“Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”. - Ðó là lời Chúa. -------------------------------
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta MC4-B151
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta những lý do khiến chúng ta vui mừng. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên: ”Anh em hãy vui lên với thành Giêrusalem, anh chị em là những người đang mang tang chế”. Phụng vụ khuyến khích chúng ta hãy vui lên, chúng ta muốn vui lắm, nhưng nhiều khi không vui được vì còn gặp nhiều nỗi buồn phiền lo lắng, kể cả thất vọng nữa. Thực ra chẳng bao giờ chúng ta hết lo, hết khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng làm sao vui lên được?
Thì đây, thánh Gioan đã đưa ra lý do căn bản về niềm vui: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới mức độ sai Con Một Ngài xuống thế cứu vớt nhân loại. Vậy muốn tham dự ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, còn cần phải tin vào Ngài! Đức tin thật cần thiết vì: ”Ai tin thì sẽ được sống đời đời”(Ga 3,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16. 19-23.
Tác giả sách Biên niên điểm lại những giai đoạn lịch sử dân Israel trước, trong và cuối thời lưu đầy. Nếu Thiên Chúa ngoảnh mặt đi mà cho quân đội Babylon đến phá hủy đền thờ Giêrusalem và bắt dân ưu tuyển đi lưu đầy, chính là dân đã phản bội, đã bỏ Ngài trước. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ vì biết sám hối. Qua các biến cố trong lịch sử của họ, tác giả luôn tìm được những lý do để trông cậy, mà một trong những lý do quan trọng là Chúa trung thành bởi vì chính Ngài là Tình Thương.
+ Bài đọc 2: Ep 2,4-10. Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Êphêsô biết là mọi người được cứu độ nhờ ân sủng khi Ngài nói:”Chính là bởi ân sủng mà chúng ta đượcï cứu độ nhờ đức tin”. Chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng miễn là có lòng tin. Đó là giáo thuyết thánh Phaolô dạy chúng ta về ơn cứu độ “nhưng không” màThiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ được ban “nhưng không” chứ không do một điều gì trong con người chúng ta có quyền đòi hỏi. Vì thế, thánh Phaolô xác quyết rằng:”Tất cả là hồng ân”.
+ Bài Tin mừng: Ga 3,14-21.
Ông Nicôđêmô là một người biệt phái đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Đây là đoạn nối tiếp câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông. Trong buổi nói chuyện này, ông được hiểu thêm về ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Qua đó, ông biết được rằng tin vào Đức Kitô, chính là nhận biết Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ.
Nói khác đi , là nhìn nhận ơn cứu độ con người đến từ trời cao, do mối liên hệ cha con, tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ biết một sự thật như vậy khi “sống sự thật “ ấy, khi thực sự dấn buớc vào một cuộc sống được soi sáng không ngừng bởi phận làm con.
Theo ý nghĩa đó, không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống và tất nhiên đi vào con đường những việc làm xấu xa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lòng Chúa yêu thương tha thứ
I. THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ.
1. Tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
2. Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
3. Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
4. Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
II. TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
1. Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
. Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế. . Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết:”Con
người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống... Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
2. Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
3. Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái: Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng
(4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
III. HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
1. Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện: máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
2. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại:”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
"Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ." (Ga 3,14)
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô MC4-B152
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô rằng: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, thì Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." Hình ảnh con rắn là biểu tượng của loài sảo huyệt trong sách Sáng thế thuật lại, nó dụ dỗ Adam và Eva sa ngã phạm tội, chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, Tin Mừng hôm nay lại nói, ai nhìn lên con rắn đồng thì lại được sống. Chúng ta sẽ đặt ra đặt câu hỏi, con rắn đồng của Mô-sê có ý nghĩa gì? Đây là vấn đề cho chúng ta tìm ra ý nghĩa ánh sáng Lời Chúa.
Thánh Kinh thuật chuyện dân Do Thái khi họ trên đường tiến vào vùng đất hứa đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Họ nặng lời với Môi-se, ngài có sứ mạng dẫn dân Chúa đến vùng đất hứa, họ nói rằng: "Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập, khiến chúng tôi phải chết trong sa mạc này? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy!" Thiên Chúa đã sai rắn đến và cắn nhiều người chết. Người ta chạy đến với Môi-se kêu lên rằng: "Chúng tôi có tội, vì đã nói xúc phạm đến Chúa và ông. Xin ông cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn đi." Môi-se tha thiết khẩn cầu thay cho dân. Thiên Chúa đã đáp lời, Ngài phán cùng Môi-se rằng: "Con làm một con rắn đồng, treo trên cây. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống." Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, treo trên một cây sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng, liền được thoát chết. (Dân Số 21:6-9)
Đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan nhắc lại sự kiện lịch sử thời của Môi-sê dẫn dắt dân chúng thoát khỏi lưu đày. Nhưng ai bị rắn cắn và nhìn lên con rắn bằng đồng thì sẽ được cứu sống. Con rắn bằng đồng là hình ảnh của Chúa Giê-su bị treo lên cây thập giá. Ngài chịu đau khổ, bị sỉ nhục, đóng đinh và chết trên cây thập giá, để chuộc tội cho nhân loại, hễ ai nhìn lên Thánh giá Chúa và tin vào Ngài, thì dù bị nọc độc tội lỗi tàn hại cũng được chữa lành, mỗi hành vi sám hối của chúng ta đều được Ngài tha thứ. Các phòng mạch bác sĩ ngày nay cũng dùng hình ảnh con rắn để nói đến sự chữa lành. Qua hình ảnh con rắn bằng đồng trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng: nhiều người đã bị rắn độc cắn chết, không có thứ thuốc nào chữa được, nhưng nhìn lên con rắn thì được cứu chữa.
Cũng vậy, nhân loại ngày nay không có phương cách nào để tự giải trừ tội lỗi, giải cứu linh hồn mình ra khỏi lửa địa ngục: "Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa" và "tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rm 3:23). Cho dù, ngày nay khoa học có tiến bộ hơn, nhưng khi con người không biết kính sợ Thiên Chúa- Đấng Tạo Hóa, thì con người vẫn đi trong tăm tối, vô vọng, và trở nên tàn ác hơn. Tội lỗi gian ác là nọc độc phá hoại tâm trí và linh hồn con người bởi nọc độc của quỷ vương từ khi tổ phụ loài người phạm tội, và nọc độc tội lỗi ấy lan truyền cho con người hôm nay. Nhưng, Chúa Giê-su đã đến trần gian để đã nhận chịu nọc độc của tội lỗi thay cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta đến với Chúa Giê-su thì tất cả nọc độc của tội lỗi trong chúng ta đều tan biến, mắt chúng ta nhìn biết Đấng Tạo Hóa mình, tai chúng ta nghe được tiếng êm dịu đầy tình yêu của Ngài, để chúng ta kịp thời ăn năn, thống hối và được ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Người Con Chí Thánh của Ngài, chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra ơn huệ lớn lao này, nhờ đó chúng ta được chữa lành vết thương và nọc độc đang phá hoại tâm hồn và thể xác con. Căn bệnh của sự kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam, dục vọng đang bám lấy tâm hồn con, thì xin cho con biết nhìn lên Thánh Giá Chúa Giê-su mỗi ngày để được chữa lành tâm hồn và thể xác con. Amen.
Trong Cựu ước, Thiên Chúa vừa được trình bày như Đấng sáng tạo muôn loài, vừa như Đấng giải MC4-B153
Trong Cựu ước, Thiên Chúa vừa được trình bày như Đấng sáng tạo muôn loài, vừa như Đấng giải phóng dân tộc Israen. Là Đấng sáng tạo, Ngài làm cho muôn vật từ hư vô trở thành hiện hữu. Là Đấng giải phóng, Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh mà giải phóng dân riêng ra khỏi cảnh nô lệ áp bức của người Ai Cập. Trải qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sáng tạo và làm cho công trình tạo vật trở nên hoàn hảo. Ngài cũng tiếp tục giải phóng con người, giúp họ thoát khỏi tội lỗi, cho họ được hưởng tự do của con cái Chúa. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta: Ơn cứu độ là một cuộc giải phóng nhờ Đức Giêsu Con Thiên Chúa Bài đọc trích sách Sử Biên niên mang nội dung suy tư của các bậc hiền nhân. Tác giả đã nhìn lại lịch sử, tìm ra nguyên nhân của cuộc lưu đày đau thương. Đó là hậu quả do sự bất tuân của dân tộc Israen. Họ đã tôn thờ ngẫu tượng, xa lìa Luật Chúa, vi phạm các giới răn. Vì thế, Đền thờ bị phá hủy, lưỡi gươm của quân thù đã lấy đi biết bao mạng người, và cuối cùng là cuộc lưu đày sang Babylon. Sau mấy chục năm lưu đày, Chúa đã sai một vị cứu tinh đến để giải phóng dân tộc, đó là Kirô, vua Ba Tư. Vừa sau khi lên ngôi, vị vua này đã quyết định cho người Do Thái hồi hương, về với quê cha đất tổ. Hơn thế nữa, ông còn cung cấp tiền bạc cho các vị kỳ mục để tái thiết Đền Thờ đã bị phá hủy. Vì vậy, người Do Thái suy tôn vị vua này, và cho rằng ông chính là người được Chúa sai đến để cứu họ khỏi ách lưu đày, phục hưng xứ sở. Chính vị vua này cũng tin rằng ông làm việc theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Đây hoàng đế Kirô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa”. Vua Kirô đã giải phóng dân Do Thái khỏi kiếp lưu đày. Kitô giáo sau này nhận ra vị vua này là hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Người là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian, để giải thoát con người khỏi đau khổ và khỏi chết. Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Vâng, nếu vua Ki-rô của vương quốc Ba Tư đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ trần gian, thì Đức Kitô giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi. Người là Đấng Thiên sai, đến trần gian để soi sáng cho con người đang bước đi trong u tối. Những ai đón nhận giáo huấn của Người sẽ được ánh sáng thiêng liêng chiếu rọi. Trước ánh sáng thiêng liêng ấy, người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta, sinh thời, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người, thuộc đủ mọi chứng bệnh khác nhau, thậm chí Người còn cho kẻ đã chết được sống lại. Trong một số trường hợp, Chúa vừa chữa bệnh, vừa tha tội cho bệnh nhân. Như thế, Người là Đấng giải phóng con người khỏi đau khổ, bệnh tật. Người cũng giải phóng con người khỏi ách ma quỷ ràng buộc. Nhiều người bị quỷ ám, khi đến với Chúa, Người đã cứu thoát họ khỏi ách ma quỷ và cho họ được lành. Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc lại lời mời gọi sám hối canh tân. Canh tân là can đảm bước ra khỏi tối tăm, nhờ quyền năng của Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ và là Đấng Chúa Cha sai đến, đó là một điều kiện để chúng ta được giải thoát khỏi tối tăm, đón nhận ánh sáng vĩnh cửu của Chúa. Chúng ta đừng tự ti mặc cảm về quá khứ tội lỗi của mình. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Bài đọc II). Vâng, quyền năng tối cao của Thiên Chúa đã thể hiện trong Đức Giêsu. Hãy tin tưởng và mạnh dạn đến với Người, xin Người chỉ cho chúng ta biết con đường về với Chúa Cha.
Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật MC4-B154
Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật bất di bất dịch. Ví dụ, theo quy luật Chúa truyền thì nước phải chảy về chỗ trũng, khi gặp nóng thì bốc thành hơi, khi gặp lạnh dưới 0 độ thì đông cứng như đá… Cứ thế, nước luôn tuân hành quy luật đó không bao giờ sai chạy.
Và loài người cũng phải tuân theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài, một trong những quy luật đó là: Tội lỗi gây ra sự chết. Ai có tội thì người đó phải chết (nghĩa là phải chịu cực hình trong hỏa ngục đời đời.)
Quy luật nầy đã được tiên tri Ê-dê-ki-ên công bố từ ngàn xưa: “Ai phạm tội, người ấy phải chết” (Ê-dê-ki-ên 18,20).
Quy luật nầy lại được thánh Phao-lô lặp lại trong thư Rôma: “Chỉ vì một người mà tội lỗi đã đột nhập trần gian và tội lỗi gây nên cái chết” (Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7).
Điều đáng tiếc là mọi người sinh ra trên đời đều có tội và chiếu theo luật thì tất cả đều phải bị án chết. Nhưng nếu để cho muôn người phải chết vì tội lỗi họ gây ra thì Thiên Chúa quá đau lòng. Còn nếu để cho loài người mắc tội mà không phải chết thì chính Thiên Chúa lại tự huỷ bỏ lề luật mà Ngài đã ban hành. Như thế, loài người sẽ tha hồ phạm tội mà chẳng sợ hậu quả nào; thế là nhân loại sẽ sa đoạ, con người dần dần hư hỏng và trần gian này sẽ hoá nên địa ngục.
Vậy phải giải quyết thế nào?
Giải pháp chết thay
Để giải quyết vấn đề này, Thiên Chúa chọn một giải pháp tuyệt vời, đó là tìm người chết thay.
Thiên Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, trở nên Anh cả của loài người, trở nên người đại diện chính thức của loài người, nhờ đó, Ngài mới có thể nhận tội, đền tội và chết thay cho muôn người được.
Đây quả là một giải pháp tuyệt vời: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11, 50).
Tình yêu Thiên Chúa vô biên
Thế là Chúa Giê-su, Con Một của Thiên Chúa Cha, vì chấp nhận gánh lấy tội lỗi của muôn người trên thế gian, nên Ngài phải mang lấy hậu quả của tội, là bị kết án như một tên gian phi, chịu chết treo trên thập giá để đền tội cho muôn người, đúng như lời Ngài báo trước với ông Ni-cô-đê-mô:
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” Ga 3,14-15).
Và thánh Phê-rô đã xác nhận điều này như sau:
“Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Pr 2, 24).
Khi chịu khổ nạn đau thương và chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đền tội cho chúng ta, chết thay cho chúng ta. Nhờ Ngài phải chịu đòn vọt đau đớn mà chúng ta được tha tội, nhờ Ngài chịu chết thay mà chúng ta thoát khỏi án chết mà được sống đời đời.
Từ đó, thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương bất tận của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.
Tôi tớ thấp hèn chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều tuy hiếm nhưng có thể hiểu được; còn việc Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, vốn rất cao sang, quyền phép… chấp nhận chết thay cho con người thấp hèn, tội lỗi là điều không trí óc nào tưởng tượng được.
Duy chỉ có Thiên Chúa mới dám nghĩ, dám làm điều không tưởng đó.
Duy chỉ có tình yêu cao vời của Thiên Chúa mới đủ sức thực hiện điều phi thường đó mà thôi.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Vua thống trị muôn loài, là Đấng vô cùng cao cả; trước mặt Ngài, con người chỉ là tro bụi thấp hèn bé mọn, thế mà vì yêu thương, Ngài đã hạ mình xuống thế làm người và hiến thân chết thay cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng con. Chúa đã dành cho chúng con một tình yêu vô lượng vô biên. Xin cho chúng con cố gắng sống tốt, sống đẹp, sống thánh thiện mỗi ngày, để đền đáp phần nào tình yêu cao vời của Chúa.
Mỗi khi ngước nhìn bầu trời, ta tìm một hình thù kỳ lạ từ những đám mây trắng bồng bềnh. Gió MC4-B155
Mỗi khi ngước nhìn bầu trời, ta tìm một hình thù kỳ lạ từ những đám mây trắng bồng bềnh. Gió đẩy đưa từng đám mây và chúng trộn lẫn vào nhau trở thành một con cún con, một hình tròn và từ cái hình tròn ấy từ từ lại trở thành một trái tim. Có khi ta ngước nhìn trời mong tìm một cơn mưa giữa mùa hè oi ả. Có những cái ngước nhìn để tìm lại sự sống của dân Itrael khi họ bị rắn cắn. Theo lời Đức Chúa truyền dạy, ông Môsê cho đúc con rắn đồng và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì được cứu.
Đó là câu chuyện của thời Cựu Ước, là hình ảnh tiên trưng cho việc Con Người cũng sẽ phải được treo lên để cứu chuộc muôn người. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14- 15). Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, ta cũng tự hỏi chính mình: Tôi đã ngước nhìn lên Đấng Chịu Đóng Đinh với tâm tình và thái độ nào? Giữa những gian truân của kiếp người, chắc hẳn không ít lần ta đã tìm đến để tâm sự với Người. Ta như một bệnh nhân tìm đến vị bác sĩ của mình để được chữa lành. Dân Itrael xưa bị rắn độc cắn đã nhìn lên con rắn đồng để được chữa khỏi phải chết. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng chính Người cũng sẽ phải được giương cao lên để ai tin thì được cứu độ. Mỗi lần ngước nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, tâm hồn ta như được nâng đỡ giữa những đau khổ của kiếp người. Ta cần ngước lên kêu cầu thánh danh Đức Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Chính nhờ đức tin vào Thiên Chúa mà ta hành động và khi ấy ta sống trong Thần Khí và sự thật. “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 21). Hãy cảm tạ Chúa về hồng ân được làm con Chúa và được sống trong ân sủng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã làm người và chịu chết trên cây thập tự vì Chúa yêu con và nhân loại. Xin cho con can đảm bước đi trong ánh sáng tình yêu của Chúa để nhờ đó, con được tự do làm con cái Chúa. Những khi kiệt sức và chán chường, xin cho con biết ngước nhìn lên Thánh giá để thấy rằng, Chúa đang rất yêu con. Amen.
Ánh nắng xế chiều. Bóng tối buông xuống. Những ánh đèn được thắp lên trong khắp mọi nhà MC4-B156
Ánh nắng xế chiều. Bóng tối buông xuống. Những ánh đèn được thắp lên trong khắp mọi nhà và các đường phố. Nơi miền quê xa xôi phải chịu nguồn điện yếu hơn ở thành phố. Bởi đó, cứ đến mùa hè, việc cúp điện thường xuyên xảy ra. Mỗi khi mất điện, lũ trẻ sợ hãi và hét lên. Mọi người phải nhanh tay nhanh chân đi tìm nến và đèn để thắp sáng lên. Ánh sáng của nến đu đưa theo làn gió, có lúc sáng rực lên, có lúc mập mờ như muốn vụt tắt. Dù là vậy, lũ trẻ con vẫn an tâm khi nến được thắp lên.
Còn mỗi người chúng ta mỗi khi đi ra đường, thường muốn đi dưới con đường đầy ánh sáng cũng như luôn muốn sống trong một căn nhà thoáng mát và đầy đủ ánh sáng. Những ánh sáng ấy thường do con người chế tạo nên. Còn có một thứ ánh sáng mà mọi người chúng ta ít quan tâm là Ánh Sáng Chúa Giêsu. Ánh Sáng Chúa được tỏa sáng trong cuộc sống nơi bổn phận hằng ngày. Ánh sáng ấy chính là những sự thật, những chân lý, sự công bằng và bác ái với nhau. Song vì thân phận yếu đuối và nhiều lý do khác khiến chúng ta dễ buông mình vào trong bóng tối của sự chết. Lời Chúa đã nói “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm không bị chế trách” (Ga 3, 20).
Với cuộc sống hiện nay, dường như chúng ta có nhiều lối suy nghĩ nhằm biện minh cho hành động của mình. Chẳng hạn chúng ta thường nói “thật thà mà chết đói à”. Do đó, chúng ta dễ bị lôi cuốn vào lối sống ấy. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người sống trong sự thật nhưng không đủ niềm tin vào Chúa và bản thân mà phải thất bại trước thử thách hằng ngày. Nhưng, dám chắc một điều là ai cũng muốn được sống trong ánh sáng hơn là sống trong bóng tối.
Không có gì là bí mật mãi. Dù chúng ta giấu, bao bọc, luồn lách đến thế nào thì sự thật vẫn là sự thật, ánh sáng vẫn tỏa sáng. Tin tức cập nhật 24h, các bài báo, bài viết đã liên tục đưa tin cho chúng ta hay về những nhân vật đã ẩn nấp sau nhiều năm cũng phải xuất hiện. Bởi đó, chúng ta đừng quá sợ, hãy can đảm sống trong ánh sáng của Chúa. Ánh sáng bất diệt không bao giờ tắt. Để sống trong ánh sáng của Chúa, chúng ta cần phải nỗ lực cố gắng từng ngày. Mỗi ngày chúng ta hãy can đảm giảm một chút bóng tối trong cuộc đời mình với niềm tin tưởng tín thác vào Chúa, và tin tin rằng chỉ có ánh sáng Chúa mới có thể giúp cho cuộc sống của ta thêm bình và hạnh phúc.
Lạy Chúa, thời gian này là quý báu nhất cho chúng con. Chúng con cảm tạ Chúa và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con nhận ra giá trị ánh sáng của Chúa. Đồng thời biết xa lánh những việc làm không đẹp lòng Chúa. Amen.
Lữ hành sa mạc hoang vu, Đám dân phạm tội, dập trù oán than. Môi-sen treo rắn lên ràn, Người MC4-B157
Lữ hành sa mạc hoang vu, Đám dân phạm tội, dập trù oán than. Môi-sen treo rắn lên ràn, Người nào rắn cắn, cầu van khỏi liền. Con Người sẽ phải treo lên, Ai tin được sống, cõi thiên muôn đời. Chúa sai Con Một từ trời, Xả thân cứu độ, mọi người trần gian. Ai tin Con Chúa thiên nhan, Nguồn ơn Thập giá, trao ban sống đời. Không tin danh Chúa rạng ngời Chịu phần án phạt, một đời gian nan. Chúa là nguồn sống thương ban, Đi trong sự thật, ơn ban bởi trời Chối từ nguồn sáng trong đời, Đi trong bóng tối vào nơi thảm sầu.
Đỉnh cao của ơn cứu độ đó là thập giá Chúa Kitô. Xưa Môisen treo con rắn lên trong hoang địa, để những ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu khỏi. Chúa Giêsu vâng ý Chúa Cha, hiến dâng mình làm lễ hy tế trên thập giá để cứu mọi người. Những ai tin vào Chúa sẽ có sự sống đời đời. Tin vào Chúa là tin vào công trình cứu độ của Ngài.
Chương trình cứu độ của Thiên Chúa xảy ra trong lịch sử của loài người. Từ khi tổ tiên sa ngã phạm tội, con người đã lần bước trong bóng đêm của tội lỗi. Thiên Chúa không ngừng mời gọi và dẫn dắt trở về. Qua các biến cố trong lịch sử cứu độ, Chúa đã sai các tổ phụ, các tiên tri và sau cùng sai chính Con Một của Ngài để mang ánh sáng cứu độ giải thoát con người. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể hoá thân làm người. Ngài đã dâng hiến thân mình làm hy tế xóa tội trần gian. Chúa còn hiện diện thực sự qua các Bí Tích để mang ơn cứu độ cho chúng ta.
Chúa không sai Con Ngài giáng trần để luận phạt mà là để cứu độ. Rất nhiều người chưa nhận biết Chúa. Rất nhiều người chối từ Chúa. Chúa vẫn hóa thân len lỏi vào cuộc sống con người qua hình ảnh của những kẻ bần cùng, những người đói khổ, nghèo nàn, cô đơn, góa bụa và bệnh hoạn tật nguyền. Chúa chiếu dọi ánh sáng qua những kẻ thấp hèn nhất. Chính họ là hình ảnh của Chúa.
Ánh sáng của Chúa đến thế gian nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Con người đã nhiều lần từ chối ân huệ của Thiên Chúa. Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ với lòng yêu thương. Tình yêu của Chúa không vơi giảm cho dù con người tệ bạc và phản bội. Chúa luôn sẵn lòng mở rộng cánh tay đón những người con phung phá và tội lỗi trở về.
Trong Mùa Chay Thánh, mỗi người chúng ta hãy dừng lại đôi phút gẫm suy về tình yêu Chúa. Đã biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ và biết bao lần chúng ta đã phản bội lời thề hứa, mùa chay là dịp thuận lợi cho chúng ta trở về. Trở về với nguồn tình yêu là Cha nhân hiền. Ngài giang tay trên thập giá, trong khi chờ đón chúng ta để ôm ấp và tha thứ. Xin ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào tâm hồn để chúng ta nhìn nhận được lòng yêu thương vô bờ của Chúa.
Tin mừng Chúa nhật 4 Mùa Chay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Đức Giêsu MC4-B158
Tin mừng Chúa nhật 4 Mùa Chay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó, Người mạc khải về tình thương của Thiên Chúa:
“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người Con ấy, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
Khi đề cập đến tội lỗi loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian, không phải để phạt loài người, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
Xưa kia trong sa mạc, Môsê đã treo con rắn đồng lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được khỏi chết, được chữa lành (Ds 21, 8-9). Hình ảnh con rắn đồng biểu tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá: “Ai tin vào Người sẽ được cứu sống, không phải chết và được sự sống đời đời”.
Tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người qua Đức Giêsu Kitô và tình thương của Thiên Chúa được hiện thực nơi con người Đức Giêsu Kitô. Tin vào Đức Giêsu Kitô là điều kiện để được ơn cứu độ:“Những ai tin vào Con Ngài được sống đời đời. Thánh Augustinô đã diễn tả cho mọi thế hệ nhân loại về hình ảnh của Đức Kitô giương cao trên thập giá:
“Trong cái chết của Chúa Giêsu, sự chết đã bị chết, sự viên mãn của cuộc sống đã nhận chìm sự chết, sự chết đã bị tiêu tan trong cái chết thân xác của Đức Kitô. Những ai bị vết cắn của con rắn, bởi ngước nhìn con rắn sẽ không chết. Cũng giống vậy, những ai nhìn vào đức tin vào cái chết của Đức Kitô sẽ được chữa lành mọi vết tổn thương của tội lỗi. Những người Do Thái đã tránh khỏi cái chết cho một cuộc sống lữ hành. Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu. Dấu chỉ biểu tượng của con rắn đồng cho cuộc sống tạm thời ở trần gian, nhưng nội dung của biểu tượng là Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống muôn đời”.
Đức Giêsu đã đem ơn cứu độ cho nhân loại qua cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài để chúng ta được sống muôn đời. Tin vào Đức Kitô và sống theo Đức Kitô là điều kiện được cứu rỗi. Sống theo Đức Kitô là chết cho con người tội lỗi, nết xấu, những đam mê xấu, những hành vi bất chính để chúng ta có tương quan tốt với Chúa và tha nhân trong tình thương mến để được phục sinh với Chúa.
Ngược lại, nếu không tuân theo Đức Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ bị luận phạt “Án phạt là sự sáng đã đến thế gian và người đời yêu thế gian hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa”. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý, là sự sống đã đến thế gian. Người đời yêu sự tối tăm hơn sự sáng: tham lam, bất công, gian dối, hận thù ghen ghét, giết người, đánh bom liều chết… Ngày hôm nay bóng tối dường như thắng sự thiện trong xã hội, trong gia đình nhân loại. Hơn bao giờ hết, con người hôm nay cần phải tuân nghe theo lời giáo huấn của Giáo hội “Sống nền văn minh tình thương và sự sống” bằng những việc làm cụ thể đạo đức, lương thiện, bác ái phục vụ tha nhân.
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi người tín hữu sống tinh thần Mùa Chay thánh bằng cách tin và sống theo Chúa Kitô để được sống muôn đời.
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B – Ga 3, 14-21) Thánh sử Gio-an viết: “Như ông MC4-B159
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B – Ga 3, 14-21) Thánh sử Gio-an viết: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Khi còn đi chia sẻ Tin Mừng tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc VN, kẻ viết bài này đã gặp thật nhiều thắc mắc xoay quanh hình ảnh con rắn được giương cao: Theo sách Sáng thế thì “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” (St 3, 1). Vậy không hiểu sao Kinh Thánh lại lấy nó làm biểu tượng cho sự cứu độ, đồng thời còn nói là Đức Giê-su cũng được giương cao như vậy. Một chuyện tương tự cũng khiến chúng tôi thắc mắc là ngành Y Dược cũng lấy con rắn làm biểu tượng cho sự cứu chữa bệnh nhân. Tại sao vậy?
Trước hết xin nói về con rắn trong Y học. Tra cứu trên Wikipedia thì được biết: Đối với Tây y, rắn chiếm vị trí khiêm nhường trong số khổng lồ các phương thuốc trị liệu nhưng lại có vinh dự trở thành biểu tượng có tính chất truyền thống của cả ngành Y và ngành Dược. Biểu tượng ngành Y là hình con rắn quấn quanh cây gậy. Còn biểu tượng ngành Dược là con rắn có đuôi quấn quanh chân một cái ly đựng thuốc và thân của nó vòng qua miệng ly để đầu chúi xuống, thè lưỡi nếm thuốc. Biểu tượng ngành Dược thường được gọi bằng nhiều tên như: “Cái ly con rắn”, “Cái cốc con rắn” hoặc “Chén thuốc Hygeia”. Câu chuyện khá dài dòng, có thể tóm tắt như sau:
Theo thần thoại Hy Lạp, một lần, thần Esculape (ông Tổ ngành Y) đến thăm một người bạn bị bệnh. Trông thấy một con rắn độc đang bò vào nhà, ông liền lấy cây gậy đang cầm trên tay đánh chết nó. Ngay sau đó, một con rắn khác lại tiến vào và trên miệng ngậm một lá cỏ đến mớm cho đồng loại vừa mới bị đánh chết. Kỳ lạ thay, con rắn chết bỗng hồi sinh. Esculape tình cờ biết được thứ cỏ lạ ấy, nghiên cứu và tìm hiểu thêm, từ đó trở thành một thần y chữa bệnh cứu sống rất nhiều người. Đó là “con rắn quấn quanh cây gậy” biểu tượng ngành Y. Còn ngành Dược là “con rắn quấn quanh cái ly”, con rắn này có tên là Hygeia (đây là tên con gái của Esculape, cũng là một vị thần chuyên về thuốc chữa bệnh).
Riêng về con rắn đồng trong bài Tin Mừng hôm nay thì xin chia sẻ: Bài Tin Mừng Chúa nhật trước (CN III.TN-B – Ga 4, 14-16) trình thuật về “Cơn thịnh nộ bất thường của Đức Giê-su”. Cứ tưởng đến thời Tân Ước thì Đền thờ Giê-ru-sa-lem mới bị ô uế bởi hàng tư tế và dân Do Thái khiến Đức Giê-su nổi giận, thật không ngờ ngay từ thời Cựu Ước đã có chuyện “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.” (xc. Bài đọc 1 CN III.TN-B – 2Sb 36, 14-16.19-23; nói chung cả chương 36 của Sử biên niên). Thế mới biết “tội lỗi là bản tính con người” dù ở bất cứ thời đại nào, môi trường nào, và hình như càng tiến bộ con người càng tội lỗi nhiều hơn. Nhận xét này có vẻ bi quan, nhưng nhìn kỹ lại vấn đề, thấy quả nhiên không xa sự thật chút nào. Duy có điều tội lỗi ở cái thế kỷ XXI này không giống như thời thượng cổ, mà thiên biến vạn hoá đến độ có nhiều khi con người không nhìn ra được chân tướng của nó, thậm chí còn hiểu lầm mà khoác cho nó cái áo chân thiện nữa. Đáng sợ thật!
Suy cho cùng, từ Nguyên tổ cho đến hậu lai – ngoại trừ Đức Maria được đặc sủng vô nhiễm nguyên tội – tất cả loài người đều có tội, không nặng thì nhẹ, chẳng ít thì nhiều. Ấy cũng bởi vì con người thường muốn dễ dãi hơn là khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, muốn bóng tối hơn là ánh sáng. Cái nghịch lý của con người như thánh Phao-lô nói (“Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” – Rm 7, 15…19) tưởng cũng dễ hiểu, vì ”Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác.” (Ep 2, 3). Như vậy thì phải chăng tội lỗi của loài người đã tới hồi “hết thuốc chữa”?
Đọc sách Xuất Hành trình thuật cuộc hành trình trở về Đất Hứa của dân tộc Do Thái, ai mà không chú ý đến câu chuyện “CON RẮN ĐỒNG”. Đó là trên lộ trình đầy gian nan thử thách, khi đã gần tới Đất Hứa, dân Do Thái lại kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê, Đức Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng mới kinh hoàng nhận ra sai lầm, tỏ vẻ hối hận, chạy đến kêu cầu với ông Mô-sê xin cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin cùng Đức Chúa và Người bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên rắn đồng thì sẽ được khỏi. Con rắn đồng trở thành một biểu tượng ơn cứu độ của Thiên Chúa và vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B: Ga 3, 14-21), Đức Giê-su đã mượn hình ảnh đó để nói lên công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Người – Người cũng sẽ bị treo lên như con rắn đồng.
Con rắn đồng chỉ là một vật thể vô tri vô giác được Thiên Chúa đặt làm biểu tượng Tình Yêu Cứu Độ, chỉ được một số ít người Do Thái biết ăn năn hối cải nhìn lên và được chữa khỏi; nhưng khi trở về tới Đất Hứa thì họ lại quên đi một cách vô tư. Họ lại tiếp tục phạm tội, lại tiếp tục than trách Chúa và nhất là lại tiếp tục thích dễ dãi hơn là khó khăn, thích đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, khoái bóng tối hơn là ánh sáng. Hơn thế nữa, họ còn cố tình huỷ bỏ giao ước bằng cách phản bội lại Thiên Chúa nữa.
Dân được tuyển chọn còn như thế, huống hồ dân ngoại. Tất cả nhân loại đã hầu như quên mất hình ảnh con rắn đồng và chính vì thế, nên Thiên Chúa phải lập một giao ước mới bằng cách sai chính Con Một xuống thế làm một con rắn bằng xương bằng thịt, bằng cả bản thể Thiên Chúa, treo lên thập giá để không chỉ là một biểu tượng mà còn là chính Máu Thịt Con Chiên làm lễ vật hy sinh (hy tế) cứu độ loài người (“Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” – Gr 31-32). Điều đó chứng tỏ dù con người có tội lỗi đến thế nào mặc lòng, Thiên Chúa vẫn thương yêu, vẫn dang rộng vòng tay mong họ trở về đường ngay nẻo chính.
Căn bệnh trầm kha, căn bệnh truyền kiếp của loài người vẫn không phải, chưa phải là “hết thuốc chữa”, bởi “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” – Mc 2, 17). Người Thầy Thuốc Chí Nhân Chí Ái đã đến và đã được treo lên như con rắn đồng thủa xưa. Sự kiện Con Người được “giương cao” bao hàm một ý nghĩa vô cùng thâm thúy: Đức Ki-tô không chỉ chết khổ nhục trên thập giá vì tội lỗi loài người, mà còn phục sinh và được đưa lên ngự bên hữu Chúa Cha. Vì thế, khi Con Người được treo lên thập tư thì thập tự đã trở thành Thánh Giá để những ai biết nhìn lên biểu tượng Tình Yêu cao vời khôn ví đó, sẽ được cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá (cũng như thủa xưa, dân Chúa biết nhìn lên con rắn đồng) không phải và không thể như nhìn một hình ảnh kiều diễm, hay một chiếc cúp quán quân, hoặc một thần tượng siêu nhân nào đó. Điều kiện tiên quyết là phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm thiếu sót, toàn tâm toàn ý ăn năn hối cải, nhiên hậu nhìn lên Thánh Giá với một đức tin chân thành vào Ơn Cứu Độ. Chỉ có như thế mới có hy vọng được cứu, bởi “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1).
“Nhìn lên con rắn đồng” thì được cứu chữa; “nhìn lên Con Người” trên thập giá sẽ được cứu độ. Việc “nhìn lên” và việc “được cứu chữa” liên kết chặt chẽ với nhau và mối dây liên kết đó phải chăng chính là đức tin? Vâng, “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Một hệ luận bất di bất dịch: “Có bệnh thì mong được khỏi, muốn khỏi bệnh phải biết nhìn lên Thầy Thuốc được giương cao trên Thánh Giá, đến với Thiên Chúa Cứu Độ bằng một đức tin kiên cường.” Ấy cũng bởi vì “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3, 18). Cho nên có thể nói: Không phải ai nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên Thánh Giá đều được cứu sống, mà chỉ có những ai có cái nhìn đức tin (nhìn lên với một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa qua biểu tượng con rắn đồng, hoặc chính Con Thiên Chúa) mới được cứu độ mà thôi.
Tóm lại, Dân Chúa thời Cựu Ước đã thật vui mừng khi Thiên Chúa phán bảo ông Mô-sê giương cao con rắn đồng để những ai biết nhìn lên sẽ được cứu chữa. Mở đầu kỷ nguyên Tân Ước, thì chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật được giương cao trên Thánh Giá làm hy tế cứu chuộc nhân loại, và như thế thì còn nỗi vui mừng nào sánh bằng Dân Chúa thời kỳ Tân Ước cho đến thiên thu vạn đại? Vì thế, Chúa Nhật IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên” (Ca Nhập Lễ mở đầu bằng câu “Hãy vui lên!…” – Is 66, 10-11); áo lễ được dùng màu hồng. Vâng, sau những hy sinh hãm mình, làm việc từ thiện trong suốt Mùa Chay, hãy vui lên trong Chúa là Đấng đã yêu thương cứu chuộc nhân loại. Hãy vui lên vì Thánh Giá là nguồn ơn cứu rỗi. Hãy vui lên để hướng tâm hồn về niềm vui Phục Sinh. Hãy vui lên!
Trong niềm hân hoan tận cùng đó, hãy vui mừng nhìn lên Thánh Giá, hướng tâm hồn lên Đấng Cứu Độ, để cùng hiệp lời cầu nguyện cho bản thân, cho mọi người biết dùng nhiều thời giờ hơn trong Mùa Chay Thánh – nhất là trong Mùa-Chay-cuộc-đời – để từ đó biết nhìn lại mình mà sám hối lỗi lầm, biết từ bỏ những tính hư, tật xấu, canh tân đời sống; đồng thời cầu nguyện cho những người tội lỗi biết ăn năn hối cải, và cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa được có dịp chiêm ngắm Thánh Giá, ngõ hầu trở về cùng Chúa. Ước được như vậy.
Ôi! “Hãy vui lên muôn loài trên thế giới. Hãy ca lên muôn loài khắp vũ hoàn. Hãy tôn vinh khen ngợi Đấng Hóa Công. Hãy cảm tạ tôn thờ Vua chí nhân. Cùng với tiếng ca vang vang ngợi khen Chúa huy hoàng. Cùng tiếng đàn trổi râm rang ngợi khen Vua cả sáng. Nào hợp lời tôn vinh Cha, trần hoàn cùng vang câu ca: Chúa chúng ta là Đấng Hóa Công quyền năng oai hùng.” (TCCĐ “Hãy Vui Lên”).
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
(14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
Hẳn có nhiều người Do Thái thời Đức Giê-su đã thắc mắc và tự hỏi: Đức Giêsu đến trần gian này MC4-B160
2.1 Hẳn có nhiều người Do Thái thời Đức Giê-su đã thắc mắc và tự hỏi: Đức Giêsu đến trần gian này đế làm gì? Chắc chắn ngày nay cũng có nhiều người đặt lại câu hỏi ấy.
Trong đoạn Phúc âm theo Thánh Gio-an của Phụng Vụ hôm nay, chúng ta có được câu trả lời:
”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3,16-18).
2.2 Vậy là đã quá rõ: Đức Giê-su, Con Một của Cha, đã đến thế gian để mặc khải Cha cho loài người và cũng là để cho loài người được cứu chuộc khi họ TIN vào Người. Chúa Cha là nguồn cội và cùng đích của mọi loài mọi vật, nên con người chỉ đạt tới trình độ viên mãn khi khám phá và nhìn nhận Cha là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Trong tiến trình ấy, ân sủng và lòng tin hòa quyện vào nhau. Ân sủng là quà tặng của Thiên Chúa, lòng tin là công sức của con người. Ân sủng hay ơn trời và lòng tin hay công người là hai yếu tố làm nên ơn cứu độ.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
3.1 Giáo hội nói chung và mỗi Ki-tô hữu nói riêng, cùng lúc có hai nhiệm vụ: đón nhận và giới thiệu ân sủng của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô và thể hiện lòng tin của mình vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến.
3.2 Nói cách cụ thể hơn, Giáo Hội và mỗi Ki-tô hữu phải lớn tiếng chúc tụng Tình Thương của Cha và chứng tỏ Lòng Tin mạnh mẽ của mình vào Đấng đã dựng nên vũ trụ vạn vật và đã mời gọi con người đi vào huyền nhiệm của Tình Yêu và Lòng Tin. Ân sủng của Thiên Chúa thì đã có sẵn đó và có một cách dư thừa. Quan trọng là lòng tin hay công người thì phải có sự tác động của Giáo Hội và của các Ki-tô hữu thì mới có và càng có tác động mạnh thì càng có nhiểu kẻ tin. Đó chính là động lực cho các hoạt động làm chứng và loan báo Tin Mừng của chúng ta.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con để Người mạc khải Cha cho chúng con và dẫn đưa chúng con về với Cha.
Xin Cha ban cho chúng con lòng Tin mạnh mẽ vào Tình Yêu của Cha, vào sứ mệnh của Con Một Cha, vào ơn phúc mà Cha muốn ban cho chúng con.
Chúng con cầu xin Cha nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con Amen.
Bài tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và Ông Nicôđêmô, một bậc Thầy MC4-B161
Bài tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và Ông Nicôđêmô, một bậc Thầy trong dân Israel. Ông là một nhà thông thái đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Hẳn ông muốn biết về con người và giáo lý của Chúa Giêsu. Qua cuộc đối thọai này, Người cho ông và qua ông đến mỗi người tín hữu chúng con nhận ra sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao cho Người, khi đến trần gian này:”Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời“. Người nói cho ông về tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa với con người.
Nhân lọai mà khởi đi từ Adam đã bất tuân phục Thiên Chúa, chối bỏ và tự cắt đứt mối liên lạc với Thiên Chúa. Cũng từ đó con người phải chịu bao đau khổ trong cuộc đời, dẫn đến sự chết. Thế nhưng tình yêu của Thiên Chuá thì vượt qua tất cả. Thiên Chúa chẳng những không chấp nhất tội lỗi con người, như lời Đức Giêsu:” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời “. Đức Giêsu như một “Adam mới” đến cứu độ muôn người. Nhưng con người không phải ai cũng nhận ra được tình yêu ấy và đáp trả. Nhiều người trong chúng con đã không đón nhận Chúa, đón nhận Lời Người như ánh sáng soi đường mà vẫn chìm ngập trong bóng tối sự chết, như những lời tiên báo trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa . . .” .
Lạy Chúa,
Lời cảnh báo của Chúa cách đây hơn 2000 năm vẫn còn nguyên giá trị. Con đã được diễm phúc đón nhận vào làm con Thiên Chúa qua bí tích Thanh Tẩy, con đã được đón nhận ánh sáng Tin Mừng, tức là luôn có sự sáng của Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, giúp con dễ dàng phân biệt điều xấu, điều ác mà tránh xa, từ bỏ, Biết nhận ra điều tốt, điều đẹp lòng Chúa để hướng theo và thực hiện. Thế nhưng bóng tối lại che phủ cuộc đời con lớn hơn, lấn át sự sáng khiến con không dám tiến đến cùng ánh sáng.
Nhân những ngày mùa chay Thánh này xin Chúa giúp con biết sám hối và tin vào Tin Mừng. Biết sửa đổi con người mình, hầu thóat ra khỏi bóng tối đang từng ngày, từng ngày đe dọa đời sống đức tin của con. Xin Chúa giúp con biết “Sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ:các việc của người ấy được thực hiện trong Thiên Chúa.”
Xin cho con biết nhìn lên Chúa treo trên thập tự, chính Người đã đến trần gian chịu chết vì tội lỗi của con, để con sẽ được phục sinh với Người, luôn ý thức về mình là người con, gắn bó với Thiên Chúa là Cha, với Hội Thánh để đón nhận được tình yêu Chúa trao ban và làm triển nở tình yêu ấy tên trái đất này. AMEN.
“Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi).
Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê! Tình yêu luôn quan trọng MC4-B162
Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê!
Tình yêu luôn quan trọng trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh, vì ai cũng muốn “yêu” và “được yêu”. Không ai định nghĩa được tình yêu, vậy có thể ví nó như cái gì để dễ hiểu? Người Ấn Độ có cách so sánh độc đáo: “Tình yêu giống như một dây leo, nó sẽ khô héo và chết đi nếu không có gì để nó quấn quýt”. Quả thật, cuộc sống không có tình yêu thì không còn là cuộc sống nữa. Tình yêu vô hình nhưng khả dĩ cảm nhận, và nó là báu vật: “Tình yêu thương là tài sản quý giá nhất của con người” (Ngạn ngữ Ả Rập).
Tông đồ trẻ Gioan đã được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu và được mệnh danh là người-môn-đệ-Chúa-yêu, ông xác định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Và ông nhấn mạnh: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10).
Trong cuộc sống, khi nói đến vấn đề vô ân bạc nghĩa, người Việt thường nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái trái tai cần thiết mà luôn bị lãng quên. Chúng ta cũng thường đối xử với Chúa theo kiểu như vậy. Nhưng Ngài vẫn “làm ngơ”, coi như không biết, vì tình yêu thương của Ngài luôn bao la, là bản trường ca đầy những Nốt Tình kỳ diệu dệt thành Giai Điệu Xót Thương tuyệt vời nhất để chúng ta tận hưởng. Khối Thánh Tình đó của Ngài được phát xuất từ Thánh Tâm, Nguồn Mạch Yêu Thương, và đó cũng chính là Lòng Thương Xót vô biên của Ngài.
Hôm nay, vậy là chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay. Xin mạn phép nhắc lại một chút cho dễ hiểu: Chúa Nhật IV Mùa Chay còn được gọi là Chúa Nhật Vui (Lætare), với lễ phục màu hồng, xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Lætare Jerusalem – Hãy vui lên hỡi Giêrusalem). Niềm vui này dẫn chúng ta tới đỉnh Đồi Sọ để cùng chết với Thầy Chí Thánh.
VÌ LÀ TỘI NHÂN…
Thánh Vịnh gia xác định: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Đó là “kiếp tội nhân” của mọi phàm nhân. Tất cả chúng ta đều là những hạt-bụi-nhỏ-nhoi-và-yếu-hèn, đều là những tội nhân, ngay cả những người công chính cũng vẫn phạm sai lầm mỗi ngày 7 lần (x. Cn 24:16).
Thật vậy, sách Sử Biên Niên nói: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2 Sb 36:14). Do đó, Thiên Chúa không ngừng sai sứ giả của Ngài đến cảnh cáo, vì Ngài hằng thương xót dân và thánh điện của Ngài. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài. Dân Chúa phạm tội tăng theo cấp số nhân, dân Chúa cũng chính là chúng ta. Và rồi Thiên Chúa buộc lòng phải bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Ngài đến vô phương cứu chữa. Nhưng Ngài trách phạt chúng ta vì yêu thương, vì thương xót, chứ không vì ghét bỏ, để chúng ta có thể “sáng mắt” và giác ngộ mà nhận ra những sai lầm thái quá của mình.
Chuyện kể trong sách Sử Biên Niên thế này: Ngày xưa quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Theo “luật nhân quả” thì “gieo gì gặt nấy”, và chúng ta cũng thường nói: “Gieo gió thì gặt bão”. Hình phạt là hậu quả từ sự ngang ngược của chúng ta: Lỗi tại tôi mọi đàng – một hệ lụy tất yếu!
Chỉ vì to gan, lớn mật, coi trời bằng nắp bia, dám phạm tội phản nghịch Thiên Chúa mà dân chúng phải đi đày. Khổ nên buồn, buồn nên nhớ quê hương, thế nên dân chúng than thở thảm thiết: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn” (Tv 137:1-2). Mỗi người trong chúng ta cũng đã bao lần tự cắt mối dây liên lạc với Chúa vì phạm tội, đến lúc ở “bước đường cùng” rồi thì chúng ta chỉ còn biết năn nỉ ỉ ôi: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Lời cầu nguyện này không chỉ được chúng ta đấm ngực và kêu xin trong thánh lễ hằng ngày mà còn nhiều lần khác trong ngày. Rõ ràng “cứ trái tai mà sờ”. Thật tồi tệ, thế nhưng lại là tốt, bởi vì Thiên Chúa tươi cười khi thấy chúng ta biết sám hối!
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đã khổ sở vì lòng ray rứt, dân chúng còn bị bọn lính canh “khiêu khích” để chạm vào vết thương lòng đang sưng tấy: “Hát đi, hát thử đi xem! Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:3). Ui da, vần thơ lục bát êm đềm thế mà sao nhức buốt quá! Đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn não lòng như vậy thì còn đâu hứng khởi mà hát xướng, dù là bài ca kính Chúa Trời? Và rồi lòng lại dặn lòng: “Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:5-6). Con cái chẳng bao giờ rời khỏi cha mẹ, chúng ta cũng chẳng bao giờ thoát khỏi Thiên Chúa. Chắc chắn như thế!
…NÊN CẦN TÌNH CHÚA
Thiên Chúa là Đấng THẤU SUỐT mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), Ngài biết rõ chúng ta đau khổ vì đã chống lại Ngài, nhưng Ngài vẫn “làm như không hay biết” vì muốn chúng ta tự nhận thức và sám hối thật lòng. Chừng nào chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ ra tay ngay. Thánh Phaolô trần tình: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2:4-5). Ôi, chúng ta thực sự hạnh phúc vô cùng, nhưng đừng ảo tưởng mà cho rằng Thiên Chúa “phải” yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta vì thương xót chúng ta, “chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ” (Ep 2:5), chứ chúng ta chẳng là gì mà Ngài phải bận tâm!
Tất cả là hồng ân. Ngài không chỉ cứu độ chúng ta mà còn “cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6). Ngài tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau thấy ân sủng dồi dào và phong phú của Ngài. Thánh Phaolô tái xác định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa, cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Quả thật, chúng ta không hề có mảy may gì để mà hãnh diện!
Đó là điều vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, bởi vì “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu”, và chúng ta có trách nhiệm “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Đó là sự công bình hoàn toàn hợp lý!
Qua sách Dân số, chúng ta biết rằng, từ núi Horép, dân Chúa lên đường theo đường Biển Sậy (Sea of Reeds, còn gọi Biển Đỏ – Red Sea), vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, với lương thực duy nhất là “món” mana, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn nên kêu trách Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này!” (Ds 21:5). Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn khiến nhiều người chết. Thấy vậy, dân chúng hoảng sợ quá nên đành phải cầu xin ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi” (Ds 21:7). Ông Môsê cầu nguyện, và Thiên Chúa “mủi lòng” nên bảo ông đúc một con rắn bằng đồng, đem treo lên cây cột, và “hễ ai bị rắn cắn mà NHÌN lên con rắn đồng thì ĐƯỢC CỨU SỐNG” (Ds 21:9).
Biểu tượng ơn cứu độ thời Cựu Ước là “con rắn đồng treo trên cây cột trong sa mạc”, biểu tượng ơn cứu độ thời Tân Ước là “Đức Kitô bị treo trên Thập giá”, để “ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Lời hứa đó là niềm hy vọng chắc chắn đối với chúng ta, nhưng tất cả đều là hồng ân, và nhờ Lòng Chúa Thương Xót. Thật vậy, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá đỗi lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Thiên Chúa công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không thiên tư tây vị bất kỳ ai, không “ưu tiên” người “có thế giá”, cũng chẳng “chèn ép” người cô thân – dù là người cùng đinh nhất thế gian: “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Đó là sự công bằng – vừa minh nhiên vừa mặc nhiên.
Đâu là nguyên nhân của bản án? Rất đơn giản: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Thiên Chúa giải thích: “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:20-21). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Còn chúng ta? Trách nhiệm của chúng ta là gì? Đó là “thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, nếu ai hoàn thành tốt thì “việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”. Một hệ lụy rất lô-gíc và quá tuyệt vời! Nếu vậy, mỗi chúng ta sẽ trở thành một “nốt tình” trong bản tổng phổ của bài “Trường ca Lòng Chúa Thương Xót”.
Tuy nhiên, Thánh Phêrô cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Ma quỷ rất tinh quái, đủ mánh khóe để đưa chúng ta vào tròng, thế nên phải luôn cảnh giác như Thánh Têrêsa Hài Đồng: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn”. Đáng sợ là nó làm cho chúng ta cảm thấy mình đạo đức, vì thế mà kiêu ngạo và khinh người khác.
Ba thù rất đáng quan ngại, mỗi loại có “chiêu” riêng, vì thế mà phải ăn chay để khuất phục chúng. Chịu khó ăn chay một chút nhưng được nhiều ích lợi. Thánh GM TS Augustinô cho biết: “Ăn chay tẩy sạch linh hồn, nâng cao tâm trí và thể lý, làm cho tâm hồn khiêm nhường và hối hận, phá tan những ham muốn trần tục, kiềm chế nhục dục, và thắp sáng lửa tinh tuyền. Hãy đi vào nội tâm của chính mình”. Cố vượt qua chính mình và phải cậy nhờ vào Đấng toàn năng: “LẠY CHÚA TRỜI, XIN TỚI GIÚP CON! – DEUS, IN ADJUTORIUM MEUM INTENDE ! – O GOD, COME TO MY ASSISTANCE !”.
Dù ở vào hoàn cảnh nào thì cũng “đừng sợ!”, bởi vì chúng ta luôn có Chúa Giêsu đồng hành và cùng chiến đấu với chúng ta. Tưởng cũng cần biết điều thú vị này: Thành ngữ “đừng sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, trong suốt cả năm, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên trong các trường hợp khác nhau với mệnh lệnh: “ĐỪNG SỢ!”. Tạ ơn Chúa!
Lạy Thiên Chúa, còn biết bao người chịu đau khổ đủ cách và đủ mức ở khắp nơi trên thế giới này, xin Ngài thêm sức và cứu thoát họ. Thưa Ngài, con là kẻ bạc tình bạc nghĩa – với Ngài và với tha nhân, chỉ lo ngoại tại mà quên nội tại, nói nhiều mà chẳng làm được bao nhiêu, xin Ngài đại lượng tha thứ. Xin ban ánh sáng Thánh Linh để thức tỉnh lòng con và giúp con biết sống khiêm nhường để có thể thực sự trở nên lợi khí của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay là Chúa nhật Mừng (Laetare), còn gọi là Chúa nhật Hồng. Vui MC4-B163
Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay là Chúa nhật Mừng (Laetare), còn gọi là Chúa nhật Hồng. Vui mừng vì Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến độ thí ban Con Một để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hoà giải với Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày đến tột cùng qua hình ảnh Chúa Giêsu chấp nhận chịu treo trên thập giá vì trần gian. Vui mừng vì ơn cứu độ, vì sự sống đời đời sẽ được ban cho những ai, với lòng tin tưởng và thống hối, biết nhìn lên Đấng bị đóng đinh, Đấng bị “giương lên” trên cây thập giá, như con rắn đồng trong sa mạc năm xưa.
Nơi trang Tin Mừng chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đã lấy lại hình ảnh con rắn đồng được treo cao trong hoang địa để cứu sống dân Do thái khỏi nọc độc rắn lửa cắn, để giới thiệu thập giá là tình yêu cứu độ, khi Ngài chấp nhận bị chết treo lên cao để cứu con người khỏi nọc độc của tội lỗi. Câu chuyện con rắn đồng không lạ gì với ông Nicôđêmô, với dân Do thái. Trong sách Xuất hành, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, một cuộc hành trình dài 40 năm đầy cam go, khổ sở và nhiều thử thách. Khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách, xúc phạm đến Chúa và chống đối ông Môisen. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Dân chúng hoảng sợ và hối hận, họ chạy đến kêu cầu ông Môisen cứu giúp. Ông Môisen cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy đúc một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, đến nhìn lên rắn đồng với lòng ăn năn thống hối thì được khỏi. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô nơi bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng cứu chữa bất cứ ai tin cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu bị giương cao trên thập giá và Ngài trở thành nguồn ơn cứu độ và giải thoát cho chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nào? Phải chăng Ngài cứu chúng ta chỉ bằng đau khổ thập giá? Chúng ta hãy nhớ lại trên đồi Can-vê chiều hôm ấy có ba bản án tử hình và ba cây thập giá được dựng lên, nhưng chỉ có một cây được gọi là “Thánh giá” và hai cây kia thì bị gọi là “khổ giá” hay “thập ác”. Chỉ có cây thập giá treo Chúa Giêsu lên thì được gọi là Thánh giá. Trong khi đó cả ba người tử tội đều cùng một hình phạt, cùng chịu đau khổ và nhục nhã như nhau và cùng chết thê thảm như nhau. Nhưng cái chết của hai tên trộm cướp kia có cứu được ai đâu? Chỉ có cái chết của Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu không cứu chúng ta bằng đau khổ nhưng là bằng tình yêu. Ở nơi thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa bày tỏ dung nhan của Người là tình yêu hiến ban, như Chúa Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”. Ở trên thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu tột cùng của Người, vượt lên trên sự hiểu biết và suy tưởng của con người. Thiên Chúa đã thí ban Con Một dấu ái của Người để gánh lấy tội lỗi nhân loại, để đền thay và chết thay cho mọi người, nhờ đó con người được tha thứ, được cứu sống và sống đời đời.
Thật vậy, thập giá của Chúa Giêsu đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Ngài. Không đâu xa, ngay tại nơi Chúa Giêsu bị treo lên, vào buổi chiều Thứ Sáu trước lễ Vượt qua năm ấy, khi ba cây thập giá được dựng lên, treo ba thân xác tả tơi đầy thương tích của ba người tử tội, người ta nghe tiếng của tên trộm bị treo bên tả chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Ngược lại, tên trộm phía bên hữu, như được sức mạnh của ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận vì tội lỗi ngập đầu của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết kêu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời cầu cứu đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Người trộm lành đã nhìn nhận tội lỗi của mình và chấp nhận chịu trừng phạt, khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dù cả đời anh ta xấu xa tồi tệ, cả đời trộm cướp, chiếm đoạt cách bất công tiền bạc, của cải của người khác, bất chấp đã gây ra biết bao đau khổ, mất mát cho tha nhân. Nhưng giờ đây, nhờ nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu, tên trộm khét tiếng gian ác đã trở thành người trộm lành. Ánh sáng nơi thập giá Chúa Giêsu đã khơi dậy tâm tình thống hối nồng nàn tha thiết trong tâm hồn anh. Anh biết và thực tâm cảm nhận điều đó. Đồng thời tận đáy tâm hồn anh lòng kính sợ Thiên Chúa cũng đã được khơi gợi lên mạnh mẽ. Anh cũng đã nhận ra và tin tưởng Đấng cùng chịu đóng đinh với anh hôm nay là người vô tội, là Đấng thánh, là Đấng có thể cứu anh được sống đời đời. Nên khi quay sang thập giá Chúa Giêsu để cầu xin Ngài cứu giúp, thì lại chính là lúc anh được đón nhận ánh sáng từ thánh giá Chúa, và làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thánh giá, anh đã tin vào giá trị của thánh giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Đứng trước thập giá Chúa Giêsu, đám đông dân chúng thì đòi Chúa xuống khỏi thập giá, trái lại tên trộm lành thì lại muốn được Chúa đưa lên cao. Thế gian thì cầu mong Chúa rao giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lành thì lại tìm được niềm tin khi chịu đau khổ, bị treo trên thập giá. Anh ta đã thấy tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi cả đời của anh, một tình yêu không loại bỏ thân phận thấp hèn và nhơ nhớp của anh. Anh đã thấy sức mạnh và quyền năng vô biên nơi tình yêu của Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ, và cho anh được sống đời đời. Phải chăng sự hối cải và niềm tin của người trộm lành đang chất vấn chúng ta, và là mẫu gương cho đời sống đức tin và lòng sám hối của chúng ta hôm nay? Hãy học cách nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu của người trộm lành, người đầu tiên được hưởng tình yêu cứu độ nơi thập giá Chúa Giêsu, người đầu tiên được Chúa Giêsu hứa ban hạnh phúc thiên đàng.
Kể từ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, khi thập giá Chúa Giêsu được giương lên cao, thì khổ hình thập giá đã trở thành thánh giá ; và bóng mát của tình yêu cứu độ nơi thánh giá Chúa đã bao phủ cả trời đất. Biết bao người suốt 2.000 năm qua đã được cứu độ, được sống đời đời nhờ Thánh giá Chúa Giêsu. Biết bao người đã tìm thấy niềm tin, ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ tin vào thánh giá Chúa Giêsu. Họ đã cống hiến đời mình để tiếp tục ra đi dựng cây thánh giá Chúa ở mọi nơi khắp cùng trái đất. Nhờ đó mà Tin Mừng và ơn cứu độ của Chúa đến được với mọi dân tộc trên hành tinh này.
Cùng với mọi thành phần dân Chúa giáo phận Qui Nhơn đang hợp mừng Năm Thánh hồng ân, với ánh sáng lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi hãy nhìn lên thánh giá Chúa với hết lòng tin yêu và chân thành sám hối; đồng thời cũng nhìn vào gương các bậc tiền nhân để tiếp tục dấn thân dựng xây gia đình giáo phận. Ước gì mỗi một người con của đất Mẹ Qui Nhơn hôm nay biết nhìn lên Thánh giá Chúa với tâm tình tạ ơn chân thành, với lòng tin tưởng mãnh liệt vào tình yêu Thiên Chúa mà biết sám hối, canh tân đời sống. Đồng thời cũng biết nhìn vào gương sống của các bậc tiền nhân, gương hy sinh quên mình và chấp nhận mọi gian lao khốn khó để loan báo Tin Mừng và gầy dựng giáo phận, để mỗi người thêm lòng nhiệt thành mà dấn thân phục vụ vô vị lợi và nổ lực sống chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa trên mãnh đất giáo phận thân yêu.
Hôm nay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Mừng vui lên, Giêrusalem hỡi!… Các bạn đang sầu khổ MC4-B164
Hôm nay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Mừng vui lên, Giêrusalem hỡi!… Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở reo mừng, và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan” (Is 66: 10-11). Tại sao Giáo Hội lại kêu gọi chúng ta hãy vui lên giữa lúc phải ăn năn sám hối của Mùa Chay? Câu chuyện sau đây có thể giúp trả lời.
William Willimon kể rằng: “Một trong những điều xảy ra lạ lùng nhất và ám ảnh nhất trong tuổi thơ của tôi đó là vết cắn của một con rắn. Bảo tàng viện The Field Museum ở Chicago, nơi cha tôi làm việc, có một bộ sưu tầm về những con vật sống cũng như những con đã chết được trưng bày và làm giống như còn sống. Câu chuyện xảy ra cho một nhà khoa học chuyên môn nghiên cứu về rắn. Một đêm nọ, trong văn phòng, ông làm việc rất khuya để ghi nhận những đặc điểm về vài loại rắn độc mà viện bảo tàng vừa có được. Có một con rắn mà ông đặc biệt chú ý đến vì chưa ai biết về nó. Rủi thay, đang khi nghiên cứu về con rắn này, nhà khoa học đã bị nó cắn. Ông nhận ra ngay rằng đây là một con rắn rất độc, và cũng biết rằng nó là loại rắn chưa ai biết và phân loại, nên cũng chưa có thuốc giải độc. Toàn bộ khu vực bảo tàng viện hoàn toàn vắng người, chỉ trừ mấy người gác gian ngoài cửa chính, nhưng lại rất xa chỗ văn phòng làm việc của ông. Chẳng còn cách nào để gọi cầu cứu, ông đã mau chóng quyết định trở lại bàn giấy và bắt đầu viết xuống, diễn tả những triệu chứng ông đang trải qua.
Sáng sớm hôm sau, khi những nhân viên làm việc đến, nhà khoa học đã chết gục trên bàn làm việc của ông. Những điều ông viết xuống kể lại những gì đã xảy ra là một di sản quý báu cho những người tiếp tục công việc ông làm. Qua cuộc khám nghiệm tử thi người ta đã biết được làm thế nào nọc độc đã giết chết ông, và từ đó đã có thuốc chống nọc độc thích hợp. Biết bao nhiêu người đã được cứu sống vì ông đã lãnh nhận toàn bộ nọc độc của con rắn trong người ông.”
Sự hy sinh của nhà khoa học nhắc nhở chúng ta về điều mà Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi dân thành Côrintô đã viết: “Nọc độc của sự chết là tội lỗi, và sức mạnh của tội là lề luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cor 15:56-57).
Lý do của sự vui mừng hôm nay là Tình Yêu Thiên Chúa. Nhà khoa học đã hy sinh mạng sống mình cho người khác được sống là một hình ảnh minh họa cho tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hy sinh mạng sống mình để cứu nhân loại được sống.
Con rắn đưa chúng ta trở về với câu chuyện Thánh Kinh đã diễn tả trong Cựu Ước. Trong sa mạc, nạn dịch đã xảy ra cho dân Do Thái. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê treo con rắn lên cây cột và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì được sống (Ds 21:9). Hình ảnh của con rắn bằng đồng biểu tượng cho ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời Nhập thể (GLCG # 2130). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã phán dạy những lời mà các nhà chú giải Thánh Kinh gọi là “Thánh Kinh thu nhỏ lại – Bible in miniature”, hay “Trái tim của Thánh kinh – The heart of the Bible”: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3:16). Để dễ nhớ, một tác giả đã đơn giản hóa lại như sau:
– “Thiên Chúa”… Người Yêu vĩ đại nhất. – “Đã yêu… đến nỗi”… Cấp độ vĩ đại nhất. – “Thế gian”… Con số vĩ đại nhất. – “Đã ban”… Hành động vĩ đại nhất. – “Con Một Ngài”… Món quà vĩ đại nhất. – “Để tất cả những ai”… Thiệp mời vĩ đại nhất. – “Tin”… Sự đơn giản vĩ đại nhất. – “Vào Ngài”… Con Người vĩ đại nhất. – “Khỏi phải chết”… Sự giải thoát vĩ đại nhất. – “Nhưng”… Sự khác biệt nhất. – “Có”… Sự chắc chắn nhất. – “Sự Sống đời đời”… Sở hữu vĩ đại nhất.
Để diễn tả tình yêu, tiếng Hy Lạp có ba từ khác nhau cho ba loại tình yêu, trong khi Anh ngữ chỉ có một từ chung là “love” để chỉ ba tương quan đó: 1- Eros: tình yêu vợ chồng, nam nữ – romantic love – trong hôn nhân. 2- Philia: tình bạn hữu – fellowship love – trong xã hội. 3-Agape: tình yêu tận hiến, hy sinh – sacrificial love – như người mẹ liều thân mình bảo vệ và hy sinh cho người con còn trong bụng mẹ.
Tình yêu nam nữ, vợ chồng, thường có khuynh hướng muốn đón nhận nhiều hơn. Trong khi tình bạn lại muốn được chia sẻ, có qua có lại. Còn tình yêu tận hiến thì chỉ muốn cho đi. Với tình yêu tận hiến (agape or sacrificial love): “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban”. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa tình yêu của Thiên Chúa và của chúng ta: Thiên Chúa cho đi và tha thứ; chúng ta đón nhận và lãng quên. Cho đi là dấu hiệu của tình yêu tận hiến.
Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả tình yêu Thiên Chúa như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel được ví với tình yêu của người cha đối với con mình (Hs 11:1). Tình yêu này mạnh hơn tình yêu của người mẹ đối với các con mình (Is 49:14-15). Thiên Chúa yêu Dân của Ngài hơn là vị phu quân yêu ái thê của mình (Is 62: 4-5); và tình yêu này sẽ thắng vượt tất cả những sự bất trung xấu xa nhất (Hs 11); và tình yêu này sẽ đi tới sự trao ban quý trọng nhất: ‘Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến mức đã ban Con Một của Ngài’ (Ga 3:16)” (số 219).
Đây là loại tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài cũng đòi hỏi chúng ta phải yêu nhau bằng tình yêu này (Ga 15:12). Có thể nói, đây cũng là loại tình yêu đang được sống trên thiên đàng. Và bất cứ nơi nào vắng mặt tình yêu tận hiến này đều làm cho chúng ta xa cách khỏi Thiên Chúa.
Có một vị thánh cầu xin với Chúa tỏ cho biết sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục. Chúa mới sai một thiên thần dẫn bà đi xem, đầu tiên xuống hỏa ngục trước. Ở đó bà trông thấy quý ông quý bà ngồi quây quần xung quanh một bàn ăn đầy dẫy những lương thực thơm ngon. Nhưng chẳng có ai ăn được miếng nào cả. Tất cả ngồi buồn bã ngáp dài. Bà thánh mới hỏi một người trong họ, “Tại sao quý vị không ăn đi?” Người đó mới đưa bàn tay lên cho bà xem. Nó bị cột chặt vào một cái nĩa dài chừng một mét rưỡi, mỗi lần họ cố gắng lấy đồ ăn xúc vào miệng thì chỉ làm tung tóe xuống nền nhà. Nhìn thấy họ đói khát, thèm muốn mà tội nghiệp!
Rồi thiên thần đưa bà lên thiên đàng. Bà rất ngạc nhiên vì cảnh ở thiên đàng cũng hầu như giống với cảnh ở hỏa ngục. Quý ông quý bà cũng ngồi xung quanh một cái bàn tiệc với đủ loại đồ ăn ngon tuyệt vời, và tay mỗi người cũng bị cột vào một cái nĩa dài một mét rưỡi. Nhưng không giống như ở hỏa ngục, mọi người ở đây rất vui vẻ, cười đùa thỏa thích. Bà thánh mới hỏi một trong những người của họ, “Cái gì vậy? Tại sao các ngài lại vui vẻ trong tình trạng như thế này được?” Một người trả lời, “Ở đây, trên thiên đàng chúng tôi săn sóc, phục vụ và giúp cho nhau ăn uống.”
Chúng ta có thể nói rằng: “Ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời.” Theo thơ của Thánh Gioan Tông Đồ: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Jn 4:16). Ở đâu có sự săn sóc, phục vụ và giúp đỡ cho nhau, ở đấy là thiên đàng.
Một ngày nọ, em bé gái bày đồ chơi trong phòng nơi người mẹ đang may vá quần áo. Thình lình bé chạy đến chỗ mẹ ngồi may vá, trèo lên đùi mẹ, quàng hai tay xung quanh cổ mẹ, rồi hôn mẹ. Sau đó với một cử chỉ yêu thương bé nghiêng cái đầu nhỏ bé lên bờ vai của mẹ và thì thầm vào tai mẹ, “Mẹ ơi, bé yêu mẹ lắm!” Người mẹ mỉm cười ngọt ngào nói: “Bé ơi, tại sao bé thương mẹ?” Với những giọt nước mắt long lanh trên khóe mắt, bé trả lời, “Bé thương mẹ là bởi vì mẹ yêu bé khi bé còn quá nhỏ để thương mẹ lại.”
Tương tự như tình yêu của người mẹ dành cho con cái (Mt 7:11), Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn chưa có gì để yêu thương lại Ngài (Rm 5:8). Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui mừng trong tình yêu của Thiên Chúa ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Đó là “đã ban Con Một Ngài” cho chúng ta (Rm 8:32).
Chúng ta được mời gọi để tin vào Con Thiên Chúa, dấu tích của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Vì thế chúng ta phải dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã làm (Ep 1: 3-5, 9-10). Trong Tông Sắc “Mầu Nhiệm Nhập Thể”, nhân dịp triệu tập năm thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Trong Đức Kitô, lịch sử cứu rỗi đạt đến chóp đỉnh và ý nghĩa cuối cùng…, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Ga 1:16), và được giao hòa lại với Thiên Chúa Cha” (Rm 5:10; 2 Cr 5:18) (Bulla Apostolisca số 1).
Chúng ta cũng được mời gọi để sống một cuộc đời biết ơn Thiên Chúa bằng tình yêu thương đối với anh chị em đồng loại; không phải một tình yêu chỉ đi tìm sự đáp trả, nhưng với tình yêu hy sinh, tận hiến cho đi một cách quảng đại như Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi Ngài ban chính Con Một Ngài (Ep 4: 1-6; 3:17-19). Đây là ý nghĩa của Mùa Chay khi chúng ta ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái với một tình yêu hy sinh, tận hiến, và phục vụ cho tha nhân.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng MC4-B165
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.
2Sb 36: 14-16, 19-23 Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.
Ep 2: 4-10 Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki-tô.
Ga 3: 14-21 Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích này nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành đô bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.
Tội của dân Ngài
Tác giả ghi lại những biến cố này vào thời gian rất lâu sau này , cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.
Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Việc dân bị trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”.
Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ”. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông.v.v…Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.
Thiên Chúa tha thứ
Nhưng cơn thịnh nộ này chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên này . Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích này là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.
Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa “làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem”. Nếu Thiên Chúa sai phái các sứ giả của Ngài, chính “vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự”. Hành động đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ki-rô tuyên bố “xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem”.
Mầu nhiệm Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)
Thánh Phao-lô viết thư này từ Rô-ma trong hoàn cảnh bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư này không chỉ cho cộng đoàn Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Thư này biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.
Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích này rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
Quyền Tối Thượng của Chúa Cha
Thánh Phao-lô luôn luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư này , trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…
Chúa Cha giàu lòng xót thương
Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Chuộc: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.
Cuộc sống tương lai
Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ này? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.
Đức tin, việc làm và ân sủng
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ này . Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất; nhờ Ngài, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.
TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài ban đêm. Với đoạn trích này , nhân vật Ni-cô-đê-mô biến mất khỏi câu chuyện: không còn cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Diễn từ của Đức Giê-su không còn ngỏ lời với người biệt phái thiện cảm này nhưng với tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của “phiên tòa” lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ phiên tòa xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.
Đoạn văn này gồm ba phần: trước hết, dấu chỉ của con rắn đồng; tiếp đó, ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người; sau cùng, tấn thảm kịch của sự chọn lựa.
Dấu chỉ của con rắn đồng(3: 14-15)
Đối với những người Biệt Phái chất vấn Ngài, Chúa Giê-su cho những câu trả lời thường bí ẩn. Đối với ông Ni-cô-đê-mô, Ngài ám chỉ đến một sự kiện sắp đến mà ông không thể nào hiểu được: việc Ngài bị treo lên trên thập giá được sánh ví với việc con rắn đồng được ông Mô-sê treo lên trên một cây sào trong hoang địa để mà những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn mà khỏi phải chết. Rõ ràng điều này muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu nếu đặt trọn niềm tin của mình vào Đấng chịu đóng đinh.
Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng (Ga 3: 14; 8: 28; 12: 32), loan báo hành vi cứu độ của Thập Giá. Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá là tột đỉnh ý định của Thiên Chúa.
Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người(3: 16-18)
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu “Con Một” có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2); nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều có được sự sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.
Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất này tràn ra cho hết mọi người, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.
Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)
Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối này cô đọng Thần Học Gioan.
Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”.
Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo MC4-B166
Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân Nhưng Thiên Chúa vẫn không ngừng sai các sứ giả của Ngài đến để cảnh tỉnh họ, vì Ngài vẫn hằng yêu thương họ. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Ngài, khinh thường lời của Ngài và chế giễu các ngôn sứ. Nhưng nhờ lời cầu của Môsê mà ai nhìn lên con rắn đồng được treo lên thì được thoát chết để được vào miền đất hứa. Nhưng vào được đất hứa, dân Chúa lại thất trung, không nghe lời các ngôn sứ, nên Chúa lại để cho kẻ ngoại đến dẹp thánh địa của họ, và để cho dân Ngài bị bắt đi lưu đày bên Babylon.Lòng dạ con người là như thế đó. Nhưng trong thời kỳ lưu đày tại Babylon, dân Ngài đã biết sám hối, và Ngài lại cho vua Ba tư là Cyros giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon.Dầu cho con người bội tình bội nghĩa, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người vẫn không thay đổi.
Bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại cho ông Nicôđêmô về việc ông Môsê giương cao con rắn đồng trong sa mạc để ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành, Đức Giê su muốn ám chỉ về số phận của Ngài: “ Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Rồi Ngài quả quyết: “ Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” ( Ga 3: 14-15) Như thế, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ.
Một câu chuyện huyền thoại của Ấn Độ kể rằng: Thời xưa, lúc đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối ai bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói: “Già đói lắm! Suốt mùa nước lũ, già không có gì ăn. Chắc già sắp chết mất! Giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ. Pôlixa có cho già được không?” Thỏ nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá! Thỏ bảo ông: “Được rồi. Ông chờ cháu một lát.” Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống, rồi nổi lửa lên và nói: “ Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.” Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt và ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được được Thượng Đế cho phép đến thử lòng thỏ. Về sau, để thưởng công, Thượng Đế cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi bên mặt trăng.
Đây chỉ là một câu chuyện huyền thoại, nhưng hàm ý nói đến lòng bác ái thương người, sẵn sàng hy sinh chính mình vì người khác. Vì yêu thương và muốn cứu chuộc con người khỏi phải diệt vong, Đức Kitô đã vâng theo ý của Chúa Cha để chết cho con người được sống. Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu.
Con người tự lên án mình khi không tin vào Con Thiên Chúa là ánh sáng thế gian: “ Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa ( c. 19). Ánh sáng xóa tan bóng tối ấy là Đức Kitô. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.Vì thế, “ Ai tin vào con của Ngài thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi. Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” ( Ga 3: 18)
Ngày nay, nhìn lên thánh giá, chúng ta thấy được gì ở đó?Thấy tình yêu thủy chung, bao dung, luôn tha thứ của Thiên Chúa,thấy sự vô ơn bội phản của con người.Tình yêu của Thiên Chúa không dành riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc, không dành riêng cho con cái của ánh sáng, nhưng cũng cho những con cái của bóng tối. Điều kiện để được cứu độ, ngoài đức tin, còn phải có ân sủng của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Êphêxô: “ Chính do ân sủng và lòng tin mà anh em được cứu độ.”( Ep 2: 5a)
Tin và yêu là hai thực tại không thể tách biệt trong tình yêu. Không tin thì không thể yêu, và không yêu thì không thể tin. Ánh sáng và bóng tối là hai thực tại đối nghịch.Tin và yêu vào Đức Kitô là đi trong ánh sáng, ngược lại là đi trong bóng tối!
Bước vào vùng ánh sáng là chọn lựa sáng suốt Nicodemus đã chọn trở về vùng ánh sáng Đức Kitô MC4-B167
Bước vào vùng ánh sáng là chọn lựa sáng suốt Nicodemus đã chọn trở về vùng ánh sáng Đức Kitô. Ai bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô sẽ không vấp ngã và nếu có vấp ngã sẽ mau chóng nhận ân sủng Chúa, chỗi dậy tiếp tục con đường ánh sáng. Nicodemus đi tìm sự sống trong bóng tối và chỉ nhận được sự sống không bền vững. Ông luôn khao khát sự sống vĩnh cửu và nhận biết Đức Kitô là Đấng ban sự sống ấy. Nicodemus đến cùng Đức Kitô vào ban đêm vì ông sợ đồng nghiệp kết án hoặc chế diễu nên tìm đêm tối đến cùng Đức Kitô. Bóng tối theo nghĩa tâm linh đại diện cho sự tối, sự dữ. Ánh sáng biểu tượng của tình yêu Chúa, bác ái và thứ tha. Đi từ vùng tối sang vùng sáng chính là từ bỏ con đường tà về đường ngay chính. Đường công chính là con đường Đức Kitô hướng dẫn bởi
Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Gn 14,6
Trong Cựu Ước đoàn lữ hành trên đường về Đất Hứa họ đã mất kiên nhẫn, bất trung với Thiên Chúa và bị rắn độc giết hại. Con rắn đồng được dựng nên cảnh tỉnh toàn dân. Con đường tà thần là đường dẫn đến sự dữ, sự chết. Nhìn hình ảnh rắn đồng nhắc nhở họ biết nhận sai trái, đấm ngực, thống hối, ăn năn trở về con đường công chính. Đây là con rắn cuối cùng trong Cựu Ước. Con rắn đầu tiên cám dỗ nhân loại trong vườn Địa đàng và con rắn cuối cùng, hình ảnh của thần dữ, chết chóc xảy ra trong hoang địa.
Trong Tân Ước Đức Kitô dùng hình ảnh Ngài treo trên thập tự nói lên tình yêu tự hiến của Ngài. Nhìn vào hình ảnh Con Thiên Chúa treo trên thập tự để nhận ra tình yêu Chúa, lòng bác ái chan hoà từ con tim yêu mến Ngài mở ra tha thứ cho nhân loại. Nhìn lên thập tự Chúa để nhận ra Đức Kitô tự nguyện đến trần gian và tự nguyện hiến thân trên thập tự ban ơn cứu độ, ban ơn tha thứ cho những tâm hồn có lòng thống hối ăn năn. Đức Kitô đến trần gian không phải chỉ xoa dịu đau thương, sầu khổ. Ngài đến trần gian ban sự sống vĩnh cửu và những ai đáp trả lại tình yêu đó sẽ nhận được sự sống trường sinh. Tình yêu đáp trả tình yêu. Nhân loại không có gì quí hơn là dùng chính tình yêu trong tim ta và tâm tình tạ ơn đáp trả tình Chúa. Ngoài tình yêu và tâm tình tạ ơn ra con người không còn gì tốt hơn để báo đáp tình yêu Chúa. Chúa nhân từ cũng không mong gì hơn là tình yêu ta dành cho Ngài.
Đức Kitô xuống trần gian cứu độ toàn thể nhân loại nhưng Ngài ban cho cá nhân quyền tự do chọn lựa lối sống riêng. Nicodemus chọn ánh sáng Đức Kitô bởi ông mong mỏi tìm kiếm ánh sáng sự sống và ông vui mừng đón nhận ánh sáng đó. Số khác sợ ánh sáng bởi sợ sống theo ánh sáng Đức Kitô sẽ bị mất một sợ quyền lợi đang hưởng. Sợ ánh sáng, sợ sự thật, sợ điều tối đang làm bị phơi bày ra ánh sáng, sợ bị thiệt thòi, sợ mất bổng lộc. Tất cả những điều trên không đáng sợ. Có một điều cần sợ, cần hết sức mình tránh cho bằng được đó là sợ mất sự sống đời đời. Đó là điều đáng sợ nhất.
Đại đa số chọn sống theo ánh sáng và rồi trong cuộc sống bận rộn khi thì lầm lẫn trong chọn lựa, khi thì bị những bóng tối mê hoặc, mới đầu coi thường, rồi quen dần với chúng và càng lúc càng xa rời ánh sáng. Khi nhận biết sống xa ánh sáng lại thiếu can đảm chỗi dậy trở về con đường công chính. Từ tối ra sáng, từ sáng vào tối đều cần thời gian thích hợp với hoàn cảnh mới vì thế để trở về ánh sáng chúng ta cần khuyến khích nâng đỡ, hỗ trợ, cầu nguyện để tự tin hơn, can đảm hơn trở về với đời sống ánh sáng, đường công chính.
Sự sống hệ tại bởi cái chết, vì nếu không chết, thì làm sao có sự sống muôn đời. Người thê gian MC4-B168
Sự sống hệ tại bởi cái chết, vì nếu không chết, thì làm sao có sự sống muôn đời. Người thê gian cứ là , ăn , uống, ngủ nghĩ, bệnh hoan, chết chóc rồi cứ xoay vần như vậy, gọi là “ cuộc sống”, theo triết lý nhà Phật, như thế gọi là “ luân hồi”. Nhưng, luân hồi còn có “ quả báo”, nghĩa là: nếu kiếp nầy làm người ác, thì kiếp sau không được làm người, mà có thể làm súc vật.
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, làm người không phải là chuyện dễ, làm người lương thiện khó hơn, nhưng được làm con cái Thiên Chúa càng khó hơn nữa. Vì không phải tự chúng ta muốn làm con cái Chúa hay không là quyền của chúng ta đâu?! Mà là do ân ban nhưng không từ Thiên Chúa.
Vì thế, Đoạn Lời Chúa hôm nay, (Ga 3, 14 -21) là Đọan Lời Chúa Chi tiết , Cuộc đối thoại về “sự sống đời đời” giữa Chúa Giêsu và ông Ni-cô-Đe-mô, một thủ lãnh của người Dothai, thuộc nhóm Pharisieu. Theo đó, người Dothai cũng tin có sự sống đời đời, tin xác sống lại ngày sau hết. Nhưng, Chúa Giêsu cho Nicodemo biết “ nếu ai tin vào Người thì sẽ được sống đời đời”.
Nhưng, Đấng ấy phải từ Trời mà xuống, và pahi3 được “ giương cao như con rắn đồng xưa trong sa mạc”, vì “ như ông Moisen đã giương cao con rắn như thế nào, thì Con Người cũng phải được giương cao nhưa vậy” (Ga 3, 14)
Tám câu trong Đoan Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, từng Lời của Chúa Giêsu trong cuộc hội thoại trên, có thể nói ông Nicôdemo là người Dothai diễm phúc nhất , được Chúa Giêsu mặc khải trực tiếp mầu nhiệm của sự sống qua Con Người với sự sống đời đời, điều mà người Dothai cũng như mọi phàm nhân đều ước ao, nhưng không thể được, ngoại trừ “ TIN “ vào Người Con Một bởi Thiên Chúa.. “Thiến Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian, để ai tin vào Người Con ấy, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Nhưng, “ khỏi phải chết” ở đây phải được hiểu như thế nào? Vì, thực tế ai cũng phải chết. Vâng, cái chết ở đây là chết thân xác và chết siêu nhiên chết vĩnh cửu , chết đời đời. Vậy, nếu ai sống mà “tin” vào Chúa Giêsu, thì khỏi phải chết “đời đời” tức chết siêu nhiên.
Vâng, thưa các bạn, một chân lý dễ hiểu là gì khi “tin “ vào Con Một Thiên Chúa, thưa đó là: “NGƯỜI LÀ ÁNH SÁNG”, ánh sáng thì mặc nhiên ban sự sống, vì ai đi theo ánh sáng, thì nơi người đó không có tối tăm, tối tăm là quyền lực của sự dữ, sự ác, sự chết. tồi tăm không có ánh sáng, như vậy, sự chết là nơi tối tăm nghĩa đen và nghiã siêu nhiên.
Theo đó, ai sống mà tin vào Đức Giêsu- Kitô, thì mặc nhiên nơi người đó không có ánh sáng. Như vậy, rõ ràng,, một người được định nghĩa là “ sống “ thì phải hiểu cả hồn và xác, khi nói đến sự sống không phải chỉ có sự sống nới thân xác mà thôi , mà là linh hồn nữa . Linh hồn là một “đặc ân“ của Thần Khí, rõ ràng thân xác con người không hoàn toàn có sự sống, một sự sống hữu hình, rồi phải chết đi, thì không phải là sự sống đích thực , sự sống viên mãn được. Sự sống được nhìn thấy nơi thân xác, không biểu lộ sự sống vĩnh hằng. Vì, thế lực mạnh hơn sẽ tiêu diệt được sự sống nơi thân xác, nhưng, không thế lực nào tiêu diệt được sự sống Thần Linh là linh hồn thuộc về Thiên Chúa. Tội lỗi là những vết hoen, vết ố, chứ không phải là những tấm màn đen. Chỉ trừ phi phàm nhân không tin vào Con Một của Thiên Chúa, lúc ấy họ mới bị chết đời đời mà thôi.
Chết đời đời là vĩnh viễn lìa khỏi ánh sáng chân lý là Thiên Chúa, theo thần dữ là satan. Satan luôn quyến rũ những kẻ ngạo mạn, ngông cuồng, không suy phục Đấng Cứu Thế Giêsu, satan là những kẻ chạy theo thế gian. Với những tiện nghi giả trá của chúng.
Bài đọc II hôm nay (Ep 2, 4-10) , thánh Phao-lô cho chúng ta biết: “ … Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu cho chúng chúng đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô…” ( 4 -5)
Thánh Vịnh 136 hôm nay nhắc cho chúng ta về tâm trạng đau buồn, tủi nhục của người Dothai xưa. Tâm trạng bị lưu đày xa xứ là tâm trạng buồn thương, khắc khoải, Cũng giống như thân xác con người khắc khoải chờ mong ơn cứu độ, hay linh hồn con người đã chết còn trong chốn giam tạm, chờ ngày phan xét chí công.
Ngày 25/02/2018 , Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên đường viếng thăm Tòa Thánh , gọi là chuyến viếng thăm Ad Limina , ( Visital Ad Limina Apostorlorum ) .Nghĩa là viếng một hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô , và triều yết Đức Giáo Hoàng, theo chu kỳ ngũ niên, nhưng lần trước vào tháng 06 năm 2009, như vậy là 09 năm chứ không phải là 05 năm. Lần viếng thăm nầy không chỉ riêng có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam , mà còn có mầy phái đoàn của Hội Đồng Giám mục anh em khác. Trong nội dung chuyến viếng thăm , chúng ta được theo dõi qua các kênh Công giáo mạng, được nhìn thấy tỏ tường 33 vị Giám Mục, hồng y Việt Nam yết kiến Đức Giáo Hoàng , quây quần bên vi cha chung của Giáo Hội Hoàn Vũ thật là đầm ấm, hùng hậu và vui vẻ, để múc lấy ân sủng từ Thánh Đô, và phép lành cũng như huấn từ truyền giáo từ vị Đại diện Tông Tòa thánh Phê-rô cho toàn thể giáo dân Việt Nam. Chúng ta thấy, sức sống Đức Tin từ Giáo Hội nhỏ bé Việt Nam thông qua 33 vị Giám Mục , là một giáo Hội thật mạnh mẽ, hùng hậu và tràn đầy sức sống của Đức Tin thật là một niềm vui tràn đầy ơn thiêng liêng và lời cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa tại Việt Nam và khắp nơi trên thế giới.
.Như thông tin vừa loan báo, Đức Tổng Giám Mục Phao-lô Bùi Văn Đọc, vị cha chung của Tổng Giáo Phận Sài gòn , vừa về với Chúa rạng sáng ngày 07/03/2018, hưởng thọ 74 tuổi. Vâng, thật là ngỡ ngàng, nhưng cũng thật là bình an, vì có mấy ai được chết như vậy, được chết trong ân sủng Thiên Chúa là quà tặng vô giá.được triều yết Đức Giáo Hoàng, được hôn nhẫn thánh, được chết tại thánh Đô, được chết trong khi dâng Hy Tế của Đức Kitô cũng là hy tế đời linh mục của mình, thì thật là diễm phúc “ ân phúc cá biệt”. Ngài được du học tại thánh đô cách đây 50 năm, năm mươi năm sau được trở lại và chết thân xác hữu hình, để hòa nhập vào vinh quang bất tử của Thiên Chúa trong Mùa Chay, là Mùa ân phúc Mùa Trở về. Chúa gọi ngài về trong khi còn tại vị, nếu sang năm thì, ngài cũng đủ tuổi hưu theo giáo luật, thì có lẽ không rực rỡ như còn tại chức, vâng ngài không cò phải lo lắng việc nghĩ hưu, thật là một cái chết bình an, một sự trở về nhà Cha thật tốt đẹp, điều gì tốt đẹp, điều đó là chân thật.
Xin cầu nguyện cho Đức Cố Tổng Phao-lô được lên chốn nghĩ ngơi – RIP. Lạy Chúa là Cha toàn năng hằng hữu Cha đã ưu ái ban muôn ơn lành cho những ai chạy đến với Đức Kitô, Người Con Chí Ái của Cha. Xin Cha thương ban cho nhiều con cái tin nhận Đức Giêsu- Kitô, để họ nhờ được ân sủng của Con Cha, mà cùng được sống đời đời với Người ./. Amen
Sống trên đời, ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc, dù hoàn cảnh, điều kiện, không giống nhau, “trầm MC4-B169
Sống trên đời, ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc, dù hoàn cảnh, điều kiện, không giống nhau, “trầm bổng, đắng cay hay ngọt bùi”, người ta vẫn có cơ hội để vươn lên, hầu sống tốt nhất theo “ơn gọi”: nồi nào úp vung nấy. Con người tự nhiên ưa nhìn lên, không thích nhìn xuống: một người làm quan cả họ được nhờ ; thấy sang bắt quàng làm họ. Khuynh hướng thích người hiền tài, mơ ước được người quyền cao chức trọng bao bọc chở che, không phải là không có lý, khi mà xã hội vẫn quan niệm: làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại.
Khi nhắc tới con rắn, ai cũng biết chúng là loài đáng ghê sợ, rắn to, rắn nhỏ, đều có thể cắn chết người, do đó phải cảnh giác, tránh xa chúng. Không biết từ bao giờ và vì lý do nào, cha ông chúng ta có câu: gặp rắn thì đi, gặp quy thì về. Cũng không còn phải là chuyện tình cờ, hên xui, ông Môi-sê kêu gọi dân chúng, hễ ai bị rắn cắn, hãy nhìn lên con rắn đồng để được sống. (Ds 21, 9). Nhìn lên theo quán tính, nhìn lên theo mệnh lệnh, mang lại hiệu quả tức thời cho đám dân mà ông Môi-sê coi là tội lỗi, họ được tha thứ, thân xác họ được cứu khỏi rắn cắn, khỏi chết. Cũng là nhìn lên, nhìn lên cây thập giá, nhìn lên để thấy Một Con Người chịu chết treo trên đó, khác xa với việc nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên thập giá để được tha thứ tội lỗi, để phần hồn được sống muôn đời.
Nhìn lên, là một quá trình hết sức tự do, một tình yêu kỳ diệu đến độ sẽ thu hút chúng ta dù lời nói, hành động, còn mờ nhạt, tình yêu đó vẫn đang biến đổi cách sống của chúng ta. Nhìn lên là nhìn về trời cao để cầu nguyện, là nhìn lên bàn thờ gia đình, nhìn lên thập giá, cũng là nhìn đến lòng nhân từ của Thiên Chúa. Nhìn lên để thấy mình còn thấp bé, để hiểu chúng ta cần được yêu thương, được tẩy rửa cho thanh sạch, hầu nhận ra lời giáo huấn: đức tin không có hành động là đức tin chết. (Gc 2, 17). Hãy nhìn lên, chúng ta sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ hiểu, đau khổ thập giá của Đức Kitô chính là tình yêu Thiên Chúa ban cho nhân loại để những ai tin, thì sẽ được sống, và sống đời đời.
Vì sao dân chúng thời ông Môi-sê phải nhìn lên con rắn ? vì sao chúng ta hôm nay được nhắc nhớ hãy nhìn lên thập giá ? tất nhiên là vì tội lỗi, vì sợ phải chết chết, và vì mọi người đều muốn được sống. Nhìn lên con rắn đồng, dấu hiệu của tha thứ, phép lạ của tình yêu Chúa thực hiện qua trung gian ông Môi-sê truyền dạy. Nhìn lên thập giá, nhìn tới sự khổ đau cùng tận của Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại, Đấng hết tình hết mình vì yêu. Khi trưng dẫn hình ảnh con rắn và Con Người, cùng bị treo ở trên cao, Đức Giêsu cho thấy có sự đối nghịch giữa đau khổ vinh quang, giữa chết và sống, đều được minh chứng bằng tình yêu và niềm tin.
Kinh nghiệm ở đời cho thấy, khi nhìn vào bức tranh chúng ta rất cần đến một chút kiến thức để hiểu tính nghệ thuật mà người nghệ sĩ chuyển tải. Nhìn thực tế cuộc đời, tuy mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh rất phong phú, nhưng chúng ta sẽ không khỏi giật mình khi cha ông chúng ta nhắn nhủ: người có lúc vinh lúc nhục, sông có lúc đục lúc trong. Tiền nhân chúng ta đầy khôn ngoan và sáng suốt, các ngài có ý mời gọi con cháu hãy đặt trọn vẹn tâm tình yêu thương khi nhìn lên, nhìn để thấy sau cơn mưa trời sẽ sáng. Có nhìn kỹ, nhìn nghiêm túc, người ta sẽ có cơ hội để hiểu, để biết, tình yêu mới là chiếc chìa khoá để mở ra một khung trời hạnh phúc ; tiền của vật chất chỉ là phương tiện đưa tới một giấc mơ thoáng qua. Hôm nay chúng ta được mời gọi nhìn Đức Giêsu, nhìn lên thập giá, Đức Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn nhìn nhận thân xác con người rất quý vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Ở hoang địa người Do-thái dù tội lỗi, bất xứng, họ chỉ cần nhìn lên con rắn đồng là được cứu sống. Thân xác linh hồn chúng ta quý trọng biết bao, khi đức tin mách bảo có sự hiện diện của tình yêu Chúa. Một lần nữa, Đức Giêsu đã nói rõ ràng Ngài là sự sáng thế gian, là Đấng sẽ xua tan bóng đêm tội lỗi, dẫn đưa chúng ta đến sự sống, khi chúng ta thông hiệp với mầu nhiệm thập giá. Tin và sống niềm tin, là cách diễn tả chúng ta có sự hiện diện của tình yêu Đức Kitô, Đấng đã vượt qua đau khổ sự chết để đến vinh quang phục sinh. Hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy niềm tin của mình đang lớn lên mỗi ngày, đang trổ sinh hoa trái mỗi ngày trong tình yêu của Đấng Kitô. Amen.
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (2 Sb 36:14-16, 19-23; Ep 2:4-10; Ga 3:14-21)
Mùa Chay không những giúp chúng ta nhìn lại mình, nhưng cũng nhìn lên Chúa nữa. Nhìn lại mình MC4-B170
Mùa Chay không những giúp chúng ta nhìn lại mình, nhưng cũng nhìn lên Chúa nữa. Nhìn lại mình để chúng ta nhận biết tình trạng tội lỗi và những sai trái mình đã phạm. Tuy nhiên nhìn lại như thế không phải để chúng ta thất vọng, mà là động lực khiến chúng ta nhìn lên Chúa để chiêm ngưỡng lòng từ bi nhân hậu của Người cũng như để cầu xin Người xót thương. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của lòng Chúa thương xót. Thiên Chúa tỏ lòng thương xót cho dân Ít-ra-en bị lưu đày bên Ba-by-lon. Qua đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô chỉ cho chúng ta thấy nơi Chúa Giê-su Ki-tô lòng thương xót ấy được biểu lộ như thế nào. Sau hết, con rắn đồng do ông Mô-sê treo cao giữa trại dân Ít-ra-en là tiền ảnh của Chúa Giê-su chết trên thập giá, đã nói lên tột đỉnh của lòng Chúa thương xót.
Trước hết chúng ta hãy xem trong hoàn cảnh nào Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với dân riêng của Người. Sau khi vương quốc Ít-ra-en miền bắc bị ngoại bang chiếm đóng, thì vương quốc Giu-đa miền nam cũng bắt đầu rơi vào tình trạng suy đồi đạo đức. “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế”. Chúa sai các ngôn sứ đến cảnh báo họ, nhưng “họ nhạo cười các sứ giả, chế diễu các ngôn sứ của Người”. Do đó Chúa đã trừng phạt họ bằng cách để cho quân Can-đê tràn vào đốt Đền Thờ, triệt hạ tường thành, thiêu rụi các lâu đài và chém giết dân chúng. Những ai còn sống sót thì quân địch bắt họ đem đi đày tại Ba-by-lon. Nhưng Chúa không bỏ quên họ. Người can thiệp bằng cách tác động tâm trí vua Ky-rô của Ba-tư, để vua cho phép dân Chúa hồi hương và vua còn ra lệnh giúp đỡ họ tái thiết đất nước và xây lại Đền Thờ nữa. Tội lỗi của dân Ít-ra-en vô cùng nặng nề, thế mà lòng Chúa thương xót còn trổi vượt thật xa trên cả tội lỗi của họ!
Tuy nhiên Chúa không chỉ tỏ lòng thương xót với dân riêng Người, mà Người còn tỏ lòng thương xót hết thảy chúng ta, vì Người là “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”. Thánh Phao-lô còn cho chúng ta thấy Chúa thương xót chúng ta như thế nào. Dù chúng ta đã chết vì tội tổ tông và không còn được làm con cái Chúa nữa, thì Người vẫn thương cho chúng ta được cùng sống với Chúa Ki-tô để trở về làm con cái Người. Rồi nếu chúng ta sống trọn bổn phận làm con Chúa “mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, thì Người sẽ cho ta “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”. Chỉ có một Thiên Chúa giàu lòng thương xót mới quan tâm tới chúng ta như vậy, mặc dù chúng ta không xứng đáng. Cho nên thánh Phao-lô khẳng định rằng không phải bởi sức riêng chúng ta hay bởi những việc ta làm mà ta được cứu độ, nhưng hoàn toàn là do ân sủng Chúa và lòng tin của ta. Ngài còn quả quyết rằng Thiên Chúa “tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su”. Bài Tin Mừng đã trình bày việc làm này của Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó chính là cách Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với ta “trong Đức Ki-tô Giê-su”. Thiên Chúa muốn cho mọi người “thấy được” lòng thương xót và tình yêu của Người, nên Người sẵn sàng để cho Con Một là Chúa Giê-su bị đóng đinh thập giá và được giương cao lên. Giống như ông Mô-sê đã treo con rắn bằng đồng lên cây cột cao giữa trại dân Do-thái trong sa mạc, đế cứu chữa những người bị rắn độc cắn, thì Chúa Giê-su cũng bị giương cao trên thập giá để chúng ta là những kẻ tội lỗi tin vào Người mà được cứu độ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Tại sao trong mùa Chay, ta phải thực hiện lòng sám hối? Là vì ta xác tín rằng Chúa giàu lòng thương xót sẽ tha thứ chúng ta và dẫn chúng ta tới nguồn ơn cứu độ. Nếu quả thực Chúa không có lòng thương xót, thì dù ta có sám hối thế nào đi nữa củng chỉ là vô ích thôi! Lời Chúa hôm nay đã trưng dẫn lịch sử dân Ít-ra-en, lời giảng dạy của thánh Phao-lô và nhất là sự kiện Chúa Giê-su chịu đóng đinh thập giá để giúp ta xác tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót! Đấy là chân lý không thể quên, nhất là trong mùa Chay!
Chúng ta thấy bất cứ một quốc gia nào trên thế giời đều có một lịch sử, và trong lịch sử ấy MC4-B171
Chúng ta thấy bất cứ một quốc gia nào trên thế giời đều có một lịch sử, và trong lịch sử ấy được đánh dấu bởi những cuộc thăng trầm. Cuộc đời và hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng thế được đánh dấu bởi tội lỗi và ân sủng. Nhìn vào lịch sử dân Do thái, còn được gọi là Dân Chúa, qua Kinh thánh, chúng ta thấy lịch sử của họ cũng được đánh dấu bởi ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất tín, đón nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Ðó là lịch sử một tình thương hải hà, nhưng vô cùng mầu nhiệm. Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng họ vẫn giả điếc làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo báng, hành hạ và giết chết các tiên tri. Thiên Chúa, dù là Ðấng nhân ái từ bi, đã buộc lòng phải trừng phạt để cảnh tỉnh và lôi cuốn họ trở về với Người. Chúa cho dân đi lưu đày, mất quê hương, mất đền thờ, mất tất cả, để từ đó họ khám phá lại những hồng ân lớn lao của Chúa.
Thánh Phao-lô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi của con người và hồng ân của Chúa. Người đã kinh nghiệm về ảnh hưởng của tội trong chính bản thân, trong môi trường người sống và những nơi người đến rao giảng. Về bản thân, thánh Phao-lô đã phải thốt lên những lời chua xót: “Tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội.” (Rm 7,14). Và “Không phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi cư ngụ trong tôi.” (Rm 7,17) Thánh Phaolô không những thấy rõ tội lỗi của riêng mình và của mọi người, nhưng cũng cảm nhận được tình thương yêu vô biên và cao cả của Thiên Chúa. Người xác định rằng: “Thiên Chúa là Chúa của hồng ân, và “tội lỗi phát sinh càng nhiều, ân sủng càng dồi dào gấp bội.” (Rm 5, 30)
Thật vậy, chính Chúa Giê-su Kitô là hồng ân trọn vẹn và cao quí của Thiên Chúa cho chúng ta. Người là dấu hiệu của tình thương và chính là tình thương sâu thẳm bao la của Thiên Chúa. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình… để thế gian nhờ Người mà được cứu độ.” Chúa Giê-su đã dùng cây Thánh giá để cứu độ con người chúng ta. Thế nhưng hồng ân cứu độ này có liên hệ đến một số sự kiện đã xảy ra và được kể trong sách Dân số.
Hồi ấy, sau khi ra khỏi Ai cập để về đất hứa, dân Do thái phải qua sa mạc. Ngày thì nóng như thiêu, đêm thì lạnh như cắt. Hơn nữa đời sống trong sa mạc đâu có phải là đời sống bình thường vì thiếu thốn đủ thứ. Có lúc bị đói và khát, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho họ có thức ăn, thức uống, nhưng vì sống lâu trong sa mạc, sức chịu đựng của họ có giới hạn, họ đã kêu trách Chúa và ông Mô-sê. Nhiều khi chúng ta cầu xin ơn này ơn nọ mà Chúa chưa kịp ban cho, thì chúng ta cũng kêu trách Chúa như họ! Họ kêu trách Chúa không tiếc lời. Sự kiện đó đã khiến Chúa phải dùng đến hình phạt để cảnh tỉnh họ. Chúa đã cho những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc và tang thương cho họ. Sau đó, họ ăn năn hối hận và Chúa lại thương, truyền cho Mô-sê đúc một con rắn đồng rồi treo lên một cây cột cao để như lời Chúa nói với Mô-sê: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống.” Và quả đúng như thế, tất cả những ai bị ra71n lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã nhắc lại câu truyện xưa để giúp cho ông Ni-cô-đê-mô hiểu một việc Chúa sắp làm, và nói với ông: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.” Hay nói một cách khác Chúa muốn bảo chúng ta con rắn đồng trong sa mạc xưa là hình bóng cho sự việc Chúa chịu chết trên Thánh giá để ban ơn cứu độ cho con người, có nghĩa là làm cho con người được hưởng sự sống đời đời.
Thế nhưng, ông bà anh chị em thân mến, ngày hôm nay muốn được Chúa cứu độ thì chúng ta phải làm gì?
Thưa, trước hết, phải xác tín vào tình yêu thương vô biên và cao cả của Thiên Chúa. Qua những biến cố trong lịch sử, Thiên Chúa đã từ từ mạc khải cho dân Do thái thấy rằng Người không phải là một Thiên Chúa hay phạt, nhưng là Thiên Chúa nhân từ hay tha thứ. Mỗi lần họ phản bội, không trung thành và cứng lòng ngoảnh mặt đi thờ thần khác, như trong bài đọc 1 hôm nay, Chúa dùng mọi phương cách để cảnh tỉnh và nhiều người để lôi cuốn họ về với Chúa. Khi họ biết ăn năn sám hối thì Chúa sẵn lòng tha thứ và lại yêu thương họ. Dần dần họ nhận ra Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giê-su, để những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Chúng ta phải tin vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ chúng ta.
Nhưng tin vào Chúa thì phải làm gì? Thưa phải sống lời Chúa dạy và nhìn ra và nhận tội lỗi của mình, ăn năn sám hối, quay trở về và quyết tâm sửa lại, sống đời sống mới.
Tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em những phương cách ăn năn sám hối của thánh Gioan Kim khẩu sau đây. Thứ nhất là lên án tội lỗi của mình. Ngài khuyên chúng ta hãy là người đầu tiên xưng tội lỗi của mình với Chúa để được Chúa tha thứ và trở nên công chính. Vì chúng ta không thể nào che dấu Chúa tội lỗi của mình được, cho nên hãy trước hết xưng tội ra với Chúa. Cách thứ hai không kém gì cách thứ nhất là nếu người khác sỉ nhục, nói xấu, thù hằn và ghen ghét thì đừng để tâm, hãy chế ngự tính giận hờn của mình và biết tha thứ tội lỗi cho anh chị em mình. Như thế, khi chúng ta xin Chúa tha thứ điều gì xúc phạm đến Chúa thì Chúa cũng sẽ tha thứ cho chúng ta. Cách thứ ba là phải siêng năng và sốt sắng cầu nguyện, và thành tâm lắng nghe Lời Chúa. Cách thứ tư là có lòng yêu thương, hy sinh và quảng đại, làm những việc bác ái, phúc đức vì những việc này có hiệu lực, ảnh hưởng tốt đến tâm hồn. Ngoài ra thánh Gioan Kim khẩu cũng khuyên chúng ta có cuộc sống khiêm nhường, vì cuộc sống khiêm nhường sẽ tiêu diệt tội lỗi tận căn.
Như ông bà anh chị em nhìn lên tấm băng rô trên đây, mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta nhận biết chúng ta là những người tội lỗi và chúng ta xác tín vào tình yêu thương của Chúa. Chúa đã dùng cây Thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta nhìn lên Cây Thánh Giá và thành khẩn xin Người tha tội, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta.
Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề. Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành MC4-B172
Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề. Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành kiến mặc cảm, và cũng có thể do những tham vọng đam mê và nhất là do tội lỗi. Vì những ràng buộc này, con người trở thành nô lệ của chính mình, và họ luôn giãy giụa tìm cách để thoát ra khỏi vòng nô lệ ấy. Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay muốn khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng giải phóng và làm cho con người được tự do.
Dân Do Thái đang chán nản đau buồn trong cảnh lưu đày ở Babylon. Họ phải sống trong cảnh tủi nhục nơi đất khách. Không còn đền thờ, chẳng còn tư tế, vắng bóng các sinh hoạt truyền thống và các nghi thức tế tự. Lòng người Do Thái quặn đau nơi lưu đày. Họ không thể gượng vui mà hát xướng trước thái độ ngạo mạn của người bản địa. Những người đạo đức luôn hoài niệm về quá khứ. Họ hướng về Giêrusalem với đôi mắt đẫm lệ. Trong bối cảnh ấy, Chúa dùng vua Cyrus, vua Ba Tư, cứu dân khỏi ách lưu đày và quyết định cho họ trở về quê cha đất tổ. Khỏi phải nói, niềm vui của dân lưu đày vỡ oà. Họ nhận ra Cyrus là vị cứu tinh. Họ coi ông là người của Thiên Chúa đến để giải phóng dân riêng của Ngài và đưa về bến bờ tự do.
Nếu Thiên Chúa đã dùng ông Cyrus để cứu dân tộc Do Thái khỏi ách lưu đày ở Babylon, thì qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế gian, mọi nơi, mọi thời. Ngài không cứu thế gian khỏi ách nô lệ của một chế độ, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi, của quyền lực tối tăm. Bài Tin Mừng ghi lại cuộc đàm đạo vào ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông này là thành viên Công nghị Do Thái, tạm coi như thành viên của quốc hội. Ông cảm phục giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều điều băn khoăn nên đến gặp Người để khai thông trí tuệ. Chúa Giêsu đã nói với ông về tình thương của Thiên Chúa Cha. Tình thương ấy được chứng minh qua Ngôi Lời nhập thể, chính là người đang đàm đạo với ông về những thực tại thiêng liêng. Đức Giêsu cũng khẳng định với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa sai con của Ngài đến để giải phóng nhân loại. Ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và quyền lực tối tăm. Tình thương của Thiên Chúa được chứng minh qua mầu nhiệm thập giá. Đức Giêsu đã nhắc tới con rắn đồng được treo trong sa mạc thời ông Môisen (x. Dân số 21,3-9) như hình ảnh báo trước cây thập giá. Đương nhiên, Tin Mừng được viết sau biến cố thập giá và phục sinh, nên tác giả muốn diễn tả qua hình ảnh con rắn đồng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Cũng như con rắn mang lại sức chữa lành cho dân Do Thái – những người bị rắn cắn – cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Người cũng chữa lành những vết thương của con người do tội lỗi gây ra.
Chúa Giêsu khẳng định: một trong những điều kiện căn bản để được cứu độ hay được ơn giải thoát, đó là Đức tin vào quyền năng Thiên Chúa. Tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó. Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi. Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện lương. Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.
Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy. “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày” (Lc 10-16). Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất. Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).
Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời. Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa. Ông không còn sợ hãi nữa, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39). Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Thông thường ở đời, người ta đi theo và tôn vinh một người chiến thắng, không mấy ai chấp nhận đi theo một người bị lên án tử hình, như trường hợp ông Nicôđêmô.
Mùa Chay là thời điểm sống Đức tin một cách mãnh liệt hơn. Phụng vụ khẳng định: nếu thành tâm tin vào Chúa, chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối? Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác? Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết? Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng cuộc sống cụ thể của mỗi người.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hãy nhìn lên cây thập giá để tôn vinh Chúa là Đấng giải phóng, để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào. Từ cây thập giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.
Con Rắn trên cây cột và Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh. 2) “Ông Mô-sê bèn làm một con rắn MC4-B173
1) Con Rắn trên cây cột và Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh 2) “Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột” (Ds 21, 9)
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (x. St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: “chẳng chết chóc gì đâu !” Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình ; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: “Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến (x. Ds 21, 4-9) và trong bài Tin Mừng Đức Giê-su so sánh mầu nhiệm Thập Giá của Người với chính con rắn này, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi: Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: “Chúa dựng nên con cách lạ lùng”.
1. “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gio-an (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh “con rắn”, biểu tượng của Tội và Sự Dữ:
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Theo lời này của chính Đức Ki-tô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là “Con Rắn” bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Ki-tô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) ; và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
* Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
* Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị.
* Chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính.
* Và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, để cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.
2. “Ai Tin vào người thì được sống muôn đời”
Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.
Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Gía mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế.
Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá con mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phân con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.
3. Tình yêu Thiên Chúa
Dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá, được hiểu khởi đi từ con rắn đồng trong sa mạc và cả con rắn trong Vườn Eden nữa, chúng ta mới có thể hiều sâu sa và con tim của chúng ta có thể bừng cháy khi nghe lời này của Đức Giê-su:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (c. 16)
Lời này của Đức Giêsu thật dịu dàng, an ủi vỗ về chúng ta, và nhất là làm cho chúng ta có can đảm trở về với Thiên Chúa như người con hoang đàng. Đây là một trong những lời của Đức Giêsu, nói cho chúng ta rõ nhất về khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, về con tim của Thiên Chúa, về cõi lòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thế gian, nghĩa là yêu tất cả nhân loại và yêu từng người trong nhân loại, dù con người là ai và đang ở tình trạng nào; Thiên Chúa yêu nhân loại, đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Giống như cha mẹ sinh con, con nó nên người thì vui, nó hư đốn thì buồn, nhưng luôn luôn yêu con, dù nó như thế nào.
Và Thiên Chúa không yêu sơ sơ hay yêu tạm thời, nhưng Ngài yêu trọn vẹn và mãi mãi, bởi vì Ngài yêu loài người đến nỗi ban chính Con Một của mình; Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Một cũng là Con Duy Nhất của Ngài. Cho đi Người Con Duy Nhất chính là cho đi chính mình, bởi vì Cha và Con là một. Cuộc Thương Khó của Đức Kitô mà chúng ta sẽ tưởng niệm cách trọng thể vào Tuần Thánh, bí tích rửa tội, bí tích hòa giải và nhất là bí tích Thánh Thể, tỏ bày cho chúng ta tình yêu cho đi chính Con Một, chính bản thân mình của Thiên Chúa.
Vấn đế là chúng ta có chịu tin hay không? Đức Giê-su hay nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (x. Lc 7, 50). Như thế, lòng tin có sức mạnh cứu độ: lòng tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị và Thập Giá của Đức Giê-su nói, giải thoát chúng ta khỏi mặc cảm tội lỗi, khỏi sự nghi ngờ chết chóc đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Và đó chính là sức mạnh cứu độ của lòng tin, được chính Đức Giê-su nói công bố, chứ không phải là bất cứ điều gì khác, hay điều kiện nào khác.
Hơn nữa, tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa còn mời gọi chúng ta đón nhận “Hiện Thân” của tình yêu Thiên Chúa, là Đức Giêsu Con Thiên Chúa (Rm 8, 39) vào cuộc đời mình với những may rủi, với những thuận lợi cũng như khó khăn, với những biến cố vui buồn, những thành công và thất bại; tin vào Con Thiên Chúa, là đón nhận ánh sáng của Ngài vào ơn gọi của mình, ơn gọi hôn nhân hay tu trì, vào hướng đi của mình, vào cách sống của mình; tin vào Con Thiên Chúa là để cho Lời của Ngài hướng dẫn những lựa chọn lớn trong cuộc đời của chúng ta, cũng như những lựa chọn nho nhỏ hằng ngày. Tin vào Con Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ sống sung mãn, sống bình an, sống hạnh phúc thực sự, không phải ở đời sau, nhưng ngay hôm nay.
Vì thế, chúng ta cần ghi lòng tạc dạ lời này của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c. 16). Chúng ta đừng bao giờ nghi hoặc, hay đừng để cho bất cứ ai, bất cứ lời nói hoặc lời dạy nào làm cho chúng ta nghi hoặc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, bày tỏ ra cho chúng ta nơi Đức Kitô, và nhất là Đức Kitô chịu đóng đinh.
***
Khi chúng ta nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta bị rắn độc cắn. Bị rắn độc cắn, thì đương nhiên là chết, không cần phải ai bắt mình ra xét xử, lên án và thi hành án phạt. Như chính Đức Giêsu nói:
Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (c. 17-18)
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy, thông minh hay công thẳng…? Ai MC4-B174
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết.
Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an - người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
Thiên Chúa yêu thương đến độ, ban Con Một Người vì tất cả chúng ta.
Kính thưa quý anh chị em,
Ban tặng là cách cụ thể biểu lộ tình yêu của người này đối với người kia. Nó là ngôn ngữ biểu MC4-B175
Ban tặng là cách cụ thể biểu lộ tình yêu của người này đối với người kia. Nó là ngôn ngữ biểu tượng chứng thực người đó đã bước ra khỏi mình để gắn kết với người kia.
Quà tặng luôn là tình yêu, là hiện thân của người yêu, nên thật vô giá, thật đáng trân trọng. Định giá quà tặng tình yêu dựa trên giá trị vật chất, thương mại là sỉ nhục và xúc phạm đến người yêu thương mình.
Tuy nhiên, một người yêu thương thật lòng, sẽ dành phần tốt nhất, giá trị nhất, dành cả bản thân làm quà tặng cho người họ yêu thương. Yêu là dám hy sinh tất cả, dám chết cho người mình yêu:
“Vì thương con, Chúa chết ô nhục trên thánh giá, trái tim mở ra những giọt máu cuối cùng, là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình” (Vì thương con, Kim Long).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay loan báo một Thiên Chúa yêu thương bằng việc làm, nghĩa là, không viển vông, trìu tượng, rất cụ thể và hiệu quả. Người trở nên “quà tặng tình yêu” cho cả thế gian, để nhờ Ngài, nhân loại được sống và sống dồi dào.
Thiên Chúa tình yêu là quà tặng duy nhất, nhưng thể hiện theo cách thức riêng của mỗi Ngôi trong mầu nhiệm cứu độ: Chúa Cha là Đấng ban tặng, Chúa Con gởi quà cứu chuộc, Chúa Thánh Thần ban quà thần hóa.
Bài đọc I, trích sách Sử Ký, ghi lại những mốc lịch sử và giải thích lý do tại sao sảy ra biến cố đó. Bài sách thánh, vừa là bản cáo trạng tội ác của dân, là nguyên cớ cho việc họ bị trừng phạt, vừa là lời tuyên xưng Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, không hành xử theo điều gian ác của dân, nhưng tạo nhiều cơ hội, sai nhiều sứ giả, giúp dân nhận ra tội lỗi của mình, mà hoán cải canh tân, để được hưởng ơn chúc lành và được sống.
Mục đích của trích đoạn sách thánh là nhấn mạnh quyền năng yêu thương của Thiên Chúa trên thế gian tội lỗi. Khi yêu thương và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách lạ lùng hơn cả.
Bài đọc I cho cái kết có hậu, đó là, ngay trên đất lưu đày, Chúa dùng Ky-rô, vua dân ngoại, trả tự do, an ủi, khuyến khích, dân Chúa hồi hương, sống an cư lạc nghiệp và tái thiết đền thờ.
Con người và hành động của Ky-rô được xem như món quà Chúa Cha ban tặng Israel, vì Người yêu thương họ rất nhiều.
Thật, Cha yêu thương chúng con vô cùng, đã chuẩn bị quà tặng tình yêu từ đời đời và hôm nay, chọn Ky-rô làm hình ảnh tiền trưng của Đấng cứu thế, để khi tới thời viên mãn, Cha sai Con Một làm Đấng cứu thế.
Bài Tin Mừng là một mạc khải lớn về Cha, Đấng giầu lòng xót thương, đi đến mút cùng tình yêu nhân hậu, muốn cho con người tham dự vào sự sống thần linh, nên bằng muôn vàn cách thế chuẩn bị họ đón nhận mầu nhiệm lớn lao: sai Con Một giáng trần vì tất cả chúng ta.
Khi ban Người Con ấy, Cha muốn Người sống trọn thân phận con người như chúng con, ngoại trừ tội lỗi. Cái chết vâng phục của Giê-su là con đường mở vào sự sống thật: “Cha cho chúng con được cùng sống với Đức Kitô trên trời” (Ep 2, 5 – 6).
Hình ảnh con rắn đồng được treo cao trên hoang địa là dấu chỉ sự chữa lành trong Thiên Chúa. Hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được chữa lành.
Khi đặt rắn đồng cạnh thập giá Đức Kitô, mới thấy cái chết của Giê-su là tuyệt đối cần thiết: Ai nhìn lên thập giá mà tin, thì được sống muôn đời (cf. Jn 3, 14 – 15).
Rắn đồng trong hoang địa chỉ giữ vai trò “gợi” lên niềm tin, còn thập giá ban tặng đức tin là bảo chứng vững bền của ơn cứu độ. Máu và nước tuôn trào từ trái tim Giê-su phát sinh các bí tích, nhằm lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng cứu thế, thì muôn đời kín múc tận nguồn ơn cứu độ.
Theo cách thức riêng, Giê-su gởi quà tặng cứu độ trong hành động tự hiến: Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Máu ấy làm thành giao ước vĩnh cửu, có sức tẩy rửa lương tâm chúng khỏi sự chết, mà phụng thờ thiên Chúa hằng sống. Hy tế thập giá là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình.
Quà tặng của Thánh Thần là gì ?
Thưa: là thực hiện ý muốn cứu độ của Cha trong Đức Kitô. Nhờ quyền năng sáng tạo, Ngài đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, tháp nhập kẻ tin vào mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh như một ấn tín đợi ngày thân xác được sống lại hiển vinh. Và đang khi chờ đợi niềm hy vọng hồng phúc, ngày trở lại của Chúa Giê-su, Thánh Thần cho chúng ta được hưởng trước lương thực bởi trời, là Lời và Mình Máu Thánh Chúa.
Cha ban tặng Con Một, không phải để lên án, luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
Vậy, chỉ cần tin và hành động theo đức tin thì được sống muôn đời !
Thưa anh chị em,
Niềm hy vọng được sống đời, không miễn chuẩn người môn đệ quên lãng bổn phận trần thế, trái lại, thúc dục họ chu toàn một cách có trách nhiệm và hoàn hảo hơn những bổn phận thuộc đấng bậc mình.
Chu toàn bổn phận, không vì miễn cưỡng, nhưng vui tươi cần mẫn dưới cái nhìn và sự hiện diện của Chúa, mới làm đẹp lòng Chúa, cụ thể:
Cha mẹ nên thánh trong đời sống gia đình, tạo môi trường sống chan hòa yêu thương cho mỗi thành viên. Gia đình anh chị em phải trở nên tổ ấm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong tình hiệp thông liên đới: con cái thảo hiếu, vợ chồng thương yêu nhau.
Sống với những người xung quanh, kitô hữu phải chứng tỏ khả năng yêu thương và sống thuận hòa. Nhất thiết, họ phải trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho những người xung quanh: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau” (Jn 13, 35).
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần tình yêu, dạy chúng con học biết yêu thương, nhất là sống yêu thương như Chúa đòi hỏi, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho chúng con. Amen!
Tôi không nhớ đã nghe ở đâu đó câu chuyện kể rằng. Có một người đàn ông lên Thiên đàng gặp MC4-B176
Tôi không nhớ đã nghe ở đâu đó câu chuyện kể rằng. Có một người đàn ông lên Thiên đàng gặp Thánh Phêrô và hỏi: Vợ con đã có ở trên này chưa? Thánh Phêrô trả lời là vợ con đã ở trên này rồi. Thế là anh ta nói với Thánh Phêrô: Thế thì con không vào đâu vì con đã sống bao nhiêu năm với nó trên trần gian và chịu muôn vàn tủi nhục vì nó. Giờ lên đây lại gặp nó nữa thì đời con tiêu hẳn rồi. Còn một người đàn ông khác lên Thiên đàng và cũng hỏi Thánh Phêrô câu hỏi tương tự và nhận được câu trả lời là vợ con chưa có trên Thiên đàng. Anh ta nói với Thánh Phêrô rằng nếu vợ con chưa có ở đây thì con cũng không vào đâu vì con không thể sống thiếu vợ con được. Cô ấy và con đã có một cuộc hôn nhân tuyệt vời. Giờ cô ấy ở đâu con sẽ đi tới đó.
Câu chuyện giả tưởng trên đây muốn diễn tả một chân lý tuyệt hảo rằng Thiên đàng hay hỏa ngục chẳng phải là một thực tại xa xăm nào. Thiên đàng hay hỏa ngục là ở đây và bây giờ. Chính chúng ta tự tạo ra Thiên đàng và cũng chính chúng ta tự tạo ra Hỏa ngục. Thiên đàng và Hỏa ngục nếu có thì cũng phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Đây cũng là điều mà tôi cảm nghiệm được khi đọc Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm B. Thánh Gioan nói với chúng ta Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình để những ai tin Con Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi. Không cần phải đợi tới ngày cánh chung chúng ta mới bị xét xử mà ngay hôm nay, chúng ta đã bị xét xử rồi. Chúng ta đứng trước lựa chọn hoặc tin vào Thiên Chúa hoặc khước từ Ngài. Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào tình yêu và hành động theo tình yêu. Làm như thế, chúng ta sẽ không bị hư mất. Còn nếu không làm như thế, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Theo Thánh Gioan thì phần nhiều trong chúng ta sẽ khước từ Ngài. Lý do là bởi vì chúng ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Chúng ta sợ ánh sáng vì những việc làm của chúng ta xấu xa. Chúng ta sợ bị phơi bày sự thật trước Thiên Chúa là ánh sáng vĩnh cửu.
Nhìn vào thực tế cuộc sống, tôi thấy giữa niềm tin và cuộc sống thực luôn có một khoảng cách quá xa vời. Người ta có thể vẫn đi dự lễ, vẫn tham gia các Hội đoàn, nhưng trong cách hành xử với đồng loại thì luôn không ổn tí nào. Chúng ta cũng dễ dàng coi trọng những điều chúng ta cho là linh thiêng nhưng lại bỏ quên thực tại là những con người cụ thể chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Hồi mới ra trường, tôi vào Sài gòn và mua 1000 cây thánh giá gỗ nhỏ để tặng cho các bạn trẻ. Tôi đến Fatima Bình triệu và gặp một Sơ bán hàng ở đó. Số lượng Thánh giá lớn quá nên Sơ đó hẹn tôi đến chiều quay lại. Buổi chiều hôm đó tôi có việc nên 18h00 mới tới được. Sơ đó bảo giờ đó thì con không thể tiếp Cha được vì con phải chầu Mình Thánh Chúa với cộng đoàn. Tôi không hiểu ngày đó làm sao tôi lại có thể nói được một câu mà đến giờ tôi cũng bất ngờ. Tôi bảo Sơ đó rằng liệu Sơ có thể để lại một Giêsu trong Nhà Chầu để gặp một Giêsu giữa đời được không? Sau một chút ngần ngại, Sơ đó bảo tôi rằng thôi được Cha cứ đến. Bất cứ giờ nào con cũng sẵn sàng tiếp Cha.
Đó là một kinh nghiệm gây ngạc nhiên cho chính bản thân tôi. Nhiều khi chính tôi cũng lấy lý do này lý do nọ để từ chối tha nhân. Có những linh mục đã xua đuổi chính con chiên của mình chỉ vì họ đến không đúng ngày tiếp khách, ngày làm việc của ngài. Có những linh mục không kìm hãm được cơn giận dữ của mình nên sẵn sàng lên Tòa giảng để thóa mạ giáo dân. Thật xót xa khi chứng kiến những cảnh tượng như vậy. Làm sao chúng ta rao giảng một Thiên Chúa giàu lòng thương xót khi chính chúng ta lại thể hiện một bộ mặt đầy trái ngược? Làm sao nói về Cứu Độ, nói về Nước Trời, nói về Thiên đàng khi mà những cái nhỏ nhặt nhất chúng ta chưa làm được?
Lạy Chúa, Chúa nhật IV Mùa chay là Chúa nhật của màu hồng, Chúa nhật của niềm vui. Cũng như dân Do Thái xưa vui mừng vì được Hoàng đế Ba Tư là Cyrus cho hồi hương tái thiết Đền Thờ sau bao ngày lưu lạc tha hương, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui vì được Chúa yêu thương mỗi ngày. Nhưng niềm vui ấy chỉ thực sự trọn vẹn khi chúng con thực tâm trở về sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người chúng con gặp gỡ trên đường đời. Xin giúp chúng con thực hiện được điều đó hôm nay. Amen.
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng MC4-B177
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu. Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn hầu cho loài được sống. Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội với quyết tâm cải thiện đời sống hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
Tin Mừng Ga 3:14-21: Thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên Thánh Giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng MC4-B178
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên Thánh Giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do Thái đi từ núi Horeb về phía Biển Đỏ đi vòng quanh xứ Eđôm. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Môsê: "tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập để rồi chúng tôi phải chết trong hoang địa? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi".
Bấy giờ Đức Chúa cho những con rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết. Dân chúng chạy đến ông Môsê, thưa với ông: "chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi".
Ông Môsê cầu cho dân. Chúa bảo Môsê: "hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống". Môsê làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã ghi lại: "như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời."
Gioan dùng câu chuyện này như một loại dụ ngôn để chỉ về Chúa Giêsu. Ông nói: "Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng về Ngài thì sẽ được sự sống đời đời".
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Một là việc Chúa bị treo lên thập giá, và hai là việc Chúa được cất lên để vào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; P1 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên, lần bị đưa lên thập giá và lần được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó - là việc Ngài đã có thể làm thật dễ dàng nếu muốn - thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất di bất dịch của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Anh chị em thân mến, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ của chúng ta sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
- Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của con người.
- Hãy nhìn lên thập giá: đó là một sự ô nhục, nhưng chính sự ô nhục này lại mang lại vinh quang cho chúng ta.
- Hãy nhìn lên thập giá; đó là một sự chết chóc, tủi nhục và thương đau, nhưng chính sự chết chóc này lại mang sự sống cho chúng ta.
Đó là thập giá của Chúa Kitô, còn thập giá giá của chúng ta như thế nào?
- Đó chính là khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm, - Đó chính là khi chúng ta bị bỏ rơi và phản bội, - Đó chính là khi chúng ta bị thất bại và oan ức, - Đó chính là khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được. Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta. Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài. Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta. Amen.
Con người chúng ta dù tốt lành đến mấy, cũng chỉ cho người khác cơ hội ‘làm lại cuộc đời’ không MC4-B179
Con người chúng ta dù tốt lành đến mấy, cũng chỉ cho người khác cơ hội ‘làm lại cuộc đời’ không hơn không kém ‘quá tam ba bận’ mà thôi!!! Tệ hơn, trong chúng ta có khi còn khắt khe, đóng hết mọi cánh cửa ‘sửa đổi’ hay ‘cải thiện’ hoặc ‘lấy công chuộc tội’ của anh chị em mình nữa!
Quả thật, nếu Chúa cũng cư xử như vậy với chúng ta, có lẽ ‘chẳng ai đứng vững trước thiên nhan Chúa’ được! Dĩ nhiên, Ngài là Thiên Chúa bao dung, chậm bất bình và rất mực khoan nhân, nên Ngài luôn luôn ban cho chúng ta nhiều cơ hội đổi mới, canh tân, hoán cải, quay về với Ngài.
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta nghiệm thấy rõ lòng từ bi Chúa trước thói bất trung, thất tín của dân Ngài: “Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem” (2Sb 36, 14). Dù rất thịnh nộ, nhưng lòng nhân hậu và thương xót Ngài vượt trên ‘sự khinh thường, nhạo báng của dân Is-ra-el, giết hại các sứ giả, ngôn sứ của Chúa’ (x. 2Sb 36, 15-16). Tuy dân Is-ra-el phải lãnh hậu quả đi đày do hành vi bất xứng của họ như lời tiên tri Giê-rê-mi-a: “…họ sẽ không giữ được ngày Sa-bát trọn bảy mươi năm trường” (Sb 36, 21; x. Gr 25, 1; 29, 10). Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhưng Ngài chẳng nỡ bỏ rơi dân Ngài. Lòng nhân hậu của Chúa được bày tỏ cách lạ lùng qua sự lưu đày và giải thoát dân Is-ra-el dưới triều đại Sy-rô, vua xứ Ba-tư: “Chúa là Thiên Chúa trời đấy đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Ngài đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Ngài một đền thờ ở Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đê-a. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên” (2Sb 36, 23). Thiên Chúa hằng trung tín, và luôn ban cơ hội cho dân Ngài được hoán cải quay về, được cứu thoát khỏi khổ đau cơ hàn.
Hơn thế, cảm nghiệm này càng được tỏ hiện rõ nét hơn qua lời của Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Ê-phê-sô: “…vì lòng yêu thương cao cả mà Ngài đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Ngài làm cho chúng ta sống lại trong Đức Ki-tô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Ep 2, 4-6). Thiên Chúa không chỉ ban cho chúng ta cơ hội ‘đổi đời’, mà còn cứu rỗi chúng ta, mang chúng ta ra khỏi vũng nhơ nhớp của tội lỗi, và giúp chúng ta bước ra khỏi bóng đêm của sự lầm đường lạc lối, “vì chưng, bởi ơn Chúa, anh (chị) em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh (chị) em, vì đó là ân huệ của Chúa” (x. Ep 2, 8-9). Tại sao, chúng ta được ơn phúc lớn lao nhường vậy? Chẳng phải bởi vì công trạng, tài năng, thành đạt, thành tựu, thành công, hay kể cả công ơn đạo đức của chúng ta, mà chúng ta được lãnh nhận ân huệ cao quý từ Thiên Chúa đâu! Nhưng trên hết, nhờ lòng từ bi lân tuất của Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta có phúc, được hưởng ơn đổi mới, canh tân, và được cứu chuộc. Hơn nữa, do lòng thương xót không bờ bến của Chúa, mà “chúng ta cùng được sống lại, đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giê-su Ki-tô” (x. Ep 2, 7). Ôi diễm phúc, cao quý khôn cùng! Con nào biết cảm tạ thế nào cho cân, Chúa ơi!
Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta không dừng ở đó, mà Ngài còn “ban chính Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Vì muốn ban cho chúng ta cơ hội được ăn năn, hoán cải, sống tốt hơn, và được cứu rỗi, Thiên Chúa chẳng tiếc gì, ngay cả ban chính Người Con duy nhất cho chúng ta, “không phải để luật phạt thế gian, nhưng nhờ Con Ngài mà thế gian được cứu độ” (x. Ga 3, 17). Tình yêu này càng đến mức tận cùng qua việc Ngôi Lời nhập thể, sinh hạ trong thế gian, mặc lấy xác phàm, ngoại trừ tội lỗi, chịu khổ hình, chịu tử nạn trên Thánh giá, rồi Phục sinh. Ngài hằng trao ban sự sống thần linh, hiến thân mạng sống mình cho chúng ta qua hy tế tình yêu, Bí tích Thánh Thể, trong mỗi Thánh lễ. Còn gì bằng lòng mến tự hiến mà Thiên Chúa bao dung trao ban cho chúng ta thế này! Ước gì chúng ta năng chạy đến Bí tích Tình yêu, năng lãnh nhận Bí tích giao hoà, đón nhận thời gian ân sủng, thời cơ thuận tiện này, hầu trở về nương tựa mãi nơi suối nguồn xót thương! Ước gì chúng ta hành động trong sự thật, làm việc nơi sự sáng, và sống trong Thiên Chúa luôn!
Giờ đây, chúng ta dành ít phút thinh lặng trước Chúa, thầm thỉ dâng lời nguyện xin:
Tình Chúa hằng ấp ủ con Dù đời con nhiều nỉ non khôn xiết. Ngài vẫn bên con mải miết Tuôn đổ hồng ân tha thiết chan hoà. Chờ con tiến bước trở về Trong niềm hoan lạc tràn trề thánh ân. Amen!
Tin mừng Ga 3:14-21: Thánh giá được treo cao nơi bàn thờ tư gia của Kitô hữu, vút cao nơi chóp tháp của thánh đường để nhắc nhớ mọi người về Người can đảm vác lấy thập giá để tỏ bày tình thương và sự cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho các tội nhân quay về với Chúa.
Suy Niệm:
Địa danh vương quốc Ba Tư có lẽ ngày xưa là quốc gia rộng lớn, chiếm phần lớn các nước Tây MC4-B180
Địa danh vương quốc Ba Tư có lẽ ngày xưa là quốc gia rộng lớn, chiếm phần lớn các nước Tây á, bao gồm Iran và Iraq ngày nay... Những người thuộc thế hệ trước đã quen địa danh với cuốn truyện Nghìn Lẻ Một Đêm, còn những bạn trẻ sau này cũng được biết về Ba Tư qua truyện Đôrêmon – Chú mèo máy thông minh. Ngày xưa, dân Do Thái vì bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày sang Ba Tư. Nhưng sơ đồ thường thấy trong Kinh Thánh “Tội – phạt; hối – cứu” được thể hiện để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa. Nghĩa là vì phạm tội nên con người bị phạt – nhưng nếu biết sám hối thì được Thiên Chúa ra tay cứu vớt. Vì lòng thành tín và yêu thương nên Ngài đã soi sáng cho vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép dân Do Thái hồi hương, gầy dựng lại đền thờ.
Chúa Giêsu nhắc lại quy luật của Thiên Chúa “Tội phạt; hối cứu” qua câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời”. Nếu như con rắn là biểu trưng cho cái độc, sự chết để trừng phạt những người phản nghịch và tội lỗi, thì với các tội nhân khi nghe theo Môisen giảng dạy và tin vào lời Chúa hứa cứu dân khi bất cứ ai bị rắn cắn mà hướng nhìn lên con rắn đồng Môisen treo trên cây gỗ, người ấy đã nắm lấy cánh tay cứu chữa của Thiên Chúa. Từ đây, hình ảnh chữa lành của của ngành Y là con rắn quấn quanh cây gậy, còn ngành Dược là con rắn quấn quanh cái ly biểu tượng của sự bào chế.
Cũng vậy, thập giá là hình thức mà những người Do Thái dành cho những kẻ có tội mang án tử, thì qua Người Con Một, Thiên Chúa mặc khải về tình thương của Ngài dành cho thế gian, Người đã biến thập giá như án tử cho kẻ tử tội thành Thánh giá để cứu chữa các tội nhân. Việc Chúa Giêsu chịu giương cao trên thập giá nói lên sự vinh thắng của Người. Người nhận lấy muôn vàn tội dữ đáng chết của con người và bến cây gỗ sự chết thành cây sự sống để cứu vớt những kẻ hư mất. Chúa Giêsu không khước từ thập giá Cha trao, không chạy trốn việc vác thập giá nặng nề vì tội lỗi của loài người. Và cũng từ ấy, Thánh giá không trở nên một sự đau thương mà là biểu tượng của niềm hy vọng. Thánh giá được treo cao nơi bàn thờ tư gia của Kitô hữu, vút cao nơi chóp tháp của thánh đường để nhắc nhớ mọi người về Người can đảm vác lấy thập giá để tỏ bày tình thương và sự cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho các tội nhân quay về với Chúa.
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Người này có quá nhiều tội nặng, mặc cho cha xứ rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, người đó vẫn không chừa tội và lại tiếp tục sa ngã. Bực quá, cuối cùng cha xứ quát lên: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha cho anh tội này đâu!”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị cha xứ cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu rời khỏi lổ đinh và đưa ra ban phép lành tha tội cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ quay lưng với người có tội trở về với Chúa. Xin cho Chúa nhật Hồng này đánh dấu chặng đường nửa mùa Chay thánh con bước đi, để còn những lầm lỗi nào, con quyết từ nay quay về với Chúa. Amen.
Trong cuộc sống, điều gì sẽ giúp mang lại sự hòa giải, hiệp nhất, bình an và hạnh phúc cho con MC4-B181
Trong cuộc sống, điều gì sẽ giúp mang lại sự hòa giải, hiệp nhất, bình an và hạnh phúc cho con người chúng ta? Có phải chăng những điều này sẽ đạt được nhờ tiền bạc-của cải, vũ khí-súng đạn, hay chiến tranh? Tất cả sẽ không. Vậy thì, điều gì mà con người đang nỗ lực tìm kiếm và khao khát để đạt được? Từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 3 vừa qua, với ơn Chúa và sự cộng tác của biết bao người, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nỗ lực hết sức để đến thăm Irak, mặc dầu đối diện với biết bao khó khăn và giới hạn của chuyến tông du này; từ tuổi cao sức yếu, từ dịch bệnh hoành hành, từ hỗn loạn-nguy hiểm của chiến tranh…Thật vậy, khi chứng kiến, mọi người đều rất xúc động, chỉ biết dâng lời cảm tạ và cầu nguyện cho Ngài. Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô mang tới cho Irak cũng như cho toàn thế giới chính là những gì mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn; đây cũng chính là những gì mà chúng ta đang khao khát, tìm kiếm để đạt tới đích điểm trong cuộc sống của chúng ta trong tương quan với Chúa và với tha nhân trong Mùa Chay này.
Trong bài đọc một, Thiên Chúa đã tỏ ra rất mực kiên nhẫn, khoan dung và nhẫn nại trước những yếu đuối bất xứng và tội lỗi phản nghịch của con người. Dẫu rằng, Thiên Chúa đã không biết bao lần, qua muôn vàn cách thế để uốn nắn, răn dạy và sửa lỗi; thế nhưng, con người vẫn không biết ơn, vẫn thất tín, bội bạc, tệ hại hơn họ lại còn chê bai, nhạo báng và tỏ ra những thái độ, hành động bất kính với Thiên Chúa và các Sứ Giả của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Chúa đã không còn che chở họ, khi họ bị lâm vào cảnh lưu đày. Trước tội lỗi và những nỗi đau khổ, cực hình mà con người tự chuốc lấy, Thiên Chúa lại không nỡ để thấy họ phải chịu, nên lòng thương xót của Chúa lại biểu lộ qua việc Chúa giúp cho họ được ơn giải thoát. “Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc”.
Vậy thì, câu hỏi được đặt ra: Trong cơn thịnh nộ, Chúa có phạt chúng ta không? Trong Cựu ước, mỗi lần dân chúng bất tuân mà phạm tội, thì Chúa đã phạt họ. Thế nhưng, trong Tân ước, từ bài đọc hai, Thánh Phaolo cho chúng ta biết, chính vì tội lỗi của chúng ta, chúng ta tự chuốc lấy án phạt hay hình phạt do chính tội mình gây ra, chứ Chúa không thịnh nộ và trừng phạt. Nhưng trong thánh ý nhiệm mầu, Chúa lại cho những điều đó xảy ra, để qua đó, ân sủng, tình thương và lòng thương xót Chúa được biểu lộ. Thật vậy, tình thương và ơn thánh Chúa ban cho chúng ta dẫu yếu đuối và tội lỗi. Ơn sủng mà Đức Kitô trao ban thì dành cho tất cả mọi người, thế nhưng, với những ai tin vào Ngài, chấp nhận và sống như Ngài thì sẽ đón nhận được bình an và ơn thánh.
Tin mừng hôm nay đã soi sáng, tỏ rõ hơn cho chúng ta thấy để phần nào cảm nếm tình thương và lòng thương xót mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi. Điều này đã được minh chứng qua sứ vụ của Chúa Giêsu khi Ngài vâng theo thánh ý Chúa Cha, đến nỗi đã chấp nhận chết nhục nhã trên thập giá để cứu chúng ta. Qua Tin mừng của Gioan, khi Chúa Giêsu nhắc lại biến cố con rắn đồng ở trong sa mạc năm xưa đã cứu sống những ai biết ăn năn sám hối, biết quay đầu để nhìn lên nó thì được Chúa tha thứ và cứu sống, dẫu cho họ đã biết bao lần bất tuân, phản nghịch, chối bỏ và tỏ lòng bất kính với Thiên Chúa. Thì Đức Kitô Giêsu hôm nay trên thập tự giá cũng chính là nguồn ơn cứu sống cho tất cả chúng ta những ai vì yếu đuối mà phạm tội, những ai đã chối bỏ và khước từ Chúa, giờ đây có cơ hội để sám hối ăn năn và tin vào Đấng đã chịu đóng đinh. Trong cuộc sống, chúng ta không biết bao nhiêu lần cũng đã như dân Do Thái xưa, đã không tin vào Chúa, không tin vào Sứ Giả Chúa sai đến nên đã phạm tội. Thế nhưng, Thiên Chúa qua Giáo hội và qua các bí tích ban ơn tha thứ, thánh hóa, đặc biệt là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ơn thánh Chúa ban, không hệ tại nơi công trạng hay việc làm của chúng ta, nhưng nhờ vào chính công nghiệp từ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô; đồng thời, Chúa cũng thương cho chúng ta được cộng tác với Ngài qua thái độ khiêm tốn và lòng tin.
Sứ điệp cũng như chứng tá mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã mang đến Irak đang mời gọi tất cả nhân loại là: Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy tin như Apraham, hãy khiêm tốn và hành động theo lòng tin của chúng ta vào Chúa. Qua Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết xác tín hơn vào tình thương, lòng khoan dung và ơn thánh của Chúa dành cho chúng ta qua chính công cuộc của Đức Giêsu Kitô, để nhờ đó, chúng ta cũng luôn sống đáp trả với lòng tin vào Chúa và lòng mến cho tha nhân. Amen.
Muà Chay không là mùa tang thương, thất vọng nhưng là mùa của Yêu Thương, Hy Vọng, muà Thiên MC4-B182
Muà Chay không là mùa tang thương, thất vọng nhưng là mùa của Yêu Thương, Hy Vọng, muà Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, bao dung, và tội nhân được nhìn thấy và tiến về ánh sáng cứu độ.
Bài đọc thứ nhất ghi lai bối cảnh lịch sử của Ítraen vào năm 586 trước công nguyên, thời điểm Đền Thờ Giêrusalem bị tàn phá bởi quân đội Babylon với cảnh tượng thật đau thương, kinh hoàng: Vua Canđê tiến đánh Ítraen ; “vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương, bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc… Quân Canđê đốt nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc qúy giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị” (2 Sb 36,17.19 -20). Và suốt 70 năm bị lưu đầy trên đất Babylon, người dân Ítraen đã không một ngày nguôi ngoai nỗi đau mất nước, nỗi nhớ quê hương, nỗi tủi nhục không còn Đền Thánh, nỗi khổ làm thân nô lệ, nên thường rủ nhau ra bờ sông Babylon nức nở khóc tưởng nhớ Xion (x. Tv 136).
Trong nước mắt ngậm ngùi trên đất Babylon những năm tháng dài nô lệ, Ítraen vẫn được các ngôn sứ của Thiên Chúa nhắc bảo : “Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (2Sb 36,15). Và này, Thiên Chúa đã dùng tay Kyrô, vua Ba Tư cất gánh nô lệ, và trả tự do cho dân, đồng thời cho họ được trở về quê hương, xây dựng lại Đền Thờ, như chính lời vua phán : “Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” (2Sb 36,23).
Ai có thể tả được niềm vui của một dân tộc từ bẩy mươi năm nay phải sống trong cảnh tang thương vì mất nước, trong sầu muộn vì phần lớn đã bị tiêu diệt, trong vất vả, nhục nhằn vì những ai sống sót phải biệt xứ làm nô lệ bỗng dưng được trả tự do, được hồi hương, và xây dựng lại đất nước? Ai hiểu được nỗi sung sướng của những người ở tận cùng bất hạnh bỗng nhiên được Thiên Chúa xót thương, ban lại hạnh phúc đã mất?
Thực vậy, những gì Thiên Chúa đã thực hiện với dân Ngài trong Cựu Ước, Ngài cũng làm như vậy với mọi dân tộc trong Tân Ước. Nếu vì lòng thương xót, Thiên Chúa Giavê đã cứu dân Ngài khỏi những năm tháng dài nô lệ ở Babylon, thì Thiên Chúa của Đức Giêsu, Đấng “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”, cũng cứu chúng ta khỏi chết vì sa ngã và “cho chúng ta được sống với Đức Kitô” (Ep 2,4.5). Đây chính là niềm vui ơn cứu độ mà chúng ta được đón nhận trong Đức Giêsu, niềm vui mà không mấy khi chúng ta thấy được tầm vĩ đại, lớn lao, và giá trị vô cùng cao qúy ; niềm vui mà rất ít người cảm được sự dịu ngọt vô tận, không gì so sánh được, vì không nhận ra gánh tội rất nặng nề đáng ghê tởm và kinh sợ đè trên đời mình. Cũng như dân Ítraen năm xưa, nếu đã không phải sống bẩy thập niên nô lệ dài đẵng đẵng trên đất người, phải chịu cảnh áp bức, đầy đọa của dân mất nước, không còn quê hương, thì chưa chắc họ đã cảm nhận niềm vui được cứu thoát, hạnh phúc được về lại quê cha đất tổ, và xây dựng lại Đền Thờ.
Đó là lý do Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng tiến về gặp gỡ Đức Giêsu là niềm vui của tội nhân được tha bổng, của phạm nhân được trắng án, khoan hồng, của người con yếu đuối, hoang đàng được tình Cha thương xót, bao dung, khi sống niềm hy vọng của Mùa Chay, bằng đi tìm và tiến về ánh sáng cứu độ là Đức Giêsu, như ông Nicôđêmô, để được biết mình đang hạnh phúc bơi lội trong đại dương ơn cứu độ, khi nghe từ chính miệng của Ngôi Lời : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Qủa vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).
Vâng, ánh sáng cứu độ phải là ngọn hải đăng cho hành trình đức tin của mỗi người, bởi không thiếu những lúc lòng ta tan nát, thất vong như tâm hồn sầu muộn của kẻ lưu đầy “bên bờ sông nức nở khóc, trên cành dương liễu treo cây đàn, đến cả bài ca kính Chúa, cũng không sao hát nổi” (x. Tv 136,1.2.4).
Ánh sáng và bóng tối của trời đất là điều mà ta chứng kiến mỗi ngày, và phân biệt dễ dàng. Thế MC4-B183
Ánh sáng và bóng tối của trời đất là điều mà ta chứng kiến mỗi ngày, và phân biệt dễ dàng. Thế nhưng ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn ta thì quả là phức tạp. Ta thường mệt mỏi khi phải đối diện với những xung đột bên trong, với những giằng co của ánh sáng và bóng tối. Trong tâm hồn ta có những lúc đầy ánh sáng, là niềm vui, hạnh phúc, những ước mơ đơn sơ ngay lành, nhưng vẫn có những lúc và những vùng đầy bóng tối: bóng tối của buồn sầu chán nản, của ích kỷ tự mãn, của những mưu mô, ghen ghét, hận thù, của cả những thói quen xấu, khiến ta cứ kéo lê cuộc đời mình vì không đủ can đảm để dứt bỏ.
Ánh sáng và bóng tối gần với ta như thế, nên ta có thể để cho mình chan hòa ánh sáng, nhưng cũng có thể vùi mình trong bóng tối. Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô đã cho thấy: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”.
Nói đến chuộng bóng tối có vẻ khó nghe, nhưng lắm lúc lại đúng với lòng mình. Có những lúc ta thấy mình cần chút bóng tối để nương náu, nhất là những lúc thất bại ê chề, những lúc hổ ngươi bẽ mặt, những lúc sai lầm lỗi phạm… Dường như bóng tối che chở ta và cho ta cảm giác an toàn. Ta thấy dễ chịu hơn khi bước đi trong bóng tối. Có những lúc bóng tối là môi trường thuận lợi để ta tự do làm điều mình muốn, sống điều mình thích. Điều nguy cơ là ta dễ bị nghiện bóng tối. Sống càng lâu trong bóng tối, ta càng ngại bước ra ánh sáng. Ánh sáng khiến ta có cảm giác bị phơi trần, bị dò xét, bị phân xử.
Đức Giêsu giải thích việc người ta chuộng bóng tối là vì các việc họ làm đều xấu xa. Thật thế, ánh sáng bắt ta phải đối diện với sự thật, mà sự thật nhiều khi rất cay đắng và chua chát. Ánh sáng chất vấn ta và đòi ta phải đặt lại nhiều vấn đề trong đời mình. Ánh sáng làm bại lộ những điều ta muốn giữ kín, thấy mình mất an toàn, bị đe dọa. Nhưng vẫn có một sự thật hiển nhiên mà ta không muốn nghĩ tới: đó là không phải không có đe dọa trong bóng tối, nhưng là vì trong bóng tối, ta không thấy mình bị đe dọa. Hãy nhớ rằng, dù có bước đi với cảm giác an toàn trong bóng tối, ta vẫn là một nạn nhân bị chộp giữ. Ta tưởng mình được tự do, nhưng thực ra là đang tránh né và cuộn tròn mình lại. Ta tưởng mình được bình an, nhưng thực sự đang bất an. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối luôn là cuộc chiến không khoan nhượng, hoặc là ta thuộc về ánh sáng, hoặc là ta sẽ bị bóng tối kiềm giữ.
Cuộc sống mỗi người không tránh được những nhập nhằng giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng phúc cho ai quay về với ánh sáng: “Quay đầu là bờ”, hay “Quay đầu trở lại, là trăm năm cơ đồ”. Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối, đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên con rắn đồng như dân Israel xưa. Con rắn đồng là hình ảnh tiền trưng cho Đức Kitô, Đấng cứu độ. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ của Thiên Chúa, thì Chúa Kitô khi được treo lên cao, chính là lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa đổ tràn xuống trên chúng ta. Chúng ta được cứu độ là nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Ước gì mỗi ngày chúng ta biết nhìn lên Thập giá Chúa, để sống cuộc đời của mình vững vàng trong tin yêu và hy vọng, trong an vui và phấn khởi, nhờ đó mà vượt qua những lôi kéo của cám dỗ và sự dữ hằng ngày, với sự quyết tâm làm nên cuộc đời mới trong ánh sáng Đức Kitô đang dọi chiếu trên cuộc đời của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Đời người là một hành trình vượt qua, vượt qua bóng tối để vươn tới ánh sáng, là sự sống huy hoàng của Chúa phục sinh.
Nhưng bóng tối vẫn bàn bạc mênh mang, bóng tối bên trong và bóng tối bên ngoài, khiến tâm con vẫn u hoài thổn thức.
Lắm khi con chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì bóng tối cho con cảm giác được an toàn, nó như che chở và cho con được thanh thản, nhưng thật sự con đã để mình bị chộp giữ, có nguy cơ nhiều cạm bẫy đang rình chờ.
Để đón nhận và bước đi trong ánh sáng, con phải can đảm bước ra khỏi bóng tối, dù nhức nhối và tội lỗi bị phơi trần, nhưng an vui trong tinh thần chân thật.
Nhìn lại đời sống con hằng ngày, vẫn còn chỗ tối tăm chưa được khai sáng; vẫn còn cảnh mù mờ chưa được khai quang; vẫn còn ngục thất chưa được khai phóng; vẫn còn hỗn mang chưa được khai nguyên.
Chúa biết tình trạng không tốt nơi con, nhưng vẫn tín nhiệm đặt con là ánh sáng, để soi chiếu vào cảnh tăm tối trần gian, vì có bao người đang lầm than trong bóng tối.
Xin cho con luôn ngước nhìn lên thánh giá, là tình yêu ơn cứu độ chan hòa, luôn thứ tha và làm tinh sáng lại đời con, để ước muốn của Chúa nơi con được vẹn tròn. Amen.
Mùa Chay ta luôn được mời gọi trở về với Thiên Chúa tình yêu: “Các ngươi hãy hết lòng trở MC4-B184
Mùa Chay ta luôn được mời gọi trở về với Thiên Chúa tình yêu: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta” (Ge 2,12). Trở về với Ta là trở về với vòng tay mở rộng và đôi mắt chờ mong của người Cha nhân lành.
Vì trong hành trình dương thế đã nhiều khi bận bịu với công việc trần thế hay quá đam mê tìm kiếm khoái lạc trần gian để rồi chúng ta đã có lúc nói với Chúa: “Lạy Chúa, con sẽ đến với Chúa sau… Con không thể đến hôm nay, nhưng ngày mai con sẽ bắt đầu cầu nguyện và làm điều gì đó cho tha nhân.” Và cứ thế ngày này qua ngày khác chúng ta đã khất lần khất lượt, nhưng rồi một lúc nào đó, ta mới nhận ra lạc xa tình Chúa là đánh mất đi nguồn trợ lực và thành lũy chở che của Thiên Chúa. Một mình ta chơi vơi trong dòng đời sẽ có lúc ta cảm thấy thất vọng, chán chường vì cuộc đời không như ta mơ và luôn đưa ta đến biết bao đau khổ và bất hạnh. Đó là hình ảnh tan nát cõi lòng của người con hoang đàng đã dùng tiền của, gia sản của cha mà lao vào những đam mê lầm lỗi, rồi tới một ngày thân xác tả tơi, đói khổ và bị bỏ rơi, người con mới hối hận và chỉ mong trở về cùng Cha.
Mùa Chay là một sự hạ mình khiêm tốn để thấy rằng xa rời Thiên Chúa là lạc lối đi vào thế lực của sự dữ. Sự dữ lại quá ranh ma quỷ quyệt còn ta lại quá nhỏ bé như đứa trẻ thiếu hiểu biết sự đời. Chỉ có con đường trở về với Chúa mới an toàn, vì nơi đó Chúa sẽ bảo vệ và chữa lành chúng ta.
Năm xưa trên hành trình về đất hứa Dân Do Thái cũng từng mất lòng tin cậy nơi Chúa và có lúc thờ bò vàng dẫn đến bị tai ương và bị rắn cắn. Họ đã hối hận và xin Chúa lấy tình yêu để cứu chữa họ. Chúa Cha đã truyền cho Mô-sê treo con rắn lên để bất cứ ai bị rắn cắn mà ngước lên trời cao liền được cứu thoát.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta trên hành trình dương thế nếu đã từng bị những nanh vuốt của ma quỷ và sự dữ cấu xé. Hãy tin tưởng và trông cậy vào lòng thương xót của Chúa. Hãy chìm đắm trong đại dương bao la lòng thương của Chúa để được chữa lành. Thế nên, nếu có lần nào ta vấp ngã vì yếu đuối hãy nhìn lên Chúa trên thập giá để thấy tình thương bao la của Thiên Chúa. Một tình thương có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta. Nhìn lên thập giá, để thấy bàn tay của Thiên Chúa đang mở rộng để ôm lấy nhân loại chúng ta. Nhìn lên Thập giá để chúng ta thấy Chúa vẫn đang mời chúng ta trở về với Người để khám phá lại niềm vui được yêu thương.
Ở đời ai mà không có những bệnh tật. Bệnh thể xác và tâm hồn. Nhất là những bệnh vềtâm hồn mà chúng ta không thể tự chữa lành được. Đó là những tội lỗi đâm rễ sâu mà chúng ta không thể tự nhổ bỏ chúng. Đó là những niềm vui bất chính mà chúng ta quá quen hưởng thụ đến nỗi khó quay trở về.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa và hãy nhìn lên thập giá Chúa để xin ơn chữa lành. Hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con đang ở trước mặt Chúa, với tội lỗi của con, với những đau đớn thất vọng vì tội lỗi của con. Chúa là thầy thuốc. Chúa có thể giải thoát con. Xin chữa lành trái tim con. Nếu Chúa không cứu con ra khỏi sự dữ thì con sẽ bị chết muôn đời. Con biết đó là tội lỗi nhưng con lại quá yếu đuối, xin Chúa thương cứu chữa hồn xác con”.
Với niềm tin vào lòng thương xót của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ được chữa lành. Vì chính Chúa đã dùng cây Thập giá để cứu chuộc chúng ta và cũng chính nhờ Thập giá mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa để được sống trong ân sủng và bình an của Chúa. Amen.
Muốn ăn nên làm ra, nhiều người có suy nghĩ: một là phải chăm chỉ làm việc, hoặc là phải mưu MC4-B185
Muốn ăn nên làm ra, nhiều người có suy nghĩ: một là phải chăm chỉ làm việc, hoặc là phải mưu mô mánh lới. Muốn nhiều tiền lắm của, trước hết phải nhận ra mình còn nghèo túng, chưa có của ăn của để, sau đó mới nói đến việc đầu tư và thực hiện kế hoạch làm giầu. Để sống đức thảo hiếu với bậc sinh thành, thiết nghĩ ta nên hiểu, bậc làm cha mẹ chỉ vì “chữ tình”, các ngài không sợ xấu, không sợ già, không ngại khó khăn gian khổ, miễn sao con nên người hữu ích. Muốn và được, mới chỉ là bước khởi đầu vượt qua hy vọng đến thành công. Câu thành ngữ quen thuộc mà chúng ta hằng nghe: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Cho dù hoàn cảnh mỗi người không giống nhau, đích điểm đời người vẫn là hạnh phúc, là có bình an, có niềm vui thật.
Ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh người Do-thái, ông đến gặp Đức Giêsu, mà lại gặp ban đêm ? Có phải người cô thế cô thân mới cần được quan tâm, chắc cũng không phải những gia đình kín cổng cao tường, họ đáng phải chịu cảnh cô đơn, có phải chỉ duy nhất ông Ni-cô-đê-mô, phát hiện nơi Đức Giêsu, một vị thầy quả là đặc biệt ? Muốn biết Đức Giêsu là ai, người ta nên gặp Ngài, nếu muốn được thế gian, được danh vọng địa vị, cần đến với vua chúa quan quyền của họ. Thao thức được giầu có về sự bình an, về niềm vui tâm hồn, không những người ta cần gặp Đức Giêsu, tin và còn phải sống giáo huấn của Ngài ! Chắc không phải chỉ những người nghèo mới cần được ăn, cũng không phải người văn võ song toàn là không sợ chết, cũng không phải người tội lỗi mới là đối tượng của lòng thương xót Chúa.
Có bao giờ bạn và tôi đặt vấn đề: tôi đang muốn được dồi dào tình yêu của Đức Giêsu, hay mơ ước được bổng lộc, được quyền lực thế gian ? Thánh sử Gioan chắc không nói liều, nói bừa đâu: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta có thể nói: người hiểu đời, coi việc lo liệu, chăm sóc cho con cháu là nghĩa vụ, là niềm vui không chờ mong báo đáp. Chúng ta không thể hiểu hết đằng sau cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người biệt phái Ni-cô-đê-mô, nhưng sau khi hoàn tất sứ mạng tại trần thế, ơn ban và hồng ân cứu độ đã lan rộng trên toàn thế giới. Ước muốn được bình an và hạnh phúc thật, thao thức tìm gặp sự sống đời đời, từ người thánh thiện đạo đức, đến người tội lỗi, ai cũng có cơ hội để bày tỏ, để sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Khi trưng dẫn hình ảnh con rắn đồng ở sa mạc năm xưa, Đức Giêsu hướng mọi người tới “Đấng” sẽ chịu treo lên, con rắn và Đấng chịu treo, chính là dấu chỉ của sự sống. Muốn sống, dân Do-thái phải nhìn lên con rắn đồng, muốn không phải chết đời đời, hãy nhìn bằng niềm tin, “Đấng” chịu treo sẽ cho ta được trường sinh. Chắc không trừu tượng đâu, khi tôi và bạn cùng ước mơ đủ ăn đủ mặc, đừng lười biếng, đừng làm việc gì trái với lương tâm chân chính. Trong đời sống thiêng liêng, muốn tâm hồn bình an, hãy liên đới cầu nguyện, đừng “lơ là” cậy trông Đức Kitô, Đấng chịu treo trên cây thập giá, hầu đủ sức mạnh và tình yêu, chu toàn thánh ý Chúa. Muốn sống hạnh phúc và được cứu khỏi chết đời đời, hãy nhìn lên thập giá Đức Kitô, sám hối ăn năn, bạn và tôi nhất định sẽ hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa ban tặng thế gian.
Dân Do-thái năm xưa là hình ảnh những người vi phạm giao ước, họ muốn sống phải nhìn lên con rắn đồng. Dân kitô qua các thời đại, muốn được cứu độ, ai cũng phải vượt qua đau khổ thập giá Đức Kitô, ước muốn và được sống đời đời không phải là lý thuyết. Với toan tính hơn thiệt, người đời cho rằng: dâu hiền hơn con gái, rể hiền con trai. Với Đấng cứu độ, sẽ không còn cảnh phân biệt Do-thái hay Hylạp, đạo gốc hay đạo theo, muốn và được, sẽ không còn là ước mơ hoặc hy vọng, vì mỗi người, mỗi tâm hồn, đều được Đấng ở trên cây thập giá tẩy rửa tội lỗi, ban hạnh phúc thật cho ta. Con đường tiến tới niềm vui và hạnh phúc thật, sẽ không còn là giầu sang địa vị, nhìn lên thập giá Đức Kitô không còn là biểu tượng, mà là diễn tiến của từng tâm hồn đầy năng lực của tình yêu thương.
Cho đến khi gặp khó khăn tư bề, người ta sẽ thực sự hiểu, cha mẹ mới là bậc cứu tinh, không oán trách, không làm con cháu tổn thương. Cho đến khi ước muốn và được cứu của chúng ta có mờ nhạt vì tội lỗi, Đấng ở trên cây thập giá, vẫn có những lời nhẹ nhàng yêu thương: “lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Nhận ra Đấng ở trên thập giá là Thiên Chúa yêu thương, đã đẹp lòng Chúa rồi, nhận ra con người không thể sống bình an mà thiếu quảng đại tha thứ, phải hạnh phúc hơn. Biết cậy trông, biết sống niềm tin: “Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Quả thực, ước muốn của bạn và tôi đã được, đã đạt tới hạnh phúc đời đời rồi. Amen.
Nicôđêmô, người môn đệ thầm lặng tìm đến gặp Thầy Giêsu ban đêm. Thầy nói với ông nhiều điều MC4-B186
Nicôđêmô, người môn đệ thầm lặng tìm đến gặp Thầy Giêsu ban đêm. Thầy nói với ông nhiều điều lắm. Thầy báo trước cho ông biết về cuộc thương khó Người sẽ trải qua: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Thầy cho ông biết rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sau khi Thầy Giêsu trút hơi thở cuối cùng, ông đã đến xin quan Philatô cho lãnh thi hài của Người và mai táng trong chính ngôi mộ đã đục sẵn cho mình. Vượt qua mọi nghi ngại và sợ hãi, ông đã hành động để minh chứng tình yêu và lòng tin ông đặt nơi Thầy Giêsu.
Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ta cũng được mời gọi diễn tả tình yêu và đức tin của mình. Thiên Chúa yêu ta, tình yêu của Người vượt trên sự hiểu biết của ta, nhưng trái tim bé nhỏ của ta vẫn có thể đón nhận tình yêu cao vời ấy. Đó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho ta. Người yêu ta không theo cách ta cảm nghĩ và hiểu biết. Ta vẫn cảm nhận được tình yêu của Người giữa cuộc sống bình an. Mọi thứ Người dành cho ta thật tuyệt vời: thời gian, sức khỏe, trí tuệ, tình yêu, sự nghiệp,… Trong nhịp sống thật bình yên ấy, tình yêu của ta cứ thế lớn lên. Mỗi ngày, ta được mời gọi cảm nếm tình yêu của Chúa ngang qua những điều bình dị. Thiên Chúa vẫn ở gần bên ta, Người lôi kéo ta đến gần Người. Khi thực hiện một việc bác ái dù nhỏ bé và âm thầm, ta vẫn cảm nhận được ánh mắt trìu mến của Người đang mỉm cười với ta. Mỗi khi ta vấp ngã, Người hối thúc lòng ta hãy đứng lên, quay trở về bên Người để được Người chữa lành cho. Ta tỏ lòng biết ơn Chúa bằng chính thái độ thờ lạy, và tôn thờ Người. Người hiện diện nơi những người anh em bé nhỏ bên cạnh ta, nơi cả những ai đã làm ta tổn thương, yêu người cả khi bị người thù ghét. Người mời gọi ta chiêm ngắm dung nhan của Đấng giàu lòng xót thương và đón nhận tình yêu của Người trong trái tim của mình. Tình yêu của Thiên Chúa sẽ làm ta trái tim ta mở ra với mọi người.
Ta vẫn nghĩ ta đã yêu Chúa thật nhiều. Chỉ đến khi tình yêu bị thử thách, ta mới hiểu được tình yêu đích thật là gì? Theo bản tính tự nhiên, ta luôn mong đợi một cuộc sống diễn ra theo chương trình và kế hoạch ta đã vạch sẵn. Nhưng điều Thiên Chúa muốn thì cao và xa hơn, tốt lành hơn. “Lời mời gọi của Chúa luôn gây xáo trộn đời con. Bao dự định riêng tư dường như mất hút trong đời. Con mong muốn thế này Chúa lại mong muốn thế kia. Con không sao hiểu được nhưng tin vào tình thương của Ngài” (lời bài hát “Tâm tình xin vâng”, linh mục Thái Nguyên). Trong gian truân và thử thách, ta có còn tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa không? Vâng theo thánh ý Thiên Chúa đòi buộc ta phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng, từ bỏ kế hoạch của bản thân để đi theo chương trình của Người. Chúa Giêsu đã báo trước cho ông Nicôđêmô rằng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Trên thập giá, trong đau đớn tột cùng, nhân tính của Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34). Trong nhân tính của mình, Người đón nhận đến tận cùng cùng của nỗi đau đớn, Người đi qua kinh nghiệm bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã xin vâng theo thánh ý của Chúa Cha, thực thi chương trình cứu độ nhân loại. Người một lòng yêu mến Chúa Cha nhưng ngay trong nỗi đau khổ, Người đã thốt lên như bao người tuyệt vọng, bởi Người chia sẻ với ta sự yếu đuối của phận người. Đức tin của ta cũng sẽ phải được tôi luyện qua nhiều đau khổ giống như Chúa Giêsu. Tình yêu của ta dành cho Thiên Chúa được diễn ta qua thái độ vâng phục trong những trái ý của đời mình. Tác giả thư Do thái đã cho ta thấy: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Ta hãy kiên nhẫn bước đi trong thái độ tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu – Con Một yêu dấu của Người. Ta đã đóng đinh ý riêng của mình lên thánh giá chưa?
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành! Cảm tạ Chúa đã cho con được đón nhận tình yêu cao vời của Chúa. Chúa biết con yếu đuối và dễ đổi thay. Mỗi ngày, xin Chúa cùng con diễn tả niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa khi kiên trì vượt qua mọi thử thách trong đời sống, nỗ lực sống đức ái như Chúa mời gọi, vâng phục trong tin yêu và hy vọng. Amen.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật này, chúng ta tìm thấy một trong những câu nói đẹp nhất của Kinh MC4-B187
Trong Tin Mừng Chúa Nhật này, chúng ta tìm thấy một trong những câu nói đẹp nhất của Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Để diễn tả tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa đã dùng những kinh nghiệm tự nhiền về tình yêu mà con người trao tặng cho nhau. Nhà thơ Dante cho rằng, tất cả mọi điều hữu hạn đều diễn tả điều vô hạn nơi Thiên Chúa. Mọi tình yêu con người như tình yêu vợ chồng, phụ tử, mẫu tử, bạn bè là những trang của một cuốn sách, hoặc những ngọn lửa của đống lửa; chúng có nguồn gốc và tìm thấy sự viên mãn trong Thiên Chúa.
1- Những dạng thức tình yêu Thiên Chúa
Trước hết, trong Kinh Thánh, Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người qua hình ảnh của tình yêu phụ tử. Tình yêu phụ tử được thể hiện bằng sự cổ võ, khích lệ và thúc đẩy. Một người cha muốn người con của mình lớn lên, bằng cách ông khuyến khích người con cố gắng hết mình. Đây là lý do tại sao chúng ta ít nghe người cha ca ngợi con mình trước mặt nó. Vì ông sợ rằng nó nghĩ mình đã hoàn hảo rồi nên không cần phải cố gắng nữa.
Nét đặc trưng khác của tình yêu phụ tử là sửa dạy. Người cha là thầy dạy hướng dẫn và uốn nắn người con trưởng thành. Một người cha đích thực đồng thời cũng là người ban cho con cái sự tự do và an toàn, nhờ đó, người con cảm thấy mình được bảo vệ trong đời sống. Đây là lý do tại sao Thiên Chúa giới thiệu mình với con người qua hình ảnh “đá tảng và thành lũy” để bảo vệ con người, một “thành lũy vững vàng” trước những gian nan thử thách và lo lắng (x. Tv 27,1).
Nơi khác, Thiên Chúa nói với chúng ta qua hình ảnh tình yêu mẫu tử. Người nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Tình yêu của một người mẹ được ban nhờ sự đón nhận, cảm thương và sự dịu dàng; tình mẫu tử là một tình yêu sâu nặng và mênh mông như biển cả. Người mẹ luôn luôn đồng hành, bảo vệ con mình và can thiệp cho chúng trước mặt người cha. Kinh Thánh luôn nói về sức mạnh của Thiên Chúa như là sức mạnh của người cha; nhưng Kinh Thánh cũng nói về sự dịu dàng và từ tâm của Thiên Chúa như là sự dịu dàng và từ tâm của người mẹ. Đó là sự “dịu dàng mẫu tử.”
Nhờ kinh nghiệm, con người biết đến một dạng thức khác của tình yêu, tình yêu vợ chồng, đó là một thứ “tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng” (Dc 8,6). Thiên Chúa cũng dùng hình thức tình yêu này để nói về tình yêu vô biên của Người đối với con người. Tất cả những danh từ mang sắc thái tình yêu giữa người nam và người nữ, bao gồm cả từ “quyến rũ” cũng được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa quyến rũ chúng ta (x. Gr 20,7).
2- Đức Giêsu, sự viên mãn tình yêu
Khi đến trần gian, Chúa Giêsu kiện toàn tất cả những hình thức này của tình yêu: tình phụ tự, tình mẫu tử, tình vợ chồng (biết bao lần Người ví mình là một chàng rể (x. Mt 9,15); nhưng Người còn thêm vào một hình thức tình yêu khác: đó là tình bạn hữu. Người nói với các môn đệ: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15).
Tình bạn hữu là gì? Nó có thể là một tương quan lớn hơn cả mối tương quan ruột thịt. Tương quan họ hàng hệ tại ở việc có cùng huyết tộc; tình bạn hệ tại ở việc có chung một quan điểm, lý tưởng và những quan tâm. Nó phát xuất từ lòng tin tưởng, nhờ đó tôi sẵn sàng thổ lộ cho người khác biết những tư tưởng, tâm tư, tình cảm sâu kín nhất, cũng như những kinh nghiệm riêng tư của mình.
Giờ đây, Chúa Giêsu gọi chúng ta là bạn hữu của Người, bởi vì những gì Người biết bởi Cha Trên Trời, Người đã mạc khải cho chúng ta, Người đã thổ lộ với chúng ta, tin tưởng chúng ta. Người đã xem chúng ta là những người bạn tri âm tri kỷ để chia sẻ với chúng ta những ẩn dấu của mầu nhiệm Ba Ngôi! Chẳng hạn, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa ưu thích những người bé mọn và những người nghèo, hay Người yêu chúng ta như người cha nhân hậu; hoặc Người chuẩn bị một nơi vĩnh cửu cho chúng ta.
3- Thập giá, tột đỉnh tình yêu
Hơn thế, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu lớn lao nhất của Người đối với chúng ta khi Người bước lên thập giá. Nơi thập giá, tình yêu của Người thể hiện qua ba năng động: Thứ nhất, tình yêu tự hạ (kenosis): Con Thiên Chúa trút bỏ địa vị cao cả, mặc lấy thân phận người Tôi Tớ đau khổ. Đây là tình yêu được thể hiện bằng chính hành động và dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu; Thứ đến, tình yêu đảm nhận (ricapitolatio): Con Thiên Chúa cưu mang mọi đau khổ và tội lỗi của nhân loại, Người chịu chết thay cho chúng ta; Thứ ba, tình yêu tự hiến (agape): Người tự hiến vì chúng ta một cách vô điều kiện. Đây là tình yêu ở mức cao nhất. Bởi thế, thánh Gioan quả quyết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Như thế, Chúa Giêsu mang đến cho hạn từ “bạn hữu” một ý nghĩa đầy đủ nhất khi hiến mình để cứu độ chúng ta. Nhờ đó, chúng ta đón nhận được lòng thương xót Chúa và ơn cứu độ. Chính nhờ ân sủng và lòng tin mà chúng ta được sống và được cứu độ (x. Ep 2,4-10).
Chúng ta phải làm gì đối với tình yêu Chúa dành cho chúng ta? Chúng ta làm điều gì đó rất đơn giản thôi: hãy tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, hãy đón nhận tình yêu đó, hãy nhắc lại nhiều lần với thánh Gioan: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó!” (1 Ga 4,16).
Đồng thời, chúng ta được mời gọi đáp trả tình yêu của Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn, xa lánh các dịp tội và quyết tâm không phạm tội nữa. Bởi lẽ, bao lâu còn phạm tội, bấy lâu Chúa Giêsu vẫn phải hấp hối và tiếp tục chịu chết một lần nữa vì chúng ta. Như lời của Dinsmore nói: “Vẫn có một cây thập giá trong cung lòng Thiên Chúa trước khi cây thập giá đó được trồng trên một ngọn đồi bên ngoài thành thánh Giêrusalem. Và giờ đây, dù cây thập giá gỗ đã bị loại trừ, cây thập giá đó vẫn còn trong cung lòng Thiên Chúa và nó sẽ vẫn còn bao lâu vẫn còn dù chỉ một tội nhân để cho Thiên Chúa phải đau khổ.”
Ước gì trong Mùa Chay thánh này, chúng ta nhìn lên thập giá và hoán cải đời sống mình để được sống đời đời. Amen!
Sáng và tối là hai thực thể trái nghịch nhau. Nơi đâu có ánh sáng, nơi đó vắng bóng tối bởi ánh MC4-B188
Sáng và tối là hai thực thể trái nghịch nhau. Nơi đâu có ánh sáng, nơi đó vắng bóng tối bởi ánh sáng xoá tan bóng tối. Nơi đâu có bóng tối, nơi đó thiếu ánh sáng. Bóng tối đi chung với hành động tối tăm, u ám, mù mờ. Ánh sáng cổ võ cho việc làm trong sáng, minh bạch. Nhân loại biết hành động minh bạch tốt lành, nhưng nhân loại thường chọn hành động thoả mãn dục vọng, hành động cách mờ ám. Nhược điểm chung của nhân loại là chiều theo đam mê xác thịt.
Câu chuyện con rắn đồng treo trên cây trong Cựu Ước là một thí dụ điển hình. Sách Dân Số 21:4-9 thuật lại chuyện dân Chúa chọn, Israel, cả một dân tộc ưa thích bóng tối trong hành trình đi về Đất Hứa. Người ta càm ràm thời gian hành trình trong hoang địa khổ sở hơn cả thời gian sống lưu đầy bên Ai Cập. Có người mạnh bạo so sánh cho là chẳng thà sống lưu đầy còn sung sướng hơn. Người ta không nhận biết thời gian hành trình trong hoang địa không phải là thời gian thử thách, mà chính là thời gian tẩy xoá, làm trong sáng cuộc sống, xứng đáng sống nơi vùng Đất Hứa. Đây là thời gian giúp con người nhận ra lòng nhân từ của Chúa, nhận ra tình yêu Chúa dành cho dân Chúa chọn, thời gian phản tỉnh, nhận ra sai lầm tội lỗi xưa để hoán cải, trở về cùng Thiên Chúa yêu thương, tha thứ. Phản tỉnh là hành trình cần thời gian tỉnh ngộ, không phải một chốc lát mà là một con đường. Con người cần cố gắng, phấn đấu để vượt qua con đường phản tỉnh. Càm ràm xảy ra bởi thiếu kiên nhẫn, sợ khó. Dưới sự lãnh đạo của Môisen, trên đường về Đất Hứa, người ta than van, trách móc, và Thiên Chúa làm ngơ để cho rắn độc hoành hành dân chúng. Người ta kêu ca, than vãn và Môisen đại diện dân chúng, cầu xin cùng Đức Chúa. Ngài phán bảo dựng một cột cây cao, treo con rắn bằng đồng trên đó, khi rắn cắn nhìn con rắn đồng sẽ thoát chết. Con rắng đồng không có khả năng cứu sống người. Thiên Chúa dậy nhìn con rắn đồng nhắc nhớ Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ngoài Ngài ra không ai có thể ban sự sống. Hình ảnh con rắn đồng là hình ảnh sự ác, sự chết, sự tội, dối trá, ma lanh. Rắn tượng trưng cho hình ảnh ma quỉ phủ dụ con người phạm tội. Nhìn rắn đồng nhắc nhớ mình sa ngã, phạm tội, làm mất lòng Chúa. Hãy mau quay về, thống hối, ăn năn để nhận sự sống. Nhìn con rắn đồng để nhận biết tình yêu Chúa cao hơn tội ta phạm. Lòng Chúa xót thương vượt trên mọi sự tội, cao hơn thất trung, thất tín, tôn thờ ma quỉ.
Ngày nay chúng ta nhìn hình tượng Chúa nát tan trên thập tự để nhận biết tình Chúa cao vời. Vượt lên trên mọi tội lỗi con người xúc phạm nơi trần gian. Tình yêu Chúa sáng chói đánh tan mọi bóng đen tội lỗi. Chúa trên thập tự kiên nhẫn chờ đợi con cái Chúa hồi tâm, quay về, đón nhận ơn tha thứ. Tình yêu không điều kiện này vượt khỏi trí tưởng con người. Cách thức Chúa tự nguyện chọn để ban ơn cứu độ nhân loại khó hiểu không kém. Chúa có toàn quyền chọn cách nhẹ nhàng hơn, bớt đau khổ hơn, nhưng Chúa chọn cách đau khổ cùng cực nhất, tàn ác nhất con người có thể nghĩ ra để hành hạ nhau. Chúa chọn cách nhân loại hành hạ tội phạm để nói cho con người biết Chúa tự nhận tội nhân loại, biến tội chung toàn thể nhân loại thành tội riêng để nhận lấy hình phạt tàn ác. Qua đó Đức Chúa ban ơn tha thứ, ơn hoà giải, ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài vô tội, không phải là tội phạm nhưng tự nguyện đón nhận hình phạt dành cho tội nhân để nói lên tình thương Chúa dành tặng nhân loại. Chọn xuống thế làm người là chọn chấp nhận đau khổ, lo lắng, mệt mỏi giống hệt như mọi người.
Chúa là ánh sáng thực. Mọi hành động tối tăm, gian trá đều là kết quả con người cộng tác với ma quỉ gieo đau thương, sầu khổ cho con người. Như thế tối tăm trần gian chính là tối tăm trong tâm hồn, trong tim óc con người, từ đó sinh ra hành động tối tăm, mờ ám. Ánh sáng Chúa soi sáng con tim dẫn đến ơn cứu độ, ưa thích sự sáng, tin tưởng, phó thác và chọn làm điều trong sáng dẫn đến sự sống trường sinh. Bóng tối ma quỉ đại diện cho chỉ trích, phê bình, lên án, thích điều mờ ám, thiếu tin tưởng, thích ngờ vực, từ đó dẫn đến diệt vong.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và Ngài không để mặc cho ma quỉ hoành hành, làm hại đến điều Chúa tạo dựng. Con người nghe ma quỉ phủ dụ, ưa ngọt, ưa nịnh nên bị chúng cám dỗ phạm tội. Thiên Chúa không để mặc sự chết thống trị thế gian. Thiên Chúa ban cho nhân loại Con Chúa xuống trần cứu độ con người, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần. Những ai đón nhận Con Chúa đều nhận được sự sống trường sinh do Máu Thánh Con Thiên Chúa ban tặng. hãy chung lời cảm tạ tình Chúa cao vời.
Trong lúc thánh Giêrônimô đang quì cầu nguyện trong hang đá ở Belem để suy niệm về mầu MC4-B189
Trong lúc thánh Giêrônimô đang quì cầu nguyện trong hang đá ở Belem để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, thì Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra và nói với thánh nhân:
– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
Thánh nhân trả lời:
– Lạy Chúa Hài Đồng, con xin dâng Chúa trái tim của con.
– Đúng thế, nhưng còn gì khác nữa không?
– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và hết những gì con có thể.
Chúa Hài Đồng hỏi:
– Con còn điều gì khác nữa không?
Thánh nhân khẩn khoản thưa:
– Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu.
Chúa Hài Đồng bảo:
– Này Giêrônimô, hãy dâng cho Ta cả những tội lỗi của con nữa.
Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại:
– Ồ, lạy Chúa, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
– Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế thánh nhân bỗng bật khóc vì sung sướng.
Sau đó, thánh nhân đã đi xưng tội.
Mùa chay, mùa giao hoà giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, với chính mình và với thiên nhiên. Tuy nhiên, sự giao hoà đó chỉ có thể được diễn ra và được thực hiện khi chúng ta biết bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự giao hoà đó chính là sự thứ. Chính Chúa là nguồn mạch yêu thương và tha thứ. Ngài luôn mong muốn con người được cứu độ và đón nhận ơn tha thứ. Chúng ta sẽ thấy điều đó qua các bài đọc phụng vụ của Chúa nhật 4 Mùa Chay năm B hôm nay.
Nơi bài đọc I, (2Sb 36, 14-16.19-23), tác giả diễn tả tình trạng bất trung bất nghĩa của dân Israen: “tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa…”(2sb 36, 14-16). Dầu cho dân tội lỗi và phản bội như thế, nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tìm cách cứu thoát họ. Ngài đã dùng vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư như là trung gian để cứu dân hầu đem lại sự bình an cho dân. Tình thương và sự tha thứ đó được diễn tả như sau: “Ky-rô, vua Ba-tư, phán thế này : ‘Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên …!’ ”(2 Sb 36, 23).
Bài đọc II, Ep 2,4-10, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được diễn tả qua lời giảng dạy của Thánh Phaolô đối với cộng đoàn Ê-phê-xô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2, 5-6). Quả thật, sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của con người. Ngài chỉ biết yêu, biết thương, biết tha thứ chứ không biết giận, biết thù. Ngài là một vị Thiên Chúa hay quên vì Ngài đã không chấp tội của chúng ta, không nhớ đến tội của chúng ta nhưng sẵn sàng bỏ qua tất cả những sai lỗi hầu cứu vớt con người chúng ta khỏi chết. Ngài không lên án vì Ngài là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài không bao giờ muốn con người phải đau khổ và phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18, 23).
Điều đó được diễn tả cách mạnh mẽ hơn nơi bài Tin Mừng của Thánh Gioan (3,14-21). Thánh sử Gioan trình bày như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3, 16-17). Vì yêu nên Thiên Chúa tìm mọi cách thế để cứu độ con người, thậm chí Ngài đã chấp nhận hy sinh Con Một của Ngài để ai tin vào Con của Người, là Đức Giê-su thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ dẫu con người bất trung, bất nghĩa. Một vị Thiên Chúa vô hình nhưng hiện diện một cách hữu hình nơi Ngôi Hai Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đức Giê-su Ki-tô, luôn luôn gần gũi, thân thiện và đầy lòng nhân hậu đối với con người, nhất là những người tội lỗi.
Chúng ta trích dẫn một vài ví dụ để nói lên lòng quảng đại tha thứ của một vị Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su: Nơi người đàn bà ngoại tình, đáng lý ra chị phải bị ném đá cho đến chết. Nhưng may mắn cho chị đã gặp Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế, là hiện thân của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Tình Yêu. Thay vì lên án và ném đá chị, Đức Giê-su đã thể hiện một vị Thiên Chúa vô cùng bao dung và nhân hậu, khi Ngài nói: “Ta không kết án chị đâu. Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Vì Đức Giê-su đến trần gian nhằm để cứu con người như Ngài đã khẳng định: “Con Ngưòi đến để cứu vớt, chứ không phải để huỷ diệt; Ta đến không phải kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5,32). Nơi khác, Đức Giê-su thể hiện sự tha thứ của một vị Thiên Chúa đầy quyền năng và lòng thương xót khi chấp nhận người trộm lành cùng chịu đóng đinh bên phải với Ngài. Ngài đón nhận anh ta và quên hết quá khứ tội lỗi của anh. Ngài mạnh mẽ tuyên bố: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. (Lc 23, 43)
Bên cạnh đó, “Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng:“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Đức Giê-su, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa tiếp tục mời gọi con người tin vào Ngài để đón nhận sự sống đời đời. Chỉ nơi Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài, tất cả chúng ta mới được cứu độ. Chỉ nơi Ngài sự tha thứ của Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa và Lòng thương xót của Thiên Chúa mới được tỏ lộ cách thiết thực và rõ ràng nhất. Tuy nhiên, để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi nhận ra tội lỗi của mình với tâm tình khiêm tốn và tin yêu. Chúng ta không chỉ đón nhận sự tha thứ từ một phía Thiên Chúa, nhưng mỗi người được mời gọi hãy biết tha thứ cho tha nhân. Chỉ qua sự tha thứ cho người khác cách chân thật, chúng ta mới thực sự đón nhận sự thứ tha của Thiên Chúa. Quả thật, nếu chúng ta tha thứ sẽ được thứ tha là vậy. Tha thứ là hành vi thứ nhất đòi buộc ta phải thực hiện nơi cuộc sống đời thường cho anh chị em chung quanh, nhờ đó, chúng ta mới dễ dàng đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa đích thực khi chúng ta biết tha thứ cho nhau. Chúng ta không thể đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa khi chúng ta mắc tội, mà lại không khoan dung với tha nhân. Chúng ta không thể tận hưởng vị ngọt của sự tha thứ của Thiên Chúa, mà lại cay đắng hận thù anh chị em ta. Chúng ta đang sống trong tình trạng hận thù, ghen ghét, bất hoà bất thuận, nói hành nói xấu, gây hấn, lỗi đức bác ái, đâm thuê, chém mướn,…mà vẫn hiên ngang dâng lễ và đón lấy sự tha thứ của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta đang sống trong tình trạng hai lòng/ giả tạo? Liệu điều đó có phù hợp với tâm tình Mùa chay thánh không?
Thật vậy, tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn trải dài trên cuộc đời chúng ta, nhưng liệu tình yêu đó có thật sự được toả lan cho anh chị em không? Thiên Chúa luôn yêu thương và luôn tha thứ cho chúng ta, cũng vậy, chúng ta cũng cố gắng sống yêu thương và tha thứ cho hết thảy những ai có lỗi với chúng ta. Tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa chỉ thật sự hiện diện trong cõi lòng của chúng ta nếu chúng ta biết thực thi cử chỉ đó cho anh chị em đồng loại.
Kinh Thánh xác định: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.” (Ga 19:37) Chắc chắn họ không MC4-B190
Kinh Thánh xác định: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.” (Ga 19:37) Chắc chắn họ không nhìn xem Chúa Giêsu như thế nào, chết thật hay chưa, mà họ đã thực sự run sợ và bắt đầu tin. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang; đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.” Thế đấy!
Niềm tin trừu tượng nhưng có thể cảm nhận. Niềm tin là gì trong đời sống chúng ta? Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) cho biết: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này có thể tồn tại và chuyển động.” Ôi, như vậy thì niềm tin tuyệt vời biết bao!
Cũng liên quan đức tin, Thánh Piô Năm Dấu xác định: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn trong đức tin, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy PHẢI bước đi trong đức tin tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu.” Thánh Thomas Aquinô cho biết: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”
Với kinh nghiệm riêng, Chân phước Charles de Foucauld chia sẻ: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. Đức tin tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. Đức tin làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay.”
Niềm tin lệch lạc dẫn tới tội lỗi. Mê tín dị đoan là dạng tin sai lầm, khiến người ta làm những điều mâu thuẫn. Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi ngày xưa: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.” (2 Sb 36:14-16) Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ. Không phải là Ngài không biết, mà Ngài tạo cơ hội để người ta sám hối.
Và Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.” (2 Sb 36:19-21) Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử, không ai thể che giấu sự thật.
Lịch sử vẫn diễn biến theo dòng thời gian, và Thiên Chúa luôn hiện hữu và theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, Thiên Chúa có mặt trong lịch sử loài người, trong lịch sử cuộc đời của riêng từng người – kể cả những người vô thần. Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, dù người ta muốn hay không muốn.
Quá khứ, hiện tại, và tương lai là ba thời (thì) chính của cuộc sống, của thời gian. Cuộc đời mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên chuyện hôm qua, bởi vì quá khứ có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta không thể làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể rút được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay và hướng tới tương lai.
Kinh Thánh cho biết: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23) Chính Thiên Chúa luôn mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh – cơ hội thuận tiện. Càng dứt khoát thì càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi thì càng hữu ích cho chúng ta – cả thể lý và tinh thần.
Tha phương cầu thực đã thấy khổ, càng khổ hơn khi phải lưu đày, thế nên Thánh Vịnh gia than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3) Đang buồn làm sao vui nổi, đang khóc làm sao cười được? Vậy mà ngày nay thấy có dạng “khóc thuê,” cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ khấn thuê, dâng lễ vật thuê,… Thần linh cũng không biết tính sao. Thần linh cũng khổ lắm chứ đâu an nhàn như những kẻ tham lam, vội vàng vơ vét vào!
Tâm sự canh cánh, nỗi niềm nặng trĩu cõi lòng, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.” (Tv 137:4-6) Khi buồn thì người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc, cảnh vật cũng như lây nhiễm nỗi buồn. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Bên ngoài nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đã cô đọng thành sự tĩnh lặng, bất động. Đá không đeo mà nặng trĩu!
Kiếp phàm nhân là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Vì không có niềm tin vào Thiên Chúa nên người ta thất vọng, có những người tuyệt vọng nên đã tự kết liễu đời mình. Tội chất chồng lên nhau.
Là tín nhân, chúng ta cũng đau khổ nhưng vẫn hạnh phúc, bởi vì chúng ta có niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, Đấng đã chịu chết để chúng ta được sống và sống dồi dào. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Tất cả là hồng ân, chúng ta chẳng làm được gì đáng công trạng, giả sử chúng ta có làm được điều gì khác thường, hơn người, thì cũng chỉ là con số không to lớn và rỗng tuếch mà thôi. Nhưng chúng ta luôn phải canh chừng “cái tôi” kẻo sinh ảo tưởng và ảo giác.
Vừa nhấn mạnh vừa giải thích tỉ mỉ, Thánh Phaolô nói: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:7-10) Ai cũng được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để vinh danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu hữu hạn, vì thế chúng ta thường khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Kiểu áp đặt Thiên Chúa theo ý mình như vậy là dạng ấu trĩ liên quan đức tin.
Thánh Mark khổ tu cho biết: “Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta nên dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ưu tiên cho việc cầu nguyện, nhất là nên dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa. Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy thừa nhận thực trạng, tố cáo sự ấu trĩ của mình, và hãy hết sức vươn lên.” Rất tuyệt vời, nhưng cũng rất khó thực hiện.
Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15) Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội lỗi của mỗi chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3:16-18)
“Ngày nào có nỗi khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Đau khổ có đủ kích cỡ, đủ mức độ, không tránh đâu được. Muốn hết khổ thì chỉ có cách là “sống chung” với nó; muốn nhẹ lòng thì cứ khóc cho “trôi” bớt. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã khuyên các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho chính phận mình và con cháu. (x. Lc 23:28) Chính mình phải biết thương mình trước, để gia tăng niềm tin, rồi mới có thể biết thương người khác.
Thánh sử Gioan cho biết: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3:19-21) Lời lẽ rõ ràng và sắc bén lắm.
Bất kỳ ai muốn được Thiên Chúa xót thương thì phải chân thành ăn năn, đền tội, và không ngừng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Và thành tâm xác tín: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban.” (Tv 13:6)
Những ngày vừa qua, thế giới “nóng” lên và khâm phục cô gái trẻ Ma Kial Sin, 19 tuổi, đã can đảm tranh đấu vì chính nghĩa, và cô đã bị quân đội bắn chết tại Mandalay, Myanmar, ngày 03-03-2021. Trên áo cô mặc có in câu: “Everything will be OK.” (Mọi thứ sẽ ổn thôi.) Cô gái này tuổi nhỏ nhưng chí lớn, dám quên mình vì đại nghĩa, và cô có niềm tin mạnh mẽ vào sự thật. Chúng ta cũng phải can đảm hành động vì sự thật, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm linh.
Đại đế Napoléon nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.” Vĩ nhân Mahatma Gandhi phân tích: “Bất cứ ai bảo rằng họ không quan tâm đến chính trị thì cũng giống như kẻ đang chết đuối mà luôn mồm khẳng định họ không cần biết xung quanh mình là nước.” Tục ngữ Iran có câu rất đáng suy tư: “Nấm mồ thực sự của chúng ta không phải ở trong lòng đất mà ở trong tim của người ta.”
Thập Giá là nhục hình, nhưng đối với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Cuối cùng, tướng cướp Dismas cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu đã phải cầu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Và chính viên đại đội trưởng cũng đã thức tỉnh lương tâm: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15:39)
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm hành động vì chân lý của Ngài, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn và Bửu Huyết của Chúa Giêsu, vì Châu Lệ của Thánh Mẫu, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và chúng con – các hối nhân chân thành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Sách Sáng Thế kể lại, sau khi con người (A đam) và vợ phạm tội, con người đặt tên cho vợ mình MC4-B191
Sách Sáng Thế kể lại, sau khi con người (A đam) và vợ phạm tội, con người đặt tên cho vợ mình là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh. Thiên Chúa may những chiếc áo bằng da và mặc cho họ (x. St 3, 20-21). Mặc dù tội lỗi và hậu quả của tội lan tràn khắp mặt đất nhưng sự sống Thiên Chúa đã ban vẫn tiếp tục phát triển. Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, bao bọc con người, tìm cách để khôi phục tương quan đã bị bẻ gãy bởi tội. Đức Giêsu chính là món quà tuyệt vời, là lời hứa, là trung gian giao hòa và là ơn cứu độ Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Câu chuyện nửa đêm giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô mặc khải cho chúng ta biết về kế hoạch của Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thật vậy, Đức Giêsu chính là Con Một yêu dấu của Chúa Cha được ban cho nhân loại. Qua người con ấy, chúng ta được cứu chuộc, được giao hòa cùng Thiên chúa. Để lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta được mời gọi tin vào Đấng Chúa Cha sai đến. Tội lỗi đã lan tràn kể từ khi Nguyên tổ phạm tội. Là hậu duệ của các ngài, chúng ta nhận thấy rằng: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 50, 7). Thiên Chúa không chỉ may cho con người những chiếc áo bằng da để che phủ tội lỗi và sự khốn cùng của con người mà còn ban chính Con Một làm giá chuộc tội cho cả nhân loại. Tình yêu, sự sống Thiên Chúa vẫn tiếp tục được trao ban.
Nhìn về tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi điều gì? Thiết nghĩ, sám hối là một trong những thái độ ta cần có để đáp lại tình yêu của Ngài. Như tác giả Thánh vịnh 50, chúng ta hãy thân thưa cùng Thiên Chúa về sự yếu hèn của ta cùng bày tỏ sự ăn năn, thống hối. Suốt Mùa Chay, mẹ Giáo hội không ngừng kêu mời con cái mình sống sự sám hối ấy, đến với Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, đến với anh chị em qua nghĩa cử bác ái và trong cầu nguyện, ta ca tụng tình yêu Thiên Chúa và cầu nguyện cho mọi người. Sám hối là lời mời gọi cho tất cả chúng ta. Hơn hết, một sự sám hối chân thành rất cần đến một sự thay đổi đời sống tận căn để có thể tin yêu và sống theo những đòi hỏi của Con Một.
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Kinh nghiệm cho thấy, khi phạm phải một lỗi gì đó, chúng ta thường có xu hướng che dấu tội của mình hoặc tìm cách biện minh, không muốn ai biết đến. Chúng ta cảm thấy “an toàn” khi ở trong bóng tối đó. Bóng tối sẽ giúp ta che đậy tất cả. Dường như những ai càng phạm tội, càng muốn ở lại trong bóng tối. Nhưng, sự “an toàn” ấy là giả tạo. Chúng ta sẽ sớm cảm thấy bứt rứt, khó chịu, không vui. Can đảm trở về cùng ánh sáng, bước ra khỏi tội là điều không hề dễ dàng. Như người con thứ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, chúng ta hãy hồi tâm và tự nhủ để biết rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. “Thôi ta đứng lên, trở về cùng Cha” (Lc 15, 18).
Chúng ta thuộc về ánh sáng. Thiên Chúa đã dùng chính giá máu của Người Con yêu dấu để cứu chúng ta thì tội lỗi chúng ta có lớn, có nhiều đến mấy thì Ngài cũng sẵn sàng tha thứ. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17). “Dù tội ta, có cao biết mấy, nhưng tình Chúa vẫn cao hơn nhiều…”. Chúng ta hãy đón nhận món quà tình yêu Thiên Chúa đã trao ban.
Ai chúng ta đều có trái tim để yêu. Trái tim đó trao đi, nhiều khi trao gần hết, rồi chợt đến một MC4-B192
Ai chúng ta đều có trái tim để yêu. Trái tim đó trao đi, nhiều khi trao gần hết, rồi chợt đến một câu hỏi: “Được gì khi trao hết tình yêu? Có nuối tiếc vì một tình yêu đã trao? Và tình yêu ấy có đáng giá không?”. Rất nhiều những câu hỏi và cuối cùng mới biết tình yêu ấy là gì khi đã trao hết. Định nghĩa về tình yêu Thiên Chúa, Thánh Gioan đã nói về giá chuộc “Tình yêu cho đến nỗi phó nộp người con duy nhất của Người” (Ga 3, 16).
Yêu là gì? Khi quen nhau một tháng, họ cùng nhau đi ăn, khi biết nhau một năm, họ cùng nhau đi du lịch. Khi thân biết nhau vài năm, họ trao nhau chiếc nhẫn đính hôn. Và sau đó họ trao nhau nhẫn cưới. Sau nữa nhiều năm, bao nhiêu hy sinh, nhẫn nại, tình yêu vợ chồng, chăm con khôn lớn. Bên ngoài công việc lao đao, bao thăng trầm, hỷ nộ, ái ố. Tất cả đều đã trải qua, vẫn chưa thể định giá tình yêu. Cho đến khi xuôi tay nhắm mắt, mới hiểu ra được tình yêu trao đi là vô giá.
Nếu tình yêu có giá, tình yêu ấy vẫn là giới hạn trong cuộc đổi trao, vẫn là những tính toán hơn thiệt. Tình yêu vẫn còn so đo. Tình yêu lời lỗ như là một thuơng vụ mua bán, sớm phai tàn, lạnh nhạt, không bao giờ là một tình yêu. Một trải nghiệm mất nhiều hơn được, cũng là cái giá của tình yêu.
Trong tình yêu, có khi trao nhầm, có khi chỉ cuộc vui chóng tàn. Một tình yêu bị bội phản, một tình yêu bị chối từ. Bao thất vọng, bao ê chề, tủi nhục, nỗi khổ của tinh yêu. Tình yêu lúc đó mới hiểu, đau thương là giá trả của tình yêu.
Một tình yêu chết cho người mình yêu, người đời cho đó là một sự điên rồ vì tình yêu. Định nghĩa cho tình yêu: Yêu là chấp nhận, yêu là hy sinh, yêu là nhẫn nhịn, yêu là tha thứ. Chẳng bao giờ đủ, vẫn tiếp tục, nhẫn nại, hy sinh, tha thứ. Không có giá để trả, để được gọi đó là tinh yêu phó nộp,Thánh Phaolô gọi đó là “sự điên rồ của thập giá” (1 Cor 1, 18).
Chúng ta không thể sống mà không biết yêu thương. Yêu thương là chấp nhận nỗi nhọc nhằn của tình yêu và chắc chắn không đến nỗi như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng con đủ sức mạnh để yêu thương, đủ lý trí, con tim, gánh vác buồn vui cuộc đời.
Trong những ngày này, Giáo hội Việt Nam sống lại kỷ niệm với Đức cố TGM. Phaolô Bùi Văn MC4-B193
Trong những ngày này, Giáo hội Việt Nam sống lại kỷ niệm với Đức cố TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM. Sài Gòn khi kỷ niệm 3 năm ngày mất của ngài trong chuyến Ad Limina cùng với HĐGMVN, nghĩa là cuộc viếng mộ các thánh Tông đồ, mà cụ thể là 2 thánh Phêrô và Phaolô để bày tỏ sự hiệp thông với Giáo hội và cũng để báo cáo với Tòa thánh về hiện trạng Giáo phận của mình. Còn nhớ 3 năm trước, Giáo Hội Việt Nam bàng hoàng trước tin Đức TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc qua đời. Không bàng hoàng sao được khi mới hôm trước Ngài còn vui vẻ, tươi cười hạnh phúc khi được yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô; không bàng hoàng sao được khi Ngài vừa mới chủ sự Thánh lễ tại vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoại thành một cách rất sốt sắng… Nhưng xem ra sự ra đi của Ngài lại nằm trong hành trình trở về với yêu thương, vì Ngài đang trở về Rôma, “kinh thành muôn thuở” của người Công giáo, và hơn thế nữa trở về trong tình hiệp thông huynh đệ với Đức Thánh Cha và anh em Giám mục của mình, điều mà có lẽ chưa một vị Giám mục nào được diễm phúc. Và nhất là sự ra đi của Ngài là để trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương, một sự thật mà phụng vụ lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay.
Tác giả Sử Biên Niên đã điểm lại những giai đoạn lịch sử của dân tộc Israel trước, trong và cuối cuộc lưu đày bên Babylon. Vì dân chúng phản nghịch, lại không chịu nghe lời Thiên Chúa thông qua các ngôn sứ và thủ lãnh, nên Thiên Chúa đã trừng phạt họ. Họ bị mất nước, bị lưu đày bên Babylon. Tuy nhiên, “giận thì giận mà thương thì vẫn thương”. Khi dân biết tội lỗi của mình, ăn năn sám hối, thì Thiên Chúa đã làm cho vua Kyrô thay đổi lòng dạ để ông ban sắc chỉ trả tự do cho dân của Chúa. Cho nên tất cả mọi sự đều do Thiên Chúa hành động để thanh luyện con người cho xứng với hạnh phúc cao quý Chúa ban.
Trong bài Tin Mừng, khởi đi từ cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô về sự sống vĩnh cửu, về ơn cứu độ. Hôm nay, Đức Giêsu như độc thoại, cho thấy vấn đề không còn là riêng của ông Nicôđêmô nữa mà là vấn đề của mọi người. Ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga3,16). Đó là sự thật của phụng vụ lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa yêu thế gian và muốn cứu độ tất cả mọi người. Phần con người muốn được cứu độ phải tin và đón nhận tình yêu đó; phải sống trong và trở về với yêu thương.
Như vậy tình yêu của Thiên Chúa không chỉ đem đến cảm xúc ngọt ngào theo kiểu: “Khi tình yêu đến dẫn ta đến bờ bến lạ”, mà tình yêu của Thiên Chúa thường là sự thanh luyện như việc mài cho đến khi viên ngọc sáng lên, rèn cho đến khi con dao sắc bén, tập luyện cho đến khi thuần thục, giỏi giang một bộ môn nào đó như tục ngữ Việt Nam có câu: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, hay “Thao trường đổ mồ hôi thì chiến trường bớt đổ máu”.
Chúng ta dừng lại một chút ở điểm này vì đó chính là thực tế đời sống đức tin của chúng ta. Có mấy người trong cuộc sống yên ổn, mọi sự đều tốt đẹp, không gặp điều chi phiền muộn? Dường như đa số chúng ta nếu không muốn nói là tất cả đều có “vấn đề” trong cuộc sống. Nếu không gặp “vấn đề” cho chính bản thân thì cũng sẽ gặp “vấn đề” do người thân và hoàn cảnh. Những “vấn đề” này đến từ 2 lý do.
Lý do thứ nhất là hậu quả của những việc chúng ta đã làm như những người Do Thái trong bài đọc thứ nhất. Họ bị mất nước, bị lưu đày là do hậu quả của việc phản nghịch cùng Thiên Chúa và làm những điều ghê tởm. Những đau khổ, bệnh tật và những “vấn đề” chúng ta đang gặp phải có khi là do hậu quả chính mình làm ra: Uống rượu bia, hút thuốc lá, thức khuya, sống vô độ sẽ dễ bị bệnh; sử dụng những chất kích thích sẽ gây ảo giác dẫn đến không kiềm chế được bản thân, làm điều xấu; chạy xe tốc độ cao, không tuân thủ luật lệ giao thông sẽ dễ gây tai nạn; các hình thức cờ bạc như đánh bài ăn tiền, cá độ, đá gà có ngày sẽ “tán gia bại sản”; buôn bán không trung thực, lường gạt người khác có ngày sẽ vô tù; trộm cướp, móc túi, giựt dọc sẽ có ngày bị người ta phát hiện và đánh nhừ tử cho chừa cái thói gian tà… Và nhiều những bất trắc khác mà nếu xét lại thì chính chúng ta là nguyên nhân.
Lý do thứ hai là Thiên Chúa muốn dùng những hoàn cảnh đó để thanh luyện chúng ta. Thiên Chúa có quyền làm như thế vì Ngài là chủ, là cha, là chúa tể muôn loài, nên trước khi trao điều gì quý giá, Ngài muốn xem chúng ta có xứng đáng hay không. Sau khi thử thách đức tin của Apraham, Thiên Chúa mới cho ông trở thành “tổ phụ của những kẻ tin”. ĐHY. Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận khi còn làm Giám mục ở Việt Nam đã bị tù đày một cách vô cớ suốt 11 năm trời, sau này Ngài đã được trả công xứng đáng khi được Tòa Thánh tin tưởng trao cho những trọng trách quan trọng trong Giáo hội cùng với tước Hồng Y, và hiện tại đang tiến hành hồ sở tuyên thánh cho Ngài… Cũng vậy có những người không làm điều chi gian ác, sống tốt lành, thánh thiện… nhưng vẫn gặp những bất hạnh trong cuộc đời. Ví dụ gia đình nọ có người cha rất tốt, yêu thương lo lắng cho vợ con, đọc kinh, đi lễ hằng ngày… bỗng nhiên đột quỵ, qua đời. Gia đình buồn quá sức. Nhưng qua sự kiện đó, những người thân trong gia đình đi xưng tội để cầu nguyện cho ông, sau đó đi lễ, sống đạo rất tốt. Người vợ chia sẻ: “Con cám ơn Chúa, vì nhờ ba nó mà mấy đứa con của con đã trở lại”.
Điểm chung của cả 2 lý do này là dù như thế nào chúng ta vẫn gặp những đau khổ trong cuộc đời. Nhưng như lời của thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã chết vì phạm tội, nhưng được cứu độ nhờ ân sủng” (x. Ep2,5); nghĩa là mọi sự đều là ân sủng của Chúa để cứu độ chúng ta, và đó là tình yêu vĩ đại nhất của Ngài.
Điều đáng nói là con người chúng ta chỉ tìm kiếm thứ tình yêu êm dịu ngọt ngào. Nếu như vậy thì chúng ta chưa sống đức tin thực sự. Đức tin đòi hỏi nơi chúng ta sự tín thác vào tình yêu của Chúa và sống theo những gì Ngài chỉ dạy.
Ví dụ khi gặp những khó khăn chúng ta chỉ xin Chúa giải quyết theo ý chúng ta: “Con bị bệnh, xin Chúa cho con hết bệnh”; “Con đang thiếu nợ xin Chúa cho con trúng số để trả nợ”; “Gia đình con đang trục trặc, xin Chúa cho gia đình con yên ổn”… mà không tìm hiểu những nguyên nhân do đâu dẫn đến những khó khăn đó. Nếu do chính chúng ta thì phải giải quyết từ bản thân của mình. Có chăng là xin Chúa ban sức mạnh để con có thể sửa đổi. Ví dụ con bị bệnh vì con ăn nhậu quá sức ; gia đình con trục trặc vì con “ham của lạ” ; con thiếu nợ vì con bài bạc…
Còn nếu xét mình lại những khó khăn không phải do mình, và có những điều mình không thể chấp nhận được, thì hãy biết rằng Thiên Chúa đang có chương trình đặc biệt cho chúng ta. Ngài muốn dùng chúng ta để thanh luyện kẻ khác và chắc chắn hạnh phúc của chúng ta là rất lớn lao.
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở về tình yêu của Thiên Chúa để mỗi người hãy lo sám hối vì những việc làm sai trái của mình kẻo không xứng đáng với công trình cứu độ của Chúa; cũng là thời gian để chúng ta hy sinh hãm mình đón nhận tất cả mọi đau khổ Thiên Chúa muốn, vì Đức Giêsu có trãi qua đau khổ mới đến vinh quang. Nhất là để nhắc nhở chúng ta về hành trình trở về với yêu thương để “Làm mọi sự vì Đức Ái”. Chỉ khi nào con người có Thiên Chúa họ mới bình an và sẵn sàng trong mọi sự.
Xin Thánh Cả Giuse là Đấng chúng con đang hướng đến trong năm đặc biệt này, giúp chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa như Ngài đã từng sống. Xin Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà chúng con vừa cử hành lễ giỗ lần thứ 75 chuyển cầu cho nỗi lòng của chúng con, để dù thế nào chúng con vẫn được bình an trong cuộc sống.
Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng con trai của thần Thái Dương Appolon là Esculape, được coi là MC4-B194
Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng con trai của thần Thái Dương Appolon là Esculape, được coi là ông tổ của ngành y dược. Vì ông không chỉ có khả năng chữa bệnh mà còn có thể làm cho người chết sống lại.
Esculape chào đời khoảng năm 1260 trước Công nguyên. Theo truyền thuyết, mẹ ông qua đời khi ông còn trong bụng mẹ nên cha của ông phải mổ lấy con ra khỏi bụng bà. Vì không có mẹ nên cha ông bỏ ông lên núi, ông được dê cho bú và chó canh chừng nên đã sống sót. Lớn lên do bản tính thích quan sát nên ông nhận ra nhiều loài cây dược thảo có thể dùng để chữa bệnh hoặc cải tử hoàn sinh.
Chuyện cũng kể rằng, một hôm nọ, Esculape đang trên đường đi thăm bạn, ông nhìn thấy một con rắn đang tiến về phía mình, ông đưa gậy ra thì con rắn liền quấn quanh cái gậy. Như một cách phản ứng tự nhiên, ông ném cây gậy xuống đất với mục đích giết chết con rắn đi. Nhưng ngay lập tức ông lại thấy xuất hiện một con rắn khác bò tới. Miệng con rắn này ngậm một loài thảo dược dùng để cứu đồng loại của nó. Từ sau đó Esculape đã để tâm đến loài thảo duộc này, rồi dùng nó để chữa bệnh cho mọi người.
Dựa vào truyền thuyết trên, ngành y đã lấy hình ảnh con rắn quấn quanh cái gậy để làm biểu tượng cho ngành. Với hy vọng tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh và kéo dài tuổi thọ của con người.
Câu chuyện về con rắn treo trên cây gậy cũng được đề cập đến trong Cựu Ước ở Sách Dân Số chương 21. Kinh Thánh kể rằng, khi dân Israel chịu cảnh nô lệ bên Ai cập, họ đã kêu cầu xin Chúa giải thoát họ khỏi cảnh tù đầy. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu cầu than khóc của họ, nên Ngài đã chọn ông Môsô để dẫn đưa dân Ngài ra khởi cảnh lưu đày và đưa họ về với vùng đất hứa.
Tuy nhiên trên đường đi họ đã trách móc nặng lời và chống lại Thiên Chúa nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã để cho loài rắn độc từ trong sa mạc tiến ra cắn chết nhiều người. Ông Môsê thấy thế liền kêu van Thiên Chúa tha thứ vì sự phản bội và vô ơn của dân, đồng thời xin Người ra tay cứu sống những người bị rắn cắn. Thiên Chúa nhận ra lòng thành và truyền cho ông Môsê đúc một con rắn đồng, treo lên cây gậy, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì sẽ được cứu sống. Nghe lời Đức Chúa, ông Môsê đã làm như vậy, thế nên dân Israel đã được thoát chết.
Con rắn đồng chính vì vậy đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi và hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhất là trong Tin Mừng của Thánh Gioan chương 3, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con rắn đồng nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài, Chúa nói: “Như ông Môsê đã dương con rắn đồng trong sa mạc thế nào, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để tất cả những ai tin vào Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời” (3, 14-15).
Thật vậy, việc Đức Giêsu bị treo lên trên cây thập tự nói lên tình thương của Người dành cho nhân loại, Ngài dùng chính mạng sống của mình để cứu lấy phần rỗi nhân loại chúng ta. Vì sau khi con người phạm tội, phản nghịch cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa đã không từ bỏ con người, nhưng sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người để cứu chuộc. Như lời của thánh Gioan tuyên bố: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Tình yêu đó thật lớn lao, tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình, đó là tình yêu mà Đức Kitô đã dành cho loài người chúng ta (x. Ga 15,13). Thiên Chúa không cần gì khác ngoài việc khao khát chúng ta hướng lòng lên ngài. Còn chúng ta, để đáp lại tình yêu đó, không cần gì khác ngoài việc đặt hết niềm tin tưởng và cậy trông vào Chúa.
Cuộc đời chúng ta gặp đầy những đau khổ và bệnh tật, không quản bệnh về thể xác, tinh thần hay cả tâm hồn. Vì thế, ngoài việc tìm thầy chạy thuốc, chúng ta cũng biết chạy đến cùng Chúa Giêsu để xin Ngài cứu giúp. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ nhưng sẽ ghé mắt thương đến chúng ta, như lời Ngài đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7).
Xin cho chúng ta, khi nhìn lên thánh giá, luôn cảm nghiệm được lòng từ bi hay thương xót của Ngài. Xin cho chúng ta khi nhìn lên thập giá Chúa Kitô, luôn được củng cố niềm tin về quyền năng chữa lành của Chúa. Và xin cho chúng ta, khi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh, biết cải đổi tâm hồn, trở về với Chúa tình yêu để được ơn giải thoát và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng ta.
Lời phán của Chúa Giêsu: “Như Môisen giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ MC4-B195
Lời phán của Chúa Giêsu: “Như Môisen giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy”, khiến ta nhớ lại câu chuyện rắn đồng trong sa mạc:
Sau khi xuất Aicập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã để mặc rắn độc cắn nhiều người. Dân quá khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi. Đấng Chí Thánh hằng ấp ủ tình yêu, một lần nữa lại đoái thương nỗi thống khổ của họ. Ngài dạy ông Môisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu.
Con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa tỏa sáng và trao ban. Từ nay, Thiên Chúa cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách, thậm chí chống đối Ngài.
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa mạnh vô song. Nó sẵn sàng vượt mọi thác ghềnh, mọi trở ngại, dẫu là trở ngại lớn nhất, kinh khủng nhất, để trao ban cho loài người.
Chính lòng yêu thương khiến Thiên Chúa như ném chính Người Con Duy Nhất và yêu quý nhất của mình để ban lòng tha thứ đối với trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa:
“Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Ngài (…) được sống muôn đời. Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.
Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt. Từ ngàn đời, Thiên Chúa vẫn chỉ trung thành với chính lòng yêu thương và tha thứ của mình.
Từ ngàn đời, dẫu nhân loại có tìm cách thoát ly tình yêu của Thiên Chúa, dẫu hết lần này đến lần khác, nhân loại không ngừng phản bội, chống đối chương trình tình yêu của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ, kiên nhẫn mời gọi họ trở về để hưởng sự sống xuất phát từ tình yêu của chính Thiên Chúa, một thứ tình mãnh liệt không gì bằng, một thứ tình không bao giờ có cùng, không bao giờ có dấu hiệu mệt mỏi, không bao giờ chậm lại.
Lời Chúa Giêsu: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con Một…”, là một trong những lời khẳng định rõ nét nhất về khuôn mặt đích thật và cõi lòng bao dung trung nghĩa của Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thế gian, yêu từng người và yêu tất cả nhân loại. Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương, dù con người là ai, đang ở tình trạng nào.
Thiên Chúa thủy chung trong tình yêu của mình dành cho nhân loại, đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Ngài là người Cha của tất cả. Thiên Chúa không nỡ nhìn đàn con bị hiểm nguy, nhất là bị cái chết đời đời đe dọa.
Vì thế, Thiên Chúa, trong một tình yêu quặng thắt và thổn thức, đã không ngừng trao ban tất cả, ngay cả trao ban chính Người Con Duy Nhất của mình. Phần chúng ta, những kẻ thụ hưởng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, hãy luôn ý thức và cố gắng đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình. Chẳng hạn:
– Một lòng tin tưởng vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, dù phải đối diện không biết bao nhiêu may hay rủi, thuận lợi hay khó khăn, thành công hay thất bại…
– Siêng năng chiêm ngắm Thánh giá với hết cõi lòng sám hối và tin yêu. Chính Thánh giá là lời nói hùng hồn và chung cuộc về tình thương ngút ngàn của Thiên Chúa. Chính Thánh giá là suối nguồn ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người.
Hãy nhìn lên Thánh giá mà thật lòng xin lỗi Chúa, thật lòng quyết tâm và đoan hứa với Chúa không để tội lỗi, không để sự sa ngã đè bẹp mình. Hãy giục lòng yêu mến Chúa nhiều hơn để sự cứu độ của Chúa không ra không, nhưng mang lại lợi ích cho chính bản thân mình.
– Hãy cảm tạ Chúa không ngừng, suốt đời chúng ta. Chúng ta phảu cưu mang lòng biết ơn Chúa, vì dù Chúa là Thiên Chúa, lại không bao giờ muốn đánh phạt, nhưng vẫn nhẫn nại để chờ đợi, để âu yếm, để cứu thoát chúng ta.
Hãy luôn khắc sâu tâm niệm này: TRONG ĐỜI NÀY, KHÔNG CÓ BẤT CỨ CÁI GÌ LỚN BẰNG TÌNH YÊU CỦA CHÚA.
Hôm nay, giữa Mùa Chay, Giáo hội cử hành Chúa nhật Lætare, được lấy từ lời đầu tiên của bài MC4-B196
Hôm nay, giữa Mùa Chay, Giáo hội cử hành Chúa nhật Lætare, được lấy từ lời đầu tiên của bài thánh ca nhập lễ hôm nay: “Lætare, Ierusalem - Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Giêrusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ” (Is 66:10-11)
Niềm vui giải thoát
Đó là những gì Thiên Chúa đã truyền cho tiên tri Isaia công bố cho những người Do Thái đang bị giam cầm ở Babylon, nơi mà họ thường ngồi bên bờ suối và khóc lóc. Họ treo đàn hạc lên cây vì buồn quá không hát nổi và nhớ lại tất cả những tội lỗi của mình. Bài đọc thứ nhất từ Sách Biên Niên thứ hai mô tả những tội lỗi đó: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài” (2 Sb 36:14, 16). Nhưng Chúa không ngừng yêu thương họ. Vì tình yêu, Ngài đã làm cho việc lưu đày ở Babylon thành cơ hội để dẫn đưa họ hoán cải về với Ngài, một sự giải thoát mà chính Thiên Chúa đã khiến Kyrô, vua Ba Tư, thực hiện.
Việc giải phóng người Do Thái khỏi Babylon, như lời tiên tri Isaia loan báo chỉ là một dấu hiệu báo trước một sự giải thoát và một niềm vui lớn lao hơn nhiều mà Chúa Giêsu sắp mang đến cho nhân loại, một sự giải phóng khỏi sự lưu đày và xa cách Thiên Chúa do tội lỗi gây ra, thoát khỏi sự giam cầm của tội lỗi vốn sẽ dẫn đến cái chết. Đó là một thông điệp vui mừng không chỉ dành cho thành Giêrusalem, mà dành cho tất cả mọi thành phố. Niềm vui đó òa vỡ vì tình yêu khôn dò của Thiên Chúa không ngừng nghỉ tìm cách cứu chuộc chúng ta. Giáo Hội khuyến khích chúng ta suy ngẫm về tình yêu đó trong Tin Mừng hôm nay, khi Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Thánh Gioan nói thêm: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian,” để trừng phạt chúng ta một cách nghiêm khắc vì tội lỗi của chúng ta, “nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Dù loài người ở trong tình trạng tồi tệ hơn nhiều so với người Do Thái ở Babylon, nhưng chính Chúa đã phái một người vĩ đại hơn Kyrô, Vua Ba Tư, đến giải phóng chúng ta. Người đó là Con của Ngài. Thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Rôma rằng: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:32). Điều đó khiến Thánh Phaolô kết luận: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:35). Khi Thiên Chúa Cha quyết định không để cho chúng ta phải chết trong cảnh lưu đày vĩnh viễn nhưng sai Con của Ngài đến chịu chế nhạo, chịu đóng đinh một cách dã man, và chịu chết đau thương thay chúng ta, thì một cách nào đó theo cách nhìn của người phàm chúng ta, Ngài đã dành cho chúng ta một tình yêu thương còn lớn lao hơn cả tình yêu dành cho Con Ngài. Ngài đã chọn cứu mạng sống chúng ta bằng cách để Con Ngài thành của lễ hiến tế. Tình yêu không thể diễn tả này là lý do đáng kinh ngạc cho niềm vui! Tình yêu của Thiên Chúa sẽ vượt qua mọi giới hạn để cứu chúng ta, và đó là cội nguồn của mọi niềm vui Kitô giáo.
Chúa Kitô như con rắn đồng Môsê giương cao trong sa mạc
Để bước vào niềm vui trong tình xót thương của Chúa Kitô, con người cần hiểu được cái giá của niềm vui đó và sự đáp trả mà niềm vui đó đòi hỏi. Hôm nay Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết cái giá của niềm vui đó: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (Ga 3:14). Con rắn ngày xưa đã khiến Adam và Eva trong Vườn Địa đàng không tin vào Thiên Chúa, và chọn sống xa cách Thiên Chúa thay vì sống trong tình yêu thân thiết với Ngài, nghĩa là chọn cái chết thay vì sự sống. Lịch sử dân Israel cho thấy họ vẫn thường mất lòng tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài vừa cứu họ khỏi tay Pharaô. Họ muốn thờ một vị thần khác: “Dân này có khuynh hướng xấu. Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai cập” (Xh 32:23-24). Họ trách cứ Thiên Chúa bắt họ phải lang thang trong sa mạc: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này” (Ds 21:5). Thiên Chúa đã cho phép rắn trườn vào giữa họ và cắn họ: “Bấy giờ Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Israel phải chết” (Ds 21:6). Thuốc giải độc mà Thiên Chúa kê đơn để cứu họ là yêu cầu Môsê làm một con rắn đồng và treo lên một cây gậy, và những ai nhìn vào con rắn đó sẽ được cứu. Con rắn đồng như một lời nhắc nhở về tội lỗi khiến họ nhiễm độc chết người cả thể xác lẫn linh hồn. Chúa Giêsu nói rằng trên Thập Giá Ngài sẽ trở nên giống con rắn đồng được treo lên cao đó: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:14). Ngài sẽ hút chất độc của tội lỗi ra khỏi vết thương của chúng ta và mang nó lên Thập tự giá của Ngài.
Chúng ta cần phải ngắm nhìn Chúa Giêsu trên Thập tự giá để biết tội lỗi nghiêm trọng của chúng ta đã gây ra điều gì. Chúng ta không thể tự cứu mình khỏi tội lỗi bằng nỗ lực của chính mình, nhưng chính tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, Đấng đã gánh lấy tội lỗi con người và chịu chết, sẽ đem lại cho chúng ta liều thuốc giải độc cứu rỗi. Để được cứu độ, chúng ta cần ngắm nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt đức tin, một đức tin thấm nhuần trong lối sống hàng ngày. Đó là điều Thánh Gioan bày tỏ ngay sau những lời giải thích về chiều sâu tình yêu của Thiên Chúa. Ngài nói với chúng ta: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi” (Ga 3:18). Ngài mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta rằng giống như những người ở Giêrusalem trước thời lưu đày đã từ chối lắng nghe các ngôn sứ, thì chúng ta hôm nay cũng có thể không lắng nghe Chúa Giêsu: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Thánh Gioan giải thích bản án đó: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3: 20). Ngắm nhìn Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá bằng con mắt đức tin có nghĩa là đi vào sự thật của Thập Giá. Điều đó có nghĩa là cùng Chúa Giêsu bước vào ánh sáng, bỏ lại bóng tối tội lỗi phía sau, sống một đời sống công chính trước mặt mọi người, thực hiện mọi sự trong Thiên Chúa: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3: 21).
Sự cao vời của lòng Chúa xót thương
Nhìn vào Thập Giá bằng ánh sáng đức tin có nghĩa là nhận ra nơi Thập Giá tình yêu thương xót vô giá của Thiên Chúa. Sự cứu rỗi của chúng ta đã được mua bằng cái chết của chính Chúa Giêsu. Chúng ta không xứng đáng được Ngài chết thay cho, nhưng vì xót thương chúng ta nên Ngài đã chết vì chúng ta. Thánh Phaolô tập trung vào điều này trong bài đọc thứ hai hôm nay. “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Chúa Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Ngài đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Chúa Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6).
Trong buổi suy niệm Kinh Truyền Tin ngày 15 tháng Ba năm 2015 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải nghĩa tình thương xót của Thiên Chúa được nhìn thấy trên Thập giá. “Đừng bao giờ quên điều này, Thiên Chúa giàu lòng thương xót.… Thập Giá Chúa Kitô là bằng chứng cao cả nhất về Tình Yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta: Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta cho đến cùng (Ga 13:1), nghĩa là không chỉ vào giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế, nhưng cho đến giới hạn tột cùng của tình yêu. Nếu trong công cuộc tạo dựng, Chúa Cha đã ban cho chúng ta bằng chứng về tình yêu cao cả của Ngài bằng cách ban cho chúng ta sự sống, thì trong cuộc khổ nạn của Người Con, Ngài đã ban cho chúng ta tất cả mọi bằng chứng: Ngài đã đến để chịu đau khổ và chết cho chúng ta. Và tình yêu quá lớn lao này chính là lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta, Ngài tha thứ cho chúng ta. Với lòng thương xót của mình, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả và Thiên Chúa luôn tha thứ.”
Toàn bộ mục đích của Mùa Chay là đưa chúng ta đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô trên Thập Giá, để Thiên Chúa giàu lòng xót thương làm cho chúng ta giàu lòng thương xót, giúp chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần đón nhận lòng thương xót đó đến mức nào và sau đó chia sẻ lòng thương xót đó một cách hào phóng với người khác. Thực hiện điều này là cần thiết để chúng ta bước vào niềm vui mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta. Niềm vui tột cùng của chúng ta là tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và vì tình yêu của Thiên Chúa là lòng thương xót của Ngài, do đó chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được niềm vui trọn vẹn của Chúa Kitô khi chúng ta đón nhận và chia sẻ lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người. Đời sống của chúng ta là để thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta: “tin vào Con Thiên Chúa để khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Chúng ta cần phải bước qua cánh cửa của lòng thương xót và đưa nhiều người khác qua cùng cánh cửa đó, như Thánh Phaolô căn dặn: “Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu của Ngài đối với chúng ta trong Chúa Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Ngài. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Chúa Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10).
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16).
Có nhiều người nghĩ rằng, muốn được vào Thiên Đàng, thì chỉ cần TIN vào danh Chúa Giêsu Kitô MC4-B197
Có nhiều người nghĩ rằng, muốn được vào Thiên Đàng, thì chỉ cần TIN vào danh Chúa Giêsu Kitô thôi là nắm chắc trong tay tấm Visa vào Thiên Quốc hưởng hạnh phúc đời đời chẳng cùng. Amen!
Bạn có nghĩ như vậy không? Nếu bạn nghĩ như vậy thì…bạn đã LẦM TO rồi!
Tại sao lại lầm to? Vì qua Kinh Thánh và qua Giáo Huấn của Mẹ Giáo Hội, tôi biết chắc chắn rằng, muốn được hưởng ơn cứu độ, thì người ta cần phải hội đủ ít nhất là ba điều kiện sau đây:
1. PHẢI LÃNH NHẬN BÍ TÍCH RỬA TỘI: Đây là điều kiện tất yếu, bởi vì Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ của Ngài rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16:15-16).
2. PHẢI LÃNH NHẬN BÁNH TRƯỜNG SINH, tức là siêng năng Rước Lễ: Vì chính Chúa Giê-su đã phán: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:51).
3. THỰC THI ĐỨC BÁC ÁI, bởi vì trong ngày phán xét chung,Đức Giêsu Vua vinh hiển chỉ ban phần thưởng Nước Trời cho những ai đã thực thi đức bác ái khi còn ở trên dương thế này mà thôi “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:34-36).
Bạn thân mến, nếu bạn đồng ý với tôi rằng, muốn được hưởng ơn cứu rỗi, ngoài việc TIN vào Danh Chúa Giêsu Kitô, chúng mình còn phải LÃNH NHẬN BÍ TÍCH RỬA TỘI – LÃNH NHẬN BÍ TÍCH THÁNH THỂ & THỰC THI ĐỨC BÁC ÁI, thì trong mùa Chay này, và trong những ngày tháng còn lại của cuộc đời, bạn và tôi hãy cố gắng:
1. SỐNG ĐỜI CẦU NGUYỆN.
• Khi thức giấc xin hãy tạ ơn Chúa, xin Chúa chúc lành cho ngày mới và cho tất cả mọi công việc trong ngày.
• Trước khi xe lăn bánh, xin hãy thưa với Chúa rằng, xin Chúa bảo vệ và gìn giữ con trên đường được bằng an.
• Trước khi làm việc, khi bắt đầu vào hãng xưởng hay mở cửa tiệm, hay lúc đến trường…xin hãy thưa với Chúa, xin cho con làm mọi công việc với lòng nhiệt thành, vui vẻ và với tất cả trách nhiệm.
• Trước khi ăn, xin hãy dùng một vài giây thinh lặng để cám ơn Chúa.
• Trước khi đi ngủ, gia đình cùng nhau cầu nguyện, đọc qua bài đọc của Thánh Lễ ngày hôm sau, hoặc lần Chuỗi Mân Côi (nếu được 5 chục thì tuyệt, nếu không, một chục kinh thôi thì Đức Mẹ và Chúa Giêsu cũng vui rồi!).
2. SIÊNG NĂNG THAM DỰ THÁNH LỄ & RƯỚC LỄ.
• Xin đừng nghĩ rằng Chúa ở khắp mọi nơi, không cần phải đến nhà thờ, chẳng cần phải đi dự Lễ… Việc đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ rất cần thiết bởi vì là con cái Chúa, chúng mình đến gặp gỡ Cha của mình, đến để tạ ơn Ngài, vì Ngài đã ban cho chúng ta quá nhiều phúc lộc.
• Khi đến tham dự Thánh Lễ, bạn và tôi hãy chuẩn bị dọn mình cho xứng đáng để Rước Lễ. Được ở với Chúa, và được ở trong Chúa ngay ở đời này, thì ngày sau hết, chúng mình sẽ được ở với Ngài trên Thiên Quốc.
3. RỘNG RÃI & QUẢNG ĐẠI LÀM VIỆC BÁC ÁI, BỐ THÍ.
• Tích cực giúp đỡ cho giáo xứ hay cho cộng đoàn qua việc dạy tiếng Việt, dạy giáo lý, nấu thức ăn bán gây quỹ, làm vệ sinh nhà thờ, giữ gìn trật tự an ninh, cắt cỏ, tỉa cây, tưới cây, làm tờ thông tin, in ấn …
• Ghi danh tham gia vào ca đoàn, Hội Legio Mariæ, Phạt Tạ Thánh Tâm, Bà Mẹ Công Giáo… để qua các Đoàn thể này bạn có cơ hội đến thăm hỏi, an ủi và đỡ nâng những người yếu đau bệnh tật, cô thế cô thân …
• Rộng rãi đóng góp cho quỹ điều hành của giáo xứ, quảng đại việc công đức trong các Thánh Lễ trọng, và các ngày Chúa Nhật cho Chúa và Giáo Hội ít là một giờ lương của bạn, chứ chỉ dâng cúng mỗi tuần có $1 thôi thì… kỳ quá, người đời coi còn chưa được nữa, huống hồ chi là Chúa?
• Ghi danh tham gia vào các Hội Bảo Trợ Ơn Gọi của các địa phận và các Dòng tu để qua đó, bạn có cơ hội giúp đỡ và cầu nguyện cho việc đào tạo ơn gọi đi tu làm linh mục và tu sĩ.
Chúng mình cầu nguyện cho nhau, để niềm tin vào Đức Giêsu Kitô của bạn và của tôi càng ngày càng bén rễ sâu hơn, và sống động hơn, qua việc cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa,siêng năng tham dự Thánh Lễ, và hăng say thực thi đức bác ái trong mọi nơi, mọi lúc và cho tất cả mọi người, nhất là những người kém may mắn hơn chúng ta. Bạn đừng quên lời của thánh Gia-cô-bê Tông Đồ: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. [Bởi vì] đức tin không có việc làm là đức tin chết!” (2:24, 26).
Chúc bạn và những người thân một tuần lễ mới vui khỏe, bình an và nhất là luôn sống đẹp lòng Chúa.
Cuộc sống là một hành trình có rất nhiều điều phải phân định để có thể lựa chọn đúng đắn. Shakespeare MC4-B198
Cuộc sống là một hành trình có rất nhiều điều phải phân định để có thể lựa chọn đúng đắn. Shakespeare nói: “Khi sinh ra, chúng ta khóc, vì chúng ta vào nơi tị nạn rộng lớn thế gian này.” Còn Jean Jacques Rousseau nói: “Con người sinh ra tự do nhưng ở đâu cũng bị xiềng xích.” Thảo nào người ta nói: “Đời là bể khổ!” Nhưng đau khổ lại có giá trị cao, và là “thập giá” mà Chúa Giêsu muốn chúng ta vác đi theo Ngài. (x. Mt 10:38; Mt 16:24) Thật vậy, sự hy sinh nhỏ nhất cũng có giá trị lớn trong mắt Chúa. (Nhật Ký Faustina 639) Chính đường thập giá dẫn tới Thiên Đàng, nhưng vác thập giá hay không là quyền tự do của mỗi người. Tùy ý chọn.
Đau khổ liên quan nước mắt. Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị cao. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15) Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3:16-18)
Đau khổ như cỏ dại, cứ diệt chỗ này nó mọc chỗ khác, cứ diệt đợt này lại mọc đợt khác. Chắc chắn không thể diệt khổ. Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua” nó, muốn nhẹ lòng thì cứ khóc. Chẳng ai thương mình hơn mình thương ta, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu. (Lc 23:28)
Đã đành người khác kết án mình, nhưng mình tự kết án mình mới là điều đáng nói. Thánh Gioan cho biết: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3:19-21) Rất rõ ràng và rạch ròi.
Thật tuyệt vời với những giọt lệ sầu như nước mắt ăn năn của Thánh Vịnh gia, (Tv 35:14; Tv 56:9; Tv 102:10) nước mắt sám hối của người phụ nữ tội lỗi, (Lc 7:38) nước mắt mặn chát của Phêrô, (Mt 26:75; Mc 14:72; Lc 22:62) nước mắt cay đắng của Phaolô, (2 Cr 12:21) nước mắt yêu mến của các phụ nữ thành Giêrusalem, (Lc 19:41) vì nước mắt là một trong tám mối phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5:5) Ước gì mỗi chúng ta có được những giọt nước mắt ấm nồng như vậy, đặc biệt trong Mùa Chay này!
Cái gì cũng có điều kiện ắt có và đủ. Để được Thiên Chúa xót thương, người ta phải ăn năn sám hối thật lòng chứ không hình thức, được thể hiện qua động thái KHÓC. Hãy cùng Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông.” (Tv 39:13) Người biết khóc chắc chắn sẽ được Thiên Chúa xót thương cứu độ. Ngài sẽ giải thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4) cho chúng ta.
Có nhiều loại nước mắt. Nước mắt nào cũng mặn, thường biểu hiện nỗi buồn, hiếm khi biểu hiện niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.” (Cây Thông) Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu,” nhưng lại thường thấy loại này. Loại nước mắt quý giá là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm. Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà,” NS Ngô Thụy Miên mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…” Đó là tình yêu đôi lứa. Chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng.” Giọt Nước Mắt Ngà của Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, nhưng quý lắm vì giọt nước mắt đó hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…” Màu buồn mà vẫn đẹp đẽ, sắc tím mà vẫn lung linh. Ôi, nước mắt ân tình Mùa Chay!
Khi mặc xác phàm, Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô: Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, (Ga 11:33) khi đi đến mộ Ladarô, (Ga 11:35) khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. (Ga 11:38)
Có nhiều thứ tùy ý chọn, nhưng khóc thì không thể, mà phải có cảm xúc thực sự. Sinh ra ai cũng khóc, “tiên báo” rằng đời là bể khổ. Khóc cần thiết cho cuộc sống, như phần cứng được cài đặt mặc định trong máy vi tính với dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, vẫn phải chịu đau khổ cho đến chết thê thảm. Ngài cũng đã khóc nhiều lần, buồn não lòng, và “buồn đến chết được.” (Mt 26:38; Mc 14:34)
Tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Samuel Beckett (1906-1989, Ai Len) có triết lý độc đáo: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy.” Tính liên đới rất kỳ lạ! Thật dễ dàng dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim. Nước mắt là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn hiểu hết. Chúng ta phải cố gắng để học cách nhìn lại những giọt nước mắt để có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ phải bật khóc. Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ – kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời để “lau sạch” vết tội đời.
Tội lỗi và tuổi tác tỷ lệ thuận với nhau. Càng nhiều tuổi càng lắm tội. Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng MỖI NGÀY MỘT THÊM BẤT TRUNG BẤT NGHĨA, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người HẰNG THƯƠNG XÓT dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.” (2 Sb 36:14-16) Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, kiên trì chờ đợi người ta sám hối.
Thế nhưng sự ác vẫn hoành hành, kẻ ác vẫn ngang ngược. Kinh Thánh cho biết: “Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hỏa đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sabát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.” (2 Sb 36:19-21) Mãi mãi lịch sử vẫn là lịch sử – dù trắng hay đen, dù nguyên vẹn hay bị xuyên tác. Sự thật vẫn là sự thật, không ai có thể bóp méo hoặc che giấu.
Mọi sự vẫn diễn biến theo thời gian, Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là NIỀM TIN. Chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể TỒN TẠI và CHUYỂN ĐỘNG.” Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi.” (Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử – Hùng Lân)
Văn phạm có ba “thì” (thời) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Cuộc sống cũng vậy. Mỗi người cũng có ba thời như vậy. Quá khứ đã qua, không thể thay đổi, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, vậy chúng ta chỉ còn hiện tại – và tùy ý chọn cách sống. Phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được vốn kinh nhiệm để sống hôm nay, và để hướng tới tương lai. Kinh Thánh nói: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23) Thiên Chúa mong chờ người ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi. Ai cũng có quyền tự chọn.
Thánh Vịnh gia than thở trong thời gian lưu đày: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3) Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê,” cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ thuê khấn cầu, thuê dâng lễ vật, thuê đi thi,... Thật kinh dị!
Với nỗi buồn quá lớn, Thánh Vịnh gia than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.” (Tv 137:4-6) Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn bề ngoài rất tĩnh mà trong lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động như bức tượng vậy.
Nếu không có niềm tin, người ta có thể sẽ chết vì cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Quả thật, nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ mà tự kết liễu đời mình. Họ đáng thương vì thiếu hiểu biết – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn.”
Tín nhân chúng ta còn may mắn lắm, dù đau khổ mà vẫn hạnh phúc: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính DO ÂN SỦNG mà anh em ĐƯỢC CỨU ĐỘ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta chẳng làm được gì, dù có làm được điều kỳ diệu đến mức nào thì cũng chỉ là con số không to lớn và rỗng tuếch. Đừng ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ!
Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính DO ÂN SỦNG và NHỜ LÒNG TIN mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:7-10)
Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, vì thế chúng ta khen – chê hoặc yêu – ghét người này, người nọ,… Đừng bắt Thiên Chúa theo ý của chúng ta!
Ngày xưa ai nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành, ngày nay ai nhìn lên Chúa Giêsu trên Thập Giá thì được sống. Tự chọn có vẻ đơn giản và dễ nhưng thật ra rất nhiêu khê và khó. Phải có khả năng phân định, quyết định, và nỗ lực. Nhờ ơn Chúa, ước mong chúng ta cùng nỗ lực và dìu nhau theo bước Chúa Giêsu Kitô lên Canvê, cùng Đức Mẹ đứng bên Thập Giá và cùng chết với Ngài, để có thể hoan ca Alleluia trong Đêm Phục Sinh cực thánh.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chọn Ngài, đủ mạnh mẽ và can đảm lên Canvê với Đức Giêsu Kitô để thương phận mình, yêu tha nhân, “chết” cho tội mình, và được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, vì Bửu Huyết của Con Thiên Chúa, vì Châu Lệ của Thánh Mẫu, xin cứu các linh hồn và cứu tội nhân chúng con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúa chính là Tình yêu. Một tình yêu hiến dâng, sẵn sàng hy sinh Con một mình để cứu độ nhân MC4-B199
Chúa chính là Tình yêu. Một tình yêu hiến dâng, sẵn sàng hy sinh Con một mình để cứu độ nhân loại. Đó chính là chủ đề chúng ta cùng nhau suy gẫm trong tuần này,
Trước tiên chúng ta hãy nhớ rằng Tình yêu Thiên Chúa đã trải dài qua muôn thế hệ. Tình yêu đó đã xuất hiện ngay khi Người tạo dựng. Mọi sự Người tạo dựng đều tốt đẹp và thiện hảo. Trong khi đó thế gian chưa bao giờ tùng phục và tuân theo ý của Người. Quyền lực của thế gian luôn là thế lực chống đối Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà thế gian có thể làm giảm uy lực Tình yêu của Thiên Chúa, trái lại Người càng yêu mến thế gian hơn. Người yêu thế gian đến độ sẵn sàng hy sinh con một của Người để cứu độ thế gian!
Giờ đây chúng ta cùng ôn lại công trình yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta tưởng rằng việc con người sa ngã có thể làm cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Thật ra, sự tích sa ngã trong sách Sáng thế ký không chỉ cho ta thấy sự thất bại của con người cho bằng đề cao lòng thành tín và yêu thương của Thiên Chúa, Đấng luôn đi bước trước để tìm kiếm con người.
Và để chuẩn bị cho muôn thế hệ nhận ra Tình yêu của Người, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc để diễn tả lòng thương yêu, sự quan tâm của Người dành cho đám dân được tuyển chọn đó. Đúng vậy! Tình yêu của Thiên Chúa không phải là mớ giáo thuyết, cũng không lệ thuộc vào các trải nghiệm của con người. Nhưng, tất cả đều diễn tiến qua các biến cố lịch sử, trong đó con người có thể nhận ra bàn tay can thiệp của Thiên Chúa.
Một cách cụ thể, trong bài đọc một mà chúng ta nghe hôm nay kể lại việc vua Ky-rô phóng thích, cho phép dân Israel được hồi hương, trở về tái thiết xứ sở, xây dựng lại Đền thờ Giê-ru-sa-lem đã bị sụp đổ. Qua hành động của Vua Ky-rô, xứ Ba-tư này, dân Do Thái và chúng ta nhận ra lòng yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện trong việc Người đã can thiệp để cứu thoát dân riêng của Người.
Sau đó, trên đường về đất hứa, trong sa mạc, trước các thử thách, họ than van và chẳng còn nhớ đến ơn Người, lại còn đòi quay về Ai cập, cho dù ở đó, cuộc sống có khó khăn, thân phận bị ngược đãi như những kẻ nô lệ, nhưng lại có thịt để ăn; bây giờ được tự do, lại lâm vào cảnh chết đói ở sa mạc thì hơn gì.
Dân chúng mọi thời vẫn thế. Được voi đòi tiên. Đến với Thiên Chúa theo ước muốn của riêng mình. Đến khi gặp thử thách thì lại trách móc. Tuy nhiên, Thiên Chúa của chúng ta luôn trung tín, không bao giờ thất hứa. Người ban cho họ Man-na để khỏi bị chết đói, cho họ nuớc uống để khỏi chết khát.
Sau khi được no nê và không bị chết khát, họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Mai-sen. Với thái độ bất trung và phản bội như thế, một hiện tuợng đã xẩy ra cho dân, đó là biến cố rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Trong nguy cơ đó, họ mới biết sợ và năn nỉ tổ phụ Mai-sen xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Mai-sen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Hôm nay, trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã nhắc lại sự tích con rắn đồng để ám chỉ đến việc Người sẽ bị giương cao trên Thập Giá để cứu độ con người, Người phán: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, được cứu độ”. Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương và muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình. Chương trình cứu độ đã được hoàn tất bởi sự vâng phục và trao hiến của người Con, Đức Giê-su Ki-tô. Người đã bộc lộ cho thế gian nhận biết Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian đến dường nào.
Nhưng, tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Cho dù chúng ta không có mặt cùng thời với Đức Giêsu, nhưng không vì thế mà lợi ích của chúng ta nhận được lại thua kém những người cùng thời với Người.
Thật ra, các môn đệ và những ai sống cùng thời với Đức Giê-su cũng giống như chúng ta, phải chờ đến ánh sáng Phục Sinh, và nhất là duới quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần rồi họ mới tin để nhận ra rằng nơi Người ơn cứu độ chứa chan. Đó là hồng ân của đức tin, một sự đáp trả không chỉ bằng lời nói, nhưng qua cách sống, một lối sống hoàn toàn phụ thuộc vào quyền năng của Đức Ki-tô, mà với lòng tin, chúng ta tôn vinh Người là Chúa. Còn những ai không tin, họ không bị kết án bởi Thiên Chúa, mà chính họ tự kết án chính mình, bởi vì họ ngoan cố, bướng bỉnh, chỉ muốn tự mình làm chủ và loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.
Còn đối với những ai tin thì cuộc sống của họ lệ thuộc vào Đấng mà họ tin thờ. Niềm tin của họ là một sự đáp trả không dựa vào ngôn từ mà còn bằng việc làm. Thật đúng như lời của Thánh Gia-cô-bê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải đuợc biểu lộ bằng hành động, qua lối sống của một con người đến để yêu thương.
Nói cho cùng thì Tin rồi Yêu và càng Yêu thì càng Tin. Đó chính là lối sống của người môn đệ. Chúng ta không bộc lộ, không diễn tả tình yêu của riêng mình. Nhưng, tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trong mọi tình huống, trong mọi giai đoạn, ngay cả những lúc yếu đuối nhất… để mà buớc đi và quảng bá cho thế gian biết rằng Tình yêu của Chúa vẫn trường tồn trong lối sống của mình.
Thật vậy, trong thân phận của những người môn đệ, chúng ta hãnh diện và xác tín rằng: chỉ có tình yêu mới làm cho con người sống trong hy vọng về một tương lai tươi đẹp hơn những gì mà chúng ta, cùng với mọi thành phần trong Hội Thánh, đang phải đối diện.
Bởi vì,
Tình yêu luôn mở ra các cơ hội cho con người đến và giao tiếp với nhau.
Tình yêu là cánh cửa mở ra cho con người bước vào.
Tình yêu là động lực giúp chúng ta cùng bước để loan báo, không chỉ bằng lời mà còn bằng cuộc sống chứng từ của mình rằng: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng sống vì người mình yêu".
Thật vậy, Đức Giêsu đã tuyên bố như thế và Người đã sống chính Lời Người nói ra bằng việc đi đến cùng con đường Người tự chọn để thể hiện Tình Yêu của Người. Cái chết trên thập giá diễn tả mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng... Chết cho Tình Yêu để rồi sống mãi cho Tình Yêu.
Ngày hôm nay, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật vui để mừng đón mầu nhiệm Vượt Qua mà Đức Giê-su, Đấng đã dâng hiến chính mình, mở cửa Nước Trời cho chúng ta bước vào mà vui hưởng niềm vui được hòa giải với Thiên Chúa. Đó chính là điều mà Thánh Gio-an nói với chúng ta hôm nay rằng Thiên Chúa đã cho đi tất cả mà không hề do dự hay nuối tiếc, ngay kể người Con yêu dấu của Người. Còn niềm vui nào cao trọng và tuyệt vời hơn niềm vui của Thiên Chúa, Đấng vui sướng khi làm cho chúng ta được sống lại, khôi phục mối dây yêu thương của chúng ta với Người và với nhau.
Vì thế, với niềm tin vào sự hiện diện của Đức Kitô, cảm nhận được tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa, Đấng đã trao ban cho chúng ta người Con duy nhất của Người. Chúng ta hãy tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa và tha nhân? Người đang chờ đợi và mong muốn lối sống hy sinh, yêu thương và phục vụ hết mình của Người được tiếp tục qua cuộc sống của mỗi tín hữu, trong đó có bạn và tôi, tất cả mọi người không loại trừ một ai. Cầu xin cho nhau thực hiện được điều mong ước của Chúa, Amen.
Bầu khí căng thẳng gây nên do việc Đức Giê-su đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền Thờ chưa lắng MC4-B200
Bầu khí căng thẳng gây nên do việc Đức Giê-su đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền Thờ chưa lắng dịu (x. Ga 2,13-25, Tin Mừng Chúa nhật tuần trước), thì ông Ni-cô-đê-mô, một kỳ mục trong dân Do-thái, đã đến tìm gặp Người. Ông tới ban đêm, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gio-an, điều này mang một ý nghĩa biểu tượng: đang ở trong bóng tối, Ni-cô-đê-mô tìm tới ánh sáng.
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài “phải tái sinh”. Đức Giê-su tuyên bố: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,3). Trước thắc mắc của Ni-cô-đê-mô (c.9): “Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” Đức Giê-su đáp: chuyện sinh lại bởi ơn trên có thể thực hiện được nhờ việc Con Người được giương cao. Con Người ấy chính là Con Một Thiên Chúa đã ban xuống vì quá yêu thương thế trần (x. 3,10-17). Thành thử ai tin vào Người Con ấy thì được cứu thoát, lãnh sự sống muôn đời, còn ai không tin thì tự chuốc lấy án phạt (3,18-21).
Thiên Chúa Đã Tự Ý Trao Ban
Để nêu bật việc Con Người được giương cao, Đức Giê-su trước hết nhắc lại một điển cố-dấu chỉ trong Cựu Ước: con rắn đồng nơi sa mạc (x. Ds 21,4-9). Ai trong con cái Ít-ra-en vì kêu trách và thiếu tin vào Thiên Chúa mà bị rắn độc cắn phải thì cứ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng, sẽ được toàn mạng. Để tránh lối giải thích ma thuật, sách Khôn ngoan sau này sẽ viết: “Bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do bởi vật họ nhìn, nhưng là do chính Đấng cứu độ muôn người hết thảy” (Kn 16,7).
Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ: đó là Đức Giê-su, Phương dược, Nguồn sống, Ơn cứu độ của Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa Cứu Độ. Người cũng sẽ “được giương cao”, vừa bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá, vừa bởi Thiên Chúa, Đấng nâng Người lên trong vinh quang thần linh (x. Ga 8,28; 12,32-34). Để những ai nhìn lên, nghĩa là tin vào, thì được cứu độ.
Nguồn gốc của hành vi cứu độ này nằm ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa đối với thế gian: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Ở trung tâm của tất cả mọi sự, đặc biệt là vai trò Đức Giê-su và con đường thập giá, ta đều thấy tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Lời khẳng quyết trên nêu bật hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương cách tuyệt đối và mãi mãi. Tình thương thần linh đó đi trước mọi sự, bao trùm mọi sự và chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và ơn trường sinh.
Như thế ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu tử của Người: “Đức Ki-tô là sự sống, thế mà Người đã bị treo trên thập giá. Đức Ki-tô là sự sống, thế mà Người đã tử vong. Nhưng trong cái chết của Người, sự chết đã chết. Khi Đức Ki-tô chết, sự sống đã tiêu diệt sự chết, nguồn sung mãn của sự sống đã chôn vùi sự chết, sự chết đã bị nuốt chửng trong thân xác của Người. Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng sẽ nói điều đó, trong ngày sống lại, khi hát khúc khải hoàn: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?”... Như những ai nhìn lên con rắn đồng không phải chết vì rắn cắn, thì những ai lấy đức tin mà chiêm ngắm cái chết của Đức Ki-tô, cũng sẽ được chữa lành khỏi vết thương tội lỗi. Nhưng những kẻ đó được cứu chữa cho khỏi chết, để được sống đời này, còn Đức Ki-tô thì nói với chúng ta: để được sống đời đời, sống vĩnh cửu” (thánh Augustinô).
Con Người Được Tự Do Đón Nhận
Nhưng tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa bày tỏ qua Đức Giê-su Con của Người, luôn kêu mời con người tự do đáp trả, đón nhận. Và nó đòi một sự đáp trả ngay lúc này. Bởi lẽ ngay từ bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện.
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp Người, mù quáng chẳng muốn nhận ánh sáng, chấp nhận chìm đắm trong tối tăm, và như thế là bị luận phạt. Dĩ nhiên đây là một án phạt do con người tự mình chuốc lấy chứ không phải do Thiên Chúa trả thù. Có ai sống trong tội lỗi mà tâm hồn được bình an, mà làm cho những kẻ quanh mình được hạnh phúc? Có ai chống lại Trời mà yêu thương người một cách chân thật? Có xã hội duy vật vô thần nào mà trong đó chẳng có tham nhũng, hối lộ, bóc lột, đàn áp, che giấu, dối trá tràn đầy? Có hiến pháp hay chính sách nào gạt Thiên Chúa ra bên lề xã hội và đàn áp hay trói buộc tôn giáo mà đất nước phát triển, dân tình an vui, mọi vấn đề xã hội được giải quyết ổn thỏa? Việc chống lại Thiên Chúa bao giờ cũng mang đến hậu quả tai hại lập tức cho cá nhân và xã hội, chẳng cần đợi tới Ngày cuối cùng. Bởi lẽ từ khước Thiên Chúa là từ khước tình yêu, từ khước sự sống. “Không có Trời, ai ở được với ai?”
Hoặc ngược lại, cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của chúng ta “sẽ được thực hiện trong Thiên Chúa”, sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
Tóm lại, “sự sống vĩnh cửu và luật phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt. Cả hai được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi con người gặp gỡ Đức Giê-su. Tin vào Đức Giê-su, lập tức được sống ; trái lại, từ khước tin Người, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn) mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng từ 'bị xét xử'“ (X. Léon-Dufour).
Phải chăng như vậy là nói rằng những người ngoài Ki-tô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giê-su, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gio-an nhìn nhận rằng việc gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn nhiều ; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử hẳn đã nghĩ tới vấn nạn trên khi viết: “Kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. Công đồng Vatican cũng nêu rõ trong hiến chế Ánh sáng Muôn dân số 16: “Những kẻ vô tình không nhận biết Tin Mừng của Chúa Ki-tô và Giáo hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc của mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi. Cả những kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi. Thực vậy, Giáo Hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi họ như để chuẩn bị họ lãnh nhận Tin Mừng, và như một ân huệ mà Đấng soi sáng mọi người ban cho hầu cuối cùng họ được sống”.
Một vị vua hỏi viên tể tướng hết lòng yêu mến Chúa của mình, giọng chế nhạo: “Đức Chúa Trời nắm hết quyền bính trên trời và dưới đất, tại sao không dùng sức mạnh đánh thắng Xa-tan, cứu loài người khỏi tội, mà phải đích thân giáng thế?” Viên tể tướng mỉm cười yên lặng. Nhà vua lấy làm đắc ý vì câu hỏi. Một hôm vua dạo thuyền cùng đám cận thần trên hồ. Hồ sâu rộng, có vách đá cao dựng đứng. Viên tể tướng cho thuộc hạ đẽo một hình người bằng gỗ, bận xiêm y của hoàng tử vào. Từ núi cao, thuộc hạ ném “hoàng tử” xuống nước trước mặt vua. Trông thấy thế, vua rú lên kinh hoàng, quên cả long bào nặng nề lao mình xuống nước về phía “hoàng tử”. Vua suýt chết đuối nếu không nhờ đám cận thần cứu vớt, vì vua quên cả chuyện mình không biết bơi. Việc xong, viên tể tướng hỏi: “Tâu Bệ hạ, vừa rồi xung quanh Bệ hạ đầy đủ cận thần tài giỏi, cớ sao Bệ hạ không sai khiến mà phải liều long thể đến thế?” Vua đáp: “Vì tình yêu! Ta yêu con ta, nó sắp chết mất và ta không thể đứng yên được”. Viên tể tướng ôn tồn giải thích: “Tâu Bệ hạ, Thiên Chúa cũng thế. Người cũng yêu nhân loại như cha yêu con. Người cũng không thể đứng yên nhìn con người đang chết mất trong tội lỗi. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đã sai Đức Giê-su xuống trần và chịu nạn chịu chết để đền thay và cứu vớt nhân loại vậy”.