Đoạn 3,16-18 đọc trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi (Năm A), hoặc đoạn 3,14-21 đọc vào CN IV MC: MC4-B51
Đoạn 3,16-18 đọc trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi (Năm A), hoặc đoạn 3,14-21 đọc vào CN IV MC (Năm B) nằm trong một phân đoạn lớn từ 2,1 đến 4,54, có thể gọi là “Các dấu lạ đầu tiên của Đức Giêsu và các cuộc gặp gỡ (từ Cana đến Cana)”. Cách phân chia này được hỗ trợ bởi cấu trúc và ngữ học (nhưng chúng ta không xét đến ở đây).
A (2,1-12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (Chuyển tiếp: 2,12)
B (2,13-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thọai với người Do-thái về Đền Thờ mới (Các câu-làm-cầu: 2,23-25) +
C (2,23–3,21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22–4,3 +): Đối thoại của Gioan TG với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Các câu-làm-cầu: 4,1-3) +
B’(4,1-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật (Chuyển tiếp: 4,43-45)
A’(4,43-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua.
Chúng ta thử xác định cấu trúc tổng quát của phân đoạn 2,23–3,21. Truyện Đức Giêsu thanh tẩy Đền Thờ (2,13-22) và cuộc đối thoại của Người với Nicôđêmô (3,1-21) được liên kết với nhau nhờ các câu-làm-cầu (2,23-25).
Nay chúng ta lại xác định cấu trúc của đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của 3,14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài.
1. Phân đoạn 1 (3,2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (3,9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.
- 3,9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) 3,11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) 3,16-21: Tin vào Đức Giêsu là cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Chúng ta có thể theo cách nhìn của R.E. Brown mà cho rằng, tác giả Tin Mừng đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra sơ đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Ít-ra-en, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
II. Vài điỂm chú giẢi
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapan ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapan được diễn tà ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didonai không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidonai, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didonai ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellein này song song với “ban” ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Tác giả Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempein (26 lần) và apostellein (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong TM IV thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
III. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích rửa tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tranh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu đóng đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng chịu đóng đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Thiên Chúa, làm quà tặng.
* Tin vào Đức Giêsu là cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong nguy hiểm: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Ngài. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vể hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta không làm theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không quan tâm nghiêm túc đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Bởi vì chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ngược lại, ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mấy trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
IV.- GỢi ý suy niỆm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Người sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Người Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho chúng ta từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
Chúng ta suy ngẫm một đoạn bài giảng của thánh Antôn Pađôva: “Chúa Cha đã gửi Con của Ngài đến với chúng ta, là “ân ban tuyệt vời, ân ban hoàn hảo” (Ga 1,17). Ân ban tuyệt vời, không gì có thể vượt qua; ân ban hoàn hảo, ta không thể thêm gì vào nữa. Chúa Kitô là ân ban tuyệt vời bởi vì Đấng mà Chúa Cha ban cho chúng ta như thế là Con Ngài, tối cao, vĩnh cửu như Ngài. Chúa Kitô là ân ban hoàn hảo; như thánh Phaolô đã nói, “Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32)… Ngài đã ban cho chúng ta Đấng là “đầu Hội Thánh” (Ep 5,23). Ngài đã không thể nào ban thêm gì nữa cho chúng ta. Chúa Kitô là ân ban hoàn hảo bởi vì, khi ban Người cho chúng ta, Chúa Cha đã nhờ Người mà đưa mọi sự tới mức hoàn hảo.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
- Lm Carôlô Hồ Bạc Xái "Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc..." (Ga 3,14)
I. DẪn vào Thánh lỄ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải: MC4-B52
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
II. GỢi ý sám hỐi
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa. Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em. Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. LỜi Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày: vì dân Do Thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương. 2. Ðáp ca: Tv 136
Ðây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày: buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Bài đọc II: Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói "Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót". Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Ðức Giêsu Kitô.
4. Tin Mừng: Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô. Ðức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Ðức Giêsu còn khẳng định: "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
IV. GỢi ý giẢng
* 1. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi..."
Ðể giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Ðức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài:
Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Ðất hứa.
Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Ðức Giêsu kết luận: "Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, Do Thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát "giận thì giận mà thương thì thương". Ðiều này càng đúng với Thiên Chúa.
Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất "giận" (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả "của con người"). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Ðấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất "giận" nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã "ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh" (St 4,15).
Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy: luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Ðức Giêsu nói: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" ; "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý: "Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ"
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ "bị Chúa phạt". Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Ðức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người Do Thái lên án, nhưng phần Ðức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như: người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 "Tội của chị đã được tha rồi"), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Ðức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần:
Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Ðức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo Do Thái muốn giết Ðức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7,51)
Lần thứ ba là lúc táng xác Ðức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Ðức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật: "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Ðức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết: "Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng"
5. Nỗi buồn thánh
"Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion". Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân Do Thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Ðó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Ðó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
****
Ðức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Ðức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Ðức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Ðức Giêsu đã từng nói: "Ðức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Ðức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Ðức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Ðức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc. Ðức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm. Ðức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜi nguyỆn cho mỌi ngưỜi
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Ðức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Ðức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Chủ đề: "Đức Giêsu là mạch sống của người tín hữu khi hành trình gian truân từ dương thế về đến cõi trời."
Kitô giáo thời sơ khai có những người trở lại từ Do Thái giáo, là những người vốn vẫn trông: MC4-B53
Kitô giáo thời sơ khai có những người trở lại từ Do Thái giáo, là những người vốn vẫn trông đợi Đấng Mesia tới. Một trong những công việc của các nhà rao giảng Kitô giáo là cắt nghĩa cho những người Do Thái ấy Cựu Ước đã nhắm nói về Đức Giêsu như thế nào.
Họ đã thực hiện công việc ấy bằng cách chứng tỏ rằng những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu Ước đều là những hình bóng của những nhân vật chính yếu và của những biến cố then chốt trong Tân Ước.
Chẳng hạn họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào: Isaac là con trai độc nhất, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac bị dâng làm hy lễ, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Chúa Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu Ước và Tân Ước.Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, Ngài đã so sánh giữa Adam và Chúa Giêsu Ngài viết: “Con người đầu tiên là Adam, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adam sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống… Adam thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra…còn Adam thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời”(1Cr.15,45-49)
***
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn đưa ra một cặp song đôi khác giữa Cựu Ước và Tân Ước. Ngài nói:
“Môisê đã treo con rắn đồng lên trụ cột nơi hoang mạc, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả kẻ tin vào Ngài sẽ được sống vĩnh cửu”
Chúa Giêsu đang hình dung nơi tâm trí Ngài biến cố xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân số mô tả. Biến cố này thuật lại sự kiện dân Israel đang gay gắt phàn nàn Thiên Chúa và Môise về những khó khăn họ gặp phải nơi hoang mạc. Vì lời kêu ca phàn nàn ấy, lũ rắn đã xuất hiện và tấn công dân chúng. Thấy sự việc này xảy ra, đám dân khóc lóc với Môisê.
“Chúng tôi đã phạm tội vì đã nói lời phản nghịch với Chúa và với Ngài. Giờ đây xin Ngài hãy cầu xin Chúa xua đuổi lũ rắn này đi”.
Vì thế, Môisê đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền cho Môisê đúc một con rắn bằng kim loại và treo nó lên một chiếc trụ, để cho bất cứ ai bị rắn cắn cứ nhìn vào con rắn ấy thì sẽ được chữa lành. Vì thế, Môisê đã đúc một con rắn đồng và treo nó lên một cái cột. Bất cứ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì đều được chữa lành” (Ds 21: 7-9). (Y khoa đã chọn hình ảnh con rắn cuộn tròn quanh cây trụ làm biểu tượng cho nghề chữa bệnh.)
Đức Giêsu đã so sánh biến cố Cựu Ước này với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá tại đồi Canvê.
Ngài giải thích rằng bất kỳ ai tin tưởng nhìn lên Ngài thì sẽ được chữa lành về mặt tâm linh, cũng như dân Do Thái đã được chữa lành khi ngước nhìn lên con rắn cuộn vòng quanh cây trụ.
Trong câu 16 của bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cũng ám chỉ hình bóng đó khi nói về việc Đức Kitô bị tử hình trên thập giá. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời” (Ga 3: 16)
Và câu 17 viết tiếp:
“Thiên Chúa đã không sai con Ngài đến thế gian để luận phạt, mà là để cứu độ” (Ga 3: 17)
Hai câu này, nằm trong chương ba của Phúc Âm thánh Gioan, được gọi là bản tóm tắt Kinh Thánh chúng ta hãy nghe lại lần nữa.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài ngõ hầu tất cả những ai tin vào Con Ngài, sẽ không phải chết nhưng được sống lại đời đời. Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến thế gian để luận phạt mà để cứu độ”.
Cách đây ít năm, rất nhiều người đọc Kinh Thánh gán cho hai câu ấy một ý nghĩa hết sức đặc biệt (câu Ga 3: 16-17). Anh chị em hãy nhớ lại thời kỳ thế giới bắt đầu có những chương trình phi hành không gian, các kỹ sư điều nghiên không gian đã thiết kế những bộ quần áo đặc biệt dành cho các phi hành gia trong phi thuyền điều hành và phi thuyền đổ bộ mặt trăng. Bản thiết kế của mỗi bộ quần áo đó có một phần dành cho việc thiết kế sợi dây cung cấp dưỡng khí, gồm một ống dài có khả năng co giãn được. Mục đích của sợi dây này là cung cấp khí Oxy cho các phi hành gia khi họ di chuyển trong không gian, hay đi từ phi thuyền này sang phi thuyền khác. Sợi dây cung cấp dưỡng khí cho phi hành gia điều hành được nối với một bình tiếp nạp nằm trong bộ y phục, bình này được gọi là J3:16. Còn bình tiếp nạp nằm trong bộ y phục của phi hành gia đổ bộ mặt trăng được gọi là J 3:17
Nhà thiết kế Frank Denton nói rằng ông đã đặt tên cho hai bình tiếp nạp trong bộ y phục ấy dựa theo hai câu Tin Mừng Ga 3, 16 và 3, 17.
Ông đã lập luận cho việc đặt tên ấy như sau; Bình tiếp nạp J. 3, 16 và J.3, 17 cung cấp cho các phi hành gia những gì họ cần để tồn tại trong hành trình di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia trong không gian. Tương tự như thế, hai câu Tin Mừng Ga 3, 16 và Ga 3, 17 cũng cung cấp cho chúng ta những gì chúng ta cần để tồn tại trong cuộc hành trình di chuyển từ dương thế về quê trời của chúng ta.
Bài Phúc Âm này hôm nay vì thế thực là phong phú ý nghĩa. Trước hết, nó chứa đựng bản tóm lược tuyệt hảo của toàn bộ Kinh Thánh, thứ đến, nó cho chúng ta thấy bức minh hoạ tuyệt vời về sự tương hợp giữa Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước. Và sau hết, nó chứng tỏ cho thấy Chúa Giêsu là mạch sống của chúng ta trong hành trình từ dương thế về quê trời, tựa như dây cung cấp dưỡng khí là mạch sống cho các nhà du hành vũ trụ khi họ di chuyển từ trạm này qua trạm kia.
Nói cách khác, dây chuyền dưỡng khí cung cấp cho các phi hành gia khí oxy cần thiết cho sự sống thế nào, thì Đức Giêsu cũng cấp cho chúng ta ân sủng ban sức sống như thế.
Để kết thúc, chúng ta hãy nhớ lại những lời của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay. Những lời này đưa chúng ta đến đỉnh cao thích hợp với những gì chúng ta đã bàn đến. Ngài nói: “Chính nhờ ân sủng Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi. Khi chúng ta kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được sống lại cùng với Con Ngài và cùng người Con ấy cai trị thiên giới…chính nhờ ơn sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi qua đức tin chẳng phải do kết quả những nỗ lực riêng của anh chị em mà do ân huệ của Thiên Chúa… Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được như hiện nay”.
Đức Giêsu là Ánh Sáng thế gian cho thấy kẻ mù được sáng kẻ sáng bị mù. Chương Ga 9 đúng: MC4-B54
Ðức Giêsu là Ánh Sáng thế gian cho thấy kẻ mù được sáng kẻ sáng bị mù. Chương Ga 9 đúng là một chương đầy kịch tính, hần như được viết để có thể diễn ngay trên sân khấu. Trong thánh lễ chủ
Ðức Giêsu là Ánh Sáng thế gian cho thấy kẻ mù được sáng kẻ sáng bị mù.
Chương Ga 9 đúng là một chương đầy kịch tính, hần như được viết để có thể diễn ngay trên sân khấu. Trong thánh lễ chủ tế có thể đọc phần Ðức Giêsu, trong khi giáo dân được phân công để đọc các vai khác như sau:
Cảnh 1:
Các môn đệ: Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?"
Ðức Giêsu: Ðức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian".
Nói xong, Ðức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa (Silôác có nghĩa là: người được sai phái).
Người mù: Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
Cảnh 2:
Hàng xóm 1: Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?"
Hàng xóm 2: Có người nói: "Chính hắn đó!"
Hàng xóm 3: Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!"
Người mù: Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!"
Hàng xóm 1 2 3: Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?"
Người mù: Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa'. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được".
Hàng xóm 1 2 3: Họ lại hỏi anh: "Ông ấy ở đâu?"
Người mù: Anh ta đáp: "Tôi không biết".
Cảnh 3:
Pharisêu 1: Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Ðức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được.
Người mù: Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy".
Pharisêu 2: Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát".
Pharisêu 3: Kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?"
Pharisêu 1: Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù.
Pharisêu 1 2 3: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?"
Người mù: Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
Cảnh 4:
Nhà chức trách 1: Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến.
Nhà chức trách 2: Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?"
Cha mẹ 1: Cha mẹ anh đáp:
Cha mẹ 2: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được."
Cha mẹ 1: Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy, người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói:
Cha mẹ 2: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
Cảnh 5
Nhà chức trách 1: Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi".
Người mù: Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!"
Nhà chức trách 2: Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?"
Người mù: Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?"
Nhà chức trách 2: Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông ấy ở đâu mà đến".
Người mù: Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì".
Nhà chức trách 1: Họ đối lại:
Nhà chức trách 2: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?"
Nhà chức trách 1 2 3: Rồi họ trục xuất anh.
Cảnh 6:
Ðức Giêsu: Ðức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?"
Người mù: Anh đáp: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?"
Ðức Giêsu: Ðức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây".
Người mù: Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
Ðức Giêsu: Ðức Giêsu nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"
Pharisêu 1: Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Ðức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng:
Pharisêu 1 2 3: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?"
Ðức Giêsu: Ðức Giêsu bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!"
II.GỢi ý đỂ sỐng và chia sẺ Tin MỪng
Ðức Giêsu là ánh sáng thế gian.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ðức Giêsu là ánh sáng thế gian. Trước đó Người đã từng được nhìn nhận là Ðấng mang lại cho thế giới những điều mới mẻ (Ga 2,1-4.42), là Ðấng có lời ban sự sống (4,43-5,47), Ðấng là Bánh ban sự sống (6,1-71), Ðấng mà căn tính bị đặt thành vấn đề (7,1-8,59).
Ðiều trái ngược trong Tin Mừng hôm nay là chính người mù từng ngồi nơi vệ đường đứng ra chứng minh cho giới lãnh đạo Do thái giáo biết Ðức Giêsu là Aùnh Sáng soi cho thế giới!
Ðề tài Ðức Giêsu là Ánh Sáng thế gian trong bài Tin Mừng hôm nay còn được nối dài trong bài Tin Mừng về Ðức Giêsu là mục tử tốt lành (10,1-21) và về lễ Cung Hiến Ðền Thờ (10, 22-42).
Riêng về bài Tin Mừng hôm nay gồm sáu cảnh nối tiếp nhau, qua đó nhiều nhân vật xuất hiện với tư cách riêng. Nổi bật nhất là nhân vật người mù từng ngồi ăn xin nơi vệ đường: Ðó là con người thông minh và can đảm, dám một mình đứng biện hộ cho Ðấng anh tin là một ngôn sứ (c.17).
Bài Tin Mừng hôm nay xem ra là một đề tài giáo huấn cho người chuẩn bị để chịu phép rửa. Người đứng lớp dễ dàng khai thác sự kiện người mù từ khi sinh ra, đến hồ nước Silôam, tức là hồ nước của người được phái đến, để rửa. Anh ta rửa thì được sáng mắt! Người được phái đến trong Tin Mừng thứ bốn rõ ràng chỉ về Ðức Giêsu. Người mù về thể xác gợi ý cho thấy tình trạng mù thiêng liêng từ khi mới sinh. Ðó là tình trạng của người đang được chuẩn bị để chịu phép rửa. Người được mời lãnh nhận bí tích Rửa tội nơi hồ nước là chính Ðức Giêsu, thì sẽ được sáng mắt về đàng linh hồn.
Tuần tự khám phá ra ánh sáng soi chiếu cuộc đời
Người dạy lớp chuẩn bị để chịu bí tích Rửa tội, còn có thể khai thác khía cạnh khối lượng hiểu biết về đức tin cần được tuần tự gia tăng đối với người dự lớp, như người mù được Ðức Giêsu chữa lành từ từ nhận ra Người là ai. Ban đầu người đó chỉ biết sơ sài đó là người có tên Giêsu (c.11) đã cho anh được sáng mắt. Sau này anh mới nhận ra Người là một ngôn sứ (c.17), hơn nữa còn là Người từ Thiên Chúa mà đến (c.33) và quan trọng hơn, đó chính là Con Người (c.35) mà quyền năng được hiểu ngầm là rất lớn lao như ngôn sứ Ðanien chương 7 loan báo.
Tóm lại, Ðức Giêsu là ánh sáng thế gian là đề tài rất phong phú đối với tất cả những ai tìm đến với Người để được soi sáng về đức tin.
III. MỘt sỐ câu hỎi gỢi ý
Bạn tâm đắc gì về hoàn cảnh nhân vật từng là người mù ăn xin nơi vệ đường được Ðức Giêsu chữa cho sáng mắt? Hoàn cảnh của bạn là người đã chịu phép rửa có gì tương tự chăng?
Bạn nghĩ gì về việc bạn gia tăng sự hiểu biết về đức tin qua cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa hàng tuần? Bạn có thể phần nào hãnh diện về việc bạn không ngừng khám phá ra Ðức Giêsu là Aùnh Sáng cho thế gian chăng?
Thường con người muốn dễ dãi hơn muốn khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh: MC4-B55
Thường con người muốn dễ dãi hơn muốn khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh thang hơn đi trên những con đường hẹp, muốn bóng tối hơn là thích ánh sáng chói chan! Sống thỏa hiệp, sống buông thả để được những cái lợi, cái sung sướng trước mắt là thảm kịch sống của con người:” Ánh sáng đã đến thế gian, những người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa “ ( Ga 3, 19 ). Cái nghịch lý của con người như thánh Phaolô nói:” Có những điều muốn làm tôi lại không, mà có những điều tôi không muốn làm tôi lại làm “.
TẠI SAO CON NGƯỜI LẠI THÍCH SỐNG CÁI NGHỊCH LÝ Đường hẹp và vác thập giá thì ít ai muốn đi, muốn thực hiện.Con người thường thích bóng tối, thích đồng lão với tội lỗi vì tội lỗi thì buông thả, dễ dãi và đường rộng thênh thang.Theo Chúa, Ngài khuyên nhủ:” Vác thập giá mỗi ngày mà theo Ngài “.Lời mời gọi này của Chúa Giêsu quả thực không phải ai cũng hiểu được và không phải ai cũng ưa thích.Bởi vì, có ai thích cái khó bao giờ. Nhưng tin vào Chúa đòi hỏi phải kiên vững, đòi hỏi phải vươn lên mãi. Chúa là ánh sáng. Con người chỉ có thể tới với ánh sáng nếu họ biết từ bỏ, biết đẩy xa bóng tối là dính bén tội lỗi dù rằng tội đó là nhỏ nhặt, dù rằng đó chỉ là những tật xấu thường tình. Do đó, để tìm được ánh sáng, con người cần thay đổi cuộc sống, cần đổi mới để tin vào Chúa hơn. Con người không được chạy trốn ánh sáng như Ađam và Eva, như Cain sau khi đã giết em mình là Abêlê.Ánh sáng sẽ phơi bầy trần trụi con người mình để mình cảm thấy cần ơn Chúa, cần chính Chúa.
CÓ CÁCH ĐỂ CHÚNG TA RA KHỎI BÓNG TỐI:
Chúa Giêsu đã bộc lộ cho nhân loại một con đường duy nhất:” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời “( Ga 3, 16 ). Dân Do Thái khi xưa trong sa mạc kêu trách Chúa, nên họ bị rắn độc cắn chết. Môsê van nài Chúa và một con rắn được đúc bằng đồng được treo lên, ai nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát. Ngày nay, chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu.” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Ai tin tưởng nhìn lên thập giá với lòng yêu thương, khiêm nhường sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Thập giá là nơi qui tụ con người và là nơi tưới đổ hồng ân cứu rỗi xuống cho muôn dân. Thập giá là tột cùng của tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã từng nói:” Đức tin của con đã cứu chữa con “ ( Mc 10, 52 ).
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Chúa đã chết vì yêu thương và cứu độ chúng ta. Thập giá là cây tình thương, là quả phúc đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Do đó, chúng ta phải làm cho đức tin tỏa sáng, đức tin trong sáng. Đức tin mang lại niềm vui và nụ cười cho mọi người. Cuộc đời này quả có nhiều đau khổ nhưng so sánh với sự đau khổ của Chúa Giêsu thì đau khổ của chúng ta chưa thấm vào đâu. Chúng ta hãy làm cho những việc làm của chúng ta tỏa sáng để nhiều người nhận ra tình thương vô biên của Chúa. Bởi vì, chỉ nơi thập giá mới có ơn cứu độ.
Lạy Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết làm tỏa sáng đức tin của chúng con bằng những việc bác ái tốt đẹp.
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa: MC4-B56
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì tình yêu, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài. 2Sb 36: 14-16, 19-22
Bài đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm của Lịch Sử.
Ep 2: 4-10
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô gợi lên rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki tô.
Ga 3: 14-21
Trong đoạn trích Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su khẳng định rằng: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời".
BÀI ĐỌC I 2Sb 36: 14-16, 19-22
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử của dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên).
Bài đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích nầy nhắc nhở cho chúng ta những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã sống vào năm 587 khủng khiếp trước Công Nguyên: Đền Thờ và kinh thành bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.
1. Tội của dân Ngài:
Tác giả đã viết lại những biến cố nầy một thời gian rất lâu sau nầy vào cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba sau Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi sự trung thành hay bất trung của dân Chúa chọn đối với Thiên Chúa.
Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Sự trừng phạt không thể nào tránh khỏi; nhưng tác giả cho thấy làm thế nào Thiên Chúa "đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng" trước khi trừng phạt dân Ngài.
"Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ". Ở những lời nầy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên, nhưng được ám chỉ rất rõ. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a thành từng mảnh, và các chức sắc tư tế đã nhục mạ ông, tống giam ông, vân vân. Còn ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa đã cảnh báo ông: "Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta" (Ed 2: 3). Lúc đó, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên dân.
2. Ơn tha thứ của Thiên Chúa:
Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã tuyên sấm rằng cuộc lưu đày sẽ kéo dài bảy mươi năm. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng căn bản của tác giả hai sách Sử Biên nầy. Trước tiên, sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ được tường thuật trong sách Ét-ra tiếp theo sau. Quả thật, phần cuối của đoạn trích nầy là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.
Chúng ta lưu ý rằng tác giả hoàn toàn chú ý đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa "làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem". Nếu Ngài sai phái các sứ giả của Ngài, chính "vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự". Hành vi đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi thử thách qua đi, vua Ba-tư, Ki-rô, tuyên bố "xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem".
Mầu nhiệm của Đền Thờ làm phấn chấn tác giả của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của ông, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín: khởi đi từ cuộc sống của một dân tộc đến việc thiết lập một vương quốc Thiên Chúa. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả, vừa sử gia vừa thần học gia, của hai sách Sử Biên muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II Ep 2: 4-10
Thánh Phao-lô viết bức thư nầy từ Rô-ma ở đó thánh nhân bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra thánh nhân viết bức thư nầy không chỉ cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được lưu hành đến các Giáo Đoàn miền Tiểu Á.
Bức thư nầy biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của vị sứ đồ. Thư là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng và nghiêm túc.
Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là: ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki tô. Dù đoạn trích nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
1. Quyền Tối Thượng của Chúa Cha.
Chính luôn luôn ở nơi Chúa Cha mà thánh Phao-lô quy chiếu công trình cứu độ và lòng cảm tạ tri ân. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư nầy ở đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha giàu lòng xót thương và rất mực yêu thương chúng ta, Đấng đã biểu lộ tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki tô, Đấng đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô trên cõi trời, Đấng đã tõ cho chúng ta thấy ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…
2. Chúa Cha Giàu lòng xót thương.
Diễn ngữ: "Giàu lòng xót thương" đã trở thành chủ đề cho thông điệp của cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị, và đó cũng là nhan đề của bức thông điệp nầy: "Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương". Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng lòng xót thương có nghĩa "quyền năng đặc thù của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi". Chính lòng thương xót của Thiên Chúa là từ then chốt của ý định cứu độ của Ngài, vì chướng ngại phải vượt qua là tội lỗi của con người. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương của Thiên Chúa, chính là Đức Giê-su Ki tô, nhờ Ngài con người "chết vì phạm tội" cũng được sống lại với Ngài. Với vài lời, thánh nhân diễn tả chính xác thành quả mà ơn Cứu Chuộc đem đến: khả năng gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.
3. Cuộc sống tương lai:
Còn hơn một bản văn, đoạn trích hôm nay là một bài chiêm niệm. Ở đây cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả ở thì hiện tại niềm hy vọng tương lai của các Ki tô hữu: "cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời". Ân huệ dồi dào phong phú của Người sẽ được "tỏ cho các thế hệ mai sau", nghĩa là một sự liên tục bất tận không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư tưởng sâu xa nhất của thánh nhân trong những suy niệm của những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã chiêm niệm trong những giây phút xuất thần "cho đến tầng trời thứ bảy" ? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết sắp đến gần của mình? Hay đơn giản hơn, đây không phải niềm xác tín thần học của vị sứ đồ, niềm xác tín đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống đầy ân sủng, chính là khởi sự của cõi đời đời rồi.
4. Đức tin, việc làm và ân sủng.
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào xứng đáng với ơn cứu độ nầy. Ơn cứu độ của chúng ta chính là ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh những sắc thái ngữ nghĩa, việc làm của chúng ta tác sinh hiệu quả vì Đức Ki tô làm cho sống; chính nhờ trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta có thể thực sự là tốt và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki tô, Đấng trung gian duy nhất, chúng ta mới có thể được có giá trị và được sống đời đời, tóm lại đó là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.
TIN MỪNG Ga 3: 14-21
Đoạn Tin Mừng Gio-an hôm nay được trích từ phần cuối của cuộc trò chuyện giữa Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do thái, thuộc nhóm Biệt Phái, đến gặp Ngài ban đêm.
1. Bối cảnh:
Với đoạn trích nầy, cuộc nói chuyện không còn hình thức của cuộc đối thoại nữa, nhân vật Ni-cô-đê-mô không còn xuất hiện nữa. Diễn từ của Đức Giê-su ngỏ lời ở bên kia người biệt phái thiện cảm nầy, đến với tất cả những ai có cùng một sự lựa chọn phải làm: "tin hay không tin", chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của "phiên tòa" lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ vụ án xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.
2. Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Những dòng nầy gợi lên rất mạnh tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con. Giáo hội nhận ra ở nơi "tình yêu của Cha và Con" tuôn tràn cho tất cả mọi người nầy cách thế diễn tả Chúa Thánh Thần, Đấng "nhiệm xuất từ Cha và Con", Đấng chuyển thông và lan tỏa cuộc sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi.
3. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa:
Ơn cứu độ nghĩa là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào của sống của chính Thiên Chúa. Ơn cứu độ này được dâng hiến cho con người nhưng phụ thuộc vào câu trả lời của họ. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đức tin và sự từ chối. Phần sau cùng nầy cô đọng Thần Học Gio-an.
Trong hậu cảnh ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki tô: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng". Nhưng sự chọn được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy đức tin không phải là một điều dể dàng, việc ông Ni-cô-đê-mô ngần ngại là một bằng chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gio-an, có một khía cạnh lạc quan hay đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: "Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng".
Cuối cùng, một chủ đề khác của thần học Gio-an: Đức Giê-su đã đến chỉ như Đấng Cứu Độ chứ không một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết ở nơi Đức Giê-su Con Một của Thiên Chúa.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân: MC4-B57
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
2. Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
3. Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
4. Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
II. TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
1. Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết:”Con người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống... Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
2. Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
3. Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng ? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái: Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng (4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
III. HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
1. Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện: máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
2. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại:”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
Hôm nay Tin mừng tường thuật cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu với ông Nicôđêmô; và Ðức MC4-B58
Hôm nay Tin mừng tường thuật cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu với ông Nicôđêmô; và Ðức Giêsu khẳng định chỉ có Ơn Cứu Ðộ nơi Con Một Thiên Chúa, Ðấng chịu treo trên thập giá, và là nguồn sống cho nhân loại. Cuộc đối thoại nhắc lại thời kỳ dân Do Thái lưu lạc trong sa mạc; họ kêu trách Chúa và Môsê; rồi rắn bò ra cắn chết nhiều người. Nhưng nhờ Môsê can thiệp, Thiên Chúa đã chữa lành Dân nhờ một biểu tượng: con rắn đồng được treo lên.
Nhưng "con rắn đồng" và việc chữa lành rắn cắn chỉ là hình bóng ám chỉ Ơn Cứu Ðộ thực sự cho tất cả nhân loại đang bị đè bẹp dưới ách tội lỗi: Ðức Giêsu chịu treo lên thập giá, ai tin tưởng nơi Ngài sẽ được cứu độ.
"Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", câu kinh quen thuộc đó biểu lộ tình trạng tội lỗi của chúng ta trước Thiên Chúa và cộng đoàn. Thật vậy, chúng ta là những người tội lỗi "trong tư tưởng, lời nói, và việc làm", và hơn thế nữa, trong "những điều thiếu sót", tức là những điều chúng ta phải làm nhưng lại chưa làm hay không làm để xây dựng cuộc sống nhân loại tốt đẹp hơn. Từ ngày Adam Eva phạm tội, con rắn cám dỗ vẫn chạy quanh khắp nơi, rình cắn mọi người, con rắn của ích kỷ, tham lam, dục vọng, hờn giận, oán ghét .... Vâng, ta thấy có đủ mọi hình thức, mọi tình trạng của "bệnh tật" phát sinh từ con rắn tội lỗi ấy. Mỗi người chúng ta có thể nghiệm thấy sự hoành hành của tội lỗi trong con người mình.
May thay, chúng ta không chết, chết vì thất vọng, chết vì đánh mất tính người; bởi vì có nguồn sự sống tuôn trào tự thập giá và Phục sinh của Ðức Kitô, Ðấng cứu độ chúng ta; tình yêu của Người giúp ta vượt thắng ích kỷ, oán hờn; sức sống của Người giúp chúng ta vượt qua dục vọng, yếu đuối... Chỉ có Người là thầy thuốc chữa lành "bệnh tật tâm hồn" của chúng ta, miễn là chúng ta biết nhìn lên Người, tin tưởng và yêu mến Người.
Ơn Cứu Ðộ của Thiên Chúa vẫn đang hiện diện; chúng ta hãy kêu cầu Người: "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ"; và Người sẽ trở nên nguồn sống, mang lại cho chúng ta ánh sáng, hy vọng, niềm vui và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã cứu độ nhân loại bằng cái chết trên thập giá, cái chết vì tuân phục Thánh Ý Chúa Cha và vì yêu thương con người;
Xin cho chúng con biết tin tưởng nơi Người, bước theo chân Người trên con đường hy sinh và phục vụ.
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn: MC4-B59
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người xuống hố diệt vong. Ðó là con rắn đồng trong sa mạc. "Ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc," (Ga 3:14) để "tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống" (Ds 21:9). Con rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố diệt vong.
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Ðức Giêsu đã thiết lập được một tương quan ba chiều với Chúa Cha, loài người và thụ tạo. Người đã phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Ðức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó. "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ" (Ga 3:17). Sự công chính đã mang bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Ðức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Ðó là giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.
"Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo trên thập giá. Ðó là con đường thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật. Chính Ðức Giêsu quả quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16).
Thập giá đã trở thành trung tâm chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ. Bởi vì chính trên cây thập giá Ðức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về bản tính mình. "Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu" (Ga 8:28). Ðức Giêsu chính là Ðức Chúa và nguồn sống cho vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó tức là tự lên án chính mình. "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ" (Ga 3:17). Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai hạng người tin và không tin. Thập giá không phải là dấu chỉ của án phạt. Nhưng không tin cái chết của Ðức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới dẫn tới hư vong. "Ðức Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân" (Fahey 1994:263) của việc phán xét. Cây thập giá là một biểu tượng cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới mức nào.
Như vậy cây thập giá đã chứng tỏ tình yêu riêng của Ðức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng Ðức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm hiểu biết.
Quả thực, "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Ðức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ" (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành "con cái ánh sáng" (Ep 5:8). Bởi vì chính Ðức Giêsu là "ánh sáng đã đến thế gian" (Ga 3:19). Không phải ai cũng đón nhận được hồng ân cao cả đó. Thực tế, "người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa" (Ga 3:19). Chính việc làm đã tạo thành một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương ! Ðịnh mệnh thật khốc liệt !
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện tất cả giấc mơ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử ! Thực vậy, "để lời Ðức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Ðức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư" (Sb 36:22), để vua "ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ" (Fahey 1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Ðức Giêsu đã củng cố tinh thần những ai run sợ trước thần chết: "Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16). Ðức tin trở thành một thành phần cần thiết của cuộc sống. Theo Martin Luther, "đức tin là một thực tại sống và bởi thế gồm những nhân đức thương yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp với Chúa tới muôn đời" (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô vị.
Khi tin, con người sẽ thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Ðức Giêsu muốn chúng ta là "ánh sáng cho trần gian" (Mt 5:14). Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu phải được sự thật giải thoát. Ðó là lý do tại sao Chúa nói "kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng" (Ga 3:21). Ði trong tăm tối trần gian hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian dối, không thể tìm được nguồn sống và nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi mãi là nô lệ.
Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than đó, phải "tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại và vận mệnh đời đời nơi Ðức Kitô. Tin là vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người" (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống. Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ta sẽ "bắt đầu lượng định tất cả sự việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu" (Life Application Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa là "làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữ trong chúng ta và trên thế giới" (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Ðó là điều những người vô thần đã làm. Ðứng trước đài kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa Nazis, ÐGH Gioan Phaolô II nói: "Chỉ có chủ thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối người như vậy" (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động cuồng điên đó không những phát xuất từ niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của những thất vọng lớn lao. Thất vọng đã xô đẩy mọi người vào thất vọng.
Nhưng "ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu" (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc khốn cùng và nguy hiểm nhất, người tín hữu vẫn có thể thưa với Chúa: "Con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa, con dám thưa rằng: Ngài là Thượng Ðế của con." (Tv 30:15) Nói lên được điều đó thật là can đảm. Ngày nay vẫn còn rất nhiều tâm hồn can đảm như thế nơi những Kitô hữu trên quê hương Việt Nam.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người: MC4-B60
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người Công Giáo mà còn phải được tôn vinh ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã bị treo lên để cho mọi người nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho nhân loại. Ngài đã thể hiện tình yêu tột đỉnh.
Nói về tình thương tha thứ của Thiên Chúa, người ta thường kể lại cho nhau nghe về câu chuyện ở một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt. Đó là Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Người ta kể rằng, một lần kia, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh". Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con". Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, thể hiện sự tha thứ của Thiên Chúa đối với hối nhân.
Bước vào Chúa Nhật 4 Mùa Chay, hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Ngài luôn tha thứ. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống" (Ez 33, 11). Quả vậy Thiên Chúa sai con một của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng để thế gian nhờ con của Ngài mà được cứu độ. (Ga 3, 17). Cũng như Môisen treo con rắn đồng trong Samạc thế nào, thì con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 3, 14). Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và Đấng bị treo trên thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin Ngài.
Thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một, để ai tin con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời" (Ga 3, 16). Thiên Chúa một lần nữa đã biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể qua sự trao ban. Điều quý giá nhất của Người Cha chính là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính con một dấu yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Một yêu dấu đến trong trần gian, mang lấy thân phận con người và cuối cùng qua việc trao nộp Con Một cho loài người treo trên thập giá. Chúa Giêsu trên thập giá chính là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy lúc đó chính là lúc Thiên Chúa đặt con của Ngài làm Đấng ban sự sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải kết án thế gian nhưng để cứu thoát loài người khỏi chết và ban cho họ thông phần vào cuộc phục sinh vinh quang của Ngài.
Như thế, đứng trước thập giá Chúa Kitô chúng ta tin hay không? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ. Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói: "ai đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối và tự mình đoạ đày mình trong cảnh tăm tối trong cõi chết". Thiên Chúa không cần luận phạt nữa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một của Ngài. Đó là chân lý cơ bản của chúng ta. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là dấu chỉ mà Chúa muốn nói với chúng ta là Chúa yêu thương chúng ta. Yêu thương con người đến nỗi sẵn sàng để ngưiơì con Một yêu quý của Ngài chết thay cho chúng ta.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Ngài đã chết cho nhân loại để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy nhìn lên thập giá để thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa. Một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán và mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để chúng ta thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi nhưng trái lại để cảm nhận được hồng ân bao la của Chúa để cho tâm hồn được phấn khởi tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Ngài để chúng ta biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Càng cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Hãy tha thứ để được Chúa thứ tha. Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương. Một lần nữa hãy nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là dường nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là ngần nào. Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng tình thương mà Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con luôn coi thập giá Chúa Kitô là hy vọng sự sống đời đời của chúng con. Đồng thời xin cho chúng con biết yêu thương và tha thứ cho anh chị em chúng con như Chúa đã yêu thương mà tha thứ. Amen.
Một doanh nhân giàu có bên Mỹ có một sáng kiến lạ: ông cho rải và dán rất nhiều bích chương: MC4-B61
Một doanh nhân giàu có bên Mỹ có một sáng kiến lạ: ông cho rải và dán rất nhiều bích chương khắp thành phố nơi ông ở. Nội dung bích chương ghi: “Nếu ai mắc nợ, hãy đến văn phòng của tôi vào ngày đó, tháng đó từ 10g đến 12g, tôi sẽ giúp tiền để trả nợ. Đúng hẹn, ông ngồi ở văn phòng chờ; nhưng 11g, rồi 11g 30 đến, vẫn không thấy ai cả. Sau đó, có vài người rụt rè đến, ông liền ký ngân phiếu, giúp họ trả nợ. Gần đến 12g, lại có vài người cũng đến, họ cũng được giúp đở… Thực ra, mọi người xung quanh đã không hiểu ý của nhân vật này; họ đã lỡ cơ hội có tiền để trả nợ… (LTV, Minh họa Lời Chúa)
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một của Người, để bất cứ ai tin vào Người, sẽ được cứu rổi..” Người ta không tin vào lòng tốt của anh nhà giàu ở trên, nên lỡ mất cơ hội có tiền; cũng vậy người ta khó có thể tin vào lòng tốt của Thiên Chúa, để được cứu rỗi. Đó chính là đề tài chúng ta suy niệm chúa nhật hôm nay. Chân thành kính mời anh chị em…
a/. Chúa Giêsu nói đến con rắn đồng treo trong sa mạc:
Đây là câu chuyện trích trong Sách Dân số 21, 4-9: Trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Do thái mất kiên nhẩn. Họ kêu trách Chúa và Môisen: “Tại sao phải đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập vào sa mạc, để chết nơi đây? Nơi mà chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.” Vì vậy, Chúa cho rắn độc bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết. Dân chúng liền chạy tới với Môisen: “chúng tôi đã phạm tội vì đã kêu trách Chúa và ông. Xin ông hãy khẩn cầu cùng Chúa, để Người xua đuổi chúng đi.” Môisen van xin Chúa, Chúa liền nói: “Hãy đúc một con rắn và treo lên một cây cột. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ đuợc sống.” Ông Môisen liền đúc một con rắn đồng và treo nó lên một cây cột. Hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu sống…
b/. Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu muốn nói gì?
Con rắn đồng treo lên cây trong sa mạc: chính là hình ảnh của Chúa Giêsu báo trước, Người sẽ bị treo trên thập giá, là dấu chỉ của ơn cứu độ.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại câu chuyện trong sách Dân số ỏ trên (21, 4-9). Con rắn đồng được Môisen treo lên một cây cột trong sa mạc. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó với lòng tin vào Thiên Chúa, sẽ được sống. Con rắn bằng đồng chỉ là dấu hiệu ơn cứu độ. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn nói: để nhận được ơn cứu rỗi, loài người phải nhìn lên Con Người được giương cao, được treo lên (cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh giá)
Chỉ có lòng tin
Câu chuyện: Các phi hành gia đi vào không gian phải có những bộ áo quần đặc biệt. Vì trong không gian không có dưỡng khí để thở, nên áo quần của họ phải thật kín và có sợi dây dẫn đến bình để tiếp nạp dưỡng khí trong phi thuyền và trong áo quần của họ. Nhà thiết kế Frank Denton đặt tên cho hai bình này là: J3.16 và J3.17. Thực ra, chữ và số đó không phải là mã số bí mật gì. Ông dựa vào bài Tin mừng của Thánh Gioan: Gn 3, 16.17, mà đặt ra nó.
Câu 16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Ngài, sẽ khỏi chết, nhưng được sống muôn đời.”
Câu 17: “Thật vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ.”
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết: Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương Miếu: MC4-B62
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi. . . Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngỡ ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm. Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên.
Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đợi mẹ, nhưng chẵng thấy. Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẳng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.
Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẽ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
Chúng ta cũng vừa chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô . Ông nầy là ai ? Ông là thủ lãnh những người biệt phái, là một nhà thông thái, hiểu biết nhiều, có địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu, hiểu biết những việc làm của Ngài. Nhưng ông ta chưa dám đến với Ngài thật sự, vì những gì là của riêng ông ta, đã làm nặng nề bước chân tìm chân lý, đã che khuất đi ánh mắt đi tìm ánh sáng. Những cái đó cũng làm mất đi sự can đảm cần thiết để có hành động nói lên sự thật. Chính vì thế ông ta mới tìm Chúa Giêsu vào lúc đêm về. Qua cuộc đối thoại không mang lại kết quả bao nhiêu, vì ông ta chưa ra khỏi chính mình được. Đến khi Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, khi đó ông mới được mở mắt ra, khi đó tất cả những gì là của ông, chẳng có giá trị gì. Mặc dù hiện tại, ông đang đứng trước chân lý, đang đứng trước nguồn hạnh phúc đích thực mà ông chẳng hay biết.
Sánh về địa vị, chắc chúng ta không bằng ông thủ lãnh người Do Thái kia đâu. Về sự hiểu biết, chắc cũng không ai dám tự hào là hơn ông. Về địa vị, chúng ta cứ nhìn lại chính mình xem. Vậy mà chúng ta có biết tìm đến Chúa chưa? Tìm đến để nghe Ngài nói, Ngài chỉ dạy. Chúng ta chê trách ông Nicôđêmô hơi thiếu can đảm. Nhưng vì ông đã có sự khởi đầu nên ông cũng đã có được kết quả tốt đẹp. Ông đã dám xuất hiện giữa ban ngày vào lúc cần thiết nhất, lúc mà các Tông đồ đã trốn chạy hết. Ông lo tất cả mọi việc thật chu đáo. Thiên Chúa luôn chờ đợi và Ngài cũng tạo điều kiện cho ta, nhưng chúng ta có rời được chỗ ở, rời được con người của chính mình để đến với Ngài không. Hay chúng ta vẫn còn nặng nề với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống.
Công việc không thể; Vì chúng ta còn sợ; Hay là tôi đã hiểu biết nhiều, nên tôi không cần phải nghe ai chỉ dạy. Vậy thì làm sao chúng ta có thể gặp được Chúa. Thiên Chúa không hiện ra trực tiếp với chúng ta. Ngài nói, nếu cần thiết, có thể qua người con nhỏ trong gia đình để đánh động tâm hồn chúng ta. Ngài cũng muốn nói với chúng ta, qua những cử chỉ đơn sơ của những ngưới thấp hèn hơn chúng ta, đôi khi qua những người hành khất để đánh động lương tâm chúng ta. Đôi khi cứng rắng hơn, Ngài nói qua những người có uy quyền với lời lẽ có khi làm chạm tự ái chúng ta để đánh động tâm hồn. Nhìn lại cách sống của chính mình, mỗi người sẽ nhận thấy mình đã tìm gặp được Chúa hay chưa. Nếu giờ nầy chúng ta đã can đảm hơn, biết chu toàn trách nhiệm hơn, siêng năng đến với Chúa hơn , biết làm gương tốt cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã gặp được Chúa, đã nhìn thấy ánh sáng. Đó là chúng ta không còn đi trong đêm tối nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với Chúa, để nhận ra chân lý và luôn sống trong ánh sáng chân lý của Ngài.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Bản văn Tiếng Anh dịch như sau: “God so loved the world the He gave his Only begotten Son: MC4-B63
Bản văn Tiếng Anh dịch như sau: “God so loved the world the He gave his Only begotten Son, that whosoever believeth in Him should not perish but have everlasting life). Đây quả thực là những lời có thể nói là đẹp nhất, phong phú nhất và tròn đầy nhất trong những trang Tin mừng. Luther, vị mục sư đầu tiên của Tin Lành đã nói như sau: “Đây là bản tóm toàn bộ nội dung của Tin mừng và là cốt lõi của toàn bộ lịch sử cứu độ”. Chúng ta có thể nói cách chắn được rằng: đây là Tin mừng cứu độ dành cho hết mọi người, nhất là dành cho những tâm hồn đơn sơ và thành tín. Chiều kích của những lời Tin mừng trên đây đều đạt tới sự tuyệt đối và lớn lao nhất.
Có một tác giả đã tóm lược và đơn giản hoá những lời Tin mừng ấy như sau:
“Thiên Chúa”(God). . .người yêu vĩ đại nhất (the greatest lover)
“đã yêu . . . đến nỗi” (so loved). . . cấp độ vĩ đại nhất (the greatest degree)
“thế gian” (the world). . .con số vĩ đại nhất (the greatest number)
“đã ban” (that he gave). . .hành động vĩ đại nhất (the greatest act)
“Con Một Ngài” (His only begotten Son). . .món quà vĩ đại nhất (the greatest gift)
“ để tất cả những ai” (that whosoever). . .thiệp mời vĩ đại nhất (the greatest invitation)
“tin” (believeth). . .sự đơn giản vĩ đại nhất (the greatest simplicity)
“vào Ngài” (in Him). . .Con Người vĩ đại nhất (the greatest Person)
“khỏi phải chết” (should not perish). . .sự giải thoát vĩ đại nhất (the greatest deliverance)
“nhưng” (but). . .sự khác biệt lớn nhất (the greatest difference)
“có” (have). . .sự chắc chắn nhất (the greatest certainty)
“sự sống đời đời “ (everlasting life). . . sở hữu vĩ đại nhất (the greatest possession).
Chúng ta đã trải qua được nửa chặng đường của Mùa Chay. Và hôm nay, Chúa nhật 4 Mùa Chay, Giáo hội mời gọi con cái mình hãy vui lên “ . . . các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở reo mừng và hân hoan tận hưởng nguồn an ủi chứa chan”. Chúng ta vui mừng vì Thiên Chúa yêu thương trần gian, yêu thương hết mọi người chúng ta. Chúng ta vui mừng vì hồng ân cứu độ đã tuôn trào trên khắp địa cầu và vì tương lai huy hoàng đang chờ đón chúng ta phía trước.
Đọc Kinh Thánh Cựu ước, người ta dễ hình dung về một Vị Thiên Chúa có vẻ dữ tợn, hay báo thù và đánh phạt con người mỗi khi con người phạm tội, nhất là tội bất trung và phản nghịch chống lại Thiên Chúa. Chúng ta cũng dễ hình dung một vị Thiên Chúa khắt khe với con người, khó tha thứ lầm lỗi cho họ, chờ họ phải năm bảy lần van xin, năn nỉ thì mới được . . . chúng ta tha hồ có những định kiến không đúng về Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn chấp nhận tất cả và kiên nhẫn chờ đợi con người khám phá ra tình yêu của Ngài dành cho họ. Tương tự như một đứa con khi còn nhỏ hay trách hờn những khi cha mẹ sửa dạy, nhất là khi phải dùng đòn roi để sửa trị chúng. Nhưng khi chúng lớn khôn rồi, chúng sẽ hiểu tình thương của cha mẹ dành cho chúng lớn lao và dường nào. Thiên Chúa còn vượt xa những người cha, người mẹ của chúng ta về tình yêu. Kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta thật kì diệu, nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị, khiêm tốn. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và những gì Thiên Chúa làm cho con người chúng ta cũng xuất phát từ tình yêu nhưng không của Ngài.
Cách đây nhiều năm, ở Mỹ có một bộ phim được rất nhiều người hâm mộ. Bộ phim mang tựa đề là Laura. Truyện phim kể về một thám tử trẻ được mời đi điều tra vụ thảm sát một thiếu nữ xinh đẹp tên là Laura. Truyện xảy ra là một đêm nọ, có một kẻ đột nhập căn nhà của Laura, rút súng bắn vào mặt Laura khiến cô tử thương ngay tại chỗ. Những ngày tiếp đó, chàng thám tử dồn hết thời giờ lục xét căn nhà của Laura. Chàng xem xét tỉ mỉ mọi thứ liên hệ đến cô, như quần áo, sách vở, tập nhạc, hình ảnh, và còn đọc cả thư từ nhật ký riêng của cô nữa, hầu tìm ra mấu chốt liên quan đến vụ thảm sát.
Thế rồi, một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Chàng thám tử đã hoàn toàn bị hình ảnh Laura xâm chiếm. Chàng cảm thấy xúc động và đột nhiên say đắm nàng, dẫu chàng vẫn biết mình đang yêu một người đã chết.
Nhưng một buổi tối nọ, đang lúc chàng ngồi trong căn nhà của Laura, gắng sức tìm giải đáp cho cuộc điều tra của mình, thì chàng bổng nghe có tiếng chìa khoá tra vào ổ, rồi cánh cửa mở ra. Chàng thám tử bàng hoàng kinh ngạc: Laura đang đứng đó, ngay trước mắt chàng. Laura vội lên tiếng hỏi: “Anh làm gì trong căn nhà của tôi thế?” và chàng cắt nghĩa mọi thứ cho Laura hiểu . . .Thì ra Laura đã đi về miền quê tìm nơi hoàn toàn yên tĩnh để nghỉ ngơi ít ngày. Suốt thời gian ấy, cô chẳng nghe máy truyền thanh, cũng chẳng đọc báo nên không hề hay biết gì về cái chết của mình. Và người phụ nữ bị giết kia là một kẻ nào đó đã xâm nhập căn nhà của Laura lúc cô đi vắng.
Cuốn phim kết thúc với cảnh Laura và chàng thám tử yêu nhau, lấy nhau và sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.
Cuốn Phim trên đây gồm 3 phần: Phần 1 diễn lại cảnh chàng thám tử lục xét căn nhà và nghiên cứu các di vật của Laura để rồi say mê nàng. Phần 2 diễn tả lúc Laura tình cờ xuất hiện trước mặt chàng thám tử và chàng nhận ra nàng. Phần 3 diễn tà cảnh 2 người yêu nhau và kết hôn với nhau. Truyện phim gồm 3 phần ấy giống hệt kế hoạch Thiên Chúa vạch ra cho mỗi người chúng ta. Trong đó, phần 1 là Thiên Chúa Thiên Chúa tạo dựng chúng ta để chúng ta học hỏi và tìm biết về Ngài. Phần 2: Thiên Chúa biểu lộ chính mình qua Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đến trần gian để chúng ta có thể nhận ra Ngài, và cuối cùng giai đoạn thứ 3 của kế hoạch Thiên Chúa dành cho chúng ta là chúng ta được liên kết với Ngài và mãi mãi chung sống hạnh phúc bên Ngài.
Thiên Chúa luôn đi bước trước trong việc cứu độ con người. Chính vì yêu trần gian, yêu con người nên Ngài mới ban Con Một của Ngài cho chúng ta. Chúa Giêsu chính là quà tặng lớn lao nhất mà Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta nên đã tặng ban cho chúng ta, để chúng ta nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Thiên Chúa chính là cha của chúng ta, là cha của hết thảy mọi người, là cha của riêng một mình ta. Trước mặt Thiên Chúa, hình như chỉ có ta là duy nhất, chỉ có ta là đối tượng của tình yêu Ngài. Evely đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là cha dành cho con người nên ông đã thốt lên: “chúng ta có thể thôi không làm con Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể không làm Cha”. Bởi lẽ, Thiên Chúa không bao giờ muốn cho ai trong chúng ta phải xa cách Ngài, phải chịu cảnh hư mất đời đời. Lòng Thiên Chúa không bao giờ ngừng khắc khoải khi chúng ta còn lạc bước, còn chưa về tới Nhà Cha.
Chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa tình yêu. Tin tưởng Ngài luôn yêu chúng ta bằng tình yêu của người cha luôn muốn dành những gì là tốt nhất cho con cái mình. Chúng ta cần sống niềm tin ấy trong mọi ngày sống của chúng ta. Sống đức tin là sống lòng tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ để cho những cám dỗ, những khó khăn trong cuộc sống làm cho chúng ta quên mất Chúa, nghi ngờ về tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Amen.
Từ khi Ađam phạm tội, loài người phải sống trong mờ tối, tinh thần yếu đuối, dễ bị dục tình: MC4-B64
Từ khi Ađam phạm tội, loài người phải sống trong mờ tối, tinh thần yếu đuối, dễ bị dục tình quấy nhiễu và nhất là phải đau khổ và phải chết. Chính vì thương yêu nhân lọai mà Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế. Đấng đó là Đức Giêsu, là Sự Sáng chiếu soi cho nhân loại đang trong u tối, cứu nhân lọai khỏi xích xiềng tội lỗi, mang lại sự sống đời đời cho những ai có lòng tin mến Chúa.
Trong cuộc nói chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã giải thích về ơn cứu chuộc mà ngài sẽ thực hiện. Như Môsê treo con rắn lên để cứu những người bị rắn cắn (x. Ds 21,8-9), thì nay những ai nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và tin vào Ngài thì được ơn cứu chuộc, được hưởng sự sống đời đời. Việc cứu độ loài người là do sáng kiến và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Vì thương loài người mà Chúa cha sẵn sàng hy sinh Con Một của mình cho thế gian. Vì thương loài người nên khi Ngài đến, Ngài không xét xử nhưng tỏ lòng nhân hậu, kêu gọi mọi người hoán cải để được ơn cứu độ. Ai muốn được hạnh phúc đời đời thì hãy nghe lời Người và đi theo con đường Người chỉ vẽ.
Thiên Chúa cha đã dùng cách hay nhất để cứu chúng ta, nếu chúng ta nghe theo Chúa Giêsu thì hãy giữ, hãy sống lời người dạy. Nếu chúng ta không theo lời Chúa dạy thì chúng ta hết phương cứu. Vậy cách cứu độ của Chúa như thế nào? Thưa là tin vào Chúa Giêsu, giữ các giới răn và sống bác ái với mọi người. Ai từ chối Chúa Giêsu, không sống trong ơn nghĩa Chúa thì phải phạt đời đời. Vì Chúa Giêsu là Sự Sáng, là chân lý và là Sự sống đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta. Vậy mà nhiều người không biết đón nhận, chuộng tội lỗi hơn là sống theo Chúa kitô và tiếp tục làm những hành động xấu xa, hận thù, dối trá, ghen ghét, ích kỷ… điều này cho thấy những nết xấu và tội lỗi của con người đã làm con người ra chai đá, cứng lòng tin. Họ né tránh ánh sáng đường lối Chúa và không dám đến gần Chúa, không ưa sống theo luật lệ và tinh thần của Chúa, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, bị vạch tội. Ai thật lòng tìm kiếm sự thật và quyết tâm đi theo đường lối Chúa thì sẽ được đức kitô ban ánh sáng sự sống. Thánh Phaolô trong bài đọc II cũng đã nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi. Với lòng thương cao cả, Ngài đã cho chúng ta là những kẻ đáng phải chết vì tội lỗi của mình được phúc sống lại trong đức Giêsu kitô. Nhờ ơn ngài mà chúng ta được cứu rỗi. Hơn thế nữa, Ngài còn cho chúng ta đồng ngự trị với Đức Kitô. Một ơn ban nhưng không và quá đỗi cao trọng do lòng nhân lành và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Vậy, để đáp lại tình thương đó, trong mùa chay này, chúng ta hãy thể hiện lòng tin qua việc sống theo lời dạy của Đức Kitô. Chúng ta hãy chết đi con người tội lỗi và sống trong tình yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể, sẵn sàng cho đi sức khỏe, vật chất, phục vụ theo khả năng hiện có để đem lại hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, trong mùa chay này, chúng sẽ bước theo Chúa mỗi ngày trong tình mến và biết chia sẻ những khốn khổ của người khác trong tình anh em con cùng một Cha trên trời.
Một hôm Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai: MC4-B65
Một hôm Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.” Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa ?” . Như Thánh Augustinô đã nói: “Khi Thiên Chúa dưng nên ta Ngài không hỏi ta, nhưng khi cứu độ ta Ngài cần phải có sự đồng ý của ta”. lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa rất lớn, lớn cho đến mức tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, nhưng Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Và dẫu cho mọi người rất khó tha thứ thì Thiên Chúa vẫn dễ dàng thứ tha. Nhưng Ngài cũng cần chúng ta phải biết “chấp nhận cho Ngài tha thứ. Nếu chúng ta không chịu thì Thiên Chúa cũng không thể làm gì được, điều kiện này không khó nhưng Ngài muốn xuất phát tình yêu từ đáy lòng, từ con tìm .Bài Tin Mừng hôm nay, ngay từ câu đầu tiên, Chúa Giêsu đã nói:
"Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời". Qua đó, tôi thấy Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu của Thiên Chúa là tha thứ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nhắc lại cuộc xuất hành của dân Do Thái xưa? Sau khi ra khỏi Ai-cập, bốn mươi năm ròng rã trong sa mạc, gặp thử thách Chúa nổi cơn thịnh nộ và cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên cao, thì ngay lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban.
Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, Ngài luôn tha thứ cho những kẻ đã từng oán trách Ngài chỉ cần một hành động nho nhỏi của sự hối hận là “nhìn lên” con rắn đồng. Ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi hư mất thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhìn lên cái chết chuộc tội của Chúa, để Chúa đem lại cho chúng ta hạnh phúc. Như vậy , con rắn đồng đã có sẵn ở đó như một dấu chỉ yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn Thập Giá Đức Kitô thì được tha. Chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người thật mãnh liệt: "Ngài sai Con của Mình đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình do thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết. Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Nếu chúng ta chưa biết sống yêu thương thì không thể nào tha thứ cho người khác được. Khi mà không thể tha thứ cho anh chị em mình thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta vì hàng ngày chúng ta vẫn đọc kinh Lạy Cha
“Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Qua đó cho thấy rằng nếu chúng ta không biết tha thứ cho anh em thì chính chúng ta cũng không được tha thư. Hình ảnh nhìn lên con rắn đồng trong cuộc sống có rất nhiều cách, nhưng chỉ khác nhau ở cách thể hiện mà thôi. Bởi thế, việc hy sinh hãm mình trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù, lấp đầy những hố sâu ngăn cách biết thông cảm với nhau… khi thực hiện những điều đó là lúc mỗi người chúng ta đang nhìn lên “CON RẮN ĐỒNG” để được cứu độ.
Lạy Chúa, Mùa Chay kêu gọi chúng con ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình để hoàn toàn đặt niềm tin vào Thiên Chúa bằng cách năng nhận ơn tha thứ khi chúng con đến với Ngài, nhìn lên thập giá của Ngài. Amen
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một: MC4-B66
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình.
Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời mời gọi sống.
Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng: MC4-B67
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xỉ ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu: MC4-B68
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
* * *
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.
Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giêsu trên cõi trời." (Ephêsô 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm: MC4-B69
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
Bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 3, 14 – 21 ) trích từ cuộc trao đổi của Đức Giêsu với ông Nicôđêmo: MC4-B70
Bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 3, 14 – 21 ) trích từ cuộc trao đổi của Đức Giêsu với ông Nicôđêmô trong sách Tin Mừng thứ tư. Trong trích đoạn này, tác giả Ga giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu trong tư thế là Đấng Mêsia được giương cao. Người chính là nguồn mạch sự sống ( cc. 14 – 18 ) và là qui chuẩn mà chúng ta phải theo để đạt tới sự viên mãn đích thật ( cc. 19 – 21 ).
Khi ấy, Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (cc.14-15). Theo Ds 21, 9, trong hoang địa, khi dân Israel bị rắn độc cắn chết nhiều người, ông Môsê đã theo lệnh Đức Chúa “làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Bản văn Ga 3, 14 – 15 quy chiếu về Ds 21, 9 và tạo nên một sự song song đáng chú ý. Không phải mọi yếu tố đều được đặt song song với nhau. Sự so sánh đã chỉ nhấn đến hai yếu tố: sự kiện và hiệu quả.
Trong Ga 3, 14 – 15, vế thứ nhất ( như A ) thông báo sự tương tự của điều phải xảy ra với sự kiện đã xảy ra. Về sự kiện đã xảy ra trong hoang địa xưa, người thực hiện được nêu rõ: ông Môsê; nơi chốn cũng được nói rõ: trong sa mạc. Ở vế thứ hai ( cũng vậy, B ), tác nhân thực hiện, thời gian và nơi chốn đều không được đề cập. Chỉ có sự cần thiết của sự kiện được nhấn mạnh ( phải ). Tuy nhiên, sự song song là rất rõ ràng: tương ứng với con rắn trong vế thứ nhất là Con Người trong vế thứ hai, và tương ứng với “giương cao” trong vế thứ nhất là “được giương cao” trong vế thứ hai. Trong vế thứ ba ( c. 15: vể C ), “được sống muôn đời” tương ứng với “được sống” trong Ds 21, 9. Tất nhiên ở đây có sự khác biệt: với sự kiện ông Môsê giương cao con rắn bằng đồng trong sa mạc xưa, người ta sẽ chỉ có thể đạt được sự sống mau qua; còn nhờ Con Người được giương cao, thì sẽ là “sự sống muôn đời”. Nơi Người sẽ trào vọt sự sống thần linh của chính Thiên Chúa cho những ai tin vào Người.
“Quả thực, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” ( 1, 17 ). Vì thế, “ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( 3, 15 ), vì được đón nhận ân sủng và sự thật viên mãn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( c. 16 ). Đây là một lời khẳng định rất quan trọng, cung cấp cho ông Nicôđêmô ( và cho chúng ta ) lời giải thích tối hậu cho thực tại Mêsia. Nếu ở cc. 14 – 15, thực tại Mêsia được chiêm ngắm từ phía nhân loại, như một thực tại hữu hình: “Con Người được giương cao”, thì ở c. 16 này, thực tại đó được trình bày từ phía Thiên Chúa, Đấng thi thố sáng kiến yêu thương cứu độ của Người trong lịch sử nhân loại. Đấng được giương cao cho mọi người nhìn thấy chính là Con Một của Thiên Chúa được Ngài ban từ trời để loài người được sống muôn đời. Người chính là Tình Yêu của Thiên Chúa cho thế giới.
Hành động tối hậu của Thiên Chúa là hành động thí ban Con Một vì yêu. Người tỏ mình trước hết trong tư thế Đấng ban sự sống muôn đời, chứ không phải như là một quan án. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( c. 17 ). Tình yêu và ân huệ sự sống muôn đời mà Thiên Chúa ban cho nhân loại giờ đây được trình bày trong ngôn ngữ sứ vụ, và đó là sứ vụ cứu độ chứ không phải xét xử.
Nhưng điều đó không có nghĩa là chẳng có sự “bị lên án”. Đức Giêsu nói: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” ( c. 18 ).
Trách nhiệm, như vậy, là nơi con người chứ không phải là nơi Thiên Chúa. Sự chú ý bắt đầu được đặt vào con người. Diễn từ tập trung cái nhìn vào con người như là chủ thể của hành động. Con người có thể tin hay không tin vào Đức Giêsu; không có khả năng thứ ba, tức là không có trường hợp “thờ ơ”, “không thèm quan tâm”. Trước quà tặng tình yêu thần linh, người ta chỉ có thể hoặc đón nhận hoặc từ chối. Và điều đó sẽ dẫn đến chuyện bị kết án hay không. Chính con người sẽ phải quyết định về sinh mệnh của mình trước quà tặng tình yêu thần linh là chính Con Thiên Chúa được giương cao trên thập giá. Vì Thiên Chúa không xét xử, nhưng là Đấng ban sự sống, nên những ai tin vào Con của Người thì không bị lên án. Còn những ai từ chối, thì đó là họ tự kết án mình.
“Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” ( c. 19 ). Tác giả khai triển những gì đã nói phía trên. Ông trình bày lý do của sự bị lên án.
Tự chính mình, ánh sáng đã đến thế gian thì soi sáng cho tất cả mọi người. Trong 8, 12, “Đức Giêsu nói với người Do Thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”. Trong 12, 46, Đức Giêsu nói rõ ràng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Trong quan niệm của các kinh sư, Luật Môsê chính là sự sáng và đem lại sự sống. Mở đầu cuộc đối thoại với Đức Giêsu, ông Nicôđêmô đã thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến” ( 3, 2 ). Ông Nicôđêmô đã chỉ hình dung Đức Giêsu là một tôn sư giúp người ta sống đúng Luật Môsê, tức là giúp người ta đi theo ánh sáng là Luật Môsê để có sự sống. Ở cuối cuộc đối thoại này, Đức Giêsu cho thấy chính Người mới là ánh sáng đã đến thế gian. Đức Giêsu được giương cao chính là qui chuẩn mà chúng ta phải theo để đạt tới sự viên mãn đích thật. Chính Người mới là ánh sáng, tức là quy chuẩn để phân định điều thiện hay điều ác trong các hành động của con người. Sự hiện diện của Người đặt nhân loại và từng người trước sự lựa chọn: đón nhận ánh sáng – sự sống hay từ khước ánh sáng – sự sống. “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (c.19).
“Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng” ( c. 20a ). Từ chỗ ghét ánh sáng, họ manh tâm tiêu diệt ánh sáng. “Họ quyết định giết Đức Giêsu” ( 11, 53 ). “Các thượng tế quyết định giết cả anh Ladarô nữa” ( 12, 10 ). “Họ hô lớn: "Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !” ( 19, 15 ). Nhưng thật ra, “ánh sáng vẫn chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” ( 1, 5 ). Khi không diệt được ánh sáng, “họ không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” ( c. 20 ). Họ biết rằng ánh sáng sẽ phơi bày con người thật của họ. Từ chối ánh sáng, họ nghĩ rằng mình sẽ vẫn có thể tiếp tục các việc xấu xa mà chẳng bị bại lộ. Họ tiếp tục đi trong bóng tối.
“Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa" ( c. 21 ). “Tin vào Danh Con Một Thiên Chúa”, “đến cùng ánh sáng”, “sống theo sự thật” và “thực hiện các công việc trong Thiên Chúa”, là những cách diễn tả khác nhau của cùng một thực tại. Đó chính là cuộc sống của những con người đón nhận Đấng Mêsia được giương cao làm quy chuẩn cho đời sống mình.
Tóm lại, trong khung cảnh Phụng Vụ Mùa Chay, bài Tin Mừng hôm nay khẳng định với chúng ta hai nội dung quan trọng:
- Phần thứ nhất ( cc. 14 – 18 ) khẳng định Đức Giêsu chịu đóng đinh là nguồn mạch sự sống của chúng ta.
Đức Giêsu được giương cao trên thập giá chính là sự diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian. Người là Con Một Thiên Chúa. Người là nguồn mạch sự sống muôn đời cho con người. Đó thật sự là Tin Mừng vĩ đại cho nhân loại chúng ta. Mầu nhiệm thập giá mà chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn để cử hành cách long trọng trong Tam Nhật Thánh, thực ra, là mầu nhiệm của tình yêu và sự sống viên mãn của chính Thiên Chúa được ban cho nhân loại.
Chúng ta được mời gọi sống Mùa Chay Thánh trong tinh thần chuẩn bị tâm hồn đón nhận sự sống viên mãn đó. Tất cả những thực tại khác nhau của Mùa Chay sẽ trở thành vô nghĩa nếu chúng không giúp chúng ta sống điều căn bản này.
- Phần thứ hai ( cc. 19 – 21 ) khẳng định Đức Giêsu chịu đóng đinh là quy chuẩn của đời sống chúng ta.
Đấng Mêsia được giương cao chính là ánh sáng đã đến thế gian. Người bị cái thế gian xấu xa kết án, ghét bỏ và từ chối. Nhưng những ai sống theo sự thật thì đến với Người.
Trong Mùa Chay thánh này, chúng ta được mời gọi sám hối trở về với sự sáng thật là Đức Giêsu. Chính trong sự quy chiếu về Người mà chúng ta sẽ thấy rõ con người thật của mình. Chính Người mới là quy chuẩn, là giá trị tuyệt đối, là khuôn mẫu hoàn hảo và là sự thật tuyệt đối quyết định điều thiện điều ác trong cuộc sống chúng ta. “Ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng... Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng” ( cc. 20 – 21 ).
Sách Ký Sự ( Sử Biên Niên ) quyển 2 đã ghi lại một biến cố kinh hoàng: Thành Giêrusalem: MC4-B71
Sách Ký Sự ( Sử Biên Niên ) quyển 2 đã ghi lại một biến cố kinh hoàng: Thành Giêrusalem thất thủ. Dân Thiên Chúa bị lưu đày Babylon. Lý do mất nước, mất thành thánh là vì “tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hóa tại Giêrusalem” ( 2Sb 36, 14 ).
Từ Babylon lưu đày, Dân Chúa vọng về cố hương, về thành thánh. Nỗi nhớ khôn nguôi và có thể có vương chút niềm sám hối:
“Bên dòng sông lờ lững trôi, tôi ngồi mà lòng xa vắng, vì ngàn nỗi nhớ khôn nguôi. Bên dòng sông lỡ lững trôi, cây đàn hờ hững treo, trên cành dương liễu tiêu điều. Sion ơi, nếu bao giờ ta quên ngươi, thì lưỡi ta đây dính trong họng mãi. Sion ơi mà nếu bao giờ ta quên ngươi, thì cánh tay ta sẽ khô bại” ( Tv 136 ).
Dòng sông Babylon năm xưa cũng chẳng khác gì dòng đời của nhân loại sau lần lầm lỗi của nguyên tổ, cũng chẳng khác gì dòng đời của mỗi chúng ta trong kiếp lữ hành trần thế với bao tội lỗi tày trời. Vì thế, cũng có những hạt lệ lã chã bên dòng đời đắng cay nghiệt ngã, có đớn đau tột cùng vì hậu quả của tội lỗi trầm đọa thân xác đến tàn tạ rã rời, có tiếc nuối vô vàn về một thời thanh xuân rạng ngời hương sắc, có nỗi nhớ nhà khôn nguôi của kiếp tha hương, của kẻ đi hoang hay kẻ bị lưu đày, có những niềm đau tan tác và ước muốn trở về… Nhưng có hẳn đó là lòng sám hối, hay chỉ là một cảm xúc thoáng qua trong phút cơ cầu ? Có phải một buông bỏ những lời mời gọi vui chơi trên đất khách quê người hay một lời thề mang tính công khai, long trọng… đã đủ là sám hối ?
Cảm thức về tội lỗi của con người có thể nói là luôn luôn ở trong tình trạng chưa thật chuẩn mực. Bởi bóng tối bao phủ trần gian và làm cho lòng trí con người ra u ám, ngu muội, nên con người luôn hướng chiều về những thực tại hư hèn và có khuynh hướng tự bào chữa. Con người thích bóng tối hơn sự sáng. Bởi vậy, không dễ gì tìm cho được lòng sám hối chân thành. Điều này Thiên Chúa biết rõ chúng ta hơn chúng ta.
Cũng trong dòng đời ấy, có biết bao đổi thay, biết bao biến cố, có biết bao đau thương dập vùi. Và khi đau thương ập đến, con người mới giật mình ngộ ra mình đã đi con đường hư hỏng, con đường chối bỏ hoặc chống lại Thiên Chúa. Thế rối, có một phút hồi tâm... Nhưng, phút hồi tâm ấy, đau khổ ấy, có phải là lòng sám hối đủ để động lòng trời, để có thể níu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống ?
Cả khi con người nhận ra mình là người quên ơn bất nghĩa vô nghì, tội lỗi bất trung với Thiên Chúa và khao khát trở về thì lòng sám hối chân thành ấy biết thế nào là “sám hối đủ” so với tội lỗi tày trời đã gây ra ?
Vâng, tội nhân cần biết tội mình đã phạm lớn lao là chừng nào, và biết sám hối để được khoan dung tha thứ. Rất tiếc, nhiều người chỉ biết mình có tội khi sống chung với bệnh tật, nghèo đói, bất hạnh, khi bị bỏ rơi, khi hoạn nạn, và lòng sám hối bỗng dưng thành một điều kiện để yêu sách lòng thương xót của Chúa. Rất tiếc, lại cũng có nhiều người đang bị ảo giác đạo đức lừa dối chính mình: tưởng rằng mình đã và đang sám hối đủ nên được Thiên Chúa xót thương mà bảo toàn cho thoát khỏi những hoạn nạn.
Đối với Thiên Chúa thì hoàn hoàn khác hẳn. Biết lòng con người, lòng tội nhân khó mà có được chút thực tâm, hoàn hảo, nhưng Lời Chúa hôm nay vẫn gửi đến cho con người một tin vui: không phải vì chúng ta đã sám hối hay sám hối đủ mà được Thiên Chúa thứ tha, nhưng vì lòng thương của Thiên Chúa vô cùng đến nỗi khi con người chưa kịp ngước lên thì Ngài đã cúi xuống.
Chúa Giêsu mạc khải tình thương ấy cho con người khi nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” ( Ga 3, 14 – 16 ).
Một tin vui cho con người tội lỗi, tin vui cho những kẻ có lòng sám hối: nhận ra mình có tội và khát khao trở về.
Nhưng lại là một tin vui thật bi tráng: Con Một Thiên Chúa cũng sẽ phải bị treo lên như con rắn đồng thưở Môsê: treo trên Thánh Giá.
Hãy ngước nhìn lên Thánh Giá, để thấu hiểu cái gục đầu, cái cúi xuống của tình yêu thương.
Hãy ngước nhìn lên Thánh Giá, để thấu hiểu rằng không vì công đức của ta mà ta được cứu rỗi.
Hãy ngước nhìn Thánh Giá, để thấu hiểu Tin Vui cho nhân loại, cho người tội lỗi, được viết bằng giá máu của Con Thiên Chúa.
Hãy ngước nhìn Thánh Giá, để thấu hiểu rằng tội lỗi ta kinh khủng là chừng nào, và có sám hối bao nhiêu cũng không đủ, và chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới đánh động được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa Cha.
Vâng, không phải cánh hoa đời phù vân của ta bỗng dưng làm nên lịch sử, không phải hạt bụi vô danh của ta bỗng dưng nên tên nên tuổi trong cõi đời đời, nhưng vì tình thương vô cùng của Thiên Chúa đã cho Con Người xuống làm đóa phù dung tàn lụi, làm hạt bụi tan bay, làm xác thân bẻ bàng trên Thánh Giá.
Vậy, Thánh Giá của Chúa Kitô là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha và là ơn cứu rỗi cho chúng ta như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi”. ( Ep 2, 4 – 6 )
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa. Tình yêu Chúa làm cho trái tim chúng con thổn thức. Trái tim chúng con không thể vô cảm, vô tình. Xin cho chúng con cảm nhận hồng ân cao cả này là: Chúa đang từ trên Thánh Giá, cúi xuống, đặt môi hôn trên mỗi chúng con, những con người tội lỗi tày trời. Amen.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh một cuộc đàm thoại trong đêm: MC4-B72
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh một cuộc đàm thoại trong đêm tối giữa hai nhân vật quan trọng của hai tôn giáo được mệnh danh là Thầy Dạy. Một bên là “thầy dạy của dân Israel”, tên là Nicôđêmô và một bên là Đức Giêsu mà Nicôđêmô gọi là “Thầy Dạy đến từ Thiên Chúa”.
CUỘC GẶP GỠ GIỮA CHÚA GIÊSU VÀ ÔNG NICÔĐÊMÔ
Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông là thành viên tối cao pháp viện thuộc Hội Đồng Quốc Gia Do Thái, có nhiệm vụ gìn giữ và bảo tồn những truyền thống quan trọng. Mọi người coi ông như là chuyên viên về Thiên Chúa cho cả nước.
Tưởng cũng cần phải nói chút ít về bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Cuộc nói chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô là một trong những cuộc đối thoại có ý nghĩa nhất trong Tân Ước. Ông Nicôđêmô lén đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm cho thấy cái bóng tối của người không có niềm tin. Toàn thể chuyến thăm viếng và cuộc đàm thoại thì không rõ rệt, chỉ biết ông Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu để tìm hiểu Chúa thêm, nhất là vì ông thắc mắc vấn đề gọi là “tái sinh” mà Chúa Giêsu đã nói. Thánh Gioan là người thuật lại câu chuyện thì có khuynh hướng thích dùng hình ảnh tương phản nhau như ánh sáng với bóng tối được biểu hiện rõ ràng trong câu chuyện.
Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô là cần phải trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa và tự hiến thân mình cho Ngài. Như vậy, nhận biết Thiên Chúa thì khác hẳn với việc thu thập tin tức Thần Học để nghiên cứu về ngài. Khi nói về sự tái sinh do từ trên ban cho, Chúa Giêsu không có ý nói là phải trở vào bụng mẹ mình lần thứ hai, nhưng ý của Ngài tái sinh là do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
ĐƯỢC ĐƯA LÊN
Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô và tất cả những ai về sau nghe câu chuyện này, rằng Con Thiên Chúa phải được đưa lên cao để ai ngắm nhìn Người thì sẽ được chữa lành và an bình. Trong khi lưu lại trong sa mạc, dân Israel bị bệnh dịch do rắn độc, ông Môsê đã giơ cao con rắn bằng đồng lên và tất cả những ai nhìn nó thì được khỏi bệnh và khỏe mạnh trở lại. Cả hai sự việc: con rắn bằng đồng và Chúa Giêsu bị đóng đanh trên thập giá đều tượng trưng cho tội lỗi loài người. Khi Chúa Giêsu “được đưa lên”, thì không phải chỉ có việc Chúa Giêsu phải đau khổ trên thập giá được loan truyền. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, tiếng “được đưa lên” có hai nghĩa: nghĩa đen là nhấc lên khỏi mặt đất như việc Chúa bị đóng đanh vào thập giá, nghĩa bóng là ám chỉ một sự vui mừng hân hoan.
BÀI HỌC CỦA NICÔĐÊMÔ
Vậy ông Nicôđêmô đến gặp Chúa Giêsu dạy cho chúng ta bài học gì ở thời đại này ? Ông báo động cho chúng ta biết những gì sẽ xẩy ra khi mà chúng ta chấp nhận một hệ thống sống, một môi trường sống thì ta phải biết “cắt nghĩa” Thần Học, Kinh Thánh, tập tục hay luật lệ tùy theo hoàn cảnh đó. Ông cho chúng ta thấy là những lớp học về tôn giáo hay Thần Học không thể thay thế niềm tin và sự xác quyết có Thiên Chúa được. Đối với ông, Thiên Chúa thì vượt lên trên, hơn cả những tin tức và nghiên cứu về Ngài. Thiên Chúa, trước nhất và trên hết là một nguời bạn, một người yêu, một vị Chúa, Đấng Cứu Thế, là người kiên nhẫn chờ đợi chúng ta cả ngày lẫn đêm. Đến với Kinh Thánh không phải để chế ngự người ta, mà để cho Lời Chúa làm chủ chúng ta.
Thực ra chúng ta chẳng biết gì hơn về ông Nicôđêmô cho đến lúc ông hoãn lại cuộc đổ vỡ không thể tránh được giữa Chúa Giêsu và Tòa Án Tối Cao Do Thái, và sau này, chính Nicôđêmô là người đã giúp ông Giuse thành Arimathê nắn sửa lại những xương bị gẫy của Chúa Giêsu trước khi mai táng.
NICÔĐÊMÔ VÀ THƯỢNG HỘI ĐỒNG CÁC GIÁM MỤC THẾ GIỚI 2008
Chúng ta có thể đọc lại câu chuyện về ông Nicôđêmô qua cuộc họp của Thượng Hội Đồng các Giám Mục thế giới được tổ chức tại Roma vào tháng 10 năm 2008, bàn về LỜI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI. Đây là một kinh nghiệm quí báu đúc kết từ một cuộc tĩnh tâm khá phong phú được đào sâu về Kinh Thánh và những tài liệu về Công Đồng Vatican II.
Tại hội nghị, Đức Thánh Cha và các Giám Mục đã nói về cái bế tắc hiện nay trong việc nghiên cứu Kinh Thánh. Điều này thường là do tình trạng nguyên tử hóa, nghĩa là mổ xẻ Kinh Thánh như kiểu sợi tóc chẻ làm 5 làm 10, làm mất đi cái trinh nguyên của Kinh Thánh trong khi việc nghiên cứu cần phải có Niềm Tin, tính Phụng Vụ và ơn Chúa Thánh Thần. Nếu đọc và giảng dạy Kinh Thánh chỉ chú trọng vào sự chính xác hay không chính xác ở tính triết lý và lịch sử của nó thì chúng ta đã làm mất ý nghĩa của việc đọc Kinh Thánh, là sách của niềm tin mà một cộng đồng cầu nguyện, đầy ơn chúa Thánh Thần và năng động là chủ của nó. Chúng ta đã phạm một lỗi lầm nguy hiểm là cắt nghĩa Lời Chúa theo ý riêng của mình với chủ trương tương đối.
Có nhiều người, nhất là những sinh viên đã từng tâm sự rằng những khóa học Kinh Thánh thường “không có hồn”, xa rời thực tế và chẳng có liên hệ gì đến đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Chính những nhận xét này lại là một trong những chủ đề được đặc biệt bàn tới trong Hội Nghị các Giám mục về Lời Chúa.
Vào ngày 14.10.2008, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chia sẻ một số suy nghĩ rất sâu xa của ngài về vấn đề này. Trong một phát biểu ngắn gọn và rất rõ ràng trước toàn thể hội nghị, Đức Thánh Cha đã đề cập đến một trong những chủ đề quan trọng đã được nêu lên trong hội nghị. Khi cách chú giải Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo tách rời khỏi cộng đồng đức tin đầy ơn Chúa Thánh Thần và năng động trong Giáo Hội, thì sự chú giải đó chỉ là phương cách biên soạn lịch sử mà thôi, không hơn không kém. Cuối cùng, chúng ta đã chối bỏ Một Người mà Kinh Thánh nói tới, Một Người mà sự hiện diện sống động của Ngài nằm ngay dưới những Lời đó.
Nói đến DEI VERBUM / LỜI CỦA CHÚA, trong Hiến Chế Tín Lý về Thiên Chúa Mặc Khải, Đức Thánh Cha tái xác quyết rõ ràng sự quan trọng của phương pháp tìm hiểu lịch sử là phải bắt nguồn ở Tin Mừng Thánh Gioan ( Ga 1, 14 ). Ngôi Lời đã trở nên người phàm và ở giữa chúng ta. Tất cả những gì có thể giúp chúng ta hiểu được những văn bản Kinh Thánh đều nằm ở trong đó chừng nào mục đích của những tiếp cận khác nhau và những giới hạn của nó được tuân giữ rõ ràng. Khi đọc lại những lời giảng giải của Đức Thánh Cha nói về những điều đó thì hình ảnh ông Nicôđêmô lại hiện ra trong tâm trí tôi cũng như nhiều nhân vật khác đã được Chúa hướng dẫn để làm ra những lý thuyết, những hệ thống, những cơ cấu để tìm đến Chúa Hằng Sống là Lời ở giữa chúng ta. Ông Nicôđêmô chắc chắn là có nhiều kiến thức thâm uyên và dồi dào giáo huấn. Ông đã phát triển một hệ thống tôn giáo vĩ đại trong đó Thiên Chúa đã được chia loại và phân tích cẩn thận. Chắc Chúa Giêsu sẽ không nói đó là tội lỗi hoặc chẳng hay ho gì. Chúa chỉ nói vắn tắt là không đủ.
ĐÔI LỜI KẾT: KINH THÁNH BONAVENTURA
Để kết thúc, chúng tôi mượn lời kinh của Thánh Bonaventura. Những lời mở đầu trong bản lộ trình tìm kiếm Chúa của ngài cho chúng ta biết phải đọc Kinh Thánh như thế nào.
Đọc Kinh Thánh sẽ thiếu sót, nếu chúng ta không có lòng ăn năn thống hối. Hiểu biết Kinh Thánh nhưng lòng lại thờ ơ ( biết mà không làm ) Tìm tòi mà không biết thắc mắc Cẩn thận mà không biết vui mừng hân hoan khi cần. Hành động xa rời tôn giáo, Giảng dạy mà thiếu tình yêu thương Thông minh nhưng thiếu khiêm nhường Nghiên cứu nhưng không có ân sủng Chúa Có tư tưởng nhưng không có khôn ngoan Chúa soi sáng.
Những lời trên phải được coi như khuôn vàng thước ngọc hướng dẫn mỗi người chúng ta khi nghiên cứu thần học và Lời Chúa, để cho Lời Chúa làm chủ chúng ta.
Chớ gì sự hiểu biết, lời giáo huấn, tính khoa học và sự thông minh với lòng khiêm tốn dẫn đưa chúng ta đến gặp Chúa Giêsu Kitô suốt ngày đêm. Đó là mục đích cuối cùng của cuộc hành trình trên dương thế của chúng ta.
Bs. NGUYỄN TIẾN CẢNH, Fleming Island, Florida, 17.3.2012
[1] Nicodemus là một người biệt phái ( Pharisieu ), thành viên của Tối Cao Pháp Viện, cơ quan luật pháp tối cao của người Do Thái và là một luật sĩ / thày dạy của Israel ( Ga 3. 1 – 14 ). Nicodemus đã đến gặp Chúa Giêsu trong đêm tối ( có thể để tránh bị dòm ngó vì địa vị của ông )vì ông thắc mắc về danh từ «tái sinh» mà Chúa Giêsu đã nói tới trong một cuộc đàm thoại. Sau này chính ông đã bênh vực Chúa Giêsu tại Tối Cao Pháp Viện ( Ga 7, 50 – 52 ). Khi Chúa Giêsu chết, ông là người đã cung cấp một số rất lớn hương liệu gồm trầm hương và mộc liệu để tẩm liệm Chúa. Vì vậy người ta gọi ông là người giàu có ( Ga 19, 39 – 40 ). Trong kinh Talmud của dân Babylon cũng có nói đến một người tên Nakdimon mà tiếng Do Thái tương đương với Nicodemus, sống vào khoảng năm 66 – 70. Nhưng Nicodemus nói trong Kinh Thánh thì có lẽ lúc đó đã chết rồi. Tuy nhiên, Nikdimon có thể là người thuộc cùng gia tộc với ông. Trong nhiều Tân Ước Ngụy Thư nói Nicodemus là người đã bênh vực Chúa Giêsu trước tòa, đã trở lại Kito giáo và bị trục xuất khỏi Tối Cao Pháp Viện và cuối cùng đã chết tử vì đạo. Tuy nhiên huyền thoại này có lẽ không đáng tin cậy mấy
Không thể tin vào Chúa Giêsu là sự thật và làm theo sự thật của những điều Người dạy nếu không có Thần Khí Sự Thật dẫn đường.
Lm LG Đặng Quang Tiến
Gio 3:14-21: 14 Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Người Con của Nhân Loại cũng sẽ phải được giương cao như vậy,15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. 16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Trong bối cảnh của chương 3, đoạn 3:14-21 là một độc thoại được xem là lời của Chúa Giêsu: MC4-B73
Trong bối cảnh của chương 3, đoạn 3:14-21 là một độc thoại được xem là lời của Chúa Giêsu. Người nói về Thiên Chúa, chính mình và con người ở ngôi thứ ba. Đoạn độc thoại nầy có thể được nối tiếp bởi đoạn 3:31-36 như là bổ sung và tóm kết những ý tưởng chính. Trong khi, cuộc đối thoại của Nicôđêmô với Chúa Giêsu được trình bày song song với cuộc đối thoại giữa Gioan và các môn đệ của ông (3:1-12 // 3:22-30). Cả hai đều bàn đến phép rửa và liên kết với hai cuộc độc thoại bằng chủ đề nầy.
Những từ vựng dùng để trình bày về Chúa Giêsu như: tin, Người Con duy nhất, sư sống, ánh sáng, bóng tối trong 3:14-21 đã gặp trong 1:1-21 rồi. Tuy nhiên, điểm khác biệt là đoạn 1:1-12 bàn đến sự nhập thể, còn đoạn nầy đề cập đến sự cứu độ của Người (3:14). Nếu như đã đón nhận Chúa Giêsu từ lúc Người xuống thế làm người, thì cũng đã tin vào công trình cứu độ của Người; và ngược lại. Đoạn 3:14-21 chia thành hai phần mô tả hai thái độ và hành động khác nhau liên quan đến Chúa Giêsu: 3:14-18 và 3:19-21.
Trong đoạn 3:14-18, Thiên Chúa là vai chính và Chúa Giêsu được gọi là Con, Con Một, Con Một của Thiên Chúa. Công việc của Thiên Chúa là yêu mến và muốn thế gian được cứu độ, nên đã ban/gởi Con Một đến. Công việc nầy của Chúa Cha sẽ được Chúa Giêsu nói rõ hơn sau nầy: phần Người là cứu chuộc nhân loại (4:34; 17:4); phần con người là tin vào đấng Chúa Cha sai đến (6:29; 10:38). Vậy thái độ căn bản của con người là tin vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh để được sự sống muôn đời (3:15.16.17).
Ngược lại công việc của Thiên Chúa là công việc của con người nói chung được trình bày trong đoạn 3:19-21. Chúa Giêsu được gọi là ánh sáng (3:19.20[2x]), đối nghịch với bóng tối. Thái độ của những người thuộc hạng nầy: yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, nghĩa là ghét ánh sáng (15:24), và kéo theo hậu quả là không đến với ánh sáng. Công việc của họ là xấu, nên họ không muốn bị tỏ lộ (3:19-20; 7:7). Việc gì của họ gọi là xấu? Việc của họ trước tiên là không tin vào những sự thật Chúa Giêsu nói cho biết, nhất là sự thật Người là Con Thiên Chúa (cf. 8:46-47; 14:6). Tiếp đến, như là hậu quả của việc không tin, họ tìm giết Sự Thật (8:40.44.46; 10:32). Công việc sát nhân nầy cha ông của những người ấy cũng đã từng làm (cf. 8:41).
Hành động ngược lại là làm theo sự thật (3:21), nghĩa là làm công việc của Thiên Chúa: “Công việc của Thiên Chúa là anh em hãy tin vào Đấng Người đã sai đến” (6:28-29). Không thể tin vào Chúa Giêsu là sự thật và làm theo sự thật của những điều Người dạy nếu không có Thần Khí Sự Thật dẫn đường (cf. 16:13). Muốn thế, con người cần được tái sinh bởi Người (cf. 3:1-12
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc: MC4-B74
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: " Hãy khôn ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh “con rắn đồng được giương cao” với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống". Ông Môsê “làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay:“Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ "treo lên”; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Ân huệ vô biên đó là do: "Thiên Chúa yêu thương”.
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: “Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. ” (2Pr 2,24a ). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống “Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: “Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu"; “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá ?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. “Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
a. Thánh giá,tình yêu tự hiến.
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
b. Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
c. Thánh giá, tình yêu dâng hiến
“Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta”. Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: “Qủa thật người này là Con Thiên Chúa”, vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
Đối với một số người, nhà thờ là nơi họ đến để lẩn tránh những căng thẳng lo âu hàng ngày: MC4-B75
Đối với một số người, nhà thờ là nơi họ đến để lẩn tránh những căng thẳng lo âu hàng ngày, đồng thời tránh những lo lắng của thời thế. Có người lại nói, nhà thờ là nơi hội họp, để cùng cầu nguyện xin Chúa an ủi, và Chúa đang lắng nghe cũng như sẵn sàng chữa lành và thêm sức mạnh cho họ. Thật đấy.
Nhưng mỗi lần đến nhà thờ, chúng ta đều thấy cây Thánh Giá, điều đó nhắc nhở chúng ta rằng: Nơi thờ phượng này không phải là nơi lẩn tránh trần gian, để mọi sự đều được rửa sạch và để cho chúng ta ở trong một thế giới khác, không hề biết đến sự đau khố và các mối xung đột của trần thế. Trái lại, giữa những bức tranh và hình tượng, những khăn bàn thờ ủi sạch, những chén thánh bóng loáng đều có cẩn Thánh Giá, cây Thánh Giá của đau khổ đã kết thúc đời sống trần thế của Chúa Kitô.
Trong khi thờ phượng, chung quanh đầy những cửa gương nhiều màu, ánh nến lung linh, tượng các thánh là các anh hùng đã đi trước chúng ta, đôi khi chúng ta có cảm nhận ở nơi thân thương này, khác với môi trường sống chung quanh chúng ta. Nếu chúng ta đang đau khổ, đang chán nản, đang bị đọa đày, và mong cuộc sống được giải thoát, chúng ta dễ bị cám dỗ cảm thấy như mình không thuộc về nơi đẹp đẽ này, cho đến khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá.
Khi chúng ta làm dấu Thánh Giá lúc bước vào nhà thờ tham dự Thánh lễ và lúc ra về, khi chúng ta thấy Thánh Giá dẫn đầu đoàn rước đi vào nhà thờ trước Thánh lễ và đi ra sau lễ, chúng ta nên nhớ là hãy mang đến nhà thờ những đau khổ, những điều thiếu may mắn, và cả những tội lỗi của chúng ta nữa. Vì chính nhờ cây Thánh Giá mà tất cả đời sống của chúng ta đều được đón nhận vào Thánh lễ, nhất là những khi chúng ta bị đau khổ, thất bại và chán nản đến cùng cực.
Cây Thánh Giá là điểm tựa cho chúng ta ở nơi nầy. Nó cho chúng ta biết chắc là Thiên Chúa không phải là Đấng từ trên cao xa đang lạnh lùng nhìn xuống chúng ta, nhưng Ngài là Đấng đang đồng hành với chúng ta ngay từ thuở Ngài ra đời ở Bêthlêhem: Ngài đã là người di cư cùng với cha mẹ, phải chạy trốn một vị vua muốn giết Ngài. Kế đến, Ngài phải sống tha phương nơi xứ lạ; làm nghề mộc sinh sống qua ngày; sống trong một làng nhỏ đang bị ngoại bang đô hộ; Ngài cũng có những bạn bè thân quen; cũng thích ăn uống tiệc tùng; và rồi có người bạn đã thề hứa sẽ luôn ở cận kề Ngài đến cùng, nhưng đến lúc bị các thầy tư tế ruồng bắt trao Ngài cho đồng bọn để xử tử, lại bỏ rơi Ngài cho người ta chế nhạo và hành hạ cho đến chết.
Nếu chúng ta tự hỏi Chúa ở đâu khi đời sống chúng ta quá đổi truân chuyên, hay đang giữa Thánh lễ trọng thể kính thờ Chúa, mà sao chúng ta lại cảm thấy cô đơn. Hãy nhìn lên Thánh Giá, đó chính là nhà của chúng ta. Thập giá là một hình cụ dùng để xử tử, hình cụ này làm cho phạm nhân hoảng sợ đến nổi phải thú nhận tội. Nó còn dùng để xử tử các nô lệ, và những kẻ tạo phản. Nó không được dùng cho công dân của đế quốc La Mã. Thập giá không những là hình cụ tàn khốc để kéo dài cơn hấp hối của tội nhân, mà nó còn làm cho những người đứng nhìn lên cũng phải khiếp đảm. Chúng ta không muốn xem những cảnh bạo lực trên phim ảnh, hay trên truyền hình; nên càng không muốn nhìn thấy cảnh tượng rùng rợn của người bị đóng đinh treo trên thập giá cho đến chết. Thập giá nhắc cho một dân tộc bị đô hộ biết rằng họ có thể bị đánh đập và ném ra ngoài như cỏ rác, nếu bị chính quyền La-Mã kết tội, hay không tuân lệnh trên như Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu làm cho đế quốc sợ vì Ngài nói đến vương quốc Ngài trải rộng không biên giới; một vương quốc mà các công dân đều bình đẳng; một vương triều không có người nhiều đặc quyền đặc lợi và thứ dân hạ đẳng; nơi có những người không thể hòa nhập được, khó trở thành như là thành viên của cộng đoàn; nhưng ở đó, tất cả các thành phần khác nhau đều được tôn trọng; và quyền bính không tập trung vào một số ít người, nhưng tình thương và sự phục vụ sẽ thu hút nhiều thành phần trong các thành viên. Chúa Giêsu gọi đó là Vương Triều Thiên Chúa. Những kẻ nghịch với Ngài thì họ cho đó là chống lại tôn giáo và chính trị của triều đại họ, nên họ muốn đàn áp sự chống đối ấy.
Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa dùng uy quyền một cách khác: Ngài thương yêu chúng ta, và cho chúng ta thấy tình thương đó mang hình dáng một người phục vụ. "Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian..." và Ngài thể hiện những động thái để chứng tỏ lòng Ngài thương yêu chúng ta. Và Ngài cũng không từ chối ngay cả Con yêu dấu của Ngài. Thiên Chúa muốn lời rao giảng và các dụ ngôn về tình yêu thương của Chúa Giêsu trở nên hồng ân cho tất cả mọi người, kể cả những lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Nhưng, Chúa Giêsu lại trở nên người đe dọa họ, họ phải ngăn chận và phá tan Tin mừng Ngài mang đến cho thế gian.
Nhưng Chúa Giêsu không muốn thối lui, trái lại, Ngài vẫn giữ Tin mừng Ngài mang đến từ lúc Ngài mới bắt đầu rao giảng như chúng ta nghe hôm nay. Ngài không e ngại những chống đối, đe dọa đến đời sống của Ngài. Thánh Gioan nói, vì yêu chúng ta nên Thiên chúa đã để Chúa Giêsu bị bắt, bị ức hiếp, bị xét xử và chịu án tử hình để tuyên xưng tình thương ấy. Bây giờ, khi nhìn lên Thánh Giá, ai cũng hiểu được ý định Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường bao. Từ trên Thánh Giá, Chúa Giêsu tiếp tục nêu cao tình thương của Thiên Chúa đối với tội nhân, khi Ngài tha tội cho người trộm lành bị đóng đinh cạnh Ngài trước mặt những kẻ giết hại Ngài.
Khi cây Thánh Giá đã dựng lên và Chúa Giêsu đã chết, sự dữ và sức mạnh bạo lực có vẻ như thắng thế, và vẫn còn tiếp diễn. Những hy vọng của dân chúng một lần nữa tan biến. Có vẻ như không gì có thể ngăn cản được bạo lực và sự dữ. Dân chúng bị một mảnh lực lôi cuốn họ xuống ngày càng sâu thẳm. Đến lúc cuối đời, họ không còn chút hy vọng nào, khi mọi người đều khiếp sợ trong vô vọng thì Chúa Giêsu hiện ra từ cõi chết. Ngài sống lại và mang đến những lời hứa: ngày hôm nay "ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3:16)
Chúng ta đang ở giữa mùa chay. Trong mùa ơn thánh này, chúng ta nên nghe đi nghe lại lời Chúa trong Chúa nhật thứ nhất mùa chay "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng"(Mc 1:15). Và chúng ta cố gắng hết sức tuân nghe lời Chúa để lánh xa tội lỗi và trở về theo lời mời gọi của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Thánh Phao-lô nhắc chúng ta hôm nay: Nhờ ơn Chúa mà chúng ta được cứu rỗi, chứ không phải bởi ý lực của chúng ta. "Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ"(Ep 2:5). Nếu chúng ta còn băn khoăn gì về thánh ý Chúa trong sự thương yêu chúng ta, hãy nhìn lên Thánh Giá đưa cao dẫn đầu đoàn rước vào thánh lễ hôm nay.
Trong phần thứ hai của cuộc đối thoại với Đức Giêsu, ông Nicôđêmô không nói gì nữa, tuy vậy: MC4-B76
Trong phần thứ hai của cuộc đối thoại với Đức Giêsu, ông Nicôđêmô không nói gì nữa, tuy vậy, phần này vẫn như là Đức Giêsu đang ngỏ lời trực tiếp với ông. Qua vài hàng ngắn gọn, tác giả sách Tin Mừng tóm tắt toàn bộ chương trình yêu thương của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.
Thiên Chúa và thế giới
Thiên Chúa hằng mong muốn liên kết con người với toàn bộ công trình sáng tạo, để các công việc họ làm cũng phải là công trình của Thiên Chúa. Chính vì thế, Thiên Chúa không kết án thế gian: ngược lại, Người mong muốn thế gian được cứu thoát. Khát vọng này của Thiên Chúa được diễn tả qua dấu chỉ hữu hình là Chúa Con được sai đến thế gian.
Thế nhưng, thế gian tức là con người là một thực tại đầy những xáo trộn, trong đó có một số người ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng. Thái độ này không được diễn tả qua ngôn ngữ hay tình cảm, nhưng là qua chính cuộc sống của con người, tức là qua cách thức họ sống, qua công việc họ làm.
Người Con và hai chiều hoạt động
Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã được sai đến trần gian, Người đã từ trời xuống. Người là dấu chỉ về ơn cứu độ được ban tặng cho hết mọi người, là dấu chỉ của sự sống được trao ban. Ý nghĩa này cũng giống như dấu chỉ Thần Khí được ban xuống trong cuộc sáng tạo và khi ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Đức Giêsu. Thế nhưng, Người Con đã được nâng lên cao, và đưa tất cả những ai tin vào Người cùng lên cao, hướng về trời. Việc nâng cao này là một cuộc thăng thiên nhờ cây thập giá được dựng lên trước mặt nhân loại.
Ánh sáng và bóng tối
Trong mối tương giao với Chúa Con, không thể có chuyện lấp lửng hay mưu mô lắt léo: hoặc là tin vào Người và được sống, hoặc là không tin và bị kết án. Sự lựa chọn của con người có nghĩa là chấp nhận ánh sáng hay bóng tối, là có thái độ mở rộng hay khép kín. Ai chấp nhận bóng tối tức là để cho bóng tối vây phủ, không để ai có thể nhìn thấy, cả Thiên Chúa lẫn người khác. Ai chấp nhận bóng tối tức là không sống vì tình yêu, không có sự sống đích thực: như vậy họ đã bị loại trừ và kể như đã chết.
Ngược lại, ai chấp nhận ánh sáng là người sẵn sàng nhận ra rằng những công việc mình làm chính là những công trình của Thiên Chúa. Họ là người luôn sống hoà hợp với tình yêu được tỏ bày trong Đức Kitô, mặc dù họ chưa gặp thấy Người. Bài Tin Mừng là một hình thức diễn tả về cuộc phán xét, nhưng cũng rất gần với Mt 25.
Dấu chỉ của tình thương
Hình ảnh Đức Giêsu tắt thở, thân treo trên thập giá vẫn là một dấu ấn đậm nét trong tâm hổn và trí nhớ những tín hữu thời đầu. Năm này qua năm khác, họ cố gắng khám phá và đánh giá lại hình ảnh này.
Theo họ, trong dấu chỉ thập giá, Thiên Chúa có mặt trọn vẹn và bày tỏ toàn bộ bí mật của Người. Nhưng thật là khó mà hiểu thấu được dấu chỉ này. Không thể nào không nối kết hình ảnh Đức Giêsu được giương cao trên thập giá với hình ảnh con rắn đổng được ông Mô-sê treo lên trong sa mạc. Trong cuộc hành trình gian khỗ tại sa mạc, người Do-thái đã chống đối Thiên Chúa và họ đã bị rắn độc cắn. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương họ như Người vẫn yêu thương. Nếu ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đổng, người ấy được chữa lành. Nhờ vậy dân Do-thái đã được cứu thoát.
Trong khi tìm hiểu về dấu chỉ thập giá, họ cũng cảm nhận được rằng Đức Giêsu chịu treo trên thập giá, không phải chỉ có mục đích cứu thoát một dân tộc, nhưng là toàn thể nhân loại. Về phần mình, thánh Gioan cũng ghi khắc trong tâm khảm mình dấu chỉ về con rắn và dấu chỉ về Con Người được giương cao trên thập giá, bởi vì ông xác tín rằng "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ..."
Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban tặng phần quý giá nhất, tức là Người Con duy nhất. Ban tặng và để Người Con ấy phải chết, chết đau thương trên thập giá. Thiên Chúa quả là còn đi xa hơn tổ phụ Áp-ra-ham. Tất cả những ai không làm điều ác và sống theo sự thật thì dần dần có thể hiểu được dấu chỉ mang đầy nghịch lý tức là cây thập giá. Nhờ bước đi theo ánh sáng, họ hiểu được thập giá muốn ám chỉ điều gì.
Quả thế, cây thập giá là dấu chỉ về một Thiên Chúa hết lòng yêu thương nhân loại. Người yêu thương nhân loại với tất cả sức lực của trái tim, với tất cả tình thiết tha. Người đã bày tỏ điều sâu kín nhất cho nhân loại là không kết án họ, không muốn họ phải chết, nhưng là làm tất cả để họ được sống, sống hạnh phúc và mãi mãi. Người đã liều mình trao phó trọn vẹn cho con người và chờ mong con người đáp trả.
Thập giá cũng là dấu chỉ về sự điên cuồng do tình yêu dẫn dắt. Thiên Chúa làm người, mặc xác phàm nhân loại: đó là điều không ai có thể tưởng tượng nỗi. Vì yêu mến, Thiên Chúa đã từ bỏ quyền năng tuyệt đối của Người, hay nói cách khác, Người đã sử dụng quyền năng ấy để phục vụ con người. Vì yêu mến, Thiên Chúa đã muốn đón nhận tất cả những khổ đau của nhân loại, và nhất là, đã đi đến tận cùng, tức là đón nhận cái chết ... Quả là một mầu nhiệm không ai hiểu thấu. "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương chúng ta." (Ep 2,4)
Gieo mình vào trong tình thương
Bài Tin Mừng đem lại cho chúng ta một an ủi lớn lao: tội lỗi của chúng ta không bao giờ có thể lớn hơn tình yêu của Thiên Chúa. Không khi nào tình yêu của Thiên Chúa chịu thua trước tội lỗi của chúng ta. Tất cả chúng ta đều được cứu: tình yêu của Thiên Chúa sẽ không chịu nhường bước trước tội lỗi của con người. Quả thật, nếu để tâm suy niệm, chúng ta sẽ hiểu rằng thập giá là dấu chỉ ban ơn cứu thoát chứ không phải để kết án.
Có đôi khi chúng ta bằng lòng với quan niệm xem thập giá của Đức Kitô là một biến cố hoàn toàn có tính cách lịch sử. Thật ra, thập giá vẫn luôn là một biến cố giữa Đức Giêsu và Chúa Cha. Với cái nhìn đức tin, thì thập giá là sự dâng hiến của Đức Giêsu và Chúa Cha trao tặng chính Người Con duy nhất của mình. Trên thập giá, Đức Giêsu chịu chết và Chúa Cha đón nhận cái chết đó. Thập giá vừa là một sự từ bỏ, vừa là một sự hiệp thông: xem như Chúa Cha từ bỏ Người Con yêu dấu của mình, nhưng thật ra là một sự hiệp thông sâu xa. Xem như Đức Giêsu từ bỏ cuộc sống của mình, nhưng lại đón nhận sự sống một cách mãnh liệt và trọn vẹn.
Trong con người và cuộc đời của mỗi chúng ta, vẫn có những bóng tối và ánh sáng. Ông Nicôđêmô đã ngần ngại, không dám mở rộng tâm hổn trước ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta có thái độ nào ? Chúng ta có sẵn sàng thực hiện một bước nhảy trong đức tin để được cứu thoát không ? Chúng ta có dám gieo mình vào trong tình yêu của Đức Kitô, một tình yêu sẵn sàng đi đến cùng và chịu chết vì chúng ta không ? Chúng ta có muốn tiến bước theo ánh sáng, mỗi lúc một rạng rỡ hơn, hay cứ thích bước đi trong bóng tối của tội lỗi, của đam mê ... ?
Nhờ Đức Kitô chịu chết trên thập giá, tất cả nhân loại đã được đón nhận trong Người để cùng chịu chết. Nhưng mầu nhiệm này còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Con Người đã đón nhận tất cả nhân loại vào mình lại bị nhân loại bỏ rơi. Con Người của toàn thế giới lại chịu chết một mình. Đức Giêsu đã đi đến tận cùng của việc tự huỷ và đã dâng một của lễ tuyệt vời. Người đã chấp nhận sự từ bỏ này để thực hiện việc quy tụ tất cả nhân loại về một mối.
Sự cô đơn của Đức Kitô đã đem lại hiệu quả là quy tụ trong hiệp nhất. Người đã để cho lưỡi đòng đâm thấu tim để rổi Người có thể xuyên thủng những bức tường cứng ngắc trong mọi tâm hổn. Người đã dang tay ra để nối lại những bến bờ, bởi vì chỉ có một Thiên Chúa ở trên tất cả và ở trong tất cả ...
Con người phạm tội, mất tình nghĩa với Thiên Chúa, từ đây con người phải sống xa tình yêu: MC4-B77
Con người phạm tội, mất tình nghĩa với Thiên Chúa, từ đây con người phải sống xa tình yêu của Thiên Chúa, phải vất vả và phải chết. Nhưng vì yêu thương Thiên Chúa đã không bỏ loài người chúng con sống trong tội lỗi mà đã hứa ban cho chúng con Người Con yêu dấu của mình, để cứu chúng con thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Trải qua dòng lịch sử, bằng cách này hay cách khác Thiên Chúa đã dùng các cha ông để đồng hành và dẫn dắt loài người chúng con trở về đất hứa, nơi mà vì phạm tội loài người chúng con đã đánh mất.
Hình ảnh tổ phụ Abraham hiến tế đứa con yêu dấu của mình làm của lễ dâng cho Thiên Chúa ; hay như hình ảnh Môsê treo con rắn đồng trong hoang mạc chính là những hình ảnh tuyên báo về một Giêsu sẽ được ban cho nhân loại, để cứu chuộc nhân loại và đưa nhân loại đến cùng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đến và đi sâu vào những khốn khổ tột độ của loài người chúng con, Người đã hạ mình thẳm sâu để gặp gỡ loài người trong tình trạng thảm hại nhất. Chúa Giêsu chính là món quà quý giá nhất Thiên Chúa đã ban tặng cho loài người chúng con, để qua cái chết của Ngài chúng con được cứu chuộc.
Thiên Chúa đã biết con đường mà Đức Giêsu đi qua sẽ là con đường của sự đau khổ, của sự chết, ấy thế mà Thiên Chúa vẫn để Con Một của mình đi. Điều này chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng con là vô bờ bến. Tất cả những tội luỵ của chúng con Thiên Chúa đều tha, nhưng Thiên Chúa đã không tha cho Người Con yêu dấu của mình khỏi chết. Thiên Chúa đã không cất chén đắng mà con yêu dấu của mình sẽ phải uống, vì Ngài biết rằng chỉ có cái chết trên thập giá mới có thể giải thoát con người khỏi tội và Thiên Chúa đã để Chúa Giêsu bước vào cái chết.
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể !
Càng về cuối Mùa Chay, chúng con càng cảm thấy ẩn hiện cây Thánh giá trên đồi Golgôtha. Nhìn lên cây thánh giá, chúng con mới hiểu được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng con thật lớn lao đến mức độ nào. Chúa phán cùng Nicôđêmô: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
Đạo của Chúa là đạo tình yêu. Thập giá là biểu tượng của tình yêu tột cùng, không còn giới hạn nào nữa ! Có Thiên Chúa nào đã làm người với thân phận kiếp người ? Có Thượng Đế nào đã hạ mình làm tôi tớ vâng phục và vâng phục cho đến chết ? Có Đấng Tối Cao nào tự buộc mình chết trên thập giá một khổ hình độc ác nhất của trí khôn con người để cứu độ con người ? Đó chỉ có nơi tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu đã đi đến cái chết, để loài người chúng con xoá bỏ hận thù, ghen ghét, đố kỵ… để sống như những người con hiền từ của Thiên Chúa. Hình ảnh cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu đã gợi lên cho chúng con thấy được hình ảnh của lòng thương xót, của bao dung tuyết đối, của một sự nhẫn nhục chiến thắng mọi hận thù, của sự hiền từ bất bạo động. Điều này khiến cho chúng con phải tha đến bảy mươi lần bảy.
Lạy Chúa ! chúng con tin vào một Chúa Giêsu bị đóng đinh. Như thánh Phaolô đã từng quả quyết “Tôi không rao giảng một Đức Kitô nào khác ngoài một Đức Giêsu bị đóng đinh”. Sống trong một xã hội mà hầu hết các giá trị được đo bằng vật chất phần nào đã làm cho chúng con khó sống đúng danh xưng là Kitô hữu. Bởi vì, Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng một sự thật tuyệt đối nơi con Người Đức Giêsu Kitô, Ngài là sự thật và là sự sáng.
Đức Giêsu đã từng tuyên bố rằng “Tôi đến để cho thiên hạ được sống và sống dồi dào”. Vì yêu thương chúng con Chúa đã đến với Thập giá và bằng Thập giá, Ngài đã giải phóng chúng con khỏi những cản trở có thể ngăn cản chúng con đạt tới hạnh phúc vô tận. Giá trị cuộc sống mà Chúa Giêsu dành lại cho chúng con, lớn lao đến nỗi mọi của cải vinh hoa trần thế phải coi là thua kém. Cái giá mà Chúa Giêsu phải trả cho sự tự do của chúng con là chính sự sống của Người. Sự sống thần linh xuất phát từ cạnh sườn bị đâm thâu, từ các dấu đinh đâm thâu qua chân tay Ngài. Do đó thánh Phaolô đã thốt lên: “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1Cr 6, 20). Chúa không chấp nhận trở nên một người đơn thuần giữa chúng con, mà Chúa còn muốn hy sinh tính mạng như một giá chuộc để cứu thoát chúng con. Từng người trong chúng con có thể nói “Ngài đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con đến nỗi hiến dâng mạng sống cho chúng con, xin cho chúng con trong cuộc sống cũng biết chia sẻ tình yêu của Chúa cho mọi người xung quanh, nhất là những người nghèo khổ, đói rách, bệnh tật… những người này họ cần lắm sự giúp đỡ của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con luôn biết sống xứng đáng với tình yêu của Chúa, để qua con mọi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đang hiện diện. Amen
Trong suốt chặng đường lịch sử dân Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã không: MC4-B78
Trong suốt chặng đường lịch sử dân Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã không ngừng tuôn đổ nhiều hồng ân cho họ: qua các tiên tri, các tổ phụ và chính nơi Đức Giêsu – Đấng mang ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa là Cha của Người.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16).
Giáo Hội đã sử dụng bài Tin Mừng trong Chúa Nhật hôm nay như để tôn vinh một tình yêu ban tặng nhưng không của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, Chúa nhật hôm nay còn được gọi là “Chúa Nhật Hồng”, Chúa Nhật của tình yêu. Chúa Giêsu đã sử dụng hình ảnh con rắn được ông Mô-sê giương lên trong sa mạc như một biểu tượng của lòng tin. Chúng ta hiểu rằng bản chất không phải con rắn chữa lành mà chính nhờ lòng tin của con người vào Thiên Chúa nên được Người chữa lành.
Quả đúng như thế, khi Chúa Giêsu trả lời ông Ni-cô-đê-mô: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.”(Ga 3, 3). Ơn trên mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ là ân sủng của Chúa Cha trao ban, là chính Ơn Cứu Độ nơi Con Một Thiên Chúa, Đấng chịu treo trên thập giá để chết thay cho nhân loại được sống. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15).
Ngày hôm nay Giáo Hội cũng muốn chúng ta nhìn lại con rắn trong sa mạc để nhận ra con rắn tội lỗi đang ngự trị trong tâm hồn mỗi người đó là: con rắn tham lam, ích kỷ, giận hờn, ghen ghét đang xâu xé tâm hồn chúng ta mỗi ngày, làm tâm hồn chúng ta trở nên cằn cỗi, hư nát. Không những thế, chúng còn tạo ra sự bất hoà giữa các thành viên trong gia đình và cộng đoàn. Phá tan sự hiệp nhất mà Đức Giêsu đã dùng chính mạng sống mình để đánh đổi.
Từ cái ngày Adam Eva phạm tội bất tuân phục thì tội lỗi đã theo họ lan tràn trên mặt đất. Bởi vậy, trong lời kinh thú tội hàng ngày chúng ta thường đọc “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng” như để thưa cùng anh em, cha mẹ và với Thiên Chúa rằng con đây là kẻ bất xứng trước tình thương yêu của Thiên Chúa cùng mọi người đã dành cho con. Bởi vì, “trong tư tưởng, lời nói, việc làm” của con chỉ lo cho bản thân mà thiếu quan tâm đến mọi người đang hiện diện kề cận bên con hằng ngày.
Chính vì thế, Giáo Hội đã dành ra sáu tuần trong năm phụng vụ như một dịp thuận tiện để chúng ta nhìn lại bản thân qua việc làm thiết thực là: ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Thời gian này như chặng đường dài, nhiều thử thách của dân Do Thái trải qua trong sa mạc trước khi trở về miền đất Chúa hứa ban làm gia nghiệp. Mùa chay này như để mỗi người chúng ta cùng đồng hành với Chúa Giêsu vào sa mạc để chuẩn bị cho công cuộc rao giảng, chịu chết, và cứu độ nhân loại. Và cuối cùng, mùa chay như quãng thời gian cho chúng ta thêm được vững tin vào Thiên Chúa như thể dân Do Thái khi xưa tin vào quyền năng Thiên Chúa mà ngước nhìn con rắn được ông Mô-sê giương lên trong sa mạc nên được chữa lành.
Lạy Thiên Chúa xin Người cũng cố lòng tin chúng con để chúng con giám đối diện với con người thật của mình, dám tuyên xưng niềm tin của mình vào Con Một của Ngài đã xuống thế làm người, chịu chết để cứu chuộc chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, từ muôn thuở Chúa đã yêu thương và muốn cứu chuộc chúng con. Nhưng Chúa không thể cứu được chúng con nếu chúng con không muốn sám hối và đến với bí tích hoà giải trong mùa chay này. Xin cho chúng con biết dùng tự do của mình để chọn con đường dẫn đến phúc trường sinh. Con đường đó chính là Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu chắc chắn chúng con sẽ được hạnh phúc muôn đời. Amen.
(2Ký sự 36,14-16.19-23; Êphêsô 2,4-10; Yoan 3,14-21)
Phúc Âm: Ga 3, 14-21
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ". Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".
Suy Niệm:
Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B
2Ký sự 36,14-16.19-23; Êphêsô 2,4-10; Yoan 3,14-21
Suy niệm: Tội Lỗi Và Tình Thương
Lịch sử Dân Chúa là một lịch sử của ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất tín, đón nhận và từ: MC4-B79
Lịch sử Dân Chúa là một lịch sử của ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất tín, đón nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Đó là lịch sử một tình thương hải hà, nhưng vô cùng mầu nhiệm.
Sách Khởi nguyên cho biết con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và sống trong tình thương yêu thân thiện của Người. Nhưng ngay từ những bước đầu, tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian. Con người đã phản bội Chúa. Do hành vi phản bội nguyên thủy này, tội lỗi bắt đầu thống trị. Tội phân lìa con người ra khỏi Chúa, đẩy con người xa quỹ đạo sự sống và tình thương, biến cuộc sống con người thành một xung khắc triền miên với bản thân, với anh em và với thế giới. Lịch sử con người trở nên một lịch sử hận thù đầy chém giết, tham lam và tranh chấp.
Bị dục vọng đè nén, con người không làm nổi điều thiện mình muốn, trái lại cứ lao đầu vào hố sâu của tội ác.
Tội lỗi mãnh liệt như một quyền lực cứ luôn đè bẹp và cầm tù con người.
Lịch sử con cháu Ađam cho thấy tội lỗi như một vết dầu loang bao trùm cả thế giới và vũ trụ, khiến mỗi người sinh ra trong tội (Tv 51,7).
Tội lỗi gieo rắc mầm mống sự chết khắp nơi và biến đổi thế giới sự sống thành thế giới u sầu tang tóc.
Nếu chỉ dừng lại ở đây, chúng ta sẽ bi quan và thất vọng. Cuộc đời sẽ hoàn toàn vô nghĩa và con người thà đừng sinh ra thì hơn (Yb 3,1-26).
Quả thật tội lỗi đã khiến hình ảnh Thiên Chúa trong con người bị hoen ố. Con người đánh mất hết những vẻ diễm lệ yêu kiều, trở nên một tạo vật xấu xí trần trụi; thân thể đầm đìa máu me và vết tích.
Không ai trong chúng ta có thể tự hào là đáng yêu, vì mỗi người đều đắm chìm trong tội.
Nhưng, tình thương của Thiên Chúa thật nhiệm mầu. Người đã yêu thương ta, khi ta còn là những kẻ có tội. Người khiến ta là những kẻ đã chết bởi sa ngã phạm tội, được cùng hồi sinh với Đức Kitô (Ep 2,5).
Tiên tri Êzêkiel ví Thiên Chúa như một người qua đường thấy dân mình quằn quại trong vũng máu, quyết đưa về tắm rửa và trang điểm, biến thành như một thiếu nữ mỹ miều xinh đẹp (Ez 16,6-14).
Thiên Chúa chăm sóc và nuôi dưỡng dân Người. Người để ý từng đường đi nước bước của họ. Người trìu mến như người cha, dỗ dành như người mẹ, âu yếm như người chồng. Nhưng dân Người lại là những kẻ tình nghĩa nhạt như nước ốc, lòng dạ bạc như vôi.
Tiên tri Hôsê ví dân Chúa như một người vợ được chiều chuộng đủ điều, nhưng vẫn quen thói thất trung, thích chạy theo khách mới. Thiên Chúa phải làm mọi cách cho người vợ ấy trở về (Hs 2).
Sách Ký sự cho thấy mọi thành phần dân Chúa đều bất tín, từ đầu mục tư tế cho đến thứ dân đã chạy theo những ngẫu tượng của ngoại bang. Họ làm hoen ố đền thờ Chúa và xúc phạm Danh Thánh Người.
Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng họ vẫn giả điếc làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo báng, hành hạ và giết chết các tiên tri.
Thiên Chúa, dù là Đấng nhân ái từ bi, đã buộc lòng phải trừng phạt vì chạm trán với lòng con người chai đá. Người cho dân đi lưu đày, mất quê hương, mất đền thờ, mất tất cả, để từ đó họ khám phá lại những hồng ân lớn lao của Thiên Chúa.
Và đến ngày đã định, Thiên Chúa lại đưa dân về sau khi thanh luyện họ bằng những biến cố xảy ra trong đời họ.
Thánh Phaolô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi. Người đã kinh nghiệm về hoạt động của tội trong chính bản thân, trong môi trường người sống và những nơi người đến rao giảng.
Về bản thân, người đã thốt lên những lời chua xót:
Tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội (Rm 7,14). Không phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi cư ngụ trong tôi (Rm 7,17). Mọi thứ luật khác chi phối chi thể tôi, giam cầm tôi trong tội (Rm 7,23).
Về nhân loại nói chung, người đưa ra một ý tưởng còn táo bạo hơn nữa.
Thiên Chúa đã đón mọi người vào đàng bất tuân, ngõ hầu dủ lòng thương hết mọi người (Rm 11,32).
Thánh Phaolô thấy rõ tội lỗi của riêng mình và của toàn thể nhân loại, nhưng người cũng nhận thức được tình yêu và thượng trí của Thiên Chúa. Oi thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa (Rm 11,33).
Thiên Chúa là Chúa của hồng ân, và "tội lỗi phát sinh càng nhiều, ân sủng càng dồi dào gấp bội" (Rm 5,30).
Chính Đức Yêsu Kitô là hồng ân trọn vẹn của Thiên Chúa. Người là dấu hiệu của tình thương. Người là chính tình thương sâu thẳm bao la của Thiên Chúa.
Tình thương của Chúa Cha đã nhiều lần trở nên hữu hình trong lịch sử nhân loại. Tình thương đã được tỏ bày nhờ nhiều sứ giả và qua nhiều biến cố. Và cuối cùng, tình thương đã hoàn toàn biểu lộ trong một người, một gương mặt. Đó là Yêsu Kitô.
"Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình... để thế gian nhờ Người mà được cứu độ..." (Yn 3,16).
"Thiên Chúa đã không dung tha chính Con mình, nhưng lại trao phó Người cho tất cả chúng ta" (Rm 8,32).
Chúa Cha đã biểu lộ tình thương đối với loài người đến mức tối đa trong Đức Yêsu Kitô, Con của Người. Và chính Đức Yêsu Kitô cũng đã yêu thương chúng ta đến cùng độ:
"Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người chịu chết vì kẻ mình yêu thương" (Yn 15,13).
Đức Yêsu chấp nhận chịu treo trên Thập giá để sức mạnh tình yêu có thể kéo mọi người lên với mình, nhưng với điều kiện là con người phải nhìn lên Thập giá và tin vào Người.
Tình thương không bao giờ cưỡng bách, nhưng đòi hỏi một thái độ rõ rệt đón nhận hay khước từ.
Đức Yêsu Kitô đến, không để luận phạt thế gian, nhưng để cho thế gian được cứu rỗi.
Ai tin, nghĩa là đón nhận tình thương, thì được sống; ai không tin thì tự hủy diệt mình vì đã từ chối sự thật và ánh sáng.
Đức Yêsu Kitô là dấu chỉ trọn vẹn tình thương của Chúa Cha, nên chỉ một mình Người có quyền đòi hỏi thái độ dứt khoát:
"Ai không theo Ta là chống lại Ta".
Ai không chọn yêu thương thì không ở trong Thiên Chúa, nhưng sa lầy trong tội.
Đối với Người, chúng ta không có con đường thứ ba. Giảng Lễ
"Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống thế, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu rỗi".
Đó là nội dung Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Tin Mừng đó đã được chuẩn bị từ thời Cựu Ước, nhưng chỉ được thực hiện từ thời Đức Kitô.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều người, nhiều cách để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện ở nơi Con Một là Đức Yêsu Kitô. Người đã tỏ rõ ý chí của Người thương yêu nhân loại, không muốn thấy nhân loại chết đi như trong vụ đại hồng thủy nữa, nên đã ký kết một giao ước tình thương với gia tộc Noe, như ta đã nghe đọc trong Chúa nhật thứ nhất mùa Chay. Nhưng con cháu Noe đã không trung thành sống theo giao ước. Thiên Chúa không vì vậy mà bỏ kế hoạch tình thương. Người chọn một ngành trong gia tộc Noe để thực thi ý định. Abraham đã được chọn như Chúa nhật II mùa Chay còn nhắc lại. Và đến khi con cái Abraham đã trở nên đông đúc, Thiên Chúa quy tụ họ lại thành dân tộc, gọi là Dân riêng của Chúa. Và Chúa nhật III mùa Chay cho ta thấy Người ban hiến pháp giao ước cho dân tộc ấy. Tình thương của Người cứ bị họ lạm dụng. Ngay cả hàng tư tế trong dân cũng làm đủ điều ghê tởm, khiến chính đền thờ Yêrusalem đã trở nên ô uế. Nếp sống đồi trụy ấy dĩ nhiên đã mở đường cho địch quân xông vào tàn phá vườn nho của Chúa. Nhưng Chúa vẫn không quên lời giao ước.
Bài đọc I hôm nay cho ta thấy Người dùng Cyrus khôi phục lại thánh đường Yêrusalem và dựng lại nước Israel. Cyrus, Môsê, Abraham, Noe chẳng qua chỉ là những hình ảnh báo trước việc chính Con Một Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại. Và lần này phải dứt khoát và vĩnh viễn. Thế nên trong bữa tiệc ly chúng ta cử hành bây giờ qua thánh lễ, Đức Kitô Cứu thế đã tuyên bố: Chén Máu Ngài cầm trong tay là chén Tân Ước vĩnh cửu, là Giao ước mới mẻ và vĩnh viễn. Chúng ta cử hành thánh lễ, là kỷ niệm và đúc kết lại tất cả con đường lịch sử cứu chuộc mà Thiên Chúa đã đi để cứu vớt loài người, hầu đưa họ vào tình thân mật thánh thiện, làm nên hạnh phúc cho chính họ. Ý thức nội dung của thánh lễ như vậy, chúng ta phải cố gắng để cử hành cho thật trang trọng và sâu xa. Và chỉ có một cách cử hành tốt, là đón nhận Đức Kitô và kết hợp hoàn toàn với Người trong mầu nhiệm cứu thế.
Thế mà như lời Phúc Âm hôm nay viết: có nhiều người không đón nhận Đức Kitô là Cứu thế, vì họ sợ ánh sáng, sợ công việc tối tăm của họ bị lộ tẩy khi tiếp xúc với ánh sáng. Họ muốn trốn ánh sáng, nhưng không thể trốn nổi, vì ánh sáng đã đến trong thế gian. Chúa đã đem lời Phúc Âm từ trời xuống; và lời Phúc Âm đã được rao giảng đến tai họ. Họ càng nhắm mắt lại, ánh sáng của Lời Chúa càng chiếu soi trong lòng họ, khiến họ phải nhận ra mình đang còn nhiều nết xấu, còn nhiều điều lệch lạc và phải canh tân sửa mình. Nhiều người sợ ánh sáng của Chúa chiếu soi lương tâm, nên tìm cách lo nghĩ những công việc thế tục hầu để lương tâm mình nằm yên trong tối tăm. Những người ấy không đón nhận ánh sáng, không đón nhận Chúa Yêsu. Họ dự lễ, rước lễ như để Chúa ở bên ngoài tâm hồn và đời sống. Ra khỏi nhà thờ, họ quên ngay những lời Thánh Kinh đã nghe và không còn nhớ Chúa ở trong tâm hồn mình nữa. Họ sẽ chạy theo hết mọi tiêu chuẩn của thế gian, khiến họ có đạo cũng dường như không có.
Nhưng ai đón nhận ánh sáng thì khác hẳn. Họ sẽ đưa lời Kinh Thánh vừa nghe đọc vào trong mình; họ sẽ nhờ Chúa Thánh Thể đã ngự vào lòng họ. Sự hiện diện của Lời Chúa và của Thánh Thể sẽ soi sáng lương tâm. Tối tăm sẽ dần dần dẹp đi và tâm hồn sẽ trong sáng, đời sống họ sẽ trong sạch. Đàng rằng ánh sáng của Chúa luôn cho ta thấy mình còn tội lỗi và khuyết điểm. Nhưng đó là thứ ánh sáng chữa lành mọi vết thương, giống như những người Dothái ngày trước nhìn vào con rắn đồng, đều được cứu sống. Bởi vì khi ánh sáng của Chúa soi cho lương tâm biết tội lỗi của mình, thì đồng thời nó cũng cho ta thấy những tội lỗi ấy có thể được đóng đinh trên thập giá Chúa Kitô. Và như vậy tự nhiên ta sẽ cầu xin Đức Kitô ở trên thập giá tiêu diệt giúp tội lỗi cho ta và ta sẽ cảm thấy được lành mạnh.
Mùa Chay đang đi dần vào tuần Thương khó. Phụng vụ muốn ta chiêm ngưỡng thập giá Chúa Kitô. Như Môsê đã treo con rắn đồng lên để người Dothái nhìn vào hầu được cứu sống; thánh giá ngày này là nguồn ơn cứu độ mọi người, miễn là người ta thấy cần và muốn được cứu rỗi. Chúng ta không thể hưởng nhờ mọi ân phúc của mùa Chay, nếu không nhìn lên thánh giá như những người đang đau đớn vì tội lỗi. Việc xưng tội trong mùa Chay cần là vì thế. Việc kiểm điểm đời sống để chừa bỏ nết xấu là cùng chết với Đức Kitô trong mầu nhiệm thương khó, hầu được sống lại với Người. Chúng ta đừng làm công việc thống hối, ăn năn với sức lực của mình. Bài thơ Phaolô đã nói rõ. Ơn cứu độ không đến với chúng ta qua sự nghiệp của ta đâu, nhưng qua niềm tin, tin vào lòng lân tuất của Chúa đã cứu ta qua mầu nhiệm tử nạn của Con Ngài. Chính đường lối cứu chuộc này khiến việc xét tội, ăn năn của ta không còn phải chỉ là một công việc nặng nề và tiêu cực. Nhưng khi xét tội ăn năn mà nhớ tới lòng Chúa đã rộng rãi với ta qua sự chết của Con Ngài, sẽ khiến công việc diệt tội của ta đã được nâng đỡ bằng mầu nhiệm Phục sinh rồi. Nói như vậy không phải để chúng ta làm công việc xét tội, ăn năn, dốc lòng một cách hời hợt.
Ngược lại, nhìn vào thánh giá Đức Kitô như nơi phải đóng đinh tội lỗi, chúng ta biết phải ăn năn thống hối thế nào mới được kết quả. Người muốn được ơn tha thứ và trở nên thánh thiện, phải đặt tất cả niềm tin vào thập giá Đức Kitô và như vậy phải muốn tiêu diệt tội lỗi như Người. Người chấp nhận đóng đinh trong tình yêu mến Chúa Cha và thương xót loài người. Chúng ta cũng phải tiêu diệt tội lỗi với ý hướng mến Chúa và thương yêu đồng loại hơn. Nỗ lực canh tân đời sống, có nằm trong chiều hướng cứu thế, mới đóng góp, tham dự vào mầu nhiệm thánh giá và mới đưa tới việc tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh.
Thế nên ta phải gia tăng lòng mến để đi vào các tuần thương khó. Ta phải chia sẻ lòng Chúa Cha thương yêu muốn cho loài người được hạnh phúc, để bằng lòng kết hợp với Đức Kitô trong mầu nhiệm chết cho tội lỗi.
Mầu nhiệm này ta sắp cử hành nơi bàn thờ. Thánh lễ hôm nay cũng như mọi thánh lễ, kêu gọi ta nhìn vào mầu nhiệm thánh giá như bằng chứng Chúa thương yêu loài người nên chịu chết cho loài người, để ta tham dự vào tình yêu ấy mà muốn canh tân đời sống để thế giới được hạnh phúc và thánh thiện hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21): MC4-B80
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao. (b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 - (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu. - cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí). (b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt. - ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. - Thiên Chúa yêu thế gian (16):
Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
Mùa chay là mùa ăn năn sám hối, là dịp thuận tiện để con người quay về với Chúa và làm: MC4-B81
Mùa chay là mùa ăn năn sám hối, là dịp thuận tiện để con người quay về với Chúa và làm hòa với anh em. Nhìn lên Chúa để noi gương bắt chước Ngài, nhìn lên Chúa để thấy mình còn thiếu xót, còn khiếm khuyết quá nhiều, nên cần phải cố gắng vươn tiến.Chúa Giêsu đã kinh qua đau khổ mới tới vinh quang và thập giá là nhục hình nhất Ngài phải chịu theo ý Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại, cứu rỗi con người. Chúa là ánh sáng chiếu soi, phá tan bóng tối và đêm đen, phá tan xiềng xích tội lỗi…
Vâng, trần gian luôn có bóng tối và ánh sáng. Bóng tối là mãnh lực của sự dữ, của tội lỗi, của muôn vàn mưu kế ma quỷ. Bóng tối của thế lực quyền lực, của danh vọng, của tiền tài, của ăn chơi trác tráng. Đó là những sức mạnh của ma quỷ, satan, của sự dữ tối tăm. Bóng tối tâm hồn còn vô cùng nguy hiểm, do đó, thánh Gioan đã viết:” Anh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa “ ( Ga 3, 19 ). Con người thường ghét ánh sáng hơn bóng tối.Đó là thảm kịch nơi lòng con người. Thực tế, con người sinh ra vốn dĩ lương thiện, nhưng sự tội đã làm cho con người xa Chúa và sống không tốt với người khác. Tội Ađam và Eva phản nghịch, bất tuân lệnh Chúa. Tội Cain ghen tương giết Abel…Và còn nhiều tội khác làm con người xa dần Thiên Chúa. Con người chỉ có thể vươn lên khi họ ưa sự sáng. Khi con người để cho ánh sáng dọi chiếu và vén mở chính mình, họ sẽ đối diện với sự thật, với tội lỗi của mình và rồi họ biết ăn năn sám hối như thế họ sẽ có được niềm vui.
Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, thánh Gioan đã nhắc nhở nhân loại, nhắc nở con người rằng:” Thiên Chúa đã không gởi Con Người vào trong thế gian để kết án thế gian nhưng là để cho thế gian nhờ Người mà được cứu “ ( Ga 3, 16 ). Con người chúng ta chỉ có thể vươn lên, vượt thắng khi dứt bỏ bóng tối để trở về với ánh sáng, bằng việc ngước nhìn lên. Ngước lên như dân Do Thái xưa trong sa mạc bị rắn độc cắn đã nhìn lên con rắn đồng được treo trên cây gỗ. Trong Tin Mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu đã phán:” Người phải được nhắc lên hay nâng lên “. Nhắc lên hay nâng lên ám chỉ Ngài bị đóng đinh trên thập giá. Đối với tử tội Do Thái xưa mà người Roma đã áp đặt, đó là họ bị đóng đinh trên thập tự giá gỗ. Đây là cái chết bi thảm trong mọi cái chết của tử tội. Thập giá xem ra là một thất bại ê chề chứ không phải là một chiến thắng. Tuy nhiên, đức tin cho hay thập giá là vinh quang, là chiến thắng. Chúa đã đánh tan sự chết và chiến thắng tử thần.Chính vì yêu, chính vì tự nguyện theo ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chấp nhận bị đóng đinh trên thập giá bởi vì:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ) . Cái chết đối với Chúa là vinh quang, là khải hoàn như lời tung hô Thánh Thể, chúng ta kêu lên với Chúa chúng ta rằng:” Bằng sự chết của Ngài, Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta “. Chính trong lời nguyện nhập lễ của thánh lễ cầu hồn, chúng ta đọc thấy:” Trong Đức Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, niềm hy vọng về sự sống lại của chúng ta đã ló rạng. Nỗi buồn về sự chết sẽ đưa tới lời hứa rạng ngời của sự bất tử. Đối với các tín hữu, sự sống thay đổi, chứ không mất đi. Khi thân xác của chúng ta ở trên mặt đất này chết đi thì chúng ta sẽ được đưa đến một nơi ở vĩnh viễn trên trời “.
Ngày nay, loài người, con người và chúng ta được cứu độ khi nhìn lên thập giá của Chúa Kitô:” Khi nào Ta được nâng lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “ và “ Nơi Người ơn cứu độ chứa chan “. Thập giá không phải là cái gì thảm bại, không phải là sự ê chề, không phải là sự bi thảm. Thập giá là một khải hoàn ca. Bởi vì trong sự vinh quang của Chúa Kitô, con người được thông dự vào sự sống mới, sự sống trường sinh. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống nơi người Con của Người là Đức Kitô và chỉ nơi cái chết trên thập giá của Đức Kitô con người mới có sự sống vĩnh cửu.
Thánh Công Đồng Vaticanô trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 39 đã viết:” Được hình thành bởi tội lỗi, và bóng tối của thế gian này sẽ qua đi. Khi chúng ta được dạy rằng Thiên Chúa đã sửa soạn cho chúng ta một nơi ở mới và một miền đất mới, nơi đó sự công bình sẽ ngự trị và tất cả những người được chúc phúc sẽ được nhận lời, điều đó vượt quá sự khao khát bình an của con người trên trái đất này “.
Thập giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa Cha trao ban cho nhân loại qua người Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để nhận ra tình thương và tình yêu của một Con Người đã hiến mạng sống cho nhân loại tất cả vì yêu.
Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Amen ( Lời nguyện nhập lễ, Chúa nhật IV Mùa chay ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Thế nào là bòng tối ? Thế nào là ánh sáng ? 2.Đối với người Do Thái xưa, thập giá có nghĩa gì ? 3.Con rắn đồng ám chỉ gì ? 4.Được” Nâng Lên “ theo Chúa Giêsu có nghĩa gì ? 5.Ông Bà Anh Chị Em có yêu mến thánh giá không ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 3:14-21)
Con rắn đúc bằng đồng đã được ông Mô-sê treo lên thật cao ở giữa trại của dân Do-thái trên: MC4-B82
Con rắn đúc bằng đồng đã được ông Mô-sê treo lên thật cao ở giữa trại của dân Do-thái trên đường họ trở về Đất Hứa là biểu tượng cho tình yêu chữa lành của Thiên Chúa. Những ai bị rắn độc cắn cứ nhìn lên tượng rắn đồng ấy là được cứu chữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, hình ảnh Chúa Giê-su bị treo cao trên thập giá không phải là một biểu tượng nữa, mà là hiện thực, là tình yêu Thiên Chúa nhập thể được tỏ ra cho nhân loại. Con rắn bằng đồng chỉ là vật vô tri, bất động và khả năng biểu lộ rất giới hạn. Trái lại, một Chúa Giêi-su bằng xương bằng thịt bị treo trên thập giá trên đồi Can-va-ri-ô, quằn quại đau đớn và “hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Gio-an 15:13), phải là cách thức sống động nhất để chứng minh cho “chân lý toàn vẹn” (16:13), là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Tình yêu đích thực phải nhắm tới lợi ích của người mình thương yêu. Mục đích Thiên Chúa nhắm đến khi yêu thế gian là để mọi người “khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tội lỗi đã chích nọc độc của nó vào nhân loại, gây nên sự chết cho mọi người, chết phần xác cũng như phần hồn. Đứng trước sự hư mất của toàn thể nhân loại, Thiên Chúa là tình yêu và lòng thương xót không thể khoanh tay bỏ mặc, nhưng Người muốn họ được cứu và được sống. Tình Yêu đã hứa hẹn sẽ ban ơn cứu độ cho loài người ngay sau khi tổ tông phạm tội. “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (Sáng Thế 3:15). Lời hứa cứu độ được thể hiện khi Con Một Thiên Chúa được sai đến trần gian, vì lời hứa của Tình Yêu đích thực thì luôn trung thành. Hôm nay trong cuộc đàm thoại với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã nói đến lời hứa này của Tình Yêu và Người còn báo trước về cao điểm của Tình Yêu sẽ được biểu lộ qua cái chết của Người: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Để con người được cứu độ, Thiên Chúa không đòi hỏi họ phải làm công việc đội đá vá trời ngoài khả năng họ, nhưng chỉ cần tin vào Con của Người thì được sống muôn đời. Tại sao chúng ta có thể dễ dàng tin vào những lời đường mật của tình yêu con người, trong khi lại không chịu tin vào Tình Yêu đích thực và vô điều kiện của Thiên Chúa? Hơn nữa, lời hứa của Tình Yêu Thiên Chúa đã được thực hiện và chứng tỏ sự trung thành của Người, trong khi lời hứa của người đời thường lại là lời hứa cuội. Sau cùng nếu Chúa Ki-tô “sẽ phải được giương cao” thì chúng ta cũng sẽ phải tin vào Tình Yêu Thiên Chúa. Đó là phương thức tình yêu cứu độ được khởi đi từ Thiên Chúa đến loài người và từ loài người trở về với Thiên Chúa. Tình Yêu là con đường cứu độ nối liền giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với nhân loại.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ chúng ta đã nghe, đã nói quá nhiều về tình yêu đến độ không còn muốn khám phá thêm gì nữa! Hôm nay hơn một lần Tin Mừng không ngần ngại lập lại sứ điệp tình yêu. Chúng ta không thể bỏ qua sứ điệp này khi mừng Chúa Giê-su giáng sinh, Tình Yêu nhập thể đến với chúng ta. Chúng ta cũng không thể bỏ qua sứ điệp này khi chuẩn bị tưởng niệm Chúa chết trên thập giá, Tình Yêu sẵn sàng thí mạng mình vì chúng ta.
Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa là một sự thật. Chắc chắn mỗi khi nhận được từ nơi người khác một tình yêu “thật”, chúng ta cảm thấy hạnh phúc biết bao. Vậy có khi nào chúng ta nghĩ đến khía cạnh “thật” của tình yêu Thiên Chúa không? Sự thật của tình yêu ấy được minh chứng qua Chúa Giê-su, cho nên muốn cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, chúng ta cứ cảm nghiệm về Chúa Giê-su. “Thầy đây, không phải là ma đâu!” Cũng vậy, tình yêu Thiên Chúa không phải là tình ma, nhưng là tình yêu đến cùng, đến giọt nước và giọt máu cuối cùng chảy ra từ trái tim nhân loại của Thiên Chúa!
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt: MC4-B83
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Ki-tô. Tái tạo hay phục hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh tình yêu qua hành động Thiên Chúa “sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3:17).
1. Lịch sử Ít-ra-en: yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Ít-ra-en bất trung với Thiên Chúa và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Ít-ra-en. Lịch sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en. Lịch sử khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa.
Người đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại của Ít-ra-en. Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy, sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5:20).
Tuy nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng phạt Ít-ra-en. Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Ít-ra-en? Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình thương yêu con cái.
Để hiểu rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn của dân Ít-ra-en làm cho Thiên Chúa “bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa”. Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Ít-ra-en để tạo điều kiện và hô hào dân Ít-ra-en xây dựng Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: “Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” Rõ ràng là Thiên Chúa không “quá giận mất khôn” như ta nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên Chúa: “Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:21). Đất có được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy, những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Ít-ra-en tăng triển lòng tin và trung thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Ít-ra-en, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Ki-tô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả. Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Ki-tô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Ki-tô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô và của ta nữa. Chúa Ki-tô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
3. Qua Chúa Ki-tô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước – Ep 2:4-10)
Thánh Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Ki-tô. Hai nhà thần học tiên khởi của Ki-tô giáo cùng nhìn một vấn đề, nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung: Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của tổ tông lại “được cùng sống với Đức Ki-tô”. Đây chính là điều ta cần phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên Chúa mới tạo điều kiện cho ta “được cùng sống với Đức Ki-tô”, nghĩa là cùng với Chúa Ki-tô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Ki-tô đã khai mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là ta phải “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp” của Thiên Chúa, tức công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2:6).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một hành trình sức sống mới, sống như “tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong Đức Ki-tô”. Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành trình sức sống mới này còn là một “ân sủng” Thiên Chúa ban cho ta vì Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ phía chúng ta vậy.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).
Trong khi các sách Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca kể lại ba lần Chúa Giê-su tiên báo: MC4-B84
Trong khi các sách Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca kể lại ba lần Chúa Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó của Người sẽ xảy ra tại Giê-ru-sa-lem thì Tin Mừng Gio-an lại không hề nói đến việc tiên báo ấy. Mục đích của các lần tiên báo là để các môn đệ hiểu rõ sứ mệnh của Đấng Ki-tô là gì. Còn thánh Gio-an, tuy không kể lại việc tiên báo, nhưng ngài cho ta một dịp khác để lắng nghe Chúa Giê-su nói về sứ mệnh Đấng Ki-tô mà Người sẽ hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem. Đó là trong cuộc đàm thoại với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã nói với ông về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và sứ mệnh của “Con Người, Đấng từ trời xuống”. Càng tiến gần tới ngày lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng muốn trình bày rõ ràng hơn về sứ mệnh đích thực của Chúa Giê-su, Đấng Ki-tô, hoặc Con Người.
a) “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”
Ông Ni-cô-đê-mô là môn đệ bí mật của Chúa Giê-su. Mặc dù thuộc hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo Do-thái, nhưng ông rất phục Chúa Giê-su, lắng nghe học hỏi những điều Người giảng dạy và ông thường đến gặp Chúa vào ban đêm, để tránh tai mắt và nghe Chúa giải thích cặn kẽ giáo lý của Người. Không những vậy, ông còn muốn tiến xa hơn trong niềm tin vào Người, cho nên ông muốn hiểu rõ sứ mệnh của Người.
Câu chuyện bắt đầu từ vấn đề làm thế nào để được vào Nước Thiên Chúa, tức là phải lãnh nhận Phép Rửa Mới và Thánh Thần. Chúa Giê-su đã giải thích cho ông phải mặc lấy con người mới nhờ Bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thần, rồi Chúa dẫn ông đi từ lãnh vực hiểu biết sang lãnh vực đức tin. Chúa muốn ông lấy đức tin đón nhận những gì Người sẽ mặc khải cho ông biết về sứ mệnh của Người. Với thế giá là “Đấng từ trời xuống”, Người tỏ cho ông và mọi người được biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và sứ mệnh Thiên Chúa muốn Người phải thi hành. Vậy sứ mệnh của Đấng Ki-tô là: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14). Hình ảnh “Con Người phải được giương cao” cũng giống với hình ảnh Chúa Giê-su đã tiên báo theo sách Tin Mừng Nhất lãm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10:33-34). Nói khác đi, hình ảnh Con Người được giương cao chính là hình ảnh Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá.
Khi nói với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su dùng hình ảnh tương tự là con rắn đồng của ông Mô-sê để nói về sứ mệnh của Người. Tuy có những điểm giống nhau, nhưng giá trị và hiệu quả của việc được giương cao lại khác nhau một trời một vực. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa bảo ông Mô-sê: “Ngươi hãy làm một con rắn (bằng đồng) và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21:8). Con rắn do ông Mô-sê đúc là con rắn bằng đồng. Nó cứu mạng sống cho những người bị rắn cắn nhìn lên nó, nhưng cũng chỉ là mạng sống ở đời này. Còn trong Tân Ước, Chúa Giê-su bằng xương bằng thịt đã bị đóng đinh vào thập giá. Nhân loại bị nọc độc của tội lỗi hãm hại và cướp đi sự sống đời đời. Giờ đây, khi nhìn lên thập giá, nếu ai tin vào Đấng được giương cao trên thập giá thì được sống muôn đời. Không phải chỉ nhìn lên Chúa Giê-su như khách bàng quan nhìn tên tử tội. Nhưng là TIN vào Người, một hành động của ý chí và con tim. Không phải Người chỉ cứu ta để sống đời sống tạm bợ trần gian này, mà Người sẽ ban cho ta sự sống đời đời. Được sống đời đời là mục đích tối hậu của kế hoạch cứu độ. Thiên Chúa Cha đã đặt ra kế hoạch cứu độ loài người và Người sẽ thi hành kế hoạch ấy nhờ Chúa Ki-tô.
b) Thiên Chúa thi hành kế hoạch cứu độ
Sau khi nói cho ông Ni-cô-đê-mô biết Người phải được giương cao, tức là phải chết ô nhục trên thập giá để cứu độ loài người, Chúa Giê-su giải thích Thiên Chúa thi hành kế hoạch như thế nào và vai trò của Người trong việc thi hành kế hoạch ấy. Tất cả đoạn Tin Mừng tiếp theo (Ga 3:16-21) là để giải thích sứ mệnh của Đấng Ki-tô.
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa nảy sinh từ trái tim của Người. Vì yêu, Người nhất quyết phải có một kế hoạch. Kế hoạch ấy là “ban Con Một”. Có lẽ ta dễ hiểu lầm hành động “ban” như là ban phát, cho đi một món quà. Đọc lại những lời Chúa Giê-su tiên báo về cuộc Thương khó, ta sẽ thấy việc “ban Con Một” là cả một hy sinh khó khăn vô cùng. Con Một ấy chẳng những không được thế gian tiếp nhận, mà còn bị thế gian hành hạ và giết chết. Được sai đến thế gian, Đấng Ki-tô mang sứ mệnh làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian, cho dù phải hy sinh mạng sống. Đấng Ki-tô đã tùng phục thánh ý Chúa Cha, vui lòng chịu chết, chịu giương cao trên thập giá để làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thế gian và muốn cứu độ thế gian. Vì yêu mến Chúa Cha và vì yêu thương nhân loại, Chúa Giê-su đã sống điều Người giảng dạy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13). Quả thực hy sinh mạng sống là một sứ mệnh khó khăn chứ không phải ban phát hoặc cho đi món quà một cách dễ dàng như ta tưởng.
Vấn đề của Thiên Chúa là mặc dù biết có nhiều người không muốn tiếp nhận “món quà tình yêu” Người ban tặng, nhưng Người vẫn nhắm mục đích muốn cứu độ con người nên không đổi ý. Mặc dù biết Con Một sẽ bị hành hạ và bị giết chết, nhưng Thiên Chúa vẫn nhất quyết cho loài người thấy Người yêu thương họ như thế nào. Vấn đề của Thiên Chúa đã được giải quyết là nhờ sự tuân phục của Đấng Ki-tô, Con Một Người. Còn vấn đề của loài người là tiếp nhận hay không tiếp nhận ơn cứu độ thì mỗi người phải có một câu trả lời.
c) “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi”
Sau khi trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giê-su nói đến trách nhiệm hay sự đáp trả của ta, những người có bổn phận phải “tin vào Con của Người” để được cứu độ. Chúa Giê-su cho ta thấy hai loại người: những người chuộng bóng tối hơn ánh sáng và những người sống theo sự thật.
Chúa Giê-su được sai đến làm ánh sáng cho thế gian. Nhưng có nhiều người lại thích thế gian hơn ánh sáng, không muốn để cho ánh sáng giúp họ nhìn thấy Chúa là Đấng nào và họ là ai, hoặc không muốn bước đi trong ánh sáng Tin Mừng của Chúa Ki-tô, mà lại thích ở lại trong bóng tối của tội lỗi thế gian. Còn những người sống theo sự thật là những người sống theo Tin Mừng cứu độ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Nói cách khác, sống theo sự thật là biết thực lòng đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, hoặc tin vào Con Thiên Chúa. Tin bằng cách mở tâm hồn đón nhận tất cả những điều Con Thiên Chúa dạy và để cho con người và lối sống của Chúa Giê-su nắn đúc họ đến mức độ đối với họ “sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21). Họ để cho ánh sáng Tin Mừng soi dẫn cuộc sống và giúp cho mọi việc họ làm được hoàn tất trong tinh thần của Thiên Chúa chứ không phải trong gian trá của thế gian. Nói tóm lại, tin không thể hiểu là một thái độ mơ hồ, phát biểu bằng lời nói chứ không phải bằng việc làm. Nhưng tin vào Con Thiên Chúa là phát triển mối quan hệ yêu thương với Người, để nhờ yêu mến Chúa ta sẽ dần dần biến cải con người mình đạt tới mức trưởng thành trong Chúa Ki-tô.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Mỗi lần nhìn lên hình ảnh Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thánh giá, tôi có nhớ lại những lời Người nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” không? Tôi có những tâm tình nào khi lắng nghe những lời ấy?
Thiên Chúa Cha luôn luôn muốn cứu độ mọi người, nhưng không phải hết mọi người đáp trả ý định nhân lành của Người. Tôi có ở trong số những người ấy không? Tôi có vô tình trước ý muốn tha thiết của Thiên Chúa không?
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa của việc Chúa “ban Con Một” cho tôi không? Ngoài ý nghĩa phổ quát của ơn cứu độ, có bao giờ tôi suy nghĩ về ý nghĩa cá nhân của ơn cứu độ không? Suy nghĩ ấy có giúp tôi tích cực hơn trong việc đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không?
“Sự thật” mà Chúa Giê-su đòi tôi phải sống theo là sự thật nào? Tôi có một chương trình nào để sống theo sự thật ấy trong mùa Chay và sau mùa Phục Sinh này không?
Cầu nguyện
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá bao lâu tùy ý Cha định liệu. Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giua74 nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen. Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng. Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.” - Cha Karl Rahner
Thánh Phao-lô rao giảng Tin Mừng tại Ê-phê-xô trong chuyến hành trình truyền giáo thứ ba: MC4-B85
Thánh Phao-lô rao giảng Tin Mừng tại Ê-phê-xô trong chuyến hành trình truyền giáo thứ ba. Ngài ở lại đó trên hai năm (54-57) và đưa về rất đông anh chị em tân tòng. Thư này ngài viết cho họ từ trong tù ở Rô-ma, nhắc nhở họ rằng theo kế hoạch cứu độ, việc họ được tuyển chọn và cứu rỗi là hoàn toàn do ân huệ của Thiên Chúa.
So sánh đoạn thư Ep 2:4-10 với Rm 6:3-11 cho thấy tuy quảng diễn cùng một chủ đề giáo lý, nhưng thánh Phao-lô đặt vào hai thời điểm khác nhau. Thư Rô-ma coi ơn được cùng sống lại và ngự trị với Đức Ki-tô như thực tại sẽ xảy ra trong tương lai, còn thư Ê-phê-xô coi đó là một thực tại đã có. Các động từ trong đoạn thư Ep đặt ở thì quá khứ với mục đích đề cao tính cách chủ động của Thiên Chúa: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” Thánh Phao-lô cũng lập đi lập lại kết luận: “Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ!” Vậy bởi đâu chúng ta được ban ân sủng này và chúng ta phải đền đáp ân sủng này như thế nào?
a) Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta
Mọi ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta đều phát xuất từ lòng thương xót và yêu mến của Người. Lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa không chỉ tỏ ra đối với người Do-thái, mà còn đối với Dân ngoại nữa, nghĩa là đối với mọi người không trừ ai. (Nếu đọc các câu 1-4, sẽ thấy thánh Phao-lô phân biệt: “anh em” tức là Dân ngoại hoặc tín hữu Ê-phê-xô, còn “chúng tôi” tức là người Do-thái, và “chúng ta” tức là cả Dân ngoại lẫn Do-thái). Lòng thương xót và yêu mến của Chúa không giới hạn đối với chủng tộc đã đành, nhưng hơn thế nữa, lại còn không giới hạn đối với tình trạng bất xứng của họ nữa. Người dân ngoại thì “đã chết vì những sa ngã và tội lỗi” hoặc như “những kẻ không vâng phục.” Còn người Do-thái thì “buông theo các đam mê của tính xác thịt” và “đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.” Nhưng những trở ngại ấy không ngăn chặn được lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa. Và đây cũng là một điệp khúc được Kinh Thánh, đặc biệt là các Thánh Vịnh, luôn tuyên xưng: “Vì tình Người thương ta bền vững muôn đời” hoặc “Tôi sẽ ca tụng lòng thương xót của Chúa đến muôn đời.”
Để tỏ ra lòng thương xót và yêu mến vô bờ ấy, Thiên Chúa đã làm gì? Nhìn lại thân phận mình, chúng ta hết thảy đều thấy mình “đã chết vì sa ngã.” Tuy nhiên, vì yêu mến và thương xót chúng ta, Chúa không muốn chúng ta phải chết luôn và phải hư mất, nhưng Người muốn chúng ta được cùng sống lại với Đức Ki-tô, cùng sống với Đức Ki-tô và cùng ngự trị với Đức Ki-tô. Tiến trình sống lại – sống – ngự trị cùng với Đức Ki-tô đã trở thành một thực tại cho người tín hữu khi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Thực tại này có được là hoàn toàn do ân sủng Thiên Chúa, chứ không phải bởi sức riêng hay việc làm của chúng ta.
b) Chúng ta phải làm gì để đáp lại lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa?
Nhận ra lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa phải là thái độ căn bản. Thật là vô ơn và vô tình nếu chúng ta không muốn nhìn nhận mình được Thiên Chúa yêu mến và xót thương. Cội nguồn của chúng ta là đến từ tình yêu thương của Thiên Chúa tạo dựng. Hoặc nói như thánh Phao-lô: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa.” Tác phẩm mang những đường nét đặc thù của nghệ sĩ. Chính nơi chúng ta đang mang đầy vết tích của lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa.
Mô tả rõ ràng hơn về “tác phẩm của Thiên Chúa,” thánh Phao-lô khẳng định: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su.” Đức Ki-tô đã trở thành một khuôn mẫu sống động để chúng ta được biến đổi khi kết hiệp với Người. Việc tạo dựng mới này không xảy ra trong một giây phút cố định, nhưng là tiến trình liên tục trở nên giống Chúa Ki-tô mỗi ngày một hơn. Tu đức học sử dụng những từ khác nhau để nói về tiến trình này, như trở nên giống Chúa Ki-tô, được Ki-tô hóa.
Nghĩa là lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa vẫn sẵn sàng cho chúng ta được sống lại từ tình trạng chết bởi tội lỗi, được sống theo khuôn mẫu Đức Ki-tô và đem chúng ta tiến đến vinh quang của Đức Ki-tô mỗi ngày một gần hơn. Đó cũng là “công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.”
c) Để nên giống Chúa Ki-tô
Đây không chỉ là một chương trình đặc biệt dành cho mùa Chay mà thôi, nhưng cho tất cả cuộc sống của chúng ta mọi lúc và mọi nơi. Thánh I-nhã thành Loyola đã để lại cho chúng ta một phương thức trở nên giống Chúa Ki-tô qua kinh nghiệm tu đức Linh Thao của ngài. Chiêm ngắm Chúa Ki-tô trong các mầu nhiệm của Người sẽ giúp chúng ta biết Người rõ hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và bước theo Người sát hơn. Biết, yêu mến và bước theo Chúa Ki-tô là những cảm nghiệm sẽ dần dần biến đổi con người của chúng ta bằng cách mặc lấy những tâm tình của Người và thể hiện cũng những tâm tình ấy qua đời sống hằng ngày của chúng ta.
Các bài đọc Tân Ước trong mùa Chay cho chúng ta những hình ảnh gương mẫu của Đức Ki-tô, đặc biệt nhất là hình ảnh Con Yêu Dấu của Chúa Cha. Hình ảnh ấy luôn ở trước mắt chúng ta để chúng ta nhìn ngắm, yêu mến, đối chiếu với cuộc sống mình và khích lệ tinh thần chúng ta trong hành trình sống lại – sống với – ngự trị cùng với Chúa Ki-tô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Nhìn lại cuộc sống cá nhân, tôi căn cứ vào những gì để nhận biết Chúa thương xót và hết mực yêu mến tôi?
Tôi có quan tâm tới thực tại được sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô như một ân sủng được Thiên Chúa ban nhưng không không? Không để ý tới thực tại này đã gây nên thiệt hại nào cho đời sống đức tin của tôi? Tôi phải sửa lại thế nào? Tôi có thể cầu nguyện với bài Tin Mừng Gio-an 3:14-21, quảng diễn cùng một chủ đề.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể đọc lời nguyện sau đây: Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi. Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự và dâng Người tình yêu trong mọi lúc. Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. - R. Tagore (Trích RABBOUNI, lời nguyện 44)
Tại Hoa-kỳ này, có một câu nói dễ làm cho chúng ta bị lẫn lộn, không biết đâu mà dò, đó là ba: MC4-B86
Tại Hoa-kỳ này, có một câu nói dễ làm cho chúng ta bị lẫn lộn, không biết đâu mà dò, đó là ba tiếng “I love you.” Một bà mẹ nói với đứa con ba tiếng đó một ngày không biết bao nhiêu lần, mà hầu hết chẳng bao giờ ý thức mình nói cái gì. Đứa con nghe hoài ba tiếng đó đã quen nên cũng chẳng cần đặt câu hỏi có thực mẹ tôi thương tôi hay không và biểu lộ tình thương như thế nào. Cho nên thường thường trong xã hội này, người ta biểu lộ hoặc đón nhận tình yêu một cách rất hờ hững, tựa như một hình thức hoàn toàn bề ngoài không có nội dung gì cả.
Nhưng mỗi lần Kinh Thánh lập lại lời của Thiên Chúa nói với chúng ta: “Ta yêu con...” hoặc “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian...” thì không phải chỉ là ba tiếng “I love you” hời hợt, mà là những lời tha thiết, được trưng dẫn với những bằng chứng hùng hồn, cảm động của Đấng đã được thánh Gio-an Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu.” Câu truyện Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đàm thoại thân mật giữa ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, với Chúa Giê-su, Đấng từ trời xuống, nói về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Qua cuộc đàm thoại này, những lời xác quyết của Chúa Giê-su “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” là cả một luận đề trình bày kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Vậy kế hoạch yêu thương ấy như thế nào? Chúng ta hãy căn cứ vào chính những lời rành mạch của Chúa Giê-su để hiểu về kế hoạch ấy.
Trước hết, đó là một kế hoạch đã được Thiên Chúa phác họa, loan báo và thi hành. Không phải tự con người biết được kế hoạch ấy, mà là chính Thiên Chúa đã mạc khải cho loài người. Làm gì có ai lên đến trời để tìm biết xem Thiên Chúa yêu thương nhân loại như thế nào đâu! Nhưng chỉ có Chúa Giê-su, Đấng từ trời xuống, mới có thể tỏ ra cho chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa như thế nào. Vậy kế hoạch tình yêu đã được chính miệng Ngôi Lời Nhập Thể loan báo cho nhân loại. Thiên Chúa loan báo bằng Lời của Người chưa đủ, Người còn giương cao lên một dấu hiệu giúp họ nhận biết tình yêu của Người. Dấu hiệu đó là: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy.”
Tiếp đến, khi nói về tình yêu, người ta hay nói một cách trừu tượng, lý thuyết suông, chứ không phải là nói có sách, mách có chứng. Còn ở đây, Chúa Giê-su nói về tình yêu Thiên Chúa với chứng cớ rõ ràng. Chứng cớ đó chính là việc Chúa Cha sai Con Một đến, bằng xương bằng thịt như chúng ta, mặc lấy thân phận con người như chúng ta. Sống giữa nhân loại, Chúa Giê-su đã là chứng cớ sống động của tình yêu Thiên Chúa. Người đã rao giảng Tin Mừng, đã chữa lành, và theo lời giảng của thánh Phê-rô, Chúa Giê-su đã “đi tới đâu là thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10:38). Những phép lạ Người làm đều nhắm mục đích để người ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Chứng cớ mạnh mẽ nhất, hùng hồn nhất, đó là cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. “Không ai có tình thương lớn lao tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13). Nói tóm lại, tất cả những gì Chúa Giê-su nói hay làm, không phải cho Người hay vì Người, nhưng là để làm chứng một điều duy nhất: Thiên Chúa yêu thương nhân loại.
Sau khi cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ cho loài người qua những hành động cụ thể, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến mục đích của kế koạch tình yêu ấy. Yêu ai thực sự tức là nhắm mục đích tốt cho người ấy. Chúa Giê-su dạy: Có ai trong anh em là một người cha, mà khi con cái xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? (Lc 11:11). Vậy phác họa một kế hoạch tình yêu, Thiên Chúa muốn nhắm tới mục đích tốt, mục đích tối hậu, đó là “để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Dân Do-thái hồi lưu lạc trong sa mạc đã quý trọng sự sống phần xác của họ, nên đã đến với ông Mô-sê và xin ông cứu giúp họ. Ông Mô-sê đã cho giương cao giữa trại một con rắn làm bằng đồng, để những ai bị rắn độc cắn sẽ ngước nhìn lên đó và lập tức mạng sống của họ được cứu chữa. Cũng một cách tương tự như vậy, Thiên Chúa đã giương cao lên giữa đỉnh đồi Can-va-ri-ô chính Con Một Người bị đóng đinh vào thập giá, để toàn thể nhân loại đã bị rắn độc của tội lỗi cắn sẽ nhìn lên Người, tin vào quyền năng của tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa thì sẽ được sống và được sống đời đời.
Chúng ta hết thảy đều được mời gọi và có quyền tham dự vào kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa. Ơn cứu độ là ơn phổ quát, dành cho mọi người mọi thời. Lời Chúa trong mùa Chay lập lại sứ điệp Tin Mừng này để nhắc nhở chúng ta về tình yêu đích thực của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng trong những Chúa Nhật trước đã cho chúng ta thấy những hình ảnh trung thực về Chúa Giê-su là Người Con tôn kính thánh ý Chúa Cha nên thắng vượt được mọi cám dỗ, là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, là người đầy lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, và qua bài Tin Mừng hôm nay là một dấu chỉ cái chết thập hình, được giương cao để nói lên tình yêu của Thiên Chúa yêu nhân loại. Theo cùng một con đường Chúa Giê-su đã đi, nếu chúng ta cùng với Người muốn làm những người con yêu dấu của Thiên Chúa, thì ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để giương cao chính cuộc sống chúng ta, một cuộc sống Ki-tô hữu đích thực, để người ta nhìn thấy những việc chúng ta làm mà ngợi khen tôn vinh Cha chúng ta ở trên trời, hoặc để “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau.”
Trong thời gian dân Do Thái đi trong sa mạc về đất Chúa hứa, họ gặp khó khăn, đói khát. Họ đã: MC4-B87
Trong thời gian dân Do Thái đi trong sa mạc về đất Chúa hứa, họ gặp khó khăn, đói khát. Họ đã kêu trách Chúa bỏ họ. Bởi thế lũ rắn độc xuất hiện và cắn nhiều người phải chết. Thấy thế, họ kinh hoàng than khóc ăn năn. Chúa thương cứu họ, bảo ông Moisen đúc con rắn đồng treo lên cao. Ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên đó thì khỏi phải chết.
Hình ảnh đó tưởng nhớ đến Chúa Giêsu vì thương yêu nhân loại lỗi lầm, đã nộp mình chịu chết treo trên khổ giá, để ai tin Người, nhìn lên Người thì được cứu rỗi.
Kinh Thánh còn giới thiệu Isaac là hình bóng Chúa Giêsu, vì Isaac là người con độc nhất của Abraham vác củi đi làm lễ hy tế. Chúa Giêsu cũng là Con Một Chúa Cha vác Thập Giá làm lễ hy sinh chuộc tội cho thiên hạ.
Câu chuyện sách các vua cũng kể lại rằng:
Về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng đến nỗi dưới thời vua Êzêkya, ông đã cho phá huỷ con rắn đồng mà Moisen đã làm. Vì cho đến thời đó, con cái Israel vẫn đốt hương kính bái nó. Và các đạo sĩ giải thích như sau: Không phải con rắn đã ban sự sống, khi Moisen treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho ông làm như thế. Chính Thiên Chúa đã chữa lành cho họ! Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng chỉ cho người ta hướng về Thiên Chúa và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Ngày nay Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời! Từ ngữ “treo lên” được Chúa Giêsu dùng có hai ý nghĩa: Thứ nhất là việc Chúa bị treo lên Thập Giá. Thứ hai là việc Chúa được cất lên để vào sự vinh hiển lúc Ngài về trời. Cả hai sự việc ấy liên hệ với nhau bất khả phân ly. Với Chúa Giêsu, Thập Giá là con đường tiến đến vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, nếu người Kitô hữu khước từ Thập Giá, chúng ta sẽ mất vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: Không có Thập Giá thì không có mũ triều thiên.
Bước theo Thập Giá Chúa Giêsu lên đồi Canvê là chúng ta thực hành đức tin, là đi theo ánh sáng Phúc Âm của Chúa. Ánh sáng đó là niềm vui hoan lạc dẫn đường chỉ lối cho những ai khao khát sự thiện, nhưng lại làm chói mắt cho kẻ dữ. Thậm chí những ai làm điều ác thì ghét ánh sáng, vì sự sáng tố cáo các hành động của họ. Còn những ai yêu mến sự thiện thì Lời Chúa sẽ là ánh sáng dẫn đường cho họ tiến về quê trời. Thập Giá cứu độ là niềm hoan lạc của muôn dân đợi trông từ bao ngàn năm, hằng luôn đặt niềm hy vọng vào Chúa. Vì Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Ngài nhân lành đối với con người ngay từ khi nguyên tổ vừa lỗi phạm. Diễn tiến lòng nhân từ Chúa trải qua khắp mọi đời. Từ sự việc Cain phạm tội thấu trời, tới sự ương ngạnh của dân riêng Do Thái trong sa mạc, cho đến khi họ giết cả Con Một Thiên Chúa. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu giảng dạy rất nhiều về tình thương xót: Việc người Cha mong đợi người Con hoang đàng trở về; Ngài đến để cứu với tội nhân; Ngài thương đoàn chiên Chúa thiếu mục tử; tình Ngài như gà mẹ ấp ủ đàn gà con dưới cánh v.v. Như vậy không chút nghi ngờ gì nữa, nhờ tin yêu vào sự khổ nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta cũng được tái sinh nhờ phép rửa tội và trở nên nghĩa tử của Chúa. Nhờ các bí tích của Giáo Hội, linh hồn chúng ta còn được lớn mạnh lên trong ơn nghĩa thánh, như thánh Phaolo nói: “Tội lỗi tuy nhiều nhưng ân sủng lại gấp bội”. Và cứ vững tin vào tình yêu thương xót và công nghiệp của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ chiếm được quê hương Nước Trời, là niềm hạnh phúc nhất cho mọi tâm hồn, đó cũng là điều Chúa hứa ban cho hết mọi người thiện tâm.
Như thế chúng ta biết sự sống đời đời quí báu biết chừng nào. Phúc Âm hôm nay nói rõ ràng rằng: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình để tất cả những ai tin thì không hư mất, nhưng được sống đời đời.
Chúng ta còn biết rằng Thiên Chúa là nguyên lý sự sống, là nguồn mạch sự sống, là Đấng Hằng Sống. Chính Chúa đã sáng tạo địa cầu và chúc phúc cho mọi thứ sinh sôi nảy nở khắp mặt đất. Thế mà Chúa không hề phung phí sự sống. Chúa rất tiếc cho số phận phải hư đi. Vì thế Chúa hứa ban ơn cứu chuộc để tái sinh địa cầu do tội tổ tông. Con Một Chúa xuống trần chịu đau thương nhục nhã để chuộc lại sự sống và ban “Bánh Hằng Sống” làm lương thực nuôi linh hồn. Hiện nay chúng ta nhìn vào vũ trụ với nền văn minh tột độ, sống hưởng thụ về vật chất cao độ và về cuộc sống tinh thần thì rất phong phú đa dạng. Thoáng xem có vẻ lạc quan với nhiều người, nhưng kỳ thực có những người đang ở trong sự chết, sự chết của tội lỗi và các dục vọng xấu xa. Số người khác lại sống mơ hồ, đầy hão huyền, sống mà không đem lại một lợi ích gì cho đời sống mai sau. Còn sự sống đích thực ta phải yêu mến là sự bình an với Thiên Chúa, an hoà với tha nhân. Sống với tình yêu Thiên Chúa và với tình yêu đồng loại. Sống với niềm tin yêu hy vọng cho tương lai vĩnh cửu. Dùng của cải đời này để mua hạnh phúc nước trời. Dùng con tim nhỏ bé nơi mình để chiếm hữu được tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Ra công phục vụ tha nhân ở đời tạm để lãnh nhận triều thiên vinh quang Thiên Quốc. Đó mới là ý nghĩa cao đẹp cho đời sống nhờ tin nhận danh Chúa Kitô.
Vấn đề liên hệ Phúc Âm giữa ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 của Chu Kỳ Phụng Vụ A, B và C Như tuần: MC4-B88
Vấn đề liên hệ Phúc Âm giữa ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 của Chu Kỳ Phụng Vụ A, B và C
Như tuần trước đã nhận định, “chúng ta nên lưu ý là, chu kỳ Phụng Vụ Năm B bao giờ cũng theo Phúc Âm Thánh Ký Marcô. Tuy nhiên, có lẽ vì Phúc Âm Thánh Ký Marcô hơi ngắn, do đó, trong chu kỳ phụng vụ Năm B này, Giáo Hội đã phải sử dụng đến một số bài Phúc Âm của Thánh Gioan xen kẽ, như ở Mùa Vọng có Chúa Nhật Thứ Ba, ở Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có Chúa Nhật Thứ 2 (cho cả chu kỳ năm A và C), ở Mùa Chay sáu tuần có Chúa Nhật Thứ Ba, Tư và Năm, ở Mùa Phục Sinh Phúc Âm Thánh Gioan được sử dụng hầu hết cho cả ba chu kỳ, chứ không riêng gì chu kỳ B, trừ Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh có Chúa Nhật 17-21, và Lễ Chúa Kitô Vua (cho cả 3 chu kỳ)”. Tuy nhiên, trong Mùa Chay, nếu để ý kỹ, chúng ta còn thấy Phúc Âm Thánh Gioan cũng được Giáo Hội sử dụng cho cả chu kỳ Năm A (Chúa Nhật 3, 4 và 5) và C (Chúa Nhật 5) nữa.
Ở chu kỳ Năm A, các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 thứ tự như sau: Chúa Giêsu với chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu phục quang kẻ mù từ lúc mới sinh, và Chúa Giêsu hồi sinh Lazarô. Ở chu kỳ Năm B, Phúc Âm Thánh Gioan cho ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 thứ tự như sau: Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu nói chuyện với Nicôđêmô và Chúa Giêsu cho các môn đệ biết mầu nhiệm tử giá của Người. Ở chu kỳ Năm C, Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật thứ 5 về thân phận của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, bài phúc âm của Thánh Gioan này được Giáo Hội chọn đặt sau bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 4 về dụ ngôn người con hoang đàng, cũng như sau bài Phúc Ân Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 3 về nhu cầu cần phải thống hối ở chỗ sinh hoa kết trái như cây vả được chăm bón, bằng không sẽ chịu hậu quả của nó như những nạn nhân bất hạnh ở vụ tháp Siloe.
So sánh những bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý sắp xếp cho 3 Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay cho cả ba chu kỳ A, B và C trước Chúa Nhật Thương Khó và Tuần Thánh này, chúng ta có thể thấy được ngầm ý của Giáo Hội muốn bày tỏ cho con cái mình thấy toàn diện ý nghĩa Mùa Chay nói riêng và Mầu Nhiệm Cứu Độ nói chung. Ở chu kỳ Năm A, các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Mạc Khải Thần Linh cũng là Mầu Nhiệm Chúa Kitô, ở chỗ, Chúa Giêsu tỏ mình là Đường qua việc Người ban nước hằng sống Thần Linh cho chung nhân loại (được tiêu biểu nơi người phụ nữ ngoại lai Samaritanô) để họ có thể nhận biết Người, là Sự Thật qua phép lạ tiêu biểu Người phục quang cho một người Do Thái bị mù từ lúc mới sinh, và là Sự Sống qua phép lạ tiêu biểu Người hồi sinh bạn thân Lazarô của Người.
Ở chu kỳ Năm B, các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chúng ta thấy một yếu tố vô cùng quan trọng để đáp lại Mạc Khải Thần Linh, tức để chấp nhận Mầu Nhiệm Chúa Kitô, những gì các bài Phúc Âm của chu kỳ Năm A cho thấy, đó là yếu tố Đức Tin Tuân Phục, yếu tố để được Cứu Độ. Đó là lý do chúng ta thấy cả ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật 3, 4 và 5 của chu kỳ Năm B đều đã nhấn mạnh đến Đức Tin Cứu Độ: Ở bài phúc âm Chúa Nhật 3, dân Do Thái là thành phần thích xem dấu lạ muốn được cứu độ cần phải tin vào cuộc phục sinh của đền thờ thân xác Chúa Kitô sẽ bị họ ra tay triệt hạ, tàn phá; ở bài phúc âm Chúa Nhật 4, thành phần lãnh đạo dân Do Thái (được tiêu biểu nơi Nicôđêmô là thành viên của Hội Đồng Do Thái) vốn chuộng tối tăm hơn ánh sáng cần phải tin vào Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa để được sự sống đời đời; và ở bài phúc âm Chúa Nhật thứ 5, thành phần môn đệ của Chúa Giêsu, thành phần chứng nhân của Người nơi các dân nước (là thành phần được tiêu biểu nơi những người Hy Lạp đã xin các vị cho được gặp Chúa Giêsu bấy giờ) cần phải chấp nhận Đấng được Thiên Chúa tôn vinh trên thập giá.
Ở chu kỳ Năm C, chúng ta thấy những cuộc hội ngộ giữa Mạc Khải Thần Linh (chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A) và Đức Tin Tuân Phục (chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B) gặp nhau. Thật vậy, bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu dân Do Thái thích xem dấu lạ (theo chiều hướng của Phúc Âm năm B) muốn tin vào Chúa Kitô là Đấng Phục Sinh sẽ làm phép rửa Thánh Linh (theo chiều hướng của Phúc Âm năm A), thì họ cần phải hoán cải nội tâm bằng những việc làm cụ thể như cây vả sinh hoa kết trái (như trong bài Phúc Âm năm C). Bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu thành phần lãnh đạo dân Do Thái chuộng tối tăm hơn ánh sáng (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm B) muốn chấp nhận Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm A), họ phải là người con cả biết cùng cha vui mừng khi thấy em mình là thành phần hoang đường tội lỗi quay trở về nhà cha (như trong bài Phúc Âm năm C). Bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu thành phần môn đệ Chúa Kitô biết chấp nhận Đấng được tôn vinh trên thập giá (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm B), họ sẽ được Đấng Phục Sinh tái sinh về phần hồn, một việc tái sinh được tiêu biểu qua việc Người đã hồi sinh như Lazarô (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm A), nhờ đó, các vị mới có khả năng tái sinh trong Thần Linh, tức có quyền năng tha tội do Chúa Kitô ban cho, một quyền năng Người đã thực hiện nơi trường hợp người phụ nữ bị bắt quiả tang đang phạm tội ngoại tình đưa đến cho Người xét xử (như trong bài Phúc Âm năm C).
Vấn đề cứu độ của bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay Năm B
Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B của Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay, Giáo Hội muốn cho con cái mình thấy, trước hết là dự án cứu độ của Thiên Chúa, sau nữa là công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, và sau hết là điều kiện duy nhất để được cứu độ. Trước hết, về dự án cứu độ của Thiên Chúa, bài Phúc Âm đã trình thuật chính lời Chúa Kitô mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho con người được hiệp thông với Ngài bằng sự sống trường sinh: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian… để họ được sự sống trường sinh”. Thế nhưng, để thực hiện dự án cứu độ của mình, dự án muốn con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như mình (x Gen 1:26) có thể hiệp thông với Ngài, có thể được hoan hưởng Sự Sống Thần Linh vô cùng viên mãn và thiện hảo của Ngài, bài Phúc Âm cho biết thêm về lời mạc khải hết sức quan trọng của Chúa Kitô, đó là “Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất của Ngài” cho thế gian.
Tuy nhiên, công cuộc cứu chuộc không phải chỉ có thế, chỉ ở chỗ “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), mà còn ở chỗ, cũng theo lời mạc khải củaChúa Giêsu tỏ cho Nicôđêmô, “như Moisen treo con rắn lên trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như thế”. Đúng thế, công cuộc cứu độ loài người của Thiên Chúa đây chẳng những ở chỗ Lời Nhập Thể mà còn ở chỗ Lời Vượt Qua nữa, bởi vì, Thiên Chúa “đã không dung tha Con một của Ngài song đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta”, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại đã cảm nhận như thế (x Rm 8:32). Đó là lý do, cũng trong cùng bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu còn mạc khải cho biết dứt khoát dự án cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy con người bị luận phạt, một tình trạng không thể nào không xẩy ra vì tự do nơi thành phần được dựng nên với hồn thiêng bất tử theo hình ảnh Thiên Chúa là Thần Linh và tương tự như Ngài với ý thức tự do yêu thương. Đó là vấn đề con người ý thức có nhận biết nhận biết Lời Nhập Thể (x Jn 1:10-11), có tự do đáp ứng ở chỗ chấp nhận Mạc Khải Thần Linh. Nếu được Thiên Chúa mạc khải cho biết về (bản thân và ý định của) Ngài nơi Lời Nhập Thể, Đấng là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người “lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng”, như lời Chúa Giêsu cho biết trong bài Phúc Âm, thì tự họ luận phạt bản thân họ: “Ai tin vào Người thì không bị luận phát, còn ai không tin đã bị luận phạt rồi, bởi không tin vào danh Con một Thiên Chúa”. Vậy, theo Chúa Giêsu cho biết thì thành phần không tin vào Người sẽ tự luận phạt bản thân họ như thế nào, nếu không phải, họ tiếp tục sống trong tăm tối, trong gian dối, trong lo âu sợ hãi trước sự thật: “Ai hành ác thì sợ ánh sáng; họ không dám đến gần ánh sáng vì sợ các việc họ làm bị bại lộ”. Ánh sáng tự bản chất bao giờ cũng tốt, cũng cần cho tất cả mọi vật, nhất là sinh vật, để sinh động và phát triển, thế nhưng, nó lại trở thành cực hình cho kẻ bị đau mắt thế nào, thành phần “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” cũng thế. Trong trường hợp của họ, ánh sáng đã trở thành hình phạt của họ và cho họ, chỉ vì họ không chịu chấp nhận ánh sáng, không dám phơi mình ra trước ánh sáng.
Như thế, căn cứ vào chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể giải quyết vấn đề tiền định có vẻ và hầu như nan giải như thế này. Tiền định đây đúng thực có nghĩa là định trước; nhưng vấn đề định trước đây không phải là định cho người này được lên thiên đàng người kia phải xuống hỏa ngục, và bởi đó, người bị tiền định xuống hỏa ngục dù có làm lành mấy cũng không thể lên thiên đàng, và người được tiền định lên thiên đàng thì dù có tội lỗi mấy cũng không phải xuống hỏa ngục. Nếu vậy thì Thiên Chúa đã không xuống thế làm người cứu chuộc tất cả mọi người mà làm gì: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”. Vấn đề tiền định ở đây liên quan đến dự án cứu độ của Thiên Chúa thì đúng hơn, dự án đó, như bài Phúc Âm mạc khải cho biết, là Thiên Chúa yêu thương con người, muốn con người được hiệp thông sự sống thần linh của Ngài và với Ngài, nhưng muốn được như vậy, con người cần phải đáp ứng tình yêu của Ngài, bằng việc tri ân đón nhận những gì Ngài ban là Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể. Đó là lý do Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã chí lý xác tín là: “Những ai Thiên Chúa biết trước thì Ngài cũng tiền định cho họ chia sẻ hình ảnh Con Ngài” (Rm 8:29), nghĩa là cũng phải hy sinh phục vụ và chịu khổ nạn mới được cứu độ. Tóm lại, đối với Thiên Chúa, tiền định là yêu thương, là ban phát, là cứu độ, còn đối với nhân loại, là đáp ứng, là tiếp nhận, là tin tưởng; nói chung, tiền định là tất cả những gì Thiên Chúa muốn ấn định để con người có thể nhờ đó mà được cứu độ; bởi thế, nếu con người với đầy đủ ý thức và tự do không chịu chấp nhận những gì được ban cho họ một cách nhưng không, họ sẽ không thể trách cứ ai được nữa, ngoài việc trách chính bản thân mình, bằng thái độ “khóc lóc nghiến răng” trong cõi đời đời (Mt 8:12, 13:42, 22:13, 24:51, 25:30): “Ai tin thì khỏi bị luận phạt, còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vậy”.
Vấn đề tiền định liên quan đến ơn cứu độ
Thế nhưng, cho dù Thiên Chúa vô cùng toàn hảo không thể nào lại tiền định cho một ai xuống hỏa ngục đi nữa, Ngài vẫn biết trước ai sẽ xuống hỏa ngục, vậy thì tại sao Ngài còn dựng nên họ mà làm gì, để họ phải hư đi đời đời vô cùng khốn nạn như vậy, hóa ra Ngài không độc ác lắm sao?
Trước hết, không thể nào phủ nhận được vấn đề Thiên Chúa biết trước những ai trong loài người được Ngài dựng nên sẽ bị đời đời hư đi. Phải chăng đó là chén đắng Vị Thiên Chúa Làm Người đã cảm thấy khó uống trong đêm Vườn Cây Dầu trước giờ tử nạn của Ngài? Bởi vì, bấy giờ, trong thân phận làm người, Ngài cảm thấy “buồn sầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), đến toát mồ hôi máu (x Lk 22:44) nơi thân xác của Ngài, một trạng thái đau thương trong tâm hồn đã lên đến cực độ! Một đàng Ngài thấy rằng Ngài không thể nào không ra tay cứu độ con người, dù bằng một giá rất cao, mất hết phẩm giá của một Vị Thiên Chúa Tối Cao của Ngài, mất cả mạng sống loài người của Ngài, là tất cả những gì cao quí nhất nơi một Ngôi Vị mang hai bản tính thần nhân. Thế nhưng, công ơn cứu độ hết sức đắt giá và nhưng không vô giá của Ngài ấy lại trở thành vô ích cho một số người, thậm chí còn trở nên án phạt cho thành phần đời đời hư đi.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây liên quan đến dự án tạo dựng và công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa dựng nên con người để làm gì và tại sao Thiên Chúa dựng nên họ theo hình ảnh cùng tương tự như Ngài? Nếu không phải, về dự án tạo dựng, Thiên Chúa muốn con người nhận biết Ngài để được sống Sự Sống Thần Linh của Ngài và với Ngài. Và về công cuộc tạo dựng, Thiên Chúa đã dựng nên con người có tâm linh ý thức và tự do để nhờ đó họ có khả năng nhận biết và yêu mến Ngài. Đó là lý do Thiên Chúa không thể, đúng hơn không muốn, dựng nên loài người giống như đất đá, cỏ cây hay con vật vô tri thức, chẳng biết Đấng Hóa Công là gì. Mà một khi đã dựng nên con người có ý thức và tự do, Ngài cũng không muốn, đúng hơn không thể, ép buộc họ phải nhận biết Ngài và yêu mến Ngài. Tất nhiên, Ngài thực sự muốn tất cả mọi và từng con người Ngài tạo dựng nên nhận biết và yêu mến Ngài, không phải để Ngài được thêm vinh quang vốn đã toàn mãn nơi bản thân của Ngài, nơi nội tâm của Ngài, mà là để họ được hiệp thông và hoan hưởng sự sống thần linh của Ngài và với Ngài. Thế nhưng, tự mình, về bản tính tự nhiên, dù có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, nhưng nếu không được Thiên Chúa tỏ mình ra cho nơi Lời Nhập Thể và thông mình ra cho qua Thánh Thần, con người cũng không thể nào thực sự và hoàn toàn nhận biết và yêu mến Ngài đích thực và trọn hảo như chính Ngài biết Ngài và yêu Ngài, để có thể hiệp thông với sự sống nội tâm Ba Ngôi của Ngài. Phải chăng đó chính là lý do “Lời đã hóa thành nhập thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14)…, chẳng những “để tỏ Cha ra” (Jn 1:19) mà còn để “làm phép rửa Thánh Thần” (Jn 1:33; Lk 3:16; Jn 20:22)?
Thực tế cho thấy, dù Lời có tỏ cho con người biết Cha và ban cho người Thần Linh để yêu Cha đi nữa, con người cũng không thể nào biết Cha như Cha biết mình và yêu Cha như Cha yêu mình, dù ở nơi Đệ Nhất Tạo Vật của Ngài là Trinh Nữ Maria “đầy ơn phúc” (Lk 1:28) đi nữa, một mức độ “đầy ơn phúc” với tất cả khả năng hết cỡ nhưng vẫn có giới hạn của tạo vật. Thật vậy, chỉ có ở nơi chính Lời Nhập Thể, một Ngôi Vị có hai bản tính, Thiên Chúa mới thực sự và hoàn toàn biết mình và yêu mình như Ngài là và như Ngài muốn. Nhân Tính của Chúa Kitô, như thế, đối với Thiên Chúa, hoàn toàn là phản ảnh Thần Tính của Lời Nhập Thể (x Heb 1:2), và đối với nhân loại, “là ánh sáng sự sống” (Jn 8:12), một “ánh sáng thật chiếu soi cho hết mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9). Như thế, dù những kẻ không chấp nhận Lời Nhập Thể, không nhận biết Chúa Kitô, thì “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) này vẫn không vì thế mà bị lu mờ đi: “Ánh sáng đã chiếu trong tăm tối song tăm tối đã không lấn át được ánh sáng” (Jn 1:5). Chính lúc con người “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” và sợ “không dám tới gần ánh sáng”, như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm B nói đến, cũng đủ chứng tỏ thực sự có một thứ ánh sáng siêu việt, một thứ ánh sáng thần linh.
Đó là lý do, dù con người khi còn sống nhất định phủ nhận thần linh, chối bỏ lương tâm, triệt hạ chân lý, nhưng cuối cùng họ, ngay trong giờ chết, nhất là trong cõi đời đời, cùng với thành phần tà thần là ma qủi, họ vẫn công nhận thực tại Chân Thiện Mỹ tối thượng là Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi Lời Nhập Thể, một thực tại họ không thể phủ nhận nhưng tiếc thay không được hiệp thông và hoan hưởng như thành phần kẻ lành. Dầu sao, nếu mục đích tạo dựng của Thiên Chúa là tỏ mình ra để loài người nói riêng có thể nhận biết Ngài, thì quả thực Ngài đã đạt được mục đích ấy của Ngài, dù nơi thành phần hư đi chăng nữa. Vì, qua Lời Nhập Thể và Vượt Qua, Ánh Sáng Thần Linh đã, đang và sẽ thực sự và hoàn toàn đánh tan bóng tối vô tri, bóng tối sự chết trên thế gian, nhất là khi Ngài “canh tân tất cả mọi sự” (Rev 21:5), “để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28), ở chỗ, dù kẻ lành hay dữ, cuối cùng tất cả đều nhìn nhận “tất cả sự thật” (Jn 16:13) bất biến này: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến bản Con Một của Ngài… không phải để luận phạt thế gian song để thế gian nhờ Người mà được sự sống trường sinh”. “Ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối song tăm tối không át được ánh sáng” (Jn 1:5) là như thế. Bởi vì, ngay chính nơi Con Người Giêsu Kitô “là phản ảnh vinh quang Cha” (Heb 1:3), Thiên Chúa đã thực sự và hoàn toàn được nhận biết và yêu mến như Ngài mong muốn rồi vậy: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17, 17:5). Và “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” đã được trọn vẹn hiện thực nơi Lời Nhập Thể và Vượt Qua.
Tin và sống vào niềm tin nơi Thiên Chúa rất can hệ cho việc được cứu rỗi đời sống mình: MC4-B89
Tin và sống vào niềm tin nơi Thiên Chúa rất can hệ cho việc được cứu rỗi đời sống mình. Lời Chúa hôm nay chủ yếu nhấn mạnh về "Đời sống tin yêu" của mỗi người chúng ta. Lời Phúc Âm đã nói rõ: "Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi ban Con Một Ngài cho họ, để ai tin Con sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời". Đức tin là một món quà Thiên Chúa ban cho ta bằng "Giá máu Cứu Chuộc" của Đức Giêsu Kitô, chứ không bằng vàng bạc, kim cương. "Ơn Đức Tin" này đòi buộc mỗi người phải đáp trả bằng cuộc sống thực, và phải nỗ lực phát triển nó không ngừng.
Thời Giáo Hội sơ khai, lúc ban đầu, người của đế quốc Lamã thường đem các nghi thức của Giáo Hội Công Giáo ra mà làm trò đùa, và dĩ nhiên có những người chuyên làm trò cho thiên hạ cười.
Một bữa nọ, Hoàng Đế Diocletianô đến một hý trường để tham dự những trò chơi, gọi là "phạm Thánh" này. Một tên hề nổi tiếng thời ấy là Genesiô, anh ta cùng các bạn bày ra một nghi lễ Rửa Tội để nhạo báng cho Hoàng Đế xem. Bắt đầu trò đùa, Genesiô hô lớn: "Hỡi các bạn, hãy đến giúp tôi. Tôi muốn trở thành người Công Giáo". Lúc đó, một tên hề khác mặc áo Linh Mục bước ra, và một tên khác đem nước đến. Cũng là bắt chước công thức quen thuộc của Giáo Hội, họ hỏi: "Hỡi Genesiô, ngươi muốn xin gì ?". Genesiô bập bẹ đáp: "Thưa xin Phép Rửa". Nhưng mà khi tên hề Genesiô chưa đọc dứt câu, thì có sức mạnh vô cùng nào đó uốn lưỡi anh ta, bắt anh ta đọc trọn câu: "Thưa tôi xin Phép Rửa Tội, để được lãnh nhận ơn của Chúa Giêsu Kitô". Tên hề đóng vai Linh Mục không chút nghi ngờ, múc nước đổ trên đầu của Genesiô và đọc công thức của Bí Tích Rửa Tội: "Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Hoàng Đế Diocletianô và cử tọa vỗ tay hoan hô màn kịch, cười nói vui vẻ lắm. Nhưng mà tiếng vỗ tay chưa dứt, thì Genesiô đã đứng lên, ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi trịnh trọng tuyên bố: "Tâu Hoàng Đế và quí vị vừa xem chúng tôi làm hề cười nhạo những người Kitô hữu, nhưng quí vị biết cho rằng: Nước vừa đổ trên đầu tôi đã làm cho tôi trở nên người Công Giáo thực sự". Thế rồi anh reo lên một cách sung sướng: "Giờ đây tôi là người Công Giáo và tôi tin Chúa Kitô là Con Thiên Chúa".
Khi Genesiô vừa dứt lời thì đám đông nhốn nháo, người xem thì ngạc nhiên, còn vua thì tức giận. Hoàng đế ra lệnh trói chân tay Genesiô lại, đánh một trận đòn phải thể. Nhưng lạ thay, Genesio bị đòn nhừ tử, thế mà hắn cứ vẫn hiên ngang tuyên xưng "Tôi là Kitô hữu! Tôi là Kitô hữu!".
Một ván hài kịch có ý mua vui đã hóa thành sự thật. Hơn thế nữa, ngay trong lúc đau đớn cùng cực ấy, Genesiô vẫn không ngừng tuyên xưng: "Tôi tin thật Ngài là Chúa chúng ta". Không biết cách nào để anh ta câm miệng, Hoàng Đế ra lệnh chém đầu anh ngay. Chỉ có cách đấy mới làm cho hắn amen được thôi. Thực ý chỉ là làm trò cho vua coi, nhưng Chúa Thánh Thần đã hành động để anh nên nhân chứng đức tin trước mặt mọi người, miệng anh không thể im lặng khi đã lãnh nhận Thánh Thần.
Khi đã lãnh nhận ơn Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta có sống mạnh dạn tuyên xưng "Tôi là Kitô hữu" hay không ? Chúng ta thử hỏi mình: "Liệu ta có tuyên xưng một cách can đảm trong lối sống của mình không ? Có nhất quyết bước đi theo Chúa Kitô không ?". Anh chàng Genesio đã dám hiên ngang xưng mình là Kitô hữu trước mặt Hoàng Đế, anh không sợ đánh đòn, không ngán chặt đầu. Anh can đảm thật. Còn chúng ta, chúng ta có dám mạnh bạo sống theo Phúc Âm, sống theo ánh sáng chân lý, cho dù những người chung quanh chê bai, hiềm khích hay không ? Anh Genesio mới đầu là đùa, sau là thật, còn chúng ta có sống thật với lòng mình không ?
Thật nhiều lúc vì nương theo cái dễ dãi của đời sống vật chất, mà không sống theo con đường sự sáng, không dám sống theo ơn Thiên Chúa ban cho qua Bí Tích Thanh Tẩy. Hãy sống gắn bó với Chúa. Hãy nên gương sáng cho đời, vì biết rằng: "Ai tin vào Con Thiên Chúa, sẽ không bị luận phạt, trái lai được sống đời đời. Ai không tin sẽ bị xét xử".
Trong Mùa Chay, Chúa mời chúng ta bươc vào con đường sáng. Con đường dẫn đến sự sống đích thực. Chúa vì yêu thương chúng ta, Ngài không muốn chúng ta phải chết, nhưng muốn chúng ta được sống. Chớ gì chúng ta biết đáp trả tiếng mời gọi đầy yêu thương của Thiên Chúa, và dám dấn thân đi theo Ngài vào con đường áng chân lý.
Chuyện cổ tích kể rằng: Có một chàng du mục sống trong sa mạc, một hôm, nửa đêm thức giấc: MC4-B90
Chuyện cổ tích kể rằng: Có một chàng du mục sống trong sa mạc, một hôm, nửa đêm thức giấc vì đói bụng, chàng chổi dậy, thắp đèn lên rồi lấy tô chà là để dưới gầm giường ra ăn. Anh bốc một trái đưa vào miệng, chợt thấy có con sâu, anh vội ném đi. Bốc trái thứ hai, lại cũng thấy có con sâu, ném đi, rồi bốc đến trái thứ ba, thứ tư, thứ năm... trái nào cũng có sâu cả. Anh nghĩ bụng, cứ thế nầy thì còn đâu nữa mà ăn trong khi bụng đói như cào. Anh bèn tắt đèn rồi ngốn ngấu ăn hết số chà là còn lại.
Trong căn phòng tối om, làm sao bạn thấy được bụi bặm bám trên ghế trên bàn, làm sao bạn thấy được những mạng nhện giăng trên tường, báo chí, sách vở vứt bừa bãi trên sàn nhà, hoặc những thức ăn rơi vung vãi trên thảm? Bật đèn sáng lên, bạn mới thấy rõ những cái xô bồ, lộn xộn, những bụi bặm, những nhớp nhúa ấy hiện ra.
Ánh sáng, một kỳ công tuyệt hảo mà Thiên Chúa ban cho loài người, được tạo dựng đầu tiên trước khi tạo thành vũ trụ. Nhờ ánh sáng chúng ta mới nhìn thấy rõ thế giới chung quanh. Ánh sáng giúp ta phân biệt được những gì mình thấy từ hình dáng đến màu sắc... Ánh sáng làm cho hạt giống nảy mầm, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa lá xanh tươi. Ánh sáng mang nguồn nhiệt sưởi ấm quả địa cầu và đem lại sự sống cho vạn vật.
Kể từ ngày tia sáng "Laser" được ứng dụng trong ngành y khoa và trong quân đội, nó đã đem lại vô vàn lợi ích đến cho nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan tông đồ viết: "Ánh sáng đã đến thế gian nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng" (Jn 3: 19). Thế gian chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì như anh chàng du mục đáng thương trên, biết có con sâu trong quả chà là mà vẫn cứ ăn, chỉ vì cái bụng. Như bà E-và ăn trái cấm cũng chỉ vì chuộng bóng tối hơn ánh sáng khi nghe lời xúi dại của con rắn. Chúng ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng vì chúng ta có nhiều điều muốn che giấu. Nguy hiểm hơn nữa là cứ tưởng mình sáng nhưng thực sự là không. Những người miệng tuyên xưng có Thiên Chúa nhưng hành động như không có Thiên Chúa. Thậm chí có những người giết hại anh em mình mà cứ tưởng mình làm việc đẹp lòng Thiên Chúa.
Ánh sáng Chúa Kitô đến không phải để luận phạt mà là đem đến cho ta ơn cứu rỗi. Ánh sáng soi rọi vào nơi tối tăm nhất, uẩn khúc nhất trong góc xó của tâm hồn, những thứ mà ta luôn che giấu không muốn phơi bày. Ánh sáng như tia Laser, diệt tận gốc mầm ung thư trong người bệnh. Đây là món quà mà Thiên Chúa ban nhưng không cho loài người. Có ánh sáng, thật sáng của Đức Kitô, chúng ta mới thấy rõ mình hơn, thấy rõ những khó khăn, trở ngại nơi chính mình, thấy rõ những gì cần phải nuôi dưỡng, những gỉ cần phải triệt tiêu, những gì cần phải giữ lại, những gì cần phải cho đi.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, thời gian chuẩn bị để tưởng niệm sự thương khó, sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Tại sao Chúa phải chịu cực hình và chết như vậy? Tại sao? Thưa vì người muốn rọi tia sáng laser để chữa lành mọi thương tật còn ẩn giấu nơi tối tăm nhất của hồn ta, để cứu rỗi chúng ta. Như lời Thánh Phaolô: Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương chúng ta nên dù chúng ta đã chết vì sa ngã người cũng cho chúng ta sống lại với Đức Kitô. (Bài đọc 2)
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì tình thương bao la này, vì Người đã ban Con Một của mình để cứu rỗi chúng ta.
Mấy năm trước đây, tháp Babel nhà "chọc" trời Empire State ở phố New York đã lênh láng: MC4-B91
Mấy năm trước đây, tháp Babel nhà "chọc" trời Empire State ở phố New York đã lênh láng máu, không còn nghễu nghện đứng thách thức chọc trời như mọi khi nữa. Trời thật trong sáng, rất đông du khách mua vé lên lầu ngoạn cảnh ở tầng 86 của ngôi nhà chọc trời 102 tầng đã từng bá chủ cao nhất thế giới từ khi mở cửa năm 1931, đến năm 1972 mới nhường cho Tháp Đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Vậy mà chàng Ali Abu Kamal của dân Ả Rập Palestine đã dám nã súng vào đám đông. Thế là náo loạn. Phần sợ hãi nhất là lúc mọi người bắt đầu kinh hoảng. "Một người bị bắn vào đầu, máu vọt tung tóe, tôi chưa bao giờ thấy cảnh kinh khủng như vậy xảy ra trong đời!" Kết quả, một người bị bắn chết, 6 người bị thương nặng, và chàng Ali tự bắn vào đầu chết luôn.
Chàng Ali có thể thuộc Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO) bên Do Thái. Đây là cách giải phóng của nhóm chính kiến của chàng, không đồng ý với lối hòa giải hiện tại.
Cùng thời gian trên, tại phòng trà của nhóm Đồng Tính Luyến Ái (Gay) ở Atlanta, xảy ra một vụ "giải phóng" khác: người nào hay nhóm nào đó không chịu nổi cảnh rửng mỡ của bọn "gay", đã muốn giải trừ sự dữ bằng việc đặt bom cho nổ tung phòng trà làm bị thương 5 người. Cũng như giữa tháng giêng, một vụ nổ bom khác tại một viện phá thai vùng Sandy Springs, bang Georgia.
Thì ra một số người đã muốn dùng biện pháp "đập vào mặt" để giải thoát khỏi sự dữ. Nhưng lấy một sự sữ để giải trừ sự dữ, lấy bạo động để giải quyết bạo động, lại đưa đến tàn tệ tan hoang chồng chất thêm lên! Hận thù vay trả, trả vay, cái vòng hệ lụy nghiệt ngã trùng điệp.
NĂM ANH MÙ XEM VOI
Ngày xưa còn bé mình vẫn thích thú về câu truyện năm anh mù xem voi. Chẳng anh nào thấy được con voi ra làm sao, nhưng chỉ rờ được một phần mà hung hăng tuyên bố lập trường vung vít rằng con voi nó giống cái chổi, cái buồm, cái cột nhà... Thực ra đó mới chỉ là cái đuôi, cái tai, hay cái chân... của con voi thôi. Vậy mà sinh cãi lộn, rồi đòi "giải phóng" nhau bằng "thượng cẳng tay hạ cẳng chân" và búa tạ rất ư nhiệt tình.
Không ngờ câu truyện trên lại được lặp đi lặp lại dưới nhiều hình thức thời mới "văn minh" và đôi khi mang mặt nạ "đạo đức" hơn trong nhiều lãnh vực, từ những tranh lộn chủ nghĩa đến giành giật niêu cơm hay ăn thua đủ chỗ cao chỗ thấp, cho công việc của mình vĩ đại để bắt mọi người phải "đoàn kết" đứng sau lưng mình, nếu không là chia rẽ đáng xỉ vả. Nhạc sĩ Phạm Duy trong Rong Khúc Hát Cho Năm 2000 đã gióng lên cái cảnh những anh mù thật tội nghiệp của thhời đại qua truyện Ngụ Ngôn Mùa Xuân:
Có hai thằng mù đánh nhau ngoài ngõ,
Cả hai thằng sứt trán, sứt tai.
Có hai thằng câm cãi nhau giữa chợ,
Cả hai thằng đều rát lưỡi phỏng môi.
Có hai thằng mù đã câm lại điếc,
Có hai thằng điếc ngồi nghe nhạc Tầu,
Nhạc Tây, nhạc Mỹ, nhạc Nga...
Có khi mù này đánh lui mù đó,
Hả hê về nhà ú ớ mừng rên!
Có khi thằng mù gã câm thằng điếc
Gác chân tự đắc ngồi trong chòi nghèo
Buồn thiu mà nghĩ lầu cao....
LỰC GIẢI PHÓNG TRONG TRANH THÁI TUẤN
Thực ra việc giải phóng hay giải thoát con người phải từ một cái gì sâu xa hơn. Nhìn những bức tranh của họa sĩ Thái Tuấn, ai cũng cảm thấy một cảm giác mênh mang, và tự hổ thẹn về hiện trạng nhỏ nhen bị vít kín và mù tối của mình.
Ông Huỳnh Hữu Ủy đã nhận xét: "Thái Tuấn là một bóng dáng lớn của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại... Anh luôn ao ước vẽ một bức họa tinh giản, ít màu, ít nét và để nhiều khoảng trống rộng rãi... đã tổng hợp tinh túy của nghệ thuật Á Đông và kỹ thuật hội họa Âu Châu để vẽ lên những tấm tranh của mình, là sự khoáng đạt của những chấm phá giản dị nơi nghệ thuật thủy mặc cộng với nghệ thuật sơn dầu của phương Tây. Anh thường xuyên suy nghĩ, chiêm niệm về những khoảng trống để tạo nên không gian mênh mông, hài hòa trong sắc màu trầm mặc... Dường như lúc nào anh cũng đăm chiêu đi tìm những hình ảnh nào đấy về một quê nhà đã mất: Miền Nam nhớ miền Bắc, Orléans nhớ Hà Nội, Paris nhớ Sài Gòn. Đi tìm lại quê hương đã mất là một trạng thái tâm lý quen thuộc nhưng vẫn kỳ lạ, ở Thái Tuấn không hẳn chỉ là một thứ quê hương sống động qua hoài tưởng, mà còn có thể chính là mối ám ảnh về một bản thể bất biến, và hình ảnh của quá khứ đã trở thành biểu tượng để nối kết" (Huỳnh Hữu Ủy, Bóng Dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, Thế Kỷ 21 số 82 ).
NIỀM KHÁT VỌNG CỦA ĐỜI ANH
Lê Uyuên Phương trong bài hát tuyệt vời "Về Những Ấn Tượng" tặng Thái Tuấn đã diễn được cõi tâm của nhà hội họa đầy chất đạo này với nhiều cảm xúc gợi hình:
Anh chưa bao giờ, chưa bao giờ nói với tôi về niềm khát vọng của đời anh. Nhưng bầu trời trong bức tranh màu xanh đã bày tỏ cùng tôi niềm khao khát đó.
Ôi! sự tự do tuyệt đối và những giới hạn của con người.
Anh chưa bao giờ, chưa bao giờ nói với tôi về sự hòa điệu của cuộc sống.
Nhưng màu nâu trên bức tranh thiếu nữ đã bày tỏ cùng tôi điều bí ẩn đó.
Một trong tất cả và tất cả trong mỗi người.
Anh chưa bao giờ, chưa bao giờ nói với tôi về sự vĩ đại và sự nhỏ nhen trong đời sống. Nhưng dòng sông trên bức tranh màu tím đã bày tỏ cùng tôi sự phân
biệt đó.
Ôi! giọt nước trong giòng sông hay giòng sông trong giọt nước.
Anh chưa bao giờ, chưa bao giờ nói với tôi về sự giản dị trong cuộc sống hỗn mang. Nhưng hàng cây trong bức tranh màu xám đã bày tỏ cùng tôi sự trong suốt đó. Ôi! Những ảo tưởng và quá khứ của đời người.
Anh chưa bao giờ nói với tôi về những điều mà chỉ nói với anh trong thầm lặng. Bằng màu sắc, anh đã bày tỏ cùng tôi nhịp thở nhẹ nhàng của cuộc sống hồn nhiên. Bằng màu sắc, anh đã bày tỏ cùng tôi sự dịu dàng của một con tim giản dị.
TIN VUI GIÒNG SÔNG GỬI GIỌT NƯỚC (Chúa nhật 4 Mùa Chay)
Con người được Chúa Trời Đất mời gọi để hòa nhập bơi lội trong giòng sông ân sủng tình yêu bao la, nhưng nhiều khi con người lại muốn tự làm khổ giam nhốt mình vào một giọt nước nhỏ nhen, đóng kín lại trong cái vỏ ốc ích kỷ tội lỗi của mình. Những bức tranh của Thái Tuấn thật "tinh giản, ít màu, ít nét và để nhiều khoảng trống rộng rãi..." đã khiến người xem chiêm nghiệm được cõi nhỏ và cõi lớn của đời người, phân biệt được sự giải phóng thực sự nằm ở làn ranh nào. Đây chẳng phải là một sứ điệp khẩn thiết đáp ứng thời điểm khi con người vẫn tiếp tục giành giật tranh chấp trùng điệp hay sao? Bằng ấy năm vùi giập đầy đọa nhau đã đủ để mình dừng chân tìm ra giây phút phản tỉnh chưa?
Chúa Giêsu đã diễn tả nỗi tự đầy đọa này trong cuộc sống nhiều người bằng hình ảnh bóng tối và ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta làm những việc gian ác cho nên rõ ràng là họ ưa bóng tối hơn ánh sáng. Đúng vậy, ai làm bậy là ghét và tránh ánh sáng, vì họ sợ hành vi của mình bị lộ tẩy; nhưng con người có tác phong chân chính thì dám đi vào chỗ sáng, để thiên hạ thấy rõ họ hành động theo mệnh trời" (Gioan 3:19-21).
Họa sĩ Thái Tuấn là một người Công giáo. Dù ông không trực tiếp nói lên điều đó, nhưng xem tranh của ông, người thưởng ngoạn như đang hòa nhập vào cuộc chuyển biến từ cái tôi nhỏ nhen tù túng tăm tối mà hòa vào được cái Ta đại thể vô biên tràn trề ánh sáng là chính Chúa Trời Đất. Đó là cuộc hành trình "tìm về quê nhà đã mất". Đây mới là cuộc giải phóng đích thật, giải phóng con mắt mù tối che vít bởi tham sân si tự đầy ải mình, tự giam nhốt giới hạn mình lại thành nhỏ nhen tù túng. Người vẽ tranh và người xem tranh cùng đang linh thao hay thiền, nối lại được vào cuống nhau từ bụng "mẹ" đã một lần từ giã. Quê mẹ đây có thể là chính người mẹ sinh ra mình, mà cũng có thể là quê hương hằng thể, vượt không gian và thời gian. Niềm khao khát tìm về này như phảng phất tâm tình đầy chất đạo trong ca dao Việt:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Vậy những gì đang làm mình "ruột đau chín chiều"?, những gì đang trói buộc giam nhốt khiến mình tự đầy đọa rời xa quê hương hằng thể, mà trở thành "giọt nước nhỏ nhen tách rời khỏi giòng sông sung mãn?" Và cuộc giải phóng này thực sự chỉ bắt đầu khi mình mở rộng cái tôi hạn hẹp hiện tại mà lãnh nhận giòng sức sống bao la là chính Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sức sống: "Thiên Chúa yêu thế gian tới mức đem người con độc nhất của mình làm quà tặng, để phàm ai tin vào Người sẽ không tiêu vong, nhưng sẽ được trường sinh bất tử" (Gioan 3:16).
Càng gần đến những ngày tuần Thánh, qua phụng vụ Lời Chúa các Chúa nhật, Hội Thánh càng: MC4-B92
Càng gần đến những ngày tuần Thánh, qua phụng vụ Lời Chúa các Chúa nhật, Hội Thánh càng tô đậm và làm sáng lên ngày một hơn khuôn mặt nhân từ yêu thương của Thiên Chúa và giới thiệu khuôn mặt tình yêu ấy cho chúng ta, cho trần gian. Chẳng hạn hình ảnh hạt giống bị chôn vùi, làm trổ sinh nhiều bông hạt của Chúa nhật thứ V mùa Chay. Hoặc bài Thương Khó khắc họa đến vô cùng khuôn mặt nhân từ của Thiên Chúa trong cuộc khổ nạn đầy đau đớn của Chúa Giêsu.
Riêng hôm nay, Chúa nhật IV mùa Chay, Hội Thánh giới thiệu lòng yêu thương của Thiên Chúa qua hình ảnh Người Con Một của Người chấp nhận chịu treo vì trần gian.
Bằng chính lời Chúa Giêsu: “Như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” Hội Thánh cho biết tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu từ ngàn đời, trải dài liên tục trong dòng chảy của đời thường, băng qua mọi thác ghềnh, mọi chướng ngại. Hình tượng “con rắn trong sa mạc”, so sánh với việc “Con Người được giương cao” chính là hình ảnh làm nổi bật tính liên tục của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu ấy đã được khẳng định từ trong Cựu ước, theo thời gian, càng rõ nét, cuối cùng quy tụ cách mạnh mẽ, lớn lao nơi chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã ghi nhận tính liên tục của tình yêu Thiên Chúa trong thông điệp đầu tiên của mình: “Trong Cựu Ước, tính chất mới mẻ của Thánh Kinh không chỉ ở những khái niệm trừu tượng nhưng còn ở hành động không tiên liệu trước được của Thiên Chúa và trong một nghĩa nào đó là chưa từng có. Hành động của Thiên Chúa giờ đây mang lấy một hình thái gây ấn tượng mạnh hơn nữa, khi trong Chúa Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa là Đấng đi tìm ‘những con chiên lạc’, là nhân loại khổ đau và lầm lạc… Cái chết của Ngài trên thánh giá là tột đỉnh của việc Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính mình, trong đó Thiên Chúa trao ban chính mình để nâng cao con người dậy và cứu rỗi con người. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu – số 12).
1. Hình tượng con rắn đồng gợi nhớ con rắn trong địa đàng
Từ những trang đầu tiên của Thánh Kinh, từ thuở tạo thiên lập địa, con rắn (St 3, 1-5) đã xuất hiện. Nhưng lần xuất hiện đầu tiên, nó lại mang khuôn mặt của kẻ thù của loài người. Nó tấn công loài người. Nó chiến thắng loài người khi đưa loài người đi vào con đường chết. Hình tượng con rắn trong địa đàng, trái nghịch hẳn hình tượng con rắn đồng trong sa mạc mà sau này sách Dân Số nói tới (Ds 21, 8-9):
Con rắn trong địa đàng xuất hiện đang lúc loài người đang ở đỉnh cao hạnh phúc. Con rắn đồng trong sa mạc xuất hiện giữa cảnh cơ cực của những người tha hương vừa thoát khỏi kiếp nô lệ cho người Aicập.
Con rắn trong địa đàng là hiện thân của tội lỗi và sự dữ. Con rắn đồng trong sa mạc là “tin mừng” cho những kẻ ngước nhìn lên nó.
Con rắn trong địa đàng hủy diệt mọi tương quan tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa. Con rắn đồng trong sa mạc mang lại niềm hy vọng vì nhận ra lòng thương xót của Chúa.
Con rắn trong địa đàng gieo sự chết vào thế giới loài người. Con rắn đồng trong sa mạc, lại có khả năng trao ban sự sống.
Như vậy, hình tượng của hai con rắn Cựu Ước hoàn toàn trái nghịch nhau. Tuy nhiên, dù trái nghịch, hai con rắn Cựu Ước chẳng những không mâu thuẫn nhau, mà hậu quả do con rắn trong địa đàng gây nên, sẽ được con rắn đồng trong sa mạc báo trước ngày chữa trị. Bởi hậu quả của con rắn thứ nhất gây nên chỉ toàn đổ vỡ, mất mát, ô nhục, sẽ được con rắn thứ hai bổ túc bằng cách cho thấy sự sống bắt đầu phát sinh, hạnh phúc bắt đầu ló dạng và niềm vui cứu chuộc bắt đầu rạng sáng.
Bởi do con rắn trong địa đàng, nhân loại đã phạm tội. Vì tội, nhân loại đáng được “Đấng Cứu độ đời đời” (bài ca Exultex - đêm Phục sinh), thì con rắn đồng trong sa mạc làm trọn vai trò của mình là báo trước ơn cứu độ đời đời ấy.
2. Chúa Kitô hoàn tất Cựu Ước
Chính Chúa Kitô nhắc lại: “Như Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy” (Ga 3, 14). Nếu ngày xưa ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống, thì ngày nay thập giá Chúa Kitô chính là ơn cứu độ trọn vẹn cho những ai tin (Ga 3, 15). Hình bóng cũ đã được hoàn tất bằng thực tại mới. Hình bóng cũ thoáng qua, thực tại mới sống động và vững bền. Chúa Kitô mãi mãi là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian (Dt 13, 8).
Như một tiến trình tiếp diễn có nguồn có ngọn, Cựu Ước đã xuất sắc làm trọn vai trò chuẩn bị và tiên báo của mình. Tiến trình đó, khởi đi từ sự tạo dựng trong tình yêu vô kể của Thiên Chúa. Tình yêu ấy bị phản bội nặng nề, mà mấu chốt của sự phản bội lớn ấy tập trung nơi chính hình tượng con rắn địa đàng. Đúng hơn, hình tượng con rắn địa đàng trở thành hình tượng cội nguồn của tội lỗi. Sự phản bội tưởng chừng đã làm cho những kẻ là nạn nhân của nó, sẽ phải bị trừng phạt đời đời, nào ngờ chính lòng yêu thương của Thiên Chúa đã đưa họ hướng về ơn cứu chuộc đời đời.
Họ cưu mang niềm hy vọng cứu chuộc trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Lời hứa cứu chuộc không ngừng được lặp đi lặp lại, như thể Thiên Chúa muốn, càng sống trong hy vọng bao nhiêu, họ càng phải xác tín, càng vững tâm, vững chí, càng tỉnh thức, tin tưởng, tín thác, càng thanh tẩy nội tâm xứng đáng để đợi chờ ơn cứu chuộc bấy nhiêu. Nhiều hình tượng, trong đó có hình tượng con rắn sa mạc, nhiều giao ước, nhiều lời hứa, nhiều biến cố lịch sử, nhiều hành động âm thầm hoặc phi thường... Thiên Chúa thực hiện, củng cố niềm hy vọng theo thời gian đợi chờ sự cứu chuộc ấy.
Tất cả những gì nhằm chuẩn bị lòng người mà vai trò của Cựu Ước đã thực hiện trọn vẹn, đến hồi đơm bông kết trái. Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, là chính Đấng Cứu Chuộc của lời hứa đã thực hiện trọn vẹn sự chuẩn bị cả một thời gian dài của Cựu Ước nơi chính mình. Chúa Kitô, đến cứu độ trần gian, khởi đi từ cung lòng đầy từ ái của Thiên Chúa. Người sẽ trao ban tình yêu của chính Thiên Chúa cho trần gian. Đúng hơn, chính Chúa Kitô là hiện thân tuyệt đối của Tình Yêu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao ban cụ thể cho trần gian.
Hiểu được tình yêu cao cả của Thiên Chúa khi trao ban chính Người Con Một của mình, ta sẵn sàng để mình chìm ngập, ngụm lặn đến ngây ngất bằng tất cả đức tin, sự cậy trông của ta trong tình yêu quá đỗi lớn lao, nhưng cũng quá đỗi gần gũi, cụ thể mà Thiên Chúa thực hiện từ ngàn đời cho riêng mỗi một người trong tất cả loài người.
Thiên Chúa là Chúa, là Chủ Tể, chỉ vì yêu đã cúi mình xuống đến tận cùng. Cúi mình sâu đến nỗi đã không còn cách nào diễn tả khác hơn khi chấp nhận tỏ bày tình yêu cao cả nơi chính Con Một của mình: “Như ông Môisen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai TIN vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…”
Chúa Kitô chấp nhận được “giương lên” như con rắn sa mạc để tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã biến cây thập giá đau đớn, nhục nhã, thành cây thánh giá cao rao bài học tuyệt vời của Tình Yêu: Nơi đó, làm xuất hiện rõ ràng, Tình Yêu của Chúa Cha hiến dâng Con Một và sự tỏ bày mạnh mẽ của chính Chúa Kitô khi chấp nhận hiến dâng mạng sống. Nhưng Thiên Chúa không làm tất cả thay loài người. Tình yêu cao cả của Thiên Chúa đi đến mút cùng là thế. Điều còn lại là đức tin của chúng ta. Đó là đòi buộc của Thiên Chúa dành cho ta. Bởi để ơn cứu độ được trao ban xứng đáng với giá trị lớn lao của nó, ta phải tin nơi tình yêu cứu độ của Người. Đức tin là sự đón nhận cần thiết. Chỉ khi đón nhận, tình yêu ấy mới sinh hiệu quả cứu chuộc cho chúng ta. “Chỉ có tin” nơi Con Thiên Chúa, nghĩa là tin vào hiện thân của chính tình yêu Thiên Chúa, ta mới “khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Hóa ra đức tin chính là đoạn kết của tiến trình tiến đến ơn cứu chuộc. Tiến trình ơn cứu chuộc khởi đi từ tình thương của Thiên Chúa, được loan báo trong suốt dòng lịch sử Cựu Ước, được Chúa Kitô, Đấng nhân danh tình thương của Thiên Chúa, thực hiện trọn vẹn nơi chính bản thân Chúa Kitô, cần phải được ta đón nhận bằng lòng tin của mình. Nhờ đức tin, ơn cứu chuộc mới nên hiệu lực cho chúng ta.
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng bằng chính đức tin của chúng con. Với chính đức tin ấy, chúng con ra đi ca vang đến bất tận bài ca bất hũ về Tình Yêu của Chúa. Và một khi đã chỉ cho thế giới nhận thấy Tình Yêu khôn cùng, luôn đón nhận mọi người trong Trái Tim Chúa, chúng con tin, thế giới sẽ tràn ngập ánh sáng của tình yêu, của lòng tin, nhất là của ơn cứu độ đời đời. Amen.
Thiên Chúa quá yêu thế gian . . . . Khi viết câu này, Thánh Gioan hiển nhiên nhận được được ơn: MC4-B93
“Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài” (Gioan 3:16). Khi viết câu này, Thánh Gioan hiển nhiên nhận được ơn thần hứng, nhưng chắc chắn còn cộng thêm kinh nghiệm của bản thân mình.
Thật vậy, trong bữa Tiệc Ly khi tựa đầu vào ngực Chúa, hẳn là Gioan đã nghe được những tiếng đập của con tim Đấng Cứu Thế. Những tiếng đập vui mừng vì đã sắp đến giờ Ngài giao hòa thế gian được với Chúa Cha qua cái chết của mình trên thập giá. Nhờ đó, nhân loại được gọi là con Thiên Chúa. Được cứu độ và được thông phần sự sống đời đời. Nhưng trong những nhịp đập vui mừng ấy, cũng có những tiếp nấc nghẹn ngào mà sau đó trong vườn Cây Dầu ngài đã thốt lên với các ông: “Linh hồn thầy buồn rầu đến nỗi chết” (Mt 14:34). Và với Chúa Cha thì ngài van xin: “Lậy Cha xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha” (Mt 14:36). Có nghĩa là Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần và được ban cho nhân loại, để nhờ ngài, mà nhân loại được cứu rỗi. Gioan đã cảm nghiệm được tất cả những nhịp đập ấy, và đã viết lên câu: “Vì Chúa Cha quá đỗi yêu thương thế gian” (Gioan 3:16). Yêu đến nỗi không còn gì hơn để cho, để hiến tặng. Yêu đến đã phải hy sinh chính Con một của mình.
CHÚA CHA YÊU THẾ GIAN
“Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Thật vậy, nhìn vào những gì Chúa Cha làm cho thế gian, chúng ta cũng có thể nói rằng cả đến Thiên Chúa cũng bị tình yêu quật ngã. Ngài đã bị tình yêu làm cho choáng váng, mờ mịt lý trí. Yêu đến nỗi sẵn sàng thí mạng Con Một yêu dấu của mình vì người mình yêu. Thử hỏi trong lịch sử nhân loại, và trong tình trường đã có mấy ai vì yêu mà thí mạng con một của mình. Bất quá cũng chỉ có Hêrôđê vì mê man sắc đẹp của nàng Hêrôđia mà hứa với con của nàng một nửa nước. Cũng may, Hêrôđia và con của nàng vì căm thù Gioan Tẩy Giả mà không màng đến, nếu không lịch sử nhân loại sẽ phải kể đến một cuộc tình điên dại của một ông vua si tình đành mất nửa giang sơn. Nhưng Chúa Cha thì khác, ngài đã không chỉ cho một nửa nước, mà còn cho cả Thiên Đàng – cho cả nước – cho những kẻ ngài yêu. Hơn thế nữa, để chiếm được con tim nhân loại, ngài đã đành hy sinh chính Con Một yêu dấu của mình. Ôi tình yêu Thiên Chúa! Trí khôn con người thật sự không hiểu thấu và sự khôn khoan của con người không sao thấu hiểu mầu nhiệm cao cả của tình yêu này. Mà vì tình Ngài siêu vượt, nên Ngài lại trở thành si tình hơn khi đem tình yêu ấy đi vào với cuộc sống thường ngày khiến chúng ta không cần phải hiểu, mà chỉ cần mở mắt ra là cảm nhận được tình ngài.
Trái đất và muôn loài trên trái đất. Bầu trời và vũ trụ bao la. Tất cả những cái đó Thiên Chúa tạo dựng nên cũng vì con người và cho con người. Chưa có một loài thụ tạo nào, trừ thiên thần, được ưu đãi như loài người chúng ta. Và từng ấy thiết tưởng cũng đã đủ để chúng ta nhìn ra bàn tay quan phòng, và tình yêu của Thiên Chúa.
Đi sâu vào đời sống nội tâm, và qua mầu nhiệm Cứu Độ, con người còn bằng hoàng và sửng sốt biết bao khi biết rằng Chúa Cha sẵn lòng ban nước trời cho chúng ta: “Hỡi đoàn con nhỏ đừng lo, vì Cha Ta đã sẵn lòng ban nước trời cho các con”.
VÌ CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Tóm lại, nếu con người chỉ dừng lại ở những lý luận trìu tượng của lý trí, thì không thể hiểu được tình yêu Thiên Chúa. Lý trí chưa giải thích được tình yêu nhân loại, thì lý trí làm gì hiểu và tri thức, giải thích được tình yêu Thiên Chúa.
Cũng như tình yêu của con người không dựa vào lý trí và suy luận của trí khôn, tình yêu Thiên Chúa cũng không căn cứ vào những lý luận của con người. Khi Thiên Chúa yêu thương con người, vì Ngài là tình yêu. Một tình yêu không điều kiện. Không phải vì con người chúng ta đáng thương, đáng mến, và vì Thiên Chúa muốn yêu thương chúng ta.
Định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu đem chúng ta về với ân huệ được làm con Thiên Chúa của mình.
THẾ GIAN KHÔNG YÊU CHÚA
Khi nói về tình yêu Thiên Chúa, về việc Ngài ban tặng Con Một Ngài cho thế gian, Thánh Gioan cũng đã nói thêm rằng: “Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta đã yêu tối tăm hơn sự sáng” (Gioan 3:19). Sau hơn 2000 năm Chúa Giêsu giáng trần, và với những phương tiện truyền thông tinh vi của con người thời đại, cho đến hôm nay cũng chỉ được 1/3 nhân loại trên thế giới nhận được Tin Mừng. Con số nhận được Tin Mừng này, tuy nhiên, vẫn chưa bảo đảm được rằng họ đã đáp lại tình yêu Thiên Chúa, đã đi theo con đường Tin Mừng được rao giảng.
Thế giới ngày nay vẫn còn hận thù chồng chất. Vẫn còn chiến tranh đẫm máu. Vẫn còn bạo loạn và khủng bố khắp nơi. Nhiều người vẫn sống trong sự thiếu thốn tình thương. Một thế giới đang làm cho nhiều người hoảng sợ. Thế giới của ly dị, của phá thai, của đồng tính và hôn nhân đồng tính. Thế giới của trào lưu duy thực vật. Trong thế giới này, Lời Chúa, Tin Mừng của Chúa của Ngài vẫn còn là những gì xa lạ và trở thành đáng ghét đối với nhiều người. Người ta còn giận hờn Thiên Chúa. Còn cấm cách. Còn bắt bớ Thiên Chúa qua những hình thức cấm đoán tự do tôn giáo.
Tóm lại, tình yêu Thiên Chúa vẫn chưa được đáp trả. Chưa được nhận biết. Con Một Thiên Chúa, cái chết của Ngài vẫn chưa đủ sức hấp dẫn và lôi kéo. Thiên Chúa vẫn là kẻ tình si. Tình yêu của Ngài vẫn chỉ là tình một chiều.
TA PHẢI YÊU THIÊN CHÚA
Nhưng nếu Ngài đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta, và chúng ta kêu lên được lời “Lậy Cha chúng con ở trên trời”, rồi thì chúng ta còn gì phải chờ đợi, phải suy nghĩ hơn là đáp trả lại tình yêu của Ngài. Tình yêu của một người cha nhân từ. Tình yêu của một Thiên Chúa toàn năng.
Thật vậy, có bao giờ chúng ta dành lấy ít phút mỗi ngày trong thinh lặng để suy về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta không? Có bao giờ chúng ta để lòng mình rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hóa, của con người không? Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mình được bình an, được mọi sự may lành là do lòng thương xót Chúa ban không? Nhất là có bao giờ chúng ta cho việc được nhận biết Ngài, được làm con cái ngài, và được sống trong tình yêu thương của ngài làm quí trọng, là hạnh phúc không?
Vậy bổn phận chúng ta là phải “yêu mến” Thiên Chúa, phải “biết ơn” Ngài. Lậy Chúa xin cho con biết Chúa để yêu mến Chúa. Yêu mến thay cho những kẻ không nhận biết, không tôn thờ, và không yêu mến. Và xin cho đời sống của chúng con là một đời yêu mến để đền đáp tình yêu mà Ngài đã ban tặng cho nhân loại và cho riêng từng người chúng con.
Mỗi khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của nhân vật Nicôđêmô: MC4-B94
Mỗi khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của nhân vật Nicôđêmô được kinh Thánh nói tới ba lần, vào ba hoàn cảnh và ba thời điểm khác nhau:
Lần thứ nhất: ông ta chủ động đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay sẽ nói với chúng ta về cuộc gặp gỡ này.
Lần thứ hai: khi các thủ lĩnh tôn giáo Do Thái đang bàn tính để tìm cách giết Chúa Giêsu. Nicôđêmô vốn là thành viên của Thượng Hội đồng Do Thái Giáo, ông đã phản đối quyết định đó với ý kiến rằng: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7, 15)
Lần thứ ba: lúc táng xác Chúa Giêsu. Ông cũng đến để tẩn liệm thi hài Chúa Giêsu bằng cách thức sang trọng như tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan kể: " Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Chúa Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người Do Thái." (Ga 19, 39-40). Sở dĩ tôi liệt kê ba lần như thế vì tôi muốn làm nổi bật lên khuôn mặt của Nicôđêmô và con người của ông. Con người ấy đã đi qua một hành trình mà tôi tạm gọi là hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, mà ba lần ở trên là ba cột mốc quan trọng trọng trong hành trình đó.
Ở lần thứ nhất , xét về phương diện thời điểm thì đây là giai đoạn mang một bầu khí căng thẳng do Chúa vừa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ.(x. Ga 2, 13-25). Sự căng thẳng này chưa kịp lắng dịu thì Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông ta gặp Chúa lúc đêm tối nhằm giữ kín sự việc và để tránh dòm ngó, soi mói của người khác, đặc biệt là của giới lãnh đạo Do Thái Giáo, đồng nghiệp của ông. Chi tiết ban đêm mà Thánh Gioan mô tả sẽ nói cho chúng ta biết điều đó. Và còn hơn thế nữa, hàm chứa trong chi tiết ấy tôi còn khám phá thêm điều này của Nicôđêmô: Ông đang ở trong đêm tối. Và từ trong đêm tối đó, ông đang dò dẫm, âm thầm tìm đến nguồn sáng. Nicôđêmô là ai?Kinh thánh bảo rằng ông là một thủ lãnh của người Do thái( x. Ga 3,1).
Tức là môt người có địa vị trong xã hội. Và gắn liền với địa vị đó, chắn chắn ông là người có nhiều kiến thức và là một người có trình độ, chính những cái đó sẽ cho ông có khả năng là một người Giàu có.
Tóm lại, cuộc sống ông đầy đủ, bảo đảm, và an ninh. Vậy ông còn thiếu cái gì? Bên ngoài xem ra ông đầy đủ. Ông có tất cả.nhưng những cái mà ông đang có đó không thể làm cho ông được sống thoả mãn. Vì thế, tự trong thâm tâm của ông vẫn luôn nói với ông rằng ông vẫn còn thiếu một cái gì đó. Cái đó là cái gì nếu không phải là sự sống đời đời. Nên ông vẫn phải đi tìm. Và ông hy vọng rằng nơi Chúa Giêsu, ông sẽ khám phá và có được sự sống ấy. Và thế là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh tân tòng Nicôđêmô bắt đầu. Chắc chắn cuộc nói chuyện này rất dài và rất lâu. Tôi không muốn đi sâu vào cuộc đối thoại này vì sợ làm mất nhiều thì giờ của anh chị em.
Nhưng thay vào đó là điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài chia sẻ này là: Chúng ta có thể khám phá ra điều gì về Nicôđêmô qua ba lần được Thánh kinh mô tả? Là gì, nếu không phải đấy là ba giai đoạn của một hành trình hoán cải mà Nicôđêmô đã đi qua.
Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là người cởi mở, nhiều thiện chí và là một người thật sự muốn tìm kiếm chân lý.
Lần xuất hiện thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, một mực khăng khăng rằng không được kết án Chúa Giêsu trước khi đưa ra xét xử công khai. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có nhưng quảng đại và có lòng thương xót nữa. Dám bỏ tiền ra mua số lượng lớn là một trăm cân mộc dược và trầm hương, là những thứ quý hiếm. Chúng ta đang sống trong bầu không khí của mùa chay. Ai trong chúng ta cũng biết mùa chay là mùa hoán cải. Vì thế để gọi là hoán cải, chúng ta cần làm lại hành trình của Nicôđêmô. Hành trình đó được khởi đi từ một khao khát được sống. Khao khát đó sẽ giúp cho ta:
1. Ra khỏi chính mình để đi tìm, để tiếp cận, để gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và là Sự Sống.
2. Một khi đã khám phá Sự sống đó, sẽ dẫn chúng ta tới sự can đảm để bảo vệ cho sự sống ấy.
3. Cuối cùng là lòng quảng đại để sống cho, sống vì và sống với Sự Sống đó.
- Đó là những Giá trị của Tin Mừng.
- Đó là hành trình của Mùa chay.
- Đó là hành trình của hoán cải.
- Đó là hành trình của bóng tối đến ánh sáng, hành trình đi từ bống tối của sự chết đến ánh sáng của Sự sống. Amen.
Ngày nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một nhu cầu: MC4-B95.
Ngày nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một nhu cầu cần thiết và không thể thiếu. Người ta dị ứng hoặc không thích nghe đến từ " luật" vì nó làm cho ta cảm thấy bị bó buộc. Nhưng có những thứ tự do sẽ dẫn chúng ta đến nô lệ. Và có thứ nô lệ làm cho người ta được tự do, được cứu độ. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết thế nào là tự do đích thực.
Bài đọc I cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tự do. Khi dân Do thái muốn sống và làm theo sở thích, theo bản năng, đi trong tội lỗi, họ nghĩ như vậy mới tự do nhưng kết quả họ phải chịu sống trong cảnh nô lệ tủi nhục nơi đất khách Babilon.
Đức Kitô là ánh sáng tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ chúng ta không phải bằng khả năng của ta nhưng bằng tình thương của Ngài. Đứng trước tình yêu bao la đó, chúng ta có hai thái độ: Tin hay không tin. Nếu tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ được sống. Trái lại, nếu từ chối, chúng ta sẽ bị luận phạt.
Người thời đại không muốn bị trói buộc hay uốn mình trong một khuôn khổ. Nghĩa là người ta chỉ thích làm theo những gì mình muốn: Muốn ăn, muốn nói, muốn chơi, muốn làm gì tuỳ theo sở thích. Nhưng tự do đó sẽ biến chúng ta thành nô lệ sống buông thả theo bản năng, và trở thành một con người vô kỹ luật, vô ý thức. Chính những thứ đó sẽ làm mất nhân cách và phẩm giá của chúng ta.
Nhưng, có thứ nô lệ sẽ mang lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc. Đó là nô lệ cho Thiên Chúa và lề luật của Ngài. Kỳ thực, khi đó người ta không cảm thấy mình nô lệ, trái lại cảm thấy tự do, hạnh phúc: "Chúng tasống dưới chế độ Lề luật nhưng thật sự chúng ta là con cái của tự do.". Lề luật Chúa không làm cho chúng ta trở thành tên nô lệ nhưng nhằm mang lại hạnh phúc. Vì nô lệ tội lỗi, thì phải chết; còn nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính, thánh thiện và sự sống đời đời. Khi có niềm vui và hạnh phúc, chúng ta không thể là nô lệ.
Là người chắc chắn không ai muốn sống trong bóng tối, nhưng sống theo ánh sáng thì ai cũng ngại. Chấp nhận Đức Kitô thì dễ, nhưng sống theo giáo huấn của Ngài thì không mấy ai thích: " Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy". Và điều này sẽ làm cho chúng ta mất tự do. Nhưng tự do là gì, nếu không phải đi trong đường lối của Thiên Chúa, khi đó chúng ta sễ được tự do vì:" Sự Thật sẽ giải phóng các con." Ga 8, 32. Lề luật giúp cho con người sử dụng tự do một cách có ý thức và trách nhiệm. Sống nuông chìu theo sở thích bản năng, vô kỹ luật thì cũng giống như ngựa không dây cương, hay thuyền không bánh láy, chúng ta không thể điều khiển cuộc đời mình, cuối cùng trở thành nô lệ cho tội lỗi. Cũng như Krisnamuti nói: "Chỉ có chân lý mới đem lại sự tự do cho chúng ta, chứ không phải ước vọng của chúng ta muốn được tự do."
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Chân Lý, và xin ánh sáng Chân lý Chúa luôn chỉ đường dẫn lối để chúng con xua tan bóng đêm tội lỗi nơi tâm hồn chúng con. Amen.
"...ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3,16).
Phật giáo có câu: "đời là bể khổ" nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời: MC4-B96
Phật giáo có câu: "đời là bể khổ" nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc... Đây là một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng. Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô dạy, "Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Với tôi, sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy vọng: "...ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: "Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống". Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm tin về cái chết của mình rằng: "Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai". Quả thế, với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của: MC4-B97
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời.
Bởi vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ". Tin vui trọng đại này mặc dù được chính Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước, mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa chay.
Lợi dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel. Đúng như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử". Noe, Abraham hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Và để chứng tỏ rằng: "thời kỳ đã mãn"; nghĩa là ơn cứu rỗi do Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay, khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: "Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát. Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: " Thiên Chúa sai con một của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ". Tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: "Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án." Những người không tin không phải là bị kết án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình, giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào ? Thánh Giacôbê tông đồ quả quyết rằng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết." Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên cho chúng ta một bài học lớn.
Một bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó; đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo để mặc ?
Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không ? Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào ? Chúa sẽ không hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì để giúp đỡ anh chi em của mình ? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người láng giềng của mình ? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng đắn.
Còn ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này; đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố: "Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ".
Chúng ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời kitô hữu của mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.
Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà càng có giá: MC4-B98
1. Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà càng có giá trị, càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, có thể nói lên tâm tình của người tặng dành cho người nhận. Nhìn lại Lịch Sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các ổ phụ, các ngôn sứ để dạy dỗ, mạc khải... tình yêu của Thiên Chúa cho dân riêng của Người. Thời Tân Ước, sau một thời gian lâu dài chuẩn bị, Thiên Chúa ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu cho loài người, đây là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu đến thế gian không phải để luận phạt, mà đem ơn cứu độ, đem lòng yêu thương, tha thứ cho loài người.
2. Bài Tin Mừng hôm là một phần trong cuộc đối thoại với Ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời Xuất hành. Hình ảnh con rắn đồng, đó là tìền trưng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy".
Hẳn chúng ta còn nhớ, sau khi rời khỏi Ai Cập để tiến về đất Chúa hứa. Suốt bốn mươi năm trong hoang địa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc dân Do thái, cho cột mây, cột lửa dẫn đường ; đói có mana, có chim cút ; khát có nước chảy ra từ tảng đá, thế nhưng họ vẫn chưa thoả mãn, vẫn kêu trách Thiên Chúa . Một lần cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA đã giáng xuống đám dân này, đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Họ đã nhận ra lỗi lầm của họ và chạy đến cầu cứu với Môsê, Thiên Chúa dạy Môsê đúc con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn độc cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng này sẽ được cứu. Thật ra, Không phải chỉ lần này, mà nhiều lần dân Do thái đã sa ngã, nhưng Thiên Chúa đều rộng lòng tha thứ. Điều này cho ta thấy Thiên Chúa , Đấng giàu lòng tha thứ và hay thương xót.
Nếu con rắn đồng là biểu tượng nói lên lòng yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa , thì Đừc Kitô, Con Một của Người, được giương cao trên cây Thánh giá, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người đạt đến đỉnh cao tuyệt đối: "Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ".
Đọc Tin Mừng, chúng ta dễ thấy, lòng tha thứ của Đức Giêsu dành cho tất cả mọi người, nhất là những người được xem là tội lỗi như thu thuế, đàng điếm; ngay trên cây Thánh giá, Chúa đã tha cho người trộm lành, cho những kẻ bắt bớ sỉ nhục Ngài. Ngày hôm nay việc tha thứ vẫn được tiếp diễn, qua Bí tích Hòa giải, dù tội chúng ta nặng nề như thế nào, nếu thành tâm quay về cùng Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả.
3. Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, cùng với việc cầu nguyện, ăn chay, thì sống bác ái đối với nhau là một việc làm rất cần thiết, hữu ích. Một trong những việc làm bác ái cụ thể mà Đức Kitô mời gọi chúng ta sống theo tinh thần, gương của Ngài đó là tha thứ cho nhau, quên đi những lỗi lầm của nhau. Thật vậy, trong đời sống chung làm sao tránh được những điều mất lòng nhau, nhiều khi vô tình hoặc do cố ý.
Hãy sống bác ái, bằng việc tha thứ, từ những người gần gũi. Hãy thực hiện việc tha thứ từ trong gia đình, cộng đoàn: vợ chồng đối với nhau, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, anh chị em đối với nhau, những người chung sống... Từ việc yêu thương tha thứ với những người trong gia đình, cộng đoàn, chúng ta sẽ đi xa hơn trong việc tha thứ đối với người khác: chòm xóm, những người cùng làm ăn buôn bán, nơi làm việc.
4. Muốn tha thứ cần phải có làm hòa. Có thể chúng ta muốn tha thức cho anh chị em chúng ta, nhưng do tự ái, tự cao, chúng ta đặt điều kiện người anh chị em đó phải đi bước trước đến với tôi thì tôi mới tha. Hãy nhìn vào Đức Giêsu, Ngài đã đi bước trước, bỏ trời cao để đến với con người tội lỗi. Bỏ ra món quà để tặng nhau, bỏ ra tiền bạc của cải đễ giúp nhau xem ra dễ hơn rất nhiều bỏ cái "tôi". Cái "tôi" tự ái, cái "tôi" tự cao, cái "tôi" bướng bỉnh. Vì thế có thể nói tha thứ là món quà quý giá mà chúng ta trao cho nhau. Bởi muốn tha thứ phải bỏ những cái "tô" hẹp nòi như đã nêu trên.
Muốn tha thứ cần phải quên đi những lầm lỗi của người khác, thường thì chúng ta dễ quên điều tốt mà lại nhớ lâu lỗi của người khác. Chính vì vậy khó tha thứ cho anh chị em của minh ! Chúng ta nên noi gương Thiên Chúa giàu lòng vị tha: Người không nhắc dân Do thái đã lỗi với Người bao nhiêu lần. Thiên Chúa cũng không nhớ quá khứ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng để lòng về thiếu sót của tha nhân, đó là điều kiện để chúng ta thực hiện việc tha thứ tốt hơn.
5. Người Kitô hữu không những được hưởng hồng ân Cứu Độ từ Thập giá của Đức Giêsu mà Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thông phần vào việc chia sẻ niềm vui Thập giá của Ngài. Vì thế hãy tiếp tục đem tình yêu, sự tha thứ của Chúa đến với tha nhân. Hãy góp phần phân phát món quà quý giá này, đặc biệt là trong mùa Chay thánh, bằng cách sống yêu thương, tha thứ.
Đang khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh " con rắn đồng " trong sa mạc: MC4-B99
Đang khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh " con rắn đồng " trong sa mạc. Đây là câu chuyện xảy ra trên đường từ Aicập về đất hứa. Ong Môisen theo lệnh Chúa dẫn " đám dân nô lệ " ra khỏi Aicập về Đất Hứa, trên đường đi Chúa ban Manna để nuôi dân chúng, nhưng ăn riết một thứ họ cũng chán, chẳng còn thấy ngon chút nào, chán đến phát ớn! Họ nhớ lại những củ hành của tỏi ở đất Aicập, vì dù là nô lệ họ vẫn được ăn nhiều thứ.
Càng nghĩ họ càng thèm những món ăn truớc đây họ đã được ăn, thèm nhỏ dãi luôn, không chịu được họ nỗi loạn chống lại ông Môisen, họ muốn quay về để được ăn dù phải làm nô lệ, làm tôi mọi, chẳng đáng một con người " họ cố chịu đấm để được ăn xôi, cho dù là xôi có hẩm, xôi hẩm cũng vẫn là xôi mà. Để uống nắn và lòng dân, Chúa cho có những con rắn lửa xuất hiện và chúng đã cắn chết rất nhiều người. Họ hoang mang sợ hãi kêu cầu Chúa tha thứ và cứu chữa họ.
Chúa bảo ông Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn thì nhìn lên con rắn đồng ấy, thì sẽ được Chúa cứu khỏi chết. " Cũng như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời " . Chúa Giêsu nói đến cái chết của Ngài sẽ phải chịu. Vâng ! Ngài sẽ phải bị treo lên cây thập giá, để những ai tin vào danh của Ngài và thực hành những Lời Ngài dạy bảo thì sẽ được cứu sống.
Xưa dân Do thái nổi loạn chống lại ông Môisen, nghĩa là không tin vào Thiên Chúa nữa. Khi họ bị rắn lửa cắn họ đã nghe theo lời ông Môisen dạy, nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống. Không phải con rắn đồng có khả năng ấy, nhưng vì họ đã vâng nghe theo lời ông Môisen, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, bởi ông là Ngôn sứ của Chúa. Chúa đã ra tay cứu chữa họ, dù họ đã bất trung chống lại Ngài. Xưa con rắn đồng cứu sống họ nhưng rồi họ vẫn phải chết, còn Chúa Giêsu sẽ cho những ai tin và thực hành Lời Ngài sự sống cả đời này và đời sau nữa.
Anh chị em, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, có lẻ đã nhiều lần, nhiều lúc, ở đâu đó, chúng ta cũng bất trung, cũng phản bội lại ơn làm con Chúa khi chúng ta phạm tội hay chúng ta đồng loã với tội lỗi. Hãy mau quay về với Chúa, hãy ngước nhìn lên thánh giá Chúa với tâm tình hoán cải thực sự, hầu được ơn tha thứ. Hãy tin rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ân sủng và tình thương của Chúa lớn hơn tội lỗi và sự bất trung của chúng ta.
Tâm tình mà chúng ta cần phải có hôm nay là cám ơn Chúa vì tình thương Chúa lớn hơn tội của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học nơi Chúa bài học tha thứ, tha thứ luôn luôn cho anh chị em của mình.
Bản thân chúng ta là những con người tội lỗi yếu đuối, dễ phạm tội, dễ sa ngã, chúng ta cần được Chúa tha thứ thì chúng ta cũng phải biết không ngừng tha thứ cho những sai phạm của anh chị em chung quanh mình.
Cuộc đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là nhận để: MC4-B100
Cuộc đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là nhận để cho. Nếu chỉ cho mà không nhận hẳn nguồn cho sẽ cạn dần, cuối cùng không còn bao nhiêu để cho. Vì thế cần phải vừa cho vừa nhận. Nói về của cải vật chất trần thế là thế. Tuy nhiên lí luận hợp lí này không đúng với tình yêu, tình thương và lòng mến con người dành cho nhau. Tình yêu, lòng mến, tình người, con người dành cho nhau không bao giờ cạn. Trái ngược hẳn với của cải vật chất trần thế. Trong tình yêu càng cho đi nhiều chừng nào thì nguồn tình yêu càng triển nở chừng đó. Nguồn tình yêu sung mãn đến độ không bao giờ cạn. Nguồn tình yêu khô cạn, héo hắt là nguồn tình yêu tích trữ. Càng tích trữ nguồn tình yêu càng khô cạn. Tựa như giếng nước trong. Một khi không múc nước, nước giếng vẫn không dâng cao hơn, vẫn không tràn đầy trái lại nước giếng trở nên hôi, bẩn, chứa nhiều vi khuẩn trở thành nước giếng tù hãm, ô nhiễm, độc hại. Trái lại nước giếng trong sáng nhờ có người múc nước hàng ngày. Múc cạn hôm sau nước lại tràn đầy. Cứ thế nước giếng đủ nước cung cấp cho cả làng. Mọi người được tươi mát nhờ nước giếng được múc cạn mỗi ngày.
Tình yêu tích trữ chính là tình yêu tù hãm, loại tình yêu ô nhiễm này độc hại vì nó chỉ biết yêu những gì thuộc về nó mà loại bỏ tình yêu không thuộc về nó. Loại bỏ tình yêu khác chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo của loại bỏ chính là tàn phá, giết chết các tình yêu không thuộc về nó. Nguồn gốc của độc tài phát sinh, thúc đẩy bởi loại tình yêu loại bỏ. Những gì không thuộc về nó thì không thể tồn tại. Nếu tồn tại nó không sống yên ổn nên cần loại trừ, triệt tiêu. Nói cách khác tình yêu tích trữ là tình yêu ích kỉ. Bản tính ích kỉ là luôn lo thu quén, gom góp cho chính nó và yêu quí những gì thuộc về nó. Yêu chính nó trên hết mọi sự nên nguồn tình yêu nào không thoả mãn tính ích kỉ đều bị loại trừ.
Trong tình yêu, cho đi chính là làm cho tình yêu triển nở, làm giầu tình yêu bằng cách cho đi. Đây không phải là phí phạm mà chính là tạo cơ hội thuận tiện cho tình yêu nở hoa, kết trái. Hoa trái của tình yêu không thành tựu nơi người cho hay nguồn tình yêu xuất phát. Hoa trái tình yêu thành tựu nơi người lãnh nhận, nơi nguồn tình yêu được trao đến. Dâng hiến, cho đi làm giầu cho tình yêu, tạo cơ hội cho tình yêu đơm hoa, kết trái.Theo nghĩa này trao tặng tình yêu chính là cho sự sống, đổi mới, làm cho tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa câu Kinh Thánh,
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban cho Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con sẽ không phải chết nhưng nhận được sự sống trường sinh. Gioan 3,16.
Cho đi những gì dư thừa, không thích, dù vẫn còn tốt, vẫn mang lại lợi ích cho người nhưng có khác chi nhờ người dọn rác dùm. Cho như thế không phải là cho một cách chân thành. Cho đi điều mình yêu quí, ưa thích, ấp ủ thật lòng như thế mới thật sự là cho đi. Ngoài ra đều không phải là chân thành. Dâng hiến tình yêu một cách tự nguyện, không điều kiện ràng buộc, không mong đền đáp chính là mối tình Thiên Chúa trao tặng nhân loại. Vì trao tặng nên không ép buộc phải đón nhận. Ai đón nhận thì được hưởng hoa trái tình yêu Chúa ban, đó là sự sống mới, sự sống trường sinh. Ai từ chối đồng nghĩa với từ chối sự sống trường sinh. Bởi vì từ chối sự sống trường sinh đời sau nên người ta tranh nhau tìm kiếm sự sống tạm bợ đời này. Để được sống an nhàn người ta bắt người khác phục vụ họ. Để được sống hoan lạc người ta đi tìm lạc thú qua mọi thú vui trần thế. Để được phục vụ cần có người phục vụ và tất nhiên cần tiền chi tiêu cho người cung cấp dịch vụ. Tranh nhau vì tiền từ đó mà ra. Nguồn gốc chính là từ chối sự sống đời sau, sự sống trường sinh Chúa ban. Vì thế Kinh thánh ghi tiếp những ai từ chối đón nhận Con Một Thiên Chúa là tự mình chọn sự sống đời này để rồi chết trong tuyệt vọng. Nói cách khác là tự chọn cuộc sống ngắn ngủi đời này. Chọn sống trong sợ hãi, u sầu vì sợ thần chết đến bất tử.
Chọn tin Con Một Thiên Chúa hay chọn từ chối không tin cùng sống trong một xã hội, một thế giới nhưng có sự khác biệt. Kitô hữu tin vào Thiên Chúa nên học từ Thiên Chúa là cho đi để được nhận lãnh. Hành động bác ái, yêu thương chính là cho đi để tình yêu được đong đầy.