấu xa nhưng ngay cả ánh sáng cũng đã chưa dọi chiếu hết bình minh công chính cho phần đất quá cơ khổ này. Lo toan đè nén ban ngày rồi trăn trở sợ sệt lo âu khi hoàng hôn vừa buông xuống. Thương ôi! "Người chết hai lần..."
Khi xã hội chỉ biết đắm chìm vào việc phát triển kinh tế và con người chỉ mãi lặn lội giữa những sóng đời vật chất, tình nhân loại và nghĩa đồng bào đã không còn nữa. Và khi mọi trọng tâm chỉ chuyên chú vào chỉ tiêu báo cáo, khi giá trị con người chỉ được nhìn qua lăng kính thành tích thi công, tôn giáo và luân lý khó có thể nẩy hạt gieo mầm. Như Dorothy Thompson viết: "Khi Thiên Chúa ra đi, tất cả sẽ ra đi." Hoặc như George Washington phát biểu trong bài diễn văn từ biệt: "Luân lý sẽ chẳng có thể trường tồn nếu không có đức tin và tôn giáo."
Thiên Chúa không thể ra đi khi mỗi chúng ta luôn tin vào Con Một Chúa. Nhưng tin vào Con Một Chúa không phải giản đơn chỉ tin những gì đã xảy ra bên này và bên kia bờ sông Babylon hơn hai ngàn năm trước rồi lãng quên hoặc sống cùng sống với thực tế chung quanh. Tin vào Con Một Chúa là phải sống như Con Một Chúa.
Sống như Con Một Chúa là phải luôn "yêu sự sáng" và "đến cùng sự sáng" bằng "hành động trong sự thật". Ở đây, sự thật đã thật khó tìm mỗi khi hoàng hôn xuống. Và cũng chẳng dễ tìm khi bình minh vừa ửng hiện chân trời. Tự dưng muốn ngồi bên một bờ sông vắng, treo cây đàn, khóc thương về một chốn củ nơi xưa!
Thiên Chúa có bộ mặt ra sao? Ai biết được khuôn mặt thật của Người? Người Do Thái tin: MC4-B103
Thiên Chúa có bộ mặt ra sao? Ai biết được khuôn mặt thật của Người?
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Thiên Chúa. Họ gọi Ngài là Gia-vê (YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải thoát kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng theo đức Giê-su, khuôn mặt đó vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ là suy đoán của con người, vì đã thật sự có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài như thế nào đâu. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, đấng từ trời xuống.”
Vậy thì diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người, đấng từ trời xuống’ phác họa lên thì sao? Trước hết đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước nhưng được rất ít người Do Thái quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả thật câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được mấy ai giải thích. Dân phạm tội. Gia-vê cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Mô-sê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21, 6-9) Câu chuyện không hề nói về Đức Chúa Gia-vê từ nhân; ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu hiệu của hình phạt để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, điều này không ai giải thích nổi. Gia-vê muốn thế! Rồi khi đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào, cũng cho là điều đó hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận nổi, nhất là khi dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Tôi thiết nghĩ ‘ánh sáng’ của Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này: đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi đức Ki-tô giương cao trên thập giá. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu có tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, theo xác quyết của môn đệ Gio-an, người được coi là đã hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta…
Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1, 8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một nguyên tắc xem ra chẳng ăn nhằm gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ đây (cũng như ‘ánh sáng’) sẽ không chỉ mang nội dung luân lý của tội lỗi (hay nhân đức), mà chỉ là từ khước (hay tin nhận) Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành tới mấy, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu, xót thương và cứu độ.
Nhất định tôi phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để tôi không còn bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giê-su giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dầu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con, cũng như Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình duy nhất vào đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen
Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát “Tình yêu Thiên Chúa” của nhạc sĩ Thể Thông: MC4-B104
Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát “Tình yêu Thiên Chúa” của nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và tội lỗi.
Thường tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành. Thế nhưng, “lực bất tòng tâm”. Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: “anh yêu em, nhưng đừng cho ai biết”. Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của “chồng chung vợ chạ”, của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng”. Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam – Eva đã rời áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi. Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
- Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu LÒNG NHÂN ÁI. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ ÍCH KỶ.
- Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động YÊU THƯƠNG, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone GHEN GHÉT.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
- Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng KIÊU HÃNH cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
- Chứng CẬN THỊ làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
- Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị ĐIẾC ĐẶC, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu ! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa
thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc TIN MỪNG của Chúa.
- Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà TẠ ƠN. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp NỤ CƯỜI THÂN ÁI !
- Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên NHẪN NẠI, với một ly nước NHÂN BẢN, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc TÌNH THƯƠNG trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên LƯƠNG TÂM BÌNH AN.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy đế cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen
Trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Israel mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao đưa chúng tôi ra khỏi đát Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống.? Chúng tôi đã chán ngấy đồ ăn vô vị này.”
Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Israel phải chết. Dân đến nói với ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội vì kêu trách Đức Chúa, và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa, để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.”
Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống. (Ds 21, 4 -9)
Đam mê xác thịt, tiếc nuối hưởng lạc, đã khiến dân Israel phản bội Thiên Chúa. Khi vô ơn bạc nghĩa, tuyệt tình, dân Israel cũng đồng thời trở nên vong thân, tự đưa mình vào cõi chết. Nhưng biết sám hối trở về, tin cậy vào tình thương rộng lượng, dân Israel biết quy hướng và nhìn lên khẩn cầu, thì Đấng Chữa Lành chẳng hề ngần ngại ra tay cứu giúp.
Cuộc hành trình về Đất Hứa của dân Israel lắm trắc trở, éo le, nguy hiểm chẳng khác chi hành trình của mỗi Kitô hữu trên đường hy vọng.
Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận cũng đã trải nghiệm qua cơn thách đố khắc nghiệt trong bóng tối chết chóc:
- Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc!” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm!” (5 Chiếc bánh và 2 con cá, chương5)
Một xã hội mà vắng bóng tình thương, khác chi đắm chìm trong bóng tối hãi hùng. Cũng thế, khi con người cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đánh mất tình yêu thánh thiện, đồng thời đánh mất cả lòng nhân ái, tựa như ruồng bỏ ánh sáng, đương nhiên trầm luân vào bóng tối, nơi chỉ có ganh ghét, đố kỵ, hận thù, hãm hại, tai ương, hoạn nạn và đau khổ, chết chóc.
Chính vì thế, Đức Ki tô mới công khai kêu gọi con người quay về với chân lý: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”(Ga 3, 19-21)
Lạy Chúa xin cho con nhận thức tình trạng tội lỗi, nhận biết ánh sáng từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa, để kịp thời tìm đến Ơn Cứu Độ qua Lòng Thương Xót hải hà của Chúa Giêsu.
Lạy Mẹ từ bi xin giúp con can đảm ăn năn, sám hối và thú tội, để có thể giao hòa, trở về với Chúa, hầu được giải thoát khỏi bóng tối ma quỷ. Amen
Ngày còn bé, tôi thường hay mơ hồ khi nghe đoạn Tin Mừng này và nghĩ rằng ai đó đã dịch thiếu hoặc đoạn văn trên bị thiếu do không thể khôi phục từ bản gốc. Tôi chờ đón một án phạt kiểu như: “phải sa hỏa ngục”, “chịu thiêu đốt đời đời” hay “vào nơi khóc lóc nghiến răng”. Đàng này, chẳng có hình phạt nào cả ngoài cái hình phạt chính mình tự chọn là: “Không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa.”
- Không hiểu nổi!?!
Tin Chúa chẳng sướng ích gì! Phải tuân giữ giới răn. Phải đi lễ, đọc kinh. Phải nhường nhịn, phải bác ái, phải khiêm nhường… Ôi thôi, đủ thứ! Bao nhiêu thứ “phải” khiến tôi không thể ngóc đầu lên nổi. Trong khi đó tôi thấy những người không tin Chúa có vẻ phè phỡn hơn. Họ không có dáng vẻ của những người đang chịu “hình phạt”.
- Họ sẵn sàng đổi trắng thay đen chỉ vì một chiếc ghế. - Họ vô tư thụ hưởng khoái lạc kiểu “ăn bánh trả tiền”. - Họ thản nhiên chèn ép bất cứ ai để có lợi. - Họ ung dung tiến thân bất chấp thủ đoạn. - Họ khoan khoái hưởng cảm giác chiến thắng sau khi ăn miếng, trả miếng - Họ không phải ưu tư, dằn vặt trước một quyết định nào…
Cho đến một ngày, có người bạn đến nói với tôi: “Tôi đã làm tất cả để có cuộc sống sung túc cho vợ con. Vậy mà, con tôi chỉ lo ăn chơi đàn đúm, không chịu học! Vợ tôi chỉ biết trang điểm, sửa soạn cho mình: nay party, mai du lịch, mốt lại dancing… Tiền bạc mà chi? Danh vọng mà chi? Chức quyền mà chi? Tiện nghi mà chi? Chẳng có thứ nào đem lại hạnh phúc cho tôi dù chỉ một chút, không có thứ nào mang đến cho tôi an bình dù chỉ một mẩu. Bây giờ tôi mới thấy mọi sự chỉ là phù du, là ảo ảnh và vô nghĩa lý.” Tôi an ủi bạn mà như nói với chính mình: “Không đến nỗi bi thảm vậy đâu bạn! Bạn chỉ nhầm lẫn một chút giữa phương tiện và cứu cánh thôi. Tiền bạc, danh vọng, chức quyền chỉ là phương tiện…” Anh bạn bật hỏi: “Vậy cứu cánh là gì, ở đâu?”
Tôi giật mình, chợt nhớ đến một đoạn phim ngắn tung lên mạng cách đây không lâu đã gây xúc động cho rất nhiều người, nội dung như sau: “Hai cô thiếu nữ bước vào trong một quán gà rán gọi hai phần, họ vừa ăn vừa nghe điện thoại. Mới ăn được nửa phần thì họ vội vã đứng dậy bỏ đi cho kịp một party. Người hầu bàn dọn dẹp thức ăn thừa và trút vào một thùng nhựa. Đến chiều, có một người đàn ông cưỡi xe đạp đến để “thầu” phần thức ăn thừa trong thùng nhựa ấy. Ông chọn một ít bỏ vào một bịch ny-lông riêng, còn bao nhiêu ông cho bọn trẻ lang thang nơi đầu ngõ vô nhà ông. Vào nhà, ông trao bị thịt gà cho vợ chuẩn bị bữa tối. Trong căn nhà tồi tàn lợp tranh, người vợ đang mang thai trao đứa bé bồng trên tay cho người chồng. Người vợ dọn đĩa ra bàn trước cặp mắt háo hức của mấy đứa con thơ. Chị cẩn thận lựa từng miếng gà bỏ vào từng đĩa theo khẩu phần. Một ngọn nến lung linh. Những người nghèo khổ ngồi quanh bàn, nét mặt hân hoan. Một đứa bé nhanh nhảu bốc ngay phần thịt gà trong đĩa của mình. Người cha khẽ chặn tay con lại rồi trang nghiêm làm dấu thánh giá, mấy đứa con làm theo. Mọi người cầu nguyện một lát trước khi ăn. Chắc hẳn họ đang cảm tạ Thiên Chúa vì bữa ăn họ sắp đón nhận.” Clip chưa đến 6 phút nhưng thật giàu cảm xúc! Tôi cảm nhận được sự nồng ấm trong căn nhà tồi tàn, tôi thấy được nét rạng rỡ trên khuôn mặt những người khốn cùng, tôi như sờ thấy hạnh phúc đâu đây… Những thứ đó tôi không hề cảm nhận được trong ánh đèn màu rực rỡ của phố xá ở đầu phim, trong không gian sang trọng và sự phục vụ chu đáo của nhà hàng gà rán, trong những tiện nghi hiện đại của trào lưu hưởng thụ. Bây giờ thì tôi đã hiểu: Tôi đã phải chịu đau khổ và bất hạnh khi không tin vào Con Thiên Chúa và Ơn Cứu Độ của Người. Đó chính là hình phạt! Còn hình phạt nào nặng hơn thế nữa? “Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì.” (Dt. 13:6)
- Tôi mệt mỏi bởi tôi không tin Chúa là nguồn trợ lực cho tôi. - Tôi chán chường bởi tôi không tin Chúa là nguồn an ủi. - Tôi đau khổ bởi vì tôi không tin Chúa đang đau khổ cùng tôi. - Tôi thất vọng bởi tôi không thấy Chúa ở cuối con đường đang đón chờ tôi.
Thảm hại thay, đáng thương thay! Một vị Vua hùng mạnh và vinh quang của vùng Tiểu Á vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên là Alexandre Đại đế, trước khi mất, ông yêu cầu quần thần liệm xác mình vào trong quan tài có khoét hai lỗ hai bên để lòi 2 bàn tay ra. Mọi người thắc mắc, ông giải thích: “Để cho mọi người thấy Alexandre Đại đế giàu có vô song đã ra đi với hai bàn tay trắng”. Thật là một thông điệp vĩ đại! Có lẽ ông được người đời nhớ đến vì thông điệp này hơn là những chiến công hiển hách.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết xác định cùng đích đời mình chính là Thiên Chúa, bởi vì chúng con chỉ tìm thấy Ơn Cứu Độ cho chúng con từ nơi Người. Xin Chúa ban thêm ơn Đức Tin cho chúng con, vì ngay cả Đức Tin chúng con cũng không thể tự mình có được. Nhờ đó, chúng con biết phân biệt đâu là phương tiện, đâu là cứu cánh trong mỗi lựa chọn trong cuộc sống của chúng con. Amen.
Nếu trong ba tuần mùa chay trước, Giáo Hội khẩn thiết kêu gọi ta nhìn lại mình, rà soát lại sự thật về mình, về đời sống đạo đức, về cung cách cầu nguyện, thì Chúa nhật tuần này, Giáo Hội bảo ta ngước mắt nhìn lên. Không nhìn lên, tất cả những sự thật bẽ bàng ta gặp nơi hồn ta, sẽ trở thành một cục đá nặng kéo chìm ta xuống, hay có khi còn trở thành một xác chết, nằm chình ình giữa cõi lòng ta. Sao vậy? Bởi có ai đâu đủ sức mạnh và quyền năng có thể rửa sạch được hồn ta, để có thể tháo gỡ những xiềng xích trăng trói hồn ta, để làm tan những vết hằn in sâu do thói quen xấu xa để lại.
Ta phải ngước nhìn lên Thánh Giá trước mặt. Không phải nhìn lên cây Thánh Giá, mà nhìn Đấng bị treo trên đó: Chúa Giêsu. Ngài là Con Một duy nhất của Thiên Chúa, đã đựơc trao ban cho nhân loại tội lỗi chúng ta. Ngài là tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa, đựơc trao ban cho con ngừơi. Ngài hoàn toàn thánh thiện và vô tội, nhưng trong kiếp làm người, vâng lời Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ, mà con người đổ oan và hành hạ Ngài. Ngài vui lòng chấp nhận tất cả, không kêu ca ai oán. Ngài làm thế để dâng những nỗi đau ấy lên Chúa Cha, để xin Chúa Cha tha thứ cho nhân loại ngập đầy tội lỗi. Và như vậy, Ngài là Đấng duy nhất, có thể xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi được cho con người.
Vì thế, khi ta ngước lên Ngài, bị treo trên kia để kêu cầu, Ngài sẽ xin Chúa Cha, tha thứ những thiếu sót, lầm lỗi và tội ác cho ta. Cây Thánh Giá không chỉ một lần dựng lên trên núi Sọ, cũng không chỉ treo trong cung thánh nhà thờ, hay trên bàn thờ của mỗi gia đình. Mà cây thánh giá, có Chúa Giêsu nằm trên, được treo ngay trước mắt chúng ta, ngay trong tâm trí và linh hồn chúng ta. Không cần phải lý luận dài dòng, nhìn thấy Ngài lúc nào cũng nằm im chịu chết trên đó. Ta hiểu được một điều quan trọng: Chúa muốn tha tội, Chúa muốn cứu rỗi chúng ta, chứ không hề có ý phạt tội chúng ta.
Nhưng trong khi nhìn lên, để nhận được ơn tha thứ và nâng đỡ, thì một yếu tố then chốt, không thể không nói đến, là Tin. Không Tin, thì nhìn lên lâu mấy cũng là uổng công: “Để ai tin vào Ngài thì đựơc cứu độ”. Thánh Kinh xác quyết như thế. Chính đức tin là chiếc chìa khóa, mở được ân sủng dồi dào của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không ép buộc một ai. Ngài cho con người tự do để quyết định về số phận của mình. Nhưng mà, xin cẩn thận, khi từ chối, không tin vào Đức Giêsu, đời mình sẽ chìm vào trong tăm tối. Tự đưa mình vào cõi tối, là tự chuốc lấy án phạt rồi.
Gợi ý suy niệm
1- Nhìn Chúa Giêsu treo trên thánh giá, có bao giờ bạn tự hỏi: Tại sao Chúa lại chết không?
2- Bạn có muốn hồn mình được sạch không? Ai sẽ rửa hồn bạn cho sạch?
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.
Và hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi. Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta sắp sửa mừng kính.
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Ni-cô-đê-mô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng: MC4-B109
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Ni-cô-đê-mô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19-20)
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh sáng."
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại. Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối. Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần "đèn".
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu: MC4-B110
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội? 2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao? 3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài” (Ga 3,16)
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá: MC4-B111
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế gian” (3,19).
Ngài còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “ Như Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời”. Sau này, như được nhắc đến trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)”, và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của Ngài: “ Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài” (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của Ngài”. Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa”. Nhưng đây không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)”.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)”. Ngài còn dặn dò các môn sinh: “ Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34)”. Bạn đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá, Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt: MC4-B112
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí). (b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
Nằm cách thành phố công nghiệp Šiauliai 12 km về hướng Bắc, Đồi Thập Giá được coi là có từ thế kỷ 14, trong thời các Hiệp Sĩ dân tộc Germain. Truyền thống đặt các Thánh Giá làm biểu tượng chiến đấu giành độc lập của dân tộc và chống quân xâm lăng ngoại bang, có liên quan cuộc chiến đấu của Công Giáo Lithuania chống đàn áp. Thời nông dân nổi dậy vào những năm 1831 đến 1863, dân chúng dựng những cây Thánh Giá trên đồi để chống đối, và năm 1895 có khoảng 150 cây Thánh Giá ở đó. Năm 1940, có đến 400 cây Thánh Giá lớn, xung quanh là những cây Thánh Giá nhỏ hơn.
Bị Phátxít Đức chiếm đóng thời Đệ Nhị Thế Chiến, Šiauliai và Đồi Thập Giá bị hư hại nhiều khi bị quân Xôviết chiếm giữ. Chế độ Cộng Sản tiếp tục dời bỏ các cây Thánh Giá và nâng ngọn đồi lên cao gấp ba lần vào những năm 1961, 1973 và 1975, họ đốt những cây Thánh Giá gỗ và biến những cây Thánh Giá kim loại thành đồ phế liệu. Vùng này phủ đầy chất thải và nước thải để làm dân địa phương nản lòng mà không quay lại, nhưng Đồi Thập Giá vẫn là biểu tượng dân tộc của Lithuania, và rồi khách hành hương ở khắp nơi lại đến ngọn đồi này sau mỗi đợt báng bổ, họ đặt thêm những cây Thánh Giá khác. Nhiều khách hành hương liều mạng lén bảo vệ có vũ trang để lên đồi và chui qua các hàng rào kẽm gai, để tỏ lòng tận tụy với cuộc chiến quốc gia. Cuối cùng, người Xôviết nhận được chỉ thị ngưng các cuộc phá hoại, và năm 1985, Đồi Thập Giá được bình yên, tiếng đồn vang xa khắp thế giới Kitô giáo.
Năm 1993, hai năm sau khi Lithuania tuyên bố độc lập, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã đến thăm Đồi Thập Giá và công bố đó là nơi dành cho hy vọng, lòng yêu bình an và hy sinh. Từ đó, hàng triệu người trên khắp thế giới đã đến nơi thánh thiêng này, và số cây Thánh Giá đã lên tới 100.000 vào năm 2006. Đủ kích cỡ, từ 3m tới cực nhỏ treo vào nhau. Những chuỗi tràng hạt, những tượng Chúa Giêsu, các Thánh, và hình các anh hùng của Lithuania cũng được treo trên các cây Thánh Giá. ( Trầm Thiên Thu, chuyển ngữ từ Oddity Central ).
Đồi Thánh Giá đã trở nên biểu tượng dân tộc kiên cường của Lithuania chống ngoại xâm và sự dữ. Riêng cây Thánh Giá là biểu tượng cao sang tuyệt đỉnh của người Kitô hữu. Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu phán: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 14-15 ). Như vậy, Thánh Giá là biểu tượng Ơn Cứu Độ qua Tình Yêu tận hiến, niềm tin, hy vọng và sự sống viên mãn.
Biểu tượng Tình Yêu
Thánh Giá là dấu chỉ Tình Yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa dành cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Điều mà Thiên Chúa không nỡ để Abraham hiến tế Isaac, đứa con duy nhất, thì Ngài lại chấp nhận hy sinh Con Một Giêsu chịu chết thay con người bất hiếu, bất tín, bất trung. Thánh Phêrô cảm nghiệm chân thành ơn cứu độ: “Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” ( 2Pr 2, 24a ).
“Con nắm vững một đường lối Tông Đồ: “Thí mạng vì anh em,”vì không tình yêu nào lớn lao hơn. Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục anh em về với Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 981 )
Biểu tượng niềm tin
Thánh Giá còn là biểu tượng niềm tin vào Chúa Cứu Thế, Đấng giải thoát nhân loại khỏi cái chết đời đời. Người hằng mời gọi tín hữu noi gương xả kỷ vị tha, cùng vác thập giá, bổn phận, trách nhiệm, mà theo Người: “Nếu ai muốn theo tôi, phải tự bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” ( Lc 9, 23 ).
“Tin là chấp nhận Chúa Giêsu vô điều kiện và quyết tâm sống chết với Ngài” ( Đường Hy Vọng, số 283 ).
Biểu tượng hy vọng
Thánh Giá là niềm hy vọng, là bình an và phúc lành, dẫu rằng với thế gian, thập giá là sự thất bại, thất vọng và điên rồ. “Lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì dó là sức mạnh của Thiên Chúa” ( 1Cr 1, 18 ). Cho nên, không lạ gì những người vô thần khắp nơi không thể chịu nối hình ảnh Thánh Giá, đều điên cuồng đập phá. Trong khi Kitô hữu nhìn lên Thánh Giá với tâm tình chan chứa niềm vui, bình an, hy vọng và hạnh phúc.
“Trên Thánh Giá, Chúa nghèo lắm ! Con chỉ xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh một điều: yêu thương, đau khổ và luôn luôn hy vọng” ( Đường Hy Vọng, số 956 ).
Biểu tượng sự sống
“Những kẻ sống theo sự thật , thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: Các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa ( Ga 3, 21 ). Bởi vìper Cruxem ad Lucem, qua Thánh Giá đến Ánh Sáng, sống hướng lên Thánh Giá cũng có nghĩa chấp nhận gian lao, khó khăn, thử thách, nhục hình, hy sinh, để sống theo Sự Thật, theo Lời Chúa, hầu được sống viên mãn vĩnh cửu.
“Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” ( Ga 3, 18 ). Chúa chẳng mấy khi luận phạt nhãn tiền những kẻ chống báng Chúa, mà chỉ luận tội vào hồi chung thẩm, khi thân xác trở về đất bụi. Chính tội nhân tự chọn án phạt, khi đã sống theo xác thịt, theo phù phiếm thế gian, theo thói thờ bái vật, thờ bò vàng.
“Vì Chúa yêu thương môn đệ, Ngài đã yêu thương đến tận cùng !” Tận cùng ấy là Thánh Giá. Hy sinh của con phải trọn vẹn, phải là lễ toàn thiêu, nếu “con yêu tận cùng” ( Đường Hy Vọng, số 161 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin Người kéo chúng con lên Thánh Giá như Người đã phán: “Khi con người bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” ( Ga 12, 32 ), hầu chúng con biết từ bỏ xác thịt yếu hèn, yêu thương và phục vụ tha nhân, chấp nhận gian khổ theo Chúa đến cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con khiêm nhường, hy sinh, chấp nhận mọi thách đố, mà Chúa gửi đến trui luyện chúng con trở nên tốt lành, xứng đáng làm chứng nhân giữa cuộc đời. Amen.
Trong cuộc sống có nhiều dạng thề hứa. Thế hứa là giao ước thực hiện điều gì đó. Những người sống đời sống hôn nhân có lời hứa chung thủy phu thê, nhưng người sống đời sống tu trì có lời hứa mà chúng ta gọi là lời khấn – ít nhất là ba lời khấn: Vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh. Lời thề hứa nào cũng rất cần chữ TÍN.
Giữa các quốc gia có các hiệp ước, các công ty có hợp đồng, giữa các cá nhân cũng có giao kèo. Trẻ em cũng thường ngoéo tay nhau mỗi khi thề hứa với nhau. Trong nhạc phẩm “Ngoéo Tay Nhau Thề”, tác giả Vinh Sử và Cô Phượng mô tả: “Ngoéo tay nhau thề lòng không dối lòng, ngoéo tay nhau thề tình nghĩa mênh mông…” Chính tình yêu cũng có lời nguyện ước giữa hai người yêu nhau.
Tuy nhiên, hứa thì dễ, giữ mới khó. Lời hứa cũng nhiêu khê. Sử gia Thomas Fuller ( 1608-1661 ) nói: “Lời thề trong giông bão bị lãng quên lúc bình yên”. Triết gia Jean-Jacques Rousseau ( 1712-1778 ) nhận định: “Những người chậm chạp khi đưa ra lời hứa là những người trung thành với việc thực hiện nó nhất”.
Chuyện kể rằng…
Một anh chàng giật mình khi nghe một giọng nói khàn khàn, run run. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy. “Ăn hộ tôi mớ rau !”
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người để tới chỗ làm sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: “Dạ, con không ăn, bà ạ !” Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi gã quên rất nhanh cái cảm giác ấy. “Mình thương người thì ai thương mình ?” Ý nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
“Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi !” Tiếng bà cụ yếu ớt. “Rau thế này mà bán cho người ăn à ? Bà mang về mà cho lợn !” Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày, đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà: “Rau này bà bán bao nhiêu ?” – “Hai nghìn một mớ” Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ. “Sao chú mua nhiều thế ?” – “Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy !” Rồi gã nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy lòng mình vui vui...
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, và gã nghĩ đến bà cụ…
“Nghỉ ngơi thế đủ rồi đấy !” Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ...
Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ rồi.
Chiều Chúa Nhật, gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy, có lẽ gã thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang “buôn chuyện”.
Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo: “Bà bán rau chết rồi” – “Bà cụ hay đi qua đây đó hả chị ?” Chị bán nước khẽ hỏi. “Tội nghiệp bà cụ ! Cách đây mấy tuần, bà cụ giở chứng, cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng bà nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh mà... chết !
Câu chuyện khiến lòng chúng ta chùng xuống, nỗi bâng khuâng rất lạ, rất khó tả. Bà cụ là người chân thật, trọng chữ tín. Mấy mớ rau chẳng đáng gì, nhưng với bà cụ, lời hứa rất đáng giá. Lời hứa nào cũng vô giá, dù lớn hay nhỏ, và phải được thực hiện bằng mọi giá !
Giữa Thiên Chúa và con người cũng có những lời thề hứa, chúng ta gọi là giao ước. Thời Cựu Ước, Đức Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Ítraen và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ítraen sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” ( Gr 31, 31-33 ). Thiên Chúa đã hứa gì thì chắc chắn được làm, làm đến nơi đến chốn.
Chúng ta chỉ là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” ( Gr 31, 34 ). Quả thật, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng ?” ( Tv 130, 3 ).
Thiên Chúa không đòi buộc gì nhiều, Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ xong ngay ! Thế nhưng chúng ta là phàm nhân, không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội. Quá quắt lắm, vừa giả hình vừa hứa lèo. Mùa Chay về, dịp thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình, và rồi hãy sám hối: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” ( Tv 51, 3-4 ).
Chút tro rắc trên đầu ( hoặc vẽ trên trán ) cũng chỉ vô ích nếu chúng ta không “xức tro” tâm hồn và “xé lòng” vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương mà bỏ qua hết nếu chúng ta thành tâm đấm ngực chính mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ đừng đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn chúng ta: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” ( Tv 51, 12-15 ). Lời cầu nguyện chân thành như thế này là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại lung linh sắc hồng. Đẹp biết bao !
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đời phàm nhân là thế. Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải chịu trăm cay ngàn đắng. Cay đến xé lòng, đắng đến cứng miệng. Còn con đường nào đau thương hơn Đường Thập Giá ?
Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn Ơn Cứu Độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” ( Dt 5, 7-9 ). Đức vâng lời rất cần thiết, cần thiết hơn cả lễ tế, thế nhưng lại là bài học khó học và khó áp dụng nhất.
Một hôm, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề mà lại nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” ( Ga 12, 23-26 ).
Đó là “giao ước” mà nghe lại như không là giao ước: Nếu thế này thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà lại rất lạ. Cũng với tinh thần đó, Thánh Phanxicô Assisi đã xác định: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” ( Kinh Hòa Bình ). Quả thật, vô cùng kỳ diệu ! Người ta phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, nhờ đó mới có kinh nghiệm, có kinh nghiệm rồi thì mới cảm nghiệm được dạng giao ước “ngược đời” như vậy.
Thiên Chúa đã giao ước với nhân loại sau khi Ông Bà Nguyên Tổ sa ngã. Ngài đã hứa chắc chắn: “Một khi đã thề với danh nghĩa là Đấng Thánh, thì cùng Đavít, Ta chẳng thất tín đâu” ( Tv 89, 36 ). Ngài hứa ban Con Một làm Đấng Cứu Độ, và Ngài thực hiện đến cùng. Chúa Cha cương quyết đến mức Chúa Giêsu, theo nhân tính, còn tưởng Ngài bị Chúa Cha bỏ rơi trong nỗi đau khổ tột cùng và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con ?” ( Mt 27, 45; Mc 15, 34 ).
Vâng, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ?” ( Ga 12, 27a ). Và rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” ( Ga 12, 27b-28 ). Dù sợ nhưng Ngài vẫn chỉ mong Ý Cha nên trọn mà thôi. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !” ( Ga 12, 29 ). Dân chúng đứng ở đó nghe vậy, người thì bảo đó là tiếng sấm, người thì bảo đó là tiếng của một thiên thần. Người trần mắt thịt làm sao hiểu nổi ! Và rồi Đức Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài !” ( Ga 12, 30-31 ).
Giờ G đã điểm. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng”, Thánh Phaolô đã có lần thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” ( 2Tx 2, 7 ). Nhưng dù thế nào, Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng, Ngài vẫn hứa với chúng ta: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” ( Ga 12, 32 ). Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Chúa Giêsu chịu chết để hoàn tất lời hứa của Chúa Cha.
Chúng ta được Thiên Chúa giao ước, chúng ta cũng phải thề hứa với Ngài và tha nhân, nhưng phải thực hiện đúng. Bằng cách nào ? Đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày. Mùa Chay, Mùa Thương Khó, chúng ta hãy noi gương Thánh Nữ Faustina cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con” ( Nhật Ký, số 343 ).
Ý nguyện thật là cao đẹp vì hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, nhưng để thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện, lờ thề hứa. Thật không dễ dàng chút nào ! Nhưng với ơn Chúa, người yếu đuối nhất cũng khả dĩ thực hiện.
Hành trình giao ước rất gian khổ, đầy máu đỏ tươi và nước mắt mặn chát, hành trình lời thề hứa là Hành Trình Thập Giá, phải qua Đường Thập Giá mới tới được Miền Ánh Sáng – Per Crucem ad Lucem.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, xin giúp chúng con can đảm thực hiện mọi lời thề hứa với Ngài và với tha nhân. Đã biết bao lần chúng con lỗi lời thề với Ngài, xin Ngài thương tha thứ; đã bao lần chúng con sai lời hứa với nhau, nhưng chúng con không cho đó là tội phạm tới tha nhân, chúng con thành tâm sám hối và quyết tâm chấn chỉnh, xin Ngài đại lượng thương xót. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Sách Dân Số ( 21, 4b-9 ) kể chuyện, dân Do Thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ?…” Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc ( Ds 21, 6 ), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống ( St 3 ), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô ( Ga 3, 14 ) và vươn xa tới tận thời cánh chung ( Kh 12, 7-10).
Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do Thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.
Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh Giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh Địa và dâng lễ tại Nhà Nguyện trên núi.
1. Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu Ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêrikhô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, Isaac và Giacóp rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi ! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó ! Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Betpơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay ( x. Đnl 34, 4-6 ).
Theo truyền thống Kitô Giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi Giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El-Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêrikhô 11km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđê. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ Kinh của Cựu Ước không.
Theo sách Maccabê ( 2 Mcb 2, 4-7 ), Ngôn Sứ Giêrêmia đã giấu Nhà Tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20.3.2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh Địa. Ngài đã trồng một cây ôliu bên cạnh Nhà Thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9.5.2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh Giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn ( Ds 21, 4-9 ) và là Thánh Giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh ( Ga 3, 14 ) .
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi Nhà Thờ và một Tu Viện vào năm 1933. Ngôi Nhà Thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế Nhà Thờ theo phong cách một Vương Cung Thánh Đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà Thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của Nhà Thờ.
Trong ngôi Nhà Nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
2. Tại sao lại treo con rắn ?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ ( St 3, 1-7 ), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu ! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết ( St 2, 17 ).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.
3. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” ?
Trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có hai cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Sách Dân Số ( 21,9 ) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” ( Ga 3, 16 ). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá. Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” ( Rm 8, 3 ) và Người “đồng hóa mình với tội” ( 2Cr 5, 21 ; Gl 3, 13 ). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” ( Rm 7, 13 ). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, ( chứ không phải báo trước ) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người ( Mc 8, 31 ).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng !
4. Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành ?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống. Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” ( Ga 19, 37 ) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các Giáo Phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa. Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng Thánh Giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.
Nếu nói đến bóng tối và ánh sáng, nếu nói đến sự thiện và cái ác thì có lẽ không thời đại nào có nhiều bóng tối hơn ánh sáng, không thời đại nào có nhiều cái ác hơn sự thiện bằng thời đại hôm nay. Chỉ cần rảo một vòng trên mạng truyền thông, người ta cũng có thể đọc được, nhìn thấy và nghe được biết bao nhiêu là cái ác thay vì sự thiện, có biết bao nhiêu là bóng tối sự dữ thay vì ánh sáng.
Kẻ ác ghét ánh sáng là vậy vì họ luôn làm điều xấu mà ánh sáng lại soi tỏ hành động xấu xa tội lỗi ấy của họ cho nên họ cần bóng tối để trốn chạy, để ẩn náu, để trá hình…
Không phải con người không thể phân biệt đâu thiện đâu ác, nhưng chẳng hiểu tại sao người ta lại ưa chuộng bóng tối đến như vậy. Dường như chỉ trong bóng tối con người mới có thể thỏa mãn tất cả nhu cầu nhục dục của mình. Còn Ánh sáng, Ánh sáng lúc nào cũng dẫn người ta vào con đường hẹp, con đường từ bỏ, hy sinh, hãm mình.
Đức Giêsu đã chọn con đường hẹp để ánh sáng là chân lý của Ngài soi tỏ thế gian. Ngài chính là Ánh sáng đưa nhân loại thoát khỏi vũng lầy của bóng tối sự dữ. Ngài đã chấp nhận chịu giương cao trên cây thập giá để tất cả những nhìn lên Thánh Giá và tin nhận thì được cứu độ: “Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 14 ).
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian tội lỗi, lầm than, bất trung bất tín, phản nghịch cùng Ngài, vậy mà Ngài không ruồng bỏ còn ban chính Con Một mình đến chịu chết chuộc tội cho thế gian. Tại sao vậy ? Tại vì tội lỗi của con người lớn lao đến nỗi chẳng gì có thể tha thứ nổi, chỉ có Con Một Thiên Chúa là Người Con Duy nhất mà Thiên Chúa vô cùng thương yêu, chỉ có duy nhất Người Con ấy mới có thể chuộc tội, đền thay cho nhân loại. Chỉ có Đấng vô tội, Đấng không hề biết phạm tội mới có thể gánh thay tội cho người khác.
Ngay từ nguyên thủy tội lỗi của con người đã nhiều đến ngần ấy, vậy mà cho đến ngày hôm nay, tội ác của nhân loại vẫn không hề giảm bớt. Ngược lại bóng tối ngày càng dày đặc, bao phủ hoàn vũ khiến con người ngày càng quay quắt trong tội. Tuy nhiên, “Nếu ai tin vào Con của Ngưới thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ).
Thiên Chúa đã tha thứ cho con người và Ngài sai Con mình đến không phải để lên án thế gian, nhưng là để cứu chuộc thế gian để cho chúng ta được sống. Bổn phận của chúng ta là phải tin tưởng, phó thác cậy trông tuyệt đối vào tình thương của Ngài. Chỉ cần tin thôi, chúng ta sẽ được cứu độ.
Tình thương Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi nhân loại. Mặc dầu tội con người cao lớn như vậy, đáng sợ như vậy nhưng vẫn không thể lấp đầy tình thương Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng hy sinh chính Con Một mình để cứu độ nhân loại. Con Một Thiên Chúa sẵn sàng hy sinh tính mạng mình chuộc tội chịu chết thay cho nhân loại. Nếu chúng ta tin vào tình thương ấy, chắc chắn chúng ta sẽ bước đi trong ánh sáng của Ngài.
Lạy Chúa, có ai ngoài Ngài cho con ánh sáng, mặc dầu thế gian ngày nay trần ngập ánh sáng, nhưng đó chỉ là những lớp sáng hào quang của phù vân vật chất mau qua chóng tàn, nay còn mai mất, nhưng ánh sáng Thiên Chúa cho con là tình yêu và ơn cứu độ của Ngài thì chiếu sáng con cả cuộc đời. Con xin lỗi, vì đã ngu muội mê lầm đì tìm những thứ hào quang giả trá mà đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa. Xin giúp con sống giữa cuộc đời đầy phong ba bão táp nhưng không đánh mất niềm tin vào chân lý, vào sự thật. Vì đã có tình yêu Ngài là sao sáng dẫn lối con đi.
Cô Qiu Yuanyuan, 26 tuổi, là người dẫn chương trình chơi cờ trên truyền hình ở thành phố Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Hồi tháng 3, Qiu có thai. Nhưng cũng chỉ vài ngày sau đó, các bác sĩ phát hiện một khối u ác tính giai đoạn cuối trong cơ thể cô.
Cô quyết định không điều trị bằng hóa chất để bảo vệ đứa con. Vì thế các tế bào ung thư đã phát tán khắp cơ thể cô. Hồi tháng 9, cô vào bệnh viện để sinh mổ khi thai nhi mới 7 tháng. Qiu và chồng đặt tên con là Niannian.
Ngay sau đó các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật để lấy khối u trong cơ thể Qiu, đồng thời xạ trị cho cô trong 20 ngày. Nhưng nỗ lực của họ không thể cứu mạng cô. Hôm 10.12.2014, cô đã qua đời trong vòng tay của người thân. Cái chết của cô diễn ra ngay sau khi gia đình tổ chức tiệc mừng 100 ngày cho đứa con, South China Morning Post đưa tin.
Zhang Qixuan, chồng của Qiu, nói với báo Tin Tức Trịnh Châu buổi tối: "Sau khi chúng tôi kết hôn, trở thành mẹ là ước mong lớn nhất của cô ấy. Qiu lựa chọn việc bảo vệ con thay vì điều trị ung thư. Vợ tôi hiểu rằng mọi thứ trên đời không thể hoàn hảo và nói rằng cô ấy không bao giờ hối hận vì quyết định như thế."
Sự hy sinh của Qiu trở thành đề tài nóng hổi trên mạng xã hội. Nhiều người ca ngợi cô, song một số người cho rằng cô không nên hy sinh bản thân như vậy. "Tôi nghĩ từ bỏ cuộc sống là lựa chọn không đúng, ngay cả khi tình yêu của người mẹ rất vĩ đại. Một đứa trẻ ra đời mà không nhận sự chăm sóc của mẹ cũng không phải điều hay,” một người lập luận.
Nhưng một người khác lại phản bác và lý luận rằng ngay cả khi Qiu xạ trị ngay từ đầu, cô cũng thoát khỏi cái chết. Vì thế cô đã quyết định sáng suốt trong tình thế tuyệt vọng. ( Nguyễn Sương, Zing 22.12.2014, Speaker truyền hình xinh xắn chấp nhận chết vì ung thư để cứu con ).
Cô Qiu Yuanyuan đã tôn vinh tình mẫu tử cao cả giữa một xã hội duy vật, vị kỷ, chỉ biết sống cho mình. Trong khi Mẹ Maria là biểu tượng tuyệt đỉnh của tình mẫu tử, khi “Xin Vâng” cưu mang Đấng Thiên Sai. Hơn nữa, được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần, như sứ thần loan truyền, Mẹ còn là biểu tượng Hòa Bình, không chỉ giao hòa giữa Thiên Chúa với nhân loại, mà còn giao hòa giữa loài người với tạo vật và với nhau.
Mẹ giao hòa Thiên Chúa
Khi Mẹ Maria khiêm nhường, cúi đầu thân thưa hai tiếng “Xin Vâng”, thì Mẹ đã lật một trang lịch sử mới cho nhân loại. Eva xưa kiêu căng, bất nghĩa, bất phục, bất tín, bất trung với Thiên Chúa, khiến bị đọa đầy khỏi Vườn Địa Đàng, chìm đắm vào cõi chết. Mẹ Maria lại khiêm nhường, hy sinh, tái lập mối tương giao với Thiên Chúa, bằng sự vâng phục, trung thành, phó thác vào Tình Yêu tuyệt đối. Mẹ đã đạp dập đầu con rắn kiêu căng, phản bội. Nhờ vậy, Mẹ dẫn loài người theo Đấng Cứu Thế vào cõi hằng sống.
"Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng" ( Lc 2, 19 ). Mẹ ghi nhớ những điều các mục đồng kể lại, cũng như biến cố Bêlem vừa diễn ra. Mẹ âm thầm suy gẫm, cố gắng tìm hiểu ý nghĩa những dấu chỉ, để thấu hiểu và tuân theo Thánh Ý qua từng sự kiện, diễn biến.
“Đức Mẹ hoàn toàn sống cho Chúa, sứ mạng của Mẹ là đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu. Tất cả vinh danh của Đức Mẹ là do nơi Chúa Giêsu. Đức Mẹ không là ai cả, nếu con không phải là Chúa Giêsu, nếu cả đời Đức Mẹ không phải là cho Chúa Giêsu. Đời con không là gì cả, nếu tách lìa Chúa Giêsu” ( Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 936 ).
Mẹ giao hòa nhân loại
Kể từ khi Ađam và Eva bị trục xuất ra khỏi Vườn Địa Đàng, thiên nhiên vạn vật, động vật, thảo vật cũng không còn mối lương duyên với con người. “Đất đai bị nguyền rủa vì người… Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi” ( St 3, 17-18 ).
Với hồng ân của Đức Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã giao hòa thiên nhiên, vạn vật với loài người. Một ngôi sao sáng hướng dẫn ba nhà chiêm tinh đến bái lạy Hài Nhi. Đàn chiên, bò đem hơi ấm đến sưởi Hài Nhi khỏi giá rét. Mẹ kết nối tình nghĩa với thân bằng, như thăm bà chị họ Elisabét, hòa đồng với các mục đồng chung quanh, quan tâm giúp đỡ những người khó khăn, như cặp tân hôn nghèo khó Cana.
Dưới chân thập giá, Mẹ lại tiếp tục vâng theo lời trăn trối của Đức Giêsu, nhận môn đệ Gioan là con, cũng như nhận toàn thể nhân loại làm con Mẹ. Như thế, tất cả mọi người được hòa giải, trở nên anh chị em của nhau dưới bóng Đại Hiền Mẫu Maria.
“Lúc sa ngã, hãy khiêm tốn, khóc lóc với Mẹ, vì con đã giết chết Con Mẹ. Mẹ sẽ đón nhận con. Gioan, Mẹ cũng nhận, người trộm lành, Maria Mađalêna, Mẹ cũng nhận làm con Mẹ” ( Đường Hy Vọng, số 915 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban bình an cho chúng con, xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Hòa Bình, luôn sống khiêm nhu, nhỏ bé, nghèo khó, để ăn năn, sám hối, giao hòa với Thiên Chúa và vui vẻ đón nhận tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con vượt thắng bản thân, cám dỗ, biết xả kỷ vị tha, để có thể sống hòa bình với anh chị em và nhất là giao hòa với Chúa qua Bí Tích Hòa Giải. Amen.
Vài hôm trước ngày bị hạ sát, Tổng Giám Mục Oscar Romero phát biểu với một phóng viên nhà báo: "Ông có thể nói với dân chúng rằng, nếu họ thành công trong việc ám hại tôi, tôi sẽ tha thứ và ban phép lành cho những ai làm điều ấy. Hy vọng họ sẽ nhận ra rằng họ đã phí uổng thời giờ. Một vị Giám Mục sẽ chết, nhưng Giáo Hội của Thiên Chúa, tức là Giáo Hội của dân chúng sẽ chẳng hề bị hủy diệt."
Vào lúc 6 giờ 25 chiều ngày 24.3.1980, tại Nguyện Đường của Bệnh Viện Chúa Quan Phòng, một bệnh viện dành cho bệnh nhân ung thư, Tổng Giám Mục Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một ký giả bạn thân, vừa mới qua đời. Đức Cha Romero đọc đoạn Phúc Âm theo Thánh Gioan: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" ( Ga 12, 23-24 ). Đức Cha triển khai chủ đề ấy trong bài giảng ngay sau đó, áp dụng nó vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt.
Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh, mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta... Kẻ nào né tránh sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài." Ngài còn nói: "Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân El Salvador của tôi."
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị bánh và rượu để dâng hy lễ Chiên Thiên Chúa, thì tiếng súng nổ, một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên. Tổng Giám Mục Romero trúng đạn, máu chảy lai láng. Người ta vội đưa ngài đi cấp cứu, nhưng ngài đã tắt thở.
Giết chết Tổng Giám Mục Oscar Romero, thế lực quân phiệt, tài phiệt bạo ngược chưa thỏa lòng. Họ còn cho binh lính mai phục trên nóc Nhà Thờ, đặt chất nổ và xả súng bắn vào đoàn người đang dự Lễ An Táng Đức Cha, ngay trước tiền đường Nhà Thờ Chánh Toà, khiến thêm 37 người nữa bị tử nạn và hàng trăm người bị thương. Nhưng ai là thủ phạm các vụ tàn sát trên thì "chỉ có Chúa biết" ( Theo Romero: A life của James A. Brockman ).
Trong Thánh Lễ cuối cùng trước khi được Chúa thương gọi về, Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero đã công bố bài Tin Mừng hôm nay. Đồng thời ngài áp dụng trung thành Lời Chúa Giêsu phán dạy:“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 25 ). Trong tiểu sử Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero, không nhắc đến tâm hồn ngài cảm thấy thế nào trước nguy hiểm đe dọa, có lẽ tác giả muốn bỏ qua sự yếu đuối của thân xác. Còn Thánh Gioan không hề che đậy, cặn kẽ mô tả Đức Giêsu khủng hoảng trước cuộc tử nạn.
Khủng hoảng
"Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ?” Tâm hồn Đức Giêsu bất an, nôn nao, lo lắng, khiếp hãi, khủng hoảng vô cùng trước mối đe dọa sống còn. Cuộc chiến giữa bản năng sinh tồn và ý chí dấn thân vâng phục vô cùng khủng khiếp, nghiệt ngã, khiến Đức Giêsu phải đổ mồ hôi hột giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. ( x. Lc 22, 44 ).
Dẫu vậy, Đức Giêsu luôn xác tín linh hồn quan trọng và thiết yếu hơn thể xác, vốn yếu đuối, hèn mọn, mỏng dòn và mau hư nát. Há tiếc chi cái xác phù du, sợ chi cái chết đe dọa, kẻ thủ ác bạo tàn ? Đáng sợ là mất cả chì lẫn chài trong hỏa ngục do Thiên Chúa phán xét công minh vào ngày chung thẩm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Ðúng hơn, anh em hãy sợ Ðấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” ( Mt 10, 28 ).
Thư gửi Do Thái, Thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thật vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được nữa, mà chỉ còn sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng tiêu hủy các đối tượng của Thiên Chúa” ( Dt 10, 26-27 ).
“Chúng ta phải học lấy bài học của Chúa Kitô: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình” ( Lc 9, 23 ). Đúng thế hãy từ bỏ chính mình, từ bỏ những dễ dãi, từ bỏ những quan điểm cá nhân, và hãy chỉ theo tư tưởng của Chúa Kitô, Đấng có thể dẫn chúng ta tới cái chết, nhưng chắc chắn cũng sẽ dẫn chúng ta tới sự phục sinh” (Tgm. Oscar Romero, 19.6.1977, L’Amour Vainqueur ).
“Đừng nhát sợ ! Hãy xem Công Vụ các Thánh Tông Đồ: đói khát, rách rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tầu, vu vạ, tù ngục, chết chóc,... Nếu con sợ, đừng làm Tông Đồ” ( Đường Hy Vọng, số 167 ).
Cầu nguyện
Trong cơn gian nguy cùng cực, chỉ có duy nhất Thiên Chúa là Đấng ra tay cứu độ. Đức Giêsu đã hốt hoảng van nài trông cậy: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” ( Ga 12, 27 ). Vừa xin cứu giúp, vừa xác tín vâng phục sứ vụ, Đức Giêsu trở nên gương mẫu tuyệt đỉnh về cầu nguyện cho tín hữu. Tin cậy mến hoàn toàn, không chút vấn vương hoài nghi, bởi chưng “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ).
Cầu nguyện luôn là cầu nối mật thiết và quan trọng với Thiên Chúa, hiệp nhất với Ngài trong tư tưởng, lời nói đến hành động. Qua lời cầu nguyện, Ngài sẽ thông ban ơn phù trợ, sức mạnh, ơn bền vững trước cơn thử thách, trước cuộc khổ nạn. “Cầu nguyện là một dạng năng lực mạnh nhất mà chúng ta có thể khơi lên” ( Bác sĩ Alexis Carrel ).
Đức Giêsu luôn tha thiết mời gọi các môn đệ, các tín hữu luôn sốt sắng tỉnh thức và cầu nguyện, để chống trả cám dỗ và sự dữ, hầu được hưởng cứu độ. “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” ( Lc 21, 36 ).
“Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện ? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu, quyết định như Môsê giang tay trên núi, được tha thiết như người trộm lành, khiêm tốn như người thu thuế" ( Đường Hy Vọng, số 135 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mình, hy sinh, hiến thân cho Chúa, phục vụ tha nhân. Xin Chúa cho chúng con luôn tỉnh thức, nhận biết và chế ngự những cám dỗ xác thịt, thế gian và ma quỷ. Xin Chúa ban hồng ân Chúa Thánh thần cho chúng con sức mạnh chiến đấu với sự dữ và trung thành với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ đã trải qua Bảy Sự Thương Khó đau đớn, kính xin Mẹ che chở, phù hộ chúng con trước phong ba bão táp cuộc đời và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
Từ “hy sinh” không biết xuất hiện trong tâm thức nhân loại từ lúc nào, nhưng có thể khẳng định rằng nếu thế giới này mất nó thì cuộc sống sẽ thành hỏa ngục. Đúng vậy, khi người ta biết hy sinh thì mới có thể giữ trật tự cuộc sống. Nếu như một thế giới chẳng còn ai biết sống cho ai, vì ai; nếu như cuộc đời chẳng còn những người biết hy sinh cho nhau thì làm gì có hạnh phúc.
Tại sao hy sinh lại quan trọng và cần thiết như vậy ? Vì nhân loại khiếm khuyết bất toàn, con người cần bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy hy sinh ra đời, để người này bù đắp cho người khác, kẻ này nhường nhịn kẻ nọ. Không có hy sinh nghĩa là chỉ còn chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, ai ai cũng ích kỷ ki bo cho riêng mình, tất yếu nổi loạn, bạo động sẽ xảy ra.
Thế giới vẫn ca ngợi sự hy sinh, trong đó có rất nhiều sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái, con cái hiếu thảo với cha mẹ, người này hy sinh cho kẻ nọ… nhưng cộng dồn tất cả hy sinh của nhân loại, của con người dành cho nhau vẫn không thể sánh bì sự hy sinh của Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy sinh chính Con Một của mình đến thế gian để chuộc tội cho thế gian. Đó cũng là sự hy sinh của Đức Giêsu dành cho nhân loại. Vì yêu thương Chúa Cha, vì vâng phục thánh ý Ngài, Đức Giêsu đã vâng lời đến thế gian, mang ơn cứu chuộc cho muôn người, gánh lấy tội lỗi của muôn người, chết thay cho họ.
Có rất nhiều loại hy sinh nhưng có lẽ không hy sinh nào lớn lao cho bằng sự hy sinh chính mạng sống mình cho người khác. Người ta có thể hy sinh cho nhau tiền bạc, của cải, vật chất, tình yêu, sự nghiệp, tiền tài, thời gian, của cải, bằng cấp, danh phận… nhưng mấy ai dám lãng quên chính mạng sống, chính bản thân mình để cho người khác được sống. Chỉ mình Đức Giêsu mới có thể làm được như vậy.
Ngài không chỉ cứu một ai, riêng ai, nhưng là chuộc tội cho cả nhân loại. Tội lỗi con người gây ra phải lớn lao lắm, nặng nề lắm, to lớn lắm cho nên chỉ một mình Con Thiên Chúa mới có thể hóa giải, gánh thay, đền thay cho được. Hơn nữa, có ai trong thiên hạ vô tội để mà có thể chết thay cho người khác ? Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho người có tội mà thôi. Đức Giêsu đã chết để minh chứng một chân lý hùng hồn: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trụi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 24-25 ).
Có gì quý giá hơn chính mạng sống ? Chẳng phải trải qua bao nhiêu nghìn năm, người ta đã cất công truy tìm những phương thuốc trường sinh bất tử hầu có thể kéo dài mạng sống hay sao. Thậm chí họ còn dùng biết bao nhiêu thủ đoạn đê hèn để được sống mãi. Thế nhưng chẳng có cuộc sống nào vĩnh cửu trên trần gian này cả. Ngoại trừ cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đó chính là Sự Sống đời sau, đó chính là Sự Sống Nước Trời.
Sự sống mà thế giới đang thủ đắc chỉ là tạm. Tại sao con người cứ bám giữ lấy nó để mà bỏ đi Sự Sống thật, Sự Sống vĩnh cửu mai hậu kia chứ. Có lẽ thế giới đã thực dụng hóa tất cả. Họ coi trọng thực tế, họ tôn thờ hiện tại và xóa bỏ tương lai. Không cần biết mai này sao, không cần biết mai thế nào. Chỉ cần hôm nay tôi được thỏa mãn mọi đam mê dục vọng là đủ.
Lạy Chúa, nếu nói đến hy sinh thì có lẽ con nhận nhiều hơn cho đi. Con đã nhận biết bao sự hy sinh của người khác. Hy sinh không chỉ vật chất mà còn bằng sự hãm mình, lời cầu nguyện, lòng trăn trở...
Thật ra, con nợ hy sinh thay vì hy sinh. Nhưng xét cho cùng, con chẳng nợ ai nhiều cho bằng nợ Chúa. Và cũng chẳng ai hy sinh cho con nhiều hơn Ngài. Con đã nhận biết điều ấy từ rất lâu rồi kìa, nhưng đến tận hôm nay mà vẫn chưa trả được chút nào, nếu không muốn nói là... nợ chồng chất nợ.
Nợ người đời con trả đã không hết, nợ ân tình Thiên Chúa con trả sao được bây giờ ? Thôi thì, xin tha thứ cho con, trả dùm con ân huệ những ai đã làm ơn làm phúc cho con. Và xin Chúa giúp con biết tha thứ cho kẻ mắc nợ mình. Riêng con, con xin nợ Ngài, cho con xin khất một ân tình…
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" ( Ga 12, 23-24 ).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con đường hạt lúa Giêsu
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế". Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" ( Pl 2, 6-11 ).
Phúc Âm theo Thánh Marcô viết: "Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại" ( Mc 8, 31 ). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy ! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người" ( Mc 8, 32-33 ). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: "Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem... Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" ( Mc 10, 32-34 ). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
2. Con đường hạt lúa các môn đệ
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta" ( Mc 8, 34 ). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: "Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng và ân sủng của Thiên Chúa" ( CV 20, 22-24 ).
Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết" ( Pl 3, 10-11 ). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng Lịch Sử Giáo Hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo Hội lớn mạnh không ngừng. "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu". Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như Thánh Phaolô và các Tông Đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" ( Ga 12, 25 ). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" ( Ga.12, 27 ). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" ( Ga.12, 27 ).
Nếu "Hạt lúa âm thầm mọc lên" ( x. Mc 4, 26-29 ) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì "Hạt lúa phải mục nát đi" ( x. Ga 12, 24 ) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Lætare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
"Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia : "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... ".
Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay. Làm sao không thể vui mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng ?
Vì tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ "được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể : "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài ... để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ" (Ga 3,16-17).
Thiên Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh phúc.
Vui vì được yêu thương và được cứu
Chúng ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ Phục Sinh, hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong "hoang địa". Ðây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc lại cuộc xuất hành của người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số người bị rắn độc cắn và bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây sào : ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành (x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Ðức Giêsu sẽ được giương cao trên thập giá để bất cứ ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ, đúng như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Theo thánh Âugustinô thì : "Người thầy thuốc là người đến để chữa bệnh. Nếu người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của thầy thuốc, anh ta tự làm hại mình. Ðấng Cứu Thế đến thế gian...nếu anh không muốn được Ngài cứu chuộc, anh tự phán xét chính mình" (Sul Vangelo di Giovanni, 12,12: PL 35, 1190). Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội cho con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình. Thực vậy, mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của mình để được cứu chữa; từng người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người. Thánh Âugustinô viết tiếp: "Thiên Chúa lên án tội lỗi và nếu anh cũng làm tương tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu tách mình khỏi những gì đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã từ bỏ những việc bất chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai sót của mình."
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ánh Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm tối hơn là ánh sáng. Có biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những đám mây của sự dữ vẫn còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo tại Irắc và Siria, những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm hoen ố con tim, đưa đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác các tài nguyện không nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích kỷ khiến con người khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân, thay vì những lý tưởng cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm khoái lạc, hưởng thụ, tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại gia đình, tàn sát các bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là xóa bỏ sự "thờ ơ toàn cầu hóa". Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước : " Nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ" (Sứ điệp MC 2015). Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần phải loại bỏ trong xã hội hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng mới coi tha nhân như là anh chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ trên cuộc hành trình tiến đến tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả thờ ơ của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo hội sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(14) Khi ấy Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án ; Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.
- C 14-15: + Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con người và giáo lý của Đức Giê-su, nhưng vẫn trong tâm trạng dè dặt. Sau này ông đã can đảm bênh vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52; 12,32). Và khi an táng Người, ông đã can đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). + Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dân Do Thái thay vì biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca trách móc khi phải chịu kham khổ. Họ thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn là hằng ngày được ngồi bên nồi thịt và được ăn uống no nê, còn hơn là được tự do mà bị đói khát thiếu thốn giữa nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng phạt họ về tội vô ơn bạc nghĩa ấy. Họ đã bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Bấy giờ họ mới hồi tâm sám hối và cầu xin Mô-sê để chuyển cầu xin Đức Chúa tha tội. Đức Chúa đã tha và truyền đúc tượng một con rắn bằng đồng, treo lên cây cột để ai bị rắn cắn mà tin cậy vào tình thương tha thứ của Đức Chúa qua việc nhìn lên con rắn đồng này, thì sẽ được cứu sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là một hình ảnh được ngôn sứ Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con Người nói đây là một nhân vật được Đức Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mệnh cai trị muôn dân trong sự công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con Người theo nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). + Cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời: Đức Giê-su đã tiên báo Người sẽ được nâng lên khỏi mặt đất, hay bị treo trên cây thập giá, giống như con rắn đồng thời Mô-sê xưa, để giao hòa tội nhân với Đức Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu độ cho loài người. Người cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín hữu lên trời hưởng hạnh phúc với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).
- C 16-18: + Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian chính là mọi loài thụ tạo, đặc biệt là loài người. Sự ban tặng này, gợi lên hình ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng lời Đức Chúa, đem hiến dâng con trai độc nhất là I-sa-ác để làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: Điều kiện để được ơn cứu độ là phải tin vào Đức Giê-su - Con Một Thiên Chúa, là Đấng ban ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ là ơn tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình phạt đáng chịu vì tội, và saư này được sống lại trong ngày tận thế để được hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời với Chúa. + Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án: Tin ở đây là chấp nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Tin cũng là vâng nghe lời Người mời gọi, là từ bỏ mọi sự mà vác thập giá bước theo chân Người. Tin đòi ta phải kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su để sống tình yêu thương đối với tha nhân, giống như cành nho chỉ phát sinh hoa trái nếu được tháp nhập vào thân cây nho và hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang cho (x. Ga 15,4).
NÓI CÁCH KHÁC:
Tin là sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Những ai đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su như vậy thì không bị kết án nữa vì họ đã được Người chịu chết đền tội thay cho rồi. + Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa: Không tin là từ chối Chúa, là không sống trong ơn nghĩa với Chúa. Đây là những kẻ thù ghét Đức Giê-su và chống lại Hội Thánh của Người. Vì kẻ không tin không được dự phần vào ơn cứu độ của Đức Giê-su, nên tội và án phạt của họ vẫn còn đó. Vì không tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, nên họ sẽ không được cứu độ nhờ Danh Người (x. Pl 2,9-11). Như vậy, những kẻ không tin đã tự loại mình ra khỏi Ơn Cứu Độ của Đức Giê-su
- C 19-21: + Ánh sáng đã đến thế gian: Đức Giê-su là “Vầng Đông soi sáng” (x. Lc 1,78-79 ; 2,32) là “ánh sáng đích thực” đã đến thế gian và chiếu soi mọi người (x Ga1,9). Người đã tự ví mình là “Ánh Sáng thế gian” để ai theo Người thì sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống đời đời (x. 9,5). Những ai tin vào Danh Người thì không phải chết và không bao giờ bị hư mất (Ga 12,46). + Người ta thích bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa: Thánh Phao-lô giải thích lý do người ta thích bóng tối hơn ánh sáng là do tội bất phục tùng của nguyên tổ A-đam nên tội lỗi đã nhập vào thế gian, và tội là nguyên nhân dẫn đến sự chết (x. Rm 5,12). Tội nguyên tổ làm cho con người dễ chiều theo bóng tối hơn ánh sáng. Thánh Phao-lô cũng thú nhận như sau: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). + Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách: Bóng tối và ánh sáng luôn xung khắc nhau. Ánh sáng đi đến đâu thì sẽ xua tan bóng tối. Người đời thường ưa thích bóng tối là các đam mê tội lỗi hơn là ánh sáng của sự khiêm hạ phục vụ tha nhân. Họ không chấp nhận ánh sáng là Đức Giê-su và còn xuyên tạc các việc tốt Người làm (x. Mt 9,33-34). Họ rình để bắt lỗi từng lời nói việc làm của Người để tố cáo Người (x. Mc 3,2). Cụ thể là phái Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên minh với nhau để tìm cách triệt hạ Người (x. Mc 3,6). + Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa: Những người ăn ở lương thiện và công minh chính trực, thì dễ dàng tìm thấy chân lý và sẵn sàng đi theo ánh sáng soi đường là Đức Giê-su. Nhờ đó họ sẽ làm được nhiều việc tốt theo thánh ý Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết đức tin vào Đức Giê-su của ông Ni-cô-đê-mô diễn tiến thế nào? 2) Con rắn trong sa mạc thời kỳ Xuất Hành của Cựu Ước, liên quan thế nào với việc Đức Giê-su chịu chết trên thánh giá thời Tân Ước sau này? 3) Ngày nay muốn được hưởng ơn cứu độ do Đức Giê-su thiết lập, các tín hữu cần những điều kiện nào? 4) Tin vào Con Thiên Chúa cụ thể đòi chúng ta phải làm gì? Tin như vậy ta sẽ được lợi ích nào? 5) Hình phạt dành cho những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su sẽ như thế nào? 6) Đức Giê-su đã nói câu gì để mặc khải Người là ánh sáng? Tại sao người đời lại thích bóng tối hơn ánh sáng do Đức Giê-su đem lại? 7) Ai đi theo ánh sáng của Đức Giê-su thì sẽ được những ơn ích nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,15)
2. CÂU CHUYỆN: RẮN ĐỒNG TRONG SA MẠC
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô vào lúc đêm tối, Đức Giê-su đã đề cập đến con rắn đồng đã được Mô-sê treo trên cây cột, như một biểu hiệu tình thương của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của dân Ít-ra-en. Tình thương ấy sẽ còn được biểu lộ qua việc Đức Giê-su bị giương cao trên cây thập giá, để những ai tin nơi Người, nhìn lên cây thập giá là biểu hiệu tình yêu tột đỉnh của Người, thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người cứu độ và được tham phần sự sống muôn đời của Người (Ga 3,14-15). Thánh Gio-an đã tóm kết như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
3. SUY NIỆM:
1) Thiên Chúa yêu thế gian nên đã sai Con Một xuống cứu độ thế gian:
Đã từ lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn quanh một cây gậy cũng được ngành y dược thế giới chọn làm biểu tượng của khoa chữa bệnh cho con người. Hình ảnh ấy xem ra cũng rất phù hợp với ý nghĩa của con rắn đồng thời Mô-sê, được treo trên cây cột để chữa lành những ai phạm tội nà bị rắn cắn được khỏi chết. Tuy nhiên chỉ có Đức Giê-su, Đấng đã hiến thân chịu treo trên thập giá, mới thật là linh dược chữa lành mọi bệnh hoạn thể xác và linh hồn của chúng ta.
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau: Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ vâng theo ý Chúa Cha đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang”, Đức Giê-su đã chịu khổ hình thập giá để đền tội thay loài người và trở thành Đấng trung gian hòa giải loài người với Thiên Chúa.
2) Điều kiện để nhận được ơn cứu độ của Chúa Giê-su:
Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ phải hội đủ mấy điều kiện sau: Một là khiêm tốn nhận mình là tội nhân để ăn năn sám hối và chịu phép rửa tội tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Chúa Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải sẵn sàng “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi con đường hẹp leo dốc của Chúa Giê-su”.
Nhờ cùng chết với Chúa Giê-su, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người là được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.
3) Tin và đi theo con đường thánh giá của Chúa Giê-su:
Cũng như khi bị mắc bệnh nan y, nếu muốn được khỏi bệnh, ta phải đến xin thầy thuốc khám bệnh để tìm nguyên nhân và cho thuốc điều trị. Bệnh nhân chỉ được khỏi bệnh nếu tin vào khả năng của thầy thuốc khám bệnh, nhận toa thuốc và uống thuốc đúng như liều lượng. Cuối cùng còn phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ để tránh nguyên nhân gây bệnh về sau. Cũng vậy, khi chúng ta phạm tội mà muốn khỏi bị chết về tâm linh, ta cần tin vào Chúa Giê-su, đi theo đường thánh giá, năng nhìn lên Chúa bị treo trên thánh giá để cầu xin ơn tha tội noi gương người trộm lành xưa (x. Lc 23,40-43). Chắc chắn chúng ta sẽ được ơn Chúa cứu độ và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
4) Phải làm gì để được ơn tha tội và chừa bỏ thói hư?:
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại để biết mình đang sống trong ánh sáng hay đang ở trong bóng tối sự chết? Chúng ta hãy đến bệnh viện của Chúa là Hội Thánh để kiểm tra sức khỏe tâm hồn, để được Chúa Giê-su chữa lành bênh tật thói xấu là mối tội đầu. Một tác giả vô danh đã kể về cuộc kiểm tra sức khỏe tâm linh của ông ta nơi bệnh viện của Chúa và đã được ơn Chúa chữa lành như sau:
- Đầu tiên khi đo huyết áp cho tôi, bác sĩ Giê-su cho biết tôi bị bệnh thiếu máu Đức Tin và Lòng Bác Ái. Và khi cặp độ, nhiệt kế báo hiệu tôi đang bị sốt cao Ích Kỷ lên tới 40 độ cần phải cấp thời được điều trị.
- Ðiện tâm đồ chỉ ra rằng trái tim của tôi thiếu những rung động Tình Thương, chứng huyết áp cao do mạch máu bị tắc nghẽn vì lớp cholesterone Ganh Ghét và có nguy cơ bị đột quỵ bất cứ lúc nào.
- Tới khoa xương khớp, tôi đã tìm ra nguyên nhân tại sao chân tay của tôi lại hay bị đau nhức khiến đi đứng khó khăn, là do Mỡ Tự Mãn trong máu lên khá cao và chất đạm axit uric do ăn uống thiếu điều độ cũng tăng gấp đôi mức an toàn, nên bị cục Gút ở khuỷu tay rất khó cử động bình thường. Cũng vì thế mà tôi không thể “Đi Bước Trước” để mỉm cười bắt tay người mới gặp hay cố gắng bắt chuyện làm hòa với bà chị dâu khó tính luôn nói hành nói xấu tôi.
- Chứng cận thị Tham Lam làm mờ mắt khiến tôi đánh giá tha nhân dựa trên dáng vẻ bề ngoài như nhà cửa, xe cộ, quần áo… thay vì nhìn vào bản chất và động cơ ẩn giấu trong tâm hồn họ.
- Do quen nghe những tiếng ồn ào của quán nhạc Ka-ra-ô-kê nên một bên tai tôi đã bị Ðiếc Nặng, không còn nghe được hay muốn nghe những lời tâm sự của những người bất hạnh.
Tôi đã được bác sĩ Giê-su tận tình khám bệnh miễn phí do Lòng Thương Xót. Người đã cho tôi một toa thuốc gồm hai loại thuốc đặc trị là Lời Chúa và Thánh Thể, đồng thời khuyên tôi thực hành vật lý trị liệu là Thao Luyện Tâm Linh và làm Công Tác Bác Ái thăm viếng tha nhân.
Tôi quyết tâm trong Mùa Chay này sẽ chữa bệnh theo toa thuốc của Chúa như sau:
Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tôi sẽ dùng ngay một ly nước Tạ Ơn Chúa. Trong bữa điểm tâm, tôi uống thêm một thìa súp Nụ Cười Thân Thiện và Chào Hỏi những người tiếp xúc.
Ở cơ quan làm việc, lợi dụng các giờ nghỉ giữa giờ, tôi làm các động tác vật lý trị liệu là Nghĩ Đến Người Khác và Đáp Ứng Nhu Cầu của họ. Trong bữa trưa, tôi không quên uống thêm viên thuốc Nhẫn Nại Chịu Đựng. Buổi tối về nhà, tôi không quên vận động tay chân bằng cách giúp người thân làm các việc nhà biểu lộ Tình Thương Cụ Thể. Rồi trước khi đi ngủ, tôi uống thêm thuốc Sám Hối Tạ Ơn và Cậy Trông Phó Thác trong tay Chúa quan phòng.
4. THẢO LUẬN: 1) Khi nào ta phạm tội với Thiên Chúa và tha nhânvà phân biệt Tội nặng nhẹ về giống tội, về mức độ phạm và về hình phạt? 2) Có khi nào người ta chỉ phạm tội bằng lời nói mà vẫn có tội nặng hay không? Nêu ví dụ tội nặng về lời nói, việc làm hay bỏ việc phải làm. 3) Khi ý thức mình đã phạm tội, chúng ta cần làm gì noi gương người phụ nữ tội lỗi (x Lc 7,47) hay ông Phê-rô (x Lc 22,61-62),để sớm được giao hòa với Chúa?
5) NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã yêu thương chúng con đến cùng, nên đã ban Lời Chúa cho chúng con và dạy chúng con biết cách ăn ở thế nào để nên con thảo của Chúa Cha, và anh chị em của mọi người. Chúa cũng ban bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đức tin trong cuộc hành trình về Nhà Cha trên trời. Chúa còn ban chính mạng sống mình, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng con. Để mỗi lần lỡ sa ngã phạm tội, chúng con biết tin thác vào tình thương của Chúa và nhìn lên Thánh giá, để xin ơn tha thứ. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con năng suy niệm chặng đàng Thánh giá, chăm chỉ đến nhà thờ suy ngắm mười lăm sự thương khó, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay để cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và quyết tâm chừa cải các thói hư. Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ được biến đổi nên người mới, thành con yêu dấu của Chúa Cha, môn đệ thực sự của Chúa và nhiệt tình làm việc tông đồ là làm chứng cho tình thương của Chúa với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật phong phú, mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng một Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Bài đọc Cựu Ước trích dẫn hoàn cảnh lịch sử dân Ít-ra-en bị lưu đày tại Ba-by-lon, rồi sau thời lưu đày được vua Ky-rô cho hồi hương và giúp tái thiết, là hai biến cố bày tỏ cơn thịnh nộ và lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô suy niệm về lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ trong Chúa Giê-su Ki-tô cho chúng ta và các thế hệ mai sau. Đúng vậy, qua bài Tin Mừng, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy tột đỉnh của tình yêu và lòng thương xót Thiên Chúa dành cho nhân loại chính là hình ảnh “Con Người được giương cao” trên thập giá, “để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Bài trích sách 2 Sử Biên niên trước hết nói lên những tội lỗi của Ít-ra-en phạm đến Thiên Chúa. Nào là “bất trung bất nghĩa, theo thói ghê tởm của chư dân, làm cho Nhà Chúa ra ô uế, nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa và chế giễu các ngôn sứ của Người”. Cho nên Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, bắt họ đi lưu đày tại Ba-by-lon là vì muốn cho họ phản tỉnh và quay về với Người. Thực tâm Người đâu muốn làm như vậy, mà chỉ vì yêu thương nên cho roi cho vọt mà thôi! Cuối cùng vì quá giàu lòng thương xót, Người không chịu nổi khi thấy cảnh con cái khổ cực nhục nhã nơi xứ lạ quê người, nên Chúa lại nuốt giận mà tỏ lòng thương xót họ. Chẳng những Người cho họ trở về quê cha đất tổ, mà còn sắp xếp để chính kẻ thù của Ít-ra-en lại là người chủ động công việc tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem nữa!
Còn thánh Phao-lô tông đồ thì cho chúng ta một cái nhìn mới về tình yêu xót thương của Thiên Chúa. Ngài coi lòng thương xót của Thiên Chúa như là một “ân sủng dồi dào phong phú” Chúa ban cho chúng ta, chứ “không phải bởi việc chúng ta làm”. Sự dồi dào phong phú ấy nói lên tình yêu vô điều kiện của Chúa và sẽ tiếp tục được “biểu lộ cho các thế hệ mai sau”.
Tuy nhiên, những suy niệm khởi đầu kể trên chỉ là để chuẩn bị cho chúng ta sẵn sàng nhìn lên thánh giá Chúa Ki-tô, ở đó lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ vô cùng sống động. Thánh sử Gio-an ghi lại cách Chúa Giê-su đo lường tình yêu của Thiên Chúa: yêu đến độ cho đi Con Một của Người. Chúng ta thử nghĩ xem: một người Con duy nhất, quý nhất, vậy mà Thiên Chúa đem cho chúng ta; lại nữa, cho thôi chưa đủ, còn muốn người Con ấy phải chết vì chúng ta nữa! Sau khi A-đam phạm tội, tất cả nhân loại đã trở thành “kẻ thù” của Thiên Chúa và bị kết án. Có người Cha nào lại bắt Con mình phải hy sinh tính mạng trên thập giá để cứu “kẻ thù” của mình khỏi bị án phạt đời đời không? Động lực nào khiến Thiên Chúa làm chuyện hoàn toàn vô lý như vậy nếu không phải vì tình yêu và lòng thương xót? Tình yêu có lý do riêng của nó là như thế đấy! “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ê-phê-xô 2:4). Thánh Phao-lô có viết bao nhiêu điều thần học sâu xa thì cũng là để quảng diễn chân lý trên. Hoặc thánh sử Gio-an có viết cuốn Tin Mừng và giả sử có viết hết mọi điều về Chúa Giê-su, thì cũng vẫn quy về chân lý căn bản: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thiên Chúa có cách tỏ tình độc đáo riêng của Người. Người để cho Con Một của mình chịu chết treo cao trên thập giá để nói với chúng ta rằng: Cha yêu chúng con, yêu vô điều kiện, yêu đến độ không giữ lại cho mình bất cứ điều gì. Bà mẹ hỏi đứa con nhỏ yêu mẹ để ở đâu. Đứa bé để hai tay lên đầu. Còn nếu chúng ta hỏi Chúa Giê-su yêu chúng ta thế nào, Người sẽ giang hai tay như khi Người ở trên thánh giá và trả lời chúng ta: Cha yêu con nhiều như thế này đây! Tình Chúa yêu chúng ta là tình yêu cứu độ, vì Chúa khẳng định: Ai tin vào Con Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô thì được sống muôn đời. Con rắn đồng nhắc nhớ cho dân Ít-ra-en quyền năng của Thiên Chúa, còn hình ảnh Chúa Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương chúng ta, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy mau mắn đáp lại tình yêu trung thành của Người. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Sau khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần cũng như những cực nhọc thể xác, để cùng với những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên. Thomas Edison trao bóng đèn điện ấy cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong hóm leo lên các bậc thang gắn bóng vào chuôi mà thử nghiệm. Nhưng rủi thay, vì quá xúc động, người bạn trẻ ấy khi vừa leo lên tới bậc thang cuối cùng đã đánh rơi chiếc bóng đèn xuống đất khiến nó bể vỡ tan tành. Thế là cả nhóm lại phải cố gắng không ngừng làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ nữa để tạo ra chiếc bóng đèn thứ hai cho kịp với chương trình thử nghiệm. Sau khi hoàn tất xong chiếc bóng đèn thứ hai này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Edison lại trao chiếc bóng đèn ấy cho người bạn trẻ đã từng làm vỡ chiếc bóng đầu tiên, để người bạn trẻ này lại leo lên gắn bóng vào chuôi như lần trước.
Cử chỉ cao đẹp này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó. Hành động tha thứ và tin tưởng của Edison đối với người bạn trẻ đã một lần sơ sót làm bể chiếc bóng đèn đầu tiên, đã làm cho nhiều người phải kính phục và có lẽ cũng đang thôi thúc mỗi người chúng ta bắt chước Edison, thực hiện những cử chỉ tha thứ và tin tưởng như vậy đối với những người chung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời hành động này còn nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn tha thứ và tin tưởng con người mặc dù con người hay lầm lỗi, sa ngã, vấp phạm và làm hư hỏng chương trình của Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn ngồi trong tội lỗi. Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
***
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc. Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm. Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen.
Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an - người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta…
Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: " Hãy khôn ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh "con rắn đồng được giương cao" với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông : "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống". Ông Môsê "làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi". Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ "treo lên"; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống". Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà "sự sống vĩnh cửu". Ân huệ vô biên đó là do: "Thiên Chúa yêu thương".
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: "Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. " (2Pr 2,24a ). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống "Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành" (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi "trao ban". Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: "Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu"; "Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. "Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
"Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:"Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta". Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: "Qủa thật người này là Con Thiên Chúa", vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có một anh chàng nói với cô gái:
- Nếu mình chia tay em có buồn không? - Đương nhiên là có - Buồn đến mức độ nào? - Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết - Vậy mình chia tay đi “!
Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.
Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.
Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
- Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi? - Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai! - Nhỏ nói gì với mày? - Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.
Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.
Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,17).
Một trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là việc thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị những đội quân của đế quốc Babylon phá hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày sang Babylon. Theo người ghi chép biên niên sử, biến cố này chẳng phải là chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân chúng cứ tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, coi thường Lời của Người, nhạo báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ lên dân của Người, và vô phương cứu chữa.” Chỉ khi đó, quân đội Babylon mới đến tấn công họ.
Quân Babylon ngạo mạn đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà “chẳng chút xót thương, bất kể là phụ nữ, người già hay kẻ yếu đuối”. Tài sản và của cải bị cướp được chuyển hết về Babylon; Đền thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ; còn những ai không bị giết thì bị bắt đi lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế rồi bên bờ sông Babylon, họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa lại đến với dân Do thái bị lưu đày, và yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày họ sẽ được trở về quê hương của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội của nhà vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân Do thái được phép quay trở về quê hương của mình để xây dựng lại, và điều này đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã nói qua miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a”. Thế là dân Do thái đã bước từ nơi tăm tối sang miền ánh sáng.
Chuyện Thiên Chúa đến cứu độ dân của Người như vậy chẳng phải do dân Do thái giờ đây đã biết sống công chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân của Người. Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta biết dân Do thái cần phải quay trở về và tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã họ lãng quên, canh tân đổi mới cuộc sống và tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá hủy. Thiên Chúa không chờ đợi cho đến khi họ phải đạt tới một cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ cần hội đủ những điều kiện để sự công chính có thể nở hoa.
Đây chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói tới. Thánh Phao-lô đã nói về việc Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi chúng ta phải chết vì tội lỗi của mình”. Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta, không phải vì chúng ta đã đạt tới một mức độ công chính cần thiết nào đó, nhưng vì Thiên Chúa xót thương và Người muốn đặt chúng ta “đồng ngự trị trên nước trời với Đức Ki-tô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô”. Tất cả những chuyện này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa”. Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta được dạy rằng tất cả chúng ta được cứu độ là “nhờ đức tin” (pistis) vốn tự nó là một quà tặng. Ơn cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt được, do mua bán hay mặc cả được, nhưng đức tin là sự đáp trả thiết yếu về phía con người. Đức tin là “quà tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống đúng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su Ki-tô để làm các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành”.
Trong Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là động từ của “pistis”, cùng một hạn từ được dịch ra là “đức tin” ở trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì đang làm cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để được thông dự vào sự sống vĩnh cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là “đồng ngự trị trên nước trời” với Đức Ki-tô.
Chính Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi) vẫn có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong thế gian” và “những ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động (erga) của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa". Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô thì nói rằng chúng ta được tạo dựng để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an lại nói những ai sống trong “sự sáng” thì thực thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa. Cũng một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho “các việc lành” trong thư gửi Ê-phê-xô và “những hành động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn mà chúng ta không xứng đáng, lại được khởi sự với đức tin. Nhưng sự đáp trả của chúng ta trước ân ban của Thiên Chúa sẽ được thể hiện qua các việc lành, “để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.” Những việc làm này tất nhiên không phải để chúng ta xứng đáng được ơn cứu rỗi, nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước ân ban cứu độ do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào để ân ban nhưng không của Thiên Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được những việc lành.
Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” ( Ga 3,15 ).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” ( Ep 2,8-9 )
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” ( Tv 136 ), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” ( Hs 14,5 ). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” ( Ep 2,4 ).
Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu ( x.Rm 8,39 ). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.
Cuộc sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau. Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường, vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an táng.
Nicodemus có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.
Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô - Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).
Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.
Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.
Trong cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều nói đến hai nhịp: bất trung và trừng phạt, triệt hạ và tái thiết, lưu đày và hồi hương; lên án và cứu độ, chết và sống. Các tình huống thăng trầm này thường xảy ra trong lịch sử dân Do thái. Chúng tiêu biểu cho nhịp sống tôn giáo của một dân tộc và cũng là của mỗi chúng ta, khi bất trung khi nhiệt thành. “Tư tế và dân chúng bất trung bất nghĩa … khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (x. Bài Đọc 1. 2Sb 36,14-16.19-23).
Một kinh nghiệm khác, trong hành trình sa mạc tiến về đất Hứa, có lúc người Do thái đã thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa nên than trách, thay vì tri ân thì ca thán Môsê đã đưa họ vào sa mạc; hình phạt được dựng nên tức khắc để trừng trị kẻ vô ơn: rắn độc tràn ra cắn chết những kẻ than van. Không có thuốc chữa, họ ngước nhìn Thiên Chúa và kêu cầu Người; Môsê được lệnh đúc tượng rắn bằng đồng rồi giương cao nơi hoang địa để những ai bị rắn độc cắn, nhìn lên rắn đồng, tức thì được cứu sống (x. Ds 21,4-9). Phương thuốc chữa trị này không phải là ma thuật bùa chú gì cả, nhưng là hành vi cứu độ do đức tin đem lại, quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện nơi lòng tin. Một phương thế cứu độ nhất thời của Thiên Chúa đối với dân của Người, tỏ cho dân biết Thiên Chúa quyền năng đáng kính sợ, Người cứ độ và thưởng phạt theo tội phúc mỗi người.
Hình ảnh rắn đồng được giương cao trong hoang địa được chính Đức Giêsu lấy làm biểu tượng và áp dụng cho chính mình: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (x. Bài Tin Mừng. Ga 3, 14-21). Con Người được giương cao trên thập giá, hình ảnh con rắn đồng được thay thế bằng thực tại xảy ra, Đức Giêsu được ví như Môsê Mới giương cao mình trên đồi Canvê vào Thứ Sáu Thánh để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân, như một phương pháp dĩ độc trị độc. Con đường từ cõi chết bước sang sự sống vươn cao trong mầu nhiệm Vượt qua nơi bản thân Đức Giêsu thành Nadarét, đó là mầu nhiệm tử nạn và phục sinh mà Giáo Hội cử hành hằng ngày trên bàn thờ : “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Mỗi Chúa nhật, Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta sống một cách bí tích hai nhịp “chết đi và sống lại” này, làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời” (x. Bài Đọc 2. Ep 2,4-10).
Kinh thánh ghi lại những bất trung, phản trắc của dân Do thái, những tai ương đi kèm theo họ mỗi khi họ vấp ngã phản bội, như để sửa trị và gíao dục họ, nhưng mục đích chính là cốt để làm nổi bật lên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân Người. Thật vậy lòng yêu thương của Thiên Chúa luôn dẫy tràn trên họ đến nỗi Tin Mừng thánh Gioan ca tụng tình yêu đó : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c.16). Thật là tội hồng phúc (felix culpa), tội đáng ca tụng vì đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, như bài Hoan Ca Phục Sinh (exultet) được cất lên trong đêm Chúa sống lại. Thật tuyệt vời! Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả của Người đến giữa dân Người để kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa. Nếu như dân đã bất trung với Giao Ước nên đã bị lưu đày, Thiên Chúa đã nhờ bàn tay ngọai giáo vua Ky-rô xứ Ba Tư để mở cho họ con đường trở về. Trong mọi hoàn cảnh cho dù bế tắc đến đâu Thiên Chúa cũng có cách hành xử hợp lý, Người luôn tỏ ra là Ông chủ lịch sử. Thật kỳ diệu, lòng Chúa xót thương! Thánh Phaolô dâng lời ca tụng: “Thưa anh em , Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống lại với Đức Kitô” ( c. 2 . Bài Đọc 2). Tin tưởng và tín thác vào tình yêu Thiên Chúa, người Ki-tô hữu không có chỗ cho tuyệt vọng, họ không có bất cứ lý do nào để đánh mất niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng sự chết và sống lại của Chúa để cứu độ con, con tri ân cảm tạ và cung kính thờ lạy Chúa. Xin cho con biết trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa đối với anh em con. Amen.
Chúa Giêsu đã quả quyết :” Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Đức Giêsu là mạch sống của người Kitô hữu trong cuộc hành trình dương thế tới tiến về Quê Trời. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã sai chính Con Một của Người đến trần gian để cứu chuộc loài người, cứu vớt nhân loại qua cái chết tự hiến trên Thập giá.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta nhận ra ngay trong Cựu Ước, Isaac con trai của tổ phụ Abraham là hình bóng của Chúa Giêsu. Isaac là con trai duy nhất của Abraham, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được Cha mình rất mực yêu thương, Chúa Giêsu cũng được Thiên Chúa Cha yêu thương như thế. Isaac được dâng làm của lễ, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được Cha mình dẫn lên một ngọn đồi để hiến tế, Chúa Giêsu cũng vậy. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất hữu tín hữu Corintô cũng đã so sánh :” Ađam con người đầu tiên, đã được dựng nên là một con người sống động, nhưng Ađam sau cùng là Đức Giêsu là Thần Khí ban sự sống…Ađam được nắn nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Ađam thứ hai, Đức Giêsu từ trời mà sinh ra….Người thuộc về đất thế nà, thì người thuộc về trời cũng thế ấy…” ( 1 Co 15, 45-49 ). Bài Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay viết :” Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời “. Hình ảnh con rắn đồng được ông Môsê treo lên cao trên cây gỗ trong sa mạc để ai bị rắn độc cắn nhìn lên đó sẽ được khỏi là tiên trưng cho việc Đức Giêsu chấp nhận cái chết theo Thiên Chúa Cha để cứu độ con người, cứu chuộc nhân loại. Thập giá Đức Kitô là dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với nhân loại, nhưng đồng thời cũng là đòi hỏi của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã quả quyết để những ai tin vào Người sẽ không phải chết và có sự sống đời đời. Thập giá là hình phạt nhục nhã của người tử tội, nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận Thập giá để mang lại sự sống và hạnh phúc cho con người.Đức Giêsu đã nói với những ai muốn theo Người :” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá của mình mà theo Ta “. Vác Thập giá có nghĩa là chấp nhận bỏ ý riêng, từ bỏ bóng tối tội lỗi mà bước theo ánh sáng của Chúa.
Sống trong một thế giới vật chất, con người từ chối ánh sáng, vẫn lầm lũi bước đi trong đêm tối. Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy sống tình yêu vì thực sự Thập giá là hình phạt nhục nhã, nhưng chấp nhận Thập giá không có nghĩa là chấp nhận tôn thờ đau khổ, nhưng say mê tình yêu vì chỉ nơi “ Thập giá ơn cứu độ mới chứa chan “. Người môn đê của Chúa say mê Thập giá, nhưng Thập giá dẫn con người đến vinh quang. Đức Giêsu đã quả quyết :” Khi nào Ta bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”.
Thánh Phaolô đã viết :” Chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi. Khi chúng ta kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được sống lại cùng với Con Ngài và cùng người Con ấy cai trị thiên giới…Chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi qua đức tin. Chẳng phải do kết quả những nỗ lực riêng của anh chị em mà do ân huệ của Thiên Chúa…Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được như hiện nay “.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cứu độ chúng con qua cái chết trên Thập giá.Xin cho chúng con luôn biết say mê Thập giá vì Thập giá chính là nguồn mạch tình yêu của chúng con.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ : 1.Con rắn đồng trong sa mạc mà ông Môisê treo lên cây gỗ cao tượng trưng cho ai? 2.Thập giá đối với chúng ta là gì ? 3.”Khi nào Ta được treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “ có nghĩa gì ? 4.Tại sao lại nói:” Chúa Giêsulà mạch sống của chúng ta trong cuộc hành trình dương thế tiến về Quê Trời ? “. ---------------------------
Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay với chủ đề (Lætare – Mừng vui lên). Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng mời gọi chúng ta tận hưởng trước niềm vui Phục Sinh : "Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia : "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... ".
Những lời trên diễn tả niềm vui thiêng thánh ngập tràn của Dân Chúa. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên, vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân, nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Sao không thể vui, không thề mừng được. Vì trước kia, dân phạm tội khiến đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ "được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Chúa là niềm vui, là hạnh phúc của Dân Chúa. Chúa luôn muốn Dân Chúa sống vui và sống hạnh phúc. Một người ốm đau bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác sẽ sống không vui và sống hạnh phúc được. Cho dù tội lỗi có thể làm cho họ xa Chúa, mất niềm tin và trông cậy vào Chúa. Tội có thể đẩy đưa họ đến bờ sông Babylon đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với họ : "Lưỡi tôi dính vào cuốn họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi" (Tv 136,6). Và món quà làm cho Dân Chúa thỏa mãn niềm vui là Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi "đã ban Con Một Người" (Ga 3,16).
Quả thật, Thiên Chúa dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để vui sống hạnh phúc.
Chúng ta ngày hôm nay thì sao ? Chúng ta đang trên hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong "hoang địa". Ðây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15).
Khi sánh ví mình như con rắn được Môse giương lên trong sa mạc, Chúa Giêsu gợi cho chúng ta nhớ tới con rắn trong vườn địa đàng (St 3, 1-5). Nếu con rắn trong địa đàng xuất hiện đang lúc loài người đang ở đỉnh cao hạnh phúc, thì con rắn đồng trong sa mạc xuất hiện giữa cảnh cơ cực của những người tha hương vừa thoát khỏi kiếp nô lệ cho người Aicập.
Nếu con rắn trong địa đàng là hiện thân của tội lỗi và sự dữ, thì con rắn đồng trong sa mạc là “tin mừng” cho những kẻ ngước nhìn lên nó.
Nếu con rắn trong địa đàng hủy diệt mọi tương quan tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa, thì con rắn đồng trong sa mạc mang lại niềm hy vọng vì nhận ra lòng thương xót của Chúa.
Và nếu con rắn trong địa đàng gieo sự chết vào thế giới loài người, thì con rắn đồng trong sa mạc lại có khả năng trao ban sự sống.
Như vậy, hình tượng của hai con rắn Cựu Ước hoàn toàn trái nghịch nhau. Tuy nhiên, dù trái nghịch, hai con rắn Cựu Ước chẳng những không mâu thuẫn nhau, mà hậu quả do con rắn trong địa đàng gây nên, sẽ được con rắn đồng trong sa mạc báo trước ngày chữa trị. Bởi hậu quả của con rắn thứ nhất gây nên chỉ toàn đổ vỡ, mất mát, ô nhục, sẽ được con rắn thứ hai bổ túc bằng cách cho thấy sự sống bắt đầu phát sinh, hạnh phúc bắt đầu ló dạng và niềm vui cứu chuộc bắt đầu tỏa sáng.
Bởi do con rắn trong địa đàng, nhân loại đã phạm tội. Vì tội, nhân loại đáng được “Đấng Cứu độ đời đời” (bài ca Exultex - đêm Phục sinh), thì con rắn đồng trong sa mạc làm trọn vai trò của mình là báo trước ơn cứu độ đời đời ấy.
Khi nhắc lại: “Như Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy” (Ga 3, 14). Chúa Giêsu ám chỉ lúc mình được giương cao trên thập giá, ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Nếu ngày xưa ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống, thì ngày nay thập giá Chúa Kitô chính là ơn cứu độ trọn vẹn cho những ai tin (x.Ga 3, 15). Hình bóng cũ thoáng qua đã được hoàn tất bằng thực tại mới sống động và vững bền. Chúa Kitô mãi mãi là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian (x.Dt 13, 8).
Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình, phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá.
Hãy để Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đáp lại chúng ta yêu mến Ngài, và như thế chúng ta bước tiếp hành trình Mùa Chay Thánh với niềm vui. Chúng ta sẽ nhận lãnh niềm vui lớn lao tràn trề vào Lễ Vượt Qua sắp tới.
Chúa là niềm vui của chúng con, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu chuộc mà Chúa mang lại cho chúng con nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ---------------------------
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy. Hình ảnh này được bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp và truyền thuyết "Con giun". Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có nguồn gốc từ một câu chuyện được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước khi dân Dothái trên đường trở về Đất Hứa (x. Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, kết thúc phần hội thoại với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nhắc tới sự kiện này như tiền đề cho một chủ đề lớn, đó là cái chết và ơn cứu chuộc do Ngài mang lại ngang qua thập giá, để qua đó, những ai ngước nhìn và tin thì sẽ được cứu độ.
1. Sự liên hệ giữa con rắn đồng và Đức Giêsu
Khởi đi từ việc Đức Giêsu đem chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (x. Ds 21,4-9).
Để hiểu được ý nghĩa của việc Đức Giêsu so sánh trên, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, để làm toát lên hình ảnh tiên trưng về Đức Giêsu sau này.
Câu chuyện về con rắn được tác giả sách Dân Số trình thuật rằng: vì yêu thương, Thiên Chúa đã nghe được tiếng ai oán của dân bên đất Aicập kêu than do nỗi thống khổ của họ phải chịu bởi những tên cai của nhà vua Aicập hành hạ…!
Trước cảnh tượng đó, qua Môsê, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ, để dẫn họ về Đất Hứa. Tuy nhiên, trên đường, họ đã nổi loạn, kêu trách nặng lời với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã không cho họ được đi trên con đường thẳng để tiến vào Đất Hứa (x. Ds 14,25. 33). Người cũng không cho bất kỳ một ai trong đám dân này được đặt chân vào đó! Hơn thế, Người đã cho rắn độc trong sa mạc tiến ra và cắn chết nhiều người!
Thấy vậy, dân chúng đã van nài Môsê kêu cầu lên Thiên Chúa để xin tha thứ vì sự phản bội, vô ơn mà họ đã chót phạm, đồng thời, xin Người ra tay cứu sống cho những người bị rắn cắn. Môsê đã thay mặt cho toàn dân để chuyển cầu lên với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông làm con rắn treo lên cây cột, nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Môsê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.
Con rắn đồng chính là biểu tượng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và cụ thể là hình ảnh báo trước về chính Đức Giêsu bị treo trên thập giá sau này!
Qua câu chuyện trên, Thiên Chúa muốn dạy cho dân một bài học nhớ đời, đó là: vô ơn, bội nghĩa và đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa thì sẽ phải chết. Ngược lại, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Người, thì sẽ được sống.
Khi nhắc lại biến cố này trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu muốn cho ông hiểu rằng: cần phải có một bước tiến cụ thể, rõ ràng, xác quyết với niềm tin, chứ không phải khơi khơi bề ngoài hay phụ thuộc vào kiến thức mà mình có. Những thứ đó chỉ làm cho ông thỏa mãn sự hiếu tri mà thôi. Vì thế, nó không thể đem lại cho ông ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc chỉ đến với ông khi ông nhận thức về tội lỗi của mình; cảm nghiệm và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu chuộc ngang qua chính Người Con của Người qua mầu nhiềm thập giá (x. Ga 3,15).
2. Ý Nghĩa Lời Chúa với đời sống đức tin của chúng ta
Qua câu chuyện và những mặc khải của Đức Giêsu cho ông Nicôđêmô, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình ngang qua những cảm nghiệm sau:
Trước hết là ý thức về thân phận yếu đuối của mình:
Cuộc sống của chúng ta không thiếu gì những bất toàn. Chính vì những yếu đuối do bản tính của con người, nên chúng ta dễ hướng chiều và làm theo sự tội. Vì thế, tội lỗi đã làm cho con người đau khổ, thất vọng, nhất là nó nhấn chìm và làm cho chúng ta mất ơn cứu chuộc.
Lời mời gọi nhìn lên con rắn đồng là hình ảnh và cũng là lời mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô, để ý thức mình tội lỗi và cần được cứu chuộc.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Chúa chịu đóng đinh, hẳn ai cũng cảm thấy thật xấu hổ, bởi vì do tội lỗi của chính mình mà Con Thiên Chúa quyền năng lại phải chịu treo trần trụi trên Thánh Giá như một kẻ tử tội…!
Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng ta hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu và chúng ta sẽ không thể không sám hối ăn năn, bởi vì nơi ấy, Đức Giêsu đã gánh lấy hết tội lỗi của nhân loại để cho con người được sống và sống dồi dào.
Thứ đến, là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa:
Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta nhớ lại lời Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, tội lỗi của con người rất nặng nề, khiến chúng ta chắc chắn phải chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn khi trao ban chính con của Người đến để yêu và yêu đến cùng. Tình yêu ấy được chứng minh bằng cái chết trên thập giá. Qua đó, Đấng chịu treo trên thập giá mặc khải cho chúng ta hiểu rằng: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13
Như vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu nơi cái chết của Ngài thật lớn lao vô kể….
Cuối cùng, nhìn lên Thánh Giá Chúa để chúng ta được cứu chuộc:
Khi đã phạm tội, con người không thể tự thân cứu chuộc được mình. Cũng như những người Dothái xưa, khi đã phạm tội và bị rắn cắn, họ không còn có thể tự cứu được mình khỏi chết, mà chỉ còn cách, đó là: nhìn lên rắn đồng thì mới được cứu sống.
Chúng ta cũng cùng chung số phận, nên khi phạm tội, con người không thể nào đụng chạm được ơn giải thoát nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa!
Như vây, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với Đấng chịu treo trên đó, chúng ta sẽ nhớ lại những tội lỗi do yếu đuối của mình đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời, biết cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn ăn năn, tin tưởng vào hiệu quả của Đấng chết thay cho nhân loại được cứu chuộc.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng gánh tội và cứu chuộc trần gian.
Khi tin vào Đức Giêsu tuyệt đối, chúng ta được mời gọi đi trên con đường mà Ngài đã đi để được cứu chuộc. Con đường ấy là: tự hủy, yêu thương và vâng phục. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi thuộc về Đức Giêsu là Ánh Sáng, khi sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống và khước từ những thứ thuộc về bóng đêm của tội lỗi như: ích kỷ, kiêu ngạo, khoe khoang, bất hòa, chia rẽ….
Tuy nhiên, muốn được tiếp bước trên con đường của Đức Giêsu và thuộc về Ngài là Ánh Sáng, chúng ta phải sống Lời Chúa mời gọi cụ thể trong Mùa Chay này, đó là: hãy sám hối, ăn năn và canh tân đời sống….
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo chúng con lên với Chúa để được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Amen. ---------------------------
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu nhiều lần nhận mình là ánh sáng (Ga 8,12; 9,5; 12,46). Ngài là ánh sáng đã đến trong thế gian (Ga 1,9). Tiếc thay, thế gian lại yêu bóng tối và ghét ánh sáng. Bóng tối dễ làm người ta bị vấp, vì không thấy đường đi. Nhưng nhiều người vẫn thích bóng tối hơn, vì bóng tối che giấu những âm mưu của họ. Sau khi được Thầy Giêsu đãi miếng bánh trong bữa ăn, Giuđa liền đi ra, lúc đó trời đã tối (Ga 13,30). Sau khi Đức Giêsu bị bắt vào buổi tối ở Vườn Dầu, Ngài đã bị các thượng tế vội vã đem ra xét xử suốt đêm đó. Mãi đến sáng họ mới chuyển Ngài cho Philatô (Ga 18,28). Trong cuộc Khổ Nạn, có vẻ bóng tối thắng thế. Thật ra thì bóng tối không thắng được ánh sáng (Ga 1,5). “Tên thủ lãnh thế gian không làm gì được Thầy” (Ga 14.30). Sự phục sinh của Đức Giêsu là chiến thắng của ánh sáng. Không phải chỉ từ khi làm người, Ngôi Lời mới là ánh sáng. Ngài là ánh sáng từ vĩnh cửu, chiếu soi cả nhân loại (Ga 1,4.9). Khi đối diện với Đức Giêsu, con người đứng trước một lựa chọn: tin hay không tin, đón nhận hay từ chối ánh sáng. Có những người không tin Đức Giêsu không phải vì đức tin nghịch với lý trí, nhưng vì lối sống của họ. Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, vì họ sợ điều ác của họ bị phơi bày (Ga 3,20). Ai làm theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, vì họ muốn việc họ làm được thấy là đúng ý Chúa (Ga 3,21). Đến với Giêsu là đến với ánh sáng. Ai có cuộc sống càng gần với sự thật, sự thiện, thì càng dễ đón nhận ánh sáng và tin vào Giêsu. Mặt khác, ai càng tin vào và bước theo Giêsu, thì càng không ở lại, không đi trong bóng tối (Ga 8,12; 12,46). Như thế để được sự sống đời đời, cần tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là một đức tin trên lý thuyết suông, mà là một đức tin luôn làm cho đời mình được tỏa sáng. Tin vào Đấng là ánh sáng đòi chúng ta phải từ khước bóng tối, bóng tối sự dữ, bóng tối dối trá, bóng tối của ý định gian tà. Vào ngày tận thế, người chết sẽ ra khỏi mồ. “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Mặt khác, muốn làm cho nhiều người tin Đức Giêsu, chúng ta phải xây dựng một thế giới tốt lành, huynh đệ. Một thế giới càng ít điều xấu xa, đen tối, ám muội, thì càng dễ đón nhận và tin vào Giêsu. Lời Chúa hôm nay mời chúng ta đến với ánh sáng, dứt khoát từ bỏ bóng tối, dù bóng tối cho ta sự an toàn. Hơn nữa, Lời Chúa còn mời chúng ta ngước nhìn lên. Người Do-thái xưa đã ngước nhìn lên con rắn đồng treo ở cột, để được chữa lành khỏi cái chết vì rắn cắn. Ngày nay, chúng ta được mời ngước nhìn lên Người Con Một đang được giương cao trên thập giá. Chẳng ai yêu Người Con ấy bằng Thiên Chúa Cha. Nhưng Cha lại tặng chính Người Con mình yêu dấu cho thế gian tội lỗi, đang thù nghịch và chống đối mình. Phải yêu thế gian này biết chừng nào, Cha mới làm như vậy. Đơn giản là Cha muốn cứu loài người khỏi họa diệt vong. Người Con Một là bàn tay Cha đưa ra cho nhân loại. Ai nắm lấy bàn tay ấy với lòng tin thì được sống. Mùa Chay đã gần hết, lời mời trở nên khẩn trương hơn. Chỉ mong chúng ta được sức sống hơn nhờ nhìn lên… và được ngời sáng hơn nhờ đến cùng ánh sáng. CẦU NGUYỆN Lạy Chúa Giê su, ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt, còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn. Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình, con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động. Con an tâm ở lại trong bóng mờ, vì thấy đó chưa phải là một tội. Nhưng con cũng áy náy, vì biết rằng bóng mờ là nơi ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn. Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng, vì con vẫn muốn giữ lại một điều gì đó rất quý đối với con. Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn. Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con để con được thuộc trọn về Chúa. Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng nước đôi, để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự. Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng vào những bóng mờ trong đời con. Và ước gì con được trở nên trong suốt nhờ để cho ánh sáng Chúa tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen. ---------------------------
Nicodemo, một người Biệt phái nổi danh kín đáo đến gặp Chúa Giêsu. Nhưng chính Chúa Giêsu còn nổi danh hơn ông nhiều và vì thế ông tò mò tìm đến Chúa để tìm cách phản biện. Bởi vì, theo như nhiều người nói: Chúa Giêsu đang là người làm náo loạn tôn giáo đương thời của họ.
Họ nghĩ thế là lầm! Vì Chúa đã nói với họ: các ông đừng nghĩ tôi đến để phá hủy lề luật, mà chỉ làm cho lề luật nên trọn vẹn hơn. Đúng thế! Chúa yêu mến các con tim ngay thẳng. Điều căn bản của cuộc hội thoại giữa Chúa Giêsu và Nicodemo, đó là câu nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian”…
Thật tuyệt vời! Chỉ một câu xác quyết như vậy thôi cũng có thể đủ cho tất cả lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta trong suốt cuộc đời. Thiên Chúa đã yêu chúng ta đến thế, lẽ nào chúng ta lại không yêu Ngài?
Đúng ra, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa phải trở nên rất thân mật ! Thiên Chúa cho chúng ta tất cả và Ngài chỉ yêu cầu chúng ta yêu Ngài. Trước hết chúng ta phải công nhận rằng Thiên Chúa yêu chúng ta. Chính Ngài và chỉ một mình Ngài khởi xướng yêu chúng ta. Chúng ta là ai mà lại được Thiên Chúa yêu đến thế?
Thánh Vịnh đã nói: “Con người là chi mà Chúa cần nghĩ đến?Con người là gì mà Chúa phải bận tâm” ? Thiên Chúa nghĩ đến chúng ta và đặc biệt Ngài nghĩ đến tôi. Thoạt khi chúng ta biết có ai đó nghĩ đến chúng ta, là chúng ta cảm thấy mình hạnh phúc rồi. Phương chi Thiên Chúa, là hạnh phúc tuyệt đối, không những Ngài chỉ nghĩ đến chúng ta mà Ngài còn yêu chúng ta và còn cho chúng ta tất cả, chúng ta lại không cảm thấy mình được hạnh phúc ngàn lần sao?
Chúng ta không nhìn thấy Thiên Chúa…Tuy nhiên chúng ta đã thấy Con của Ngài, là Đức Giêsu Kitô và Con của Thiên Chúa đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.
Cuộc hội thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và Nicodemo mời gọi chúng ta:
- Hãy tin thật vào Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
- Tin thật vào tình yêu Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta sống có trách nhiệm hơn.
- Tin thật vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta hãy cố gắng vào trong tương quan với Ngài, bắt chước Ngài.
- Bắt chước Ngài bằng cách chúng ta cũng là những con mắt, đôi tay và con tim của Ngài đối với tất cả những người sống chung quanh chúng ta vì họ cũng là những người được Thiên Chúa yêu vô hạn… Chúng ta cũng sẽ làm cho họ được hạnh phúc.
Chúa Giêsu ví Ngài như con rắn đồng trong hoang địa. Tưởng cũng nên sơ qua đôi nét về sự tích con rắn đồng trong Cựu ước để chúng ta có thể cảm nghiệm được sâu sa hơn Tình yêu Thiên Chúa, qua Mầu nhiệm Cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Trong cuộc hành trình qua sa mạc tiến về đất hứa, dân Do thái mất kiên nhẫn, không chịu nổi con đường dài và sự đói khát. Họ đã kêu trách Thiên Chúa và Môisê: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi Aicập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống”? Lúc đó Thiên Chúa cho rắn độc bò đến cắn chết nhiều người trong bọn họ. Dân sợ hãi, liền nói với ông Môisê: "Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Thiên Chúa và trách ông. Xin ông cầu khấn Thiên Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi". Ông Môisê khẩn cầu cho dân, Thiên Chúa liền nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo nó lên một cây cột. Tất cả những ai nhìn lên con rắn đó, thì sẽ được sống..."
Chúa Giêsu đã ví Ngài như con rắn đồng chịu treo lên để tất cả những ai muốn chữa lành bệnh tật linh hồn cũng như thể xác, cũng phải "nhìn lên Đấng mà họ đã đâm thâu" trên Thập giá.
Gioan Thánh sử mời gọi chúng ta nhìn lên Thập giá, nhất là nhìn lên Chúa Giêsu bị đóng đinh:
- Gioan, một mình ông trong nhóm 12 dưới chân Thập giá ngày thứ sáu không bao giờ có thể quên được khung cảnh này.
- Còn chúng ta, ôi! Chúng ta có lẽ quá quen với cảnh này chăng? Hơn 20 thế kỷ đã qua, có thể chúng ta chỉ tưởng tượng đó là biến cố của quá khứ xa xưa. Chúng ta quên rằng cuộc thương khó của Chúa Giêsu còn kéo dài mãi cho đến tận thế. Thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu còn tiếp tục cuộc thương khó đau khổ này…Biết bao người trên thế giới vẫn còn đói khát và khổ đau! Biết bao người vẫn còn bị cầm tù và bị tra tấn dã man vì những lý do chính trị hoặc tôn giáo, và còn biết bao bệnh nhân bên cạnh chúng ta… Họ rất đau khổ vì không được yêu mến…Danh sách những người này còn rất dài…Chúng ta nhìn họ thế nào? Chúng ta làm được gì để nâng đỡ họ?...
Chiêm ngắm và suy tôn Thập giá là một việc đạo đức rất quan trọng, nhưng chúng ta lại coi thường. Nhất là thời đại hôm nay, người ta sợ đau khổ và không muốn nhìn lên thập giá nữa… Thế nhưng, Chúa vẫn yêu thương chúng ta và ban cho chúng ta thời gian để nhìn lại. Nếu nhìn lên Chúa Kitô được nâng cao lên khỏi đất với lòng tin yêu và phó thác, Ngài sẽ cứu chữa chúng ta khỏi khốn cùng và sự dữ.
Lạy Thiên Chúa chúng con, là Cha giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa quá yêu chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con chúc tụng Chúa vì Chúa cứu chuộc chúng con bằng giá máu của Chúa. Xin đừng để lễ hy sinh của Chúa trở nên vô ích cho chúng con, nhưng là để chúng con đi vào Mầu Nhiệm Chúa chết và sống lại. Nhờ đó chúng con cũng biết chết đi cho tội lỗi để chúng con và thế giới đạt tới sự sống vĩnh cửu. Amen!
Câu chuyện con rắn đồng trong sách Dân số ngày xưa, hôm nay được Đức Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 13, 14-15). Con người không thể hiểu nổi tại sao một Thiên Chúa uy quyền lại muốn con mình đi qua con đường Thập Giá để cứu chuộc con người. Đức Giêsu đã chết, là giá cao nhất vì yêu con người. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể làm cho con người hiểu mầu nhiệm này. Vâng, chỉ có niềm tin nơi Chúa Thánh Thần mới ban cho con sự hiểu biết ý nghĩa trọn vẹn, một cuộc sống không hạn hẹp trong cõi đất, nhưng được bắt nguồn từ cõi trời cao.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Quả vậy, Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Người tin thì sẽ sống với, sống cùng và sống trong Người. Được sống muôn đời không có nghĩa là sau khi chết đi mới được sống, mà là có “sự sống” mới ngay hôm nay lúc ta đang sống. Thật đáng sợ khi tôi đang sống mà như đã “chết”.
Vì yêu thế gian, Thiên Chúa sẵn sàng ban tặng Người Con duy nhất để cho thế gian được sống muôn đời. Người Con đã hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc nhân loại. Cái chết trên thập giá là bằng chứng tận cùng của tình yêu đó. Nhưng buồn thay thế gian lại không cảm nhận và thấy hạnh phúc vì được ban cho Người Con duy nhất, nên khi thì nhạt nhẽo, có khi không cần chi đến Người. Chuyện cơm, áo, gạo, tiền lấp đầy cõi lòng tâm trí rồi thì đâu còn chỗ để liên đới mật thiết với Người Con được ban tặng. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian tội lỗi nhờ Ngài mà được cứu độ. Nhưng để đáp lại, thật ngược đời, thế gian lại lên án Người và làm cho Người phải chết trên thập tự. Có khi ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục lên án Chúa. Trước bệnh tật rủi ro, đau khổ hoạn nạn, tai ương... đều đổ cho Chúa định, Chúa gửi thánh giá... Oan cho Chúa quá! làm sao để đổi mới cái nhìn mà nhận ra giữa cuộc đời ánh sáng và bóng tối lẫn lộn bao trùm này?
Thập giá vẫn mãi chỉ là thập giá khi con người vác một cách miễn cưỡng hoặc buông trôi. Nhưng nhờ cuộc tử nạn tự hiến và phục sinh của Chúa Kitô đã làm thập giá trở thành thánh giá Tình Yêu:
“Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 8-9).
Lạy Chúa! trên cuộc đời chúng con với biết bao nhiêu thập giá, bao đau khổ gánh nặng chất chồng, bao nỗi sầu buồn trĩu nặng tâm tư, nếu cùng vác với Chúa Kitô, nhờ Người và trong Người, thập giá có Chúa bước đi, những thập giá ấy sẽ trở thành nhẹ nhàng, thập giá sẽ nở hoa tươi. Ước gì chúng con biết đón nhận mọi thập giá trong cuộc sống hằng ngày, để nhờ ơn Chúa biến đổi thành thánh giá đem ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Chúng con có thấy Chúa Giêsu kể truyện bao giờ chưa?
- Dạ thưa có, có rất nhiều.
- Thí dụ cho cha nghe coi!
-Thí dụ như truyện người gieo gống…Thí dụ như truyện người Samaritanô nhân lành…Truyện người con hoang đàng vv và vv.
- Chúng con giỏi quá, cha khen chúng con. Thế hôm nay chúng con có thấy Chúa làm như thế không?
- Dạ thưa cha có.
- Chúa làm gì nào?
- Chúa kể truyện cho ông Nicôđemô nghe?
- Chúng con giỏi quá!
- Đúng vậy hôm nay chúng con thấy Chúa Giêsu kể truyện ngày xưa cho Ông Nicôđêmô nghe.
Chúng con có muốn nghe lại câu chuyện đó không?
- Dạ muốn.
1. Đây chúng con nghe nhé. Câu chuyện này xảy ra thời Thiên Chúa đẫn dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập,
Câu chuyện được sách Dân số (21,4-9) ghi lại. Câu chuyện ấy như thế này:
Hồi ấy sau khi ra khỏi Ai Cập để tiến về đất hứa, dân Do thái đã phải ngày đêm băng qua sa mạc. Ngày thì nóng như thiêu. Đêm thì lạnh như cắt. Hơn nữa đời sống trong sa mạc là một đời sống thiếu thốn đủ mọi thứ. Có lúc dân Do thái bị đói, có lúc họ bị khát Chúa đã phải cho phép lạ cho họ có của ăn thức uống nhưng rồi vì phải đi quá lâu trong sa mạc cũng như phải ăn mãi những thức ăn không được thay đổi làm cho họ nhàm chán. Họ không chịu đựng được nữa cho nên họ đã kêu trách Thiên Chúa và kêu trách cả ông Môsê. Họ kêu trách không tiếc lời. Nhiều lần Chúa phải dùng đến hình phạt để cảnh cáo khiển trách. Họ đã sợ nhưng rồi chẳng bao lâu, chứng nào lại tật đó, Họ lại kêu trách. Lần này họ kêu quá. Chúa đã phạt họ bằng cách Chúa cho những con rắn lửa từ trong rừng bò ra gieo chết chóc và tang thương cho nhiều người. Rất nhiều người trong họ đã bị rắn cắn chết. Không có một phương thuốc nào chữa khỏi. Họ sợ quá. Họ hối hận. Và họ đã khẩn nài và nhờ ông Mọsê kêu xin Chúa tha. Thế là Chúa lại thương. Chúa truyền cho ông Môsê đúc một con rắn đồng rồi treo con rắn đồng đó lên một cây cột cao rồi Chúa bảo với ông Môsê rằng những ai bị rắn cắn mà "Nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8) Và quả đúng như vậy. Tất cả những ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được sống.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn kể lại câu chuyện này rồi Chúa dùng câu chuyện này để cắt nghĩa cho ông Nicôđêmmô về việc ông hỏi Chúa.
Ở đây cha thấy, Chúa cực kỳ khôn khéo. Chúa biết ông Nicođêmô là một bậc thầy rất thuộc Kinh Thánh. Chính vì thế mà Chúa đã dùng một câu chuyện mà Nicôđêmô biết rất rõ để giúp ông hiểu về một việc Chúa sắp làm. Chúa Giêsu nói hay lắm chúng con. Chúa bảo ông Nicôdêmô: "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (Ga 3,14-21)
Khi nói như thế Chúa muốn bảo với Nicôđêmô rằng: Con rắn đồng trong sa mạc là hình bóng xa xa để nhắc cho con người biết việc về việc Chúa sẽ chịu chết trên thánh giá để ban ơn cứu độ cho con người tức là làm cho con người được hưởng sự sống đời đời.
2. Vậy thì muốn được Chúa cứu, con người phải làm gì?
Thưa phải tin tưởng vào lòng yêu thương nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Lịch sử đã cho mọi người thấy: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa hay phạt, nhưng là Chúa nhân từ hay tha thứ. Mỗi khi dân bỏ Chúa đi thờ các thần khác, hoặc vi phạm giao ước đã ký kết, thì Ngài phạt họ rất nặng nề, như câu chuyện rắn đồng hôm nay chẳng hạn. Nhưng khi họ biết hối hận ăn năn quay trở về thì Chúa lại yêu thương và tha thứ. Dần dần họ nhận ra Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi đúng như Ngài nói: Ta lấy mạng sống Ta mà thề: Ta đâu có muốn kẻ dữ phải chết, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống! (Ez 33,11).
Vâng! Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa mà vì yêu thương, Ngài đã ban cho thế gian để ai tin vào Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
Nhưng tin vào Chúa Giêsu thì phải làm gì ? Là phải nhận ra tội lỗi mình, quyết tâm sửa lại và xin Chúa tha thứ. Đọc trong Tin Mừng, hẳn chúng ta phải thấy Chúa đã yêu thương, tha thứ cho kẻ có tội như thế nào? Ngài yêu thương và tha thứ cho mọi kẻ có tội và khi tha thứ rồi thì Ngài không còn nhớ đến quá khứ của họ nữa. Có lần khi giảng cho người ta về lòng từ bi thương xót hay tha thứ của Chúa, ĐHY F.X Nguyễn Văn Thuận đã gọi Chúa Giêsu là người hơi kém trí nhớ. Ngài chia sẻ: Trong Tin Mừng, chúng ta gặp nhiều câu chuyện minh chứng cho chúng ta điều đó. Chẳng hạn câu chuyện người con hoang đàng mà ai cũng đã biết. Người cha ở đây dường như đã quên hết, quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của đứa con. Khi nó trở về nhà, người cha chỉ còn nhớ có một điều: Đây là đứa con của ông. Chúng ta cũng thế: Mỗi người chúng ta là con Thiên Chúa, là em với Con của Người nên khi ta quay về gặp Người, thì tức khắc Người sẽ đem áo vinh hiển sự sống mà mặc cho chúng ta .
Hay như lúc Chúa Giêsu ở trên thánh giá, người trộm lành kêu lên: Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi. Và Chúa bảo: Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta (Lc 23,42-43). Chúa Giêsu không sưu tra lý lịch của hắn để nhớ xem hắn đã gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc tội của hắn nặng hay nhẹ... Tên gian phi chỉ kêu nài Ngài nhớ đến hắn thì Ngài chỉ "nhớ" có một điều là thấy hắn đang ở trước mắt Ngài, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó, Ngài đã quên hết, quên đến độ đã hứa ngay hôm đó sẽ cho anh lên thiên đàng. Các thánh nói: Tên này suốt đời ăn trộm, đến lúc chết còn gặp hên, hắn ăn trộm được cả Thiên Đàng luôn.
Có một tội nhân kia suốt đời được thiên thần khuyến dụ dẫn dắt theo con đường hẹp, nhưng vô ích, ông ta vẫn cứ đắm chìm trong đường tội lỗi. Gần đến ngày ông phải về tính sổ trước mặt Chúa, thiên thần bản mệnh chỉ còn biết khóc thầm thương cho số phận của tội nhân. Không bỏ lỡ cơ hội thúc đẩy tội nhân đi vào con đường dẫn xuống hỏa ngục, ma quỷ liền đến bên ông và gieo vào tâm hồn ông niềm thất vọng, chán nản. Ma quỷ nói với ông:
- Thôi, ông cứ tiến thẳng tới án phạt của ông đi vì đời sống của ông chỉ toàn là những điều gian ác.
Trong chốc lát, ông như tỉnh ngộ. Ông bước đi nhưng mắt vẫn ngước nhìn về ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trị và tấm lòng vẫn còn hy vọng được Thiên Chúa tha thứ vì lòng nhân từ khoan thứ vô biên của Ngài. Thấy vậy, ma quỉ nói với ông:
- Hỡi người tội lỗi cứng lòng, hãy bước đi chứ đừng hy vọng gì nữa.
Tội nhân cứ tiếp tục bước, nhưng trong lòng vẫn cầu nguywện với sự e thẹn:
- Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng công chính. Con thật đáng với án phạt nhưng vì tình thương bao la của Chúa, xin tha tội cho con. Tuy dù con bất xứng trăm bề, nhưng Chúa biết rằng niềm hy vọng trong tâm hồn con chẳng bao giờ tắt, vì con luôn tin tưởng vào lòng khoan dung của Ngài. Lạy Chúa, nỡ nào Chúa lên án phạt con sao đành. Nỡ nào Chúa lại thốt lên những lời tuyên phạt con đời đời hay sao ?
Thiên Chúa cảm động trước lời cầu xin khiêm tốn của ông ta. Ngài tryền bảo các thiên thần:
- Hãy dẫn người đàn ông khiêm tốn kia đến trước mặt ta. Lửa yêu thương của Ta sẽ thiêu hủy hết tội lỗi của nó. Mặc dù nó phạm tội nhiều nhưng không bao giờ nó hết nghi ngờ lòng nhân từ vô biên của Ta, vì thế Ta muốn nó được sống trong nước vinh quang của Ta, sống bên cạnh ta để nó sẽ ca ngợi lòng nhân từ của Ta mãi mãi.
Khi suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, Cha Rey Mermet, một nhà tu đức khá nổi tiếng, đã chia sẻ như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa là một nghịch lý chúng ta không thể hiểu nổi, bởi lẽ đường lối yêu thương của Thiên Chúa khác xa với những suy nghĩ của con người. Một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi rất trang trọng của nó trong bàn tiệc gia đình. Một cô gái điếm vẫn có thể bình lặng ngồi bên chân Chúa để tâm sự và hôn lên đôi bàn chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí, một tên trộm khét tiếng với quá khứ đặc kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh. Cao điểm của nghịch lý nơi tình yêu Thiên Chúa là Ngài đã thực hiện một giấc mơ hết sức điên rồ bằng việc phân thây xẻ thịt chính người con một yêu dấu để trao tặng chúng ta”. Thập giá Đức Kitô chính là cách diễn bày sự điên rồ ấy nơi tình yêu Thiên Chúa. Giấc mơ điên rồ của Thiên Chúa cũng được thánh Phaolô nói tới trong thơ gởi giáo đoàn Rôma: “Thiên Chúa đã không dung tha chính con một của Ngài, nhưng đã trao nộp hết thảy vì chúng ta” (Rm 8, 32). Cũng tương tự, thánh ký Gioan đã tóm kết nghịch lý về tình yêu Thiên Chúa qua lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thập giá, nghịch lý vĩ đại nhất
Nhiều nhà chú giải nhận định rằng, lời công bố của Chúa Giêsu trong Tin mừng Gioan chương 3 câu 16 mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay là câu tóm kết toàn bộ Kinh thánh. Nó mang chở ý nghĩa sâu xa nhất về hoạch định của tình yêu Thiên Chúa thể hiện ngang qua Thập giá Đức Giêsu. Mãi mãi, Thập giá vẫn là một ẩn số đối với đầu óc con người. Một Thiên Chúa cao cả lại bị hạ xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người. Một Đấng Công chính và Thánh thiện lại bị kết án như một tên tội phạm và bị phanh thây, chết nhục nhã trên Thập giá. Nhưng Thập giá Chúa Giêsu là cả một bầu trời bao la, in đậm dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu gợi lại hình ảnh con rắn đồng mà Môisen đã treo lên trong sa mạc năm xưa để tiên báo về cái chết của Ngài. Trong y khoa, người ta cũng vay mượn hình ảnh con rắn được treo vào một cây cột trên cao để nói về sứ mạng cứu chữa bệnh nhân của các lương y. Hình ảnh truyền thống này bắt nguồn từ văn hóa Hy Lạp kèm theo những lời tuyên thệ Hypocrate của các bác sĩ trong ngày ra trường. Nhưng nguồn gốc sâu xa của truyền thống trên khởi nguồn từ sách Dân số trong cựu ước với giai thoại kể lại việc Môise đã treo một con rắn đồng lên cao giữa sa mạc, để ai bị rắn độc cắn mà ngước nhìn lên con rắn đồng đó sẽ được cứu sống (Ds 21, 6-9). Cũng vậy, những ai nhìn lên Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá, thì sẽ được chữa lành. ‘Nhìn lên’ ở đây là thái độ tin vào Đức Giêsu và tín thác vào lòng thương xót của Chúa Cha thể hiện nơi cái chết của người Con một yêu dấu. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan đã kết luận :“Ai tin vào Người Con ấy, thì sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Tin vào tình yêu của Thiên Chúa
Đức Hồng y Jean Marie Lustiger, Tổng Giám mục giáo phận Paris, là một tân tòng. Ngài đã chia sẻ kinh nghiệm trong cuộc hành trinh đức tin của Ngài như sau :
“Tôi được sinh ra trong một gia đình Do Thái giáo. Gia đình tôi rất sùng đạo và tuân giữ chặt chẽ các luật lệ cũng như các tập tục của đạo Do Thái. Mẹ tôi trước khi chết còn căn dặn các con là phải ý tứ đừng theo đạo Công giáo. Năm lên 14 tuổi, có một lần tôi cảm thấy tâm hồn trống rỗng và tò mò tìm đến một nhà thờ Công giáo trùng hợp vào ngày Thứ Năm tuần thánh. Tôi cảm thấy nhàm chán với những nghi lễ rườm rà và ầm ĩ bên ngoài. Vào ngày hôm sau, Thứ Sáu tuần thánh, tôi lại tìm đến nhà thờ ấy một lần nữa. Nhà thờ hoàn toàn vắng lặng chẳng có ai đi ra đi vào. Cung thánh trống trơn không một bông hoa, không một ngọn nến, và duy nhất chỉ có cây Thánh giá đứng sừng sững ở giữa. Bầu khí tĩnh lặng hoàn toàn. Tôi ngắm nhìn tượng Thánh giá khá lâu và trầm ngâm suy nghĩ. Trên Thập giá, đôi mắt Chúa Giêsu nhắm nghiền và đôi tay vẫn luôn giang rộng. Ngài thinh lặng, thinh lặng cách tuyệt đối. Nhưng từ Thập giá, Chúa Giêsu dường như vẫn đang nói, vẫn đang vang lên một sứ điệp rất mạnh mẽ đánh động tâm hồn của tôi. Tôi bắt đầu chú tâm cầu nguyện trong thinh lặng. Ánh sáng từ Thập giá Chúa Giêsu đã hắt dọi vào tâm hồn tôi một luồng sáng mới. Cuộc hành trình đức tin của tôi bắt đầu từ giây phút này. Tôi đã đón nhận đức tin khởi nguồn từ Thập giá của Đức Giêsu”.
‘Tin’ là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ Tin mừng của Thánh Gioan. Chủ đề đó cũng được lặp lại trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Chúa nói :“Ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Đức tin mà Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô không phải là kết quả của những lý luận theo đầu óc suy lý của con người. Vì vậy, thoạt đầu Nicôđêmô ngơ ngác không hiểu gì. Ông ta là bậc thầy trong dân Israel (3,9), tức là một con người có học thức, rất am tường Kinh thánh, có những suy tư và lý luận theo logic, nhưng ông chưa thể đi vào lộ trình đức tin cách thực sự. Đức Giêsu đã khai sáng cho Nicôđêmô và ông đã dần dần bước vào thế giới linh thánh. Sau này khi đối diện trước cái chết và Thập giá Đức Giêsu, Nicôđêmô đã dần hiểu ra và ông đã tin. Đức tin nơi ông trở nên chín mùi khi ông dang rộng đôi tay đón nhận xác Đức Giêsu được hạ xuống từ trên Thánh giá và ông đã đem đi an táng trong huyệt mộ.
Đây là mô hình kiểu mẫu về đức tin cho tất cả chúng ta. Cũng như Nicôđêmô đã tìm đến với Chúa vào giữa đêm khuya thanh vắng để nghe Chúa nói, chúng ta cũng cần phải biết rút lui vào trong tĩnh lặng để đi sâu vào cảm thức đức tin. Muốn khơi dậy ngọn lửa đức tin, điều quan trọng nhất, là chúng ta phải mở rộng cõi lòng để ánh sáng từ Thập giá Chúa soi dọi vào những chỗ tăm tối nơi nội tâm chúng ta.
Bác sĩ Alexis Carmel, một người vô thần cũng đã tìm lại được ánh sáng đức tin. Ông đã viết lại cảm nghiệm của mình như sau : “Chỉ có những ai biết yêu mới có thể gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ lánh mặt đối với những ai tìm đến với Ngài chỉ vì tò mò”.
Thập giá Đức Giêsu là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta
Đây là câu tâm niệm của Đức Cha Lambert de la Motte cũng như của các nữ tu các Hội dòng Mến Thánh giá. Câu tâm niệm này được nhắc tới trong tu luật của hội dòng và được các nữ tu Mến Thánh giá lập đi lập lại mỗi ngày, nhất là khi tuyên khấn. Tuy nhiên, linh đạo Thập giá cũng phải là lối nên thánh độc đạo cho tất cả các học trò của Đức Giêsu, vì Chúa đã nói : “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mỗi ngày mà theo”. (Lc 9, 23).
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, thánh Phaolô trong thơ gởi giáo đoàn Êphêsô cũng nhắc lại giáo huấn này. Thánh tông đồ còn nhấn mạnh về lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu. Đây là quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không. Chỉ cần tin, chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn cứu độ (Ep 2, 7-8).
Kết luận
Một văn sĩ người Anh đã viết một câu chuyện với tựa đề ‘Thập giá và bầu trời’ với một dụng ý khá thâm thúy. Có một thanh niên nọ là Kitô hữu đã bỏ đạo. Anh ta ghét đạo, ghét cay ghét đắng những người Công giáo và căm thù Thập giá của Chúa Giêsu. Thấy hình ảnh Thánh giá ở đâu anh ta lao vào đập phá. Anh ta giật ảnh Thánh giá vợ đeo nơi cổ và hậm hực vất vào sọt rác. Trong cơn điên cuồng, anh ta cũng trèo lên đỉnh tháp chuông nhà thờ để phá đổ tượng Thánh giá trên đó.
Với cặp mắt cuồng loạn, anh ta thấy hình Thập giá ở khắp nơi, từ những cành cây khô bên vệ đường, đến ban công trước cửa nhà. Ngay cả căn nhà anh ta đang ở cũng đầy hình tượng Thánh giá. Anh hung hãn xông vào, thắp lửa đốt cháy căn nhà anh đang ở và cuối cùng anh bị chết cháy trong đó như một người điên. Tham vọng duy nhất của anh ta là muốn tiêu diệt Thập giá nhưng không thể làm gì được. Còn chúng ta, chúng ta có đặt niềm tin tuyệt đối vào Thánh giá Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta hay không? Song điều quan trọng nhất, là chúng ta đã thể hiện niềm tin ấy một cách cụ thể như thế nào.
Chúng ta vừa nghe một trích đoạn trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Trong cuộc dạ đàm này Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô, một nhân sĩ nổi tiếng trong giới trí thức của người Do thái nhiều điều quan trọng. Phụng vụ hôm nay không đề cập đến tất cả những vấn đề Chúa đã nói mà chỉ đề cập đến một lời mời gọi của Chúa Giêsu. Chúa mời ông Nicôđêmô và qua Nicôđêmô, Chúa cũng mời gọi chúng ta nhìn lên Thánh giá của Ngài.
Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì?
1. Trước hết chúng ta sẽ thấy tội lỗi của chúng ta và thứ đến là thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa.
Vâng! Khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta sẽ thấy được tội lỗi của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói rất rõ về vấn đề này: "Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh" (1Cr 15,3) Ngài còn quả quyết: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngườ" (2Cor,5,21.) Thánh Phêrô nói rõ thêm: "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thánh Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính." (1Pr 2,24).
Có một ông đạo đức kia đêm nằm chiêm bao thấy Chúa Giêsu bị một tên lính Rôma trói. Ông thấy rõ trong tay tên lính cái roi có dây da rất dày, và những mũi đinh nhọn. Ông rùng mình sởn óc vì thấy những vết thương ghê gớm nơi con người của Chúa, máu chảy ra như suối.
Khi tên lính vung roi định đánh thêm nữa, ông bèn xông tới ngăn cản. Tên lính thình lình quay lại và kìa... ông nhận ra tên lính ấy chính là ông! Ông sửng sốt không hiểu ra làm sao. Chợt Chúa cho ông nhớ lại lời Tiên tri Isaia: “Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác của chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt Ngài chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi Người, chúng ta được lành bệnh” (Is 53,5).
Vâng vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã phải chịu treo trên Thánh Giá như thế. Người nào có tội tình gì đâu mà phải chết đau đớn, tủi nhục như vậy…không một mảnh vải che thân…chết giữa lúc tuổi còn thanh xuân… chết như một tội nhân…chết như một người nô lệ.
Bên cạnh đó khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta còn thấy được tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa. "Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa" (1Pr 3,18). Đáng lý ra khi phạm tội chúng ta đã phải chết. Nhưng vì yêu thương Chúa đã không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách để cứu ta.
Đây là câu chuyện xảy ra ở Italia.
Một người sĩ quan tên là LOHSER, mang cấp trung uý trong quân đội Đức Quốc Xã. Năm 1944, Lohser chỉ huy toán quân Đức Quốc Xã đóng tại Thành phố Molina. Trước đây anh là người công giáo, nhưng rồi đã bỏ đạo để gia nhập Đảng Quốc Xã Phát Xít.
Hôm ấy, Lohser uống rượu trong quán Graziani, và khi đã quá chén, anh ta rút súng lục ra, nhắm vào tượng Thánh Giá treo trên tường làm bia để biểu diễn tài nghệ:
Phát một: trúng con mắt tượng phải của Chúa. Phát hai và ba: trúng ngực tượng Chúa. Phát bốn: trúng bàn chân trái tượng Chúa
Thấy vậy, mọi người sợ hãi bỏ trốn, chỉ còn lại anh tài xế Georgis phải lái xe đưa Lohser về đơn vị. Khi xe đang chạy trên đường bỗng một máy bay địch xuất hiện và nhắm vào xe Jeep bắn xuống. Lohser bị trúng đạn, máu ra nhiều, viên tài xế phải dừng xe lại săn sóc vết thương:
Mắt phải anh trúng một viên đạn, Ngực anh trúng hai viên, Bàn chân trái anh trúng một viên.
Nhưng rất may là cuối cùng anh ta đã kịp hối lỗi. Anh cầu nguyện với Chúa: "Lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Thánh Giá Chúa, trong mấy năm qua, con mắt linh hồn con mù quáng, không nhìn thấy Chúa, không nhìn thấy đời sau, mà chỉ thấy có tiền tài, danh vọng. Giờ đây, con được thấy Chúa, thấy sự công bình của Chúa và nhất là lòng yêu thương thư tha của Chúa".
Mười phút sau đó, anh ta tắt thở.
Ngày nay, tượng Thánh Giá được Lohser dùng làm bia được cất giữ trong chiếc tủ kính tại Nhà thờ Molina, và cứ vào ngày 15 thánh 06 hằng năm, giáo dân ở đây lại tổ chức rước kiệu Thánh Giá này chung quanh Nhà thờ.
2. Bây giờ chúng ta thử hỏi Chúa yêu thương ta như thế, chúng ta phải làm gì? Khi chết vì yêu thương chúng ta có lẽ Chúa chẳng mong gì hơn là chúng ta biết nhận ra ơn cứu độ của Người.
Ngày xưa trong sa mạc dân Do Thái chẳng tìm ra được ai có thể cứu chữa họ. Họ cũng chẳng có được vị thuốc nào giúp họ khỏi chết. Họ cảm thấy mình bất lực. Họ đã phải chạy đến với ông Môisê để xin Ông cầu cứu với Thiên Chúa bởi vì họ hiểu rằng chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu họ. Chúa bảo họ phải nhìn lên con rắn. Họ đã nghe lời Chúa và họ đã được cứu.
Ngày xưa là như vậy và bây giờ cũng thế. Càng ý thức được thân phận mình tội lỗi yếu hèn của mình, ta lại càng cảm nghiệm thấy ơn cứu độ của Chúa thật là kỳ diệu.
Bên Âu Châu trong một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa. Cây Thánh Giá này có một lịch sử rất đặc biệt: Cánh tay phải của Chúa Giêsu đã tách rời khỏi lỗ đinh và buông xuống trong tư thế như đang ban phép lành cho người nào đó ở dưới. Truyền thuyết thuật lại rằng:
Ngày nọ, có một tội nhân "gạo cội" tìm đến xưng thú tội lỗi của mình dưới cây Thánh Giá này với tất cả lòng sám hối chân thành. Sau khi nghe người này thú tội, cha giải tội đã do dự không muốn ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông quá nhiều và quá kinh khủng. Thế nhưng hối nhân cứ kiên trì cầu xin sự tha thứ.
- Tôi sẽ ban phép giải tội cho ông, Vị Linh mục nói, tuy nhiên, ông phải hứa là không được tái phạm nữa nghe!
Tội nhân xin hứa và giữ được lời hứa trong một thời gian. Nhưng rồi sau đó, ông lại yếu đuối và sã ngã. Lòng thống hối lại thúc đẩy ông đến tòa giải tội. Vừa thấy ông vị Linh mục đã nói ngay:
- Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu!
- Con thống hối, hối nhân đáp lời vị Linh mục. Con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối ! Xin hãy tha thứ, tha thứ cho con!
Một lần nữa cha giải tội phải miễn cưỡng tha thứ và nhưng ngài dặn thêm:
- Đây là lần cuối cùng đó nhé !
Một thời gian khá lâu sau đó, phần do thói quen, phần vì yếu đuối, ông ta lại rơi vào vòng tội lỗi.
- Bây giờ thì dứt khoát! Vị Linh mục bảo ông, ông lại phạm lại những tội đã phạm. Sự thống hối của ông không thành thực.
- Thưa Cha, con rất chân thành sám hối. Con đã sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn.
- Không, không còn sự tha thứ nào cho ông nữa
Và vào chính lúc đó thì người ta nghe thấy có tiếng người khóc. Tiếp đến là những tiếng động phát xuất từ cây Thánh Giá, nhìn lên người ta thấy cánh tay phải của Chúa đang tự tháo rời ra khỏi lỗ đinh, giơ lên hướng về phía hối nhân và ban phép lành cho ông ta. Sau đó người ta nghe thấy có tiếng từ trên cây Thánh Giá nói vọng xuống:
- Ngươi! Ngươi có đổ máu ngươi cho người này đâu!
Lạy Chúa chúng con là những người tội lỗi. Xin tha thứ cho chúng con những lỗi lầm và xin hoàn lại cho chúng con sức sống thần linh của Chúa để chúng con có thể sống xứng đáng với tình yêu thương Chúa dành cho chúng con. Amen.
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Nicôđêmô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành… Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám… Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc. Thế nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3, 19-20).
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư. Trái lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc. Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ.
Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu. Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học. Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi. Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
Qua Tin Mừng theo Thánh Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3, 19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh sáng".
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối. Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần "đèn".
“Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi). Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê!
Tình yêu luôn quan trọng trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh, vì ai cũng muốn “yêu” và “được yêu”. Không ai định nghĩa được tình yêu, vậy có thể ví nó như cái gì để dễ hiểu? Người Ấn Độ có cách so sánh độc đáo: “Tình yêu giống như một dây leo, nó sẽ khô héo và chết đi nếu không có gì để nó quấn quýt”. Quả thật, cuộc sống không có tình yêu thì không còn là cuộc sống nữa. Tình yêu vô hình nhưng khả dĩ cảm nhận, và nó là báu vật: “Tình yêu thương là tài sản quý giá nhất của con người” (Ngạn ngữ Ả Rập).
Tông Đồ trẻ Gioan đã được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu và được mệnh danh là người-môn-đệ-Chúa-yêu, ông xác định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8 và 16). Và ông nhấn mạnh: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10).
Trong cuộc sống, khi nói đến vấn đề vô ân bạc nghĩa, người Việt thường nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái trái tai cần thiết mà luôn bị lãng quên. Chúng ta cũng thường đối xử với Chúa theo kiểu như vậy. Nhưng Ngài vẫn “làm ngơ”, coi như không biết, vì tình yêu thương của Ngài luôn bao la, là bản trường ca đầy những Nốt Tình kỳ diệu dệt thành Giai Điệu Xót Thương tuyệt vời nhất để chúng ta tận hưởng. Khối Thánh Tình đó của Ngài được phát xuất từ Thánh Tâm, Nguồn Mạch Yêu Thương, và đó cũng chính là Lòng Thương Xót vô biên của Ngài.
Hôm nay, vậy là chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay. Xin mạn phép nhắc lại một chút cho dễ hiểu: Chúa Nhật IV Mùa Chay còn được gọi là Chúa Nhật Vui (Lætare), với lễ phục màu hồng, xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Lætare Jerusalem – Hãy vui lên hỡi Giêrusalem). Niềm vui này dẫn chúng ta tới đỉnh Đồi Sọ để cùng chết với Thầy Chí Thánh.
VÌ LÀ TỘI NHÂN…
Thánh Vịnh gia xác định: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51, 7). Đó là “kiếp tội nhân” của mọi phàm nhân. Tất cả chúng ta đều là những hạt-bụi-nhỏ-nhoi-và-yếu-hèn, đều là những tội nhân, ngay cả những người công chính cũng vẫn phạm sai lầm mỗi ngày 7 lần (x. Cn 24, 16).
Thật vậy, sách Sử Biên Niên nói: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2Sb 36, 14). Do đó, Thiên Chúa không ngừng sai sứ giả của Ngài đến cảnh cáo, vì Ngài hằng thương xót dân và thánh điện của Ngài. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài. Dân Chúa phạm tội tăng theo cấp số nhân, dân Chúa cũng chính là chúng ta. Và rồi Thiên Chúa buộc lòng phải bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Ngài đến vô phương cứu chữa. Nhưng Ngài trách phạt chúng ta vì yêu thương, vì thương xót, chứ không vì ghét bỏ, để chúng ta có thể “sáng mắt” và giác ngộ mà nhận ra những sai lầm thái quá của mình.
Chuyện kể trong sách Sử Biên Niên thế này: Ngày xưa quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Theo “luật nhân quả” thì “gieo gì gặt nấy”, và chúng ta cũng thường nói: “Gieo gió thì gặt bão”. Hình phạt là hậu quả từ sự ngang ngược của chúng ta: Lỗi tại tôi mọi đàng – một hệ lụy tất yếu!
Chỉ vì to gan, lớn mật, coi trời bằng nắp bia, dám phạm tội phản nghịch Thiên Chúa mà dân chúng phải đi đày. Khổ nên buồn, buồn nên nhớ quê hương, thế nên dân chúng than thở thảm thiết: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn” (Tv 137, 1-2). Mỗi người trong chúng ta cũng đã bao lần tự cắt mối dây liên lạc với Chúa vì phạm tội, đến lúc ở “bước đường cùng” rồi thì chúng ta chỉ còn biết năn nỉ ỉ ôi: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Lời cầu nguyện này không chỉ được chúng ta đấm ngực và kêu xin trong thánh lễ hằng ngày mà còn nhiều lần khác trong ngày. Rõ ràng “cứ trái tai mà sờ”. Thật tồi tệ, thế nhưng lại là tốt, bởi vì Thiên Chúa tươi cười khi thấy chúng ta biết sám hối!
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đã khổ sở vì lòng ray rứt, dân chúng còn bị bọn lính canh “khiêu khích” để chạm vào vết thương lòng đang sưng tấy: “Hát đi, hát thử đi xem! Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137, 3). Ui da, vần thơ lục bát êm đềm thế mà sao nhức buốt quá! Đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn não lòng như vậy thì còn đâu hứng khởi mà hát xướng, dù là bài ca kính Chúa Trời? Và rồi lòng lại dặn lòng: “Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137, 5-6). Con cái chẳng bao giờ rời khỏi cha mẹ, chúng ta cũng chẳng bao giờ thoát khỏi Thiên Chúa. Chắc chắn như thế!
… NÊN CẦN TÌNH CHÚA
Thiên Chúa là Đấng THẤU SUỐT mọi sự (1Sbn 28, 9b; Gđt 8, 14; Et 5, 1; 2Mcb 7, 35; 2Mcb 9, 5; 2Mcb 12, 22; 2Mcb 15, 2; G 28, 27; Tv 139, 2; Cn 16, 2; Cn 21, 2; Cn 24, 12; Kn 1, 6; Kn 7, 23; Hc 23, 19; Hc 42, 20; Gr 11, 20; Gr 20, 12; 1Cr 2, 10; 1Cr 12, 4-6; 1Ga 3, 20), Ngài biết rõ chúng ta đau khổ vì đã chống lại Ngài, nhưng Ngài vẫn “làm như không hay biết” vì muốn chúng ta tự nhận thức và sám hối thật lòng. Chừng nào chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ ra tay ngay. Thánh Phaolô trần tình: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2, 4-5). Ôi, chúng ta thực sự hạnh phúc vô cùng, nhưng đừng ảo tưởng mà cho rằng Thiên Chúa “phải” yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta vì thương xót chúng ta, “chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ” (Ep 2, 5), chứ chúng ta chẳng là gì mà Ngài phải bận tâm!
Tất cả là hồng ân. Ngài không chỉ cứu độ chúng ta mà còn “cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2, 6). Ngài tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau thấy ân sủng dồi dào và phong phú của Ngài. Thánh Phaolô tái xác định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa, cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2, 8-9). Quả thật, chúng ta không hề có mảy may gì để mà hãnh diện!
Đó là điều vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, bởi vì “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu”, và chúng ta có trách nhiệm “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2, 10). Đó là sự công bình hoàn toàn hợp lý!
Qua sách Dân số, chúng ta biết rằng, từ núi Horép, dân Chúa lên đường theo đường Biển Sậy (Sea of Reeds, còn gọi Biển Đỏ – Red Sea), vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, với lương thực duy nhất là “món” mana, dân Ítraen mất kiên nhẫn nên kêu trách Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này!” (Ds 21, 5). Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn khiến nhiều người chết. Thấy vậy, dân chúng hoảng sợ quá nên đành phải cầu xin ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi” (Ds 21, 7). Ông Môsê cầu nguyện, và Thiên Chúa “mủi lòng” nên bảo ông đúc một con rắn bằng đồng, đem treo lên cây cột, và “hễ ai bị rắn cắn mà NHÌN lên con rắn đồng thì ĐƯỢC CỨU SỐNG” (Ds 21, 9).
Biểu tượng ơn cứu độ thời Cựu Ước là “con rắn đồng treo trên cây cột trong sa mạc”, biểu tượng ơn cứu độ thời Tân Ước là “Đức Kitô bị treo trên Thập giá”, để “ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3, 15). Lời hứa đó là niềm hy vọng chắc chắn đối với chúng ta, nhưng tất cả đều là hồng ân, và nhờ Lòng Chúa Thương Xót. Thật vậy, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá đỗi lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17). Thiên Chúa công minh chính trực (Dcr 9, 9b; Hc 5, 3; Br 2, 6; Br 2, 9; Đn 9, 14; Tv 7, 18; Tv 9, 9; Tv 11, 7; Tv 25, 8; Tv 67, 5; Tv 146, 7), không thiên tư tây vị bất kỳ ai, không “ưu tiên” người “có thế giá”, cũng chẳng “chèn ép” người cô thân – dù là người cùng đinh nhất thế gian: “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con M ột Thiên Chúa” (Ga 3, 18). Đó là sự công bằng – vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Đâu là nguyên nhân của bản án? Rất đơn giản: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Thiên Chúa giải thích: “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3, 20-21). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Còn chúng ta? Trách nhiệm của chúng ta là gì? Đó là “thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, nếu ai hoàn thành tốt thì “việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”. Một hệ lụy rất lô-gíc và quá tuyệt vời! Nếu vậy, mỗi chúng ta sẽ trở thành một “nốt tình” trong bản tổng phổ của bài “Trường ca Lòng Chúa Thương Xót”.
Tuy nhiên, Thánh Phêrô cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5, 8). Ma quỷ rất tinh quái, đủ mánh khóe để đưa chúng ta vào tròng, thế nên phải luôn cảnh giác như Thánh Têrêsa Hài Đồng: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn”. Đáng sợ là nó làm cho chúng ta cảm thấy mình đạo đức, vì thế mà kiêu ngạo và khinh người khác.
Ba thù rất đáng quan ngại, mỗi loại có “chiêu” riêng, vì thế mà phải ăn chay để khuất phục chúng. Chịu khó ăn chay một chút nhưng được nhiều ích lợi. Thánh Augustinô cho biết: “Ăn chay tẩy sạch linh hồn, nâng cao tâm trí và thể lý, làm cho tâm hồn khiêm nhường và hối hận, phá tan những ham muốn trần tục, kiềm chế nhục dục, và thắp sáng lửa tinh tuyền. Hãy đi vào nội tâm của chính mình”. Cố vượt qua chính mình và phải cậy nhờ vào Đấng toàn năng: “LẠY CHÚA TRỜI, XIN TỚI GIÚP CON! – DEUS, IN ADJUTORIUM MEUM INTENDE ! – O GOD, COME TO MY ASSISTANCE !”
Dù ở vào hoàn cảnh nào thì cũng “đừng sợ!”, bởi vì chúng ta luôn có Chúa Giêsu đồng hành và cùng chiến đấu với chúng ta. Tưởng cũng cần biết điều thú vị này: Thành ngữ “đừng sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, trong suốt cả năm, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên trong các trường hợp khác nhau với mệnh lệnh: “ĐỪNG SỢ!” Tạ ơn Chúa!
Lịch sử cứu độ là lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tình yêu tạo dựng MC4-B146
Lịch sử cứu độ là lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tình yêu tạo dựng, tình yêu quan phòng và tình yêu cứu chuộc. Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người.
Vì yêu nên Ngài đã tạo dựng mọi sự để cho con người cai quản và sử dụng. Vì yêu nên Ngài đã không chấp tội con người, trái lại đã ban chính Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại. Tin mừng hôm nay khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3,15). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2,4-6). Ngài còn cho biết thêm: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.” (Ep 2,8). Cũng vì yêu nên khi xuống trần gian, Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để lập nên Giáo hội, thiết lập các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến Tận thế. Điều đặc biệt hơn nữa là Thiên Chúa không những yêu thế gian chung chung mà Ngài yêu thương chăm sóc chu đáo từng người một trong chúng ta giống như người cha yêu thương từng người con trong gia đình vậy.
Nhưng con người hay phản bội, đi ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử dân Do Thái là một lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, nhưng đồng thời cũng là một lịch sử nói lên sự phản bội của con người đối với Thiên Chúa. Đoạn sách Sử Biên Niên quyển thứ II được trích đọc trong bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy điều đó. Thật vậy, dân Do thái đã sống bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem. Họ phụ bạc với tình yêu của Thiên Chúa, bất tuân lề luật, phá vỡ giao ước đã ký kết với Thiên Chúa (x. 2Sb 36,14). Hậu quả là đền thờ và thành thánh của họ bị sụp đỗ tan tành. Dân chúng bị tàn sát vô số, những người sống sót còn lại bị đưa đi lưu đầy (x. 2Sb 36, 19-20).
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có giận, có ra án phạt nhưng không phải vì ghét, vì oán thù mà nhằm mục đích để thanh luyện, thanh tẩy và chữa trị họ. Bằng chứng là khi dân sai phạm, Ngài đã sai các sứ giả đến để nhắc nhở họ nhiều lần: “Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người.” (2Sb 36,15). Không những thế, Ngài còn thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư để nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.” (2Sb 36, 22-23).
Hình ảnh con rắn đồng được nhắc tới trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng là biểu tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi ra khỏi đất Ai cập, dân Do Thái phải sống ròng rã suốt 40 năm trong sa mạc, gặp mọi thử thách gian nan. Họ phàn nàn kêu trách Chúa vì đã để họ phải chịu cảnh lầm than khốn khổ. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và để cho rắn lửa cắn chết nhiều người. Họ khiếp sợ và thống hối tội lỗi của mình. Họ đến với Môsê và xin ông cầu nguyện cùng Thiên Chúa cứu giúp họ: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi” (Ds 21,7). Thiên Chúa đoái thương bảo Môsê đúc một con rắn đồng treo lên và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát (x. Ds 21,8).
Con rắn đồng là biểu tượng của Đức Giêsu bị treo lên thập giá và ai tin vào Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá sẽ được cứu rỗi. Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3,20). Cho nên, Thánh giá cũng là biểu tượng của tình yêu. Vì yêu thương nên Đức Giêsu đã chấp nhận bước vào con đường đau khổ, con đường thập giá. Khi suy niệm về những hình khổ Đức Giêsu đã chịu: đánh đòn, đội mạo gai, vác thập giá, đóng đinh vào thập giá…chắc chắn không ai không nghĩ đến tình yêu mà Đức Giêsu dành cho nhân loại. Đó là tình yêu cao quý trên mọi tình yêu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Thánh giá cũng là biểu tượng của sự tha thứ. Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người, tha thứ tội lỗi cho loài người. Chính trên thập giá Ngài đã tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cũng trên thập giá, Ngài đã tha thứ cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài và hứa ban phúc Thiên đàng cho anh ta ngay ngày hôm đó.
Và nhờ công ơn cứu chuộc của Ngài, Ngài muốn Giáo hội tiếp tục sự tha thứ như thế mãi cho đến tận thế. Câu chuyện sau đây nói lên tinh thần đó. Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. (Sưu tầm)
Lạy Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Xin cho mỗi người chúng con luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa để chúng con biết yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Có những lời chúng ta không thể quên, nó xoáy vào trong quả tim thịt máu của chúng ta làm MC4-B147
Có những lời chúng ta không thể quên, nó xoáy vào trong quả tim thịt máu của chúng ta làm chúng ta sững sờ vừa vui sướng. Có những câu nói mang lại niềm vui bất tận. Hôm nay, chúng ta cũng nghe được một lời như thế: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban người Con Một cho trần gian”. Có lời nào êm đềm hơn không? Chúng ta có cảm thấy hương vị ngọt ngào đó thấm sâu vào tim ta không? Thật huyền diệu! Nếu chúng ta không cảm thấy gì, hãy đọc lại từng chữ, nhiều lần, chúng ta mới cảm thấy cả một vùng trời yêu thương mở rộng trước mắt chúng ta, chúng ta sẽ nghe thấy cả một điệp khúc yêu thương trào tràn trong tim.
Không thể tưởng tượng được! Chúng ta được yêu thương đến mức độ như thế! Chúng ta làm sao cảm tạ ơn Cha trên trời cho xứng được! Chúng ta đo được tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta không?
Thế nhưng chúng ta đã làm gì cho người Con Một yêu quí đó? Chúng ta đã giương cao Ngài lên cây thập giá như xưa, trong sa mạc, Môsê đã giương cao con rắn bằng đồng để nhờ đó những người bị rắn lửa cắn được chữa lành. Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện này để nói cho chúng ta biết, Ngài như con rắn đồng xưa kia trong sa mạc. Sách Dân số kể lại: Dân Do Thái mệt mõi vì nắng nóng và thiếu nước uống, dân đã kêu trách Thiên Chúa, và Chúa đã cho một bầy rắn từ núi bò ra cắn chết một số người. Dân đến kêu cứu với ông Môsê, xin ông cầu nguyện để Chúa cất tai họa đi. Môsê cầu khẩn Chúa và Chúa bảo làm một con rắn bằng đồng treo trên một cây gỗ và khi ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn thì sẽ được khỏi. Chúa Giêsu nói: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Con rắn đồng xưa được nhắc lại như một hình ảnh báo trước cây thập giá: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy”.
Người Con Một của Chúa Cha được trao ban cho chúng ta như một món quà tặng của tình yêu, chúng ta mang đóng đinh Ngài vào thập giá! Thật là điên rồ về phía chúng ta, nhưng cũng là sự điên rồ của Thiên Chúa. Điên rồ vì tại sao lại ban người Con Một yêu dấu cho một lũ tội nhân để họ đóng đinh Ngài, giương cao Ngài lên?
Một luồn thần học cổ điển xưa cho rằng Chúa Cha trong sự công thẳng của Ngài, đòi hỏi phải có một sự đền bù cân xứng vì tội nguyên tổ, vì thế Chúa Cha phải cho Chúa Con đến đền tội cho loài người mới xứng hợp với sự phản bội của Ađam. Không thể nói là sai nhưng như thế làm như Chúa Cha là một quan toà hơn là một người cha. Nhiều nhà thần học khác không nghĩ như thế mà ngược lại nghĩ rằng, Chúa Cha là tình yêu vô biên, Ngài thương nhân loại đến mức độ Ngài phải cùng đau khổ với con người bằng cách ban cho con người đứa Con Một yêu dấu của Ngài, vì thế Ngài cũng đau cùng với Chúa Con và cho con người. Như thế, chúng ta thấy câu nói của Chúa Giêsu diễn tả tình yêu của Chúa Cha và của cả Chúa Con.
Nếu hiểu như thế, chúng ta mới thấy thấm thía, chúng ta mới hiểu được hạnh phúc của chúng ta vì được yêu thương đến như thế. Tình yêu của Chúa vượt hẳn tất cả những tư tưởng của con người, vì thế thánh Phaolô dám nói: “Chúng tôi rao giảng một Chúa Kitô chịu đóng đinh, một vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với người ngoại đạo”. Người tử tội mang tấm bảng viết bằng ba thứ tiếng: Giêsu Nadaret, Vua Do Thái, với cạnh sườn mở toạt ra, là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua một con người bằng xương bằng thịt. Chỉ có tình yêu của Ngài đạt tới đỉnh cao đó mới cho thấy chiều sâu rộng của tình yêu Thiên Chúa là Cha nhân từ. Nhân từ đến mức độ không tiếc gì với loài người.
Cái chết nhục nhã của Chúa chúng ta không chấm dứt mọi sự như cái chết của chúng ta mà là một cuộc khởi đầu cho một cuộc sống vĩnh hằng. Như con rắn xưa trong sa mạc được giương cao, chữa lành vết thương do rắn cắn, thì hôm nay, Chúa Giêsu được giương cao để chữa lành vết thương tâm hồn chúng ta, cũng do con rắn là ma quỷ, nhưng với điều kiện là tin vào Ngài.
Người Con Một của Chúa Cha được ban cho chúng ta, Chúa Cha đã giương cao Ngài lên trên thập giá và nhờ đó hễ ai tin vào Ngài thì sẽ khỏi chết và được sống muôn đời. Người Con Một được ban cho chúng ta là để nhờ Ngài, chúng ta được sự sống mới trong tình yêu của Chúa Cha.
Từ giương cao được nhìn từ hai khía cạnh. Giương cao lên thập giá tức là Chúa Con phải chịu khổ hình và chịu chết cho con người. Cái chết đau thương đó chính là nguồn mạch sự sống, vì nơi Ngài chúng ta được hưởng ơn tha thứ nhờ lòng tin. Thánh Phaolô, trong các thư Galat, Êphêsô, Rôma đều nói đến lòng tin. Chúng ta được cứu thoát khỏi tội và được trở thành con Thiên Chúa là nhờ lòng tin: “Chính nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”.
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin. Sự sống muôn đời là do niềm tin. Nếu chúng ta tin, chúng ta sẽ được sống và không bị lên án. Dân Do Thái đã không tin nên đã mất đi tất cả và đã trở thành nô lệ cho ngoại bang. Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, mang lại nguồn sống mới, nhờ Ngài được giương cao trên thập giá. Tin vào Ngài, chính là đặt nền tảng cuộc sống chúng ta không phải trên sự tài giỏi hay công nghiệp riêng mà đặt trên tình yêu của Ngài.
Giương cao đứng trên bình diện khác, là được phục sinh và lên trời vinh hiển. Chúa Giêsu chịu chết đau thương nhục nhã, không là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài đã sống lại vinh hiển, đã toàn thắng sự chết và tội lỗi và chiến thắng đó chính là chiến thắng của chúng ta, vì Ngài chết cho chúng ta, sống lại cho chúng ta. Chúng ta thuộc về Ngài. Từ nay chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta… Chúng ta trở thành tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống và thực hiện công trình tốt đẹp của Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Như thế, chúng ta trở thành con cái của ánh sáng. Những việc chúng ta làm sẽ được tỏ bày trong ánh sáng. Thánh Gioan luôn nói đến ánh sáng và bóng tối. Đối với ngài, Chúa Giêsu là Ánh sáng thật chiếu soi vào bóng tối trần gian. Nhưng bóng tối đã không tiếp nhận ánh sáng, thế gian đã yêu bóng tối hơn ánh sáng, vì những việc của thế gian đều xấu xa.
Dù Chúa Giêsu đã mang lại ánh sáng cho chúng ta, nhưng chúng ta có thành ánh sáng như Ngài mong ước chưa? Những việc chúng ta làm có thực sự là ánh sáng chưa? Chúng ta có thực sự sống cho Chúa chưa?
Mùa Chay là lúc thuận tiện để chúng ta có dịp đối thoại với Chúa sâu xa hơn và tìm lại nguồn ánh sáng chúng ta đang cần, để tâm hồn và đời sống chúng ta tươi sáng hơn, xứng đáng với tình yêu Chúa hơn. Chúng ta chỉ là lữ hành trên trần gian, những bước đi nhọc mệt của chúng ta hôm nay sẽ dẫn chúng ta về miền ánh sáng của Chúa, dù quanh ta, bóng tối đang dầy đặc, đôi khi cũng làm chậm bước chân, nhưng tin tưởng, chúng ta không nản lòng. Chúng ta sở hữu Người Con Một thì không có gì có thể làm chúng ta nao núng. Chúng ta đang đi trong tình yêu của Cha chúng ta. Khó khăn nhọc mệt chỉ là giai đoạn, vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ xin cho chúng ta dám tin Ngài đến cùng.
Trên con đường lữ khách, chúng ta vẫn được Chúa chăn nuôi giữ gìn và chính Ngài lại ban cho chúng ta một thứ lương thực hằng sống là Mình thánh Ngài. Thật tuyệt diệu! Hãy đến với Ngài với tất cả niềm tin, ăn lấy của ăn thần linh đó, chúng ta có thể bước đi mãi mà không sợ sệt cho đến ngày chúng ta chỉ còn là một trong tình yêu vô biên của Ngài.
---------------------------
MC4-B148: Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)
Bài đọc 1, Sách Biên Niên Sử hôm nay mô tả dân Israel bị lưu đầy ở bên Babilon. Khi vua nước MC4-B148
Bài đọc 1, Sách Biên Niên Sử hôm nay mô tả dân Israel bị lưu đầy ở bên Babilon. Khi vua nước Batư đã đánh hạ ngục Babilon, ông ta ra chiếu chỉ giải phóng dân Israel, một cuộc xuất hành mới và cho phép họ tái thiết lại đền thờ. Ông vua này không có đạo, không biết Thiên Chúa là ai? Ông giải phóng dân Israel là hành động mang tính chính trị. Ông muốn lấy lòng dân tộc để việc cai trị ông được vững vàng hoặc lý do kinh tế xã hội nào đó. Trái lại, dân Israel nhìn sự giải phóng bằng một đức tin là do Chúa thúc dục lòng nhà vua để hành động. Một cái nhìn của đức tin như vậy không phải là Chúa xa lạ mà là sự thật trong những bước đi của lịch sử khi Ngài gởi Con Một của Ngài. Thiên Chúa Kitô giáo không ở trong lý luận, Thiên Chúa hiện hữu trong đời người tất cả mọi người. Chúa đóng ấn tình yêu của Ngài khi Ngài ban tặng Con Một của Ngài. Giờ đây, Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử bằng tình thương, đó chính là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa “đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.”
Quả thế, Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người. Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ tình của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu và Lời Người. Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Như vậy, Thánh giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài và hễ “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa.
Điều này có nghĩa rằng tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, từ bỏ tội lỗi, thi hành ý Chúa và thực thi Lời Người dạy ngay trong cuộc sống. Đức tin mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép Thanh Tẩy và giữ mãi cho đến hôm nay thực sự nó đã cứu tôi, có nghĩa rằng tôi nắm chắc sự sống lại mà Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh ban cho tôi. Nhưng từ khi Rửa Tội cho đến ngày cuối hết đó, đức tin của tôi như thế nào? Hành vi đạo đức của tôi trong cuộc sống như thế nào? Nói cách khác, tôi sống và thi hành Lời Chúa ở mức độ nào? Vì vậy, đức tin của chúng ta hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của chúng ta cùng Thiên Chúa, vì chưng Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 rằng: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8). Vì vậy, mỗi ngày thực thi Lời Chúa của chúng ta là công trạng trong ngày sau hết của chúng ta. Lời Chúa đòi hỏi chúng ta dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn, trung thành và hành động theo gương yêu thương Chúa Giêsu, hy sinh cho người mình yêu.
Đứng trước thập giá Đức Kitô, hôm nay chúng ta phải có thái độ nào? Nếu ta tin vào tình yêu Thiên Chúa thì được ân sủng, được Chúa và cả tha nhân, còn nếu ta chối từ tình yêu của Ngài? Ta tự kết án mình, xa lìa Thiên Chúa và trở thành người vô cảm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy đón lấy thập giá Chúa Kitô để thấy được tình yêu bao la của Chúa, đồng thời thấy ta tội lỗi vô ngần. Tình yêu Chúa luôn chịu đựng, phục vụ, hiền hòa, khiêm nhường, nhịn nhục và không ngừng tha thứ, và hy sinh chết cho ta. Còn tình yêu của ta dành cho Chúa và tha nhân như thế nào? Có thờ phượng Ngài trên hết mọi sự không? Hay có còn thờ thần đôla, thần danh vọng hay dục vọng mà bỏ Chúa ra bên lề, thích thì đọc kinh dâng lễ không thích thì thôi. Còn đối với nhân thì sao? Ta có yêu ngươi như Chúa yêu ta không? Có tha thứ cho tha nhân như Chúa không hay kết án anh chị em, cha mẹ mình mãi, “sống để bụng, chết mang theo”. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? Hãy nhớ Lời Chúa dạy: “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Vậy, nhìn lên thập giá Chúa Kitô thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13). Cho nên, trong Sứ Điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi đừng vô cảm với tha nhân vì “Tình yêu của Thiên Chúa phá vỡ sự vô cảm ấy, một thái độ khép kín tai hại. Giáo hội trao tặng chúng ta tình yêu này qua giáo huấn, và nhất là qua chứng tá của mình. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm chứng về điều mà chính chúng ta đã cảm nghiệm. Kitô hữu là người để Thiên Chúa mặc cho mình lòng nhân từ và thương xót của Ngài, mặc lấy Chúa Kitô, để giống như Chúa Kitô, trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của người khác. Chúng ta thấy rõ điều này trong Phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh qua nghi thức rửa chân. Phêrô không muốn Chúa Giêsu rửa chân cho ông, nhưng ông đã hiểu ra rằng Chúa Giêsu không muốn chỉ nêu gương về cách thức chúng ta phải rửa chân cho nhau. Chỉ những ai để cho Chúa Giêsu rửa chân mình trước thì người ấy mới có thể phục vụ người khác như thế. Chỉ người nào được “dự phần” với Ngài (Ga 13,8) thì mới có thể phục vụ người khác” (số 1).
Thư Mục Vụ Năm 2015 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam viết rằng: “Giáo xứ là gia đình của những người con cái Thiên Chúa, trong đó tất cả là anh chị em với nhau. Gia đình giáo xứ cần được Phúc-Âm-hóa, nghĩa là thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân”. Ước gì, trong mùa Chay thánh này, mỗi người chúng ta thấm đẫm tinh thần Phúc Âm hôm nay là sống và trao ban tình yêu Chúa đã dành cho mọi người trong giáo xứ và mọi người trong môi trường sống chúng ta ngõ hầu đức tin của chúng ta thật sự sống động và đem lại ân phúc thay vì luận phạt. Vì chưng, “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Amen.
Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có MC4-B149
Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: "Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?". Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.
Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.
Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!
Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp...
Thánh Phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.
Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha” (2Tm 4,1). Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen.
Một trong những bài thơ Công Giáo nổi tiếng nhất viết bằng Anh Ngữ là bài "Sự săn đuổi của MC4-B150
Một trong những bài thơ Công Giáo nổi tiếng nhất viết bằng Anh Ngữ là bài "Sự săn đuổi của Thiên Đàng". Tác giả bài thơ đó là Francis Thompson, người đã cố xa tránh Thiên Chúa. Ông so sánh Thiên Chúa như một người thợ săn, săn bắt các linh hồn. Bài thơ đó cũng là câu truyện về cuộc đời của Thompson. Khi còn là một cậu bé, ông có ý định đi tu làm Linh Mục, nhưng vì ông lười biếng, nên cha ông đã ghi tên cho ông học trường thuốc. Sau này ông nghiện thuốc phiện và tật nghiện này đã tàn phá tinh thần lẫn thể xác ông. Ông trở thành kẻ ăn mày la cà các ngõ hẻm, đánh giầy, bán hộp quẹt và giữ ngựa cho người ta để sinh sống. Nhờ một cô bé gái nghèo khó môi giới, Thompson gặp được ông bà Wilfred Meynell. Ông bà Meynell nhận ra Thompson là người có tài và có chí hướng. Họ giúp đỡ ông quay về với Tình Yêu Thiên Chúa.
Ông đã cố tránh né Thiên Chúa ra sao, Ngài đã săn tìm ông thế nào và Tình Yêu Chúa đã bắt được ông làm sao. Đó là tất cả ý nghĩa của bài thơ.
I. TÌNH YÊU CHÚA ĐƯỢC MẶC KHẢI
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc hội kiến giữa Chúa Kitô và Nicodemô trong lúc đêm khuya. Chỉ duy có Thánh Sử Gioan nói về Nicodemô trong 3 trường hợp: Nicôdêmô đến gặp Chúa ban đêm (Jn 3:1-2), bênh vực Chúa khi những người Pharisiêu kết án (Jn 7:50), đem thuốc thơm đến xức xác Chúa (Jn19:39). Ông thuộc phái Pharisieu, là một nhân viên của Hội Đồng Cộng Tọa, bậc Thầy trong dân, Nicodemô cảm phục giáo lý của Chúa và những việc Chúa thực hiện. Nhưng vì sợ đồng bạn, không dám công khai gặp Chúa, ông kín đáo đến cùng Chúa ban đêm và được Chúa mạc khải cho biết, muốn được cứu độ phải tin vào Ngài, phải chịu Phép Rửa, tức là phải được tái sinh bằng Nước và Thánh Linh: "Ai không sinh lại bởi Nước và Thánh Linh sẽ không được vào Nước Thiên Chúa" (Jn 3:5). Đồng thời, Chúa mặc khải cho ông biết về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, luôn theo rõi con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Con Một Thiên Chúa khi nói với Nicodemô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Jn 3:16). Tình Chúa say yêu mỗi người chúng ta còn được tỏ ra qua lời tiên tri Jeremia và Osê: "Cha yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer 31:3). Con người đã bất tuân, cố xa lìa Chúa, đã chống lại Ngài, đã phản bội Ngài; nhưng Chúa vẫn không từ bỏ và để chứng tỏ lòng Ngài thương yêu, Ngài đã sai Con Một Yêu Dấu của Ngài xuống trần gian, chịu chết đền bồi tội lỗi, để cứu chuộc loài người đã hư mất.
Như Thompson, những linh hồn xa tránh Chúa đều bị Chúa săn đuổi để cứu vớt, vì Ngài yêu thương họ. Mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương, săn đuổi, tìm kiếm trong mọi ngả đường của cuộc sống. Đã bao lần chúng ta phạm đến Ngài, lìa xa Ngài, trốn tránh Ngài, nhưng Ngài vốn theo rõi tìm kiếm, cứu vớt và tha thứ. Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn như Tin Mừng đã tường thuật, để bày tỏ cho chúng ta thấy tình Ngài yêu thương mỗi người chúng ta. Nào dụ ngôn người con phung phá ăn chơi hoang đàng tội lỗi, khi trở về được cha yêu thương tha thứ và mở tiệc mừng. Nào dụ ngôn con chiên lạc, được người mục tử để 99 con lại trên núi, để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, ông vác lên vai vui mừng trở về nhà. Nào dụ ngôn đồng bạc bị mất, người đàn bà thắp đèn tìm kiếm, khi tìm thấy rồi, gọi bạn bè xóm ngõ đến chung vui, vì đã tìm được đồng bạc đã mất.
II. HẬU QUẢ CỦA TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA
Adam Evà, nguyên tổ chúng ta phản bội Chúa, xúc phạm đến tình thương của Người, đã chuốc lấy án phạt, tự đẩy mình xa cách Chúa trong kiếp sống lầm than vất vả, mất hết các đặc ân ngoại nhiên và siêu nhiên Chúa ban, linh hồn ra tối tăm u mê, thân xác ra nặng nề, lòng thú lấn thắng lòng thần, thân xác phản bội linh hồn... Ác quả tội lỗi lưu truyền lại cho cả dòng giống.
Cũng như Thompson, cố tình xa tránh Chúa, ông đã phải sống kiếp sống nghèo nàn, vất vả để tìm của độ thân; đam mê nghiện ngập hút xái đã tàn phá cả tinh thần lẫn thể xác, đã hủy hoại cả tài ba, sức lực và chí hướng cao thượng đã được Thiên Chúa phú bẩm. Con người cố chấp trong tội lỗi cũng thế, họ cố tình chống lại Chúa, xa lìa Ngài, bội phản Ngài, khinh dể Ngài, họ cũng tự chuốc lấy án phạt mình bằng một lương tâm cắn rứt, một tâm hồn mặc cảm, một tâm tư nặng trĩu và trở nên nô lệ cho quyền lực tội lỗi và gông cùm hỏa ngục.
III. ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Với lòng thống hối khiêm nhu, ai trong chúng ta cũng đã tự cảm thấy, nhiều lần chúng ta đã phản bội lại tình Chúa yêu thương chúng ta, bằng những tội lỗi xúc phạm đến Người, hoặc những thiếu sót lỗi lầm.
Hay ít ra, chúng ta cũng phải phàn nàn, vì chúng ta chưa sống xứng với những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta, ơn phần hồn cũng như ơn phần xác. Chúng ta chưa sống xứng với Ơn Gọi cao cả chúng ta được làm con Chúa, được nhiều may mắn hơn người khác, được Chúa thương yêu cưng chiều hơn.
Không tội nhân nào không cảm thấy sung sướng, được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm, được xóa bỏ mọi vết tích tội khiên, được quên đi những điều phản bội, được giải hòa và được trở lại trong tình thương mến của Chúa.
Không con cái nào lại không cảm thấy hạnh phúc được cha mẹ thương yêu, cưng chiều, săn sóc, gìn giữ, bao bọc, tha thứ mọi lỗi lầm sơ sót làm phiền lòng các ngài.
Đối với Chúa, chúng ta cũng là những tội nhân đã bao lần xúc phạm đến Người, nhưng Chúa vẫn tha thứ, kiếm tìm và đem trở về hưởng tình yêu thương của Người. Chúng ta là những người con đã bao lần làm cho Chúa phải đau buồn vì những lỗi lầm, hay ít ra chưa sống đúng những ơn huệ Chúa ban, chưa đáp lại cân xứng lòng Chúa yêu thương và muôn ơn phúc Chúa hằng tuôn trào xuống trên chúng ta.
Thì Mùa Chay là cơ hội thuận tiện, chúng ta hãy trở về với tình Chúa yêu thương, làm hòa với Chúa để được lãnh ơn tha thứ. Canh tân cuộc sống, sống đẹp lòng Chúa hơn, xứng với tình Người yêu thương chúng ta.
Kết Luận
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, chúng ta hãy sống xứng với Ơn Gọi cao cả làm con Chúa, bằng cách luôn sống trong ơn nghĩa Người, bằng tấm lòng người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Cha Hiền.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu biết giá trị cao quí của Ơn Gọi làm con Chúa và luôn trung thành với hồng ân Chúa ban.