Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-B Bài 151-200 Hạt lúa mì có mục

Thứ tư - 17/03/2021 09:42
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-B Bài 151-200 Hạt lúa mì có mục nát mới trổ sinh hoa trái
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-B Bài 151-200 Hạt lúa mì có mục nát mới trổ sinh hoa trái
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 5 MC-B 151-200: Hạt lúa mì có thối đi thì sinh nhiều hạt
----------------------------------    
Mục Lục:

Phúc Âm: Ga 12, 20-33: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”. 2

MC 5-B151: Lẽ sống chết 3
MC 5-B152:  Hạt lúa chết đi 5
MC 5-B153: HÀNH TRÌNH SINH TỬ.. 7
MC 5-B154: Hạt giống vâng phục - Huệ Minh. 11
MC 5-B155: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 14
MC 5-B156: Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác. 16
MC 5-B157: Phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu phục vụ. 19
MC 5-B158: HẠT LÚA MÌ GIEO XUỐNG ĐẤT.. 21
MC 5-B159: Chuyện sống – chết 22
MC 5-B160: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 26
MC 5-B161: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 28
MC 5-B162: Huyền nhiệm sự sống”. 31
MC 5-B163: Giao Ước Mới 33
MC 5-B164: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 37
MC 5-B165: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 41
MC 5-B166: Dẫu là Con Thiên Chúa. 48
MC 5-B167: Chết để sống. 50
MC 5-B168: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 51
MC 5-B169: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 53
MC 5-B170: Chúa Nhật 5 Mùa Chay. 56
MC 5-B171: Khát khao gặp Chúa. 58
MC 5-B172: Giao ước tình thương. 61
MC 5-B173: Bước đường theo Chúa. 63
MC 5-B174: HẠT LÚA VÙI CHÔN.. 66
MC 5-B175: HẠT LÚA “THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI”. 68
MC 5-B176: CHUẨN BỊ CHẾT.. 71
MC 5-B177: THEO THẦY.. 75
MC 5-B178: MẸ LẠNH LẮM PHẢI KHÔNG?. 77
MC 5-B179: NỖI LÒNG CHA.. 78
MC 5-B180: ĐƯỢC TÔN VINH.. 79
MC 5-B181: HIẾN TẾ.. 81
MC 5-B182: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B.. 82
MC 5-B183: HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT THỐI ĐI 83
MC 5-B184: CHỊU MỤC NÁT HAY VẪN TRƠ TRỌI?. 87
MC 5-B185: HẠT LÚA GIEO VÀO LÒNG ĐẤT.. 88
MC 5-B186: AI YÊU QUÍ MẠNG SỐNG MÌNH THÌ SẼ MẤT.. 91
MC 5-B187: CHẾT LÀ KHỞI ĐẦU ĐỜI SỐNG MỚI 92
MC 5-B188: ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH.. 94
MC 5-B189: HẠT LÚA MỤC NÁT VÀ TRỔ SINH HOA TRÁI 96
MC 5-B190: THẦN THÁI CỦA KITÔ HỮU.. 99
MC 5-B191: VINH DANH.. 102
MC 5-B192: CHIÊM NGƯỠNG DIỆN MẠO CHÚA GIÊSU KITÔ.. 104
MC 5-B193: GẶP GỠ ĐỨC KITÔ, ĐẤNG CỨU ĐỘ.. 109
MC 5-B194: HIẾN LỄ MỚI 110
MC 5-B195: GIAO ƯỚC MỚI 114
MC 5-B196: ĐỨC GIÊ-SU, ĐẤNG KIỆN TOÀN GIAO ƯỚC.. 116
MC 5-B197: Chết đi để sống tình yêu đích thực. 118
MC 5-B198: GIỚI THIỆU ĐỨC KITÔ: TRỌNG TRÁCH CỦA MỖI KITÔ HỮU.. 120
MC 5-B199: “NẾU HẠT LÚA KHÔNG CHẾT ĐI”. 122
MC 5-B200: HẠT GIỐNG MỤC NÁT TRỔ SINH HOA TRÁI?. 125

---------------------------------

 

Phúc Âm: Ga 12, 20-33: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”.


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: “Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu”. Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào. - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------

 

MC 5-B151: Lẽ sống chết


– Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:25).

 

Từ một câu chuyện có thật: Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được  MC 5-B151


Từ một câu chuyện có thật:

Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.
Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.
Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và đang nằm chờ chết.
Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:
- Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình nơi này.
Sundar đáp lại:
- Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.
Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã tiếp tục cuộc hành trình.
Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.
Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.
Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.
Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời.” (Theo lời kể của William Bausch)
“Sự sống thoát thai từ nỗi chết,” một linh mục đã nói như thế. Mà đúng lắm, trong thực tế của đời người, để sự sống tiếp diễn, sự chết đã phải xảy ra không ngừng. Khi chấp nhận nỗi đau thương mất mát trong cái chết, mầm sống mới được phát sinh ra và triển nở. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” là vậy.
Khi chỉ biết lo cho sự sinh tồn của mình mà làm ngơ trước nỗi khổ đau của kẻ khác, khi chỉ chú trọng đến lợi ích riêng tư hơn là nhu cầu của tha nhân, tôi đã tự đóng khung trong chiếc vỏ trấu để rồi cứ trơ trọi giữa giòng đời. Nhưng nếu biết chết đi con người vị kỷ, tôi sẽ có được một mầm sống mới làm phát sinh bao niềm hy vọng của một mùa gặt thành công.
Thói ích kỷ trong tôi càng chết đi, hình ảnh Thiên Chúa càng rạng sáng. Càng cương quyết chiến đấu với chính mình, dung nhan Thiên Chúa càng được hiện tỏ.
Thánh Kinh có kể lại: Trong một cuộc hành hương thánh địa nhân dịp lễ Vượt qua, có sự hiện diện của một số người Hilạp. Họ là những người ngoại, có lẽ đang khao khát tìm ra Lẽ Sống của cuộc đời. Khi nhìn vào Do thái giáo, họ thấy thấp thoáng bóng hình của Lẽ Sống mà họ đang kiếm tìm. Thế rồi trong dịp hành hương đền thờ Giêrusalem lần này, họ nghe nói về một con người có tên Giêsu, nơi Ngài biết bao nhiêu tâm hồn đã tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống-từ những cô gái điếm cho đến các kẻ thu thuế tội lỗi, từ những người khốn khổ bần cùng đến các quan lính của ngoại bang…
Thế rồi những người Hilạp đã tìm hỏi và xin được “trông thấy” Đức Giêsu. Đây không phải là một sự trông nhìn thuần tuý, vì đứng đâu mà lại không thấy được Ngài. Song, họ muốn gặp gỡ, trao đổi, hiểu biết, và nhất là muốn bước vào một tương quan thân thiết với Đức Giêsu.
Trong ngôn ngữ thần học của Thánh sử Gioan, sự “trông thấy” đó luôn đi kèm với “niềm tin”. Như sau này, khi vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh, Gioan “đã thấy và tin” (Ga 20,8).
Thế nhưng trước khao khát chân thành của người Hilạp, Đức Giêsu lại trả lời với các môn đệ, những trung gian của niềm tin: “Giờ đã đến!”
Ngài đã chẳng trả lời “cho gặp” hay “không cho gặp”, Ngài chẳng bảo “đang bận” hay “đợi lúc khác.” Song Ngài tuyên bố: Giờ đã đến!” Mà đây là giờ gì nếu không phải là giờ tử nạn.
Thế ra để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời con người, để tăng thêm sức sống cho các tâm hồn đang khát khao tìm kiếm Lẽ Sống, để trả lời cho tất cả mọi câu hỏi của nhân loại, Chúa Giêsu lại nói đến giờ chết. Phải chăng đó chính là giờ cao điểm của cuộc sống Ngài: bước vào sự chết để diễn tả tột cùng hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương con người-yêu thương đến độ chấp nhận cái chết “hầu thế gian được sống,” để nhân loại “thấy” được Lẽ Sống đích thật của cuộc đời.
Nhưng chính trong cái chết của Chúa Giêsu lại mang mầm một cuộc phục sinh vinh quang. Bởi vì đây là cái chết diễn tả tình yêu. Mà tình yêu thì chẳng bao giờ chết. Tình yêu sẽ bất diệt. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng những giá trị của yêu thương lắm khi không thể đo lường hay lý giải được. “Con tim có những tiếng nói mà lý trí không hiểu thấu” là vậy.
Thế nhưng, ai có dám chết cho yêu thương-yêu thương Thiên Chúa và bao người đang sống bên mình-họ sẽ dần dần khám phá ra chân dung của sự không-thể-hiểu-thấu kia. Chính khi biết tự hủy những đam mê, ích kỷ, tự mãn, tự kiêu, tự ái…, con người sẽ cảm nhận sâu xa tại sao.
“Chính lúc trao ban lại là khi nhận lãnh,
Chính lúc quên là lúc gặp lại bản thân,
Chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muốn đời.”
Và niềm vui sống này chỉ được trao ban cho những ai biết quên mình vì Yêu Thương.
 
-------------------------------

 

MC 5-B152:  Hạt lúa chết đi


 – Lm Mark Link, SJ

Chủ đề: "Nếu muốn sống và phát sinh hoa trái, chúng ta cũng phải bắt ý riêng mình chết đi tựa như hạt lúa mì bé nhỏ."

 

Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo: Vài năm trước đây, bà Catherine MC 5-B152


Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo:
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa". Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng. Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ ấy khiến bà bối rối. Bà nói: "Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!". Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật đi!". Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Ý nghĩa của câu chuyện giúp hiểu bài tin mừng hôm nay
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết ý riêng của mình đi, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa được. Nếu chị nữ tu không chết ý riêng của mình đi để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái.
Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh hoạn. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà cũng được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Câu chuyện của chị nữ tu và của bà Catherine Marshall khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani. Trong cơn hấp hối tại đó, Ngài đã thốt lên cùng Thiên Chúa: "lạy Cha…. không phải ý con… nhưng xin theo ý Cha" (Lc 22: 42). Giả như Chúa Giêsu không bắt ý riêng Ngài phải chết đi trong mảnh vườn ấy, thì anh chị em cũng như tôi sẽ không được cứu khỏi tội lỗi mình.
Tất cả những câu chuyện về chị nữ tu, về Catherine Marshall và về Đức Giêsu đều dạy cho chúng ta cùng một bài học. Chúa dạy ta biết sẵn lòng làm chết ý riêng mình đi nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Những câu chuyện có ý nghĩa gì đối với ta? Nói một cách cụ thể, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống thường nhật của anh chị em và tôi?
Chúng ta hãy xem xét vài sự kiện có khả năng xảy ra:
Giả như cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy "bắt ý riêng chết đi" có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế chết cho ý riêng có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy, thì "Chết cho ý riêng mình" có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cư xử với y.
Chết cho ý riêng mình là điều không dễ
Chị nữ tu đã không cảm thấy dễ dàng khi nói với Chúa rằng chị chấp nhận làm một kẻ tàn phế nếu ý Ngài muốn như thế. Catherine Marshall đã không cảm thấy dễ dàng khi thưa với Chúa bà sẽ chấp nhận bất cứ số mệnh nào ngài quyết định cho bà. Đức Giêsu đã không cảm thấy dễ dàng trong việc ưng thuận thi hành bất cứ điều gì Cha Ngài muốn. Nhưng cả ba người - chị nữ tu, Marshall và Đức Giêsu đã tin Thiên Chúa và phó mình trong tay Ngài. Họ đã chết "cho chính mình’ và từ đó đem lại kết quả là sinh nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Kết luận:
Tin Mừng trong các bài đọc hôm nay là. chúng ta có thể làm được như thế. Chúng ta có thể noi gương vị nữ tu, bà Catherine Marshall và Đức Giêsu. Và chúng ta cũng có thể đem lại nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Có thể chúng ta phải chiến đấu giống như vị nữ tu và Catherine đã làm, hoặc có thể chúng ta phải hấp hối như Đức Giêsu, nhưng nếu chúng ta làm như họ, chúng ta cũng sẽ mang hoa trái về cho Thiên Chúa và được sống vĩnh cửu.
Điều quan trọng là biết đặt cuộc sống chúng ta vào tay Thiên Chúa trong niềm tín thác trọn vẹn
Điều quan trọng là cứ để cho Thiên Chúa thực hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với cuộc đời của chúng ta. Và đó chính là Tin Mừng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước hạt lúa mì và biết "chết cho chính mình", chúng ta cũng sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước gương chị nữ tu, bà Catherine Marshall, và gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ mang lại hoa trái cho Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời.
Chúng ta hãy cầu nguyện để kết thúc. Xin anh chị em cùng im lặng cầu nguyện với tôi.
Lạy Thiên Chúa là cha chúng con. Trong khi chúng con chuẩn bị cùng bẻ bánh với nhau, xin hãy giúp chúng con nhận ra rằng.
Nếu những hạt lúa mì không bị xay thành bột và nếu những trái nho riêng lẻ không bị ép thành rượu, chúng con sẽ không thể chia sẻ với nhau tiệc thánh này.
Xin giúp chúng con bắt chước hạt lúa và chùm nho, biết dâng chính đời sống chúng con cho Ngài để tuỳ Ngài định đoạt theo thánh ý Ngài.

-----------------------------
 
 

MC 5-B153: HÀNH TRÌNH SINH TỬ

 
 

Thi sĩ kiêm nhà viết kịch Bertolt Brecht (1898 – 1956, Đức) nhận định: “Cái đáng sợ không phải MC 5-B153


Thi sĩ kiêm nhà viết kịch Bertolt Brecht (1898 – 1956, Đức) nhận định: “Cái đáng sợ không phải là CHẾT, mà là SỐNG RỖNG TUẾCH”. Rất lạ mà chí lý! Sống – Chết là một vòng đời, Sinh – Tử là một hành trình kiếp người.

Là phàm nhân, ai cũng một lần sinh và một lần chết, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định với con người: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19). Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất của con người, thế nhưng cái chết lại không đáng sợ như chúng ta tưởng, mà đáng sợ nhất là “cái chết ngay khi còn thở” – tức là sống mà như chết, sống rỗng tuếch, sống thừa, sống không có mục đích.

Người Việt Nam có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể là TỐT hoặc XẤU, người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Người ta cũng nói: “Chết vinh hơn sống nhục”. Sống nhục là chết khi còn sống. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.

Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, SỐNG là Đức Kitô, và CHẾT là một mối lợi” (Pl 1, 21), và ông nói về Đấng mà ông tin yêu: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8). Chết đời tạm này để có thể sống đời vĩnh hằng.

YÊU ĐỂ SỐNG

Cuộc sống luôn cần yêu và được yêu. Như vậy, yêu là sống và sống là yêu – yêu để mà sống. Qua miệng ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa tuyên phán sấm ngôn: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ítraen và nhà Giuđa một GIAO ƯỚC MỚI, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31, 31-32). Rất lạ, bởi vì Giao-Ước-Mới này hoàn toàn khác với giao ước đã ký kết với tiền nhân. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ítraen, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31, 34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31, 34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu, và phải yêu để sống!

Và như chúng ta được biết, Giao-Ước-Mới đó mệnh danh là Tân Ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5, 44; Lc 6, 27 và 35). Coi bộ “căng” dữ nghen. Vâng, không dễ chút nào! Thế nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51, 3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề: Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33, 11a). Vả lại, Ngài KHÔNG làm ra cái chết (Kn 1, 13).

Mặc dù đã được tha tội rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch (giống như “vết sẹo” vậy), thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51, 12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51, 14-15).

YÊU ĐỂ CHẾT

Chắc chắn cuộc sống KHÔNG THỂ thiếu vắng tình yêu thương. Sống để yêu, sống vì yêu, và sống là yêu, nhưng cũng vì yêu mà chết. “Sống để yêu” là điều dễ hiểu, nhưng lại khó hiểu khi nói rằng “chết là yêu, để yêu và vì yêu”, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng điều đó vẫn là sự thật minh nhiên.

Mong muốn điều gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi” chứ? Chính Đức Giêsu Kitô, khi còn sống kiếp phàm nhân, Ngài cũng đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là Ngài thoát đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” bằng cách “đi xuyên qua cái chết”, được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô nhằm củng cố đức tin cho chúng ta – những người đang trên đường lữ hành trần gian, đi từ cõi sinh và sẽ đến cõi chết.

Nói về Đức Kitô, Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5, 8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, tập tành văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon, … Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm, gọi là “khổ luyện”. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên NGUỒN ƠN CỨU ĐỘ VĨNH CỬU cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5, 9).

Có mấy người Hy Lạp đồng hành trong số những người lên Đền Thờ Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12, 21). Một ước muốn tuyệt vời, và chắc chắn Ngài không từ chối bất cứ ai. Câu nói của người Pháp rất thú vị: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12, 23).

Sau đó, Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trải tấm lòng: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12, 26).

Là Thiên Chúa mặc xác phàm và theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên Ngài tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12, 27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12, 28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài ý thức trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Khi đó, có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12, 28b).

Bất ngờ nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó ngạc nhiên, nhưng có người cứ tưởng chỉ là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12, 30). Vâng, giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22, 53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12, 31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!

Mọi sự có vẻ khác lạ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32). Ngài nói như vậy để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – mặc dù rất thân tín – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu mà Ngài dành cho chúng ta!
Trong suốt hơn 30 năm làm người, hẳn là chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để từ giã. Nói để chia tay. Nói để trăn trối. Nói như không còn cơ hội để nói. Ngài muốn nói nhiều vì muốn mọi người BIẾT YÊU THƯƠNG NHAU, yêu để sống, yêu để chết, nghĩa là yêu cả lúc sống và khi chết. Ngài đã chịu chết để chúng ta được sống – sống đời đời. Mối Sinh và Mối Tử khép lại một Vòng Sinh – Tử, thật kỳ diệu! Hãy vững tin, bởi vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13, 8).

Lạy Thiên Chúa, xin thương biến đổi cuộc đời con và tái tạo trái tim con nên giống Ngài hơn, để con có thể kính mến Ngài và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp con can đảm từ bỏ chính mình, dám chết với Đức Kitô để xứng đáng được phục sinh cùng với Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

-----------------------------
 
 

MC 5-B154: Hạt giống vâng phục - Huệ Minh

 
 

Cuộc sống quanh ta chuyện sinh nở là chuyện của tự nhiên, của quy luật cuộc sống. Như hạt lúa MC 5-B154


Cuộc sống quanh ta chuyện sinh nở là chuyện của tự nhiên, của quy luật cuộc sống.

Như hạt lúa rơi vào trong lòng đất không thối đi thì làm sao nó sinh mầm và sinh cây khác để cho ta được lúa để ăn?

Và rồi, trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng chỉ dùng những hình ảnh hết sức gần gụi, hết sức bình dị như thế để nói về Nước Trời, để nói về kho tàng trên trời ... và để nói về chính mình. Có khi Chúa Giêsu ví mình như con chiên hiền lành bị mang đi làm thịt nhưng có khi Chúa Giêsu ví mình như hạt lúa như trang Tin Mừng hôm nay.

Hết sức giản đơn, Chúa nói: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".

Nói như thế vẫn  sợ các môn đệ không hiểu để rồi Ngài lại giải thích thêm: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta".

Chúa Giêsu không còn úp mở gì nữa. Nói như thế nghĩa là Chúa cho biết rằng Chúa phải chết cách nào.

Cả cuộc đời Chúa Giêsu và nhất là cái chết của Chúa Giêsu đó chính là cuộc đời và cái chết của sự vâng phục.

Trong thư Do Thái, chúng ta vừa nghe: Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.

Trong thư Philip, Thánh Phaolô đã nói rõ:

 Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)

Vâng phục chính là đặc tính, là căn cốt của cuộc đời Chúa Giêsu. Hạt lúa mục nát nơi đời Chúa Giêsu đã vào trần gian sống cả cuộc đời bằng đời sống vâng phục.

Ta, là những người đi theo Chúa, ta cũng được mời gọi sống như hạt lúa mì đàn anh, hạt lúa mì anh Trưởng, anh Cả của ta đó chính là Chúa Giêsu.

Thật sự mà nói, thử thách nhất đời con người đó chính là sự vâng phục, vâng lời Thiên Chúa.

Nhìn suốt chiều dài lịch sử cứu độ, thấp thoáng đâu đó cho ta hình ảnh, cách sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa trên đời mình. Các vị chứng nhân anh dũng đã sống đời vâng phục trong mỗi cảnh sống của mỗi người.

Thấp thoáng ta vẫn thấy hình ảnh của Abraham. Abraham đã trọn đời vâng lời Thiên Chúa để lên đường mà đi và chẳng biết mình đi đâu cả. Cứ đi và cứ đi theo lời của Thiên Chúa. Và bi đát, đỉnh điểm nhất đời ông đó chính là việc sát tế đứa con đầu lòng và là đứa con duy nhất của đời ông. Dẫu thử thách đến tột cùng như thế nhưng ta thấy Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để sát tế đứa con yêu của mình.

Ta vẫn thấy hình ảnh của một Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở bên đời. Sống trong 4 bức tường của đan viện đầy dẫy những khó khăn thử thách nhưng Têrêsa vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác đời mình trong lòng bàn tay của Chúa.

Hay gần ta, ta thấy một hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã sống trong thân phận tù đày và đặc biệt là biệt giam nhưng Ngài đã không hề một tiếng kêu ca phàn nàn ai oán. Sống như thế, Ngài không những đã rèn luyện mình nhưng Ngài đã làm cho những người cai ngục cảm nhận được một Thiên Chúa vâng phục trên đời của Ngài.

Thật sự không phải dễ sống đời vâng phục chịu đựng như thế bởi lẽ ta cũng là con người. Là con người. ai ai cũng mang trong mình yếu đuối của phận người để rồi ta muống chứng tỏ mình với người khác. Ta muốn chứng minh rằng ta tự do, ta có quyền trên người khác và rồi ta muốn làm gì thì làm và không cần biết cũng như chẳng cần vâng phục ai cả. Đó cũng chỉ là cái lý của ta nhưng ta vẫn còn đó một Đấng để ta vâng phục đó chính là Thiên Chúa.

Bình gốm làm sao qua khỏi bàn tay của thợ gốm đó chính là Thiên Chúa. Cuộc đời của ta từng phút từng giây ở trong lòng bàn tay của Chúa nhưng đôi khi ta bé cái lầm, ta tưởng rằng ta định đoạt được cuộc đời của ta. Thế nhưng, thật sự trong sâu lắng của cuộc đời, chỉ cần một cơn gió thoảng, dù làn gió biến đi cũng không còn mang vết tích. Thân phận mong manh mỏng dòn của đời ta là thế đó nhưng mấy ai chân nhận ra sự mong manh mỏng dòn của đời ta.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã gợi lên cho ta thân phận của Ngài. Dù Ngài là Thiên Chúa đó nhưng Ngài đã sống vâng phục và vâng phục cho đến bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá.

Đời của ta một ngày nào đó cũng trở về với lòng đất mẹ. Thế nhưng, chuyện quan trọng là ta có phải là hạt giống biết vâng phục thánh ý của Thiên Chúa như Chúa Giêsu hay ta tự cao tự đại.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta biết học thế nào là bài học vâng phục mà chính Chúa Giêsu đã học và đã sống. Có như thế, khi ta nằm xuống ta mới sinh được hoa quả của cuộc đời vâng phục.

-----------------------------
 
 

MC 5-B155: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 
 

Để chuẩn bị tinh thần cho các Môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần tiên báo về cuộc khổ nạn và MC 5-B155


Để chuẩn bị tinh thần cho các Môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Nhưng đi liền với lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết thì Ngài cũng cho biết “ngày thứ ba” Ngài sẽ sống lại. Như thế, đau khổ và sự chết như là điều kiện tất yếu để Ngài bước vào ngày phục sinh.

Chính vì vậy, qua bài Tin mừng hôm nay, sau khi nhắc tới nguyên lý của hạt lúa mỳ phải mục nát đi thì mới sinh bông hạt, Đức Giêsu khẳng định: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. “(Ga 12,25).

Thoạt nghe, nhiều người cho rằng lời khẳng định của Đức Giêsu có vẻ rất nghịch lý với cuộc sống. Bởi vì, bình thường không ai ghét mạng sống mình bao giờ, nhưng trái lại họ yêu và rất yêu mạng sống của mình. Họ chăm sóc mạng sống ấy bằng nhiều cách thế khác nhau: ăn uống, ăn mặc, trang điểm, đi khám bác sĩ và nhiều hình thức khác nữa. Thực ra, biết yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân không phải là điều xấu. Nếu làm đúng cách thì đó lại còn là một thái độ rất tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở thái độ yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân mình mà quên mất tình thân, quên mất tình người, quên mất những bổn phận khác thì sẽ trở thành người xấu. Khi Đức Giêsu nói “ai yêu sự sống mình thì sẽ mất” ám chỉ những người chỉ lo cho mình mà không màng chi đến người khác. Những người chỉ muốn nhận mà không biết cho. Họ là những người ích kỷ giống như chiếc ao tù đọng không có sự sống.

Hơn nữa, lời dạy của Đức Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài muốn nói tới sự sống linh hồn của chúng ta. Để được sống phần linh hồn, mỗi người chúng ta cần phải chết đi cho tội, chết đi tính ích kỷ. Để có sự sống phần linh hồn có khi chúng ta cũng phải chấp nhận chết đi sự sống phần xác vì phải hiến thân, phải quên mình, đúng như lời khẳng định của Thánh Phanxicô Assisi trong lời kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. “Vì thế, giáo huấn của Đức Giêsu không nghịch lý nhưng là một chân lý. Chân lý này đã được chính Ngài thực hiện một cách trọn vẹn trong cuộc sống. Chính Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận mục nát đi để sinh ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.”(Pl 2,6-9).

Thật vậy, vì vâng lời Chúa Cha và để cứu độ nhân loại, Ngài đã chấp nhận sống mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình từ khi nhập thể cho đến khi chịu chết trên thập giá để được sống lại vinh quang. Ngài sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm con nuôi của Thánh cả Giuse, sống 30 năm với nghề thợ mộc tại làng Nazaréth như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm ra đi rao giảng Tin mừng: Ngài rao giảng và làm phép lạ để cứu giúp nhiều người. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Cao điểm của sự phục vụ ấy là việc Ngài rửa chân cho các môn đệ vào tối trước ngày Thứ năm tuần thánh. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn chịu chết để cứu độ nhân loại. Như vậy, Đức Giêsu là hạt lúa mỳ chịu mục nát đi để đem lại sự sống cho nhân loại chúng ta. Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để cho nhân loại được sống.

Noi gương Đức Giêsu, có rất nhiều vị thánh cũng đã chấp nhận hy sinh, chấp nhận làm hạt lúa mỳ mục nát đi để người khác được sống. Đó là sự hy sinh của Thánh Maximilianô Kolbê đã chấp nhận chết thay cho người tử tù được sống. Đó là sự hy sinh của Mẹ Têrêxa Caculta và các nữ tu thuộc dòng của mẹ, suốt cuộc đời vì những người nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề xã hội tại các khu ổ chuột. Đó là sự hy sinh của các Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ đã dâng hiến đời mình vì hạnh phúc và phần rỗi của tha nhân. Đó là sự hy sinh của những người vợ người chồng vì hạnh phúc của người bạn đời. Đó là sự hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ vì niềm vui và hạnh phúc của con cái. Đó là sự hy sinh cho nhau của anh chị em ruột thịt trong gia đình. Và còn biết bao tấm gương hy sinh khác trong đạo ngoài đời mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Nếu tìm kiếm trên mạng, chúng ta sẽ đọc được những câu chuyện rất cảm động về sự hy sinh đó. Chẳng hạn: Cha lấy thân làm "bao cát" để kiếm tiền cứu con; Đôi vợ chồng già ăn xin kiếm tiền nuôi con ăn học; Đóng giả làm đàn ông suốt 43 năm để dễ kiếm việc làm, nuôi con khôn lớn; Mẹ già bán cầu từ tinh mơ để kiếm tiền nuôi con; Người mẹ làm đôi chân cõng con đi học mỗi ngày; Mẹ 90 tuổi chăm con bại não suốt 50 năm…Và câu chuyện sau đây cũng phần nào cho chúng ta thấy sự hy sinh cao cả của một cậu bé 8 tuổi.

Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền. Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm. “Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được sống! (Sưu Tầm)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh để cứu độ chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa. Ngoài Chúa ra, còn biết bao nhiêu người khác cũng đã hy sinh vì chúng con, xin Chúa trả công bội hậu cho các vị ân nhân đó. Xin cho mỗi chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Amen.

-----------------------------
 
 

MC 5-B156: Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
 
 

Vào dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Đền thờ mừng lễ. Dân chúng rước Ngài long trọng và tung MC 5-B156


Vào dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Đền thờ mừng lễ. Dân chúng rước Ngài long trọng và tung hô Ngài là Đấng Mêsia. Có mấy người Hy Lạp tòng giáo cũng đi dự lễ, họ ngỏ ý muốn gặp Ngài. Họ nói với Philipphê. Ông này bối rối không biết nghĩ sao, đến nói với Anrê. Cả hai cùng đến với Chúa và trình bày cho Ngài biết ý định của mấy người Hy Lạp.

Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng nói lên những lời mang nhiều ẩn ý. Vừa như độc thoại vừa nói với các môn đệ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. “Đến giờ” là giờ nào?

Trong Tin Mừng Gioan từ giờ được nói đi nói lại nhiều lần. Từ này chỉ có nghĩa chung chung, là lúc chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Chúa Giêsu không bao giờ làm gì theo ý Ngài, chính Ngài cũng đã xác nhận như thế. Ngài đến trong trần gian là thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha vì “ý Cha là muốn cứu rỗi mọi người”. Giờ của Ngài chính là giai đoạn mà Chúa Cha đã ấn định. Chỉ một lần, Ngài đi trước ý Cha khi Ngài chấp nhận theo yêu cầu của Mẹ Ngài trong tiệc cưới Cana. Vâng lời Mẹ cũng như vâng lời Cha, vì Mẹ cũng có quyền.

Nhiều lần người Do Thái muốn bắt Ngài, nhưng vẫn không thể được vì “giờ Ngài chưa đến”. Giờ của Ngài cũng là lúc chấp nhận chịu treo trên thập giá và cũng là lúc phục sinh vinh hiển.

Trong giây phút này, lúc những người Hy Lạp đến xin gặp Ngài, Chúa lại tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Có liên hệ gì với những người Hy Lạp này?

Được tôn vinh có nghĩa là được những dân tộc khác biết đến. Tôn vinh không thể hiểu theo nghĩa trần thế mà theo viễn tượng của Thiên Chúa. Những người ngoại được hưởng ơn cứu độ như người Do Thái. Họ đang khao khát và họ được no đầy. Họ muốn gặp Ngài và gặp Ngài là gặp Đấng cứu độ. Tôn vinh chính là hồng ân cứu độ được lan tràn cho mọi người, kể cả những người ở xa.

Nhưng Chúa Giêsu đi xa hơn khi nói đến hạt lúa mì chết đi để sinh bông hạt. Ngài chính là hạt lúa mì được gieo vào luống cày đẫm máu của nhân loại. Tôn vinh chính là chết đi để sống lại, để sinh nhiều bông hạt. Tôn vinh chính là chấp nhận theo ý Cha đến tận cùng, là tình yêu đã nên trọn vẹn. Ngài chấp nhận chết đi cho mọi người, đó là cách Ngài tôn vinh Cha Ngài, là cho mọi người biết Chúa Cha đã yêu thương trần gian như thế nào.

Và đây chính là định luật của tình yêu. Mọi người đều được mời gọi đi vào tình yêu hiến dâng đó: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời”. Chúng ta xem sự chết như một mất mát lớn, vì chúng ta bám vào sự sống như một sở hữu vô giá. Chúa Giêsu ngược lại, Ngài xem cái chết như một hiến tế, như một cử chỉ yêu thương tột đỉnh. Còn chúng ta lại ngại nói đến cái chết, chúng ta sợ chết. Chúa Giêsu không coi trần gian này như một tài nguyên quí giá mà là dụng cụ của tình yêu. Ngài xem mình như hạt lúa thôi, được gieo vào trần gian, lệ thuộc vào trần gian, vào những mùa màng của nhân loại, của các nền văn minh và chờ ngày lúa chín. Ngài chấp nhận những mùa đông của lịch sử và đợi mùa xuân để phục sinh.

Ngài mời gọi chúng ta đi vào lối bước của Ngài: “Ai phục vụ Thầy, hãy theo Thầy”. Theo Thầy, mục nát với Thầy để cùng Thầy mang lại hoa trái.

Ngài chấp nhận tất cả và biết rõ tất cả. Nhưng làm sao khỏi xao xuyến khi Ngài mang lấy xác thịt như chúng ta: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Một lời thật não nuột! Tiếng kêu thương của một con người yếu đuối đứng trước gánh nặng của vâng phục, nhưng đầy yêu: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”. Tiếng than thở như một lời cầu cứu. Một ngày nào đây, Ngài cũng nói lại như thế: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này”. Nhưng sau cùng vẫn là vâng phục: “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. ““Nhưng không theo ý con mà theo ý Cha”. Tất cả tình yêu của Chúa Con được chứa đựng trong một vài câu ngắn ngủi này. Và hơn nữa: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Tôn vinh Danh Cha bằng sự vâng phục trọn vẹn của con. Tôn vinh Danh Cha bằng cách chịu giương cao lên khỏi mặt đất. Vì lúc ấy, con sẽ kéo mọi người lên với con”. Đó là ý muốn của Cha. Đó là tình yêu của Cha đối với trần gian, đã ban người Con Một.

Trong giờ phút ấy, cái chết ô nhục đã hiện rõ trong tâm trí của Ngài. Mọi sự đã được quyết định và sự vâng phục đã trở nên như một dấu hiệu tình yêu không phai tàn. Chính trong cái chết ô nhục mà “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Đây chính là cuộc chiến thắng vẻ vang làm vinh danh Chúa Cha. Chính Cha đã xác nhận bằng một tiếng nói bởi trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” Thập giá ô nhục kia trở thành vinh quang vì sự vâng phục đầy yêu thương của Chúa Con.

Chúng ta cũng phải đi vào con đường thập giá mới chiến thắng sự dữ và tội lỗi. Thập giá mới là vũ khí hữu hiệu nhất để diệt trừ thủ lãnh thế gian. Tự nhiên chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận thập giá. Chúng ta bám ghì vào thế gian, vào cuộc sống nhàn hạ dễ dàng. Chúng ta muốn hưởng thụ hơn là hy sinh.

Chúng ta có muốn gặp Chúa như những người Hy Lạp kia không? Hay chúng ta lại tránh né, sợ Ngài đòi hỏi chúng ta hy sinh? Hay chúng ta đã quá quen với Ngài rồi, Ngài không còn hấp dẫn nữa? Thế gian với những sự sung sướng của nó hấp dẫn hơn?

Chúng ta đã tin Ngài rồi, đã được gần gũi với Ngài nhiều rồi, cây thập giá của Ngài không còn gây sự chú ý nữa. Mấy người đã nhìn đó như dấu hiệu tình yêu tuyệt hảo, tình yêu dám liều mạng vì bạn hữu? Mấy người dám tôn vinh Ngài như Ngài đã tôn vinh Chúa Cha bằng chính sự vâng phục tuyệt đối của Ngài?

Chúng ta sắp bước vào Tuần thánh là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu mà cũng là cực kỳ quan trọng đối với chúng ta là những người đã nhìn lên Đấng được giương cao, vì nơi Ngài, chúng ta được cứu chuộc, được chữa lành, được trở thành con của Chúa Cha. Hãy nghe tiếng mời gọi của Ngài, hãy theo Ngài đến nơi Ngài chịu giương cao, cùng với Mẹ Maria thông phần vào đau khổ của Ngài để được sống lại với Ngài vinh quang. Chỉ khi nào chúng ta chịu theo Ngài, chúng ta mới được ở với Ngài, vì Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy.

Theo Ngài, chúng ta phải mang lấy thân phận hạt lúa mì, thối đi, bị dìm trong lòng đất nhân loại, nhưng cây lúa sẽ mọc lên và sinh nhiều bông hạt. “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Dù chúng ta bị chôn vùi nhưng hy vọng vẫn không bao giờ hao hụt vì chúng ta tin vào Đấng là sự sống và là sự sống lại. Ngài được giương cao không phải chỉ là chết mà sống lại vinh hiển. Và chúng ta cùng chết với Ngài sẽ được sống lại với Ngài. Đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta, những kẻ tin vào Ngài, phục vụ Ngài và Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài, trong tình yêu của Cha muôn thuở.

Và khi chúng ta chấp nhận chết với Ngài thì chính Ngài sẽ đến với chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng thịt máu Ngài, để ngay hôm nay, chúng ta đã được ở cùng Ngài trên thiên đàng. Thiên đàng đó chính là Ngài, hôm nay và mãi mãi.

-----------------------------
 
 

MC 5-B157: Phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu phục vụ


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)
 
 

Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2015, Đức Thánh Cha Phaxico nói rằng: “Mùa Chay là thời gian MC 5-B157


Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2015, Đức Thánh Cha Phaxico nói rằng: “Mùa Chay là thời gian thuận tiện chúng ta để cho Chúa Kitô phục vụ mình - nhờ đó chúng ta trở nên giống Ngài hơn, mỗi khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Nơi đó chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Thân Mình Chúa Kitô. Trong thân mình này, không có chỗ cho thói vô cảm rất thường chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta. Vì ai thuộc về Chúa Kitô thì cũng thuộc về một thân mình duy nhất và trong Chúa chúng ta không được dửng dưng đối với nhau. “Vì nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau; và nếu một chi thể được vinh dự thì mọi chi thể đều được chia sẻ niềm vui ấy” (1 Cr 12,26) (số 1). Vì thế Ngài kêu gọi Giáo Hội, giáo xứ, cộng đoàn và từng cá nhân hãy gạt bó thói vô cảm dững dưng với tha nhân đặc biệt là những người nghèo khổ nhất trong xã hội hôm nay thay vào đó phải sẵn sàng phục vụ, yêu thương và chăm sóc họ vì họ là thân mình Chúa Kitô.

Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay nói rõ: Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. “(Ga 12, 26). Chúa Giêsu coi việc phục vụ là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống với Thiên Chúa và tha nhân. Qủa thế, Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa: Mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua việc phục vụ rửa chân cho các môn đệ, chịu nạn, chịu chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Là Kitô hữu, chúng ta trước hết rập theo Chúa Giêsu: chuyên tâm cầu nguyện, phục vụ Lời Thiên Chúa (Cv 6,4), rồi lo việc tế tự và rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16) với “tất cả lòng khiêm nhường dù có gặp nhiều gian nan thử thách” (Cv 20,19). Điều đáng lưu ý rằng chúng ta phục vụ Thiên Chúa như con cái của Ngài, chứ không phải người nô lệ (Gl 4,4-7) vì chúng ta phục vụ trong sự mới mẻ của Thần Khí chứ không phải trong sự cũ kỹ của chữ viết (Rm 7,6), ngõ hầu chúng ta được Chúa Cha chúc phúc và mời đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho chúng ta từ thuở tạo thiên lập địa (Mt 25,34).

Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy nhưng “Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người” (Mc 10,45). Cho nên, cả đời Ngài là một chuỗi hành vi phục vụ con người. Ngài phục vụ như một người nô lệ, một tôi tớ: cúi mình xuống thật sâu để mặt mình ngang hàng với chân của học trò và thậm chí kẻ phản bội mình (Ga 13,1-15) để rửa chân.

Còn chúng ta có làm được như thế cho mọi người nhất là những người nghèo, người khuyết tật, bệnh nhân hay tù nhân không, chúng ta có khả năng tươi cười, tha thứ yêu thương hay phục vụ họ như bao người khác không? Chắc chắn Chúa Giêsu phải có một trái tim yêu thương cao thượng đến tột độ mới phục vụ chúng ta như thế! Chúa Giêsu lại ban cho chúng ta tình yêu cao quí đó qua việc chúng ta liên kết và hợp nhất với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, cùng hiệp thông với Chúa Thánh Thần. Giờ đây, chúng ta hãy cất bước vào đời thi hành tinh thần phục vụ mọi nơi, mọi lúc và trong từng việc chúng ta làm; phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ, và phục vụ tất cả vì Chúa Kitô. Vì vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta không yêu thương người ta, không ao ước phục vụ người ta, hãy tự hỏi lòng mình rằng: liệu Chúa Giêsu Kitô có thật sự ở trong tôi không? Và tôi có phải là môn đệ Chúa Kitô không? Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

Vì vậy, cũng trong sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi: “Mỗi cộng đoàn Kitô hữu được kêu gọi ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những người ở xa Giáo hội. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Giáo hội không co cụm vào mình, nhưng được sai đến với mọi quốc gia và mọi dân tộc” (số 3). Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Mùa Chay này chúng ta hãy cầu xin Chúa: Xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa” (Kinh cầu Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu) để có được một con tim mạnh mẽ và biết xót thương, ân cần và quảng đại mà phục vụ anh chị em đang cần chúng ta giúp đỡ để đừng rơi vào cám dỗ của nạn toàn cầu hóa thói vô cảm hôm nay. Amen.

-----------------------------
 
 

MC 5-B158: HẠT LÚA MÌ GIEO XUỐNG ĐẤT


Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng.

"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt".
 
 

Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt giống đức tin MC 5-B158


Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt giống đức tin sinh nhiều hoa trái. Giáo Hội Việt Nam, chỉ là một Giáo Hội còn non trẻ, đã hiến dâng bao nhiêu người con suốt ba thế kỷ bắt đạo, cho đến nay, con số ấy vẫn không ai biết chính xác. Bất cứ ở đâu trên mảnh đất châu Á này, nếu Đức tin được rao giảng, thì ở đó lại thấm đẫm dòng máu các anh hùng Tử đạo. Con số các thánh Tử đạo càng tăng lên theo cấp số nhân nếu ta quay nhìn cả Giáo Hội hoàng vũ qua mấy ngàn năm nay. Hình như không có thời buổi nào, không có thế kỷ nào, không có Giáo Hội địa phương nào mà không bắt đầu được sinh ra từ máu Tử đạo. Những năm gần đây, Đức Thánh Cha đã phong khá nhiều vị thánh, hầu hết các vị thánh ấy là các thánh Tử đạo của thời đại mới. Máu các thánh Tử đạo cứ tiếp tục đổ xuống, càng đổ bao nhiêu, đức tin càng lớn, sức sống của Giáo Hội Chúa Kitô càng căng tràn và mạnh mẽ bấy nhiêu. Chúa Kitô, Hạt Lúa Mì Anh Trưởng đã rơi xuống đất, làm nảy sinh vô vàng hạt lúa, và những hạt lúa từ thời đại này sang thời đại khác cứ tiếp tục trổ sinh bông hạt. Bởi thế có một nguyên tắc rất kỳ diệu, rất nhiệm mầu, nhưng đã trở nên rất bình thường: Giáo Hội càng bị bắt bớ khốc liệt, người Công Giáo càng bị giết hại đẫm máu, thì Giáo Hội càng sống mãnh liệt và mau chóng lan rộng, đức tin của người Công Giáo càng được tôi luyện và trưởng thành bấy nhiêu.

Trong xã hội cũng có bao nhiêu vị anh hùng hiến dâng mạng sống vì công lý, vì hòa bình. Năm 1968, cả thế giới chấn động khi nghe tin Mục sư Martin Luther Kinh, người đã đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng của người da đen bị sát hại. Năm 1995, cả thế giới sững sờ thương tiếc thủ tướng Israel, ông Y Rabin, bị người Dothái quá khích giết. Họ không chấp nhận đường lối ôn hòa của ông đối với người Palestin.

Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động nhớ lại cái chết của ông Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc An, đã từng bị một thanh niên An giáo quá khích sát hại. Anh ta không chấp nhận việc ngài đã tha thứ và dạy hãy tha thứ cho người Hồi giáo. Và còn biết bao nhiêu người vì tình yêu con người, tình yêu đồng loại đã hiến dâng mạng sống như thế. Họ đã chết nhưng tên tuổi, sự nghiệp của họ vẫn sống muôn đời.

Các thánh tử đạo và những tâm hồn xây dựng hòa bình ấy chính là hình ảnh của hạt lúa mì được gieo trong lòng thế giới. Hoa quả của đức tin, hoa quả của hòa bình đang tươi nỡ khắp nơi trong Giáo Hội và trên thế giới.

Ngày nay có biết bao anh chị em nhìn vào tấm gương của các ngài mà dấn thân xây dựng, gìn giữ, bảo vệ đức tin và kiến tạo hòa bình, làm nảy sinh tình yêu khắp nơi, quên cả sức lực, quên cả bản thân để danh Chúa rạng ngờ, Nước Chúa trị đến, cuộc sống bình an, thịnh vượng hơn. Những năm gần đây, đa số những vị được phong thánh là các vị tử đạo của thời đại mới. Hóa ra, những hạt lúc mì cứ rơi xuống, rồi lại sinh hoa kết quả, hết lớp này đến lớp khác. Ngày nào đức tin còn bị bắt bớ, thế giới vẫn tồn tại bất công, sự sống bị chà đạp, ngày ấy vẫn còn những hạt lúa mì rơi xuống và vô vàn bông lúa mì trỗ sinh.

Chúa Kitô, Đấng đã sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, và sống lại vì tình yêu, luôn là mãnh lực cuốn hút muôn người hiến dâng mạng sống, và lưu danh ngàn đời. Chúa Kitô, hạt Lúa Mì cao cả làm trổ sinh vô vàn bông hạt tươi tốt...

-----------------------------
 
 

MC 5-B159: Chuyện sống – chết


(Suy niệm của Thom. Aq. Trầm Thiên Thu)
 
 

Tục ngữ Việt Nam nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái MC 5-B159


Tục ngữ Việt Nam nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể tốt hoặc xấu. Người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.

Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về “Người Ấy”: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2:8).

SỐNG LÀ YÊU

Sống là yêu, và yêu là sống. Sấm ngôn của Chúa nói qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Giao-ước-mới này khác giao ước đã ký kết với cha ông. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu!

Giao-ước-mới đó gọi là Tân ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Khó quá! Vâng, không dễ chút nào. Nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối.

Được tha rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch, thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).

CHẾT LÀ YÊU

Sống là yêu, sống để yêu, sống vì yêu, đó là chuyện dễ hiểu. Chết cũng là yêu, để yêu và vì yêu lại là điều khó hiểu, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng đó là sự thật hiển nhiên.

Muốn gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi”? Chính Đức Giêsu, khi còn sống kiếp phàm nhân, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” là được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô là để củng cố đức tin cho chúng ta.

Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).

(Ga 12:20-33) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). Một ước muốn tuyệt vời. Người Pháp nói: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12:23).

Rồi Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trút lòng ra: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).

Theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài biết trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Và rồi có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).

Nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó nghe vậy có người cứ tưởng là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12:30). Giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!

Chúa Giêsu bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – dù thân tín nhất – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu!

Có lẽ chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để chia tay. Nói để từ giã. Nói để trăng trối. Nói như không còn dịp để nói. Nhưng Ngài muốn nói nhiều để mọi người biết yêu thương nhau, yêu cả lúc sống và khi chết.

Lạy Chúa Giêsu, xin tái tạo trái tim chúng con nên giống Ngài hơn, để chúng con có thể kính mến Chúa và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp chúng con dám chết với Ngài để xứng đáng cùng Ngài phục sinh. Ngài hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

-----------------------------
 
 

MC 5-B160: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt


CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này":
 
 

Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động MC 5-B160


Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt 6,24; Lc 16,13; 14,26).

"Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa": Chữ “tôn vinh" thứ nhất ở đây quy về các "dấu chỉ" Chúa Giêsu đã thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ "tôn vinh" thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).

“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm": Khó mà hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó ("tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi"). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng nói trên.

"Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này": Giờ của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ chối Chúa Giêsu vào "giờ” này thì bị liệt vào phe của "đầu mục thế gian", đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).

"Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài": Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước hiệu "đầu mục thế gian này". Các giáo sĩ cũng gọi nó là "sar ha olam”

Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự "thế gian" (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. "Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất": Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ "nâng đầu lên": đầu của viên chánh chước tửu sẽ "được nâng lên cao" và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng "được nâng lên cao" nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan "được nhắc cao" và "được tôn dương". Có lẽ đây là nguồn gốc chữ "được tôn vinh" và “được giương cao" trong Gioan.

KẾT LUẬN

Trong đoạn này, chính “giờ" của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, "giờ" này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc "phán xét" (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến "giờ" của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.

2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp" này là những kẻ có cảm tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả "lương dân" sẽ trở thành tín hữu.

3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ "vinh quang" và "sự chết" rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.

4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.

5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: "Không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi".

-----------------------------

 

MC 5-B161: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Suy Niệm

 

Trong Tin Mừng Gioan, khi cuộc Khổ nạn gần kề, Đức Giêsu nói về bình an như quà tặng cho MC 5-B161


Trong Tin Mừng Gioan, khi cuộc Khổ nạn gần kề,
Đức Giêsu nói về bình an như quà tặng cho các môn đệ.
“Thầy để lại bình an cho các con,
Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27; 16,33).
Khi phục sinh và hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa,
Chúa Giêsu cũng ba lần chúc họ bình an (Ga 20,19.21.26).
Bình an thì ngược với xao xuyến,
nên Đức Giêsu  cũng hay dặn các môn đệ:
“Lòng anh em đừng xao xuyến hay sợ hãi!” (Ga 14,1.27).
Những lời trấn an trên đây của Đức Giêsu
dễ khiến ta tưởng Ngài suốt đời chẳng một lần xao xuyến.
Thật ra, Tin Mừng Gioan kể Đức Giêsu xao xuyến ba lần.
Ngài xao xuyến trước cái chết của Ladarô (Ga,11,33).
Ngài xao xuyến khi nói về sự phản bội của Giuđa (Ga 13,21).
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng xao xuyến
trước cái chết sắp đến của chính mình (Ga 12,27).
Ngài biết Giờ của Ngài đã đến (Ga 12,23).
Giờ Ngài được Cha tôn vinh
cũng là giờ Ngài được giương cao trên thập giá.
Đức Giêsu linh cảm về cái chết sắp đến của mình (Ga 12,33).
Điều đó khiến Ngài xao xuyến, đến nỗi không biết phải nói gì.
Nhưng Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan có sự khác biệt.
Ngài không xin Cha cất chén đắng để tránh cho mình cái chết.
Ngài tự đặt câu hỏi và tự trả lời:
“Con mà xin Cha cứu con khỏi Giờ này ư? Không đâu!
Bởi lẽ vì mục đích này mà Con đến với Giờ này” (Ga 12,27).
Đức Giêsu đã nhiều lần nói Giờ chưa đến (Ga 2,4; 7,30; 8,20).
Ngài mong Giờ ấy đến, và nay Giờ đã đến.
Xao xuyến và sợ hãi không làm Ngài thoái lui,
vì Ngài biết Cha là chủ của Giờ này.
Không để cái chết làm mình suy sụp, không để xao xuyến lấn át,
Đức Giêsu nhìn cuộc Khổ Nạn với cái nhìn lạc quan hy vọng.
Ngài ví mình như hạt lúa, rơi vào trong đất.
Cái chết của một hạt lúa là điều kiện để tạo ra muôn hạt khác.
Ngài chấp nhận cái chết và từ khước giữ sự toàn vẹn cho mình.
Hạt lúa giống sẽ biến đi để nhiều hạt khác xuất hiện.
Thật ra, cái chết không làm Ngài bị biến đi hay mất đi.
Trái lại, đó là cách Ngài giữ được mạng sống (Ga 12,24-25).
Ai coi thường mạng sống ở đời này, sẽ giữ được nó cho đời sau.
Đức Giêsu không coi cái chết là dấu chấm hết hay chấm than.
Ngài coi đó là cửa mở vào sự sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu biết mình là Ánh sáng đến trong thế gian.
Khi Giờ đến, có lúc Ánh sáng ấy như mất đi (Ga 12,35-36; 9,4-5).
Satan thủ lãnh thế gian và bóng tối có vẻ thắng thế,
kỳ thực nó “không làm gì được Thầy” (Ga 14,30).
Hơn nữa, đã đến lúc nó “sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12,31).
Cái chết nhục nhã trên thập giá là sự giương cao lên khỏi đất.
Cái chết này có sức hút mãnh liệt vì là cái chết của Ngôi Lời.
Cái chết của Con Một Thiên Chúa có sức nâng kỳ diệu,
kéo mọi người lên với Ngài chẳng trừ ai (Ga 12,32),
vì Ngài muốn những ai theo Ngài được ở bên Ngài mãi mãi.
“Thầy ở đâu, họ cũng ở đó” (Ga 12,26).
Cái chết của Đức Giêsu cho ta được ở bên Ngài trong nhà Cha.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi những cái chết,
chết mỗi ngày như hạt lúa mục nát, nằm sâu trong đất.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi bị xao xuyến,
khi đứng trước thế lực của bóng tối, của bạo quyền.
Nhưng Đức Giêsu cho chúng ta sự kiên định, bất khuất,
để luôn hy vọng và không bao giờ bỏ cuộc vì sợ hãi.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giê su,
Trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã yêu mến con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa,
Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa,
Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi Chúa đòi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
chỉ vì hạnh phúc vĩnh cửu của con thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.

--------------------------------

 

MC 5-B162: Huyền nhiệm sự sống”


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết MC 5-B162


Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết thảy đều mang trong mình sự sống. Nhờ sự sống mà muôn loài tăng trưởng và hoạt động. Tuy vậy, một điều xem ra là nghịch lý, đó là sự sống không dừng lại khi ta chết, nhưng lúc chết đi lại là lúc khởi đầu sự sống mới. Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.

Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời điểm giúp chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập giá là phương tiện qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá, tức là từ sự chết của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. Hai ngàn năm nay, Đấng chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù để thực thi đức yêu thương.

Khi nói về hạt lúa mục nát, Chúa Giêsu muốn nói về cái chết của chính mình. Người không bị tiêu diệt do sự chết. Trái lại, như hạt lúa chấp nhận mục nát rồi nảy mầm kết trái, Người cũng sẽ trỗi dạy từ nấm mồ để ban sự sống cho con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: sự chết của Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho loài người. Người đã chết để chúng ta được sống. Người đã trở nên nô lệ để chúng ta được tự do. Người đã dùng cây thập giá để cứu độ trần gian, xóa bỏ bản án nguyên tội. Thập giá vừa nói với ta về tình yêu Thiên Chúa, vừa dạy ta biết sống vì người khác để đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.

Như thế, triết lý “hạt lúa mục nát” được đề nghị cho tất cả những ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, nhìn theo lăng kính trần gian, lại là những nghịch lý:

– Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi
– Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.
– Vào giờ phút Chúa chịu khổ nạn và chết trên thập giá, cũng là lúc Người được tôn vinh.
– Khi thủ lãnh thế gian tưởng chừng như chiến thắng, chính là lúc nó bị đánh bại.
– Con Người bị treo trên thập giá, cô đơn đau khổ, lại có thể quy tụ muôn dân.

Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng. Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ chẳng còn gì để nói với chúng ta. Chính từ hạt lúa mục nát mà ta thấy sự sống mới; chính nhờ ngôi mộ trống mà chúng ta thấy niềm hy vọng.

Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.

Hình ảnh hạt lúa mì cũng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về định mệnh con người. Thiên Chúa dựng nên con người để cho họ được sống và được hạnh phúc, chứ không phải để chấm dứt với nấm mộ cô đơn lạnh lẽo nơi đồng hoang. Dưới nhãn quan của người Kitô hữu, sự chết là một cửa ngõ để họ bước vào đời sau. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu đặt cây thập giá trên mỗi nấm mồ của người thân. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ dành cho người công chính, tức là những ai mến Chúa yêu người.

Không phải đợi đến khi chết mới được hưởng hạnh phúc Chúa ban. Lời Chúa hôm nay như một lời hứa phục hồi ngay ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại. Ý tưởng này được diễn tả trong bài đọc trích sách ngôn sứ Giêrêmia: “Mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Đây là những lời an ủi của Chúa đối với dân Do Thái trong bối cảnh gian nan và tuyệt vọng. Chúa hứa với họ sẽ giúp họ hồi sinh. Mặc dù trong bối cảnh tăm tối, Chúa sẽ ban cho họ một tương lai sán lạn huy hoàng.

Thời đại huy hoàng mà Chúa đã hứa qua lời ngôn sứ Giêrêmia đã được thực hiện khi Chúa giải phóng dân Người khỏi cảnh lưu đày. Nhưng đặc biệt hơn nữa, thời đại huy hoàng ấy, Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người” (Bài đọc II).

Huyền nhiệm sự sống mời gọi chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Huyền nhiệm ấy cũng nhắc nhớ chúng ta, hãy biến đổi mỗi ngày trong hành trình phụng sự Chúa, để sự sống siêu nhiên lớn dần trong cuộc đời trần gian. Để được như thế, con người cũ phải chấp nhận chết đi. Đó chính là thông điệp của giáo huấn qua hình ảnh hạt lúa mì.

-------------------------------

 

MC 5-B163: Giao Ước Mới


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

1. Cựu Ước và Tân Ước

 

Sách Kinh Thánh của chúng ta có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước, nghĩa là Giao Ước Cũ và MC 5-B163


Sách Kinh Thánh của chúng ta có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước, nghĩa là Giao Ước Cũ và Giao Ước mới. Tuy nhiên, bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mia, là sách thuộc phần Cựu Ước, đã loan báo Giao Ước mới rồi:

Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới.

(Gr 31, 31)

Và lời loan báo Giao Ước mới, theo vị ngôn sứ, là lời của chính Đức Chúa. Vậy đâu là đặc điểm chính yếu của Giao Ước mới so với Giao Ước cũ ? Như chính Đức Chúa đã nói, đặc điểm của Giao Ước mới là Đức Chúa cam kết sẽ ghi khắc Luật của Ngài vào trong tim của con người. Như thế, Luật của Chúa, nghĩa là tất cả các giới răn có mục đích gìn giữ chúng ta ở trong Giao Ước, không còn được viết trên giấy hay khắc trên đá nữa, nghĩa là ở bên ngoài con người, nhưng là trong tim con người, nghĩa là trong chốn sâu thẳm nhất của con người. Nói cách khác, Luật của Chúa không còn là Chữ Viết nữa, nhưng sẽ trở thành Thần Khí hay Lời Nói sống động cư ngụ trong lòng chúng ta và trở nên một với chúng ta, để nuôi dưỡng và làm cho chúng ta sống. Như thế, Giao Ước mới có thể được gọi là Giao Ước tình yêu, bởi vì chỉ có tình yêu mới làm cho luật trở thành lời cư ngụ trong lòng chúng ta mà thôi. Như Đức Giêsu, hiện thân của Giao Ước mới nói: “Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4).

Nhưng tại sao Đức Chúa lại mời gọi Dân sống với Ngài bằng Giao Ước mới? Bởi vì, để giữ Giao Ước cũ, người ta phải có kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa và phải yêu mến Thiên Chúa. Và điều này cũng đúng trong mọi tương quan dựa trên lề luật của con người: để giữ luật trong gia đình, trong nhà trường, trong xã hội, trong Giáo Hội, trong đời tu, người ta phải có kinh nghiệm và dựa trên tương quan ơn huệ và tình thương. Tuy nhiên, con người đã không nhận ra tình yêu Thiên Chúa, ngang những kì công của Ngài thực hiện trong sáng tạo và trong lịch sử; vì thế, Ngài sẽ bày tỏ tình yêu đến cùng của Ngài dành cho con người nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Ngài, để xây dựng tương quan với con người dựa trên Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu. Như vậy, Đức Chúa ước ao kí kết một Giao Ước mới với Dân của Ngài, đó là bởi vì Giao Ước đầu tiên không sinh hoa trái như Ngài mong đợi.

Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi nhận ra rằng, ước ao Giao Ước mới cũng có ở nơi mọi tương quan của con người dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn, các bậc cha mẹ luôn ước ao những giáo huấn, những lời dạy bảo của mình không ở ngoài tai con cái, nhưng đi vào tâm trí của con cái ; và chắc chắn ước ao này cũng có nơi các nhà giáo, các nhà huấn luyện đối với người trẻ trong thời gian thụ huấn ; và ở một mức độ nào đó, cũng như thế, trong tương quan bạn bè và tương quan tình yêu nam nữ và tình yêu vợ chồng: người này ước ao lời của mình lưu lại mãi mãi trong tim của người kia. Khởi đi từ những kinh nghiệm nhân bản như thế, chúng ta xác tín rằng, ước ao Giao Ước mới cũng đến từ năng động tự nhiên của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài không thể không ước ao Giao Ước mới, là Giao Ước tình yêu.

2. Giao Ước Mới trong Đức Giê-su Ki-tô

Nhưng Thiên Chúa sẽ làm gì và làm như thế nào, để dẫn con người vào Giao Ước mới ? Trước hết, Ngài bày tỏ ngôi vị của mình một cách trực tiếp cho con người:

Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

(Gr 31, 34)

Và lời hứa này sẽ được thực hiện một cách tròn đầy nơi ngôi vị của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Ngang qua các Tin Mừng, vốn là điểm tới của lịch sử cứu độ được kể lại trong Kinh Thánh, được đọc, được suy niệm, được cầu nguyện và nhất là được công bố và giải thích trong Thánh Lễ, Thiên Chúa tiếp tục bày tỏ chính mình cho mỗi người chúng ta nơi Đức Ki-tô. Sự hiểu biết mới về Thiên Chúa, được mặc khải bởi Đức Ki-tô, là tuyệt đối cần thiết để yêu mến Thiên Chúa, đón nhận và sống Giao Ước mới.

Tuy nhiên, càng hiểu biết Thiên Chúa, càng nhận ra tình yêu của Ngài, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, chúng ta càng cảm thấy mình vô ơn và bất xứng. Chính vì thế, để dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Thiên Chúa còn bày tỏ mình là Đấng giàu lòng thương xót:

Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng
và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
(Gr 31, 34)

Và lời hứa tha thứ cũng sẽ được thực hiện một cách quảng đại trong máu của Đức Giê-su, nghĩa là trong cái chết của Ngài trên Thập Giá, như chính Ngài đã nói và vẫn nói lại hằng ngày trong Thánh Lễ:

Anh em hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thấy, máu Giao Ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ cho anh em và nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.

3. Con đường của hạt lúa mì

Thật là kỳ lạ, để tha tội cho loài người và từng người chúng ta, tại sao Đức Ki-tô lại phải đi con đường “đổ máu” ? Con đường mà chính Ngài cũng cảm thấy xao xuyến:

Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.

(Ga 12, 27)

Sự “xao xuyến” của Đức Giê-su còn lớn hơn nữa, theo lời kể của các Tin Mừng nhất lãm: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14, 34 ; x. Mt 26, 38 và Lc 22, 44), và theo thư Do thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5, 7)

Người xao xuyến, đó là vì với thân xác mỏng manh của Con Thiên Chúa nhập thể, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha, một khuôn mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St 3, 1-7), nhưng không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể; bởi vì lịch sử Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì công lớn lao và những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng còn khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen vào khơi dậy những cách hiểu và hành động lệch lạc[1].

Vì thế, theo ý Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha theo một cách khác, “một cách điên rồ”, nhưng là sự điên rồ của tình yêu và khôn ngoan thần linh, qua việc:

* nhận hết vào mình thân phận của loài người chúng ta,
* đảm nhận mọi số phận đầy tai họa của con người,
* gánh lấy mọi tội lỗi của loài người,
* và đối diện với chính Sự Dữ biểu dương ở mức độ tuyệt đối.

Như thế, không phải một cách trực tiếp tội của mỗi người chúng ta làm cho Chúa bị bắt, bị kết án và chịu khổ hình, đó là Sự Dữ hành động nơi những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, nhưng Chúa tự nguyện chịu khổ hình để vừa chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ và vừa bày tỏ cho mỗi người chúng ta tình yêu đến cùng của Chúa dành cho chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào. Chúng ta được mời gọi nhận ra nơi những gì Đức Giê-su mang lấy trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân chúng ta, như chúng ta là: nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; mỗi người chúng ta hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Đức Giê-su, trong ánh mắt của Đức Giê-su, trong trái tim của Đức Giê-su.

***

Để tái sinh chúng ta và dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, phải cho đi sự sống của mình. Điều này thật khó hiểu và thật khó chấp nhận, đối với người Do thái, với các môn đệ, với loài người và với từng người chúng ta. Con đường Thập Giá không chỉ khó hiểu, mà còn là sỉ nhục và điên rồ. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác.

* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.

* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì:

Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
(Ga 12, 24)

Và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào. Thiên Chúa muốn dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu trong Đức Giê-su Ki-tô, nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy, một đàng sự khao khát, nhưng đàng khác lại bất lực. Vậy chúng ta hãy nhận lời nguyện Thánh Vịnh 51 (50) làm của mình:
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một trái tim mới.
(Tv 51, 12)

-------------------------
[1] Lòng tin chỉ dựa vào phép lạ:

(1) Thiên Chúa chỉ ở trong những điều lạ thường, còn những điều bình thường, là phần lớn cuộc đời chúng ta, thì sao? Thân phận con người rốt cuộc có là ơn huệ TC không? Có là đường đi dẫn đến Thiên Chúa hay không?
(2) Không chấp nhận thân phận con người và không liên đới với thận phận của người khác.
(3) Ma quỉ sẽ lợi dụng để khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, như đã làm trong Sáng Tạo (St 3) và trong Lịch Sử Cứu Độ (Ds 21, 4-9): có điều lạ thì tin, không có thì trách móc nghi ngờ; ngoài ra, còn có những người đã ngụy tạo ra điều lạ để lừa dối mình và lừa dối nhau.

---------------------------------

 

MC 5-B164: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào? Tại sao Chúa Giêsu không MC 5-B164


Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào?

Tại sao Chúa Giêsu không trả lời?

Nếu các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương Khó hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đã nhận định ở hai bài suy niệm Chúa Nhật 3 và 4 trước đây, có một ý nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau, chẳng những ở từng chu kỳ mà còn ở cả ba chu kỳ với nhau nữa. Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những gì Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua bao gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31, nhất là 10:34). Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 3, khi Người thách dân Do Thái “hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ý nói đến cuộc Vượt Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những gì Người sẽ tỏ cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người cũng có ý nói đến riêng việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi đòn vọt, nhục nhã v.v. Sau nữa, về phần tử giá, Chúa Giêsu báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho Nicôđêmô biết rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”. Sau hết, về phần phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5 tuần này, khi Người nói với các môn đệ của Người về hình ảnh hạt lúc miến mục nát đi để sinh muôn vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên vương chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như Người cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.

Thế nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho cuộc Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái, Người cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho Thánh Linh và sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã liên kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu bài Phúc Âm tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành phần sau này vu oan cho Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của Người, và nếu bài Phúc Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này sẽ giúp vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá của Người, thì bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các môn đệ (thành phần được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn 15:27) về việc phục sinh sau khi Người trải qua khổ nạn và tử giá. Chúa Giêsu quả thực đã liên kết thân phận của các môn đệ với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay sau khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác của Người được gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người liền nói ngay đến nguyên tắc chung để có thể theo Người, theo một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình trên thế gian này thì giữ được nó cho sự sống trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt Qua này vào trường hợp môn đệ của Người, vì bấy giờ Người đang nói với các vị: “Ai phụng sự Thày thì hãy theo Thày, để Thày ở đâu, thì tôi tớ của Thày cũng ở đó”. Vấn đề “ở đâu” của Chúa Giêsu và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây, theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, thì còn chỗ nào khác ngoài trên cây thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn chủ của mình. Họ sẽ bắt bớ các con như đã bắt bớ Thày” (Jn 15:20). Tuy nhiên, chính nhờ thân phận trò hoàn toàn giống Thày như thế mà thế gian mới nhận biết Thày nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu của họ.

Phải chăng đó là lý do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến trình với Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người đã không trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người có muốn gặp những người dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người, thành phần tôi tớ phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển hình nhất là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước bên bờ hồ Tibêria (x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cảm thấy hình như Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự và hết sức muốn gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người, nhưng Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ dân Do Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo như những gì đã được Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là gián tiếp qua các môn đệ, thành phần chứng nhân của Người, thành phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến gặp Người bằng đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ chứng nhân của Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc tái sinh các linh hồn như vậy. “Ai phục vụ Thày sẽ được Cha tôn vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thày trò cùng ở một nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.

Tuy nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về thân phận Vượt Qua của cả Thày lẫn trò, Chúa Giêsu liền thảm não than lên: “Giờ đây linh hồn Thày bối rối chẳng biết phải nói sao – Chẳng lẽ Cha ơi, xin hãy cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đã đau buồn đến nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu vì nghĩ đến thành phần hư đi thế nào, thì ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một tông đồ Giuđa vô cùng đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), vì người tông đồ này chẳng những ra tay phản nộp Người mà còn tuyệt vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào lòng thương xót tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75). Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị loài người phủ nhận tình yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận tuyệt và vô đối của Người, ở chỗ, họ không tin rằng Người có thể yêu thương họ đến như thế, một tình yêu Người giành cho từng người một, và tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất để mang về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau xót ấy.

Câu trả lời của Chúa Kitô là…

Như thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những gì thuộc về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, thì không phải cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ khi Thiên Chúa Làm Người để Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy cái xót xa của mình bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến tương lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của mình nơi môi miệng loài người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26; x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một cách chính xác và thực tế hơn nữa thì cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu từ lần đầu tiên khi Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm hồn đã bị quằn quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), những giây phút “linh hồn Thày hiện nay bối rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đã thú thực trong bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đã xẩy ra trước tiên ngay trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ý Đấng đã sai Người được nên trọn, như Người đã ngoan ngoãn thân thưa với Cha Người trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha”, một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp lòng Cha đến nỗi, khi nghe thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, “bấy giờ từ trời có tiếng phán: ‘Cha đã tôn vinh danh Cha rồi và sẽ còn tôn vinh danh Cha nữa’”.

Thiên Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là gì và ra sao, nếu không phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái và những người Hy Lạp dân ngoại) biết Ngài thực sự là gì và như thế nào, như Ngài đã mạc khải tên của Ngài cho Moisen biết ở bụi cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một danh xưng Ngài đã tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của họ, từ tình trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất Hứa. Nếu danh Thiên Chúa là tất cả những gì diễn tả bản tính vô cùng chân thiện của Ngài, như Ngài đã từ từ tỏ ra cho dân Do Thái biết theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến khi Lời Nhập Thể là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, thì việc Thiên Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như Con Ngài đã thân thưa với Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đã đến rồi! Xin Cha hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy nếu Thiên Chúa tôn vinh danh mình là tôn vinh Con Ngài như thế thì “Cha đã tôn vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là lúc nào, nếu không phải là hai lần điển hình được các Phúc Âm Nhất Lãm kể lại, lần thứ nhất ở sông Dược Đăng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x Mk 1:11), và lần thứ hai ở trên núi biến hình (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ còn tôn vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc Cha làm cho Con sống lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho Con trở thành “hoa trái đầu mùa của kẻ chết để Con được toàn quyền trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).

Vấn đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài? Theo bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho biết đó là để cho con người biết: “Tiếng phán đó không phải vì Tôi mà là vì quí vị”. Bởi vì, có nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con người mới được sự sống trường sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nhưng, để con người có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này, Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Ở chỗ nào, nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38), tức là “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), “để trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục Người” như được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9), cũng là những gì chính Người đã khẳng định tiên báo ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người” được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây nghĩa là gì, nếu không phải là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi đời đời, đặc biệt trong ngày chung thẩm, đều nhìn nhận chân lý đã được Chúa Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một chân lý cũng đã được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động nhất trên Thập Giá: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Con sẽ không bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai Con Ngài đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà được cứu độ”.

---------------------------------

 

MC 5-B165: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo cùng một nét chung: ở MC 5-B165


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo cùng một nét chung: ở giữa những nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.

Gr 31: 31-34

Khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và Đền Thờ bị thiêu hủy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: “Này sẽ đến ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ nầy khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).

Dt 5: 7-9

Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cái chết của Ngài, “Đức Giê-su trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu” cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.

Ga 12: 20-33

Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tỉnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.

BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)

Chúng ta thường nghĩ rằng thuật ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ nầy vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, thuật ngữ nầy được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Thuật ngữ nầy xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.

Kinh nghiệm nầy được hình thành qua hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cách của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách nầy, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.

1. Thời kỳ hạnh phúc:

Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật”. Có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này. Sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).

Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo triệt để: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát trở lại. Chính vào thời điểm nầy mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không thể biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học nầy.
2. Thời kỳ bi thương:

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề. Vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm nầy đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu sang Ba-by-lon; Đền Thờ bị thiêu hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.

Qua tấn thảm kịch này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, thành thánh hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá. Đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị thiêu hủy, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả khi diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Nầy sẽ đến những ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới”. Đây không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trong cuốn sách luật như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng “Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”.

Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau nầy được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa” (32: 39-40).

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau.

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày tại Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).

Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Với tư cách là một người đạo hạnh thường hằng đối thoại với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Chính từ môi miệng của ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được loan báo.

BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)

“Thư gởi tín hữu Do thái” thật ra không là một “bức thư”, vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề: “thư gởi tín hữu Do thái”, xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).

Bức thư nầy được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Thượng Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu thượng tế.

Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những cuộc bách hại và mang nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư nầy chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng tự Đền Thờ như đang hiện hành cách sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố nầy, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.

Đoạn trích ngắn nầy diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.

1. Kiếp sống phàm nhân (5: 7):

Qua những lời này: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (5: 7), chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện thống thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận cùng những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” (5: 7), nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước. Để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.

2. Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9):

Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.

“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (5: 8). Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ” (5: 9). Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài tự nguyện chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tuyệt mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái” nầy.

TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).

Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.

Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốn được gặp” Đức Giê-su (12: 21). Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp của niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp nầy đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ.

Câu chuyện nầy thật cảm động. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến. Dù thánh Gioan không ghi lại nỗi xao xuyến của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến nầy.

1. Niềm tin của những người Hy-lạp:

Những người Hy-lạp nầy lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.

Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.

2. Giờ của Đức Giê-su:

Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, nay Ngài biết rằng giờ của họ đã đến, Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn nầy” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn nầy, chính là những lương dân này, họ cầu xin được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (12: 23).

Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu nầy quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn nầy cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.

Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Sọ. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và cuộc Thăng Thiên ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được hiện thực. Chúa Giê-su diễn tả chân lý nầy bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12: 24).

3. Lời mời gọi theo Ngài:

Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12: 26). Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.

Viễn cảnh con đường đau khổ nầy làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút nầy, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay: “Chính giờ này mà con đã đến!” (12: 27). Thêm nữa, một tiếng phán từ trời đem lại nguồn an ủi cho Ngài.

4. Tiếng phán từ trời:

Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời (x. Ga 1: 31-34). Đoạn văn nầy là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (12: 28). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã tôn vinh Ngài qua bảy dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện, nay Chúa Cha sẽ còn tôn vinh Ngài hơn nữa qua dấu lạ cuối cùng vĩ đại nhất, đó là Thập Giá. Điều đó nói lên sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Cha và Chúa Con trong công trình cứu độ loài người.

Đây là dấu lạ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu lạ mà người Biệt Phái đã đòi hỏi nhưng bị từ chối (x. Mt 16: 1-4)? Đức Giê-su chỉ ban dấu lạ nầy vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.

5. Cuộc chiến thắng trên Xa-tan:

Ngay khi tâm hồn xao xuyến, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu. Quả thật, ơn cứu độ mà Ngài đạt đến cho thế gian ở nơi Thập Giá sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ thoát khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng nầy: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Động từ “giương cao lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được nâng lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được siêu thăng bên cạnh Chúa Cha. Theo cùng một cách thức như vậy, Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15) và với những lãnh đạo Do thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28).

---------------------------------

 

MC 5-B166: Dẫu là Con Thiên Chúa


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

 

Đối với xã hội con người, đặc biệt trong Nho giáo, vai trò và thứ bậc quan hệ: quân - sư - phụ (vua MC 5-B166


Đối với xã hội con người, đặc biệt trong Nho giáo, vai trò và thứ bậc quan hệ: quân - sư - phụ (vua - thầy - cha [ba, bố]) được nhấn mạnh, thậm chí được truyền tụng đến tận ngày nay. Một điều theo lẽ thường tình, rằng: vua, con vua (hoàng tử) và hoàng tộc chẳng phải làm những gì thường dân làm, nhất là: vua chẳng đời nào cúi xuống ‘rửa chân’ cho người dân, và chưa bao giờ gọi dân thường là ‘bạn hữu’!

Thế nhưng, chuyện ấy lại xảy ra đối với Đức Giê-su Ki-tô đầy lòng thương xót của chúng ta. Tuy Ngài là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng “đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (x. Pl 2, 7). Chưa hết, Ngài “lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 8). Nếu theo quan điểm cấp bậc trong xã hội, hoặc tư tưởng con người, Ngài đã làm những chuyện đáng lẽ không nên làm! Đúng vậy, nhưng nếu chúng ta nhớ lại lời Ngài phán dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45); hơn nữa, “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (x. Is 55, 8), thì ắt hẳn chúng ta hiểu phần nào hành động của Đức Giê-su. Chính vì vậy, Ngài vâng theo thánh ý, chương trình, tư tưởng của Chúa Cha, và thực hiện chúng, hơn là bước theo lối riêng mình hoặc cách thức, quan điểm, quan niệm, tư tưởng của con người. Mặc khác, Ngài sống đúng mực, nhất quán với những gì Ngài giảng dạy. Ngài không hề thương thuyết, hay thương thảo, hoặc tìm con đường trung lập dễ giải, hầu làm hài lòng mọi người. Đúng hơn, Ngài dành toàn tâm toàn ý sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha, “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5, 8; x. Pl 2, 8). Noi gương Ngài, chúng ta biết vui tươi hoàn thành trách vụ, phận vụ của mình, dù mức độ đòi hỏi, yêu cầu khác nhau, nhưng ở bậc sống nào đi chăng nữa, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, Đấng mà chúng ta tín thác, tôn thờ, và cậy trông.

Dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng khi còn sống kiếp phàm nhân, với bản tính con người, Ngài “đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết…” (x. Dt 5, 7). Là con người, ai mà không sợ hãi khi đối diện với cái chết, với bức tường vô hình sau cùng của đời dương thế! Đức Giê-su cũng vậy, Ngài lo sợ, đến nỗi lớn tiếng kêu van khóc lóc, khẩn nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu trước khi chịu cuộc thương khó, tử nạn (x. Mt 26, 37-45). Tuy nhiên, Ngài vẫn một lòng vâng phục, không hề quên thực thi thánh ý Chúa Cha “…xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39). Chúng ta cùng nhớ lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a tuyên sấm trong bài đọc I hôm nay: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 33; 24, 7; 32, 39-40; x. 2Cr 3, 3; Dt 10, 16). Như thế, với bản tính con người, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Is-ra-el và với chúng ta. Ngài thực hiện cách hoàn mỹ ý định, chương trình của Thiên Chúa Cha nơi dương gian. Từ đó, soi chiếu bản thân mình, chúng ta nhận ra vô số thiếu sót, vì biết bao lần, chúng ta không thực hiện hoặc chưa sống giao ước, giới răn mà Thiên Chúa đã ghi tạc vào tâm khảm, vào lương tâm chúng ta, cũng như qua lời giảng dạy của Giáo hội, qua lời nhắn nhủ, nhắc nhở của thừa tác viên có chức Thánh!

Ngoài ra, tuy là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su Ki-tô đã trở nên hạt lúa miến, chịu gieo vào lòng đất, chịu thối đi, hầu trổ bông, sinh hoa, kết trái, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho chúng ta, cho những ai “hy sinh mạng sống mình ở đời này để được sự sống đời đời” (x. Ga 12, 25), và cho tất cả mọi người phụng sự Ngài (x. Ga 12, 26) như lời tác giả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã xác tín: “…và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (x. Dt 5, 9). Quả vậy, là những người mang danh Ki-tô hữu, những người thuộc về Đức Ki-tô, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ‘hạt lúa miến gieo vào lòng đất, chịu mục nát’, chết đi với biết bao tội lỗi, thói hư tật xấu, bỏ đàng ngỗ nghịch, vô luân, bất tuân phục Thiên Chúa, v.v…, để rồi được trổ sinh kết trái là những ơn lành, sự sống mới, ân thiêng, sức mạnh, nhiệt thành thực hiện sứ mệnh loan truyền tình Chúa, và làm chứng tá cho Ngài trong cuộc sống thường nhật.

Giờ đây, chúng ta cùng hướng nhìn lên Thánh giá Chúa chịu treo, và thầm thì nguyện cầu:

Dẫu là Thiên Chúa cao sang
Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm thế nhân.
Chịu cuộc thương khó, hiến thân
Hy sinh tử nạn, thánh ân tuôn tràn.
Xin cho con bước hiên ngang
Một đời theo Chúa, bình an cõi lòng.
Vai mang thập tự, cậy trông
Trung thành, tín thác, khát mong tâm hồn.
Chúa phục sinh, Đấng chí tôn
Ân ban trìu mến, thiên môn mở đường. Amen!

--------------------------------------

 

MC 5-B167: Chết để sống


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

 

Chúa Nhật V Mùa chay năm B, chúng ta được nghe một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất MC 5-B167


Chúa Nhật V Mùa chay năm B, chúng ta được nghe một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ được nó cho cuộc sống đời đời”. (Ga 12, 24-25).

Đọc những lời lẽ này của Chúa, tôi cảm thấy dường như Ngài đang muốn thức tỉnh nhân loại. Nhân loại chúng ta đang ngủ mê trong một cuộc sống hời hợt bên ngoài. Chúng ta tưởng mình sống mà thực ra không phải. Chúa muốn giúp ta nhận ra đâu là cuộc sống đích thực, đâu là cuộc sống giả tạo. Hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Sau một thời gian, nó mục nát đi rồi nảy mầm thành một cây lúa trổ sinh nhiều bông hạt. Nếu nó không mục nát đi thì nó chỉ trơ trọi và rồi cũng tan biến đi. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Còn con người chúng ta thì sao?

Đôi khi tôi băn khoăn và tự hỏi: Tôi đang sống hay tôi đang chết? Chúa bảo tôi phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Vậy đâu là những gì tôi phải chết? Và đây là một vài điều.

Trước hết, tôi phải chết đi cho con người nhỏ nhen ích kỷ. Là con người, tôi thường có tâm lý cạnh tranh hơn thua. Thấy người khác hơn mình một chút, nhiều khi tôi không chịu đựng được. Tôi muốn được giàu có, được tài giỏi, được nhiều người biết đến và nhìn mình bằng một ánh mắt nể trọng. Tôi muốn và luôn luôn muốn một cái gì đó. Đôi khi những điều tôi muốn chỉ nhằm thỏa mãn cái tôi huênh hoang và hống hách của bản thân mình. Tôi muốn triệt hạ đối thủ để được nổi lên. Và Chúa bảo tôi phải giết chết đi con người đó nếu tôi muốn sống thật.

Thứ đến, tôi phải chết đi cho những suy nghĩ của mình. Con người tôi lúc nào cũng suy nghĩ miên man. Suy nghĩ giống như con ngựa bất kham luôn làm tôi căng thẳng. Tôi không sao ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình. Suy nghĩ về bản thân, về người khác, về quá khứ, về tương lai, về cơm áo gạo tiền, về gia đình, quê hương, dân tộc, thế giới…. thôi thì đủ loại. Ôi suy nghĩ và suy nghĩ! Dường như con người luôn ở trong dòng suy nghĩ miên man vô tận. Chúa bảo tôi phải ngưng dứt được cái dòng suy nghĩ miên man vô tận đó thì mới có thể tiến vào miền thinh lặng vĩnh cửu. Chỉ khi tôi ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình, tôi mới thực sự kết nối được với nguồn sống đích thực đang tràn trào trong tôi. Chỉ khi dòng suy nghĩ miên man dừng lại, tôi mới có cuộc sống đích thực.

Sau cùng, tôi phải chết đi cho những khái niệm ảo tưởng về thời gian. Thời gian chỉ như một tấm biển chỉ đường. Nó không có quyền gì chi phối tôi cả. Thế nhưng, nhiều lúc tôi bị vướng vào cái vòng luẩn quẩn của thời gian. Nhiều người bị ám ảnh về quá khứ. Quá khứ như một bóng ma lúc nào cũng đè nặng trên cuộc đời của nhiều người. Có những người triền miên đau khổ về quá khứ của mình. Không bao giờ họ tìm được cho mình một giây phút bình yên. Tôi tha thiết cầu xin những người nào đang ôm ấp và ngụp lặn trong đau khổ của quá khứ, hãy buông bỏ và tha thứ cho bản thân mình đi. Còn tương lai thì sao? Bao người ngày hôm nay quá ưu tư về tương lai. Tôi sẽ làm gì sau khi ra trường? Làm thế nào để kiếm tiền nhanh nhất? Tôi sẽ sống ra sao nếu…? Tất cả những điều đó không phải là điều chính yếu của cuộc sống. Hãy chặt đứt tất cả những ảo tưởng phù phiếm của thời gian đó đi. Hãy tiến vào và sống giây phút hiện tại này. Hãy luôn sống trong trạng thái ý thức của hiện tại. Cuộc sống bao la vô tận sẽ mở ra trước mắt chúng ta. Hiện tại và chỉ có hiện tại thôi mới là vĩnh cửu.

Lạy Chúa, Chúa dạy con phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Xin cho con biết chết đi cho tất cả những ảo tưởng mà con hay quơ góp. Và chính khi con chết đi là khi con được vui sống muôn đời. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B168: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

 

Trong cuộc sống, mỗi khi chúng ta muốn trao tặng cho những người mà mình thương mến, quý MC 5-B168


Trong cuộc sống, mỗi khi chúng ta muốn trao tặng cho những người mà mình thương mến, quý trọng thì chúng ta trao ban cái gì, điều gì và diễn tả tình yêu thương quý mến của chúng ta ra sao? Chắc hẳn, ai trong chúng ta cũng đã và đang có những cung cách, thái độ riêng biệt của chính mình. Vì yêu thương chúng ta, nên Thiên Chúa trong một cách thế rất đặc biệt, Ngài đã biểu lộ và diễn tả tình thương của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Ngài trao ban chính tình thương của Ngài cho chúng ta, ngay khi chúng ta là những người con tội lỗi, ngỗ nghịch, bất xứng với chính Thiên Chúa là Người Cha của mình. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn tả cho chúng ta cách mà Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ, chứng minh tình yêu của Ngài cho chúng ta.

Trong bài đọc một, Tiên tri Giêrêmia đã diễn tả cho chúng ta biết Thiên Chúa đã yêu thương dân của Ngài ra làm sao. Khi suy niệm về lời minh chứng này của Giêrêmia, làm tôi nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Mỗi lần tôi có lỗi phạm gì, thường thì ba mẹ tôi kêu về, bắt quỳ xuống hỏi tội; sau khi nhận ra tội của mình, mẹ tôi thường hỏi, với tội nặng như thế này thì đáng phạt bao nhiêu roi?  Tôi thường hay trả giá, dẫu biết rằng tội mình đáng phải bị phạt nhiều roi, nhưng chỉ nói khoảng cỡ 5-7 roi thôi. Mỗi lần như vậy, Mẹ không bao giờ đánh hết những roi mà tôi muốn phạt, nên thường để dành lại 2-3 roi và nói: Tội thì tạm tha, nhưng lỗi thì để dành, xem có biết ăn năn hối lỗi hay không thì sẽ đánh tiếp. Và thế là khi giờ ăn đến, vì còn mắc nợ mẹ mấy roi, nên tôi ngồi vào bàn ăn mà mắt không dám ngước lên nhìn mẹ và tỏ vẻ như không dám ăn. Một lần mẹ tôi bảo: Tại sao không gắp đồ ăn mà ăn đi, hôm nay mẹ nấu cho món ngon đó, ăn đi rồi cố gắng mà sống cho tốt. Qua chút kinh nghiệm được tha thứ và yêu thương của bản thân; phần nào hiểu được, Thiên Chúa thể hiện tình yêu thương của Ngài còn kỳ diệu, lạ lùng khiến tôi chỉ biết cảm tạ tri ân. Tại sao lại như vậy?

Vì Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ tình thương cho chúng ta ngay cả khi chúng ta thất tín, bất trung, quay ngược lại phản bội Chúa. Cách diễn tả của Chúa rất đặc biệt đó chính là: Ngài ký kết giao ước với chúng ta, ban lề luật và huấn lệnh cho chúng ta, để qua chính giao ước này, Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm hồn, lòng trí của chúng ta rằng: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Thật vậy, vì tình yêu thương, Thiên Chúa chỉ còn biết bao dung, tha thứ, cứu sống, không còn nhớ đến tội lỗi của chúng ta, đồng thời ban ơn để giúp chúng ta sống tốt hơn, sống đúng với phẩm giá của con người của chúng ta mà Ngài đã tạo dựng và Chúa chỉ mong muốn rằng,  chúng ta hãy khiêm tốn để tin và chấp nhận tình thương này của Chúa dành riêng cho chúng ta.

Thưa ACE, một khi chúng ta thấu hiểu và cảm nếm được tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng ta thể ấy, thì khi đó chúng ta mới có thể tái khám phá và vững tin hơn vào điều mà trong thư gởi tín hữu Do Thái nhắn gởi chúng ta. Thiên Chúa yêu thương mãi mãi và yêu cho đến cùng, cách thế cuối cùng duy nhất, độc đáo nhất còn lại để diễn tả tình yêu thương và sự tha thứ đó là: sai Con Một rất yêu dấu của Ngài đến để chịu chết mà cứu độ chúng ta. Qua Đức Kitô, mẫu gương tuyệt vời của sự vâng phục, qua cuộc khổ hình và tử nạn của Ngài trên Thánh Giá, Thiên Chúa lại ký kết với nhân loại một giao ước tình yêu mới bằng giá máu châu báu của Con Ngài. Đây chính là cách mà Thiên Chúa dùng để diễn tả tình thương và ơn cứu độ cho chúng ta, cho tất cả những ai tin, chấp nhận Chúa và chấp nhận công cuộc cứu chuộc của Ngài.

Thánh Gioan trong Tin mừng cũng đã minh chứng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc Chúa Giêsu dùng hình ảnh của hạt lúa mì rơi xuống đất, mục nát, tiêu tan, để đem lại sự sống mới, sự sống được phát triển và sinh nhiều bông hạt. Dẫu Đức Kitô cũng đã ý thức rằng, một khi vâng theo thánh ý của Chúa Cha, nghĩa là phải chấp nhận những đau khổ, cực hình và một trong những điều tủi nhục, đau đớn nhất đó chính là bị con cái loài người khinh chê, từ chối, khước từ và không muốn chấp nhận không muốn tin vào tình thương và cách diễn tả tình thương của Chúa. Cho dù con người vẫn còn chối bỏ, không tin hay chưa tin, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, vẫn luôn tạo mọi hoàn cảnh tốt nhất để ban ơn cứu độ theo như cách tuyệt hảo của Chúa.

Thưa ACE, tình yêu thương và cách diễn tả, minh chứng tình yêu của Chúa là như thế đó. Vậy còn tùy thuộc vào nơi cách đáp trả của chúng ta, ai chấp nhận, tin, sống và làm theo những gì mà Đức Ki tô đã giao ước với chúng ta thì sẽ được hưởng ơn thánh cứu độ. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Thật vậy, tin vào Chúa và những gì Ngài thực hiện cho chúng ta đã là khó, còn làm theo những gì mà Chúa đã nêu gương lại càng khó gấp bội. Do đó, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta có con tim khiêm tốn, mở rộng, để chúng ta luôn cảm nếm được tình thương tha thứ cứu độ của Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể mạnh dạn dấn thân để sống tha thứ và yêu thương anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng ta. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B169: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Giao Ước vĩnh cửu được ký kết trong thập giá Đức Kitô.

Kính thưa quý anh chị em,

 

Lịch sử cứu độ được dệt bằng những giao ước giữa Thiên Chúa và dân. Khi chứng kiến muôn vàn MC 5-B169


Lịch sử cứu độ được dệt bằng những giao ước giữa Thiên Chúa và dân. Khi chứng kiến muôn vàn giao ước, người ta tự hỏi lý do tại sao lại nhiều như vậy ? Câu trả lời rút ra từ kinh nghiệm sống của dân:

Thiên Chúa trung thành trong lời hứa và thánh thiện giữ lời giao ước đến muôn đời. Về phía dân, bất nghĩa và bất tín trung, luôn vi phạm lời cam kết giao ước, nên phá hỏng giao ước đã thiết lập.

Lập lại giao ước mới là bằng chứng của lòng thương xót và hay tha thứ của Cha trên trời, không muốn con người phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.

Đếm số lượng giao ước là cách tuyên xưng tình yêu thủy chung, vững bền Thiên Chúa “Tình yêu và sự sống” ban tặng, để thế gian được sống và sống dồi dào.

Không có giao ước nào mà không nhằm ban tặng và phong nhiêu sự sống.

Khởi đầu lịch sử cứu độ, Chúa giao ước với Abraham, khi ban cho ông đất làm phần gia nghiệp, ban con cháu đông như sao trời cát biển và nhất là được Chúa ở cùng, với điều kiện ông phải vâng giữ lời Chúa. Khi vâng phục thánh ý Chúa, Abraham được kể là người công chính, được hưởng mọi phúc lành.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày một giao ước chung cục, “giao ước mới” được thực hiện trong thập giá, kí kết bằng: “Máu giao ước vĩnh cửu”, để nhiều người được cứu độ.

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Gê-rê-mi-a, phác họa một viễn tượng về thời đại Đấng cứu thế, sẽ thực hiện một giao ước mới mẻ hoàn toàn, không giống như những giao ước cũ. Những giao ước cũ này luôn luôn bị vi phạm, bị hủy bỏ, vì cớ tội lỗi của dân.

Giao ước mới được thực hiện trong Chúa Giê-su, là Thiên Chúa thật và là người thật, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Cái mới mẻ của giao ước Giê-su là sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha: “vâng lời và vâng lời cho đến chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa siêu tôn Người, và ban danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu” (Phl 2, 4 – 8).

Đấng thực hiện giao ước mới sẽ khắc ghi luật Chúa vào lòng dạ, vào tâm khảm con người, sẽ đặt thần khí mới vào lòng họ, để thay thế con tim chai đá, nhờ đó họ mau mắn nhận biết Chúa, được Người tha thứ mọi tội lỗi của chúng.

Lời sấm của Giê-rê-mi-a ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Giê-su, vị Thiên Chúa/Người, được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.

Bài Phúc Âm diễn tả cách thức Giê-su thực hiện giao ước: tự hiến trong vâng phục. Hy tế thập giá không còn là hình phạt, mà trở thành bàn thờ tôn vinh Thiên Chúa.

Sự tôn vinh nơi thập giá đảm bảo hai chiều kích:

Giê-su tôn vinh Cha bằng sự vâng phục cho đến chết. Cái chết trong tư cách con người của Giê-su làm chứng: con người có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và dám chết cho Thiên Chúa. Hành động tôn vinh, trong tình yêu vâng phục, là tuyệt đối đẹp lòng Cha hơn cả.

Chúa Cha tôn vinh Giê-su bằng cách đón nhận lễ hy sinh, cho Ngài sống lại từ trong cõi chết, đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, để Giê-su ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Đó chính là “Giờ tôn vinh” Giê-su tuyên bố trong Tin Mừng.

Giao ước thập giá trổi vượt trên tất cả, mới mẻ, trường cửu và ban chiến thắng “chung cục”: hận thù được hòa giải, tội lỗi được tẩy sạch, thủ lãnh thế gian bị xét sử, sự chết bị đập tan. Nhờ thập giá, mọi phúc lành thiêng liêng trên trời được ban tặng như suối nguồn tuôn đổ ngập lút thế gian.

Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, nhấn mạnh chiều kích vâng phục và tự hạ của Đức Giê-su, là nền tảng của ơn cứu độ. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Giê-su dãi dầu học cho biết vâng phục qua những đau khổ xẩy đến, đã đạt tới mức thập toàn và nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.

Vâng phục trong mọi sự, đạt mức thập toàn nhất thiết phải xảy ra nơi thập giá, vì chỉ trong thập giá, trong sự chết, mới chứng tỏ sự vâng phục đến cùng.

Nội dung của bài đọc II là lời tuyên xưng giao ước mới, vĩnh viễn và rộng khắp, ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Tác giả đoạn thư Do Thái giúp củng cố đức tin vào biến cố thập giá, không phải hổ thẹn vì cớ Đấng chịu đóng đinh, nhưng hãy luôn tự hào, vì đó là sự khôn ngoan, là ân phúc cứu độ trần gian.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn vững lòng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa, Đấng giầu lòng xót thương, nhẫn nại đến kinh ngạc trong việc giáo hóa con người. Giao ước là bằng chứng Chúa dùng mọi phương thế để giữ gìn sự sống trần gian.

Chiều dài giao ước là sự sửa soạn tâm lòng con người đón nhận Đức Kitô, Đấng thực hiện giao ước vĩnh cửu trong sự chết và sự phục sinh, bằng hình thức trao đổi diệu kỳ: Chúa chấp nhận đau khổ, để chúng ta được chữa lành, chấp nhận tù tội, để chúng ta được giải phóng, chấp nhận bị kết án, để chúng ta được giải án tuyên công, chấp nhận cái chết thập giá, để chúng ta được phục sinh vinh hiển.

Vậy chúng ta hãy đón nhận giáo huấn và đem ra thực hành bằng một đời sống đượm tình mến thương, mới thực sự bước đi trong ánh sáng của mùa cứu độ.

Nhiệt tâm làm việc thiện, chu toàn bổn phận trong vui vẻ là sống đức tin bằng việc làm. Chỉ những ai thực hành như vậy mới được kể là người khôn ngoan, đáng được Chúa chúc lành, cho gia nhập đoàn dân thánh hưởng tình yêu và sự sống thật, sự sống muôn đời. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B170: Chúa Nhật 5 Mùa Chay


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

Hãy tìm kiếm thiên thần trong sa mạc tâm hồn của bạn

 

Vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta đã nghe giao ước Noê diễn tả mối tương quan đặc MC 5-B170


Vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta đã nghe giao ước Noê diễn tả mối tương quan đặc biệt của Thiên Chúa với mọi loài sinh vật. Hôm nay, khi gần đến cuối Mùa Chay, chúng ta nghe trình bày một giao ước mật thiết hơn trong sách ngôn sứ Giêrêmia, đó chính là giao ước được ghi khắc trong tâm hồn. Bài đọc thứ nhất nhắc đến bản chất riêng tư trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, một ý tưởng cũng được nhắc lại trong bài Tin mừng ngày Chúa nhật này.

Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Giêrêmia nói về một mối tương quan mới sẽ được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Israel và Giuđa. Bối cảnh câu chuyện là cuộc xâm lược và hủy diệt Giuđa cùng những cuộc phát lưu trong thời kỳ lưu đày ở Babylon. Trong khi nhiều người   chịu đau khổ thì Giêrêmia lại viết về niềm hi vọng vào tương lai. Ông thừa nhận những thất bại trong quá khứ, khi tổ tiên đã không triệt để giữ lời cam kết trong mối tương quan của họ với Thiên Chúa. Giêrêmia mô tả việc Thiên Chúa khắc ghi lề luật vào tâm hồn mỗi người bằng một hình ảnh ấn tượng: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm hồn chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” Trong tiếng Do Thái, từ “trái tim” (leb) không chỉ dùng cho một cơ phận thân thể mà còn dùng để chỉ tâm trí. Trái tim được coi là nơi của tư duy lý trí và ý thức, tương tự như cách chúng ta nghĩ về bộ não. Khi Thiên Chúa khắc ghi luật nơi trái tim mỗi người, Ngài làm cho những đòi hỏi được thấm nhuần nơi sâu kín ở bên trong trung tâm của trí hiểu để con người có thể hiểu cách đầy đủ hơn ý định của lề luật, để bồi dưỡng mối tương quan tốt đẹp của con người với Thiên Chúa và gữa con người với nhau.

Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu gặp lại một số môn đệ của mình, chuẩn bị cho họ về cái chết sắp xảy đến với Ngài. Đầu tiên, chúng ta nghe nói về việc mấy người Hy Lạp mong muốn được gặp Chúa Giêsu, có lẽ điều này cho thấy sức hấp dẫn rộng lớn của Chúa Giêsu và hoạt động Kitô giáo trong tương lai đối với dân ngoại. Khi các môn đệ trình với Chúa Giêsu về cuộc gặp gỡ tiềm năng này, Ngài đáp lại bằng cách ám chỉ đến cái chết sắp xảy đến với Ngài. Tương tự bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu nói về sự đau khổ và niềm hy vọng tương lai. Chúa Giêsu báo trước việc Ngài và các môn đệ sẽ phải chịu đau khổ, nhưng Ngài nhắc nhở họ rằng để liên kết với Cha trên trời, họ phải phục vụ và đi theo Ngài.

Trong lúc tiếp tục trò chuyện với các môn đệ, Chúa Giêsu mặc khải mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và lý do cái chết của Ngài. Chúng ta nghe thấy những lo lắng hết sức con người của Chúa Giêsu về cái chết, về nỗi kinh hoàng trước đau khổ mà Ngài phải gánh chịu và lời quả quyết, “bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến” (dịch sát nghĩa “tâm hồn Thầy bị khuấy động”). Khác với các sách Tin mừng Nhất lãm, Thánh Gioan không tường thuật về cơn hấp hối trong vườn Ghếtsêmani, nơi đó Chúa Giêsu cầu nguyện xin khỏi phải uống chén, tức là cho khỏi sự đau khổ và cái chết mà Ngài sắp chịu (xem Mt 26,39;Mc 14,36; Lc 22,42). Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan miêu tả nỗi lo lắng của Chúa Giêsu về cái chết, mặc dù Ngài nhanh chóng nhắc nhở bản thân rằng Ngài không thể thoát khỏi nhiệm vụ này.

Chúa Giêsu thưa chuyện với Cha trên trời, và dân chúng không thể hiểu hết được điều đó, giải thích tiếng nói đó như là tiếng sấm hoặc tiếng một thiên thần. Thay vào đó, Chúa Giêsu khẳng định rằng tiếng nói từ trời đó là Chúa Cha, Đấng đang nói trực tiếp với những ai đi theo Ngài và khẳng định rằng Ngài tôn vinh Chúa Cha qua cái chết của mình. Hơn nữa, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cái chết, sự phục sinh và lên trời của mình “kéo mọi người lên với Ngài”.

Khi bước vào những tuần cuối cùng của Mùa Chay, các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta chú tâm suy ngẫm về mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, kêu gọi chúng ta cầu nguyện, nhìn lại nội tâm và cảm tạ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia mời gọi chúng ta nhận ra mối liên hệ gần gũi cũng như sự quan tâm của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta, và thánh Gioan thôi thúc chúng ta để kết hiệp với Thiên Chúa qua mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô.

-------
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/02/18/fifth-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239999

--------------------------------------

 

MC 5-B171: Khát khao gặp Chúa


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa nhật hôm nay (Ga 12,20-22), Thánh Gioan đã kể lại lời MC 5-B171


Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa nhật hôm nay (Ga 12,20-22), Thánh Gioan đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hylạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do thái giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua“. Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không chỉ để trông thấy mà thôi, mà còn muốn gặp để chuyện trò đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường đức tin.

Họ đến gần Philipphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philipphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.

Những người Hy lạp năn nỉ Tông đồ Philípphê: Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. Người Hy lạp ái mộ “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hy lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Người. (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực).
Chúng ta có ao ước gặp Chúa Giêsu không?

Để trả lời, trước hết nên tự hỏi lòng mình: tôi có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu thực sự tôi yêu mến Chúa, tôi rất ước muốn, khao khát gặp gỡ Người, và tôi sẽ tìm mọi cách để gặp Người cho bằng được. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, không giống như khi Chúa Giêsu còn tại thế, lúc mà những ai ao ước trông thấy Người, có thể thấy bằng mắt phàm; còn bây giờ tôi chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt đức tin, gặp Chúa bằng đức tin. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa, gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện, vì Chúa đã dạy rõ ràng : ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.

Thứ đến, Chúa luôn hiện diện cho chúng ta gặp Người, đặc biệt là trong Thánh lễ. Gặp gỡ Chúa khi dâng lễ mới là quan trọng. Chính vì thế mà khi Anrê và Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu ước nguyện của mấy người Hy lạp, thì Chúa lại hướng các môn đệ đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh của Người. Chúa bảo, đã đến giờ Con Người được Tôn vinh, rồi Người lại nói đến hạt lúa mì gieo xuống đất phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Và bấy giờ Người mới mời gọi ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó!. Như vậy là Ý của Chúa Giêsu đã rõ. Người hướng tất cả những ai muốn gặp Người, trong số đó có chúng ta, đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh. Nơi đó, lúc đó chúng ta sẽ gặp được Chúa. Điều đó không có nghĩa là phải đợi đến ngày lễ Phục Sinh, chúng ta mới gặp được Chúa. Chúng ta cùng nhau gặp Chúa ngay bây giờ khi cùng nhau cử hành Thánh lễ, và đón Chúa đến với chúng ta trong lòng Giáo Hội. Với đức tin, chúng ta gặp được Chúa trong mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh.

Chúa Giêsu đến trong Thánh lễ là Đấng đã chịu đóng đinh và chịu chết vì chúng ta, đã mặc lấy thân phận loài người như chúng ta, đã trải qua nhiều đau khổ, đã xin Thiên Chúa Cha cứu mình khỏi chết như lời thư gởi tín hữu Do Thái. Nhưng cuối cùng Người đã vâng phục Chúa Cha, sẵn sàng chịu chết. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người, cho Người sống lại từ cõi chết.Đó là mầu nhiệm Giáo Hội tuyên xưng và cử hành trong mỗi thánh lễ, là bí tích Giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với nhân loại nhờ Máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, làm cho chúng ta thành Dân riêng của Thiên Chúa. Thánh lễ là bí tích của sự gặp gỡ, là bí tích của tình bằng hữu giữa Thiên Chúa và chúng ta nhờ Chúa Giêsu. Mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, hãy nhớ câu nói của mấy người Hylạp: Chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Philípphê và Anrê là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Chúa (1,35-46). Bổn phận người môn đệ phải chu toàn trong đời sống là làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp gỡ Chúa Giêsu.Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Chúa Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Chúa Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Chúa Giêsu và việc “gặp” Người còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Chúa nữa. Chỉ khi đó họ mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh.
Hôm nay, Giáo xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng gia nhập vào Giáo hội. Đây là những lương dân thiện chí muốn trở nên Kitô hữu.Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau những ngày tháng học hỏi về giáo lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.

Kính thưa anh chị em Dự Tòng.
 
Trở thành Kitô hữu không chỉ là gia nhập vào cộng đoàn giáo xứ,chấp nhận giáo lý của Chúa Giêsu và Giáo hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô bờ bến của Ngài trong chính cuộc đời mỗi người.

Thật ra, mỗi Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Ngài hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Ngài. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực sự Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Ngài mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang gặp gỡ Ngài.

Một cuộc gặp gỡ,một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần.Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Ngài với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Ngài anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.

Kính thưa cộng đoàn.

Hôm nay giáo xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống đức tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các hội đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống đức tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.

Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin và gặp gỡ Ngài là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta.

Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.

Hôm nay giáo xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban.Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.

Thiên Chúa là tình yêu.Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương, ao ước và gặp gỡ Thiên Chúa tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.

Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn ” Đây là Chiên Thiên Chúa.Đây Đấng xoá tội trần gian“. (Ga 1,29). Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay.Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.

--------------------------------------

 

MC 5-B172: Giao ước tình thương


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao ước là gì? Giao ước là do MC 5-B172


Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao ước là gì? Giao ước là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ, chẳng hạn như: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực nữa.

Phản bội giao ước

Nếu xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân Israel, theo đó Thiên Chúa hứa Ngài là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá. Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày.

Thiên Chúa không đành rút lại lời hứa, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới, giao ước của tình thương. Giêrêmia là người duy nhất nói về “giao ước mới”, ông tuyên sấm: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngoại mà thờ, không tuân giữ các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời, không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập”.

Giao ước tình thương

Nội dung của giao ước mới là: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa,” vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi” (Gr 31,31-34).

Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi tạc vào lòng con cái Israel (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: “Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em ” (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.

Đức Kitô kiện toàn giao ước

Đêm Vọng Phục Sinh, có nghi thức làm phép nước rảy trên dân chúng, nếu có dự tòng thì sẽ rửa tội họ bằng nước phép này. Phép Rửa tội, bí tích khai tâm, cửa ngõ đức tin và là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Nước dùng để rửa tội là nước lã như mọi thứ nước, nhưng được làm phép để rửa tội nên nước ấy mang một ý nghĩa đặc biệt vì trong đó có giao ước giữa con người với Thiên Chúa.

Nếu trong Cựu Ước, phép cắt được coi là “dấu chỉ giữa Thiên Chúa và người dân của Ngài” (St 17,10-14). Thì đến thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến và ban dấu chỉ cứu rỗi (x. Cl 2,11); (1Pr 3,11).

Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi, Đức Giêsu đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người chúng ta (x. Ga 6,53-56, Mt 26,17-28). Như vậy, bằng lời hứa bất biến Thiên Chúa đã liên kết với chúng ta, nên Kinh Thánh gọi chúng ta là con của lời hứa: “Hỡi anh em, như Isaac, anh em là con cái của lời hứa” (Gal 4,28).

Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta nhận lời hứa và phúc lành đặc biệt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ lời giao ước với Thiên Chúa và không vâng phục lời Chúa, chúng ta sẽ đánh mất phúc lành ấy.

Giao ước Thiên Chúa đã ký kết dân Israel qua trung gian Môise, cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa vào đất Canaan, là xứ của lời hứa. Lúc ấy, Thiên Chúa không đưa họ tiến thẳng vào xứ Canaan ngay lập tức mà lại dẫn họ 40 năm trường trong sa mạc, ban cho họ các giới răn xem họ có vâng phục không (x. Đnl 8,2-16). Tuy nhiên, họ đã không tuân giữ, phần lớn trong số họ phải chết (x. Ed 20,10-13). Chỉ có hai người là Calép và Giôsuê vâng lời Thiên Chúa, và những người sinh ra trong sa mạc mới được đi vào xứ của lời hứa (x. Ds 14,6-38).

Hành trình vào Đất Hứa của dân Israel báo trước hành trình của người kitô hữu chúng ta về Nước Trời. Thật là bài học quí giá. Chúng ta cũng sẽ không thể vào được nếu chúng ta bất tín (x. Dt 3,18-19, 1Cr 10,1-11). Chúng ta hãy cỗ gắng tuân giữ luật Chúa và vâng theo lời Chúa để được vào Thiên Đàng. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B173: Bước đường theo Chúa


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Ga 12: 20-33: Quả thật "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".

 

Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa MC 5-B173


Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác».

Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Hạt lúa mì được geo xuống lòng đất. Nó nằm sâu trong lòng đất, nóng nực, bức bối. Rồi nó lại phải thối đi. Thối đi qua việc hút nước ẩm trong lòng đất. Rồi phải xé rách vỏ hạt. Đau đớn lắm chứ! nhưng nhờ đó, nó mới có thể cắm rễ vào lòng đất rồi nẩy mầm. Sau đó tiếp tục phát triển để có thể sinh sản nhiều hoa trái khác.

Con người cũng vậy. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Do đó, chết là điều kiện thiết yếu của sống, và đau khổ là điều kiện thiết yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác?

Theo như Flor McCarthy thì “chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,

- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi,
- mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi,
- mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi,
- mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.

Quả thật "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo: vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo tựa đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa".

Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh lao phổi. Mặc dù được điều trị bằng rất nhiều thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện nhưng bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng.

Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời.

Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.

Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên nhưng bà không thể quên được câu chuyện ấy. Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con mỏi mệt lắm rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật, con cũng xin vâng!". Về sau, Catherine kể lại rằng, chính vào lúc đó, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.

Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết đi với ý riêng của mình, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Nếu chị nữ tu không chết đi với ý riêng của mình để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết đi với ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái. Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh tật. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà đã được lành bệnh và kết sinh hoa trái.

Cả hai câu chuyện về chị nữ tu và Catherine Marshall đều dạy chúng ta cùng một bài học. Chúng ta phải biết sẵn lòng làm chết đi ý riêng của mình nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời. 

Thật thế, qua kinh nghiệm trên, mỗi người chúng ta khám phá ra rằng: nếu lúc nào chúng ta cũng nghĩ đến sự an toàn bản thân thì chỉ tạo ra sự sợ sệt, lo lắng và mất bình an.

Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến.

Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đây. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết.

Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả thật là một điều cần thiết cho những ai đang bước theo Chúa trên con đường khổ giá: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác». Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B174: HẠT LÚA VÙI CHÔN


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

 

Sống và chết là qui luật tự nhiên của muôn loài muôn vật. Chết là một cách để phát sinh sự sống MC 5-B174


Sống và chết là qui luật tự nhiên của muôn loài muôn vật. Chết là một cách để phát sinh sự sống mới, như Chúa Giêsu đã nói:“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Như vậy, chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ phong phú hơn nhiều. Đức Giêsu gọi giờ chết trên thập giá của Ngài là “giờ Con Người được tôn vinh”. Cũng từ đó, Ngài đưa ra một nguyên tắc sống:“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

Ai mà chẳng yêu quí mạng sống mình; chẳng ai muốn đau thương hay chết chóc. Nhưng sống mà chỉ lo chiếm hữu và hưởng thụ, ta sẽ trở nên trơ trọi như hạt lúa giống không chịu vùi chôn. Cũng vậy, chẳng ai lại coi thường mạng sống mình, nhưng nếu coi trọng nó đến nỗi thành nô lệ cho chính mình, thì khác nào ta nuôi dưỡng một cái xác không hồn. Người ta nghĩ có được danh lợi quyền hành là vẻ vang, nhưng Đức Giêsu coi thập giá là vinh quang. Ngài dạy chúng ta, từ sự chết mới có sự sống, chỉ bằng cách hy sinh mạng sống, chúng ta mới giữ được sự sống; chỉ nhờ phục vụ, chúng ta mới trở nên cao cả. Qua những kinh nghiệm đau thương và buông bỏ, ta mới thấy mình được khi chấp nhận mất, thấy mình nhận lãnh khi chấp nhận cho đi. Như con ốc sên chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, ta chỉ sống dồi dào khi ra khỏi những bận tâm và so đo tính toán cho mình để sống tình yêu.

Lời kinh Hòa Bình mà ta vẫn hát phải trở thành nguyên lý sống cho cuộc đời ta: “chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”. Từ đó ta mới hiểu rằng, sống và chết là hai hành vi trao đổi cho nhau trong từng giây phút và từng biến cố của đời mình. Sống là chấp nhận chết đi để triển nở: mỗi một hành vi khiêm tốn là chết đi một phần tính kiêu ngạo; mỗi một hành vi can đảm là chết đi một phần tính hèn nhát; mỗi một hành vi dịu dàng là chết đi một phần tính hung bạo; mỗi một hành vi yêu thương là chết đi một phần tính ích kỷ. Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa mới hình thành.

Tuy nhiên, quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, dù trong tinh thần hay thân xác cũng đều là hành vi của đau thương, tổn hại, mất mát, không dễ dàng chấp nhận, dù biết rằng đó là một cách tiếp nhận sự sống mới. Chính Chúa Giêsu cũng phải nao núng và dao động trước cái chết: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì?”. Chúa Giêsu không ngần ngại thố lộ với chúng ta nỗi xao xuyến và sợ hãi của Ngài. Ngài không làm ra vẻ anh hùng trước một sự hy sinh cao cả, nhưng Ngài đã bám níu vào Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này… Nhưng chính giờ này mà con đã đến”.

Như Chúa Giêsu, nếu ta biết tỉnh thức và cầu nguyện, ta sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Cầu nguyện không phải là liều thuốc giảm đau, không hẳn ngăn chặn được nao núng sợ hãi, cũng không mong Chúa đổi ý để cứu ta khỏi đau khổ hay sự chết, nhưng cầu nguyện là sự tin yêu và phó thác trước nỗi xao xuyến và giằng co của phận người. Nhờ vậy mà ta thanh thản trong sự hiến dâng trọn vẹn, để đi vào sự phục sinh vinh hiển với Chúa Giêsu, như Lời Ngài đã hứa:“Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Với niềm hy vọng lớn lao này, chúng ta hân hoan đón nhận cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng. Phải chăng trong tâm tình đó mà R. Tagore đã dâng lời nguyện: “Ôi! Thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối … Những gì ta là, những gì ta có, những gì ta hoài mong, những gì ta yêu thương, tất cả vẫn sâu xa bí mật trôi chảy về ngươi…Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối. Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn thu”.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Khi nhìn đồng lúa mênh mông bát ngát,
từng cây lúa nặng trĩu những bông hạt,
nhưng ai nghĩ đã qua nhiều ngày tháng,
hạt giống chôn vùi chịu mục nát rã tan.

Cũng thế, bao người sống âm thầm lặng lẽ,
sẵn sàng cho đi và chia sẻ cuộc đời mình,
vẫn tận tình trong lao nhọc hy sinh,
cho gia đình và xã hội được an bình.

Nhìn vào cuộc sống con mới hiểu,
nét đẹp đời người đâu phải là tuổi trẻ,
nhưng thực chất là tuổi của kẻ biết cho đi,
tuổi biết quên mình và sống vì người khác.

Từ ý nghĩa đó con mới thấy,
nét suy tư của những nếp nhăn trên trán,
nét đảm đang của những tấm lưng còng,
nét thong dong của những làn tóc bạc,
là những nét đẹp từng trải qua năm tháng,
của một cuộc đời đã gieo hạt nẩy mầm.

Đó là những hạt lúa đã gieo vào lòng đất,
chấp nhận chết đi để đem lại sự sống mới,
cũng chính là để xây dựng Nước Trời,
sống thực tâm theo lời mời của Chúa,
biến yêu thương thành hoa trái tuyệt vời,
để ban tặng cho đời và thế giới hôm nay.

Xin cho con tiến bước trong từng ngày,
trong âm thầm lặng lẽ và chia sẻ hiến trao,
thao thức góp phần cho cuộc sống dồi dào,
chỉ mong sao mọi sự được đẹp như ý Chúa,
để con hân hoan chờ đón một ngày Mùa,
Mùa vinh phúc, Mùa hồng ân cứu độ. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B175: HẠT LÚA “THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI”


Jorathe Nắng Tím

 

Trong Tin Mừng nhất lãm, Đức Giêsu đã công khai nói với các môn đệ ít là ba lần về cuộc tử MC 5-B175


Trong Tin Mừng nhất lãm, Đức Giêsu đã công khai nói với các môn đệ ít là ba lần về cuộc tử nạn và phục sinh sắp tới của Ngài : “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá, và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,18-19). Nói điều này, Đức Giêsu đã làm sợ hãi và nản lòng các môn đệ, vì không ai đi theo Ngài đã nghĩ đến thảm cảnh Thầy mình sẽ bị kết án tử và đóng đinh là hình phạt nặng nề nhất chỉ dành cho tội phạm nguy hiểm. Chính vì thế Phêrô, tông đồ trưởng, tuy ở gần và yêu mến Thầy hơn các anh em khác cũng không đủ bình tĩnh cầm lòng, nhưng đã bức xúc lên tiếng can ngăn : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, và ông đã bị Đức Giêsu quở trách : “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).

Hôm nay Tin Mừng Gioan kể lại câu chuyện giữa Đức Giêsu và hai ông Philipphê, Anrê cùng những người  Hy Lạp được hai ông dẫn đến. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng đề cập đến việc Ngài sẽ phải chết trong tay những kẻ chống đối, quyết tâm tiêu dệt Ngài, nhưng khác những lần loan báo trước, lần này, Ngài dùng hình ảnh hạt lúa : “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

Hình ảnh hạt lúa thật gần gũi với mọi người, và là hình ảnh gây nhiều ấn tượng, bởi ai cũng biết hat lúa phải được chôn vùi trong đất mới nẩy mầm, sau khi thối rữa. Nhưng chính từ tình trạng thối rữa của hạt lúa mà “sự sống mới” được trổ sinh, và đem lại nhiều bông hạt. Khi dùng hình ảnh hạt lúa, Đức Giêsu không chỉ loan báo việc Ngài sẽ phải chết và sống lại mà thôi, mà còn cho các môn đệ thấy “Con Người Thiên Chúa” của Ngài, mầu nhiệm nhập thể làm người của Ngài. Nói cách khác, Ngài mạc khải cho chúng ta : Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là con người, với hai bản tính Thiên Chúa và con người :

Như hạt lúa sẽ bị thối rữa đi, Đức Giêsu mang lấy số phận phải chết của con người :
Phận người đáng thương nhất là “biết mình phải chết”. Mọi loài thụ tạo đều phải chết, trừ các thiên thần là thụ tạo thiêng liêng, nhưng con người đáng thương hơn tất cả, vì biết mình sẽ chết, biết thân xác tươi tốt, vạm vỡ, xinh đẹp của mình sẽ thối rữa, tiêu tan một ngày, trong khi con vật tuy cũng chết nhưng không biết mình phải chết. Chính vì “biết” mà phận người đắng đót, đau thương!

Đức Giêsu mang lấy phận người, khi xuống thế làm người. Như mọi người, Ngài lệ thuộc những điều kiện, và giới hạn của kiếp người, và chết là sự thật khủng kiếp đáng kinh sợ nhất, như chính Ngài đã xao xuyến, bồi hồi, hoảng hốt trước giờ lên đường đi chịu chết (x. Ga 2,27).

Nhưng số phận phải chết ở con người không đơn thuần tự động như cỗ máy đến thời hạn phải ngưng, vì con người có quyền và bổn phận trên cái chết của mình, khi cho nó một hướng đi, một đích tới, một giá trị, một ý nghiã mà ngoài bản thân mình, không ai có thể thay thế đảm trách quyền lợi và nghiã vụ tuyệt đối riêng tư này. Chính Đức Giêsu đã khẳng định : “Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Như thế, bản thân mỗi người có quyền yêu hoặc không yêu mạng sống ; có quyền chọn cho mạng sống mình một tuyến đường, một đích điểm ; có quyền định đoạt tương lai đời đời cho mạng sống, bởi nếu sự chết toàn quyền định đọat mạng sống như toàn quyền trên thân xác, thì Đức Giêsu đã không nói với chúng ta về những khả thể yêu – ghét, mất – còn, tạm bợ – đời đời của mạng sống.

Như “hạt lúa vâng phục” chấp nhận bị chôn vùi, thối rữa, Đức Giêsu mang tất cả sức mạnh toàn năng và sự sống viên mãn của Thiên Chúa :
Hạt lúa thối rữa, nhưng không tiêu tan “vô tích sự”. Trái lại, nó thối rữa để nẩy mầm, đội đất mọc lên thành cây lúa, trổ sinh những bông hạt. Tiếng nói từ trời của Chúa Cha : “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”, khi Đức Giêsu ngước mắt cầu nguyện : “Lậy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến. Lậy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,27-28) đã làm chứng thiên tính của Đức Giêsu, chứng thực Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu nhân loại trước nhiều người, nên cũng từ Ngài, từ bản tính Thiên Chúa của Ngài, sự sống trỗi dậy từ cõi chết, sức sống bùng phát từ “thối rữa” của hạt lúa bị chôn vùi, bởi ở nơi Ngài luôn hiện diện Ba Ngôi Thiên Chúa, trong Ngài luôn đầy tràn sức mạnh và sự sống viên mãn, đời đời của Đấng Toàn Năng.

Thánh Phaolô đã qủang diễn “hạt lúa vâng phục” là Đức Giêsu trong thư gửi cộng đoàn Do Thái : “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi chính bản thân đã đến mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9).

Qủa thực, chính trong Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được chết với Thiên Chúa, vì Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã chết với chúng ta ; chính cùng với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta cho cái chết của mình  những giá trị và ý nghiã đời đời, khi được cùng với Thiên Chúa tiến về vương quốc vĩnh cửu của Ngài, vì Con Một Thiên Chúa đã  đích thân dắt chúng ta đi với Ngài đến tận mộ phần tăm tối của sự chết ; chính nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, chúng ta được sống lại và hưởng vinh quang phục sinh với Ngài, vì “nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11) .

Vâng, Đức Giêsu là Hạt Lúa của Thiên Chúa nuôi sống nhân loại, Hạt Lúa tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha xuống thế làm người để chịu chôn vùi, thối rữa với con người phải chết, Hạt Lúa Thiên Chúa là “sự sống lại và sự sống” (Ga 11,25) cho con người đáng phải chết được sống lại và sống đời đời.

--------------------------------------

 

MC 5-B176: CHUẨN BỊ CHẾT


Trầm Thiên Thu

 

Đồi Sọ lặng Lẽ Cây Thánh Giá, Thế Trần Gieo Neo Nỗi Gian Truân. Thánh Ambrôsiô Optina nhắn MC 5-B176


Đồi Sọ lặng Lẽ Cây Thánh Giá
Thế Trần Gieo Neo Nỗi Gian Truân

Thánh Ambrôsiô Optina nhắn nhủ: “Đừng lo sầu về quá nhiều điều, nhưng phải để tâm lo cho một điều chính: CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT CỦA MÌNH.” Bất cứ việc gì, dù to hay nhỏ, đều phải chuẩn bị: Phải im lặng trước khi có thể lắng nghe, phải lắng nghe trước khi học hỏi, phải học hỏi trước khi hành động, phải hành động trước khi phụng sự, phải phụng sự trước khi hướng dẫn,… Chết là sự kiện quan trọng nhất đời người, vì một đi không trở lại, càng phải chuẩn bị đặc biệt. Vả lại, cái chết đến bất ngờ, không thể biết trước.

Thiết tưởng đây là cách chuẩn bị tốt cho cái chết mà Thánh Barsanuphius đã áp dụng: “Đừng tìm cách để nổi trội. Trong bất cứ việc gì, đừng sánh mình với người khác. Hãy mặc kệ thế gian, hãy vác lấy thập giá, hãy vứt bỏ tất cả những gì phàm tục, hãy giũ sạch bụi trần khỏi bàn chân.” Đó là cách buông bỏ. Muốn bỏ thì phải buông, có buông ra thì mới nhẹ mình.

Điều đó có vẻ đơn giản nhưng lại không dễ dàng, bởi vì tính xác thịt của con người nặng nề lắm. Chân phước Claude de la Colombière tâm sự: “Chúa đã dang tay để kéo con ra khỏi vũng bùn nhơ mà tình cảm của con đã đẩy con vào và bản tính quá buông thả của con đã nhận chìm con trong đó.” Chắc chắn rằng nếu không có ơn Chúa, chúng ta không thể làm được gì. (Ga 15:5) Tuy nhiên, Thánh Thomas Aquino cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ. Nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh, đó là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.”

Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” (Gr 31:31-33) Bất kỳ Thiên Chúa hứa điều gì, dù to hay nhỏ, thì chắc chắn ứng nghiệm, không sai bao giờ.

Tất cả phàm nhân đều là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa,’ vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.” (Gr 31:34) Quả thật, Thánh Vịnh gia không thể nín lặng nên đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3)

Chúng ta cảm thấy khó thực hiện nhưng không phải do Thiên Chúa đòi hỏi hoặc bắt buộc nhiều, thực sự Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ ổn, vì chính Chúa Giêsu đã “bù lỗ” cho chúng ta bằng giá máu. Nhưng là phàm nhân, chúng ta không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội – xạo ke. Thật là quá quắt lắm, vừa giả hình vừa hứa lèo. Mỗi Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình, soi kiểu 3D – từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, từ bên này sang bên kia, rồi sám hối thật lòng: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (Tv 51:3-4)

Một chút tro rắc trên đầu (hoặc vẽ trên trán) cũng chỉ vô ích nếu chúng ta không “xức tro” linh hồn và “xé rách” lòng mình vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương ngay, và sẵn sàng bỏ qua hết nếu chúng ta không vỗ ngực, nhưng chân thành đấm ngực mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ không đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.” (Tv 51:12-15) Lời nguyện chân thành đó là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại có sắc hồng lung linh. Tuyệt vời lắm!

Cuộc sống vô thường. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đáng quan ngại là “sinh hữu hạn, tử bất kỳ.” Đời phàm nhân là thế. Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải trải qua trăm cay ngàn đắng. Cay xé lòng, đắng cứng miệng. Chẳng có con đường nào đau khổ và tang thương hơn Đường Thập Giá. Nhưng đó là con đường không thể tránh né, ai cũng phải đi qua.

Vừa giải thích vừa động viên, Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Dt 5:7-9) Vâng lời rất cần thiết, cần thiết hơn cả hy lễ, (Hs 6:6; 1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9) thế nhưng đó lại là bài học khó thuộc và khó thực hiện.

Có mấy người Hy Lạp trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, rồi hai ông Anrê và Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề mà Ngài nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12:23-26) Phải chết để có thể sinh ích lợi và tái sinh. Một loại triết lý sống vô cùng kỳ diệu.

Nếu thế này thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà cũng rất khác lạ. Chắc hẳn đã trải nghiệm nhiều nên Thánh Phanxicô Assisi có triết lý này: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Kinh Hòa Bình) Quả thật, kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Ai cũng phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, như vậy mới có kinh nghiệm, có kinh nghiệm rồi thì mới khả dĩ cảm nghiệm dạng triết lý độc đáo như thế.

Mọi điều phải được ứng nghiệm, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27a) Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” (Ga 12:27b-28) Mặc dù rất sợ nhưng Ngài vẫn mong cho ý Cha nên trọn. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:29) Mọi người có mặt ở đó nghe “tiếng động” như vậy, có người bảo đó là tiếng sấm, có người lại cho đó là tiếng của một thiên thần. Phàm nhân không thể hiểu được. Chúa Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:30-31) Giờ G sắp sửa điểm!

Điều gì đến sẽ đến. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng.” Đã có lần Thánh Phaolô phải thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2:7) Dù thế nào thì Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng thì Ngài vẫn hứa chắc: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12:32) Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Mọi điều ứng nghiệm từ A tới Z.

Chỉ là phàm nhân, là tội nhân, nhưng chúng ta vẫn được Thiên Chúa yêu thương và ban giao ước, do đó chúng ta cũng phải thề hứa với Ngài và tha nhân, hứa gì thì phải cố gắng thực hiện cho đúng. Bằng cách nào? Đó là đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày.

Mùa Chay là Mùa Thương Khó, chúng ta hãy noi gương Thánh nữ Faustina cầu nguyện, đặc biệt biết tạ ơn về những gì mình không muốn: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con.” (Nhật Ký, số 343)

Ôi, lời cầu nguyện vô cùng cao cả và tốt lành, hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, chắc chắn Ngài rất vui lòng. Tuy nhiên, muốn thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện đó. Thật là khó, nhưng với ơn Chúa thì người yếu đuối nhất cũng khả dĩ hoàn tất.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, Ngài đã chịu chết để con được sống dồi dào và viên mãn, xin tăng lực can đảm và giúp con vững bước trên đường thập giá. Xin dạy cho con biết: đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi. (Tv 39:5) Con chân thành trở về, cố gắng canh tân cho hợp Thánh Ý Chúa, xin thương xót, tha thứ, cứu độ con và các tín nhân. Ngài Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B177: THEO THẦY


Lm. Jos. DĐH.

 

Cho dù vô tâm hay đức độ, người ta cũng không thể chối bỏ một sự thật: cây thẳng lên nhờ uốn MC 5-B177


Cho dù vô tâm hay đức độ, người ta cũng không thể chối bỏ một sự thật: cây thẳng lên nhờ uốn, trẻ khôn lớn, nhờ chăm sóc, giáo dục. Con cái lớn khôn, thành đạt, hệ tại tình yêu thương gia đình hướng dẫn, đầu tư, nói văn hoa một chút gọi là trách nhiệm, là nghĩa vụ của đấng làm cha mẹ. Gia đình dòng tộc sẽ vui và hạnh phúc biết bao khi con cháu nên người hữu ích, dù các ngài có được đền ơn đáp nghĩa, hoặc con cháu từ chối, hất hủi, các ngài vẫn đến một điểm dừng: “sinh lão bệnh tử”. Khi bước vào yêu, không ai nghĩ tới chuyện “sẽ nắm đằng lưỡi hay nắm đằng chuôi”. Khi yêu chẳng ai tính toán hơn thiệt, dẫu là tình yêu huyết thống, hay tình yêu đôi lứa.

Theo truyền thống: uống nước nhớ nguồn, theo quy luật tự nhiên: làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu, theo tâm lý chung: ốm tha, già thải, ít nhiều gì chúng ta còn có khái niệm để cân nhắc. Xưa kia, hoặc hôm nay, theo thầy để học nghề mưu sinh, theo thầy với mơ ước: thầy làm quan, trò làm tướng, không mấy khó hiểu. Tuy nhiên theo Thầy, đến với Thầy, để nghe những lời lẽ hết sức trừu tượng: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình….” ! Không những hụt hẫng, mà hầu hết người ta phải khựng lại trước ý định làm thần dân của Ngài.

Theo thầy sẽ phải vượt qua chặng đường nguy hiểm mà tới thành công, theo thầy nhất định phải có gian truân vất vả, theo thầy làm thợ, với hy vọng có ngày làm thầy. Đức Giêsu thật rõ ràng nhằm giúp các học trò hiểu, và tin rằng theo Thầy để biết về tình yêu của Cha Thầy, khác với việc theo Thầy để biết về tình yêu thế trần.  Theo Thầy Giêsu không phải để tận hưởng địa vị danh vọng, được bổng lộc ở đời này, mà là được xếp vào hàng ngũ các môn đệ, được biến đổi nên giống Thầy, và cùng chia sẻ sứ mạng Cha Thầy uỷ thác. Theo Thầy là đi đằng sau Thầy lên Giêrusalem, là trung thành vác đau khổ thập giá một cách trọn vẹn trong tin yêu phó thác.

Muốn có một sức khoẻ tốt, người ta cần ăn uống ngủ nghỉ điều độ, muốn có bình an, đừng làm điều xấu, không nên xét đoán anh chị em mình. Muốn theo thầy, phải tin thầy, để thầy hướng dẫn, dù nguy nan, sóng gió, vẫn đang làm chúng ta sợ hãi. Quan niệm của cha ông chúng ta cho rằng: mạng sống hơn đống vàng. Chẳng ai lại lấy tiền của vật chất để so sánh với mạng sống của con người, tiền, vàng, là loài vô tri vô giác, sự sống con người, chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng tình yêu. Chính vì theo Đức Giêsu, những người học trò đầy giới hạn hôm xưa mới được trải nghiệm, được chắc chắn hơn về tình yêu và ơn cứu độ hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Theo Thầy tiến bước, từng ngày lắng nghe Thầy chỉ dạy, và tình yêu đã cho các ông cảm nhận mưa lâu thấm đất, các ông không mềm yếu như “con chi chi”, không dại dột như “con thiêu thân”, các ông đã biết khôn ngoan theo Thầy là đi đằng sau Thầy. Sau khi cho các học trò biết: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Đức Giêsu rất thực tế bằng một hình ảnh thật sống động: “nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, sẽ sinh nhiều bông hạt”. Ai theo Thầy Giêsu, người ấy thuộc về Đức Giêsu, có thực lòng tin yêu Thầy, thì phải gắn bó, kết hiệp với Thầy, Thầy ở đâu, trò cũng ở đó, như thế mới đáng là môn đệ, là quy luật yêu thương của tình thầy trò.

Theo Thầy Giêsu để kiếm tìm chức vị bổng lộc, chúng ta không có ý đó, theo Thầy, tin Thầy là Thiên Chúa cứu độ, chúng ta hằng tin như thế. Sống niềm tin theo Chúa là đi con đường nhỏ hẹp, đi con đường thập giá, sẽ dẫn đưa đến vinh quang, không hề dễ tí nào, và chúng ta thường cho rằng bị nhiều cám dỗ. Gặp Đức Giêsu con bác thợ mộc, nhìn, xem, thấy, Đức Giêsu làm phép lạ, nhiều người Do-thái đã có kinh nghiệm ấy, còn được gặp Đức Giêsu phục sinh thì đại đa số là không thấy ! Hẳn vì chúng ta chưa thực sự theo Thầy Giêsu, không ưa thích nhìn lên cây thập giá, sợ đi con đường chật hẹp, và rất ngại đi theo theo qui trình “hạt lúa mì phải thối đi, hư đi, mục nát đi”.

Sách có câu: bất hạnh khổ đau làm nên con người, giầu sang phú quý tạo nên quái vật. Có, không, mất, được, đâu phải chỉ là nghịch lý, đúng sai, xấu đẹp, khái niệm sang hèn, khổ đau, sung sướng, còn là dịp để người ta chọn lựa, sống lý tưởng gieo gì gặt nấy. Theo Thầy Giêsu không có nghĩa là theo Ngài đứng xa xa xem xét, cũng đâu phải theo Thầy là đóng đinh vào cây thập giá mới là theo. Theo Thầy Giêsu là đi theo qui trình tin yêu và sống tin yêu, là tin vào tình yêu của ông bà cha mẹ, là ý thức vâng theo sứ mạng Chúa Cha trao phó, là quá trình được tập luyện và biến đổi nên giống Thầy Giêsu. Nếu không có đau khổ thập giá, thì không có phục sinh vinh hiển, tin Thầy được đưa lên cao, thì kẻ sống niềm tin theo Thầy Giêsu cũng được Thầy kéo lên hưởng phúc đời đời. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B178: MẸ LẠNH LẮM PHẢI KHÔNG?


Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Cuộc đời đẹp không phải là ở người có nhiều tiền và biết xài tiền. Cuộc đời đẹp không hẳn là MC 5-B178


Cuộc đời đẹp không phải là ở người có nhiều tiền và biết xài tiền. Cuộc đời đẹp không hẳn là ở địa vị cao sang quyền quý. Cuộc đời đẹp là dù ở cương vị nào cũng hy sinh hết mình vì tha nhân. Cho dẫu có thể hy sinh tính mạng nhưng cuộc đời họ tựa như hạt lúa chịu mục nát cho đời những bông lúa vàng ươm.

Chuyện kể rằng có một người  phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, người phụ nữ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng. Vì người mẹ đã dùng hết quần áo để quấn cho đứa trẻ. Có lẽ bà chết vì vượt cạn một mình trong đêm lạnh lẽo. Người phụ nữ đem bé về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình.

Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

“Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!” Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc: “Mẹ lạnh lắm phải không?””

Cái chết của người mẹ là cái chết đẹp. Một cái chết trở thành bất tử như lời Chúa Giê-su từng nói: “kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại”. Chính Chúa Giê-su đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu.

Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha “chân lấm tay bùn” đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.

Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?

Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui cùng những đam mê sở thích của mình để đem lại hạnh phúc cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B179: NỖI LÒNG CHA


Anna Cỏ may

 

Cuộc đời mỗi người như ngọn nến lung linh. Có lúc nó sáng rực lên cao, có lúc một cơn gió nhẹ MC 5-B179


Cuộc đời mỗi người như ngọn nến lung linh. Có lúc nó sáng rực lên cao, có lúc một cơn gió nhẹ làm nó đu đưa, ngã nghiêng, heo hút và bất chợt dập tắt. Đâu ai biết trước sự ra đi của mình để chuẩn bị trước, ngoài một mình Thiên Chúa mà thôi. Có một chân lý mà chúng ta không ai thay đổi được đó là sinh-lão-bệnh-tử.

Qủa thực, cái chết xảy ra với mỗi người đều khác nhau và cũng chẳng có ai ngờ trước được. Có nhiều sự ra đi như do tại nạn, do bệnh tật… Và chết vì mình thì dễ hơn chết vì người khác. Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đã thực hiện được điều ấy. Ngài luôn tràn đầy tình yêu và giàu lòng thương xót. Tình yêu của Ngài luôn thu hút mọi người chạy đến tìm Ngài. Lòng thương xót của Ngài thể hiện rõ nơi những người mù, kẻ què, người câm. Và chính Ngài cũng đã tự hủy, hy sinh, chịu chết để cứu độ nhân loại. Tuy nhiên, vì mang thân phận như con người, nên lúc gần vào cuộc đau khổ, cận kề cái chết, Ngài đã thốt lên “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy không biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). Một tâm hồn, một cõi lòng đang nặng trịu, đau buồn và cô đơn, không biết nói gì hơn. Ngài cảm nhận mình đang ngồi trong một căn phòng tối không thể thoát ra, chỉ nhìn thấy ánh sáng qua nhiều khe cửa sổ. Có ai hiểu Ngài? Ngài chỉ biết kêu lên Chúa Cha. Và từ trời cao vọng xuống “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”(Ga 12,29). Dầu đang đau đớn và tủi nhục là vậy, nhưng tình yêu và sự vâng phục của Ngài đã vượt qua sự yếu đuối ấy. Ngài tiếp tục đi vào cuộc đau khổ và chịu chết để thực hiện tình yêu ban đầu của Ngài. Ngài đã tự nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”(Ga 12,32).

Cho đến hôm nay, những lo âu sợ hãi về cái chết vẫn là một hữu thực nhức nhối và đó là một chân lý thật. Không ai là không khỏi sợ cái chết đến với mình. Dù sợ nhưng nhiều khi chúng ta không biết sống làm sao hay không biết sống thế nào cho tốt? Vì lẽ đó, chúng ta luôn cần Thiên Chúa ban thần khí để soi sáng tâm hồn mỗi người chúng ta, giúp ta vượt thắng những sợ hãi yếu đuối của bản thân và sống thánh thiện mỗi ngày hơn.

Lạy Chúa, cho đến bây giờ Chúa vẫn còn đang chịu khổ đau và cô đơn vì chúng con. Chúa không ngừng kêu lên Chúa Cha tha thứ cho chúng con và cho chúng con có cơ hội sửa mình. Chúng con xin Chúa tiếp tục soi sáng cho mỗi người chúng con nhận biết, đón nhận và cộng tác với Chúa trong từng công việc hằng ngày. Nhất là biết chuẩn bị một tâm hồn sốt sắng để thông phần vào sự sống vinh quang của Chúa. “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”(Rm 8,17). Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B180: ĐƯỢC TÔN VINH


Bông hồng nhỏ

 

Người đời luôn muốn được tôn vinh. Mang trong mình khao khát khẳng định bản thân, không ít MC 5-B180


Người đời luôn muốn được tôn vinh. Mang trong mình khao khát khẳng định bản thân, không ít lần ta cũng mong chờ một lời khen ngợi từ người khác. Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, hai chữ “tôn vinh” như chần chừ cứ đứng mãi trong tâm trí ta. Hai chữ ấy cứ cố tình lưu lại thật lâu, thật sâu để đụng vào cõi lòng ta.

Thời bấy giờ, Đức Giêsu rất nổi tiếng. Có nhiều người biết đến danh Giêsu nhưng chưa có dịp được gặp. Trong số những người đi dự lễ có mấy người Hy lạp cũng có ao ước ấy. Họ đến gặp ông Philipphê, một trong các môn đệ của Thầy Giêsu để xin được gặp Ngài. Tin Mừng kể lại “Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 22- 23). Thật lạ, hôm nay Thầy Giêsu nhắc đến hai chữ “tôn vinh”. Con Người sẽ được tôn vinh cách nào đây? Lắng nghe tiếp, Thầy Giêsu lại cho ta biết “Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24 ). Đó là quy luật tự nhiên của hạt giống. Điều đó ta cũng đã quan sát được khi trực tiếp gieo giống và chăm sóc cây trồng. Những điều Thầy dạy ngay sau đó cũng khiến ta phải suy tư. Ta đang đi theo Thầy đó thôi, một con đường không ít những khó khăn nhưng cũng nhiều những hồng ân. “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó”  (Ga 12, 25-26 ). Nhìn ngắm cuộc đời của Thầy Giêsu, ta thấy một cách thế sống rất ngược đời. Thầy là Thiên Chúa, là Vua Vũ Trụ nhưng đã xuống thế làm người, sống nghèo hèn, khiêm hạ. Cuộc đời của Thầy là những tháng ngày nối dài của yêu thương, tự  hiến. Tình yêu của Thầy là tình yêu của phục vụ và yêu thương đến cùng. Ta khao khát được trở nên môn đệ của Thầy. Và đây là điều ta sẽ sống và trải nghiệm từng ngày. Ta muốn phụng sự Chúa và ta đã theo Chúa để rồi Chúa ở đâu ta cũng ở đó với Ngài. Ngước nhìn Thánh giá, ta nhìn thấy nơi ta cũng sẽ được treo cao khi biết thông phần đau khổ của đời mình vào mầu nhiệm tự hiến của Thầy. Chúa Giêsu đã được tôn vinh như thế và được tôn vinh đến cùng khi Ngài phục sinh. Chúa đã ghét sự sống như lời Chúa đã khẳng định và Chúa đi vào một sự sống tuyệt vời mà những ai kiên trung bước theo Thầy cũng sẽ được chung hưởng. Phục vụ như Thầy là cúi xuống rửa chân, là dùng chính Máu Thịt làm của ăn nuôi sống linh hồn những người Chúa yêu khi cuộc đời ta trở nên tấm bánh bẻ ra cho những người ta gặp gỡ.

Lạy Chúa! Thật lạ lùng thay khi con được làm môn đệ Chúa. Xin Chúa dạy con hướng về Trời cao để lắng nghe tiếng phán từ Trời, tiếng ấy phán ra là vì con. Chúa biết rõ khát khao của lòng con. Xin Chúa lôi kéo, thúc đẩy và hướng khao khát của con quy hướng về Chúa, đúng với hai chữ được “tôn vinh” mà Chúa đã trải nghiệm và sống trước cho con. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B181: HIẾN TẾ


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Chu toàn sứ mệnh Cha trao, Giê-su Cứu Thế, bước vào chông gai. Hy sinh dâng hiến ngày mai MC 5-B181


Chu toàn sứ mệnh Cha trao,
Giê-su Cứu Thế, bước vào chông gai.
Hy sinh dâng hiến ngày mai,
Nhục hình chịu chết, mở khai Nước Trời.
Con Người dấn bước vào đời,
Chôn vùi sự sống, rạng ngời phục sinh.
Hạt mì gieo xuống lặng thinh,
Nẩy mầm sinh hạt, muôn hình đổi thay.
Ai yêu sự sống hôm nay,
Ngày mai sẽ mất, đời này đời sau.
Tâm hồn xao xuyến đớn đau,
Xin vâng chén đắng, sẽ mau tới gần.
Xin Cha cất khỏi tội trần,
Chu toàn thánh ý, chịu phần gian lao.
Vinh danh Chúa cả trên cao,
Muôn lời chúc tụng, tuôn trào thánh ân. 

Chúa Giêsu ví mình như hạt miến được chôn vùi xuống đất và thối đi để sinh nhiều bông hạt. Một hình ảnh rất sống động trong cuộc sống. Chúng ta có thể quan sát mọi loại hạt giống, nếu muốn được lưu truyền, hạt giống cần được gieo trồng, chôn vùi và tan rữa để trở thành mầm cây mới. Sự sống con người cũng thế, cần vượt qua sự chết, linh hồn mới thanh thoát trong sự sống mới vĩnh cửu.  

Trong những ngày cuối của hành trình rao giảng, Chúa Giêsu cảm thấy xao xuyến. Hướng đến những ngày sắp tới Chúa phải đối diện với khổ đau và sự chết. Chúa đã vén mở mục đích của mầu nhiệm nhập thể. Chúa đến để làm vinh danh Chúa Cha. Chúa sẽ hiến dâng mình làm của lễ hy sinh đền tội trên thánh giá và từ đó Chúa sẽ kéo mọi người lên cùng Chúa.   

Chúa đến để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu chấp nhận thân phận một người tôi tớ. Như tiên tri Isaia đã nói về người tôi tớ: “Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết, như chiên non trước mặt người xén lông, người thinh lặng chẳng hé môi.” (Is. 52,7). Đây chính là hình ảnh Chúa Giêsu khi bị điệu đến trước quan tòa. Chúa âm thầm chịu đựng từng giây phút khổ đau trong sự khinh bỉ và chế nhạo.   

Con đường cứu độ là con đường của thập giá. Cuộc sống của chúng ta phải chịu hao mòn, chịu thiệt thòi và chịu tan biến trong tình yêu. Chúa phán: “Không có tình yêu nào cao trọng hơn tình yêu của kẻ dám thí mình vì bạn hữu”. Chúa hiến thân vì yêu. Vì yêu, Chúa muốn chúng ta cùng được chia xẻ hạnh phúc với Ngài trong Nhà Cha.  

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, cao điểm của các nghi lễ phụng vụ. Mầu Nhiệm cứu độ sẽ được lập lại qua việc cử hành tưởng niệm Chúa chịu đau khổ, chịu chết và sống lại vinh quang. Chúng ta hãy suy niệm về mầu nhiệm tình yêu cao cả. Hãy thả mình trong biển tình yêu để gẫm suy về lòng thương xót của Chúa. Lạy Chúa, xin giúp còn ngước nhìn lên thánh giá. Chúa đang mời gọi: “Hãy đến với Ta hỡi những ai gồng gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho.”(Mt.11,28).

--------------------------------------

 

MC 5-B182: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_B


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

nghĩa về sự vinh quang của Người về cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Người để cứu độ nhân loại.

 

Đức Giêsu đã nói đến giờ của Người: “Đã đễn giờ Con Người được tôn vinh” . Giờ là chủ đề MC 5-B182


Đức Giêsu đã nói đến giờ của Người: “Đã đễn giờ Con Người được tôn vinh” . Giờ là chủ đề lớn trong tin mừng Gioan. Giờ mà Đức Giêsu chịu chết trên thập giá là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi, sự chết, chính là lúc Chúa Giêsu được tôn vinh là Đấng Cứu độ duy nhất: “Khi nào Tôi bị treo lên. Tôi sẽ kéo mọi người lên cùng Tôi… Các ông sẽ biết Ta hằng hữu”. Giờ của Đức Giêsu cũng là giờ mà Chúa được phục sinh từ cõi chết. Chính lúc Chúa tắt thở là lúc mà mọi người tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Viên sĩ quan đâm cạnh sườn Chúa đã đấm ngực va tuyên xưng: “Ông này quả thực là Thiên Chúa”. Tên trộm bên hữu Chúa cũng tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu: Khi Ngài vào Nước của Ngài xin nhớ đến con”. Nhiều người chứng kiến Chúa chết trên thập giáhôm ấy cũng tuyên xưng rằng: “Ông Giêsu là Thiên Chúa thật”.

Như thế giờ của Chúa là giờ thứ sáu tuần thánh và cũng là giờ của ngày Chúa nhật Phục sinh.

Muốn được phục sinh với Chúa trong vinh quang, chúng ta cũng phải sống giờ của mình như Đức Giêsu Kitô: Hy sinh, quên mình, chết đi với những tính hư nết  xấu, chết đi cho tội lỗi, kiêu căng, bất công… để được sống lại hưởng hạnh phúc muôn đời. Vinh quang luôn luôn phải trả giá rất đắt!

Đức Giêsu minh họa cuộc đời của Ngài như“hạt lúa gieo vào lòng đất phải mục nát đi, mới sinh nhiều bông hạt”. Để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu cũng phải chết đi để bước vào cõi sống muôn đời, phải chết đi mới được phục sinh. Như thế con đường thập giá, con đường tử nạn là con đường dẫn đến sự phục sinh. Trong sự chết đã ẩn tàng sự sống. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. chính Chúa Giêsu đã đưa ra nghịch lý của cuộc đời: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất. Ai ghét sự sống mình ở đời này, thì giữ được nó cho sự sống đời đời”. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta: Ai muốn theo Chúa thì không có đường nào khác ngoài con đường Chúa đã đi: con đường thập giá. Vì thế ai theo Người trên con đường khổ giá thì sẽ được vinh quang với Người.

Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ giá trị của Thập giá, của đau khổ. Con đường thập giá là con đường vinh quang. Ý nghĩa này giúp ta sống tinh thần tuần thánh, đồng thời thúc đẩy chúng ta vui nhận thập giá trong đời như cơ hội đền tội và lãnh nhận phần thưởng Chúa ban.

Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô cũng là sự từ bỏ, hy sinh và hoàn thiện của đời sống Kitô hữu. Cũng như Chúa Giêsu, người Kitô hữu đều được kêu mời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất để được kêu gọi tham gia vào việc cứu rỗi tha nhân qua việc kết hợp với Chúa Kitô.

--------------------------------------

 

MC 5-B183: HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT THỐI ĐI


Lm. Nguyễn Thái

 

Vào một đêm giông bão, gió thổi tứ phương, mưa như thác lũ, một cặp vợ chồng già dìu nhau MC 5-B183


Vào một đêm giông bão, gió thổi tứ phương, mưa như thác lũ, một cặp vợ chồng già dìu nhau vào văn phòng của một cái khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Với sự ngập ngừng e ngại, họ hỏi người thư ký: “Ông có thể kiếm cho chúng tôi một phòng ngủ qua đêm được không? Giờ này tất cả các khách sạn lớn đã không còn phòng nữa.” Người thư ký trả lời: “Thưa cụ, mọi phòng đã có người rồi, nhưng tôi không thể để ông bà cụ ra ngoài trời mưa vào lúc 1 giờ sáng như thế này được. Xin hai cụ cho biết hai cụ có thể ngủ trong phòng của tôi được không?” “Nhưng còn ông thì ngủ ở đâu?”, người khách hỏi. “Ồ, không sao, tôi có cách mà,” người thư ký trả lời, “Đừng lo cho tôi.” Sáng hôm sau, khi trả tiền phòng, ông cụ đã nói với người thư ký trẻ, người đã nhường phòng cho cụ: “Ông là người quản lý tốt, ông phải là quản lý của một khách sạn đẹp nhất nước Mỹ. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ xây cho ông một cái.”

Hai năm sau, người thư ký trẻ đó nhận được một lá thư có kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, và một lá thư của ông cụ trong đêm mưa bão, yêu cầu người thư ký đến gặp ông tại thành phố New York, lớn nhất nước Mỹ. Ông cụ dẫn người thư ký tới góc đại lộ số 5 và đường 34, khi chỉ tay về một tòa nhà trọc trời mới xây, ông tuyên bố: “Đây là khách sạn tôi vừa mới xây xong dành cho ông điều hành.” Xúc động không nói nên lời, người quản lý trẻ tuổi tên là George C. Boldt, chỉ nói lắp bắp được mấy câu cám ơn. Người đại ân nhân của ông quản lý chính là William Waldorf Astoria. Ngày nay khách sạn đó được xếp vào loại sang trọng bậc nhất, chính gốc của dòng họ Waldorf Astoria.

Một hành động hy sinh nhỏ tạo nên một mối lợi lớn. Người quản lý trẻ phải hy sinh ngủ ngoài phòng ngủ của mình đêm hôm đó để nhường phòng cho ông bà cụ. Anh đã hy sinh bản thân mình đang khi nghĩ đến ích lợi của người khác (1 Cr 10:24). Sự hy sinh của anh như hạt giống được gieo xuống đất, vài năm sau nó đã nẩy mầm, đâm chồi nẩy lộc (Mt 13:23) khi anh trở thành người quản lý của khách sạn sang trọng nhất New York.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 12: 20-33, Chúa Giêsu đã nói: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.”

Đây là một nguyên tắc căn bản trong đời sống thiêng liêng: chỉ có sự hy sinh bản thân mình -self-denial, tự hủy diệt – dying to himself – con người ích kỷ của mình, mới phát sinh được hoa trái. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài tự nguyện chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập giá (Gl 5:24): Ngài hy sinh bản thân mình để mang lại sự cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.

Tự hy sinh bản thân mình là điều cần thiết để chiến thắng tính ích kỷ, kiêu căng, và những dục vọng cá nhân làm cản trở sự phát triển bản tính tốt đẹp bên trong con người chúng ta (Rm 13:13). Một người luôn luôn nghĩ về mình bị rơi vào trong cái lồng cạm bẫy của cái “tôi” đáng ghét (Gl 6:2). Và hậu quả là, người ấy không thể nhận diện ra con người thật sự của mình là ai và sự liên hệ giữa họ với Đấng Tối Cao.

Theo quan điểm của Ấn Độ giáo, từ chối “cái tôi” chính là con đường để đi tìm cái “tôi” siêu việt thực sự, và trở nên một với Thực Tại Tối Cao. Do đấy, chúng ta thường thấy các đạo sĩ Ấn Độ sống một đời khổ hạnh, tập luyện những cách thế chế ngự bản thân rất nghiêm khắc. Có vị luyện tập đứng liên tiếp trong suốt 12 năm trời, đến độ hai bàn chân đều sưng phồng lên.

Phật giáo cũng dạy rằng con đường dẫn tới mục đích của tôn giáo đòi hỏi một người phải từ bỏ chính mình và dục vọng của mình. Tất cả những sự tập luyện như ngồi thiền, suy niệm, đều nhằm đạt đến tình trạng vô vi, vô ngã. Diệt dục để nhằm tới sự hiệp nhất với Đại Ngã, Hữu Thể Tuyệt Đối.

Và theo quan điểm của Kitô giáo, sự từ bỏ chính mình là cách thế để phục hồi lại con người thật sự của mình đã được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (Cl 3:10). Tất cả những quan điểm trên đều khẳng định một sự nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25).

Cây tre là một loại cây đa dụng, rất có ích lợi cho đời sống ở nông thôn. Để mang lại ích lợi này, cây tre phải biết chấp nhận hy sinh chính bản thân mình. Tác giả William Hoffsuemmer đã diễn tả tâm sự của một cây tre như sau:

Có một bác nông dân nọ, trồng được một bụi tre sau nhà. Ngày ngày bác ra ngắm bụi tre, thấy tre mọc cao hơn, lớn hơn, xanh tươi hơn, bác vui lắm! Một ngày nọ, bác nông dân lượn qua lượn lại, ngắm nghía bụi tre thật kỹ càng, từng cây một. Rồi bác đứng trước một cây tre cao nhất, to nhất, đẹp nhất và nói: “Chà cây tre này có lý lắm nghe, ta cần cháu lắm tre ơi!” Cây tre vui vẻ trả lời: “Thưa bác, cháu luôn sẵn sàng cho bác dùng cháu vào bất cứ việc gì!” Nghe vậy bác nông dân mới thẳng thắn nói: “Nhưng để dùng cháu, ta phải chặt cháu xuống.” Cây tre hoảng quá, phản ứng lại ngay: “Chặt cháu xuống à? Tại sao vậy bác? Cháu là cây tre đẹp nhất trong vườn bác mà! Thôi đi bác! Hãy dùng cháu vào bất cứ việc gì bác muốn, nhưng đừng chặt cháu xuống!” Rồi tre khóc!

Bác nông dân tội nghiệp cây tre mới nhỏ nhẹ khuyên lơn: “Này cháu, nghe bác này, nếu bác không chặt cháu xuống, thì bác không thể nào dùng cháu được!” Tre im lặng một lúc không nói. Ngay cả gió cũng im hơi lặng tiếng, nín thở. Bầu không khí hoàn toàn im bặt. Thế rồi cây tre từ từ cúi đầu xuống thì thầm: “Thưa bác, nếu cái cách duy nhất bác dùng cháu là phải chặt cháu xuống thì thôi bác cứ làm theo ý bác đi!”

Bác nông dân thở phào nhẹ nhõm, rồi lại ngậm ngùi nói: “Cháu à! Nhưng đấy mới chỉ là một phần thôi, ta sẽ còn phải tỉa tất cả cành lá trên mình cháu đi nữa!” Cây tre sợ hãi kêu lên: “Chúa ơi! Xin cứu con với! Thế là kết thúc tất cả vẻ đẹp mỹ miều của đời con rồi! Còn đâu màu xanh tươi nõn nà, còn đâu thân hình mềm mại thon thả, còn đâu những chiếc lá hình móng tay cong vút! Xin cho con giữ lại chỉ một cành thôi, một chiếc lá nhỏ kỷ niệm thôi! Please! Please! Bác nông dân lại thương hại trả lời: “Nếu ta không cắt tỉa các cành lá thì ta cũng không thể dùng cháu được!”

Hoàng hôn đã buông rơi. Mặt trời ngại ngùng giấu mặt sau bụi tre. Những cánh bướm cũng phân vân bối rối chập chờn qua lại. Cây tre cảm thấy đau buốt từ trong lòng, nhỏ nhẹ thưa với bác nông dân: “Thưa bác, xin hãy làm theo như ý bác muốn!” Bác nông dân xúc động nói: “Cháu yêu quý, bác đau đớn còn hơn cháu nữa. Bác còn phải chẻ cháu ra làm hai, róc tất cả ruột gan bên trong của cháu ra nữa. Nếu không, bác cũng không thể dùng cháu được.”

Cây tre lại im lặng một hồi, rồi cong người cúi xuống thật thấp sát đất, khiêm tốn nói: “Thưa bác, xin bác hãy chặt cháu xuống, tỉa hết các cành lá, chẻ cháu ra làm hai, và róc tất cả những mắt mấu trong ruột cháu như bác muốn!” Thế là bác nông dân lấy dao ra, chặt cây tre xuống, róc tất cả cành lá xum xuê đi, chẻ tre ra làm đôi, moi móc cẩn thận những mắt mấu bên trong. Rồi bác vác cây tre ra đi, băng ngang qua những cánh đồng khô cạn, tới một con suối gần đó. Bác nối cây tre với dòng suối nước để tre trở thành máng dẫn nước vào cánh đồng khô cằn. Có nước, đồng lúa mọc tươi tốt, trổ bông, phát sinh lúa gạo nuôi sống bác nông dân và gia đình. Và như thế, chỉ khi cây tre biết chấp nhận hy sinh, bị chặt xuống, bị tỉa cành lá, bị chẻ đôi ra, róc hết ruột gan đi, nó đã trở thành một cái ống máng dẫn nước từ nguồn suối chảy vào cánh đồng, nuôi dưỡng mùa màng.

Giống như cây tre, muốn mang lại ích lợi, chúng ta phải chấp nhận sự hy sinh, tự hủy mình đi, tự hư vô hóa chính mình, để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa, như thư gửi tín hữu Do Thái đã diễn tả về Chúa Giêsu trong bài đọc thứ hai: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu, và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (Dt 5:8-9).

Sách Giáo Lý Công Giáo khuyên chúng ta bước theo gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô như sau: “Dân Thiên Chúa dự phần vào chức năng vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô hành sử vương quyền của mình khi thu hút mọi người lại với Ngài bằng cái chết và sự Phục Sinh của Ngài (Ga 12:32). Đức Kitô, Vua và Chúa vũ trụ, đã hạ mình làm đầy tớ của mọi người, vì Ngài “đến”, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28). Đối với các Kitô hữu, “cai trị là phục vụ Ngài” (Lumen Gentium 36), nhất là phục vụ “những người nghèo và những người đau khổ, vì nơi những người này, Giáo Hội nhận ra hình ảnh nghèo khó và đau khổ của Đấng Sáng lập của mình” (Lumen Gentium 8). Dân Thiên Chúa thực hiện “phẩm chức vương giả” của mình bằng cách sống phù hợp với ơn gọi của mình là phục vụ cùng với Chúa Kitô” (số 786).

Chúng ta sắp sửa bước vào Tuần Thánh, tưởng niệm sự thương khó và cuộc tử nạn Chúa Giêsu đã chịu để mang lại ơn cứu rỗi cho nhân loại. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá đang kêu lên thảm thiết: Lạy Cha, sao Cha bỏ con? Người đang bị treo lên cao, đang bất động hoàn toàn trong cái chết sống động. Chính lúc đó, khi trở nên cóng lạnh, Chúa đã ném lửa xuống trần gian; và khi bất động không cùng, Chúa đã trút sự sống vô biên của Chúa xuống trên chúng con. Giờ đây chúng con sống trong viên mãn và hoan say; dù chỉ nên giống Chúa một phần nhỏ thôi, và kết hợp đau khổ của con với đau khổ của Chúa để dâng lên Chúa Cha; như thế cũng đủ cho con rồi. Con tin chắc rằng hơn bao giờ hết trong những giờ phút này, bao ánh sáng và lửa đang ùa vào trần gian.

--------------------------------------

 

MC 5-B184: CHỊU MỤC NÁT HAY VẪN TRƠ TRỌI?


 Lm. Trịnh Ngọc Danh

 

Con người sinh ra để sống rồi lại phải chết. Chết là tận số của một kiếp người. Ai cũng quý mạng MC 5-B184


Con người sinh ra để sống rồi lại phải chết. Chết là tận số của một kiếp người. Ai cũng quý mạng sống mình. Ốm đau thì đi bác sĩ, uống thuốc. Chẳng ai muốn chết.Nhưng có một Đấng lại có một triết lý sống ngược lại với thực tại trên: sống để chết và chết để sống. Đấng ấy là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Để minh họa cho chân lý trên, Đức Giêsu đã đưa ra ví dụ về hạt giống được gieo vào lòng đất: “ Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” Áp dụng vào cuộc sống của mỗi người, Đức Giêsu lại bảo: “ Ai yêu qúy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” ( Ga 12: 24-25) Mạng sống phải chết đi như hạt giống gieo vào lòng đấ,phải mục đi thì mới sinh nhiều hoa trái; ngược lại, hạt giống không mục đi như người yêu mạng sống của mình thì sẽ mất. Nhưng như thế nào là hạt chịu mục nát và hạt vẫn trơ trọi?

Khi nói như trên, Đức Giêsu không khuyến khích chúng ta ghét bỏ hay coi thường mạng sống của mình; ngược lại, Ngài còn dạy chúng ta phải biết tôn trọng mạng sống của mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai, nếu chúng ta không biết yêu mến chính con người của mình. Điều quan trọng chúng ta cần biết là sống mà như chết thế nào để từ cái chết ấy có sự sống đời đời.  Ngài muốn chúng ta coi thường mạng sống của mình cho một mục đích cao cả hơn là phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.Sự chết ờ đời này là một phần của sự sống mai sau. Chúng ta được sinh ra rồi chết đi, nhưng chính khi chết đi, chúng ta mới có được sự sống trọn vẹn: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Mục nát đi, theo như lời kêu gọi của Đức Giêsu, không phải là hủy hoại sự sống của mình ở trần gian này, nhưng là chết đi cho tội lỗi,từ bỏ ý riêng của mình, hy sinh bản thân mình vì Chúa, vì tha nhân. Mục nát ở đây là chịu biến đổi, chịu hy sinh quên thân mình vì người khác, vì Chúa, vì hạnh phúc mai sau.

Hạt giống không chịu mục nát đi là hạt giống chỉ sống cho chính mình, quí mạng sống mình ở đời này hơn mạng sống vĩnh cửu mai sau, là tìm vinh quang cho riêng mình, là tìm mọi cách để thỏa mãn những dục vọng trấn thế hơn là chịu mục nát để tìm cuộc sống vĩnh cửu mai sau.

Trái lại, hạt giống chịu mục nát là hạt giống hy sinh chính bản thân mình để tìm được sự sống vĩnh cửu đời sau. Hạt giống chịu mục nát đi là hạt giống chịu biến đổi, chịu cải hóa kiếp sống này vì sự sống ngày mai. Chịu mục nát đi là từ bỏ ý riêng của mình để vâng theo thánh ý Chúa, là chết đi cho những đam mê dục vọng tội lỗi làm con người xa rời tình thương của Thiên Chúa.

Đức Giêsu là tấm gương của hạt giống chịu mục nát. Sự mục nát của Ngài đã mang lại nhiều hoa trái cho nhân loại: “ Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã đạt tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho nhửng ai tùng phục Người.”( Dt 5: 8-9 ) Đức Giêsu chịu mục nát khi chỉ vâng theo thánh ý Chúa Cha: Xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý con mà theo ý Cha. Ngài chịu mục nát khi chấp nhận cái chết nhục nhã, khổ đau trên thập giá vì yêu thương nhân loại.Qua cái chết của mình, Đức Giêsu đã được tôn vinh, và cái chết của Ngài sẽ mang lại sự sống vĩnh cửu cho những ai bước theo gương mục nát của Ngài.

Như những người Hy lạp khao khát muốn gặp Đức Giêsu, và qua trung gian của các môn đệ,họ đã gặp được Đức Kitô, và Ngài đã hé mở cho họ biết đâu là con đường dẫn họ đến sự sống muôn đời. Đức Giêsu và Giáo Hội đã cho chúng ta gặp Thiên Chúa, biết con đường nào dẫn đến sự cứu độ của Thiên Chúa; nhưng chúng ta đã chịu mục nát theo gương Đức Kitô hay vẫn còn trơ trọi một mình!

--------------------------------------

 

MC 5-B185: HẠT LÚA GIEO VÀO LÒNG ĐẤT


JM. Lam Thy

 

Khi dân chúng thấy Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, “họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và MC 5-B185


Khi dân chúng thấy Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, “họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!” (Ga 12, 13). Trong số đó có mấy người Hy Lạp đến gặp ông Phi-lip-phê xin được gặp Đức Giê-su. Ông Phi-líp-phê nói với ông An-rê, rồi cả 2 ông cùng đến thưa với Đức Giê-su. Đức Giê-su trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12, 20-33). 

Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ba lần Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương khó và Tử nạn của Người (Lần thứ nhất: xc. Mt 16, 21-27; Mc 8,  31-33; Lc 9, 22. Lần thứ hai: xc. Mt 17, 22-23; Mc 9, 30-32; Lc 9, 43-45. Lần thứ ba: xc. Mt 20, 17-19; Mc 10, 32-34; Lc 18, 31-34). Điều ấy làm cho các môn đệ thất vọng. Giờ đây họ đang có mặt tại nơi sẽ xảy ra điều Người đã tiên báo, nên chắc họ cảm thấy tinh thần nao núng. Nhưng Đức Giê-su muốn họ nhìn cái chết của Người theo ý nghĩa kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã ấn định. Trước hết, Người cho họ biết giờ chết của Người là “giờ Con Người được tôn vinh”. Rồi để giải thích “được tôn vinh” như thế nào, Người sử dụng dụ ngôn cái chết của hạt lúa là khởi đầu cho tiến trình “sinh được nhiều hạt khác” (Bài Tin Mừng CN V.MC-B – Ga 12, 20-33).

Nhiều người chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay cho rằng: “Như hạt lúa miến gieo xuống đất phải mục nát đi mới có thể nảy sinh nên những cây lúa miến tươi tốt trổ sinh nên bao hạt lúa miến khác”. Nếu căn cứ vào thực tế sẽ thấy không phải như vậy, vì hạt lúa gieo vào lòng đất không hề mục nát, bởi nếu mục nát thì không thể mọc thành cây lúa rồi trổ sinh hoa trái được. Thực sự, hạt lúa chỉ hư đi 2 mảnh vỏ trấu bên ngoài khi hạt gạo bên trong nảy mầm (đâm rễ và trổ sinh 2 cái lá đầu tiên). Thực ra, Đức Ki-tô cũng không hề nói mục nát, mà Người dùng tiếng “chết” để chỉ sự biến đổi từ sự chết sang sự sống: Cái hình hài bề ngoài là 2 mảnh vỏ trấu (ám chỉ thân xác con người) chết đi để mầm sống bên trong là hạt gạo (linh hồn) nảy sinh cây lúa khác (thu nhận các tín hữu mới). Đức Ki-tô luôn dùng sự mâu thuẫn hay đối kháng trong vật chất hoặc cuộc sống loài người để nêu bật lên chủ ý của Người. Cũng trong bài Tin Mừng hôm nay, từ vấn đề chết – sống của hạt lúa miến, Người muốn nhấn mạnh đến sự sống vĩnh cửu mai sau:

Người đã từng dạy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như yêu chính mình.” (Mt 22, 37-39). Nay Người lại dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất” (Ga 12, 25). Như vậy thì có gì mâu thuẫn không? Muốn “Yêu anh em như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân”) thì tiên vàn phải yêu bản thân trước đã, nhiên hậu mới có thể san sẻ tình yêu ấy cho anh em. Không ai có thể ghét bản thân để đi yêu tha nhân được. Chính vì thế, mới nghe qua “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất” thì thấy có vẻ mâu thuẫn, nhưng nếu bình tĩnh đọc tiếp Lời dạy của Đức Ki-tô sẽ hiểu rõ Người muốn dạy thế nào (“còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” – Ga 12, 25). Coi thường (xem nhẹ) mạng sống ở đời này, sẵn sàng từ bỏ nó (từ bỏ chính mình) thì mới có hy vọng đến được với sự sống đới đời.

Cũng đã có một thời gian ở Việt Nam (trước năm 1975) nổi lên phong trào đưa ra khẩu hiệu “cái tôi đáng ghét”. Tìm hiểu kỹ phong trào này, thấy mâu thuẫn ngay từ cơ bản. Tại sao thế? Nếu anh thực sự ghét cái tôi của anh thì anh cứ việc ghét và trừ khử nó đi, chẳng cần phải lu loa với mọi người làm chi. Sở dĩ anh hô hoán lên “cái tôi đáng ghét” chỉ cốt để thiên hạ thấy và thán phục anh là con người biết sống khiêm tốn (không đề cao “cái tôi”) và có lòng vị tha (tôn trọng, yêu mến tha nhân). Như vậy thì chẳng phải là anh đã quá yêu anh và còn muốn mọi người yêu mến tôn trọng anh nữa đó sao? Thông thường tâm lý con người luôn chỉ biết yêu mình, yêu mình hơn tất cả, còn đối với anh em thì… hãy đợi đấy! Chính vì thế nên Đức Ki-tô mới dạy “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7, 12). Quả thật mình có yêu bản thân mới mong muốn người khác làm cho mình những điều tốt đẹp, vậy thì hãy làm cho anh em những điều tốt đẹp như mình mong ước anh em làm cho mình. Đó là một cách diễn tả khác của Lời dậy “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Khổng Tử cũng dạy tương tự: “Điều gì mình không muốn (người khác) làm cho mình, thì (mình) cũng đừng làm cho người khác” (“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Luận Ngữ).

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay nói về “Hạt lúa cần phải chết đi”. Quả thật 2 mảnh vỏ trấu bên ngoài hạt gạo (hình ảnh thân xác con người) phải chết đi thì hạt gạo mới nảy mầm sống mới và sinh nhiều hạt lúa khác. Mạng sống con người nơi trần thế là tro bụi tất nhiên sẽ trở về với bụi tro, nếu cứ bám chặt lấy những hư danh phù phiếm chóng qua trên đời, thì chắc chắn sẽ mất tất cả. Còn nếu chân nhận được cuộc sống trường tồn vĩnh cửu mai sau sẽ “khóc lóc nghiến răng” hay “chan hoà hạnh phúc” là tuỳ thuộc ở chỗ ngay trong cuộc sống tạm bợ này có biết sẵn sàng “coi thường mạng sống mình” hay không mà thôi. Và như thế thì Lời dạy của Đức Ki-tô đã rõ ràng như 2 với 2 là 4: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” (Mt 16, 26). Người cũng không dạy suông mà lấy ngay chính mạng sống trần thế của Người để minh họa, dẫn chứng cho Lời dạy chí tình chí nghĩa ấy (“Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” – Pl 2, 8-9).

Hỡi “cái tôi” (đáng yêu hay đáng ghét?!!) của tôi ơi! Hãy lắng nghe: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro. Ôi! Thân phận con người tựa bông hoa nở tươi. Một làn gió nhẹ lung lay cũng biến tan sắc màu.” (Kim Long – “Hỡi người” – TCCĐ). Ôi! Lạy Chúa Giê-su! Xin cho con được sáng mắt sáng lòng nhìn ra thân phận yếu hèn mỏng manh như đoá hoa phù dung sớm nở tối tàn của con, để con luôn biết can đảm từ bỏ cái tôi – cái xác phàm tục như hai mảnh vỏ trấu của hạt lúa mì – mà sống theo Lời Chúa dạy, ngõ hầu được như Thánh Phao-lô thủa xưa: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 19-20).

Ôi! Lạy Chúa! “Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.” (Tv 50, 7-9). Ôi! “Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Đức Giê-su Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” *(Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật V Mùa Chay)

--------------------------------------

 

MC 5-B186: AI YÊU QUÍ MẠNG SỐNG MÌNH THÌ SẼ MẤT


 Fx Đỗ Công Minh

 

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan cho mỗi người tín hữu chúng con nhận ra điều kiện để MC 5-B186


Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan cho mỗi người tín hữu chúng con nhận ra điều kiện để gặp được Chúa Giêsu. Những người Hy Lạp ngày đó chắc chưa hề biết Chúa, có chăng họ mới chỉ nghe nói về Người. Nhân ngày Lễ  Vượt qua, một Lễ lớn của người Do Thái, họ biết Chúa Giêsu chắc sẽ tham dự nên nhờ ông Philipphê giới thiệu. Nghe biết điều ấy, Đức Giêsu đã nói về thời gian của Người :” Đã đến giờ Con Người được tôn vinh “ . Nhân dịp này Chúa cho các ông biết về việc Người sắp phải đi vào cuộc thương khó. Với hình ảnh rất ấn tượng : Hạt lúa mì, một lọai hạt giống rất gần gũi với dân tộc Do Thái. Như nhiều lần Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để giảng dạy. Lần này Người ví chính mình như một hạt lúa mì, muốn trổ sinh nhiều bông hạt phải vùi sâu trong lòng đất, phải chịu đau đớn nứt  lớp vỏ bên ngòai, tức là chết đi, để phần hạt nhân bên trong nẩy mầm, đâm rễ hầu trở thành những đọt cây vươn lên mặt đất, trưởng thành sinh sôi nhiều bông hạt. Còn không chấp nhận tự hủy mình, nó sẽ trơ trọi, vô tác dụng. Một cách tiên báo về cuộc tử nạn và Phục sinh của Người sắp trải qua. Cũng qua đây, Chúa muốn mời gọi những ai muốn đến với Người: ” Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất;  còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại cho cuộcsống đời đời ”. Đức Giêsu cũng hứa cho những người muốn theo Người : ” Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy “.

Giáo hội Việt Nam chúng con, cách riêng tại Giáo phận Saigon, những ngày này đang chìm trong đau thương theo sự thông thường của cuộc sống con người. Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc đã được Chúa đưa về nước Người, ngay trong thời gian đức cha về  lại nơi cội nguồn của Hội Thánh, viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phao Lô. Ai ai cũng thương tiếc, ai ai cũng xót xa. Nhưng trong lòng tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, chúng con nhận ra rằng Đức Tổng Phaolô như hạt lúa mì được vùi sâu trong lòng đất sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. Cho đến những giờ phút cuối đời, Đức Cha đã sống đời “Tự hủy”, phó thác trọn đời mình cho Chúa, dâng Thánh lễ cuối cùng của cuộc đời tận hiến với lòng hân hoan, với niềm xác tín muốn hiến trọn đời mình làm của Lễ dâng lên Thiên Chúa, như  bài ca “Hy lễ cuối cùng”:

Lạy Chúa, trọn đời con hiến dâng cho Ngài, trọn đời con bước theo chân Ngài. Con muốn Chúa ở đâu, thì cho con ở đó, để trọn đời con dâng làm hy lễ, để trọn đời con trong Chúa muôn đời”

Xin cho con những ngày mùa Chay Thánh này, qua biến cố về sự ra đi của vị chủ chăn, người con của Chúa là Đức Tổng Phaolô Bùi Văn Đọc, con càng ý thức hơn về thân phận mình, làm sao để sống xứng đáng là hạt lúa mì của Chúa. Con cũng sẽ trở về nơi mình xuất phát, nhưng con có trổ sinh được điều gì tốt đẹp trước mặt Chúa và mọi người ?

Xin Chúa giúp con, Chúa ơi !

------------------------------

 

MC 5-B187: CHẾT LÀ KHỞI ĐẦU ĐỜI SỐNG MỚI


Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

 

Hạt lúa mang mầm sự sống, nhưng có chết đi mới sinh nhiều bông hạt, nếu không chết đi, nó MC 5-B187


Hạt lúa mang mầm sự sống, nhưng có chết đi mới sinh nhiều bông hạt, nếu không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Đó là quy luật của mọi mầm sống hướng tới ngày sinh hoa kết trái. Nhưng trước cái qui luật ấy, ai cũng sợ hãi, kể cả Đức Giê-su, vị Thiên Chúa làm người: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.

Tuy xao xuyến, sợ hãi trước ‘Giờ chết’, nhưng Đức Giê-su đã ý thức rằng: Chính lúc chết đi là thời khắc “Con Người được tôn vinh”. Nên Ngài đã sẵn sàng thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến” trong trần gian.

Quả thật, Đức Giê-su đã can đảm, tự nguyện chấp nhận chết treo trên cây thập giá và bị chôn vùi trong lòng đất, rồi ngày thứ ba mới sống lại vinh quang. Hơn nữa, Đức Giê-su có chấp nhận chết đi và chết một cách nhục nhã như thế, thì Hội thánh mới được sinh ra và mọi người mới được kéo lên cùng Thiên Chúa.

“Chết đi để được bước vào đời sống mới” là quy luật của sự sống tự nhiên cũng như sự sống siêu nhiên. Thế nhưng con người, nhất là người thời nay, kể cả các Ki-tô hữu thường chỉ áp dụng quy luật này trong việc tìm kiếm vinh quang trần thế và hạnh phúc đời này, còn sự sống và hạnh phúc đời sau thì chẳng thấy mấy ai. Cụ thể:

Có người sẵn sàng thức khuya dạy sớm, lao tâm khổ tứ để làm giàu, nhưng lại ngại khó ngại khổ trong đời sống đạo.

Có người học đủ mọi thứ, đọc đủ mọi chuyện, nhưng lại không chịu học giáo lý, không chịu đọc Tin Mừng.

Có người tham gia mọi cuộc chơi, không cuộc vui nào vắng mặt, nhưng lại ngại ngùng không tham gia hoạt động tông đồ.

Có người đi đủ mọi nơi mọi chỗ, nhưng nhà thờ, nhà xứ, lễ lạy không thấy đi bao giờ.

Có người tôn thờ, sùng bái mọi thứ, nhưng lại không chịu tôn thờ Chúa.

Có người sẵn sàng đầu tư tiền của, sức khoẻ, thời gian, tâm huyết cho công việc thế trần, nhưng lại chểnh mạng coi nhẹ việc đầu tư cho Nước Trời mai sau.

Có người cẩn thận tuân theo ngày tháng và ‘tứ thời bát tiết’ trong trời đất, để điều chỉnh cuộc sống và thu xếp công việc làm ăn, nhưng lại chẳng tuân theo ngày tháng và Mùa trong năm Phụng vụ mà điều chỉnh cuộc sống và thu xếp việc linh hồn

Có người tận tâm phục vụ mọi đối tượng đến nỗi bán rẻ cả nhân phẩm và coi thường mạng sống của mình, nhưng lại ngại ngùng phục vụ Đức Ki-tô và Vương quốc của Ngài.

Sống như thế là chỉ lo giữ mạng sống mình và tìm kiếm những sự đời này. Đức Giê-su dạy rằng: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời sau. Ai tin theo và phục vụ Thày, thì Thày ở đâu, kẻ tin theo và phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”.

Lạy Chúa Giê-su, Ngài là hạt lúa mì của Thiên Chúa Cha gieo xuống cánh đồng trần gian đã vui lòng chết đi trên cây thập giá và phục sinh vinh hiển, để khai mở cho nhân loại một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Xin cho con cũng biết đóng đanh tính xác thịt, thế gian và tội lỗi cùng với Chúa, để được cùng với Ngài trỗi dậy trong vinh quang vĩnh cửu. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B188: ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH


P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn,

 

Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật V MC hôm nay  trình thuật cho chúng ta một bối cảnh “dầu MC 5-B188


Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật V MC hôm nay  trình thuật cho chúng ta một bối cảnh “dầu sôi, lửa bỏng”, bởi vì, “ hành trình” Tử Nạn và PHục Sinh của Chúa Giêsu lên Giêrusalem sắp diễn ra.

Có mấy người Hy-lạp, lên Giêrusalem để thờ phượng Thiên Chúa, nghe danh tiếng Chúa Giêsu, họ muốn gặp gỡ Người, liền tìm đến ông Phi-lip –phê người Betsaiđa, miền Ga-li-lê, để xin  được gặp Chúa Giêsu. ông Phi-lip-phê liền đi gặp ông An-rê, hai người đến thưa với Chúa Giêsu, thì Người trả lời rằng : “ Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !” ( c 23)

Như chúng ta biết, Mầu Nhiệm Nhập Thế và Nhập Thế của Chúa Giêsu là một Mầu Nhiệm làm Người, để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.

Vì vậy, khi “ Đến giờ Con Người được tôn vinh”, có nghĩa là đồng nghĩa với “Con Người phải chịu Tử Nạn”, như vậy, cuộc tử Nạn của Chúa Giêsu là một Mầu Nhiệm, vì thế khi nói đến Mầu Nhiệm là nói đến “chương trình” bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn có “kế hoạch” của Ngài, mà, mà ngôn ngữ nhân loại gọi là “Thánh Ý” nhiệm mầu. Vì vậy, tất cả mọi biến cố trong cuộc đời Cứu Thế của Chúa Giêsu là một Mầu Nhiệm.

Khi nói đến “Mầu Nhiệm”, thì phàm nhân không thể nào hiểu thấu “Thiên Ý” của Thiên Chúa, dù ngay lúc bấy giờ những người chứng kiến thân cận với Đấng Cứu Thế cũng không thể hiểu được., huông chi là thế hệ chúng ta.

Nhưng, qua sự mạc khải từ ân sủng muôn đời, phàm nhận đồi lúc nhận được do tình thương bởi Thiên Chúa, Đấng là tình yêu muôn thuở., nói ra những Ý Định Nhiệm Mầu cho chúng ta.

Hôm nay đây, theo Tin Mừng (Ga 12, 20 – 33), Chúa Giêsu cho chúng ta biết, “ hạt lúa mỳ gieo vào lòng đất không chết đi, thì vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chêt đi nó mới sinh nhiều bông hạt “ ( c 24)

Lời Chúa cho chúng ta thấy một nghĩa đen, một hình ảnh truyền sinh, có nghĩa là “lưu truyền sự sống”, có nghĩa là : hạt giống nảy mầm là hạt giống tốt, hạt giống ấy không thể còn nguyên như hình dạng ban đầu, mà là phải “ chết “ đi. Cái chết cho chúng ta thấy sự hư nát, sự thối rửa, sự tan rã.. Như vậy, thân hạt lúa phải đau đớn, phải chuyển đổi, phải cọ sát, chứ không y nguyên được.

Từ đó, chúng ta hiểu được hành trình làm người của một đời người và đến “hành trình” Cứu Chuộc trong Mầu Nhiệm Làm Người của Chúa Giêsu như thế nào. Từ đó, chúng ta.hiểu được câu kế tiếp ( c 25) “ Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất: còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

Câu nói ấy của Chúa Giêsu đường như nghe” chói tai”, ngược đời, đối vối người đời.nhưng thật là chân lý, bởi vì, “ hạt lúa gieo vào lòng đất, nếu không chết đi thì nó trơ trọi một mình…”. Như vậy, khi hạt lúa chết thì chính lúc nó vực dậy sự sống truyền sinh.

Từ đó, một định nghĩa đúng cho Lời của Chúa Giêsu là  : Con người ( phàm nhân) là sáng tạo và cống hiến.. Vâng, thật ra “ SÁNG TẠO và CỐNG HIẾN”. chính là hình ảnh của Thiên Chúa, thật ra người đời không thể làm được điều nầy, nếu người đời không  có Thiên Chúa.

Những ai mang hình ảnh Thiên Chúa đều muốn thực thi chân lý nầy, “Sáng Tạo và Cống Hiến” là hình ảnh Thiên Chúa, là hạt lúa gieo vào lòng đất, là nhận lãnh và trao ban.

Theo đó Lới Chúa không phải là “ ngườc đời” mà là đế Cứu Đời theo chân lý. Cứu đời không phải “cầm tiền” cho tha nhân theo nghĩa đen, mà là thực thi công lý và tình thương theo Tin Mừng của Chúa Giêsu..

Phần thứ 2:

Chúng ta thấy Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vang vọng Đất Trời, minh chứng lời của Người là chân lý từ trong Thiên Chúa, và thấu động  đến Thiên Chúa là Cha. Tâm hồn Chúa Giêsu cũng xao xuyến bồn chồn, một tâm hồn ưu tư, buồn não cho thế nhân.
Đến độ, Người thốt lên Lời :” Lạy Cha xin tôn vinh Danh Cha”
Liền có tiếng vọng xuống : “ Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” ( c 28)

Như vậy đây là lần thứ ba, tiếng phán từ Trời bởi Thiên Chúa Cha, minh chứng Đức Kitô – Giêsu là Người Con Chí Ái.

-Lần thứ nhất : Người Chịu Phép Rửa.

-Lần thứ hai: Người biến hình trên núi.

-Lần thứ ba : Người chuẩn bị bước vào hành trình tử nạn.

Phần Người, “ Khi được giương cao khỏi mặt đất, Người sẽ kéo mọi người lên với Người ” ( c 32) Như vậy, khi hoàn tất phần Nhân Tính, Chúa Giêsu sẽ trở vế phần Thiên Tính của Người  trong Nước Vinh quang, và kéo những ai bước theo Người trong đau khổ dưới thế trần cùng lên với Người./.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con .

--------------------------------------

 

MC 5-B189: HẠT LÚA MỤC NÁT VÀ TRỔ SINH HOA TRÁI


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Có một linh mục vừa chịu chức được hơn một năm, thì phát hiện bị suy thận trầm trọng. Ngài được MC 5-B189


Có một linh mục vừa chịu chức được hơn một năm, thì phát hiện bị suy thận trầm trọng. Ngài được sinh ra trong một gia đình đông anh chị em. Cuộc sống vùng nông thôn của một gia đình đông con hết sức khó khăn, song cha mẹ của ngài vẫn ngày ngày tần tảo ruộng vườn để nuôi các con ăn học thành tài. Một trong những động lực lớn lao để cho hai ông bà hy sinh cả cuộc đời là mong cho con trai được làm linh mục. Mong ước của ông bà đã được toại nguyện khi cậu con trai được phong chức linh mục cách đây hơn một năm. Tuy nhiên, ngay sau những ngày lễ tạ ơn, người con trai linh mục của ông bà đã phát hiện ra căn bệnh suy thận. Bác sĩ cho biết, bệnh nhân cần được ghép thận mới có thể qua được. Một lần nữa, sự lo âu và bao nhiêu day dứt lại đổ xuống trên ông bà. Các anh em trong gia đình sẵn sàng hiến thận cho người em của mình, nhưng người cha nhất mực không đồng ý. Chính ông sẽ cho con trai ông quả thận của mình, vì ông nói, cả một cuộc đời hy sinh vì con, thì bây giờ ông sẵn sàng tiếp tục hy sinh để cứu sống con và để con ông có thể tiếp tục sống và phục vụ người khác trong vai trò là một linh mục. Việc làm của người cha này giống như hạt lúa mì chấp nhận vùi cuộc đời mình vào gia đình, chấp nhận mục rã để trổ sinh hoa trái nơi con cái.

Thưa quý OBACE, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất, chấp nhận bị mục rã, làm trổ sinh hoa trái mới, để nói về sự hy sinh đến cùng mà Thiên Chúa đã làm vì con người chúng ta.

Tin Mừng Gioan thuật lại: Sau nhiều năm rao giảng Tin Mừng, nhiều người đã nghe biết về Chúa Giêsu, trong đó không chỉ những người Do Thái mà cả những người ngoại quốc. Lần này, Chúa Giêsu và các tông đồ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, có mấy người Hy Lạp đến gặp các tông đồ để xin các ông: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”. Các tông đồ đến thưa với Chúa Giêsu, khi đó Chúa Giêsu đã nói với các ông: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.

Theo tác giả Gioan, giờ mà Chúa Giêsu nói: “Con người được tôn vinh” là giờ Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, bị treo trên thập giá. Đó là giờ mà nhân loại sẽ nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa như Ngài đã nói: “Khi nào các người treo ta lên, các người sẽ biết Ta là Đấng Tự Hữu”. Với sự kiện những người Hy lạp tin và tìm đến với Chúa Giêsu, cho thấy giờ quan trọng đó đã đến. Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian là để thực hiện “giờ cứu độ nhân loại” bằng cái chết thập giá. Thập giá sẽ trở thành dấu chỉ để quy tụ mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ về cho Thiên Chúa. Giờ Chúa Giêsu bước lên thập giá cũng chính là giờ Thiên Chúa được tôn vinh, được nhân loại nhận biết, là giờ sự sống được trao ban cho nhân loại. Để giải thích rõ hơn về giờ Thiên Chúa được tôn vinh, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì được gieo vào lòng đất, nếu không chết đi thì sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt. Chúa Giêsu chính là hạt lúa mì được Thiên Chúa Cha gieo vào trần gian, Ngài chấp nhận từ bỏ thân phận của một vị Thiên Chúa để trở nên giống phàm nhân. Ngài chấp nhận sự giới hạn yếu đuối của con người, chịu đói khát, bị từ chối, bị phản đối và nhục mạ, bị phản bội, hành hạ và cuối cùng Ngài chấp nhận cái chết đau đớn ghê sợ trên cây thập giá. Chúa Giêsu đã chấp nhận hy sinh, bị chôn vùi trong cái chết của thân phận con người và từ trong cõi chết Ngài đã trỗi dậy để đem lại cho nhân loại sự sống mới, mùa gặt mới.

Chúa Giêsu cũng mời gọi những kẻ theo Ngài, muốn trở thành bạn hữu với Ngài cũng sẽ phải chấp nhận bước vào “quy luật mục rã” của hạt lúa mì như Ngài: “Ai phụng sự Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người đó”. Như thế, Chúa muốn tất cả những ai muốn theo Chúa, không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường của Chúa. Ai trở nên bạn hữu với Chúa, sống thân mật với Chúa thì được Chúa Cha yêu thương và cho vào trong nhà của Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng cho thấy giờ mà Chúa sắp trải qua không phải là giờ phút dễ dàng. Chúa Giêsu đã thấy trước sự ghê sợ đau đớn của khổ hình thập giá, với sức riêng của con người, khó có thể chịu đựng nổi. Chúa Giêsu mang thân phận con người, có những lúc cũng bị cám dỗ chọn một giải pháp khác dễ hơn, bớt đau khổ hơn. Ngài đã thưa cùng Chúa Cha: “xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Lời cầu xin này cũng tha thiết như lời cầu xin trong vườn cây dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, một vâng theo ý Cha”. Cả hai lần cầu xin, cho thấy, Chúa Giêsu bị giằng co giữa con người tự nhiên và sứ mạng Chúa Cha trao phó. Kết cuộc cả hai lần, Chúa Giêsu sẵn sàng đón nhận ý Cha, chấp nhận sự hủy diệt như hạt lúa mì, và chấp nhận bước lên thập giá để cho ý Chúa Cha được trọn vẹn, cho Danh Cha được tôn vinh.

Thư Do Thái sau này đã nhìn thấy thái độ vâng phục hoàn toàn nơi Chúa Giêsu và nhìn thấy tình thương vô biên nơi Chúa Cha. Thư Do Thái đã nói: “Mang thân kiếp con người, Đức Giêsu đã khóc lóc van xin lên Đấng có quyền năng cứu mình khỏi chết. Vì có lòng tôn kính, Người đã được nhậm lời”. Chắc chắn không có cha mẹ nào vui khi thấy con mình đau khổ, Thiên Chúa không thể vui khi thấy Đức Giêsu phải trải qua đau khổ và phải chết. Cha mẹ nào cũng muốn và làm điều tốt nhất cho con, Thiên Chúa cũng muốn điều tốt nhất và làm điều tốt nhất cho Chúa Giêsu con của Ngài. Sau khi vâng phục hoàn toàn để đón nhận cái chết thập giá, Thiên Chúa đã cho Chúa Giêsu được sống lại trong vinh quang, trở nên Nguồn ơn cứu độ và là Đấng ban ơn cứu độ cho nhân loại và đặt Chúa Giêsu làm Chúa tể trên trời và dưới đất.

Thưa quý OBACE, quy luật của hạt lúa mì phải mục nát để sinh nhiều bông hạt là quy luật chung cho tất cả mỗi chúng ta. Các học sinh, sinh viên muốn học giỏi thành tài thì phải chấp nhận chôn vùi thời gian, sức lực, tuổi trẻ của mình với đèn sách. Các cầu thủ, ca sĩ hoặc vận động viên muốn đạt giải cao thì không thể tự nhiên đạt được, nhưng phải trải qua rất nhiều thời gian khổ luyện. Cũng vậy, để có được một gia đình êm ấm thuận hòa hạnh phúc, thì mọi thành viên, đặc biệt là cha mẹ, phải chấp nhận hy sinh cả cuộc đời mình: thời gian, sức lực, tuổi trẻ và phải hy sinh cả những sở thích đam mê riêng, để vun đắp cho hạnh phúc chung của gia đình. Hơn nữa, để có một gia đình đạo đức, con cái ngoan ngoãn đức hạnh, cha mẹ cần phải hy sinh hơn, sống đạo đức và làm nhiều gương sáng hơn. Cha mẹ siêng năng đến với Chúa trong thánh lễ mỗi ngày, siêng năng cầu nguyện, tạo lập nên những giờ kinh cho gia đình, tham gia công tác tông đồ, gia đình sẽ trổ sinh những đứa con đạo đức ngoan ngoãn, yêu thích công việc nhà Chúa.

Trong đời sống cá nhân, mỗi người được mời gọi để sống theo quy luật mục nát của hạt lúa mì, dám chôn vùi những tội lỗi, thói hư tật xấu, những thú vui và đam mê xấu, nhất là dám hủy bỏ cái tôi ích kỷ và tính tự ái tự mãn, kiêu căng. Vì những tính xấu này sẽ khiến ta như “hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, trơ trọi một mình”. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận để cho Ơn sức mạnh của Chúa làm cho nó mục nát tan biến, thì cuộc sống chúng ta sẽ được Chúa biến đổi, làm cho trổ sinh những hoa trái tốt lành là: tình yêu thương, lòng quảng đại, sự khiêm nhường… Muốn được như vậy, chúng ta cần phải sẵn sàng trở nên hạt giống trong tay người chủ ruộng là Thiên Chúa, để cho Chúa gieo theo ý Chúa và để cho Lời Chúa và Thánh Thể chăm sóc, cắt tỉa chúng ta mỗi ngày. Như thế chúng ta sẽ trổ sinh mùa màng, hoa trái tươi mới cho bản thân, gia đình và giáo hội.

Các bạn trẻ cũng cần phải chấp nhận quy luật “hạt lúa mì” hôm nay, đừng để tuổi trẻ trôi qua trong uổng phí hoặc lười biếng, nhưng biết dành hết thời giờ, khả năng và sức lục Chúa ban để vun đắp cho tương lai của mình. Cắt bỏ, chôn vùi những thú vui và những đam mê lôi kéo của xã hội hôm nay, hãy dồn năng lượng tuổi trẻ của mình để cống hiến và phục vụ, hãy mạnh dạn vùi cả cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa, chắc chắn Chúa sẽ làm cho cuộc đời ta trổ sinh hoa trái theo ý Chúa. Amen.

--------------------------------------

 

MC 5-B190: THẦN THÁI CỦA KITÔ HỮU


Lm. Giuse Nguyễn

 

Trào lưu “quan trọng vẫn là thần thái” đang sốt trên các trang mạng xã hội để nói lên sự tự MC 5-B190


Trào lưu “quan trọng vẫn là thần thái” đang sốt trên các trang mạng xã hội để nói lên sự tự tin của một người, bất chấp tất cả, miễn là thể hiện một điều gì đó với tất cả niềm đam mê. Riêng đối với Kitô hữu, muốn làm gì thì làm, miễn là đạt được mục đích cuối cùng của cuộc đời mình là ơn cứu độ. Vì vậy thần thái của Kitô hữu chính là ơn cứu độ. Phụng vụ lời Chúa trong 3 tuần cuối cùng của mùa chay giúp chúng ta tập luyện để đạt được thần thái đó. Chúa Nhật thứ III là sự thanh tẩy tâm hồn mình. Chúa Nhật thứ IV là phải sống theo Đức Giêsu Kitô. Chúa Nhật thứ V hôm nay là phải chấp nhận thân phận của hạt lúa mì. Với gợi ý đó, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về giá trị đích thực của cuộc đời chúng ta, hay theo trào lưu là thần thái của Kitô hữu.

Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia loan báo về một giao ước sẽ được Thiên Chúa ký kết không phải trên giấy tờ, mà vào tận đáy lòng của dân, dấu chỉ của giao ước đó là sự yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa: “Ta sẽ lập một giao ước mới, và không còn nhớ đến lỗi lầm của dân Ta nữa”. Qua đó Thiên Chúa cho biết giá trị đích thực của con người là được sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Thánh vịnh 50 là tâm tình sám hối ăn năn của vua Đavit sau khi ông phạm tội tày trời là giết chết vị tướng của mình là Uria để chiếm đoạt vợ của ông ta. Tại sao vua Đavit lại sám hối ăn năn trong khi ông đường đường là một ông vua, hơn nữa là một ông vua với nhiều chiến công lẫy lừng? Thưa vì ông nhận biết chỉ có Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc cho cuộc đời mình.

Trong bài Tin Mừng, khởi đi từ việc có những người Hy Lạp đi dự lễ Vượt Qua ở Giêrusalem muốn gặp Đức Giêsu, mà những người này là những người dân ngoại, họ nghe nói về Đức Giêsu nên muốn tìm đến với Ngài. Lúc đó, Đức Giêsu thốt lên: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Tại sao khi những người dân ngoại tìm đến Chúa, Chúa nói đó là lúc Con Người được tôn vinh? Ngài cho chúng ta thấy mong mỏi của Thiên Chúa là cho con người được biết Ngài, tin vào Ngài. Ngài xuống thế làm người là để rao giảng tin mừng tình thương của Thiên Chúa. Công sức của Ngài bỏ ra như hạt lúa gieo vào lòng đất, bất chấp tất cả, miễn là làm sao có người được biết Chúa. Hôm nay hạt giống mục nát đó đã sinh bông hạt, bằng chứng là những người dân ngoại lên đền thờ Giêrusalem để dự lễ và muốn được gặp Chúa. Đức Giêsu đã chấp nhận mất mát để đem đến ơn cứu độ cho con người, thì con người cũng phải bất chấp tất cả để có được ơn cứu độ đó. Thần thái của Kitô hữu là vậy!

Đức Giêsu đến trần gian là vì tổ tông loài người đã chọn lựa sai lầm hạnh phúc của cuộc đời họ. Ông bà nguyên tổ đã không chọn sống trong hạnh phúc với Chúa, nhưng họ muốn thứ hạnh phúc khác ngoài Chúa, thứ hạnh phúc làm thỏa mãn tính kiêu căng của họ. Chọn lựa đó làm cho họ phải gánh chịu hậu quả là mất đi hạnh phúc với Chúa, mà cũng chẳng có hạnh phúc từ “trái táo”. Nhưng chỉ vì yêu thương loài người mà Thiên Chúa đã sai Con Một của mình là ĐGK đến trần gian để chuộc lại lỗi lầm cho con người, trả lại hạnh phúc cho họ. Ngài không cứu độ bằng những hình thức dễ dãi như hứa ban nhà lầu, xe hơi, trái táo cắn vỡ,… hoặc chỉ bằng lời nói quyền năng của Ngài, mà Ngài đã cứu độ bằng con đường thập giá, bằng chính mạng sống của Ngài, để chúng ta thấy hạnh phúc mà Thiên Chúa hứa ban cho con người quý giá biết là chừng nào. Thần thái của con người còn lâu mới bằng thần thái của Đức Giêsu.

Có những người không biết được cùng đích của cuộc đời mình nên đã dẫn đến chọn lựa sai lầm. Đối với họ chỉ có hạnh phúc ở đời này với những gì có thể cảm nhận được, ví dụ tiền bạc, vật chất, được thỏa thích với những gì mình muốn; cao hơn một chút là được yêu thương, được nhìn nhận, được tôn trọng… chỉ thế thôi. Vì vậy khi không nhìn thấy được những điều đó nữa, thì không còn lý do gì để sống cả. Đó là lý do trong thời hiện đại mà vẫn có nhiều vụ tự tử xảy ra, lại xảy ra ở ngay những nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc. Lo lắng nhất của xã hội ngày hôm nay hay có thể gọi là vấn nạn của các gia đình chính là việc nhiều người lấy ma túy hay những chất gây nghiện khác làm niềm vui. Mà một khi đã dính đến những chất gây nghiện này, không sớm thì muộn chắc chắn sẽ hủy hoại con người đó, vì nó sẽ làm tê liệt thần kinh, gây nên ảo giác, ảnh hưởng đến sức khỏe của chính bản thân, mất hết lý trí, ý chí và nhân cách của con người; gây nguy hiểm cho gia đình và xã hội… Cho nên đó có phải là cùng đích của con người không?

Có những người, kể cả người Công giáo, lấy tiền bạc làm cùng đích cho cuộc đời mình. Vì vậy mà ưu tiền hàng đầu trong cuộc đời của họ chính là việc kiếm tiền. Dĩ nhiên việc kiếm tiền để lo cho gia đình được ổn định là chuyện cần thiết, nhưng có những người vì kiếm tiền mà bất chấp tất cả, kể cả việc bỏ lễ và làm điều xấu. Nhưng thử hỏi việc kiếm tiền đó có đem lại hạnh phúc đích thực cho họ không bởi vì đến ngày chết người ta không đem theo được gì cả…

Những chọn lựa sai lầm này khiến cho chính họ phải gánh lấy hậu quả vì họ không được hạnh phúc đích thực, mà nó còn ảnh hưởng đến thế hệ mai sau, vì chính người lớn không cho thế hệ tiếp nối thấy được đâu là giá trị vững bền. Nếu cha mẹ sẵn sàng hy sinh tất cả để được hạnh phúc thật thì con cái cũng sẵn sàng vượt qua những khó khăn hiện tại để có được hạnh phúc như cha mẹ nó. Nếu thầy cô, những người lớn xung quanh dám từ bỏ những thói hư, những tật xấu vì một hạnh phúc trong tương lai, thì đứa trẻ cũng cảm nhận và sẽ sống cho một tương lai hạnh phúc.

Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người biết chọn cho mình giá trị đích thực, đúng đắn. Giá trị đó không phải là những thứ chóng qua, cũng không phải là những danh vọng hão huyền, càng không phải là dục vọng thấp hèn. Giá trị đó chính là ơn cứu độ mà Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho con người. Khi chọn giá trị đó, đòi hỏi con người phải biết hy sinh, nỗ lực dấn thân vì một tương lai tốt đẹp. Nói cách khác, khi chọn sống theo giá trị này, con người phải chấp nhận chết đi mỗi ngày như hạt lúa gieo vào lòng đất phải mục nát đi thì mới sinh nhiều bông hạt. Đây không phải lý thuyết mà đạo công giáo đưa ra để người ta tự khám phá, ai thấy hay thì theo; mà đây là con đường chính Đức Kitô đã đi, tất cả những ai muốn có được giá trị đích thực cũng phải đi trên con đường này. Con đường này còn được các thánh, nhất là các thánh tử đạo, rồi những bậc cha ông tổ tiên của chúng ta can đảm bước theo. Có nhiều gia đình bây giờ nhìn lại để họ tự hỏi điều gì  đáng tự hào nhất mà ông bà tổ tiên của họ để lại? Thưa không phải tiền bạc, tài sản, mà chính là đời sống đạo của ông bà tổ tiên. Nhưng đến thời chúng ta đã đánh mất đi gia sản quý giá của cha ông. Chúng ta phải sám hối về điều đó. Hay nói cách khác, thần thái của chúng ta lạ lẫm lắm so với thần thái của ông bà tổ tiên.

Điều quan trọng là chúng ta phải nhắc nhở mình mỗi ngày biết chết đi với những đam mê, những tội lỗi. Không ai muốn mình phải mất ơn cứu độ đời đời. Chỉ tại vì những đam mê, những tật xấu đã dính bén vào con người của mình quá sâu, hay nói theo kiểu y học, nó đã trở thành khối u và gây nên chứng ung thư tâm hồn. Muốn được cứu, dứt khoát phải chấp nhận làm một cuộc giải phẫu để cắt bỏ khối u đó. Từ bỏ nào cũng gây đau đớn, nhưng có đau đớn mới cắt bỏ những khối u sấu xa khỏi con người chúng ta. Mùa chay thánh năm nay là thời gian thuận tiện để chúng ta làm cuộc giải phẫu tâm hồn khi dám nhìn thẳng vào những đam mê, những tội lỗi của mình, và nói thẳng với nó: chính mày là nguyên nhân làm cho tao mất linh hồn, mất ơn cứu độ đời đời. Và hứa với lòng mình từ đây phải tăng sức đề kháng để chống lại với những cám dỗ làm mất ơn cứu độ bằng cách gắn bó với Chúa mỗi ngày một hơn.

Xin ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và cha Phanxicô cho chúng ta biết đâu là hạnh phúc đích thực của cuộc đời mình. Và khi đã biết rồi, xin cho chúng ta mạnh dạn để từ bỏ những gì không xứng hợp với hạnh phúc đó. Hãy mạnh dạn bày tỏ thần thái của chúng ta!      

--------------------------------------

 

MC 5-B191: VINH DANH


Lm Vũdình Tường

 

Vinh Danh Chúa bằng cách ca tụng tình Chúa vô biên, một mình Ngài đáng tôn vinh, ca tụng MC 5-B191


Vinh Danh Chúa bằng cách ca tụng tình Chúa vô biên, một mình Ngài đáng tôn vinh, ca tụng, phụng thờ. Hai cách ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Thứ nhất, ngoài Thiên Chúa ra không còn thần thánh, vị nào nào khác đáng được chúc tụng, tôn vinh. Thứ hai, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa bằng cách lắng nghe, thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Đây chính là điều Chúa Cha nhiều lần phán bảo lắng nghe tiếng Chúa Con.

Đây là Con Ta hằng yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Ngài. Mt 3,13; Lk 3,22

Chính Đức Kitô cũng kêu gọi lắng nghe tiếng Ngài là dấu chỉ bề ngoài cho biết người đó yêu mến Đức Kitô. Yêu mến Thiên Chúa bằng cách sống theo giáo huấn của Đức Kitô. Yêu mến Đức Kitô trở thành môn đệ Đức Kitô và nhận ra Đức Kitô nơi các anh chị em khác.


Ai yêu mến Ta thì giữ điều răn của Ta Gn 14,15

Kitô hữu Vinh Danh Thiên Chúa bằng cách lắng nghe tiếng Chúa với tâm tình tạ ơn, phó thác xuất phát tự tâm hồn. Kitô hữu chân chính là người có đời sống, lời nói và hành động trong cuộc sống luôn chung đôi với nhau, nghĩ sao nói thế, nói sao làm thế, làm cho tình yêu Chúa sống động trong cuộc sống. Khi lời nói hành động được hướng dẫn bởi tình yêu và ân sủng Chúa đời sống nội tâm người đó được đong đầy tình yêu và họ tiến trên đường thánh thiện. Là Kitô hữu tất cả đều cần tình yêu và ân sủng Chúa bởi ngoài Chúa ra không còn chúa nào khác có khả năng giúp Kitô hữu sống thánh thiện. Đức Kitô là Đấng duy nhất chúng ta tôn thờ; Ngài là Con Thiên Chúa, nơi Ngài là nguồn ân sủng vô biên, tình yêu bất tận và giáo huấn Ngài cao sánh, khôn lường. Ngài đến trần gian mặc khải cho nhân loại biết tình yêu Chúa Cha, làm Sáng Danh Chúa Cha và Chúa Cha làm Sáng Danh Chúa Con.

Lậy Cha xin làm Sáng Danh Cha và có tiếng từ trời phán ra Ta đã làm Sáng Danh Ta và còn tiếp tục làm Sáng Danh Ta Gn 12, 28

Đức Kitô làm Sáng Danh Chúa Cha

1. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách cho nhân loại biết tình yêu và ân sủng Chúa. Tình yêu đó được thể hiện qua Đức Kitô, Con một Thiên Chúa xuống trần gian vác thập giá cứu chuộc nhân loại khỏi án phạt vì tội bất trung, giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Lúc rao giảng Đức Kitô cho người ta biết Thiên Chúa có quyền tha tội, mở mắt người mù từ lúc mới sinh, người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại Gn 5,3

2. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách dùng miệng con người dâng lời chúc tụng vì nghe lời giảng của Đức Kitô tâm hồn họ mở ra, tim họ rực sáng và lòng họ đầy hoan lạc họ lớn tiếng ca ngợi, tôn vinh, chúc tụng

Dân chúng sửng sốt về lời Người giảng dậy vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền Mat 7,29

3. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách tuyên chiến với ma quỷ, tử thần. Đức Kitô xua đuổi ma quỷ, bắt chúng vâng phục lời Người phán bảo. Ma quỷ run sợ trước lời của Đức Kitô chúng than
Ông Giêsu, chuyện chúng tôi, can gì đến ông. Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Đức Kitô quát mắng chúng: Câm đi hãy xuất khỏi người này. Lc 4,34. Ma quỷ phải nghe lời Ngài, không dám làm hại anh ta.

4. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách cho nhân loại biết mối liên hệ thắm thiết vể cả lời nói lẫn hành động và quyền năng giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần

Chúa Cha yêu thương Chúa Con và trao mọi sự trong tay Người Gn 3,35

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất Mt 28,18

5. Tôn vinh Chúa Cha bằng cách vâng lời Chúa Cha. Ngài đến trần gian không phải để làm theo í riêng mà chính là làm cho í Chúa Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Tôi tự trời xuống, không phải để làm theo í tôi, nhưng để làm theo í Đấng đã sai tôi Gn 6,38

Chúng ta cầu xin được kết hợp với Đức Kitô bằng cách sống trung thành với giáo huấn của Ngài để trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa

Ai thi hành í muốn của Cha Ta, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em Ta Mt 13,50

--------------------------------------

 

MC 5-B192: CHIÊM NGƯỠNG DIỆN MẠO CHÚA GIÊSU KITÔ


Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

 

Bài Tin Mùng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng diện mạo Chúa Giêsu, một khuôn MC 5-B192


Bài Tin Mùng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng diện mạo Chúa Giêsu, một khuôn mẩu linh mục tư tế đau khổ, đầy lòng trắc ẩn, đồng cảm và kết hợp nhân loại.

THIÊN CHÚA TRONG CỰU ƯỚC

Qua các Tin Mừng, chúng ta thấy ai cũng đều mong ước được gặp Chúa Giêsu, ngắm nhìn diện mạo, vẻ đẹp huy hoàng và vinh quang của Thiên Chúa. Các Ca Vịnh đều nói lên lòng ước mong được ngắm nhìn diện mạo Chúa !

« Xin dung nhan Chúa hãy tỏa chiếu sáng trên tôi tớ Chúa » (Cv 119 :135).

Không phải chúng ta cầu khẩn để được gặp mặt Chúa mà chính Chúa cũng thúc dục, nhắc nhở chúng ta đi tìm kiếm Chúa:

« Hãy tìm kiếm mặt ta và dung nhan ta » (Cv 27: 8).

Nhưng có lẽ chúng ta không thể kiếm ra được gương mặt mà Chúa muốn chúng ta đi tìm, nên đã có lời than van :

« Xin Chúa đừng lánh mặt tôi » (Cv 102:2)

« Tại sao Chúa cứ lánh mặt tôi »(Cv 88:14).

« Chúa còn lánh mặt tôi đến bao lâu nữa » (Cv13:2).

Chúng ta cầu khẩn, chúng ta tìm tòi nhưng chúng ta không thể kiếm ra được diên mạo Chúa. Lúc đó chúng ta cảm thấy bối rối. Ông Maisen, với tính cách bạn nói với bạn, xin được gặp mặt Chúa, thì Chúa nói với ông:

 «Ngươi không thể nhìn được mặt ta, vì không ai nhìn thấy ta mà sống được» (Xh 33:20).

THIÊN CHÚA TRONG TÂN ƯỚC

Nhưng trong Tân Ước thì khác, Thiên Chúa đã thay đổi, đã xuống thế làm người như chúng ta để cứu chuộc muôn dân. Hãy coi Tin Mừng thánh Gioan (chương 12) nói về sứ vụ công khai của Đức Giêsu đi tới đỉnh điểm. Đây là hành động chính thức và sau cùng trước khi xẩy ra những biến cố khổ nạn của Chúa. Có rất nhiều người dân ngoại, không phải là Do Thái lần đầu tiên đi tìm kiếm Chúa Giêsu. Họ đến không phải chỉ để xem mặt hoặc tham dự cuộc ra mắt của Chúa, nhưng để “gặp” Người. Theo Gioan, từ “gặp” có nghĩa là “tin” vào Người. Một yêu cầu đơn giản và lạ lùng: «Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu» (Ga12:21).

Trong ca vịnh, khi chúng ta cầu khẩn để gặp mặt Chúa là chúng ta xin được gặp Chúa là Chúa thực để ngắm nhìn xâu thẳm trong Chúa. Ở chương chót của sách Khải Huyền có viết : «Họ sẽ được nhìn thấy dung nhan Người» (Kh 22: 4). Chúng ta đã nhìn thấy diện mạo Chúa thể hiện qua con người Giêsu thành Nazareth. Biết bao nhiêu lần chúng ta thèm muốn được nhìn thấy dung nhan Chúa Giêsu ? Chúng ta sẽ làm gì khi chúng ta “gặp” được mặt Chúa Giêsu Kitô?

TƯ TẾ TRONG CỰU ƯỚC

Tác giả của thư gửi tín hữu Do Thái mang nặng tư tưởng và tính thần học của thánh Phaolo và Gioan là tác giả khi chiêm ngưỡng là nhìn thấy sự khổ nạn và hấp hối của chúa Giêsu trong vườn cây dầu có liên quan đến chức tư tế và những hiến tế trong đền thánh. Trong Cựu Ước không bao giờ thấy đòi hỏi thầy cả thượng tế phải tự mình trở nên giống như những người anh em, trái lại ông ta cố gắng trở nên khác với họ. Thái độ đồng cảm với những kẻ tội lỗi đã tỏ ra không thích hợp với chức tư tế của thời Cựu Ước. Ngoài ra không có bản văn nào đòi hỏi vị thượng tế phải là người không vướng mắc tội lỗi gì cả.

TƯ TẾ TRONG TÂN ƯỚC LÀ ĐỨC KITO KHỔ NẠN

Trái lại chức tư tế trong Tân Ước thì khác. Thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 5 :7-9) cho  thấy Chúa Giêsu là một tư tế rất khác biệt, có đầy lòng trắc ẩn phi thường, tính đồng cảm và tình liên đới bền chặt. Trong những ngày còn ở dương thế, chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta một con người bằng xương bằng thịt như chúng ta. Ngài cũng cầu nguyện, cũng đau khổ, cũng sầu muộn và khóc than như chúng ta. Chúa Giêsu cũng bị thử thách, bị ma quỉ cám dỗ bằng mọi cách như chúng ta nên Chúa thấu hiểu những khó khăn của chúng ta cả trong lẫn ngoài, do đó ngài có lòng trắc ẩn, cảm thông và đồng cảm rất sâu đậm với chúng ta. Đức Giêsu là tư tế độc nhất, đặc biệt, có đầy đủ ý nghĩa và là mẫu mực từ đó cho đến giờ.

TƯ TẾ/LINH MỤC GIÊSU LÀ CHÚA, LÀ THẦY VÀ BẠN CỦA CHÚNG TA

Chúng ta rút ra được bài học gì qua những hình ảnh của chúa Giêsu? Những thử thách hàng ngày và những yếu đuối của chúng ta, thay vì là hố xâu ngăn cách giữa Chúa Giêsu và chúng ta thì lại là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ giữa chúng ta và Chúa, không phải chỉ với một mình chúa Giêsu Kitô mà còn với chính Thiên Chúa nữa. Hiệu quả là từ đó về sau, không ai trong chúng ta  khi bị đau khổ mà không cảm nhận được có Chúa Kito luôn luôn ở bên cạnh trong mọi hoàn cảnh, vui cũng như buồn. Chúng ta lắng nghe lời  Chúa Giêsu vì Chúa là đấng « đáng kính và đáng tuân phục». Chúng ta cũng sẽ được Chúa nghe lời và an ủi bởi vì chúng ta biết cầu nguyện Chúa liên lỉ, kính thờ Chúa, phục tùng và lắng nghe lời Chúa thúc dục trong lòng. Chúa Giêsu là một linh mục, là Thầy, là Bạn và là Chúa chúng ta.

CƠN HẤP HỐI CỦA THÁNH G.H. GIOAN  PHAOLO  II

Trong bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy những người lên Jerusalem thờ phượng Thiên Chúa có những người Hy Lạp đến nói với ông Philipê là người đến từ làng Bethsaida, miền Galilea là họ muốn gặp Đức Giêsu: « Ông Philipe đi nói với ông An Rê rồi ông An Rê cùng ông Philipe đến nói với  Chúa Giêsu » (Ga 12: 20-22).

Để gặp Chúa Giêsu, phải được một môn đệ dẫn tới gặp. Lời giới thiệu của những người đã từng sống với Ngài, ở bên cạnh Ngài, cho chúng ta biết về Ngài và chúng ta không thể biết về Ngài nếu không có sự giới thiệu ấy.

Sự giới thiệu ấy thế nào? Đó là những bản văn viết của các tông đồ, nhất là những bản Tin Mừng được lưu truyền cho chúng ta do truyền thống, tập tục, qua cha mẹ, các linh mục, phó tế, thầy giáo, giáo lý viên, những nhà giảng thuyết và những tín hữu là những chứng nhân và người mang Tin Mừng của Chúa. Nhận biết ra những vị then chốt này quả là quan trọng và cần thiết! Họ là những chứng nhân sống động và có liên kết với truyền thống và Tin Mừng về Chúa Giêsu Kitô.

Một người trong hàng triệu người như vậy trên khắp thế giới là Karol Wojtyla, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Cả thế giới chứng kiến một cách công khai cuộc hấp hối và khổ nạn của đấng nối nghiệp thánh Phêro. Sắp đến ngày mừng kỷ niệm lễ giỗ của Ngài vào ngày 2 tháng 4, chúng ta không thể không nhớ lại cái ngày đầy sống động ấy.  Cử chỉ của ngài đã khiến chúng ta nhớ lại gương mặt Thiên Chúa với những hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đanh trên thập giá.

Một trong những bài học đáng ghi nhớ nhất mà Ngài đã dạy cho chúng ta vào những giờ phút cuối cùng của triều đại ngài là tất cả mọi người đểu phải chịu đau khổ, ngay cả vị đại diện của Chúa Kitô. Thay vì che dấu những tật nguyền của mình như đa số những vị thủ lãnh trên thế giới, Ngài để cho cả thế giới nhìn biết những điều Ngài đã và đang hứng chịu.  Cử chỉ cuối cùng của đời Ngài cho thấy dù là lực sĩ rồi cũng phải bất động, tiếng nói trước kia có âm vang sang sảng thì nay cũng phải bặt tắt và bàn tay đã viết lên biết bao tông thư vĩ đại giờ này cũng không còn động đậy được nữa. Tuy nhiên không có gì làm cho Ngài phải ngập ngừng, e ngại, ngay cả những yếu ớt bệnh hoạn ẩn dấu bên trong căn bệnh Parkinson của Ngài, và cuối cùng Ngài đã không thể nói và cử động được nữa. Nhiều người tin rằng thông điệp mãnh liệt nhất mà Ngài đã truyền giảng lúc đó là khi Ngài không còn nói và cử động được nữa.

Một trong những khoảnh khắc giảng dạy trong thinh lặng khó quên của những ngày cuối cùng đó đã xẩy ra vào đúng đêm thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005 khi Đức Thánh Cha đang ngồi trong nhà nguyện riêng của ngài ở Vatican coi truyền hình cuộc khổ nạn đoạn đường thánh giá được diễn lại ở đấu trường Colosseum tại Rome. Đến chặng đường Chúa chịu chết, ống kính truyền hình trong nhà nguyện chiếu Đức Thánh Cha giữ cứng Cây Thánh Giá trong tay, ôm vào ngực, má ngài đè chặt lên phiến gỗ. Ngài chấp nhận đau khổ và cái chết không cần nói. Hình ảnh đó tự nó đã nói nên lời.

Trước khi ra đi mấy tiếng đồng hồ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II  đã nói : « Hãy đề cho tôi đi về nhà Cha.» Trong khi những lời kinh thân thiết nhất được vang lên, thánh lễ được cử hành ngay dưới chân giường của Ngài và hàng ngàn vạn người đang hát vang dưới công trường thánh Phêro thì ngài nhắm mắt lìa đời lúc 9:37 chiều tối ngày 2 tháng 4 năm 2005. Qua cuộc khổ nạn công khai, nỗi đau khổ và sự chết của ngài, vị tư tế thánh thiêng này, người nối nghiệp các thánh tông đồ và là đầy tớ của Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy dung nhan Chúa Giêsu bằng một phương cách rất đặc biệt và sống động.

Đến đây, tất cả mọi hình ảnh, công đức, sự nghiệp của Ngài lại hiện ra trong tâm trí tôi. Những việc Ngài đã làm cho Giáo Hội, cho Ba Lan, cho con người, cho cả thế giới…dù không nói lên, nhưng vẫn còn âm vang đâu đó. Đặc biệt câu nói tuy bình thường nhưng bất hủ: Các Con Đừng Sợ…

ĐÔI LỜI KẾT: HÃY XIN CHO ĐƯỢC GẶP MẶT CHÚA

Như chúng ta đã biết, khi đoàn người đi lên Jerusalem thờ phượng Chúa, có những người Hy Lạp, đến xin ông Philiphê cho gặp Chúa Giêsu thì Chúa trả lời:”…Thật vậy, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh sôi nhiều hạt lúa khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ được sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy….” (Ga 12: 20-26).

Chúa Giêsu là tư tế, là linh mục và là Thiên Chúa. Một hình ảnh đau khổ, hấp hối, chịu cực hình, chịu đóng đanh chết trên thập giá vì tội lỗi nhân loại. Các thánh tông đồ như Phêro, Phaolồ…đều chịu cực hình và chịu chết như Thầy mình là Đức Giêsu Kitô. Những gương sáng, hình ảnh, dung nhan diện mạo đầy lòng trắc ẩn, đồng cảm và kết hợp nhân loại của chúa Kitô, của các thánh tông đồ đã để lại cho tất cả chúng ta, cho những ai là môn đệ của Chúa.

Đừng quên. Hãy Tin. Hãy yêu mến Chúa!

--------------------------------------

 

MC 5-B193: GẶP GỠ ĐỨC KITÔ, ĐẤNG CỨU ĐỘ


Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Gr 31:31-34;  Dt 5:7-9;  Ga 12:20-33)

 

Trong lịch sử cứu độ và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã thiết lập nhiều giao ước với loài người MC 5-B193


.  Nội dung của từng giao ước thay đổi và dấu chỉ nói lên giao ước cũng mỗi lần một khác. Dấu chỉ đầu tiên là cầu vồng sau cơn lụt đại hồng thủy nói rằng Chúa sẽ không khi nào dùng hồng thủy để hủy diệt nhân loại.  Rồi đến việc cắt bì là dấu chỉ Thiên Chúa tuyển chọn Áp-ra-ham làm cha đức tin của dân riêng Chúa là Ít-ra-en.  Sau đó là bia đá ghi chép Mười điều răn, dấu chỉ mối tương quan giữa Thiên Chúa với Ít-ra-en.  Tuy nhiên trong giao ước mới và cuối cùng, Thiên Chúa đã chọn một phương thức vô cùng đặc biệt, là lấy chính máu Con Một Người là Chúa Giê-su để ký kết với toàn thể nhân loại.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta dấu chỉ của Giao ước Mới:  Chúa Giê-su Ki-tô, để nhờ Chúa Ki-tô, chúng ta có thể sống mối tương quan sinh động với Thiên Chúa và anh chị em.

          Trước hết ta hãy lắng nghe Thiên Chúa tuyên bố qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng Người sẽ thiết lập một giao ước mới với nhà Ít-ra-en, không giống như giao ước Người đã lập với tổ tiên họ. Vậy nội dung giao ước ấy như thế nào?  Đó là “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta.  Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”.  Một giao ước quan trọng mà nội dung giản dị như vậy sao?  Không đâu.  Nếu mục đích của giao ước là thể hiện được mối tương quan giữa Chúa và chúng ta, thì việc tuân giữ Lề Luật Chúa đích thực là điều cốt yếu.  Kinh nghiệm quá khứ đã cho thấy Chúa khắc Lề Luật Người vào bia đá trao cho ông Mô-sê.  Nhưng bia đá mòn rồi mà dân Chúa vẫn chứng nào tật nấy, không tuân thủ Lề Luật Người.  Cho nên lần này Chúa phải khắc vào “tâm khảm” họ để họ không thể quên.  Nhưng chúng ta cũng đừng quên mục đích quan trọng của giao ước, không những nó nói lên tương quan mật thiết giữa chúng ta với Chúa, mà tương quan ấy còn được bảo đảm qua việc “Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa”!  Liệu chúng ta có cảm nhận được sự tuyệt vời của giao ước này không?  Đây nhé, Chúa đã nhận chúng ta làm dân của Chúa, điều này đã quá đủ rồi vì thực sự chúng ta không xứng đáng.  Thế mà Người còn hứa sẽ tha thứ tội ác và mọi lỗi lầm của chúng ta nữa.  Giao ước là phải công bằng cho cả hai bên chứ, nhưng Chúa đã nhận phần thiệt thòi, chỉ vì Người quá yêu thương chúng ta!

          Vậy Thiên Chúa đã thực hiện giao ước thiệt thòi ấy như thế nào?  Bằng cách “nộp” Con Một của Người cho chúng ta, sai người Con ấy là Chúa Giê-su xuống thế gian làm người phàm, để Ngài vâng lời Thiên Chúa đến nỗi vui lòng chịu chết và chết trên thập giá mà chuộc tội cho nhân loại.  Chính Chúa Giê-su đã nói về sứ mệnh của Người chẳng khác gì hạt lúa gieo vào lòng đất. Hạt lúa ấy phải chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác.  Cũng vậy, Chúa Giê-su phải chết đi trên thập giá thì mới có thể chuộc chúng ta về để chúng ta được phục hồi chức phận làm con cái Thiên Chúa.  Nói khác đi, theo giao ước mới, Thiên Chúa đã trả một cái giá vô cùng đắt để giao ước ấy được thực hiện!

          Khi suy niệm về hạt lúa gieo vào lòng đất và về cái giá đắt Thiên Chúa phải trả cho giao ước, bằng những suy tư thần học, thánh Phao-lô đã khẳng định rằng:  “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (bài đọc 2).  Đúng vậy, khi ban Con Một cho chúng ta, Thiên Chúa Cha đã muốn Ngài trở nên “nguồn ơn cứu độ” cho chúng ta, chỉ với điều kiện dễ dàng là chúng ta hãy tùng phục Ngài như Ngài đã vâng phục Chúa Cha.  Tùng phục Chúa Giê-su có nghĩa là chúng ta hãy gặp gỡ Người, trong mối tương quan với Người tạo nên sự thay đổi, chúng ta sẽ trở nên “đồng hình đồng dạng” với Người.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Thiên Chúa ban cho ta Ân Sủng trọng đại nhất, đó là Chúa Giê-su Ki-tô.  Bài Tin Mừng hôm nay còn để lại một hình ảnh đẹp về việc gặp gỡ Chúa Giê-su:  có mấy người Hy-lạp đến gặp tông đồ Phi-líp-phê và xin ông:  “Chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su!”  Cả đến những người không phải Do-thái cũng mong ước được gặp Chúa Giê-su, vậy mà chúng ta không ao ước gặp Chúa, thì ta là gì đối với Chúa?  Chúa luôn mở rộng cánh tay đón chào ta.  Chúng ta có thể gặp Người dễ dàng, qua cầu nguyện và việc lãnh nhận bí tích, nhất là khi rước Chúa vào lòng.  Vậy chúng ta còn đợi gì nữa?  

--------------------------------------

 

MC 5-B194: HIẾN LỄ MỚI


Lm. Đinh Quang Thịnh 

 

Tuần tới, Chúa nhật lễ Lá đưa Đức Giêsu vào cuộc khổ nạn. Ngài sẽ bị giết chết trên thập giá MC 5-B194


Tuần tới, Chúa nhật lễ Lá đưa Đức Giêsu vào cuộc khổ nạn. Ngài sẽ bị giết chết trên thập giá.Đó là Hy Lễ mới Ngài thiết lập thay thế của lễ chiên cừu bò lừa bị sát tế dâng lên Chúa trong dịp lễ Vượt Qua, theo Luật Môsê.Ngài xác nhận: “Những kẻ thờ phượng đích thực,sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật,vì Chúa Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Hy Tế này Đức Giêsu vừa là Chủ Tế vừa là Của Lễ (x Giáo Lý HT số 1410). Hiệu quả của Hy Tế này là ban Giao Ước Mới, cũng là Di Chúc (x Dt 9,16), và ban ơn tha tội cho những ai đến thông hiệp với Ngài.

            1/ Đức Kitô là Tư Tế mới

Ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa chỉ “hành nghề Tư Tế” khi Ngài nhập thể làm người, “Ngài đã dâng lên Chúa Cha chính Con Người của Ngài cùng với lời khẩn nguyện lớn tiếng kêu van trong nước mắt và Ngài đã được nhậm lời thoát khỏi sợ hãi. “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua đau khổ mà học cho biết vâng phục, một khi đã thành toàn, Ngài đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời cho những ai tùng phục Ngài” (Dt 5,7-9 : Bài đọc II).

            2/ Đức Kitô là Lễ Vật mới.

Ngài không giết con vật nào để dâng cho Chúa Cha mà dâng chính mình Ngài trên thập giá .Ngài chết vì 3 nguyên nhân:

Do Satan tấn công. Ngài nói : “Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng PHẢI BỊ treo lên như vậy” (Ga 3,14 : Bản dịch của NTT) : Loan báo Khổ Nạn lần I.

Do phàm nhân tấn công. Ngài nói: “Khi các ngươi NHẮC CON  NGƯỜI LÊN CAO, bấy giờ các ngươi biết Ta là Chúa” (Ga 8,28: Bản dịch của NTT): Loan báo Khổ Nạn lần II.

Do Chúa Cha muốn. Ngài chấp nhận đau khổ để biểu lộ quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Ngài nói : “Một khi TA ĐƯỢC GIƯƠNG cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” (Ga 12,32 : Bản dịch của NTT) : Loan báo Khổ Nạn lần III.

Ngài bị giết chết không phải như hạt lúa thối đi, vì hạt giống thối thì không bao giờ mọc lên được.Thế nên phải hiểu Lời Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24 : Tin Mừng). “Hạt lúa chết đi” là ám chỉ chính Ngài sẽ bị giết và được ông Nicôđêmô lãnh xác Ngài an táng trong lòng đất, chưa trọn ba ngày, thì “hạt giống” này đã mọc lên (Chúa Giêsu Phục Sinh), để rồi Ngài sai các Tông Đồ đi khắp thế giới tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc : ban Thánh Tẩy cho họ, và dạy họ mọi điều Đức Giêsu đã truyền cho các ông (x Mt 28,19-20), và cứ như thế cho tới ngày cánh chung, thì từ “hạt lúa ” ấy đã chết sinh ra biết bao hạt khác, mà trong một thị kiến ông Gioan cho biết : “Con Chiên đứng trên núi Sion và với 144 ngàn người, mang danh của Ngài và danh của Cha Ngài viết trên trán họ. Ngoài 144 ngàn người ấy, những người đã được mua chuộc từ cõi đất, họ là những kẻ không bị dây dớm với phụ nữ vì họ trinh khiết ; họ được tháp tùng theo Chiên Con bất cứ Ngài đi đâu;họ đã được mua chuộc giữa loài người, làm tiên thường hiến dâng Thiên Chúa và Con Chiên” (Kh 14,1.3b-4).

Những người được Chúa cứu độ, ngôn sứ Isaia cho biết là bởi Người Tôi Tớ Giavê diễn tả Đức Giêsu Khổ Nạn: “Thiên Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,và nhờ người,ý muốn của Thiên Chúa sẽ thành tựu.Nhờ nỗi thống khổ của mình,người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản,và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân;nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53, 10-12).

            3/ Hiệu qủa Hiến Lễ mới.

            Xưa kia, nhiều lần Thiên Chúa đã ban Giao Ước cho con người :

Giao ước với ông Noe không còn lụt qua dấu hiệu chiếc cầu vồng (x St 9,1-17)

Giao ước với ông Abraham sinh con đông như sao trời như cát bãi biển qua dấu phải chịu cắt bì (x St 17,1-27)

Giao ước với ông Môsê qua luật pháp được đánh giá bằng máu chiên bò (x Xh 24)

Giao ước với dòng dõi vua Đavid được trường tồn, vinh quang qua dấu một trinh nữ sinh con (x 2Sm 7).
Đặc biệt nhất là giao ước với dân Chúa: “Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, …Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. …Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.” (Gr 31,31-34 : Bài đọc I)

Ta để ý đến nội dung Giao ước mới do ngôn sứ Giêrêmia loan báo như trên có hai hiệu quả chính : Ban Giao Ước Mới và tha tội cho những người Chúa tuyển chọn.

            * Được Thần Khí Chúa đặt LỜI VÀO CON NGƯỜI (x Gr 31,33).

            * Được Chúa THA TỘI. (x Gr 31,34)

Hai hiệu quả trên Đức Giêsu đã thực hiện trong mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh của Ngài :

            a- Ban Giao ước mới : Chúa Giêsu là hiện thân Lời của Chúa Cha, là Ngôi Lời hằng hữu (x Ga 1,1), đồng thời Ngài là “hạt lúa tốt” của Thiên Chúa gieo xuống gian trần, để sinh nhiều “hạt lúa tốt” khác (x Ga 12,24), đó là những  người đã được Hội Thánh dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi tạc Lời Chúa vào tấm xương thịt và linh hồn,như thánh Tông Đồ nói với giáo đoàn Côrinthô: “anh em là bức thư của Đức Kitô do tay chúng tôi soạn ra, viết không phải bằng mực, nhưng là bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải trên những tấm đá mà là trên những tấm lòng,tấm thịt.” (2Cr 3,3). Đặc biệt Giao ước được ban trong giờ chết lại trở thành DI CHÚC cho người nhận (x Dt 9,16).

Hiểu được như thế ta mới rõ lý do thánh Gioan Tông Đồ viết về Đức Giêsu trên thập giá, ông nhấn mạnh về Thiên tính của Ngài: “Ngài nghiêng đầu trao ban Thần Khí” (Ga 19,30), khác với Nhất lãm viết về nhân tính của Chúa Giêsu: “Ngài gục đầu tắt thở” (Mc 15,37).

            b- Tha tội : Đức Giêsu nói : “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12,31) Đầu mục thế gian bị khai trừ chính là Satan, thế gian, tội lỗi, không có quyền thống trị con người, vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã đánh gục nó! Bởi thế, Bí tích Thánh Thể (Lễ Tế mới của Đức Giêsu dâng) là trung tâm phát sinh mọi ơn của các Bí tích khác, nên trở thành Bí tích tha tội bậc nhất : Ai mắc tội nhẹ với lòng sám hối lên rước Lễ đã được Chúa tha thứ, thậm chí người mang tội trọng CẦN rước Lễ, muốn xưng tội mà chưa có điều kiện, cũng được rước Lễ, “kèm theo quyết tâm thống hối trọn vẹn bao gồm dốc lòng quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể” (Giáo Luật số 916 và Giáo Lý HT số 1407.1414.1416). Vì thế mỗi khi tham dự Thánh Lễ, ta cất lời cầu: “Lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51/50,12a : Đáp ca).

            4/ Đồng tế.

Đức Giêsu không thiết lập lễ tế một mình, Ngài nói : “Khi được giương cao,Ta sẽ kéo mọi người lên (đồng tế) với Ta” (Ga 12,32). Nhưng với bản tính loài người, Đức Giêsu lo sợ bị cô đơn. bởi đó Ngài thốt lên: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người có còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?” (Lc 18,8). Vì thế Ngài nói : “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? và Ngài cầu nguyện : Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến” (Ga 12,27: Tin Mừng).Giờ của Ngài là giờ tự nguyện hiến tế, đồng thời là giờ Ngài biểu lộ vinh quang (x Ga 2,4 ; Ga 7,6.8.30 ; Ga 8,20), và Đức Giêsu muốn mọi người cộng tác với Ngài, như thánh Tông Đồ nói: “ Nay tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ chịu vì anh em; và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu vì thân mình Ngài là Hội Thánh” (Cl 1,24 : bản dịch NTT). Để khi Ngài được Chúa Cha tôn vinh thì kẻ ấy cũng được thông phần vinh quang với Ngài (2Tm 2,10). Bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Ai hầu hạ Ta, thì hãy theo Ta, và Ta ở đâu kẻ hầu hạ Ta cũng sẽ ở đó. Mà ai hầu hạ Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12,26 – Bản dịch NTT: Tung Hô Tin Mừng). Động từ “hầu hạ”, Hy ngữ là “Litrêô” dịch sang tiếng Do Thái là “Avad”, có hai nghĩa : phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân ; còn động từ “treo lên” (x Ga 12,32) Hy-ngữ là “Hupsun”, cũng có hai nghĩa : bị đóng đinh và được tôn vinh. Như thế bản chất của Thánh Lễ là đồng tế, nên giáo luật số 906 qui định: “Nếu không có lý do chính đáng và hợp lý, tư tế không được cử hành lễ Thánh Thể nếu không có ít là một vài giáo dân tham dự”.

Tác giả sách Sáng thế viết về Đức Giêsu là Tư Tế theo kiểu Melkisedek, nghĩa là ông Abraham đã thắng mọi vua chúa trên đời để bảo vệ tài sản cho cháu Lot. ông Abraham mạnh hơn các vua chúa đến thế, mà ông còn phải dâng cho Melkisedek chiến lợi phẩm. Rồi ông Abraham được nhận lại bánh và rượu từ tay Melkisedek trao cho (x St 14). Điều ấy chứng tỏ nay Đức Giêsu có quyền đòi mọi người phải có lòng nhân ái như ông Abraham đối với cháu Lot, để việc nghĩa ấy góp chung một của lễ với Đức Giêsu, hầu lôi kéo muôn dân đến với Chúa Cha, như dân Hy Lạp nhờ môn đệ Đức Giêsu dẫn đến gặp Ngài (x Ga 12,20-23 : Tin Mừng). Đó là những kẻ do Cha lấy từ thế gian trao cho Đức Giêsu, vì thế Chúa Cha đã nói với Đức Giêsu : “Ta đã tôn vinh danh Ta, và Ta lại sẽ tôn vinh”, và Đức Giêsu hiểu ý Chúa Cha nên nói với dân: “Tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi” (x Ga 12,28-30 : Tin Mừng).

THUỘC LÒNG.

Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24).

--------------------------------------

 

MC 5-B195: GIAO ƯỚC MỚI

 

Theo nghĩa thông thường, “Giao ước” là sự cam kết, giao kèo giữa hai cá nhân hoặc hai tập thể MC 5-B195


Theo nghĩa thông thường, “Giao ước” là sự cam kết, giao kèo giữa hai cá nhân hoặc hai tập thể. Mỗi bên đều có bổn phận tuân giữ những quy định được ghi rõ trong cam kết này, và bên nào vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc.

Trong truyền thống Kinh Thánh, “Giao ước” là hiệp định ký kết bằng cách cả hai bên phải đi vào giữa hai phần những con vật được sát tế và xẻ đôi. Giao ước đối với toàn dân Ít-ra-en là Giao ước cũ (còn gọi là Cựu ước), được thực hiện tại núi Sinai qua việc ông Môi-sen rảy máu tế vật lên bàn thờ và trên dân. Giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Chúa không chỉ là kết quả của sự thoả thuận của hai bên, mà còn là đặc ân vô điều kiện của Thiên Chúa (Từ điển Công giáo, Tr. 334).

Luật Giao ước là niềm tự hào của người Do Thái. Khi so sánh với các dân xung quanh, ông Môi-sen đã nói: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” (Đnl 4,8).

Nếu Thiên Chúa luôn trung thành giữ lời giao ước, thì con người lại hay vi phạm những điều đã cam kết. Tội lỗi và kiêu ngạo đã phá vỡ mối tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và con người. Con người đã khước từ tình thương của Thiên Chúa và quay lưng chống lại Ngài. Vì vậy mà Thiên Chúa phải thiết lập một Giao ước mới. Giao ước ấy được ký kết, không còn bằng máu chiên máu bò, nhưng bằng máu của Con Một Thiên Chúa, là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Bài đọc I) đã loan báo một Giao ước mới. Giao ước này không giống như giao ước Chúa đã lập với các bậc tiền nhân của người Do Thái. Giao ước mới sẽ biến đổi lòng dạ con người, giúp họ canh tân bản thân để nên hoàn thiện.

Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giê-su đã lập phép Thánh Thể. Người trao cho họ chén rượu và nói: “Đây là máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Tác giả Lu-ca còn nói rõ hơn: “Chén này là Giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20; 1 Cr 11,25).

Tại sao Thiên Chúa không dùng cách khác để cứu chuộc con người, mà lại dùng cái chết đau thương của Con Một Ngài? Nhiều thế hệ, quá khứ cũng như hiện tại, đã đặt ra câu hỏi này. Thực ra, Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng muôn vàn cách khác nhau, cũng như khi vũ trụ còn là hư vô, Chúa đã phán một lời, mọi sự được tác thành. Chỉ có câu trả lời “do bởi tình thương” mới có thể làm thoả mãn vấn nạn trên. Vâng, như người mẹ vất vả mang thai và sinh con và nuôi dưỡng nên người, Thiên Chúa cũng thể hiện tình thương của Ngài bằng cái chết đau thương của Con Một chí ái. Tuy vậy, nếu Đức Giê-su đã chết trên thập giá, thì ngôi mộ không phải là nơi cầm giữ Người mãi mãi. Chúa đã sống lại vinh quang. Hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận thối đi để nảy mầm đơm hạt mà chính Chúa Giê-su đã sử dụng khẳng định chân lý ấy. Đức Giê-su thành Na-gia-rét là Hạt Giống vĩ đại, đã chấp nhận chết đi để sinh ra một dòng giống mới. Từ cái chết của Người, một công trình tạo dựng mới đã được khởi sự, để rồi những ai sẵn sàng dìm mình trong sự chết của Đức Giê-su, sẽ được tái sinh và gia nhập Dân Thánh, Dân của Giao ước mới. Cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá đã xoá bỏ bản án nguyên tội ở khởi đầu lịch sử, thiết lập một trang mới trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại. Thánh Phao-lô nói với chúng ta (Bài đọc II): Đức Giê-su đã mang lấy trên bản thân mình muôn vàn đau khổ. Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. Trong Mùa Chay, chúng ta ôn lại những chặng đường thập giá của Chúa Giê-su. Hôm nay, những chặng đường thập giá cũng đang đè nặng trên thân phận con người, ở nhiều hình thức và hoàn cảnh khác nhau. Ý thức có Chúa cùng vác với ta, thập giá cuộc đời sẽ bớt nghiệt ngã hơn. Xác tín vào sự hồi sinh của hạt lúa, chúng ta sẽ thêm niềm hy vọng giữa những tăm tối của cuộc đời.

Như cây đến mùa thay lá, như vườn nho đến ngày cắt tỉa, mùa Chay giúp chúng ta buông bỏ những gì cản trở chúng ta trên con đường theo Chúa và trong bổn phận đối với tha nhân. Những thực hành đạo đức của mùa Chay như chay tịnh, cầu nguyện và bác ái sẽ giúp cho con người cũ nơi chúng ta chết đi, trở thành con người của Giao ước mới, mặc lấy Chúa Giê-su Phục sinh.

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

---------------------------------

 

MC 5-B196: ĐỨC GIÊ-SU, ĐẤNG KIỆN TOÀN GIAO ƯỚC

 

Lịch sử cứu độ là bản trường ca vô tận diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Chính tình MC 5-B196


Lịch sử cứu độ là bản trường ca vô tận diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Chính tình yêu của Ngài, Đấng tác tạo mọi sự, đã làm nên lịch sử thánh. Toàn bộ Kinh Thánh được tóm kết trong hai chữ “Tình Yêu”, tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.

Giao ước tình yêu

Vì yêu thương, Thiên Chúa đã chọn dân Ít-ra-en làm dân riêng của Chúa. Không những thế, Chúa còn ký kết với dân Ngài một Giao Ước Tình Thương được tạc vào đá qua trung gian Mô-sê. Trong Giao ước ấy, mỗi bên đều có nghĩa vụ và quyền lợi của mình: về phía Thiên Chúa, Chúa nhận dân là dân riêng của Chúa và hứa sẽ bảo vệ giữ gìn; về phía dân, họ nhận Chúa là Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ Mười Điều Răn Chúa truyền.

Sở dĩ gọi là Giao Ước Tình Thương là vì dân Ít-ra-en đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày. Vì yêu thương và thành tín, Chúa vẫn giữ lời giao ước. Lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật là bằng chứng: “Chính là vì yêu thương anh em, và để giữ trọn lời hứa với cha ông anh em, mà Chúa đã ra tay uy quyền giải thoát và đưa anh em ra khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập. Và anh em sẽ biết rằng Đức Chúa, Chúa của anh em, mới thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ trọn lời giao ước, và tỏ lòng nhân nghĩa đối với những ai yêu mến Người và tuân hành các giới luật Người ban” (Đnl 7,6.8-9).

Giao ước mới

Thiên Chúa không đành phá vỡ giao ước, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới. Giê-rê-mi-a là người duy nhất nói về “giao ước mới”, ông tuyên sấm: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngoại mà thờ, không tuân giữ các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời, không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng”.

Giao ước mới này sẽ được ký kết với toàn thể dân Chúa là Ít-ra-en và Giu-đa, và sẽ vững bền mãi mãi. Thiên Chúa sẽ in sâu vào trái tim con người sự hiểu biết và tình yêu của Ngài mà không đòi hỏi điều kiện gì khả dĩ có thể trở nên vô hiệu lực khi điều kiện đó không tuân giữ được: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31, 34).

Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môi-sen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi tạc vào lòng con cái Ít-ra-en (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: “Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em ” (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Ki-tô thực hiện và hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.

Giao ước được kiện toàn nơi Đức Giê-su

Trong lịch sử cứu độ; các giao ước được sắp xếp theo chiều từ thấp lên cao như những mắt xích, mà đỉnh điểm tối hậu là Giao Ước Mới, giao ước được thiết lập trong máu Đức Giê-su Ki-tô. Nơi Người, Thiên Chúa thực hiện một lần thay cho tất cả; nghĩa là nơi Con Một yêu dấu, Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh viễn với con người.

Bằng một ẩn dụ về hạt lúa mì, Đức Giê-su dùng với hình ảnh giàu biểu cảm về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm của sự biến đổi từ cõi chết qua cõi sống.

Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi, Đức Giê-su đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người chúng ta (x. Ga 6,53-56, Mt 26,17-28).

Chúng ta phải khẳng định rằng, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Chúa Giê-su đã phải chịu chết cách đau đớn và nhục nhã trên Thánh Giá. Cũng vì tội lỗi loài người, và để tha tội cho chúng ta mà Chúa Giê-su đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới như lời Chúa nói trong bữa tiệc ly: “Máu Giao Ước Mới sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội” (x. Mt 14,24 ; Lc 20,22 ; 1Cr 11,25).

Dân chúng thời Cựu Ước được ơn tha tội nhờ máu chiên bò, nhưng đến thời Tân Ước, họ được ơn tha tội nhờ Máu Chúa Giê-su đổ ra (x.1 Cor 5,7). Trong giao ước mới này, muôn người được ơn tha tội nhờ bửu huyết châu báu Chúa Ki-tô.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------

 

MC 5-B197: Chết đi để sống tình yêu đích thực

 

Hạt giống không thể được gieo vào bất cứ lúc nào trong năm. Mọi thứ đều có lúc của nó. Cuộc MC 5-B197


Hạt giống không thể được gieo vào bất cứ lúc nào trong năm. Mọi thứ đều có lúc của nó. Cuộc sống của chúng ta, cũng giống như đất đai, đều được ghi dấu bằng những lúc thích hợp cho mỗi việc xảy ra. Và khi thời điểm gieo hạt đến lúc thích hợp thì người ta gieo hạt xuống đất. Trên mảnh đất lạnh lẽo, trong im lặng và cô độc, hạt giống bắt đầu cuộc hành trình hướng tới một sự sống mới.

Tương tự như vậy, trong cuộc sống của chúng ta, có những lúc chúng ta được mời gọi sống cô tịch, có những lúc thế giới khép lại quanh chúng ta và bỏ mặc chúng ta trong bóng tối. Trong những lúc như thế, chúng ta có thể không chống chọi được với sự tuyệt vọng hoặc chờ đợi, chỉ có thể nuôi một chút hy vọng còn sót lại. Người ta có thể sống cả cuộc đời mà không bao giờ sinh hoa kết trái, chỉ thối rữa trong lòng đất. Có những hạt giống mất đi, có những hạt giống không bao giờ sống lại. Có những hạt giống không bao giờ nảy mầm vì không muốn bị biến đổi theo thời gian.

Cũng có những người không bao giờ có thể yêu thương người khác một cách chân thành, không bao giờ để cho cuộc đời biến đổi mình. Họ là những người sống khép kín trong cái vỏ ích kỷ của mình, là những người lớn lên nhưng không bao giờ buông bỏ thời niên thiếu. Họ là những người lớn nhưng không biết nhường chỗ cho con cái của mình. Tình yêu đích thực, tình yêu trưởng thành, là tình yêu được gieo xuống đất, biết đón nhận sức nặng của mảnh đất phía trên nó. Tình yêu đích thực biết buông bỏ, biết biến đổi. Tình yêu đích thực biết rằng nó phải cống hiến sự sống của mình và được biến đổi, không ai có thể nhận ra nó như nó vốn có trước đây. Tình yêu đích thực biết cách biến mất; nó không liên tục đòi hỏi người khác nhìn thấy nó. Tình yêu đích thực biết rằng không thể quay ngược về như trước… nhưng nó có sự bền vững: hạt giống tự biến đổi không thể quay trở lại như xưa được nữa. Tình yêu đích thực của một hạt giống thì mãi mãi là tình yêu, nếu không vậy thì nó không phải là tình yêu. Hạt giống cho đi sự sống và không bao giờ lấy lại sự sống đó.

Chúa Kitô là thước đo của tình yêu đích thực; Ngài hoàn toàn mất đi chính mình, tuyệt đối không giữ lại gì cho riêng mình. Ngài tự hiến mình một cách không thể đảo ngược được. Giống như bình ngọc thạch bị vỡ thì hương thơm của nó bị “hao tổn”, Chúa Giêsu cho không sự sống của Ngài mà không mong đợi đổi lại bất cứ điều gì. Trên đường đời, chúng ta cũng gặp những người giúp chúng ta yêu thương theo cách này. Trong sâu thẳm, mỗi chúng ta đều khao khát được yêu thương một cách chân thành, trọn vẹn. Tất cả chúng ta đều thoáng thấy sự thật rằng chúng ta cũng có thể sống một cuộc sống trọn vẹn nếu chúng ta biết học cách buông bỏ chính mình vì người khác.

Trong Tin Mừng, một số người Hy Lạp xin được gặp Chúa Giêsu. Họ muốn gặp bộ mặt thật của tình yêu, người mà họ đã nghe người khác nói đến và bị mê hoặc bởi vì họ trực giác được rằng sự sống trọn vẹn ẩn chứa trong người đó. Đôi khi thật hữu ích khi tìm kiếm những người trung gian có thể đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu. Thường thì một mình chúng ta không có khả năng.

Những lúc khác, chúng ta lại là những người được kêu gọi làm trung gian lắng nghe những khao khát của những người tìm kiếm Thiên Chúa. Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà người Hy Lạp xin Phillípphê đưa đến với Chúa Giêsu. Phillípphê đến từ Bethsaida thuộc Galilê, một thị trấn biên giới, vì vậy ông biết cái cảm giác xa nhà và cảm giác bị loại trừ là như thế nào. Phillípphê đã tự mình cảm nghiệm ý nghĩa của việc được người ta tìm đến, được chào đón khi bạn cảm thấy mình đang ở ngoài lề cuộc đời.

Đối với người Hy Lạp - cũng như đối với hạt giống - có những lúc thích hợp trong cuộc sống và những bước đi mà chúng ta được mời gọi thực hiện. Đối với Chúa Giêsu cũng vậy, trong quyết định hiến mạng sống của Ngài, có những tiến trình và khoảnh khắc phải tuân theo. Tuy nhiên, đó không bao giờ là một sự ngẫu hứng. Đó là một quyết định mà Ngài đã chuẩn bị từ lâu trong khi vẫn liên tục gắn kết với cuộc sống. Chúng ta cũng được mời gọi sống từng giây phút với đôi mắt hướng về mục tiêu mà chúng ta khao khát một ngày nào đó sẽ đạt được.

Lm. Gaetano Piccolo - https://catholic-link.org
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ
***  Cha Gaetano Piccolo thuộc Dòng Tên, quê ở Napoli, hiện đang sống ở Rôma và giảng dạy triết học tại Đại học Grêgôrianô.

---------------------------------

 

MC 5-B198: GIỚI THIỆU ĐỨC KITÔ: TRỌNG TRÁCH CỦA MỖI KITÔ HỮU

 

Đọc Tin Mừng của Thánh Gioan, chỉ trong chương 1 thôi, tôi đã thấy có ba nhân vật có biệt MC 5-B198


Đọc Tin Mừng của Thánh Gioan, chỉ trong chương 1 thôi, tôi đã thấy có ba nhân vật có biệt tài giới thiệu Chúa đến cho người khác. Ba nhân vật này chính là Gioan Tẩy Giả, An-rê và Phi-lip-phê:

• Ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa." Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. (Ga 1:35-37).

• Ông An-rê gặp em mình là ông Si-môn và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su (Ga 1:41-42).

• Ông Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói: "Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét” (Ga 1:45).

Bạn thấy lời giới thiệu của Gio-an Tấy Giả, An-rê và Phi-lip-phê có sức thuyết phục mạnh ghê không? Bạn có biết nhờ vào đâu và nhờ cách nào mà lời giới thiệu của các ông lại mạnh mẽ và có sức thuyết phục cao như vậy không? Thánh Gio-an cho chúng ta biết, đó là nhờcác ông ĐÃ GẶP Đức Kitô. Nếu các ông không GẶP Chúa Giê-su thì các ông sẽ không thể BIẾT Ngài. Mà nếu không BIẾT thì các ông không thể giới thiệu một cách chính xác, và sẽ không có sức thuyết phục mạnh như vậy được!

Bạn thân mến, xưa cũng như nay, trách nhiệm giới thiệu Chúa Giê-su cho tha nhân, vẫn là trách nhiệm và là bổn phận của tất cả mọi người chúng ta. Thật vậy, Công đồng Vatican II đã nói rất rõ, việc giới thiệu Chúa Giê-su đến cho mọi người là trách nhiệm và bổn phận của tất cả mọi Kitô Hữu: “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại” (Lumen Gentium # 33).

Để công việc giới thiệu Chúa Giêsu đến cho mọi người được có kết quả tốt đẹp, bạn và tôi cần phải noi gương bắt chước thánh Gio-an Tẩy Giả, An-rê và Phi-lip-phê, chúng mình phải GẶP được Chúa. GẶP rồi thì chúng ta mới

BIẾT, và BIẾT càng nhiều, BIẾT càng rõ bao nhiêu thì lời giới thiệu củachúng ta mới có sức thuyết phục mạnh bấy nhiêu! Bạn đồng ý không? Để có thể GẶP được Đức Kitô, bạn và tôi phải ĐẾN với Ngài.

1. ĐẾN VỚI NGÀI QUA VIỆC ĐỌC KINH THÁNH.

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa (Ga 1:1). Chúa Giê-su chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa.

Đọc Kinh Thánh, suy niệm Lời Chúa, bạn và tôi sẽ được Ngài soi dẫn và mạc khải cho chúng ta biết về chính Ngài.

2. ĐẾN VỚI NGÀI QUA VIỆC CẦU NGUYỆN CHUNG VỚI NHAU.

“Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18:20). Khi cầu nguyện với nhau trong cộng đoàn hay trong gia đình… là khi đó Ngài đến với chúng ta, và chúng ta sẽ gặp được Ngài.

3. ĐẾN VỚI NGÀI QUA VIỆC THAM DỰ THÁNH LỄ.

Chúa Giê-su hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, trong thánh lễ, vì thế khi đến tham dự Thánh Lễ, đến với những giờ Chầu Thánh Thể, là khi đó chúng mình GẶP được Ngài. “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy!” (Ga 6:56).

Chúng ta cầu nguyện cho nhau, để bạn và tôi luôn siêng năng đọc Kinh Thánh, cầu nguyện liên lỉ, và thường xuyên tham dự Thánh Lễ, Rước Lễ, nhờ vậy, chúng mình sẽ GẶP được Chúa, và qua sự GẶP GỠ ấy, chúng mình sẽ BIẾT thật nhiều về Chúa. Và nhờ việc BIẾT đó, bạn và tôi mới có thể chu toàn trách nhiệm giới thiệu Chúa đến cho tha nhân.

Cầu chúc bạn những ngày còn lại của mùa Chay thật thánh thiện, tràn đầy ơn Chúa, và bình an.

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

---------------------------------

 

MC 5-B199: “NẾU HẠT LÚA KHÔNG CHẾT ĐI”

 

Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản lề nối hai chủ đề lớn của Tin Mừng MC 5-B199


Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản lề nối hai chủ đề lớn của Tin Mừng Gio-an: chủ đề “Các dấu chỉ” (từ phép lạ Ca-na đến phép lạ La-da-rô) và chủ đề “Giờ của Chúa” (tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người).

Đức Giê-su đã long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt qua (Do-thái giáo) lần cuối cùng, thiết lập lễ Vượt qua (Ki-tô giáo) lần đầu tiên, đồng thời từ giã thế gian để về cùng Cha, hay nói cho đúng, để đến với thế gian cách chân thật, thâm sâu và trọn vẹn hơn cả, qua cuộc khổ nạn phục sinh của mình.

Lúc ấy, trong khuôn viên Đền Thờ, “có mấy người Hy-lạp” muốn tìm gặp Người. Việc họ tìm đến với Người mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ tiên báo việc muôn dân lên đường đến với Đức Ki-tô, và cho thấy giờ ban tặng ơn cứu độ cho mọi người đã điểm.

Hạt Giống Giê-Su Chôn Vùi Trong Lòng Đất
Đức Giê-su như không đáp ứng trực tiếp ước muốn của đám khách hành hương Hy-lạp. Thực sự, Người đưa ra một câu trả lời rất sâu xa: để nhân loài có thể được gặp Đức Giê-su, được cứu độ, Con Người phải được tôn vinh, nghĩa là đi qua cuộc Thương khó, trải qua cái chết để vào hưởng vinh quang Người đã có trong Chúa Cha.

Người mở đầu bằng một lời tuyên phán: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” và giải thích nó bằng một dụ ngôn nho nhỏ: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình” (12,24). Câu này đã gặp cái rủi là trở thành một thứ luật chung chung, chẳng liên hệ cụ thể đến ai, của sự phong phú tinh thần: có chết mới mang lại hoa quả. Nhưng trong Tin Mừng, thì chẳng chung chung tí nào hết! Nó nói đến ý tưởng vừa vĩ đại vừa gây khắc khoải Đức Giê-su có về cái chết của mình.

Người quả quyết với chúng ta: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Đây là viễn ảnh bao la vĩ đại. Hết thảy nhân loại đều được Đức Giê-su cứu bằng cái chết và sự phục sinh của Người. Nhưng ngược lại, nỗi khắc khoải cũng rung lên không kém: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”. Rồi trở lại cái viễn ảnh về công trình cứu rỗi kỳ vĩ: “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha”.  

Nếu đã chẳng chết cách bi thảm như thế, thì Đức Giê-su sẽ là một con người ngoại hạng trong lịch sử, thậm chí là con người có một không hai, nhưng rốt cục vẫn chỉ một mình. Khi chấp nhận cái chết khiến mình khắc khoải như thế, Người sẽ sinh ra hoa trái vĩ đại: trở thành Cứu tinh của tất cả, thành thỏi nam châm thu hút mọi sự.

Đó là điều chúng ta được nghe dạy. Nhưng có thể biết tại sao cái chết của một người như thế lại cứu tất cả chúng ta không? Khó đấy! Vì Đức Giê-su là một con người được dệt nên bởi nhân tính và thần tính, nên hết thảy những gì liên hệ tới Người đều ghi dấu thần linh là cái mà chúng ta không thể nắm bắt nổi.

Chúng ta chỉ thoáng thấy hai chuyện. Cái chết của Người “quy tụ tất cả”. Nơi Đức Giê-su, hạt lúa thần-nhân, bao gồm cách mầu nhiệm mọi người thuộc mọi thời. Cái chết của Người có thể ảnh hưởng lên họ tất cả, sự sống lại của Người cũng vậy. Cái chết này phong phú là vì thế: “Nếu tôi chết, tôi mới sinh được nhiều hoa quả”.

Đem Lại Hoa Quả: Chiến Thắng Của Tình Yêu
Nhưng ơn cứu rỗi nào sẽ đi từ Hạt giống độc nhất đến mùa gặt bao la vậy? Tại sao cái chết ấy có sức mạnh “cứu rỗi”? Chúng ta có vẻ đối diện với một chiến thắng kỳ diệu, mà kể ra không thể đánh giá trước ngày tận thế. Một chiến thắng của tình yêu trên hận thù và ích kỷ.

Chúng ta đã được tạo dựng để yêu thương, thế nhưng chúng ta chẳng bao giờ đạt tới đó. Nhân vật độc nhất này, Con Người, sắp làm một hành vi khiến Người trở nên sự giải tỏa, sự Vượt qua cho chúng ta. Sau cái chết và cuộc phục sinh của Người, khả năng yêu mến, khả năng chiến thắng tội lỗi là sự không yêu mến, sẽ được cống hiến cho chúng ta hết thảy.

Đức Giê-su không chết để tuân theo một thứ sắc lệnh của Chúa Cha vốn ở bên ngoài hữu thể sâu xa của Người. Đức Giê-su không chết do bị nghiền nát bởi một liên minh các tà lực. Kinh Tạ ơn 2 đã tóm tắt điều đó qua câu nói: “Khi bị nộp và tự hiến chịu khổ hình...” Đúng là Đức Giê-su đã bị Chúa Cha phó nộp, nhưng phó nộp cho một sứ mạng tự do, sứ mạng yêu mến, với tất cả mọi rủi ro mà sứ mạng đó bao hàm trong ngôi nhà tù thù hận vĩ đại là thế gian, ngôi nhà tù mà Con Người sẽ phải mở cửa. Người sắp mở nó ra bằng hành vi đầy tràn nhất, phong phú nhất, cứu độ nhất mà không một ai khác đã hoàn tất nổi. Hạt lúa độc nhất bị nghiền nát sắp lớn lên thành một mùa gặt vĩ đại.

Nhờ kết hợp với Người và theo gương Người, chúng ta cũng có thể trở thành hạt lúa sinh được nhiều hoa quả như thế, trước hết là cho chính bản thân chúng ta: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống vĩnh cửu”. Tại sao vậy? “Cuộc sống có thể được coi như là “của tôi”, và tôi có thể dập tắt hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tùy ở tôi, cái báu vật duy nhất cần bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tùy thuộc vào chính tôi ấy. Nếu thế thì cuộc sống, vốn như giòng nước chảy xiết, sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại. Ngược lại, nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với Ai đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm, thì này đây sự “chết” ấy không có gì khác hơn là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế “thì sẽ giữ lại được, như lời Chúa nói, cho sự sống vĩnh cửu”. Mà như ta biết, theo thánh Gio-an, sự sống vĩnh cửu là hiệp thông với chính Thiên Chúa” (Xavier Léon-Dufour).

Thành ra ý nghĩa cuộc sống trần thế của chúng ta là nằm ở chỗ: chính bằng cách mở lòng đón nhận lời Đức Giê-su với những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập (thường được ngụy trang dưới mỹ từ “làm chủ bản thân và định mệnh”), mà người ta tiến đến “sự sống”. Sự sống này là yêu thương, hiệp thông, chia sẻ, phục vụ cùng với Đức Ki-tô và theo gương Đức Ki-tô. “Luôn luôn, hy sinh là phục vụ! Nhất là hy sinh tính mạng! Đó là một gương sáng! Hy sinh lưu tồn mãi, như để lại một huyền thoại trên trái đất, như trồng một cây xanh trên đại lộ: mãi mãi cho tương lai” (De la Varende). “Tất cả mọi hành động, mọi công trình, mọi nếp sống thực tốt đẹp, thực chính hiệu Ki-tô giáo, bao giờ cũng mang hai dấu chỉ: tình yêu và hy sinh” (ĐHY Garonne).

Người ta kể chuyện triết gia Auguste Comte (1798-1857), cha đẻ thuyết duy nghiệm, có ý định lập một tôn giáo mới mang tính khoa học, thay thế cho Ki-tô giáo mà ông bảo là lỗi thời. Ông tìm đến sử gia kiêm nhà phê bình lỗi lạc người Anh là Thomas Carlyle (1795-1881, có khuynh hướng chống lại thuyết duy vật và duy lý), để hỏi ý kiến xem mình phải khởi sự thế nào. Thomas Carlyle đoan chắc với Auguste Comte rằng điều đó thật giản dị. Trước hết ông phải viết ra những huấn giới cho tôn giáo mà ông đề xướng, đoạn phân phát cho môn đệ của ông. “Rồi tôi phải làm gì nữa?” Auguste Comte hỏi. Thomas Carlyle nói: “Sau đó ông phải tự mình chịu đóng đinh trên cây thập giá, chịu chết, kế đó để người ta chôn trong mồ mả và đến ngày thứ ba, ông phải sống lại và hiện ra ít nhất cho 500 người” - “Làm sao tôi sống lại được?” - “Nếu không sống lại được, thì tôn giáo ông lập ra chỉ là một tôn giáo chết, như vậy nó còn có thể cứu rỗi được ai!”

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

---------------------------------

 

MC 5-B200: HẠT GIỐNG MỤC NÁT TRỔ SINH HOA TRÁI?


Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

 

Trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su thường xuyên nói: “Giờ Ta chưa đến”. Giờ ở MC 5-B200


Trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su thường xuyên nói: “Giờ Ta chưa đến”. Giờ ở đây ám chỉ đến giây phút Người thi hành trọn vẹn ý định của Chúa Cha. Giờ vâng phục. Giờ Chúa Cha được tôn vinh. Nhưng, trước con mắt người đời thì đó là giờ tử nạn. Nói như thế có nghĩa là mọi cử chỉ, mọi thái độ và cách hành xử của Người đều hướng về giờ đó. Đức Giê-su ý thức và biết rất rõ các việc Người làm dẫn Người đến giờ chết. Nhưng vì giờ này mà Người đã đến.

Đức Giê-su không tìm cái chết. Nhưng Người biết rõ việc làm của Người sẽ đem đến tai họa cho bản thân. Và để hoàn thành ý định của Thiên Chúa, nhất là vì lợi ích của thế gian cho nên Người hân hoan thực hiện, cốt để làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người cho chúng ta được sống.

Và trong bài Tin Mừng hôm nay, trong khi mọi người chuẩn bị mừng lễ Vượt qua tại Giê-ru-sa-lem thì Đức Giê-su báo cho chúng ta biết rằng giờ đó sắp diễn ra. Người nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh.” Nhưng trên thực tế, chúng ta đâu thấy Đức Giê-su được tôn vinh mà chỉ thấy cảnh bị sỉ nhục, chê bai, khinh miệt, cuối cùng là con đường thương khó và bị treo trên thập giá của Người. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì ai trong chúng ta có thể nói rằng giờ của một người sắp bị xử tử lại là giờ vinh quang cho người đó!

Lối suy nghĩ và đặt vấn đề của chúng ta như thế cũng không xa lạ gì với cách nhìn về cái chết trên Thập Gía của những người cùng thời với Đức Giê-su. Đó là án chết dành cho các tử tội. Đức Giê-su cũng thế. Người bị chết trên thập giá như một tội nhân, nằm giữa 2 tên trộm cướp. Một cái chết như thế mà dám gọi là chết vinh quang hay sao?

Để đáp trả cho câu hỏi nói trên và cũng là câu trả lời mà Đức Giê-su dành cho những ai muốn gặp Người, cách riêng những người Hy Lạp sùng đạo. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp, nhưng nhân cơ hội này nói cho họ biết làm thế nào để gặp Người.

Đức Giê-su đã không tiếp tục giải thích về sự nối kết giữa ‘giờ vinh quang’ và giờ chết mà Người sắp đón nhận. Người dùng ví dụ mà nguời đuơng thời hay những ai có kinh nghiệm trong việc trồng cấy đều hiểu ngay điều Chúa muốn nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”

Ý nghĩa của ví dụ về sự phát triển của hạt giống trở nên rõ nghĩa hơn khi Đức Giê-su nhấn mạnh đến việc yêu thương và hy sinh cuộc sống mình vì lợi ích của người khác. Ai trong chúng ta cũng có trải nghiệm này là sống cho bản thân, chỉ lo cho mình là một lối sống tự diệt. Tình Yêu chỉ được thăng hoa khi người đó dám yêu và dám sống cho người khác. Tuy đó là hy sinh nhưng sự hy sinh như thế là việc rất cần thiết vì chúng ta biết rằng các việc làm tự nguyện đó sẽ đem lại ích lợi cho tha nhân.

Trong cuộc sống gia đình, có vợ chồng nào đã không buông bỏ ý riêng mình, thay đổi lối tư duy để sao cho hòa hợp với người mình yêu, không chỉ một vài lần mà hàng vạn lần. Lối sống chết đi cho ý riêng, sống lại với ý nghĩ mới để cùng nhau nở sinh hoa trái là khuôn mẫu trong mọi mối tương quan đã thấm nhuần vào trong cuộc sống của chúng ta.

Một hình ảnh khác, cũng trong môi trường gia đình, có bậc phụ huynh nào không yêu con khi hy sinh cho con cái, từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý định của các cháu và mong cho các cháu có một cuộc sống đổi mới. Đó cũng là việc chết đi cho ‘cái tôi’, sống cho người khác để họ được sinh hoa kết trái trong cách chọn lựa mới.

Nói chung, lối sống như thế tạo cho chúng ta một lối sống giầu có và luôn được thăng hoa, vì nó có thể chạm đến nguồn suối yêu thuơng của Thiên Chúa. Tất cả những điều đó đã được Đức Giê-su thể hiện qua cuộc sống từ bỏ, chấp nhận trong hân hoan để được chết đi, trở thành Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng những ai đang đói khát nguồn ơn cứu thoát. Thật, đúng như thế, vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để luận tội và xét xử thế gian, nhưng nhờ Con của Người mà thế gian được cứu thoát.

Như vậy, thưa anh chị em,

Qua tấm lòng vâng phục, ngay cả sự chết cũng không làm Đức Giêsu chùn bước; cho nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người vuợt lên trên mọi sự. Nhưng, sao mà Đức Giê-su có thể vượt qua mọi sự, ngay cả nỗi cô đơn, vuợt qua muôn vàn thử thách, ngay cả sự chối bỏ của những người bạn cùng đồng hành với Người, để trung thành và chấp nhân sự chết như thế? Chỉ có một câu trả lời xác đáng rằng sức mạnh mà Đức Giê-su có được, hoàn toàn phát sinh từ mối dây hiệp thông mật thiết với Chúa Cha, chỉ muốn làm hài lòng Cha. Có nghĩa là cái chết của Đức Giê-su cho thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa trong Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho thế gian.

Còn một điều kỳ diệu khác nữa là lời mời cùng chết với Chúa của Đức Giê-su. Có nghĩa là khi chấp nhận lời mời là lúc chúng ta giống như những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo trồng: cần bị mục nát, cần bị chết đi để sinh hoa lợi cho người khác. Đây là giây phút cao quí nhất của những ai theo gương Đức Giê-su. Đây là giây phút chúng ta gom tất cả những gì Đức Giê-su đã thực hiện khi còn sống và được tiếp tục qua lối sống tự hạ của chúng ta là những người sẵn sàng chấp nhận chết đi cho nhau được sống. Và, như Đức Giê-su, trong giây phút quên mình đó, cuộc đời của chúng ta cũng đựơc Thiên Chúa tôn vinh.

Và trong tâm tình đó, xin mời anh chị em cùng ôn lại một vài gương sáng.

Trước hết là cuộc đời của mục sư Martin Luther King. Ông là một con người đã dùng cả cuộc đời để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen; và sau cùng, ông đã bị ám sát chết vào ngày 4 tháng 4 năm 1968. Truớc cái chết vô cùng tang thương, trước sự mất mát thật to lớn của nhân loại; có ai trong chúng ta dám nói lúc ông bị ám sát là giây phút vinh quang của đời ông?

Hay là chúng ta chỉ biết than khóc cho một con người đã hết lòng vì người khác. Đây phải chăng là một sự thảm bại mà ông phải chịu khi dám đứng ra để chống lại một thế lực quá lớn không hỗ trợ cho phép người da đen được bình đẳng. Tuy nhiên, ngày hôm nay sau hơn 55 năm, chúng ta đều nhận ra một điều là qua sự chết, ông đã đạt được giấc mơ đem lại quyền bình đẳng giữa người da mầu và da trắng. Đó chính là giây phút vinh quang mà ông muốn nhắm đến. Qua sự chết, ông đã truyền sức sống cho những hạt giống ở các thế hệ kế tiếp.

Qua sự chết của cố mục sư Martin Luther King làm chúng ta nhớ lại cái chết của vị cha già dân tộc Ấn là Mahatma Gandhi.

Người ta cũng không thể quên cái chết của linh mục dòng Phan-xi-cô, cha Ma-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê đã tình nguyện chết thay cho người bạn tù. Hoa quả của cái chết mà Người để lại là tình thân ái, yêu thương và chia sẻ của những người bạn tù còn sống sót trong trại giam. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em bạn tù.

Đó là những mẫu gương phi thuờng đòi hỏi một cố gắng đem đến kết quả cũng phi thường. Nhưng đối với chúng ta, hãy nhìn vào cuộc sống gia đình, chúng ta vẫn nhận ra rằng còn có những người cha và mẹ sẵn sàng hy sinh bản thân, chấp nhận là người thua cuộc chỉ vì họ yêu con cái của họ và người bạn đuờng hơn yêu chính bản thân. Còn bao nhiêu người đang âm thầm chết để bộc lộ tình yêu và gầy dựng tương lai cho các thế hệ mai sau. Trong Chúa, họ rất đáng được ca ngợi và tôn vinh.

Vì thế trong giây phút chuẩn bị bước vào Tuần Thương Khó, chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì lối sống chứng nhân của bao nhiêu người đang chết đi cho chính mình để sự chết của họ như mầm giống trổ sinh hoa trái cho các thế hệ mai sau. Họ là chứng nhân Tình Yêu. Cùng với họ chúng ta ngợi khen Tình Yêu của Thiên Chúa, Đấng đã vì thế gian mà sẵn sàng hy sinh Con Một, Người cũng vui lòng. Amen.

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây