Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'". Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi". Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
“Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người. Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”. Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”. Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác. - Ðó là lời Chúa. ------------------------
Trong cuộc rửa tội vừa qua, tôi có bổn phận hỏi cha mẹ đứa trẻ và những người đỡ đầu các câu hỏi theo nghi thức: "Anh chị em có từ bỏ ma quỷ và những sang trọng của nó không?" Mọi người đồng thanh thưa: "Chúng con từ bỏ." Thực ra, chúng tôi đã tập dượt kỹ lưỡng rồi. Và tôi hy vọng họ thành tâm chứ không chỉ máy móc, làm theo quy định sách vở. Một tháng nữa, vào đêm vọng Phục Sinh, mọi người tín hữu đều sẽ có dịp lặp lại công thức thánh tẩy tương tự như vậy. Tôi cầu mong chúng ta sẽ thành thật trong lời tuyên xưng của mình. Tuy nhiên chẳng dễ gì để chúng ta nhận ra bộ mặt của ma quỷ và các việc làm của nó trong cuộc sống đời thường! nó mặc nhiều hình thức dối trá đến nỗi chúng ta dễ dàng lẫn lộn đen trắng, xấu tốt.
Các cám dỗ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Đang đói lả mà tìm bánh ăn, đâu có gì là xấu? tốt lắm chứ, nhất là lại có bánh dễ dàng, nhanh chóng! Ba cám dỗ nói chung xem ra hợp lý, dễ chấp nhận đối với hoàn cảnh của Chúa Giêsu và của chúng ta ngày nay.
Đúng thế, nếu đọc qua một lần thì chẳng thấy chi là vô luân trong cả ba cơn cám dỗ. Đối với nhiều người, thì chúng chỉ là truyện bình thường, chẳng thể được gọi là cám dỗ. Bánh ăn, danh vọng, lợi lộc hàng ngày ai mà không tìm kiếm? Chúng là những khao khát bình thường của các con tim bình thường để sống cuộc đời bình thường. Nhưng Tin Mừng nhìn chúng như những mối nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm. Bởi mục tiêu của chúng là dụ dỗ loài người chọn đi trên những con đường xác thịt, chứ không phải tuân theo ý muốn của Thiên Chúa. Trong trường hợp Chúa Giêsu, chúng dụ dỗ Ngài xa lánh sứ mệnh để đi con đường dễ dãi hơn. Satan cố gắng lừa Chúa Giêsu vào cái bẫy giống như hắn đã lừa Ađam và Evà: Kiêu ngạo. Nhưng bằng một phương pháp tế nhị hơn nhiều. Nó muốn lôi kéo Chúa Giêsu về phe với nó thi hành mọi sự theo đường lối của nó chứ không phải đường lối của Thiên Chúa.
Ngày nay cũng vậy thôi, các tín hữu, nhất là linh mục, tu sĩ, hành động rất xa lạ với đường lối Chúa chỉ dạy mà cứ tưởng thuận theo ý Ngài. Họ hợp lý hóa tham sân si của mình mà cứ ngỡ đó là ý Chúa. Họ thực hành ý riêng của họ chứ đâu phải ý Chúa. Ý Chúa là con đường hẹp chứ đâu phải là xa lộ 8 lằn ranh? Rượu chè, hút sái, say sưa, các tiện nghi văn minh tân thời,… với trăm nghìn lý do "chính đáng". Các cơn cám dỗ của Chúa Giêsu chẳng phải một lúc mà chấm dứt. Nó kéo dài suốt đời công khai của Ngài cho đến khi Ngài có thể hô lên: "Mọi sự đã hoàn tất" (Ga 19, 30). Nó luôn luôn ở bên cạnh để Ngài lựa chọn. Nó cũng luôn luôn hiện diện để chúng ta bước đi trong quá trình sống của mình: Đường lối Thiên Chúa hay đường lối của Hỏa ngục? Thật dễ sợ!
Nó khởi sự: "Nếu ông là con Thiên Chúa…" Con Thiên Chúa trong ý nghĩa Do thái có thể là một thiên thần, một vị thần linh, là chính dân Israel hay một vị lãnh đạo nổi tiếng nào đó, như vua chúa, quan quyền. Nó còn có nghĩa là "Giống như Thiên Chúa", chẳng hạn ai đó có quan hệ đặc biệt với Gia vê. Quan hệ cha - con, liên kết bằng tình yêu mến và vâng lời. Người đó hoàn toàn lệ thuộc và tín thác vào Thiên Chúa ban cho mình của ăn áo mặc cùng các nhu cầu khác của cuộc sống. Như vậy, đối với quỷ sứ gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" đồng nghĩa với việc đặt Ngài vào tình huống tự tôn, và thách thức tương giao của Ngài với Thiên Chúa. Ngài có quyền năng ra sao là hệ tại tương giao đó, tình huống đó. Quỷ sứ đang thử thách lòng tin cậy của Chúa Giêsu vào Cha Ngài: Liệu Chúa Giêsu có lợi dụng chỗ đứng duy nhất của Ngài trước Thượng đế mà thực hiện một phép lạ nuôi sống bản thân? Tại sao người được Thiên Chúa dấu yêu lại phải chịu đựng đói khát? Tai sao Thiên Chúa không che chở những kẻ gần cận Ngài khỏi đau khổ, tai ương, địch họa? Liệu khổ đau có phải là dấu chỉ không được Thiên Chúa mến thương? Nếu như chúng ta tin tưởng vào Chúa Giêsu thì đức tin đó có giải phóng chúng ta khỏi lầm than? Cứu thoát chúng ta khỏi mọi khốn khổ của kiếp sống con người? như bệnh tật, đói khát, thất bại, nghi nan, sầu thương, lo lắng …
Câu trả lời của Chúa Giêsu là "không". Không cho bánh ăn, tức sự sống của Ngài, không cho dụ dỗ của thế gian. Ngài không đòi lại những gì đã hiến dâng cho phần rỗi nhân loại, để làm đẹp ý Cha Ngài, để đi theo con đường "hẹp" Cha Ngài đã muốn. Nếu như Ngài nhượng bộ Satan để có nhiều lương thực, thực phẩm, để khỏi khổ đau, để giải quyết ngàn vạn khó khăn của cuộc sống nhân sinh thì Ngài vĩnh viễn xa lìa chúng ta. Ngài không thuộc thành phần nhân loại. Ngài chưa sống thực kiếp con người. Ngài chẳng phải vật lộn với cuộc đời như chúng ta. Không ai có thể đồng hóa với Ngài, coi Ngài là gương mẫu, là người chỉ đạo. Ngài không thể mang tước hiệu cứu thế!
Cách nay ba mươi năm, ở bang California xảy ra một chuyện mà rồi ai cũng biết. Người con gái gia đình tỉ phú Heast tên là Patty bị bắt cóc. Những tên bắt cóc đòi gia đình cô phải mua vài trăm xe bánh mì phân phát cho những người nghèo đói giữa thành phố để chuộc lấy mạng cô. Lạ lùng là chính cô gái cũng về phe với kẻ bắt cóc cầm súng dọa bố phải thỏa mãn yêu cầu. Khi những xe bánh mì vào thành phố, người ta nà ra cướp, các tài xế phải lấy xẻng hất bánh xuống mặt đường. Truyện kéo dài cả một tuần, sau đó cô gái được thả. Đó có phải là đường lối văn minh để nuôi kẻ nghèo đói? Đó có phải là cách Chúa Giêsu biến đá thành bánh mà ăn? Như thế thì ai còn sẵn lòng nghe theo sứ điệp Ngài rao giảng? Bánh Ngài ban cho kẻ nghèo kiểu đó ư? Người La mã cổ xưa thu hút thiên hạ đến xem xiếc bằng cách phát không bánh mì. Nếu Chúa thực hiện kiểu đó thì chẳng hóa ra sứ vụ của Ngài là một gánh hát trò? Thiên Chúa đã ban cho chúng ta dư dật để chúng nuôi nấng những kẻ nghèo đói. Có những thời kỳ người ta phải mang lương thực, thực phẩm đổ xuống biển để giữ giá! vậy thì chúng ta còn phải tìm kiếm thỏa mãn các nhu cầu căn bản đến nỗi xao nhãng việc lắng nghe "Mọi điều do miệng Thiên Chúa phán ra?" Tôi nghĩ ngược lại, cái làm cho chúng ta không để tâm nghe lời Chúa là sắm thêm TV, máy tính hiện đại, xe hơi kiểu mới, nhà lầu tinh khôn … trăm điều vừa ý xác thịt khác. Chúng chẳng có chi là cám dỗ, nhưng lối nhìn của Tin Mừng lại không như vậy.
Mùa Chay này cho chúng ta một cơ hội tốt để dẹp bỏ những thứ đó sang một bên, và tập chú vào những gì là bánh ban sự sống thật cho chúng ta trong hoang địa trần gian. Nó là một cơ hội để chúng ta thay đổi tư duy và nếp sống. Đây là mùa hối cải, là ánh sáng, là cơ hội canh tân. Không phải là mùa buồn thảm mà là vui mừng. Dĩ nhiên thay đổi đòi hỏi đau đớn và hy sinh. Nhưng dưới những khó chịu ban đầu là nguồn hạnh phúc khi thánh thần Chúa thổi luồng gió đầy sinh khí thánh thiện vào linh hồn. Đã thánh thì không thể buồn được, cũng như đã hạnh phúc thì không thể thiếu vui. Cho nên trong suốt thời gian chay tịnh chúng ta sẽ được Chúa dẫn dụ những lời ban sự sống để tổ chức lại cuộc đời mình.
Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế, nhưng bỏ trình thuật tạo dựng Evà. Điều này cho chúng ta cảm tưởng đây là lần đầu tiên "đàn bà" xuất hiện và lại là người nhượng bộ lời dối trá của Satan. Sau đó bà lôi kéo chồng phạm tội và cả hai đều sa ngã. Chúng ta chẳng thể hoàn toàn đổ lỗi cho con rắn. Nó là loài vật tinh khôn Chúa dựng nên. Nó chỉ gợi ý, nói nửa sự thật. Phần lựa chọn vẫn thuộc về tổ tiên loài người. Cơn cám dỗ khởi sự từ lòng nghi ngờ động lực của Thượng đế. Thực sự Ngài có tốt lành hay không? Ngài rộng lượng và đức độ hay không? Ngài có chăm sóc đến lợi ích của hai ông bà không? hay cấm đoán vì ích kỷ, độc quyền?
Hai ông bà đã chẳng thể cưỡng lại viễn tượng được tự do hoàn toàn, không phải lệ thuộc vào ai, chẳng phải vâng lời ai. Thần linh độc lập thì còn chi thoải mái bằng! Làm vua một làng hơn làm quan một nước! Cho nên câu hỏi của con rắn là: "Tại sao không? Ai truyền lệnh cấm? Đó chỉ là chuyện phịa! Quý vị sẽ hạnh phúc hơn nhiều …" Và câu trả lời không chỉ đơn giản "có" hoặc "Không". Nó đòi hỏi khôn ngoan lựa chọn. Ở đây rõ ràng ăn táo là khôn ngoan, từ chối là dại khờ. Phần chúng ta cũng vậy, chúng ta luôn luôn chọn lựa những gì là tốt, thông minh và tương lai hơn! Hậu quả là thường thường chúng ta bị lừa dối. Vẻ bề ngoài chưa chắc đã là sự thật. Chúng ta mở được mắt ra thì đã quá muộn.
Hình phạt là không thể tránh khỏi. Ông bà bị đuổi ra khỏi địa đàng. Mất hết hạnh phúc. Ngày nay loài người cũng vậy thôi, chúng ta phải gánh chịu hậu quả thảm khốc của các lựa chọn ngu xuẩn của mình. Vậy thì Mùa Chay nhắc nhở nhân loại, Chúa Giêsu đã dùng cây biết lành biết dữ khác mà dẫn đưa loài người về con đường ngay chính. Sự chọn lựa của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay là sự chọn lựa về phe với Thượng đế nhờ chính quyền năng khôn ngoan của lời Chúa. Ngài vâng lời để thắng bất tuân, khiêm nhường để thắng kiêu ngạo, lệ thuộc Thượng để để thắng tự cao, tự đại. Trên thập tự Ngài trút hơi thở để ban cho chúng ta thần khí sự thật và sự sống, thần khí của một người con biết vâng lời, can đảm lựa chọn "Con đường hẹp" trên dương thế này. Amen.
Trình thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu. Đó là một bản Tin Mừng thu gọn, một thứ hướng dẫn. Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong đó, hãy luôn nhớ lại 3 lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu, những điều Người còn lựa chọn lại trong suốt cả cuộc đời.
Cuộc thử thách và lòng trung thành
Thời gian 40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.
Còn hơn thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc (miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.
Trong cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn, trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình. Cũng vậy, với biến cố hôm nay, với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.
Thực vậy, sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng...). Lần đầu tiên trong suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.
Nhờ sự trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do của mình. Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối, nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.
Một cuộc chiến đấu
Con người vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng. Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra một cuộc chiến đấu.
Quả thực, qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con người. Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.
Đức Giêsu muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản thân mình. Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác, không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua. Thử thách cuối cùng là cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.
Suốt cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người. Người muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn như sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15) hoặc khi Phê-rô lên tiếng can ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc Phê-rô (x. Mt 16,23).
Như thế, Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống. Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hi sinh, phải liều lĩnh. Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt, được giao hoà với Thiên Chúa.
Cuối cùng, cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh. Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
Vì vậy, xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ không đem đến cho họ sự an toàn. Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích thực. Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại; Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa họ tới sự sống chân thật. Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được chiếm đoạt bàng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.
Chiến dấu từng ngày và suốt đời
Ba cám dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử. Mỗi người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của Người.
Cuộc chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và trần gian. Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà không được quyền bỏ cuộc, rút lui.
Vậy, đâu là những thử thách vẫn thường xảy ra và không khi nào Đức Giêsu nhượng bộ?
Thứ nhất: Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian. Họ còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần thiết.
Thứ hai: Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi. Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng tuyệt đối. Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu mến. Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.
Thứ ba: Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải để bắt người khác thần phục mình. Trái lại, mọi người đều là con một Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa. Hơn nữa, họ không được dựng nên để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:
Như vậy, vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người. Họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng làm cho họ nên giống hình ảnh của Người. Đó là chương trình đã có từ thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện. Chương trình này vẫn đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:
Chính trong việc cử hành Thánh Thể, Đức Kitô ban mình làm lương thực để nuôi sống con người. Đức Kitô xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ, Ngài đến ở với chúng ta qua việc rước lễ. Đức Kitô quỳ gối trước mặt chúng ta, rửa chân cho chúng ta, biến chúng ta thành một dân biết phục vụ, sắn sàng quỳ gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.
Con người không được dựng nên cho riêng mình. Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội để chúng ta thấy rõ căn tính của mình. Trong cộng đoàn này, chúng ta chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.
Đi vào Mùa Chay là cùng với Đức Kitô lao vào cuộc chiến đấu. để bày tỏ lòng trung thành đặt nền tảng trên Lời Chúa.
Khởi đầu Mùa Chay Thánh, người tín hữu được mời gọi “sám hối và tin vào Tin Mừng”. Lời kêu gọi này được nói với từng tín hữu, khi được chịu tro, khởi đầu mùa chay thánh. Với tâm tình yêu thương con cái mình, Giáo Hội cho chúng ta những bài học qua mỗi ngày của Mùa Chay, để mỗi tín hữu có điều kiện trở về với Chúa, củng cố thêm niềm tin của mình nhất là được sống trong tình yêu của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chịu nhiều tác động của hoàn cảnh bên ngoài, có những điều nâng đời sống của ta lên, và cũng có những điều khiến cho chúng ta quỵ ngã. Từng ngày sống, ai trong chúng ta cũng đều bị chước cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ lúc thì rõ ràng, lúc được nguỵ trang dưới vỏ bọc khác nhau. Chính vì thế mà ông bà nguyên tổ đã sa chước cám dỗ, nên bất tuân với Thiên Chúa, và mọi người đều không tránh khỏi tội tổ tông.
Bốn mươi ngày chay tịnh trong hoang địa, Chúa Giêsu đã chịu ma quỷ cám dỗ, không chỉ có thế mà còn cả trong những năm rao giảng đến khi Ngài chịu treo trên thập giá. Ngày nay con người cũng bị những cám dỗ vây quanh: vật chất, danh vọng, quyền lực… Nên Giáo Hội mời gọi mỗi tín hữu hãy dùng bài thuốc để chống lại căn bệnh cám dỗ vật chất là “ăn chay”, lắng nghe Lời Chúa để cho Lời Chúa tinh luyện tâm hồn.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để giúp ta nhận diện cơn cám dỗ riêng của bản thân. Giữa những thách đố, con người vẫn cố sức vươn lên. Vươn lên như Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chiến thắng những thách đố lớn lao trong thân phận con người. Đức Giêsu đã hoàn toàn tìm thấy cái tôi của mình ngay khi đành mất chính mình. Người không tìm cách xác định thế đứng độc lập với Thiên Chúa Cha. Nhưng Người muốn cho mọi người thấy chỉ có thể tìm được chính mình trong Thiên Chúa mà thôi. Qua những cơn cám dỗ, Đức Giêsu mạc khải bản lĩnh vô cùng vững chắc của mình trong vũ trụ. Sau khi "ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, Người thấy đói" (Mt 4, 2) Quỷ liền tấn công vào điểm yếu nhất của con người Chúa lúc đó. Trong cơn đói cồn cào, Người vẫn mạnh dạn đáp: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4, 4). Còn hơn cơm bánh, lời Chúa là nguồn sống của cả vũ trụ, vì "nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành." (Ga 1, 3). Muốn hay không, con người phải hoàn toàn lệ thuộc vào ý Chúa.
Chính vì thế, Người đã tâm sự với các môn đệ: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy." (Ga 4, 34). Nhờ xác định được nguồn sống đích thực như thế, Đức Giêsu đã đem lại sự sống phong phú cho toàn thể nhân loại. Thật vậy, "nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính." (Rm 5; 19) Khác hẳn với nguyên tổ, Đức Giêsu đã vâng lời Thiên Chúa Cha tuyệt đối. Trước những lời cám dỗ ngon ngọt của ma quỷ. Mặc dù ý thức mình phải lệ thuộc vào nguồn sống là Thiên Chúa, Người vẫn không quên mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Chúa Cha. Nhờ Thần Khí dẫn đường chỉ lối, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ hiểm độc này. Người đã chọn Thiên Chúa như cứu cánh duy nhất của cuộc đời. Tiếng Người mạnh mẽ vang lên: "Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." (Mt 4; 10).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng để thắng được cám dỗ thì phải nhờ ơn Chúa. Cuộc sống ngày hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con. Cám dỗ thống trị bằng quyền lực, bằng cuộc sống buông thả theo bản năng, cái tôi ích kỷ, giàu sang, danh vọng… Những thử thách đó đã trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ ăn chay và làm chủ bản thân, hy sinh phục vụ. Xin cho chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần chiến đấu vất vả và khi yếu đuối sa ngã. Ước gì chúng con không quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương của Chúa dành cho từng người chúng con, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa thương xót là Đấng hay tha thứ. Amen.
Bốn mươi năm đã trôi qua kể từ biến cố Tết Mậu Thân 1968. Nhưng không ai có thể quên những gì đã xảy ra trên quê hương Việt Nam, nhất là tại Cố Đô Huế. Dù nhìn từ phía nào, chúng ta không thể phủ nhận quyền lực như một cám dỗ đã đưa con người vào những sai lầm không thể tưởng tượng được.
Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu cũng bị sa chước cám dỗ về quyền lực như thế, cơn ác mộng còn ghê gớm hơn. Hậu quả, nhân loại sẽ không thể được cứu độ. Rất may, Chúa đã chiến thắng tất cả và đã mở đường giải thoát cho toàn thể nhân loại. Đây là cuộc chiến thắng tà thần cùng với những mưu mô bất chính của nó. Sự công chính đã chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh. Không có cơn cám dỗ nào dai dẳng, mãnh liệt và nguy hiểm hơn cơn cám dỗ quyền lực. Bởi đó, cần nhìn vào cuộc cám dỗ trong sa mạc hôm nay của Chúa Giêsu để tìm một con đường giải thoát cho chính mình và nhân loại.
BA CƠN CÁM DỖ MỘT BẢN CHẤT
Trong thân phận con người, Chúa Giêsu muốn chia sẻ tất cả, kể cả những cám dỗ, để nên giống chúng ta hoàn toàn. Trên Thiên đàng, Người không bị cám dỗ bao giờ. Cám dỗ đã ập đến đúng lúc Chúa đói khát kinh khủng sau bốn mươi ngày đêm ăn chay. Ngày xưa, bốn mươi năm trong sa mạc, dân Israel cũng đã bị cám dỗ, nhưng họ đã thua cuộc.
Trong cơn cám dỗ thứ nhất, Satan đánh thẳng vô cơn đói khát cồn cào để kích động Chúa dùng quyền năng để thỏa mãn nhu cầu vật chất căn bản nhất. Đáp lại, Chúa cho thấy những điều cần thiết căn bản nhất phải nhường bước trước Lời mạc khải của Thiên Chúa. Sứ mệnh của Người không phải là cung cấp những nhu cầu cơ bản, nhưng công bố Lời Chúa cho con người được sống. Đó là đòi hỏi tự nhiên của đức công chính Thiên Chúa. Đảo lộn trật tự đó, con người sẽ xúc phạm đến Thiên Chúa. Cám dỗ thứ hai càng cho thấy rõ cám dỗ quyền lực mạnh chừng nào. Satan trưng dẫn Kinh thánh để đưa Chúa Giêsu lên chín tầng mây, cưỡng bức Thiên Chúa phải hoàn thành một điều Người không hứa. Như thế là thử thách và áp đặt Thiên Chúa vào một đường lối Người không muốn sử dụng để mạc khải chính mình. Còn gì áp bức và bất công hơn?! Chính Chúa Giêsu đã xác định mình xuống trần gian để làm theo thánh ý Chúa Cha, chứ không phải theo ý riêng. Đó là đường lối công chính. Người đã không sa chước cám dỗ để dùng quyền Thiên Chúa tạo ra một “dấu chỉ” đặc biệt để khống chế lòng tin con người. Người tôn trọng tự do con người. Đức tin không thể do cưỡng bức. Quả thật, “không thể hoan nghênh những gì từ nơi Thiên Chúa, dù vĩ đại tới đâu, nếu không có tự do.” (1)
Cuối cùng, khi đưa Chúa Giêsu lên núi cao để chỉ cho Người thấy các vương quốc trần gian và vinh hoa của chúng, Satan muốn cám dỗ Chúa chấp nhận đóng vai thiên sai trần thế để sớm hoàn thành những mục tiêu sứ mệnh Thiên Sai của Chúa Cha. Chúa Giêsu vạch rõ bản chất xấu xa của Satan khi dụ dỗ Người vào con đường xa lìa Thiên Chúa duy nhất. Muốn được vinh quang thiên sai trần thế, phải cúi mình phủ phục các tà thần. Người chỉ có một Vương quốc và vinh quang duy nhât bắt nguồn từ Chúa Cha, chứ không từ trần gian (x. Ga 18:36). Vương quốc của Người không xuất phát từ những thực tại mắt thấy tại nghe, nhưng từ trong tâm khảm con người (x. Lc 17:20-21). Như thế, cám dỗ thứ ba muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng xây dựng Vương quốc Thiên Chúa bằng con đường trần gian. Đúng hơn, Satan quyến dũ Chúa vào cơn mê xây dựng một vương quốc vật chất, trong khi Nước Thiên Chúa là một Vương quốc thiêng liêng.
Tóm lại, Satan tìm mọi cách tách lìa Chúa Giêsu ra khỏi Thiên Chúa. Từ những nhu cầu vật chất cơ bản nhất đến đường lối Thiên Chúa và sứ mệnh Thiên Sai, Chúa đều bị cám dỗ dùng quyền năng thực hiện theo ý định Satan mà lìa bỏ Thiên Chúa. Cả ba cám dỗ đều có cùng một bản chất là quyền lực. Thực tế, chúng ta nhận thấy không gì nguy hiểm hơn quyền lực trong tay con người thất đức! Nó có thể lôi kéo con người xa lìa Thiên Chúa lẫn anh em, nhục mạ Thiên Chúa và phá hoại hạnh phúc con người.
Quyền lực không phải là một điều xấu xa. Nhưng nếu không được dùng đúng chỗ, đúng cách và đúng hướng, quyền lực có thể trở thành tai họa lớn cho nhân loại. Khi xúi Chúa dùng quyền biến đá thành bánh, Satan đã muốn hướng Chúa về một đối tượng không thích hợp. Khi cám dỗ Chúa dùng quyền kinh kông để bay xuống đất từ nóc đền thờ với lý lẽ vững chắc trong Kinh thánh, Satan tưởng có thể đẩy Chúa đến một cảnh huống có thể áp đảo cả Thiên Chúa lẫn con người để đạt mục đích một cách ngoạn mục. Nhất là, khi phóng tầm nhìn của Chúa về vinh quang vương quốc trần gian, Satan tưởng Chúa sẽ dễ dàng chấp nhận cho viêc thực hiện sứ mệnh thiên sai và xây dựng Nước Thiên Chúa theo hướng trần thế. Nhưng như Chúa đã khẳng quyết với Philatô: “Nước tôi không thuộc trần gian này.”(Ga 18:36) Nếu không thuộc trần gian, Nước Thiên Chúa chỉ có thể xây dựng theo ý hướng và trong quyền lực Thiên Chúa mà thôi. Đúng như Lm. Jerzy Popie#uszko khẳng quyết::“Các bạn không thể bị khuất phục một cách bất công bởi bất cứ quyền lực bất chính nào của thế gian. Các bạn chỉ quì gối trước một Đấng là Thiên Chúa mà thôi.” (2)
QUYỀN LỰC ĐỂ PHỤC VỤ
Khi không được xử dụng theo đúng ý Thiên Chúa, quyền lực sẽ trở thành sức mạnh áp bức con người. Quyền lực sẽ biến con người thành chủ nhân ông của con người. Phương tiện biến thành cứu cánh. Không gì nguy hiểm hơn!
Ngay cả tiền bạc cũng chỉ nguy hiểm khi được chuyển hóa thành một thứ quyền lực chi phối mọi hoạt động con người. Hậu quả tệ hại nhất của quyền lực là con người biến thành phương tiện để củng cố và bảo vệ quyền lực. Nói khác, chính quyền lực là nguyên nhân hủy diệt quyền làm người của con người.
“Khi vươt qua giới hạn Thiên Chúa muốn, quyền bính loài người tự biến thành một thần minh và bắt mọi người tuyệt đối phục tùng. Nó trở thành Con Thú trong Khải Huyền, một hình ảnh về quyền lực của hoàng đế bách hại ‘say máu dân thánh và máu các chứng nhân của Đức Giê-su.’(Kh 17:6) Con Thú được ‘ngôn sứ giả’(Kh 19:20) phục vụ. Nhờ những dấu lạ lừa dối, nó xúi giục dân chúng thờ phượng Con Thú.” (3)
Hình ảnh Con Thú diễn tả bản chất của quyền bính nằm ngoài thánh ý Thiên Chúa. Khi không biết đến giới hạn của mình, quyền bính tự phong thần và cứ tưởng mình có quyền tuyệt đối trên dân chúng. Đúng là khi tư đề cao như thần minh, con người sẽ rơi xuống hàng súc vật. Đó là lý do tại sao khi coi thường công lý và chà đạp nhân quyền, nhà cầm quyền trở thành loài vô tri và mất hết lương tâm. Họ cố biện minh những hành vi đàn áp nhân quyền bằng một lý thuyết nhân quyền giả tạo. Họ lừa gạt chính mình để thủ lợi cá nhân hay tập thể. Giống như Con Thú, họ cắm mắt những lợi lộc trước mắt và không thấy trước những gì chờ đợi họ trong tương lai.
Mặc dù nắm quyền tuyệt đối, “Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thực thi mọi quyền hành. Người trao lại cho mỗi thụ tạo những phận vụ nó có thể thi hành theo khả năng của bản tính riêng. Xã hội loài người phải bắt chước cách lãnh đạo này. Cách Thiên Chúa cai trị thế giới cho thấy Người rất tôn trọng quyền tự do của con người. Đó phải là đường hướng chỉ đạo cho những ai cầm quyền trong các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của Chúa quan phòng.” (4) Làm đúng như thế, họ sẽ được Thiên Chúa tôn trọng và đem lại nhiều lợi ích cho con người. Ngược lại, quyền lực sẽ chỉ là sức mạnh phá hoại khủng khiếp các giá trị nhân loại mà thôi.
Tự bản chất, quyền lực được sinh ra để phục vụ công ích. “Muốn tồn tại để phục vụ con người thuộc mọi cấp độ, xã hội phải nhắm đến công ích như mục tiêu đầu tiên của mình. Công ích là thiện ích chung của mọi người và của toàn thể con người. Con người không thể hoàn thiện nơi chính mình, nhưng phải sống ‘với’ và ‘cho’ người khác.” (5) Khi một cá nhân hay một nhóm người tập trung và xử dụng quyền bính để đạt cho bằng được quyền lợi riêng của mình, tất nhiên công ích sẽ biến tan. Lúc đó, mọi người sẽ phải hy sinh cho một người hay một nhóm người, chứ không ngược lại. Công ích phải hy sinh cho quyền lợi cá nhân hay một phe nhóm, đảng phái.
Vậy đâu là công ích? Dĩ nhiên, “những đòi hỏi của công ích tùy thuộc những hoàn cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử và liên kết chặt chẽ với việc tôn trọng và thăng tiến toàn diện nhân vị và những quyền căn bản của con người.” (6) Như thế, tự bản chất công ích luôn nhắm tới đỉnh cao là con người. Khi con người biến thành phương tiện để phục vụ chế độ, công ích không thể hiện hữu, vì đã đánh mất bản chất và mục đích tối thượng.
Tự bản chất, chính quyền không phải là cứu cánh, nhưng là công cụ phục vụ công ích của toàn dân. Bởi thế, “những ai đang gánh vác trong lãnh vực chính trị không được quên lãng hay đánh giá thấp chiều cạnh đại diện của những người làm chính trị. Tư cách đại diện chủ yếu là cam kết chia sẻ hoàn toàn số phận người dân và tìm những giải pháp cho các vấn đề xã hội. Về phương diện này, một chính quyền có trách nhiệm cũng là một chính quyền có những đức tính có thể thực thi quyền bính để phục vụ (kiên nhẫn, khiêm tốn, điều độ, bác ái, nỗ lực chia sẻ), một chính quyền nằm trong tay một người có thể chấp nhận công ích làm mục tiêu đích thực, chứ không phải mong đạt đến uy tín hay những lợi ích cá nhân khi hoạt động. ” (7)
BỐN MƯƠI NĂM NHÌN LẠI
Thực tế, có nhiều người quá say mê chiến thắng hay bảo vệ thanh thế và quyền lợi phe đảng đến nỗi coi thường mạng sống và hạnh phúc của người khác. Đó là điều đã xảy ra vào dịp Tết Mậu Thân, cách đây bốn mươi năm tại Huế. Cho đến nay vẫn có người cố biện minh cho hành động man rợ của mình. Tệ hơn nữa, họ còn hãnh diện vì những hành động điên cuồng đó. Những người chịu trách nhiệm biến cố Mậu Thân đã lên tiếng, ai còn có thể chối cãi được nữa? Chỉ có những kẻ vô lương tâm và hèn nhát mới dám chối bỏ trách nhiệm mà thôi.
Khi vượt khỏi giới hạn của mình, quyền lực tự biến mình thành cứu cánh. Từ đó, quyền lực tạo nên những bất công khủng khiếp cho đồng loại. Chỉ có những kẻ mù quáng và vô liêm sỉ mới cố tạo cho quyền lực một thế đứng như thế. Quyền lực đã trở thành một cám dỗ ghê gớm đối với con người. Hầu như không có ai có thể cưỡng lại!
Nhưng trong hoang địa, sau bốn mươi ngày ăn chay và cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chiến thắng cả ba cơn cám dỗ quyền lực. Kẻ thù đầy mưu ma chước quỷ cũng không lừa gạt được Người. Những mưu chước đó nằm dưới những chiêu bài đạo đức, vì luôn được các chứng cứ Thánh Kinh củng cố. Nhưng những bộ dạng đạo đức đó cũng không qua mặt được Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã chiến thắng những cám dỗ quyền lực trong hoang địa. Xin Chúa sai Thánh Thần đến giúp chúng con cũng vượt qua những cám dỗ quyền lực hôm nay. Xin cho những người đang nắm quyền trong đạo cũng như ngoài đời biết thức tỉnh như Chúa trước những giới hạn của quyền lực. Amen.
--------------------------------- 1. Văn sĩ Jacob, xứ Syria 2.http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4580 3. Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 382. 4. Giáo Lý Công Giáo, 1884. 5. Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 165. 6. ibid., 166. 7. ibid., 410.
Mùa chay này là dịp để mỗi người đừng chỉ nói chung chung, mà hãy từ bỏ, sửa chữa một vài tật xấu cụ thể trong cuộc sống cá nhân cũng như trong gia đình của mình, dám chấp nhận một cuộc canh tân lột xác trong đau đớn, thực hiện liên lỉ các việc đạo đức: Cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, hay nói như Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay: Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu, mùa chay nay này có thể là mùa chay cuối cùng, là cơ hội cuối cùng Chúa cho ta để làm lại cuộc đời, đừng bỏ lỡ cơ hội này và đừng để mùa chay qua đi cách uống phí mà không sinh hoa trái
Thứ tư lễ tro là ngày khởi đầu cho một mùa sám hối trở về. Mùa chay tịnh. Như dân thành Ninivê xưa xức tro lên đầu, ăn năn khóc lóc vì những lỗi lầm xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngày nay, người Kitô hữu cũng thú nhận thân phận yếu đuối, tội lỗi của mình qua việc lãnh nhận tro bụi. Những hạt tro nhắc nhớ thân phận con người được Thiên Chúa nắn tạo từ chúng và mai sau, khi kết thúc cuộc đời này, con người cũng phải trở về bụi tro mà thôi.
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ni-ni-vê. Ni-ni-vê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Gio-na đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Giáo hội khai mạc mùa chay bằng một nghi thức lâu đời đó là việc lãnh nhận nhúm tro được bỏ trên đầu, kèm theo lời nhắc nhở: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi hoặc lời mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Lời thứ nhất nhắc cho chúng ta nhớ đến thân phận con người mỏng manh của mình được Thiên Chúa tạo dựng từ tro bụi, rồi tất cả sẽ trở về với tro bụi. Nhắc như thế giúp mỗi người biết xác định lại mục đích cuối cùng của cuộc đời mình, đâu là chính yếu đâu là tùy phụ, đâu là mau qua, đâu là bền vững. Thân xác này dù có đẹp đẽ đến mấy rồi cũng sẽ phải tàn tạ và chết đi trở về cát bụi, cuộc sống trần gian này dù sang trọng, dù nghèo hèn thì cũng sẽ qua đi, chỉ có Thiên Chúa mới là bền vững; cùng đích cuộc đời của mỗi con người là hạnh phúc Nước Trời và ơn cứu rỗi mới là quan trọng còn những cái chỗ nhất chỗ nhì, những cái vinh quang, tiền của, phần thửởng của thế gian này chỉ là phù du,… vì thế đừng lo chạy đua tranh giành cho được tiếng tăm hoặc chỗ nhất chỗ nhì hay vinh dự trần thế, mà linh hồn không được ơn cứu rỗi thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc đời mình.
Qua tiên tri Giôen, Thiên Chúa mời gọi tha thiết: Hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo, hãy trở về cùng Thiên Chúa là Chúa của anh em. Thiên Chúa là người cha kiên nhẫn chờ chúng ta là con trở về để đón nhận tình yêu thương. Giống như ngày tết, khi đi xa trở về với cha mẹ, ta chỉ mong được vùi đầu vào vòng tay của cha mẹ, được ngửi mùi thân quen từ thuở nhỏ, thì cũng vậy, Thiên Chúa luôn giang rộng đôi tay để chờ và ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta được cảm nhận lòng thương xót của Chúa, được nếm hưởng lòng khoan dung tha thứ của Chúa. Vì thế, Chúa muốn chúng ta phải có một thái độ chân thành, không hình thức giả dối bên ngoài, trở về với Thiên Chúa không phải vì gượng ép hay sợ hãi, nhưng vì tin vào tình yêu và sự tha thứ của Chúa.
Lời mời gọi trở về không chỉ dành cho người tội lỗi nhưng cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, từ cụ già cho đến thiếu nhi, từ tân lang cho đến người giúp việc, mọi chức vị thành phần và tất cả những ai nhìn nhận Chúa là Cha. Ngày trở về sẽ là ngày tết, ngày xum họp đại gia đình của Thiên Chúa. Ngày ấy, Thiên Chúa như người cha vui mừng hạnh phúc khi thấy con cháu xum vầy. Ngài cho mở đại tiệc để tất cả mọi người cùng tham dự vào ngày hội vui của Thiên Chúa.
Tin Mừng của ngày lễ tro hôm nay nói về sự công chính của người Do Thái dựa trên 3 lãnh vực: Bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Từ câu 1 đến câu 4, Thánh sử Matthêu nói đến cách cư xử của chúng ta cần phải có khi thực thi tinh thần bác ái, giúp đỡ anh em trong cảnh gian nan, khốn khổ: “khi làm việc lành phúc đức... chớ phô trương... khua chiêng, đánh trống...” Bố thí là một công việc tốt, cần làm đối với tha nhân. Chúa Giêsu không đả phá hay công kích việc bố thí, nhưng Ngài cảnh giác về thái độ mà người Do Thái cần phải có khi thực hiện việc bác ái này. Ngài khẳng định những phô trương, khoe mẽ ầm ĩ là “cốt để người ta khen” (c.2) và như vậy là đã được người đời thưởng rồi, còn cần chi Thiên Chúa thưởng nữa. Bên cạnh đó, Ngài chỉ cho một cách bố thí “đừng để tay trái biết việc tay phải làm” (c. 3) nghĩa là cần khiêm tốn, âm thầm hết sức có thể, không tìm tự mãn, tự hãnh diện về công viêc mình làm ngay ở trong lòng, trong chính con người của mình. Chỉ như thế. Thiên Chúa mới trả công cho ta được.
Cầu nguyện là hơi thở và là sức sống của kẻ có đạo, và hơn thế nữa cầu nguyện là thể hiện tư cách là con cái Chúa, là cuộc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa, vì vậy Chúa muốn mỗi người hãy vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện, tức là hãy vào trong sự thinh lặng của tâm hồn, là để tâm hồn thật thanh thản nhẹ nhàng mỗi khi gặp gỡ Chúa. Như vậy, vào phòng đóng cửa lại để cầu nguyện có nghĩa là trò chuyện riêng tư với Chúa ở ngay trong tâm hồn, và như thế chúng ta có thể gặp gỡ và cầu nguyện với Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào: ở nhà thờ, ở nơi làm việc, khi đi đường, lúc ở nhà. Một cái cám dỗ rất lớn ngày hôm nay đối với nhiều người đó là lười cầu nguyện, không cầu nguyện là một tâm hồn không có sức sống, không cầu nguyện nó còn là dấu chỉ của một tâm hồn kiêu căng không biết cậy dựa vào Thiên Chúa, là một thái độ sống vô ơn trước những ơn lành của Thiên Chúa. Bắt đầu từ mùa chay này mỗi người hãy dành nhiều giờ hơn cho việc cầu nguyện gặp gỡ Chúa mỗi ngày, hãy tổ chức lại giờ kinh giờ cầu nguyện mỗi tối ở nơi gia đình, vì khi tụ họp lại bên nhau trước mặt Chúa, Chúa sẽ hiện diện và biến đổi mỗi thành viên trong gia đình nên tốt hơn, Chúa sẽ bảo vệ hạnh phúc và sự êm ấm của các gia đình.
Chay tịnh không có nghĩa là hà tiện, nhưng còn là việc giảm bớt những chi tiêu để có thể chia sẻ với người khác ; không để mình mất quá nhiều thời giờ vào việc ăn uống cùng các thứ hưởng thụ nghiện ngập, nhưng biết dành những thời giờ đó để đến gặp gỡ với Thiên Chúa và chia sẻ với anh em. Hơn nữa qua việc làn chủ bản thân, dành thời giờ đến với Chúa và đến với anh em, việc chay tịnh có thể chữa lành được những vết thương trong tâm hồn, xoá đi những lối sống đơn điệu nhàm chán và làm cho cuộc sống của chúng ta đầy tràn tình yêu thương hơn.
Một người có thể dễ dàng ăn kiêng theo lệnh của bác sĩ, hoặc vì lý do sắc đẹp, họ sẵn sàng ăn kiêng, tập luyện. Nhưng ăn chay không phải là ăn kiêng. Chay tịnh là một việc làm đạo đức trong tôn giáo, việc chay tịnh thể hiện ý chí, quyết tâm của con người dứt khoát không để mình bị lệ thuộc vào vật chất, không đế nó làm chủ và điều khiển bản năng của mình. Với lối sống dễ dãi, chạy theo hưởng thụ, tiêu dùng và thoả mãn ngày nay, việc chay tịnh là một thách thức với nhiều người. Nhiều người đã để mình bị lệ thuộc hoàn toàn vào vật chất, biến mình trở thành nô lệ, hoặc con nghiện cho các thú vui. Vì thế, Lời Chúa mời gọi chúng ta giữ chay không phải là làm ra vẻ rầu rĩ, ủ dột bên ngoài, nhưng phải là sự quyết tâm từ bên trong, tránh mọi sự lôi kéo của vật chất và đam mê, trong đó có sự đam mê ăn uống, để con người của mình được nhẹ nhàng thanh thoát mà đến cùng Chúa.
Tin vào Tin mừng là tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài, tin vào sự hướng dẫn của Ngài vì Chúa Giêsu đến để chỉ cho chúng ta biết cách sống đẹp lòng Thiên Chúa, biết cách sống cho xứng với phẩm giá con người và con Chúa, và Ngài còn chỉ dẫn chúng ta con đường về với Chúa con đường hạnh phúc thật là cùng đích cuộc đời chúng ta. Bước vào Mùa Chay, Tin Mừng chỉ cho chúng ta những việc làm cụ thể, thể hiện lòng sám hối, thể hiện quyết tâm thay đổi cuộc đời bằng ba việc: Cầu nguyện, bố thí và ăn chay, nhưng trước hết vẫn là lời cảnh báo: Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng đừng phô trương cho thiên hạ thấy, bằng không anh em sẽ mất công phúc trước mặt Cha trên trời. Cái cám dỗ triền miên của con người đó là sự khoe khoang khoác lác, là sự kể công, kể thành tích của mình và đòi người khác phải ghi công ghi danh của mình, hoặc đòi ưu tiên quyền lợi cách này cách khác. Một khi chúng ta để mình rơi vào cám dỗ đòi quyền lợi đòi ưu tiên, một khi chúng ta chỉ còn chú tâm đòi hỏi ưu tiên quyền lợi ở trần gian khi làm việc công phúc hoặc làm việc cho Chúa, cho giáo hội, thì chúng ta đang đánh mất phần thưởng của Chúa, vì Thiên Chúa biết tất cả sự hy sinh của chúng ta, chúng ta muốn được trả ở thế gian này thì chúng ta mất phần thửơng từ tay Chúa ở trên trời.
Mới đây xuất hiện trên mạng hình ảnh những chị em phụ nữ Trung Quốc rủ nhau xuống mồ nằm. Khi mới nhìn thấy những hình ảnh này, chắc hẳn ai nấy đều thắc mắc là không hiểu vì sao họ lại làm như vậy?
Tuy nhiên, trên thực tế đây chỉ là một phương pháp để giảm bớt căng thẳng của chị em phụ nữ Trung Quốc sau hôn nhân đổ vỡ. Theo người sáng tạo phương pháp này (bà Liu Taijie) chia sẻ, khi nằm xuống huyệt, họ sẽ cảm nhận như mình đã chết. Khi đó, họ mới hiểu rằng còn nhiều thứ trên đời mà họ còn chưa làm được. Từ đó, những người tham gia sẽ bỏ qua quá khứ buồn đau, bắt đầu cuộc sống mới cho riêng mình. (Nguồn: Internet).
Bắt đầu Mùa Chay, Giáo hội cũng đưa ra nhiều phương pháp để giúp chúng ta chữa trị tâm hồn: Đó là sám hối, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí. Với lễ nghi xức tro hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta: “Hãy nhớ rằng mình là tro bụi, một mai rồi sẽ trở về bụi tro.”(St 3,19). Thật vậy, tro chỉ sự chóng qua mau tàn: Đó chính là thân phận bèo bọt của con người, như lời thánh vịnh 102 diễn tả:
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi, Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, Một cơn gió thoảng là xong Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)
Tro chỉ sự khiêm nhường: Khi chấp nhận được xức tro trên đầu là chấp nhận sự thấp kém, chấp nhận sự chóng qua mau tàn của mình. Chính ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (x. St 18,27). Tro cũng chỉ sự sám hối: Việc rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi và là dấu chỉ lòng ăn năn sám hối của con người với Thiên Chúa (x. 2Sm 13,19; Mac 3,47 ; Eth 4,1; Mt 11,21). Khi xức tro, thừa tác viên cũng có thể dùng lời Kinh thánh sau đây để mời gọi các kitô hữu sám hối: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(MC 1,15). Tiên tri Giô-en mời gọi chúng ta hãy sám hối thực lòng: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Ge 2,12). Sám hối thực lòng là “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo” (Ge 2,13). Đó là hành động dũ bỏ những tội lỗi trong con người chúng ta. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3,1-ABC11). Con người cũ đó là: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam…giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Dũ bỏ con người cũ nhưng phải thay thế vào đó bằng những việc lành phúc đức. Mùa chay mời gọi chúng ta thay thế bằng cầu nguyện, ăn chay, làm phúc bố thí.
Việc cầu nguyện: Cầu nguyện là trò chuyện với Chúa. Cầu nguyện đối với người kitô hữu như cá cần nước để sống. Khi cầu nguyện chúng ta bắt chước gương Đức Giêsu: Ngài cầu nguyện khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, nhất là trước những vấn đề hệ trọng. Khi cầu nguyện chúng ta thi hành bổn phận Đức Giêsu dạy: Ngài dạy chúng ta cầu nguyện theo Kinh Lạy Cha; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù; Ngài dạy chúng ta cầu nguyện để xua trừ ma quỷ, vì có những thứ quỷ chỉ có trừ được bằng cầu nguyện, như có lần Ngài nói: “Giống quỷ ấy chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”(MC 9,29). Khi cầu nguyện nhắc nhở chúng ta sống tín thác vào Chúa. Đức Giêsu nói: “Không có Thầy các con không thể làm được việc gì?”(x. Ga 15,5). Vậy, chúng ta hãy xét mình lại về tinh thần cầu nguyện của chúng ta như thế nào? Cầu nguyện riêng? Cầu nguyện chung? Cầu nguyện trong gia đình, ở nhà thờ? Cầu nguyện khi thành công? Cầu nguyện khi thất bại?...
Việc ăn chay: Nhằm giúp chúng ta làm chủ các ham muốn của xác thịt, tâm hồn gia tăng cách tự do để hướng tới sự chiêm niệm về các điều thiện hảo và đặc biệt là để đền bù các tội lỗi của mình, Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay. Ăn chay theo luật bao gồm việc nhịn ăn và kiêng ăn. Việc nhịn ăn: Trong ngày ăn chay không được ăn vặt, chọn một bữa ăn no, còn hai bữa kia chỉ được ăn vừa hoặc ăn ít. Việc kiêng ăn: Kiêng ăn thịt loài máu nóng như thịt heo, gà, bò, vịt…Ngày hôm nay, Giáo hội chỉ buộc ăn chay trong hai ngày: Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Ngoài ra, Giáo hội khuyến khích người kitô hữu ăn chay theo khả năng và hoàn cảnh của từng người. Đặc biệt, Giáo hội luôn mời gọi con cái mình ăn chay theo nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn: giảm bớt tiêu xài; kiêng ăn uống say sưa; không nói xấu nói hành; không xem những bộ phim xấu, những tranh ảnh khiêu dâm…Tiên tri Isaia còn cho chúng ta biết về cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích nhất, đó là: “mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58,4-8).
Việc bố thí: Một trong những ý nghĩa của việc ăn chay là bớt phần ăn của mình để làm phúc bố thí cho người nghèo. Vì vậy, việc ăn chay và bố thí luôn đi đôi với nhau. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta: “Mùa chay là mùa thuận tiện để mở cửa cho tất cả những ai đang túng quẫn và nhận ra nơi họ khuôn mặt của Chúa Kitô.” Trong Tin mừng theo Thánh Mathêu, Đức Giêsu cũng cho chúng ta biết, khi làm phúc bố thí cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa, và đó cũng là điều kiện để được hạnh phúc Nước Trời. Vị Thẩm Phán mời gọi kẻ lành vào hưởng hạnh phúc nước trời bằng những lời thân thương sau đây: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25,35-36).
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết vận dụng những phương pháp mà Giáo hội đưa ra trong Mùa Chay thánh này, đó là sám hối, ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí để chữa trị tâm hồn chúng con, giúp chúng con có sức chiến đấu với sự dữ và ma quỷ. Amen.
Tân Tổng thống Hoa kỳ Donald Trump đã quyết định xây bức tường dọc theo biên giới, nhằm ngăn chặn người nhập cư từ Mexico vào Hoa kỳ. Đức Thánh Cha Phanxico và Hội đồng Giám mục Hoa kỳ đã nhiều lần lên tiếng: Nên xây cầu. Không nên xây tường. Xây tường là thái độ đóng kín. Là thu mình vào cá nhân ích kỷ. Là nghèo nàn tàn lụi. Xây cầu là thái độ mở lòng ra với Chúa, với tha nhân. Làm cho đời sống phong phú. Hãy mở lòng. Đó là sứ điệp Lời Chúa của ngày Thứ Tư Lễ Tro. Lời Chúa hôm nay dạy ta hãy cầu nguyện, bố thí và ăn chay. Đó là hãy mở lòng ra.
Cầu nguyện là mở lòng ra với Chúa. Mở lòng ra với Chúa là mở vào siêu việt. Con người đâu phải bị trói buộc vào mặt đất, hữu hạn,tầm thường. Con người có khả năng vươn lên siêu việt. Và còn hơn thế, Thiên Chúa là người Cha luôn yêu thương mong chờ con cái về với Người. Khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa là vô biên. Nhưng có cây cầu nối con người vào siêu việt để gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là cầu nguyện. Mùa Chay là mùa thuận tiện để Chúa thi ân, ban ơn cứu độ. Tháo gỡ con người khỏi trói buộc của mặt đất tầm thường, khỏi bùn lầy tội lỗi. Nâng con người lên tự do của con cái Thiên Chúa. Nên Chúa mời gọi ta hãy xây dựng cây cầu nối liền với trời cao để gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy nâng lòng lên tới Chúa. Hãy khao khát những sự trên trời. Đóng kín vào bản thân, vào mặt đất, vào vật chất là tự giam hãm, tự tàn lụi, tự hạ thấp con người. Cầu nguyện là mở lòng ra. Là gặp gỡ Thiên Chúa. Là vươn tâm hồn lên. Là vươn nhân loại lên. Là nâng thế giới lên cõi cao thượng.
Bố thí là mở lòng ra với tha nhân. Con người lo lắng về đời sống thực tế trần gian. Nên thường vun quén cho bản thân. Vì lo cho bản thân nên thường đóng kín với tha nhân. Trong đời sống thành thị hoá hiện nay, nhà đóng kín cửa, xây tường khoá cổng là phổ biến. Người ta ít quen biết nhau. Càng ít giao du. Sống ảo rất nhiều. Thăm viếng rất ít. Vì thế không thông cảm với tha nhân. Chia sẻ càng ít lắm. Mùa Chay Chúa mời gọi chúng ta hãy mở lòng ra với tha nhân. Chung quanh chúng ta đầy thảm cảnh. Thảm hoạ Formosa khiến hàng triệu người không có thu nhập cả hàng năm nay. Thảm hoạ lũ lụt khiến bao nhiêu nhà cửa, của cải, hoa mầu trôi theo dòng nước. Chung quanh ta biết bao Lazaro đang nằm thoi thóp. Cha Thục và giáo dân Song gọc bị đàn áp dã man chỉ vì muốn đòi công lý. Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm bị đe doạ cưỡng chế vô lý. Chúng ta đừng như nhà phú hộ cứ đóng kín cửa mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Hãy mở cửa ra. Nhất là hãy mở lòng ra. Đón tiếp người cơ nhỡ. Đòi công lý cho người bị áp bức bất công. Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Thăm viếng người tù tội. Khi lòng ta mở ra với tha nhân, tâm hồn ta phong phú vì tràn đầy tình yêu thương. Có yêu thương thế giới mới đổi mới. Con người mới hạnh phúc.
Ăn chay là mở lòng ra với bản thân. Con người đóng kín với Thiên Chúa và với tha nhân là vì con người tự đóng kín vào bản thân. Chỉ nhìn vào hạnh phúc riêng mình. Tìm hưởng thụ. Đó chính là hình ảnh người phú hộ. Chỉ biết ăn uống, trang điểm cho mình. Khi con người chỉ biết chăm chút cho bản thân con người bị trói buộc vào thú tính. K. Marx đã từng nói: Trước nỗi khổ của tha nhân, chỉ có loài súc vật mới tiếp tục liếm láp bộ lông để làm đẹp cho bản thân. Khi con người biết tự chế trong ăn mặc tiêu dùng, con người thoát khỏi ràng buộc của thói cá nhân ích kỷ, thoát khỏi bị ràng buộc vào vật chất hưởng thụ. Phá đi được bức tường cá nhân ích kỷ giam hãm đóng kín vào bản thân. Con người sẽ mở lòng ra với Chúa và với tha nhân. Sẽ biết vươn tâm hồn lên siêu việt. Sẽ biết mở lòng ra với anh em. Tâm hồn mở ra sẽ phát triển cả chiều cao với Thiên Chúa và chiều ngang với tha nhân. Sẽ trở nên rộng lớn. Sẽ xứng đáng với phẩm giá của con người và của con Chúa.
Đó cũng chính là chủ đề của Sứ điệp Mùa chay năm 2017 của Đức Thánh Cha Phanxico khi ngài nêu cao: Tha nhân là hồng ân của Chúa và Lời Chúa là hồng ân của Chúa. Ngài dựa vào dụ ngôn Nhà phú hộ và Lazaro để minh hoạ cho chủ đề mở lòng ra. Ông phú hộ vì đóng kín vào bản thân mà quên Chúa, không nhìn thấy tha nhân. Đến khi ông chết mới nhận thấy Lời Chúa là quan trọng và tha nhân là hồng ân. Nhưng không còn kịp nữa.
Vậy trong mùa Chay năm nay, chúng ta hãy nghe theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha. Hãy mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra với tha nhân. Khi mở lòng ra ta sẽ thấy Lời Chúa là hồng ân cao cả đem đến cho ta sự sống đời đời. Và tha nhân là hồng ân để ta được gặp Chúa, được phục vụ Chúa và được hạnh phúc.
Hãy lên một chương trình sống mùa Chay thực sự. Chương trình cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Chương trình giúp đỡ những nạn nhân đang cần trợ giúp. Chương trình thăm viếng các bệnh nhân và tù nhân. Như cô Đoàn thị Hương đang gặp khó khăn ở Malaysia…
Khi sống một mùa Chay thực sự thực tế, chắc chắn ta sẽ nhận được ơn phúc dồi dào của Chúa.
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê nước Pháp. Một hôm khi đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn liền nói: “Vậy thì bạn hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy!” Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở như thế trong nhà thờ thật ư? Hãy cho tớ biết chỗ đó là chỗ nào vậy?”. Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo ở cuối nhà thờ này đấy!”.
2) Bác ái chia sẻ là phương cách ăn chay đẹp lòng chúa hơn cả:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.
3. SUY NIỆM:
+ Yêu thương là cho đi: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phao-lô đã khuyên các kỳ mục ở Ê-phê-xô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Thánh Gia-cô-bê dạy các tín hữu phải có đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2,15-16).
+ Bố thí chia sẻ: Một việc đạo đức ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay là sự bố thí chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng sẽ mang lại nhiều hữu ích cho tâm hồn ta:
** Việc bố thí giúp ta ý thức giá trị tương đối của đồng tiền: Giúp ta biết dùng đồng tiền trong việc làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân, giúp ta bớt đi lòng dính bén với của cải vật chất như Đức Giê-su đã khuyên chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà chia cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi” (MC 10,21).
** Bố thí còn là cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Raphaen đã khuyên bảo hai cha con nhà Tô-bi-a như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu” (Tb 12,8-9).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Trong Mùa Chay, ta nên làm thêm một số việc đạo đức nào? 2) Ta cần phát hiện ra mình có mối tội đầu tức là thói hư tật xấu nào và phải làm gì để tu sửa lại?
ĐÁP:
1) Việc đạo đức: Dự lễ và rước lễ hằng ngày, mỗi ngày cố gắng làm vài ba việc hãm mình hay việc bác ái để đền tội, quyết tâm tu sửa một thói hư như: Chửi thề tục tĩu, lười biếng đọc kinh tối gia đình…
2) Tập làm các việc tốt đối lập với thói hư tật xấu, kèm theo một lời nguyệt tắt như: “Lạy Chúa, xin cho con chừa bỏ được tội nói xấu kẻ mà con không ưa, bằng cách thành thật khen ngợi ưu điểm của họ với người khác, để con được mỗi ngày một nên giống Chúa hơn”.
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Cùng với toàn thể Hội Thánh, con được bước vào Mùa Chay. Con tạ ơn Chúa đã cho con có được một thời gian thuận lợi để duyệt xét lại cuộc đời con, hầu phát huy điều tốt và chấn chỉnh những sai lỗi thiếu sót nơi bản thân con. Xin chiếu dọi ánh sáng Lời Chúa để con nhận ra con người yếu hèn của con. Nhất là xin đổ Thần Khí Chúa nâng đỡ con. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp con mới có thể mau mắn chỗi dậy trở về làm hòa với Chúa sau mỗi lần vấp ngã và ngày một nên người mới như ý Chúa muốn.
- Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, con thường tỏ ra ích kỷ, khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con cũng làm được một vài việc tốt, nhưng con lại muốn nhiều người biết và khen ngợi con. Hôm nay xin giúp con biết ăn ở khiêm tốn theo lời Chúa dạy: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để những việc con làm luôn đẹp lòng Chúa và xứng đáng được Chúa ban Nước Trời đời sau.
Chu kỳ Phụng Vụ lại xoay chuyển vần xoay. Mùa chay, bắt đầu từ ngày hôm nay và Mùa chay là thời gian chuẩn bị, dọn lòng con người. Mùa chay hướng chúng ta, đưa con người đến việc tưởng niệm mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Mùa chay được khai mào bằng việc xức tro trên đầu ngày thứ tư lễ tro. Nghi thức xức tro gợi cho con người, loài người và mỗi người chúng ta về sự thực hiển nhiên là cái chết. Trong nghi thức xức tro, vị Chủ tế xức tro trên đầu mỗi người và nói: " Hãy sám hối và Tin vào Tin mừng ". Lời mời gọi của vị Chủ tế gợi cho mỗi người về thân phận yếu hèn, tội lỗi của mình. Sám hối là kêu gọi mỗi người hãy nhìn lên Chúa để thấy Chúa cao cả, thánh thiện biết bao và nhờ đó, con người sẽ phải cố gắng, vượt thắng để noi gương bắt chước Chúa và nhận lấy tấm lòng từ ái, nhân hậu của Chúa. Giáo Hội trong nghi thức đầu Mùa chay này, cũng cho chúng ta thấy một sự thực đáng sợ mà mỗi Kitô hữu phải đối diện là cái chết. Một sự thực hiển nhiên và cũng thật bất ngờ bởi vì ai cũng phải chết nhưng giờ chết hay lúc nào con người phải chết thì không ai biết được. Đúng là sự chết thật chắc chắn những cũng thật là bấp bênh: " Người ơi hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro ". Con người vẫn biết mình là bụi tro như Thiên Chúa đã phán với Ông bà nguyên tổ là Ađam và Evà rằng: " Con người từ bụi đất sẽ trở về với bụi đất ". Đó là một sự thực thật rõ ràng, nhưng cũng rất bấp bênh. Nhiều người đã cùng chúng ta sống Mùa chay năm trước cũng như các năm trước nữa, vô số người đã gặp gỡ chúng ta, đã trao đổi, trò chuyện cùng chúng ta, nhưng hôm nay trong thánh lễ này, họ đã khuất, họ đã ra đi. Đó là sự kinh ngạc, bỡ ngỡ, bấp bênh của kiếp người. Nhưng hiển nhiên, chúng ta không hề biết tại sao họ lại ra đi như thế. Đó cũng là mầu nhiệm của sự chết và là huyền nhiệm của kiếp người xem ra rất vững chắc nhưng cũng lại thật là mong manh, mỏng dòn và dễ vỡ. tuy nhiên, có một điều tối quan trọng là chúng ta có đủ chuẩn bị chắc chắn cho cái chết của chúng ta hay không? Cái chết của chúng ta có dẫn chúng ta tới sự sống đời đời và đưa chúng ta tới sự phục sinh của Chúa?
Chúa ban chúng ta cơ hội, thời gian để sám hối và tỉnh thức chờ đợi Ngài tới trong vinh quang. Chết là hết. Chúa không cho chúng ta cơ hội, dịp thuận tiện thứ hai để dọn mình chờ đón cái chết. Điều quan trọng nhất, chúng ta có trung thành với Chúa suốt cả cuộc đời hay không, hay chúng ta ơ hờ, buông xuôi mặc thời gian Chúa ban để chơi bời, phung phí những giây phút quí báu của cuộc sống con người. Cái chết đáng sợ thật, nhưng nếu chúng ta đã sẵn sàng, gắn bó với Chúa, trung thành với sứ mạng Thiên Chúa trao phó: quá khứ, hiện tại, tương lai đều là của Chúa. Chúng ta không thể thay đổi, đẩy lùi quá khứ, chúng ta cũng chẳng hiểu được, đoán được tương lai. Hiện tại là quan trọng bởi vì tất cả đều là hồng ân và đều là thời gian của Chúa. Chúng ta hãy sống khoảnh khắc hiện tại với mức cao độ của yêu thương thì chúng ta sẽ sống tốt khoảnh khắc cuối cùng của đời mình. Chúng ta hãy đọc lại những lời của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong " Tư Tưởng Về Cái Chết " như sau: " Không nhìn lại đàng sau nữa, nhưng con vui vẻ làm bổn phận trong lúc này đây như là ý Chúa, một cách đơn sơ, khiêm tốn, và mạnh mẽ. Làm nhanh, làm tất cả, làm tốt. Làm một cách tươi vui: điều mà Chúa muốn nơi con trong lúc này đây, cả khi nó vượt quá sức lực của con và cả khi nó đòi hỏi mạng sống của con đi nữa. Sau cùng, trong giờ phút này ".
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định, phải là điều xinh đẹp nhất của cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy dành cho tất cả mọi người tình yêu thương, nụ cười của chúng ta mà không mất đi một giây nào.
Mỗi khoảnh khắc của cuộc sống chúng ta hãy là:
khoảnh khắc đầu tiên khoảnh khắc cuối cùng khoảnh khắc duy nhất. (Trích trong Chứng Nhân Hy Vọng TGM F.X Nguyễn Văn Thuận, Công Đoan Đức Mẹ La Vang ấn hành 2.000, trg 98-99).
Vâng, Chúa mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là chúng ta phải tránh xa tội lỗi mà trở về với Chúa đồng thời chúng ta phải để Chúa thay đổi thực sự tâm hồn mỗi người chúng ta. Suốt Mùa chay, mỗi Kitô hữu hãy siêng năng tham dự thánh lễ hằng ngày, năng chịu các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa giải và siêng năng lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô. Đây là việc sám hối đích thực và là cơ hội thuận tiện, giờ cứu độ để chúng ta sám hối ăn năn và nhìn lên Chúa để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại giáo huấn của Giáo Hội qua Phụng vụ hôm nay: " Người là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro ". Chúa nói: " Hãy xé lòng chứ đừng xé áo ".Phải cải hóa nội tâm, phải thay đổi chứ không chỉ sống bề ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết vượt thắng các cám dỗ như Chúa đã đối diện với những cám dỗ và đã vượt thắng một cách vẻ vang. Amen.
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ni-ni-vê là một điển hình (x. Gn 3,1-ABC10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã hủy bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giê-su hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội...
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giê-su đề cập đến qua câu nói: "Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện" (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giê-su đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không nằm trong việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà nằm trong tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh... Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: "Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương" (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Ngôn sứ Giô-en trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh đến cái cốt tủy bên trong của việc chay tịnh: "Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em" (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ I-sa-i-a lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: "Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?" (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng "các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ" (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là "tình yêu biểu diễn", "có vẻ yêu thương", mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giê-su khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: "Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo".
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ I-sa-i-a, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ... trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
-------------------------------
MC 1-ABC411: Cầu nguyện để vượt qua cám dỗ - Huệ Minh
Ngày còn bé, chẳng được đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và vài vùng lân cận. Chính vì thế, chẳng biết được đường đèo trắc trở là gì? Chỉ nghe ai đi về kể hay chỉ xem trên màn hình của TV.
Lớn lên một chút, có dịp đi hành hương La Vang để thăm Mẹ. Chính nhờ chuyến đi La Vang đó mà tận mắt thấy được nhiều đoạn đường quanh co và nguy hiểm. Có lẽ trắc trở nhất chính là đoạn đường đèo Hải Vân.
Khi đi qua đường đèo Hải Vân, đâu đó hai bên đường người ta lập những miếu thờ để thờ những nạn nhân không may mắn. Tai nạn xảy ra có thể bất cẩn từ phía người lái nhưng cũng có khi bất cẩn từ người thợ máy, kỹ thuật xe để làm cho chiếc xe không đủ an toàn khi leo đèo và nhất là khi xuống đèo. Chính vì sự chểnh mảng, thờ ơ hay cẩu thả đã để lại những tai nạn khôn lường và đáng tiếc.
Trên con đường đèo, dọc theo đường đèo, ta thấy rất nhiều bảng cảnh báo, nhiều bảng chú ý để cảnh báo người lưu thông nhằm tránh gây tai nạn đáng tiếc. Với mức độ nguy hiểm như vậy, dĩ nhiên những ai đi trên đèo đều hết sức cẩn thận, tỉnh cáo và đề cao cảnh giác đến mức tối đa.
Khi đi hành hương chung với nhau, với những người tâm linh theo đạo Công Giáo chắc có lẽ có thói quen lần chuỗi, cầu nguyện để cho mọi chuyện tốt đẹp khi lên đèo và tạ ơn Chúa và Mẹ sau khi đổ đèo được an toàn.
Thường là như vậy, khi bước lên xe, khi đi qua những đoạn đường nguy hiểm người ta thường đọc kinh cầu nguyện, xin ơn bình an. Cũng thế, ta thấy rằng khi cuộc sống của ta đứng trước bờ vực của sự nguy hiểm ta cũng ra sức cầu nguyện và xin ơn.
Con người là như vậy để rồi ta thấy chính Chúa Giêsu cũng như thế khi gặp những khó thăn, thử thách của cuộc đời.
Chúa Giêsu bước vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú. Nhưng, ta để ý, chính Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và rồi sau khi vào rồi thì có các Thiên Thần hầu hạ người.
Vấn đề lớn, vấn đề chính yếu đó chính là Thần Khí Chúa thúc đẩy, Thần Khí Chúa tác động và dĩ nhiên có ơn của Chúa Thánh Thần ở với Chúa Giêsu. Cùng theo đó, các Thiên Thần hầu hạ Chúa và điều đặc biệt hơn cả phát xuất tự nơi Chúa Giêsu đó chính là việc Chúa Giêsu đã ăn chay và cầu nguyện.
Giữa những thử thách của cuộc đời, chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện thì khi đó ta kết hợp mật thiết với Chúa và khi đó ta mới vượt qua những cơn cám dỗ mà thôi. Chuyện dễ hiểu bởi lẽ trong ta luôn luôn có sự giằng co của con người xác thịt và con người Thần Linh.
Bản thân mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội ắt hẳn được Thiên Chúa ghi dấu ấn trong đời và có Chúa ở cùng. Cạnh đó, mỗi người đều có một vị thiên thần bản mệnh đi theo mình để giúp mình, định hướng sống cho mình và giúp cho mình vượt qua những cơn gian nan thử thách trong cuộc đời.
Trải qua dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta thấy cầu nguyện, ăn chay, hãm mình hết sức cần thiết cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta. Như hơi thở của cuộc sống, cầu nguyện cũng như thế. Thân xác ta, nếu ta không khổ chế, ta không hãm mình thì ta sẽ dễ hưởng thụ để chu cấp những đòi hỏi cho thân xác này.
Cũng dễ hiểu vì lẽ con người là con người phàm xác thịt để rồi cứ bị giằng co của thân xác, đặc biệt với quyềm, danh, tình... Những thứ đó dường như nó giằng co, nó không chế con người. Nếu như con người không biết mình là ai, không biết được giới hạn của mình sẽ dễ đi vào con đường của hưởng thụ. Từ hưởng thụ đó, con người sẽ dễ buông mình để đi theo những cám dỗ của nó.
Lời thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa cất lên thật hay:
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
Và như vậy, ta cứ mãi mãi chạy đến Chúa, xin Chúa hướng dẫn cuộc đời ta để ta luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Có như thế, ta mới có thể vượt qua những cơn cám dỗ bên đời ta.
Chúng ta bước vào Mùa Chay với Chúa Giêsu, vì “sau khi chịu phép rửa, Thần Khí đẩy Ngài vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú…” Thánh sử Maccô không nói đến việc Chúa Giêsu ăn chay, nhưng các thánh sử khác đều nói đến điều đó. Ngài khai mạc cuộc đời công khai của Ngài bằng những ngày chay tịnh và chiến đấu chống ma quỷ. Thánh Maccô cũng không nói đến Chúa chịu cám dỗ như thế nào. Đối với thánh Maccô, cám dỗ không phải chỉ là một giai đoạn mà suốt cả cuộc đời Chúa Giêsu. Cuộc đời của Ngài là một cuộc chiến liên lỉ chống lại Satan cho đến ngày chiến thắng cuối cùng là phục sinh.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta vào cuộc chiến triền miên của Ngài, vì chúng ta sẽ phải chống lại ma quỷ đến cùng, cho đến ngày chúng ta toàn thắng trong Chúa.
Mùa chay chính là lúc khai mạc một thời điểm quan trọng, thời chiến đấu, vì “ma quỷ luôn như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Nó là kẻ thù số một của loài người. Ngay từ buổi đầu ma quỷ đã cám dỗ Ađam và Evà, và đã khuất phục tổ tông chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ của nó. Chúa Giêsu đến để triệt hạ kẻ thù nguy hiểm đó, giải thoát chúng ta, đưa chúng ta trở về với Cha chúng ta là nguồn mọi hạnh phúc và bình an. Ngài bắt đầu cuộc giải phóng của Ngài bằng một thời gian sa mạc, thời gian cầu nguyện thân mật với Cha Ngài.
Bốn mươi ngày là một thời gian dài. Con số 40, của người Do Thái chỉ là con số tượng trưng chỉ một thời gian dài vô định. Con số nầy được sử dụng nhiều lần trong Kinh thánh. Môsê lên núi Khoreb với Chúa bốn mươi đêm ngày. Dân Do Thái phải sống trong sa mạc suốt bốn mươi năm, tiên tri Êlia đi trong sa mạc bốn mươi ngày để đến điểm hẹn của Chúa là núi Khoreb…
Một thời gian dài như thế để làm gì? Đối với người Do Thái chay tịnh là để cầu nguyện và đền tội. Chúa Giêsu cũng vào sa mạc là để sống với Cha Ngài. Mối liên hệ nầy là sức sống của Ngài. Ngài với Cha Ngài là một như Ngài đã nói, Ngài luôn làm theo ý Cha, dìm mình trong thánh ý của Cha. Vì thế, trước khi bước vào rao giảng Tin Mừng, Ngài cảm thấy cần được sống với Cha trong tình yêu của Cha. Trước khi thuộc về loài người, Ngài thuộc về Chúa Cha.
Bước vào Mùa Chay là bước vào sa mạc với Chúa. Chúng ta cũng đi vào con đường cầu nguyện. Tâm hồn không cầu nguyện như một mảnh đất khô, làm sao bông hoa nhơn đức có thể mọc lên và trổ hoa được? Chúng ta chỉ là tro bụi làm sao có thể sinh hoa trái nếu không có mưa ơn thánh?
Chúng ta thường hay lấy lý do không có thì giờ hay bị ngăn trở nhiều bề, không thể cầu nguyện. Buông bỏ mọi sự để vào sa mạc của tâm hồn để gặp Cha trên trời, không phải là xa xỉ mà là sức mạnh. Một chiếc xe chạy mãi cũng phải dừng lại đổ xăng. Linh hồn chúng ta cũng cần nhiên liệu để đi tới. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy nhu cầu đến với Chúa Cha. Hãy theo Ngài vào sa mạc để cho lòng mình lắng xuống, để cảm thấy sự bình an lan tỏa vào tâm hồn, vượt lên trên mọi lo lắng để vươn cao. Chúa mời gọi chúng ta: “Hỡi những ai lao nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bồi dưỡng cho”. Hãy vào sa mạc với Ta…
Chúa Giêsu vào sa mạc cũng để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài bắt đầu bước vào cuộc chiến công khai với ma quỷ, và cuộc chiến nầy sẽ kéo dài suốt cuộc đời trần thế của Ngài cho đến giây phút trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha. Và Ngài đã toàn thắng.
Chúng ta đang xung vào trận mỗi ngày. Ma quỷ không mệt mỏi, nhưng chúng ta mệt mỏi. Lắm khi chúng ta cũng bại trận, nhưng Chúa không để chúng ta thất bại mãi đâu. Ngài luôn trợ lực. Ngài là thuẫn đỡ khiên che, Ngài là nơi chúng ta nương ẩn, là thành lũy bảo vệ. Bám vào Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã lao vào cuộc chiến với tất cả nghị lực của ngài. Có lúc ngài phải la lên: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết nầy”? Ngài bám sát vào Chúa Kitô đến nỗi đối với ngài sống là Chúa Kitô và thập giá của Người: “ Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô”. “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh đối với tôi, và tôi đối với thế gian”. Chúng ta không thể chiến thắng ma quỷ nếu không có thập giá, cũng không thể có sự thánh thiện mà không có chiến đấu. Thánh Phaolô đã kiên trì chống lại mọi cám dỗ và bắt thân thể ngài phải cực nhọc và phục tùng. Ngài đóng đinh tính xác thịt với những dục vọng của nó vào thập giá. Cuộc chiến cam go và dai dẳng, nhưng hiệu quả sẽ huy hoàng. Con đường thập giá dẫn đến phục sinh.
Mùa Chay mang một màu sắc không mấy vui tươi, nhưng nó cho chúng ta cơ hội để rèn luyện tâm hồn xứng đáng đón nhận tình yêu của Đấng đã yêu chúng ta và đã liều mạng cứu chúng ta. Hãy cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc chiến chống lại tất cả những gì là xấu xa nhơ nhớp để sống một cuộc đời thanh trong tươi đẹp hơn. Nếu tất cả những người tin Chúa đều cương quyết bước vào cuộc chiến chống lại sự dữ thì thế giới của chúng ta đã tươi đẹp hơn rồi. Sau khi cầu nguyện và chay tịnh, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Thánh Maccô chỉ nói ngắn gọn bao nhiêu đó nhưng chính đó là cả chương trình dài hạn của Chúa Giêsu mà đây mới chỉ là khởi đầu. Ngài tiếp nối sứ vụ của Gioan Tẩy Giả và của các tiên tri, tức là liếp tục chương trình của Chúa Cha và Ngài sẽ đưa đến chung cuộc là cứu vớt nhân loại, đưa nhân loại trở về nguồn sung mãn là Tình yêu của Chúa Cha: “Thời đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng chính là Ngài, là Con Thiên Chúa đến khai mở thời cứu độ.
“Thời đã mãn” tức là Nước Thiên Chúa đã được khánh thành nơi Chúa Giêsu., chương trình cứu độ của Chúa Cha đã được thực hiện. Muốn cho Nước Thiên Chúa được hoàn thành, chúng ta phải đi vào con đường sám hối, nghĩa là thay đổi nảo trạng và cuộc sống để phù hợp với ý định của Chúa. Sám hối, thay đổi não trạng không là một việc dễ dàng. Con người không thích bị xáo trộn, chỉ thích ngủ yên trong những thói quen của mình, nhất là những thói quen xấu. Chúa Giêsu đã dám liều thân cho chúng ta, không lẽ chúng ta lại để cho những công trình của Ngài ra vô hiệu. Hãy đứng dậy, chúng ta hãy đi, đi vào cuộc chiến để dành lại hạnh phúc mà ma quỷ đã tướt đoạt của chúng ta. Mùa Chay chỉ có ý nghĩa khi chúng ta dám dấn thân với Chúa vào công cuộc đổi mới cuộc sống để “nên trọn lành như cha trên trời”.
Chúa Giêsu vẫn còn ở giữa chúng ta cho đến khi chương trình của Ngài được hoàn tất. Ngài vẫn thiết tha mời gọi. Ngài vẫn tiếp tục nâng đỡ chúng ta, nuôi dưỡng ý chí và mọi khả năng của chúng ta bằng chính bản thân Ngài. Ngài dám cho chúng ta ăn lấy Ngài. Chúng ta không thể từ chối hồng ân cao cả đó. Ăn lấy Ngài để cùng Ngài cứu vớt anh em chúng ta, những người chưa được hạnh phúc biết Ngài, những anh em đau khổ hồn xác, những người bị thiệt thòi trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa đến trong trần gian hôm nay qua tình yêu của chúng ta, qua những cố gắng hằng ngày, qua niềm tin chân thành của chúng ta.
Sau ba ngày Tết, hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay. Mùa chay kéo dài 40 ngày. Con số 40 tượng trưng cho một cuộc khởi đầu mới: lụt đại hồng thủy 40 đêm ngày; 40 năm dân Do Thái đăng trình trong sa mạc để tiến về Đất Hứa; 40 ngày 40 đêm ngôn sứ Elia đi bộ về núi Hôrép để lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước. Và Chúa Giêsu làm cuộc hành trình cá nhân 40 đêm ngày trong hoang địa để sau đó bắt đầu một cuộc xuất hành mới dẫn dân mới về Đất Hứa là Quê Trời. Bốn mươi ngày cũng là hình ảnh của cuộc đời mỗi người chúng ta. Thật vậy, như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chịu phép rửa, liền được Thần khí đẩy vào sa mạc chịu Satan cám dỗ, chúng ta cũng vậy, sau phép rửa tội liền bắt đầu chiến đấu với các cám dỗ.
Chúa Giêsu là Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ nhưng Ngài đã chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ nhờ Ngài liên lỉ lựa chọn giữa ý Cha và ý Người. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Mác-cô nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chúa Giêsu quay lưng lại với Chúa Cha; khước từ sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cơn khát – đói và thèm muốn xác thịt và tinh thần của mình. Cụ thể, qủy đã hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Ðức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma quỷ nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Tuy ma quỷ đã thất bại với Chúa Giêsu, nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước hết nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra phương tiện để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Ðó là những mối tội đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và cho những người xung quanh. Chẳng hạn, ngày 28/1 vừa qua một vụ cướp của giết người gây chấn động thành phố Hồ Chí Minh đó là tên Nguyễn Công Bảo 15 tuổi giết nghệ sĩ cải lương Đỗ Linh để cướp tài sản. Đau đớn thay cho xã hội nay đó là kẻ giết người chưa đến tuổi thành niên!
Hôm nay khởi đầu Mùa Chay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của ma quỷ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chúa. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chúa bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện như Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện. Vì thế, trong bài đọc 2, Thánh Phêrô khẳng định: “Khi chúng ta Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Biết cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại và khỏi sa chước cám dỗ. Amen.
Hằng năm, vào Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe Tin mừng kể lại câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ.
Năm A, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Mathêu. Năm C, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Luca. Cả hai tác giả tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ khá dài và đầy đủ các chi tiết về ba phương diện: danh, lợi, thú. Còn năm B, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Marcô, tác giả tường thuật câu chuyện này chỉ vỏn vẹn có hai câu như chúng ta vừa nghe: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” (MC 1,12-13).
Như vậy, cả ba Tin mừng đều tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ và Ngài đã chiến thắng. Nhưng nhiều người thắc mắc tại sao Đức Giêsu cũng bị cám dỗ? Thưa, vì Ngài có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Với bản tính loài người, Ngài cũng mang trong mình thân phận con người, vẫn phải chấp nhận những gì thuộc về con người ngoại trừ tội lỗi. Nên Ngài vẫn bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu từ bỏ sứ mạng Chúa Cha trao phó để theo đường lối của thế gian. Nhưng đứng trước cơn cám dỗ của Ma quỷ, Ngài đã cương quyết chống lại và Ngài đã chiến thắng. Không những Ngài chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ mà Ngài còn có quyền trên Ma quỷ nên đã nhiều lần Ngài đã xua trừ Ma quỷ ra khỏi con người.
Với bản tính loài người, mỗi chúng ta cũng bị Ma quỷ cám dỗ. Nhưng cơn cám dỗ của Ma quỷ sẽ không làm hại được chúng ta khi chúng ta không ưng thuận, hay nói cách khác Ma quỷ không thể làm hại chúng ta khi chúng ta không chiều theo cơn cám dỗ của chúng. Thông thường, cơn cám dỗ xảy đến bằng ba giai đoạn: Thứ nhất, Ma quỷ gợi lên nơi tâm trí chúng ta một tư tưởng xấu như: hình ảnh đồi trụy, lòng tham của cải, tiền bạc, vi phạm những điều luật cấm…; Thứ hai, Ma quỷ xúi giục chúng ta thích thú hoặc hướng chiều về những điều vừa kể trên; Thứ ba, nếu chúng ta ưng thuận là sa chước cám dỗ của chúng, còn nếu chúng ta chống trả thì chúng ta thắng được chước cám dỗ của Ma quỷ. Ngày xưa, Ma quỷ cám dỗ Evà ăn trái cấm. Evà đã ưng thuận nên hái trái cấm mà ăn. Evà đã phạm tội. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã cương quyết chống lại. Đức Giêsu chiến thắng. Cứ như thế, Ma quỷ vẫn tiếp tục cám dỗ con người, có những người thắng được chước cám dỗ như Đức Giêsu, nhưng cũng có vô số những người thua chước cám dỗ của Ma quỷ như Evà.
Ngày hôm nay, Ma quỷ vẫn cám dỗ chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau về các phương diện danh, lợi, thú. Thông thường ma quỷ không cám dỗ chúng ta phạm tội trọng ngay nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm tội cách tiệm tiến từ tội nhẹ đến tội nặng. Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say; hai là đốt nhà của mình; ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra. (Sưu tầm)
Trong cuộc sống thường ngày, Ma quỷ cũng dùng những chiêu thức trên đây để cám dỗ con người và có rất nhiều người đã sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, về tội lỗi đức công bằng: Mới bắt đầu, Ma quỷ cám dỗ con người phạm các tội nhẹ như ăn cắp vặt, dần dần chúng cám dỗ con người ăn trộm những thứ giá trị hơn, rồi tham ô tham nhũng, trở thành kẻ cướp lúc nào không hay. Về tội dâm ô: Lúc đầu, Ma quỷ cám dỗ con người bằng những tư tưởng xấu, xem hình ảnh xấu, rồi đến xem phim đen, quan hệ bất chính, cuối cùng là phá thai, giết người.
Chính vì thế, phải luôn đề phòng với chước cám dỗ của Ma quỷ. Thánh Phêrô đã lưu ý chúng ta rằng: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma qủi, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”(1 Pr 5,8-9a). Hãy sống tiết độ trong lời nói. Hãy sống tiết độ trong việc làm. Hãy sống tiết độ trong ăn uống. Tiết độ bằng cách ăn chay hãm mình. Ăn chay theo luật Giáo hội. Ăn chay luân lý là nhịn ăn, nhịn nói, nhịn những thú vui chơi không lành mạnh, nhịn đi tới những nơi, gặp gỡ những người có thể làm cho chúng ta sa ngã phạm tội.
Hãy tỉnh thức trước những mưu chước cám dỗ mà Ma quỷ bày đặt ra. Ma quỷ không hiện hình một cách công khai để cám dỗ con người, nhưng chúng bày ra những chước cám dỗ như những cái bẫy giăng sẵn mà chúng ta khó nhận ra để làm hại chúng ta.
Vì vậy, Thánh Phêrô bảo chúng ta hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự. Đứng vững trong đức tin mà chống cự bằng cách siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Đức Giêsu đã từng mời gọi các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(MC 14,38). Chính Ngài đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Mt 6,13).
Xin cho tất cả mọi người chúng ta biết noi gương Đức Giêsu luôn cương quyết chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của Ma quỷ. Amen.
Giáo Hội bước vào Mùa Chay cùng với cả thế giới. Cả thế giới đã sống Mùa Chay của mình từ hơn một năm qua. Đến nay đã có hơn 110 triệu người bị nhiễm, và 2,4 triệu người chết vì dịch bệnh Covid. Cơn dịch bệnh kinh hoàng đã tác động đến toàn bộ cuộc sống của hầu hết mọi người trên thế giới. Đời sống tôn giáo cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Nhà thờ đóng cửa, Thánh lễ Chúa nhật và các bí tích bị ngừng. Nghi thức tiễn biệt người qua đời cũng làm trong vội vã. Lo âu, buồn thảm, hoang mang, thất vọng. Cả người có đức tin mạnh cũng thấy mình bị dao động. Chúng ta đã và đang sống trong một Mùa Chay dài. Mùa Chay của năm phụng vụ đi với Mùa Chay cuộc đời. Điều đó làm cho Mùa Chay năm nay mang nét rất riêng. Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thật ngắn, kể lại chuyện Đức Giêsu bị Xatan cám dỗ, thử thách. Nơi thử thách là hoang địa, vắng người ở, ít sự sống. Đức Giêsu không tự ý đi vào hoang địa, Ngài được Thần Khí dẫn vào, đẩy vào nơi vắng vẻ đó. Có thể nói Thần Khí đưa Đức Giêsu vào một cuộc tĩnh tâm, kéo dài nhiều ngày, trước khi bắt đầu thi hành sứ vụ. Hoang địa vừa là nơi gần gũi thân tình với Thiên Chúa, vừa là nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt với Xatan. Hoang địa là nơi Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện, nhưng cũng là nơi Ngài nghe những mời mọc của Xatan, trước khi quyết định hướng đi sắp tới của mình. Khi chịu phép rửa, Đức Giêsu là Người Con mà Cha hài lòng. Ngài cũng là Đấng Mêsia được Thần Khí ngự xuống. Còn nơi hoang địa, Xatan cám dỗ Ngài không sống theo ý Cha, không sống theo Thần Khí, không đi vào con đường hẹp. Đây là một thử thách thật sự khó khăn. Đức Giêsu đã vượt qua được cơn thử thách này. Thế giới hôm nay cũng đang ở trong một cơn thử thách lớn. Thiên Chúa cho phép những thử thách đau khổ xảy ra trong đời các Kitô hữu (1 Pr 1,6; 4,12; 1 Cr 10,13; Gc 1,13-15), đời từng người, và trong cả dòng lịch sử nhân loại. Chúng ta không hiểu, và cũng khó chấp nhận thử thách, vì nó quá tàn nhẫn, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa độc ác, vì nó đầy ngạo nghễ, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa bất lực. Nhưng thử thách dạy chúng ta nhiều điều. Bất chấp mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, một con vi-rút nhỏ bằng một phần bảy mươi ngàn sợi tóc đã làm náo loạn cả thế giới, và cho thấy con người mong manh. Nhẫn nại và khiêm tốn cầu xin trong cơn thử thách là điều phải làm song song với nỗ lực dập tắt dịch bệnh. Thiên Chúa nói với con người qua những thử thách. Thái độ của chúng ta là khiêm tốn lắng nghe. Thử thách đưa đến những hậu quả khủng khiếp, nhưng chúng ta tin “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích lợi cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28). Thử thách là lời mời gọi khẩn thiết của Thiên Chúa. Ngài mời chúng ta liên đới với nhau hơn, cùng nhau chống lại những bệnh dịch mới đe dọa sự sống hơn là chạy đua vũ trang và gây chiến tranh khắp nơi. Ngài mời chúng ta lo cho nhau hơn, coi nhau như người nhà, phá đi những bức tường ngăn cách giữa các quốc gia. Ngài mời chúng ta sống nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, bớt mua sắm, bớt giờ cho internet, thêm giờ cho Chúa. Ngài mời chúng ta phong tỏa cái xấu, giãn cách với tội lỗi, tránh xa mọi lây nhiễm bằng thứ khẩu trang nhiều lớp, và cẩn thận rửa tay mình cho sạch mọi ô nhơ. Nạn đại dịch là một lời mời, một nhắc nhở của Người Cha đầy yêu thương dành cho con cái. Nếu chúng ta đáp lại lời mời đó bằng hoán cải, canh tân, thì đại họa có thể trở thành cơ hội tuôn trào ân phúc. Và Mùa Chay này thành thời gian tuyệt vời dẫn đến Phục Sinh. Lời Nguyện Lạy Chúa Giêsu là vị Thượng Tế nhân từ, chắc Chúa buồn và thương khi thấy chúng con đang vật vã với cơn thử thách. Chúa cảm thông với những gì chúng con đang trải qua, vì chính Chúa đã nếm nỗi đau của cuộc Khổ nạn. Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, đã khẩn khoản nài xin Cha cất chén đắng, và cảm thấy bị Cha bỏ rơi khi hấp hối trên thập giá. Chúa đã chịu thử thách về mọi mặt như chúng con, nhưng vẫn giữ một niềm trung tín. Lạy Chúa Giêsu là cây nho thật, xin cho chúng con chấp nhận sự cắt tỉa của Chúa Cha, để cành nho chúng con thêm trĩu quả. Xin cho chúng con đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng không để chúng con bị thử thách vượt quá sức mình. Xin cho chúng con trưởng thành hơn, cứng cáp hơn qua những thử thách đau thương, để trở nên như lưỡi gươm thép được tôi luyện cho cuộc chiến chống lại quyền lực của ác thần. Amen.
Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là: Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa - đi với ma mặc áo giấy”?
Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:
“Biết mặt khó biết được lòng Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.
Đôi khi xoáy giữa sang hèn Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ
Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù... Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa...
Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
“Số phận đã cho chúng ta vô tình lướt qua nhau nhưng lại không trao cho chúng ta quyền được yêu nhau. Em không trách anh, cơn say nắng của em. Vì tất cả là do lỗi của em dại khờ. Em sẽ nhớ đến anh, người đã làm cho em say nắng và chao đảo mọi thứ vì cơn say nắng đó. Chúc anh luôn vui và hạnh phúc. Chúc cho em sớm thoát khỏi mê cung do mình tự dựng nên.
Ai trong đời cũng từng có vài lần say nắng, rồi thời gian sẽ chữa lành vết thương. Ai cũng có một hiện tại đáng trân trọng, đừng để chút ngọt ngào giữa dòng đời cám dỗ. Vợ anh tốt, và chồng em cũng vậy. Chúng ta không thể có lỗi với họ. Say nắng thôi anh nhé! Tình yêu đích thực hay say nắng chỉ là cơn say nắng”
Lần đầu tiên tôi được nghe từ “say nắng” từ một cô gái kể chuyện chồng bị “say nắng”. Cô ta nghĩ rằng chồng cô khi tiếp xúc bên ngoài phải gặp nhiều người thì cũng có thể “say nắng” ai đó là chuyện bình thường. Nhưng rồi không phải vậy, chồng cô đã phản bội cô thật, chứ không chỉ là say nắng một chút rồi sẽ tỉnh lại để về với vợ con.
Hóa ra “say nắng” là căn bệnh của những người đã có gia đình nhưng lại đem lòng tương tư một ai đó. Tìm cách làm quen, nhắn tin, hẹn hò ăn tối, nghe nhạc... Dù có thể chưa đi tới sự phản bội nhưng nó cũng đủ làm cho người “say nắng” bỏ bê gia đình để đi tìm niềm vui riêng.
Vốn dĩ tình yêu là "mù quáng". Bởi vậy khi yêu, ai cũng có thể trở nên "ngu muội". Vì khi trong tim mình, trong mắt mình chỉ cần người mình yêu là đủ thì người ta dễ quên cả lối về. Khi yêu người ta không sống bằng lý trí mà là bằng con tim chỉ lao vào vòng tay của nhau và vượt qua mọi rào cản của đạo lý.
Xem ra trung thành tuyệt đối với tình yêu thật khó. Bởi vì hằng ngày ta phải tiếp xúc với bao nhiêu người rất đẹp, rất dễ thương, rất chiều chuộng khiến ta dễ bị say nắng. Nếu không hồi tỉnh và một lúc nào đó cơn say sẽ dẫn ta vào con đường lạc lối lúc nào chẳng hay.
Trong tương quan với Thiên Chúa càng khiến con người dễ “say nắng” bởi những cám dỗ trần gian. Có biết bao cám dỗ bởi tiền, bởi tình, và bởi quyền khiến ta say nắng chỉ nghĩ và tơ tưởng về nó. Có khi cơn say khiến ta quên cả luật Chúa để lao vào cơn say của danh lợi thú. Cơn say nào rồi cũng tỉnh nhưng hậu quả của nó đôi khi khiến ta mất hết tất cả: danh dự, gia đình và của cải. Khi tỉnh ngộ đôi khi đã quá muộn màng.
Trong năm 2017, dư luận như sôi lên sau khi một người phụ nữ ở Bình Dương khai nhận đã giết rồi chặt xác chồng thành nhiều mảnh. Đấy là một câu chuyện thực sự rùng rợn, nếu xét về tình tiết và hành động, nhưng xét cho cùng, thì với bất cứ lý do gì, đấy là một kết cục rất buồn, với sự tan nát của một gia đình, với cái chết của một người, và người kia đối diện với tù tội và tòa án lương tâm. Người phụ nữ này dám làm điều ác cũng từ cơn say tình dẫn đến chuyện gì cũng dám làm.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta “say nắng” mà bỏ nhà thờ, bỏ bê bổn phận với gia đình. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta biết chế ngự cơn say của mình, dẫu biết rằng cám dỗ vẫn luôn có nhưng quan yếu là dám từ khước để sống trung thành với Chúa. Xin cho các gia đình trẻ đang khi phải bươn trải với cuộc sống mưu sinh nhưng luôn biết chế ngự cơn say của mình, để đừng vì “say nắng” ai đó mà phá vỡ hạnh phúc gia đình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
***
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (MC 1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đồi, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
***
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời. Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Yêsu: “Thời điểm đã đến, Nước Trời đã gần bên, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
1. Đã đến thời: đây là thời ân sủng, đây là ngày cứu độ
Ngày xưa thời Noah, Thiên Chúa đã dủ lòng thương xót cứu một số nhỏ tám người khỏi chết vì nước lụt. Và rồi qua biến cố đó, Thiên Chúa đã hứa sẽ không bao giờ hủy diệt loài người bằng nước lụt như vậy nữa. Thiên Chúa đã lập giao ước với loài người và với mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa cùng Noah và mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ nhắc nhớ để Thiên Chúa không hủy diệt con người cho dù con người có phạm tội. Cầu vồng là dấu chỉ và bảo đảm tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Thời điểm hiện tại, hôm nay, còn có điều quý hơn cầu vồng rất nhiều. Đó là lý do Đức Yêsu nói: “thời đã đến.” Ngày xưa cầu vồng là dấu chỉ và bằng chứng Thiên Chúa không hủy diệt con người ngay cả khi người ta phạm tội, thì hôm nay “có điều gì đó” bảo đảm Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người nữa. Thánh Phaolô diễn tả thời điểm này bằng câu: “Đây là ngày giải phóng, đây là thời cứu độ.” Cái gì rất quý đã xuất hiện; và “điều quý” đó cho thấy Nước Thiên Chúa đang tới.
Đức Yêsu xuất hiện như dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Qua Đức Yêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người khi con người phạm tội đáng chết, nhưng còn nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Đức Yêsu là dấu chỉ và là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở giữa con người: Nước Trời đang đến gần. Hãy trở lại với Thiên Chúa, vì Nước Trời đang đến gần, vì Thiên Chúa đang yêu thương con người.
2. Hãy sám hối
Đức Yêsu trước khi đi rao giảng, Ngài đã tới sông Yordan cúi đầu nhận phép rửa thống hối từ tay Yoan Tẩy Giả. Đức Yêsu sám hối không phải vì tội lỗi của Ngài, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nên Ngài đại diện con người cúi đầu sám hối trước Thiên Chúa. Sám hối là nhận biết mình lỗi lầm, sai phạm, xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em, để trở lại với Thiên Chúa và với anh chị em, để xin lỗi Thiên Chúa và anh chị em mình, để bắt đầu một đời sống mới.
Tội là lỗi đức công bình, vi phạm quyền lợi của người khác, xúc phạm đến ngôi vị khác, dù đó là Thiên Chúa hay con người. Thiên Chúa tạo dựng nên con người, nên theo công bằng, con người phải tôn kính Thiên Chúa như Đấng tạo dựng. Con người phải tùy thuộc Thiên Chúa như Đấng tạo dựng nên mình, đó là công bình. Nếu con người muốn độc lập với Thiên Chúa, là phủ nhận quyền tạo dựng của Thiên Chúa, là bất công với Thiên Chúa. Mười giới răn Thiên Chúa, là những giới hạn cho con người biết mình đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị khác, dù của Thiên Chúa hay của con người. Chẳng hạn, cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng mình, thì mình phải có thái độ tôn kính các ngài; không tôn kính các ngài, là không tròn đạo hiếu, là lỗi đức công bình đối với cha mẹ. Mỗi người đều được quyền sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn, nếu ai không nói sự thật, lường gạt người khác và làm tổn thương người ta, là xúc phạm đến họ. Không ai được quyền bắt người khác nói điều họ không muốn; mỗi người cũng được quyền tự do làm theo điều mình muốn mà không xúc phạm đến quyền lợi của người khác.
Sám hối, là nhận ra sự thật về chính mình; nhận ra và thú nhận mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và con người, muốn bắt đầu lại cuộc sống mới, hoàn trả lại cho Thiên Chúa và cho tha nhân điều những ngôi vị đó có quyền được, đó là sám hối. Không thể coi là sám hối nếu không thấy mình thực có lỗi; nếu cứ xin lỗi mà không thật sự thấy mình có lỗi, e rằng đó không là hành vi khiêm tốn thật sự. Đức Yêsu chịu phép rửa sám hối, vì Ngài gánh tội trần gian; Ngài thấy Ngài cần sám hối vì Ngài đại diện tất cả con người.
3. Tin vào Tin Mừng
Nước Thiên Chúa đã gần, là cách nói để chỉ Thiên Chúa đang hiện diện, cần con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, để Thiên Chúa hiện diện nơi lòng mình, và qua mình để Thiên Chúa hiện diện trong môi trường mình sống, với những người mình tiếp xúc. Thiên Chúa vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi và ở mọi thời điểm, qua thiên nhiên và mọi tạo vật như dấu chỉ của Ngài. Tuy nhiên, qua Đức Yêsu, Thiên Chúa hiện diện với con người một cách rất đặc biệt. Chính Đức Yêsu cũng ý thức điều này ở những giây phút cuối đời Ngài: “ai thấy thầy là thấy Cha.”
Sám hối, trở lại với Thiên Chúa và con người, là điều kiện cần để con người có thể đón nhận Tin Mừng là chính Đức Yêsu Kitô. Đón nhận Đức Yêsu, cũng là đón nhận lời rao giảng của Ngài, là để Ngài giáo huấn hầu trở nên con Thiên Chúa, để có thể sống hạnh phúc không chỉ đời sau nhưng ngay hiện tại. Đức Yêsu là đường, là sự thật, và là sự sống. Đức Yêsu như người mẫu, sống theo Ngài con người sẽ tìm được bình an và hạnh phúc thật sự.
Đức Yêsu là Tin Mừng cho con người không chỉ từ khi Ngài sống lại, nhưng Ngài là Tin Mừng cho con người ngay từ biến cố nhập thể. Đức Yêsu là Tin Mừng Thiên Chúa ban cho con người; điều này con người vẫn phải tin chứ không thể chứng minh như một chân lý toán học. Những lý chứng về Đức Yêsu chỉ có tính gợi ý và soi sáng. Mỗi người đều phải tin và phó thác cho Thiên Chúa khi tin Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể và là Tin Mừng cho tất cả con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đâu là điểm yếu của bạn, dễ làm bạn xúc phạm Thiên Chúa và con người nhất? 2. Bạn có cảm thấy tâm tình sám hối, muốn bắt đầu một đời sống mới trong Thiên Chúa không? Xin chia sẻ điều này.
Tái sinh trong Đức Kitô là mục đích cuối cùng của mùa chay. Hàng năm Giáo Hội mời gọi Kitô MC 1-ABC420
Tái sinh trong Đức Kitô là mục đích cuối cùng của mùa chay. Hàng năm Giáo Hội mời gọi Kitô hữu tái sinh trong Đức Kitô, học biết về tình yêu Chúa nhiều hơn, trở nên giống Đức Kitô hơn trong lối sống, cách cư xử, cách yêu thương, cách tha thứ và nhất là xin cho được con tim biết nhạy cảm trước đau khổ của đồng loại. Hiểu biết về Đức Kitô nhiều hơn chính là hiểu biết về đời sống của chính mình, hiểu rõ hơn mục đích của cuộc sống nơi dương thế. Hiểu biết í nghĩa cuộc sống nơi dương thế chính là hiểu rõ hơn mầu nhiệm tình yêu Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn ta. Để khám phá ra tình yêu Chúa trong ta cần dùng đến chìa khoá được đề nghị thực hiện trong mùa chay. Chìa khoá đó bao gồm cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Giáo Hội ước mong trong hy vọng Kitô hữu thực thi ba điều trên suốt mùa chay thánh sẽ trở thành thói quen tốt lành, tập quán đạo đức được thực hiện thường xuyên trong cuộc sống. Đây không phải là điều mới lạ mà chính là những gì ta tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, sống yêu Chúa, mến tha nhân, từ bỏ ma quỷ và những quyến rũ bất chính của chúng.
Cầu nguyện đẩy xa cám dỗ, dẫn ta đến gần Chúa, chặt đứt liên hệ với sa đoạ, liên kết mật thiết hơn với Chúa và giúp hiểu rõ hơn về con người mình. Cầu nguyện hàng ngày giúp tâm hồn trong sáng, con tim thanh thản nên có thể nhìn rõ hơn đời sống nội tâm; ăn chay giúp kiềm chế tính mê, tật xấu nghiện ngập để thay đổi trở nên tốt hơn, công chính hơn trong cả lời nói lẫn hành động; bác ái giúp nhận ra giá trị, nhu cầu cuộc sống của mình và của anh chị em. Giúp ta yêu thương họ nhiều hơn bởi chính mình cũng là thành phần trong cộng đồng nhân loại được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Kết hợp cả ba điều trên: cầu nguyện, chay tịnh và bác ái giúp ta nhận biết tình yêu Đức Kitô. Tình yêu chân thật đến từ Đức Kitô, điều mà trí tuệ không đủ khả năng phán đoán, xác định hay chối bỏ bởi tình yêu đó vượt trên những gì con người có thể dùng để so sánh, cân nhắc. Nhận biết tình yêu Chúa chỉ có một đường lối duy nhất đó là niềm tin, ngoài niềm tin ra, rất khó có thể nhận ra tình yêu Chúa bởi niềm tin vào Đức Kitô khởi đầu bằng yêu mến Ngài và tình yêu đó phát sinh niềm tin nhờ tác động của Thánh Thần.
Phúc Âm cho biết Đức Kitô được Thánh Thần dẫn vào sa mạc. Điều này cho biết Đức Kitô chay tịnh 40 đêm ngày không phải chỉ mình Ngài mà có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với Ngài. Vì thế chúng ta tin chắc là khi chúng ta thực hiện cuộc sống chay tịnh Thánh Thần Chúa cũng hiện diện với chúng ta. Nói cách khác chay tịnh là lời mời gọi Thánh Thần Chúa vào trong tâm hồn ta. Chúng ta mở tấm lòng ra đón nhận Thánh Thần Chúa để đón nhận chỉ bảo, hướng dẫn, soi sáng giúp ta làm điều lành, điều ngay thẳng, điều công chính bởi Thánh Thần là nguồn tình yêu và kho tàng khôn ngoan không cạn của Thiên Chúa. Thánh Mathew thuật lại chính ma quỷ cũng nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần khi chúng nói Thánh Thần Chúa luôn nâng đỡ để Ngài khỏi vấp ngã (Mt 4, 6)
Nơi đâu có Đức Kitô hiện diện nơi đó có Thánh Thần Chúa hiện diện. Đôi khi Phúc Âm ghi lại rõ ràng sự kiện này, khi khác Phúc Âm không ghi rõ nhưng giúp ta nhận biết có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa tiềm ẩn đâu đó vì Thánh Thần luôn cùng đồng hành với Đức Kitô.
Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào vùng sa mạc đức tin. Mùa chay mời gọi chúng ta đi qua kinh nghiệm chính Đức Kitô đã trải qua. Mùa chay mời gọi chúng ta học cùng Đức Kitô khi gặp cơn cám dỗ đừng cậy vào sức riêng mình nhưng tin tưởng vào sức mạnh Lời Chúa trong Phúc Âm. Mùa chay mời gọi chúng ta xét mình từ bỏ lối sống bê tha, đổi mới, bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống tin yêu phó thác đời mình cho Chúa để nhận rõ hình ảnh Chúa trong ta. Đổi mới là làm cho cái tôi trong tôi nhỏ lại; làm cho tha nhân lớn lên trong tôi.
Chúng ta bước vào Mùa Chay thánh. Đây là thời gian mà thánh Phaolô gọi là thời gian thuận tiện, ngày cứu độ (2Cr 6,2b). Mùa chay là thời gian thuận lợi để chúng ta rà xét lại con người của chúng ta để biết chúng ta đang như thế nào, có đi đúng con đường Chúa đã chỉ cho không, mà nếu chúng ta đã đi lệch khỏi con đường Chúa chỉ dạy thì phải ăn năn sám hối trở về con đường lành. Sám hối là trở về với Chúa.
I. SÁM HỐI THEO THÁNH KINH
Ngay từ đầu, con người đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa luôn kêu mời họ. Lời đáp trả tiếng mời gọi của Thiên Chúa sẽ đòi họ phải biến cải, rồi trong suốt cuộc sống phải có thái độ sám hối. Do đó, hoán cải và sám hối chiếm một địa vị đáng kể trong mạc khải Thánh kinh.
Từ ngữ thông dụng nhất là động từ sub diễn đạt ý tưởng thay đổi hướng đi, trở về. Trên bình diện tôn giáo, nó biểu thị việc người ta từ bỏ những gì xấu và quay về Thiên Chúa. Ngày nay người ta hay dùng danh từ metanoia chỉ sự thống hối, ăn năn, trở về với Chúa.
1. Trong Cựu ước
a) Thực hành trong cuộc sống
Người dân hiểu rằng mình đã ký giao ước với Thiên Chúa và giao ước đã bị vi phạm do tội lỗi của dân, cần phải nối lại giao ước ấy. Để nối lại giao ước ấy người ta đã khẩn nài Thiên Chúa tha thứ bằng cách thực hành những việc khổ chế và những phụng vụ sám hối: chay tịnh (Tl 20,26; 1V 21,8tt), xé áo mình ra và mặc áo nhặm (1V 20,31t; Is 22,12; x. Ga 3,5-8), nằm trên tro (Is 58,5; Sm 12,16). Trong các buổi cử hành phụng vụ, người ta rên siết và than khóc như trong đám tang (Tl 2,4; Gl 1,13).
b) Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ
Các ngôn sứ đã tuyên sấm lời Chúa cho dân giúp họ nhận ra sự phản bội của mình mà sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.
Trước tiên, ngôn sứ Nathan đã được sai đến cùng vua Đavít cảnh cáo về tội ngoại tình. Đavít đã được hướng dẫn thú nhận tội lỗi mình (2Sm 12,13), đoạn đền tội theo qui luật và sau cùng chịu Thiên Chúa sửa phạt (Sm 12,13-23).
Tuy nhiên sứ điệp sám hối của các ngôn sứ, nhất là từ thế kỷ thứ 8 nhắm tới toàn thể dân chúng, Israel đã vi phạm giao ước, “đã bỏ Giavê và khinh rẻ Đấng thánh của Israel” (Is 1,4). Giavê có quyền bỏ họ nếu họ không hoán cải. Thế nên, việc kêu gọi sám hối sẽ là một khía cạnh cốt yếu trong cuộc rao giảng của các ngôn sứ.
Amos, ngôn sứ của sự công chính, không chỉ hài lòng với việc tố cáo tội lỗi của người đương thời mà còn phải sự lành chứ không phải sự dữ, phải “chê ghét sự dữ và yêu mến sự lành” (Am 5,14 t). Điều đó bao hàm việc chỉnh đốn hạnh kiểm và thực thi nghiêm chỉnh sự công chính, chỉ có sự quay đổi như vậy mới có thể được Thiên Chúa dủ lòng thương xót “nhóm còn lại của Giuse” (Am 5,15t)
Cũng thế, Osée đòi buộc phải thực sự dứt bỏ tội lỗi và đặc biệt là dứt bỏ sự sùng bái ngẫu tượng. Ông loan báo: Thiên Chúa sẽ ban lại ân huệ của Ngài và sẽ nguôi giận (Os 14,2-9).
Isaia tố cáo mọi tội lỗi nơi dân Giuđa: vi phạm công bình, làm sai lạc phụng tự, bám víu vào chính trị loài người vv... Chỉ có việc hoán cải chân thực mới mang lại sự cứu rỗi, vì nơi nào không qui phục thánh ý của Thiên Chúa, thì phụng tự chẳng có giá trị gì cả (Is 1,11-ABC15; x. Am 5,21-ABC25). Isaia bị phản đối, nhưng ông cũng có thể xác quyết một điều là: ”Nhóm còn lại sẽ trở về... với Thiên Chúa hùng mạnh” (Is 10,21). Dân tộc sau cũng được hưởng ơn cứu rỗi sẽ toàn những người hối cải mà thôi.
Việc nhấn mạnh đến những tâm tình bên trong phải dâng tiến Thiên Chúa đã chóng trở thành một đề tài thông dụng trong giáo huấn của các ngôn sứ.
Mika rao giảng công chính, hiền từ và khiêm nhường (Mk 6,8).
Xophonia lặp lại khiêm nhường và thành thật (Xp 2,3; 3,12t).
Nhưng Giêrêmia theo đường hướng tư tưởng của Osée, đã quảng diễn rộng rãi chủ đề hoán cải. Sở dĩ ngôn sứ loan báo các tai họa đe dọa Giuđa, chính vì để mỗi người từ bỏ con đường bất chính trở về và để Giavê có thể tha thứ họ (Gr 36,3).
Ezechiel, trung thành với truyền thống ngôn sứ, đặt trọng tâm sứ điệp của ông vào việc cần phải hoán cải trong lúc thực hiện những lời đe dọa của Thiên Chúa, “Hãy vứt xa tội lỗi của các ngươi đã vấp phạm, hãy tạo cho mình một quả tim mới và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi phải chết? Ta có muốn cho ai phải chết đâu! Hãy hoán cải và các ngươi sẽ được sống” (Ed 18, 31t).
Vậy từ Amos đến Ezechiel, giáo thuyết về hoán cải vẫn được nghiên cứu sâu xa, song song với mức độ hiểu biết về tội lỗi. Vào cuối thời lưu đầy, sứ điệp an ủi ghi nhận Israel đã hoán cải hữu hiệu, được cứu độ. Và sau Israel, đến lượt chư dân cũng sẽ hoán cải: từ bỏ các ngẫu tượng, họ đều quay về với Thiên Chúa hằng sống (Ed 45,14t; Gr 16,19tt).
2. Trong Tân ước
a) Gioan Tẩy giả
Đây là ngôn sứ bản lề giữa Cựu ước và Tân ước. Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ hội tụ lại với tất cả vẻ tinh tuyền của nó trong lời giáo huấn ông, vị ngôn sứ cuối cùng. Luca đã tóm lược sứ mệnh người như sau: “Người sẽ dẫn dắt nhiều con cái Israel về với Chúa, Thiên Chúa họ” (Lc 1,16t). Sứ điệp của người được đúc kết trong câu: ”Hãy hoán cải vì Nước Trời đã gần kề” (Mt 3,2).
Gioan khuyên mọi người phải tự nhận là kẻ có tội, phải sinh hoa trái xứng với lòng thống hối (Mt 3,8), chấp nhận một nếp sống mới thích hợp với tình trạng mình (Lc 3,10-14). Để đánh dấu cuộc hoán cải này, Gioan trao ban một phép rửa bằng nước để chuẩn bị các hối nhân nhận lãnh phép rửa bằng lửa và bằng Thánh Thần mà Đấng Messia sẽ ban (Mt 3,11tt).
b) Đức Giêsu
Ngài cũng là một đại ngôn sứ trong Tân ước. Mở đầu việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài cũng dùng lời mời gọi hoán cải mà ông Gioan Tẩy giả đã rao giảng trước: ”Hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc âm” (MC 1,15; Mt 4,17), Ngài đã đến chính là để kêu gọi tội nhân hoán cải (Lc 5, 32) Đó chính là một khía cạnh cốt yếu của Tin Mừng Nước Trời.
Nhưng sứ điệp hoán cải gặp nhiều chống đối từ việc dính bén của cải (MC 10,21-ABC25) cho tới tính kiêu căng của Pharisêu (Lc 18,9). Quả thật, tính ngoan cố hiện tại của Israel là dấu chỉ sự cứng lòng (Mt 13,15tt; x. Is 6,10). Nếu không thay đổi nếp sống, thì các kẻ nghe lời Đức Giêsu mà vẫn còn cố chấp trong tội lỗi sẽ bị hủy diệt (Lc 13, 1-ABC5).
Khi đòi hỏi hoán cải, Đức Giêsu không có ý nhằm tới phụng vụ sám hối với hình thức bên ngoài, mà chính là sự thay đổi con tim khiến ta lại trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,3tt), tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt 6,33) nghĩa là chỉnh đốn lại cuộc sống của mình theo Luật mới.
c) Các Tông đồ
Lúc sinh thời, Đức Giêsu đã sai các sứ đồ đi rao giảng sám hối và loan truyền Tin Mừng Nước Thiên Chúa (MC 6,12). Sau khi sống lại, Ngài đã nhắc lại cho họ sứ mệnh ấy: Nhân danh Người, các ngài sẽ đi rao giảng sự thống hối cho chư dân để họ được tha tội (Lc 24,47), vì tội lỗi sẽ được tha thứ cho những ai được các ngài tha thứ (Ga 20,23). Sách Công vụ tông đồ và các thư cho ta thấy mệnh lệnh này được chu toàn thế nào. Tuy nhiên, tùy trường hợp là Do thái hay lương dân, mà việc hoán cải này mặc hình thái khác biệt nhau.
d) Hội thánh Công giáo
Hành vi hoán cải mà phép rửa niêm ấn được hoàn tất cách dứt khoát một lần mà thôi. Không thể lặp lại ơn sủng ấy lần nào nữa (Dt 6,6). Thế nhưng những người đã chịu phép rửa vẫn có thể sa ngã phạm tội: cộng đoàn sơ khai ngay từ lúc đầu đã có kinh nghiệm về điều đó. Trong trường hợp này, dù sao chăng nữa sự ăn năn cũng vẫn cần thiết nếu người ta muốn tham dự vào ơn cứu rỗi, ví dụ Phêrô đã kêu gọi nhà ma thuật Simon hoán cải (cvtđ 8,22), Giacôbê hối thúc các Kitô hữu nhiệt thành lo dẫn đưa những người tội lỗi ra khỏi sự lầm lạc của họ (Gc 5,19t). Phaolô vui mừng vì các tín hữu Corintô đã ăn năn (2Cr 7,9t). Sau cùng, trong sứ điệp gửi bảy Giáo hội mà sách Khải huyền nói tới, thấy hiện rõ những lời mời gọi ăn năn, những lời mời gọi cho thấy đã có những người sa ngã không còn sốt mến như xưa (Kh 2,5; 16,21t).
3. Sám hối là điều cần thiết
Trong Cựu ước và Tân ước, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi con người hãy bỏ con đường tội lỗi mà trở về với Ngài. Lòng sám hối được biểu lộ ra qua những dòng nước mắt ăn năn. Điếu này rất tốt đẹp, hữu ích và làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Truyện: nước mắt sám hối
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: ”Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: ”Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: ”Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.
(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
II. NHU CẦU PHẢI SÁM HỐI
Ta hãy đọc một đoạn Phúc âm theo thánh Luca nói về dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,44-47). Trong bài Phúc âm này, ta thấy Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về con chiên lạc. Con chiên bị thất lạc hoặc tự ý riêng mà bị thất lạc hoặc người khác làm cho bị lạc, cả hai cần được tìm về trong đàn. Nếu con chiên lạc mà được tìm thấy thì chủ vui mừng biết bao! Người chủ phải tổ chức tiệc ăn mừng. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cũng kêu gọi những người đã lạc đường hãy ăn năn trở lại; và Thiên Chúa vui mừng biết bao khi có người tội lỗi ăn năn trở lại (Lc 15,4-7).
Trong mùa Chay, ta hay nghe cái từ ngữ Sám hối. Sám hối có nghĩa là trở về, trở về nơi mình đã xuất phát. Nói trở về là nói mình đang ở xa. Xa nhà, nay tôi trở về. Khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự cách biệt.
Khi định nghĩa trở về trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa. Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ, thì dường như tôi không xa Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.
Đọc dụ ngôn con chiên lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn. Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Phúc âm trên, ta thấy sự trở về có thể là cần thiết cho những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong nhà thờ.
Do đó, chúng ta đừng nghĩ rằng: chỉ những người không tin Chúa hay đã bỏ Chúa mới cần trở về; còn chúng ta là những Kitô hữu đích danh, hằng ngày vẫn đi lễ, xưng tội, rước lễ, làm các việc lành phúc đức thì chẳng cần phải trở về vì chúng ta đang ở trong đạo, trong Giáo hội mà!
Nhưng rất có thể chúng ta đã trở nên vô đạo hoặc tệ hơn nữa là vô thần lúc nào không biết; tuy mang danh là Kitô hữu mà đời sống còn tệ hơn người vô đạo. Người ngoại đạo tuy ở ngoài đạo, ngoài Giáo hội mà lòng họ vẫn liên kết với đạo, vẫn có lòng tin, vẫn muốn sống vươn lên trong tâm tình ước muốn:
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Cũng như bây giờ, có người ở trong nhà thờ mà lòng trí họ đang ở ngoài nhà thờ, trong khi đó có nhiều người đang ở ngoài nhà thờ mà lòng trí họ đang ở trong nhà thờ.
Vì vậy trong mùa Chay này ta thử xét lại, tuy mình là Kitô hữu đấy mà có thực sự gắn bó và ở trong Giáo hội không. Tuy là con cái Chúa đấy mà có sống trong ân tình của Chúa không hay là ta đã xa Chúa? Nếu thành thực xét mình thì không ai dám nói mình là người sống thánh thiện, sống khăng khít với Chúa, chỉ có những người Pharisêu và Luật sĩ thì mới dám nói như vậy (x. Lc 16,15). Vì thế, chúng ta phải rà xét lại cuộc sống của chúng ta xem như thế nào, sống xa Chúa bao nhiêu và quyết tâm trở về. Sự trở về đòi ta phải thành thực và can đảm nhìn nhận những lỗi lẫm của mình để xin Chúa ban ơn tha thứ.
Truyện: ông Mahatma Gandhi
Mahatma Gandhi có kể về cuộc đời ông như sau: Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, không cho tôi được giây phút bình an. Tôi không thể sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn.
Muốn sám hối, điều kiện cần là phải biết mình, có biết mình có tội, có biết mình mắc lỗi lầm thì mới có thể sám hối được; nếu không có tội thì làm gì phải thống hối? Những người Luật sĩ và Pharisêu là những người không biết mình, họ luôn tự hào là những người đạo đức thánh thiện thì làm gì phải sám hối, làm gì phải quay trở lại? Những lời kêu mời của Chúa Giêsu chẳng có tác dụng gì đối với họ, trái lại càng làm cho họ thêm thù ghét.
Truyện: thủ tướng Bốphốp nhận lỗi
Theo một bản tin của hãng thông tấn Amsa truyền đi, thì vị thủ tướng của nước Úc là Bốphốp đã bị cảnh sát công lộ phạt 100 Úc kim vì đi xe hơi mà không đeo giây an toàn. Sự kiện xẩy ra sau khi đài truyền hình số 9 của Úc trình chiếu cảnh thủ tướng đang ngồi trong chiếc công xa chở ông đến thành phố Besthen mà không thắt dây an toàn. Theo dõi hình ảnh ấy, nhiều khán thính giả đã gọi dây nói đến sở cảnh sát của tiểu bang Besthen để phản đối việc thủ tướng của họ không giữ luật giao thông. Cũng ngày hôm đó, giám đốc sở cảnh sát bang Uyheslen đã nhận được một cú điện thoại của thủ tướng Hốp, người được xem là có quyền lực cao nhất tại Úc, đã nhìn nhận lỗi lầm vì không giữ đúng luật giao thông, và ông đã xin được xử lý như tất cả mọi người công dân khác. Kết quả là sở cảnh sát của tiểu bang đã phạt ông 100 Úc kim.
(Hạt giống âm thầm (bản ronéo), tr 320)
III. THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THA THỨ
1. Trong Cựu ước
Lịch sử dân Israel xưa là lịch sử của một dân phản bội và của lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Dân Chúa luôn phản bội giao ước nhưng Thiên Chúa không thất vọng, Người luôn kêu mời họ trở lại để sống trong ân tình của Người. Chúng ta hãy nhìn qua cách cư xử của dân.
a) Trong sa mạc
Sau phép lạ lớn lao làm cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân, dân Chúa tiếp tục cuộc hành trình đi về đất hứa. Trong sa mạc, dân Chúa luôn càm ràm và phản đối ông Maisen như trường hợp ở Meriba và ở Massa. Có lần Thiên Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhieu người. Dân chúng hồi tâm, nhờ ông Maisen can thiệp với Chúa. Chúa nhận lời và bảo ông Maisen đúc con rắn bằng đồng treo trên cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn sẽ được khỏi.
b) Nơi đất hứa
Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ của Ai cập, đem họ vào đất hứa chảy sữa cùng mật, phân phát cho dân Ngài phần đất của dân ngoại làm cơ nghiệp. Thiên Chúa chỉ đòi buộc dân Ngài phải trung thành, không được thờ các thần của dân ngoại. Nhưng dân Chúa đã bất trung với giao ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa, nên Ngài để cho dân ngoại đến giầy xéo đất nước và bắt họ đi lưu đầy. Vua Nabuchodonosor bắt họ đi lưu đầy ở Babylon từ năm 721 đến năm 538 họ mới được trở về với chỉ dụ của vua Cyrô (2V 17,6), cuộc lưu đầy kéo dài 83 năm.
c) Cảnh cáo và khuyên răn
Khi dân Chúa đã trở về quê hương sau thời gian lưu đầy, trùng tu lại đền thờ Giêrusalem, dân vui mừng vì được giải phóng, lo việc thờ phượng Chúa. Nhưng chứng nào tật ấy, dân lại bất trung, đi vào vết xe cũ, Thiên Chúa sai nhiều tiên tri đến cảnh cáo và khuyên răn như thời còn bị lưu đầy:
“Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (Ed 18, 30b-31).
d) Thiên Chúa tha thứ
Tuy con người phản bội, Thiên Chúa vẫn luôn tha thứ. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều đó:
Thiên Chúa xúi ngôn sứ Osée đi kiếm một con điếm về làm vợ. Lẽ thường thì không ai làm như vậy. Thanh niên họ có chơi thì chơi với gái điếm, còn khi lấy vợ thì phải tìm đến con gái nhà lành chứ! Đàng này ông Osée nghe lời Chúa đi lấy một cô gái điếm về làm vợ. Hai người thương yêu nhau thắm thiết. Bà ta sinh ra cho ông được ba đứa con và đặt cho mỗi đứa một tên kỳ quặc, nếu dịch ra tiếng Việt thì có nghĩa như là “Nguyễn-văn-Chúa-không-thương-mày-nữa”.
Ngày tháng trôi qua, nhớ lại cảnh sống xưa, bà ta bỏ ông để đi theo cái nghề cũ. Chúng ta thử xem ông ta có đủ can đảm mà tha thứ và còn đi rước bà ta về, lại còn yêu thương như trước không? Khó quá!
Thiên Chúa lại xúi ông Osée đem tiền đem bạc đi để chuộc bà ta về. Ông ta đã làm như vậy. Khi đã trở về, ông ta lại tiếp tục yêu thương vợ như cũ.
Đây là câu chuyện có thật trong Thánh kinh và cũng là hình ảnh nói lên Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta mặc dầu chúng ta phản bội Ngài. Xin lỗi ông bà anh chị em, tôi có thể nói rằng: trước mặt Thiên Chúa chúng ta đều là gái điếm cả, vì gái điếm thì theo hết người này tới người khác, còn chúng ta thì theo hết thần này đến thần khác: thần tình ái, thần sắc dục, thần tiền của, thần danh vọng, thần cờ bạc, và không biết bao nhiêu thần khác nữa.
2. Trong Tân ước
Chúng ta là dân Israel mới, tiếp nối dân Israel cũ, chúng ta lại đi vào con đường cũ: bất trung, phản bội. Chúa Giêsu đã chịu chết chuộc tội cho chúng ta và đã lấy máu đổ ra trên thập giá để ký kết giao ước vĩnh cửu với loài người. Chúa luôn trung thành với lời hứa, nhưng con người lại phản bội. Tuy thế, Ngài vẫn thương yêu và tha thứ, kêu gọi con cái hãy trở về trong tình thương của Ngài.
Thánh Luca đã kể ra ba dụ ngôn; con chiên lạc, đồng tiền đánh mất và nhất là câu chuyện đứa con phung phá (Lc 15, 11-ABC32) đã chứng tỏ: tuy người con đã từ bỏ cha mà đi hoang nhưng người cha vẫn nóng lòng chờ đợi con trở về:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Nhớ ai hết đứng lại ngồi không yên. (ca dao)
Khi người con hối hận trở về, người cha vội sai gia nhân mặc áo mới cho cậu, xỏ giầy vào chân, xỏ nhẫn vào tay, giết con bò đã vỗ béo ăn mừng. Tại sao lại có sẵn áo mới, giầy mới và bê đã vỗ béo? Điều đó chứng tỏ người cha hy vọng cậu con trai sẽ trở về nên đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ đó. Người cha không thất vọng về người con. Cũng thế, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, Ngài vẫn luôn giang cánh tay ra chờ đón.
3. Chúa Giêsu, nguồn ơn tha thứ
Thiên Chúa là người Cha giầu lòng thương xót sẵn sàng tha thứ cho những sự bội bạc của con cái như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15). Ta hãy đặt mình vào tình trạng của đứa con trong bước đường cùng và hãy tự nhủ mình: ”Thôi, ta đứng lên, đi về cùng Cha và thưa với Ngài: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như người làm công cho cha vậy” (Lc 15, 18-19).
Đức hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận trong bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô 2 và giáo triều Roma đã trình bầy đề tài “các khuyết điểm của Chúa Giêsu” để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Ngài.
a) Đức Giêsu không có trí nhớ tốt
Trên thập giá, trong lúc hấp hối. Đức Giêsu nghe tên trộm bên phải nói: ”Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi ông vào nước của ông” (Lc 23,42). Giả sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời: ”Tôi sẽ không quên anh nhưng anh phải đền bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục”. Trái lại, Chúa trả lời anh ta: ”Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Điều tương tự cũng xẩy ra với người đàn bà tội lỗi đã xức dầu thơm cho chân Chúa: Chúa Giêsu chẳng hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ nói: ”...tội của con tuy nhiều, nhưng chúng đều được tha hết vì con đã yêu nhiều” (Lc 7,47).
Cũng tương tự như đứa con hoang đàng (Lc 15)
Chúa Giêsu không có một trí nhớ như trí nhớ của tôi, không những Ngài tha thứ, và tha thứ cho mỗi người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.
b) Chúa Giêsu đi thi toán chắc rớt
Giả sử Chúa Giêsu đi thi toán, chắc Ngài bị đánh rớt. Dụ ngôn người mục tử nhân lành chứng tỏ điều đó. Một người mục tử có một trăm con chiên. Một con chiên bị lạc và không chần chờ gì, ông ta đi tìm chiên ấy, bỏ 99 con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác lên vai (x. Lc 15,4-7)
Đối với Chúa Giêsu, 1 có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế nữa! Có ai chấp nhận được điều đó không? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng từ đới này sang đời khác...
c) Chúa Giêsu chả biết gì về Triết học
Ngài không hiểu gì về Luận lý học khi đưa ra dụ ngôn: một người đàn bà có 10 đồng bạc, rủi rớt mất một đồng, bèn thắp đèn mà tìm. Khi bà tìm được thì hớn hở gọi hàng xóm láng giềng: ”Bà con ơi, hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất” (Lc 15, 8-10)
Thật chẳng hợp lý tí nào khi mời hàng xóm như vậy vì bà phải chi phí còn hơn đồng bạc tìm được. Nhưng, đó lại là chính cách Chúa đã dùng để chỉ sự vui mừng của Thiên Chúa khi một người ăn năn trở lại.
Ở đây chúng ta có thể nói như Blaise Pascal: ”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết được”.
d) Chúa Giêsu không biết tài chính và kinh tế
Ngài chả có ý tưởng gì về kinh tế và tài chính. Trong dụ ngôn những kẻ làm vườn nho, ông chủ trả cùng một số tiền cho những kẻ làm đầu tắt mặt tối từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, và những kẻ gần chiều mới bắt tay vào việc. Không biết Ngài có tính toán sai không? Không! Ngài chú ý làm như vậy vì Ngài không thương chúng ta vì công trạng của chúng ta. Tình yêu của Ngài là hoàn toàn miễn phí và vượt xa trí hiểu của chúng ta. Ngài đã có những “khuyết điểm” vì Ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thực sự không có tính toán so đo, không biên giới, không điều kiện, không ngăn cách và không nhớ những sai phạm (x. Mt 20, 1-ABC16)
e) Chúa Giêsu là một người phiêu lưu
Chúa Giêsu là người mua lấy rủi ro về phần mình. Người ta muốn chiêu dụ nhiều người theo mình thì hứa cho thật nhiều những điều tốt lành, trong khi Ngài lại hứa những gian lao thử thách, bắt bớ và giam cầm cho những kẻ theo Ngài. Trong 2000 năm qua, chúng ta đã chứng kiến bao rủi ro, thiệt thòi cho những kẻ muốn theo Ngài, nhưng số người theo Ngài càng đông, họ dám hy sinh cả mạng sống cho Ngài (x. Mt 820; Lc 9-23)
Để kết luận chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế - Vì Ngài là Tình yêu (cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không so đo tính toán, không đặt điều kiện.
(Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, tr 39-44)
IV. THỰC HÀNH SÁM HỐI
1. Hãy can đảm trở về
Lời Chúa trong đầu Mùa Chay cũng nhắc nhở cho mọi người chúng ta, là những con cái yêu thương của Ngài: ”Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (MC 4,15). Sám hối ở đây theo ngôn sứ Giêrêmia là thay đổi hướng đi, thực tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới.
Trong sứ điệp gửi giới trẻ thế giới mùa Chay năm 2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã lấy đề tài: ”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập gía hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo ý ngài, Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để tới vinh quang. Ngài đã vạch cho chúng ta con đường phải đi theo. Chỉ có một con đường duy nhất do Chúa đã đi, người môn đệ phải theo con đường đó mà không được vạch ra một con đường nào khác. Nếu chẳng may đã đi trệch đường thì phải có can đảm trở lại, không ngại khó khăn.
Nhà chí sĩ Phan bội Châu đã nói: ”Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đôi khi chúng ta thấy chưa có kết quả sau bao cố gắng, nhưng không sao, hãy bắt đầu lại, Chúa không đòi chúng ta phải thu được kết quả trước mắt, Ngài chỉ đòi chúng ta cố gắng, cố gắng không ngừng. Theo tôi nghĩ: cố gắng là đã thành công rồi, vì không cố gắng là lùi. Bao lâu còn cố gắng là còn tiến.
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của một danh nhân? Mới nghe thì có vẻ không đúng, nhưng suy cho kỹ thì nó nói cho chúng ta biết rằng: không một cố gắng nào mà vô ích, mỗi cố gắng tuy ít ỏi nhưng đều góp vào thành công chung:
“Một ngàn việc tiến,
Chín trăm chín mươi chín việc lùi:
Đó là TIẾN BỘ”.
(Henri Frédéric Amiel)
Truyện: phải biết bắt đầu lại
Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một vị Linh mục và nói:
- Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả: Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu con đều phạm hết. Con nản quá! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng, hơn là nằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào.
Vị Linh mục cười và nói:
- Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi.
Cả hai cha con cười xòa.
Vị Linh mục nói tiếp:
- Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Nguời cha an ủi: Thôi con ạ, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông thì nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sơm mai vác cuốc ra đồng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ.
Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con:
- Mỗi ngày con làm cho cha 20 mét vuông thôi, con làm được không?
- Dạ, ít vậy thì được.
Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.
Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi.
Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào Linh mục, rồi nói:
- Cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
Câu chuyện trên đây nhắc cho chúng ta: biết mình lạc đường cần trờ về, đó là điều tốt nhưng thực hiện cuộc trở về thì khó, vì chúng ta bị cám dỗ tháo lui. Chính Đức Giêsu cũng bị cám dỗ để đi xa con đường sứ mạng cứu thế của Ngài như ta đã suy niệm trong bài Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa chay (x. Lc 4,1-ABC13).
Cám dỗ cũng cần thiết vì nó có lợi cho ta, nhờ đó mới biết lòng trung thành của ta đối với Chúa và làm cho chúng ta càng thêm công trạng như lời Sách Thánh nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức” (Hc 2,5).
2. Đừng bao giờ trì hoãn
Có những người chi biết sống với quá khứ để luyến tiếc, có những người chỉ biết hướng về tương lai để hành động, nhưng nhiều người lại quên hiện tại. Hiện tại là hậu quả của quá khứ và nguyên nhân của tương lai. Tương lai nằm trong hiện tại. Muốn có một tương lai sáng sủa thì phải được chuẩn bị trong hiện tại.
Một lỗi lầm thông tường của tuổi trẻ là hay xem thường NGÀY NAY. Người bạn trẻ hay nghĩ rằng những công việc to lớn, những cái gì đáng làm đều thuộc ở NGÀY MAI. Còn NGÀY NAY là tầm thường, là không đáng kể nên họ không muốn bắt tay làm gì cả.
Thực tế hơn, nhà văn hào Anh J. Ruskin cho khắc vào phiến đá hai chữ: ”TO DAY” (Ngày nay) và đặt nó trên bàn viết để mỗi ngày ông ta có việc chiêm nghiệm về bổn phận của mình là làm xong những công việc của NGÀY NAY. Một thi nhân Hy lạp thời xưa cũng đã viết “CARPE DIEM” để khuyên chúng ta hãy biết dùng một cách đầy đủ ngày hôm nay.
(Phạm cao Tùng, Tôi có thể nói thẳng với anh, in lần 3, tr 106)
Kinh nghiệm cho hay: chúng ta có những chương trình qui mô, những dự tính tốt đẹp cần thực hiện, nhưng chúng ta lại rùi rắng, không muốn bắt tay vào việc ngay. Người ta thường nói: những gì có thể làm được hôm nay thì đừng để đến ngày mai theo phương châm “carpe diem”. Muốn sửa đổi con người của mình, muốn làm thánh thì hãy bắt tay vào việc, chớ bao giờ trì hoãn kẻo bỏ lỡ cơ hội.
Truyện: kế hoạch trì hoãn
Ngày kia Satan hỏi các đồ đệ:
- Làm thế nào để chiếm đoạt được các linh hồn?
Quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ rỉ tai: không có Chúa đâu.
Satan bảo:
- Họ đâu có tin, nhìn vào vũ trụ, không thể nào chối là không có Thiên Chúa được.
Qủi nhỏ thứ hai bảo:
- Tôi sẽ rỉ tai: chết là hết, chết là hết.
Sa tan bảo:
- Không được, vì sự sống đời đời đã được khắc ghi vào chính giữa trái tim con người.
Thế là cả bọn cùng trầm ngâm suy nghĩ.
Bỗng một con qủa đen đủi đứng lên nói:
- Tôi có cách: tôi sẽ nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết: Chúa có thật và chết chưa phải là hết. Tôi bảo họ phải sám hối ăn năn và trở về với Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ: gấp gì, còn chán thì giờ! Để gần chết rồi lại ăn năn, thế là được hưởng cả đời này lẫn đời sau, phải không nào?
Qủi vương đập bàn cười ha hả:
- Tuyệt, thật tuyệt, theo kế hoạch này, chúng ta sẽ thành công.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện, thời gian cứu độ, Chúa luôn yêu thương chúng ta, luôn kêu gọi chúng ta trở về, sẵn sàng tha thư mọi lỗi lầm. Đừng ai hồ nghi về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, hãy đứng dậy trở về cùng Chúa, đừng sợ quá muộn vì trơ về trong tình yêu thì không bao giờ quá muộn. Truyện: trở về trong tình yêu
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuỵện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng: ”Bấy giờ mới trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói: ”Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng thương yêu tha thứ cho con cái tôi.
(Thiên Phúc, Tình yêu mạnh hơn sự chết. tr11-ABC12)
Tình yêu thương cao cả vô vị lợi đó, chính là hình ảnh lu mờ của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chúng ta sống ngay lành, thánh thiện, chúng ta không giúp ích gì hay tăng thêm một chút gì cho Chúa, nhưng khi chúng ta lầm lỗi, chính lúc chúng ta làm phiền lòng Người chỉ vì Chúa yêu thương chúng ta, những lúc đó Chúa luôn mong mỏi chúng ta trở về.
Vậy trong cuộc đời làm con Chúa, đừng bao giờ ngã lòng thất vọng, vì với tình thương thì không bao giờ quá muộn, chỉ cần chúng ta mở rộng cõi lòng để yêu thương, để hoán cải và ước ao nên trọn lành.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm lời ngôn sứ Ezechiel: ”Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết? Quả thật. Ta không thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng. Vậy, hãy TRỞ LẠI và hãy sống” (Ed 18,30b-32).
Mùa Chay Thánh bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Chúa Nhật Lễ Lá; mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15) nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả nhân loại và mọi sinh vật "trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số sinh vật được đưa lên tàu".
Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.
Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do khuynh hướng con người chúng là 'ham danh, ham lợi, ham lạc thú!'. Mọi người đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ, nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.
Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta đã nghe ca đoàn hát: "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro..." (Bài "Hỡi Người Hãy Nhớ" của Kim Long) để nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do "bụi tro, và khi chết, thân xác chúng ta cũng sẽ trở về 'tro bụi'. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta 'bi quan yếm thế'; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên, chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là 'thể phách, hồn là tinh anh" và 'sống gửi thác về', 'sinh qúy tử quy'. Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã "được dựng nên theo hình ảnh Chúa!' (Sáng thế 1, 26).
Mùa Chay chính là "thời gian thuận tiện" (2 Corintô 6,2) để chúng ta 'làm các việc lành phúc đức'. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là 'làm phúc bố thí'), giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta, gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới hôm nay.
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-ABC15), kể lại những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13); 2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a), b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15). 3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong MC , có thể con số “40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-ABC8) đã trải qua.
- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây, hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định một địa điểm theo địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas; x. MC 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
- cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả MC không mô tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t; 20,2.10).
- sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-ABC13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41).
- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi đến lúc đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối cùng.
- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả MC đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể MC nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, MC tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-ABC11) và Lc (4,1-ABC13), TM MC không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.
2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: “sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.
4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại Người.
Hôm nay Chúa Nhật đầu Mùa Chay, và như mọi năm chúng ta lại đọc Tin Mừng Chúa vào sa mạc và chịu cám dỗ. Tin Mừng theo Thánh Mathêu và Luca tả cho chúng ta nhiều chi tiết với những màn đưa lên tận nóc đền thờ, lên đỉnh núi cao, với những đối thoại nẩy lửa. Chúng ta hôm nay vừa nghe Tin Mừng theo Thánh Marcô ngắn gọn. Tại hoang địa, Chúa bị cám dỗ bởi sự dữ (hoang thú và ma quỷ) và tìm được an ủi và khích lệ (các thiên thần phục vụ Ngài). Sau bốn mươi đêm ngày, Ngài xuất hiện như một kiện tướng trước những thử thách vĩ đại và các đối thủ: cáo gian, phỉ nhổ, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá.
Vì Chúa đã vào sống trong hoang địa bốn mươi ngày, nên chúng ta giữ Mùa Chay Thánh. Chúng ta sống lại kinh nghiệm của Chúa để tạo nên mối dây bền chặt sâu xa hơn với Chúa. Hành trình chúng ta là đi vào bên trong, vào chỗ sâu thẳm của nội tâm để đứng trước nhan Chúa và sự thật.
Điều này giúp chúng ta biết mình, nhìn ra mình thế nào, biết mình đã làm gì với thời gian, với tài năng mình có và nhờ đó nhìn ra tội lỗi mình. Nhu cầu canh tân, đổi mới, chống lại sự dữ bằng cầu nguyện và thống hối trở nên rõ ràng hơn. Điều này phải cho chúng ta thấy những sự thiêng liêng quan trọng hơn vật chất.
Nếu chúng ta là người luôn nhìn thấy cái xấu của người, có lẽ đây là lúc nhìn kỹ lại chuyện nói hành, nói xấu người. Một quyết tâm giữ miệng lưỡi có thể là đơn thuốc tốt cho mình. Chúng ta có thể quyết định hài hòa với người chúng ta luôn va chạm. Cầu nguyện hằng ngày cũng quan trọng cho mọi người để nối kết với Chúa. Liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu không thể thiếu cầu nguyện. Mùa Chay là thời điểm chúng ta bị thách đố xem lại lời Chúa mời gọi trong các khía cạnh khác nhau của cuộc sống để nói không với tội lỗi, nói không với ích kỷ và thưa vâng với Chúa, thưa vâng với tình Chúa yêu thương.
Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hôm nay Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay Thánh. Phúc âm trình bày cho chúng ta một cuộc chiến đấu làm theo ý Chúa Cha hay là theo ý của Satan. Quả thật, trước khi sứ vụ cứu thế khai mào, Chúa Giêsu đã vào hoang địa, ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và ở đó chịu Satan cám dỗ.
Satan lợi dụng thời gian này để tấn công và cám dỗ Chúa đi khác đường lối của Chúa Cha, đây cũng là cám dỗ bất tuân giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam. Satan muốn Chúa Giêsu là một con người hoàn toàn thuộc về thế gian, thế giới mà hắn làm chủ. Vì là con người, Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. MC 1,13).
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta phải ý thức rằng, những quỉ kế mà ma quỉ dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách chúng cám dỗ chúng ta ngày hôm nay.
Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Có người không tin có Satan, họ cho rằng, Satan là một sản phẩm do trí tưởng tượng của con người hoặc là sự dữ trừu tượng pha trộn trong con người và thế giới. Không!
Kinh thánh nói nhiều lần về Satan như một hữu thể cụ thể và có thực. Hắn là một thiên thần sa ngã. Chúa Giêsu khẳng định khi nói: "Hắn là kẻ nói dối và là cha của sự dối trá" (Ga 8,44). Thánh Phêrô ví ma quỉ như con sử tử gầm thét: "Đối thủ của anh em là ma quỉ như sư tử rống, nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai" (1Pr 5,8). Và Chân phước Phaolô VI, Giáo hoàng dạy chúng ta: "Ma quỉ là kẻ thù số một, nó cám dỗ rất tinh vi. Chúng ta biết rằng nhân vật tối tăm và phá rối này thực sự tồn tại và tiếp tục hành động".
Nó làm thế nào? Thưa, nó nói dối, lừa dối chúng ta. Baudelaire viết: "Chiến thắng lớn nhất của ma quỉ là làm cho chúng ta tin rằng ma quỉ không hiện hữu". Nó nói dối chúng ta thế nào? Hắn trình bày hành động xấu như thể là tốt, hắn thúc giục chúng ta làm điều xấu, hắn gợi lên những lý do để biện minh cho tội lỗi của chúng ta. Sau khi lừa dối chúng ta rồi, hắn làm cho chúng ta lo lắng và buồn bã. Hỏi chúng ta có bao giờ cảm thấy điều đó không?
Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết; sự bất tuân ấy được diễn tả như thế nào? Nội dung của sự cám dỗ ấy là gì? Chúa Giêsu là con người hoàn toàn như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, nên những thử thách mà Người phải đương đầu, những cám dỗ Người phải chịu, cũng là những thử thách, những cám dỗ của nhân loại hôm nay. Cám dỗ ấy là cám dỗ về vật chất tư lợi, uy quyền danh vọng, và về hưởng thụ thỏa mãn các đam mê trần tục.
Tiền bạc và của cải vật chất là một cám dỗ lớn, mãnh liệt, không trừ một ai, từ em bé mới có trí khôn cho đến người già sắp lìa cõi thế, từ người buôn bán giữa chợ cho đến vị bậc vị vọng ở nơi nhà thờ. Tự bản chất, tiền bạc không xấu; xã hội phải làm ra của cải thì mới tồn tại và phát triển được; con người phải có tiền bạc tối thiểu mới có thể sống. Nhưng tiền là một người đầy tớ tốt, và là một ông chủ xấu. Biết sử dùng và làm chủ tiền bạc, chúng ta có thể làm rất nhiều việc, kể cả những việc ích Nước lợi Dân. Trái lại, khi nô lệ tiền bạc, để tiền bạc làm chủ, nó sẽ hủy hoại tất cả những giá trị đạo đức, từ tình nghĩa gia đình, vợ chồng, cho mẹ con cái, cho đến những giá trì về công bằng xã hội, về đạo đức và tôn giáo.
Danh vọng là một cám dỗ cũng mạnh không kém. Con người ngày hôm nay có khuynh hướng lẫn lộn danh dự với danh vọng. Thực ra danh dự thì ai cũng cần; có danh dự thì mới có thể sống vui, sống xứng đáng là con người. Mất hết danh dự, con người nhiều khi không còn thiết sống nữa. Nhưng danh vọng thì khác; danh vọng thường phát xuất từ một địa vị cao, hoặc một đời sống giầu có, hoặc từ sự thành công được nhiều người biết đến và khen ngợi. Người ham mê danh vọng là người thích được người khác vỗ tay đề cao, thích được nổi bật giữa đám đông. Có người ham mê danh vọng đến mức sẵn sàng hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh cả những giá trị đạo đức, chạy theo danh vọng nhiều khi là thả mồi bắt bóng và dẫn tới những sụp đổ bi đát nhất.
Cám dỗ thứ ba là quyền lực. Ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, cám dỗ về quyền lực vẫn là một cám dỗ đáng sợ nhất. Thường khi đã có tiền và danh vọng, điều mà người ta ao ước là có quyền trên những người khác, điều khiển người khác. Các tranh chấp về quyền hành làm nảy sinh những biến động xã hội rất tai hại, có khi còn phát sinh giặc giã chiến tranh và gieo rắc đau khổ tan tóc trên nhiều người. Có những người đang nắm quyền cố gắng giữ chặt quyền bính bằng mọi giá, kể cả những thủ đoạn bất chính và phi nhân.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan; nên Người được các thánh Giáo phụ gọi là Ađam mới, sinh ra một nhân loại mới, sống bằng sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ mình là con người mới được tái sinh nhờ Phép rửa, được kêu mời sống ơn gọi đó. Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ đã đập vỡ đầu con rắn độc ác, giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ mỗi ngày. Amen.
Đọc các trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám dỗ trong Phúc âm Mátthêu và Luca (Mt 4,1-ABC11; Lc 4,1 MC 1-ABC426
1. Đọc các trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám dỗ trong Phúc âm Mátthêu và Luca (Mt 4,1-ABC11; Lc 4,1-ABC13). Cho biết vài điểm giống nhau và khác nhau.
2. Thành phố Giêrusalem và Đền thờ Giêrusalem có đóng một vai trò quan trọng trong Phúc âm Luca không? Hãy đọc các đoạn sau: Lc 2,38.41; 4,9; 9,31.51.53; 13,233-35; 17,11; 18,31; 19,11.28.41; 24,33.47.52.
3. Đức Giêsu đầy Thánh Thần (Lc 4,1; 3,22). Đức Maria, ông Gioan Tẩy giả, cụ ngôn sứ Simêon, bà Êlisabét, và ông Dacaria có được đầy Thánh Thần không? Xin trích dẫn.
4. Khi cám dỗ Đức Giêsu, quỷ đã nói hai lần: Nếu ông là Con Thiên Chúa (các câu 3 và 9). Đức Giêsu có biết mình là Con Thiên Chúa không ? 5. Có 3 cơn cám dỗ đến với Đức Giêsu? Cơn cám dỗ thứ nhất chủ yếu là gì?
6. Cơn cám dỗ thứ hai chủ yếu là gì?
7. Cơn cám dỗ thứ ba chủ yếu là gì?
8. Để thắng được những cơn cám dỗ của quỷ, Đức Giêsu đã dùng những vũ khí nào?
9. Đọc Lc 4,13. Sau khi quỷ bị thua và bỏ đi, nó vẫn “chờ đợi thời cơ” tấn công trong tương lai. Bạn hãy kể đôi lần Đức Giêsu bị cám dỗ sau này.
CÂU HỎI SUY NIỆM.
Bạn có gặp những cơn cám dỗ tương tự như những cơn cám dỗ của Đức Giêsu không? Theo kinh nghiệm của bạn, để thắng các cơn cám dỗ thì cần vũ khí nào hơn cả?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Cả hai trình thuật (Mt 4,1-ABC11; Lc 4,1-ABC13) cho thấy nhiều điểm giống nhau: Đức Giêsu đã bị quỷ dữ cám dỗ trong hoang địa, sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả, và trước khi Ngài đi rao giảng. Ngài bị cám dỗ sau khi đã ăn chay 40 ngày, chính vì thế cơn cám dỗ đầu tiên ở cả hai trình thuật đều là cơn cám dỗ biến đá thành bánh để ăn cho đỡ đói. Ít nhất có một điểm khác biệt về vị trí của hai cơn cám dỗ sau: cơn cám dỗ thứ hai trong Mátthêu là cơn cám dỗ thứ ba trong Luca.
2. Thành phố và Đền thờ Giêrusalem đóng một vai trò quan trọng trong Tin Mừng Luca. Tin Mừng này khởi đầu bằng việc ông Dacaria dâng hương trong Đền thờ Giêrusalem (Lc 1,9-10), và kết thúc bằng việc các môn đệ ở lại luôn trong Đền thờ (Lc 24,52-53). Đặc biệt Luca còn kể một cuộc hành trình dài lên Giêrusalem của Đức Giêsu (Lc 9,51 - 19,27). Đây là nơi Ngài chịu chết, hiện ra sau Phục sinh (Lc 24,33), và là khởi điểm cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Lc 24,47).
3. Trong Tin Mừng Luca, Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu lúc Ngài chịu phép rửa (Lc 3,22). Ngài đầy Thánh Thần (Lc 4,1). Đức Maria (Lc 1,35), ông Gioan Tẩy giả (Lc 1,15), cụ ngôn sứ Simêon (Lc 2,25), bà Êlisabét (Lc 1,41), và ông Dacaria (Lc 1,67) cũng được đầy Thánh Thần.
4. Đức Giêsu có biết mình là Con Thiên Chúa vì trước đó, khi chịu phép rửa ở sông Gio-đan (Lc 4,1), Ngài đã nghe tiếng của Chúa Cha từ trời phán với Ngài: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con” (Lc 3,22).
5. Cơn cám dỗ thứ nhất là cơn cám dỗ tấn công vào điểm yếu của Đức Giêsu trong thời điểm hiện tại: Ngài đang đói sau thời gian dài ăn chay (Lc 4,2b-4). Cơn cám dỗ nầy thoạt nhìn có vẻ không nguy hiểm như hai cơn cám dỗ sau: chỉ là biến một hòn đá trước mặt thành cái bánh để ăn cho khỏi đói. Đức Giêsu, vì thật là Con Thiên Chúa, có thể làm phép lạ này, nhưng Ngài đã không muốn dùng quyền năng Cha ban cho mình để lo cho nhu cầu bản thân, dù đây là nhu cầu chính đáng. Cơm bánh cho thân xác là cần, nhưng con người còn có những nhu cầu khác quan trọng hơn. Đức Giêsu là Con, nên để Cha lo cho mình.
6. Cơn cám dỗ thứ hai là một cơn cám dỗ thô bạo: quỷ dám mời Đức Giêsu “bái lạy” nó, để nó cho Ngài mọi quyền hành và vinh hoa trên trần gian này. Nó dám bảo tất cả những thứ đó là của nó, và nó có quyền cho ai tùy ý (Lc 4,6-7). Đức Giêsu đã thắng cơn cám dỗ này khi nhắc lại lệnh truyền quan trọng ở sách Xuất hành 20,5. Ngài từ chối bái lạy quỷ và khẳng định chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa.
7. Trong cơn cám dỗ thứ ba, quỷ thách Đức Giêsu nhảy xuống từ trên nóc Đền Thờ Giêrusalem (Lc 4,9). Nó bảo: nếu ông thật là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ ông, sợ gì mà không nhảy. Quỷ còn trích dẫn Kinh Thánh để lôi kéo Ngài (Thánh vịnh 91,1-ABC2). Đức Giêsu đáp lại cơn cám dỗ này bằng cách trích dẫn một đoạn Kinh Thánh khác trong sách Đệ nhị luật 6,16. Ngài coi hành vi nhảy xuống là hành vi “thách thức” Thiên Chúa, ép buộc Thiên Chúa phải cứu. Đó không phải là thái độ của người Con thảo, vì ai đã tin thì không cần thử thách Thiên Chúa.
8. Để thắng được những cám dỗ của quỷ, Đức Giêsu đã dùng những vũ khí sau: cầu nguyện, chay tịnh, sự trợ giúp của Thánh Thần, nhất là việc sử dụng Kinh Thánh để bẻ gẫy những âm mưu của quỷ. Khi quỷ bóp méo Thánh vịnh 91 để phục vụ cho mưu đồ của nó, thì Đức Giêsu đã dùng một đoạn Kinh Thánh khác để bẻ lại nó.
9. Sau này Đức Giêsu còn gặp những cơn cám dỗ khác. Có cơn cám dỗ đến từ Phêrô (Mt 16,21-ABC23). Có cơn cám dỗ sợ chết đến từ chính bản thân mình khi Ngài phải đón nhận làm theo ý Cha (Lc 22, 29-44). Có cơn cám dỗ đến khi bị treo trên thập giá: Hãy cứu lấy mình nếu ông là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Lc 23,35-39). Đức Giêsu đã thắng mọi cơn cám dỗ khi Ngài chỉ muốn làm theo ý Cha.
Cám dỗ là phần của cuộc sống chúng ta. Đối với người không có đức tin, cám dỗ không là vấn MC 1-ABC427
Cám dỗ là phần của cuộc sống chúng ta. Đối với người không có đức tin, cám dỗ không là vấn đề, vì họ không biểt tội phước gì cả. Muốn thì làm, vì họ không có luật lệ nào ràng buộc, chỉ có luật xã hội mà thôi. Vì thế cám dỗ không là một vấn đề quan trọng.
Đối với chúng ta, những kẻ tin, cám dỗ là một vấn đề hệ trọng vì nó liên can đến hạnh phúc của chúng ta.
Ngay từ khởi nguyên, cám dỗ đã xuất hiện, bà Evà đã nghe theo, và kéo chúng ta vào hố sâu tội lỗi. Trong suốt quyển Kinh Thánh, cám dỗ vẫn thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống của dân Chúa. Dân Do thái bị cám dỗ trong sa mạc, đã kêu trách Thiên Chúa. Ông Gióp đã phải đương đầu với những cơn cám dỗ và thử thách, nhưng may thay, ông đã vững lòng tin và đã trở nên công chính. Êlia, vị tiên tri cứng rắn can cường đã phải bị cám dỗ đến nản lòng. Ông đã phải la lên: “Lạy Chúa, xin Chúa cất con đi vì con không tốt hơn cha ông của con. Con đã chiến đấu cho Chúa, nhưng giờ đây người ta còn muốn cất mạng sống con…” Các tiên tri cũng bị những cơn cám dỗ làm nản lòng vì sự cứng lòng của dân. Vua Đavít đã bị cám dỗ vì sắc đẹp của bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia, và đã sa ngã. Các vua It-ra-en đã bị cám dỗ bỏ Chúa theo thần Baan…
Cám dỗ là một điều hiển nhiên trong cuộc sống chúng ta. Chính chúng ta trở thành cám dỗ cho chính mình, vì chúng ta mang nặng một khối tình dục trong chúng ta mà thánh Phaolô gọi là “xác thịt”. Ngài nói rằng, trong chúng ta vẫn có cuộc giằng co giữa xác thịt và tinh thần. “Tôi lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi tội lỗi…Điều tôi muốn làm thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Nơi khác Ngài nói: “Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết, nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống”… “Thật, tôi là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết nầy?” Như thế cuộc sống của chúng ta mãi mãi là một cuộc chiến liên lỉ. Chúng ta luôn bị đặt trước sự chọn lựa hằng ngày giữa cái tốt và cái xấu.
Mùa chay là mùa chiến đấu để giải thoát mình khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi.
Chúa Giêsu đã làm người như chúng ta, cũng kinh nghiệm những cơn cám dỗ. Tên cám dỗ đã đến với Ngài với dáng vẻ thân tình, thông cảm cơn đói của Ngài sau bao nhiêu ngày chay tịnh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…Ông hãy biến hòn đá nầy thành bánh cho ông ăn” Điều nầy có nghĩa gì? Tức là ông có quyền, có mọi thứ để sống như ý muốn. Tại sao lại phải khổ nhọc chịu đói như thế? Hãy sống cho thỏa thích vì ông có quyền trên mọi sự. Ông là Con Thiên Chúa.
Nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta có can đảm từ chối lời mời gọi thân tình đó không? Chúng ta dám chịu đựng đến cùng để thi hành những gì Chúa muốn không? Hay là chúng ta nghĩ rằng, ăn uống thì có gì là xấu đâu! Giờ nầy là hết giờ chay tịnh rồi thì cứ thoải mái!
Chúa Giêsu biết những gì Ngài phải làm và Ngài luôn trung thành đến cùng. Quyền uy trong tay Ngài, không phải để thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản thân Ngài mà là để chu toàn sứ mệnh đã được trao phó. Ngài chỉ sống theo Lời Chúa: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh”. Còn cái gì cao trọng hơn cơm bánh hay lợi lộc trần gian. Ngài có một chọn lựa dứt khoát. Ngài biết rõ những gì Ngài phải làm. Chúng ta vẫn bị cám dỗ là không dứt khoát, chúng ta muốn chọn cả đời nầy và đời sau.
Ma quỉ bảo Ngài biến những hòn đá nên bánh ăn cho đỡ đói. Ngài từ chối. Ngài sẽ biến không phải hòn đá trở nên bánh mà Ngài sẽ làm hơn thế nữa, là biến bánh thành thịt máu Ngài cho thế gian được sống. Ngài chỉ làm cho người khác mà không bao giờ làm gì cho mình. Đó là điều khác biệt giữa chúng ta và Ngài.
Ma quỉ tự cho mình là chủ tể mọi loài và bảo Ngài quì lạy hắn để được làm vua trần thế. Thật là một trò hề quái dị! Ma quỉ đòi chiếm quyền tối thượng của Chúa, Ngài mới là chủ tể đích thực. Ngài chỉ trả lời bằng một lời đã ghi trong Kinh Thánh: “Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa”.
Cám dỗ nầy là một cái bẫy mà nhiều người đã sa vào mà không hay. Chúng ta dễ quì lạy ma quỉ, chúng ta thờ tiền mà không hay. Nhiều người đã chối bỏ Chúa để chạy theo địa vị, danh vọng, tiền của. Ma quỉ không hiện ra tỏ tường nhưng ngụy trang dưới hình thức tiền bạc, danh vọng. Chúng ta tôn thờ ma quỉ mà không hay khi chúng ta không còn coi việc thờ phượng là quan trọng, mà chỉ chú ý làm sao có lợi nhuận nhiều, đem hết tâm lực củng cố nghề nghiệp, địa vị xã hội của mình, coi thường cả luật Chúa. Ma quỉ rất tinh vi. Chúng ta không sáng suốt, không cương quyết sẽ bị sa vào bẫy của nó thôi.
Chúa Giêsu buông bỏ mọi sự chỉ chú tâm chu toàn thánh ý Cha mà thôi.
Sau cùng ma quỉ đưa Ngài lên tháp Đền thờ và bảo Ngài nhảy xuống để được mọi người khen ngợi hoan hô. Lại một trò hề lố bịch nữa! Chúa Giêsu đâu cần quảng cáo! Khi Ngài làm phép lạ, Ngài lại căn dặn không cho ai biết. Sứ mệnh của Ngài không phải là để được tôn vinh mà để cho mọi người được cứu rỗi và tình yêu của Chúa Cha được tràn tuôn cho mọi người. Chúng ta có đủ khiêm nhượng như Ngài không? Hình như chúng ta thích quảng cáo, thích những cảnh rầm rộ đèn nhạc tưng bừng.
Chúng ta đo thành công bằng những cuộc lễ long trọng, đông người, những lễ nghi hoành tráng. Chúng ta tung tiền ra để phô trương mà quên đi cái chính yếu. Có mấy người đã theo đạo khi thấy đèn đuốc ngập trời trong những ngày lễ long trọng? Thánh Phalô bảo: “Đừng theo thói thế gian”.
Những cám dỗ của Chúa Giêsu là những bài học hết sức thực tế. Ngài cho chúng ta thấy con đường phải đi, “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa…Anh em hãy để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện”.
Mùa Chay thánh là lúc Chúa mời gọi chúng ta tiến bước theo Ngài để đi về cuộc sống mới “bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu”, Đấng đã đến và đang chờ đợi chúng ta dấn thân bước theo Ngài. Ngài vẫn có mặt, vẫn gần gũi thân thương trong hình bánh nhỏ bé và đầy tình thương. Chúng ta hãy ăn lấy Ngài để được no đầy sức mạnh và tiến bước không ngừng trên con đường tình yêu Ngài đã đi.
CHỊU THỬ THÁCH VÀ CÁM DỖ ĐỂ TÔI LUYỆN TÌNH YÊU CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI
Thử thách và bị cám dỗ là những mối nguy hiểm cho tình yêu Chúa và tha nhân đối với chúng ta MC 1-ABC428
Thử thách và bị cám dỗ là những mối nguy hiểm cho tình yêu Chúa và tha nhân đối với chúng ta, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu của chúng ta được tôi luyện ngày một mạnh hơn trước mọi thử thách và cám dỗ. Thử thách giống một nốt nhạc đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót trầm hùng, làm cho bản nhạc hay hơn, sáng hơn và hào hùng hơn. Cho nên, Đức Giêsu hôm nay đã muốn chịu thử thách và cám dỗ là để làm cho tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và tha nhân nên mạnh mẻ hơn, quyết liệt và sắc son hơn. Qủa thế, suốt cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu, Chúa gặp nhiều thách đố và cám dỗ từ khi sinh ra cho đến tận đồi Canvê nhưng tất cả từ tư tưởng, lời nói và việc làm của Chúa đều hướng tới mục đích trung tín hoàn tất ý muốn của Cha là đồng hành yêu thương cứu độ con người.
Cụ thể, hôm nay quỷ dữ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn cơn đói khát cơm bánh, Chúa Giêsu cho biết rằng “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Như vậy, cơm bánh là cái cần thiết cho thân xác còn Lời Chúa cần thiết hơn cho tâm hồn. Vì chưng, tâm hồn điều khiến thân xác, “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6,45). Vì vậy Chúa dạy chúng ta hôm nay sống không chỉ nhờ cơm bánh mà sống dồi dào nhờ bởi việc bác ái, tình liên kết, công bằng và tình thương – và những thứ bánh này chỉ do Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Lời Ngài. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ”.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn đối đầu với thử thách và cám dỗ, thì tất nhiên Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu trong Giáo Hội cũng phải kinh qua thử thách và cám dỗ nhưng phải chịu đựng thử thách và chống trả những cơn cám dỗ như Chúa. Giống Thầy Giêsu, chúng ta phải dùng thử thách làm dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn hận thù, tình yêu mạnh hơn tội lỗi và tình yêu mạnh hơn sự ích kỷ, vô cảm và dững dưng.
Trước hết, quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của Người là đói thì cần có của ăn. Nhưng Chúa Giêsu cho biết rằng “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh". Vì vậy Chúa dạy chúng ta hôm nay sống không chỉ nhờ cơm bánh mà sống nhờ bởi việc bác ái, tình liên kết, công bằng, hy sinh, phục vụ và tha thứ… Những thứ bánh này do Thiên Chúa ban cho, vì vậy, thiếu của ăn thiêng liêng thì đời sống vật chất có no đủ nhưng đời sống tinh thần thì cô độc, tội lỗi và mất giá trị. Thứ đến, quỷ dữ ngỏ ý muốn giúp Chúa, với điều kiện: “Nếu Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài quyền bá chủ thế giới”. Công việc bác ái của chúng ta hôm nay cũng bị cám dỗ của sự kiêu ngạo, được danh để người ta tôn thờ mình. Đức Giêsu hôm nay quả quyết: “Ngươi sẽ chỉ tuân phục Thiên Chúa mà thôi”.
Lời Chúa trong thư Do thái rằng: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,17-18). Suy nghĩ về điểm này, thánh Gioan Viannay phấn khởi kêu lên: “Chúng ta hạnh phúc thay! May mắn thay cho chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu! Chúng ta nghèo khổ ư? Chúng ta có một Thiên Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh chê ư? Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm đó, Ngài đã từng bị đội mão gai, quấn áo đỏ để coi như một tên điên khùng. Chúng ta bị đối xử tồi tệ và đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên Chúa, đứng trước ta, mình đầy vết thương, chết giữa những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng ra. Chúng ta chịu bách hại sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có một Chúa chịu chết vì tay các lý hình. Cuối cùng, chúng ta đau khổ vì bị cám dỗ sao? Chúng ta có một Chúa Cứu Thế đáng yêu cũng bị quỷ cám dỗ, hai lần bị các thần dữ mang đi, và trong tất cả các khổ đau, quyến rũ và cám dỗ mà chúng ta gặp phải, chúng ta luôn có Chúa đi trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn thắng miễn là chúng ta muốn nên giống Chúa”.
Vâng, phận người chênh vênh vì luôn bị cám dỗ, cám dỗ bên ngoài và cám dỗ bên trong. Dù nhiều phong ba nhưng phận người cao cả, dù nhiều xấu xa nhưng có thể vượt qua bằng khôn ngoan lựa chọn để sống cách tự do theo ý Chúa. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra Chúa và tình thương của Ngài luôn ấp ủ ta, chúng ta hãy tỉnh thức để chiến đấu với những cơn cám dỗ và kiên trì chịu đựng những thách đố trong đời để chứng tỏ tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và tha nhân vẫn sắt son khi bình an cũng như thư thách, khi thánh thiện cũng như lúc bị cám dỗ. Vậy, trong suốt Mùa Chay thánh này, chúng ta hãy mở mắt, mở miệng và mở lòng mình ra để sẵn sàng xin lỗi Chúa và thanh nhân, sẵn sàng hàn gắn, xoa dịu, ủi an, tha thứ, hy sinh và phục vụ hầu làm cho tình yêu Chúa và tha nhân ngày càng đậm đà chân thật như lòng Chúa ước mong.
Thánh Augustinô khẳng định ma quỷ không thể làm gì khác ngoài việc mời mọc. Hành động hay MC 1-ABC429
Thánh Augustinô khẳng định ma quỷ không thể làm gì khác ngoài việc mời mọc. Hành động hay không là vấn đề của người bị cám dỗ
1. Chúa Giêsu với những cám dỗ trong Hoang Địa 1.1. Cám dỗ thứ nhất 1.2. Cám dỗ thứ hai 1.3. Cám dỗ thứ ba
2. Còn cám dỗ đối với chúng ta như thế nào? 2.1. Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đối với chúng ta 2.1.1. Cám dỗ thứ nhất là nhu cầu sự sống 2.1.2. Cám dỗ thứ hai là nhu cầu phình to bản ngã 2.1.3. Cám dỗ thứ ba là nhu cầu thích quyền lực 2.2. Bậc thang nhu cầu của Maslow (Maslow's Hierarchy of Needs) 2.2.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs) 2.2.2. Nhu cầu về an toàn (safety, security needs) 2.2.3. Nhu cầu về xã hội (social needs) 2.2.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs) 2.2.5. Nhu cầu được thể hiện mình/ khẳng định bản thân (self-actualizing needs)
3. Bí quyết chiến thắng cám dỗ 3.1. Chúa Giêsu đã thắng cơn cám dỗ như thế nào 3.1.1. Thái độ dứt khoát của Chúa Giêsu 3.1.2. Bí quyết chiến thắng cám dỗ của Đức Giêsu 3.2. Còn chúng ta...? 3.2.1. Không mon men đến dịp tội 3.2.2. Trước dịp tội hãy tránh cho xa
Tin Mừng Lc 4: 1-ABC13: BÍ QUYẾT CHIẾN THẮNG CÁM DỖ
1. Chúa Giêsu với những cám dỗ trong Hoang Địa
Theo truyền thống, các học giả thường nhấn mạnh đến ba lãnh vực bị thử thách trong đời sống của Đức Giêsu. Cám dỗ “biến đá thành bánh” đánh vào các nhu cầu thể lý của Đức Giêsu. Cám dỗ “nhảy xuống từ nóc Đền Thờ” thử thách nhận thức của Đức Giêsu về sứ vụ Mêsia của Người. Cám dỗ “bái lạy quỷ dữ” được mô tả như một cuộc công kích tâm linh triệt để.
1.1. Cám dỗ thứ nhất
Một giải thích không đúng về cám dỗ thứ nhất là cho rằng Đức Giêsu sẽ thực sự mắc lỗi nếu "biến đá thành bánh" để thoả mãn nhu cầu bản thân. Thực ra tự bản chất, hành động này khồng xấu vì sau này trong sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã từng làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều. Do vậy, vấn đề đặt ra là: “làm thế nào mà lời đề nghị "biến đá thành bánh" lại có thể thực sự trở thành một cơn cám dỗ?” Câu trả lời của Đức Giêsu đã lật tẩy thực chất cuộc công kích của ma quỷ là muốn làm cho Đức Giêsu lìa xa sứ mệnh của Người. Dừng lại việc chay tịnh để biến "hòn đá thành chiếc bánh" là một việc không phải là xấu, nhưng nếu làm như thế, Đức Giêsu lại phải mất thêm thời gian để suy xét nghiêm túc về bản chất ơn gọi của Người. Đức Giêsu đã đập tan cơn cám dỗ này bằng cách chọn điều tối thiện hảo là làm theo ý Thiên Chúa Cha, nên để trả lời cho Satan, Đức Giêsu đã trưng dẫn lời Kinh Thánh: “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”. Người luôn giữ thái độ lắng nghe trong tình thân với Thiên Chúa. Người ân cần lưu tâm đến công việc của Chúa Cha là Cha của Người (x. 2,49). Sự phục tùng biểu tỏ tình thân, chính tình thân này là mấu chốt giúp hiểu hai cơn cám dỗ còn lại.
1.2. Cám dỗ thứ hai
Thoạt nhìn, cơn cám dỗ thứ hai chẳng có gì đáng xem là cám dỗ: “Đức Giêsu mà lại phải sụp lạy ma quỷ ư?” Chẳng cần phải rườm rà hoa lá, chẳng cần ngụy trang, “cái bẫy” đã được phô ra rành rành. Tuy vậy, đối với Đức Giêsu, cám dỗ này đúng là có một hấp lực thực sự. Xây dựng một vương quốc trần gian để hất cẳng chính quyền của người Rôma, cám dỗ này đồng nghĩa với việc Đức Giêsu không thể chu toàn ơn gọi của mình. Nó cũng đồng nghĩa với việc Đức Giêsu sẽ phải dùng tới những phương thế trần gian để mang đến cho con người tự do, cũng có nghĩa là giành được vương miện mà chẳng cần phải trải qua khổ giá.
Câu trả lời được lấy ra từ Kinh Thánh của Đức Giêsu chứng tỏ đấy chính là điểm mấu chốt của cơn cám dỗ này. Chính mối tình thân với Chúa Cha chứ không phải kỹ năng trích dẫn Kinh Thánh điêu luyện của Đức Giêsu đã giúp Người chiến thắng quỷ dữ. Đức Giêsu quan tâm tới cả cách sống lẫn mục tiêu cuộc sống.
1.3. Cám dỗ thứ ba
Cám dỗ cuối cùng được hiểu rõ nhất khi được nhìn theo viễn cảnh lịch sử. Giả như Đức Giêsu cho dân chúng chứng kiến việc Người sống sót cách lạ lùng sau khi nhảy từ tháp cao của Đền Thờ xuống, thì tức khắc Người sẽ được coi là Đấng Mêsia, là vị thủ lãnh được Thiên Chúa xức dầu, là nhân vật mà dân Do Thái đang mong đợi, là người sẽ lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa vũ trang để chống lại ách thống trị Rôma.
Thánh Augustinô khẳng định ma quỷ không thể làm gì khác ngoài việc mời mọc. Hành động hay không là vấn đề của người bị cám dỗ (“gieo mình xuống”), nhưng Đức Giêsu biết nếu Người khởi sự sứ vụ của mình bằng một cú nhảy ngoạn mục từ nóc đền thờ xuống thì hoàn toàn đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, vì làm như thế là thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu không chấp nhận giải pháp gọn nhẹ này. Người không cho phép bất cứ điều gì có thể làm tổn hại tới mối tình thân giữa Người với Thiên Chúa là Cha của Người.
2. Còn cám dỗ đối với chúng ta như thế nào?
2.1. Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đối với chúng ta
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ. Qua đó, chúng ta thấy được chiến thuật quỷ quyệt ngàn đời của ma quỷ: hắn luôn luôn bắt đầu tấn công con người ở khía cạnh thấp hèn nhất: sự tham ăn hay nói cách khác, sự tìm kiếm thỏa mãn xác thịt với những dục vọng đê tiện. Sau khi tấn công khía cạnh xác thịt đê hèn của con người. Một khi đã mù quáng trong những dục vọng đê tiện của thể xác, con người sẽ đánh mất mọi ý hướng, mọi ý chí tốt lành để chỉ biết ngụp lặn trong việc tìm kiếm danh vọng, chức quyền và của cải, tức là con người đi vào vòng nô lệ của những ước vọng hão huyền.
Trong ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu, cũng như đối với chúng ta, những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên những nhu cầu và giá trị hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con người.
2.1.1. Cám dỗ thứ nhất là nhu cầu sự sống
Cám dỗ thứ nhất là nhu cầu sự sống, sự an toàn bản thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu sang: sự sống là một giá trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và bảo vệ nó, nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Ta cũng thấy có biết bao người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước bất công, sẵn sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực bạo quyền… họ đã quí sự sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.
2.1.2. Cám dỗ thứ hai là nhu cầu phình to bản ngã
Cám dỗ thứ hai là nhu cầu phình to bản ngã, muốn được nổi danh, được nể phục, được coi là quan trọng, được khen tặng, được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo: ai cũng cho "cái tôi" của mình là quan trọng, muốn mình là "cái rốn của vũ trụ", và không muốn bị ai xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt, nhờ đó mới phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến,
2.1.3. Cám dỗ thứ ba là nhu cầu thích quyền lực
Cám dỗ thứ ba là nhu cầu thích quyền lực, thích làm chủ để điều khiển, muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình: đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm lý con người. Ai cũng thích người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên người khác.
2.2. Bậc thang nhu cầu của Maslow (Maslow's Hierarchy of Needs)
Trên đây chính là những nhu cầu tự nhiên nhất của con người đã được Maslow đưa vào như một hệ thống trong bậc thang nhu cầu tự nhiên của con người như sau:
2.2.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh mẽ nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.
Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được. Ông bà ta cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “có thực mới vực được đạo”, cần phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu cầu cao hơn.
2.2.2. Nhu cầu về an toàn (safety, security needs)
Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không còn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.
Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ…. nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng là do nhu cầu an toàn này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần. Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm…cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.
2.2.3. Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình yêu thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm …nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của loài người chúng ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu này sau hai nhu cầu phía trên, nhưng ông nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, về thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, những người sống cô độc thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp hơn những người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cô đơn có thể dễ dàng giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường từ bỏ thế gian này với lý do: “những người xung quanh, không có ai hiểu con!”.
2.2.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện hai cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc về một tổ chức”, nhu cầu xã hội phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức, một đội nhóm, chúng ta luôn muốn được mọi người trong nhóm nể trọng, quý mến, đồng thời chúng ta cũng phấn đấu để cảm thấy mình có “vị trí” trong nhóm đó.
2.2.5. Nhu cầu được thể hiện mình/ khẳng định bản thân (self-actualizing needs)
Khi nghe về nhu cầu “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất. “Thể hiện mình” không đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lòe lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ nho” khắp nơi, nói năng khệnh khạng … Maslow mô tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person’s need to be and do that which the person was “born to do”” (nhu cầu của một cá nhân mong muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”). Nói một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.
3. Bí quyết chiến thắng cám dỗ
3.1. Chúa Giêsu đã thắng cơn cám dỗ như thế nào
3.1.1.Thái độ dứt khoát của Chúa Giêsu
Trước các đợt tấn công của Satan, Chúa Giêsu đã dứt khoát gạt bỏ cả ba kế hoạch hấp dẫn đó. Chúa không muốn chinh phục người ta bằng miếng ăn, bằng quyền năng thần thánh hay bằng vinh quang vật chất trần gian. Chúa đến trần gian là để thi hành sứ mạng cứu độ trần gian theo kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Kế hoạch đó là Ngài phải mang lấy thân phận con người sống kiếp người nghèo khổ và phải đi đến tận cùng con đường gian khổ, đến cuộc tử nạn Thập Giá. Đó là kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa Cha mà Chúa Giêsu phải thực hiện để đưa Ngài lên đến tột đỉnh vinh quang của cuộc chiến thắng phục sinh, nhờ đó mà loài người được cứu độ.
3.1.2. Bí quyết chiến thắng cám dỗ của Đức Giêsu
Bí quyết giúp Đức Giêsu chiến thắng không phải là khả năng thuộc lòng Kinh Thánh nhưng là sự luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa Cha. Gắn bó thiết thân với Lời Chúa là tốt, nhưng ngay cả ma quỷ cũng có thể trích dẫn Kinh Thánh vanh vách. Không phải vốn kiến thức trổi vượt về Kinh Thánh, nhưng là mối tình thân của Đức Giêsu với Cha Người đã giúp Người nhận ra ý muốn của Thiên Chúa. Biện giải xác đáng về Kinh Thánh không gì khác hơn mối thân tình sống động với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng quỷ không phải do Người đã trưng dẫn Kinh Thánh như những câu thần chú, nhưng vì Người đã và đang sống mối liên hệ thân tình với Cha Trên Trời là Đấng mà Kinh Thánh tỏ bày.
3.2. Còn chúng ta...?
Chắc chắn chúng ta cũng phải đi vào con đường của Đức Giêsu là luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và đồng thời cũng phải có một thái độ dứt khoát với những cám dỗ của Satan tức là không mon men đến dịp tội nhưng hãy tránh cho xa.
3.2.1. Không mon men đến dịp tội
Chúng ta sa chước cám dỗ vì lúc đầu chúng ta hay xem thường những lỗi nho nhỏ như một điếu thuốc, một ly rượu, một tư tưởng không tốt, một ước muốn tò mò...để rồi đến một lúc nào đó chúng ta phạm trọng tội mà chúng ta không ngờ như trường hợp của một tên sát nhân: "hắn là một tên sát nhân. Hắn đã giết một cảnh sát viên. Bây giờ hắn phải trả giá bằng hình phạt: người ta cột hắn vào ghế điện trong nhà tù.
Người ta buộc những miếng kim khí vào cái vòng trên đầu và vào bắp chân hắn. Một lát nữa, dòng điện cực mạnh sẽ chạy qua thân xác hắn, đủ gây nên sự mất ý thức và chết ngay lập tức. Viên chức phụ trách hỏi tên tử tội xem hắn có muốn nói lời gì cuối cùng không. Hắn buột miệng với một giọng điệu đau đớn cực độ: “đây, tất cả đã khởi đầu khi tôi ăn cắp một đồng 5 xu ở túi áo của mẹ tôi. Rồi tôi ăn cắp hai đồng 5 xu. Sau đó, tôi đã bắt đầu ăn cắp đồ vật ở trường học, ở tiệm tạp hóa, tiệm thuốc. Rồi, với hai thằng bạn, tôi bắt đầu tập luyện...và muốn kiếm được càng ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng, chúng tôi quyết định cướp ngân hàng, và lần đó tôi đã bắn chết viên cảnh sát. Đó, tất cả bắt đầu với một đồng 5 xu”.
3.2.2. Trước dịp tội hãy tránh cho xa
Một công ty nọ cần tuyển tài xế với chế độ đãi ngộ rất cao.
Vượt qua vòng đầu, lọt lại chỉ còn có 3 người.
Chánh chủ khảo hỏi họ:
Bên vực thẳm có vàng, các anh lái xe qua đấy, nên chọn khoảng cách như thế nào?
- Người thứ nhất nói: 2 mét. - Người thứ hai: 1 mét. - Người thứ ba nói: tôi thì sẽ tránh càng xa càng tốt.
Kết quả, công ty đó đã chọn người thứ ba. Chiến thuật để đừng bị mỏ vàng cám dỗ là tránh cho xa. Đào vi thượng sách, đó chính là diệu kế để thoát khỏi cơn cám dỗ. Tránh cho xa và dứt khoát ngay từ đầu, đó là điều Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện khi đứng trước cơn cám dỗ như trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
Mùa Chay của năm Phụng vụ 2019 đã bắt đầu. Mùa Chay là mùa Giáo hội muốn ta nhìn lại bản MC 1-ABC430
Mùa Chay của năm Phụng vụ 2019 đã bắt đầu. Mùa Chay là mùa Giáo hội muốn ta nhìn lại bản thân mình. Nhìn lại bản thân để thấy ta yếu đuối. Để rồi ta sẽ thấy mình cần Chúa như thế nào. Từ đó ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu thương ta ra sao. Hãy xin Chúa Giêsu cho ta trong Mùa Chay này cũng như suốt cuộc đời xác tín điều ấy luôn.
Lời Chúa trong Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ sau khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc. Do Chúa Thánh Thần thúc đẩy nên Người đã chịu cám dỗ đến 3 lần. Và cả 3 lần ma quỷ đều thất bại thảm hại.
Vì sao ma quỷ đã thất bại? Ma quỷ muốn Chúa Giêsu dùng chính quyền năng của mình mà phản bội Chúa Cha. Nó muốn chia lìa tình yêu của Người với Chúa Cha. Thế nhưng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha quá vững mạnh nên nó đành phải rút lui.
Ngay từ những ngày đầu tiên trong vườn địa đàng ma quỷ cũng đã dùng chính bài này mà cám dỗ tổ tông ta. Nó đã nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3, 4b - 5)
Vua Đavit vì cám dỗ sắc dục nên ông đã phạm tội cướp vợ của người anh em và đã giết người anh em là Uria (2Sm 11, 1 -27). Ông đã dùng chính quyền làm vua của mình mà hãm hại người khác. Ông quên rằng vì yêu thương mà ông đã được Thiên Chúa chọn làm vua chứ ông đâu có công cán gì. Như vậy, phạm tội này coi như ông đã phản bội lại tình yêu của Thiên Chúa.
Giuđa chỉ vì tiền và lợi ích riêng tư mà ông cũng đã phản bội lại tình yêu của Thầy mình. Ba năm trời theo Chúa Giêsu chắc là ông đã nhận biết bao tình thương mà Thầy dành cho. Thế nhưng ông đã trả ơn bằng việc bán Thầy với giá như một tên nô lệ. (30 đồng)
Không phải Chúa Giêsu chỉ bị cám dỗ hôm nay mà dường như suốt cả đời Người luôn bị nó theo đuổi. Cách đặc biệt nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi nghĩ đến cái chết đang cận kề Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi và thấp thỏm. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến 2 lần. Lần thứ nhất: " Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha " (Mt 26, 39b). Lần thứ hai: " Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha " (Mt 26, 42b). Đây chính là vũ khí lợi hại nhất mà Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ. Vũ khí ấy là luôn trông cậy và phó thác vào tình yêu của Chúa Cha.
Như thế, chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của ta với Chúa. Khi ta ỷ lại vào sức mình, vào khả năng của mình... mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ đấy.
Dầu vậy, khi ý thức mình đang rơi vào tròng của nó ta hãy mau mắn và can đảm trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Hãy luôn nhớ tình yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi của ta.
Tin mừng Lc 4: 1-ABC13: Tin mừng hôm nay ghi lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Việc Người chịu cám dỗ không phải là chuyện tình cờ, hay là chuyện có sắp đặt trước để dạy con người bài học về sự chiến thắng cám dỗ.
Mùa Chay (Carême), từ ngữ này phái sinh từ tiếng Latin Quadragesimus nghĩa là 40 ngày. Mùa MC 1-ABC431
Mùa Chay (Carême), từ ngữ này phái sinh từ tiếng Latin Quadragesimus nghĩa là 40 ngày. Mùa chay khởi đầu từ thứ tư Lễ Tro và kéo dài đến Phục sinh trong vòng 40 ngày, tưởng nhớ đến Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày trong sa mạc trước khi bắt đầu đời sống công khai của Người. Đối với Kitô hữu Mùa Chay không chỉ đơn giản là thời gian sám hối và hãm mình hy sinh khó khăn. Đó chỉ là một mặt, mùa Chay còn có những mặt tích cực khác: khám phá những giá trị đích thực của nhân tính, những giá trị mang đến sự cao quí và hạnh phúc của con người. Sự khám phá này chúng ta được mời gọi hãy thực hiện dưới sự hướng dẫn của chính Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta sẽ vui lòng chấp nhận theo Người vào trong sa mạc, nơi chúng ta sẽ gặp Người.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Đnl 26, 4-10
Của Đầu Mùa Tiến Dâng Cho Chúa
Môsê nhắc nhở dân Israel, dân được tuyển chọn: họ phải luôn nhớ đến những điều thiện hảo mà Thiên Chúa không ngừng thực hiện cho họ trong suốt lịch sử, đặc biệt nhớ đến việc Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa dân vượt qua sa mạc vào đất hứa.
Mỗi năm, dân Israel dâng lên Thiên Chúa trong một nghi lễ long trọng những của đầu mùa của họ. Họ còn thực hiện những cử chỉ theo qui định lễ tiết để tuyên xưng đức tin đích thực của mình.
Để gìn giữ những giá trị của mình, sự dâng tiến phải như một ý thức mới về tất cả những gì Thiên Chúa đã làm để giải phóng Israel ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập.
Những cử chỉ tôn giáo của chúng ta ngày nay có phải là những biểu lộ của một đức tin đích thực không? Những gì Kitô hữu thể hiện trong đời sống phụng vụ có thực sự giúp mọi người ca tụng, tôn thờ và tạ ơn Thiên Chúa không?
2. Bài đọc II: Rm 10, 8-3
Ơn Cứu Độ Bởi Đức Tin
Trong trích đoạn thư gửi tín hữu Roma này, Thánh Phaolô khẳng định rằng chỉ bởi chính đức tin mà chúng ta được công chính hóa và được cứu độ.
Thánh Tông Đồ khởi đầu bằng việc nhắc lại điều chủ yếu của đức tin là tuyên xưng ngoài môi miệng và trong tâm hồn màu nhiệm Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh để giải thoát và ban ơn cứu độ cho con người.
Nhưng để đức tin thực sự là nguồn mạch của sự sống thì cần phải thấm sâu vào trong tâm khảm và cần phải được thể hiện cụ thể qua những quyết định, những hành động và những tình cảm của con người.
Kitô hữu là những nhân chứng của đức tin, vậy thì những cử chỉ, tâm tình tôn giáo phải thực sự xuất phát từ đức tin của mình, nếu không chỉ là hình thức và gây thiệt hại cho bản thân, cho người khác và cho Giáo Hội.
3. Tin mừng: Lc 4, 1-ABC13
Chúa Giêsu Chịu Cám Dỗ Trong Sa Mạc
Tin mừng ghi lại khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã chịu cám dỗ trong sa mạc và Người đã chiến thắng bằng sự qui hướng về Chúa Cha và yêu mến thực hiện ý Chúa Cha.
Phải chăng việc Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc là chuyện sảy ra tình cờ? Hoàn toàn không phải thế. Khi đã mặc lấy thân xác, mang lấy nhân tính, Đức Giêsu thực sự là một con người đón nhận mọi giới hạn, mọi điều kiện của nhân tính ngoài trừ tội lỗi. Do đó, việc Người chịu cám dỗ là tất nhiên, tuy nhiên, Người không bị khuất phục nhưng đã chiến thắng vẻ vang, mở đường cho mọi người cũng sẽ chiến thắng cám dỗ và tội lỗi.
Ba chước cám dỗ được trình bày trong Tin mừng cho thấy cuộc chiến đấu liên tục và âm thầm của Chúa Giêsu trong sa mạc. Người đến để loan báo và thiết lập Nước Trời khiến cho thù địch của Thiên Chúa tìm mọi cách để chống lại. Việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ còn nói lên cuộc chiến đấu không khoan nhượng chống lại ma quỉ, tội lỗi và sự chết giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa thiện và ác. Cuộc chiến này cũng sảy nơi Kitô hữu, những người cùng theo Đức Giêsu Kitô.
Mỗi người Kitô hữu cũng gặp thấy những cơn cám dỗ Đức Giêsu đã chịu nơi chính cuộc sống thường ngày của mình: những cám dỗ về vật chất, về danh vọng quyền lực, về tình dục xác thịt luôn là điều muôn thửơ. Nhìn lên Chúa để lấy được sức mạnh chiến đấu và chiến thắng cám dỗ. Chiến thắng bằng lời Chúa và bằng lòng yêu mến Chúa chân thành để chỉ ước muốn những gì Chúa muốn.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Mùa chay, mùa giúp tái khám phá những giá trị của nhân tính: Mùa chay là thời gian giúp cho người tín hữu cử hành màu nhiệm Vượt Qua bằng việc tưởng niệm bí tích Thánh Tẩy và việc sám hối. Những việc này nhắc nhở mỗi người tín hữu về phẩn giá ơn gọi của mình, ơn gọi làm con cái Chúa nhờ màu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô. Nhắc nhở mọi người về phẩm giá làm người, con người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng và cứu độ. Do đó, mùa chay không chỉ đơn thuần là sám hối ăn năn. Đàng rằng sám hối là một việc quan trọng mà Giáo Hội mời gọi phải thực hiện trong thời gian Thánh này, tuy nhiên sám hối không phải là cùng đích đơn giản đó chỉ là một phương thế. Điều quan trọng của mùa chay đó là kinh nghiệm của cá nhân cũng như của cộng đoàn về tình yêu của Thiên Chúa. Kinh nghiêm này giúp khám phá ra những giá trị của nhân tính. Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận mỏng dòn phải chết của con người để nâng loài người lên. Đã nhận lấy nhân tính để con người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Với màu nhiệm Vượt Qua, nhân tính con người đã vươn lên nhưng giá trị mới, đã có thể đối thoại với Thiên Chúa và nhất là đã đựơc trở nên Con Thiên Chúa.
Vậy phải ý thức được phẩm giá cao quí của mình, của ơn gọi Kitô hữu để sống đúng. Chúng ta được tạo dựng và được cứu độ bởi Thiên Chúa cho nên, phải sống sao cho ra sống, cho đáng sống. Sống thế nào cho đúng với tầm vóc là người vinh dự được Chúa yêu thương cứu độ nhất là phải sống thế nào cho xứng đánglà người Con của Chúa. Mùa chay Giáo Hội mời gọi tưởng nhớ đến bí tích Thanh tẩy và việc sám hối là để chúng ta xem lại tư cách làm người, tư cách làm con Chúa đã sống như thế nào?
2. Cám dỗ giúp nhìn lại bản chất con người: Tin mừng hôm nay ghi lại việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Việc Người chịu cám dỗ không phải là chuyện tình cờ, hay là chuyện có sắp đặt trước để dạy con người bài học về sự chiến thắng cám dỗ. Chúa không bao giờ dùng cách thế giả tạo đó. Nhưng ở đây việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ chứng tỏ rằng Người thực sự là một con người. Người trở nên con người giống chúng ta mọi điều ngoại trừ tội lỗi. Mà đã là con người thì chắn chắn có những giới hạn, những mỏng dòn của kiếp người và như thế tất nhiên cũng sẽ bị ma quỉ lợi dụng vào đó để tấn công. Nhìn vào các cơn cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu và cách thế Người chiến thắng cám dỗ giúp cho chúng ta nhìn lại bản chất con người của mình rất là yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội. Những gì Chúa Giêsu chịu cũng chính là những cám dỗ đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ nơi mỗi người: tiền tài vật chất, danh vọng quyền lực; đời sống thụ hưởng xa hoa …
Bản chất con người là như thế dễ nghiêng ngã bởi cám dỗ, nhưng không vì thế mà chịu thua, chịu đầu hàng trước mọi cơn cám dỗ. Chúa Giêsu đã đi bước trước, đã chiến thắng và mở ra cho chúng ta phương thế để chiến thắng cán dỗ. Đó là yêu mến thực hiện ý Chúa Cha, là chấp nhận với tình yêu số phận mà Chúa Cha đã chọn. Với mỗi người làm được điều đó cần phải nỗ lực cầu nguyện, hy sinh hãm mình và sống đời bác ái.
3. Chiến thắng cám dỗ làm thăng tiến cuộc đời: Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu cám dỗ. Do đó, bị cám dỗ không phải là điều xấu mà ngã gục trước cám dỗ mới là xấu. Chống lại cám dỗ cách anh dũng như Chúa Giêsu trong sa mạc là dịp để tỏ bày lòng con thảo với Thiên Chúa là Cha và là cơ hội để trưởng thành hơn trong đức tin. Qua việc vượt thắng những cám dỗ chúng ta sẽ trưởng thành lên rất nhiều cũng như có được nhiều kinh nghiệm quí báu trong đời sống đức tin. Nhờ việc can đảm chiến đấu với cám dỗ mới thấy được sức con người có giới hạn, chiến thắng được là nhờ ơn Chúa để rồi biết sống khiêm nhu và tín thác vào Chúa hơn. Mỗi lần vượt qua cám dỗ là mỗi lần tiến đến gần Chúa hơn, sống thánh đức hơn. Tuy nhiên, điều này không cho phép chúng ta liều mình đứng trước cơn cám dỗ để có thể vươn lên. Và nếu có lâm phải cơn cám dỗ cũng không nên bối rối lo âu thái quá mà cần bình tĩnh, Chúa Giêsu còn bị cám dỗ huống hồ là người môn đệ của Chúa. Cũng qua việc chiến đấu chống lại cám dỗ bằng ơn Chúa giúp cho chúng ta khi dùng những phương thế siêu nhiên như cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, năng rước Mình Máu Thánh Chúa, nhờ đó, giúp chúng ta gắn bó với Chúa hơn, yêu mến Ngài nhiều hơn.
Cám dỗ tự thân nó là xấu vì bắt nguồn từ ma quỉ, không phải tự nơi con người nên bị cám dỗ không là xấu. Nhưng khi để cho chúng ta tự do chiến đấu chống lại cám dỗ Thiên Chúa cũng muốn dùng nó như phương thế để tôi luyện con người, để giúp con người một khi chiến thắng được cám dỗ sẽ trưởng thành hơn, sẽ gắn bó với Chúa hơn và thực sự được thăng tiến cuộc đời. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng người là vậy.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã mạc lấy nhân tính hèn yếu của chúng ta, đã chấp nhận chịu cám dỗ và đã chiến thắng mở đường cho con người chiến đấu và chiến thắng cám dỗ của ma quỉ. Trong tâm tình cảm phục ngợi khen chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Giáo Hội, những vị mục tử cũng như mọi thành phần dân Chúa trong mùa chay thánh này biết theo chân Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc của lòng mình, để kết hợp với Người trong thinh lặng và cầu nguyện; để lắng nghe tiếng Chúa, nhờ đó, sống mùa chay này có ý nghĩa hơn, hiệu quả hơn.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em đang lâm vào cảnh khó khăn, bất hạnh, những người đang chìm đắm trong đam mê dục vọng, đang quay cuồng trong những cám dỗ của tệ nạn. Xin Chúa soi sáng cho họ tìm được ánh sáng của Chúa, sức mạnh của Chúa để vượt qua những cám dỗ ấy.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta ngay từ đầu mùa chay thánh này luôn nỗ lực canh tân hoán cải đời sống để gắn bó hơn với màu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu, nhờ đó, sống đúng với phẩm giá làm người, làm Kitô hữu và làm con Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa hàng sống và quyền năng! Chúa đã ban cho chúng con những ngày chay thánh qua Giáo Hội như một ân huệ. Xin hướng dẫn chúng con dõi bước theo Chúa Giêsu Kitô để hoán cải cuộc sống theo lời dạy bảo và gương sáng của Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong chuyến viếng thăm tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng MC 1-ABC432
Trong chuyến viếng thăm tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỷ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?
Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỷ đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa. Đây là chước cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.
Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng lạm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.
Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng quyền lực.
Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi Đền Thờ) nhằm khơi gợi lòng tin –giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.
Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thập giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế.
Cả ba chước cám dỗ cuối cùng đều quy hướng về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền Thờ, và cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại một lần khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỷ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy”.
Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.
Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể MC 1-ABC433
là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một chỗ lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện.
Kinh nghiệm sa mạc đến vào giây phút quan trọng trong cuộc đời của Đức Giêsu, thời gian của sự thức tỉnh lớn lao. Không thể nào gọi là cường điệu, khi nói về tầm quan trọng của sa mạc đối với Đức Giêsu. Thật vậy, càng ngày, Người càng yêu thích sự cô tịch, và có thói quen tìm đến với sa mạc, vào những lúc khó khăn trong cuộc đời của Người. Khi dân chúng và các sự kiện tìm cách vây bọc lấy Người, thì Người sẽ lẻn vào nơi hoang vắng, để tự phục hồi và lại hiến thân cho Chúa Cha. Hiện tại, Người đang đào sâu cảm nhiệm sa mạc đầu tiên này.
Chúng ta cũng cần có một nơi yên tĩnh để suy niệm và cầu nguyện. Thông thường, chúng ta hay sống một cách điên rồ và thiếu mất đời sống thiêng liêng, cứ để mặc cho những ước muốn ngu xuẩn đưa dẫn, và những thói quen ích kỷ đầu độc. Chúng ta bị những tiếng ồn ào và những sinh hoạt liên tục vây hãm. Chúng ta đặt sai những thứ tự ưu tiên. Chúng ta không thể hoặc không muốn sự cô tịch, không muốn được yên tĩnh, không muốn cảnh tĩnh mịch. Và chúng ta lại thắc mắc tại sao mình không có hạnh phúc tại sao mình cảm thấy không dễ dàng gì trong việc tiếp cận với người khác, và tại sao mình không thể nào cầu nguyện được.
Chúng ta cần đến sự cố tích. Khi ở một mình, chúng ta bắt đầu đứng trên đôi chân của mình, trước mặt Thiên Chúa và thế giới, và hoàn toàn chấp nhận chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của bản thân. Các ẩn sĩ đi vào sa mạc, không phải để tự để tự đánh mất, nhưng là để tìm được chính mình. Trong sự cổ tích, chúng ta gặp gỡ những trò quỷ quái của chúng ta, những đam mê, thú tính, cơn tức giận, nhu cầu được nhìn nhận và được tán thành của chúng ta.
Và chúng ta không đi vào nơi hoang vắng để tránh khỏi người khác, mà để tìm thấy họ trong Thiên Chúa. “Chỉ khi ở nơi cô tịch và thinh lặng, tôi mới có thể tìm thấy sự tử tế mà nhờ đó, tôi có được khả năng để yêu mến các anh chị em tôi” (Thomas Merton).
Tôi chắc rằng không ai trong chúng ta muốn bị bệnh hay mắc một căn bệnh khó trị. Và tôi cũng MC 1-ABC434
Tôi chắc rằng không ai trong chúng ta muốn bị bệnh hay mắc một căn bệnh khó trị. Và tôi cũng chắc ràng chúng ta ai cũng có một bảng liệt kê những căn bệnh nan y mà chúng ta sợ nhất. Trên thực tế một số người trong chúng ta có một chút mê tín nên ngần ngại trong việc trao đổi về chủ đề này vì sợ xui vì e rằng điều đó sẽ xảy đến cho chúng ta. Nhưng, hãy thử lo nghĩ đến một bệnh nặng có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với chúng ta đó là bệnh mất trí nhớ, hay là lú lẫn.
Hãy tưởng tượng hậu quả sẽ kinh khủng đến mức nào khi chúng ta quên đi quá khứ của chính mình. Chúng ta sẽ không biết mình là ai và từ đâu đến. Thật đau đớn và mất phương hướng khi sống trong một bầu không khí lãng quên mọi sự, quên kinh nghiệm và các liên hệ đã có, quên cha mẹ và bạn bè, quên những người thân thuộc đã giúp bạn nên người. Một sự mất trí nhớ nghiêm trọng như thế tất nhiên sẽ xóa sạch quá khứ của chúng ta. Và còn hơn thế nữa là những gì tốt đẹp của hiện tại chúng ta sẽ không có lịch sử và kinh nghiệm của quá khứ để hoàn thiện và vững chắc hơn? Và tương lai sẽ không có giá trị gì nếu không có quá khứ giúp chúng ta lựa chọn sáng suốt đúng cho tương lai phải không?
Nghĩ cách khác, bệnh hay quên đó có thể là căn bệnh nặng nhất vì nó sẽ gây nhiều tổn hại trong vấn đề nhận thức về bản thân và trí hiểu của chúng ta trong thực tại của chính mình. Các bài Kinh Thánh hôm nay nói về một bệnh mất trí nhớ rất nguy hiểm: Đó là quên mất Thiên Chúa là ai, và Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta. Trong bài trích sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê nói với dân Israel và cố gắng giúp họ không nên tự quên lãng . Ông Môsê kêu gọi cộng đoàn tín hữu luôn nhớ đến Thiên Chúa và luôn luôn nhớ những hành động lớn lao của Ngài đã làm để giải thoát họ.
Ông Mô-sê nói với cộng đoàn trong một đại lễ phụng vụ, có thể là một lễ hội mà người dân đem theo một số trái cây đã thu hoạch được trong vụ mùa để dâng lên cảm tạ Thiên Chúa là nguồn gốc của những hoa quả đó. Nhưng, ông Mô-sê nhân dịp này đã hướng dẫn cho họ biết là họ không những nhớ những hoa quả mà Thiên Chúa đã ban cho họ, nhưng điều cần nhất là họ nên nhớ những món quà của Thiên Chúa đã ban cho họ trong quá khứ. Vì thế họ nên thuộc lịch sử của họ. Bắt đầu từ các tổ tiên họ "Ông tổ tôi là người Aram du mục" (có thể đó là ông Giacob). Các tổ tiên họ là những người du mục. Tuy vậy Thiên Chúa đã ban cho họ Đất Chúa Hứa và cho họ trở thành một quốc gia lớn. Rồi khi họ bị lưu đày ở Ai cập, Thiên Chúa đã dang cánh tay uy quyền "đã gây kinh hồn táng đởm" giải thoát họ.
Ông Môsê không muốn dân Israel là những người mất trí nhớ. Họ phải ăn mừng về quá khứ của họ. Vì nếu họ làm như thế, họ sẽ nhớ đến Thiên Chúa của họ, Ngài rất nhân từ với họ là những người không xứng đáng, và đã làm cho họ nên một dân tộc. Khi họ nhớ Thiên Chúa đã làm gì cho họ trong quá khứ, họ sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa là Ngài không bỏ rơi họ trong những nhu cầu hiện tại, cũng như các thử thách của tương lai.
Hôm nay là Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay. Mùa Chay đã bắt đầu và là lúc nên theo lời ông Môsê khuyên là nên nhớ lại những gì Thiên chúa đã làm cho chúng ta. Đó không phải là ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể là "không nên quên", hãy nhớ lại phải không? Mỗi khi chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể là chúng ta nhớ đến những việc làm vĩ đại của Thiên Chúa đã làm cho chúng ta qua Chúa Kitô và hơn thế nữa. Chúng ta sẽ nghe lời Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể "hãy làm việc này để nhớ đến Thầy", Không phải đó chỉ là cử chỉ củ chỉ đơn thuần để nhớ về quá khứ để khỏi quên việc Thiên chúa đã làm trong quá khứ cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta nhớ Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta, chúng ta "nhớ" Ngài, thì Ngài hiện diện ở giữa chúng ta. Chúng ta được kết nối với đời sống, sự chết và sự phục sinh của Ngài.
Và đó là điều quan trọng, vì Mùa Chay đòi hỏi chúng ta hãy chết cho chính mình: chết cho ích kỷ và tội lỗi; chết cho sự chỉ nghĩ và chú trọng cho mình; chết cho những nghĩ suy về thế giới xung quanh chúng ta và quên đi cộng đoàn lớn lao. Sự chết đó chúng ta không thể tự chúng ta làm được. Nhưng chúng ta nhớ đây là Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, và chúng ta không thể tự sống cho chúng ta vì chúng ta đã chết với Chúa Kitô trong Bí Tích rửa tội và đã được ban cho sự sống mới bây giờ và với lời hứa sẽ được sống lại với Chúa Kitô trong tương lai. Nhớ về quá khứ là điều hay, vì làm như vậy chúng ta sẽ thêm hăng hái và thị kiến về hiện tại và hy vọng cho tương lai.
Cộng đoàn chúng ta nhớ lại chúng ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu với Chúa Kitô và vì Ngài. Đó là lời kinh chúng ta dâng lên Thiên Chúa trong thánh lễ hôm nay: "Thật là chính đáng tạ ơn và ca ngợi Chúa Giêsu Kitô là Chúa Con của Ngài". Có cách nào mừng Mùa Chay khác hơn chăng? Chúng ta có thể bắt đầu mùa thánh này, không phải chỉ đấm ngực, nhưng bằng cách nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Và, trong Bí Tích Thánh Thể này cũng như trong đời sống hằng ngày chúng ta luôn dâng lời cảm tạ. Chúng ta hãy cùng nhau sống với tinh thần như thế trong suốt Mùa Chay.
Chúa Giêsu không phải là người mất trí nhớ. Ngài không có khó khan gí khi nhớ lại Thiên Chúa là a và Ngài là aii. Các tường thuật trong phúc âm nói rõ ràng là trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu, Ngài đã gặp những cám dỗ mà thánh Luca mô tả lại trong phúc âm. Có thể, những người thời nay không nghĩ là Chúa Giêsu bị cám dỗ. Hay là chúng ta nghĩ là Chúa Giêsu là Đấng mà Ngài có thể vượt qua những cơn cám dỗ dễ như là chúng ta đuổi ruồi ra khỏi mặt chúng ta. Nhưng, nếu phúc âm nói Chúa Giêsu bị cám dỗ, thì thật sự là có xảy ra. Cám dỗ sâu đậm không dễ dàng gì vượt qua. Những cám dỗ rất sâu sắc vì về bản tính Ngài vẫn là Con của Thiên Chúa. Nhưng khi sống trong mối liên hệ với Thiên Chúa như vậy lại bao gồm cả hai ý nghĩa là về phương diện kinh nghiệm bản thân và về sứ vụ của Ngài? Ngài làm sao đối phó với sự cám dỗ đó mà vẫn trung thành với Thiên Chúa và đồng thời thục thi sứ vụ mà Thiên Chúa đã giao cho Ngài?
Cám dỗ thứ nhất là về việc Chúa Giêsu tự lo cho Ngài. Ngài đói, vậy thì đó là gì? Sao lại Ngài không làm bánh từ đá? Vì sao Con Thiên Chúa lại sống một đời sống đầy đặc quyền và tránh được sự đau khổ mà tất cả chúng ta đã phải chịu đựng. Thật ra thì Ngài là Đấng đặc biệt phải không? Nhưng nếu Ngài nghĩ đến Ngài, dùng quyền năng riêng cho Ngài, thì Ngài có thể gây tin tưởng gì khi Ngài kêu gọi các môn đệ hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ngài? Còn về việc Ngài dùng quyền năng để ban lương thực cho những người đói bằng cách làm đá hóa bánh hay bằng cách làm bánh hóa ra nhiều thì sao? Ngài đã làm bánh hóa ra nhiều, và đám đông dân chúng không hiểu Ngài là ai mà làm phép lạ đó. Họ đến để nâng Ngài lên làm vua. Đó là những giới người đi theo Ngài nhưng Ngài không muốn.
Cám dỗ thứ hai là về việc Ngài làm sao sống là Con Thiên Chúa. Ngài có thể dùng quyền năng của Ngài trên các quốc gia trong thế giới, và dùng quyền lực quân sự gây ảnh hưởng chính trị. Dân Israel đã bao lần ao ước được nên một quốc gia hùng cường trên thế giới, và Chúa Giêsu có thể là người lãnh đạo họ. Nhưng, trái lại, Ngài chọn Ngài là Con thật của Thiên Chúa và tự đặt Ngài dưới quyền hành của Thiên Chúa, và sống đời sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa, không phải theo cách thức và đường lối quyền lực của trần gian.
Cám dỗ thứ ba: Thánh Luca dường như sắp đặt theo thứ tự các mức cám dỗ theo sự trầm trọng và sâu sắc. Một lần nữa Chúa Giêsu bị cám dỗ về bản tính Ngài là "Con Thiên Chúa". "Nếu ông là Con Thiên Chúa...". Nếu không phải vì lý do gì khác, chúng ta phải biết đây là lúc quan trọng vì thánh Luca đặt sự cám dỗ này trên nóc Đền Thờ (trong phúc âm thánh Luca, Giêrusalem và Đền Thờ là điểm trọng tâm) Nếu Chúa Giêsu để bị cám dỗ và gieo mình xuống khỏi nóc Đền Thờ thì Thiên Chúa phải gìn giữ Ngài. Ngài có thể kêu Thiên Chúa cứu Ngài khỏi những trường hợp đe dọa Ngài suốt những năm Ngài thi hành sứ vụ. Ngài có thể tự cho Ngài được ưu tiên như thế vì Ngài là Con Thiên Chúa. Và hậu quả là Ngài có thể thử thách Thiên Chúa để chứng tỏ Ngài là Con yêu dấu và đã được Thiên Chúa săn sóc gìn giữ. Ngài sẽ xin Thiên Chúa chứng minh sự liên hệ giữa Ngài và Thiên Chúa, và cam đoan với Ngài mỗi khi Ngài gặp khó khăn. Chúng ta không có những chứng minh cụ thể như thế mỗi khi chúng ta kêu đến Chúa Giêsu, một người trong chúng ta có thể xin chứng minh đó cho Ngài.
Vậy chúng ta có thể tin tưởng vào tình yêu thương của Thiên Chúa mỗi khi khó khăn của cuộc sống đánh gục chúng ta không? Chúng ta có thể tiếp tục tin tưởng suốt những lúc chúng ta phải chiến đấu, và mỗi khi chúng ta tự hỏi chúng ta có đáng được hay không? Ngay cả khi chúng ta thưa vói Thiên Chúa "con nghĩ con là con yêu dấu của Ngài. Sao Ngài lại để điều ấy xãy ra cho con? Ngài ở đâu khi con cần đến Ngài?" Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa thật là điều khó khăn. Khi chúng ta gặp đau khổ cùng tận, và đức tin chúng ta bị lay chuyển, và Thiên Chúa có vẻ như vô hiệu lực, hay không để ý đến lời chúng ta kêu xin. Nhưng Chúa Giêsu vẫn giữ lòng trung thành và tin tưởng trong những trường hợp tương tự như thế. Vì Chúa Giêsu có thể làm được thì bây giờ chúng ta cũng làm được. Lịch sử của dân Israel và lời các ngôn sứ cho biết là dân Israel đã bao lần bị sa ngã vì các cơn cám dỗ trong ơn gọi họ nên là con Thiên Chúa. Dân chúng thường quay mặt tránh khỏi Thiên Chúa và tự tìm lấy bánh cho họ. Họ quỳ xuống thờ lạy các thần giả và lắm khi họ thử thách Thiên Chúa. Chúng ta có thể trách Írael nhiều, nhưng chúng ta cũng đã làm như họ.
Vậy chúng ta không nên như là những người mất trí nhớ. Thiên Chúa giúp chúng ta có trí nhớ để nhắc chúng ta là con yêu dấu của Ngài và Ngài không bao giờ không giúp đỡ chúng ta để cam đoan với chúng ta là chúng ta là con Ngài. Vì Chúa Kitô, chúng ta nhớ lại quá khứ của chúng ta, kinh nghiệm chúng ta với Ngài trong hiện tại và không lo sợ cho tương lai của chúng ta là nơi chúng ta sẽ tìm thấy Ngài.
XIN CHÚA THÁNH LINH LUÔN NGỰ TRONG CON NHỮNG LÚC SA CHƯỚC CÁM DỖ
Mừng các bạn vào Mùa Chay. Mùa Chay bắt đầu từ những ngày đầu của thời giáo hội tiên khởi MC 1-ABC435
Mừng các bạn vào Mùa Chay. Mùa Chay bắt đầu từ những ngày đầu của thời giáo hội tiên khởi. Bắt đầu là một mùa ăn chay trước lễ Phục Sinh. Sau đó đổi ra là 40 ngày. Trong thời gian đó giáo hội có những việc lo cho các tân tòng sửa soạn chịu phép rủ̉a vào lễ Phục Sinh. Qua nhiều thế kỷ có hai việc chính trong cộng đoàn là: cộng đoàn ăn năn sám hối, và sủ̉a soạn cho các tân tòng chịu phép rủ̉a tội vào lễ Phục Sinh.
Sau đó chủ̉̉̉̉ điểm thay đổi qua việc giáo hội sủ̉a soạn mủ̀ng lễ Phục Sinh hỏn là chú trọng đến tủ̀ng cá nhân. Công Đồng Vatican II kêu gọi trỏ̉ về hai chủ điểm: phép rủ̉a và cộng đoàn ăn năn sám hối qua Lỏ̀i Thiên Chúa. Chúng ta sống qua Mùa Chay nhỏ̀ sụ̉ kích thích trong sự chuẩn bị của các tân tòng (vừa sửa soạn chịu phép rửa và chịu phép rước Mình và Máu Thánh Chúa lần đầu). Các tân tòng muốn gia nhập vào cộng đoàn đức tin cho chúng ta hy vọng vào tương lai, và nhắc chúng ta nhớ những ân huệ quý báu chúng ta đã lãnh nhận qua phép rửa tội.
Mùa Chay sẽ giúp chúng ta nghĩ đến lê Phục Sinh, nhưng cũng nhắc chúng ta đến Lễ Chúa Thánh Thần, không phải chỉ riêng về lễ, nhưng là việc Chúa Thánh Thần đã đến ở với chúng ta mãi mãi. Thánh Luca viết về việc Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày nhắc chúng ta nhớ là Chúa Thánh Linh dẫn đưa Chúa Giêsu vào trong hoang địa. Thần Khí đó không bao giờ rời Chúa Giêsu trong khi Ngài chịu cám dỗ, suốt những năm thi hành sứ vụ của Ngài, đến khi Ngài chịu khổ hình, chết và sống lại.
Mùa Chay không phải là một mùa đóng kín, chỉ 40 ngày sống trong việc ăn chay. Thật ra các tân tòng trong giáo xứ nhắc chúng ta là đang tiến đến ánh sáng Thần Khí. Tinh thần Chúa Thánh Linh đã ở trong chúng ta suốt qua mùa cộng đoàn sống lại đời mới. Xuyên qua việc chúng ta giữ chay Chúa Thánh Linh sẽ giúp chúng ta lánh xa tội lỗi, lãnh nhận đời sống mới trong lễ Phục Sinh, và sau đó Chúa Thánh Linh sẽ dẫn đưa chúng ta như Ngài đã đưa các tông đồ tụ họp trong phòng để ra đi làm nhân chứng cho đời sống, trong sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô.
Bài trích sách Đệ Nhị Luật nhắc chúng ta là trong truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo bắt nguồn trong sự kiện của lịch sử. Khi ông Môsê hội họp dân chúng, ông ta nhắc họ nhớ đến những việc diệu kỳ mà Thiên Chúa đã làm để cứu họ ra khỏi ách lưu đày ở Ai Cập. Trong khi cộng đoàn nhớ đến những việc Thiên Chúa đã làm, giúp cho mỗi thế hệ mới họp nhau để mừng lễ. Nhớ đến những việc kỳ lạ Thiên Chúa đã làm cũng giúp dân chúng thêm hy vọng trong những khó khăn hiện đại. Nếu Thiên Chúa đã có lần giúp dân Ngài, thi Ngài cũng sẽ giúp họ lần nữa trong những lúc khó khăn.
Sau khi ông Môsê nhắc dân chúng những việc Thiên Chúa đã làm, dân chúng mang lễ vật lên bàn thờ để tỏ lòng biết ơn và cùng nhau tận hiến đời họ cho Thiên Chúa. Và đó là việc chúng ta làm mỗi khi chúng ta dâng Thánh Lể. Trước hết, chúng ta nghe Lời Thiên Chúa, và nhớ đến những hành động cứu rỗi của Ngài qua Chúa Giêsu Kitô. Sau đó chúng ta đem bánh và rượu dâng lên bàn thờ biểu hiệu lòng biết ơn về việc Thiên Chúa đã làm, và chúng ta dâng hiến đời chúng ta cho Thiên Chúa hiện hữu và đang hành động .
Trong thơ thánh Phao lô gởi cho giáo hữu thành Rôma, thánh Phaolô loan báo chủ điểm của Tin Mừng. Cũng như ông Môsê nhắc nhở chúng ta nên nhớ việc Thiên Chúa đã làm cho chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô. Sau khi nghe "lời đức tin" chúng ta cùng nhau mang lễ vật lên bàn thờ. Lễ vật đó tượng trưng sự dâng hiến của chúng ta.
Chúng ta có thể đọc bài phúc âm thánh Luca về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa như là một sự việc độc nhất. Rồi sau đó khi Chúa Giêsu đã qua các sự cám dỗ của quỷ dữ, Chúa Giêsu ra đi thực thi sứ vụ. Xem như việc đã xong, rồi việc gì khác sẽ xãy đến?. Nhưng có cách khác nhìn vào việc Chúa Giêsu bị cám dỗ như là thánh Luca tóm tắt các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu suốt đời Ngài, cho đến khi Ngài chịu chết trên cây thánh giá.
Chúa Giêsu có thể bị cám dỗ và Ngài dùng quyền năng để tư lo cho Ngài, để chứng tỏ bản thân của Ngài bằng cách làm những việc kỳ lạ, và liên hệ với các quyền binh chính trị và quân sự để loan tin Ngài đem đến. Chủ điểm về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ nhiều lần trong những năm thi hành sứ vụ của Ngài về sự việc xãy ra trên đường đi Caesarea Philippi, khi Ngài nói với các môn đệ về việc Ngài sẽ chịu khổ hình và chịu chết, rồi ông Phêrô không muốn nghe đến. Chúa Giếsu bảo ông ta im đi "Sa-tan, lui lại đằng sau Thầy". Lần này sự cám dỗ đến từ một môn đệ của Chúa Giêsu là ông Simon Phêrô.
Chúng ta được an ủi vì chúng ta biết Chúa Giêsu không những chia sẻ bản tính loài người với chúng ta, là Ngài cũng như chúng ta, Ngài cũng bị cám dỗ. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng gặp cám dỗ để dùng của cải, tiện nghi, và bỏ qua hy sinh để nên môn đệ Chúa. Chúng ta bị lạc huớng, và không còn biết ai hay việc gì quan trọng trong đời sống. Không một kinh nghiệm nào trong đời sống gia đình, nơi sở làm và trong việc giải trí mà không bị cám dỗ về bản tính của chúng ta là Kitô hữu, và về sự liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Chúng ta nên nhớ Công Đồng Vatican II đổi chiều hướng tinh thần Mùa Chay qua việc chú trọng đến phép rửa tội và sự ăn năn sám hối của cộng đoàn.Thánh Luca luôn luôn nhấn mạnh việc Chúa Thánh Linh hiện diện suốt trong đời sống Chúa Giêsu. Qua phép rửa, chúng ta toàn thể giáo hội cũng được ân hưởng của Chúa Thánh Linh. Chúa Thánh Linh thêm năng lực cho Chúa Giêsu trong khi Ngài bị cám dỗ và chịu khổ hình. Chúa Thánh Linh cũng sẽ giúp chúng ta chống lại quỷ dữ và bỏ những ý định lo riêng cho chúng ta để quay về việc phục vụ người khác khi chúng ta gặp họ.
Chúng ta nghe Lời Thiên Chúa và nhớ đến những hành động Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Rồi với bánh rượu tượng trưng cho sự dâng hiến của chúng ta một lần nữa trên bàn thờ. Qua ơn Chúa Thánh Linh, của lễ và đời sống của chúng ta sẽ trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được nuôi dưởng qua Lời Chúa và bí tích thánh thể, chúng ta sẽ vào thế gian, và sẽ được ơn trợ giúp chống lại những cám dỗ và thử thách lôi cuốn chúng ta a khỏi đời sống chúng ta đã dâng hiến qua phép rửa để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Phụng vụ Mùa Chay như một khoảng lặng trong bản nhạc cuộc MC 1-ABC436
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Phụng vụ Mùa Chay như một khoảng lặng trong bản nhạc cuộc đời. Không ồn ào, những sâu lắng. Bước vào Mùa Chay cũng là bước vào sa mạc với Chúa Giêsu để sống tinh thần khổ chế và cầu nguyện. Những thực hành đạo đức đều giúp chúng ta hồi tâm để gặp gỡ Chúa, gặp gỡ tha nhân và gặp gỡ chính mình. Tại sao lại phải hồi tâm? Có thể bạn sẽ đặt ra câu hỏi. Thưa, vì cuộc sống của chúng ta quá ồn ào bởi những âm thanh hỗn tạp. Đó là những lo toan cơm áo gạo tiền, những bon chen giành giật ăn thua trong chợ đời. Những tạp âm này làm cho chúng ta quên mất Chúa, và quên luôn cả lý tưởng cuộc đời. Có những người suốt đời bon chen tính toán, khi luống tuổi, thấy luyến tiếc vì mình bỏ ra cả tuổi thanh xuân mà chạy theo những điều vô nghĩa. Vì thế, lời mời gọi của Mùa Chay là: hãy trở về!
Trở về với Chúa để gặp gỡ Chúa và để nhận ra tình thương bao la của Ngài. Trong Bài Sách thánh thứ nhất, ông Môisen chỉ thị cho các tư tế Do Thái, mỗi khi dâng của lễ đầu mùa, phải nhắc lại quá khứ của dân tộc mình. Quá khứ này vừa kể lại thuở hàn vi nghèo khổ, vừa ghi đậm dấu ấn quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Do Thái nhớ lại cha ông mình ngày xưa chịu cảnh lang thang phiêu bạt, nhờ quyền năng của Chúa, họ được định cư và phát triển đông đúc “như sao trên trời và như cát dưới biển”. Quá khứ đã qua của dân riêng Thiên Chúa vừa huy hoàng, vừa đau khổ. Lời cầu nguyện của vị tư tế cũng nhắc tới thời kỳ đen tối, dưới ách nô lệ của người Ai Cập. Lại một lần nữa, Chúa giang cánh tay uy quyền để giải thoát họ, đưa họ về miền đất hứa. Đó là lý do để người Do Thái, từ thế hệ này đến thế hệ khác, phải dâng của lễ để tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa (Bài đọc I).
Trở về để mang một trái tim mới và một tâm hồn mới. Lời sám hối của vua Đavít được xướng lên nhiều lần trong Phụng vụ Mùa Chay, như thôi thúc chúng ta nhìn nhận tội lỗi của mình, đồng thời cam kết với Chúa sống tốt lành thánh thiện hơn. Tội lỗi ta đã phạm luôn hiển hiện trước mắt chúng ta, ám ảnh chúng ta. Lòng nhân từ của Chúa sẽ tha thứ cho những ai thành tâm sám hối và trở về phục thiện. “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ”. Lời kinh của vua Đavít cũng là lời kinh của chúng ta trong Mùa Chay. Đó là nguyện ước quên đi quá khứ lỗi lầm, với nỗi niềm ân hận và hối tiếc vì những điều mình đã làm, phạm đến lòng từ bi Chúa và đến anh chị em. Mùa Chay và Bí tích Hoà Giải sẽ giúp chúng ta có quả tim mới, tràn ngập yêu thương, chan hoà hạnh phúc. “Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con”. Được ban quả tim mới, chúng ta lấy lại niềm vui và trỗi dạy để đi tiếp những chặng đường đời, với xác tín có Chúa luôn đồng hành và ban ơn thêm sức.
Cuối cùng, trở về để có thêm nghị lực chống lại những cơm cám dỗ trong cuộc đời. Khởi đầu Mùa Chay, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một hình ảnh rất độc đáo khác biệt về Chúa Giêsu, đó là Chúa chịu cám dỗ. Thì ra ma quỷ chẳng tha ai. Đến Chúa mà nó còn cám dỗ rủ rê, hầu mong Người chối bỏ sứ mạng Thiên Sai Chúa Cha trao phó. Những nội dung cám dỗ của ma quỷ là những khuynh hướng tham vọng xem ra rất đỗi quen thuộc với chúng ta trong cuộc sống thường ngày: đó là cơm bánh, là bổng lộc quyền hành trần gian và là sự thách thức Thiên Chúa. Quả vậy, bất kể thời nào, lứa tuổi và bậc sống nào, chúng ta cũng bị cám dỗ về ba thứ này. Trở về chính là nhận ra những cơn cám dỗ ấy, để khôn ngoan can đảm khước từ những lời mời gọi ngọt ngào nhưng chứa nọc độc. Cám dỗ giống như những viên thuốc độc bọc đường, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng dễ dàng đầu độc và giết chết chúng ta.
Sau khi thất bại, quỷ rút lui và chờ đợi thời cơ – Thánh Luca kết thúc trình thuật như thế. Kể cả lúc chúng ta chiến thắng cám dỗ của ma quỷ, chúng ta vẫn phải luôn thận trọng. Tâm tình cầu nguyện, gắn bó với Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng những tấn công của Satan. “Lời Chúa ở gần bạn, ngày trên miệng, ngày trong lòng”. Sức mạnh của chúng ta đến từ Lời Chúa và vào lòng trông cậy vững vàng nơi Ngài. “Tất cả những ai kêu cầu Danh Chúa sẽ được cứu thoát” (Bài đọc II).
“Nhân danh Đức Giêsu Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa”. Đó là lời năn nỉ của thánh Phaolô. Có cũng là điều Giáo Hội luôn mời gọi. Thiên Chúa như người Cha luôn giang rộng vòng tay chờ đợi. Muốn được ơn tha thứ, con người phải có can đảm lao mình vào vòng tay yêu thương ấy. Đừng mặc cảm tội lỗi mà nghĩ rằng tội tôi không được Chúa thứ tha, vì Thiên Chúa không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta. Trong bài giảng tại Nhà nguyện Thánh Matta ngày 28-3-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ: “Thiên Chúa là Đấng chờ đợi chúng ta, Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho chúng ta. Ngài không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta là những người luôn mệt mỏi cầu xin sự tha thứ.” “Bảy mươi lần bảy, luôn luôn là như thế. Chúng ta hãy tiến về phía trước với sự tha thứ của Ngài. Từ quan điểm kinh doanh, cán cân luôn luôn là âm. Ngài luôn luôn thua lỗ: Ngài thua lỗ trong cán cân chi thu nhưng chiến thắng trong tình yêu”. Thiên Chúa là người đầu tiên thực hiện giới răn yêu thương. Ngài yêu thương và không biết làm sao làm khác đi.
Để Mùa Chay sinh ơn ích thiêng liêng, mỗi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu. Chắc chắn những cám dỗ vẫn còn đó, nhưng với sức mạnh của ân sủng, chúng ta sẽ chiến thắng cám dỗ. Xin Chúa chúc phúc cho thiện chí cố gắng của chúng ta.
Bài Tin Mừng cho chúng ta biết rõ là Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa 40 đêm MC 1-ABC437
Bài Tin Mừng cho chúng ta biết rõ là Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa 40 đêm ngày để chịu quỷ cám dỗ. Hoang địa có hai ý nghĩa trong Thánh Kinh: thứ nhất là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, nghĩa là nơi người ta có những trải nghiệm tích cực (positive); thứ hai, hoang địa cũng là nơi người ta trải nghiệm những điều tiêu cực (negative), như việc bị cám dỗ bởi ma quỷ hay thần dữ.
Cám dỗ đầu tiên là của ăn. Quỷ đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giêsu, vì Ngài đang đói sau khi chay tịnh 40 ngày. Cái đói đụng đến bản năng sinh tồn và làm tê liệt đời sống. Đức Giêsu không phủ nhận sự cần thiết của vật chất, nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh. Bánh quan trọng, nhưng tự do và lòng trung thành quan trọng hơn. Thực tế cho ta thấy: vì tự do và trung thành mà người ta thà chết chứ không chịu ăn uống, nhất là khi của ăn đó mang tính hèn hạ và ô nhục, đi ngược với niềm tin và lý tưởng của mình (x.1Mcb 1,62-63).
Phát triển kinh tế là điều quan trọng, nhưng nếu không nêu cao các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo, thì đúng là hạ thấp con người xuống hàng sự vật, đồ vật. Vẫn luôn có những người tuyệt thực nhằm phản đối những bất công và bạo tàn để nêu cao một lẽ sống. Không tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời thì cơm bánh hay vật chất trở nên thừa thãi, vì vậy mà có những người rơi vào tuyệt vọng và tìm tới cái chết như một hy vọng. Lắm khi không phải vì đói khát hay thiếu thốn, nhưng vì ta để cho mình bị cồn cào bởi những thèm muốn vô độ, và nếu như vậy thì ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn có những giá trị cao quí khác cần chú ý, chăm sóc và phát triển, thì mới xứng đáng với phẩm cách là người.
Cám dỗ thứ hai xem ra thô bạo và cuồng ngạo nhưng đầy hấp dẫn, đó là bái lạy ma quỷ để có được quyền lực và vinh quang. Cám dỗ này đụng đến sứ mạng của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua vũ trụ, là Đấng quy tụ muôn loài trong trời đất (x. Ep 1, 10). Đức Giêsu đã vượt thắng cám dỗ này vì nhận ra sự lừa bịp trắng trợn của ma quỷ. Vương quốc trần gian mà ma quỷ giới thiệu là một thứ vinh quang rất dễ tiêu tan, như thuật ngữ doxa trong tiếng Hy Lạp. Vinh quang đó chỉ là hình bóng, là bọt bèo. Nhiều người đã nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền này. Bao đế quốc, bao vua chúa và các nhà độc tài cũng đã biến tan trong thoáng chốc. Xem ra lịch sử Giáo hội đã từng bị nhá nhem vì cám dỗ này. Đã có một thời thần quyền phải nép mình vào sự bảo đảm của thế quyền, và đức tin như một dụng cụ để phục vụ cho thế tục. Chẳng ai và chẳng có gì ngoài một mình Thiên Chúa để xứng đáng được ta bái lạy hay phụng thờ, vì tất cả đều là loài thụ tạo, và mọi sự sẽ chấm hết. Sự sống và vinh quang chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi.
Cơn cám dỗ thứ ba là ma quỷ thách thức Chúa Giêsu gieo mình xuống từ nóc đền thờ, để chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa. Cám dỗ này có vẻ đạo đức vì cậy dựa vào Thiên Chúa để tìm sự an toàn. Lý lẽ của cám dỗ này dễ thuyết phục hơn vì quỷ trích dẫn từ Kinh Thánh (Tv 91, 10-12). Chúa Giêsu cũng dùng Kinh Thánh để đối lại. Ẩn tàng trong cơn cám dỗ là sự ỷ lại, đưa mình vào tình huống ngặt nghèo để bắt Chúa hành động. Xem ra cám dỗ nào cũng mang tính ích kỷ và kiêu ngạo. Ma quỷ đã đánh vào chỗ yếu nhất của con người. Đức Giêsu là Đấng nhân ái và khiêm nhường nên ma quỷ đành chào thua.
Phải chăng ta vẫn thích được Chúa thực hiện những điều ngoạn mục cho đời mình? Phải chăng ta thích sống dưới cái nhìn của người khác? Phải chăng ta muốn thiên hạ cảm phục mình? Ít nhiều ai trong chúng ta cũng đã từng gặp những cám dỗ này, nhất là trong giai đoạn tuổi trẻ. Đó là những cách thức đánh lận con đen khiến ta dễ sa chước cám dỗ.
Thật ra mọi thứ trên trần gian như tiền tài, của cải, địa vị, chức quyền… đều đáng quí và có giá trị riêng của nó. Nhưng tất cả chỉ là tương đối, như một phương tiện chứ không phải mục đích. Nếu suy tôn những thứ tương đối đó lên hàng tuyệt đối, ta sẽ biến chúng thành ngẫu tượng, khiến cuộc sống ra thê lương, vì sai lạc với bản chất của sự vật và sai trái với bản tính của con người, khiến ta không đạt tới chính Thiên Chúa là nguồn bình an và hạnh phúc muôn đời của chính mình.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Những cám dỗ xưa kia Chúa phải chịu, cũng chính là những điều đang quấy nhiễu, làm cho cuộc sống con rối ren nhiều.
Cám dỗ nào xem ra cũng hấp dẫn, ban đầu còn áy náy phân vân, nhưng theo ngày tháng cũng quen dần, khiến bản thân con đã bao lần thất thế, cũng chỉ vì ham muốn với đam mê, nên sa cơ lỡ bước lắm ê chề.
Đời con cũng chẳng thiếu thốn chi, nhưng vẫn bị kéo ghì bởi vật chất, muốn chạy theo lối sống phàm trần, và tìm cách để thỏa mãn bản thân, không thấy tinh thần mình thất bại, và đức tin đang lâm vòng nguy hại.
Tuổi trẻ lại thích được tỏa sáng, nên theo những hào nhoáng bên ngoài, mà quên rằng cuộc sống đầy cạm bẫy, chứ không như những gì chúng con thấy, vì ma quỉ luôn giăng mắc họa tai, khiến biết bao người ra điên dại.
Xin cho con nhìn ngắm Chúa vào đời, rất cẩn trọng ở mọi lúc mọi nơi, luôn khiêm tốn trên con đường đi tới, biết tránh xa những đam mê danh lợi, những thú vui và mời mọc của bạn bè, phải luôn biết e dè và chừng mực.
Xin cho con chuyên cần trong bổn phận, hăng say làm việc và kết nối tình thân, luôn sống dưới tác động của Thánh Thần, theo Ngài hướng dẫn để thắng cơn cám dỗ, và đời con được bền đỗ đến cùng. Amen.
Thiên Chúa là Thiên Chúa nói với con người, và Ngài muốn con người cũng nói với Ngài, nói MC 1-ABC438
Thiên Chúa là Thiên Chúa nói với con người, và Ngài muốn con người cũng nói với Ngài, nói với nhau, kể cả nói với chính mình, vì không phải ai cũng dám nói, nhất là khi nói ra để rồi chịu thiệt thòi, chống đói, bách hại, tiêu diệt như Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã bị nhiều người lên án, đóng đinh vì nói sự thật của Thiên Chúa, hay như Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam, chém đầu vì dám lên tiếng khiển trách, ngăn cấm vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình.
Nhưng dựa vào sức mạnh nào để dám lên tiếng?
Sách Đệ Nhi Luật của Cựu Ước dậy tín hữu dựa vào lich sử cứu độ của Dân Chúa để lên tiếng. Lịch sử cứu độ ấy được khởi đầu từ lúc Ápraham được Thiên Chúa chọn với Lời Hứa “trở thành tổ phụ một dân tộc lớn” cho đến ngày toàn dân được giải phóng khỏi ách nô lệ bên Ai Cập và vào Đất Hứa.
Sức mạnh cứu độ của cánh tay Thiên Chúa Giavê ấy đã được biểu hiện qua công trình giải phóng dân khỏi Ai Cập và ban cho dân miền đất phì nhiêu, “chảy sữa và mật ong”, vì có đất làm gia nghiệp là dấu chỉ của hồng ân Chúa ban, để được sống tự do, độc lập, hạnh phúc dưới sự hướng dẫn, che chở, phù trợ của Chúa, mà không còn phải làm thân nô lệ, tôi đòi như lời kinh của dân Do Thái trong ngày lễ dâng Thiên Chúa sản phẩm đầu mùa được ghi lại trong bài đọc thứ nhất: “Và bây giờ, lậy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất mà Ngài đã ban cho con” (Đnl 25,10).
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma thì kêu gọi người Kitô hữu hãy dựa vào niềm tin ở Đức Giêsu Kitô, Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa đã sống lại từ cõi chết, mà lên tiếng rao giảng, lên tiếng làm chứng, lên tiếng tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, Đấng làm cho chúng ta nên công chính, và “là Đấng qủang đại với tất cả những ai kêu cầu Người” (Rm 10,12).
Thánh nhân còn quả quyết: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Rm 10,8) để thúc đẩy chúng ta lên tiếng, khuyến khích chúng ta dám nói, mà không nao núng, sợ sệt, vì Lời Thiên Chúa là sự thật, “lời khơi dậy đức tin” và luật của Ngài giải thoát chúng ta khỏi xiềng xích nô lệ tội lỗi.
Và quan trọng nhất, khi chiêm ngắm Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, chúng ta thấy: khi bị ma quỷ cám dỗ, Ngài đã không im lặng, dù là im lặng coi thường, im lặng bất cần hay im lặng thách thức, cũng không lẳng lặng bỏ đi, nhưng Ngài đã nói cho ma quỷ biết sự thật của Thiên Chúa, sự thật mà ma quỷ phải cúi đầu chân nhận và lủi thủi bỏ đi vì thua cuộc.
Như đã cám dỗ Đức Giêsu khi nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi” (Lc 4, 3), ma quỷ cũng đưa bả vật chất để quyến rũ chúng ta, nhất là giữa thời đại thực dụng và tiêu thụ, ở đó người ta chấm điểm, định giá nhau qua nhà cao cửa rộng, xe hơi đời mới, hột xoàn, kim cương; như đã cám dỗ Đức Giêsu khi nói vói Ngài: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý. Vậy, nếu ông bái lậy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4, 6-7), ma quỷ cũng lấy quyền lực thống trị và vinh quang bản thân để mồi chài chúng ta; như đã cám dỗ Đức Giêsu khi nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi. Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”(Lc 4, 9-11), ma qủy cũng dụ dỗ chúng ta bỏ Thiên Chúa mà thờ ngẫu thần, làm tôi Xatan để được lợi lộc thế gian.
Và như Đức Giêsu khi bị cám dỗ đã cương quyết lên tiếng nói Lời Thiên Chúa, đã thẳng thắn cất tiếng nói sự thật đời đời của Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Thiên Chúa đã đánh gục Xatan và bè lũ, chúng ta cũng không thể làm khác hơn, nhưng noi gương Ngài mạnh dạn lên tiếng rao giảng Lời Thiên Chúa, qủa cảm làm chứng sự thật của Thiên Chúa, can trường tuyên xưng Sự Thật là Thiên Chúa trước mọi người trong mọi hoàn cảnh, vì chỉ có Lời Thiên Chúa mới là Lời giải thoát, chữa lành, đổi mới, như thánh Phaolô khẳng định: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10, 10).
Tuy vậy, trong cuộc sống đã có rất nhiều lý do chúng ta dựa vào để không lên tiếng, và có nhiều nguyên nhân cản trở việc chúng ta mở miệng làm chứng Thiên Chúa và nói lên những sự thật của Ngài.
Tất nhiên ma quỷ là nguyên nhân hàng đầu, chúng luôn rình rập cám dỗ chúng ta như đã cám dỗ Đức Giêsu để chúng ta chọn im lặng hèn nhát, im lặng đồng loã, im lặng đồng phạm. Bên cạnh ma quỷ là chính chúng ta, vì phải bảo vệ chỗ đứng quyền lực, giữ gìn các mối tương quan có sức mạnh bảo kê, củng cố các mạng lưới lợi thế, lợi nhuận, chúng ta tìm đủ lý do để im lặng, mượn đủ lý chứng để đánh lừa mình hầu không phải lên tiếng, dù việc lên tiếng là bổn phận phải làm, nghĩa vụ phải thi hành, đòi hỏi cấp bách phải kịp thời đáp ứng.
Tóm lại, người Kitô hữu chúng ta qua bí tích Rửa Tội được Thiên Chúa trao phó sứ mạng nói lên Lời hằng sống, lên tiếng cho những sự thật thuộc về Thiên Chúa vì hạnh phúc của con người. Nhưng để nói lên tiếng nói của Thiên Chúa, nói với muôn dân Lời của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, và nói thay tiếng nói bị bức tử của những người nghèo khổ, yếu đuối, bị đàn áp là anh em bé mọn của Thiên Chúa (x. Mt 25), chúng ta cần dựa vào Lịch Sử Cứu độ của Dân Thiên Chúa, mà trên dòng lịch sử này, Thiên Chúa đã tỏ lòng khoan dung và thực hiện Lời Hứa của Ngài qua biết bao điều cao cả, kỳ diệu để nhận ra Thiên Chúa là Đấng trung tín, và “mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Rm 10,11); đồng thời dựa vào chính Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, bời nhờ sự chết và sống lại của Ngài, “tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa đều sẽ được cứu thoát” (Rm 10,13), nhất là khi chúng ta bị ma quỷ dồn lực tấn công.
Hàng năm, cứ sau Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ I Mùa Chay MC 1-ABC439
Hàng năm, cứ sau Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ I Mùa Chay, những đoạn Tin Mừng Nhất Lãm tùy theo năm phụng vụ kể về những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa. Sở dĩ vậy là vì Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng, nếu Chúa Giêsu Con Thiên Chúa mà con bị cám dỗ, huống hồ người Kitô hữu chũng ta bước theo Chúa, khó hòng thoát khỏi những bẫy giăng của Tên Cám Dỗ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đối mặt với Tên Cám Dỗ và đã chống trả quyết liệt với vũ khí là ý Chúa Cha, Người đã đánh bại hắn, còn chúng ta thì sao?
Ma quỷ với mưu mô, có khả năng hành động trên chúng ta với những cám dỗ của nó nhằm lôi kéo chúng ta về phía hắn và tìm cách đánh bại ta khiến chúng ta bị án phạt đời đời. Để chiến thắng, chúng ta phải ăn chay, cầu nguyện, sám hối và giục lòng tin, để cùng với ơn Chúa, chúng ta sẽ chiến thắng.
Tuyên xưng niềm tin vào Chúa
Dân Israel, với những cám dỗ về củ hành củ tỏi, hồi tưởng và mơ ước sống lại kiếp thân nô lệ cho người Ai cập đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, xin Chúa ban ơn để có thêm nghị lực tiến bước trên hành trình về Đất Hứa, hay đúng hơn là được sống tự do làm con cái Chúa (x. Đnl 26,4-10). Dân thành Rôma, để được cứu rỗi thì cũng phải mở miệng cất lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Chúa và “tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại” (x, Rm 10,9). Nên dù Do thái và Hy lạp nếu cùng cầu khẩn, cùng tuyên xưng thì tất cả đều được cứu độ (x. Rm 8,13).
Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố “Chúa Giêsu…được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-ABC2). Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng dẫn đưa Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-ABC13). Chúng ta tin rằng, cũng chính Chúa Thánh Thần ấy hướng dẫn đời sống chúng ta. Chúng ta được mời gọi đương đầu với cuộc chiến đấu hằng ngày nhờ đức tin và ân sủng Chúa Kitô nâng đỡ.
Tên cám dỗ tìm cách kéo Chúa Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu để đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Chúa Giêsu và Satan đều trích dẫn Kinh Thánh. Thực ra, để kéo Chúa Giêsu ra khỏi con đường thập giá, quỷ đã bày ra trước mắt Chúa Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Ðấng Messia: sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ thành công ngoại mục, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan. Các chiêu ma quỷ dùng để cám dỗ Ađam và Evà (x. St 3,1-ABC7), nó cũng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu và chúng ta ngày hôm nay nữa.
Ba chiến thuật tinh vi
Bốn mươi ngày chay tịnh, Chúa Giêsu không ăn uống gì, khi sắp hết thời gian ăn chay, Tên Cám Dỗ, Satan, đã xuất hiện với ba chiến thật tinh vi.
Chiến thuật thứ nhất là ham muốn thành công: Với lý luận xảo trá, Satan khởi đi từ những nhu cầu tự nhiên nuôi sống bản thân “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho đá này biến thành bánh” (Lc 4,3). Từ “nếu” của Satan gợi lên sự không tin như khi cám dỗ Ađam và Evà ( x. St 3,1-ABC7). Chúa Giêsu có thể hoàn tất các phép lạ mà không cần Chúa Cha. Nhưng Chúa Giêsu đã không làm thế, Người trích dẫn sách Đệ Nhị Luật “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa” (Đnl 8,3). Người khẳng định làm mọi sự theo ý Chúa Cha.
Chiến thuật thứ hai là vinh quang trần thế: Satan chỉ cho Chúa Giêsu thấy vinh quang của nước thế gian và nói: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông! ” (Lc 4). Đâu có phải là của Satan mà nó nhận về nó, lại còn trao ban nữa. Đúng là chiêu trò ma quỷ, một khi quyền lực lên ngôi, tiền bạc và thành công bong bóng chế ngự đời ta, khiến ta tự phụ, Thiên Chúa không còn chỗ nhất để ta yêu mến và tôn thờ trên hết mọi sự trong lòng ta. Với chiêu cám dỗ này, Chúa Giêsu phán: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi” (Đnl 6,16).
Chiến thuật thứ ba là lợi dụng Thiên Chúa cho lợi ích của chính mình : Nó vừa nghe Chúa Giêsu trích dẫn Kinh Thánh, nó cũng làm như vậy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá ” (Tv 91,11). Điều này có nghĩa là bắt Thiên Chúa phải thực hiện ý Chúa Giêsu trong khi Chúa Giêsu luôn làm theo ý Chúa Cha.
Phương dược thắng Tên Cám Dỗ
Tên cám dỗ tìm cách kéo Chúa Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha. Cả Chúa Giêsu và Satan đều trích dẫn Kinh Thánh. Để chiến thắng Tên Cám Dỗ, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa, chắc chắn Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương chúng ta và ban ơn Thánh Thần để chúng ta chiến thằng. Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ cho chúng ta bí quyết: “Trong khi chịu cám dỗ, Chúa Giêsu không tham gia vào cuộc đối thoại với tên cám dỗ mà chỉ đáp trả thách thức bằng Lời Chúa. Ðiều này dạy chúng ta rằng với ma quỷ không đối thoại, chỉ trả lời nó với Lời Chúa” (x. PHANXICÔ, Kinh Truyền Tin, 10/03/2019). Tuyệt đối không thử sức với các chiêu trò của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết từ chối các điều xấu. Amen.
Mùa Chay như một điểm dừng đặc biệt để mỗi người trở về với lòng mình, để sám hối và canh MC 1-ABC440
Mùa Chay như một điểm dừng đặc biệt để mỗi người trở về với lòng mình, để sám hối và canh tân đời sống. Mỗi người tín hữu đều được mời gọi cùng với Chúa Giêsu bước vào sa mạc nội tâm để nhận biết tình trạng của mình, mở lòng đón nhận Thánh Thần để được Người dẫn đi; mỗi người cũng gia tăng việc tập luyện nhân đức và sẵn sàng cùng với Chúa Giêsu chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của quỷ. Cuộc chiến đấu thiêng liêng ấy đòi hỏi mỗi người tín hữu phải để cho Lời Thiên Chúa ở gần, ngay trên miệng, ngay trong lòng”.
Thánh Luca thuật lại rằng: “Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Luca 4, 1-ABC2). Trước khi khởi sự rao giảng, Thầy Giêsu đã cùng với Thánh Thần đi vào trong hoang địa để cầu nguyện, gặp gỡ Chúa Cha. Người dành trọn bốn mươi ngày dài để ở lại với Cha. Trong những ngày đó, Người không ăn gì cả. Hết bốn mươi ngày thì Người thấy đói. Đói thì cần có bánh ăn, đó là nhu cầu tối thiểu, là phản ứng tự nhiên của cơ thể. Chúa Giêsu nhận biết cơn đói cồn cào ruột gan. Người cũng nhận ra tên quỷ đang đến gần để cám dỗ. Nó nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” Nhưng Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Luca 4, 3-4). Cơn cám dỗ này cũng tương tự như những cơn cám dỗ mà con người thường đã trải qua. Quỷ thường đánh vào những nhu cầu mà ta đang cần, nhưng điều quan trọng là nó làm cho ta sa vào cái bẫy “thể hiện bản thân”. Đã bao lần ta cũng đã dừng lại để suy nghĩ xem đâu là nhu cầu thực và đâu là nhu cầu giả tạo: Tôi có thực sự cần đến nó hay chỉ mua vì thấy thích, mua mà không cần sử dụng? Cũng có những lần quỷ cám dỗ ta thể hiện bản thân. Tôi là một tu sĩ, tôi làm việc bác ái nhưng việc làm của tôi có thực sự diễn tả tình thương mà tôi dành cho người nghèo không, hay cách tôi trao cho họ món quà lại làm tổn thương họ? Ta hãy dành thời gian để nhìn lại những suy nghĩ và hành động của mình để thấy tâm hồn mình đang cưu mang điều gì.
Ta vẫn thấy người ta đua nhau xài hàng hiệu, thể hiện đẳng cấp qua trang phục, điện thoại, siêu xe. Có những người dành hết tình yêu để chăm sóc các thú cưng của mình nhưng lại hững hỡ trước một em bé bán vé số đang mong chờ anh ta mua giúp mình dù chỉ một tờ. Chăm sóc thú cưng không có gì xấu nhưng nếu bạn bỏ qua một người nghèo đang mong chờ sự giúp đỡ của bạn thì thật đáng buồn. Bạn xem trọng thú cưng của mình thì không có gì xấu cả nhưng nếu bạn xem thường một người nghèo đang ở trước mặt bạn thì bạn tự biến mình trở nên một người rất tệ. Con chó của bạn thật dễ thương nhưng nó vẫn chỉ là một con chó; người anh em đang đứng trước mặt bạn dù chỉ là một người nghèo khổ nhưng họ vẫn là một con người, một con người đáng để bạn yêu thương và nâng đỡ. Có bao người nghèo thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu nhưng lại không được sẻ chia. Họ đang cần đến bạn. Mỗi người đều có một trái tim để yêu thương người khác. Khi cám dỗ con người thể hiện bản thân, quỷ cũng cám dỗ con người tìm kiếm danh lợi, tiền tài, quyền lực. Con người mải mê tìm kiếm những của chóng qua này và tôn thờ ngẫu tượng. Trước cơn cám dỗ này, Chúa Giêsu dạy ta hãy đáp lại rằng: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Luca 4, 8). Ta hãy năng kêu cầu Thiên Chúa bằng những lời nguyện tha thiết, vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát (x. Rm 10, 13).
Quỷ không bỏ cuộc khi ta chưa bị nó đánh bại. Quỷ cũng đã tiếp tục cám dỗ Chúa Giêsu. Quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” Quỷ đã dùng Kinh Thánh để cám dỗ Chúa Giêsu thì nó cũng sẽ dùng chiến thuật này để cám dỗ những ai theo Chúa. Đó là khi ta dùng Lời Chúa theo ý muốn xấu của mình, muốn Chúa phải làm theo ý mình. Ta hãy dừng lại, phân định xem tiếng nói vừa vang lên có thực sự đến từ Thần Khí của Đức Kitô không? Quỷ có thể đội lốt thiên thần để lừa gạt ta. Hãy xem hoa trái sinh ra từ việc mình làm, chú tâm nhìn sâu vào lòng mình để biết được thần khí nào đang hướng dẫn ta. Hãy noi gương Chúa Giêsu, khắc ghi lời của Người: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Luca 4, 13).
Sau khi chịu phép rửa, được đầy Thánh Thần, Đức Giêsu vào hoang địa, chịu quỷ cám dỗ và MC 1-ABC441
Sau khi chịu phép rửa, được đầy Thánh Thần, Đức Giêsu vào hoang địa, chịu quỷ cám dỗ và Người đã dành chiến thắng. Chiến thuật của ma quỷ luôn tinh ranh, ngọt ngào và hấp dẫn. Nó không chỉ hấp dẫn mà còn rất hợp lý và đúng thời điểm. Đức Giêsu đã dành chiến thắng nhờ Lời và Thánh Thần Thiên Chúa. Sau khi đã xoay sở đủ cách, quỷ bỏ đi chờ thời cơ khác (x. Lc 4, 1-ABC13).
Đầu tiên, xa tan đợi đến lúc Đức Giêsu cảm thấy đói mới tiến lại gần Người để cám dỗ. Lúc này, thân xác của Đức Giêsu đang cảm thấy đói và mệt. Tại sao quỷ không cám dỗ ngay từ đầu mà phải đợi đến cuối? Thật dễ hiểu, nó biết mình không thể làm gì được khi đối phương đang mạnh thế. Có thể nói, về điểm này, xa tan có vẻ rất “biết mình”. Nó tự biết sức mình đến đâu và phải làm gì để hạ gục đối phương. Khi bị cám dỗ, nếu để ý, chúng ta cũng sẽ thấy rõ điểm này. Ma quỷ chẳng bao giờ cám dỗ lúc ta đang sung sức, tràn đầy Thần Khí. Khi chúng ta bắt đầu yếu đi về thể lý hay tinh thần thì chính là lúc nó tấn công ta quyết liệt. Vậy chúng ta phải thật sự cẩn thận và tỉnh thức, nhất là khi chúng ta đang “yếu đi”. Hơn thế nữa, chúng ta cũng cần phải biết rõ mình đang ở trong tình trạng nào để không tự mãn mà sa chước cám dỗ.
Tiếp đến, xa tan không bao giờ bỏ cuộc khi nó chưa dùng hết chiến thuật của mình. Khi cám dỗ Đức Giêsu, ít là ba lần nó cám dỗ Ngài, càng lúc càng khôn khéo hơn. Ban đầu là lời mời gọi “để no cái bụng”, tiếp đến là lời mời gọi để “no lòng tham”, và sau cùng là lời mời gọi về “sự tín thác”. Đói thì cần phải ăn, đó là điều rất hợp lý. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã rất khôn ngoan và sáng suốt khi đối lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4, 4). Sau khi chỉ cho thấy các nước thiên hạ, vinh hoa phú quý, quỷ hứa ban tất cả những thứ đó nếu Đức Giêsu chịu bái lạy nó. “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Lc 4, 8). Đó là lời đối đáp của Đức Giêsu trước lời mời mọc đầy hấp dẫn của xa tan. Và cuối cùng, nó thách thức về sự tín thác của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa là Cha của Người. Người đáp lại: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi’ (Lc 4, 12).
Đức Giêsu đã dành chiến thắng đầy tuyệt hảo: 3-0. Ma quỷ thay đổi chiến thuật rất nhanh chóng và ngày càng hấp dẫn. Còn Đức Giêsu, cả ba lần Người đều dùng Lời Chúa để đối đáp với chúng. Thực ra, trong chiến thuật của mình, ma quỷ cũng lấy Lời Chúa để cám dỗ ta. Nếu không nắm rõ, không hiểu biết và không yêu mến Lời Chúa thì chúng ta sẽ dễ bị xa tan đánh lừa và xỏ mũi, dắt chúng ta đến nơi nó muốn. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết mình. Như đã nói ở trên, xa tan rất biết mình vì nó luôn biết cám dỗ đúng thời điểm và khôn ngoan trong việc dùng chiến thuật. Bởi đó, nếu muốn thắng được nó, chúng ta không chỉ cần sự am hiểu, yêu mến và thực thi Lời Chúa dạy mà còn phải thực sự “biết mình”, biết trung thành với ân sủng đã nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần. Vì giả như chúng ta không biết mình, không ở trong ân sủng của Chúa thì chúng ta sẽ thất bại. Chúng ta phải biết mình để có chiến thuật phù hợp và khôn ngoan để đối lại chiến thuật của ma quỷ.
Là phận người, chúng ta không thể tránh khỏi sự tấn công của ma quỷ. Vậy chúng ta hãy noi theo gương Đức Giêsu để chiến đấu và dành phần thắng như Ngài. Để chiến thắng cám dỗ, chúng ta hãy cùng nhau thực hiện theo lời khuyên của thánh Phaolô tông đồ: “Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma qủy. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối. Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (Ep 6, 10-17).
Đây là một trong những lời cầu của Kinh Lạy Cha mà chúng ta vốn thuộc nằm lòng và cũng thường MC 1-ABC442
Đây là một trong những lời cầu của Kinh Lạy Cha mà chúng ta vốn thuộc nằm lòng và cũng thường xuyên đọc hằng ngày. Thiên Chúa không muốn và cũng không nỡ để bất cứ ai phải sa chước cám dỗ. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên, kết hiệp với Thiên Chúa để yêu mến Người, nhận biết thánh ý Người mà thực thi. Có đó không ít người hễ cầu nguyện là chỉ biết cầu xin và thậm chí còn như muốn bắt Chúa làm theo ý của mình. Thiên Chúa đã biết rõ những gì chúng ta cần ngay trước khi chúng ta cầu xin. Đấng Cứu Thế dạy chúng ta cầu nguyện: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” là để chúng ta biết rằng Thánh ý Cha trên trời muốn chúng ta phải cẩn trọng với các chước mưu cám dỗ của ma quỷ cũng như của những người xấu và những thế lực đen tối.
Biết cẩn trọng để rồi biết đề phòng các chước cám dỗ bằng cách xa lánh và tìm cách chiến đấu, chống trả cách hữu hiệu khi phải đương đầu với chúng. Để thực hiện mục đích này thì tiên vàn cần nắm rõ chiến thuật, chiến lược của ma quỷ và các thế lực xấu. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải biết một cách nào đó các lãnh vực xung yếu mà ma quỷ thích tấn công, cám dỗ chúng ta. Sự thường, môn đệ thì không hơn thầy. Cách thế và những lãnh vực ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu thì nó cũng dùng để tấn công chúng ta. Vậy không gì hơn, chúng ta hãy xem xét những chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu trong thời gian chay tịnh ở hoang mạc cũng như trước giờ tử nạn để nhận rõ chước mưu cám dỗ của ma quỷ.
Chiến lược: Nói đến chiến lược thì hầu như chúng ta nghĩ ngay đến sự trường kỳ, lâu dài. Thánh sử Luca cho ta thấy sự thật này: “Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Đức Giêsu, ma quỷ bỏ đi và chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã không ít lần bị ma quỷ cám dỗ. Nó không chỉ cám dỗ Người khi Người chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang mạc mà còn cám dỗ Người nhiều lần và nhiều cách thế khác nhau. Sau khi Người hóa bánh ra nhiều thì ma quỷ dùng quần chúng để cám dỗ Người làm vua (x.Ga 6,1-ABC15). Nó cũng dùng cả người môn đệ thân tín của Người là Phêrô để cám dỗ Người đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn (x.Mt 16,21-ABC23). Ngay phút giây Người hấp hối trên thập giá thì ma quỷ vẫn không buông tha (x.Mc 15,29-39).
Chiến thuật: Qua câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong hoang mạc, chúng ta nhận ra một trong những chiến thuật tinh ranh của ma quỷ là đánh ngay vào chính khả năng của người mà nó cám dỗ. Một kiểu đánh quả là độc chiêu. Không ai lại không ít nhiều tự hào về khả năng của mình. Khi hướng được khả năng của ai đó đi theo chiều của mình, theo cung cách của mình thì chúng ta hầu chắc nắm phần thắng trong tay. Ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu sử dụng khả năng, uy quyền của Người theo cách thế nó bày vẽ ra và dĩ nhiên là trái với thánh ý Chúa Cha. Cái tinh xảo của ma quỷ ở chỗ nó không minh nhiên làm đổi hẳn mục tiêu mà Chúa Giêsu nhắm đến. Nó chỉ làm lệch đi một chút hoặc xúi giục Chúa Giêsu đạt đến mục tiêu theo cách thức không đẹp lòng Chúa Cha mà thôi. Chiến thuật xảo quyệt của ma quỷ lộ diện cách rõ nét qua các chước cám dỗ trong hoang mạc và những giờ trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Chiến thuật này có thể xem là chiến thuật mang tính tổng lực và toàn diện.
Ngạn ngữ “biết người – biết ta, trăm trận trăm thắng” có thể nói là một quy luật mang tính phổ biến trong các cuộc chiến. Chúng ta biết về ma quỷ thì chẳng bao nhiêu, nhưng chắc chắn ma quỷ biết chúng ta nhiều và rõ hơn chúng ta biết về nó. Ma quỷ thừa biết khả năng cũng như quyền hạn của các mục tử trong giáo hội. Một điều chắc chắn đó là nó sẽ không hề bỏ lỡ một cơ hội dù nhỏ để cám dỗ chúng ta hành quyền cách lệch lạc. Dĩ nhiên nó sẽ không dại gì cám dỗ chúng ta hành quyền kiểu đi ngược đường lối của Thiên Chúa cách tức khắc, một lần, nhưng chỉ lệch một tí thôi. Từng lần, mỗi lần lệch một chút, lệch vài độ nhỏ, thì rồi sẽ đến lúc lệch 180 độ.
Trong vai vị lãnh đạo mà hành xử quyền bính cách độc đoán, độc tài, thì sẽ làm cho đoàn chiên phân đàn, chia cánh, cắn xé lẫn nhau. Sự nguy hại này thường tồn tại lâu dài và cũng rất khó khắc phục ngày một ngày hai. Lịch sử Giáo hội cho chúng ta bài học đau thương này: để gây chia rẽ, để làm đổ vỡ thì rất dễ. Trái lại để hàn gắn các đổ vỡ, xây dựng lại sự hiệp nhất thì quả là vô vàn khó khăn và đòi hỏi thời gian rất lâu dài. Lẽ thường từ chỗ độc đoán, độc tài ắt sẽ dẫn đến sự độc ác, dù nhiều khi không có chủ ý xấu nhưng hậu quả thì khó lường. Người ta thường dễ lượng thứ cho sự yếu đuối và cả sự mê muội, nhưng sự độc ác thì rất khó mà tha thứ hay bỏ qua. Tin Mừng cho thấy, ba năm theo Thầy, các tông đồ thường xuyên bị cám dỗ về quyền bính.
Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu dùng để chống trả chước cám dỗ, đặc biệt các chước cám dỗ thưở đầu đời công khai rao giảng của Người và phút giây hấp hối trong vườn dầu cũng như trên núi sọ, chúng ta có thể thấy được các lãnh vực mà ma quỷ tấn công Người.
Chước cám dỗ về lòng mến: Một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô khi đến thế gian đó là mạc khải cách hoàn hảo chân dung Thiên Chúa là Đấng toàn năng và đầy lòng thương xót cho nhân loại. Chân dung của Đấng Toàn Năng chí ái được biểu lộ qua chính con người, cuộc đời, những lời giảng dạy, việc làm của Người, Giêsu Kitô, vị mục tử nhân lành luôn hết tình vì đàn chiên và từng con chiên đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ma quỷ đâu có cám dỗ Chúa Giêsu không yêu thương con người, nhưng nó cám dỗ Người yêu thương cách “phiếm diện”. Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hóa thành bánh đi. Chúa Giêsu đã đáp lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,3-4).
Không riêng gì Kitô hữu, bà con lương dân, anh chị em khác đạo, kể cả người vô thần đều công nhận rằng người ta không chỉ sống bằng cơm bánh. Ngoài chuyện cơm áo gạo tiền thì con người cũng cần đến nhiều điều khác như học hành, giải trí, nghệ thuật, tâm linh… Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nói ngược lại câu trích dẫn của Chúa Giêsu mà không sợ sai lầm. Người ta sống không nguyên chỉ nhờ lương thực tinh thần mà còn phải cần đến bánh, cơm, gạo, tiền… Con người là hữu thể xác hồn duy nhất hay nói như các triết gia là tinh thần nhập thể. “Không ai là một hòn đảo”. Con người không hiện hữu đơn độc mà còn có tính xã hội. Để sống, tồn tại và phát triển thì con người luôn cần đến nhau, cần đến các cơ chế, luật lệ… Như thế để yêu thương con người cách toàn diện thì chúng ta không chỉ nghĩ đến luơng thực vật chất hay tinh thần mà còn phải biết nghĩ đến môi trường sống, một lãnh vực nền tảng để con người tồn tại, phát triển và đạt được hạnh phúc vốn được gọi là công ích.
Ma quỷ thừa biết điều này và nó đã, đang cũng như sẽ mãi cám dỗ con người, đặc biệt cám dỗ Hiền Thê Đức Kitô sống đức ái cách phiếm diện. Chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ giúp nhau về vật chất của cải thì dễ nhận ra. Bởi chưng cái hậu quả của việc sa chước cám dỗ này thường nhãn tiền và dễ thấy. Dòng lịch sử Giáo hội ghi lại không ít hiện tượng này đó đây. Tuy nhiên, chước cám dỗ xui khiến chúng ta yêu thương nhau là chỉ lo phần hồn, lo chuyện thiêng liêng thì quả thật khó nhận diện. Ngay cả với Mẹ Giáo hội, từ thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tự do chính trị bành trướng, đã dần mất hết các quyền lực trần thế thì đã tự co cụm lại trong pháo đài của mình. Chính trong hoàn cảnh này thì chước cám dỗ ma quỷ giăng ra lại hướng mục tiêu vào ngay bản thân Giáo hội. Bị hạn chế về các hoạt động trần thế thì chúng ta quay về với chuyện thiêng liêng. Vì thế Giáo hội đã quá nghiêng chiều về việc chỉ lo cứu rỗi các linh hồn. Chỉ lo cứu các linh hồn hay chỉ lo chuyện thiêng liêng thì cũng là một cách sa chước cám dỗ. Nếu chỉ thương xót linh hồn thì chưa phải là yêu thương con người đúng nghĩa.
Con người không phải là linh hồn. Hơn nữa khi chủ trương rằng chỉ lo chuyện linh hồn thì vô tình chúng ta rơi vào quan niệm nhị nguyên, chưa kể đến chuyện đánh lận con đen, tranh tối tranh sáng, khó bề kiểm chứng. Cũng có khi vì cái cớ lo chuyện linh hồn mà chúng ta đã thoái thác nhiều nghĩa vụ yêu thương phải thực thi theo giới luật mới mà Thầy Chí Thánh truyền dạy. Xin đừng quên Chúa Giêsu đã từng cụ thể hóa luật yêu thương bằng câu chuyện người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,29-37). Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rõ điều này: Chúa Giêsu trong ba năm rao giảng, công việc chính của Người là giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ. Và khi sai các môn sinh đi thực tập truyền giáo, Người cũng truyền cho các vị thực thi những điều ấy: rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ.
Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, con người cũng không chỉ sống bằng nguồn dinh dưỡng tinh thần, nhưng con người còn sống nhờ tha nhân, xã hội, các thể chế chính trị, các đường lối phát triển kinh tế, xã hội… Đã yêu con người thì cần phải quan tâm đến con người cách toàn diện. Thời gian gần đây, Giáo hội đã có nhiều nỗ lực thể hiện sự quan tâm của mình trong các lãnh vực được gọi là trần thế như: lao động, công bình, công ích…, đặc biệt từ sau Công Đồng Vatican II, với các hoạt động của thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình. Tuy nhiên chước cám dỗ vẫn còn đó với nhiều Giáo hội địa phương khi mà dường như chuyện trần thế còn được xem như là không phải công việc của mình. Quả thật, không thể nói mình yêu thương nhau khi chúng ta còn hững hờ hay bỏ qua một khía cạnh căn bản nào đó trong đời sống của nhau. Những vấn đề về xã hội đã được Giáo hội lên tiếng hướng dẫn. Nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị trong hàng linh mục, tu sĩ đã đọc Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Gần đây Bộ Công Lý và Hòa Bình đã tổng hợp giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề xã hội trong quyển “Compendium of the social doctrine of the Church” xuất bản năm 2004 thì đã được bao nhiêu người nắm được nội dung. Giới linh mục và tu sĩ còn vậy, thế thì anh chị em tín hữu giáo dân sẽ ra sao đây?
Chước cám dỗ về Đức Cậy: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,7; Lc 4,12). Khi nghe Chúa Giêsu dùng câu trích Lời Chúa trên đây để chống lại ma quỷ thì chúng ta dễ nhận ra trọng tâm của chước cám dỗ là hướng vào Đức trông cậy. Giáo lý Công Giáo dạy rằng có hai tội phạm đến Đức trông cậy: một là tuyệt vọng, thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa và hai là chỉ dựa vào sức mình hoặc quả ỷ lại vào tình thương của Chúa. (x.GLCG chung số 2090-2091).
Bị cám dỗ tuyệt vọng hay thiếu tin tưởng vào tình thương của Chúa thì vẫn có đó, nhưng xét cho cùng chước cám dỗ này tương đối dễ nhận ra. Chẳng biết ma quỷ có thành công nhiều trong chước mưu cám dỗ này đến đâu, tuy nhiên chúng ta thấy trong đoàn con cái Chúa, số người tuyệt vọng không mấy nhiều, nếu xét hình thức bên ngoài. Giả như có ai đó có biểu hiện tuyệt vọng thì bà con đồng đạo sớm nhận ra ngay và dĩ nhiên sẽ động viên giúp đỡ nhau cách này cách khác. Người rơi vào tình trạng này rất dễ nhận được sự cảm thông và lòng thương xót của tha nhân. Chẳng hạn với các trường hợp tự vẫn thì ngày nay người ta đã có thái độ khoan dung hơn nhiều, vì nhờ biết cảm thông hơn.
Sa vào chước cám dỗ chỉ dựa vào sức riêng mình thì tai hại khôn lường. Không riêng người Kitô hữu mà bà con lương dân, anh chị em khác đạo cũng dễ dàng thấy được cái nguy cơ của những người chỉ dựa vào sức mình. Không chỉ bất cần đến sự che chở, phù trì của trời cao, những người chỉ dựa vào sức riêng mình cũng bất cần cả sự giúp đỡ của tha nhân. Những người này thường hứng nhận hậu quả hay quả báo nhãn tiền ngay ở đời này. Chính vì thế chúng ta không quá khó nhận ra chước mưu cám dỗ của quỷ ma.
Trái lại, chước cám dỗ xui khiến chúng ta quả ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa thì thật tinh tế và xảo quyệt. Chước cám dỗ này thường xuất hiện dưới nhiều hình thức bên ngoài với dáng vẻ đạo đức, thành kính, kể cả cậy trông! Khi rơi vào chước cám dỗ này, đương sự khó nhận biết và tha nhân cũng khó phát hiện. Ai lại không cảm phục người tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa? Thế nhưng chính khi rơi vào chước cám dỗ này, một cách nào đó chúng ta đã thử thách Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Bắt Thiên Chúa phải làm thay, giao khoán tất cả cho Thiên Chúa bằng việc phủi tay, thoái thác trách nhiệm hoặc bằng cách chỉ biết cầu nguyện, cầu xin mà thôi thì vô tình hay hữu ý chúng ta đã để mình chiều theo chước cám dỗ lỗi đức trông cậy. Có thể xác quyết rằng những người đạo đức theo “truyền thống”, những người vị trọng, chức cao trong Giáo hội rất dễ rơi vào tình trạng này. Và cái nguy hiểm lớn nhất đó là những người đang ở trong chước cám dỗ này lại chẳng biết, chẳng hay. Và rồi người ta có cớ để ẩn mình trong thái độ thụ động, thiếu dấn thân, không dám quên mình, đặc biệt khi công lý đòi hỏi phải được bảo vệ.
Người biết sống Đức Cậy không phải là chỉ biết chuyên chăm cầu nguyện, cầu xin, nhưng còn phải biết tận dụng những hồng ân Chúa ban là các khả năng trí khôn, sức khỏe, thời giờ, tiền bạc…để làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa trị đến, Ý Chúa được thể hiện… Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ đó là Chúa Giêsu chuyên chăm cầu nguyện, tìm kiếm Thánh Ý Chúa Cha để rồi tích cực thực thi. Điểm đến của việc cầu nguyện là để kết hiệp với Chúa, yêu mến Chúa, nhận biết Thánh ý mà thực thi, dĩ nhiên là trong niềm tin vào tình yêu và ân sủng của Người.
Xin được nhắc lại rằng thái độ chỉ biết cầu nguyện trong sự thụ động khoanh tay cứ để cho mình hoặc mặc cho tha nhân ở lâu trong “tình trạng cheo leo” (khốn khổ, bất công, bị tước đoạt nhân vị cùng với những quyền lợi chính đáng…) rồi ngồi chờ hoặc cách nào đó “bắt” Thiên Chúa phải ra tay can thiệp, chính là một sự nghiêng chiều theo chước cám dỗ lỗi đức Trông Cậy.
Chước cám dỗ về Đức Thờ Phượng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người thôi” (Mt 4,10; Lc 4,8). Mẹ Giáo hội dạy chúng ta: “Hành vi đầu tiên của nhân đức thờ phượng là thờ lạy Thiên Chúa, nghĩa là nhận biết Người là Thiên Chúa, là Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc, là Chúa và là Thầy của mọi loài, là Tình Yêu vô biên và giàu lòng thương xót…Thờ lạy Thiên Chúa là tôn kính và tuyệt đối thần phục Người vì nhận biết “tính hư không của thụ tạo”, biết sự hiện hữu của chúng ta, hạnh phúc vĩnh hằng của chúng ta hoàn toàn nằm trong tay Người…Việc thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, giải thoát con người khỏi thái độ khép kín, khỏi nô lệ tội lỗi và sự sùng bái thế giới ngẫu tượng.”(x.GLCG chung sô 2096-2097).
Sùng bái các loài thụ tạo, suy tôn các thế lực thụ tạo chính là hành vi lỗi phạm đến đức thờ phượng. Một trong những chước cám dỗ ma quỷ xúi giục Chúa Giêsu năm xưa cũng như xúi giục Hiền Thê của Người qua mọi thời là tin vào quyền năng của các thế lực thụ tạo. Lịch sử Giáo hội một cách nào đó cho chúng ta thấy ảnh hưởng của chước cám dỗ. Từ năm 313 với sắc chỉ Milan, Giáo hội dường như thấy được sự hữu hiệu của thế lực trần thế nên đã có phần cậy dựa vào nó. Không chỉ cậy dựa mà có khi Giáo hội còn lợi dụng thế quyền cho việc đạo và có khi chính mình hành xử như một thế lực trần tục. Với sự trở lại của Vua Clovis năm 498 khiến cho toàn dân nước Pháp bấy giờ cùng theo đạo thì chước cám dỗ như tăng phần mãnh lực.
Để có hiệu năng, có thành quả lớn trong việc thiêng thánh thì người ta cũng dễ bị cám dỗ thỏa hiệp cách nào đó với các thế lực thụ tạo, và chúng ta đã “sùng bái” thụ tạo cách vô tình mà chẳng hay. Những cuộc thánh chiến, những lần theo đoàn viễn chinh để đi truyền giáo phải chăng không cho thấy sự cậy dựa của chúng ta vào các mãnh lực trần thế này khiến cho Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhiều lần thành khẩn xin lỗi công khai? Nói rằng chúng ta đã suy tôn chúng thì quả là hàm hồ nhưng xem chúng là một trong những động lực chính của sự thành công thì dường như không sai. Chuyện “xì căng đan” của hàng giáo sĩ Hội Thánh Ba Lan trong thời cộng sản đã từng là chuyện thời sự và cũng là bằng chứng về sự hiện hữu của chước cám dỗ tinh vi và độc hại này. Hy vọng rằng bài học đau thương này không tái diễn nơi các giáo hội địa phương khác.
Đến khi không nắm được các thế lực trần gian thì chúng ta lại rơi vào việc tự thần thánh hóa chính mình. Giáo hội là một xã hội hoàn hảo (Societas Perfecta). Cái khái niệm được xem là “tự huyễn hoặc” này đã từng kéo dài cho đến Công Đồng Vatican II. Mình không thể sai lầm, chỉ có mình mới nắm giữ trọn vẹn chân lý cũng là một trong những cách thế đặt mình thành ngẫu tượng. Chước cám dỗ ấy còn len lõi vào trong cung cách sống đạo. Nhiều anh em luơng dân hay bà con khác đạo nghĩ rằng “cứ nói nhiều là sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Nghĩa là khi đã thực hiện đủ một số công thức, kinh kệ nào đó thì thần minh phải thực hiện điều mình muốn. Bắt Thiên Chúa tự động (automatic) thực hiện điều mình quy định hay kiểu thức mình đặt ra đúng là một cám dỗ lỗi đức thờ phuợng tinh tế. Chước cám dỗ kiểu dạng ma thuật vẫn phảng phất đâu đó trong các cử hành bí tích, á bí tích. Nếu không tỉnh táo, cẩn mật đề phòng thì cả đến đấng bậc được xem là có thánh chức cũng sa vào, nhất là với cái nhìn “bí tích học” về tính tại sự (ex opere operato) một cách máy móc.
Điều quan trọng là xem xét thánh ý Thiên Chúa. Nếu ỷ lại vào các quy chế do chính chúng ta đặt định để cho rằng mình có quyền ban ân lộc thánh thiêng thì cũng là một cách ngẫu tượng hóa bản thân. Chuyện còn tính thời sự đó là nhiều cuộc tấn phong giám mục tại Trung Quốc dù cho là có “thành sự” (valide) nhưng không “hợp pháp” (licite), dĩ nhiên bị tuyệt thông tiền kết (GL Đ.1382). Đây là tình trạng xấu, thế nhưng chỉ sau một “hiệp ước” giữa Tòa Thánh với Chính quyền dân sự thì tình trạng ấy từ xấu trở thành “tốt ngay”! Thiết nghĩ rằng nếu “dùng đức tin mà bù lại” thì cũng có phần khiên cưỡng cách nào đó. Ngẫu tượng hóa bản thân thì vẫn còn dễ nhận biết, nhưng ngẫu tượng hóa tập thể hay cơ chế thì khó phát hiện. Tôn vinh một cơ chế nào đó, một tập thể nào đó lên hàng muôn năm, lên hàng bất diệt là sa vào chước cám dỗ thờ ngẫu tượng. Chước cám dỗ xưa đã khuất phục tổ tiên chúng ta nay như mãi đeo đẳng con cái loài người, kể cả Hiền Thê Đức Kitô.
Có thể nói Đức thờ phượng là hiện thực hóa Đức Tin. Chân lý nền tảng chúng ta tin nhận đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng Tạo Thành và là Cha của hết mọi người, vì thế chúng ta phải tôn thờ, thần phục và yêu mến chỉ mình Người trên hết mọi sự, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Ngoài Người ra thì không có thần minh nào hết. Thế nhưng trong thực tế nhiều khi chúng ta lại suy tôn nhiều thực thể nhân loại lên hàng thần thánh! Kinh tin kính thời các thánh Tông đồ chỉ rõ ngay đến Giáo hội cũng chỉ là đối tượng của sự tin có chứ không phải là tin kính.
Thế nhưng hình như vẫn có đó việc vô tình hay vô tri, chúng ta vĩnh cửu hóa một phương thế Chúa Giêsu thiết lập vốn mang tình thời gian. Có nhiều đấng bậc cảm thấy bị xúc phạm khi nghe nói đến chước cám dỗ của Hiền thê Chúa Kitô, trong khi đó vẫn thấy bình thường khi nghe đề cập đến các chước cám dỗ của chính Đấng Sáng lập nên Giáo hội. Phải chăng đã có lúc, có khi chúng ta nói về Giáo hội nhiều hơn là nói về Thiên Chúa, nhất là khi chúng ta đón nhận một vị trí, vai trò chủ chăn nào đó? Việc đánh lận con đen cũng là một lỗi nghịch với đức thờ phượng, với đức tin. Chống cha là chống Chúa, nói đụng đến giám mục là chống phá Giáo hội, là xúc phạm đến Thiên Chúa. Những lập luận trên đây không luôn hữu lý mà nhiều khi lỗi đức thờ phượng vì chúng ta vô tình thờ ngẫu tượng mà chẳng hay.
Cơn cám dỗ cuối cùng: Ở đây, không chủ ý nói đến cuốn tiểu thuyết “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Kitô” (The last temptation of Christ) của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantkasis. Tuy nhiên, đọc Tin Mừng chúng ta phải chân nhận rằng quảng thời gian Chúa Kitô bị cám dỗ quyết liệt nhất đó là những giờ trong vườn dầu và trên cây thập giá. Có lẽ viễn ảnh khổ giá là một thử thách to lớn đối với Chúa Giêsu. Thế nhưng trong thời gian rao giảng, Người đã thoáng hình dung khổ hình thập giá sẽ chịu. Theo thiển ý, có lẽ điều cám dỗ Chúa Giêsu nặng nề nhất đó là sự thất bại, mất cả chì lẫn cả chài,“xôi hỏng, bỏng tay”. “Êlôi, Êlôi, lamasabacthani ! Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34).
Nói đến chước cám dỗ về hiệu năng. Mong nhìn thấy kết quả là chước cám dỗ phổ biến nơi nhiều người, cách riêng với những ai có chút tài và chút tâm. Dẫu biết rằng “thất bại là mẹ thành công” nhưng cũng thật khó lòng đón nhận thất bại cách thanh thản, nhất là khi vì sự thất bại ấy mà ta dường như mất tất cả. Đã làm điều gì đó thì ai cũng mong sẽ thành công, sẽ đạt kết quả. Chính vì thế, ma quỷ khôn ranh cho chúng ta thoáng thấy sự uổng công, sự thua cuộc và cả sự thất bại để rồi chúng ta e ngại, dừng bước, khoanh tay.
Đứng trước tình trạng nhiễu nhương của xã hội hôm nay, tình cảnh chiến tranh loạn lạc của thế giới, nhiều hiện tượng bất ổn trong Giáo hội, đặc biệt liên quan đến hàng giáo sĩ từ cấp nhỏ đến cấp lớn, có đó không ít người có chút tâm và chút tài đã ngần ngại, e dè vì thoáng thấy sự thất bại trước mắt nếu can đảm lội dòng nước ngược. Một con chim én khó có thể và như không thể làm nên mùa xuân. Và số phận của nó chắc gì còn cánh, còn lông! Không chừng còn bị chê bai là thiếu khôn ngoan, là nóng vội, là bốc đồng, là hiếu thắng. Có khi lại bị quy chụp là phản động, là rối đạo. Và khi đã bị thua cuộc thì rất có thể bị dè bỉu rằng nếu nó làm đẹp lòng Chúa thì Chúa phải bênh đỡ nó chứ! (x.Mt 27,39-44).
Đã không thành công lại còn có thể mất thanh danh, mất chức vị, quyền hạn… thì thật là điều khó vượt qua. Dù rằng đã phải khuất phục trước Chúa Kitô, trước các thánh tử đạo… nhưng ma quỷ cũng đã nhiều lần thành công trong chước cám dỗ này với Hiền Thê của Người theo dòng lịch sử. Cơn cám dỗ cuối cùng luôn có đó với từng người chúng ta. Mùa chay thánh lại về, theo lời mời gọi của các vị cha chung của Giáo hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI đang nghỉ hưu, và Đức đương nhiệm, Phanxicô, chớ gì ta chuyên chăm ngắm nhìn thập giá mà học biết yêu thương trong sự can đảm chết đi để được phục sinh, can đảm đón nhận sự thất bại để cùng chiến thắng với Người.
Vai trò của người lãnh đạo trong các cuộc chiến: Trong các cuộc chiến người ta dễ nhận ra quy luật này: “mạnh ở tướng chứ mạnh gì quân”. Đêm Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã từng nói rằng khi chủ chăn bị đánh tơi tả thì đàn chiên sẽ bị tan tác (x.Mt 26,31). Xin mạo muội đề nghị một giải pháp dành riêng cho các mục tử để chiến đấu với thần dữ trước các chước mưu cám dỗ của nó, đó là quy chiếu Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu: Mầu nhiệm Thánh Thể Chúa Kitô.
Nói đến Giao ước chúng ta có thể hiểu cách phổ thông như là một bản ký kết, một bản hợp đồng giữa hai bên tự nguyện chịu trách nhiệm một hay nhiều phận vụ nào đó và dĩ nhiên sẽ được hưởng một hay nhiều quyền lợi kèm theo. Qua bản hợp đồng thì quyết định tự do đầy tinh thần trách nhiệm được cụ thể hóa cách dứt khoát. Và rồi chính bản hợp đồng là căn cứ, là cơ sở để giải quyết những thiếu sót hay những sự tắc trách vì vô tình hay chủ tâm của bên này hay của phía kia. Các hợp đồng dân sự giữa các pháp nhân tư hay pháp nhân công thì đều có tính giới hạn. Chúng có thể bổ sung, thay đổi hay hết hiệu lực vì nhiều lý do như hết thời hạn hoặc một phía hoàn toàn không có khả năng thực hiện hoặc mất tư cách pháp nhân…
Chúa Kitô đã mình nhiên thiết lập Giao ước mới, Giao ước vĩnh cửu bằng chính thịt máu của Người. Đây là một “hợp đồng” có giá trị cho đến khi trời mới đất mới xuất hiện. Giao ước này chính là cuộc chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô trên thần dữ. Một hành vi được viên đầy giá trị ngay chính khi được quyết định cách dứt khoát. Giáo hội tin rằng khi lập Bí tích Thánh Thể trong đêm Tiệc Ly là lúc Chúa Kitô quyết định cách dứt khoát vâng phục thánh Ý Chúa Cha, thể hiện một tình yêu đến cùng là hiến dâng mạng sống vì nhân loại mà hy tế thập giá là điểm đến hay là sự biểu hiện. Chính vì thế mà mỗi lần Bí tích Thánh Thể được cử hành thì Giáo hội nhìn nhận là Hy tế thập giá Chúa Kitô được hiện tại hóa. Chính yếu tố “hiện tại hóa” Hy tế cứu độ của Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta đủ sức trường kỳ chiến đấu với thần dữ mưu ma. “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Giáo hội căn cứ những lời trên đây để xác quyết việc Chúa Kitô lập bí tích truyền chức thánh. Không dám mạn bàn về thần học bí tích, tuy nhiên khi nhìn vào nội hàm của lời truyền Đấng Cứu Độ đêm Tiệc Ly thì chỉ có hàng giám mục và linh mục là những người có năng cách thực thi những điều được truyền là cử hành nhiệm tích Thánh Thể mà không có hàng phó tế, dù cũng là thuộc bí tích truyền chức thánh. Xin được bỏ qua vấn đề này để tập chú vào mối liên hệ hữu cơ giữa hàng tư tế thừa tác với Giao ước mới, Giao ước vĩnh cữu. Sự hiện hữu của hàng tư tế thừa tác theo ý Đấng Cứu thế, là để cho Giao ước mới hiện diện và phát huy hiệu quả theo dòng thời gian. Chính các thừa tác viên Thánh Thể là những người thể hiện Giao ước này. Hội Thánh khẳng định chân lý này khi tuyên bố rằng lúc giám mục hay linh mục đọc lời truyền phép là đọc trong tư cách Chúa Kitô (in personna Christi) (Không đọc: “Này là Mình Chúa Kitô” mà đọc “Này là Mình Thầy”…Trước đây dịch: “Này là Mình Ta”).
Nếu lỡ vì lý do nào đó mà các tư tế thừa tác sa chước cám dỗ thì thiển nghĩ rằng không gì hơn hãy trở về với “bản hợp đồng vĩnh cửu” để quy chiếu hầu chỉnh sửa những sai lầm. Chính khi biết hiến dâng trọn xác thân của mình trong tình liên đới với nhân loại tội lỗi (Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em), thì chúng ta đang thể hiện tình yêu mến Thiên Chúa qua sự vâng phục Thánh ý Người là chọn lấy phương thế tuyệt hảo để bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Ai yêu mến Chúa thì thực thi lời người chỉ dạy. “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Nội hàm của “việc này” là noi gương Thầy Chí Thánh nhiệt thành giảng dạy chân lý, gắng công vuông tròn phận vụ người mục tử, và hơn nữa, người tư tế thừa tác cần biết can đảm dùng chính máu thịt của mình để cho tha nhân đón nhận sự sống và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Sống bí tích Thánh Thể là một cách thế biểu lộ lòng mến và sự cậy trông tuyệt hảo.
Mọi sự lành đều bởi Chúa mà ra. Ơn cứu độ là quà tặng hoàn toàn nhưng không. “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). “Con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha”(Lc 23,46). Giao ước mới minh định rằng những gì chúng ta đang có, đang là, đều do bởi lãnh nhận. Việc Chúa Kitô hiến dâng toàn thân cho Chúa Cha nhắc nhớ cho chúng ta chân lý nền tảng của đức tin để rồi biết cách thế thờ phượng Thiên Chúa cho xứng, cho phải đạo. Mọi sự đều là của Thiên Chúa và phải dâng về cho Thiên Chúa. Giáo hội khẳng định chân lý này khi dạy chúng ta rằng Thánh Lễ là trung tâm của đời sống Kitô hữu và là đỉnh cao của hành vi thờ phuợng.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ: một lời cầu xin mãi luôn mang tính hiện sinh và cảnh tỉnh chúng ta, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Cầu xin là để nhận biết chước cám dỗ để mà xa lánh hay đề phòng, nhất là để biết cách thế chống trả hữu hiệu. Thánh Tông đồ cả Phêrô cảnh giác chúng ta rằng ma quỷ như sử tử gầm gừ rảo quanh chúng ta rình chờ cắn xé (x.1P 5,8). Vấn đề đặt ra đó là rất nhiều khi chính chúng ta không nhận ra tình trạng sa chước cám dỗ của mình. Là Kitô hữu, đặc biệt là những tư tế thừa tác, không gì hơn hãy luôn bám sát “bản hợp đồng” là Giao Ứớc mới, Giao Ước vĩnh cửu để chấn chỉnh, sửa sai và để biết cách thế chống trả chước mưu cám dỗ của thần dữ. Tin rằng một tư tế thừa tác thường xuyên ý thức và sống nội hàm những gì mình cử hành trong hy tế Thánh Thể hằng ngày thì chắc chắn sẽ khó lạc đường, sa chước cám dỗ mà nếu có thì cũng nhanh chóng chỗi dậy và trở về.
Năm nay từ ngày Tết Nguyên Đán tới Thứ Tư lễ Tro kéo dài cả tháng trời nên chắc chắn mọi người MC 1-ABC443
Năm nay từ ngày Tết Nguyên Đán tới Thứ Tư lễ Tro kéo dài cả tháng trời nên chắc chắn mọi người đã có tâm tình sẵn sàng bước vào Mùa Chay.
Chúa nhật I mùa Chay Phụng vụ luôn cho chúng ta nghe tường thật về những cám dỗ mà Chúa Giêsu phải trải qua sau khi Chúa ăn chay cầu nguyện 40 ngày trên núi trước khi Chúa ra rao giảng Tin Mừng.
Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ về Bánh ăn. Satan lợi dụng lúc Chúa Giêsu đói sau thời gian dài chay tịnh đã cám dỗ Chúa bằng lời như sau: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Quỉ biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đúng như khi chịu phép Rửa, Chúa Cha đã tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta”. Chúa Giêsu có thể làm được điều này, nhưng Chúa không bao giờ làm một Phép lạ để mưu lợi cho bản thân, vì thế Chúa đối lại bằng việc trích dẫn lời Chúa trong sách Đệ nhị luật 8,3: “Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng lời Chúa nữa”.
Cám dỗ thứ II là cám dỗ về quyền hành danh vọng trần gian. Tất nhiên điều này diễn ra nơi tâm trí Chúa Giêsu về quyền được cai trị các nước trần thế như quan niệm của người Do thái về Đấng Messia có tính cách chính trị, quỉ yêu cầu Chúa sấp mình thờ lạy nó thì nó sẽ hiến tặng cho Chúa quyền hành này. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ và dạy phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Chúa chớ không thờ ma lạy quỉ.
Cám dỗ thứ Ba là cám dỗ về sự liều lĩnh thử thách Thiên Chúa khi Satan đề nghị Chúa gieo mình từ góc tường cao đền thờ xuống sân nơi thường có đông người tụ tập. Chúa Giêsu đã chống lại bằng trích dẫn lời Chúa trong Đnl 6,16: “ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Những cám dỗ Satan bày ra không chỉ nhắm vào nhu cầu của Chúa Giêsu lúc đó như đói ăn, như muốn được quyền hành và nổi tiếng mà chủ yếu là quỉ muốn Chúa bỏ con đường cứu chuộc khiêm hạ theo ý Chúa Cha để đi theo con đường đấng Messia quyền lực giầu sang phú quí như ước mong của người Do Thái, nhưng Chúa Giêsu đã dứt khoát từ chối lúc này và về sau Chúa tiếp tục khước từ ngay cả khi các tông đồ cám dỗ Chúa hoặc khi các thủ lãnh Do thái thách thức Chúa xuống khỏi thập giá để họ tin.
Điều đặc biệt chúng ta cần ghi nhận đó là quỉ dùng chính Lời Chúa trong kinh thánh để dụ dỗ Chúa và Chúa Giêsu cũng dùng lời kinh thánh để đối lại. Quỉ dùng lời Chúa không chính xác khi trích dẫn không theo văn mạch và nó vặn vẹo theo ý nó, còn Chúa Giêsu trích dẫn chính xác nên quỉ không nói gì thêm được. Vì thế theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cần học hỏi Lời Chúa, trang bị cho mình có ít nhiều vốn liếng Kinh thánh để lời Chúa là đèn soi cho bước chân chúng ta đi và là khí giới hữu hiệu chống lại ma quỉ.
Ma quỉ có thật và ngày nay quỉ vẫn cám dỗ chúng ta như lời thánh Gioan Kim Khẩu: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Cha Gioan Maria Vianey bị ma quỉ quấy phá suốt 35 năm vì ngài giải tội đưa được rất nhiều người ăn năn trở lại. Quỉ chỉ ngưng quấy phá ngài một năm trước khi ngài qua đời. Ngày nay ma quỉ không có xuất đầu lộ diện mà nó thường cám dỗ ta qua bạn bè xấu, qua xì ke ma túy, phim ảnh đồi trụy… Có những trường hợp quỉ ám người nào đó và dùng người đó để nói năng, làm việc nọ việc kia thay cho nó. Chúa Giêsu đã ban quyền trừ quỉ cho các tông đồ và ngày nay Giáo hội vẫn được thừa hưởng quyền đó, nhưng Chúa dạy ta để được thành công trong việc trừ quỉ thì phải cầu nguyện và ăn chay.
Cũng để thắng được các chước cám dỗ theo sứ điệp Mùa Chay của Đức Giáo hoàng Fanxicô năm nay là chúng ta hãy làm điều thiện: bao lâu Chúa còn cho có cơ hội thì chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người: đừng có sờn lòng nản chí!
Câu chuyện : Một chàng thanh niên bị lên án tử hình: Gần tới giờ hành quyết, người ta cột anh vào ghế điện để khi có hiệu lệnh sẽ bật công tắc là thân xác anh dính vào ghế điện và sẽ chết ngay. Nhưng trước giây phút đó, họ cho anh gặp linh mục vì anh là người công giáo. Anh tâm sự với cha như sau như sau: “Tất cả tội lỗi của con đều bắt đầu từ một đồng 50 xu ăn cắp của mẹ hồi còn bé. Lớn lên, con tiếp tục ăn trộm từ trong nhà rồi ra ngoài đường phố, càng ngày càng ăn trộm những món đồ lớn hơn. Cần tiền tiêu xài, con đi ăn cắp cả ở tiệm vàng. Lần cuối cùng con rủ hai anh bạn mới ra tù đi ăn cắp ở một ngân hàng. Ngân hàng có nhân viên bảo vệ, nên con bắn chết người này. Kết cuộc là con bị bắt và bị kết án tử hình về tội cướp đoạt tài sản và giết người”. May mắn cho anh là giờ phút cuối cùng anh được lãnh nhận bí tích hòa giải. Hi vọng Chúa sẽ đón nhận anh như Chúa đã ban nước Thiên đàng cho kẻ trộm cùng bị đóng đinh bên tay hữu Chúa xưa kia!
Chúng ta dùng thời giờ Mùa Chay thánh này để noi gương Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, làm việc thiện và chống lại các chước cám dỗ để được trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen
Các hiền nhân của chúng ta nói rằng: thành công không phải là đích đến cuối cùng, thất bại cũng MC 1-ABC444
Các hiền nhân của chúng ta nói rằng: thành công không phải là đích đến cuối cùng, thất bại cũng không phải là vực sâu thăm thẳm, chẳng qua, tất cả chỉ là động lực giúp ta vững vàng hơn trên con đường sắp bước. Sinh ra làm người, ai chẳng có mơ ước thành đạt, thành danh, muốn được, muốn có, muốn nhìn thấy cả lũ cháu đàn con mình cũng có tiếng và có miếng. Biết đầu tư, biết nhắc nhau làm việc thiện, sống tình sống nghĩa, mà đạt tới phúc vinh ở phía trước: cha là núi mẹ là sông, anh em hiếu thuận, dòng tộc an vui. Vì chưng, sự khác biệt giữa thành công và thất bại, giữa đau khổ và hạnh phúc, không phải ở sức mạnh, kiến thức, mà tuỳ thuộc niềm tin và ý chí quyết tâm của ta.
Đức Giêsu được Thánh Thần soi sáng hướng dẫn đến sa-mạc cầu nguyện, Ngài đã cho các môn đệ và chúng ta biết, phương thế hữu hiệu để chiến thắng đói cơm bánh, quyền lực, niềm tin, chính là Lời Chúa. Hành trình đời người tín hữu: đầy chông gai, giông bão bủa vây, hết sức đáng sợ, sẽ ảnh hưởng đến việc cầu nguyện và sống thánh ý Chúa của chúng ta. Việc chay tịnh cầu nguyện, sống bác ái, lúc nào cũng đẹp ý Chúa, nhưng thánh sử Luca cho biết “tên cám dỗ”, luôn rình rập và bằng những chiêu trò tinh quái nhằm hại Đức Giêsu và chúng ta: “nếu ông là con Thiên Chúa, … nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, ….”. Có thể ai cũng phải đối diện với những khổ đau thập giá, hoặc phải chiến đấu với “cám dỗ” mỗi ngày, do đó ai cũng cần ơn ban, sức mạnh và tình yêu của Chúa để chiến thắng “ma quỷ”, sự xấu.
Đức Giêsu tiến vào sa-mạc có tình yêu Thánh Thần, các môn đệ và người tin hữu hôm nay bước vào hành trình đời người, ơn gọi và sứ vụ của mình, hẳn chúng ta vẫn có sự hiện diện của Đức Kitô và tình yêu Thánh Thần. Cùng tiến bước trong tin yêu, lạc quan, trước sức mạnh của lời cầu nguyện hiệp thông, khởi đi từ Đức Giêsu Đấng chiên thắng “ma quỷ”, bằng Lời hằng sống trong tình yêu Chúa Cha và Thánh Thần. Đức Giêsu từ chối việc biến “sỏi đá” thành của ăn thức uống, không ngã lòng trước vinh hoa phú quý ở đời này, và cho thấy rõ niềm tín thác vào tình yêu Chúa thật chính đáng: “chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”. Người môn đệ theo Chúa phải có ý chí chiến đấu, trước là để thắng mình, sau mới nói đến thắng kẻ thù: người bi quan luôn thấy khó khăn trong mọi cơ hội, người lạc quan thì nhìn được mọi cơ hội trong từng giây phút khó khăn.
Nếu sự thành công ở đời này không phải là tiền quyền, nếu sự trưởng thành của người ta không phải là ở tuổi tác, hẳn thành công là được nhiều người mến thương, hiểu thấu đáo về cái được, cái mất, hầu sở hữu đúng vẻ đẹp của sự trưởng thành. Ngày hôm nay, biết bao người than thở xung quanh ta thật giả lẫn lộn, không thể phân biệt đâu là quỷ ma, đâu là thần thánh ! Đúng, phải sử dụng mắt tâm hồn, lấy tình yêu thương giải toả hờn ghen oán ghét, đừng nói suông mà hãy làm, đừng huyên thuyên mà hãy hành động, đừng hứa nhưng hãy chứng minh, nhất định thiên hạ sẽ nhận biết Đức Kitô đang ở trong ta. Nếu Đức Giêsu nhắc nhớ: “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ bởi Lời Chúa dưỡng nuôi”, hẳn sự thành toàn thực sự sẽ rõ ràng hơn, khi ta tựa nương vào sức mạnh và tình yêu Chúa.
Cùng tiến tới công thành danh toại, người đời cho rằng: có gì cũng được, trừ có bệnh; không có gì cũng được, trừ không có tiền; thiếu gì cũng được, trừ thiếu sức khoẻ; sức khoẻ không phải là tất cả, nhưng không có sức khoẻ, sẽ chẳng có thứ gì. Cùng tiến bước tới đích điểm hạnh phúc, người môn đệ Đức Giêsu không thể không từ bỏ mình, chắc chắn phải có liên đới hiệp thông, dạt dào tình yêu Chúa và tha nhân. Những lời nói hơn nói kém, những tư tưởng xấu, việc làm mờ ám, hoặc những cử chỉ không đẹp, thường vẫn bị gán ghép là do ma quỷ làm, chuẩn hay không, chính xác thế nào, tuỳ mức độ ta kết hiệp cầu nguyện, sống tín thác vào tình yêu Chúa. Vâng hãy là chính mình, bình thường nhưng không tầm thường, cậy dựa vào sức mạnh của Chúa để thắng cám dỗ, nhưng “đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Cùng dìu nhau tiến bước đến bến bờ hạnh phúc, cuộc đời và sứ mạng làm chứng nhân, ta sẽ không cô đơn, Chúa chúng ta đã thắng thế gian, Chúa chúng ta đang đồng hành với hoàn cảnh của mỗi người. Hãy cám ơn đời, hãy tạ ơn trời, lúc ta gặp khó khăn, bởi nếu không khó khăn, làm sao ta có cơ hội để hiểu mình, làm sao được trải nghiệm bằng chính con tim và khối óc của mình. Một số nào đó vẫn thắc mắc tự hỏi, nếu Đức Giêsu không vào sa-mạc, Ngài đâu bị quỷ ma cám dỗ, hoặc ma quỷ đâu ngờ Đức Giêsu lại không té ngã trước sự xấu ? Cùng tiến bước với Đức Giêsu, người ta sẽ thấy sự kỳ diệu về tình yêu và sức mạnh chiến thắng cám dỗ là sự thật. Đức Giêsu vẫn đang lưu ý những ai cùng Ngài tiến bước vào sa-mạc cõi lòng, đều phản ánh được chân lý đức tin: không có hạnh phúc nào to lớn bằng, có Một Vị đồng hành hợp lý luôn sánh bước cùng ta. Amen.
Không ai tránh khỏi cám dỗ. Cám dỗ xảy ra hàng ngày và dưới nhiều dạng thức khác nhau. Khi MC 1-ABC445
Không ai tránh khỏi cám dỗ. Cám dỗ xảy ra hàng ngày và dưới nhiều dạng thức khác nhau. Khi thì cám dỗ núp bóng hào quang, danh vọng trần thế. Lúc khác, cám dỗ núp dưới hình thức, bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, thánh thiện. Thực chất bên trong là hành động kiêu căng, tự phụ, kiêu ngạo. Cám dỗ là cuộc chiến nội tâm giữa hai í muốn. Một là chiều theo dục vọng thân xác, hai là quyết tâm theo đường tâm linh. Chiều theo dục vọng, tham muốn thân xác là con đường ma quỉ dụ dỗ con người theo chúng. Quyết tâm, phấn đấu đi theo con đường tâm linh chính là đi theo đường lối Chúa. Ma quỉ cám dỗ Đức Kitô ba lần. Cả ba lần chúng đều bắt đầu và Đức Kitô đáp trả lại chúng.
Nhận đầy ơn Thánh Thần, và Thánh Thần hướng dẫn Đức Kitô vào samạc chay tịnh bốn mươi đêm ngày. Suốt thời gian đó Ngài không ăn gì. Ma quỉ đến cám dỗ Đức Kitô. Bởi Đức Kitô và Thánh Thần cùng chung bản tính nên í nghĩ của Đức Kitô cũng là í nghĩa của Thánh Thần; và í nghĩ của Thánh Thần cũng là í nghĩ của chính Đức Kitô. Theo tinh thần đó, Thánh Thần hướng dẫn Đức Kitô vào samạc cũng chính là do Đức Kitô tự chọn sống trong hoang địa. Trong thời gian này Đức Kitô trải qua hai kinh nghiệm lớn. Kinh nghiệm thứ nhất, Ngài chay tịnh bốn mươi đêm ngày không ăn gì thẩm định mức chịu đựng giẻo dai, bền bỉ của thân xác. Điều này minh chứng một lần nữa khi Đức Kitô vác thập giá lên đồi Can vê. Kinh nghiệm thứ hai bao gồm ba lần ma quỉ cám dỗ. Mỗi một cám dỗ ma quỉ chú trọng tấn công một trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ nhất ma quỉ nhắm đến Ngôi Cha, chúng mong tạo nên sự ngờ vực về tình yêu không gì làm sứt mẻ tình yêu Chúa Cha dành cho Chúa con. Cám dỗ thứ hai ma quỉ tấn công chính Đức Kitô khi chúng kêu gọi Ngài hãy chọn cuộc sống tự lập, độc lập, không để bị lệ thuộc vào Chúa Cha. Cám dỗ thứ ba ma quỉ chú tâm tấn công Thánh Thần Thiên Chúa. Chúng đặt vấn đề liệu Thánh Thần Chúa còn năng động như từng loan báo.
Đáp lại cám dỗ thứ nhất về mối liên hệ bất khả phân li giữa Chúa Cha, Chúa Con. Ma quỷ nêu nghi vấn nếu Chúa Cha yêu thương Chúa Con sao Ngài có thể ‘bỏ rơi’ Chúa Con một mình trong hoàn cảnh khắc nghiệt nơi hoang địa suốt thời gian dài bốn mươi đêm ngày, không hề thăm nuôi. Đức Kitô đáp lại, ma quỉ không có lòng mến, không biết tình yêu Thiên Chúa nên ma quỉ rất mù mờ về tình yêu Thiên Chúa. Đức Kitô nói rõ cho ma quỉ biết. Ma quỉ chỉ biết lo cho cái bụng phệ, cái bao tử. Có phải bao tử no đầy, dạ ắp thực phẩm mang lại hạnh phúc chăng? Nhiều người no dạ, nhưng giấc ngủ chập chờn. Nghe tiếng động cũng lo, nghe tim mình đập loạn xạ vì tâm bất an, tinh thần hoảng loạn, lương tâm cấu xé. Thực tế, về phương diện vật chất, thân xác Đức Kitô đói rét. Về phương diện tâm linh Đức Kitô hoàn toàn no thoả. Kinh Thánh ghi: ‘Đức Kitô được đầy Thánh Thần’ Lc 4:1. Được đầy Thánh Thần cùng nghĩa no thoả, không thiếu thốn chi, và cũng không lo lắng gì, dù có sống một mình trong hoang địa cũng an tâm. Chính Đức Kitô xác nhận khi Ngài đáp lại ma quỉ ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra’ Mt 4:4
Đức Kitô sống bằng Lời Chúa là Lời ban sức sống siêu nhiên. Sức sống siêu nhiên ban cho con tim bình an, tâm hồn thanh thản, tâm trí an vui, cõi lòng yêu mến thiết tha. Đức Kitô mặc khải sức sống siêu nhiên tốt hơn ngàn lần cơm bánh trần gian.
Ma quỉ không hề biết xấu hổ, mắc cở. Chúng tiếp tục mặt trơ, mày đá cám dỗ tiếp. Lần này chúng mời gọi Đức Kitô sống tinh thần độc lập. Nói rõ hơn là tính chia rẽ tình Cha Con. Ma qủi đưa lời mời gọi Đức Kitô sống tự lập, làm vua một vương quốc riêng biệt, tách rời khỏi Chúa Cha. Ma quỉ hứa chúng sẽ giúp Đức Kitô thực hiện được í định đó. Ma quỉ hứa cho Đức Kitô vinh quang và vương quyền trần thế làm gia nghiệp nếu Ngài quì thần phục chúng. Khi hứa điều này ma quỉ đã vô tình vạch trần, để lộ chân tướng gian xảo, bản tính quỉ quyệt dối trá của chúng. Ma quỉ là sư phụ của mọi giảo hoạt, gian trá, lừa dối. Thứ nhất chúng nói mọi vinh quang trần thế và vương quyền trần gian ban cho chúng. Ai ban, chúng nói trống không. Chúng không thể nêu rõ danh tính ai ban cho chúng. Thứ hai, trái đất và mọi sự tốt lành đều do Chúa tạo thành. Ma quỉ không hề có khả năng làm điều đó. Chúng không có quyền hứa cho những gì không thuộc về chúng. Như thế những lời hứa kia đều là trống rỗng, vô căn cứ bởi chúng không thể cho những gì chúng không có. Có lần Philatô kiêu căng nói với Đức Kitô:
‘Ông không biết tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Đức Kitô đáp: ‘Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu trời chẳng ban cho Ngài’. Gn 19:10-11.
Điều trên xác định một sự thật mọi sự ta có dù vật chất hay quyền hành đều do trời ban. Sống phụ lòng trời ban sẽ không tránh khỏi trách nhiệm trời ban.
Sau ba lần cám dỗ
‘ma quỉ thất bại bỏ đi, và hứa sẽ trở lại ở thời điểm khác, chờ đợi thời cơ Lk 4:13.
Có lẽ thời cơ chính là lúc Đức Kitô đáp lại Philatô khi ông chất vấn Đức Kitô. Một lần nữa Đức Kitô khẳng khái đáp của cải, danh vọng trần gian Ngài đều không muốn.
‘Nước tôi không thuộc về thế gian này’ Gn 18:36
Cám dỗ thứ ba, ma quỉ thách Đức Kitô nhảy xuống từ đỉnh nóc đền thờ xem Thánh Thần có đến cứu Ngài không. Làm thế nào để chứng minh điều gì đó đang hoạt động. Đức Kitô nhận đầy ơn Thánh Thần sau khi Ngài nhận Phép Rửa từ Gioan tại sông Giođan. Đức Kitô được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa. Thánh Thần luôn hoạt động trong Ngài. Cũng không cần phải minh chứng Thiên Tính của Đức Kitô. Ngài là Con Thiên Chúa, Ngôi Hai Thiên Chúa. Sự thật trên không phải để minh chứng, làm sáng tỏ mà để tin và nhận sự sống Ngài ban. Hai lần Chúa Cha loan báo niềm tin đó. Lần thứ nhất sau khi nhận phép rửa, Đức Kitô lên khỏi bờ liền có tiếng từ trời cao loan báo:
‘Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con’ Lc 3:22.
Lần thứ hai xảy ra trên núi thánh trong ngày Đức Kitô biến hình:
‘Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người’. Lc 9:35
Ma quỉ thích trình diễn. Chúng lấy lời Kinh Thánh thách Đức Kitô. Thực ra chúng biết rất ít về Kinh Thánh. Ba lần cám dỗ, Đức Kitô dùng Kinh Thánh đáp lại chúng. Ma quỉ dùng Kinh Thánh có một lần duy nhất, lần cám dỗ thứ ba, chúng dùng Kinh Thánh để tỏ ra chúng cũng biết Kinh Thánh. Dùng một đoạn Kinh Thánh để tranh biện, lí luận mong thắng khi cãi lí cho biết không có lòng kính trọng và tin lời Kinh Thánh. Đức Kitô hoàn toàn đặt tin tưởng vào sức mạnh Lời Chúa. Ngài thực sự, thành tâm yêu mến và tin Lời Chúa.
Đức Kitô dậy Kitô hữu đừng ỉ vào sức mình, tài trí mình, nhưng hãy dùng sức mạnh lời Chúa chống lại các cám dỗ. Mùa chay giúp Kitô hữu nhìn vào con tim mình nhận ra sai trái cần hoán cải, sửa đổi. Chuẩn bị con tim trong sạch, xứng đáng nơi ơn Chúa ngự trị
Ma quỷ xứng đáng với tên gọi “cha đẻ của sự gian dối”. Trong phần kết bài giảng ngày 13.10.2016 MC 1-ABC446
“Ma quỷ xứng đáng với tên gọi “cha đẻ của sự gian dối”. Trong phần kết bài giảng ngày 13.10.2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thốt lên như thế.
Nó gian dối trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi góc cạnh, mọi vấn đề, mọi thái độ, mọi cách hành xử của cả đời người và của từng con người.
Có lần thánh Marcô ghi nhận: Đang lúc Chúa Giêsu giảng dạy, thì “trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: Hỡi ông Giêsu Nagiarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 23-24).
– Như nhà thờ của các Kitô hữu, hội đường là nơi thánh thiêng của người Do thái. Nhưng ma quỷ không bỏ qua. Nó xuất hiện trong hội đường. – Nó cũng không bỏ qua hoàn cảnh xem ra đang rất thánh thiện, bầu khí đang rất sốt sắng: Chúa đang giảng. Nó xuất hiện ngay cả nơi Chúa hiện diện và ban Lời sự sống.
Còn hôm nay, khởi đầu cho sứ vụ rao giảng, không những Chúa Giêsu là chính Thiên Chúa Ngôi Hai, mà còn đang tham dự hoàn cảnh thánh thiện không còn gì thánh thiện bằng. Chúa đang trong bầu khí tĩnh tâm, chay tịnh, cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa, kết hợp cùng Thiên Chúa.
Vậy mà ma quỷ vẫn không tha. Cám dỗ nó dành cho Chúa là cám dỗ có tính toán, có kế hoạch, có thứ tự. Cám dỗ ấy dẫn tới cả một chân trời hồng. Người được “mời tham dự” cơn cám dỗ cũng được nó gieo sự tự tin, lòng can đảm để có thể từng bước đạt những viễn ảnh tốt đẹp mà nó đang vẽ ra.
Chúng ta lướt qua từng cơn cám dỗ, sẽ nhận ra điều ấy:
1. Đối với cơn cám dỗ thứ nhất, bởi ăn chay thì phải đói. Vì thế cần lương thực, cần bánh ăn. Thế là xuất hiện lời dụ dỗ ngọt ngào: “Hãy biến đá này thành bánh mà ăn đi”.
Một cơn cám dỗ đầy tính thực dụng: Cứ đói, cho bánh; Nghèo, phải làm mọi cách để thoát nghèo, bất chấp là lương thiện hay không. Thiếu vắng hạnh phúc, phải mau chóng đòi cho bằng được hạnh phúc cá nhân…
Một cơn cám dỗ thực tiễn đến nỗi thực dụng. Nó dễ đánh ngã dù người đó được xem là mạnh mẽ, vì nó đụng trực tiếp vào chính sự sống.
2. Cơn cám dỗ thứ hai tập trung vào quyền lực. Bởi con người dễ ham muốn quyền lực, muốn mình hơn người khác, cho nên cơn cám dỗ quyền lực xoáy đúng chỗ yếu của con người: “Tôi sẽ cho ông quyền thống trị cả thế giới này, nếu ông quỳ xuống mà lạy tôi”.
Hấp dẫn quá. Chỉ cần một cái lạy, một thái độ khuất phục, chịu lụy, không mất một công sức nào, không mất một xu lẻ, trong nháy mắt, mọi quyền hành nằm trong tay mình.
Nhưng bạn và tôi không bao giờ được quyền quên một sự thật: khi lụy phục ai, kẻ nắm quyền chính là người đã được lụy phục.
Bởi thế, ta có được chút quyền hành nào không, không biết. Nhưng chắc chắn, nghe theo sự dữ, ta thuộc về sự dữ, sự dữ thống trị lòng ta.
Tổ tông ham muốn quyền hành đến nỗi dù ảo tưởng vẫn ham muốn: đòi bằng Đấng Tạo Hóa. Tổ tông chìu theo sự dữ, vì thế tổ tông đã phải cúi đầu nô lệ sự dữ.
Đó là chưa kể kẻ có quyền, dễ lạm quyền, dễ hành xử theo quyền hành. Bởi lạm quyền, kẻ có quyền mới có thể khẳng định cái uy, cái mạnh của mình. Vì thế, quyền lực dễ làm người ta đánh mất tính người, quên hết tình người. Càng có quyền bao nhiêu, càng sử dụng quyền để thống trị người khác bấy nhiêu.
3. Cơn cám dỗ thứ ba mà Chúa Giêsu phải chịu là cơn cám dỗ danh vọng.
Cũng như quyền lực, địa vị, ai cũng thích danh vọng, trọng vọng. Nhiều khi danh đó chỉ là danh ảo, vẫn ham hố. Vì dù ảo, vẫn tìm được sự nổi nang, tiếng tăm, ảnh hưởng và thế giá nào đó. Dù ảo, bản thân vẫn có thể được nhiều người biết đến, vẫn nhận được sự tôn vinh nào đó, dẫu chỉ là tôn vinh hình thức.
Nếu Chúa Giêsu chiều theo lời cám dỗ đầy ham hố danh vọng: “Ông hãy nhảy từ trên núi cao xuống, vì Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông”, thì sau đó Chúa nhận được gì?
Ta cứ tưởng tượng, nếu Chúa sa chước cám dỗ, nhảy từ trên núi xuống thật, nhờ các thiên thần gìn giữ được bình yên vô sự, chắc chắn ngay lập tức, Chúa nổi như cồn. Chắc chắn, Chúa không cần bôn ba rao giảng chi cho cực lòng. Thiên hạ sẽ ào ạt kéo theo vị thầy thuộc hàng siêu nhân của họ.
Như thế, thành công cuối cùng chẳng thuộc về Chúa, lại thuộc về ma quỷ, vì thực chất, ta theo Chúa, nhưng đàng sau đó, thực quyền lại chính là ma quỷ. Chỉ tưởng tượng, ta đã rùng mình. Vì trên danh nghĩa là theo Chúa, nhưng đúng hơn, ta cùng với Chúa nô lệ ma quỷ.
Nhưng đó chỉ là tưởng tượng. Qua cơn cám dỗ của mình, Chúa Kitô để lại cho ta tấm gương tuyên chiến với ma quỷ, quyết liệt chống trả cám dỗ. Chúa còn để lại bài học luôn sống Lời Chúa, biết đặt niềm tin vào Lời Chúa, lấy Lời Chúa làm nghị lực, làm sức mạnh vượt lên trên mọi cám dỗ, dẫu đó là những cám dỗ căn bản nhất của cuộc đời con người.
Rõ ràng, ma quỷ cám dỗ có chiến thuật. Nó không ồn ào, không làm giật mình, không gây “sốc”. Nó nhẹ nhàng, từng tí, từng tí một đi vào và thống trị dần từ sinh hoạt, cách hành xử, tương quan, đến suy nghĩ, não trạng, lối sống, nếp sống của con người.
Có thể nói, đường lối của nó đi từ… “dễ thương” này đến… “dễ thương” khác, khiến con người vừa không cảnh giác, vừa dễ hướng chiều theo nó.
Chính Đức Thánh Cha cũng từng chỉ ra sự “dễ thương” quỹ quyệt này của ma quỷ. Ngài nói: Ma quỷ rất ngọt ngào và quyến rũ. Nó xâm nhập vào linh hồn con người rất nhẹ nhàng: “gõ cửa, xin phép, bấm chuông, rất lịch sự”…
“Nó bước vào trong thinh lặng, bắt đầu trở thành một phần của đời sống. Với ý tưởng và những thúc đẩy của nó, nó giúp con người sống tốt hơn, và từ đó, bước vào đời sống, tận bên trong, bắt đầu thay đổi họ, nhưng âm thầm không gây ra tiếng ồn.
Ma quỷ từ từ thay đổi những tiêu chuẩn của chúng ta, đưa chúng ta đến tình trạng thế tục. Nó ngụy trang theo cách hành động của chúng ta và hầu như chúng ta không thể nhận ra điều đó” (bài giảng ngày 13.10.2016).
Để đối đầu cùng ma quỷ, người tín hữu cần quay về với nền tảng đạo đức của Hội Thánh.
– Như Chúa Kitô, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, áp dụng Lời Chúa vào đời sống để sống với Lời Chúa luôn luôn. – Siêng năng xét mình, xưng tội, quyết tâm chừa tội. Có đời sống nghiêm túc, biết tránh cám dỗ và lánh xa tội lỗi cũng như những con đường dẫn đến phạm tội. – Luôn kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúa sẽ là sức mạnh thần linh của đời sống chúng ta. – Luôn tìm cách nghĩ tốt, nói tốt, phản ứng tích cực trước mọi người, mọi hoàn cảnh. – Siêng năng tham dự thánh lễ, cầu nguyện, chầu Mình Thánh, lần chuỗi, nguyện tắt, thực thi bác ái, thực thi các việc lành thánh…
Rất nhiều phương thế thiêng liêng để ta áp dụng mà sống trong ân nghĩa của Chúa. Chỉ xin nêu vài nguyên tắc truyền thống của Hội Thánh, mong tất cả chúng ta có thể tránh xa và không bao giờ mắc bẫy sự “dễ thương” quỹ quyệt của ma quỷ.
Hy vọng chúng ta trở thành dễ thương thật trước mặt Chúa và trước mặt nhau…
Vô vàn cám dỗ phát xuất từ tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú… vây bọc quanh ta MC 1-ABC447
Vô vàn cám dỗ phát xuất từ tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú… vây bọc quanh ta và liên tục tấn công từ mọi phía.
Cám dỗ rất mạnh mẽ
Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua các giác quan.
Cám dỗ cũng ẩn sâu trong cõi lòng và tác động từ bên trong như tham lam, kiêu căng, giận hờn, ghen ghét…
Cám dỗ xô đẩy con người xuống vực sâu tội lỗi bằng hai lực: lực kéo và lực đẩy, vừa lôi kéo từ bên ngoài vừa thúc đẩy từ bên trong; vì thế, con người khó lòng chống cự nổi.
Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ mạnh mẽ có sức hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.
Cám dỗ rất đáng sợ
Cám dỗ có thể xui khiến con cái giết cha mẹ để chiếm đoạt tiền bạc, có thể khiến anh em một nhà chia rẽ xích mích vì tranh chấp đất đai tài sản, biến những công chức thanh liêm trở thành quan tham, thậm chí có thể biến những nhà tu hành thành người bất chính…
Cám dỗ có thể biến đổi người lương thiện trở thành những tên đạo tặc, cướp của giết người;
Cám dỗ có thể khiến nhiều tuổi thơ trong trắng sớm trở thành người hư hỏng sa đọa, biến người hiền lành trở nên độc ác…
Khủng khiếp nhất là cám dỗ có thể biến các lãnh tụ độc tài tham lam trở thành những tên xâm lược, sẵn sàng thí bỏ hàng triệu sinh mạng con người để củng cố quyền lực và xâm chiếm tài nguyên.
Cám dỗ không buông tha bất cứ ai
Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giê-su ngày xưa cũng bị cám dỗ ngồi bên tả, bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giê-su sắp chiếm lấy (Mc 10,37).
Ngay cả Chúa Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Ngài thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên “cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Do-thái 4,15).
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến ba cơn cám dỗ Chúa Giê-su phải chịu trong hoang địa. Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3).
Cám dỗ thứ hai là làm vua toàn thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giê-su làm vua (Gioan 6,15).
Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).
Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giê-su không bao giờ thua trận. Ngài chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang.
Tỉnh thức và cầu nguyện cho khỏi cơn cám dỗ
Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.
Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu đến cùng.
Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn… nên chúng ta phải luôn cầu nguyện xin Chúa giúp sức, không để cho mình ngã gục.
Lạy Chúa Giê-su, Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Chúa đã vận dụng lời Kinh thánh như một vũ khí lợi hại để chiến đấu và chiến thắng. Xin cho chúng con noi gương Chúa, siêng năng suy niệm Lời Chúa hằng ngày, để Lời Chúa trở nên vũ khí bảo vệ và che chở chúng con khi phải đối mặt với bao cám dỗ trong cuộc đời. Amen.
Hằng năm, cứ sau Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ I Mùa Chay MC 1-ABC448
Hằng năm, cứ sau Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ I Mùa Chay, những đoạn Tin Mừng Nhất Lãm tùy theo năm phụng vụ kể về những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa. Sở dĩ vậy là vì Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng, nếu Chúa Giêsu Con Thiên Chúa mà con bị cám dỗ, huống hồ người Kitô hữu chũng ta bước theo Chúa, khó hòng thoát khỏi những bẫy giăng của Tên Cám Dỗ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đối mặt với Tên Cám Dỗ và đã chống trả quyết liệt với vũ khí là ý Chúa Cha, Người đã đánh bại hắn, còn chúng ta thì sao?
Ma quỷ với mưu mô, có khả năng hành động trên chúng ta với những cám dỗ của nó nhằm lôi kéo chúng ta về phía hắn và tìm cách đánh bại ta khiến chúng ta bị án phạt đời đời. Để chiến thắng, chúng ta phải ăn chay, cầu nguyện, sám hối và giục lòng tin, để cùng với ơn Chúa, chúng ta sẽ chiến thắng.
Tuyên xưng niềm tin vào Chúa
Dân Israel, với những cám dỗ về củ hành củ tỏi, hồi tưởng và mơ ước sống lại kiếp thân nô lệ cho người Ai cập đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, xin Chúa ban ơn để có thêm nghị lực tiến bước trên hành trình về Đất Hứa, hay đúng hơn là được sống tự do làm con cái Chúa (x. Đnl 26,4-10). Dân thành Rôma, để được cứu rỗi thì cũng phải mở miệng cất lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Chúa và “tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại” (x, Rm 10,9). Nên dù Do thái và Hy lạp nếu cùng cầu khẩn, cùng tuyên xưng thì tất cả đều được cứu độ (x. Rm 8,13).
Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố “Chúa Giêsu…được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2). Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng dẫn đưa Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Lc 4,1-13). Chúng ta tin rằng, cũng chính Chúa Thánh Thần ấy hướng dẫn đời sống chúng ta. Chúng ta được mời gọi đương đầu với cuộc chiến đấu hằng ngày nhờ đức tin và ân sủng Chúa Kitô nâng đỡ.
Tên cám dỗ tìm cách kéo Chúa Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu để đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Chúa Giêsu và Satan đều trích dẫn Kinh Thánh. Thực ra, để kéo Chúa Giêsu ra khỏi con đường thập giá, quỷ đã bày ra trước mắt Chúa Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Ðấng Messia: sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ thành công ngoại mục, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan. Các chiêu ma quỷ dùng để cám dỗ Ađam và Evà (x. St 3,1-7), nó cũng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu và chúng ta ngày hôm nay nữa.
Ba chiến thuật tinh vi
Bốn mươi ngày chay tịnh, Chúa Giêsu không ăn uống gì, khi sắp hết thời gian ăn chay, Tên Cám Dỗ, Satan, đã xuất hiện với ba chiến thật tinh vi.
Chiến thuật thứ nhất là ham muốn thành công: Với lý luận xảo trá, Satan khởi đi từ những nhu cầu tự nhiên nuôi sống bản thân “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho đá này biến thành bánh” (Lc 4,3). Từ “nếu” của Satan gợi lên sự không tin như khi cám dỗ Ađam và Evà ( x. St 3,1-7). Chúa Giêsu có thể hoàn tất các phép lạ mà không cần Chúa Cha. Nhưng Chúa Giêsu đã không làm thế, Người trích dẫn sách Đệ Nhị Luật “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa” (Đnl 8,3). Người khẳng định làm mọi sự theo ý Chúa Cha.
Chiến thuật thứ hai là vinh quang trần thế: Satan chỉ cho Chúa Giêsu thấy vinh quang của nước thế gian và nói: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông! ” (Lc 4). Đâu có phải là của Satan mà nó nhận về nó, lại còn trao ban nữa. Đúng là chiêu trò ma quỷ, một khi quyền lực lên ngôi, tiền bạc và thành công bong bóng chế ngự đời ta, khiến ta tự phụ, Thiên Chúa không còn chỗ nhất để ta yêu mến và tôn thờ trên hết mọi sự trong lòng ta. Với chiêu cám dỗ này, Chúa Giêsu phán: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi” (Đnl 6,16).
Chiến thuật thứ ba là lợi dụng Thiên Chúa cho lợi ích của chính mình : Nó vừa nghe Chúa Giêsu trích dẫn Kinh Thánh, nó cũng làm như vậy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá ” (Tv 91,11). Điều này có nghĩa là bắt Thiên Chúa phải thực hiện ý Chúa Giêsu trong khi Chúa Giêsu luôn làm theo ý Chúa Cha.
Phương dược thắng Tên Cám Dỗ
Tên cám dỗ tìm cách kéo Chúa Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha. Cả Chúa Giêsu và Satan đều trích dẫn Kinh Thánh. Để chiến thắng Tên Cám Dỗ, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa, chắc chắn Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương chúng ta và ban ơn Thánh Thần để chúng ta chiến thằng. Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ cho chúng ta bí quyết: “Trong khi chịu cám dỗ, Chúa Giêsu không tham gia vào cuộc đối thoại với tên cám dỗ mà chỉ đáp trả thách thức bằng Lời Chúa. Ðiều này dạy chúng ta rằng với ma quỷ không đối thoại, chỉ trả lời nó với Lời Chúa” (x. PHANXICÔ, Kinh Truyền Tin, 10/03/2019). Tuyệt đối không thử sức với các chiêu trò của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết từ chối các điều xấu. Amen.
Cuộc đời là cuộc chiến – cuộc chiến thể lý (sinh tồn, sức khỏe) và cuộc chiến tinh thần (giằng co MC 1-ABC449
Cuộc đời là cuộc chiến – cuộc chiến thể lý (sinh tồn, sức khỏe) và cuộc chiến tinh thần (giằng co thiện – ác). Nói đến chiến tranh, người ta thường nghĩ ngay tới bạo động, bạo lực, gươm giáo, bom đạn, súng ống,... Trong thời gian này, thời sự nóng bỏng là cuộc chiến bùng nổ giữa Nga và Ukraine. Biết bao người vô tội đang phải chịu đau khổ!
Chiến tranh không chỉ là chém giết nhau mà còn các loại chiến tranh khác: Chiến tranh tâm lý, chiến tranh văn hóa, chiến tranh tư tưởng, chiến tranh chính trị, chiến tranh tâm linh, chiến tranh nội tâm, chiến tranh đói nghèo, chiến tranh giới tính, chiến tranh hôn nhân, chiến tranh gia đình, chiến tranh giai cấp, chiến tranh đảng phái, chiến tranh tôn giáo,... Loại chiến tranh nào cũng đáng sợ.
Chiến tranh có thể xảy ra giữa nước này với nước khác, vùng này với miền khác, nhóm này với phe khác, bộ tộc này với bộ tộc khác, người này với người khác, thậm chí là nội chiến và chiến tranh nội tâm trong mỗi con người – sự giằng co giữa thiện và ác: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm.” (Rm 7:15) Chiến tranh nội tâm thật là khủng khiếp!
Dữ dội, gay cấn và quyết liệt là cuộc chiến chống lại ba thù. Thế gian và ma quỷ thì thấy rõ, còn chính mình thì khó thấy hoặc không muốn thấy. Cái Tôi đáng sợ vì nó khiến chúng ta hóa Tồi, rồi thành Tội. Thật vậy, sách “Gương Chúa Giêsu” khuyên: “Con người nên chiến đấu thật nhiều với bản thân mình, lâu ngày mới có thể thắng được mình, đó cũng là đem tình yêu của mình hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa.”
Ăn chay và đền tội rất hữu ích, cả cho mình và cho người khác. Thánh Catherine Genoa cho biết: “Việc thanh luyện và hồi phục tình trạng tinh tấn nguyên tuyền cho linh hồn ngay ở đời này, để khỏi chịu luyện ngục ở đời sau, là một nhiệm vụ… Để có thể lập được công phúc bằng nhiều việc sám hối khắc nghiệt, linh hồn phải trải qua rất nhiều khốn khổ dữ dằn.” Mùa Chay là Luyện Hình trên thế gian, nên tận dụng khoảng thời gian này.
Thánh TS Teresa Avila xác định: “Mọi tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra.” Ngược lại, nếu có đức tin đúng đắn, người đó thật hạnh phúc, vì “chính đức tin hoàn thành tất cả mọi sự.” (Thánh Don Bosco) Đó là tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Ngài quan phòng theo sự tiền định của Ngài, và đó cũng chính là cách tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tâm linh cũng cần có lý trí, nếu tin mà không cân nhắc thì có thể bị mù quáng, tin lệch lạc, hóa thành mê tín dị đoan, thậm chí có nguy cơ phản đức tin.
Ngày xưa, sau khi tư tế nhận của lễ đầu mùa do dân Chúa tiến dâng và đem đặt trước bàn thờ Thiên Chúa, dân chúng cảm nhận: “Người Ai Cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Đức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập. Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con.” (Đnl 26:6-10)
Mặc dù đã có những lúc bất tín và nổi loạn, Thiên Chúa lại sẵn sàng tha thứ khi họ thành tâm sám hối. Và rồi Ngài còn ban cho những điều tốt lành rất bất ngờ ngoài mong ước của họ. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng thương xót bao la, mặc dù chúng ta hoàn toàn bất xứng đối với Ngài. (x. Ge 2:13; Ep 2:4)
Là phàm nhân yếu đuối, ai cũng đã có lúc thấy thất vọng nhiều thứ, thất vọng với cả chính mình, thậm chí có lúc muốn buông xuôi. Nhưng vấn đề quan trọng là không tuyệt vọng. (x. 2 Cr 4:8) Kinh Thánh minh định: “Dù cha mẹ có bỏ con thì vẫn còn Thiên Chúa đón nhận.” (Tv 26:10) Chắc chắn như vậy. Đối với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ.” (x. Mt 19:26; Lc 1:37; Mc 10:27)
Thiên Chúa muốn chúng ta hợp tác bằng cách thật lòng ăn năn thì mọi thứ sẽ êm xuôi: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hóa trắng như bông.” (Is 1:18) Nhiều vị thánh đã từng là tội nhân. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài.” (Tv 91:1-2)
Chắc chắn chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nơi nào an toàn vĩnh viễn ngoài Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long.” (Tv 91:10-13) Quan trọng hơn nữa là chính Thiên Chúa đã xác nhận: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại; lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên.” (Tv 91:14-15)
Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta nhiều thứ khác. Không bao giờ chúng ta có thể diễn tả đúng mức về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cho biết: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu độ.” (Rm 10:8-9)
Tốt hay xấu sẽ như cây kim trong bọc, có ngày nó sẽ lòi ra. Thời gian sẽ minh chứng tỏ ai như thế nào. Chúng ta giấu giếm với nhau mà còn khó, huống chi đối với Thiên Chúa, vì Ngài THẤU SUỐT mọi sự. (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6)
Niềm tin đó phải là niềm tin thật lòng, không thể giả vờ để “che mắt” thiên hạ. Thánh Phaolô nói: “Có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ. Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng. Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do Thái và người Hy Lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người. Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát.” (Rm 10:10-13) Niềm tin đó cũng luôn được tôi luyện qua cuộc sống thường nhật, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Giacôbê nói rằng “đức tin không có việc làm là đức tin chết,” (Gc 2:17 và 26) và “đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn.” (Gc 1:3)
Cuộc chiến có thật, không mơ hồ. Cuộc chiến liên lỉ hằng ngày, không lúc nào đình chiến. Một mình phải chiến đấu với ba thù: Ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Cuộc chiến cam go nhất là chiến đấu với xác thịt, người quen nhất – tức là đấu trí với chính mình. Thật vậy, Đại đế Napoléon từng chinh Nam phạt Bắc mà còn phải công nhận: “Chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.” Nhưng với ơn Chúa, mọi sự đều có thể.
Chúa Giêsu đã chiến thắng ma quỷ để làm gương cho chúng ta. Đó là chước cám dỗ, là cái bẫy mà ma quỷ “gài” để Ngài vào sập bẫy. Nhưng thụ tạo không thể đối đầu với Tạo Hóa, cái ác không thể tiêu diệt cái thiện.
Qua trình thuật Lc 4:1-13 (≈ Mt 4:1-11; Mc 1:12-13), Thánh Luca kể rằng Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, rồi Ngài từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, Ngài thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói đặt vấn đề với Ngài rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì biến hòn đá thành bánh. Nhưng Ngài nói thẳng: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống KHÔNG CHỈ nhờ cơm bánh.”
Đúng là… ma quỷ. Ranh mãnh hết sức! Thua keo này nó bày keo khác. Rồi nó đưa Đức Giêsu lên cao, nó chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ và nói nó sẽ cho Ngài toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho nó, và nó muốn cho ai tuỳ ý. Nó dụ Ngài bái lạy nó rồi nó cho Ngài tất cả. Đúng là “điếc không sợ súng” mà. Đức Giêsu nghiêm khắc: “Đã có lời chép rằng: Ngươi PHẢI BÁI LẠY Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và PHẢI THỜ PHƯỢNG một mình Người mà thôi.”
Vẫn thấy ấm ức, chưa tâm phục khẩu phục, nó lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi vênh vang tự đắc nói rằng nếu Ngài là Con Thiên Chúa thì đứng trên cao đó mà gieo mình xuống. Nó lý luận là có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ Ngài và sẽ đỡ nâng Ngài khỏi vấp chân vào đá. Thế nhưng Đức Giêsu lại nói ngay: “Đã có lời rằng: Ngươi CHỚ THỬ THÁCH Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”
Quỷ thua trắng Ba – Không. Hết cách xoay xở, hết đường cám dỗ. Nó đành lủi thủi bỏ đi vì không thể đấy trí với Chúa Giêsu, thế nhưng nó vẫn mưu tính để tìm thời cơ khác. Ma quỷ không bao giờ nghỉ ngơi, rất quỷ quyệt, nhưng quỷ quyệt thế nào cũng phải thua người chống trả quyết liệt!
Luôn có nhiều chước cám dỗ ở mọi nơi và mọi lúc, tập trung vào ba vấn đề chính: Vật chất, danh vọng, cái tôi. Vật chất liên quan tiền bạc và tài sản – miếng ăn có thể là vinh hay nhục, chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì người ta tranh giành miếng ăn; danh vọng liên quan chức quyền, địa vị – người ta rất thích khoe mẽ và thích “hành” người khác; cái tôi liên quan tự ái, thích được khen, ghét bị chê, nhưng “cái tôi là cái đáng ghét!” (Pascal)
Có loại bộ ba đáng quan tâm, cũng có loại bộ ba đáng sợ. Ba thù là loại đáng sợ. Nó như gọng kìm sắt kẹp chặt chúng ta, khiến chúng ta khó thoát. Thánh Maximus cảnh báo: “Ma quỷ đích thân đến cám dỗ chúng ta hoặc xui xiểm những người không có lòng kính sợ Thiên Chúa chống lại chúng ta. Chúng đích thân cám dỗ khi chúng ta rút vào những nơi xa cách với đời, vì chính Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ trong hoang mạc. Chúng dùng người khác để cám dỗ khi chúng ta giao tiếp với đời, như chúng đã từng cám dỗ Chúa Giêsu qua người biệt phái. Nhưng nếu chăm chú nhìn ngắm tấm gương Chúa Giêsu, chúng ta sẽ xua đuổi được ma quỷ trong từng trường hợp.”
Cũng nên lưu ý lời của Thánh Grêgôriô Cả: “Có ba tình trạng nơi những người đã được hoán cải: bậc đầu, bậc giữa, và bậc hoàn thiện. Ở bậc đầu, họ được cảm nghiệm sự hấp dẫn ngọt ngào, bậc giữa là những cuộc tranh đấu với chước cám dỗ, và bậc sau cùng là sự sung mãn trọn lành.”
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến tháng mọi mưu ma chước quỷ. Nhờ Thánh Thể và Lời Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi mọi bả phù vân, kiên tâm tín thác vào lòng thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Một hôm, thánh Ephrem (306-378) trải qua một giấc mơ kỳ lạ. Ngài thấy mình đi vào một thành MC 1-ABC450
Một hôm, thánh Ephrem (306-378) trải qua một giấc mơ kỳ lạ. Ngài thấy mình đi vào một thành phố dâm loạn. Trên cửa thành, có một con quỷ hình như đang ngủ. Lâu lâu nó mới nhướng mắt lên. Ra khỏi thành, thánh nhân qua một bãi sa mạc và gặp một vị ẩn sĩ bị rất nhiều tên quỷ vây đánh. Ngạc nhiên, thánh nhân nói với lũ quỷ: “Chúng bây không xấu hổ à? Ở đây chúng bây điên cuồng đánh phá một người; còn đằng kia, trong thành phố lớn, chỉ có một thằng đang ngủ gà ngủ gật”. Lũ quỷ đáp lại: “Trong thành phố đó, không có việc gì để làm; một đứa chúng tôi canh giữ cũng chẳng cần thiết nữa là. Trái lại ở đây, chúng tôi còn quá ít đấy, vì vị ẩn sĩ này đã gây cho chúng tôi nhiều tổn thất”.
Có thể nói đấy cũng là quang cảnh xảy ra nơi hoang địa, khi Đức Giê-su đi vào đó sau biến cố đổi đời ở sông Gio-đan, biến cố khiến Người được tấn phong làm ngôn sứ, được Thánh Thần tràn ngập! Nay bắt đầu sứ vụ, Người cảm thấy cần phải rút lui vào nơi hoang vắng, để cầu nguyện, suy nghĩ, chọn lựa các “phương tiện” sẽ sử dụng cho sự nghiệp mình. Không có công trình nhân loại lớn lao nào, cuộc sống thiêng liêng đích thực nào mà chẳng phát xuất từ những tháng ngày suy tư trong quạnh quẽ, thinh lặng nội tâm.
Theo Lu-ca, “cám dỗ” của Đức Giê-su kéo dài suốt 40 ngày lưu trú hoang địa. Thời gian cầu nguyện cũng là thời gian “thử thách”. Từ này nêu bật khía cạnh tích cực của cám dỗ. Khi dạy chúng ta cầu xin Thiên Chúa “chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”, Đức Giê-su không gợi ý với ta là sẽ thoát các cơn cám dỗ, song là thắng chúng, là chẳng bị sự dữ đè bẹp, thống trị. Người đã kinh nghiệm cách khắc khổ rằng thử thách hữu ích, vì có thể giúp tình yêu lớn lên: các cơn cám dỗ của riêng Người sắp làm nổi bật lòng Người “trung thành” với Thiên Chúa.
1. Cám dỗ thỏa mãn thân xác
Thử thách đầu tiên liên quan đến thể xác. Đức Giê-su khổ vì đói sau khi đã không ăn gì cả! Dạ dày cồn cào… đau đầu chóng mặt… Trong hầu hết các tôn giáo lớn đều có thói quen “chay tịnh” tự ý này. Nền văn minh hiện đại của chúng ta chắc hẳn là nền văn minh duy nhất trong lịch sử từ khước kinh nghiệm tôn giáo phổ quát đó. Phải thụ hưởng, người ta nói thế. Sao lại nhịn? Làm vậy có chắc cải thiện “chất lượng cuộc sống” không? Nhưng khi một con người thả cửa trong chuyện tính dục hay ăn uống, y có nguy cơ đánh mất một cái gì đó thiết yếu: sự “tự chủ”! Lúc ấy y trở thành một hữu thể nhu nhược, thiếu nghị lực, nô lệ các bản năng sơ đẳng nhất. Phần Đức Giê-su, Người cho ta ở đây hình ảnh một hữu thể mạnh mẽ, có khả năng từ bỏ chính mình, “ăn chay” tự ý.
“Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!” Cám dỗ cơn đói từng là cám dỗ dân Ít-ra-en trải qua trong hoang địa. Cám dỗ “no thỏa” nầy cũng là cám dỗ của mọi con người. Chúng ta đều biết rõ các ham muốn thể xác của mình. Tự thân chúng là tốt. Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta mà! Đó là bản năng sinh tồn và bản năng truyền sinh. Nhưng chúng có thể dễ trệch đường, trở thành những bạo chúa đòi hỏi (sống để ăn thay vì ăn để sống, tìm lạc thú tình dục bất chấp luân lý hôn nhân). Xã hội tiêu thụ bao quanh ta đang gia tăng quyền lực của chúng. Kỹ nghệ quảng cáo đang giới thiệu những gì thỏa mãn chúng, đôi khi cách trâng tráo sống sượng như khúc nhạc truyền hình này: “Hãy đến với (bia) Carlsberg, đem tin yêu hạnh phúc cho thế giới hôm nay. Hãy đến với Carlsberg, bao đắm say” (sic!).
Để chống trả, Đức Giê-su đáp lại: “Con người sống không chỉ nhờ cơm bánh”. “Con người”, đó là nỗi đam mê của Đức Giê-su! Người đã đến trong nhân tính để phát triển mọi giá trị, mọi chiều kích của con người. Hôm nay Người lặp lại với ta: hỡi con người, ngươi đâu chỉ sống nhờ bánh! Đừng giản lược ngươi xuống những mức độ sơ đẳng nhất của ngươi! Phải chăng ngươi chẳng có nhu cầu nào khác ngoài nhu cầu ăn uống, nhậu nhẹt, hưởng thụ?
2. Cám dỗ thi thố quyền lực
Trình thuật này hiển nhiên không phải là “thiên phóng sự” của một nhà báo đang mô tả hay quay phim một sự kiện. Đây là một trang thần học, tóm tắt và tổng hợp cách biểu tượng “mọi hình thức cám dỗ mà Đức Giê-su đã “thực sự” gặp phải suốt đời. Cám dỗ thứ hai này chẳng hạn, cám dỗ “quyền lực trần thế”, rõ ràng đã không ngừng tấn công Đức Giê-su. Người đã phải thường xuyên chống lại sức thu hút của “chủ nghĩa thiên sai trần thế” mà kẻ đương thời muốn lôi Người vào: một đấng Mê-si-a chính trị, một ông vua trần đời theo kiểu Đa-vít, cầm đầu phái Quá khích (Nhiệt thành, Zê-lốt) chống lại quân xâm lược Rô-ma, tái chinh phục “vinh quang” và “quyền lực” (x. Ga 6,15). Ngay từ ngày đầu trong hoang địa, và cho đến hơi thở cuối cùng, Đức Giê-su đã từ chối vương quyền này, để trở nên “Kẻ nghèo”, “Tôi tớ” (Ga 13,1-20). Cám dỗ “quyền lực” (thống trị, áp đặt, lợi dụng) này cũng là cám dỗ của ta. Nó phát xuất và là sự lệch lạc từ bản năng thứ 3 cũng do Thiên Chúa đặt vào trong ta, là bản năng thúc đẩy ta tìm sự công nhận của kẻ khác.
Trước các cuộc tấn công của Sa-tan, Đức Giê-su đáp trả ba lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3; 6,13; 6,16). Vì Người đang sống lại nơi bản thân mình những cám dỗ dân Ít-ra-en đã trải qua suốt “bốn mươi năm” trong hoang địa: cám dỗ đòi bánh ăn (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần (Xh 32) và cám dỗ yêu cầu phép lạ (Xh 17). Cám dỗ của Ít-ra-en, cám dỗ của Đức Giê-su, cám dỗ của toàn thể nhân loại, cám dỗ của chúng ta: đó là ngờ nghi Thiên Chúa vì Người chẳng chịu tỏ mình… và đặt niềm tín nhiệm vào những “thần khác”.
Không gì khác ngoài Thiên Chúa, Đức Giê-su đáp! Lạy Chúa Giê-su, con muốn theo Ngài từ khước tin tưởng và sùng bái lạc thú, tiền của, quyền lực, các “ý thức hệ chính trị”… để chỉ tôn thờ Thiên Chúa thôi. Trần thế không xấu xa, nhưng biến nó thành “tuyệt đối” là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giê-su là Đấng giải thoát ta khỏi các “thần giả” phỉnh gạt.
3. Cám dỗ ỷ lại Thiên Chúa
“Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống… Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ… tay đỡ tay nâng…”. Đây là cám dỗ lớn lao mà Đức Giê-su liên tục nếm trải suốt cuộc sống công khai của mình: “làm phép lạ đi… hãy ban một dấu chỉ trên trời… cho thấy ông là Thiên Chúa… hãy dùng quyền năng phép tắc để chứng minh ông quả là Đấng Mê-si-a được trông đợi… xuống khỏi thập giá coi nào!” (Lc 11,29; 11,6; 21,7; Ga 2,18; 6,30; 12,37; Mt 27,42-43). Chúng ta, cũng chẳng tiếp tục xin Thiên Chúa những điều ấy sao?
Lu-ca đã chuyển cám dỗ ở Giê-ru-sa-lem này qua vị trí thứ ba (vốn là thứ hai trong Mt), nhằm nêu bật một kiểu tiến triển. Vì chính tại Giê-ru-sa-lem mà Đức Giê-su sẽ chịu thử thách nặng nề nhất, chịu cơn cám dỗ nguy kịch nhất là ước mong thoát chết: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con” (Lc 22,42). Trong thực tế, Đức Giê-su đã chẳng được các thiên thần “bảo vệ”, chân Người đã lắm phen “vấp vào đá”. Vì Người chẳng bao giờ sử dụng thần lực để thoát gánh nặng khủng khiếp của “thân phận phù du”. Người đã từ khước các “phương tiện ly kỳ ngoạn mục” để thi hành sứ mệnh, song lại chọn những “phương tiện nghèo nàn”. Chính nhờ trọn vẹn vâng lời đến độ cảm thấy như bị “Cha bỏ rơi” (Mt 27,46) mà Người sẽ cho thấy mình chính là Con Một. Người sẽ được “cứu khỏi cái chết” nhờ cuộc Phục sinh, nhưng chỉ sau khi đã sống yêu thương “cho đến cùng”. Thành thử chúng ta chớ ngạc nhiên khi đến phiên mình cảm nghiệm cùng một cám dỗ bi thảm, cám dỗ lớn lao hơn hết, cám dỗ tưởng “Thiên Chúa bỏ rơi”, cám dỗ của chủ nghĩa vô thần: “Nếu có một Thiên Chúa tốt lành, tôi đã chẳng gặp thử thách như vậy!”
Nhưng Đức Giê-su thì nói: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Thử thách Thiên Chúa, buộc Người theo ý muốn của chúng ta, đó là việc chúng ta thường làm: “Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, nếu tôi thật là con của Ngài, thì Ngài phải cho tôi lành bệnh, phải cho tôi thi đậu, phải giải thoát tôi khỏi thử thách… nếu Chúa không thỏa mãn mọi điều kiện của tôi, tôi sẽ chẳng quan tâm đến Ngài nữa, Ngài chẳng còn hiện hữu đối với tôi nữa”. Ta biết lối đặt vấn đề như thế là nguyên nhân của phần lớn các cơn khủng hoảng tinh thần và của nhiều cuộc rời bỏ đức tin hiện nay.
Nhưng ta tin rằng Đức Giê-su, người đầu tiên chiến thắng cám dỗ ấy bằng cách vững chãi trung thành với Chúa Cha, dù phải chịu “đóng đinh thập tự”, hằng ở với ta luôn mãi.