Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: “Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu”. Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào. - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
Ba bài đọc hôm nay không đóng khung con người trong những suy tư về kiếp nhân sinh; nhưng: MC5-B1
Ba bài đọc hôm nay không đóng khung con người trong những suy tư về kiếp nhân sinh; nhưng xa hơn, đưa mỗi người chúng ta đi ngược lại dòng lịch sử nhân loại để tìm về cội nguồn, để lục tìm, đào bới lại tình yêu của Thiên Chúa đã nhiều lần bị lãng quên trong dòng đời vội vàng, huyên náo.
"Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng" (Gr.31:33). Trải dài trên con đường lịch sử của Dân Chúa, Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhắc nhở con người hãy tìm về nguồn gốc của mình. "Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình" (St. 1: 27), và "Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp" (St. 1:31). Con người được kết tạo bằng Tình Yêu Thiên Chúa. Hay nói cách khác, con người là tinh hoa của Tình Yêu Thượng Đế. Từng tế bào trong con người là kết tụ bởi bao rung động của Tình Yêu. Ánh nhìn yêu thương từ buổi đầu tạo dựng vẫn âm hưởng, hình ảnh Thiên Chúa vẫn hiện hữu trong mỗi người. Nhưng, tình yêu con người đối với Thiên Chúa là một tình yêu mau lụi tàn và chóng quên. Điệp khúc "hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống" (Kh 2:5) như một khẳng định mạnh mẽ hơn về vai trò của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa đòi hỏi ở con người có gì khác hơn là sự nhận ra chính cội nguồn của mình và sống đúng với những gì được mời gọi.
"Lạy Cha, xin tôn vinh Cha" (Ga 12:28). Chúa Giêsu đến thế gian với sứ mạng thi hành Thánh Ý Cha là bày tỏ tình yêu chung thủy và tuyệt đối của Thiên Chúa đối với thụ tạo. Thiên Chúa không dừng lại sau khi đã dựng nên con người nhưng liên lỉ yêu thương và nâng niu con người trong tình yêu của một người Cha. Và, Chúa Giêsu là chiếc cầu nối thập toàn minh chứng cho tình yêu ấy. Chúa Giêsu luôn xác định mình đến chỉ để "tôn vinh Cha", và Thánh Ý Cha là tất cả động lực cho cuộc đời dương thế của mình. Trong lăng kính ấy, Chúa Giêsu đã chu toàn chức năng của mình đến mức tuyệt hảo nhất.
Con người được sinh ra không chỉ để hiện diện hoặc thêm một con số cho thế giới này nhưng Thiên Chúa tạo dựng con người cho một mục đích cao cả nào đó (Teresa Calcutta). Vâng, mỗi người được gọi mời là một mảnh tình yêu Thiên Chúa hiện hữu cho người khác. Vì là tinh hoa tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa, sứ mệnh đầu tiên mà mỗi người được gọi mời là trổ sinh và thăng hoa lòng biết ơn đối với Đấng Tạo Hóa, là tình yêu cho người khác như Chúa Giêsu... và mỗi người khi đã ôm trọn và thực thi sứ mệnh của mình thì là lúc có thể nói như Chúa Giêsu "Lạy Cha, xin tôn vinh Cha."
Nhưng, để được như vậy, chúng ta hãy nhịp bước với Đức Kitô trên con đường khổ giá với Ngài, hiến cuộc đời trong bàn tay Thiên Chúa Cha để tìm kiếm Thánh Ý Ngài. Mỗi người phải trở thành hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để bùng lên một sức sống mới; nghĩa là, phải chết cho sự ích kỷ tội lỗi của bản tính con người để bắt đầu khai sáng sự sống mới trong Đức Kitô. Vì mỗi người chúng ta là hạt lúa mì, là phần của mùa gặt vĩnh cữu của Chúa. Khi Ngài lên tiếng mời gọi là Ngài đòi buộc mỗi người phải chết đi và loại bỏ tất cả những gì không trung thực với cuộc sống, tránh xa đường tội lỗi, chấp nhận đau khổ, và sống cho tha nhân. Đường thập giá là ngưỡng cửa riêng của mỗi người, là thách đố của mỗi người bước theo con đường đó. Tuần chịu nạn đang tiến tới gần, mỗi người hãy tự vấn lương tâm để canh tân cuộc sống và đi vào chính nội tâm của mình, lột bỏ những lớp vỏ tội lỗi của bản tính con người mà quyền lực sự dữ đã in vết trên cuộc đời của ta.
Sau cùng, chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa hàn gắn lại những mảnh tình yêu mà vô tình chúng ta đã làm tan vỡ để cuộc đời mỗi người sẽ là khúc trường ca "tôn vinh cha muôn đời" và là quĩ đạo yêu thương phản ảnh sự hiện hữu của Chúa Ba Ngôi cho nhân loại.
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng như cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn: MC5-B2
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng như cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh vừa sống sộng lại vừa gần gũi để nói lên sự thật trên.
Ngài nói:
- Một hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái, bằng không thì nó chỉ trơ trụi một mình, làm mồi cho chuột bọ mà thôi. Chính sự mục nát ấy đã làm phát sinh ra sự sống mới.
Trong lãnh vực con người cũng thế. Để chúng ta được khôn lớn cho tới ngày hôm nay, thì cha mẹ chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu gian khổ. Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta từng giờ, từng phút. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng ca tụng:
- Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng đã cảm nhận được kinh nghiệm ấy. Chẳng hạn như ngày hôm nay, các em nhỏ phải cắp sách tới trường. Việc học hành đòi hỏi các em phải siêng năng, phải chăm chỉ, phải cố gắng. Tất cả những kiến thức các em vất vả thu lượm được, sẽ là như một số vốn để các em đầu tư cuộc đời của mình và mai ngày sẽ đem lại cho các em những thành công rực rỡ.
Từ những thí dụ cụ thể trên chúng ta đi vào cuộc sống của Chúa Giêsu, và thấy được những gì ?
Nếu đọc lại Phúc Am chúng ta thấy Chúa Giêsu bỏ trời xuống đất, mặc lấy thân phận con người, đã sống một cuộc đời nghèo túng và nhất là đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu nhằm tới những gì qua những hy sinh gian khổ ấy ?
Tôi xin thưa, với những hy sinh gian khổ ấy Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài thật bao la. Khi suy gẫm về mầu nhiệm thập giá, thánh Phaolô đã phải kêu lên:
- Chúa đã yêu thương tôi, và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Chúng ta thường ca tụng những người dám hy sinh mạng sống mình vì kẻ khác.
Chẳng hạn cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho một bạn tù được sống. Cha Đamiêng đã hy sinh đến sống với những người phong cùi ở Molokai. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài đến sống với chúng ta và chết vì chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã chấp nhận những hy sinh gian khổ ấy là để cho chúng ta được sống và được sống vĩnh cửu. Trong Phúc Am có lần Ngài đã phán:
- Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Trong bữa tiệc ly Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Này là Mình Ta sẽ nộp vì các con. Này là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Với cái chết ô nhục trên thập giá, Ngài giao hòa chúng ta với Thiên Chúa, tẩy xóa mọi dấu vết của tội lỗi, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Thiên Chúa, cũng như quyền được thừa hưởng phần gia nghiệp nước trời.
Chính vì thế, chúng ta hãy suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta phải làm gì để đáp trả tình yêu thương bao la ấy.
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới: MC5-B3
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào ?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
Một số người cứ khăng khăng rằng vị anh hùng của họ không bao giờ tỏ ra bất cứ dấu hiệu yếu: MC5-B4
Một số người cứ khăng khăng rằng vị anh hùng của họ không bao giờ tỏ ra bất cứ dấu hiệu yếu đuối nào, không bao giờ biểu lộ sự ngập ngừng, nghi ngờ, không chắc chắn hoặc sợ hãi gì cả. Trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh, vị anh hùng phải mạnh mẽ, can đảm và không hề nao núng. Nhưng những vị anh hùng thực sự lại không hề giống như vậy.
Chẳng hạn như trường hợp của Martin Luther King, ông là một nhà lãnh đạo phong trào quyền lợi dân sự tại Mỹ – đó là một công việc khó khăn mà ông đã miễn cưỡng đảm nhận. Công việc này đem lại cho ông những gian khổ, bị lăng mạ, cầm tù và đe dọa đến mạng sống của ông. Cuối cùng, công việc này đòi hỏi cả đến sinh mạng của ông – ông đã bị ám sát chết.
Trong suốt cuộc đấu tranh đó, ông đã từng có nhiều lúc tinh thần bị xuống dốc. Ông kể lại cảnh một đêm kia, ông xuống đến tận cùng của sự choáng váng. Căn nhà của ông đã bị đánh bom. hậu quả là ông cảm thấy mình không thể tiếp tục được nữa. Ông quá mệt mỏi vì những lời xỉ nhục và xúc phạm. Trong tình trạng kiệt quệ vì thất vọng này, ông lao mình xuống quì gối trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con đã đảm nhận một vai trò mà con tin tưởng là đúng đắn. Nhưng bây giờ, con sợ hãi quá rồi. dân chúng đang mong đợi con làm lãnh đạo. Nếu con đứng trước mặt họ, mà không tỏ ra có sức mạnh, hoặc can đảm, thì họ cũng sẽ bị nao núng. Nhưng con đã cạn kiệt sức lực của con rồi. Con không còn gì nữa. Con không thể đương đầu với tình trạng này lâu hơn được nữa”.
Ông nói rằng vào lúc đó, ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa theo một cách thế mà trước đây, chưa bao giờ ông cảm thấy. cảm nghiệm này đã đem lại cho ông khả năng để tiếp tục cuộc đấu tranh.
Martin Luther King không được như một vị anh hùng, bởi vì ông chứng tỏ rằng con người ông không được làm bằng đá. Vì không bao giờ tỏ ra yếu đuối, hoặc dễ bị tổn thương, nên một điều đơn giản là chúng ta không thể tin tưởng vào các vị anh hùng. Chúng ta cũng không thể coi họ như là những mẫu gương cho chúng ta. Chúng ta không thể đồng nhất với họ hoặc bắt chước họ. Mặt khác, khi gặp gỡ một người nào đó do dự, miễn cưỡng và sợ hãi, chúng ta lại cảm thấy rằng người đó dễ tin tưởng hơn. Sự miễn cưỡng này chính là yếu tố cốt lõi của vấn đề. Vị thánh hoặc vị tử đạo nào cứ hăm hở tìm kiếm số phận của họ, thì không bao giờ có vẻ thật. Chúng ta thích nhìn thấy một con người thật đằng sau vẻ anh hùng.
Chính bản thân Chúa không đến với cái chết với bất cứ sự đảm bảo nào. Trong vườn Giệtsimani, Người cũng có giây phút xuống tinh thần tới mức thấp nhất, khi linh hồn Người bị lo lắng quá mức, đến nỗi Người đã thốt lên “Linh hồn Thầy buồn đến chết được”. Thánh Gioan không giải thích về nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu. Nhưng chúng ta bắt gặp một tiếng vang rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nói “Tâm hồn Thầy xao xuyến”.
Trong một số khía cạnh, nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu là phần an ủi nhất trong Tin Mừng, bởi vì điều đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu đang ở khía cạnh nhân loại nhất của Người. Cho đến lúc bấy giờ, Người vẫn kiên quyết tiến tới số phận của Người. Nhưng bây giờ, khi giây phút khủng khiếp đến, Người quá đau khổ, đến nỗi mồ hôi của Người rơi xuống mặt đất, giống như những giọt máu. Người không nhìn vào nỗi đau khổ và cái chết bằng sự bình tĩnh mang tính khắc kỷ. Người kinh sợ trước viễn cảnh đó. Nhờ đâu mà Người có được sức mạnh để đương đầu với tâm trạng kinh hãi đó ? Nhờ lời cầu nguyện, và do đó, chính là nhờ ở Thiên Chúa. Có người định nghĩa về lòng can đảm là “Lòng can đảm chính là nỗi sợ hãi đã được thốt ra bằng lời cầu nguyện”.
Nếu không cảm thấy sợ hãi, khi có nguy hiểm đe dọa, thì bạn không phải là con người nữa. Lòng can đảm không phải là không abo giờ cảm thấy sợ hãi, mà chính là có cảm giác sợ hãi, nhưng vẫn cứ tiến tới, bất chấp nỗi sợ hãi đó. “Một người không biết sợ hãi, thì không phải là người anh hùng, nhưng người nào chế ngự được nỗi sợ hãi, mới đích thực là người anh hùng”(Solzhenitsyn).
Nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu ban cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng trong những giây phút tinh thần bị sa sút. Chúng ta không cần phải giả vờ cho rằng con người mình được làm bằng đá hoa cương. Chúng ta không được che giấu sự yếu đuối và nỗi sợ hãi của mình. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa, trong lời cầu nguyện bằng cảm nghiệm của tâm hồn. Và chúng ta cũng phải tìm kiếm sự an ủi nơi con người nữa, Như Đức Giêsu đã làm như vậy, khi Người yêu cầu Phêrô, Giacôbê và Gioan tỉnh thức và cầu nguyện cùng với Người. -----------------------------
Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non: MC5-B5
Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm những thân cây đó đong đưa trước gió, và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho tâm hồn chúng ta một niềm vui. Nhưng quá trình những thân cây này tồn tại được thật là lạ lùng.
Ngoài ra phải chôn hạt lúa mì vào lòng đất lạnh ẩm ướt, giống như trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó phải chết đi. Nếu nó không chết đi thì nó sẽ không mang lại sự sống mới nào. Nhưng khi nó chết đi, thì từ ngôi mộ của hạt giống cũ, nụ chồi của một cây lúa mì mới đâm ra một cách lạ lùng. Đó là một nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất phát từ cái chết.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình.
Sự chết là một phần của sự sống. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả vờ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, bị khước từ, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự cay đắng, hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta.
Khi Đức Giêsu nói “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ được nó”, thì Người không bảo chúng ta phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống của mình. Chúng ta phải học biết yêu biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta biết thương xót bản thân. Không ai có thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta không biết yêu mến chính mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con người của mình. Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối với bản thân, và thói ích kỷ.
Quên mình, vượt lên trên bản thân mình – điều đó có nghĩa là đánh mất, là khước từ, là chết đi cho chính mình. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Chính khi ra khỏi con người của mình, tự cống hiến bản thân vì những lý do bên ngoài mình, thì chúng ta mới phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta có thể được sống lâu hơn, nếu chúng ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta biết tiết kiệm cuộc sống. Chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ được sống lâu hơn chăng ?
Thật là một thế giới nghèo nàn, nếu mọi người đều coi sự an toàn bản thân, được che chở, tiến thân một cách ích kỷ là yếu tố đầu tiên và sau cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn bị để vượt ra ngoài bản thân mình. Luôn luôn do con người đã được chuẩn bị để chết đi cho sở thích cá nhân, nên những điều quí giá nhất mà nhân loại được sở hữu đã được sinh ra.
Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta một gương mẫu. Người trao tặng cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của Người trên trời và cả chúng ta nữa. Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ dàng. Khi giờ chết thực sự đến, tâm hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.
Cuộc sống của Đức Giêsu không tách biệt khỏi Người. Người trao tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta. Tình yêu chính là chấp nhận rằng con người mình có thể chết đi bằng một cái chết khác, trước khi người ta thực sự chết đi. Con đường yêu mến là con đường thánh giá, nhưng chính con đường thánh giá lại đưa đến sự sống lại.
Nhưng ai chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời: MC5
Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người”. Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy ? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.
Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.
Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.
Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.
Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi”.
Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó …. Thoạt nghe, ta có thể cho rằng đó là: MC5-B7
"Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác "(Ga 12:24). Thoạt nghe, ta có thể cho rằng đó là lời phát biểu tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Chúa Giêsu không chỉ nói đến cái tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Cái luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm hôm nay ghi lại, Chúa cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến, xin cho được thoát khỏi chén đắng nghĩa là được thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên Người cũng cầu nguyện xin cho được vâng theo thánh ý Chúa Cha, tức là chấp nhận cái chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế cái giao ước cũ trên núi Si-nai, cái giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá, cũng không phải bằng máu chiên cừu, mà Môi-sen đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế đọc trong thánh lễ: "Đây là máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Theo thơ gửi tín hữu Do Thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của cái giao ước mới. Cái sứ điệp mà Đức Kitô đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Chúa Giêsu với tư cách là Thiên Chúa, không thể chịu đau khổ vá chịu chết. Chúa chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong cái thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Chúa cũng sống lại trong cái thân xác loài người của Ngưòi. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Để chia sẻ sự sống mới với Chúa Kitô, ta phải sẵn sàng chết đi với Người. Đó là trường hợp các vị tử đạo đã làm, nghĩa là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa".
Theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả cái giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ vơi Chúa, cũng là chet đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, người ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2:11).
Theo cái định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Theo cái định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì cái liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luât kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có: MC5-B8
Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp “muốn được gặp Chúa Giêsu“. Họ đến từ một đất nước phát sinh những suy luận, triết thuyết, nghệ thuật và thần thánh đa dạng, dĩ nhiên họ muốn gặp Chúa Giêsu không vì tính hiếu kỳ, nhưng có lẽ vì không thỏa mãn trong việc tìm kiếm “chân thiện mỹ“ dựa vào triết lý, hay vì các tín ngưỡng không giúp họ đạt đến sự tuyệt đối thỏa đáng.
Họ đến thờ phượng Thiên Chúa trong dịp đại lễ của người Do-Thái. Tuy nhiên kỳ đại lễ này đã bị khuấy rối bởi nhiều tin đồn đáng ngại cộng thêm cuộc biểu tình của dân chúng: gần đây tin đồn Đức Giêsu đã cải tử hoàn sinh ông Ladarô gây hoang mang cho các bậc Thượng tế trong Đền Thờ và làm cho nhiều người bỏ họ mà chạy theo Đức Giêsu; thêm vào đó, Ngài còn được toàn dân ủng hộ đón rước như một vị Vua với những lời tung hô “vạn tuế Vua dân Do- thái, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!“. Các sự việc này gây phẫn nộ và tạo cơ hội cho đám người Pha-ri-sêu thực hiện chương trình mưu sát kẻ xách động quần chúng. Đến lúc phải chọn lựa: đối với đoàn kỳ mục, các thượng tế và kinh sư thì vụ án này được chấp thuận; còn dân chúng thì lập trường hay thay đổi (nay ủng hộ, mai đả đảo); và ngay cả trong giới lãnh đạo Do-thái cũng có một số người đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa (Ga 12,43).
Chính trong bối cảnh này mà có mấy người Hy-lạp đề nghị ông Philípphê và Anrê dẫn họ đi gặp Chúa Giêsu. Đức Giêsu là ai? Vị ngôn sứ này là người thế nào (?) mà có biết bao lời đồn đãi xấu có tốt có làm phấn khởi giới hạ lưu và làm run chuyển giới lãnh đạo buộc những người này phải ra tay đối phó. Cho dù tình trạng có sôi động cũng không ngăn cản đuợc ý định của những nhà thám hiểm điều vô tận: họ muốn được nhìn tận mắt, nghe tận tai, thấu hiểu sứ điệp cũng như những công trình và dấu chỉ xác thực kể cả bản thân của vị ngôn sứ đó! Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ kết thúc sứ mệnh: đấy là giờ của sự thật, giờ mà tội lỗi của trần gian dẫn đưa Đức Giêsu đến thập giá, và cũng là giờ mà thập giá đó lại trở thành bệ ngai của vinh quang.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh“. Tuy Phúc Âm không nói đến phản ứng của những người Hy-lạp này, nhưng luận thuyết của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời mới về sự sống vĩnh cửu: “hạt lúa gieo vào lòng đất sẽ mang lại nhiều hạt khác“ và “khi Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất thì Ngài sẽ kéo mọi người lên với Ngài“.
Qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu tột độ, vì “không có tình yêu nào cao trọng bằng dâng hiến mạng sống cho người mình yêu“. Luật chủ yếu của Thiên Chúa là luật của hạt lúa: “nếu hạt được gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“. Chúng ta không cần suy nghĩ viễn vông mà chỉ cần đặt mình trước Thập giá và nhìn ngắm, lúc đó ta sẽ hiểu thế nào là yêu thương thật sự, thế nào là chết đi để phát sinh sự sống; cũng như ta cứ gieo hạt vào lòng đất và chờ đợi nó mọc lên cây thì sẽ hiểu thế nào là đau thương trong gieo vãi và gặt hái trong hân hoan; cũng như các Thánh nhân hoặc những anh hùng: họ hy sinh vì chân lý, tranh đấu cho chính nghĩa, tuy chết đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng Giáo Hội và Dân Tộc, ngàn đời Lịch Sử vẫn truyền tụng họ. Vì thế, cái chết thật sự không phải là cái chết thể chất mà chính là từ chối yêu thương, không biết hy sinh chỉ sống lẻ loi ích kỷ “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời“
Muốn thật sự đứng về phía sự “sống”, ta nên hành động như những người Hy-lạp kia luôn khát khao tìm kiếm chân thiện mỹ, tức nhiên “phải tìm gặp Đức Giêsu”. Cần tận dụng tất cả trí khôn tâm sức để hiểu biết, yêu thương và phục vụ, sống không vì lề luật tỉ mỉ hình thức, nhưng vì một Người, Đấng đang kêu gọi và sai đi, đang đối thoại và sống hiệp thông. Phải thành tín và đam mê, ta mới thiết lập được với Thiên Chúa một giây liên đới tâm đầu ý hiệp, như lời Thánh Vịnh hôm nay: “xin Chúa dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan... xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”
Chúng ta có phải thuộc về nhóm người muốn đi gặp Đức Giêsu? Tuy nhiên, ai đã tìm gặp Ngài cũng vẫn còn phải tự chất vấn, bởi vì: giới Pha-ri-sêu đã thấy và nghe nhưng không tin theo Ngài; bậc kỳ mục đã tin nhưng không dám nhìn nhận Ngài; dân chúng đã tin và theo Ngài nhưng không đi đến cùng.
“Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Ta nên thường xuyên đến gặp gở Ngài qua các Bí Tích, qua việc học hỏi Phúc Âm để khám phá điều mới lạ và chấp nhận dấn thân trong một thế giới và thực tại mà Ngài muốn cho ta khám phá. Bước theo Ngài là chấp nhận những nguy cơ mà chính Ngài đã đảm lấy, từ sự hiểu lầm của những tín đồ đến sự chống đối và lên án của giới hữu trách. Dấn thân theo Ngài là chết cho những tham vọng ích kỷ, tư lợi vật chất, dự tính phàm trần, chết cho những gì gọi là ưu tiên của riêng mình nhưng lại quá xa cách những hệ trọng cấp bách Phúc Âm. Ta phải chọn hoặc thủ lãnh thế gian hoặc Đấng đã bị đóng đinh. Chắc hẳn đến một lúc nào đó, sẽ có người đến hỏi chúng ta, như những người Hy-lạp đến hỏi Philípphê và Anrê “chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Vậy chúng ta sẽ có đề nghị gì cho những người đó?
Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, …”. Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới – Lm Hùng: MC5-B9
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt". Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt giống đức tin sinh nhiều hoa trái. Giáo Hội Việt Nam, chỉ là một Giáo Hội còn non trẻ, đã hiến dâng bao nhiêu người con suốt ba thế kỷ bắt đạo, cho đến nay, con số ấy vẫn không ai biết chính xác. Bất cứ ở đâu trên mảnh đất châu Á này, nếu Đức tin được rao giảng, thì ở đó lại thấm đẫm dòng máu các anh hùng Tử đạo. Con số các thánh Tử đạo càng tăng lên theo cấp số nhân nếu ta quay nhìn cả Giáo Hội hoàng vũ qua mấy ngàn năm nay. Hình như không có thời buổi nào, không có thế kỷ nào, không có Giáo Hội địa phương nào mà không bắt đầu được sinh ra từ máu Tử đạo.
Những năm gần đây, Đức Thánh Cha đã phong khá nhiều vị thánh, hầu hết các vị thánh ấy là các thánh Tử đạo của thời đại mới. Máu các thánh Tử đạo cứ tiếp tục đổ xuống, càng đổ bao nhiêu, đức tin càng lớn, sức sống của Giáo Hội Chúa Kitô càng căng tràn và mạnh mẽ bấy nhiêu. Chúa Kitô, Hạt Lúa Mì Anh Trưởng đã rơi xuống đất, làm nảy sinh vô vàng hạt lúa, và những hạt lúa từ thời đại này sang thời đại khác cứ tiếp tục trổ sinh bông hạt. Bởi thế có một nguyên tắc rất kỳ diệu, rất nhiệm mầu, nhưng đã trở nên rất bình thường: Giáo Hội càng bị bắt bớ khốc liệt, người Công Giáo càng bị giết hại đẫm máu, thì Giáo Hội càng sống mãnh liệt và mau chóng lan rộng, đức tin của người Công Giáo càng được tôi luyện và trưởng thành bấy nhiêu.
Trong xã hội cũng có bao nhiêu vị anh hùng hiến dâng mạng sống vì công lý, vì hòa bình. Năm 1968, cả thế giới chấn động khi nghe tin Mục sư Martin Luther Kinh, người đã đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng của người da đen bị sát hại. Năm 1995, cả thế giới sững sờ thương tiếc thủ tướng Israel, ông Y Rabin, bị người Dothái quá khích giết . Họ không chấp nhận đường lối ôn hòa của ông đối với người Palestin.
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động nhớ lại cái chết của ông Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc An, đã từng bị một thanh niên An giáo quá khích sát hại. Anh ta không chấp nhận việc ngài đã tha thứ và dạy hãy tha thứ cho người Hồi giáo. Và còn biết bao nhiêu người vì tình yêu con người, tình yêu đồng loại đã hiến dâng mạng sống như thế. Họ đã chết nhưng tên tuổi, sự nghiệp của họ vẫn sống muôn đời.
Các thánh tử đạo và những tâm hồn xây dựng hòa bình ấy chính là hình ảnh của hạt lúa mì được gieo trong lòng thế giới. Hoa quả của đức tin, hoa quả của hòa bình đang tươi nỡ khắp nơi trong Giáo Hội và trên thế giới.
Ngày nay có biết bao anh chị em nhìn vào tấm gương của các ngài mà dấn thân xây dựng, gìn giữ, bảo vệ đức tin và kiến tạo hòa bình, làm nảy sinh tình yêu khắp nơi, quên cả sức lực, quên cả bản thân để danh Chúa rạng ngờ, Nước Chúa trị đến, cuộc sống bình an, thịnh vượng hơn. Những năm gần đây, đa số những vị được phong thánh là các vị tử đạo của thời đại mới. Hóa ra, những hạt lúc mì cứ rơi xuống, rồi lại sinh hoa kết quả, hết lớp này đến lớp khác. Ngày nào đức tin còn bị bắt bớ, thế giới vẫn tồn tại bất công, sự sống bị chà đạp, ngày ấy vẫn còn những hạt lúa mì rơi xuống và vô vàn bông lúa mì trỗ sinh.
Chúa Kitô, Đấng đã sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, và sống lại vì tình yêu, luôn là mãnh lực cuốn hút muôn người hiến dâng mạng sống, và lưu danh ngàn đời. Chúa Kitô, hạt Lúa Mì cao cả làm trổ sinh vô vàn bông hạt tươi tốt...
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài: MC5-B10
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì ? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống ? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.
Chúa Giêsu là Đấng thiết lập Giao ước mới: ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày: MC5-B11
1. Chúa Giêsu là Đấng thiết lập Giao ước mới: ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày Thiên Chúa ký với dân Israel một giao ước mới. Giao ước sẽ làm cho Ngài là Chúa của họ và họ là dân của Ngài (bài đọc 1). Khi một số người hy lạp (nghĩa là những người ngoại) muốn gặp Chúa Giêsu, Chúa Giêsu vui mừng vì biết rằng ngày lập Giao ước mới ấy đã đến, cho nên Ngài nói “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Khi nào Ta được đưa lên cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (bài Tin Mừng).
2. Nhưng Giao ước đó được thiết lập bằng chính cái chết đau đớn của Chúa Giêsu: Thánh Phaolô nói “Chúa Giêsu đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin lên Đấng có thể cứu mình khỏi chết... Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu, và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Bài đọc 2). Khi những người hy lạp đến, mặc dù sung sướng vì biết rằng đã đến giờ mình được tôn vinh, nhưng Chúa Giêsu cũng chân thành chia xẻ với các môn đệ “Bây giờ linh hồn Thầy xao xuyến”, và Ngài đã cầu nguyện với Chúa Cha “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Bài Tin Mừng).
B. ... nẩy mầm.
1. “Chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu”. Câu này của những người hy lạp xưa cũng được lặp lại bởi biết bao người thời nay nhưng bằng những cách khác và với những lời lẽ khác. Đức Giêsu mà họ muốn gặp chính là một lẽ sống, một nguồn bình an, một lý tưởng... Họ không biết gọi tên những giá trị ấy là Giêsu, nhưng trong tận đáy lòng, họ đang rất cần những giá trị ấy. Mỗi người chúng ta hãy là một Philipphê hay một Anrê dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Và tuyệt vời hơn nữa, nếu mỗi người chúng ta là hiện thân của lẽ sống, bình an và lý tưởng ấy, đến nỗi khi người ta gặp chúng ta thì chính là gặp được Chúa Giêsu.
2. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Bạn hãy đọc lại câu này nhưng đổi một số chữ: hạt lúa = người tín hữu ; đất = thế giới này ; chết đi = hy sinh để phục vụ.
3. “Bây giờ linh hồn ta xao xuyến... Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Cảm nghiệm của Chúa Giêsu rất nhân bản mà cũng rất siêu nhiên. Là người, ai mà không xao xuyến trước khổ đau. Nhưng đức tin siêu nhiên dạy chúng ta biết khổ đau ấy sẽ mang đến vinh quang cho Thiên Chúa và cứu độ cho loài người.
4. “Bây giờ linh hồn ta xao xuyến... Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27)
Những ngày cối cùng của Mùa Chay, mùa áo tím… Nhiều người vẫn sợ màu tím. Màu tím buồn, màu tím tang tóc, màu tím khổ đau. Nhiều khi tôi nao núng, chùn chân vì cuộc đời bôn ba, đau khổ ; buồn phiền chán nản vì thất bại ê chề ; cơ khổ vì chén cơm cứ vơi, manh áo còn rách. Có khi lại hụt hẫng, trống vắng dù giàu sang thành đạt… Ngay những chuyện vặt vãnh đời thường như bị hiểu lầm, bị nghi oan… cũng có thể làm tôi thất vọng. Đêm tối niềm tin, mịt mù trăn trở cứ pha tím cuộc đời. Tôi muốn lẫn tránh đoạn đường lem tím…
Nhưng sắc tím mùa chay dẫn tôi vượt lên những ý nghĩa của màu tím, đưa tôi đến núi Sọ, nói với tôi về một Tình yêu dám chết, Chúa Giêsu đã bước đi với Tình yêu ấy. Người cũng xao xuyến sợ hãi như bạn và tôi. Nhưng Người đã vượt qua màu tím não nề nhất bằng một Tình yêu lớn lao nhất.
Lạy Chúa, những lúc tâm hồn con xao xuyến, xin giúp con biết ngẩng đầu lên và vững tin vào Tình yêu của Đấng phục sinh (Epphata)
Hôm nay, Chủ nhật thứ nhất Mùa Chay, nhà thờ xứ đạo chỗ tôi phân phát cho giáo dân tập: MC5-B12
Hôm nay, Chủ nhật thứ nhất Mùa Chay, nhà thờ xứ đạo chỗ tôi phân phát cho giáo dân tập Hướng Dẫn Mùa Chay. Trong khi ngồi chờ cha ra làm lễ, giở qua tập sách hướng dẫn, tình cờ tôi dừng lại ở bài đọc cho thánh lễ ngày thứ 2 mồng 7 tháng 4 thuộc Chủ nhật thứ 5 Mùa Chay, trích từ sách Daniel 13:1-9, kể chuyện chị Susanna xinh đẹp, vợ anh Yoakim giầu có và thế lực. Vì bị nhan sắc của chị Susanna mê hoặc , 2 kì mục kiêm nhiệm chức thẩm phán, là khách quen của nhà anh Yoakim đã sinh tà ý, lập mưu hòng chiếm đoạt cho bằng được chị Susanna. Vô tình bị rơi vào bẫy của 2 tên này, chị Susanna đã cương quyết cự tuyệt và lựa chọn thà bị cáo gian và bị xử tử hình theo luật Môisê mà vẫn còn giữ được thân xác thanh sạch trước mặt Chúa. Chúa đã không bỏ rơi người biết kính thờ Ngài, nên đã mở miệng chàng thiếu niên Daniel lên tiếng bênh hộ chị Susanna. Daniel xin dân tách 2 tên thẩm phán ra 2 nơi riêng biệt và hỏi lại mỗi tên xem đã bắt gặp chị Susanna phạm tội ở đâu . Tên thứ nhất nói: " Dưới cây trắc ". Tên thứ 2 nói: " Dưới cây dẻ ". Thế là Daniel đã có đủ bằng cớ để minh chứng cho dân thấy rõ 2 tên thẩm phán là kẻ cáo gian và chị Susanna hoàn toàn vô tội. Kết thúc vụ án: " Người ta đã xử tử chúng. Và ngày ấy, máu vô tội đã khỏi bị đổ ra ".
Tiếp ngay sau đó là bài Tin Mừng thánh Gioan 8:1-11, kể chuyện mấy ông biệt phái và kí lục đưa một phụ nữ phạm tội ngoại tình tới và yêu cầu Đức Yêsu cho biết ý kiến. Ngài bảo họ: " Trong các ông, ai không có tội thì ném đá vào cô ta trước đi ". Nghe Ngài nói thế, bọn họ " lỉnh " mất, gìa trước trẻ sau ! Và Đức Yêsu nói với cô gái: " Tôi không kết tội cô đâu , hãy về đi, từ nay đừng tái phạm nữa nhé ".
Thật sự, 2 đoạn sách thánh trên đây là 2 đoạn có ý nghĩa đặc biệt, được rất nhiều người biết đến. Từ bé tới lớn, tôi đã được nghe đi nghe lại nhiều lần. Ngay cả sách báo không liên quan gì tới tôn giáo cũng thường hay trưng dẫn và suy tôn ý nghiã truyền dậy trong đó. Thế nhưng hôm nay tôi lại bắt gặp những đoạn này với một cảm xúc rất đặc biệt, dường như có điều gì không ổn. Đột nhiên nét mặt sợ hãi của cả hai mẹ con chị Amina Lawal trên báo chí khi nghe án lệnh tử hình bằng cách ném đá, hiện về làm cho tôi thương cảm xót xa và ... cực kì phẫn nộ !
Mới năm ngoái đây, toà án ở Nigeria đã tuyên xử chị Amina Lawal tội " ăn nằm không hợp pháp " với Yahiya Mahammad, một nhân viên thu thuế đã có vợ. Đám đông, hầu hết là đàn ông, đã la lớn: " Thượng Đế thật vĩ đại "! Chị Amina mới 30 tuổi đã khai rằng Yahiya hứa cưới chị làm vợ. Những người bênh vực chị Amina thì bảo chị ta không thể tự làm cho mình có bầu được, tại sao không trừng phạt gã đàn ông? Ôi! có lẽ nào, thời buổi này mà những cảnh khó tin ấy lại có thật. Rõ ràng hôm nay tôi cần phải làm cuộc thẩm tra kĩ lưỡng chính bản thân tôi.
Cả đời tôi mang tiếng theo đạo Chúa, song có lẽ phần nhiều mới chỉ chú trọng vào việc sùng kính lễ bái có tính cách cảm xúc ủy mị, xa vời, sớm nắng chiều mưa và đầy tính toán lợi lộc, dù là lợi lộc phần hồn. Còn đâu mới là cốt tủy của Đạo Chúa, của Lời Ngài truyền dạy?
Trước hết, đoạn Tin Mừng thánh Gioan tường thuật trên đây có lẽ không nhằm răn dậy về tội tà dâm, tội ngoại tình cho bằng về 2 điều:
Thứ nhất là thói đạo đức giả, tật kiêu căng vỗ ngực ta đây lành thánh hơn ai kia và tính độc ác chuyên lo rình rập bắt bẻ tố cáo người khác, đang khi đó, quên đi hay là cố tình che dấu những yếu hèn, những tội lỗi của chính bản thân mình.
Thứ hai là về lòng nhân hậu, xót thương và khoan dung, đại lượng của Chúa đối với ta là kẻ tội lỗi.
Cô gái bị tố cáo hôm nay là đúng sự thật. Chính cô và cả Đức Yêsu không hề phủ nhận điều đó. Thế nhưng Đức Yêsu không kết tội cô, Ngài chỉ yêu cầu cô thay đổi đời sống. Bởi tội lỗi đã là điều tiêu cực , nếu lại kết thúc bằng việc lên án và trừng phạt là cộng thêm một điều tiêu cực thứ hai. Hành xử như thế có tính cách đóng cửa, rút cầu, hoàn toàn không sinh nên ơn ích chi. Phúc đức thay, lòng nhân hậu của Chúa đã mở ra cơ hội mới, con đường mới đầy hứa hẹn, tích cực cho cô gái. Đời cô còn dài, cô còn nhiều cơ hội làm những việc tốt đẹp, một khi đã biết lỗi và quyết tâm sửa chữa. Chúa là ngườI cha nhân hậu sẽ vui mừng hớn hở khi người con hoang đàng tìm về nhà (Lc. 15:11-32 ). Tình thương của Chúa là nguồn gốc muôn ơn lành phúc đức. Trong Giáo hội, từng có một số vị đại thánh đã vươn lên cao từ một quá khứ lầm lỗi.
Đối với các ông biệt phái và kí lục là những người tố cáo, Đức Yêsu cũng đòi hỏi các ông phản tỉnh, xem xét lại mình. "Trong các ông, ai không có tội...". Đã mang lấy xác thịt con người, ai mà chẳng sai phạm. Có đâu chính những kẻ đầy rẫy tội lỗi lại lớn tiếng lên án anh em mình ? "Chân mình những lấm bê bê , lại đem bó đuốc mà rê chân người " ( Tục ngữ ). Cái xà trong mắt mình thì không lo, lại lo gắp cái dằm trong mắt người khác (Một. 7:1-5).
Nếu cô gái trong Tin Mừng thánh Gioan vì có phạm lỗi cho nên đã bị cáo buộc thì trái lại chị Susanna trong sách Daniel lại là trường hợp bị cáo gian. Chủ đích câu chuyện này nói về tội vu cáo, tội làm chứng gian, tội ngậm máu phun người hay gắp than bỏ tay người.
Nguyên do thúc đẩy 2 tên thẩm phán vu cáo cho chị Susanna là dục tình. Nhưng trong đời thường, nguyên do lại có thể là tiền tài, danh vọng, lòng ích kỉ, ghen tương, đố kị, kiêu căng, tự cao tự đại. Có khi vu khống người ta chỉ vì những mặc cảm tội lỗi: bản thân mình đã chẳng ra gì cho nên tìm cách bôi lọ người khác để " cào bằng ", làm cho ra "cá mè một lứa", mục đích là để tự vệ ! Lại có khi phạm tội vu khống vì " cả đẩn ", tối dạ, nhẹ dạ, lấy câu chuyện làm quà, "nghe đồn rằng", " người ta nói thế ", v.v... Cũng không loại bỏ nguyên do là những ẩn ức tâm lí hay là tầm nhìn chưa khai phóng , chưa theo kịp được quan niệm và nếp sống, ít ra là của những giáo hữu Âu Mĩ bình thường nhất .
Tính chất của tội cáo gian là sự bạo hành trắng trợn vào phẩm giá, danh dự kẻ khác . Dĩ nhiên bạo hành ở đây không bằng vũ lực, bằng khí giới mà bằng cái nhìn khinh bỉ, cái nhìn ghen tương thù ghét, hoặc là bằng lời nói kết án bất công, thiên kiến, thiên lệch, không bằng chứng. Ánh mắt và cái lưỡi ở đây như là lưỡi gươm sắc, sẵn sàng đâm chém, sẵn sàng "ném đá" vào danh dự người khác. Đang khi ấy lại hết sức bình yên thoải mái kinh kệ, lễ bái, hành hương đền đài, thánh tích!
Tác hại và hậu quả của tội cáo gian, đặt điều nói xấu có tính cách hết sức nghiêm trọng.Ở Âu Mĩ ngày nay, không ai còn đếm xỉa tới những chuyện tình ái, những giao du nam nữ của " thiên hạ " nữa. Người ta coi đó là "chuyện riêng tư", không ai có quyền đụng chạm tới, xía vào đó nếu không bị kết tội "vi phạm vào đời tư của công dân " thì cũng bị coi là khiếm nhã, bất lịch sự hay là " mọi rợ "!
Thế nhưng tình hình ở các cộng đồng người Việt Công giáo về vấn đề này thì lại khác. Ở đây, nếp sống, những tiêu chuẩn " đạo đức " và cung cách suy nghĩ còn bảo thủ hệt như thời trước năm 1975 ở quê nhà Việt Nam, có khi còn lưu giữ mãi từ hồi trước năm 1954 khi chưa di cư vào Miền Nam!
Cũng như chuyện kể trong 2 đoạn sách thánh trên đây, hầu hết những chuyện bôi lọ , nói xấu trong cộng đồng đều thuộc về chuyện quan hệ nam nữ. Chính vì trong cộng đồng người Việt Công giáo còn hết sức khắt khe bảo thủ về vấn đề tính dục cho nên khi vi phạm vào tội ngậm máu phun người về đề tài này trong cộng đồng, tức là phạm tội phá hoại danh dự, sự vui sống bình yên và có khi cả hạnh phúc của một chàng trai, một thiếu nữ hay một gia đình.
Xin đan cử vài thí dụ cụ thể thường xẩy ra: Hãy tưởng tượng xem điều gì sẽ xẩy ra cho một thiếu nữ khi tình cờ ý trung nhân của cô nghe được một bậc " trưởng thượng " gọi cô là con ...này, con ...kia ? Và điều gì sẽ xẩy ra cho một cô gái nếu có người u mê đến nỗi đem kể cả những chuyện " người ta đồn rằng " về cô một cách khơi khơi, vô bằng cớ cho chính bố mẹ chồng tương lai của cô nghe? Còn nếu như trường hợp một phụ nữ hiện đã là một bà vợ hiền lành đảm đang, đã là một bà mẹ yêu thương hi sinh cho con cái, là hạnh phúc lớn lao của cả một gia đình trong nhiều năm, mà vẫn còn bị người ta lôi những chuyện xửa xưa hồi bà còn " chưa thuộc về ai " ra rồi thêm mắm thêm muối để bôi lọ phẩm giá của bà, v.v. , thì tất cả những trường hợp trên có phải là quá độc ác không ?
Dù cho có bảo thủ đến mấy đi chăng nữa, sống ở nước Mĩ, vào thời điểm thiên niên kỉ thứ 3, cũng nên nghĩ rằng giới trẻ chăm lo học hành và lam làm đổ mồ hôi sôi nước mắt, lâu lâu họ được mời tham dự hội hè đình đám, có ca nhạc, có nhảy đầm do chính các hội đoàn hoặc các bậc cha mẹ đứng ra tổ chức công khai trước mắt mọi người thì là điều hết sức bình thường và đáng khuyến khích. Và trai gái đến tuổi trưởng thành thì tìm kiếm bồ bịch cũng là chuyện hết sức tự nhiên, đáng mừng, đáng cầu chúc, chỉ ngược lại mới là trái tự nhiên và đáng lo ngại !
Thiết tưởng không được quyền đoán già đoán non, tưởng tượng, đặt điều cho các bạn trẻ những điều họ không hề vi phạm . Giả như một đôi bạn trẻ thật sự có quan hệ thân mật qúa mức đi chăng nưã thì cũng chỉ có chính đương sự và Chúa ( ! ) biết mà thôi, bởi có ai ngu mà " làm sự ấy ngay ngoài đường " bao giờ ? Trường hợp hi hữu có bằng chứng thì vẫn là chuyện của 2 người với nhau và cùa mỗi cá nhân đương sự với Chúa mà thôi, tuyệt nhiên chuyện ấy không " ảnh hưởng gì tới nền hoà bình của thế giới " và cũng không là chuyện của những người không có trách nhiệm yêu thương giúp đỡ họ ( những người có trách nhiệm là cha mẹ, cha xứ, v. v.).
Tác hại của tội đặt điều, vu khống, cáo gian, làm chứng gian nơi chính kẻ vi phạm cũng nghiêm trọng không kém. Thứ nhất đó là hành vi hoàn toàn vô ích. Khi bôi lọ, hạ giá người khác, chính mình sẽ không cảm thấy bình an, bản thân mình không trở nên tốt đẹp hơn, công chính hơn chút nào, trái lại là đàng khác. Răng đền răng, mắt đền mắt. Khi xúc phạm người khác là chuốc thù chuốc oán vào thân, làm mất trật tự, mất bình an, mất đoàn kết yêu thương trong dòng tộc, trong cộng đoàn, trong xã hội . Thứ hai, đứng về phương diện luật pháp, khi làm mất danh dự người khác là phạm tội lỗi phép công bằng. Danh dự một con người là giá trị tinh thần vô giá, tiền bạc không mua được danh dự, phẩm giá. Nếu như có ai phạm tội đốt nhà hoặc ăn cắp xe hơi, luật đời và luật đạo đều bắt buộc phải đền trả thỏa đáng. Tương tự như thế, khi làm mất danh dự người khác cũng phải đền bù cho cân xứng. Thứ ba, phàm là người tin theo Chúa, ai cũng đã biết tội nói hành nói xấu, tội đổ vạ làm chứng gian là lỗi đức bác ái rõ ràng. Chỉ cần vài phút lật vài trang Tin Mừng ta cũng có thể thấy Đức Yêsu đã chỉ ra rất rõ về việc này: " Mà ta bảo các ngươi: mọi lời hư từ người ta nói ra, người ta sẽ phải trả ngày phán xét " ( Một. 7: 1-3 ). " Đừng xét đoán, để khỏi bị đoán xét. Các ngươi xét đoán cách nào thì sẽ bị đoán xét cách ấy; và các ngươi đong bằng đấu nào thì người ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu ấy " (Một. 7: 1-3 ). Mến Chúa và yêu người là 2 giới răn chính yếu: " Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều quy về 2 giới răn ấy " ( Một. 22: 34-40; Mc. 12: 28-34; Lc. 10: 25-28 ). Chỉ có ai cầm được giấy thông hành có ghi chữ Mến Chúa- Yêu người mới vào được nước trời mà thôi (Một. 25: 34-46).
Mùa chay là mùa ăn năn sám hối. Đặc biệt Mùa chay năm nay tôi may mắn gặp gỡ lời Chúa qua 2 câu chuyện trong Tin Mừng thánh Gioan và sách Daniel về đề tài tội lỗi và sám hối, trừng phạt và xót thương, sự vu khống cáo gian và những tác hại ghê gớm của nó. Tôi nhận ra rằng con đường theo chân Chúa có 2 phần mến Chúa và yêu người, thì phần yêu người trên thực tế lại có vẻ khó khăn hơn. Bài học hôm nay yêu cầu tôi phải nghiêm khắc nhìn nhận tôi mang thân xác tội lỗi cần được ơn Chúa thương thứ tha nhiều hơn cả. Do được tha thứ nhiều thì tôi cũng phải chia sớt tình thương ấy cho anh chị em của tôi nếu như họ thật sự có sai phạm điều chi và đặc biệt ghê sợ khuynh hướng dễ dàng lên án anh chị em tôi, nhất là luôn luôn phải cảnh giác chớ vi phạm tội đặt điều cáo gian cho bất cứ ai. Đền ơn thương xót của Chúa, tôi cố gắng học tập rèn luyện cho mình thói quen có cái nhìn lạc quan hơn, yêu cuộc đời, yêu con người hơn. Luôn luôn cắt nghiã tốt cho người khác. Nếu có ai sai phạm cũng không vì một vài điểm đặc thù ấy mà tổng quát hóa thành ra đánh giá toàn bộ một con người là xấu xa để rồi khinh bỉ hoặc cô lập người ta.
Nhìn vấn đề rộng ra thêm chút nữa, phong tục tập quán xa xưa mà hiện nay còn tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới và còn ngay giữa cộng đồng người Việt Công giáo là rất bất công đối với phụ nữ về nhiều phương diện, nhất là về tính dục. Chẳng hạn trường hợp chị Amina Lawal trên đây. Nhiều hình thức chà đạp thân xác và nhân phẩm người phụ nữ chưa bị ngăn cấm và trừng phạt. Ngay thân nhân người phụ nữ và chính giới phụ nữ với nhau vẫn còn không bênh vực che chở người phụ nữ và thường nghiêm khắc lên án bất công đối với họ. Mang tiếng tôn trọng quyền nam nữ bình đẳng, nhưng có nhiều điều nam giới vi phạm thì được bỏ qua còn nữ giới mà phạm vào thì bị kết án hết sức nặng nề ! Muà Chay năm nay xin Chúa thương biến đổi não trạng thiên lệch, kì thị giới phụ nữ trong tôi và trong mọi người. Xin Chúa khích lệ và thưởng công cho những chiến sĩ dấn thân lên tiếng và hoạt đng bênh đỡ những quyền chính đáng của giới phụ nữ, bởi vì các phụ nữ là các bà mẹ, các bà vợ, các chị em và các con gái của chính mọi người chúng ta vậy.
"Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình" (Ga 12,24)
Minh họa
- Mille images 76 B - "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình" (Ga 12,24)
Sợi chỉ đỏ
Các bài đọc trong Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay giúp ta ý thức trước về ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức Giêsu.
- Bài đọc I (Gr 31,31-34): Thiên Chúa tiên báo sẽ lập một Giao ước mới - Bài Tin Mừng (Ga 12,20-33): Đức Giêsu sắp bước vào cuộc chịu nạn - Bài đọc II (Dt 5,7-9): Cuộc chịu nạn hoàn thành cuộc đời Đức Giêsu
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần Thánh. Để giúp chúng: MC5-B13
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần Thánh. Để giúp chúng ta vào Tuần Thánh một cách sốt sắng, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức Giêsu.
II. GỢI Ý SÁM HỐI - Chính vì tội lỗi chúng ta mà Đức Giêsu đã phải chịu chết cách đau đớn và nhục nhã trên Thánh Giá.
- Đức Giêsu đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao ước mới giữa Thiên Chúa với loài người. Thế mà chúng ta thường xuyên vi phạm Giao ước ấy.
- Đức Giêsu đã dùng Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thế mà chúng ta không yêu mến những thánh giá hằng ngày của chúng ta.
III. LỜI CHÚA 1. Bài đọc I: Gr 31,31-34
Ngày xưa ở Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel, theo đó Ngài hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ phải bị mất nước và bị lưu đày.
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới: Giao ước mới này không ghi trên đá mà ghi tận đáy lòng con người ; tinh thần của Giao ước này là tình thương và tha thứ: "Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta" và "Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".
Đức Giêsu là Đấng thực hiện lời tiên báo đó.
2. Đáp ca: Tv 50
Trong tâm tình chân thành sám hối, tác giả Tv 50 nài xin Chúa một mặt tẩy sạch các tội lỗi của mình, và mặt khác tạo cho mình một quả tim mới.
Một quả tim mới để khắc ghi Giao ước mới. Đó cũng là tâm tình hợp với lời tiên báo của Giêrêmia.
3. Tin Mừng: Ga 12,20-33
Đức Giêsu đang nghĩ tới việc Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ loài người. Việc một số người hy lạp Ợ tức là người ngoại Ợ xin gặp Ngài khiến Ngài ý thức rằng giờ cứu độ ấy đã điểm. vì thế mặc dù tâm hồn Ngài xao xuyến nhưng Ngài cũng hân hoan tuyên bố "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh& Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Nghĩa là Đức Giêsu coi cái chết của Ngài là vinh quang cho Ngài và nguồn cứu độ cho mọi người.
4. Bài đọc II: Dt 5,7-9
Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là "căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài".
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Biện chứng giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ:
- Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ dưỡng cho cây.
- Nơi sinh vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
- Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
- Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
- Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói: hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới nẩy mầm.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
* 2. "Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh"
"Giờ" này không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ trong dòng thời gian, không đo bằng đồng hồ, không tính theo toán học gồm 60 phút, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng đánh dấu bắt đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Đó là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Chính vì thế, Đức Giêsu nói "Đã đến giờ con người được tôn vinh". "Con người" đây vừa là Đức Giêsu mà cũng vừa là loài người, vì mọi người đều là "con người". Chẳng những Đức Giêsu được tôn vinh mà mọi người cũng được tôn vinh nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
* 3. Các vai trong vỡ tuồng thập giá
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta thấy rõ những người có liên hệ trong cái chết của Đức Giêsu.
- Hai vai chính là Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu thưa "Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha" ; và tiếng từ trời vọng xuống "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Cuộc đối thoại bằng những lời lẽ cao siêu này vượt quá tầm hiểu biết của những người có mặt ở đấy hôm đó. Vì thế có người cho là tiếng sấm và có người cho là tiếng thiên thần à Cái chết của Đức Giêsu là kết quả của một sự đối thoại và thỏa thuận giữa Chúa Cha và Đức Giêsu để thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người.
- Nhưng loài người cũng có liên quan: Đức Giêsu nói "Tiếng đó phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi" à Cuộc đối thoại trên là một mặc khải cho loài người: Tuy họ không hiểu tại sao Đức Giêsu chết, cũng chẳng hiểu tại sao chết mà là tôn vinh, nhưng họ được nói cho biết cái chết ấy là vì họ và cho họ.
- Do đó, đương nhiên mỗi người cũng có liên hệ: "Hãy theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó" à Thập giá là con đường dẫn đến tôn vinh. Mỗi người chúng ta có đi theo Đức Giêsu trên con đường thập giá thì mới đến được chỗ Đức Giêsu ở và mới được tôn vinh như Ngài.
* 4. Hạt lúa mì mục nát.
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái ; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết ?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
*****
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống ? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã ? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em ? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại ? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đàng.
****
Lạy chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chết đang khi sống
Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau: khi không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự chết của thể xác.
Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết: sự sống chết của con người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: ai cố bám víu vào sự sống của con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực ; còn ai dám để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự sống của con người đích thực.
Bởi đó, có người dám nói: "Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn". Thực vậy,
- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi. - mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi. - mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi. - mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)
* 6. Tâm sự của Đức Giêsu
Tôi cảm động vì lời Đức Giêsu thổ lộ tâm sự: "Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến".
Đức Giêsu đã tâm sự rất thật thà. Ngài nói thật với các môn đệ rằng Ngài xao xuyến trước cái chết sắp tới. Không phải vì Ngài đã từng khuyến khích họ mạnh dạn hy sinh mà nay Ngài phải che dấu cảm xúc xao xuyến của mình. Ngài cũng không muốn làm bộ anh hùng bất khuất. Cảm thấy thế nào, Ngài nói thế đó.
Tôi cũng muốn tìm hiểu xem vì sao mà Ngài xao xuyến.
- Chắc hẳn Ngài xao xuyến vì không cam tâm chịu chết. Một con người mới 30 tuổi đang tràn đầy sức sống mà phải chết ư ?
- Ngài còn xao xuyến hơn vì phải chết cách đau đớn. Chết đóng đinh trên thập giá là khổ hình tàn bạo nhất trong các hình thức xử tử.
- Nhưng Ngài xao xuyến sâu xa hơn nữa là vì sự nhục nhã khi phải chịu xử tử như thế. Gần giống như một võ sĩ vô địch mà phải nhận chỉ thị phải thua một võ sĩ hạng thấp hơn mình, không chỉ phải thua bằng tính điểm mà còn phải thua bằng "knock out" nhục nhã. Ngài chết như thế thì những kẻ thù ghét Ngài sẽ hả hê như thế nào ? Và những môn đệ thân yêu của Ngài sẽ hoang mang như thế nào ?
Bởi vậy, Đức Giêsu đã thốt lên lời van xin: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này". Tuy thế, Ngài mau mắn thưa tiếp: "Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha".
Đức Giêsu thật tội nghiệp ! mà cũng rất đáng phục !
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước ngưỡng cửa cuộc tử nạn và tôn vinh của Đức Giêsu, Hội thánh muốn giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa mì bị chết đi để sinh nhiều hạt khác. Chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu sau đây:
1. Đức Giêsu đã dạy: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình / Chúng ta cầu xin Chúa cho Hội thánh trong lòng thế giới / không khép kín để tự vệ / nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người.
2. Đức Giêsu đã dạy: "Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi". Chúng ta cầu xin Chúa cho các thủ lãnh trên thế giới đừng ai từ chối hoặc chống lại công trình cứu độ do tình thương của Chúa.
3. Đức Giêsu đã dạy: "Hạt lúa có chết đi, thì mới sinh được nhiều hạt khác" / Chúng ta cầu xin Chúa cho những người tàn tật ốm đau, già yếu, bị tù đày / biết dùng đau khổ mình đang chịu để sinh ích lợi cho nhiều người khác.
4. Đức Giêsu đã dạy: "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ được ở đó" / Chúng ta cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết noi gương phục vụ của Chúa / để luôn quan tâm chu toàn mọi trách nhiệm của mình trong gia đình, trong họ đạo và trong xã hội.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ –
Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh Lạy Cha, chúng ta sắp cầu xin cho "Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện". Nước Thiên Chúa đến nhờ thập giá Đức Giêsu ; Ý Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn nhất nơi Đức Giêsu và khi Ngài chịu chết trên thập giá. Chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Đức Giêsu trên Thập giá để dâng lên Chúa Cha những lời cầu xin trên.
- Chúc bình an: Đức Giêsu đã chịu chết để hòa giải con người với nhau. Vậy lẽ nào chúng ta vẫn giữ mãi hận thù ? Qua việc chúc bình an, anh chị em hãy thực lòng làm hòa với nhau.
VII. GIẢI TÁN
Trong Thánh lễ hôm nay Đức Giêsu đã dạy "Ai phụng sự Ta hãy theo Ta, và Ta ở đâu kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó". Tuần này, anh chị em hãy phụng sự Chúa, hãy đi theo Chúa, để có thể ở nơi Chúa ở.
Lời Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu nói đến Mầm sống lúa mới chỉ được trổ sinh khi hạt húa thực: MC5-B14
Lời Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu nói đến Mầm sống lúa mới chỉ được trổ sinh khi hạt húa thực sự bị hủy đi, khiến tôi nhớ đến một tư tưởng chi phối khá mạnh nơi con người ngày nay là sự sống của các thai nhi mà Công đồng Vaticanô II đã phải dùng một Thông Điệp để nói về sự sống. Vậy sự sống là gì ?
Romain Rolland viết: "Sự sống là cái mà không thể dùng trí khôn và con mắt mà nhận thức hay diễn tả. Sự sống là cái làm cho thụ tạo trở nên sống động". Nhìn một ngọn cây rung động, ta thấy nó chứa một sức sống mơn mởn vươn lên. Nhìn con vật đùa dỡn trước sân cỏ, ta thấy có một sức đánh động nó ngó ngoáy, ve vẩy. Nhìn con người ta lại thấy nó có một sức linh hoạt hơn nữa, khác với loài cây cỏ, khác với loài động vật hay xác chết.
Các nhà bác học chỉ có thể giải thích được sự cấu tạo của vật thể, chỉ có thể biết con người gồm có tim, óc, phèo, phổi.... Nhưng đến sự sống thì con người bất khả thuyết minh.
Trong một cuộc triển lãn nghệ thuật, điêu khắc gia Michel Angelos đã mất ngủ để suy nghĩ về câu nói của một nhà phê bình trứ danh, khi ông ngắm nhìn pho tượng đá Moisen: "Pho tượng tuyệt tác, linh động, sắc sảo như người, nhưng thiếu một điều.....". Ba đêm trời suy nghĩ không ra, Michel Angelos xin đến gặp nhà phê bình để hỏi cho ra lẽ. Nhà phê bình cười rồi bảo: "Bức tượng đá đẹp, nhưng tiếc một điều là nếu nó có thêm chút sự sống nữa thì toàn vẹn". Angelos nghe xong lời ấy có vẻ bất mãn, liền nói lên cách tự nhiên: "Sự sống ai mà tạo nên được".
Ngày nay trong các phòng triển lãm đặc biệt tại Kansas City, tôi đi tham quan, đến một gian hàng người ta chơi cái trò suy đoán "Thực hư": Trong gian phòng người ta trình bày 4 người đang ngồi đọc báo và mời các khách tham quan nhận ra trong 4 người áy ai là thật ai lả giả. Nhiều người đoán cô gái tóc đen là người thật, lại hóa ra cô là người giả. Nhiều người đoán cậu thanh niên có đôi mắt xanh, tay có từng cái lông tơ là người giả, lại hóa ra chàng trai thật 100%. Nhờ kỹ thuật vượt mức, người ta đã làm nên những vật không khác gì vật thật, nhiều cái còn đẹp và tinh vi hơn cả vật thật nữa. Tôi trồng một vườn hoa vào cuối mùa đông, có cắm xen lẫn một số bông hoa giả, nhiều người đã khen tôi mát tay, khéo trồng hoa, đến mùa Đông rồi mà hoa còn nở tươi thật là tươi. Có người phải rờ tay vào xem mới biết là hoa giả.
Sự sống thật là quí hóa, không ai tạo được, ngoại trừ Thiên Chúa. Bác Sĩ, Lương Y không dám rút ngắn cơn hấp hối của bệnh nhân. Hình phạt lớn nhất của tội nhân là tình phạt "tử hình", cắt đứt sự sống của tội nhân. Liều thuốc trường sinh vốn là liều thuốc tiên, là ước mơ của nhân loại. Vị Hoàng Đế khét tiếng của Trung Quốc dạo chơi trên bờ Vạn Lý Trường Thành cùng bày mỹ nữ và các quân thần, để ngắm nhìn công trình vĩ đại mình thực hiện, nhìn ngắm sự hưng thịnh của đất nước được mình bảo vệ. Bỗng chốc ông òa lên khóc nức nở. Các quan vấn an và hỏi căn do tại sao Hoàng Đế nhỏ châu lệ? Hoàng đế trả lời: "Đất nước ta hưng thịnh, trù phú thế này, quê hương ta đẹp đẽ biết bao! và dân ta hiền hòa thanh lịch.... Thế mà tuổi ta đã về chiều. Tiếc rằng ta không còn sống được bao lâu để cai dân trị nước". Một vì Đại Thần đứng phía sau cười nắc nẻ, khiến vua bực tức hạch tội: "Tại sao ngươi cười ta?" Vị Đại Thần tâu: "Nếu các vị Tiên Đế trước cứ sống lâu trên ngai, thì bây giờ đã đến phiên bệ hạ trị nước chưa?".
Được ngồi trên ngai mà ham ước sống đã đành, mà cả những người nghèo khổ đói rách cũng ham sống nữa. Một trong những chuyện hay của Lã Phụng Tiên có kể: Ngày đó một gã tiều phu già luống tuổi, đang ngồi nghỉ mệt bên lề đường. Ông than cho kiếp con người ông bạc phước, đày đọa kiếp thân tàn, làm ăn cực nhọc cả đời. Ông muốn chết cho xong kiếp sống lầm than. Bỗng thần chết xuất hiện giúp ông thực hiện ý muốn. Vừa trông thấy thần chết cầm hái từ thần, ông nhanh trí đánh trống lảng: "Xin nhờ Thần đưa giúp tôi bó củi lên vai, nghỉ lâu quá rồi". Bước đi mau chân ông lão không dám ngoái cổ lại nhìn sự thật đàng sau.
Sự sống ai cũng nhận thức là quí, nhưng không hiểu được.
Sự sống không thuộc về trần gian, người trần gian không ai có thể làm nên được. Cũng không ai phát sinh từ cục đá mà ra, nhưng từ ý muốn của Đấng tạo thành. Chúa nặn con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi sinh khí vào, bỗng nó trở nên sống động. Thân xác Lazarô chết 4 ngày đã lên mùi hôi thối, nhưng với quyền năng của Chúa, Ngài đã cho nó trở lại trạng thái bình thường và cho sống lại. Vật sống chính là sinh khí của Thiên Chúa, phát sinh từ Thiên Chúa. Ta nghe tiếng "Chết" đầu tiên khi Chúa phán cùng Adam, Evà: "Khi nào các ngươi ăn trái Ta cấm, các ngươi sẽ chết", thế nhưng Adam, Evà ăn vô thể xác vẫn sống. Ông bà Tổ Tông không chết theo cách ta hiểu là hết thở. Ông bà vẫn sống, vẫn hoạt động, nhưng cái chết Chúa tuyên án đây là: Mất sự tương giao với Thiên Chúa, là bẻ gẫy, là cách xa Thiên Chúa. Con người phạm tội đã chết trong một hình thức sống.
Tai điếc là tai chết, mặc dù tai vẫn còn, âm thanh vẫn còn, nhưng không còn tác dụng với tai nữa, không còn liên lạc giữa tai và âm thanh nữa. Tai điếc là tai đã chết. Người mù cặp mắt vẫn còn, màu sắc, ánh sáng vẫn có, nhưng ánh sáng và màu sắc không còn tác dụng với mắt. Mắt đã chết. Cũng thế, con người là loài sinh linh hiện hữu, con người vẫn sống đầy mặt đất, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa hằng hữu, Ngài vẫn hiện hữu trên chúng ta, nhưng con người và Thiên Chúa không còn liên lạc, không còn tác dụng với nhau nữa, vì sự tội đã phá vỡ sự tương quan đó. Con người chết. Nhưng lòng thương Chúa không bỏ con người, Ngài ban Con Một Ngài xuống trần làm nhịp cầu nối lại tình liên đới cha con. Đó là ý nghĩa đích thực khi Ngài phán: "Ta là sự sống". Do đó kẻ tin và đón nhận thì dù có chết cũng được sống. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đã chết trong cái xác sinh động còn sống thôi. Cái chết theo chúng ta hiểu là một sự thay đổi hình thức. Chết là cánh cửa đóng lại với bên này và mở ra cho đời sau. Chết là con đò chở người từ bến đời này qua bến đời sau. Nếu ta phạm tội đời này thì con đò cũng chở chúng ta về bến xa Chúa là địa ngục. Nếu chúng ta được ân nghĩa với Chúa ở đời này, thì cửa mở ra cho đời sau là cửa ân nghĩa thiên đàng.
Con người vốn thiết tha với cõi đời này là vì nó thực tế, nó hiển nhiên. Con người sợ đời sau vì nó mập mờ, không biết đến bến nào. Nhưng nếu ta chỉ sống có cái xác trên trần gian thôi, thì chưa phải là sống thực. Vậy phải ráng có sự sống thực, có Chúa Kitô là sự sống, có lề luật là thành lũy tránh sự dữ, có yêu thương nhau làm bảo đảm sự sống ở đời này và bảo đảm sự sống vui của đời sau. Ước gì chúng ta luôn sống trong thể xác linh động này, sống trong bình an của tâm hồn, sống trong ân phúc liên đới mật thiết với Chúa, để khi dù thân xác ta chết, ta vẫn được sống đời đời. (Jn. 12:20-33) 3-2003
Vào một đêm giông bão, gió thổi mịt mù, mưa rơi như trút, một ông già với bà vợ chạy vào văn: MC5-B15
Vào một đêm giông bão, gió thổi mịt mù, mưa rơi như trút, một ông già với bà vợ chạy vào văn phòng của một khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Ông già tỏ dấu khiêm tốn nhã nhặn hỏi viên thư ký: "Anh có thể cho chúng tôi một phòng nhỏ không? Vì tất cả các khách sạn lớn đều đã chật rồi". Viên thư ký trả lời: "Thưa ông, tất cả các phòng đều đã có người mướn, nhưng tôi không thể để cho những người dễ thương và đáng kính như ông bà phải ra đi trong mưa gió vào lúc một giờ sáng như thế này được. Ông bà có thể ngủ trong phòng của tôi". Ông khách vội hỏi lại: "Thế thì cậu ngủ ở đâu?" Viên thư ký đáp: "Thưa, ông đừng lo, tôi sẽ tự liệu mà". Vừa nói, viên thư ký trẻ vừa dẫn hai ông bà khách lên phòng của mình. Sáng hôm sau, khi xuống trả tiền phòng, ông khách nói với viên thư ký đã nhường phòng cho mình: "Cậu là viên thư ký quảng đại, đáng làm quản lý một khách sạn lớn nhất của Hoa Kỳ. Có lẽ mai ngày, tôi sẽ xây khách sạn đó cho cậu".
Hai năm sau, viên thư ký trẻ này nhận được một bức thư, kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, với lời ghi chú của ông khách trong một đêm mưa gió nọ tại Philadelphia, muốn gặp chàng tại New York. Khi chàng tới gặp ông khách cũ, ông dẫn chàng tới một góc đại lộ số 5 đường 34, chỉ vào ngôi khách sạn mới xây nguy nga đồ sộ và nói với chàng: "Đây là ngôi khách sạn tôi đã xây cho cậu làm quản lý". Nghẹn ngào vì cảm động, chàng thư ký trẻ tuổi tên là George C. Boldt đó, chỉ biết lắp bắp lời: "Xin hết lòng cảm ơn ông". Ông khách già chủ ngôi khách sạn đó là William Walford Astoria. Và ngôi khách sạn sang nhất trong thời bấy giờ là Walford Astoria.
I. Người có công mới đáng thưởng
Một sinh viên đại học, muốn vượt qua được các kỳ thi tuyển, muốn đoạt được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư, luật sư, muốn được thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào, một chức vụ nào trong xã hội, đều cần phải chuyên chăm học hành, phải chịu khó, hy sinh, vất vả, phải thức khuya dậy sớm.
Một quân nhân, muốn được trọng thưởng, cần phải tham dự các cuộc chiến thắng vẻ vang nơi các trận địa, và khải hoàn trở về với danh nghĩa một vị anh hùng dân tộc, được dân chúng ca ngợi. Một sĩ quan quân đội, muốn chiếm được những tấm huy chương vàng bắc đẩu bội tinh, với tấm bằng tưởng thưởng; hoặc muốn được thăng quan tiến chức, cũng cần phải lập được nhiều thành tích vẻ vang, nhiều chiến công oanh liệt.
Không khi nào người ta lại trọng thưởng cho những kẻ lười biếng, những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ chơi bời lêu lổng. Trái lại, những ai càng biết chịu khó, vất vả, hy sinh, chịu tủi nhục, càng lập được nhiều thành tích, càng đáng được trọng thưởng, được tôn trọng, được tán dương. Vì công trạng bao giờ cũng tương xứng với huân nghiệp đã lập.
II. Để được phục sinh vinh quang
Chúa Kitô, trong bài Tin Mừng hôm nay đã quả quyết: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt". Cũng chỉ vì muốn cho chúng ta được sự sống đời đời, mà Chúa đã phải quả quyết với chúng ta rằng: "Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời".
Đây là một bài học rất thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mần sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một cánh đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt. Trái lại, nếu hạt giống gieo xuống đất mà cứ trơ trơ, không đời nào có thể phát sinh bông hạt, khiến cho nhà nông phải thất vọng.
Chính Chúa Kitô, "Khi còn sống ở trần gian này, Người cũng đã phải lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết" và "Dầu là Con Thiên Chúa, Người cũng đã phải chịu muôn vàn thống khổ, phải chịu chết tất tưởi để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả chúng ta" (xem Heb 5:7-9). Như thế, Người đã phải chịu chết, Người mới đem lại cho chúng ta sự sống, sự sống siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu của Người.
Để được phục sinh vinh hiển, Chúa Kitô đã phải trải qua sự chết. Nếu chúng ta muốn được phục sinh vinh hiển với Chúa, được Chúa cho tham dự sự sống thật của Người. Để được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa, đồng chung đau khổ, hy sinh, tủi nhục với Người. Không có hy sinh đau khổ thập giá, không thể có danh dự vinh quang được. Vì: "Per Crucem ad Lucem" - "Từ Thập Giá tới Nguồn Sáng".
III. Để đau khổ có giá trị cứu rỗi
Với cái nhìn có vẻ bi quan, người ta gọi trần gian là nơi khổ ải, là thung lũng nước mắt; nhưng với cái nhìn lạc quan phấn khởi thì, trần gian lại là nơi lập công, là trường tập đức. Theo Thánh Phaolô thì thời gian sống trên trần gian, còn được mệnh danh là: "Thời cơ thuận tiện, là ngày cứu độ". Nhưng dù theo quan niệm nào đi nữa, thì chắc chắn: Trần gian chưa phải là nơi an hưởng hạnh phúc, cũng chưa phải là nhà vĩnh cửu; mà mới chỉ là nơi tạm trú, là đàng dẫn tới quê hương chân thật và vĩnh cửu là Thiên Quốc. Chúng ta sống trên trần gian chỉ là những lữ khách đang trên đường tiến về quê hương bất diệt, là nơi chúng ta sẽ được đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, sung mãn tràn đầy với Chúa là Cha đầy yêu đương của chúng ta.
Dù muốn hay không thì khi còn sống trên trần gian, chúng ta còn gặp muôn vàn điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh; nhưng nếu chúng ta biết vui lòng lãnh nhận, vui tươi chịu đựng vì lòng yêu mến Chúa, hợp với Giá Máu Cứu Chuộc của Chúa Kitô, thì những đau khổ đó sẽ giúp chúng ta đạt được Ơn Cứu Độ, có giá trị đền tội và lập công, thánh hóa mình và thánh hóa tha nhân. Trái lại, nếu miễn cưỡng, cực chẳng đã phải chịu, thì đau khổ sẽ chẳng đem lại ích gì cho chúng ta, lại còn làm cho chúng ta phải ngã quỵ.
Kết Luận
Tấm lòng hào hiệp và quảng đại hy sinh của một viên thư ký, trong một khách sạn nhỏ dành cho ông bà khách, giữa đêm khuya bão tố trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã khiến ông bà khách cảm phục và đã ban cho cậu một phần thưởng trọng hậu đến thế; thì những hy sinh đau khổ chúng ta vui lòng lãnh nhận vì lòng kính mến Chúa, còn đáng được Chúa trọng thưởng chúng ta gấp trăm ngàn lần hơn nữa. Vả nữa, phần thưởng đời này chỉ có cùng có hạn, nhưng phần thưởng Chúa ban cho chúng ta đời sau sẽ vô cùng vô tận.
Lạy Mẹ, Mẹ đã can đảm và quảng đại lãnh nhận mọi đau thương thống khổ của sứ mạng Đồng Công để hiệp thông với Chúa Cứu Thế Con Mẹ, lập nên Giá Cứu Độ cho chúng con; xin Mẹ cho chúng con cũng được can đảm theo gương Mẹ, chấp nhận tất cả mọi nỗi gian truân Chúa gởi đến, để chúng con cũng được thông phần với Chúa và Mẹ, hầu cứu độ tha nhân như sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng con.
Bài đọc 1: Jer 31, 31-34 Bài đọc 2: Dt 5, 7-9 Tin Mừng: Ga 12, 20-33
Kính thưa...
Ngay từ đầu Mùa Chay, phụng vụ đã kêu mời mỗi người chúng ta sám hối, để có thể xứng đáng: MC5-B16
Ngay từ đầu Mùa Chay, phụng vụ đã kêu mời mỗi người chúng ta sám hối, để có thể xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô trong ngày đại lễ Phục Sinh sắp tới. Trong chiều hướng đó, suốt 4 Chúa Nhật vừa qua, Tin mừng đã lần lượt giới thiệu cho chúng ta những khía cạnh khác nhau của Đức Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi (x. Dt 13, 8).
Ngay tuần đầu tiên của Mùa Chay, lời Chúa đã cho chúng ta thấy, Đức Giêsu chính là một con người thật. Ngài đến để tái lập lại những gì mà Nguyên tổ đã làm đổ vỡ qua việc Ngài chiến thắng cám dỗ. Không chỉ là con người thật, Đức Giêsu còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Đây là điều được chính Chúa Cha xác nhận trong cuộc biến hình trên núi của Đức Giêsu mà Tin mừng Chúa Nhật 2 đã thuật lại. Vừa là Thiên Chúa vừa là con người, nên Đức Giêsu đã trở nên Đấng trung gian giữa con người và Thiên Chúa, hay nói theo cách nói của Tin mừng Gioan trong Chúa Nhật 3, Đức Giêsu chính là Đền thờ nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không những là Đền Thờ, Đức Giêsu còn là hiến lễ của tình yêu, khi Ngài chấp nhận "giương cao" trên thập giá, để đem lại sự sống đời đời cho những ai tin Ngài như lời Ngài tuyên bố với Nicôđêmô trong Tin mừng Chúa Nhật 4 vừa qua.
Và hôm nay, trong ngày Chúa Nhật có thể nói là cuối cùng của Mùa Chay, bởi vì bước sang tuần tới, chúng ta đã vào Tuần Thánh tưởng niệm trực tiếp đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, phụng vụ cho thấy, khi chấp nhận cái chết thập giá, Đức Giêsu đã trở nên hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để trổ sinh nhiều bông trái như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự huỷ nơi bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài như chúng ta đã nghe trong mấy tuần lễ vừa qua. Sự tự huỷ này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giêsu trước Thánh Ý của Chúa Cha. Tâm tình vâng phục đó của Đức Giêsu cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinhẨLạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ nầy. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ nầy. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha"
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngại ngần. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là "một điều điên rồ đối với dân ngoại và là một cớ vấp phạm cho người Do thái" (1 Cr 1, 23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến "giờ" của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này" . Lắng nghe lời tâm sự tha thiết từ đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gởi đến từng ngày trong cuộc sống, hay nói một cách khác, Đức Giêsu cũng đã phải ỀhọcỂ để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do thái viết: "Dầu là Con Thiên Chúa, Người (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu". Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó của Đức Giêsu: "khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người".
Như thế, với việc đi con đường tự huỷ, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý: "Cho là nhận, "Chết là con đường đưa tới sự sống". Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta cũng không thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế, chúng ta sẽ rất nghèo nàn, cô đơn. Tới đây, có lẽ, chúng ta có thể hiểu được phần nào câu nói của Đức Giêsu: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời". Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự huỷ này của Đức Giêsu, thánh Phanxicô, trong lời kinh Hoà Bình, đã ca lên:" Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời".
Như thế, với việc sống mầu nhiệm tự huỷ là Đức Giêsu đã thực hiện một cuộc Vượt Qua: vượt qua cái hữu hình để đạt đến cái vô hình; vượt qua sự chết để đến sự sống; vượt qua cái giới hạn để đạt đến cái vĩnh cửu; vượt qua những nghi thức, lề luật, lễ bái bên ngoài để đưa con người đạt đến một mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa từ trong con tim yêu thương của mình. Thực hiện cuộc vượt qua này, Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm trọn vẹn điều mà ngôn sứ Giêrêmia đã báo trước cách đó hơn 600 năm: "Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta".
Đức Giêsu đã sống mầu nhiệm tự huỷ để đem lại ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta đi con đường tự huỷ như thế để có sự sống đời đời. Thế nhưng, trong thực tế, mỗi người chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình mà quên đi người khác, như lời Đức Thánh Cha nói trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay: "Thời đại chúng ta đặc biệt bị rơi vào cám dỗ sống ích kỷ, nó luôn ẩn núp trong tâm hồn con người... người ta bị đồn dập tấn công bởi những thông điệp ít nhiều công khai tán dương nền văn hoá phù du và chủ nghĩa khoái lạc". Giữa một thế giới như thế, Đức Thánh Cha nhắc bảo chúng ta: "Người tín hữu được mời gọi bước theo dấu chân của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng, khi hoàn toàn vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hủy (x. Pl 2,6 tt), và khiêm tốn ban tặng chính mình cho chúng ta trong một tình yêu vị tha và trọn vẹn, cho đến chết trên thập giá. Núi Canvê loan báo cách hùng hồn sứ điệp về tình yêu của Ba Ngôi đối với con người thuộc mọi thời đại và dân nước". Và để sống mầu nhiệm tự huỷ cách cụ thể, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta thực hiện lời Chúa dạy trong sách Công vụ Tông đồ: "Cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20, 35).
Trong đời sống gia đình, nếu từng thành viên luôn biết "cho đi ", nghĩa là, biết quên mình để nghĩ đến người khác và sẵn sàng chia sẻ những khó khăn của nhau: người chồng luôn nghĩ đến vợ, người vợ luôn nghĩ đến chồng; cha mẹ hết lòng lo cho con cái; con cái luôn nghĩ đến những vất vả, cực nhọc của cha mẹ để bớt đi những đòi hỏi không cần thiết, thì dù cuộc sống vật chất có vất vả, khó khăn, nhưng tôi chắc chắn rằng gia đình chúng ta sẽ có niềm vui, hạnh phúc và bình an. Và cuối cùng, cả gia đình chúng ta sẽ được ở cùng Đức Giêsu như lời Ngài đã hứa: "Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó ". Amen.
Bài Thánh Thư và Bài Tin Mừng của Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B hôm nay tập trung vào: MC5-B17
Bài Thánh Thư và Bài Tin Mừng của Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B hôm nay tập trung vào cách sống, cách đón nhận Giờ Thập Giá và những tâm tình yêu thương tùng phục Chúa Cha của Chúa Giêsu Kitô Con Yêu Dấu của Cha. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Kitô, học cùng Người để đón nhận Sứ điệp của Tình Yêu Vâng Phục và Tự Hiến của Người, để rồi chúng ta làm chứng cho Tình Yêu ấy bằng đời sống vâng phục, tự hiến và tự hủy của chúng ta.
I. Lắng nghe Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Gr 31,31-34. 2. Bài đọc 2: Dt 5,7-9. 3. Bài Tin Mừng: Ga 12,20-33.
II. Tìm hiểu Lời Chúa
1.Bài đọc 1: Gr 31,31-34: Ngôn sứ Giêrêmia loan báo về Giao ước mới mà Thiên Chúa sẽ ký kết với dân. Nét riêng của Giao ước mới là: Thiên Chúa sẽ khắc ghi lề luật của Người vào tâm khảm, vào lòng dạ con người để mọi người lớn nhỏ đều biết Chúa. Còn Thiên Chúa, Người vẫn là Thiên Chúa tín trung, thương yêu và thứ tha mọi tội ác và lẫm lỗi của dân.
2. Bài đọc 2: Dt 5,7-9: Thánh Phaolô viết cho tín hữu Do Thái rằng: Dù là Con, Đức Giêsu đã phải học cách sống vâng phục đối với Chúa Cha, bằng đau khổ và thập giá. Nhờ đó, Người đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai vâng phục Người.
3. Bài Tin Mừng: Ga 12,20-33: Là tường thuật của Gioan về một chuyến lưu lại Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua. Có lẽ là Lễ Vượt Qua cuối cùng của Người và Đức Giêsu đã tiến rất gần đến thời điểm trọng đại của Cuộc Khổ Nạn Thập Giá! Vì thế Người ở trong một trạng thái tâm hồn có một không hai từ trước tới giờ và từ giờ cho đến lúc tắt thở: bồi hồi, xúc động, thậm chí cả xao quyến, nhưng rất sáng suốt, dũng cảm và hiệp thông sâu sắc với Thiên Chúa Cha. Đây là thời điểm mà cả Đức Giêsu lẫn Thiên Chúa Cha được tôn vinh. Đức Giêsu được tôn vinh vì Người sẵn sàng bước vào "giai đoạn quyết liệt" của thân phận là Hạt Lúa được gieo vào lòng đất và chết đi để trổ sinh nhiều hạt lúa khác. Còn Thiên Chúa Cha được tôn vinh vì Con Một của Người dũng cảm tiến vào giờ G, giờ tự hủy ra không, giờ tự hiến trọn vẹn, giờ chấp nhận cái chết vì vâng phục, để cứu chúng sinh. Nhờ hiến tế toàn thiêu của Con trên thập giá mà Thiên Chúa Cha ký kết được với nhân loại một Giao ước mới mà Giêrêmia đã loan báo từ hàng ngàn năm trước (bài đọc 1).
4. Sứ điệp của Lời Chúa: "Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Chúa xin tôn vinh Danh Cha"
4.1 Đón nhận và sống (tức làm chứng cho) Sứ điệp của Tình Yêu Vâng Phục.
Đứng trước cuộc Thương Khó đầy kinh hoàng, Đức Giêsu cũng run sợ, cũng bồi hồi, cũng mong sao tránh được giờ này, không phải uống chén đắng này. Đó là phản ứng bình thường và lành mạnh của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Nhưng chính nhờ tinh thần Vâng Phục đầy hiếu thảo đối với Chúa Cha mà Đức Giêsu có đủ sức mạnh và sự bình tĩnh lạ lùng: "Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến!" (Ga 12, 27) và "Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý ChaỂ"(Mc 14, 36b).
Thái độ vâng phục tuyệt vời của Đức Giêsu trái ngược hẳn với thái độ bất tuân của Ađam và Eva nguyên tổ trong vườn địa đàng. Cũng trái ngược hẳn với thái độ cứng đầu cứng cổ của các tầng lớp lãnh đạo và dân chúng Ítraen suốt dòng lịch sử Giao ước cũ. Cũng rất trái ngược với thái độ kiêu căng, tự mãn, coi thường các giá trị luân lý của nhiều nhóm người, nhiều quốc gia ngày nay. Thật vậy con người bước sang thế kỷ 21 chẳng khá hơn trong thế kỷ 20 chút nào: chiến tranh đang gây ra những hậu quả tàn khốc cho bao người, nạn ly dị và phá thai đang hủy hoại bao gia đình và giết hại bao trẻ thơ vô tội, hố ngăn cách giầu nghèo giữa các cá nhân, tập thể, quốc gia đang làm chết dần chết mòn cả một cộng đồng dân tộc... Nguyên nhân chung cho tất cả mọi tình trạng tồi tệ trên là con người không vâng phục Thiên Chúa, không tuân giữ những qui luật tự nhiên về tính dục, về hôn nhân gia đình, về sự phân bổ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, về tình liên đới và huynh đệ giữa người với người, giữa quốc gai với quốc gia.
Muốn sống vâng phục Thiên Chúa, chúng ta phải xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc mà thôi. Chương trình, kế hoạch và những qui luật Người đặt ra cho loài người và cho mỗi người là tuyệt hảo. Sống khiêm nhường vâng phục Người là chúng ta được đảm bảo về hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu.
4.2 Đón nhận và sống (tức làm chứng cho) Sứ điệp của Tình Yêu Tự Hiến và Tự Hủy:
Vì vâng phục và để vâng phục Chúa Cha, Đức Giêsu đã tự hiến mình làm của lễ toàn thiêu đền tội cho nhân loại. Vì vâng phục và để vâng phục Chúa Cha, Đức Giêsu đã tự hủy ra không, khi để cho quân lính và người Do Thái vùi dập như một tên tội phạm đáng ghê tởm và đáng nguyền rủa nhất trong lịch sử nhân loại. Thật vậy Đức Giêsu chẳng những đã nhận được những roi đòn hung dữ của kẻ thù mà còn bị dân chúng và các nhà lãnh đạo tôn giáo nguyền rủa thậm tệ. Đúng là thân phận của hạt lúa, không chỉ chịu chôn sâu trong lòng đất mà còn bị thối nát ra để làm mầm sống cho một cây lúa mới, đem lại nhiều hạt lúa mới cho cánh đồng chín vàng ngày mùa mới.
Sự tự hiến và tự hủy "không thể diễn tả bằng lời" của Đức Giêsu trái ngược hẳn với thái độ "dùng dằng, so kè và tính toán" của đại đa số con người ngày nay. Cũng trái ngược hẳn với khuynh hướng ích kỷ chỉ biết nghĩ đến quyền lợi vật chất và tinh thần của nhiều người giầu có và quyền thế trong các xã hội; với thái độ e dè, bủn xỉn, "giữ của" của chúng ta khi chúng ta được Chúa mời gọi chia sẻ với người khác một phần nhỏ những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa.
Muốn sống tự hiến và tự hủy chúng ta phải chấp nhận sống khiêm nhu, nhỏ bé, hy sinh xả kỷ và quên mình. "Cho thì phúc hơn nhận "đã là phương châm và bản đúc kết cuộc sống của Chúa Giêsu, của Thánh Phaolô Tông đồ và của tất cả các vị thánh. "Cho thì phúc hơn nhận" phải là phương châm sống hằng ngày của chúng ta, trong gia đình, giáo xứ và ngoài xã hội. Chúng ta có thể cho đi rất nhiều thứ: tiền bạc, thời giờ, khả năng, sự quan tâm, nụ cười, lời thăm hỏi ân tình...
Sống vâng phục cũng như sống tự hủy tự hiến là việc vô cùng khó, vượt khả năng tự nhiên của con người, nhưng lại ở trong tầm tay của Thiên Chúa và của những người biết tin cậy cầu khấn Thiên Chúa. Vì thế chúng ta phải biết chạy đến với Người. Cha Charles de Foucauld đã nói: "Chúa Giêsu Kitô là Đấng có thể làm những việc không thể làm được" (Notre Seigneur Jésus Christ est maitre de l'impossible).
III. Sống Lời Chúa
Mỗi ngày tôi tập bỏ ý riêng, bỏ quyền lợi riêng, chủ động lắng nghe Lời Chúa, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân để vâng phục Thiên Chúa một cách ý thức hơn và để tự hiến tự hủy một cách quảng đại hơn cho anh em.
IV. Cầu nguyện với Lời Chúa
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ, ngợi khen và biết ơn Cha vì Cha đã tôn vinh Con Một Yêu Dấu của Cha là Đức Giêsu Kitô khi Người hết lòng vâng phục Cha mà chấp nhận chết trên thập giá vì phần rỗi nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, để Chúa Cha được tôn vinh và chúng con được cứu độ, Chúa đã vâng phục cho đến chết, Chúa đã hiến mình làm của lễ toàn thiêu trên thập giá. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và biết ơn Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết học cùng Chúa, trở nên giống Chúa, mà sống vâng phục Chúa Cha và tự hiến cho anh em đồng loại. Chúng con yếu đuối, ươn hèn, ngại khó... Nhưng Chúa là Đấng làm được những điều không thể làm được. Chúng con trông cậy và phó thác trọn vẹn trong tay Chúa. Xin Chúa hãy thực hiện những gì Chúa muốn nơi chúng con.
Lạy Chúa Thánh Thần là sức mạnh thần linh của Thiên Chúa, xin Chúa ban cho chúng con sức mạnh vô song của Chúa để chúng con có thể trở thành hạt lúa chết thối trong lòng đất hầu sinh ích cho bản thân mình và cho tha nhân.
Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng): MC5-B18
1. Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không? 2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không? 3. Lời Đức Giêsu: ỡAi yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đờiữ có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, mà theo kiểu hình ỡsinữ hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: ỡĐã đến giờ Con Người được tôn vinh!ữ Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: ỡThầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khácữ. Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: ỡAi yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đờiữ. Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau?
Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của những chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: ỡAi yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đờiữ. Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muốn trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, bèn dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũngẨ thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: ỡNgười đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hươngữ (Tv 126,6). ỡNếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngàiữ (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: ỡAi yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đờiữ, tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an!
Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày thángẨ Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: ỡChúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòngữ (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cũng nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
Tác giả Tin Mừng thứ tư đưa nhân loại hay nói cách nôm na hơn dẫn con người đi vào cuộc: MC5-B19
Tác giả Tin Mừng thứ tư đưa nhân loại hay nói cách nôm na hơn dẫn con người đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Người Kitô hữu được đối diện với ý nghĩa đích thực của cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan không tách rời sự đau khổ, sự chết trên thập giá, nhưng nó nối liền với sự phục sinh, cuộc khải hoàn vinh thắng của Chúa Giêsu.
Hạt lúa mì không thối sẽ không mang lại hoa trái
Chúa Giêsu đã nói:" Nếu hạt lúa mì không thối đi, không rữa tan trong lòng đất, nó sẽ không sinh hoa trái phong nhiêu". Hình ảnh về cuộc thương khó của Chúa Giêsu được gợi lên như một hạt lúa mì bị tan rữa trong lòng đất, sẽ dẫn tới một mùa lúa bội thu, phong phú. Cái chết của Chúa Giêsu không dừng lại ở sự cằn cỗi, mất mát, thê lương, cái chết của Chúa sẽ có sức mạnh qui tụ mọi người, mọi dân, mọi nước." Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ". Tuy được gắn liền với sự vinh thắng, khải hoàn của sự sống lại, cuộc thương khó của Chúa Giêsu vẫn hoàn toàn là một cuộc thống khổ. Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chọn kiếp làm người, đau khổ vẫn là khổ đau, Ngài vẫn phải đương đầu với sự đau khổ, với cái chết nhuốc hổ trên thập giá:" Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự..."( Philip 26-8 ).
Chính Chúa Giêsu đứng trước sự đau khổ và đối diện với cái chết, vẫn cảm thấy khó nuốt trôi vì Ngài mang bản tính con người. Ngài đã bị cám dỗ, thử thách không muốn đương đầu với cái giờ đen tối. Thánh Phaolô trong bài thư gửi cho người Do Thái đã viết:" Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết"( bài đọc II ). Bị dầy vò, bị cám dỗ, Chúa Giêsu đã lướt thắng tất cả sự thử thách và cầu xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu hoàn toàn làm theo ý của Chúa Cha và chấp nhận giờ chết với tất cả sự vâng phục cho đến hơi thở cuối cùng trên thập giá( Mc 14, 35, 37 và 41 ), nhưng cũng đồng thời là giờ con người được bước vào vinh quang.
Chúa Giêsu khải hoàn và những dư âm của việc sống lại
Nghiên cứu lại các tôn giáo, nhân loại sẽ không khỏi ngạc nhiên, bỡ ngỡ và từ ngạc nhiên này, tới bỡ ngỡ khác vì rằng chưa có một vị sáng lập đạo nào dám nói:" Cứ phá hủy đền thờ sau ba ngày sẽ xây dựng lại". Lời nói này của Chúa Giêsu, vị sáng lập đạo Kitô nghĩa là đạo tình thương. Chúa Giêsu đã hiện điều đó, Ngài chết và đã sống lại khải hoàn sau ba ngày bị chôn trong mồ đá. Chúa sống lại, Tin Mừng cho thấy rõ Ngài phục sinh, trước hết đã hiện ra với Maria Magđala, người phụ nữ đã được Chúa Giêsu tha thứ nhiều. Chúa hiện ra với Maria magđala trong một bầu khí tinh mơ, thi vị . Sau đó, Chúa phục sinh hiện ra với các tông đồ khi các Ngài đang hội họp với nhau vì sợ người Do Thái, điều này làm cho ta liên tưởng tới ngày chúa nhật, ngày các tín hữu trên thế giới, trong mọi nhà thờ, nhà nguyện, hội họp nhau để dâng lễ, cầu kinh, thờ phượng Chúa. Chúa phục sinh luôn đến với các tông đồ và ở giữa họ. Chúa sống lại hiện ra lần đầu tiên đã cho các môn đệ thấy các vết đinh, cạnh sườn và tay chân bị thương tích của Ngài. Chúa phục sinh cũng là Chúa mà các tông đồ đã chứng kiến cuộc thống khổ của Ngài.
Nhưng cũng Đức Kitô chịu thống khổ, chịu chết, chịu mai táng trong mồ, đã phục sinh. Nên, Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai vẫn là một Chúa duy nhất. Các tông đồ đã rất vui mừng vì trước đó, các Ngài đã phải sống trong cảnh hoang mang, sợ sệt bởi Thầy mình đã chết. Chúa phục sinh giờ phút hiện ra này cũng đã trao cho các tông đồ sứ mạng rao giảng, sứ mạng được sai đi và ban cho các Ngài quyền tha tội, quyền giao hòa giữa trời với đất.
Hậu quả hay dư âm của việc Chúa sống lại còn được thể hiện nơi tình bác ái yêu thương( bài đọc I ): cộng đòan Kitô hữu tiên khởi đã sống tinh thần bác ái, tất cả đều góp của chung và không để ai phải túng thiếu. Còn thánh Gioan trong bài đọc 2 lại cho thấy nền tảng của tình yêu: mọi người đều là con Chúa, nên là anh em với nhau. Có thể nói Hội Thánh Chúa Kitô được thiết lập ngay từ biến cố phục sinh của Đức Kitô với một sứ mạng vô cùng lớn lao là tiếp nối công trình cứu chuộc của Chúa sống lại: tha thứ tội lỗi, giao hòa con người với Thiên Chúa và làm cho muôn dân trở thành anh em, trở thành môn đệ với nhau.
Sứ mạng này Chúa trao cho Giáo Hội để Hội Thánh trở thành nhân chứng của Chúa mãi mãi. Cuộc thương khó của Chúa sẽ mang lại hy vọng và hạnh phúc vì Chúa phục sinh luôn hiện diện giữa mọi người, giữa lịch sử con người.
Lời Chúa cho hôm nay: Sự chết của Đức Kitô * The death of Jesus Christ *
Mùa chay là thời điểm để xét lại vì đâu mà tôi thiếu trung thành với giao ước của Chúa: MC5-B20
Bài đọc 1: Gr. 31, 31- 34= Giao ước mới: Mùa chay là thời điểm để xét lại vì đâu mà tôi thiếu trung thành với giao ước của Chúa. A new covenant: Lent is time to check where we have failed to be faithful our covenant with God.
Bài đọc 2: Dt. 5, 7- 9 = Sự vâng lời của Đức Kitô: Chúng ta đã được cứu độ và thấy sự chết là biến đổi vào đời sống vĩnh cửu. Christ's Obedience: We are saved, can see death as a transfiguration into eternal life.
Bài Tin Mừng (Gospel): Gn. 12, 20- 33 = Đức Kitô nói về cái chết của Ngài; Nó sẽ là cái xốc và thử thách cuối cho các môn đệ. Jesus speaks about His death. It will be a shock for the disciples and the final test of their faith in Him.
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflection, live out and share )
1/ Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với các môn đệ như sau: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình..." Ý Chúa muốn nói đến sự tận hiến mạng sống của Ngài cho nhân loại, và muốn tôi quên mình để phục vụ anh em. Tôi đã làm gì để sống hòa mình và gần gũi mọi người? Nói một việc làm cụ thể về hy sinh cho cha mẹ. vợ, chồng, con cháu trong gia đình của tôi... "Unless a grain of wheat falls to ground and dies, it remains just a grain of wheat..." ( Ga. 12, 24 )
2/ Đức Giêsu còn nói thêm cho mọi tín hữu: "Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất..... và ai phuc vụ Thầy thì hãy theo Thầy"Thật vậy, ai chỉ lo thỏa mãn đời sống thể xác thì chắc chắn là không có đời sống vĩnh cửu. Còn ai phục vụ anh em hãy làm theo Lời Chúa dạy. Bạn đã hy sinh bản thân và giúp tha thân những gì? Kể một chuyện ngắn về bỏ mình phục vụ trong cộng đồng, giáo xứ mà bạn đang sống... "Whoever loves his life loses it.... Whoever serves Me must fellow Me..." ( Ga, 12, 25- 26 )
3/ Trong thư gởi Do Thái, Thánh Phaolô nói rõ về Đức Kitô: "Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục." Chúa Giêsu đã là gương mẫu sáng ngời cho tôi về cầu nguyện và vâng phục Chúa Cha vì yêu thương con người. Tôi đã kiên trì cầu nguyện và chịu đựng thế nào trong đời sống gia đình và xã hội.? Cho một thí dụ điển hình về kiên nhẫn cầu nguyện và lắng nghe... "Son though He was, He learned obedience from what He suffered." ( Dt. 7, 8)
4/ Tiên tri Giê-rê-mi-a nói về giao ước của Chúa với ta: "Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng..." Từ ngày chịu phép Rửa, bạn đã được đóng dấu ấn là Tư tế, Tiên tri và Vương đế của Ngài. Bạn đã thực hành được những gì theo luật Chúa? Đưa ra một việc làm cụ thể theo Lời Chúa dạy, theo nhiệm vụ mà bạn đang đảm trách hiện nay... "I will place My law within them and write it upon their heart; I will their God..." ( Gr. 31, 33 )
B. Câu Kinh Thánh thúc dẩy tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Word )
"Ai quí mạng sống mình thì sẽ mất... và ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. " "Whoever loves his life lose it... Whoever serves Me must fellow Me." ( Ga. 12, 25- 26 )
C. Ngay bây giờ bạn và tôi cần làm gì theo Lời Chúa mời gọi: ( So what am I doing / For Action )
a/ Bạn hãy chọn lấy một trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống. b/ Tôi quyết bỏ tính xấu ỉch kỷ hay lo cho cá nhân mình như về ăn mặc quá đáng mà quên chồng, vợ, con.
D. Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và Sống thực hành điều mình xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Ai quý mạng sống mình thì sẽ mất...và ai phục vụ Thầy thì thì hãy theo Thầy. Xin giúp con sẵn sàng bỏ những lợi ích riêng tư để lo cho hạnh phúc gia đình và đoàn kết trong Giáo xứ. 2/ Trong thư gởi Do Thái, thánh Phaolô đã nêu lên sự khiêm nhường tột độ và vâng phục cao cả của Đức Kitô với nhiều đau khổ để vào vinh quang. Xin cho con được chu toàn nhiệm vụ hiện nay của con nơi Cộng đồng và Xã hội.
Hoa thơm cỏ lạ: Hãy cầu xin như mọi sự tùy thuộc vào Thiên Chúa Pray as if everything depends
1) Ý chính: Thập giá là con đường dẫn đến vinh quang:
Trong dịp đi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng, Đức Giêsu đã long trọng: MC5-B21
Trong dịp đi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng, Đức Giêsu đã long trọng khải hoàn vào thành. Dân chúng nô nức ra đón rước Người. Đang khi đó, một số người Hy Lạp cũng đi dự lễ đã ngỏ ý nhờ Philípphê xin với Đức Giêsu cho họ một cái hẹn. Việc dân Do Thái suy tôn và dân ngoại đến xin được gặp, cho thấy đã đến Giờ Con Người được tôn vinh hay được vào trong vinh quang. Qua việc tôn vinh Chúa Con, Chúa Cha đồng thời cũng tôn vinh chính mình. Tuy nhiên sự vinh quang này lại không giống với thứ vinh quang mà người đời mong đợi: Đức Giêsu cho biết Người sẽ vào vinh quang qua khổ nạn thập giá, cũng một cách thức như hạt lúa bị tiêu hủy chết đi rồi mới phát sinh nhiều bông hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, Giáo Hội của Người sẽ được sinh ra và ngày một triển nở. Người sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại. Lãnh tụ của tối tăm là Xatan sẽ bị ném vào hoả ngục trong ngày Tận Thế.
2) Chú thích:
- (Khi ấy) trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa miền Galilê, và xin rằng:"Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu". Ông Philípphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu (Ga 12,20-22):
+ Mấy người Hy Lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy Lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem của Đức Giêsu, họ đã mạnh dạn đến xin được gặp Đức Giêsu. + Họ đến gặp ông Philípphê: Có thể do quen biết trước nên các người này đã nhờ Philípphê làm trung gian, hy vọng sẽ được Đức Giêsu chấp thuận. + Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu: Xin gặp nghĩa là xin một cái hẹn để họ được gặp gỡ tiếp xúc và nói chuyện riêng với Đức Giêsu. + Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu: Sở dĩ hai ông Philípphê và Anrê đi với nhau đến thưa với Đức Giêsu về việc này, có lẽ vì hai ông đều nói thạo tiếng Hy Lạp, vì cả hai đều sống ở Bếtxaiđa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
- Đức Giêsu trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời " (Ga 12, 23-25):
+ Đã đến giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến "Giờ" như sau Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x Ga 7,30; 8,20), Đã đến giờ Người phải rời bỏ thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giêsu bị bỏ rơi (x Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + Con Người được tôn vinh: là giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Người trải qua thương khó và cái chết để vào vinh quang vốn có nơi Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Sự vinh quang của Đức Giêsu chỉ đạt được sa khi đã trải qua đau khổ và chịu chết trên cây thập tự. Đây là một điều khó hiểu và khó có thể chấp nhận được. Do đó, Đức Giêsu đã phải dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt phong phú. Cũng vậy, Đức Giêsu chính là hạt lúa. Người sẽ trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, nhưng sẽ được Chúa Cha cho sống lại trong vinh quang và từ cạnh sườn của Người, Giáo Hội được hình thành và ngày một phát triển. + Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại đươc cho sự sống đời đời: Ghét hay coi thường mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Hai câu này có nghĩa trái nghịch nhau: Ai chăm lo cho mình được hưởng thụ ở đời này thì sẽ bị mất sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Còn ai không tìm cách hưởng thụ ở đời này, thì sẽ có được sự sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35; Mt 16,25; Lc 9,24) .
- Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ qúy trọng người ấy. Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !" (Ga 12,26-28): + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Môn đệ là người đi theo và phục vụ Đức Giêsu. Ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, thì phải đi theo con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại trong vinh quang. + Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giêsu cảm thấy tâm hồn bất an. Người lo buồn xao xuyến, vì Người có bản tính loài người hay cũng gọi là nhân tính, giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x.Ga 8,46; 1 Ga 3,5) + Lạy Cha, xin cứu con khỏi Giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giêsu cũng sợ hãi đau khổ và sự chết. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi "Giờ khổ nạn" ấy. Nhưng ngay lúc đó, Người đã sẵn sàng chấp nhận xin vâng ý Chúa Cha, là cứu thế bằng đau khổ. Lời cầu nguyện này cũng được lặp lại trong vườn Cây Dầu (x. Lc 22,42-44). + Xin tôn vinh Danh Cha: Đức Giêsu đã hiến thân chịu chết để hoàn thành sứ mệnh cứu thế, hầu làm vinh danh Chúa Cha. + Có tiếng từ trời vọng xướng: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!": Tiếng từ trời vọng xuống là tiếng của Chúa Cha đáp lại lời cầu xin của Đức Giêsu. Tiếng ấy phát ra giống như khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và khi biến hình (x. Mt 17,5). Nội dung lời ấy là: Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Người hay tôn vinh chính mình nhờ những "dấu chỉ" được Đức Giêsu thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Danh Người nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu sắp được thực hiện tại Giêrusalem.
- Dân chúng đứng ở đo nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm !". Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy !" Đức Giêsu đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người" (Ga 12,29-30):
+ Đó là "tiếng sấm !"... "Tiếng một thiên thần !": Nội dung tiếng nói thì chỉ một mình Đức Giêsu nghe được. Còn các người chung quanh nghe thấy âm thanh mà không nghe rõ nội dung, nên người thì cho là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giêsu. Sự kiện này tương tự như trường hợp Saolô được Chúa gọi làm tông đồ trên đường gần thành Đamát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người": Đức Giêsu giải thích cho những người hiện diện hiểu biết ý nghĩa của lời Thiên Chúa phán từ trời cao vọng xuống là loan báo việc Đức Giêsu chịu chết và sống lại sắp được thực hiện nhằm cứu độ tất cả nhân loại, mà những người đang nghe là đại diện. + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin Đức Giêsu sẽ bị liệt vào hàng ngũ của thủ lãnh thế gian là Xatan, là kẻ luôn đối nghịch với Đức Giêsu. Những kẻ này sẽ cùng chung số phận với Xatan là bị loại ra khỏi Nước Trời và còn bị giam phạt trong hỏa ngục muôn đời.
- Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào (Ga 12,32-33):
+ Được nâng cao lên khỏi mặt đất: là Đức Giêsu sẽ bị treo trên thập giá (x.Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x.Ga 3,13; 6,62), sau khi sống lại (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giêsu sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Tuy nhiên trước đó, họ cũng phải sẵn sàng bõ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23) .
II. Học sống Lời Chúa
1) Đã đến giờ Con Người được tôn vinh:
- Câu chuyện: Được tôn vinh vì đã chịu chết thay cho người khác. Web
Vào năm 1941, tại nhà tù Ot-suýt (Auschwits), một trại tập trung của người Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, mới có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên giám thị trại tù đã tập họp tất cả các tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 tù nhân sẽ phải chết đền tội thay cho kẻ đã đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được kêu tên, đã gào to: "Trời ơi! Thế là hết! Từ nay tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa !". Tiếng than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ bỗng một người từ phía dưới đột nhiên tách khỏi hàng tiến lên đến gần viên sĩ quan chỉ huy.
Ông ta xin được chết thay cho người bạn tù vừa kêu khóc. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Côn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công Giáo. Lý do xin chịu chết thay vì cảm thông với người kia còn có vợ con phải chăm sóc, đang khi ông là linh mục công giáo, không có gia đình vì tình nguyện sống độc thân suốt đời ! Sau khi được viên sĩ quan chấp thuận. Cha Kônbê cùng 9 người kia đi hàng một tiến đến hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn ăn cho đến chết ! Cha luôn động viên mọi người giữ vững đức tin và luôn cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết và không hề oán than, không kêu trời trách đất như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người còn sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều đã chết. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc và thân xác của Cha cùng các bạn tù đã được đem đi hỏa táng để làm phân bón !
Người tù thoát chết nhờ Cha Kônbê tên Phăngxít (Francis Gap Wniczek) đã kể lại tình trạng nhà tù lúc đó như sau: "Sau khi Cha Kônbê tình nguyện chịu chết thay tôi, thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam tự nhiên biến đổi hẳn. Trước đây họ có thái độ ích kỷ, khép kín, lấy thịt đè người, ma cũ bắt nạt ma mới, tranh cướp thực phẩm tiếp tế của những tù nhân mới và yếu thế hơn ... Thì bây giờ họ đã cư xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng để chịu chết thay cho một người không quen biết". Giờ đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô thứ hai đã phong thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, Giáo Hội mong cho các tín hữu noi gương Cha, đồng thời cũng là noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng dấn thân hy sinh chính bản thân mình để phục vụ anh em đồng loại.
Suy niệm:
+ Đức Giêsu đã chọn cái chết thập giá để đền tội thay cho chúng ta. Người chấp nhận chịu chết để biểu lộ tình yêu tột đảnh của Người đối với chúng ta như Người đã phán: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Người cũng đồng hoá cuộc khổ nạn mà Người sắp chịu với việc được Chúa Cha tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12,23). Cũng vậy, chính nhờ chấp nhận hy sinh mạng sống, tình nguyện chết thay cho một tù nhân không quen biết mà Cha Kônbê đã được người đời tôn vinh bằng sự yêu mến cảm phục, và được Giáo Hội tôn vinh lên hàng thánh nhân, nêu gương sáng cho thế nhân biết thế nào là tình yêu đích thực. Nhất là trong ngày Tận Thế, Ngài sẽ còn được Vua Thẩm Phán Giêsu tôn vinh cho cả hồn xác vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc muôn đời (x. Mt 25,34-36.46). + Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Cha Kônbê: Chấp nhận hy sinh và khiêm nhường phục vụ những ai đang gặp hoàn cảnh đáng thương cần được giúp đỡ ?
2) "Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24) - Câu chuyện: Đặt trọn niềm tín thác nơi Chúa
Trong một bài báo nhan đề là "Khi chúng ta dám tin vào Thiên Chúa", Bà Ketơrin Mácsôn (Catherine Marshall) đã thuật lại một ơn lạ mà bà đã nhận được nhờ dám đặt trọn niềm tín thác nơi Thiên Chúa như sau: "Cách đây sáu tháng, tự nhiên tôi cảm thấy tức ngực và khó thở, tôi bị sốt vào buổi chiều và còn húng hắng ho. Tôi vội đến bệnh viện để được khám bệnh. Sau khi chụp phim và làm xét nghiệm, bác sĩ cho biết tôi bị bệnh phổi loại truyền nhiễm khá trầm trọng. Sau đó, mặc dù đã sữ dụng đủ loại thuốc đặc trị, và nhờ nhiều người thân cầu nguyện, nhưng bệnh tình không những không thuyên giảm, mà trái lại ngày một nặng hơn. Từ tình trạng có thể đi lại ăn uống bình thường, dần dần sức khoẻ của tôi suy yếu sau vài tháng điều trị, đến nỗi tôi không thể đi lại bình thường được, và ngày đêm phải nằm liệt trên giường. Tôi cảm thấy hết sức tuyệt vọng và chỉ còn biết nằm chờ chết !
Một hôm, một bà bạn thân đến thăm và tặng tôi một cuốn sách nhỏ, trong đó kể về cuộc đời thừa sai phục vụ của một nữ tu dòng truyền giáo. Chị nữ tu được bề trên sai đi phục vụ thổ dân tại một bệnh viện nằm sâu giữa rừng già ở miền Nam Phi Châu. Ngày nọ, chị nữ tu tự nhiên bị một chứng bệnh thật lạ: Toàn thân bị đau nhức và trên da xuất hiện những mảng sần sùi màu đỏ gây ngứa ngáy thật khó chịu Các bác sĩ trong bệnh viện cũng không xác định được là bệnh gì. Chị nữ tu bị cơn đau đớn nhức nhối dày vò suốt trong 8 năm. Chi không thể hiểu tại sao Chúa bắt chị phải chịu đựng cơn bệnh đã kéo dài quá lâu như thế. Hằng ngày, mỗi khi uống thuốc, chị đều không quên cầu xin Chúa cho mau khỏi bệnh để tiếp tục nhiệm vụ. Nhưng xem ra lời chị cầu đã không được Chúa đáp lại !
Đến một ngày kia, vì quá thất vọng, chị không thể cầm lòng được nữa, nên đã than vãn trách móc Chúa như sau: "Lạy Chúa, đã bao năm con phải chịu đựng cơn bệnh dày vò, con đã cầu xin Chúa sớm cho lành bệnh, thế mà đến nay đã kéo dài tới 8 năm rồi ! Bây giờ con chẵng chút hy vọng mình sẽ được khỏi bệnh nữa ! Những không sao ! Nếu Chúa muốn con trở thành một phế nhân thì đó là Thánh Ý Chúa! Con xin cúi đầu xin vâng". Thật là bất ngờ, từ lúc bật miệng nói ra câu đó, chị nữ tu bắt đầu cảm thấy tâm hồn thật bình an. Chị vui vẻ chấp nhận cơn bệnh và không còn bất mãn than van như trước. Chị ăn được ngủ được và uống thuốc chữa trị theo toa bác sĩ. Rồi hai tuần lễ sau, chi đã hoàn toàn được bình phục.
Bà Ketơrin viết tiếp: "Sau khi đọc xong câu chuyện về chị nữ tu, tâm trí tôi luôn suy nghĩ về điều đó. Rồi một buổi sáng kia, tự nhiên tôi cũng thốt ra một lời cầu nguyện tương tự như chị nữ tu trong câu chuyện trên như sau: "Lạy Chúa, trong suốt mấy tháng nay, con đã luôn xin Chúa cho con được sớm khỏi bệnh. Bây giờ con cảm thấy đã quá mệt mỏi để tiếp tục cầu xin nữa rồi ! Con xin phó thác cuộc đời của con cho Chúa. Con không dám xin Chúa chữa bệnh cho con nữa. Nhưng xin để Chúa tự quyết định xem con có đáng được Chúa chữa lành bệnh hay không ? Con sẵn sàng xin vâng ý Chúa". Và cũng từ lúc đó, sức khoẻ của tôi ngày một tốt hơn. Rồi một tháng sau, tôi đã hoàn toàn được bình phục trước sự ngạc nhiên của các bác sĩ chữa bệnh cho tôi và nhiều người khác được chứng kiến".
- Suy nghĩ: Hai câu chuyện về chị nữ tu và bà Ketơrin giúp chúng ta hiểu rõ Lời Chúa Giêsu: "Hạt lúa gieo vào lòng đất, nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác". Nếu ta không chết cho ý riêng mình, chúng ta không thể phát sinh hoa trái được. Nếu chị nữ tu không chết cho ý riêng muốn được khỏi bệnh, và phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng thì có lẽ chị vẫn mãi mãi là một phế nhân ! Nhưng nhờ sẳn sàng chết cho ý riêng mình mình, nên chị đã sớm được bình phục và sinh hoa trái là sự tình nguyện phục vụ thổ dân tại vùng đất Phi Châu cùng khổ. Nếu bà Ketơrin không từ bỏ ý riêng muốn được khỏi bệnh, để dành quyền quyết định chữa bệnh hay không cho Chúa, thì có lẽ bà vẫn đang nằm liệt giường ! Nhưng nhờ biết hy sinh bỏ đi ý riêng, để phó thác cậy trông vào Chúa, nên bà đã được ơn lành bệnh và từ đó bà đã thuật lại sự lạ mà Chúa đã làm nơi mình để củng cố đức tin.
Câu chuyện của hai người này khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện của Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu. Khi hấp hối, Người đã thốt lên cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu Cha muốn , xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Lc 22,42).
- Câu hỏi: Ta phải làm gì để chết cho ý riêng và xin vâng ý Chúa: a) Gặp một hoàn cảnh khó khăn như bị người thân hiểu lầm, mà ta lại bất lực không thể tự mình minh oan được ? b) Khi ta ngày một lún sâu vào những đam mê tội lỗi mà ta cảm thấy xấu hổ và bực tức khi có ai đó dám đề cập tới những điều tối kỵ ấy ? c) Khi ta bị bạn bè hay người thân cố tình làm mất danh dự; hạ uy tín hay gây thiệt hại về vật chất cho ta... khiến ta căm hận và quyết tâm sẽ tìm dịp trả thù ?
- Đáp: Chết cho ý riêng và xin vâng ý Chúa trong những trường hợp cụ thể trên đây là:
a) Ta phải loại bỏ tự ái tự cao không muốn nhờ vả lệ thuộc người khác, để khiêm tốn tìm đến bàn hỏi với các người khôn ngoan, trước khi quyết định phải làm gì. Đồng thời khi ta cần cũng sẵn sàng nhờ người khác giúp đỡ để giải quyết vấn đề một cách êm đẹp. b) Thay vì phản ứng bằng cách chối quanh hay tự bào chữa, hoặc bỏ ngoài tay hay cố chấp trước những lời phê bình ấy , ta nên có thái độ im lặng để suy nghĩ, và nhận ra lỗi lầm của mình, rồi chọn phương pháp hữu hiệu nhất để loại bỏ các đam mê bất chính này. c) Ta phải thật lòng tha thứ bằng việc luôn nghĩ tốt cho họ, cầu Chúa ban nhiều ơn lành hồn xác cho họ, tìm cơ hội để khen ngợi hay có nhận xét tốt về họ, và bào chữa khuyết điểm của họ trước mặt người khác.
III. Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng rằng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa lại không phải là một thất bại, nhưng lại là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết của Chúa trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa của muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng chấp nhận bị đế quốc Roma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng cũng được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả đế quốc Roma tin theo Chúa và gia nhập Hội Thánh. Vậy trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa cho các tín hữu chúng con biết sẵn sàng đón nhận đau khổ thập giá với thái độ tin cậy và hy vọng, noi gương Chúa và Hội Thánh. Xin cho con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để con xứng đáng được Chúa tôn vinh ngay từ đời này, và sau này còn được Chúa tôn vinh đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Trong những ngày Mùa Chay này, chúng con chỉ có thể biến đổi nên con cái Thiên Chúa, khi chùng con biết từ bỏ ý riêng của mình,sẵn sàng loại trừ các thói hư tật xấu và các đam mê tội lỗi ra khỏi tâm hồn chúng con, sẵn sàng can đảm vác thập giá mình mà theo chân Chúa. Thập giá mà chúng con phải vác đó chính là các sự rủi ro trái ý, các tai ương hoạn nạn, các bệnh tật đau khổ hay những phiền hà do người chung quanh gây ra cho chúng con... Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa trong Mùa Phục Sinh, sẽ được biến đổi nên con người mới theo Thánh Ý Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con biết học tập theo gương Mẹ: luôn quên mình để nghĩ đến người khác, luôn sống vị tha bác ái, quên mình phục vụ, nhất là phục vụ Chúa hiện thân trong những người đói khát, già yếu cô đơn, các bệnh nhân hay những người đang bị bỏ rơiẨ để chúng con nên chứng nhân cho tình thương của Chúa trước mặt người đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Ngay từ đầu Mùa Chay, Phụng Vụ của Giáo Hội đã kêu mời mỗi người chúng ta sám hối, để có: MC5-B22
Ngay từ đầu Mùa Chay, Phụng Vụ của Giáo Hội đã kêu mời mỗi người chúng ta sám hối, để có thể xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô trong ngày đại lễ Phục Sinh sắp tới. Trong chiều hướng đó, suốt bốn Chúa Nhật vừa qua, Tin Mừng đã lần lượt giới thiệu cho chúng ta những khía cạnh khác nhau của Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi ( x. Dt 13, 8).
Ngay tuần đầu tiên của Mùa Chay, Lời Chúa đã cho chúng ta thấy, Đức Giê-su chính là một con người thật. Ngài đến để tái lập lại những gì mà Nguyên tổ đã làm đổ vỡ qua việc Ngài chiến thắng cám dỗ. Không chỉ là con người thật, Đức Giê-su còn là Con yêu dấu của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Đây là điều được chính Chúa Cha xác nhận trong cuộc biến hình trên núi của Đức Giê-su mà Tin Mừng Chúa Nhật thứ 2 đã thuật lại. Vừa là Thiên Chúa vừa là con người, nên Đức Giê-su đã trở nên Đấng trung gian giữa con người và Thiên Chúa, hay nói theo cách nói của Tin Mừng Gio-an trong Chúa Nhật thứ 3, Đức Giê-su chính là Đền Thờ nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không những là Đền Thờ, Đức Giê-su còn là hiến lễ của tình yêu, khi Ngài chấp nhận “giương cao” trên thập giá, để đem lại sự sống đời đời cho những ai tin Ngài như lời Ngài tuyên bố với Ni-cô-đê-mô trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 vừa qua.
Và hôm nay, trong ngày Chúa Nhật có thể nói là cuối cùng của Mùa Chay, bởi vì bước sang tuần tới, chúng ta đã vào Tuần Thánh tưởng niệm trực tiếp đến cuộc khổ nạn của Đức Giê-su, phụng vụ cho thấy, khi chấp nhận cái chết thập giá, Đức Giê-su đã trở nên hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để trổ sinh nhiều bông trái như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự huỷ nơi bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài như chúng ta đã nghe trong mấy tuần lễ vừa qua. Sự tự huỷ này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giê-su trước Thánh Ý của Chúa Cha.
Tâm tình vâng phục đó của Đức Giê-su cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha”.
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giê-su cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngại ngần. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại và là một cớ vấp phạm cho người Do-thái” ( 1 Cr 1, 23 ). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giê-su đã phải thốt lên: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì ? Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này”.
Lắng nghe lời tâm sự tha thiết từ đáy lòng của Đức Giê-su, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giê-su một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gởi đến từng ngày trong cuộc sống, hay nói một cách khác, Đức Giê-su cũng đã phải “học” để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do-thái viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người ( Đức Giê-su ) đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu”. Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó của Đức Giê-su: “Khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người”.
Như thế, với việc đi con đường tự huỷ, Đức Giê-su đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý: “Cho là nhận”, “Chết là con đường đưa tới sự sống”. Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta cũng không thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế, chúng ta sẽ rất nghèo nàn, cô đơn.
Tới đây, có lẽ, chúng ta có thể hiểu được phần nào câu nói của Đức Giê-su: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”.
Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự huỷ này của Đức Giê-su, Thánh Phan-xi-cô, trong lời kinh Hoà Bình, đã ca lên: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Như thế, với việc sống mầu nhiệm tự huỷ là Đức Giê-su đã thực hiện một cuộc Vượt Qua: vượt qua cái hữu hình để đạt đến cái vô hình; vượt qua sự chết để đến sự sống; vượt qua cái giới hạn để đạt đến cái vĩnh cửu; vượt qua những nghi thức, lề luật, lễ bái bên ngoài để đưa con người đạt đến một mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa từ trong con tim yêu thương của mình. Thực hiện cuộc vượt qua này, Đức Giê-su đã làm ứng nghiệm trọn vẹn điều mà ngôn sứ Giêrêmia đã báo trước cách đó hơn 600 năm: “Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”.
Đức Giê-su đã sống mầu nhiệm tự huỷ để đem lại ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta đi con đường tự huỷ như thế để có sự sống đời đời. Thế nhưng, trong thực tế, mỗi người chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình mà quên đi người khác, như lời Đức Thánh Cha nói trong Sứ Điệp Mùa Chay năm nay: “Thời đại chúng ta đặc biệt bị rơi vào cám dỗ sống ích kỷ, nó luôn ẩn núp trong tâm hồn con người... người ta bị đồn dập tấn công bởi những thông điệp ít nhiều công khai tán dương nền văn hoá phù du và chủ nghĩa khoái lạc”.
Giữa một thế giới như thế, Đức Thánh Cha nhắc bảo chúng ta: “Người tín hữu được mời gọi bước theo dấu chân của Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng, khi hoàn toàn vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hủy ( x. Pl 2, 6 tt ), và khiêm tốn ban tặng chính mình cho chúng ta trong một tình yêu vị tha và trọn vẹn, cho đến chết trên thập giá. Núi Can-vê loan báo cách hùng hồn sứ điệp về tình yêu của Ba Ngôi đối với con người thuộc mọi thời đại và dân nước”.
Và để sống mầu nhiệm tự huỷ cách cụ thể, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta thực hiện lời Chúa dạy trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Cho thì có phúc hơn là nhận” ( Cv 20, 35 ).
Trong đời sống gia đình, nếu từng thành viên luôn biết “cho đi”, nghĩa là, biết quên mình để nghĩ đến người khác và sẵn sàng chia sẻ những khó khăn của nhau: người chồng luôn nghĩ đến vợ, người vợ luôn nghĩ đến chồng; cha mẹ hết lòng lo cho con cái; con cái luôn nghĩ đến những vất vả, cực nhọc của cha mẹ để bớt đi những đòi hỏi không cần thiết, thì dù cuộc sống vật chất có vất vả, khó khăn, nhưng tôi chắc chắn rằng gia đình chúng ta sẽ có niềm vui, hạnh phúc và bình an. Và cuối cùng, cả gia đình chúng ta sẽ được ở cùng Đức Giê-su như lời Ngài đã hứa: “Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó”. Amen.
Chủ đề: Nếu muốn sống và phát sinh hoa trái, chúng ta cũng phải bắt ý riêng mình chết đi tựa như hạt lúa mì bé nhỏ.
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề “khi chúng ta dám tin vào: MC5-B23
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề “khi chúng ta dám tin vào Thiên Chúa”. Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng. Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: “Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!”. Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ ấy khiến bà bối rối. Bà nói: “Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!”. Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: “Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật đi!”. Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Ý nghĩa của câu chuyện giúp hiểu bài tin mừng hôm nay Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết ý riêng của mình đi, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa được. Nếu chị nữ tu không chết ý riêng của mình đi để nói lên câu: “Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!” thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái.
Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: “Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn”, thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh hoạn. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà cũng được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Câu chuyện trên gợi nhớ chuyện Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani:
Câu chuyện của chị nữ tu và của bà Catherine Marshall khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani. Trong cơn hấp hối tại đó, Ngài đã thốt lên cùng Thiên Chúa: “lạy Cha&.không phải ý con& nhưng xin theo ý Cha” (Lc 22: 42). Giả như Chúa Giêsu không bắt ý riêng Ngài phải chết đi trong mảnh vườn ấy, thì anh chị em cũng như tôi sẽ không được cứu khỏi tội lỗi mình.
Tất cả những câu chuyện về chị nữ tu, về Catherine Marshall và về Đức Giêsu đều dạy cho chúng ta cùng một bài học. Chúa dạy ta biết sẵn lòng làm chết ý riêng mình đi nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Những câu chuyện có ý nghĩa gì đối với ta?
Nói một cách cụ thể, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống thường nhật của anh chị em và tôi?
Chúng ta hãy xem xét vài sự kiện có khả năng xảy ra:
Giả như cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế chết cho ý riêng” có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy, thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cư xử với y. Không ai nói rằng: chết cho ý riêng mình là điều dễ dàng.
Chết cho ý riêng mình là điều không dễ
Chị nữ tu đã không cảm thấy dễ dàng khi nói với Chúa rằng chị chấp nhận làm một kẻ tàn phế nếu ý Ngài muốn như thế. Catherine Marshall đã không cảm thấy dễ dàng khi thưa với Chúa bà sẽ chấp nhận bất cứ số mệnh nào ngài quyết định cho bà. Đức Giêsu đã không cảm thấy dễ dàng trong việc ưng thuận thi hành bất cứ điều gì Cha Ngài muốn. Nhưng cả ba người - chị nữ tu, Marshall và Đức Giêsu đã tin Thiên Chúa và phó mình trong tay Ngài. Họ đã chết “cho chính mìnhỴ và từ đó đem lại kết quả là sinh nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Kết luận:
Tin Mừng trong các bài đọc hôm nay là .chúng ta có thể làm được như thế. Chúng ta có thể noi gương vị nữ tu, bà Catherine Marshall và Đức Giêsu. Và chúng ta cũng có thể đem lại nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Có thể chúng ta phải chiến đấu giống như vị nữ tu và Catherine đã làm, hoặc có thể chúng ta phải hấp hối như Đức Giêsu, nhưng nếu chúng ta làm như họ, chúng ta cũng sẽ mang hoa trái về cho Thiên Chúa và được sống vĩnh cửu.
Điều quan trọng là biết đặc cuộc sống chúng ta vào tay Thiên Chúa trong niềm tín thác trọn vẹn
Điều quan trọng là cứ để cho Thiên Chúa thực hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với cuộc đời của chúng ta. Và đó chính là Tin Mừng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước hạt lúa mì và biết “chết cho chính mình”, chúng ta cũng sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước gương chị nữ tu, bà Catherine Marshall, và gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ mang lại hoa trái cho Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời.
Phút cầu nguyện:
Chúng ta hãy cầu nguyện để kết thúc. Xin anh chị em cùng im lặng cầu nguyện với tôi.
Lạy Thiên Chúa là cha chúng con. Trong khi chúng con chuẩn bị cùng bẻ bánh với nhau, xin hãy giúp chúng con nhận ra rằng.
Nếu những hạt lúa mì không bị xay thành bột và nếu những trái nho riêng lẻ không bị ép thành rượu, chúng con sẽ không thể chia sẻ với nhau tiệc thánh này.
Xin giúp chúng con bắt chước hạt lúa và chùm nho, biết dâng chính đời sống chúng con cho Ngài để tuỳ Ngài định đoạt theo thánh ý Ngài.
Một đêm giông bão, gió thổi đủ mọi hướng, mưa rơi như thác đổ. Một người đàn ông đứng tuổi: MC5-B24
Một đêm giông bão, gió thổi đủ mọi hướng, mưa rơi như thác đổ. Một người đàn ông đứng tuổi, cùng bà vợ ghé tới một bàn giấy một khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Như biện hộ cho mình, ông ta hỏi: “Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng? mọi khách sạn lớn đều hết phòng rồi.
- Thưa ông tất cả các phòng đã có người thuê, người thư ký trả lời. Nhưng tôi không nỡ để ông bà đi mưa vào lúc một giờ sáng.
- Anh nói chi?
- Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi.
Nhưng anh ngủ ở đâu? Ông khách hỏi.
- Ôi, tôi sẽ tìm được - Người thư ký trả lời, đừng lo lắng về tôi.
Sáng hôm sau khi ông khách trả tiền phòng, ông nói với người thanh niên đã dành phòng của ông cho khách: “Anh là một người quản lý có khả năng làm chủ một khách sạn lớn Hoa Kỳ. Có thể ngày nào đó tôi sẽ xây một cái cho anh”.
Hai năm sau, người thư ký trẻ nhận được một bức thơ có kèm một vé khứ hồi đi Newyork và một danh thiếp của người khách trong đêm giông bão khi xưa, mời người thư ký đến gặp ông tại thành phố lớn Newyork. Người khách năm xưa dẫn người thư ký đến góc phố giữa đại lộ số 5 và đường phố số 24. chỉ một ngôi nhà lầu cao, mới, ông nói; “Đây là khách sạn tôi xây để anh quản lý.” Không nói nên lời, người thanh niên George C. Boldt, ấp úng câu cám ơn. Mạnh thường quân của anh là ông William Wldorf Astoria. Khách sạn này là khách sạn chu đáo nhất thời đó, mang tên Waldorf Astoria.
Đây là một bằng chứng cảm động về điều mà Đức Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “&Hạt giống chết đi, nó sẽ sinh nhiều bông hoa trái.” George Boldt chôn vùi sự ham muốn tiện nghi, ấm cúng bằng cách nhường căn phòng của anh. Sự hy sinh đó đã nẩy mầm hạnh phúc nơi vợ chồng và đem lại phần thưởng cho anh. George Boldt được quản lý một khách sạn nổi tiếng nhất thế giới.
Một hạt giống phải chết trước khi có thể sinh hoa trái, điều đó cũng đúng trên bình diện thiêng liêng. Chúng ta những người tin theo Chúa Giêsu biết rằng mọi cố gắng hy sinh, thống hối, từ bỏ tiện nghi sẽ sinh hoa trái, nhất là khi những cố gắng ấy được thi hành vì tình yêu Đức Kitô vì tình bác ái với đồng loại như trường hợp trong câu chuyện hôm nay.
Tác giả Anthony Padovano nói: “Như Thày đã yêu Ợ Thiên Phúc:
“Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể của Chúa Giêsu, nhưng nhất là vì tình yêu vô biên của Ngài, sẵn sàng chấp nhận cái chết”.
Đức Giêsu đã chuẩn bị những kẻ tin theo Người bằng lễ hy sinh tối cao. Người chấp nhận để thân mình bị tan nát trong khổ nạn và chết trên thập giá, bị chôn vùi trong mồ để rồi đem lại vinh quang và hoa trái phục sinh. Cái chết, sự mai táng và sự phục sinh ấy chúng ta lập lại trên bàn thờ đây, trong giờ này và kéo dài trong thánh lễ cuộc đời của chúng ta.
Mùa chay còn hai tuần nữa, chưa quá muộn để chúng ta tự “chôn vùi” mình, từ bỏ mình vì Đức Kitô vì anh chị em trong Đức Kitô.
Bạn hãy khám phá lời của Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay rõ ràng, xác thực cho bạn: “Hạt giống của hy sinh luôn đem lại kết quả quí giá. Cùng với Chúa trong hy sinh của Người, bạn sẽ ở cùng với Người khi Người đem lại niềm vui và chiến thắng trong Mùa Phục sinh.
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức Quốc Xã. Đó là một: MC5-B25
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức Quốc Xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập hợp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám 10 người bị tử thần điểm danh này bỗng oà khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Cônbê (Maximiliano Koble) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương. Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ 10 người. Cha Koble và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hoả táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wnizek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của cha Kobel, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái. Chia sẻ từng phần bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh Mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã phong Thánh cho cha Kobel vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo hội mong ước các tín hữu noi gương cha Kobel, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đồng hoá cái chết của Người với vinh quang. Ít ngày nữa Chúa sẽ đi vào khổ nạn, nhưng suốt cuộc đời dương thế, Ngài đã nghĩ tưởng và chờ mong biến cố đó. Chúa đã nói tới cái chết như một lời reo mừng. Đã tới giờ rồi, đã tới lúc Con Người được tôn vinh.. (Ga. 12, 23-31; 13,31&)
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa lại can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa, mà còn dành cho mọi người chúng ta, những kẻ theo Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên dường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẻ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
Lễ vượt qua năm ấy, trong đoàn khách hành hương lên Giêrusalem, có mấy người Hy Lạp. Đó: MC5-B26
Lễ vượt qua năm ấy, trong đoàn khách hành hương lên Giêrusalem, có mấy người Hy Lạp. Đó là những ngoại kiều Do Thái theo văn hóa Hy Lạp. Họ mong được gặp Chúa để nghe lời Ngài.
Đức Giêsu đã nói chuyện với họ về hạt lúa, và nhất là giờ của Ngài. Đó là giờ Ngài đã bị trao nộp, chịu khổ hình và chết tất tưởi trên thập gía, tận hiến tất cả mạng sống mình làm gía chuộc muôn người. Nhưng đó cũng là giờ Ngài được nâng lên ( cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ) và " kéo mọi người lên với Ngài" ). Đó là giờ Ngài được tôn vinh. Vinh quang của Ngài gắn liền với thập gía. Nghĩ đến giờ ấy, Đức Giêsu xao xuyến. Ngài bắt đầu cầu nguyện, như Ngài sẽ cầu nguyện sau này trong vườn Cây Dầu khi giờ ấy đến gần hơn. Và Chúa Cha đã nghe tiếng Ngài cầu nguyện. Mỗi bước đường thập gía là mỗi bước ngời sáng lên vinh quang phục sinh, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Đức Giêsu.
Từ khi bắt đầu rao giảng công khai ở Galilê, Đức Giêsu đã để ý quan sát hạt lúa lấp lánh bay từ tay người gieo hạt. Ngài đã thấy những hạt lúa chịu nhiều số phận: hạt chết ngộp trong bụi gai, hạt khô héo trên đá sỏi, hạt nẩy mầm tươi xanh trên đất mầu mỡ. Chúa cũng nhìn thấy trong hạt giống nhỏ bé ( bấy giờ là hạt cải) biểu tượng về " vương quốc của Thiên Chúa". Vương quốc ấy như hạt mầm lặng lẽ nứt mộng trong đêm tối, để rồi mai ngày sẽ trổ thành cây cao bóng cả cho chim trời hàng đàn tới nương bóng. Nhưng hôm nay, Chúa ví mình như hạt cải gieo vào những luống cầy đẫm máu của lịch sử, sự sống mất đi và hạt bị thối rữa. Cũng như một hạt giống, sự sống của Ngài bị vùi trong khổ nạn và sự chết. "Nhưng nếu hạt lúa rơi vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác". Hạt lúa Giêsu đã phục sinh, hóa thân thành muôn vàn hạt lúa ở khắp bốn phương trời, qua ngàn muôn thế hệ, đó là các tín hữu Kitô hằng ngày kêu cầu danh Đức Giêsu và sẽ hằng sống mãi cùng Ngài .
Lạy Chúa, xin vì mầu nhiệm sự chết và sự phục sinh của Chúa, xin cho tín hữu chúng con được chết và sống lại với Chúa, để được sống cùng Chúa đời đời chẳng cùng.
Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ: MC5-B27
“Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Gioan 12:25) Lời mời gọi khẩn thiết này của Chúa Giêsu dành cho mọi người, mãi mãi là một thách đố lớn lao nhất cho từng tâm hồn và cho cả loài người, vì nó đụng ngay đến chuyện sinh tử. Ai yêu quí mạng sống mình, Chúa Giêsu nói đến những kẻ chỉ biết lo lắng chăm chút cho riêng bản thân hay riêng gia đình ruột thịt của họ thôi, mà chẳng buồn để ý gì đến những nhu cầu bức thiết của bao nhiêu người cùng khốn chung quanh. Họ ngoảnh mặt làm ngơ coi như rất xa lạ, để có thể vui vẻ riêng một mình sát bên cạnh những kẻ nghèo đói; họ không hề nghĩ đến chuyện cảm thông với những kẻ kém may mắn hơn họ. Họ quyết giữ lấy và tự ý lo liệu cho mạng sống mình, nên Chúa không thể giúp gì cho họ được! Cứ theo lẽ khôn ngoan ở đời, cộng với quyền độc lập tự do quí báu nhất của con người, thì coi thường mạng sống mình là điên rồ, là ngu đần; vì nào có ai bảo vệ mạng sống của ta chu đáo hơn chính bản thân ta? Coi thường mạng sống mình chẳng khác nào giao trứng cho ác! Còn chút gì hy vọng được an toàn tính mạng?
Tuy trên đời vẫn có nhiều hạng người gan dạ hoặc liều lĩnh dám coi thường mạng sống mình: những chiến sĩ của các lý tưởng cao cả như độc lập tự do, bình đẳng, của hòa bình và của chân lý, rồi ngay cả những kẻ tuyệt vọng quyên sinh. Xong họ rất khác xa các Kitô hữu vì họ đã không coi thường mạng sống mình với tràn trề hy vọng sẽ giữ được nó đời đời giống như những người đặt trọn niềm phó thác vào Con Một Thiên Chúa. Những con người tin tưởng nơi đức Kitô chỉ lấy cái chết như một cơ hội hiếm quí để tuyên xưng niềm tin son sắt của mình, họ không bao giờ mang một tâm trạng thất vọng não nề, mà vững tin vào một cuộc sống bất diệt. Và biến cố phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu là bảo chứng hùng hồn cho họ. Xin Chúa giúp con biết đặt trọn tin yêu vào tình thương của Ngài. Chỉ có Ngài là Đấng chí nhân chí lành sẽ thừa sức bảo đảm cho con một cuộc sống hạnh phúc đời đời trong nguồn sống sung mãn nơi Ngài.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”.
Anh chị em thân mến,
Hạt lúa mì bị chôn vùi trong đất, bị thối nát đã sinh nhiều hạt khác, đó là sự khiêm tốn nảy sinh nhiều: MC5-B28
Hạt lúa mì bị chôn vùi trong đất, bị thối nát đã sinh nhiều hạt khác, đó là sự khiêm tốn nảy sinh nhiều tình yêu ; người tử tội bị đóng đinh trên thập giá chảy đến giọt máu cuối cùng đã trở nên dấu chỉ của ơn tha tội và là hồng ân cứu chuộc của nhân loại. Hạt lúa mì ấy, người bị đóng đinh ấy chính là Đức Giêsu Kitô Đấng cứu chuộc chúng ta.
Người tử tội ấy đã bị giương cao trên thập giá đã không kêu la oán trách những người đóng đinh mình vào thập giá, nhưng trái lại chính Ngài đã cầu xin Thiên Chúa thứ tha tội ấy cho họ, Ngài đã kéo người thù hận đến gần bên mình, bên lòng từ bi và thương xót của mình, để họ nhìn thấy tận tường quả tim bị đâm thâu thắm đầy máu của tình yêu, tình yêu tha thứ... Ngài đã thực hiện lời Ngài đã nói qua: “Không có tình thương nào cao cả, hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. (Ga 15, 13).
Hạt lúa mì óng ánh màu vàng của sức sống ấy đã bị chôn vùi trong lòng đất, phải bị mục nát, không kêu ca, không không oán hờn và không ghen ghét, không khiếu nại phân bì, nhưng đã âm thầm mọc lên và sinh nhiều hạt khác. Hạt lúa mì vĩ đại ấy chính là Đức Giêsu Kitô Đấng cứu chuộc chúng ta, Ngài đã bị chôn vùi trong lòng đất ba ngày và đã sống lại, trở thành sức sống cho những kẻ tin vào Ngài, và là án phạt cho những kẻ không tin và không chấp nhận Ngài. Ngài đã làm cho những kẻ tin vào Ngài trở thành những hạt lúa chắc mẩm, trở nên bánh thơm ngon phục vụ anh em chị em mình trong cuộc sống hôm nay.
Con người ta khi được “giương cao lên” thì đắc ý cho mình là đứng cao trên mọi người, cho nên từ hành vi cử chỉ cho đến lời nói đều toả ra nét kiêu căng và thỏa mãn. Được “giương cao lên” thì càng phải thấy rõ tình liên đới giữa với người, giữa mình và tha nhân có một liên quan đặc biệt trong tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải được “giương cao lên” để “đì sói trán” người mà mình không ưa, không thích ; được “giương cao lên” là một hồng ân của Thiên Chúa ban cho chúng ta, chứ không phải chúng ta tự mình “giương cao lên” trên mọi anh em chị em.
“Hạt lúa mì bị mục nát” và “bị đóng đinh trên thập giá”, cả hai sự việc đều nói lên một tính cách: khiêm tốn và yêu thương, bởi vì khiêm tốn và yêu thương chính là bày tỏ một sự hi sinh vô vị lợi, một sự hi sinh mà chỉ có Đấng là tình yêu mới cảm nghiệm được và chia sẻ cho nhân loại. Sự hi sinh ấy, yêu thương ấy và khiêm tốn ấy ngày hôm nay mỗi người trong chúng ta có thể thực hành được dưới ánh sáng của Lời Chúa: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em”. (Ga 15, 20) Như thế thì đã quá rõ ràng: hạt lúa mì phải thối đi, người môn đệ Chúa phải bị bách hại, bị đủ điều tệ hại, người môn đệ Chúa phải đươc giương cao lên và trở nên dấu chỉ của tình yêu cho mọi người.
Anh chị em thân mến,
Chỉ còn một tuần nữa thôi là chúng bước vào Tuần Thánh, tuần lễ rất đặc biệt của năm phụng vụ, trong tuần này, chúng ta hãy dành nhiều thời gian cho việc suy tư, cầu nguyện, hi sinh, rồi chúng ta sẽ thấy hạt lúa mì bị mục nát và người bị đóng đinh trên thập giá chính là nguồn ơn cứu độ của chúng ta, ngoài Ngài ra, sẽ không còn ai khác.
Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên hạt lúa mì bị chôn vùi trong đất bị mục nát, nghĩa là chúng ta khiêm tốn chấp nhận những thiệt thòi khi tranh chấp, chấp nhận bị sỉ nhục, mĩm cười khi bị chỉ trích, lạc quan vui vẻ trong hoàn cảnh bi quan với tất cả yêu thương và tha thứ, để không những mình được tái sinh, mà ngay cả những người khác cũng được tái sinh trong tình yêu của Chúa, qua sự mục nát (hi sinh) của chúng ta.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài giảng Chủ Nhật 5 Mùa Chay tại nhà thờ Chúa Thánh Thần - Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ: MC5-B29 FB
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: "Tôi muốn mọc lên ! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến...Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa". Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: "Mình sợ lắm ! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn... Làm sao mình có thể cho búp non xoè lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non ? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên ! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn". Và nó tiếp tục đợi chờ... Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều nay đúng đối với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ giữ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối vớiđời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn. Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người, những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những "cái mất" hiện tại, ta sẽ có những "cái được" trong tương lai. Nếu ta dám chấp nhận những "cái mất" chóng qua,tasẽ có những"cái được vĩnh cửu. Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa.
Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giê-su trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha đã khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phao-lô: "Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi". Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
"Lạy Chúa Giê-su, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen" (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả ?
2 Mùa Chay này, bạn có sẵn sàng từ bỏ mình để lớn mạnh trong đời sống thiêng liêng không ?
Là con người thì ai cũng sợ đau khổ. Dù là Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa, một khi đã: MC5-B30
Là con người thì ai cũng sợ đau khổ. Dù là Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa, một khi đã nhập thể làm người, cũng sợ đau khổ: “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc...khẩn nguyện nài xin...cho khỏi chết nhục nhã trên thập giá.” Dt 5, 7. Nhưng một khi ý thức rằng Thiên Chúa muốn Người phải chịu đau khổ và phải chết nhục nhã trên thập giá thì mới có thể đền chuộc được tội lỗi và mới có thể cứu thoát toàn thể nhân loại khỏi án phạt đời đời, thì Người đã cúi đầu xin vâng tự nguyện nộp mình chịu đau khổ và chịu chết nhục nhã trên thập giá để “trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” Dt 5, 9.
Đau khổ là mầu nhiệm hạnh phúc. Chết chóc là mầu nhiệm sự sống. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”Ga 12, 24. Quả thực, nếu Đức Giêsu Kitô không tự nộp mình chịu chết trên thập giá, thì không thể nào được phục sinh và được rước về Trời; đồng thời Người cũng không thể nào lôi kéo được ai ra khỏi mồ chôn của tội lỗi mà đưa về Trời. Nhưng, một khi Người tự nguyện được giương cao lên khỏi mặt đất, thì Người kéo lên không những một ít người, nhưng là mọi người lên với Người trên Thiên Đàng. Ga 12, 32.
Đức Giêsu Cứu Thế đã chấp nhận đau khổ để cứu lấy mình và người khác. Người để gương cho chúng ta, chúng ta hãy vui lòng chấp nhận mọi khổ cực hằng ngày của cuộc đời Kitô hữu, để cùng với Chúa, chúng ta có thể cứu được mình và người khác. Vì “không có máu đổ ra, thì không có ơn tha thứ.” Dt 9, 22. Và khi chúng ta vui lòng chấp nhận những khổ cực hằng ngày vì bác ái yêu thương như Đức Giêsu Kitô vui lòng được giương cao trên thập giá, là chính lúc cùng với Đức Giêsu Kitô chịu đóng đanh, chúng ta chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa (Ga12, 28). “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.”
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng: MC5-B31
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu:
Chúa Cha giới thiệu Chúa Ki-tô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”. ( Mt 4, 17 ).
Chúa Ki-tô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. ( Ga 14, 9 )
Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Ki-tô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian... Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi... Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần”. ( x. Ga 1, 29 – 34 ).
Trong khi toàn miền Giê-ru-sa-lem và Giu-đê đang coi Gio-an như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Ki-tô, Gio-an đã từ giã sự nổi danh của mình lặng lẽ rút lui. Chúa Ki-tô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Ki-tô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay ( Ga 12, 20 – 33 ), Thánh Gio-an Tông Đồ đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giê-su. Khi Người long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hy-lạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do-thái Giáo “Họ lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua”. Việc họ tìm đến với Chúa Giê-su mang tính biểu tượng: dấu chỉ báo trước sự lên đường đến với Đức Ki-tô của muôn dân; dấu chỉ loan báo giờ Ơn Cứu Độ đã đến.
Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giê-su không phải chỉ để trông thấy mà thôi, nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường Đức Tin.
Họ đến gần Phi-líp-phê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giê-su. Phi-líp-phê đi nói với An-rê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian , của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Hôm nay, trong Giáo Xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng vào Giáo Hội . Đây là nhừng người lương dân thiện chí muốn trở nên người Ki-tô hữu. Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Ki-tô và đón nhận tình yêu của Người. Sau sáu tháng học tập về Giáo Lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em Dự Tòng, trở thành một Ki-tô hữu không chỉ là gia nhập một cộng đoàn Giáo Xứ, chấp nhận Giáo Lý của Chúa và Giáo Hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô tận của Người trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi người Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Người hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Người. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Người mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang đối diện với Người, gặp gỡ Người.
Một cuộc gặp gỡ, một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng. Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần. Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Người với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Người anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay Giáo Xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống Đức Tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các Hội Đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống Đức Tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin vào Người là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta. Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Ki-tô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay Giáo Xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ Ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo Hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban. Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gio-an Tẩy Giả về Chúa Ki-tô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” ( Ga 3, 16 ) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
Trước khi bước vào Tuần Thánh, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay Giáo Hội lập lại nguyện: MC5-B32
Trước khi bước vào Tuần Thánh, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay Giáo Hội lập lại nguyện ước của những người Hy-lạp ngày xưa: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su” để nhắc nhở chúng ta đâu là đích đến của chặng đường Mùa Chay mà chúng ta đang trải qua.
Những người Hy-lạp tìm gặp Đức Giê-su chắc không phải chỉ để chiêm ngưỡng Người mà thôi, vì như thế họ đâu cần đến Phi-líp-phê làm người môi giới. Rõ ràng là họ còn muốn đi xa hơn việc nhìn ngắm, họ muốn được gặp gỡ và trò chuyện với Chúa. Có thể nói, họ đang ở trên một hành trình Đức Tin. Diễn từ của Đức Giê-su ngay sau đó về “cái mất” và “cái được” như muốn dẫn họ đi xa hơn trong cuộc hành trình: “Hạt lúa gieo vào lòng đất... nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 24 – 25 ). Chân lý xem ra nghịch lý ấy đã được minh chứng bằng chính cuộc đời Đức Giê-su, Hạt Giống đem lại Mùa Cứu Độ.
Trong những câu kế tiếp, thánh Gio-an như muốn đặt các yếu tố của cả hai sự kiện Chúa hấp hối và Chúa Hiển Dung của Phúc Âm Nhất Lãm trong cùng một trình thuật. Những lời của Chúa Giê-su “Bây giờ, linh hồn Thầy xao xuyến... Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” ( Ga 12, 27 ) như đang làm vang lên những lời Người nói với môn đệ và cầu xin cùng Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu. Tiếng vọng từ trời “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” ( Ga 12, 28 ) không còn là lời giới thiệu của Chúa Cha trên đỉnh Ta-bo mà đã trở thành lời chuẩn nhận cho sự dâng hiến tuyệt vời của Người Con, lời tôn vinh “Hạt Lúa” đã chấp nhận chết đi. Ở giữa những yếu tố đó, Thánh Gio-an còn khéo léo xen vào một lời nguyện với tâm tình phó thác: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Tác giả A. Marchadour nhận xét: những lời ấy vang lên như “một bản tóm lược Kinh Lạy Cha” vậy. Lời kinh được dâng lên với một thái độ vâng phục hoàn toàn, thái độ đã làm nên ý nghĩa cho cái chết của Đức Giê-su, như lời thư gửi tín hữu Do-thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” ( Dt 5, 8 – 9 ).
Rõ ràng tiến trình từ khi “hạt giống” được gieo xuống cho đến khi đem lại mùa màng, hay từ khi là “hạt bụi” cho đến lúc trở thành “cát bụi tuyệt vời” phải trải qua rất nhiều hy sinh, từ bỏ và cả chết đi nữa. Chính Đức Giê-su khi ở trong hoàn cảnh ấy đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy xao xuyến !” Và Người cũng chỉ cho chúng ta rằng tỉnh thức và kiên trì cầu nguyện lúc này thật cần thiết. Việc kết hợp cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện sẽ đem lại cho người ta một sức mạnh phi thường lướt thắng những nỗi sợ bị thua thiệt mất mát. Kinh Lạy Cha mà Đức Giê-su dạy chính là bảo bối cho người ki-tô hữu, là nhịp cầu giữa “mất” và “được”, giữa “xao xuyến” và “tôn vinh”.
Qua bài diễn từ, Chúa Giê-su như muốn nói với những người Hy-lạp và với cả chúng ta hôm nay rằng muốn gặp Người, ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng được tôn vinh khi đã chấp nhận chết đi. Điều này có nghĩa là mọi cái nhìn về Đức Giê-su khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ra với Lời Chúa và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng vị kỷ muốn giữ lại tất cả cho bản thân, mà người ta mới có thể tiến đến gần Thiên Chúa, sau khi đã nỗ lực để Danh Cha được tôn vinh bằng một cuộc sống hoàn toàn vâng phục theo Thánh Ý Cha.
Dù muốn hay không thì cuộc sống một đời người luôn gặp những điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh. Có người đã nhìn khá bi quan về cuộc sống ấy như là “chốn bể dâu” hay “nơi khổ ải”. Còn Thánh Phao-lô lại tuyên bố: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” ( 2 Cr 6, 2 ). Phải chăng ông đã học được cái nhìn lạc quan từ lời kinh của Đức Giê-su: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Chớ gì mỗi Ki-tô hữu chúng ta, những môn đệ đang lần bước đi theo Thầy Giê-su trên hành trình Đức Tin cũng có những lời “Kinh Lạy Cha biến cách” cho riêng mình.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do-thái lũ lượt tiến về Giê-ru-sa lem: MC5-B33
Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do-thái lũ lượt tiến về Giê-ru-sa lem để mừng đại lễ Vượt Qua theo luật dạy. Khi “nghe tin Đức Giê-su cũng tới Giê-ru-sa-lem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô ! Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Chúc tụng vua Ít-ra-en !” ( Ga 12, 12 – 13 ). Họ đâu ngờ rằng, trong đại lễ này, chính Đức Ki-tô, là Chiên Vượt Qua Mới, sẽ biến thành lễ Vượt Qua Mới để cứu chuộc nhân loại.
Ngay đầu trình thuật ( câu 20 ), tác giả Gio-an kể rằng, không chỉ có người Do-thái lên Giê-su-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa mà còn có mấy người Hy-lạp là những người ngoại giáo cũng đến đền thờ để tỏ lòng tôn kính thờ phượng Người. Câu 21 – 22, tác giả Gio-an kể tiếp, những người Hy-lạp này đã qua trung gian các môn đệ Phi-lip-phê và An-rê mà xin được gặp Đức Giê-su. Từ "gặp" trong Kinh Thánh có nghĩa là "tin". Những người ngoại giáo này đã tin vào Người, Sự kiện này cho thấy chương trình Cứu Độ là phổ quát, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc chứ không chỉ hạn hẹp trong dân Do-thái. Đức Giê-su trả lời khi hai môn đệ hỏi Người:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" ( Ga 12, 23 ) hàm ý Ơn Đức Độ phổ quát ấy giờ đây bắt đầu được thực hiện. Từ câu 23, tác giả Gio-an không còn nói gì đến những người ngoại giáo này nữa, cũng chẳng cho biết lời yêu cầu của họ có được toại nguyện hay không, nhưng để tập trung bài trần thuật của mình vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng được tôn vinh nhờ mầu nhiệm khổ nạn, thập giá mà Người sẽ phải Vượt Qua để vào vinh quang Phục Sinh.
II. giờ Con Người được tôn vinh:
1. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” ( Ga 12, 23 ).
Từ "giờ" được sử dụng hai mươi sáu lần trong Tin Mừng của Gio-an, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, "giờ" này còn chưa đến. Chúng ta lấy một ví dụ: Thân mẫu của Đức Giê-su, trong khi muốn cậy nhờ đến Con mình ở tiệc cưới Ca-na, được nghe trả lời rằng: "Giờ của con chưa đến" ( Ga 2, 4 )... Mãi đến đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su mới mặc khải "giờ" của Người đã đến.
2. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” ( Ga 12, 23 ).
Giờ, vừa là sự chết, vừa là sự tôn vinh. Giờ, vừa là Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là Chúa Nhật Phục Sinh. Để diễn tả sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Đức Giê-su đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Đây là một bài học thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mầm sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt ( trích bài suy niệm của Lm. Minh Văn CMC ). Cũng như hạt giống, Đức Giê-su cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái là ơn cứu độ cho mọi người, kể cả lương dân.
3. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” ( Ga 12, 23 ).
Cái chết của Đức Giê-su không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang phục sinh, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội.
Cái chết của Đức Giê-su quả là thời điểm kiến tạo con người Ki-tô hữu, bởi vì "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" ( Ga 12, 26 ). Quả vậy, các câu 25 – 26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Đức Giê-su:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thướng mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời ( Ga 12, 25 )... Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy" ( Ga 12, 26 )... Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gio-an, là kẻ ưa thích sự tối tăm, yêu thích thế gian này và sự vinh quang riêng mình.
Ở đây vẫn còn là vấn đề Đức Tin, dù nó không rõ ràng như trong Tin Mừng Nhất Lãm nhằm nhấn mạnh mối tương quan với Đức Giê-su: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" ( Mc 8, 35 ). Tương quan với Đức Giê-su còn được nêu rõ qua câu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy". Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Đức Giê-su đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vào vinh quang phục sinh. Trong trường hợp này, Đức Giê-su đã nói: "Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
4. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” ( Ga 12, 23 ).
Giờ khổ nạn và thập giá gần kề, tâm hồn Đức Giê-su xao xuyến ! Người đã cầu nguyện với Cha. Chúng ta cùng lắng nghe hai lời cầu nguyện của Người: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha". Đức Giê-su đã chọn lời cầu nguyện thứ hai. Nghĩa là Người đã chu toàn cách tuyệt hảo sứ mệnh Chúa Cha giao phó: thí mạng sống mình để cứu rỗi toàn thế giới. Trốn tránh giờ đó là hủy bỏ mọi giá trị của nó đã từng được gói ghém trong mầu nhiệm nhập thể. Còn chấp nhận giờ đó là làm vinh danh Chúa Cha. Vì vậy, nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su mà chương trình cứu độ phổ quát của Người được thực hiện.
5. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” ( Ga 12, 23 ).
Sự chết của Đức Giê-su sẽ mang lại nhiều bông hạt. Người ta thấy dân chúng tuốn đến với Người: Ban đầu là dân Do-thái ( Ga 12, 9.12.17.18.34 ), rồi đến dân ngoại làm nên hoa trái đầu mùa ( Ga 12, 20 – 22 ). Đó cũng là điều được nói lên ở câu 32: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Khởi đầu của việc Đức Giê-su được giương cao là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá.
6. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” ( Ga 12, 23 )
Giờ Con Người được tôn vinh cũng là giờ thế gian bị xét xử. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt để bắt đầu cuộc sáng tạo mới. Số phận mọi người tùy thuộc giờ Đức Giê-su là giờ phán xét, giờ phân chia: giờ này ai từ chối Đức Giê-su thì bị xếp vào phe của Sa-tan, thủ lãnh thế gian, đối thủ lợi hại của Đức Giê-su, và bị luận phạt như nó.
III. kết luận:
Bản văn Tin Mừng hôm nay với những gợi ý nêu trên, nhằm gửi đến mỗi người chúng ta tín thư sau:
Giờ của Đức Giê-su là trung tâm điểm của lịch sử ơn cứu độ. Giờ này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu chuộc nhân loại. Cả cuộc sống của Đức Ki-tô đều qui hướng về Giờ đó. Từ Giờ đó mà có sự phán xét nhân loại, có sự phân chia những kẻ tin hay không tin mầu nhiệm Đức Ki-tô chết và phục sinh vinh quang. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống; còn ai từ chối thì bị luận phạt và phải chết.
Để tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su và mừng Đại Lễ Phục Sinh của Người trong những ngày sắp tới, mỗi chúng ta hãy sẵn sàng mở toang cánh cửa lòng mình ra với tình yêu chân thật và sâu thẳm để đón nhận Đức Ki-tô, Đấng đã chết khổ hình thập giá và phục sinh vinh hiển, nguồn Ơn Đức Độ của chúng ta.
Xin được đưa ra một vài gợi ý áp dụng vào thực tế cuộc sống Ki-tô hữu:
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Bạn và tôi, sự từ bỏ nào là khó hơn cả ?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn và tôi có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không ?
Đức Ki-tô đã chấp nhận bị nghiền nát để trở nên Thánh Thể – bánh trường sinh cho nhân loại, cho bạn và cho tôi. Nếu lãnh nhận thứ bánh ấy mà không có sự đồng cảm với Đức Ki-tô thì có nghĩa gì đâu ? Cánh cửa nguồn ơn cứu độ đã mở rộng từ lâu lắm rồi... phải chăng bạn và tôi vẫn đi vào mà lại không nhận ra là mình đi đâu ?
Gs. PHẠM VĂN LƯỢNG, Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài-gòn
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào: MC5-B34
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau khổ ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người. Thân phận con người cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, “muốn gặp Đức Giêsu” (Ga12:21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết”(Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”(Ga 12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12:26). Thầy leo lên khổ giá, môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Nghĩa là “Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người” (Thánh Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: “Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó ? Hi sinh như thế có thực tế không ? Theo Thầy làm gì cho khổ ? Phục vụ Thày có được lợi gì đâu ?
Nhưng Đức Giêsu nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”t (Ga 12:26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, ức là bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều quả quyết: “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy” (Ga 12:26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha ? Đó là nguồn suối duy nhất phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi “giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài !” (Ga 12:31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Đức Giêsu cũng vẫn là con người. Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống cuống. “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ?”(Ga 12:27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một tiếng nổ long trời (Ga 12:29). “Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !’ (Ga 12:28). Đó là tiếng Chúa Cha trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Đức Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5: 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu tan. “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này” (Ga 12:31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác thần. Thật là khủng khiếp !
Đối với những ai vâng phục như Đức Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31:31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31:33). Như thế một tương quan mới đã được thiết lập. “Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan mới” (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả thật như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi dậy, “đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Disciples in Mission 1999:23). Đó là một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12:24) là cộng đoàn các Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ côi.Không có những gương hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng “cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với Thiên Chúa” (xc. Gr 29:11; 32:38-40) (Life Application Study Bible 1991:1345). Họ đang học vâng lời như Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền tảng trên Đức Kitô (Dt 8:6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải “từ bỏ luật lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm” (Life Application Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát con người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh.
Rời xa trung tâm đó, con người chìm vào những tham vọng ngông cuồng. Dominic Kataribabo, người lãnh đạo giáo phái Tái lập Mười Điều Răn bên Uganda, đã “dùng những thủ đoạn thô bạo tống tiền và đòi hỏi tuyệt đối vâng lời những người lãnh đạo của giáo phái” (VietCatholic 28/3/2000). Cuối cùng ông dồn hằng trăm người vào chỗ chết bằng cuộc sát hại tập thể. Đau khổ như thế có dẫn tới vinh quang không ? Hạt giống đã chết đi, nhưng hoa trái nào đã sinh ra ? Như Hạ
Chúa Giêsu xuất hiện như vị cứu tinh của người nghèo, người bệnh tật và người bị quỷ ám, Ngài: MC5-B35
Chúa Giêsu xuất hiện như vị cứu tinh của người nghèo, người bệnh tật và người bị quỷ ám, Ngài đã trở thành vị cứu tinh của họ, bởi vì không một ai chạy đến với Ngài mà trở về tay không.
Chúa Giêsu xuất hiện như là cái gai trong mắt của những người biệt phái và những người kinh sư thông luật, bởi vì lời giảng dạy của Ngài làm cho dân chúng thích thú, tin theo và lòng họ quả thật được một niềm an ủi trong kiếp sống lầm than khổ cực và đầy bệnh tật.
Có những lúc chúng ta xuất hiện giữa đám đông dân chúng, giữa một cộng đoàn lớn, nhỏ với cái mặt kiêu kiêu làm cho người khác cảm thấy không được thoải mái khi nghe mình nói, bởi vì mình nói rất hay, logic, nhưng mình không sống như lời mình đang nói.
Chúa Giêsu chữa bệnh
Ngài chữa bệnh không như các lương y thời ấy và các bác sĩ thời nay.
Các lương y và bác sĩ chữa bệnh nơi thân xác, còn Ngài chữa lành tâm hồn trước và đồng thời thân xác cũng được khỏe mạnh; các bác sĩ và lương y thì cho hết toa thuốc này đến phương thuốc nọ, mà bệnh nhân đôi lúc vẫn không thuyên giảm, còn Ngài chỉ nói một lời, đụng đến người bệnh, thì họ lập tức lành bệnh, Ngài không nại đến quyền năng của ai cả, nhưng tự nơi Ngài một quyền uy phát ra làm cho mọi bệnh tật tiêu tan. Ngài chính là Thiên Chúa.
Các lương y và bác sĩ thì treo bảng quảng cáo tài nghệ của mình để chiêu dụ bệnh nhân, còn Ngài thì lại cấm bệnh nhân không được nói với ai về việc mình đã được lành bệnh, nhưng càng cấm thì thiên hạ càng đua nhau loan truyền công việc kì diệu mà Ngài đã làm cho họ, chính vì điểm này mà người biệt phái tức tối, ghen tương và giết chết Ngài trên thập giá. Người ta sợ Ngài tranh giành ảnh hưởng với họ.
Chúa Giêsu là người Linh Mục hôm nay
Người ta mua một chiếc xe mới liền đến xin Linh Mục của Chúa làm phép xe cho họ; người ta mua một ảnh tượng mới cũng tới xin Linh mục của Chúa làm phép cho họ; người ta mới cất một căn nhà đẹp cũng đến xin Linh Mục của Chúa làm phép nhà cho họ; Linh Mục đến thăm nhà, họ cũng mời Linh Mục chúc lành cho họ và gia đình...
Không phải người ta tin dị đoan, nhưng người ta tin Chúa Giêsu nơi con người của Linh Mục, người ta xác tín Linh Mục là người của Chúa Kitô đang thay mặt Ngài để giáng phúc cho họ, do đó, dù biết rằng Linh Mục vẫn chỉ là một con người như họ, có những bất toàn và những thói hư tật xấu, nhưng họ vẫn tin tưởng và yêu mến Chúa Kitô nơi vị mục tử của mình.
Chúa Giêsu chính là người linh mục hôm nay, Ngài đang vất vả khó nhọc kiếm tìm con chiên lạc trong giáo xứ của mình; Ngài đang âm thầm cầu nguyện cho những con chiên nghèo đói của mình có được cuộc sống hạnh phúc; Ngài đang bị sỉ nhục trên đường công tác mục vụ, Ngài đang bị chống đối bởi những thế lực ma quỷ nơi những con người đã từng chống đối Giáo Hội, Ngài đang buồn sầu vì có những mục tử không như Ngài: biết yêu mến và phục vụ đàn chiên của mình...
Gợi ý suy tư:
1- Tôi là Linh Mục của Chúa Kitô, trong công tác mục vụ, đôi lúc tôi bị ngay chính giáo dân của tôi chống đối, phê bình, tôi có nhận thấy Chúa Kitô nơi con người họ hay không ?
2- Tôi là người Kitô hữu, có những lần tôi nghe nói linh mục này bê bối lăng nhăng, linh mục kia không chu toàn bổn phận của một mục tử, và thậm chí tự mắt tôi nhìn thấy linh mục nọ hạnh kiểm không tốt... Những lúc như thế, tôi có nhìn thấy được Chúa Kitô nơi các ngài không ? Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Chuyện cổ An Độ kể lại như sau: Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa: MC5-B36
Chuyện cổ An Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn tả:
- Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao ? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa ? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa ? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa ? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình.
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các: MC5-B37
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà thôi.
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay: MC5-B38
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”.
Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một câu truyện về Tommy: MC5-B39
Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một câu truyện về Tommy, một trong những học sinh của cha.
Tommy là một người tự xưng là vô thần. Anh không tin bất cứ một sự kiện gì cả. Anh đặc biệt lên án ý tưởng rằng Thiên Chúa có thể yêu thương nhân loại một cách vô điều kiện.
Sau cùng, mùa học đã tới lúc mãn khóa. Khi Tommy nộp bài thi cuối năm, anh nói với cha một cách nhạo báng, "Cha thử nghĩ coi, tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa không?" Cha đáp lại, "Không, Tommy ơi, anh không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa sẽ tìm thấy anh." Anh chỉ nhún vai và bỏ đi.
Vài năm sau, cha được tin là Tommy đang sắp sửa chết vì bệnh ung thư. Trước khi cha có thể liên lạc với Tommy, Tommy đã liên lạc với Cha.
Khi Tommy đến gặp cha, cha nhận thấy thân xác của anh đã rã rời và bộ tóc của anh đã rụng hết do các thuốc chữa ung thư mà anh uống. Tommy nói:
"Con đến với Cha, vì những gì Cha đã nói với con trong buổi học sau cùng. Cha nói, con không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ tìm thấy con.
"Đúng thế, khi bác sĩ cho con biết con chỉ còn một thời gian ngắn để sống, con đã làm một việc mà con không bao giờ nghĩ là con sẽ làm. Con đã bắt đầu cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa. Thế nhưng không có chuyện gì xảy ra cả. Không một ai trả lời con.
"Con cố gắng nhiều hơn nữa! Thế nhưng cũng vậy, không gì xảy ra cả. Không ai trả lời con cả. Sau cùng, sau khi đã cố gắng thêm một vài lần nữa, con đã đầu hàng bỏ cuộc.
"Con nghĩ rằng, thật là bất hạnh cho một người chết đi mà không có tình yêu; thật là bất hạnh cho một người chết đi mà chưa nói với người mình yêu thương rằng mình thật sự thương yêu họ. Con đã quyết định làm việc đó.
"Con bắt đầu từ một người khó chịu nhất: chính là ba con. Một đêm nọ, trong khi chúng con ở nhà một mình, con đã nói với ba về việc con cảm nghĩ thế nào về ông. Sau đó, ông đã làm việc mà con không thể ngờ. Ông đã khóc và ôm con vào lòng. Chúng con đã nói chuyện suốt đêm, mặc dù ba con phải dậy đi làm sáng hôm sau.
"Khi nói với mẹ con và các anh em con rằng con yêu mến họ thì thật dễ dàng hơn. Giống như ba con, họ cũng khóc và ôm chầm lấy con.
"Sau đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Không biết từ đâu, Thiên Chúa đã đến với đời sống của con. Ngài đến với một sức mạnh và quyền lực mà con không thể nào không nhận thức được. Đúng thế, thưa Cha, Ngài đã tìm thấy con! Ngài đã thật sự tìm thấy con!"
Ít lâu sau, Tommy đã qua đời, nhưng anh đã khởi sự một cuộc sống trong một phương thức khác. Anh khởi sự sống trong cách thức mà Chúa Giêsu đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống."
Trong trường hợp phép lạ của Lazarô, điểm quan trọng không phải là việc Chúa làm cho một người bạn sống lại. Điểm quan trọng là, Chúa Giêsu muốn dùng phép lạ này để dạy dỗ cho ta điều gì.
Chúa Giêsu muốn dùng nó để nói lên một cách tượng hình những gì mà Ngài đã nói với Martha: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì dù có chết, cũng sẽ sống."
Những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho Tommy và Lazarô, thì Ngài cũng muốn làm cho chúng ta. Ngài muốn ban cho chúng ta một sự sống mới. Ngài muốn chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Ngài muốn làm cho chúng ta sống lại trong đời sống vĩnh cửu.
Đây chính là sứ điệp của Mùa Chay. Nó có ý nói về việc mở rộng tâm hồn của chúng ta với tha nhân, giống như Tommy đã làm với gia đình của anh, hầu qua đó Chúa Giêsu có thể thực hiện cho chúng ta những gì Ngài đã có thể làm cho Tommy.
Nó có ý nói về việc đón nhận một đời sống mới từ Chúa Giêsu trong ngày hôm nay, hầu chúng ta có thể đón nhận đời sống vĩnh cửu từ Chúa Giêsu trong ngày sau cùng.
Ở Việt Nam chúng ta ít thấy những cây lúa mì và những bông lúa mì trĩu trái. Tuy nhiên, hình ảnh: MC5-B40.
Ở Việt Nam chúng ta ít thấy những cây lúa mì và những bông lúa mì trĩu trái. Tuy nhiên, hình ảnh những ruộng lúa tại Việt Nam vẫn đem lại cho chúng ta nhiều ấn tượng và cảm xúc. Bởi vì cũng như những bông lúa mì, những bông lúa thường khi chín vàng dưới ánh nắng, hạt lúa có rơi xuống ruộng, có rơi xuống đất thì cũng như những hạt lúa mì, khi hạt chín rơi xuống đất, một thời gian nó sẽ mọc lên. Đó là hình ảnh rất tự nhiên đời thường, nhưng ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến chính Con Người của Mình:” Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi “ ( Ga 12, 32 ).
Đức Giêsu đã trả lời với Anrê và Philipphê khi có một số người nhờ các tông đồ hỏi Chúa Giêsu, Ngài trả lời:” Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình;còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác “ ( Ga 12,23-24 ). Đây là lời khẳng định của Chúa Giêsu, vì hạt lúa tức thân xác của Chúa không chết đi theo ý định của Thiên Chúa Cha, nhân loại sẽ không được cứu độ. Tự chết vì người khác không phải là điều dễ chấp nhận bởi vì con người ít quảng đại và thường bo bo giữ những gì mình đã có. Chúa Giêsu nếu không chấp nhận hy sinh, nếu Ngài không chết đi, nhân loại vẫn còn nguyện trong u tối, trong tội lỗi. Thật vậy, Chúa nói:” Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được cho sự sống đời đời “ ( Ga 12, 25 ). Chúa đành mất mạng sống mình vì thế gian, vì loài người, Ngài đem lại hạnh phúc cho mọi người. Con người chúng ta cũng vậy, dường như khi mình bám víu lấy của cải, danh vọng, vật chất, tiền tài, họ cảm thấy bơ vơ trơ trọi vì họ chỉ dành riêng cho chính bản thân mình mà thôi. Con người chỉ có thể được triển nở, hạnh phúc khi họ đi ra khỏi cái vỏ ốc ích kỷ và ra khỏi những bận tâm tính toán để chỉ làm lợi cho mình, hầu sống cho tha nhân và Thiên Chúa.
Con người chỉ có thể an bình khi sống xả kỷ và quảng đại, hy sinh cho người khác. Con người chỉ có thế bình an khi sống hy sinh, quên mình, từ bỏ đón lấy cái chết như hạt lúa mì vùi sâu trong lòng đất. Tuy nhiên, những quên mình, hy sinh, từ bỏ, quảng đại lại làm cho chính Đức Giêsu xao xuyến, dao động:” Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha xin tôn vinh danh Cha “ ( Ga 12, 27-28 ). Vâng, Chúa Giêsu cũng bị giằng co giữa những thử thách, những mất mát, thua thiệt ở đời này, tuy nhiên Chúa Giêsu đã vượt thắng và luôn hy sinh, hiến mình vì mọi người. Cuộc đời con người chúng ta cũng thế, hy sinh, từ bỏ là những cố gắng phải vượt thắng, nhưng khi đã tỉnh thức, cầu nguyện và cố gắng, con người sẽ cảm thấy chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời, lúc mất là lúc được lại.
Người Kitô hữu luôn ý thức rằng chết là được sống. Bởi vì chính trong giờ phút quyết liệt Chúa Giêsu đã chiến thắng và Ngài đã tiêu diệt sự chết. Các thánh tử đạo đã minh chứng cái mất, cái được. Cái chết của Cha Maria Kolbê và của nhiều thánh tử đạo đã nói lên lời yêu thương Thiên Chúa, yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa.
Trong sự chết và sống lại của Chúa Giêsu chúng ta hiểu được sự quan phòng của Thiên Chúa Cha. Cái chết của Con Thiên Chúa dẫn đến sự sống của Người, và sự chết của Người cũng dẫn tới sự sống lại của chúng ta.
Chúa Giêsu qua cái chết của Ngài trên thập giá đã trổ nụ, đơm hoa dồi dào. Người Kitô hữu qua cái chết lành, qua cái chết vâng phục Chúa Cha cũng tỏa hương thơm thiên đàng.
Chúa Giêsu đã nói:” Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ sống đời đời và Ta sẽ cho chúng sống lại trong ngày sau hết “ Và chúng ta tin rằng:” Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi “ ( Ga 12, 32 ).
Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Đức Giêsu Kitô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em.Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen .( Lời nguyện nhập lễ, lễ chúa nhật V Mùa Chay ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Hạt lúa mì ám chỉ gì ? 2.Nâng lên cao nghĩa là gì ? 3.Hy sinh, từ bỏ, quang đại có cần không ? 4.Tại sao cái chết của Chúa Giêsu lại trổ hoa kết trái dồi dào ? 5.Chúng ta tin vào Chúa, cái chết của chúng ta sẽ như thế nào ?
Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không …. Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên: MC5-B41
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêru: MC5-B42
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho "được gặp ông Giêsu".
Chúa Giêsu trả lời họ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới "được gặp Đức Giêsu", được lãnh ơn cứu độ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán... Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy". Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.
Kinh nghiệm của mọi người, nhất là của những người từng trải là “cái gì cũng có cái giá của nó.”: MC5-B43
Kinh nghiệm của mọi người, nhất là của những người từng trải là “cái gì cũng có cái giá của nó.” Thành công hay thất bại, được yêu mến hay bị ghét bỏ đều không phải tự nhiên mà có; trái lại đó thường là kết quả của những đầu tư to lớn về công sức, tài năng và cả về thời gian nữa. Đó là kinh nghiệm trong lãnh vực nhân sinh.
Trong lãnh vực nhân linh và thần linh cũng không khác gì. Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết trên thập giá là cái giá phải trả cho Tình Yêu vô biên và ‘nhưng không’ (gratis, free) của Thiên Chúa. Để đáp lại Tình Yêu và hồng ân ‘nhưng không’ ấy của Thiên Chúa thì người tín hữu cũng phải trả giá bằng một đời sống hy sinh, hãm mình, từ bỏ và nhiệt thành với công cuộc xây dựng Vương Quốc của Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Gr 31,31-34: Giao ước mới.
(31) Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, (32) không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (33) Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. (34) Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
(2) Bài đọc 2: Dt 5,7-9: Đức Ki-tô đã học biết thế nào là vâng phục.
(7) Thưa anh em, khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. (8) Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; (9) và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
(3) Bài Tin Mừng: Ga 12,20-33: Đức Giê-su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người.
(20) Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-Lạp. (21) Họ đến gặp ông Phi-lip-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." (22) Ông Phi-lip-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (24) Thật, Thày bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thày, thì hãy theo Thày; và Thày ở đâu, kẻ phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha của Thày sẽ quý trọng người ấy."
(27) "Bây giờ, tâm hồn Thày xao xuyến! Thày biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!" (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" (30) Đức Giê-su đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các ngươi. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào. 2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào? (1) Trong bài đọc 1 (Gr 31,31-34), ngôn sứ Giê-rê-mi-a chia sẻ với chúng ta cảm nghiệm về một Đấng Thiên Chúa
* chỉ biết yêu thương và tha thứ hết mọi lỗi lầm, thậm chí cả mọi tội ác, của dân Ít-ra-en,
* chỉ có một thao thức và kế hoạch là tái lập lại mối tương quan của Giao ước ban đầu bằng một Giao ước mới: “Chúa là Chúa của dân (Ít-ra-en) và dân (Ít-ra-en) là dân của Chúa”,
* chỉ có một bận tâm khi hành động là làm sao cho mọi người (lớn/nhỏ) ghi nhớ và tuân giữ Lề Luật của Người.
(2) Trong bài đọc 2 (Dt 5,7-9) Thánh Phao-lô Tông đồ nhắc đến cái giá cực đắt (mắc) mà Chúa Giê-su đã phải trả trong cuộc Thương Khó và Khổ nạn Thập giá, để thiết lập Giao Ước mới với Ít-ra-en mới là toàn thể nhân loại. Trong cuộc Khổ nạn Thập giá, Chúa Giê-su vừa thể hiện sự vâng phục tuyệt đối trước Thánh Ý và Chương trình Cứu độ của Cha, vừa thể hiện lòng yêu thương tột cùng của Người đối với loài người là anh em.
(3) Trong bài Tin Mừng (Ga 12,20-33) của Thánh Gio-an, Chúa Giê-su như cởi mở hết cõi lòng của mình cho các môn đệ và mọi người thấy: (a) những tâm tư thầm kín và riêng tư nhất của Người và (b) mối tương quan mật thiết đặc biệt của Người với Chúa Cha, với ước mong các môn đệ cảm thông, chia sẻ tâm tình với Người và bước theo Người, để:
* Thày ở đâu, môn đệ ở đó,
* Cha Thày quí trọng các môn đệ của Thày như Thày đã yêu quí họ.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh hôm nay là:
Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô
đã nhận lấy phần thiệt về mình để yêu thương và cứu vớt nhân loại.
Vậy các môn đệ Chúa Giê-su, là các Ki-tô hữu chúng ta, hãy học lấy
bài học của hạt lúa được gieo vào lòng đất “chịu chết đi” để sinh ra nhiều hạt lúa khác,
cũng là bài học “dám coi thường mạng sống mình” vì Chúa và vì anh em mà chính Chúa Giê-su đã thực hiện và mời chúng ta sống theo!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay thì mỗi người / mỗi cộng đoàn Ki-tô hãy chọn con đường
tự hạ tự hiến tự hủy
coi thường mạng sống mình vì Nước Trời mà chính Chúa Giêsu đã chọn.
Trong cụ thể, mỗi người hãy suy nghĩ,
mỗi cộng đoàn hãy trao đổi xem trong tuần này mình nên làm những việc gì để tự hạ/tự hiến/tự hủy/coi thường mạng sống mình vì Nước Trời?
rồi hãy cố gắng thực hiện những việc ấy trong tinh thần khiêm tốn và vâng phục! IV. CẦU NGUYỆN
Đề nghị mỗi người hãy đọc đi đọc lại nhiều lần đoạn thư Phi-líp-phê này và hãy để cho lòng mình rung cảm theo gợi ý của Thánh Thần: "Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người còn lại hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự." (Pl 2,5-8).
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 23.03.2006
Người dân vùng Pa-lét-tin thường nói đùa rằng: khi tạo dựng trời đất, cả thảy có ba túi đá, thì: MC5-B44
Người dân vùng Pa-lét-tin thường nói đùa rằng: khi tạo dựng trời đất, cả thảy có ba túi đá, thì Thiên Chúa đã đánh rơi hai túi xuống đất Pa-lét-tin. Thế nhưng, ngày nay, không ai có thể phủ nhận Ít-ra-en là quốc gia đứng hàng đầu về trình độ nông nghiệp: với mảnh đất bé tí xíu, nằm ở giữa vùng đất mà cha ông Việt Nam ta sẵn sàng nói ngay là “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, vậy mà không những tự cung cấp đủ cho mình mọi mặt hàng nông sản, Ít-ra-en còn xuất khẩu không ít thứ và nhất là các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến nhất.
Những ai đã xem các thước phim về đời sống các dân tộc miền Tây Bắc Việt Nam, sẽ thấy những hình ảnh không kém hấp dẫn: lúa, ngô mọc trên đá, cho trái hạt từ trong đá. Đất hiếm hoi, vì vậy người dân phải gùi đất chỗ khác về, nhét vào các kẻ đá rồi gieo hạt. Ta có cảm tưởng như họ “bắt” đá sỏi sinh ngô khoai !
Từ hai câu chuyện trên đây, câu khẩu hiệu: ”Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”, không chỉ đúng cho hậu duệ của Áp-ra-ham, và Con Rồng Cháu Tiên theo nghĩa đen, mà còn áp dụng đúng cho những gì chúng ta muốn nói hôm nay, về dụ ngôn “Người Gieo Giống”: đất tốt, không phải chỉ do tự nhiên, mà còn do ước muốn và ý chí con người. Đất tốt, nhưng không được chăm chút hoặc ỷ lại mà không lưu tâm bồi đắp, thì chẳng mấy chốc cũng trở nên cằn cỗi khác nào sỏi đá. Ngược lại, nếu được vun xới chăm nom, thì những mảnh đất sỏi đá rồi cũng nên màu mỡ.
Nhưng điều mà chúng ta muốn nhấn mạnh hôm nay, không phải là “người gieo giống” hoặc các loại đất xấu tốt, mà chính là hạt giống. Thiên Chúa hào phóng gieo Hạt Giống – Lời Chúa. Chúa không chỉ gieo Hạt Giống tùy lúc, tùy nơi, mà là liên tục, ở bất cứ thời điểm nào và trong bất kỳ không gian nào. Chúa không chọn “đất tốt” để gieo, chỉ vì lý do là đất ấy sẽ đón nhận và làm cho hạt giống phát triển, sinh hoa kết quả tốt đẹp, nhưng Chúa gieo trên mọi loại đất và tất cả mọi Hạt Giống Chúa gieo đều là những hạt mẩy, để không ai có thể kêu ca, phàn nàn vì không được đoái hoài hoặc cho rằng Chúa thiên tư tây vị.
Hạt Giống – Lời Chúa đã nẩy mầm trên mọi loại đất, biểu thị lòng nhân từ và sự công bằng trong cách Thiên Chúa đối xử với mọi người, kẻ lành cũng như người dữ, kẻ thiện tâm thiện chí cũng như người hững hờ, đối nghịch. Nhưng để cây lúa phát triển được và đơm bông kết hạt, thì thiện ý và tình thương của Chúa không thôi, chưa đủ, không đủ, mà phải có sự cộng tác của con người. Thiên Chúa sử dụng hết mọi cách thế, qua vô số biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống hằng ngày, hoàn toàn không tình cờ, vì thế không ai có thể cho là mình không hay không biết.
Người nông dân đi gieo lúa, không thể không biết sẽ bị hao hụt. Một hạt lúa là một hạt gạo. Một hạt gạo là một “ngọc thực”. Mỗi hạt lúa hao hụt lãng phí làm Người Gieo Giống đau lòng, tiếc nuối, song đành phải chấp nhận. Chỉ thiệt thòi cho những “đất sỏi đá, gai góc”, không chịu chuẩn bị để đón nhận Hạt Giống – Sự Sống và làm cho nẩy nở sinh sôi. Thiên Chúa vô cùng quảng đại và kiên nhẫn, nhưng cái gì cũng có giới hạn và con người không có đời đời để khất lần hẹn lữa, lừa dối lòng mình và dám thử thách, phỉnh gạt cả Thiên Chúa.
Có một điểm nhỏ cần lưu ý: chưa bao giờ Chúa gọi các môn đệ ( và chúng ta ) là Người Gieo Giống hoặc bảo chúng ta hãy ra đi gieo giống. Chúa chỉ gọi các môn đệ ( và chúng ta ) là Thợ Gặt và làm việc gặt hái, nghĩa là thu hoạch mùa màng. Chỉ có Thiên Chúa mới là Người Chủ của Hạt Giống và là Người Gieo Giống.
Tông Đồ, rao giảng Tin Mừng, chẳng qua chỉ là làm công việc mang Hạt Giống – Lời Chúa đến những nơi Chúa muốn, cộng tác với Chúa trong việc đem Sự Sống đến cho anh em. Tuyệt nhiên không phải là người ban phát Hạt Giống – Lời Chúa. Nhưng có nhiều thứ ta có thể “gieo” để giúp cho mảnh đất tâm hồn của tha nhân được chuẩn bị sẵn sàng hơn để đón nhận Hạt Giống Chúa gieo. Mỗi hành vi yêu thương, bác ái làm cho anh em, cũng có thể gọi là một hạt giống ta gieo, thúc đẩy anh em mở lòng đón nhận Hạt Giống – Sự Sống mà Chúa gieo vào lòng họ. Và đó chính là truyền giáo !
Cứ thế mà tình yêu được nhân lên và tràn đầy mặt đất. Thế giới này rồi sẽ tốt đẹp hơn và được cứu rỗi, và đó làđieu mà Mẹ Tê-rê-xa Calcutta tin tưởng, như lời Mẹ nói: “Tình Yêu có thể cứu cả thế giớI” ( Love can save the world ). Vì thế, mỗi Ki-tô hữu không có quyền nhận xét, đánh giá, phê phán tha nhân để chọn lựa đối tượng mà mình có cảm tình ( chí ít cũng là không có ác cảm ) và mang Hạt Giống – Lời Chúa đến. Hãy nhớ ba điều này: trước hết, không phải chúng ta gieo, mà Người Chủ Hạt Giống và Người Gieo Giống chính là Thiên Chúa. Kế đến, hãy coi chừng: chưa chắc mảnh đất tâm hồn chúng ta đã đủ tốt, đã được vun xới chăm chút đủ để Lời Chúa đơm bông sinh hạt.
Lòng kiêu căng có khi dẫn chúng ta đến việc dối gạt chính mình và làm hư thúi mầm lúa vừa mọc trong ta. Sau cùng, Hạt Giống – Lời Chúa phát triển tốt nơi mỗi người, sẽ sinh lời gấp ba mươi, năm mươi, một trăm: việc làm cho Lời Chúa sinh sôi là bổn phận của chúng ta. Đến đây, ta có thể nói rằng: mặc cho bao hao hụt ( có khi đến ba phần tư ), nhưng những hạt phát triển tốt của một phần còn lại, sẽ mang về cho Chúa gấp bội. Niềm tin vững vàng ấy là động lực, để ta lên đường, mang Lời Chúa đi, đến bất cứ nơi nào Chúa muốn.
Đáng lý, khi khách khứa đến thăm thì chúng ta phấn khởi, vui mừng. Nhưng trường hợp của Chúa Giêsu: MC5-B45
Đáng lý, khi khách khứa đến thăm thì chúng ta phấn khởi, vui mừng. Nhưng trường hợp của Chúa Giêsu lại khác. Mấy người Hy-lạp muốn gặp Chúa Giêsu, qua trung gian của Philipphê và Anrê, thì lại là cơ hội để Ngài bộc bạch tâm hồn buồn thảm của Ngài. Ngài nói rất nhiều đến cái chết tại Giêrusalem và lợi ích của nó. Hình như số phận Ngài được Thiên Chúa định sẵn: Sinh ra để chết cho thế gian được sống: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” Triết lý này cũng phải là bài học nằm lòng của các môn đệ Chúa Giêsu qua mọi thời đại. Buồn đấy, nhưng hồng phúc thì vô kể. Thực ra, xét về hình thức, yêu cầu của các người Hy-lạp: “Chúng tôi muốn gặp ông Giêsu.” Và nội dung câu trả lời của Ngài chẳng ăn nhằm gì với nhau. Ông xin gà, bà cho vịt. Nhưng nhìn kỹ chúng chặt chẽ liên kết với nhau: Gặp gỡ Đức Giêsu là phải học chết cho chính mình. Chẳng còn con đường nào khác. Ai từ chối chết là chưa thực sự gặp Đức Ki-tô! Cho nên bài huấn từ Ngài ban cho mấy người Hy-lạp muốn gặp Ngài chí phải, thâm trầm và đúng lúc. Hội thánh muốn các tín hữu đọc đoạn Tin mừng này trong mùa thương khó là cũng một ý ấy. Chúa Giêsu không chạy trốn, nhưng cương quyết đối diện với đau khổ và sự chết của mình. Đây là giây phút vinh quang của Thiên Chúa, bởi lẽ chỉ qua cái chết Thiên Chúa mới được hiển vinh trong biến cố Phục sinh. Ngày nay nếu chúng ta tiếp tục nhìn mọi sự theo chiều hướng này thì chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm được cánh tay Thiên Chúa cứu chữa nhân loại, cứu chữa mỗi cá nhân trong cộng đồng giáo xứ, đúng như Ngài đã cứu chữa Đức Ki-tô khỏi thần chết thuở xưa.
Điều cần lưu ý là người Hy-lạp muốn gặp Chúa Giêsu. Văn hoá Hy-lạp chẳng mấy khi nói đến liều chết và hy sinh cho kẻ khác. Triết lý của họ đa phần theo phái khắc kỷ, tìm hạnh phúc tuyệt đỉnh bằng tập luyện và bỏ qua những nhu cầu cấp thấp. Tóm lại là ích kỷ. Còn Phúc âm nhất lãm nhắc đi nhắc lại ý tưởng của Chúa Giêsu: Hy sinh hằng ngày và chết dần mòn vì bác ái, Chúa Giêsu cũng nhắc cho mấy người Hy-lạp chuyện đó hôm nay. Đối với họ thật mới lạ, không nằm trong truyền thống của mình. Nhưng ví dụ hạt lúa thối đi để mang nhiều hoa trái rất cụ thể, dễ hiểu trong trường hợp này. Họ phải vất bỏ lối suy nghĩ “hợp lý” kiểu thế gian của các triết gia Hy-lạp mà tin tưởng vào Lời Ngài, cho dù Lời đó xem ra có mâu thuẫn với thực tế.
Hẳn các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các nhà tư vấn hiểu quá rõ về sự cần thiết phải hy sinh bản thân để cho thế hệ tương lai phát triển. Bằng không, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Những người Hoa Kỳ chính gốc hãy nhìn vào các di dân mới đến tức khắc hiểu ra điều đó. Họ hy sinh chính bản thân, làm việc lâu giờ, không ngại khó khăn vất vả, tiền lương thấp để cho con cháu có cơ hội thăng tiến. Nhờ những hy sinh đó, thế hệ thứ hai của các di dân đã thực sự đạt được kết quả mỹ mãn. Cho nên, những cha mẹ tốt, như những hạt lúa, phải chết hằng ngày, rơi xuống đất thối đi mới có thể mang nhiều hoa trái cho con cháu, máu mủ của mình. Đó là biện chứng tự nhiên. Nhưng chẳng tự nhiên chút nào khi Chúa Kitô kêu gọi như vậy, không phải cho máu mủ mình mà thôi, mà còn cho bất cứ những ai cần đến sự hy sinh của chúng ta: cho ngoại kiều, khách lạ, khác màu da, chủng tộc, kẻ thù địch, sì ke, ma tuý, đĩ điếm, người nghèo khổ, phạm pháp. Trước mắt thế gian, những công việc như thế quả là của một người điên khùng. Dốc toàn lực hy sinh mà không đòi đáp trả. Nhưng đối với môn đệ Chúa Giêsu lại là điều bắt buộc, nếu như muốn theo Ngài.
Và chẳng điên khùng chút nào khi dõi theo giao ước mà Thiên Chúa ký kết với nhân loại trong bài đọc 1 hôm nay. Giao ước mới tiên tri Giêrêmia táo bạo hứa hẹn sẽ được viết bằng xương thịt: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta.” Chính Chúa Giêsu là giao ước này, trong Ngài mọi người sẽ được kết hợp với Thiên Chúa bởi đường lối yêu thương của Ngài. Do đó, máu mủ kiểu thế gian không còn mấy ý nghĩa, mọi người đều là ruột thịt với nhau trong tinh thần loại mới, để thực hiện giao ước yêu thương của Đức Ki-tô: “ Khi nào được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng Tôi.” Giao ước này là vĩnh viễn. Nó cứu nhân loại khỏi tội lỗi và bảo đảm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Qua cái chết, Chúa Giêsu đã trông thấy chiến thắng vinh quang. Mọi người sẽ được ban cho đời sống mới, đời sống thứ tha và trở nên con cái Thiên Chúa. Mùa Chay đúng là mùa thích hợp để chúng ta suy nghĩ về điều này. Nếu dùng văn chương Nhất Lãm, chúng ta sẽ có thành ngữ: “Ghét sự sống mình ở đời này, để được sự sống vĩnh cửu đời sau.” Cùng một tư tưởng trong hai đường lối diễn tả khác nhau. Nếu chúng ta muốn sống cuộc đời tôi tớ như Đức Giêsu, nhất định chúng ta phải tự nguyện chết đi trong nhiều phương cách khác nhau: Ví dụ, chết cho ý riêng mình, chết cho tiền tài chức quyền, chết cho tham vọng cá nhân, chết cho những dự định bất chính, tính toán ích kỷ v.v… Có trăm ngàn cái chết hằng ngày chúng ta phải suy gẫm để có thể trung thành với đường lối Chúa Giêsu.
Bằng những đau khổ cùng cực trên thánh giá Ngài nói với nhân loại phải trung thành với Thiên Chúa như thế nào? Đồng thời, tình yêu của Thiên Chúa đối với họ ra sao? Từ chối khổ đau chúng ta không thể là môn đồ của Ngài, bởi tôi tớ chẳng thể hơn Thầy, được bằng Thầy thì đã khá lắm rồi. Cho nên phải theo Ngài trong gian truân, thử thách. Tự nó đau khổ không có giá trị, chẳng vậy Ngài chữa lành bệnh tật, nuôi kẻ đói khát để làm gì? Nhưng đau khổ là điều không thể tránh khỏi trên con đường theo Chúa. Chúng giúp chúng ta nên một với Ngài. Vậy thì theo Ngài là sẵn sàng chấp nhận khổ đau, hy sinh. Trong một thế giới đầy tội lỗi và bạo lực, chúng ta không thể làm khác đi được: Thụ khổ để cứu khổ. Xuống nước để cứu người chết đuối. An toàn trên cạn làm sao cứu nổi ai? Không thụ khổ làm sao cứu khổ? Sống sung sướng mà cứu được thiên hạ là điều vô lý. Vậy thì cây thánh giá trên cuộc đời mỗi người theo Chúa nói lên sự phục sinh vinh hiển của người đó, dù còn sống hay đã qua đời. Giống như trong vườn Cây Dầu của Nhất lãm, Chúa Giêsu đã suy tư nhiều về điều này. Người la to: “Bây giờ tâm hồn Thầy lo âu! Biết nói gì đây? Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Rồi chữa lại ngay: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha, chính vì giờ này mà Con đã đến.” Đây cũng phải là thái độ của mỗi tín hữu trước những đau khổ của trần gian. Allah is great (Thiên Chúa thật vĩ đại) nếu chúng ta sống trong tâm tình của Đức Ki-tô: Hy sinh bản thân vì tha nhân!
Trong Tin mừng hôm nay, tiếng từ trời vang xuống, không phải vì Chúa Giêsu mà để những người đứng gần Ngài nghe thấy và để cho chúng ta hôm nay cũng nghe nữa. Theo Thánh kinh tiếng đó là biểu tượng cho sự hiện diện của Thượng đế, hay của một thiên sứ nào đó. Nó xác định rõ ràng con đường của Đức Ki-tô được Thiên Chúa chứng giám, và các thính giả phải đặt hết tin tưởng vào những điều Chúa Giêsu tuyên bố: Sự sống vĩnh hằng chỉ có thể đến qua cái chết xác thịt. Nhiều người sẽ được lôi cuốn vào vương quốc của Đức Ki-tô bằng chân lý này. Nhưng cũng lắm kẻ khước từ, không loại trừ tín hữu và tu sĩ. Có một câu châm ngôn trong thương mại: “Bạn hãy trở nên mọi sự khi có thể được” (Be all that you can be). Xin mượn câu này để thay lời Chúa Giêsu mời gọi mọi người. Ngài đã khai mở một con đường mới, khác hẳn với thế gian: Hãy nghe lời Ngài! Chúng ta sẽ được hạnh phúc chân thật!
Mấy người Hy-lạp là những kẻ tìm kiếm chân lý thật lòng. Họ chưa thuộc hẳn vào cộng đồng Do thái, nhưng cũng lên Giêrusalem dự lễ vượt qua. Trong ngôn ngữ súc tích của thánh Gioan từ “gặp” còn mang ý nghĩa “tìm thấy” bằng lòng tin. Sự hiện diện của Anrê và Philipphê gợi nhớ lại lúc khởi đầu của Phúc âm, khi thánh Anrê và Gioan, hai môn đệ của Gioan tẩy giả đi theo Chúa Giêsu. Họ cũng đã tin khi Chúa mời gọi. Còn chúng ta thì sao? Có một cụm từ nổi tiếng trong Tin mừng theo thánh Gioan là “giờ tôi chưa đến” (2,4; 7,6; 7,30; 8,20). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý ám chỉ về ngày giờ theo lịch thời gian (chronos) mà đặc biệt theo một khoảnh khắc vĩ đại của ơn thánh (kairos) khi Ngài trở về với Thiên Chúa Cha qua đau khổ, cái chết và sự phục sinh. Lúc này “giờ của Ngài” đã đến. Ngài trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Những người Hy-lạp đến yêu cầu “gặp” Chúa Giêsu. Họ có đại diện cho những người khác qua mọi thời đại, cùng với Anrê, Philipphê, Maria, Martha tin tưởng vào Ngài? Ngài nói rõ, muốn có đức tin đầy đủ, thì phải trải qua tiến trình “gặp gỡ” Ngài, trước hết, trong đau khổ, cái chết và sự phục sinh sắp tới. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi….
Phúc âm theo thánh Gioan không có trình thuật lại giờ hấp hối tại vườn Cây Dầu. Tuy nhiên Ngài cũng phải trải qua xao xuyến và sầu khổ. Ngài biết trước số phận dành cho Ngài và cương quyết đi theo đường lối đó. Nếu không, ngày nay chúng ta có một sứ điệp khác hẳn. Đại khái như thế này: Người tôi tớ “đau khổ” của Thiên Chúa chỉ phục vụ tới một thời điểm nào đó thôi, với một chút bất tiện cá nhân, rồi kết thúc cuộc đời trên chiếc giường êm ái như bao nhiêu “thầy dạy” khác của thế gian. Những kẻ theo Ngài chẳng cần khó nhọc gì cả, chỉ một chút “tu thân” là đủ. Thiên Chúa không đòi hỏi toàn bộ cuộc sống của họ trong yêu mến và phục vụ, chỉ một phần nhỏ thôi! Hai tuần lễ sắp tới, chúng ta sẽ được chứng kiến Chúa Giêsu phục vụ ra sao: Dâng hiến toàn thể cuộc sống cho Đức Chúa Cha vì nhân loại, và Ngài mời gọi mọi người theo gương.
Thế gian sẽ được tuyên án ra sao bởi Đấng bị giương lên cao? Hoặc người ta chấp nhận Ngài, vì thấy cái chết của Ngài như hạt giống reo vào lòng đất, nảy sinh nhiều hoa trái, từ đó họ hoán cải cuộc sống. Hoặc từ chối Ngài như một kẻ điên khùng, phí phạm cuộc đời vào những chuyện viển vông. Do đó họ khước từ Ngài và dấu đường Ngài đã chỉ. Quyền bính thế gian ngự trị từ toà cao và sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu từ cây thập giá và kéo mọi người đến với Ngài bằng sự Phục sinh. Hôm nay cũng là ngày sửa soạn cho các tân tòng lãnh Bí tích rửa tội, hai tuần nữa, trong đêm Chúa sống lại. Họ là những dân “ngoại” đang tìm gặp Đức Giêsu. Các cha mẹ đỡ đầu sẽ là những Philipphê và Anrê giúp đỡ họ đến diện kiến Thiên Chúa bằng lời dạy bảo và chứng tá cuộc sống của mình. Các tín hữu khác thì sao? Có nêu gương cho họ không? Có giúp đỡ họ tìm gặp Chúa Giêsu không? Có chỉ cho họ con đường dấn thân phục vụ? Có hy sinh cuộc đời để rao truyền tình thương Thiên Chúa cho họ? Nhất là các nhà giảng thuyết có lôi kéo họ gặp gỡ Thiên Chúa bằng lời giảng và gương sáng của mình? Xin Chúa Giêsu thánh thể cứu giúp chúng ta. Ngài không phải nhân vật đóng băng trong quá khứ, cũng không phải tài sản riêng của cộng đoàn tín hữu thuở xưa. Ngài đã qua “giờ của Ngài” mà đến với giáo dân mọi nơi, mọi thời. Xin cho chúng ta được “gặp gỡ” Ngài trong đức tin, bởi Ngài đã hứa: “Phúc cho những ai không xem thấy mà tin” (20,29). Người đời thường nói: “Trông thấy để mà tin”. Còn trong ánh sáng Phúc âm hôm nay, chúng ta nói: “Tin để mà xem thấy.” Lạy Chúa Giêsu, xin giúp đỡ lòng tin yếu kém của chúng con. Amen.
„Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“ (Ga 12, 24)
Phải chăng đó là tình yêu giành cho con người, là Thiên Chúa giờ đây muốn gởi con Trai của mình tới: MC5-B46
Phải chăng đó là tình yêu giành cho con người, là Thiên Chúa giờ đây muốn gởi con Trai của mình tới – hay đó chỉ là một lòng thương cảm mà thôi?“
Tôi không muốn đặt sự thương cảm và tình yêu đối chọi với nhau. Sự thương cảm đích thực thì có ý nghĩa nhiều hơn là một tình cảm. Đó là một hình thức của sự đồng nhất hóa với đau khổ của người khác. Trong ý nghĩa này đó là một hành động căn bản của tình yêu.
Thế giới cổ đại của Hy-lạp đã chỉ ra sự bất biến của Thượng Đế, và thêm vào đó đã coi Thượng Đế hoàn toàn là tinh thần mà thôi. Thượng Đế này vì thế không thể cảm được, và cũng rất hiếm hoi đau khổ. Tư tưởng này đã làm cho người Kitô hữu phải tự hỏi về chính Thiên Chúa của mình. Thiên Chúa thực sự như thế nào? Và Origines có lần đã nói rất hay rằng: Thiên Chúa không thể đau khổ, nhưng Ngài có thể đồng đau khổ (thương cảm). Nghĩa là, Ngài có thể đồng nhất hóa mình với chúng ta, những kẻ đau khổ, một cách hoànt toàn. Đây là một hành động rất lớn của tình yêu. Với hành động này, Thiên Chúa trong Đức Kitô đã đồng nhất hóa mình với chúng ta, đến mức độ, mang một thân xác. Như vậy chúng ta được đồng nhất hóa với Thiên Chúa, và được đón nhận vào trong tình yêu của Ngài.“ (Joseph Ratzinger, Benedikt XVI, Gott und die Welt, S. 211)
Bạn thân mến,
Hôm nay Chúa Nhật thứ V mùa Chay, chúng ta nghe lời của thánh Phao-lô: „Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục“ Điều nhắc nhớ chúng ta về sự đau khổ của Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô Con Thiên Chúa có thể đau khổ được chăng? Đọc lời của Đức Thánh Cha, chúng ta đã nhận ra được rằng, Thiên Chúa không thể đau khổ, nhưng Ngài có thể đồng nhất hóa mình với chúng ta, những kẻ đau khổ, một cách hoànt toàn, đến nỗi trong Đức Kitô, Ngài mang chính thân xác đau khổ của chúng ta.
Nhưng tại sao Thiên Chúa lại làm như thế? Tại sao Đức Kitô dầu là Con Thiên Chúa, vẫn phải đau khổ và phải chết? Chỉ vì tình yêu, vì Ngài muốn trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả chúng ta, và như thánh Gioan thánh sử trích lời của Đức Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay: „Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“ (Ga 12, 24)
Vâng, vì để cho chúng ta là những hạt khác được sinh ra,
nên hạt lúa mì là Đức Kitô đồng ý được gieo vào lòng đất và chết đi.
Hôm nay, chúng ta đọc lại và nghiền ngẫm lời này của Đức Kitô Bạn nhé!
Thật từ từ chúng ta nhai đi nhai lại lời này, để cho từng câu, từng chữ thấm vào lòng.
Và chúng ta đừng quên dừng bước để cảm nghiệm và nếm thử hương vị „đặc biệt“ của tình yêu Thiên Chúa qua Đức Kitô. Một tình yêu thúc đẩy Chúa đồng nhất hóa với chúng ta, cho đến chỗ tồi tệ nhất của đời người, là đau khổ, sợ sệt và chết đi.
Lạy Chúa, Chúa nói với chúng con rằng: „nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.“ Lời của Chúa đi đôi với chính cuộc đời của Chúa. Một cuộc đời sống tinh thần của tình yêu. Vâng, yêu đến nỗi hy sinh mạng sống của mình cho người mình yêu. Xin Chúa cho chúng con hiểu sâu hơn và cảm nhận rõ hơn tinh thần tình yêu này của Chúa, để nhờ đó chúng con được đón nhận vào trong tình yêu của Chúa, và có thể yêu Chúa nhiều hơn. Amen
CHÚNG TÔI MUỐN ĐƯỢC GẶP THẦY GIÊSU - Đức Cha Phaolô BÙI VĂN ĐỌC
Các bạn trẻ thân mến,
Trong bài Tin mừng Gioan hôm nay, có một câu nói đánh động cha, đó là câu nói của mấy người hy lạp,: MC5-B47
Trong bài Tin mừng Gioan hôm nay, có một câu nói đánh động cha, đó là câu nói của mấy người hy lạp, những người sống ngoài lãnh địa Do Thái, lên Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa vào dịp Lễ Vượt Qua. Mấy người này năn nỉ Tông đồ Philíp: Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. Câu nói này làm cho cha suy nghĩ về ước muốn gặp Chúa Giêsu của chúng ta, của cha và các con.
Chúng ta có ao ước gặp Chúa Giêsu như mấy người hy lạp trong bài Tin mừng không? Chúng ta có cố gắng tìm ra những người tạo điều kiện cho chúng ta gặp Chúa không? Gặp Chúa, chúng ta nói với Chúa những chuyện gì?
Khi tự hỏi chúng ta có muốn gặp Chúa không? Cứ sự thường chúng ta nghĩ rằng tôi muốn gặp Chúa lắm chớ, mà đâu có gặp được! Cũng có người trong chúng ta nghĩ rằng Chúa xa vời quá, nào biết có gặp được hay không! Thực ra những ý nghĩ ấy biểu lộ một phần nào sự khô khan lạnh nhạt của chúng ta trong đời sống đạo. Chính vì thế mà trước hết chúng ta nên tự hỏi lòng mình: tôi có yêu mến Chúa Giêsu không?
Nếu thực sự tôi yêu mến Chúa, tôi rất ước muốn, khao khát gặp gỡ Người, và tôi sẽ tìm mọi cách để gặp Người cho bằng được. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, không giống như khi Chúa Giêsu còn tại thế, lúc mà những ai ao ước trông thấy Người, có thể thấy bằng mắt phàm, còn bây giờ tôi chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt đức tin, gặp Chúa bằng đức tin. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa, gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện, vì Chúa đã dạy rõ ràng: ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
Không những thế, ngày hôm nay Chúa vẫn đến cho chúng ta gặp, đặc biệt là trong Thánh lễ mà chúng ta cử hành. Gặp gỡ Chúa bây giờ mới là quan trọng, còn gặp gỡ con người tại thế của Chúa, thấy ngài bằng đôi mắt giác quan, không cần thiết lắm. Chính vì thế mà khi Oâng Anrê cùng với ông Philíp đến thưa với Chúa Giêsu ước nguyện của mấy người hy lạp, thì Chúa lại hướng các môn đồ đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh của Ngài. Chúa bảo đã đến giờ Con Người được Tôn vinh, rồi Người lại nói đến hạt lúa mì gieo xuống đất phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Và bấy giờ Người mới mời gọi ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó!
Như vậy là Ý của Chúa Giêsu đã rõ, Người hướng tất cả những ai muốn gặp Người, trong số đó có chúng ta, đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh. Nơi đó, lúc đó chúng ta sẽ gặp được Chúa. Điều đó không có nghĩa là phải đợi đến ngày lễ Phục Sinh, chúng ta mới gặp được Chúa. Chúng ta cùng nhau gặp Chúa ngay bây giờ; khi cùng nhau cử hành Thánh lễ, chúng ta đón Chúa đến với chúng ta trong lòng Giáo Hội. Và nếu chúng ta tin, chắc chắn chúng ta gặp được Chúa trong mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa.
Chúa Giêsu đến với ta trong Thánh lễ là Đấng đã chịu đóng đinh và chịu chết vì chúng ta, đã mặc lấy thân phận loài người như chúng ta, đã trải qua nhiều đau khổ, đã kêu van khóc lóc, xin Thiên Chúa Cha cứu mình khỏi chết như lời thư gởi tín hữu Do Thái. Nhưng cuối cùng Người đã vâng phục Chúa Cha, sẵn sàng chịu chết. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người, cho Người sống lại từ cõi chết.
Đó là mầu nhiệm Giáo Hội tuyên xưng và cử hành trong mỗi thánh lễ, là bí tích Giao ước mới và vĩnh cữu giữa Thiên Chúa với nhân loại nhờ Máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, làm cho chúng ta thành Dân riêng của Thiên Chúa, và Thiên Chúa là Thiên Chúa của chúng ta. Thánh lễù là bí tích của sự gặp gỡ, là bí tích của tình bằng hữu giữa Thiên Chúa và chúng ta nhờ Chúa Giêsu. Mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, các con hãy nhớ câu nói của mấy người hy lạp: Chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu.
Nói về cái chết của mình, Chúa Giêsu gọi đó là “giờ Con Người được tôn vinh”. Chúa ví cuộc sống và cái: MC5-B48
Nói về cái chết của mình, Chúa Giêsu gọi đó là “giờ Con Người được tôn vinh”. Chúa ví cuộc sống và cái chết của Chúa giống như hạt lúa gieo vào lòng đất. Có mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Nhìn lại cuộc đời của Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ta thấy Lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm vào Ngài. Cuộc đời của Ngài là hình ảnh rõ nét của cuộc đời Chúa Giêsu. Như Chúa, đời ngài là một hạt lúa.
Đó là hạt lúa được gieo vào lòng đời. Chúa Giêsu khi chấp nhận xuống thế làm người đã trở nên hạt lúa được Đức Chúa Cha gieo vào lòng đời. Hoàn toàn do tay Đức Chúa Cha sử dụng. Hoàn toàn phó thác vận mệnh trong bàn tay người gieo giống. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô cũng là một hạt lúa dâng cho Thiên Chúa để mặc Chúa muốn gieo vào đâu thì gieo. Có thể bị gieo vào bụi gai. Có thể bị gieo trên đường đi. Có thể bị gieo vào vùng đất sỏi đá. Hoàn toàn xin vâng. Thiên Chúa đã gieo Ngài vào thế giới ở một thời điểm khó khăn khiến Ngài phải chịu mục nát đi.
Đó là hạt lúa chịu mục nát. Chúa Giêsu là hạt lúa chịu mục nát trong muôn ngàn nỗi đớn đau. Đặc biệt trong cuộc Khổ Nạn và trong cái chết tủi nhục trên thánh giá. Đức Cố Giáo hoàng của chúng ta cũng đã chịu mục nát. Có thể kể ra vài khía cạnh chịu mục nát của ngài.
Mục nát trong chu toàn bổn phận. Lãnh đạo tinh thần cả thế giới công giáo không phải là việc nhẹ nhàng. Nhưng ngài đã trung thành chu toàn bổn phận của mình cho đến chết.
Mục nát trong những đớn đau thể xác. Khi còn thanh niên, ngài là một người mạnh khỏe, một “lực sĩ”. Nhưng khi làm Giáo hoàng ngài đã chịu đủ mọi thứ đau đớn trong thân xác. Bị ám sát súyt chết. Bị ngã gẫy xương nhiều lần. Phải phẫu thuật nhiều lần. Sau cùng bị căn bệnh parkinson hành hạ cho đến chết.
Mục nát trong những đớn đau tinh thần. Những đớn đau thể xác tuy nhiều và đau đớn nhưng không là gì so với những nỗi đau tinh thần mà ngài phải gánh chịu. Đau đớn vì tình trạng suy đồi của luân lý. Đau đớn vì Chúa bị quên lãng. Đau đớn vì biết bao hiểu lầm chống đối, thậm chí bị mưu sát. Tất cả những gánh nặng, những nỗi đau đó giày vò tâm hồn và thể xác làm cho cuộc đời ngài đúng là hạt lúa chịu mưa gió vùi dập đến mục nát đi.
Mục nát trong hi sinh quên mình. Như Chúa Giêsu chủ động đi vào cuộc Khổ Nạn, Đức Cố Giáo hoàng can đảm đi vào cuộc chiến đấu cho Thiên Chúa. Ngài kiên quyết bảo vệ chân lý, bất chấp mọi khó khăn. Ngài dấn thân bảo vệ phẩm giá con người, dù phải chịu cả hai khối cộng sản và tư bản chống đối. Ngài tích cực bảo vệ sự sống dù bị cả xã hội cá nhân và hưởng thụ chủ nghĩa tẩy chay. Quả thật ngài đã không tìm an nghỉ, an thân, nhưng đã dám liều mạng sống vì Chúa và vì Giáo hội. Nhưng chính nhờ đó mà ngài đã trở thành hạt lúa sinh nhiều bông hạt.
Đó là hạt lúa sinh nhiều bông hạt. Nhờ những phấn đấu không biết mệt mỏi của ngài, mà sau 27 năm lãnh đạo, ngài đã làm cho tinh thần của mọi người trong Hội thánh được vững mạnh. Ngài đã vực dậy được niềm tin nơi giới trẻ. Và đã đóng góp công sức vào việc xây dựng hòa bình thế giới. Đúng như Chúa Giêsu đã nói giờ chết của Chúa là “giờ được tôn vinh”, Đức Cố Giáo hoàng của chúng ta cũng chỉ biết đến vinh quang khi đã nằm xuống. Cuộc hấp hối của ngài được cả thế giới quan tâm. Các phương tiện truyền thông trên khắp thế giới liên tục loan tin về tình trạng sức khỏe của ngài. Và trong đám tang của ngài, biết bao lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đến cúi đầu trước linh cửu đơn sơ khiêm tốn của ngài. Tất cả mọi người đều công nhận sự đóng góp của ngài cho hòa bình và sự sống của thế giới. Tất cả mọi người đều luyến tiếc và ca tụng ngài. Xin trích một vài lời tiêu biểu.
Mục sư Billy Graham nói: “Tiếng nói của ngài là tiếng nói ảnh hưởng nhất cho những vấn đề luân lý, hòa bình trong thế kỷ chót của thiên niên kỷ thứ hai… Ngài sẽ đi vào lịch sử như một vị Giáo hoàng vĩ đại nhất trong thời đại chúng ta”.
Cựu Tổng thống Hoa kỳ Bill Clinton nói: “Quốc gia Hoa kỳ tốt đẹp hơn, hùng mạnh hơn và theo con đường chính nghĩa hơn là nhờ ảnh hưởng của Ngài. Mọi người dân Mỹ biết ơn Đức Giáo hoàng về sự lãnh đạo thánh thiện của Ngài”.
Tổng thống Hoa kỳ đương nhiệm George W. Bush đã phát biểu: “Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã góp phần thay đổi cục diện thế giới. …Chúng ta sẽ nhớ mãi người mục tử khôn ngoan, khiêm tốn, can đảm không hề sợ hãi, người đã trở thành một trong những nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại hôm nay”.
Tổng thư ký Liên hiệp quốc Kofi Annan nói: “Những giáo huấn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô còn vang dội trong tâm trí nhân loại trên khắp địa cầu như giáo điều nền tảng cho hòa bình… Đấy là lý do tại sao đối với triệu triệu người trên địa cầu, tiếng nói của ngài được coi là có uy lực nhất cho hòa bình, hi vọng và công lý”.
Đức Đạt lai Lạt ma nói: “Quả thật Ngài có một ý chí và một quyết tâm giúp đõ nhân loại về mặt tâm linh. Đó là điều tuyệt với, là điều thiện hảo”.
Báo Wall Street Journal đã tổng kết: “Ngài là một khuôn mặt siêu phàm trong một thế giới hữu hạn”.
Và trong lễ tang của ngài, hàng vạn người đã hô to: “Santo subito” (Xin hãy phong thánh ngay cho ngài). Thật là một hạt lúa đã được gieo vào giữa lòng thế giới, đã chịu mục nát đi và đã trổ sinh muôn vàn bông hạt. Tưởng nhớ Ngài, ta hãy noi gương Ngài sống Lời Chúa dạy hôm nay. Hãy để cho Chúa sử dụng chúng ta, gieo chúng ta vào cuộc đời. Hãy chấp nhận chịu mục nát đi trong bổn phận, trong quên mình phục vụ. Chắc chắn ta sẽ được phục sinh với Chúa. Đó là một mùa gặt phong phú không gì so sánh được.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con qua sự chuyển cầu của Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô. Amen. -----------------------------
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên: MC5-B49
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần. Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến “giờ” của Người. Giờ của: MC5-B50
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến “giờ” của Người. Giờ của Người đây, tức là lúc Người đạt tới đỉnh sự mệnh Cứu thế của Người, nghĩa là cuộc Khổ nạn và sự Sống lại của Người. Không nên tách rời hai việc đó. Cái chết là sự vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, như sự Phục Sinh đem lại cho nó 1 ý nghĩa bằng cách đề cao và tăng thêm sự sống. Giờ của Chúa Giêsu vừa là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là ngày Chúa Nhật Phục Sinh và giờ đó, ngày nay vẫn tiếp trong mỗi người Kitô hữu là một kẻ cũng bị đóng đinh và Phục Sinh. Ở đây, Chúa Giêsu dùng dịp mấy người ngoại giáo đến gặp Người để nói về Giờ của Người. Những người ngoại giáo này là những người “Hy lạp” có cảm tình với đạo Do Thái. Họ đến Giêrusalem để hành hương, mặc dầu họ chưa thuộc về dân của Abraham. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nói đến Giờ của Người, tức là sự Cứu chuộc, cũng dành cho người này. Tại sao vậy? Người nói đến sự Cứu chuộc bằng cách đem so sánh với hạt lúa gieo xuống đất chết đi trổ lên thành bông khác. Hạt giống chết đi, chính là Người, Đức Giêsu. Những hạt lúa được tăng gấp lên trong bông lúa là tất cả các dân tộc, hết thảy mọi người, tất cả những người “ngoại giáo” sẽ trở thành tín hữu.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nêu lên ba đề tài suy tư:
1) Hết thảy mọi Kitô hữu được kêu gọi sống “Giờ của Chúa Giêsu”. Chúng ta phải lưu ý điểm này là trong Phúc Âm của thánh Gioan, hai tiếng Vinh quang, và Chết rất gần nhau, hầu như nhập làm một. Điều này gợi lên cho chúng ta hai ý: thứ nhất, người Kitô hữu không được miễn trừ việc khai tử nơi mình, những gì chống lại sự sống thật. Phép rửa tội đã dấn thân họ trong một mầu nhiệm của sự chết. Họ không hơn Thày họ. Họ phải chết về thể xác, song họ cũng phải qua một cái chết tinh thần nào đó. Cái chết tinh thần được mệnh danh là sự từ bỏ chính mình. Thứ hai, họ có được phép vì thế, mà phải tỏ ra vẻ khắc khổ và buồn sầu không? Trái lại là khác, họ cũng đồng thời phải sống mầu nhiệm Phục Sinh-Vinh quang và hoan lạc. Sự từ bỏ của người Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp nhất với cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, trong việc bắt chước Chúa Giêsu. Đức Giêsu Kitô đã liên kết trong “Giờ” của Người cái thực tại bất khả phân của sự đau khổ và sự tôn vinh của Người. Người Kitô hữu, người của sự từ bỏ cũng vậy, họ cùng lúc phải là người của sự hoan lạc tinh thần. Phải chăng “Giờ” của Chúa Giêsu là đánh dấu mỗi giờ trong cuộc đời chúng ta?
2) Mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo xuống đất. Điều này làm nên phần riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay không, mỗi người Kitô hữu do sự kết hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham gia vào việc cứu rỗi hết mọi người anh em mình. Nếu họ không thể hành động được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán dương mà của lễ thầm kín của sự cầu nguyện, đau khổ và cái chết của người đó kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu họ có sứ mệnh hoạt động thì họ phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình tùy thuộc trước hết và trên hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
3) Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống mình thì mất nó, còn ai ghét sự sống mình đời này thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!” Điều quan trọng là phải hiểu Đức Kitô muốn nói gì. Đây không phải là chuyện tương phản giữa yêu và ghét. Chúa Giêsu nói bằng ngôn ngữ đó, sự tương phản nhiều khi chỉ là 1 cách so sánh. Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống đời này hơn số phận vĩnh cửu của mình sẽ mất hết.
Vậy để được sống đời đời, phải biết từ bỏ ít nhiều thỏa mãn thế tục. Như vậy người ta gặp lại ở đây đề tài: phải biết chết cho mình, để đạt tới đời sống đích thật. Người Kitô hữu theo Chúa Giêsu trong sự đau khổ và trong cái chết của Người, nghĩa là trong lễ tế của Người, và cũng theo sát Người trong cuộc Phục Sinh và Vinh quang Người, trong lúc chờ đợi thực hiện cho mình lời hứa của Thày Chí Thánh: Ta ở đâu, môn đệ Ta cũng sẽ ở đấy (Gio 14,3).