- Bài đọc I (Is 63.16b-17.19): Lời nguyện của ngôn sứ Isaia "Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống"
- Đáp ca (Tv 79): "Lạy Chúa tể càn khôn, xin đoái lại… Xin trở về thăm nom vườn nho cũ"
- Tin Mừng (Mc 13,33-37): Đức Giêsu kêu gọi "Anh em hãy canh thức"
- Bài đọc II (1 Cr 1,3-9): "Anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta mặc khải vinh quang của Ngài".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Khi thương ai thì người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên: MV 1-C51
Khi thương ai thì người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên rất thích đến thăm loài người.
Ngày xưa dân do thái đã chuẩn bị đón Chúa đến viếng thăm họ trong một mùa vọng dài hàng bao thế kỷ. Đáp lại, Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu, Con Một của Ngài đến ở với họ và cứu chuộc họ.
Ngày nay, Chúa lại muốn đến viếng thăm chúng ta, để ban cho chúng ta vô vàn ơn thánh của Ngài. Chúng ta hãy tận dụng Mùa Vọng này để chuẩn bị tâm hồn cho Ngài đến thăm chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta không xứng đáng với Chúa vì đức tin của chúng ta càng ngày càng yếu đi theo dòng thời gian.
- Chúng ta cũng không xứng đáng với Chúa vì lòng mến của chúng ta ngày càng lạnh nhạt.
- Nếu bất ngờ Chúa đến kiểm tra, chắc Ngài sẽ thất vọng vì chúng ta không chu toàn những bổn phận Ngài giao.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 63.16b-17.19
Đoạn này nằm trong phần thứ ba của sách Isaia (các chương 56-66). Các chuyên viên Thánh Kinh chưa nhất trí về thời gian soạn thảo của phần thứ ba này. Một số chuyên viên cho rằng phần này được soạn vào cuối thời kỳ dân do thái bị lưu đày bên Babylon.
Tình trạng bị lưu đày nơi đất khách quê người rất là khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đày, dân do thái đã ý thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi. Trong đoạn trích này, Isaia đã thay mặt dân bày tỏ 2 điều:
- Một mặt, thú nhận tình trạng tội lỗi của dân: "Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ"
- Mặt khác, nài xin Chúa đến để tha thứ và cứu thoát họ: "Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".
2. Đáp ca: Tv 79
Cũng là một lời van xin Chúa đến. Mặc dù ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, nhưng dân do thái vẫn dám van xin Chúa đến. Cơ sở của lời kêu xin tin tưởng này là: bởi vì Israel chính là vườn nho mà Chúa đã trồng và là đoàn chiên do Ngài chăn dắt.
3. Tin Mừng: Mc 13,33-37
Bài đọc Cựu Ước và bài Đáp ca nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Đấng Messia đến). Còn bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Đức Giêsu trở lại). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là Tỉnh thức sẵn sàng (như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya). Đức Giêsu cũng cho biết lý do tại sao phải tỉnh thức sẵn sàng: vì Ngài sẽ trở lại cách bất ngờ.
4. Bài đọc II: 1 Cr 1,3-9
Sang tới thời Giáo Hội sơ khai.
Đối tượng của đoạn thư này là Giáo đoàn Côrintô, một cộng đoàn sinh động nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẻ, kiện tụng, luân lý suy đồi v.v.
Trước hết Thánh Phaolô nhắc họ nhớ biết bao ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Ngài muốn họ tự hiểu ngầm là trong hiện tại, họ đã không đáp lại xứng đáng những ân sủng đó. Và cũng một cách gián tiếp rất tế nhị, Ngài muốn họ tỏ ra xứng đáng hơn với những ân sủng đó, kiên trì trong những ân sủng ấy, để khi Chúa lại đến thì họ không có gì phải bị khiển trách.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chờ đợi
Những giây phút chờ đợi là thời gian căng thẳng nhất nhưng cũng có ý nghĩa nhất. Những người yêu nhau chờ tới ngày cưới, cha mẹ chờ đứa con ra đời, gia đình chờ một người thân trở về, người lao động chờ công việc mình sinh kết quả… Trong cuộc sống hàng ngày, người ta luôn chờ đợi một cái gì đó. Khi không còn chờ gì nữa, không còn mong gì nữa thì đời kể như sắp chết.
Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1).
Rồi Đấng Messia đã đến. Phải chăng không còn phải chờ đợi nữa ? Không, mỗi người vẫn còn phải chờ đợi, chờ cho sự công chính được hoàn thành nơi bản thân mình. Bởi đó, Đức Giêsu nói "Phúc cho ai đói khát điều công chính". Đói khát điều công chính và chờ đợi công chính thực hiện chính là một mối phúc.
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi: chờ Đức Giêsu đến thăm chúng ta vào dịp lễ Giáng sinh, và chờ Ngài đến với chúng ta mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể.
Chờ đợi như thế nào ? Bài Tin Mừng hôm nay dạy: chờ đợi bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.
* 2. Đất sét trong tay người thợ gốm
Bài đọc I dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm.
Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ Isaia đã nói lên một sự thật: "Chúng tôi là đất sét, Còn Chúa là người thợ gốm". Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2,7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của ngôn sứ Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc Thiên Chúa.
Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.
Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa.
* 3. Mong đợi Chúa đến
Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:
- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy ?
- Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.
- Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.
Nghe cô bé nói có lý, ông liền thố lộ:
- Ông đang chờ đợi Chúa đến.
Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:
- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à !
Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:
- Ông chờ một dấu hiệu ư ? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.
*****
"Tất cả là hồng ân". Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm".
Bài Tin mừng đầu năm Phụng vụ hôm nay, nhắc nhở chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đón Chúa đến trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại.
Mùa Vọng là mùa của mong đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người mỏi mòn. Nhưng chính sự mòn mỏi đó càng làm cho cuộc gặp gỡ thêm nồng thắm hơn.
Thái độ cần phải có là hãy "tỉnh thức và cầu nguyện" để "nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm" (c.19,44). Nếu Chúa đã nhắn nhủ: "Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về" thì không có lời khuyên nào khôn ngoan hơn lời Cha Charles de Foucauld: "Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay".
Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng. Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải "gặp được Chúa".
Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.
*****
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết "tìm gặp Chúa" trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Hãy thức dậy đi
Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để tìm kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người đang ngủ.
Hãy đọc kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đâu có bảo chúng ta ngủ, đâu có bảo chúng ta đừng làm việc. Trái lại Ngài bảo chúng ta luôn tỉnh thức làm việc. Kitô hữu giống như những đầy tớ mà Chúa là chủ đã giao cho mỗi người một việc và Ngài sẽ trở về bất cứ lúc nào để xem họ có đang làm việc đàng hoàng hay không.
Thế nhưng con người hay buồn ngủ và thường ngủ gật. Trong việc sống đạo cũng thế. Sau đây là một số lý do:
- Quen lờn về tội: "Điều gì thường xảy ra thì được coi là bình thường". Thường phạm tội hay thường thấy người khác phạm tội nên quen lờn không còn thấy bị cắn rứt nữa. Bài đọc I nói đó là "lương tâm đã trở nên chai đá". Lương tâm con người thời nay đã chai đá (đã "ngủ gật") trước những tội phạm đến công bình, đến tính dục, "không còn biết kính sợ Chúa nữa".
- Lười biếng cầu nguyện. Bài đọc I nói "không còn ai kêu cầu danh thánh Chúa nữa".
- Cảm thấy như Chúa đi đâu xa. Bài đọc I nói "Chúa đã ẩn nấp không cho chúng tôi thấy Chúa nữa". Bài Tin Mừng thì nói Chúa như "ông chủ đi xa, để nhà cửa lại".
Dù bởi lý do nào đi nữa, điều cần thiết là mỗi người hãy biết rằng mình đang mê ngủ, hoặc ít ra là đang ngủ gà ngủ gật. Vì thế, mỗi người hãy đáp lại tiếng Chúa gọi "Hãy thức dậy đi".
5. Ngủ mê trong thói quen
Tất cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều thì ít sống theo thói quen. Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói quen đã có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đã tập được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Một việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm việc đó một cách rất dễ dàng và còn khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản năng thứ hai của con người.
Tuy nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn, không ý thức mình đang làm gì nữa, không suy nghĩ, không tâm tình.
Nếu bạn để một con nhái vào một bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả nên cứ ở yên trong đó. Vì nó đã quen dần nên không thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra thì cần phải lấy một cái gì đó chọc vào nó.
Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc đã không còn ý thức, huống chi nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Ước gì Mùa vọng là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật mình ý thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.
6. Hy vọng và cuộc sống
Người ta nói rằng bao lâu còn sống thì còn hy vọng
Tuy nhiên, đúng hơn phải nói: bao lâu còn hy vọng thì còn sống.
- Hy vọng là sức mạnh
- Nó chiếu sáng những trái tim chán chường
- Nó kích thích ý muốn sinh tồn
- Nó là trợ tá đắc lực cho các bác sĩ
- Nó là khiên thuẫn che chở những thất bại
- Nó hồi sinh những lý tưởng và làm mới những ước mơ
Bao lâu còn hy vọng thì bấy lâu không tình huống nào là bất khả.
Mùa Vọng là thời gian cho chúng ta hy vọng
Và Đức Kitô chính là hy vọng của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay vào Mùa Vọng, Hội thánh muốn nhắc cho ta nhớ rằng Chúa sắp đến, chúng ta phải tỉnh thức. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta cầu xin cho Hội thánh thực sự là cộng đoàn luôn tỉnh thức / để chu toàn trách nhiệm Đức Giêsu đã trao phó là làm chứng về tình yêu của Chúa / và hết lòng phục vụ con người.
2. Chúng ta cầu xin cho các nhà cầm quyền trên thế giới luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm của mình / là cộng tác với nhau để xây dựng một thế giới trong công lý hòa bình, và chia sẻ giúp đỡ nhau.
3. Chúng ta cầu xin cho những người ngủ mê trong tội lỗi / giả điếc làm ngơ với trách nhiệm của mình trong gia đình và trong đất nước / biết tỉnh thức để trở về với bổn phận của mình.
4. Chúng ta cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn tỉnh thức / để giúp nhau từ bỏ thói xấu, say sưa trễ nải / và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã trao cho mỗi người chúng con một trách nhiệm trong gia đình, trong họ đạo, trong đất nước, và dạy chúng con phải tỉnh thức... Xin Chúa giúp chúng con luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm Chúa đã trao và sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Kinh Tin Kính: Trước câu "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng con, Người đã từ trời xuống thế", có thể tạm dừng và đọc lại một lời của Isaia trong bài đọc I: "Ước chi Ngài xé trời mà ngự xuống"
- Trước Kinh Lạy Cha: Ngôn sứ Isaia đã ví: "Chúng tôi là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm". Phần Đức Giêsu, Ngài cho chúng ta biết thêm Thiên Chúa chính là Cha chúng ta. Vậy chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha do chính Đức Giêsu dạy.
- Sau Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ nào làm cho chúng con không thấy được mặt Cha. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin Cha giúp chúng con luôn tỉnh thức để đón rước Con Cha sắp đến. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…"
VII. GIẢI TÁN
Chúa là người chủ nhà, giao cho chúng ta là tôi tớ mỗi người một việc. Anh chị em hãy trở về mỗi người lo chu toàn công việc của mình trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Chúc anh chị em bình an.
Mấy năm trước đây,trên hệ thống truyên hình CNN của Hoa Kỳ có nói về một người tài xế xe: MV 1-C52
Mấy năm trước đây,trên hệ thống truyên hình CNN của Hoa Kỳ có nói về một người tài xế xe buýt đã đạt kỷ lục xuất sắc: “Trong 23 năm làm tài xế, anh lái trên 1.500.000 cây số mà không gây ra một tai nạn nào”. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời rất đơn giản: “Hãy tỉnh thức”.
***
Bạn thân mến! Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mang đến cho ta một lời khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn mãi” (Lc.21:36). Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo trước để ta có thái độ thích hợp với tình thế mới. Cầu nguyện giúp ta liên kết mật thiết với Đấng Tối Cao, để Ngài ban ơn giúp sức cho ta, để ta tiếp tục bước đi trên đường lữ hành trần gian này
Phụng vụ trong Mùa Vọng luôn luôn là một nhắc nhở ta về “Tỉnh thức và Cầu nguyện”. Mùa vọng nhắc ta lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến trong trần gian cách đây hơn hai ngàn năm về trước. Mùa vọng cũng là một nhắc nhở cho ta để chuẩn bị cho lần đến cuối cùng của Ngài để xét xử ta và xét xử muôn dân. Ta phải chuẩn bị cho ngày đó ra sao?
Ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người chúng ta, ngày ấy thật bất ngờ, không ai biết trước được. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi (Lc.21:26), nhưng đó cũng là ngày cứu độ cho những ai luôn tỉnh thức và cầu nguyện để được chuẩn bị sẵn sàng. (Lc.28:36).
Tỉnh thức là không quá mê mẩn trong những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức là tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu ở đời sau.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới cảm nếm được nỗi niềm khao khát mong chờ ngày Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên (Lc.21:28). Có tỉnh thức cầu nguyện, ta mới gặp được Chúa trong ngày hôm nay, và nhất là trong ngày cuối cùng của đời ta.
***
Lạy Chúa! Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng trong tình yêu là con có thể vào sa mạc với Chúa, có thể trò truyện tâm tình với Ngài.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh đèn đỏ ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ..v..v… Thay vì bực bội hay nóng ruột, xin cho con được an bình vì có Chúa hiện diện ngay bên.
Lạy Chúa! Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm hơn với Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa “mỗi ngày mỗi hơn” để tim con cùng rung một nhịp đập với Chúa trong sa mạc hằng ngày của đời con. Amen.
Tổng hợp từ R. Veritas (CN 01 MV -C, BĐ1: Gr.33:14-16, BĐ2: 1Tx. 3:12-4,2, PÂ: Lc.21:25-28&34-36)
Sóng Thần ở Haeundae [Hải Vân Đài] là bộ phim Hàn Quốc ăn khách nhất năm 2009,được công: MV 1-C53
“Sóng Thần ở Haeundae” [Hải Vân Đài] là bộ phim Hàn Quốc ăn khách nhất năm 2009,được công chiếu ngày 22 tháng 7 và ra mắt khán giả Việt-Nam từ 25 tháng 9, trên hệ thống rạp Megastar toàn quốc. Hải Vân Đài miêu thuật lại cơn sóng thần kinh hoàng ập đến Busan, thành phố biển du lịch nổi tiếng của Hàn Quốc. Khác với những bộ phim Mỹ có chung đề tài (chẳng hạn bộ phim “2012”,cũng trình chiếu năm nay), bộ phim Hải Vân Đài không tập trung khắc họa một cá nhân anh hùng trong thảm họa, mà chủ yếu hướng đến tính cách, sự ứng phó của dân chúng khi tai họa ập đến một cách bất ngờ. Toàn bộ phim là câu chuyện sự thay đổi tính cách của con người một cách mạnh mẽ trước và sau khi xảy ra thảm họa.
Chỉ non một tháng nữa, ngày 26 tháng 12, người dân các nước vùng Ấn Độ Dương sẽ tổ chức lễ tưởng niệm nạn nhân thảm họa sóng thần 2004. Đã năm năm rồi, nỗi kinh hoàng và nỗi đau trong lòng người ở lại vẫn chưa nguôi. Trận sóng thần sau một trận động đất mạnh vào sáng ngày 26-12-2004 đã giết chết khoảng 230.000 người tại 12 quốc gia Ấn Độ Dương. Cách đó gần hai ngàn năm, núi lửa Vésuve ở Ý bùng phát vào năm 19 sau Công nguyên, cũng đã chôn vùi thành phố Pompéi dưới lớp mưa tro than,bùn và nham thạch dày hơn sáu mét. Những thiên tai kinh hoàng vẫn liên tục xảy ra,trong đó phải kể đến những cơn siêu bão như Katrina, tàn phá cả thành phố New Orleans,bnag Louisiana,Hoa Kỳ, vào năm 2005; những cơn tâm chấn ở tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc), sóng thần ở Samoa và cả những cơn bão lũ càn quét đất nước Phi-Luật-Tân,gây ra lụt lội khi vào Việt-Nam, tuy ‘chẳng ra gì’,nhưng cũng giết hết hàng trăm sinh mạng và phá hủy vô số nhà cửa, mùa màng. Lụt ở đồng bằng, lụt ở trung du,lụt cả trên núi, lụt do mưa bão,lụt cả do sự ngu ngốc trơ tráo của những người xây đập , khiến dân nghèo thêm lầm than điêu đứng, tạo dịp cho đám mọt dân bòn rút,bớt xén, ăn chận gạo tiền cứu trợ và hân hoan đổ thừa cho thiên tai phá hại những công trình ăn gian làm dối của họ.
Thiên tai là thế, nhưng ‘nhân tai’ còn ghê sợ và đáng sợ hơn nhiều. Hơn ba ngàn người trong hai toà cao ốc Trung Tâm Thưong Mại New York (Hoa Kỳ) không biết hoặc bất lực trước cái chết ập đến trong thời gian ngắn ngủi ngày 11 tháng 9 năm 2001. Chỉ những tay thủ ác điên cuồng khát máu và giáo lý sai lạc được người ta nhồi nhét vào đầu óc điên rồ của chúng,rằng như vậy là tử vì đạo,mới biết. Chỉ những kẻ sống sót sau hai quả bom nguyên tử thả xuống hai thành phố nước Nhật ngày 6 và ngày 9 năm 1945,mới hiểu được sức mạnh hủy diệt kinh hoàng của loại vũ khí lần đầu tiên đem ra dùng nầy: 140.000 người ở Hiroshima và 70.000 người ở Nagasaki đã ‘biến mất’ trong tích tắc, dưới sức công phá và sức nóng khủng khiếp của hai ‘cây nấm’ nguyên tử. Con người dùng tài năng của mình để tiêu diệt đồng loại. Chiến tranh,xung đột sẽ còn mãi,dập tắt nơi này, lại bùng phát nơi khác,vì không có chém giết, thì số vũ khí hàng ngàn tỷ đô-la Mỹ sản xuất hằng năm biết bán cho ai. “Nhân tai” rõ ràng có sức hủy diệt gấp nhiều lần bất cứ thiên tai nào: mỗi năm trên toàn thế giới có hơn 45 triệu vụ nạo phá thai, mà chỉ riêng Việt Nam (hơn 2 triệu), Trung Quốc (hơn 13 triệu) và Nga (4,6 triệu) đã “đóng góp” mỗi năm gần một nửa con số ấy, trong khi con số tử vong trong thế chiến thứ hai do đủ loại vũ khí hiện đại nhất,lan rộng hầu khắp thế giới,trong 6 năm trời, cũng chỉ tương đương! Việt Nam đất nước giàu truyền thống,”đậm đà bản sắc dân tộc”, lại đứng đầu rất nhiều thứ xấu xa: tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới; số người truy cập sex trên Internet nhiều nhất thế giới,bỏ xa Ấn độ và Nga; số người đen đỏ trên mạng cao nhất thế giới; tuổi phạm tội ác dã man trẻ nhất thế giới! Thiên nhiên xinh đẹp và hào phóng bị bàn tay con người tham lam,vô tâm và vô trách nhiệm phá hủy không thương tiếc, để rồi trái đất hứng chịu hạn hán,lũ lụt, đói khát, đủ thứ đại dịch chưa từng có trong lịch sử loài người. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu. Trồng dưa cho dưa,trồng đầu cho đậu. Gieo gì,ắt sẽ gặt nấy. Đừng có mà đổ lỗi hoặc than trách Thiên Chúa. Cái lạ nơi nhiều người, là hoàn toàn bị ‘trơ’ trước đau thương mất mát của người khác, ‘chai đá’ trước bao tội lỗi (và cả tội ác ) mình phạm, nhưng lại hết sức ‘nhạy bén’ trong việc than trách ‘ông trời’ khi gặp một chút rủi ro,bất hạnh. Họ dễ dàng tìm giải thoát qua cái chết.
Ngày 13 tháng 11 vừa qua, cơ quan Nasa Hoa Kỳ đã tạo ra một vụ nỗ lớn trên mặt trăng và khám phá ra một lượng băng mà họ tin là không nhỏ trong bề dày mặt trăng. Với những nhà khoa học chân chính, khám phá ấy càng cho thấy quyền năng và trí khôn vô biên của Đấng Tạo Hoá, giống như lần đầu phi hành gia Sheppard bay vào qủy đạo và chỉ biết xướng lên kinh Tin Kính (Credo) vì quá ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của muôn vàn tinh tú, khác với thái độ “ếch ngồi đáy giếng” đáng thương hại của người Nga cộng sản vô thần Gagarine trước đóả 23 ngày (12.04.1961). Khi được phóng lên qủy đạo, mắt anh ta chỉ liến láo nhìn tứ bề và mau chóng ‘gọi’ về “trái đất’, cho những đồng bào cũng ngốc nghếch đáng thưong chẳng kém anh, rằng anh ta đã nhìn rất kỹ, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy Đức Chúa Trời đâu hết! Tin tức có nước trên mặt trăng khiến người ta hy vọng một ngày không xa sẽ có thể sinh sống bên ngoài hành tinh ngày càng tỏ ra chật hẹp và đầy đe doạ này, nhưng cũng làm cho những kẻ vô thần hí hửng, vì nghĩ rằng sẽ có thể ‘ăn nói’ với Giáo Hội Công giáo, về tạo dựng, về nguồn gốc con người,về nguyên tội,về Chúa Kitô và mầu nhiệm cứu chuộc, về sự sống đời sau: theo họ, toàn là những điều bịa đặt dối trá. Với họ,có nước là có sự sống, quên mất rằng sự sống nầy tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng phức tạp và sẽ cần 13, 5 tỷ năm nữa để nước trên mặt trăng – theo cách họ nghĩ – hình thành một ‘thứ như con người”, chưa kể vô vàn điều kiện, yếu tố đan xen phức tạp ngoài mọi dự liệu.
Những con người cầu nguyện theo Thánh Vịnh (Tv 8) và theo Chúa Giêsu ( Mt 11,25 – 30) chỉ cần ngước mắt lên trời,nhìn xem đại vũ trụ và trật tự an bài; nhìn xem tiểu vũ trụ (con người) và những kỳ công nơi từng bộ phận trong ngoài cơ thể, cũng quá đủ để sấp mình cảm tạ và thờ lạy Thiên Chúa, không chỉ vì sự cao cả, toàn năng và thánh thiện của Người, mà chủ yếu vì tình yêu thương vô biên của Người đối với loài người tội lỗi, đối với thân phận tro bụi bất xứng của mỗi chúng ta. Chỉ có người điên mới suy nghĩ như những kẻ vô thần. Chỉ có người si mê nhân loại và mỗi con người đến điên cuồng, mới hành xử như Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao con người đặt trọn tin cậy và hy vọng nơi Chúa .Tên gọi khác của niềm tin và hy vọng là “tỉnh thức và cầu nguyện”: tỉnh thức để luôn giữ lòng tin cậy; cầu nguyện để hy vọng lớn lên và đơm bông kết trái. Khi tin cậy vững vàng, con người không còn sợ bất cứ biến động gì trên trần gian, trái lại qua đó ‘đọc’ được thánh ý Chúa. Khi hy vọng, môn đệ của Chúa sẽ đứng vững trước mọi thử thách, cám dỗ của ma qủy, vì ‘luôn có Chúa ở cùng chúng ta - Emmanuel”. Và đó là ý nghĩa của Mùa Vọng mà Giáo Hội mời gọi chúng ta sống.
Người xưa có câu: “Sinh hữu hạn,tử bất kỳ”. Con người biết được ngày tháng mình sinh ra trên cõi đời nầy, nào ai biết được khi nào mình sẽ rời bỏ nó. Vì thế người khôn ngoan phải nhận chân cùng đích đời mình và để đạt được nó,thì phải chuẩn bị cách tỉnh thức và sẵn sàng.Đường xa mới biết ngựa hay. Linh hồn,thân xác chúng ta phải là con ngựa thuần chủng, ngựa hay, ngựa được tập luyện, để không thành ngựa chứng phản chủ, không bỏ cuộc nửa vời, không sợ hãi trước tiếng gầm thét, súng đạn,chết chóc, hy sinh trong cuộc chiến đức tin. Làm gì có thiên-lý-mã (mỗi ngày chạy ngàn dặm) nơi những Kitô hữu không dám tuyên xưng Danh Chúa Kitô giữa những người khác. Làm gì có hãn huyết mã (chạy xa chỉ ra mồ hôi màu máu) nơi những Kitô hữu ươn ái,bỏ bê việc đạo đức và cứ tự an ủi, đắm mình trong thú vui chè chén, dâm ô và biện hộ rằng “đạo tại tâm”. Sai phạm ,theo họ,vốn dĩ là tính con người. Làm gì có ngựa hay nơi các Kitô hữu không biết chia sẻ cho người nghèo và người bất hạnh. Làm sao có được ‘ngựa hay’ (chứ không chỉ ‘ngựa tốt’) nơi các tín hữu – linh mục,tu sĩ,giáo dân – không hiệp nhất và vâng phục, thậm chí còn chỉ trích bêu rếu Đức Thánh Cha, hoặc gieo ‘nọc độc’ sai lầm giáo lý cho anh em .
Trong cuốn Zarathoustra đã nói như vậy của triết gia triết lý ‘Siêu Nhân’ Nietzsche, nhân vật Zarathoustra,- sau 10 năm tu luyện trên núi, đã tìm ra chân lý và đi vào các đô thị để truyền bá tư tưởng của mình, - cho rằng Thiên Chúa đã chế ngự thế giới mấy ngàn năm rồi và giờ đây con người phải tự giải thoát lấy và để tái tạo thế giới, con người phải là những đứa bé, những vị thần và. Ông khuyên mọi người hãy sống trong hiểm nguy, sống sát núi lửa Vésuve, sống trong chiến tranh và sống với quả đất nầy. Phải chăng trong những mâu thuẫn về suy diễn các công thức, sự thất bại về tình cảm, sự nhu nhược ốm yếu của cơ thể, sự bất mãn với tôn giáo, thái độ cá nhân chủ nghĩa, đối kháng với quần chúng (của nhân vật Zarathoustra), những suy nghĩ của Nietzsche nhắc cho chúng ta một điểm cần thiết: in hac lacrimarum valle, không chỉ "trong thung lũng nước mắt nầy"(Kinh Salve Regina), mà còn như đang sống trong hang hùm hổ huyệt, "như sư tử hằng gầm thét lượn quanh để tìm mồi" (I Ph 5,8): phải tỉnh thức và cầu nguyện.
“Ai bền đỗ tới cùng, sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22).
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng: MV 1-C54 FB
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến? 2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không? 3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến? 4) Tỉnh thức nghĩa là gì? 5) Tại sao phải cầu nguyện?
Có một câu chuyện (của John Shea, trong cuốn ‘Giai thoại về những cái chuông’) kể lại rằng: MV 1-C55
Có một câu chuyện (của John Shea, trong cuốn ‘Giai thoại về những cái chuông’) kể lại rằng khi Thiên Chúa dựng nên các cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ. Nhưng ban đầu, khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào sẽ có lợi ích nhất. Người nói với chúng: “Ta muốn rằng các ngươi phải thức tỉnh và tiếp tục coi sóc cả mặt đất trong vòng bảy đêm”.
Những thân cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công việc quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh thức không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó không còn quá dễ dàng nữa, và vừa trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ. Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi ngủ lăn ra. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số cây. Trong đêm thứ tư, lại có thêm vài thân cây nữa ngủ gục. Đến đêm thứ bảy, những thân cây duy nhất còn tỉnh thức chỉ là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế mà thôi.
Thiên Chúa kêu lên: “Sức chịu đựng của các ngươi tuyệt vời thật! Các ngươi sẽ được ban cho một ân huệ là giữ được mầu sắc xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở thành những kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh chết chóc, thì các cây cối anh chị em của các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những cành cây của các ngươi”.
Kể từ đó, tất cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt mùa đông, trong những khi cây thường xanh thì vẫn còn tỉnh thức. Câu chuyện này minh họa lại hai chủ đề chính của Mùa Vọng: Sự tỉnh thức giữa cảnh ngủ mê, và sự xanh tươi giữa nơi cằn cỗi.
Nơi những cây thường xanh, chúng ta ghi nhận được một sự thách đố mang tích cách lịch sử, nhưng kiên quyết. Thế giới chung quanh có thể ngủ mê hoặc cằn cỗi, nhưng những thân cây này vẫn tiếp tục mang lại lời chứng. Chúng vẫn kiên trì, không phải do sự xác quyết của bản thân chúng, mà nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, trong tư cách là người Kitô hữu, vai trò của chúng ta phải là gì. Đó là phải tỉnh thức giữa những kẻ ngủ mê, phải xanh tươi giữa những kẻ cằn cỗi. Để làm chứng cho Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương giữa cảnh hận thù, bình an giữa nơi xung đột, và sáng sủa giữa chốn tối tăm.
Trong xã hội của chúng ta, có những người đặc biệt cần phải tỉnh thức. Chúng ta nghĩ đến những người đang đảm nhận các công việc mang rất nhiều trách nhiệm, chẳng hạn như các phi công, tài xế (có biết bao tai nạn gây ra do những người ngủ gục trong khi đang cầm lái), các y tá trực đêm, các bậc cha mẹ đang có con cái đau yếu, những người làm công tác bảo vệ an toàn…
Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi phải tỉnh thức theo nghĩa rộng. Nói cách khác, chúng ta sẽ bị lỡ làng rất nhiều. Có nhiều người ngủ mê trong suốt cuộc sống của họ. Họ có tai, nhưng không biết lắng nghe, có mắt, nhưng không nhìn thấy. Tất cả chúng ta đều cần phải tỉnh thức, bởi vì cuộc sống thật quý giá. Nhưng cuộc sống của người Kitô hữu là đáng quý nhất. Chúng ta không chỉ được thúc giục phải “tỉnh thức”, mà còn phải cảnh giác nữa.
Chúa đòi hỏi chúng ta, những kẻ đi theo Người, phải luôn tỉnh thức, phải trở thành những môn đệ đầy cảnh giác, đầy tin tưởng, phải là những kẻ đi theo Người luôn xanh tươi mãi mãi. Chúng ta là những chứng nhân của Người trong thế giới này. Không phải là quá đáng, khi tuyên bố rằng chúng ta phải thận trọng quan sát khắp cả thế giới. Chúng ta phải làm chứng cho sự sống và niềm hy vọng giữa cảnh đổ vỡ, biến động và chết chóc.
Khi làm chứng cho chân lý, công bằng, yêu thương và an bình, là chúng ta đang làm chứng cho Đức Giêsu. Cách thế làm chứng cho chân lý phải là sống trọn vẹn cho chân lý. Cách thế làm chứng cho lẽ công bằng là phải hành động một cách công bằng. Cách thế làm chứng cho tình yêu thương là phải có những hành động đầy yêu thương. Và cách thế làm chứng cho hòa bình là phải sống trong sự bình an đối với người khác.
Nói tóm lại, cách thế có hiệu quả nhất để làm chứng cho Đức Giêsu là phải sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Chúng ta cần có sức mạnh, để duy trì được sự kiên định và lòng tin. Thiên Chúa luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, đặc biệt khi chúng ta cầu nguyện.
Diễn từ về “Cuộc trường chinh của việc giải phóng”
Và sẽ có những điềm lạ trên mặt trời…
Lần này đó là những biến cố gắn liền với ngày quang lâm được nói đến (cc. 25-27). Điều: MV 1-C56
Lần này đó là những biến cố gắn liền với ngày quang lâm được nói đến (cc. 25-27). Điều đáng chú ý là liên từ “và”: Chúa Kitô đi từ thời của dân ngoại đối với thành Giêrusalem đến những biến động trong vũ trụ và không xác định chiều dài của thời gian giữa sự tàn phá thành vào năm 70 với thời Tận cùng. Như thế, ngài mặc cho sự giày xéo thành bởi các dân ngoại (c. 24) một màu sắc cánh chung. Đã hai nghìn năm rồi từ ngày xảy ra biến cố ấy!
Những điềm lạ nói đây nghiêm trọng hơn những điềm lạ ở câu 11: chúng sẽ đồng thời xảy ra trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao và sẽ gieo rắc lo âu sợ hãi cho toàn thể dân cư trên mặt đất. Trật tự vũ trụ sẽ chao đảo như thể trở về với cái hỗn mang nguyên thuỷ ghi dấu thời tận cùng của lịch sử. Các biến cố này đi liền trước ngày quang lâm của Con Người, ngày đó được nhắc đến một cách ngắn gọn chứ không được mô tả. Trong khi ngày đó là đích điểm của toàn thể lịch sử nhân loại, thì tầm quan trọng của nó lại quá nhỏ trong bài diễn từ mà trọng tâm lại nằm ở chỗ khác.
Lúc ấy, Chúa Giêsu mới đưa ra một lời diễn giải giúp khám phá ý nghĩa của diễn từ (cc. 28-32); Ngài nối kết các biến cố Ngài vừa nói ở trên với các câu hỏi ban đầu về ngày giờ và dấu chỉ (xc.7). Một ý tưởng trung tâm (c.28) được minh hoạ nhờ một dụ ngôn (cc.29-30) và nhờ lời giải thích dụ ngôn ấy (c.31).
Trước hết là dấu chỉ. Những sự vật sinh sản (cây đâm chồi nẩy lộc, trong dụ ngôn) cho phép các tín hữu suy diễn về sự gần kề của ngày giải thoát vĩnh viễn (mùa hè gần đến, trong dụ ngôn; và Triều Đại Thiên Chúa gần đến, trong lời giải thích). Nếu các sự việc này quy chiếu về các biến động trong vũ trụ xảy ra trước ngày quang lâm của Con Người, thì chỉ có thế hệ tín hữu cuối cùng mới bị liên hệ bởi sự gần kề của ơn cứu độ vĩnh viễn. Và nếu Chúa Giêsu chỉ đưa ra việc trời đất rung chuyển như là dấu chỉ và không đưa ra những điềm báo về sự sụp đổ của thần thánh, Ngài không mặc khải gì mà lại đã không được nói đến trong các bản văn Cựu Ước liên quan tới Ngày của Chúa (x. Is 13,10; Hg 2,6). Trong thực tế, dấu chỉ nằm nơi những biến cố lịch sử xảy ra trước ngày Giêrusalem bị tàn phá (xc.20). Về lệnh truyền “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đặc biệt thích hợp cho các kẻ bị bách hai (xc. 12tt); “Ngài không nói với các Kitô hữu vô danh sẽ còn sống vào lúc quang lâm cho bằng, một cách cụ thể hơn, với các người đương thời của tác giả Tin Mừng” (V.Fusco) và, qua họ, với tất cả các Kitô hữu sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Các thành viên trong Giáo Hội của Luca –rồi chúng ta hôm nay- phải sống trong sự xác tín rằng việc giải thoát họ thực sự đang tới, rằng nó đã gần rồi. Như lời Tông đồ Phaolô: “Hiện này, ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo… Ngày gần đến” (Rm 13,11-12).
Câu 32 trả lời một cách long trọng cho câu hỏi về ngày giờ: Mọi điều ấy sẽ xảy ra trong khi thế hệ này –đa số những người đương thời với Chúa Giêsu Nagiaret- vẫn còn sống. Từ ngữ “mọi điều” bao gồm toàn bô các biến cố tương lai đã được loan báo, kể và nhất là biến cố quan trọng nhất” (V.Fusco). việc quang lâm, nghĩa là những dấu chỉ là việc Con Người ngự đến, Luca không ngại ngần chi khi lấy lại lời truyền thống này mà không thêm bớt gì, ông cũng đã làm như thế ở 9,27 với lời liên hệ đến những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa, mạch văn cho phép quy chiếu về biến cố hiển dung, rồi về thời gian lý tưởng giữa biến cố Phục Sinh và Thăng Thiên. Câu 32 còn đi xa hơn: thế hệ đã chứng kiến biến cố Đền Thờ bị phá huỷ cũng phải biết đến ngày quang lâm. Việc quang lâm của Chúa Kitô vinh hiển bao trùm cuộc sống mọi tín hữu và không thể là biến cố thuộc về một tương lai xa xôi.
Để kết luận lời tiên tri của mình, Chúa Giêsu xác nhận thế giá và tính cách chắc chắn của lời hứa trước đây, cũng như của toàn bộ diễn từ cánh chung (c.33): chúng vững bền hơn vũ trụ (x.16). Nói thế rồi, Ngài đồng hoá lời của Ngài với lời Thiên Chúa mà Is 55,10-11 đã nhắc đến hiệu quả.
Diễn từ kết thúc bằng một lời huấn dụ tỉnh thức và cầu nguyện (cc. 34-35). Những chỉ thị đã được đưa ra cho các môn đệ rất rõ ràng: lời cảnh giác phải đề phòng khỏi các lo lắng, trong phần giải thích dụ ngôn hạt giống (8,14) và giáo huấn về thái độ thích hợp đối với của cải vật chất (12,22tt), cảnh cáo chống lại việc say sưa, trong dụ ngôn người quản lý trung thành (12,45-46). Về điểm này, tình trạng mà Giáo Hội của Luca phải đương đầu không khác gì tình trạng ở các cộng đoàn của Phaolô. Các chỉ thị được đưa ra ở 1Tx 5,4-8 –với cơ nguy, như ở đây, là ngày Phán xét đến bất thình lình đối với các tín hữu- và ở Rm 13,11-13 rất giống nhau. Sự ngủ mê đe doạ các cộng đoàn, bởi vì, trong Luca cũng như trong các thư của thánh Tông đồ, vang lên lời kêu gọi hãy tỉnh thức, hãy chỗi dậy.
Hai tảng đá ngầm đối nghịch nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau, đang rình rập Giáo Hội: niềm hy vọng bồn chồn về ngày trở lại gần kề của Chúa Kitô (2Tx 2,1-3) và sự vỡ mộng, cơn cám dỗ buông trôi mọi hy vọng vào tương lai (x. 2Pr 3,4). “Càng nóng lòng trông đợi vào ngày quang lâm, càng đắng cay vì nỗi thất vọng” (Fusco); và các ảo tưởng là điều nguy hiểm cho đức tin. Rõ ràng đó là mối nguy thứ hai mà Luca sợ cho Giáo Hội của mình –cũng là mối nguy đe doạ các cộng đoàn Công giáo Tây phương chúng ta vào cuối thế kỷ XX này- và Luca phản ứng chống lại mối nguy ấy. Từ đó, ta thấy sự kiện Chúa Kitô nói tiên tri, tuy có phân biệt, nhưng không hoàn toàn tách rời việc Giêrusalem bị tàn phá khỏi ngày quang lâm. Cũng do đó, mà đã có những xác quyết: từ cuộc tàn phá này, sự giải thoát các tín hữu đang gần kề; mỗi tín hữu trong Giáo Hội của Luca –và mỗi người trong chúng ta- phải sống trong mọi lúc thế nào hầu có thể có sức mạnh… mà đứng vững trước Con Người.
Ngày chung cuộc sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem: MV 1-C57
Ngày chung cuộc sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem và ngày thế mạt.
1. Ngày tàn của Giêrusalem
Khi nào thành phố bị quân đội ngoại bang bao vây, bấy giờ người ta mới ý thức được cái nguy cơ suy vong và huỷ diệt. Có người sẽ lên núi lánh nạn và nếu ai đang ở ngoài đồng sẽ không vào thành vì sự tàn phá thật khủng khiếp. ‘Vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi’. Lúc này dân chúng cảm thấy rất là yên ổn, hãnh diện về thành trì và đền thờ, nhưng một mai họ sẽ thấy cả hai chỉ còn là phế tích và sẽ chứng kiến cảnh tượng quốc gia hấp hối. Ngày đó, thật haĩ hùng. Điềm đó phải là ám hiệu báo động cho con người. Sẽ có ngày vũ trụ cũng tiêu ma như số phận của Giêrusalem.
2. Ngày tàn của thế giới
Bất thần ngày tân diệt sẽ đến, tai ương hoành hành trên trời và lòng người đầy âu lo. Đất bằng rung chuyển, ba đào dồn dập, niềm sợ hãi xâm chiếm mọi người. Lúc đó Con Người sẽ xuất hiện trong ánh huy hoàng. Đó là ngày tận số của thế giới, của các kẻ thù nghịch với Đức Kitô, của những ai quá tin nơi mình và vênh vang về công trạng của mình.
Giờ phút hãi hùng ư? Đúng thế. Nhưng hãi hùng đối với những kẻ thù nghịch. Còn đối với các Kitô hữu đang sống trong hy vọng mong chờ Chúa đến. Những người thiết tha mong mỏi và khẩn nài Người trở lại thì đó lại là phút giây giải thoát. ‘Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến’. Hãi hùng sẽ đổi thành hoan lạc cho các Kitô hữu. Họ ý thức rằng cánh chung chính là khởi đầu. Vì đó là sự biến đổi, là sự quy hồi của muôn vật. Đấng Kitô mà lúc này đây ở Giêrusalem, đang bị trao nộp vào tay các kẻ thù và bị họ lên án tử mai ngày sẽ đóng vai thẩm phán uy quyền tuyên án trừng trị kẻ thù. Chúng ta đừng để thế gian lung lạc và lướt thắng…Phải nhớ đến ngày cánh chung và sống sao cho xứng vơí viễn tượng đó… Như thế cánh chung sẽ không còn là biến cố hãi hùng nhưng là bình minh hoan lạc trong tin vui Chúa quang lâm.
3. Dấu chỉ.
Không có dấu gì báo trước hay có thể tính toán chính xác ngày thế mạt. Những dấu chỉ mà Đức Giêsu cho biết nói lên tai hoạ đã bắt đầu. Lúc đó mới chuẩn bị thì đã quá muộn. Đức Kitô đã quả quyết rất rõ: người ta không thể biết ngày giờ xảy ra. Nếu có điềm báo thì chúng chỉ làm vướng víu chứ không ích lợi gì vì người ta cứ lao mình vào cuộc sống cũ và chỉ đổi đời khi nguy cơ hiện ra rõ ràng. Như thế họ sống một cuộc đời bấp bênh trong khi đáng lý họ luôn phải ở trong thế sẵn sàng.
Tuy nhiên cũng còn một dấu chỉ, một dấu chỉ duy nhất mà Đức Kitô sẽ cho thấy. Đó không phải là một thời điểm nhưng là một hiệu lệnh báo động: sự tàn phá Giêrusalem hay nói một cách rộng rãi vận mệnh của dân tộc Israel. Trong lịch sử loài người, Do thái giáo là một điểm thắc mắc to lớn. Ngay cả sự kiện hiện hữu, tính đặc thù của lòng tin, các kinh thư, nền luân lý và nhất là những chặng đường lịch sử diệu kỳ của dân tộc này đều là những hiện tương không thể giải thích theo thường tình. Israel là một vấn đề cao siêu, và xét theo bản chất sâu xa, nó là một vấn đề tôn giáo. Đó là một dân tộc thuộc về Thiên Chúa qua các sự kiện tuyển chọn, khước từ và sau cùng là cứu chuộc. Sự từ bỏ một dân đã chọn là một dấu báo động to lớn. Giêrusalem bị tàn phá và đền thờ bị triệt hạ đối với mọi người và mọi dân tộc, là một dấu chỉ cảnh cáo những kẻ từ bỏ Đức Kitô. Dấu chỉ là ở chỗ đó. Đó là lý do khiến Đức Kitô nối kết hai biến cố tận diệt Giêrusalem và thế mạt lại đến độ trùng hợp với nhau. Đức Giêsu luôn luôn trình bày hai biến cố đó song song với nhau về mặt tôn giáo chứ không phải về thời gian. Với ý nghĩa đó, sự sụp đổ của Giêrusalem là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc mà người ta không thể im im được. Có lẽ nó sẽ giúp cho thế giới tránh khỏi một cuộc tàn phá ghê sợ. Với ngôn ngữ và diễn từ đó, Đức Giêsu chẳng màng tranh chấp với ai nữa. Những ngày còn lại trong đời, người dành để giảng dạy dân chúng. Người không đả phá đối phương và họ cũng để cho Người yên ổn. Không còn tranh chấp nữa và tất cả đều án binh bất động. Thế nên, Thánh Luca khẳng định vắn tắt: ‘ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm thì Người đi nghỉ trên núi Cây Dầu. Và từ sáng sớm, toàn dân đến nghe Người giảng dạy trong đền thờ’. Đồng thời Thánh Luca tiết lộ thêm một chi tiết: ‘các thượng tế và luật sĩ tìm cách giết Chúa Giêsu nhưng họ lại sợ dân chúng’.
Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu: MV 1-C58
Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu nhiệm của Đức Giêsu.
Ngay từ Chúa nhật đầu tiên này, chúng ta được đặt vào một biến cố “sớm hơn”. Thời gian Mùa Vọng là thời gian gợi lại việc Đức Kitô “đến": Ngài đã đến tại Bêlem ngày Giáng sinh... Ngài đang đến trong mỗi biến cố, trong mỗi bí tích... Ngài sẽ đến vào Ngày cánh chung.
Đức Giêsu nói với các môn đệ biến cố Người quang lâm:
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét....".
Ở đây chúng ta tiếp cận với lối văn “khải huyền". Loại văn chương này xuất hiện tại Israel, hai thế kỷ trước Đức Giêsu, và kéo dài sau đó một thế kỷ nữa. Lối văn Kinh thánh này tiếp theo thời kỳ ngôn sứ. Mọi hy vọng của các ngôn sứ đều đã đổ vỡ: dân Israel, thay vì được độc lập lại bị tháp nhập và chịu lệ thuộc các đế quốc ngoại giáo liên tiếp, khiến ta có cảm tưởng là lịch sử đã thoát khỏi bàn tay điều khiển của Thiên Chúa. Đó là một gai chướng, một thử thách cho đức tin. Do đó, trước hết, trào lưu khải huyền muốn phục hồi niềm hy vọng, bằng cách dù gặp thất bại, vẫn lớn tiếng hô lên sứ điệp của các ngôn sứ: Thiên Chúa là chủ tể lịch sử. Ngài sẽ chiến thắng: Chiến thắng trên sự dữ. Vì không ai biết chiến thắng sẽ được thực hiện như thế nào, nên người ta diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ, với những hình ảnh vũ trụ vĩ đại và lộng lẫy.
Theo kiểu nói truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất, biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để "tạo dựng” một thế giới mới. Ta có thể so sánh với Isaia (13,9-10.34, 3-4), trong sách đó tác giả cũng dùng những hình ảnh thảm lại để diễn tả sự sụp đổ của Babylon: đó là một bằng chứng nói lên, ta không được hiểu những hình ảnh đó theo mặt chữ. Các vì sao sẽ "từ trời rơi xuống", “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa", là cách nói nhằm diễn tả Thiên Chúa là chủ tể. Cũng đừng quên rằng, phần lớn các dân tôc phương Đông cổ đều thờ các tinh tú như những thần linh ngự trên cao, điều khiển thế giới và quyết định số phận con người. Và ta nghĩ đến khoa tử vi cùng chiêm tinh học hiện nay vẫn còn ăn khách. Nếu "chủ dân", các "goim", tôn thờ các tinh tú như các thần linh mới, thì Israel trong truyền thống khải huyền của mình đã tuyên bố rằng, sẽ có ngày những thần linh này bị tiêu tan một cách thê thảm: các vì sao, mặt trời sẽ rớt xuống... không có thần nào khác, ngoài Thiên Chúa!
Chính Luca cũng không ngần ngại sử dụng thứ ngôn ngữ khải huyền này, để ghi lại một cuộc nhật thực vào lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Lc 23,44): đó là cách nhấn mạnh rằng, nhớ biến cố lịch sử tại đồi Golgotha, Thiên Chúa đã dứt khoát can thiệp vào lịch sử loài người: Đức Giêsu sẽ đến trên mây trời! Thế giới cổ xưa qua đi, một thế giới mới đã khai sinh! Thập giá, đó là cuộc chiến thắng, là vinh quang của Ngài, mà buổi sáng Phục sinh sẽ làm bừng dậy cách công khai trước một thái dương mới.
Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang... Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.
Hơn thánh Máccô trong đoạn văn tương tự, mà cách đây mười lăm hôm ta đã được nghe, thánh Luca nhấn mạnh đến phản ứng của con người trước những biến cố như dấu chỉ: nghĩa là nhắm đến thảm kịch của con người hơn là một xáo trộn có tính vật chất. Con người thuộc mọi thời đại con người thời nay cũng như con người thời đó, thường có khuynh hướng xóa bỏ "thời gian”, coi thời gian như cái gì không an toàn. Chúng ta không thích "biến cố", nghĩa là sự kiện bất ngờ, điều không dự kiến được. "Điều gì sẽ xảy ra?". Những gì ta không biết trước luôn luôn đáng sợ.
Do đó, mới có những khuynh hướng bảo thủ, duy truyền thống, cố làm mọi cách để không gì "xảy đến", không gì “thay đổi” cả.
Vì thế, toàn bộ Kinh Thánh thường lặp lại cho chúng ta rằng, "biến cố" là cuộc "thần hiện" của Thiên Chúa: Người hiện đến, Người can thiệp qua các biến cố. Chẳng hạn, vì Đức Giêsu đã báo trước, nên việc phá hủy thành Giêrusalem và Đền Thánh, là một biến cố đáng sợ, dễ gây hoảng hốt... tuy nhiên, cũng là "dấu chỉ” báo hiệu Đức Giêsu sẽ "đến trên mây trời" ' Như thể ngày nay ta loan báo một cuộc cách mạng sẽ phá hủy Vatican và các vương cung thánh đường trong một cuộc thánh chiến! Hơn nữa, cũng không thiếu những ngôn sứ luôn tuyên sấm giáng họa, đưa tin về những tai ương tương tự hay còn tệ hại hơn: nào là hiểm họa nguyên tử, nào là nạn nhân mãn, ô nhiễm lan tràn... nhiều ý thức hệ hiện nay chỉ nhằm khai thác sự sợ hãi tự nhiên này của nhân loại. Phải chăng Đức Giêsu chỉ là một trong những "ngôn sứ tuyên sấm giáng họa" trên, khi lợi dụng sự sợ hãi để tranh thủ những kẻ ủng hộ mình?
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy con người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.
Đức Giêsu không khai thác, nhưng giải gỡ cho ta sự sợ hãi đó. Những "biến cố" gây xáo trộn, không kết thúc mọi sự, không chỉ là khởi đầu cho một thế giới khác... chỉ báo trước một cuộc gặp gỡ. Ngược lại với sự sợ hãi của con người, ở đây xuất hiện hình ảnh rực rỡ của Con Người trong chính vinh quang của Thiên Chúa. Ta biết rằng, Đức Giêsu sử dụng "thị kiến của Đa-ni-en" (Đn 7,18-14)... nhưng thay đổi hoàn toàn. Triều đại của Thiên Chúa nhu Đa-ni-en mong đợi, phải chiến thắng các địch thù của Israel bằng một thứ can thiệp mãnh liệt và kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử. "Con người" tượng trưng cho "dân thánh của Đấng Tối Cao", sẽ đến "từ trên đám mây trời". Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa với Con Người đó. Nhưng thoạt đầu, Ngài không xuất hiện như một hữu thể từ trời: Ngài là con của Đức Maria. Ta biết rõ xuất xứ của Ngài. Ngài không hiện diện "trong đám mây” Ngài hoàn toàn chia sẻ thân phận con người như mọi người trên trần gian. Và đúng ra, chỉ khi chết trên thập giá, Ngài mới thực sự bước vào trong Thế Giới Mới của Đấng Phục sinh đầy vinh quang và uy quyền… như Ngài đã tiên báo khi bị xét xử trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Lc 22,69). Không xóa bỏ lịch sử, cái chết thảm hại của Đức Giêsu thực sự đã trở nên "điểm xuất phát" của một lịch sử mới. Mùa Vọng là thời gian của một cuộc khởi hành mới. Bản văn trên nhắc nhở chúng ta điều đó.
Khi những biến cố đó bắt đầu xảy ra anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên...
Vậy Khải Huyền (trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là "mạc khải"), đúng là một sứ điệp hy vọng. Chúng ta ghi nhận hai thái độ tương phản. Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ "đứng thẳng" của các tín hữu. "Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc... thì anh em hãy ngẩng đầu lên". Sư tương phản này còn rõ nét hơn trong toàn bản văn, khi ta đọc tới dụ ngôn khá đặc sắc: "cây vả báo hiệu mùa tươi đẹp" (Lc 21,29-30).
Vì anh em sắp được cứu chuộc...
Đối với nhiều người, điều xuất hiện như một thứ hủy hoại sự kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu trên thập giá, kết thúc thành Giêrusalem, kết thúc đời mỗi người qua cái chết, chấm dứt các nền văn minh, chấm dứt thế giới, nghĩa là mọi "biến cố" đều mang tính chết chóc, thì đối với Đức Giêsu và đối với các tín hữu là những kẻ tín thác vào lời Ngài, lại chính là khởi đầu cho công cuộc cứu độ. Đó là khẳng định trọng tâm của Đức tin: Mầu nhiệm Phục sinh... mầu nhiệm chết đi để được sống!
Từ "Cứu chuộc" rất thông dụng trong thư của Thánh Phaolô (1 Cr 1,30 - Rm 3,24-8,23 - Cl 1,14) nhưng trong các Tin Mừng, chỉ thấy dùng ở đây. Ta cũng biết, Luca là đệ tử của Phaolô mà! Từ "Cứu chuộc" được dịch từ "Redemptio" của Latinh. Nhưng nếu để ý đến từ gốc của tiếng Hy Lạp "apolutrosi”, người ta thường dịch là "giải thoát". Như thế, Mùa Vọng là thời giải thoát đã đến gần. “Anh em sắp được giải thoát! Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!".
Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa, lo lắng sự đời kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em.
Sau những lời khuyên khơi dậy hy vọng và tin tưởng, bây giờ đến một lời khuyên giúp đề cao cảnh giác. Đừng để Đức Giêsu bất thần hiện đến, nhất là khi Ngài đến lần cuối cùng. Lòng chúng ta có nguy cơ trở nên nặng nề, vì những lo âu và vì đời sống quay cuồng, vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất, Đức Giêsu nói như thế.
"Oi dân của Ta, ngươi đã ra nặng nề. Quá nhiều đồ ăn thức uống làm bụng ngươi trương lên. Quá nhiều đồ vật chi phối ngươi. Quá nhiều an toàn đang trói buộc ngươi. Quá nhiều hư ảo đang xâm chiếm ngươi. Quá nhiều ngu xuẩn đang chất đầy trên ngươi. Quá nhiều ảo ảnh đang làm ngươi bối rối. Ôi dân Ta, ngươi đã quá nặng nề. Hãy trở lên nhẹ nhàng hơn. Hãy sẵn lòng ra đi" (Ch. Singer).
Nên đề ra một chương trình tốt đẹp cho Mùa Vọng: đó là thời gian làm cho mình ra nhẹ! Đó là thời gian "cõi lòng nhẹ nhõm hơn". Bạn hãy giải thoát mình khỏi lo lắng thái quá về ăn uống! Những lời trên đây có thể được viết cho thời đại chúng ta, cho nền văn minh hưởng thụ chiếm hữu của ta.
Ngày ấy như một chiếc lưới, sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
Tôi đừng để mình bị "chộp bắt" bất thần, như con thú sa lưới. Hãy "tỉnh thức", luôn sẵn sàng, luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ "xảy đến", không thể đặt ta nằm trong trạng thái thụ động biếng trễ, nhưng làm cho ta trở thành những con người "đứng thẳng" trong mọi lúc! Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và cầu nguyện, trong viễn tượng đó, là một thứ "canh phòng", chứ không phải là một chạy trốn, một biếng trễ: Hỡi người canh gác, bạn nhìn thấy bình minh đến chưa? Bạn có nhận thấy Đức Kitô đến không? Bạn có rình chờ những "dấu chỉ" loan báo Ngài đến? Bạn đừng ngủ mê'! Mỗi khi cử hành Thánh Thể là một chuẩn bị trước cho ngày đó, "cho tới khi Chúa đến". Maranatha? Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Mùa Vọng là thời gian mong đợi.
Bài Phúc Âm về Ngày Quang Lâm của Con Người thích hợp cách đặc biệt với Chúa nhật I mùa: MV 1-C59
Bài Phúc Âm về Ngày Quang Lâm của Con Người thích hợp cách đặc biệt với Chúa nhật I mùa Vọng này. Phụng vụ mời gọi ta đi vào cuộc hành trình của dân Chúa tiến về cuộc giá lâm đầu tiên của Chúa Cứu thế: một hành trình chậm chạp, tối tăm và đau đớn, trong đó chúng ta phải luôn luôn tìm biết thế nào là niềm hy vọng của chúng ta, những thái độ cụ thể, những khó khăn, và sức mạnh vô địch của niềm hy vọng đó.
Nhưng Giáng sinh đã hoàn thành trong khó nghèo và mừng vui của Belem rồi. Chúa đã mang đến cho chúng ta tin mừng của Ngài và đã đưa chúng ta vào trong Giáo hội của Ngài. Nếu chúng ta nhắc lại cuộc giáng lâm khiêm tốn đầu tiên, đó là để hướng về cuộc quang lâm chung cục của Con Người trong quyền năng và vinh quang.
Cuộc giá lâm đầu tiên đã khiến mỗi người trong Israel tỏ thái độ theo hay chống Chúa Giêsu (Lc 2,34-35). Thì nay ở mỗi thế hệ cho đến tận cùng lịch sử, mỗi người đều được kêu mời chọn lựa như thế. Nhờ đức tin, chúng ta đã làm một cuộc quyết tuyển căn bản, tuy nhiên chúng ta vẫn biết rằng trong chúng ta còn ít nhiều khu vực bất tín. Phúc âm kêu mời ta tiêu trừ chúng: hãy quay về Chúa đang đến, hãy tỉnh thức, bấy giờ anh em sẽ sẵn sàng tiếp đón Ngài và đi vào trong nước Ngài.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Hôm nay bắt đầu Năm Phụng Vụ mới. Lời Chúa thúc đẩy chúng ta đi ngay tới trước. Thường khi chấm dứt một giai đoạn, người ta bị cám dỗ kiểm điểm thành quả trước khi bắt đầu giai đoạn kế tiếp; người ta ngó lại đằng sau, tổng kết hoạt động quá khứ và mừng vui nếu mọi sự êm đẹp.
Đối với Chúa, không bao giờ như vậy. Ngài không cho chúng ta thấy thành quả tốt đẹp nào, Ngài không vỗ về ta bằng bất cứ tiến bộ nào. Trái lại, Ngài đẩy ta tới trước, hướng về ngày Ngài đến với những tai ương bi thảm tiên báo. Cho dù những trình bày thảm khốc đó không muốn mô tả cách khoa học những sự kiên thực tế. Tuy nhiên, qua ngôn ngữ của tưởng tượng và thi phú, chúng cũng gợi lên được một cách mạnh mẽ việc quang lâm gần kề của Chúa Kitô. Và việc quang lâm đó sẽ tạo ra một sự đảo lộn sâu xa trong toàn thể lịch sử con người. Chính đó là điều mùa vọng này muốn nhắc nhở ta: khi khơi lại kỷ niệm của việc giáng lâm đầu tiên, nó tích cực chuẩn bị ta cho cuộc quang lâm ngày sau hết.
2. Mỗi người đều khao khát hạnh phúc và công lý; ai cũng hy vọng có kẻ mang chúng đến cho mình; thức dậy, người đời đã chẳng chạy đến những tiên tri giả hay những phương tiện khác nhau để tìm kiếm hạnh phúc đó sao? Họ đã chẳng xây dựng biết bao hệ thống, luôn canh tân chúng để mong thiết lập công bình đó sao? Nếu Chúa đến, đó là vì con người khẩn thiết mong ước những gì Ngài mang lại, ước mong có kẻ đưa đường, chỉ lối, sáng soi. Nếu Chúa đến, đó là vì tận thâm tâm, con người làm chỗi dậy Đấng Cứu Rỗi.
Nhưng một trật, Đấng phải đến lại mang danh hiệu “Con Người”. Như danh hiệu bí ẩn này, mượn ở tiên tri Đanien, gợi lên Đấng phải đến là một nhân vật mầu nhiệm, từ một thế giới khác. Vì thế, việc Chúa đến được coi như sự hòa hợp, sự gặp gỡ giữa khát vọng con người và công cuộc của Thiên Chúa.
3. Chúa Giêsu đã ẩn mình trong các dấu hiệu tiên báo. Những tai ương, thử thách có thể làm chúng ta thất vọng về Ngài cũng là những lời Ngài kín đáo kêu gọi tâm hồn ta. Những thử thách đó khiến ta đừng bám víu mãi mãi vào đời này. Chúng nhắc nhở rằng ta được tiền định cho một thành đô khác, Giêrusalem thiên quốc. Chúng giúp ta chuẩn bị đón chờ cuộc tái lâm vinh quang của Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết đón nhận chúng bằng tinh thần đức tin.
4. Đối với thế hệ chúng ta, nước Thiên Chúa cũng đã gần và đang ở giữa chúng ta. Chúng ta tìm thấy nó trong Giáo hội. Vì nơi đó chúng ta gặp Chúa Kitô trong phụng vụ, trong Thánh Thể, trong anh em và trong tâm hồn ta. Chúng ta hãy biết đón nhận Chúa Kitô đang đến, đang đứng ở cửa lòng chúng ta và đang gõ (Kh 3,20). Thầy đứng đó và đang gọi ta (Ga 11,28).
Hôm nay mở đầu Mùa Vọng, nhân loại mong chờ Chúa đến. Niềm hy vọng Giáng Sinh đã: MV 1-C60
Hôm nay mở đầu Mùa Vọng, nhân loại mong chờ Chúa đến. Niềm hy vọng Giáng Sinh đã theo gió lạnh từ miền Bắc Mỹ tràn về. Trời đất bắt đầu chuyển động, báo hiệu niềm vui lớn lao khi Con Chúa giáng trần.
Người sẽ đến trần gian lần thứ hai. Trước đó, những cơn biến động lớn sẽ xảy ra. Những biến động hôm nay chẳng thấm thía gì ! Tất cả sẽ vượt tầm kiểm soát của con người. Nhưng liệu con người có thể chuẩn bị cho những biến cố lớn trong tương lai không ? Chuẩn bị bằng cách nào ?
Giả sử vài chục năm nữa, một hành tinh trong vũ trụ xẹt ngang qua trái đất, liệu loài người còn sống sót không ? Có thể loài người sẽ biến khỏi trái đất. Nếu thế, những tính toán hôm nay có ý nghĩa và giá trị gì ? Giữa cơn xáo trộn cùng cực đó, làm sao chúng ta có thể “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”[1]?
Hôm nay, nhiều người đang oằn lưng vì những gánh nặng cuộc đời. Ðầu cúi gầm vì những mặc cảm tội lỗi hay trong thân phận nô lệ. Nỗi buồn mênh mông vì những bế tắc. Nhìn quanh không thấy lối thoát.
Tình trạng ấy cũng giống hệt như thời kỳ Con Thiên Chúa chưa xuống thế làm người. Những xáo trộn về mọi mặt thiên nhiên, xã hội, tôn giáo v.v. đã gây bao nhiêu đau thương. Nhưng trong đau thương, dân Chúa càng hướng về niềm hy vọng Thiên Sai. Những ai có niềm tin thực sự sẽ đọc được những dấu chỉ cứu độ khi Con Chúa đến trần gian. Những người không tin sẽ bị chao đảo và không tìm được lối thoát.
Giữa thời kỳ Chúa đến lần thứ nhất và thứ hai, nhân loại cũng trải qua những xáo trộn tương tự. Niềm hy vọng cũng được hâm nóng lại. Bởi đó, Tin Mừng hôm nay chiếu lên niềm hy vọng lớn lao giữa những đổ vỡ trong thiên nhiên vào thời cùng tận của vũ trụ. Niềm hy vọng ấy dành cho những người tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Giêsu Kitô.
Niềm tin đó có một chiều kích cắm sâu vào hiện tại nơi những con người luôn “tỉnh thức và cầu nguyện,”[2] với trái tim đầy tình yêu, lối sống thánh thiện “đẹp lòng Thiên Chúa.”[3] Ðó là dấu chỉ và lối sống có thể tìm thấy nơi những người sẽ được cứu độ. Trước mọi biến cố, nhất là vào thời cánh chung, họ sẽ là những người đứng thẳng và ngẩng đầu để nhìn rõ niềm hy vọng thành sự thật nơi “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”[4] với họ. Chắc chắn không còn quyền năng nào lớn hơn. Chính nhờ quyền năng tuyệt đối đó, họ sẽ lướt thắng mọi cơn lo lắng hoang mang và sợ hãi cùng cực trước những biến động trời đất.
Nghe theo Lời Chúa, lòng họ không bao giờ “nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời.”[5] Trái lại, họ luôn tỉnh thức trước giờ Chúa đến. Vì Lời Chúa đem lại thần khí và sự sống, nên kéo họ ra khỏi những đam mê quyền lực, của cải, danh vọng v.v. Có thể thấy những mẫu điển hình đó nơi hang đá Bêlem: các mục đồng, các nhà hiền triết Ðông Phương, nhất là Ðức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse. Họ là những người nghèo Giavê, nên lúc nào cũng đầy ắp niềm hy vọng Thiên Sai.
Suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Ðức Giêsu đã gặp biết bao người sẵn sàng đón nhận Nước Trời, như bà góa trước cửa Ðền Thờ, người mù thành Giêrikhô, ông Giakêu v.v. Còn những người Pharisêu, dù đọc Lời Chúa hàng ngày, cũng không thể nhận ra niềm hy vọng Thiên Sai xuất hiện nơi Ðức Giêsu Kitô. Trái lại, họ còn đối kháng, từ chối và giết chết Người. Vì quá say sưa với quyền lực và tiền bạc, họ đã không tỉnh thức và nhận ra giờ Chúa đến viếng thăm dân Người, mặc dù bao ngôn sứ đã loan báo và dân Chúa đã mong đợi hàng bao thế kỷ. Cuối cùng, họ đã không tìm được lối thoát cho mình và dân tộc. Họ gặp bế tắc về mọi mặt tôn giáo, chính trị, xã hội, v.v. Chỉ biết cắm đầu thỏa mãn những tham vọng nhất thời, họ không thể phóng tầm nhìn về tương lai.
Ðến nay, nhân loại vẫn chưa thoát vòng luẩn quẩn đó. Bằng chứng, tại Nhật bản, một nước phát triển vào bậc nhất nhì thế giới, giới trẻ đang gặp bế tắc. Một số tìm lối thoát trong những cuộc tự tử tập thể. Những tiến bộ vượt bực về kỹ thuật cũng không thể giúp giới trẻ tìm được câu giải đáp cho những vấn đề mới mẻ hôm nay. Giới trẻ khao khát lý tưởng tự do, hòa bình, đối thoại v.v. nhưng xã hội vẫn tràn ngập những khối người đóng kín. Hàng trăm kiểu ăn chơi cũng không làm họ thỏa mãn. Những thành công về mọi mặt văn hóa và chính trị không bảo đảm cuộc sống hạnh phúc. Những tính toán trong thương mại, kinh tế, tài chánh v.v. càng làm cho lòng người ra nặng nề. Xã hội đầy bất công, hận thù, chiến tranh . . .
Chìm sâu trong cảnh sống như thế, làm sao con người có thể tỉnh thức trước lời hứa đầy hy vọng của Thiên Chúa ? Muốn tìm lối thoát cho cuộc sống hôm nay, thiết tưởng phải mở lại lịch sử dân Chúa. Thời ngôn sứ Giêrêmia, Giêrusalem mới bị dân ngoại xâm lăng. Qua ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa hứa cho dân Israel “một Ðấng Công Chính để nối nghiệp Ðavít ; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.”[6] Họ rất vui khi bắt gặp niềm hy vọng lớn lao đó. Chỉ cần Người hiện diện, mọi sự sẽ biến đổi tận gốc. Từ tên thành đến đời sống đều rực lên niềm hy vọng. Giêrusalem sẽ không còn là đất bỏ hoang, nhưng tràn đầy sự sống và của cải. Dân Chúa đã tìm được lối thoát nơi Hậu Duệ Ðavít là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng sẽ đem lại công lý và bình an cho muôn dân.
Quả thực, Ðức Giêsu là lối thoát duy nhất cho mọi bế tắc hôm nay. Người sẽ phục hồi tất cả những gì đổ vỡ. Người sẽ củng cố bàn chân chúng ta giữa những phong ba bão táp, những xáo trộn, thử thách và cám dỗ cuộc đời. Người xuất hiện để tái lập trật tự và phục hồi bản chất con người chúng ta. Vì Người là Ðức Chúa,[7] sự khôn ngoan của Thiên Chúa,[8] Con Người,[9] Con Thiên Chúa đến trong quyền lực,[10] Ngôi Lời Thiên Chúa làm người[11] để cứu độ muôn dân.
Hôm nay, Người vẫn hiện diện như niềm hy vọng lớn lao. Giữa những đổ vỡ hiện tại, vẫn có những dấu chỉ niềm hy vọng. Xin đừng than trách đức tin khủng hoảng, những giá trị mất mát, giới trẻ bỏ nhà thờ và không giữ luật lệ nữa. Tin Mừng không bao giờ ngưng bước. Niềm tin vẫn chưa chết. Hàng triệu bạn trẻ tụ hội đầy ắp công trường Phêrô để cầu nguyện, khóc thương và dự tang lễ ÐGH Gioan Phaolô II là một bằng chứng hùng hồn. Các tín hữu muôn phương tuốn đến Lộ Ðức bên Pháp càng củng cố bằng chứng niềm hy vọng đó. Các bạn trẻ tuốn về Taizé làm gì, nếu không phải tìm lối thoát nơi Ðức Giêsu Kitô ? Biết bao cơ sở văn hóa, giáo dục, xã hội của Giáo hội có mặt khắp thế giới chắc chắn đã gieo niềm hy vọng và khai thông nhiều bế tắc trong cuộc sống con người.
Nếu có thiện chí, con người sẽ tìm được những giải đáp thỏa đáng trong Lời hứa của Thiên Chúa. Lời hứa ấy đã thành sự thật nơi Tin Mừng Phục Sinh của Ðức Giêsu Kitô. Sự phong phú khôn lường của Ðức Kitô không thể đóng khung trong một hình thức cứng ngắc của một nền văn hóa đặc biệt nào. Tuy thế, văn hóa Âu Mỹ đã khá thành công trong việc diễn tả và hội nhập Tin Mừng. Ví dụ những ý niệm công lý, hòa bình, bác ái đều phát xuất từ Tin Mừng. Những giá trị ấy đã trở thành gia sản rất tự nhiên của nền văn hóa Âu Mỹ và ăn sâu vào nếp sống xã hội. Nhưng chính những hoa trái tốt đẹp ấy lại thui chột trong xã hội Việt nam. Xã hội Việt nam vẫn bế tắc vì thiếu những giá trị cao quý đó. Sau gần 500 năm được rao giảng ở Việt nam, Tin Mừng vẫn chưa biến thành sức mạnh khai thông những bế tắc trong văn hóa và xã hội hôm nay. Tại sao ?
Tới đây, mới thấy Mùa Vọng không phải chỉ là một thời gian phụng vụ. Mùa Vọng còn là thời gian bắt đầu lại việc dấn thân, lời hứa, niềm hy vọng đầy tin yêu. Ðường phục hồi quê hương còn dài và đầy chông gai. Nhưng, cùng với niềm hy vọng mong chờ Chúa đến, chúng ta tiến bước đến một tương lai đầy hứa hẹn cho quê hương. Những bông hoa Tin Mừng như công lý, tự do, nhân quyền, hòa bình v.v. sẽ nở rộ trên khắp nẻo đường Việt nam, nếu chúng ta bắt đầu sống tinh thần Mùa Vọng từ hôm nay.
Lạy Chúa, xin làm cho dân tộc Việt nam chúng con biết đặt tất cả niềm hy vọng nơi Ðức Giêsu Kitô, nguồn ơn cứu độ duy nhất của chúng con. Amen. đỗ lực, op.
Tại Giêrusalem, Ịức Giêsu tiếp tục giáo huấn tại Ịền Thờ. Tác giả Lc đã ghi lại một diễn từ dài: MV 1-C61
Tại Giêrusalem, Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn tại Đền Thờ. Tác giả Lc đã ghi lại một diễn từ dài bàn về số phận của Giêrusalem và Đền Thờ (21,8-36). Bản văn được kết cấu theo cấu trúc đồng tâm. Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là nửa sau của bài Diễn từ trên.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Các tai họa vũ trụ vào lúc tận thế (21,25-28); 2) Cảnh báo kết thúc: hãy tỉnh thức (21,34-36).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất … cảnh biển gào sóng thét (25): Toàn thể các yếu tố của vũ trụ, được diễn tả bởi trời, đất và biển đều rung chuyển.
- các quyền lực trên trời (26): Vũ trụ quan cổ xưa cho rằng các quyền lực thiêng liêng thì ở trên không trung.
- Con Người đầy quyền năng (27): Đây là hình ảnh của Đn 7,13-14.
- cứu chuộc (28): Từ apolytrôsis, “cứu chuộc”, này không có trong các Tin Mừng, nhưng hẳn là Lc đã mượn của Phaolô, vì thánh tông đồ dùng nhiều lần từ này để nói về công trình cứu độ của Đức Giêsu (Rm 3,24; 1 Cr 1,30; Rm 8,23; x. Cl 1,14; Ep 1,7; 4,30). Ở đây từ ngữ này được dùng theo nghĩa “giải thoát” mà không có quan hệ gì với “tiền chuộc” (lytron).
- như một chiếc lưới (34): Có thể hình ảnh này gợi đến Is 24,17.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Các tai họa vũ trụ vào lúc tận thế (25-28)
Cho đến nay, tác giả Lc kể ra một loạt các biến cố gần kề mà hẳn là ngài đã chứng kiến (cc. 8-9.12-19.20-24). Bất chợt ngài rời bỏ các viễn tượng lịch sử này để đưa mắt hướng về thời tận thế. Tách biệt rõ rệt với thời kỳ trước, thời này được loan báo bằng các dấu hiệu vũ trụ (c. 25a) mà Lc đã phân biệt với các dấu hiệu trước (cc. 10-11).
Trước tiên, chúng ta ghi nhận rằng, các yếu tố tương tự của vũ trụ đã xuất hiện trong trang đầu tiên của Kinh Thánh. Sách Sáng thế kể rằng vào lúc khởi đầu, mọi sự ở trong tình trạng hỗn độn, và có bóng tối bao trùm vực thẳm. Thiên Chúa đã tạo ra mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và biển; nói cách khác, Người đã làm ra thế giới là nơi loài người, thú vật và cây cối có thể sống chung với nhau (x. St 1,1-2). Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc tới mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và biển, nhưng cho thấy sẽ có một tình trạng lộn ngược so với “lúc khởi đầu”. Các sức mạnh đang giữ cho vũ trụ có trật tự sẽ bị đảo lộn và vũ trụ lại trở về với tình trạng trước tạo dựng. Không phải là các tinh tú, càng không phải là Thiên Chúa, đã gây ra tình trạng hỗn độn, nhưng là tội lỗi của loài người.
Trong các áng văn chương khải huyền, các dấu hiệu này là khung cảnh cổ điển cho cuộc Phán xét chung. Chúng phát xuất từ các bản văn ngôn sứ phác họa cuộc chiến thắng của Đức Chúa (Yhwh) trên “đạo binh trên trời”, tức các thần linh của Átsua và Babylon (x. chẳng hạn Is 13,10 và 34,4). Nhưng các tác giả TM lẫn Đức Giêsu đều không nghĩ đến một cuộc giao đấu của vị Thiên Chúa chân thật với các thần linh ngoại giáo. Các hình ảnh cổ xưa đó chỉ diễn tả cho các ngài cuộc can thiệp quyết định của Thiên Chúa trên thế giới mà Ngài sắp giải thoát khỏi sự dữ (x. Rm 8,19-22; Kh 21,1-8).
Trong khi Mc và Mt nói chi tiết về các tai ương vũ trụ theo cách các bản văn khải huyền, Lc lại dừng lại nhiều hơn với các phản ứng của loài người khi thấy Cùng Tận đến gần (cc. 25b-26). Như thế ngài trung thành với tư tưởng của Kinh Thánh và của Đức Giêsu hơn: tấn bi kịch cánh chung trước tiên là một tấn bi kịch của con người. Chính trong khi dường như mọi sự đang rời vào tình trạng hỗn loạn hoàn toàn, Con Người lại xuất hiện để kéo một rhế giới mới ra khỏi tình trạng hỗn độn (x. c. 27).
Các bản văn khải huyền Do-thái mô tả thời tận thế bằng một loạt các biến cố phức tạp như người chết sống lại, phán xét, những người công chính được cứu, những kẻ gian ác bị trừng phạt, thế giới mới được thiết lập (Giêrusalem trên trời), v.v. Ở đây, trong TM Lc, Đức Giêsu cô đọng tất cả các biến cố của thời tận thế vào cuộc ngự đến khải hoàn của Người trong tư cách là Con Người (c. 27; Mc và Mt nói rõ rằng Người đến để quy tụ các người được tuyển chọn, và đây rất có thể là câu nói nguyên thủy của Đức Giêsu). Mặt trời và mặt trăng cung cấp ánh sáng và được phân biệt nhờ dòng lưu chuyển đều đặn của chúng; chúng giúp ta đo đạc thời gian. Các tinh tú được bố trí lớp lang, đã trở thành như biểu tượng của trật tự và bền vững: người đi trong sa mạc hay trên biển có thể định hướng nhờ các ngôi sao. Sự đảo lộn các biểu tượng về bền vững và trật tự này có nghĩa là các thực tại hiện đang có không có một độ bền bỉ vĩnh cửu, nên ta không thể tín nhiệm chúng vô điều kiện và dùng chúng như những điểm quy chiếu hoàn toàn đáng tin cậy. Mọi sự tùy thuộc vào Con Người đang ngự đến.
Biến cố Con Người ngự đến này là lời loan báo cốt yếu đối với Đức Giêsu: Người nhắc đến nhiều lần trong các Tin Mừng (Mc 8,38 //; 14,62 //; Mt 10,23; 13,41; 19,28; 25,31; Lc 12,8; 17,30; 18,8; v.v.). Lời loan báo này có gợi đến cảnh Phán xét trong Đn 7,13-14, trong đó Con Người đại diện cho “dân các thánh của Đấng Tối Cao”, được ban cho quyền hành tối cao sau khi đã trải qua các thử thách (x. Đn 7,18.22.27). Đức Giêsu nhận lấy danh hiệu “Con Người” như danh hiệu riêng, diễn tả vai trò của Người là Đấng Cứu độ, Đấng gánh vác định mệnh của loài người.
Lc đã loại bỏ mọi hình ảnh khải huyền phụ thuộc để tập trung chú ý vào quyền năng và vinh quang của Đức Giêsu, Đấng chiến thắng sự dữ và là Chúa tể của Vương quốc.
Để kết thúc bản văn này, Lc ghi lại một lời khuyên của Đức Giêsu: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (c. 28). Người mời gọi sống niềm hy vọng. Các dấu hiệu và các biến cố Đức Giêsu vừa loan báo thì đáng sợ. Nhưng các tín hữu của Đức Giêsu không có gì phải sợ các biến cố này, vì chúng tỏ bày chiến thắng và quyền chúa tể của Thầy họ. Khi sống trong những đảo lộn của thế giới này, họ phải nhận biết rằng Nước Thiên Chúa đang đến gần và đã tới lúc họ được cứu chuộc (apolytrôsis). * Cảnh báo kết thúc: hãy tỉnh thức (34-36)
Lời khuyên ở cc. 34-36 là kết luận của toàn bài diễn từ. Lời này theo một viễn tượng khác. Việc Chúa đến không còn được loan báo bằng những dấu hiệu, như ở cc. 11.25.28 nữa; nhưng được báo là sẽ xảy ra bất thình lình và không thể tiên liệu, như các dụ ngôn về sự tỉnh thức (12,35-46) hay như bảng phác họa Ngày của Con Người (17,23.36). Đức Giêsu đã vận dụng cả hai cách giới thiệu này bởi vì Người không quan tâm mô tả tương lai cho rõ ràng cho bằng mời gọi các môn đệ chuẩn bị đón biến cố đó bằng cách sống trung thành.
Trong đoạn văn cuối cùng này, thái độ mà các tín hữu phải có là tỉnh thức thường trực. Họ phải tránh các cám dỗ sống trụy lạc và say sưa (x. 12,45; 1 Tx 5,6-7; Rm 13,13), và còn hơn thế nữa, tránh các bận tâm về trần thế khiến họ có thể quay lưng lại với điều thiện hảo duy nhất đáng kể (x. 8,14; 12,22-31; 17,27-28). Họ phải sẵn sàng, bởi vì “ngày ấy” sẽ xảy đến thình lình (x. 1 Tx 5,3) và bắt chợt các dân cư trên mặt đất, như chiếc lưới của người thợ săn ụp xuống thình lình trên con mồi (x. Is 24,17). Trong thực tế, đối với Lc, sẵn sàng chính là luôn luôn lo công việc mà Thầy đã giao phó cho các tôi tớ Người (12,35-48); đó cũng là “cầu nguyện luôn luôn không bao giờ nản chí”, như Người đã nhắc nhở sau khi phác ra Ngày của Con Người (18,1). Bởi vì nếu người tín hữu không ngừng quay về với Chúa để thờ phượng Người, để xin Người trợ giúp và trước tiên cho Nước Người ngự đến, thì làm sao người ấy lại có thể bị bắt chợt bởi một cuộc ngự đến mà người ấy luôn trông mong? Được chuẩn bị như thế nhờ sự trung thành và cầu nguyện, người ấy chẳng sợ gì các thử thách vào lúc Cùng Tận: người ấy sẽ có thể đứng vững khi bị Con Người xét xử.
+ Kết luận
Bài Tin Mừng này hoàn toàn thích hợp cho CN I MV , tức khởi đầu Năm Mới của Họâi Thánh. Tuy nhiên, lễ Giáng Sinh đã hoàn tất rồi, trong sự nghèo khó và trong niềm vui Bêlem. Chúa đã đến mang Tin Mừng của Người cho chúng ta và đưa chúng ta vào trong Họâi Thánh Người. Nếu chúng ta có nhắc lại cuộc hiển ngự đầu tiên trong tình trạng khiêm tốn nghèo hèn, là để tiến bước về cuộc hiển ngự vĩnh viễn cua Con Người trong quyền năng và vinh quang. Nhưng từ cuộc hiển ngự đầu tiên đến cuộc hiển ngự cuối cùng, sẽ là một chuỗi những chọn lựa được mỗi người thực hiện. Nếu chúng ta liên tục chọn Đức Giêsu, chúng ta đã thực thi lời Người dạy: Hãy tỉnh thức!
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Khi bắt đầu Năm Phụng vụ mới, Họâi Thánh đã dùng những lời Tin Mừng hôm nay để đẩy chúng ta tới trước, chứ không muốn chúng ta dừng lại và bằng lòng với một bảng tổng kết nào đó. Chúng ta còn phải đi tới trước, để đón gặp Đức Kitô vì Người đang đến. Sự chấm dứt của lịch sử được liên kết với sự đảo lộn của tất cả những gì cho tới nay được coi là cố định và chắc chắn và liên kết với việc Con Người ngự đến trong vinh quang. Tất cả các thực tại vẫn có cho đến nay không có độ chắc vĩnh cửu, nên ta không thể tín nhiệm vào chúng vô điều kiện, và chúng không thể được dùng như những điểm quy chiếu không phải nghĩ ngợi. Tiếng nói cuối cùng về tất cả lịch sử con người và mọi yếu tố của lịch sử này thuộc về Con Người khi Người đến trong vinh quang Thiên Chúa.
2. Con Người đã đi qua đau khổ và cái chết nhưng rồi đã trỗi dậy từ cõi chết. Người sẽ tỏ mình ra trước mắt mọi người trong phẩm cách đích thực của Người. Sự tỏ mình ra của Người và quyền chúa tể hữu hình của Người, quyền chúa tể duy nhất và vô biên chính là mục tiêu của toàn thể lịch sử nhân loại. Cho dù lịch sử này đã bị cày xới liên tục bởi các tai ương và sức mạnh hủy hoại, cuối cùng nó vẫn không phải là một tai ương. Thiên Chúa cho phép vô số chuyện lạ lùng và không hiểu được xảy ra, nhưng tiếng nói cuối cùng của Ngài trên lịch sử con người là sự mạc khải Con Người. Người sẽ xuất hiện ra trong vinh quang của Chúa Cha, trong vẻ xán lạn uy hùng ngang bằng Thiên Chúa. Lịch sử nhân loại có thể có vẻ còn quá tăm tối và đang đi đến chỗ tiêu vong, nhưng cuối cùng có Con Người, Đấng đã chia sẻ trọn vẹn định mệnh con người, nay đến trong vinh quang chói lọi và trong sự hiệp thông phong phú với Thiên Chúa là Cha Người.
3. Với bài diễn từ này, Đức Giêsu xác định cách sống của các môn đệ Người trong khoảng thời gian chạy từ cuộc Phục Sinh của Người cho đến ngày Người trở lại. Người sẽ không hiện diện hữu hình với họ nữa; họ sẽ phải tiếp tục hành trình trong sự hiểu biết giới hạn về các thực tại trần thế, nhưng cũng trong xác tín vững vàng vào cuộc chiến thắng chung cuộc của Chúa mình. Họ “hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Nhưng cũng phải biết đề phòng những quyến rũ đam mê xấu. Cuối cùng họ “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
4. Lời cầu nguyện chân thật đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa và điều gì đưa tới với Thiên Chúa thì không thể tách chúng ta khỏi những người khác. Chúng ta không nhìn lên mây xanh, nhưng nhìn tới anh chị em mình. Chúng ta không cần phải lo lắng về chuyện sẽ xảy ra vào lúc cùng tận, nhưng phải bận tâm đến tình trạng cùng quẫn của những người sống chung quanh chúng ta. Khi bảo chúng ta tỉnh thức, Đức Giêsu muốn chúng ta nhận thấy những nhu cầu của anh chị em chúng ta.
Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc chúng ta nghĩ tới việc Chúa đến. Lý do là vì chúng ta đang sống: MV 1-C62
Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc chúng ta nghĩ tới việc Chúa đến. Lý do là vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến: lần thứ nhất Chúa đến tại Bêlem một cách khiêm tốn âm thầm trong những yếu đuối của thân phận làm người; lần thứ hai Ngài sẽ lại đến trong vinh quang uy quyền của một Vị Vua nắm quyền cả vũ trụ. Thánh Phaolô nói rằng trong thời gian giữa hai lần đó, cứ mỗi năm trôi qua thì "ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo".
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu chúng ta cần Chúa như thế nào để chúng ta tích cực chuẩn bị đón Ngài đến với chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Hôm nay là bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Nhìn lại năm cũ, chúng ta nhận thấy có rất nhiều thiếu sót lỗi lầm. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp chúng ta làm lại cuộc đời trong năm mới này.
Chúa rất thường đến với chúng ta, phần chúng ta thì ít khi đến với Chúa.
Nhiều khi Chúa muốn đến với tâm hồn chúng ta nhưng Ngài không vào được vì lòng chúng ta đã dành hết chỗ cho những đam mê trần tục.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Gr 33,14-16
Giêrêmia là một ngôn sứ đã chứng kiến những trang lịch sử đau buồn nhất của đất nước: dân Chúa bất trung với Ngài; quân thù vây hãm Giêrusalem; mất nước; lưu đày. Là sứ giả của Lời Chúa trong bối cảnh như thế, Giêrêmia bó buộc phải gióng lên những lời nói chói tai để tố cáo tội lỗi của dân mình và tha thiết kêu gọi họ sám hối.
Thế nhưng khi dân đã bị lưu đày, Ngôn sứ đổi giọng. Trích đoạn này nằm trong phần "sứ điệp cứu độ" (các chương 26-35). Ông báo cho dân biết rằng cảnh lưu đày sẽ không kéo dài lâu, vì sẽ tới những ngày Thiên Chúa sẽ gởi đến Một Ðấng cứu thoát họ: "Trong những ngày ấy... Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Ðấng Công Chính... Giuđa sẽ được cứu thoát... Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp..."
Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến thứ nhất của Ðấng Messia.
2. Ðáp ca Tv 24
Bài thơ này là lời cầu nguyện của kẻ đang đau khổ và tỏ bày tâm tình sám hối. Từ chìa khóa trong trích đoạn được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là "đường, lối": đường lối duy nhất để thoát khỏi cảnh khổ sầu và đến được ơn cứu thoát chính là đường lối của Chúa, đường chính trực, đường chân lý, đường yêu thương, đường giao ước...
3. Bài đọc II 1 Tx 3,12--4,2
Thánh Phaolô viết bức thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônikê trong viễn cảnh Chúa sẽ đến lần thứ hai.
Vì nghĩ rằng Chúa sắp đến rồi, nên các tín hữu Thêxalônikê sống buông thả, lười biếng. Từ đó sinh ra nhiều tệ nạn khác. Thánh Phaolô cho rằng đó không phải là thái độ đúng đắn. Thái độ đúng đắn là phải bồi dưỡng tình thương: "Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết... Có như thế thì... anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách... trong ngày Chúa Giêsu quang lâm"
4. Tin Mừng Lc 21,25-27.34-36
Ðoạn Tin Mừng này nằm trong Diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói về những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới.
Các câu 25-28: nói về ngày tận thế và Quang lâm. Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển...) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, "muôn dân" (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
Các câu 34-36: nói về đến thái độ mà môn đệ Chúa Giêsu phải có.
|Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian... Nếu bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến thì dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.
|Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Suy nghĩ đầu năm phụng vụ mới
Hoa trên đồi có tàn đi thì cũng nở lại vào năm sau. Tuổi xuân con người một khi tàn phai thì không bao giờ nở lại.
Mặt trời mọc lên buổi sáng, buổi chiều lặn đi, nhưng sáng hôm sau mọc lại. Ðời người dần trôi về lúc hoàng hôn và không bao giờ có bình minh nào khác.
Tại sao mỗi người chỉ có một đời? Tại sao con người không có cơ hội khác? Thôi đừng thắc mắc và cũng đừng thở than. Hãy ý thức rằng cuộc đời là một món quà tặng; vì nó chỉ có một nên nó vô cùng quý giá.
Xin Chúa cho chúng con biết tận dụng những cơ hội của đời này, bởi vì chỉ có thế chúng con mới đến được đời sau, một cõi đời không bao giờ tàn úa, một cõi đời mãi mãi sáng tươi.
* 2. Giữa tối tăm bừng lên một tia sáng
Trong bài đọc I, Ngôn sứ Giêrêmia mô tả cuộc sống trong một thời tăm tối bi quan: trong nội bộ dân Chúa thì bất trung tội lỗi; từ bên ngoài thì hiểm họa xâm lăng lúc nào cũng rình chờ. Thế mà Giêrêmia vẫn có thể thốt lên những lời dự đoán đầy lạc quan: "Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp". Từ trong tối tăm của hiện tại, Giêrêmia vẫn thấy trước tia sáng của tương lai, bởi vì Giêrêmia tin vào nguồn sáng là Thiên Chúa: "Ðức Chúa là sự công chính của chúng ta".
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên trời... Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang... Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc..." Mặc dù vậy, Ngài vẫn bảo môn đệ mình "Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc".
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa một năm Phụng vụ mới. Nhìn tới tương lai, ai mà không khỏi lo lắng hoang mang vì bao gian truân đang sẵn chờ. Nhưng Lời Chúa hôm nay vẫn bảo chúng ta hãy lạc quan. Vì tương lai chỉ tối tăm mờ mịt khi vắng bóng Thiên Chúa. Còn đối với những người để Thiên Chúa dẫn dắt đời mình thì tương lai sẽ ngày càng tươi đẹp.
* 3. Hướng đi của lịch sử
Theo quan niệm thông thường của người đời, lịch sử đi theo vòng tròn: Hết xuân tới hạ, rồi thu, rồi đông, và sau đó trở lại chu kỳ Xuân Hạ Thu Ðông. Theo quan niệm ấy, một năm trôi qua rồi sang năm khác với cũng những cảnh ấy, những việc ấy, những lao nhọc và khó khăn ấy.
Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, lịch sử đi theo đường thẳng và hướng đến một tương lai tốt đẹp do Chúa sắp sẵn cho những ai biết cùng Ngài hành trình trên con đường dương thế. Chính vì nghĩ thế nên Thánh Phaolô nói với tín hữu của Ngài rằng cứ mỗi năm trôi qua thì "ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo".
Hôm nay bắt đầu một năm Phụng vụ mới, chúng ta hãy quyết tâm sẽ đồng hành cùng Chúa trong suốt năm này, để mỗi ngày một tiến gần hơn tới ơn cứu độ.
* 4. Hướng lòng về Ngày Chúa đến
1/ Ý nghĩa mùa Vọng
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng. Vọng là hướng về, là chờ đợi. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến, đồng thời chờ đợi Chúa đến. Chúa đến để khai mạc một thời đại mới, thời đại hết sức tốt đẹp hơn, tràn đầy hạnh phúc.
Chúa đến thế gian này hai lần, lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ nhì chưa đến nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế, mùa Vọng có hai ý nghĩa:
Thứ nhất: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố Chúa đến lần thứ nhất cách đây 2000 năm.
Thứ hai: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Lần này, chúng ta không biết sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể còn lâu, nhưng cũng có thể đến nơi rồi. Ngài nói Ngài sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm.
Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết: «Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: "Bình an biết bao! Yên ổn biết bao!", thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống ( ) chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày» (1 Tx 5,2-5).
2/ Chờ đợi «Trời mới đất mới», một kỷ nguyên tốt đẹp sẽ đến
Mùa Vọng là thời gian thuận lợi để Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị và sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa đến để khai mở một kỷ nguyên mới: «Này đây, Ta sẽ sáng tạo trời mới đất mới» (Is 65,17a; xem 66,22), nghĩa là một kỷ nguyên thanh bình, hạnh phúc, được ngôn sứ Isaia diễn tả như sau: «Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, và sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn ngập đất này cũng như nước lấp đầy lòng biển» (Isaia 11,6-9). Kỷ nguyên này không còn chiến tranh, bất công, hận thù, không còn nước mắt, đau khổ. Mọi người đều thỏa mãn, an vui, hạnh phúc.
Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người sống tốt lành, khiêm nhường, yêu thương người khác. Ngày đó là ngày những người tốt lành hằng mong chờ, vì đó là ngày thiện vĩnh viễn thắng ác, là ngày Thiên Chúa toàn thắng ma quỉ cùng những thế lực xấu xa, là ngày ơn cứu chuộc được thể hiện tràn đầy, viên mãn. Ma quỉ cùng với sự ác, sự chết, đau khổ vĩnh viễn bị tiêu diệt khỏi thế giới người sống, và bị trừng trị đích đáng. Ðó là một ngày đáng vui mừng hơn bất kỳ ngày nào!
Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những kẻ không yêu thương người chung quanh, những kẻ lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, những kẻ sống bất lương, kiêu căng, gây tội ác, tạo bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ hết sức thịnh nộ và không còn khoan nhượng đối với những phường gian ác. Ngài phán với họ: «Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và những kẻ theo nó. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp» (Mt 25,41.46).
3/ Ngày đó có thể sắp đến
Kinh Thánh cho biết những điềm sẽ xẩy ra báo trước ngày ấy: các ngôn sứ giả, chiến tranh, đói kém, động đất, lụt lội, các thứ dịch tễ, tai họa... (xem Mt 24,4-8), các tội ác, tình trạng đạo đức giảm sút, lòng người ra khô khan nguội lạnh, tôn giáo thì đa số vụ hình thức mà lơ là điều cốt lõi là mến Chúa yêu người đích thật... Những điềm báo trước đó ngày càng thể hiện rõ rệt trong thời đại chúng ta. Vì thế, ta biết ngày Chúa đến không còn xa lắm, nó có thể sắp đến, một cách bất chợt. Ðức Kitô nói ngày ấy đến như kẻ trộm, điều đó không chỉ có ý nghĩa thời gian (tức vào thời điểm không ngờ được), mà có thể còn là hình thức (cách xảy đến cũng không ngờ được). Nghĩa là Chúa đến có thể theo một cách khác hẳn với cách mọi người thường nghĩ.
Ngày ấy là ngày Chúa phán xét, nên điều hết sức quan trọng là vào ngày ấy, chúng ta phải là người trong sạch, tốt lành, không có gì đáng chê trách trước mặt Chúa, nhất là về lòng yêu thương và cách xử sự đối với mọi người. Khi phán xét, Ngài phán xét ta chủ yếu về điều ấy.
4/ Hãy chuẩn bị sẵn sàng
Vì ta không biết ngày nào Ngài đến, nên khôn ngoan nhất là lúc nào ta cũng nên sẵn sàng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Kitô cũng khuyên ta như vậy: «Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất». Chuẩn bị như thế nào? Ðức Kitô khuyên ta: «Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn».
- Tỉnh thức là luôn luôn tỉnh táo ý thức rằng ngày ấy có thể đến bất kỳ lúc nào, nên lúc nào cũng sẵn sàng như thể Chúa sẽ đến vào ngay ngày mai, hay chốc lát nữa. Thái độ sẵn sàng đó chắc chắn không làm ta thiệt hại, mà giúp ta sống khôn ngoan, hạnh phúc hơn. Hình ảnh hay nhất minh họa sự tỉnh thức là thái độ của người canh kẻ trộm, không dám ngủ thiếp đi một phút nào.
- Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn.
Có như vậy, chúng ta mới «đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người».
Lạy Cha, hiện nay, đã có biết bao nhiêu điềm báo hiệu ngày quang lâm của Chúa Giêsu. Ngày ấy có thể đã gần tới. Vì thế, xin Cha giúp con biết chuẩn bị cho ngày ấy, và sẵn sàng để bất kỳ lúc nào Ngài đến, Ngài cũng có thể hài lòng về con, về cách sống của con, về tình thương của con đối với mọi người, và về cách đối xử tốt đẹp của con đối với những người chung quanh con. Xin giúp con luôn tỉnh thức trong tinh thần cầu nguyện, như Chúa Giêsu đã khuyên nhủ mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen (Nguyễn chính Kết)
* 5. "Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên"
Thời Ðức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình:
"Thưa ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết... Chỉ vài ngày nữa thôi, lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến... và con sẽ về với Chúa...
Phải chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp?.. Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần Chúa và con đang chuẩn bị chết... Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn là đối với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất bình an..." (Mark Link kể)
* 6. Tỉnh thức và cầu nguyện
Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:
- Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên sĩ quan mỉa mai:
- Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
- Thú thật với ông, đã "16 năm" nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên sĩ quan ngạc nhiên:
- 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc "phải là ân nhân của nhà Dòng?
Chị nữ tu trả lời:
- Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người sĩ quan gặng hỏi:
- Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?
Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:
- Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?
Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:
- Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.
Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ "ra nặng nề, vì chè chén say sưa". Họ bị Chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.
Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến. Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:
Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi. Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng. Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất" (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta luôn "Tỉnh thức và cầu nguyện" (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải "lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét" (Lc 21,25), chúng ta sẽ không "sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc" (Lc 21,26), nhưng sẽ "đứng thẳng và ngẩng đầu lên" (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
Lạy Ðức Ki tô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng con biết "tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen (TP)
7. Những cây trường xuân
Trong quyển "The legend of the Bells", John Shea kể rằng sau khi tạo dựng các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào. Ngài bảo "Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm".
Những cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một số cây đã ngủ thiếp đi. Ðêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán: "Các ngươi đã kiên trì một cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống và mãi mãi xanh tươi".
Từ đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân. Kitô hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác, kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian, vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một thế giới tối tăm.
Nói một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình. Họ chính là những cây trường xuân. (FM)
8. Chuyện minh họa về sự sẵn sàng
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Ðột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên phá cửa đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi: "Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội." Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
9. Bài giải thích của Thánh Bernard (+ 1153)
Các bạn đừng chỉ nghĩ tới lần Chúa ngự đến để "tìm và cứu những gì hư mất" (Lc 19,10); hãy nghĩ tới lần Ngài ngự đến để rước chúng ta đi theo Ngài nữa. Ước gì các bạn hãy suy gẫm sâu xa về hai lần ngự đến ấy, và nghiền ngẫm trong lòng về điều Ngài đã ban cho ta trong lần ngự đến thứ nhất, và điều Ngài hứa sẽ cho ta trong lần ngự đến thứ hai.
"Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao?" (1 Pr 4,17) Cuộc chung thẩm sẽ thế nào đối với những kẻ không đứng vững trong cuộc phán xét này? Tất cả những ai trốn tránh cuộc phán xét bây giờ, tức là cuộc phán xét làm cho thủ lãnh thế gian này bị ném ra ngoài, thì họ phải chờ đợi, hay nói đúng hơn là phải lo sợ cuộc phán xét sẽ làm cho họ cũng bị ném ra ngoài cùng với thủ lãnh của họ. Còn nếu chúng ta chịu phán xét đầy đủ bây giờ thì chúng ta hãy an tâm "mong đợi Chúa Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Pl 3,20-21) "Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ" (Mt 13,43)
Khi Chúa đến, Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Nhưng chỉ với điều kiện là trước đó tâm hồn chúng ta đã được biến đổi giống tâm hồn khiêm tốn của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã nói: "Hãy trở nên môn đệ Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm tốn trong lòng" (Mt 11,29).
Các bạn hãy khám phá trong đoạn Tin Mừng này hai loại khiêm tốn: một là khiêm tốn về nhận thức, hai là khiêm tốn về tình yêu tức là khiêm tốn trong lòng. Loại khiêm tốn thứ nhất dạy ta biết rằng ta chẳng là gì cả, chúng ta chỉ học biết do chính chúng ta và do sự yếu đuối của chúng ta mà thôi. Với sự khiêm tốn thứ hai, chúng ta chà đạp vinh quang của thế gian, và chúng ta được học biết từ chính Ðấng tự huỷ mình đi, mang phận tôi đòi; khi người ta muốn tôn Ngài lên ngôi thì Ngài lánh đi; còn khi được gọi chịu mọi thứ hành hạ và nhục hình trên thập giá thì Ngài đã vui lòng tự hiến. ---------------------------
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nỗ lực sống thánh thiện, lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, đồng thời luôn luôn tỉnh thức và không ngừng cầu nguyện, là những việc làm không thể thiếu được trong việc chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng sinh. Với tâm tình thiết tha trông đợi ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Hội thánh có sứ mạng công bố cho toàn thể thế giới biết rằng / Chúa Giêsu Kitô là Ðấng cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi nước mọi dân / biết chân thành đón nhận lời công bố của Hội thánh.
Trên thế giới ngày nay / nạn kỳ thị chủng tộc vẫn đang hoành hành ở nhiều nơi / đem đến vô vàn đau khổ cho những người bị kỳ thị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / biết lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
Tửu sắc là nguyên nhân gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình / biết bao tội ác trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đắm chìm trong tửu sắc / biết mau mắn thức tỉnh / đổi mới đời sống / để đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu / và nhất là để đón mừng ngày Ngôi Hai xuống thế làm người.
Thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn cố gắng sống thánh thiện / nhất là sống bác ái yêu thương trong khi chờ đợi ngày Ðức Kitô ngự đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thành tâm lắng nghe / và tích cực thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế: Lạy Chúa là nguồn mọi ơn phúc, chúng con đang thao thức trông chờ ngày Chúa Giêsu Kitô, con Một Chúa hằng ưu ái, xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị thật tốt tâm hồn, để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng sinh sắp tới. Chúng con cầu xin
Ngày xưa mỗi khi dân Do Thái bị các dân tộc láng giềng xâm lăng đàn áp, trong cơn cùng quẫn họ: MV 1-C63
Ngày xưa mỗi khi dân Do Thái bị các dân tộc láng giềng xâm lăng đàn áp, trong cơn cùng quẫn họ kêu cầu cùng Chúa, và Chúa đã sai người đến giải cứu họ. Đấng mà Chúa gởi tới, được gọi là Đấng Thiên Sai (Massiah, Kitô), Đấng được xức dầu để thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao. Trong lịch sử dân Do Thái, Môsê và các thẩm phán như Samson, Đêbôra, Samuel là các vị Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ.
Thời của Đức Giêsu, người Do Thái cũng đang bị người Roma đô hộ, nên họ cũng mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Cứu Tinh để giải phóng họ. Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, được sai tới không chỉ để cứu giúp dân Do Thái mà thôi, mà còn giải phóng cứu giúp tất cả mọi người mọi dân nước; và không phải để giải phóng con người khỏi nô lệ chính trị, nhưng để giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi và ma qủy.
Ngài sẽ tới trong vinh quang
Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể để sống với con người, chia sẻ thân phận con người. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể, không phải chỉ trong một thời gian, nhưng Ngài vĩnh viễn là người. Đức Giêsu là người thật, và là Thiên Chúa thật.
Ngài đã bị giết và đã sống lại, và vẫn ở với con người “Này đây Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20) dù con người không thấy Ngài, nhưng có ngày Ngài “sẽ trở lại trong vinh quang”, nghĩa là, ngày đó con người sẽ thấy Ngài. Đó là ngày Ngài “quang lâm”, ngày tận thế, ngày có trời mới đất mới.
Kitô-hữu ngày nay không mong chờ Chúa tới “trong máng cỏ hang lừa” nữa. Máng cỏ hang lừa là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã tới và ở với con người, và mời gọi con người ngày nay cũng phải có thái độ mong chờ Thiên Chúa như người Do Thái ngày xưa mong chờ Chúa. Ngày nay kitô-hữu phải mong chờ Chúa tới trong vinh quang, ngày có trời mới đất mới, ngày Chúa giải phóng con người khỏi mọi hậu qủa của tội. Chính vì thế “hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì ơn cứu độ đã gần đến” (Lc.21, 28).
Thái độ phải có khi chờ Chúa đến
Tôi có mong chờ ngày Chúa đến không? Nếu tôi không sống đúng như con Chúa, tôi sẽ không mong chờ Chúa đến. Nếu tôi bám víu vào những thực tại trần gian, tôi cũng không mong chờ Chúa đến.
Ngày của Chúa, không ai biết trừ Chúa Cha (Mc.13, 32). Nên chúng ta phải sẵn sàng chờ ngày Chúa tới trong vinh quang. Ngày đó không ai biết, và con người của mọi thời đại đã chờ, nhưng ngày đó vẫn chưa tới, và có một số người nghĩ rằng ngày đó không tới vào thời của mình. Cũng có thể như vậy, chúng ta không biết. Và như vậy, chúng ta đừng tin vào ai loan báo ngày đó tới. Họ có thể mạo danh thánh này thánh kia để nói, và có thể họ mạo danh nói rằng Đức Mẹ nói như vậy. Về điều này, Đức Giêsu cũng không biết và Đức Mẹ cũng không biết. Chúng ta không được nại vào uy quyền nào hơn Lời của Thiên Chúa, chúng ta không được tin vào ai hơn tin vào Đức Giêsu. Đức Giêsu đã nói không ai biết, vậy ai dám nói mình biết hoặc khẳng định ai đó biết?
Có thể vào thời đại tôi Chúa không “đến trong vinh quang”, nhưng Ngài vẫn tới với tôi trong giờ chết. Và giờ này ít ai biết được. Tôi không biết chính xác ngày giờ nào tôi chết. Một tích tắc trong tai nạn xe cộ, máy bay, chất nổ, v.v... Tôi phải sẵn sàng để đón Chúa tới với tôi vào giờ chết. Tôi có sẵn sàng nếu trong ba phút nữa Chúa gọi tôi về với Ngài không?
Chúa cũng có thể đến với tôi, gặp gỡ tôi vào giờ tôi thinh lặng cầu nguyện. Chúa có thể đến và hiện diện với tôi qua tha nhân, qua những người khốn khổ cần tôi giúp đỡ... Tôi có muốn gặp gỡ Chúa không, tôi có sẵn sàng đón nhận Chúa tới qua những biến cố thường ngày, và qua tha nhân không? Tôi có mong gặp gỡ Chúa trong giờ cầu nguyện không?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Theo bạn, con người ngày nay có mong chờ Chúa tới không? Tại sao?
Qua việc xét mình hằng ngày, bạn có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong ngày sống của bạn không? Xin bạn chia sẻ cách lượng giá ngày sống (xét mình) của bạn.
Theo Kinh Thánh, Sam-son là vị thủ lãnh của Dân Do-thái, có sức mạnh phi thường, trở thành: MV 1-C64
Theo Kinh Thánh, Sam-son là vị thủ lãnh của Dân Do-thái, có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh. Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự lại một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.
Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt tư bề, trong tay không một tấc sắt, Sam-son may mắn chộp lấy một chiếc xương hàm của con lừa gần đó và dùng vật nầy như khí giới quật chết rất nhiều đối thủ xông vào tấn công ông. Sức mạnh kinh hồn của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ.
Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế. Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ Phi-li-tinh có nhan sắc mặn mà và đầy lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đa-li-đa gạn hỏi Sam-son do đâu anh có sức mạnh phi thường. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.
Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến tóm lấy anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét đôi mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay (xay lúa) như một con trâu ngoan.
Một Sam-son vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn tay không quật ngã và xé xác con sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quan quân Phi-li-tinh phải táng đởm kinh hồn, giờ đây trở thành một tù nhân mù loà, tay chân phải mang xiềng xích, trở thành một tên nô lệ ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay!
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Chỉ vì không sáng suốt tỉnh táo trước mưu độc của quân thù, vì thiếu tỉnh thức nên Sam-son đã sa vào cạm bẫy và lãnh lấy hậu quả vô cùng đau thương.
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư! Một thực tế đau lòng là so với các đồ vật khác, thì con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Một con thuyền mong manh ọp ẹp cũng thách thức được với sóng gió suốt nhiều năm tháng dài. Một cái bàn, cái tủ được sử dụng cả năm chục năm vẫn còn tốt, có khi càng lâu năm thì càng lên nước và đáng quý hơn. Trong khi đó, con người tuy là tạo vật thượng đẳng nhưng rất mỏng dòn yếu đuối, dễ thối dễ hư!
Thảm kịch Sam-son tuy đã xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn mang tính thời sự vì nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình thuật lại vô số cảnh đời sa đoạ dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức đồi truỵ khác... Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn. Người ta thường bảo: "khôn ba năm, dại một giờ", nhưng có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ! Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Đáng sợ thay!
Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: "Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!. .. hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: "những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" trong nay mai. (I Corinto 10,12)
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình. Con người trở nên cao quý là do phẩm chất cao đẹp của mình. Một người dù nghèo xác nghèo xơ, nhưng có tâm hồn cao thượng và phẩm chất tốt, thì vẫn là người có giá trị cao, đáng được mọi người mộ mến. Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm tiêu tan giá trị và phẩm chất cao đẹp của con người. Mỗi người chúng ta quý giá hơn những viên kim cương đắt giá nhất trần gian, nhưng có khác với kim cương là con người lại có thể bị thoái hoá, biến chất, trở thành như một viên sỏi tầm thường bất cứ lúc nào.
Vì lúc nào con người cũng mê muội và dễ chìm đắm, thế nên lời nhắn nhủ "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!... Hãy đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề u tối... là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần. Lạy Chúa, biết đến bao giờ Lời Chúa mới cảnh tỉnh được con và lôi con ra khỏi vũng lầy êm ái?
Để chờ đón ai đó đến nhà của ta, ta cần phải có một số việc phải chuẩn bị. Chuẩn bị tất cả: MV 1-C66
Để chờ đón ai đó đến nhà của ta, ta cần phải có một số việc phải chuẩn bị. Chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để chào đón vị khách quý đến trong nhà chúng ta. Thời gian chuẩn bị, thời gian chờ đợi nó có cảm giác làm sao đó. Nếu khi khách đến nhà thấy chủ nhà chờ đợi trong tâm trạng sẵn sàng đón tiếp sẽ vui hơn khi chủ nhà đang trong tâm trạng thờ ơ hững hờ. Trong thời gian chờ đợi mà chủ tiệc đi nằm nghỉ hay làm việc khác mà không chờ khách mà khách đến bất thình lình thì ắt hẳn khách cũng chẳng vui với thái độ thờ ơ của chủ tiệc.
Chúng ta mời ai đó đến nhà chúng ta dự tiệc dĩ nhiên chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng nhưng có thể hôm đó trời mưa hay hôm đó gặp nước thuỷ triều dâng hoặc nữa là rơi vào trong cái vòng xoáy của kẹt xe thì khách mời sẽ không đến đúng giờ như lòng ta mong muốn được. Có những bữa tiệc chờ đợi cả giờ đồng hồ khách mới có thể đến và mới bắt đầu nhập tiệc được. Kẻ đợi người đến chẳng ai mong cả nhưng rồi phải đón nhận cái thực tế ấy.
Chờ đợi khách đến dự tiệc đã quan trọng còn việc chờ Chúa đến quan trọng hơn cả chờ khách. Khách đến chỉ giải quyết vấn đề niềm vui, niềm hãnh diện của gia đình còn Chúa đến là giải quyết vấn đề sinh tồn, vấn đề ơn cứu độ của đời ta. Chúa đến không như khách, Chúa đến thật bất ngờ và cũng hoàn toàn bất chợt không hề báo trước để rồi mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng, phải đứng vững và ngẩng đầu chờ Chúa.
Tâm trạng chờ đợi Chúa đến trong thực tại cuộc sống này hết sức thực tế và ý nghĩa với cuộc sống hiện tại.
Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu đến vào lúc mà chúng ta chẳng thể nào ngờ được để rồi có nhiều thái độ, nhiều tâm
tình khi Chúa đến: kẻ thì say ngủ, người thì bận bịu với biết bao nhiêu công việc.
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa được nghe công bố nói về sự kết thúc của “thời các dân ngoại” và sự xuất hiện của ngày chung thẩm nhân loại. Thánh Luca gợi lại ý tưởng về “những dấu chỉ” và những điềm tự trời được nói ở câu 11, song với nhân quan của sự xuất hiện.
Thánh Luca đã trình bày minh bạch rằng những chi tiết cánh chung đó không có nối kết với biến cố hủy diệt Giêrusalem hoặc với bất cứ thời điểm lịch sử nào. Nếu có đức tin vững chắc vào chiến thắng cánh chung sẽ luôn là sự nâng đỡ tuyệt vời cho người môn đệ ở mọi thời, nhất là trước những thử thách. Vì thế ngôn ngữ ở trình thuật Tin mừng hôm nay vọng vang âm hưởng ngôn sứ.
"Sẽ có điềm lạ..." (c. 25) Thánh Luca phân biệt rõ ràng giai đoạn sau cùng này và thời thảm họa có trước (x. nơi Thánh Matthêu và Thánh Maccô, không thấy sự minh bạch đó).
Theo văn chương khải huyền, những dấu chỉ trong hoàn vũ về mặt trời, mặt trăng, tinh tú vv ... gợi nhắc ngày thẩm phán sau cùng (x. Is 13,10; 34,4-6; Gr 4,23-24; Ed. 32,7-8; Gc 2,10; Tv 65,8. Lồng kết trong bối cảnh khải huyền của các lời ngôn sứ, trình thuật này ở Thánh Luca gợi nhắc sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa nơi thế giới này để giải thoát nó khỏi quyền lực ác và thiết lập Nước Thiên Chúa.
Thánh Luca nhấn mạnh hơn đến phản ứng, đến thái độ, đến tâm tình của con người trước viễn ảnh chung cuộc này (c. 25b-26): cuộc cánh chung trước tiên đó là một “màn cảnh diễn xuất” của con người.
"Con Người đến trong đám mây" (c. 27) Thánh Luca bỏ câu văn Mc 13,27 nhằm lôi kéo mọi chú ý về sự xuất hiện khải thắng của Đức Kitô . Hình ảnh này cũng đã từng được phác họa nổi bật ở truyền thống khải huyền, nhất là ở Đanien 7,13-14: “Tôi mãi nhìn các thị kiến ban đêm, thì này với mây trời như thể một Con người đi đến... Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân, các nước, các tiếng nói phải làm tôi Người. Quyền bính của Người sẽ không lay chuyển.
Những hình ảnh khải huyền đó diễn tả sự uy nghi thần thiêng của Đức Kitô. Người không còn xuất hiện “trong yếu đuối” của thân phận làm người trần thế, song với tất cả sự cao cả, huy hoàng của một Thiên Chúa: của con Thiên Chúa được tôn vinh.
Hãy đứng thẳng và ngẫng đầu lên vì ơn cứu rỗi gần rồi (c. 28) Đây là một lời mời gọi đầy khích lệ. Những điềm kinh khủng nơi hoàn vũ sẽ làm khiếp sợ “các quốc gia” song đem lại hy vọng cho những ai theo Đức Kitô. Đây là lúc thời điểm bách hại thử thách đã chấm dứt: Ơn cứu rỗi của họ gần rồi. Hạn từ ơn cứu rỗi là ngữ vựng “đặc sắc” của thánh Phaolô (1 Cr 1,30: Rm 3,24; 8,23; Cl 1,14 vv...). Thánh Luca sử dụng ngữ vựng ơn cứu rỗi ở đây với ý nghĩa: bằng những hành vi quyền lực, Thiên Chúa giải phóng dân được chọn. Dù được diễn tả khác, những “dấu chỉ” này trước Ngày Chung tận không trái ngược với cách miêu tả ở Lc 17, 20t và 21, 34t. “Ngày sau hết” sẽ được báo trước bằng các “dấu chỉ”, và rồi Con Người sẽ xuất hiện đột xuất như “ánh chớp”.
"Nước Thiên Chúa đến gần" (c. 29-33)Trong dụ ngôn nhỏ này, chúng ta vẫn nhận ra những “nét” riêng của Thánh Luca: công thức dẫn nhập quen thuộc ở câu 29a và chi tiết biên soạn thêm “mọi cây khác” (c. 29b) nhằm cho giới độc giả Hy lạp không sống ở Palestina. Với dụ ngôn này, Thánh Luca triển khai và giải thích ý nghĩa câu 28 trước: “ơn cứu rỗi đã gần” .
Các ngươi hãy biết rằng Nước Thiên Chúa gần bên (c. 30-31) Khi chúng đâm chồi nảy lộc, các ngươi biết là mùa hè gần bên. Cũng vậy khi thấy các điều ấy, hãy biết Nước Thiên Chúa gần bên. Mc 13,28 và Mt 24,32 diễn tả: “Con Người” đã gần bên, so sánh với câu 28: ơn cứu độ đã gần. Như vậy, trong khi Thánh Maccô và Thánh Matthêu nói về biến cố cánh chung thì Thánh Luca diễn tả biến cố đó qua hình ảnh Nước Thiên Chúa. Bởi vì trong nhân quan thần học Thánh Luca, không phải đến lúc cùng tận đó, Con Người mới đến khai mở Nước Thiên Chúa; Người đã khai mở rồi (Lc 12,20; 17,21) và sẽ dứt khoát thiết lập một cách viên mãn nước đó vào thởi điểm tối hậu này.
Vậy làm sao nhận ra Nước Thiên Chúa đến? Làm sao biết Con Người xuất hiện gần kề? Nhờ vào những “điềm” khủng khiếp loan báo sự tận cùng. Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh cây vả nhằm nhấn mạnh đến các dấu chỉ của thời cứu độ (chứ không muốn miêu tả sự khủng khiếp của lúc chung tận). Ở Palestina, cây vả phân biệt với các cây khác như ôliu, cây sồi vv... Nó rụng hết lá vào mùa đông và có vẻ như khô chết. Bởi đó, khi nó đâm chồi nảy lộc, người ta dễ thấy hiện tượng này. Những mầm non cây vả đâm chồi từ vẻ bên ngoài khô chết (biểu tượng cho mầu nhiệm về sự chết và sự sống) là những dấu chỉ báo trước mùa hè.
Chúa Giêsu nói: cũng thế Đấng Thiên Sai có những dấu chỉ báo trước. Hãy nhìn chúng: Kìa cây vả bắt đầu mọc xanh tươi, các mầm non nảy lên: mùa đông đã qua và mùa hè gần tới. ân Thiên Chúa được khơi dậy đến một cuộc sống mới. Thời điểm chung cuộc bắt đầu và Con Người đang gõ cửa (Kh 3, 20). Thời gian cứu độ đã đến, bởi chưng Con Người đã đến gần.Những gợi nhắc đó rất phù hợp với thần học Thánh Luca về các thời điểm trong lịch sử cứu độ. Sau khi Giáo hội trãi qua những mùa đông khô héo, đầy thử thách, thì Nước Thiên Chúa gần bên. "Thế hệ này sẽ không qua" (c. 32): Cách diễn tả của Thánh Luca “thế hệ này” có ý nghĩa rộng chỉ “nhân loại” nói chung. Vì chưng, lời khẳng định của thánh ký không liên kết với thời điểm cụ thể mà có giá trị mọi thời, Thánh Luca không đề cập đến vấn đề thời gian (x. Mc 13,32).
Hãy tỉnh thức (c. 34-36): Đây là phần kết luận của toàn diễn từ cánh chung. Trình thuật gợi lên một lời khuyên nhủ về sự tỉnh thức; xét về phương diện văn chương, đây là một biên soạn đậm nét văn hóa Hy lạp và chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng của Thánh Phaolô: so sánh câu 34 với 1 Tx 5,1-37 câu 33 với 1 Tx 5,8t.
Các ngươi tự cảnh giác (c. 34-35): Người Kitô hữu phải luôn biết cảnh giác đề phòng chống lại sự bận tâm thái quá và hơn nữa chống lại sự mất hút vào công việc trần thế (x. Lc 8, 14; 12, 22; 17,26-30). Bởi chưng, ngày cùng tận sẽ đến bất chợt như 1 “bẫy lưới” (x. Is 24,17). “Ngày ấy” (c. 35), ngày thẩm xét, là một góc cạnh khác của “ngày cứu độ” (c. 28). Nó sẽ xông đến bất thình lình trên toàn dân cư khắp mặt đất hết thảy, gợi nhắc lại tính phổ quát của sự xét xử chung cuộc.
"Cầu nguyện xin cho có sức " (c. 36): Đây là một chủ đề nổi bật của Tin Mừng Luca (x. Lc 18,1; 24,53; 18,7; Rm 1,9-10; 1 Cr 1,4; Ep 5,20; Pl 1,3-4; Cl 1,3; 4,12; 1 Tx 1, 2-3; 3,10; 1 Tm 5,5; Kh 4,8; 7,15 vv...).Những thử thách sẽ bất chợt vây bủa mỗi người, họ cần tỉnh thức luôn. Tuy nhiên, mỗi người sẽ “có phần” ở thời sau hết này. Và cuộc sống hôm nay của họ sẽ quyết định số phận “trước mặt Con Người”. Quyết định, thái độ của con người được thánh Phaolô nhắc nhở trong thư của Ngài gửi giáo đoàn Thessalônica mà chúng ta vừa nghe: Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.
Không chỉ nói đến phúc lành mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta trong ngày quang lâm mà Thánh Phaolô còn chỉ dạy chúng ta cách sống nữa: anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa.Thánh Phaolô đã khuyên dạy mỗi người hãy sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Thái độ, tâm tình đẹp lòng Thiên Chúa đó phải chăng là thái độ ngẩng đầu và tỉnh thức trong ngày Chúa đến như trong Tin mừng hôm nay.
Xin cho Chúa cho chúng ta dù mãi mê với thế sự thăng trầm này nhưng lòng vẫn khăng khít với giá trị vĩnh cứu ở trên trời.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ngẩng đầu và tỉnh thức để chờ đón Vua Vĩnh Cửu đến với đời ta bất cứ lúc nào và xin Vua Vĩnh Cửu cũng cho ta vào Vương Quốc của Ngài để cùng hưởng vinh quang như Ngài đã từng hứa.
Chúng ta bắt đầu Năm Mới theo Lịch Phụng Vụ Giáo Hội từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng: MV 1-C67
Chúng ta bắt đầu Năm Mới theo Lịch Phụng Vụ Giáo Hội từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng. Mùa Vọng, ngày xưa thường gọi là “Mùa Áp” (theo tiếng Latinh là Adventus, ra tiếng Anh là Advent; từ động từ Advenire, có nghĩa là “đến gần”). Trong lịch Phụng Vụ của Giáo Hội Việt Nam bây giờ gọi là “Mùa Vọng”, với ý nghĩa là Mùa “trông đợi”, “mong chờ”.
Vậy Mùa Vọng là thời gian 4 tuần lễ để chúng ta chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng trong niềm mong chờ mừng Lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới. Tuy nhiên, phụng vụ Mùa Vọng cũng nói với chúng ta, qua các Bài Đọc Sách Thánh trong các Thánh Lễ, hãy chuẩn bị tâm hồn trong sự chờ đợi Chúa đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào lúc chúng ta “qua khỏi đời nầy” (qua đời) và đó là lúc “chúng ta không ngờ!” Đồng thời Mùa Vọng cũng hướng tâm trí chúng ta về ngày “cuối cùng của thế giới này,” “ngày tận thế,” “ngày phán xét chung.” Ngày đó cũng là “ngày không ngờ,” chẳng ai biết được trước, ngày mà “các tầng trời rung chuyển, mặt trời ra tối tăm,” ngày mà Thiên Chúa sẽ ngự đến trong vinh quang để thưởng người lành, phạt kẻ dữ. Như vậy, đối với các tín hữu, ngày đó không đáng kinh khiếp, nhưng là ngày giải thoát để bước vào miền hạnh phúc viên mãn của cuộc sống ‘trường sinh, vinh hiển’ trong một “Trời Mới và Đất Mới” nơi Công Lý ngự trị (Xin xem Isaia 65:17, 66:22; Khải Huyền 21:1-4; 2 Phêrô 3: 10-13).
Hôm nay, trong bài Phúc Âm (Chúa Nhật I Mùa Vọng, Năm C: Luca 21:25-28,34-36), Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta về những “Điềm Lạ” vào ngày cuối cùng của thế giới và việc Thiên Chúa sẽ đến “ trên đám mây, đầy quyền năng và uy linh cao cả” để phán xét chung , thưởng người lành, phạt kẻ dữ. Nhưng đối với những ai có lòng tin nơi “Đấng Cứu Thế” “Đấng Công Chính” mà muôn dân trông đợi (Xin xem Bài Đọc I: Giêrêmia 33: 14-16) thì không cần sợ hãi. Trái lại “hãy đứng dậy và ngửng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã gần kề.” Miễn là chúng ta phải luôn luôn cảnh tỉnh, đừng “chè chén say sưa, đừng qúa lo lắng việc đời,” nhưng hãy luôn ‘tỉnh thức’ và cầu nguyện.
Trong Bài Đọc II (1 Tessalonica 3:12-4:2), Thánh Phaolô cũng kêu gọi chúng ta hay luôn sống hòa hợp yêu thương với mọi người và bền vững trên đường thánh thiện để không có gì “đáng trách trước mặt Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến cùng với tất cả các Thánh.”
Vậy trong tinh thần “dọn đường Chúa đến,” chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau để mỗi người cùng biết nhìn nhận chính mình là con người yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội, sống khiêm tốn, hòa hợp yêu thương để Nước Bình An của Chúa có thể đến trong tâm hồn mỗi người, mỗi gia đình và lan tỏa ra trên toàn thể thế giới chúng ta. Để đến ngày mừng Chúa Gíáng Sinh, chúng ta có thể cùng với các Thiên Thấn ca hát:
‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy ra trong vũ trụ Chúng con hãy đứng dậy: MV 1-C68
“Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy ra trong vũ trụ Chúng con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên,vì giờ cứu rỗi đã gần đến… Chúng con hãy giữ mình,kẻo lòng ra nặng nề.. Chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn…”
Những điềm triệu của thế gian đã và đang như là lời cảnh tỉnh của Thiên Chúa gởi đến con người để vừa nhắc nhở,vừa kêu gọi sự hóan cải,và cũng vừa mời gọi mọi người mau quay về lại với Thiên Chúa,Đấng có thể giải thóat tất cả chúng ta khỏi mọi sự dữ và để “đứng vững trước mặt Con Người”.
Chúa tiên báo những điềm lạ sẽ xuất hiện, có cả việc đảo lộn mặt trời mặt trăng,muôn tinh tú và gây kinh hãi cho mọi người.Chúa qủa quyết những điều đó sẽ xảy đến không phải để đe dọa, nhưng muốn mọi người hãy canh phòng,cảnh gíac và nhất là tỉnh thức,cầu nguyện để sẵn sàng ra trình diện với Đấng sẽ xuất hiện đầy quyền năng và uy nghi trên các tầng mây.
Hãy giữ mình: không chè chén say sưa, quá lo lắng việc đời nhưng cần có sự tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả là những thái độ khôn ngoan của những kẻ“biết nhìn xa trông rộng”,biết lo xa cho chính thân phận mình.Hãy giữ mình,bởi chẳng có ai sống thay cho ai được và cũng chẳng có ai giữ mình cho ai được; và mỗi ngưỡi hãy tự lo cho mình.
“Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên”.Chúa muốn tất cả mọi người hãy sống hiên ngang với niềm tin của mình,không hèn nhát,không nhu nhược,chấp nhận mọi thử thách và sẵn sàng đối đầu với mọi khó khăn.
Bước vào Mùa Vọng,một năm phụng vụ mới,lại là những cơ hội mới để từng người chúng ta nhìn lại mình,tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết cho cuộc hành trình của đời mình.Chúa sẽ đến và tôi,tôi sẽ làm gì cho Ngài để Ngài không phải lủi thủi ra đi khỏi cuộc đời tôi như những năm trước và nhiều năm trước đó.Hãy sống thế nào cho đẹp lòng Chúa bằng đời sống tận tụy yêu thương trên con đường thánh thiện,và xin anh em cứ tiến thêm nữa (1 Thess 4,2)
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa,Chúa muốn tất cả chúng con hãy hiên ngang sống,ngẩng đầu lên mà sống với niềm tin,với niềm kiêu hãnh,với sự tự tin của những người con cái Chúa.Xin giúp chúng con luôn biết giữ mình sống xứng đáng, tỉnh thức và cầu nguyện luôn, “để luôn xứng đáng trước mặt Con Người”. Amen.
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh: “Mùa: MV 1-C69
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của năm Phụng vụ mới. Theo ý của Hội thánh: “Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng sinh, là lễ kính nhớ Con Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa là mùa mà qua cuộc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi”(Những qui luật tổng quát về năm Phụng vụ và niên lịch, số 39).
Chúa nhật I Mùa Vọng mở đầu cho năm Phụng vụ mới. Mở đầu mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi, Lời Chúa hôm nay nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa là ban Đấng Công chính cho Israel. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho 4000 năm dân Do thái mong đợi Đấng Cứu thế. Lời hứa ấy đã được thực hiện trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và được Đức Maria sinh ra tại hang đá Be lem. Hằng năm chúng ta vẫn mừng biến cố vĩ đại này: Lễ Chúa giáng sinh.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi người tín hữu hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tấn tới hơn nữa trong đời sống Đức ái đối với Chúa và tha nhân để đón chờ ngày Chúa Kitô “lại đến” trong vinh quang. Ước gì trong ngày Chúa đến, chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”, vì ơn cứu rỗi chúng ta đã đến.
I. Ý NGHĨA MÙA VỌNG.
1. Mùa Vọng .
Ngày xưa ta gọi mùa này là Mùa AtÙ, có lẽ do chữ Adventus của tiếng La tinh có nghĩa là việc Chúa đến. Ngày nay ta gọi mùa này là Mùa Vọng. Mùa vọng có nghĩa là thời gian trông mong, hướng về, chờ đợi Chúa đến.
* Cả Cựu ước là Mùa Vọng.
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người , Thiên Chúa không nỡ bỏ rơi con người dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu thế (St 2,15). Ai tin vào Thiên Chúa Tình yêu và sống trong tình yêu là sống trong Vương quốc của Ngài. Trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa đã nhiều lần lặp lại lời hứa này với các tổ phụ và tiên tri. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Chúa sống niềm tin tưởng phó thác qua giòng lịch sử.
* Cả cuộc sống Giáo hội là một Mùa Vọng.
Lời hứa của Chúa đã được thực hiện, Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu đã giáng trần, sống trong kiếp người, đã chịu chết và sống lại, về trời cùng Thiên Chúa Cha và loan báo sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Do đó, toàn thể đời sống của Giáo hội hướng về ngày Quang lâm của Đức Giêsu. Vì thế, Giáo hội thường xuyên kêu lên: Maranatha, Lạy Chúa Kitô, xin ngự đến.
* Cả cuộc sống từng người cũng là một Mùa Vọng.
Chúng ta cùng Giáo hội đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai. Nhưng Chúa có thể đến riêng với chúng ta lần thứ hai trước ngày tận thế, nghĩa là đến gọi chúng ta ra đi trong ngày kết thúc cuộc đời mình. Chúng ta được mời gọi sống tinh thần Mùa Vọng trong mỗi giây phút của cuộc đời.
2. Mùa Vọng đối với chúng ta.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến. Chúa đến thế gian này hai lần: lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ hai chưa đến, nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế Mùa Vọng có 2 ý nghĩa:
Nhìn về phía sau: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố trọng đại lần thứ nhất cách đây 2000 năm, Ngày Chúa giáng trần.
Nhìn về phía trước: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Ta không biết khi nào Chúa đến, có thể là còn lâu, có thể là đến nơi rồi vì Ngài đã nói giờ đó đến bất ngờ như kẻ trộm, hoặc như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Đó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
II. CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN.
1. Chúa đến lần thứ nhất.
Thực sự, Chúa đã đến với nhân loại lần thứ nhất tại hang đá Be lem, nghĩa là Chúa nhập thể làm người cách đây 2000 năm. Lúc này đây chúng ta đang sống trong mầu nhiệm làm người của Đức Giêsu. Tất nhiên chúng ta không thể sống một tâm tình như thể Chúa chưa giáng trần. Nhưng chúng ta sống lại những tâm tình của dân Do thái mong đợi Chúa đến, để lúc này đây công cuộc nhập thể cứu chuộc của Chúa ăn sâu vào đời sống của ta, việc này đòi nhiều thời gian và ta sẽ phải làm suốt đời.
Trong suốt năm, chúng ta sẽ được sống trở lại toàn bộ những câu chuyện của Ngài. Nhưng chúng ta đã nghe kể về những câu chuyện đó nhiều lần. Do đó, có nguy cơ là chúng ta có thể xem những câu chuyện đó là cũ rích, nhàm chán. Hãy cố gắng và nhìn nhận rằng đó là những câu chuyện vẫn còn mới mẻ, hiện đang tồn tại và sống động. Điều này không giống như việc xem một cuốn băng video cũ. Việc cử hành mỗi ngày lễ mang từng sự kiện trở lại, trong sự sáng tỏ và sinh động của nó, không bao giờ chúng ta được mặc cho ngày lễ đó trở nên lạnh lẽo, mất sức sống, hoặc chìm vào quên lãng.
Ngoài ra, chúng ta không phải là khán giả, nhưng là những tác nhân trong toàn bộ ngày lễ này. Những mầu nhiệm về cuộc đời của Đức Kitô được trình bầy theo cách thế khiến chúng ta được lôi cuốn, và trở nên những nguời tham dự vào những mầu nhiệm đó. Điều này làm cho ngày lễ mang tính cách đòi hỏi hơn, nhưng cũng phong phú hơn và đem lại phấn khởi hơn. Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa của quá khứ, nhưng còn là của hiện tại và tương lai nữa (Flor McCarthy).
2. Chúa đến lần thứ hai.
Hôm nay các bài đọc đều tập trung vào ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và là ngày tận thế. Các Kitô hữu tiên khởi tin rằng ngày Đức Kitô đến lần thứ hai đã gần kề, và sẽ được báo trước bằng những dấu hiệu về thiên văn. Chúng ta không biết chắc chắn về điều đó. Nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng, khi lịch sử kết thúc, Đức Giêsu sẽ đến trong vinh quang để đến phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày chung thẩm.
Trước lời hứa trở lại của Chúa, người ta đem ra nhiều lý luận và suy đoán viển vông. Khi nào nó xẩy đến, xẩy đến như thế nào, chúng ta không đuợc biết. Nhưng một điều chân thật lớn lao sẽù phát xuất là lịch sử đang tiến tới một chỗ nào đó. Có một số người – các triết gia phái Khắc kỷ coi lịch sử là một vòng tròn. Họ tin rằng cứ mỗi 3000 năm hoặc khoảng như thế, vũ trụ lại một lần bị thiêu đốt, rồi sau đó bắt đầu lại, lịch sử lại tái diễn. Có nghĩa là lịch sử chẳng đi đến đâu cả và loài người cứ bước đi loanh quanh như một cối xay vĩnh cửu. Còn người Kitô hữu chúng ta tin rằng lịch sử có cùng đích và tại cùng đích đó Chúa Cứu Thế Giêsu sẽ làm chủ tể mọi sự mọi loài.
Đức Giêsu đã nói rõ ngày tận thế sẽ xẩy ra bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”(Lc 21,35), như chiếc lưới chụp xuống đàn chim đang ăn mồi, như chiếc lưới chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Nhưng có những người lại dám tự mình cho mình biết rõ ngày tận thế, ấn định ngày tận thế và loan báo cho tín đồ của họ phải chuẩn bị cho ngày đó.
Truyện: Tận thế ở Đại hàn.
Hồi cuối tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn người Hàn quốc thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ ở nhiều nơi trong nước để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái lâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này: ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28.10.1992. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu:”Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời” . Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy ra. Một cuộc tự sát như thế có thể xẩy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng C, tr 4).
3. Chúa đến giữa hai lần: giờ chết.
Chúa lại đến để đưa lịch sử loài người đến cùng đích và tất cả loài người đều phải trình diện trước Thiên Chúa, nhưng cũng có thể mỗi người phải trình diện Thiên Chúa khi kết thúc cuộc đời lữ hành trên trần gian này.
a) Cuộc đời chóng qua.
Cuộc đời con người rất bấp bênh giống như con tầu đi trên mặt biển. Tuy con tầu có vẻ to lớn và rất chắc chắn, không gì có thể làm cho nó chìm được, nhưng con tầu sánh đâu được với biển cả. Số phận con người cũng thế, thật mỏng manh:”Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi , nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích (đáp ca lễ an táng)..
Truyện: chiếc tầu Titanic.
Con tầu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn. Con tầu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại tây dương để đến New York là thành phố lớn nhất, giầu nhất thế giới hồi đó. Họ tưởng đi trên con tầu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gẫy đôi chôn sống hơn 1500 người vào ngày 14.04.1912 (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, C, tr 6).
Cái chết thường đến đột ngột bất ngờ. Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu đã nói rõ điều ấy:”Các con hãy tỉnh thức vì các con con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào giờ này, ngày này. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Ví dụ: mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu ; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn… Đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù, giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
b) Chuẩn bị cho tương lai.
Sống ở trên đời, mỗi người phải đặt ra những thắc mắc, những ưu tư và phải tìm ra câu giải đáp. Ưu tư của chúng ta là khi rời bỏ thế gian này rồi sẽ ra sao ? Chính vì vậy cổ nhân đã đưa ra cho chúng ta 3 câu hỏi và phải tìm ra câu giải đáp:
Nhân sinh hà tại: con người bởi đâu mà đến ?
Tại thế hà như: đến để làm gì ? Hậu thế như hà: sau này sẽ ra sao ?
- Con người bởi đâu mà đến? Thánh kinh viết:”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Do đó chúng ta biết con người do Thiên Chúa mà đến.
- Đến để làm gì? Thánh kinh đáp:”Con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và thương yêu đồng loại như mình”. Do đó, chúng ta lại biết con nguời đến để phụng thờ Thiên Chúa và giúp đỡ lẫn nhau.
- Sau này sẽ đi đâu? Thánh kinh lại minh chứng:”Ai nấy sẽ về nhà đời đời của mình”(Kn 12,5) và ở đó sẽ được thưởng theo công trạng mình đã lập được”(x. Mt 10,19 ; Lc 10,7).
c) Hãy học với thần chết.
Có câu chuyện về một người tên Cataneda tìm thầy học đạo, chàng đến với đạo sư Don Juan. Đạo sư chỉ cho anh một bí quyết: học với thần chết. Dĩ nhiên, chàng đệ tử không muốn nghĩ đến sự chết, anh chỉ muốn học hỏi những kiến thức kỳ lạ, những pháp thuật, nên đạo sư tỏ ra khó chịu, bèn bảo anh:”Con chớ nên bắt chước mọi người cứ nghĩ rằng mình chẳng bao giờ chết mà đòi làm những việc vĩ đại, kinh thiên động địa, vá trời lấp biển mà nên ý thức rằng Thần Chết là vị khôn ngoan nhất mà con sẽ gặp.
Truyện: Kinh nghiệm về sự chết.
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ôâng xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi:
Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để cho mọi người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
1. Hãy đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên
Ngày tận thế và ngày mỗi người phải ra đi khỏi trần thế này là một điều chắc chắn. Ngày đó là ngày đáng sợ cho mọi người, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì ơn cứu rỗi của chúng đã đến. Ngược lại, chúng ta còn phải phấn khởi và chờ đợi trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên.
* Hãy đứng thẳng là tư thế của con người can đảm. Đúng thế, đức tính can đảm là một điều kiện cần thiết để có sức mạnh mà đối phó với mọi nghịch cảnh, khó khăn và quyết liệt dứt khoát từ bỏ mọi quyến rũ bất chính. Thử hỏi một người hay lười biếng, nhát đảm, yếm thế cầu an thì làm sao lướt thắng được mọi khó khăn, chu toàn bổn phận và giữ vững luơng tri giữa bao thử thách cám dỗ !
* Hãy ngẩng đầu lên là tư thế của con người lạc quan, hy vọng. Bởi vì, ai biết sống lạc quan, hy vọng không những tăng thêm sức mạnh cho mình, mà còn giảm thiểu được những sai phạm. Và sống mà không có hy vọng lạc quan để nhắm tới mục đích thì không thể nào ra sức phấn đấu và cố gắng vươn tới được. Nhưng chúng ta hy vọng gì và hy vọng vào ai ? Tất nhiên ngoài Chúa ra và hạnh phúc đời đời thì tất cả mọi hy vọng khác chỉ là tạm bợ mau qua hoặc hão huyền mây khói mà thôi.
Vậy khi sống trên cõi đời này đầy bất trắc và lắm thử thách, chỉ có những ai biết tin tưởng phó thác nơi Chúa, chắc chắn họ sẽ có đủ can đảm vượt thắng gian nan và hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời giúp họ bền đỗ đến cùng.
Truyện: Hãy đứng thẳng.
Mới đây các nhà khảo cổ đã tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức. Nhiều xác chết đã được đào thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: có người chết khi đang ngủ trên giường, người khác chết đang khi ngồi bàn ăn uống. Đặc biệt người ta đào được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một cây giáo dài trong tay.
2. Hãy giữ lòng kẻo ra nặng nề
Chúa dạy chúng ta:”Các con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Chúa nhắc nhở ta phải canh chừng và đề phòng những lôi cuốn của thế gian nó làm cản trở tâm hồn bay lên. Ba điều cản trở được nhắc ở đây là: ăn uống thái quá, chè chén say sưa, lo lắng sự đời quá mức.
Truyện: Ham mê ăn uống.
Câu chuyện ngụ ngôn kể về một con chim ưng. Đang khi đói, nó bay qua một nông trại, nhìn xuống thấy biết bao nhiêu giun dế. Nó thèm lắm, nhưng lại sợ chết nên nó phải hạ cánh bay xuống sát mặt đất của nông trại để thương lượng với ông nông dân. Con chim ưng sẵn sàng đổi cho ông cứ mỗi cái lông lấy một con giun. Vì háu ăn, con chim đã ăn quá nhiều giun, và như thế nó cũng mất đi rất nhiều lông cánh tới độ nó không còn có thể bay lên cao được nữa. Dù nó nhận biết rằng thân phận của nó là phải bay trên bầu trời cao, nhưng những con giun đã làm cho nó mê muội rồi quên đi khung trời cao xanh ở trên, mà chỉ biết tới những con giun dưới đất.
3. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
Chúng ta hãy tỉnh thúc và cầu nguyện để đón chờ Chúa đến. Chủ đề này được lặp đi lặp lại trong Tin mừng dưới nhiều cách thức. Chẳng hạn ở một đoạn Tin mừng khác, Đức Giêsu nói:”Hãy coi chừng ! Hãy tỉnh táo ! Các con không biết được ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, vào buổi tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… Điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là “Hãy tỉnh thức”(Mc 13,33.35-36)
Nếu chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Ngài đến sẽ là một thú vị bất ngờ. Ngày đó chúng ta không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc”(Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu lên”(Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
4. Hãy sống đúng tinh thần Mũa vọng.
Sống mùa Vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống Mùa Vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và chung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự thách thức của những dấu lạ đó, hoặc tầm thường hóa chúng vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến mạng sống mình để cho thế gian được sống (Jean-Guy-Nadeau).
Phúc cho những ai nói lên được lời này khi Chúa đến:”Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức và cầu nguyện để khi Chúa đến, Ngài sẽ nói với chúng ta:”Hãy đến, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con”.
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, chúng ta hãy đọc lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ là Red Cloud miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy tỉnh thức và cầu nguyện:
“Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi. Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khẩn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn mầu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói.
Xin cho con ơn khôn ngoan để thấu hiểu những lời giáo huấn của Ngài; cho con biết khám phá ra bài học Ngài nhắn nhủ chúng con trong từng lá cây, viên đá.
Xin ban cho con sức mạnh không phải để con chế ngự anh chị em con, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay, và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi đi diện kiến Ngài”. Amen (Mark Link).
Người Việt Nam có câu “nước tới chân mới nhảy” thì quá trễ. Người Miền Trung và cao: MV 1-C70
Người Việt Nam có câu “nước tới chân mới nhảy” thì quá trễ. Người Miền Trung và cao nguyên trung phần Việt Nam đã quá thấm thía câu nói này qua cơn lũ lịch sử vào ngày 11 tháng 10 vừa qua. Bất ngờ đột ngột giông bão và cơn lũ đổ về đã khiến cho hàng trăm người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị xóa sổ, thậm chí cả một xóm Trường ở Phú Yên bị xóa sổ hoàn toàn. Cuộc đời có qúa nhiều cái đột ngột bất ngờ đã lấy đi biết bao tính mạng của con người. Bất ngờ xảy ra đối với con người trong mọi hoàn cảnh như: tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai nạn bởi thiên tai. Với biết bao cái chết đột ngột, bất ngờ khiến chúng ta cảm thấy cuộc đời thật mong manh, kiếp người sao quá mỏng dòn. Cuộc đời đến rồi đi dường như không theo tính toán của con người. Con người dường như bất lực trước định mệnh sống còn của cá nhân mình.
Người ta kể rằng: Có một tai nạn máy bay đã xảy ra và trong đám hành khách bị thiệt mạng, người ta tìm thấy một anh chàng văn sĩ. Anh chàng văn sĩ này, trước đó mấy tiếng đồng hồ, đã ba hoa hăng say nói với một người bạn tại phi trường Rôma về những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Anh chàng văn sĩ ấy nói: “Này bạn, bạn thấy trí óc con người tuyệt diệu đấy chứ... Sáng nay, tôi đã uống cà phê tại Bá Linh. Bây giờ là buổi trưa, tôi với bạn dùng cơm tại Rôma. Và tối nay, tôi sẽ đi nghe nhạc tại Paris”. Nhưng sự thật đã xảy ra khác hẳn. Tối nay chàng văn sĩ ấy đã xuất hiện trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, thay vì đi nghe nhạc tại một nhà hàng nổi tiếng của Paris.
Nhìn vào những gì đang diễn ra chúng ta thấy rằng: trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ “một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”.
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vi chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưỡi bất thần chụp xuống đầu anh em”. Vì thế, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Ngày xưa có một ông cụ già tên là Lót, ông cố cứu kinh thành Sô-đô-ma khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Thái độ của ông Lót phải chăng cũng là thái độ cần có của người ky-tô hữu chúng ta. Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, Aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: “cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài”.
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen
Một năm Phụng vụ mới lại về. Tôi đã từng ví ngày Chúa Nhật I Mùa Vọng như là ngày Tết: MV 1-C71
Một năm Phụng vụ mới lại về. Tôi đã từng ví ngày Chúa Nhật I Mùa Vọng như là ngày Tết của đức tin. Với người dân trên hoàn cầu, cách riêng với con dân đất Việt thì những sự kiện, những sứ điệp… trong dịp đầu năm cũng thường mang tính thiêng thánh cách nào đó. Người ta nhận ra điều này qua những tục lệ kiêng cử, kỵ úy hay những tập tục hái lộc, xin xăm…Khoảng trên dưới mười năm trở lại, tín hữu Công giáo Việt Nam cũng đã quen với việc hái lộc Lời Chúa dịp đầu xuân dân tộc. Có thể nói rằng các bài trích đọc Lời Chúa trong Chúa Nhật I Mùa Vọng không phải là lộc hái mà chính là lộc ban cho đoàn con cái Chúa Công giáo. Xin được tuần tự mở lộc để không chỉ xem Thánh phán mà nhất là còn để thực thi Thiên Ý.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Giêrêmia ( Gr 33,14-16 ): “Sấm ngôn của Đức Chúa: Này sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Isrsel và về Giuđa…” ( 33,14 ). Điều tốt lành mà Thiên Chúa hứa ban đó là sẽ cho mọc lên một Đấng Công Chính. Đấng ấy sẽ giải cứu dân và cho dân được an cư lạc nghiệp bằng các chủ trương, chính sách, luật lệ đầy chính trực và công minh.
Đây là một quẻ tốt, nói như anh em lương dân. Kitô hữu thì khẳng định đó là một tin vui, một sứ điệp tràn trề hy vọng. Thế nhưng cái quẻ ấy, cái sứ điệp ấy đã ứng nghiệm cách đây hơn hai ngàn năm nơi Đức Giêsu Kitô. Vậy còn gì để mong, còn gì để chờ ? Xin thưa vẫn còn. Chúa Kitô đã từng hứa rằng “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28,20 ). Đấng Công Chính mãi ở cùng nhân loại chúng ta cách huyền nhiệm nơi thánh Phaolô, người đã từng khẳng định: “tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà Chúa Kitô đang sống trong tôi” ( Gal 2,20 ), nơi thánh Gioan Vianey, người được một cụ ông xác nhận trước tòa phong thánh rằng đã thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài. Chắc hẳn Chúa Kitô hằng mong mỗi người chúng ta góp phần để cho sứ điệp hy vọng ấy được ứng nghiệm trong môi trường, hoàn cảnh và thời đại chúng ta. Mong cho sứ điệp hy vọng được ứng nghiệm là điều tốt, nhưng góp phần làm cho sứ điệp ấy hiện thực thì tốt hơn nhiều. Xin đừng quên, mang danh Kitô hữu thì phải có trách vụ làm cho Đức Kitô hiện diện nơi con người và cuộc sống của mình, nghĩa là hãy làm cho mình, cuộc sống của mình trở thành sứ điệp của niềm hy vọng.
Thánh Phaolô tông đồ đã nhìn nhận tình yêu thương, liên đới giữa các tín hữu Thêxalônica. Và Ngài khuyên nhủ họ hãy bền tâm vững chí trong sự thánh thiện, tấn tới nhiều hơn nữa trong việc yêu thương nhau hầu xứng đáng đón chờ Đức Kitô lại đến trong vinh quang. Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay thánh Tông đồ dân ngoại thưở ấy những tưởng rằng Chúa Kitô sắp giáng lâm. Giờ ngày Chúa Kitô tái giáng tức là ngày tận thế thì không một ai có thể biết, ngay cả với Chúa Kitô khi còn tại thế ( x.Mc 13,32 ). Tuy nhiên cái ngày giờ mỗi người chúng ta ra khỏi trần gian này thì có thể lường đoán cách nào đó vì nó có giới hạn. Chúa sẽ đến với anh, với chị, với bạn, với tôi không biết khi nào, nhưng chắc chắn là không quá xa. Vấn đề đặt ra là thái độ của chúng ta khi đón Chúa đến. Và thái độ ấy tùy thuộc vào niềm tin của chúng ta.
Bài trích Tin mừng thánh Luca Chúa Nhật này hé mở cho chúng ta về mục đích việc Chúa lại đến. Chúa đến để cứu độ chúng ta, ban hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta. Chúa Kitô khẳng định sự thật này: “Khi những biến cố ấy ( những điềm lạ của thiên nhiên ) bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” ( Lc 21, 28 ). Chúa đến để ban ân phúc thì sao ta lại hãi sợ ? Trái lại, trong niềm tin thì chúng ta phải hân hoan vui mừng. Tuy nhiên cần phải tỉnh thức, canh chừng chớ để vuột mất ân phúc Chúa ban tặng. Đây chính là sứ điệp Chúa Kitô muốn nhắn gửi chúng ta. Người nhắc bảo chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đừng để “ lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” và “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Qua các mệnh lệnh của Chúa Kitô trên đây chúng ta có thể xếp thành hai chuỗi động thái hữu quan như sau:
Đứng thẳng: đây là động thái dứt mình khỏi hố sâu tội lỗi, hay những đam mê bất chính mà cụm từ “chè chén say sưa” minh họa. Để có thể đứng thẳng lên, nghĩa là ra khỏi tình trạng tội lỗi thì tiên vàn phải biết mình, một kiểu biết theo ngôn ngữ triết học là phản tỉnh và ngôn ngữ đạo đức là tỉnh thức. Đức cố giáo hoàng Phaolô VI đã nhận xét rằng cái hiểm họa của con người thời đại hôm nay không phải là phạm nhiều thứ tội mà là không còn ý thức về sự tội. Không ý thức việc mình vấp té thì sẽ không bao giờ có chuyện chỗi dậy. Không biết mình ngã quỵ thì không bao giờ có chuyện đứng lên.
Ngẩng đầu lên: Đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả hơn. Thiên Chúa dựng nên mọi sự ở trần gian này đều là tốt đẹp ( x. St 1 ). Tuy nhiên thần dữ đã ma mãnh sử dụng những thiện hảo giới hạn, chóng qua để kìm giữ con người không vuơn lên đến với nguồn của mọi thiện hảo. Là người, chúng ta phải chu toàn những sự ở đời này, nhưng đừng để chúng trói buộc chúng ta không cho chúng ta hướng thượng, bay lên. Chúa Kitô đã từng lập luận kiểu so sánh mạng sống với của ăn, thân thể với áo mặc, để nhắc nhủ chúng ta phải biết kiếm tìm thiện hảo cao hơn và cao nhất là Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người ( x.Mt 6,25-34 ). Và Người đã cảnh tỉnh rằng nhiều khi chúng ta đã để cho cái việc “lo lắng sự đời” trở nên nguyên cớ khiến chúng ta đánh mất vĩnh phúc.
Để có thể thoát khỏi những ràng buộc của những thiện hảo hữu hạn thi không gì hơn là phải biết ngẩng đầu lên. Cầu nguyện chính là cách thế ngẩng đầu lên, chiêm ngắm, gặp gỡ Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Gặp được Đấng ban ơn lành thì chúng ta sẽ dễ dàng tự do với các ơn lành. Tiếp xúc với nguồn hạnh phúc đích thật, vĩnh tồn, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng tự do với những thiện hảo hữu hạn và chóng qua.
Sứ điệp đầu năm đã tuyên ban hay nói như anh em lương dân là quẻ đã mở. Không phải ngồi chờ quẻ ứng, Kitô hữu chúng ta đón nhận sứ điệp là phải sống, phải gắng công, nỗ lực làm cho sứ điệp thành hiện thực. Đó là đứng dậy ra khỏi tình trạng tội lỗi, ngẩng đầu lên trong sự hướng thượng, vươn tới những giá trị cao cả, để trở nên một dấu chỉ hy vọng cho tha nhân bằng tình yêu trong sự công mình chính trực hay nói như Đức đương kim giáo hoàng Bênêđictô XVI là bằng “Bác Ái trong Chân Lý”.
Vũ trụ và thế giới đang đi dần đến giai đoạn cuối cùng. Tất cả sẽ trải qua những giây phút thật: MV 1-C72
Vũ trụ và thế giới đang đi dần đến giai đoạn cuối cùng. Tất cả sẽ trải qua những giây phút thật kinh hoàng. Làm cách nào có thể đứng vững trong những ngày đó? Niềm tin có thể bảo đảm cho người tín hữu tìm được nơi trú ẩn an toàn giữa lúc bao người run sợ chăng?
BIẾN CỐ VĨ ĐẠI.
Vũ trụ sẽ đi về đâu? Chắc chắn theo định luật thiên nhiên, vật chất sẽ có ngày tàn lụi. Chỉ mới nghĩ tới những ngày đó thôi, đã thấy bàng hoàng và chán nản. Cuối cùng mọi sự sẽ bị tận diệt. Thế thì xây dựng để làm gì? Tại sao phải giữ các luật lệ pháp lý và luân lý?
Thật ra, có thể có nhiều cái nhìn về cùng một sự kiện. Trước những biến động thiên nhiên vô cùng kinh hoàng, “muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu.”(Lc 21:26) Giữa lúc đó, Đức Giêsu vẫn cho thấy một điểm tựa vững chắc nơi “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây.”(Lc 21:27). Quyền năng của Người được biểu lộ mãnh liệt nhất khi cứu độ con người thoát cơn biến động đó.Phải có một sức mạnh vạn năng mới đủ bảo đảm một nơi trú ẩn an toàn như vậy.
Trước những biến cố lớn lao đó, Đức Giêsu căn dặn: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21:36) Tỉnh thức tức là “đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc 21:34) quá mức đến nỗi cứ tưởng chỉ có đời này mà thôi. Cầu nguyện để củng cố niềm tin về một tương lai đầy hứa hẹn bên kia những gì đổ vỡ. Quả thế, cuộc sống đích thực chỉ bắt đầu khi “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong mây trời mà đến.”(Lc 21:27) Chính Người đã mạc khải: “Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở.”(Ga 14:2) Đó mới là nơi an cư lạc nghiệp. Trần gian chỉ là một cuộc hành trình về nhà Cha.
Cuộc hành trình đó trải dài với những bước đi của những người “đứng thẳng và ngẩng đầu lên.”(Lc 21:28 l) Đó là tư thế của một người tự do, chứ không phải một tên nô lệ. Đó cũng là thái độ của những người sống “theo lẽ công bình chính trực”(Gr 33:15) và tin theo “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta.”(Gr 33:16) Đức Giêsu chính là Con Người sẽ trở lại vinh quang trong thời cánh chung (Đn 7:13), vì “Người trở lại như trưởng tử của một nhân loại mới,” (Faley 1994:14) một nhân loại hoàn toàn được cứu độ.
Chính dân thành Thessalônica cho thấy ơn cứu độ đã hoạt động mãnh liệt nơi họ như thế nào (x.1 Tx 3:12). Lớn lên trong tình yêu tương đương với sự thánh thiện và là một bảo đảm cho ơn giải thoát và cứu độ khi Chúa quang lâm.” (Faley 1994:13) Khi yêu thương, chúng ta sẽ thấy tất cả quyền năng và vinh quang của Con Người đến trong đám mây. Nói khác, tình yêu giúp chúng ta “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”(Lc 21:36) Chính khi yêu là lúc chúng ta “tỉnh thức”(Lc 21:36) để có thể tránh được những kinh hoàng. Chỉ Thiên Chúa mới có sức cứu ta khỏi những tai nạn bất ngờ và khỏi móng vuốt tử thần bủa giăng khắp nơi. Vì Thiên Chúa là chủ tể thống trị cả thời gian lẫn không gian. Tất cả đều xảy ra trong lòng bàn tay đầy ắp tình yêu của Thiên Chúa.
Càng yêu nhau bao nhiêu, càng được Chúa che chở bấy nhiêu. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng đậm đà thắm thiết. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta quang lâm.”(1 Tx 3:13) Ngày ấy là một ngày vô cùng vui mừng đối với những người biết yêu thương tha nhân. Chỉ biết yêu mình không thể tìm thấy niềm vui tròn đầy ấy. Yêu mình chỉ là mức đo cho thấy phải yêu thương tha nhân như thế nào. Tình yêu dừng lại chính mình là một tình yêu bệnh hoạn, không đủ sức giúp ta đứng vững trong ngày cánh chung.
Tình yêu mang chiều kích cánh chung. Bởi đó, cánh chung không phải là một hiện tượng chỉ xảy ra một lần ngày tận thế, nhưng diễn ra hằng ngày. Chính vì thế, mỗi giây phút đều phập phồng chờ mong Chúa đến. Niềm hi vọng không bao giờ chấm dứt vì đức tin luôn chiếu sáng lên lời hứa cứu độ. Đó không phải là mơ ước xa xôi, nhưng là một thực tại. Đức Giêsu đến mạc khải thực tại rất sống động về niềm hi vọng cánh chung. Không có niềm hi vọng này, tất cả giá trị cuộc đời đều là hư không.
CÁNH CHUNG HÔM NAY
Tới lúc nào đó, con người có thể có một cái nhìn bi quan về cuộc đời, sau khi trải qua bao thăng trầm cuộc sống,Thực tại trần thế vẫn bị coi là mộng ảo, như thi sĩ Tản Đà đã viết:
“Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng,
Mộng lắm bao nhiêu lại chán đời.”
Đúng như Nguyễn Công Trứ than thở: “Cuộc đời như mây nổi như gió thổi như chiêm bao.” Nhưng nếu đời không bằng mộng, đời còn lại gì cho con người bám víu ?
Cần phóng tầm nhìn tới tận điểm cánh chung, mới thấy tất cả sự thật đằng sau những biến ảo hôm nay. Điểm cánh chung đó sẽ nối kết tất cả để làm nên một tuyệt tác trọn vẹn, bao gồm cả đất trời. Điểm cánh chung đó chính là Đức Kitô Giêsu, Đấng hòa giải Thiên Chúa với con người. Từ đó, con người mới có thể tìm thấy con đường hòa giải với nhau. Con đường hòa giải bắt đầu từ cuộc đối thoại. “Đối thoại là con đường duy nhất xứng hợp với con người trong những căng thẳng chống đối cá nhân và tập thể con người hôm nay.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 21.11.03) Bạo động hay khủng bố không làm cho con người xích lại gần nhau. Chỉ trong đối thoại, con người mới tìm lại chính mình và tha nhân. Khi đối thoại, con người tôn trọng nhau và sẽ làm cho tương quan đầy vẻ êm thắm. Cuộc đời sẽ đẹp hơn ta tưởng.
Không đối thoại, con người chỉ còn tìm cách áp đặt lên nhau những ý nghĩ hay đường lối độc đoán. Bởi thế, trong đạo cũng như ngoài đời đầy dẫy những hạng người “độc quyền yêu nước”, “độc quyền yêu Chúa”. Họ không nhìn xa hơn cái tôi của mình. Thiếu hẳn một tầm nhìn cánh chung. Những cuộc tranh chấp bất tận xoay quanh những quyền lợi cá nhân hay phe nhóm. Không có lối thoát.
Lối thoát duy nhất cho thân phận con người hôm nay là chính Đức Giêsu Kitô. Vì Người “là con đường, là sự thật và là sự sống.”(Ga 14:6) Chỉ một mình Người mới có thể lấp đầy “khát vọng ghi sâu trong lòng người, khát vọng tìm kiếm và hiểu biết Thiên Chúa.”(ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 21.11.03) Khát vọng căn bản đó đang bị đủ thứ tham vọng vùi lấp. Giáo hội hiện diện và hành động để khơi dậy khát vọng đó.
Khi phục vụ những nhu cầu vật chất và tinh thần, Giáo hội muốn cho mọi người thấy có một chiều kích cánh chung trong các hoạt động bác ái hôm nay. Nói khác, “Kitô hữu chúng ta biết rằng chỉ nơi Đức Giêsu mới có câu trả lời đích thực và mãn nguyện cho nhiều nỗi lo âu trong con tim nhân loại. Để thông truyền cho thế giới tình yêu đã đón nhận được nơi Đức Kitô, Giáo hội không ngừng thiết lập các cơ sở từ thiện và hiến dâng con cái làm việc tông đồ nhằm khơi dậy ý nghĩa và giá trị Tin mừng trong những công cuộc bác ái.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 21.11.03)
Chính vì thế, Giáo hội đang làm bừng lên niềm vui Phục sinh trong những thực tại dẫy chết đó đây. Chiều kích cánh chung đã không làm lu mờ những giá trị hiện tại. Trái lại, càng mong chờ Chúa đến, càng tìm ý nghĩa và hạnh phúc trong từng giây phút sống hôm nay.
Chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới, và mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa: MV 1-C73
Chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới, và mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa hy vọng, mùa trông mong, mùa chờ đợi, và trong suốt thời gian Mùa Vọng chúng ta được nghe các lời tiên báo: Chúa Giê-su giáng sinh, thời gian cứu độ, Chúa trở lại trong vinh quang. Nhưng đối với chúng ta, ba viễn tượng đó phải được gói ghém lại thành một niềm tin và một hy vọng duy nhất. Vì thế, ngay ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc những lời Chúa Giê-su nói về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày tận thế, ngày cánh chung với lời khuyên phải luôn tỉnh thức.
Ngày Chúa quang lâm có nghĩa là ngày Chúa trở lại phán xét toàn thể nhân loại. Trong Cựu Ước, ý niệm về sự phán xét của Thiên Chúa chúng ta thấy rất nhiều: ngay từ vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ đã bị xét xử; hình ảnh hủy diệt hai thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra, vụ lụt đại hồng thủy hay cuộc thiêu hủy dân Ca-na-an… đều nói lên ý nghĩa của sự phán xét. Dầu sao đó cũng chỉ là những dấu hiệu nhắc nhở mọi người phải cẩn thận và chuẩn bị sẵn sàng. Sách Khôn Ngoan còn cho biết cụ thể hơn: vào ngày cuối cùng, Thiên Chúa sẽ phán xét kẻ lành người dữ. Như vậy, chắc chắn sẽ có phán xét và cuộc phán xét này xảy ra như một biến cố cuối cùng của lịch sử nhân loại.
Đến thời Tân Ước, tức là vào thời Chúa Giê-su, người Do Thái vẫn luôn tin tưởng sẽ có ngày phán xét chung, và chính Chúa Giê-su cũng đã củng cố đức tin cho họ về ngày đó, nhưng Ngài đổi mới một số điều, đó là chính Ngài là quan án, là thẩm phán, và tiêu chuẩn xét xử là thái độ của mỗi người đối với chính Ngài. Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã giảng dạy nhiều lần nhiều điều ám chỉ về phán xét, chẳng hạn Chúa nói các thành thị không chịu nghe lời Chúa sẽ bị xét xử, mỗi người sẽ bị xét xử về tất cả những gì họ đã làm cho tha nhân. Chúa dùng nhiều dụ ngôn như cỏ lùng, lưới cá, người quản lý, nén bạc...để nói về phán xét, và Chúa còn nói rõ vào ngày đó Chúa sẽ phân loại mọi người như ông chủ phân loại chiên và dê.
Như vậy, Kinh Thánh đã cho chúng ta biết có phán xét, chắc chắn sẽ có, nhưng chúng ta không biết được khi nào sẽ xảy đến, không ai biết trước, vì thế, phải tỉnh thức, phải chuẩn bị sẵn sàng. Nghĩa là ngày đó sẽ xảy đến bất thần, đột ngột, sẽ chụp xuống bất ngờ như cái lưới chụp xuống bầy chim sẻ đang ăn hay chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ dưới nước thế nào thì biến cố tận thế cũng sẽ chụp xuống mọi người trên mặt đất như vậy. Không ai biết được ngày đó là ngày nào, chỉ một Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại lần thứ hai, và chỉ khi nào ngày đó xảy ra thì người ta mới biết được, chứ không ai biết trước.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ nói đến những dấu hiệu báo trước biến cố tận thế, Chúa không nói rõ khi nào, cho nên bất cứ ai quả quyết năm này năm nọ sẽ tận thế là hoàn toàn không đúng, đó chỉ là phỏng đoán mà thôi. Tuy nhiên, Chúa khẳng định Chúa sẽ đến trong vinh quang, nghĩa là chắc chắn sẽ có tận thế, vì vậy, Chúa bảo chúng ta phải sống thế nào: hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Chúng ta phải tỉnh thức, nghĩa là đừng để cho những cái tạm thời, trần tục chi phối, làm lu mờ tâm trí, làm quên chủ đích chính của cuộc đời, trái lại, phải sử dụng những cái đời tạm này để chiếm được đời sống vĩnh cửu. Rồi chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chu toàn mọi bổn phận tôn giáo đối với Thiên Chúa, để sống thân mật với Chúa và xin Chúa những ơn trợ giúp cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm gì được: “Không thầy đố mày làm nên”, không có Chúa chúng ta chẳng làm nên chuyện gì cả.
Tóm lại, ngày Chúa Ki-tô quang lâm, ngày Chúa trở lại lần thứ hai, cũng là ngày cánh chung, ngày tận thế ... là ngày Thiên Chúa biểu dương uy quyền và vinh quang của Ngài, đồng thời cũng là ngày phân xử công minh cuộc đời mỗi người về những năm tháng sống ở trần gian.
Cho nên, điều quan trọng là mỗi người phải chuẩn bị cho mình một sự nghiệp xứng đáng ngay ở đời này. Chúng ta vẫn nghe nói: “trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, “cha mẹ hiền lành để đức cho con”, “không công danh thời nát với cỏ cây”. Đúng thế, chúng ta chết nhưng không thể bị xóa bỏ như cỏ cây hoa lá hay như dụng cụ hư hỏng bị vứt bỏ, chúng ta phải để lại dấu vết gì cho trần gian; dấu vết đó không cần phải lớn lao vĩ đại, nhưng là dấu vết của tình yêu, hy vọng, lòng tin và công chính. Những gì chúng ta làm ở đời này ngoài những đặc tính đó, không những sẽ trở thành vô ích mà còn là án phạt nữa, cho nên, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta phải hết sức cẩn thận để xây dựng sự nghiệp cho đời này và cả đời sau nữa.
Một nhà kinh doanh giỏi là một người biết đầu tư vốn liếng và biết lợi dụng hoàn cảnh để đem lại lợi lộc và thành công. Sống ở trần gian, mỗi người cũng là một nhà kinh doanh được Thiên Chúa trao vốn liếng, thời giờ và hoàn cảnh, chúng ta phải biết đầu tư cho hợp tình hợp lý để đem lại lợi lộc và thành công cho hôm nay và mai sau. Chúng ta đang đầu tư thế nào ? lợi hay hại ? lời hay lỗ ? lợi xác nhưng thiệt hồn chăng ? được đời này mà không được đời sau chăng ? giả sử Chúa gọi chúng ta ra khỏi đời này ngay bây giờ chúng ta sẽ được thưởng hay bị phạt ? Chúng ta trả lời thế nào những câu hỏi đó ?
Trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội, Mùa Vọng (Advent) trước hết gợi cho ta nhớ lại thời gian: MV 1-C74
Trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội, Mùa Vọng (Advent) trước hết gợi cho ta nhớ lại thời gian dân Do Thái xưa trông đợi sự giáng thế của Ðấng Thiên Sai (Messiah) mà các Ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu ước. Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, đến lần thứ nhất cách nay 2009 năm, hai Ngôn sứ Isaia và Gioan Tẩy Giả đã đặc biệt loan báo và chuẩn bị cho dân Do Thái đón mừng ngày giáng sinh của Người như sau:
Tôi là tiếng kêu trong hoang địa Hãy sửa đường cho ngay thẳng để Đức Chúa đi qua (Ga 1, 23).
Chúa Giêsu, Ðấng Thiên Sai, đã đến rồi, đến lần thứ nhất trong thân hình một “trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2:12). Người đến để cứu chuộc cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi, và đã hoàn tất Chương Trình Cứu Chuộc ấy qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người như Giáo Hội tin và dạy chúng ta tin.
Ngày nay, chúng ta chỉ còn trông đợi ngày Chúa đến lần thứ hai nữa (parousia) để phán xét “kẻ sống và kẻ chết” trong ngày cánh chung. Nhưng mỗi năm, thời điểm này cũng là dịp mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón mừng kỷ niệm Ngày Sinh của Chúa Cứu Thế đã giáng trần cách nay 2009 năm. Vì thế, khắp nơi, người ta lại tưng bừng chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh. Nào trưng bày những máng cỏ xinh đẹp, rực rỡ với ánh đèn mầu đủ kiểu, đủ loại và đặc biệt, người ta lại nô nức đi mua sắm đồ và gửi quà tặng cho nhau, khiến cho lễ Giáng Sinh trở thành mùa thương mãi lớn nhất, phát đạt nhất trong năm cho nhiều người ở khắp nơi trên thế giới.
Nhưng chuẩn bị mừng Lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ đơn thuần với việc sửa sang nhà cửa, trưng bày máng cỏ trước nhà với đèn mầu rực rỡ, gởi quà và thiệp Giáng Sinh cho nhau. Lại càng không phải là dịp để tổ chức ăn uống linh đình, nhẩy nhót cuồng loạn thâu đêm Giáng Sinh. Mừng Giáng Sinh kiểu này thì quả thật là sỉ nhục cho ý nghĩa thiêng liêng của ngày đại lễ mà người Công giáo chúng ta phải tránh.
Ngược lại, mừng Chúa Giáng Sinh cách xứng hợp đòi hỏi mỗi người chúng ta phải chuẩn bị chu đáo hơn từ nội tâm trước hết. Có nghĩa là chúng ta hãy suy niệm sâu xa một lần nữa về Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể (Incarnation).
Thật vậy, nói đến Mầu Nhiệm này thì ít ai để ý suy niệm cho thấu đáo ý nghĩa Chúa Hài Nhi nằm trong Máng cỏ lạnh lẽo của mùa đông giá buốt năm xưa. Không phải vô tình hay ngẫu nhiên mà có sự kiện này. Trước hết, ai cũng biết: mảng có (manger) là vật dụng người ta dùng để cho súc vật ăn. Ở đây là trâu, bò, lừa, ngựa, những con vật thích ăn cỏ. Chúng ăn những cỏ khô được bỏ vào máng đặt trong chuồng. Nhờ những đồ ăn từ máng này mà chúng được nuôi sống, có sức để phục vụ cho nhu cầu của người nuôi và sử dụng chúng.
Chúa Giêsu phải có chủ đích rất thâm thúy khi Người chọn sinh ra trong hang bò lừa và nằm trong máng cỏ. Ngài nằm trong máng cỏ như “của ăn” để nuôi sống cho nhân loại đang đói khát vì lương thực trần thế không làm no thỏa được khát vọng của tâm hồn, tức nhu cầu thiêng liêng tối thượng của con người. Mọi lương thực trần gian, kể cả manna mà dân Do Thái ăn trong sa mạc khi xưa, cũng không đem lại sự sống đời đời cho những người ăn chúng. Chỉ có “Bánh từ trời xuống và ai ăn thì sẽ được sống đời đời” (Gio 6, 58) mà thôi. Chúa Giêsu chính là Bánh trường sinh ấy. Người đã hứa “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Gio 6: 54).
Khi nằm trong máng cỏ, Chúa Giêsu không những dạy ta bài học đích đáng về đức khiêm nhường, gương hy sinh và thực sự khó nghèo, mà đặc biệt, còn mời gọi chúng ta đến “ăn Ngài”để được sống đời đời, như bò lừa ăn cỏ khô từ máng để có sức sống phục vụ cho con người.
Mặt khác, trong tâm tình chờ ngày Chúa đến lần thứ hai, đồng thời cũng mừng kỷ niệm Ngày Giáng Sinh của Chúa thêm một lần nữa, chúng ta cũng được nhắc nhở phải tỉnh thức và luôn sẵn sàng vì “anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24:42; Lc 12:40). Ngày ấy sẽ bất ngờ như giờ kẻ trộm vào nhà lấy của trong lúc chủ nhà đang ngủ say, không đề phòng.
Nhưng chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng như thế nào? Thánh PhaoLô đã chỉ cho chúng ta bí quyết: “hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13: 14). “Mặc lấy Chúa Kitô” như bộ y phục đẹp nhất để ra đón chào Chúa khi Người đến, để mừng kỷ niệm Giáng Sinh của Người và cũng xứng đáng nhất để vào dự Bàn Tiệc Nước Trời đã dọn sẵn cho những ai được mời và muốn đáp lời mời ấy.
Và trong khi chờ đợi ngày Chúa đến lần sau hết, chúng ta phải luôn “ăn Chúa Kitô” để giải trừ mọi độc tố giết hại linh hồn đến từ những thực phẩm và không khí đầy ô nhiễm của trần gian, của “văn hoá sự chết” đang lan tràn khắp nơi trên thế giới ngày nay. Ðặc biệt là trong môi trường xã hội chúng ta đang sống và làm việc giữa những người không có niềm tin hoặc có mà không sống niềm tin ấy vào Chúa Kitô để chỉ hăng say chạy theo tiền bạc, danh vọng phù phiếm và vui thú dâm ô bất chính. Nghĩa là, nếu chúng ta dám sống niềm tin của mình để “mặc lấy Chúa Kitô, và ăn Chúa Kitô” như súc vật ăn của nuôi chúng từ máng cỏ, thì đó mới là những chuẩn bị xứng đáng nhất để chờ đón Chúa đến và đồng thời cũng để mừng kỷ niệm Giáng Sinh của Người cách xứng hợp một lần nữa. Ước chi mỗi người tín hữu chúng ta sống Mùa Vọng, và chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh năm nay với tâm tình đó.
Mỗi khi dâng Thánh lễ, người tín hữu tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết,: MV 1-C75
Mỗi khi dâng Thánh lễ, người tín hữu tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho đến khi Chúa đến”. Rất có thể, lời tuyên xưng vừa nêu được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen.
Mùa Vọng chính chính là dịp người tín hữu được nhắc nhở chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến. Nhờ vậy họ sẽ ý thức hơn việc tuyên xưng đức tin của mình.
I. CHÚA ĐÃ ĐẾN
Từ xa xưa ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo trước ngày Chúa đến: “Trong ngày ấy, vào thời đó Ta sẽ cho mọc lên một mần non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít. Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực. Trong ngày ấy Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ an cư lạc nghiệp” (Bài đọc I: Gr 33, 15-16).
Quả thật, lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được ứng nghiệm. Khi thời gian tới hồi viên mãn Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian sinh làm con người đàn bà và cứu chuộc những ai dưới lề luật, hầu cho họ nhận được ơn làm nghĩa tử (x. Gl 4, 4).
Vào trần gian Chúa Giê-su Con Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ con người cách toàn diện. Người làm cho: người chết sống lại, người bị quỉ ám được giải thoát, người què đi được, người mù xem thấy, người phong hủi được sạch, người điếc được nghe,… người nghèo được đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Chúa đã đến thế gian, chia sẽ thân phận kiếp con người. Khi tình yêu đến đỉnh điểm Người đã bước lên thập giá, hy sinh thân mình và đã phục sinh trở nên nguồn ơn cứu độ.
Chuyện không dừng lại ở đấy, trước khi rời thế gian về với Cha, Người đã hứa với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Vậy là, Chúa vẫn đang đến với con người.
II. CHÚA ĐANG ĐẾN
Chúa vẫn đang đến với con người qua nhiều cách thế quyền năng. Lòng tin mách bảo, Chúa vẫn đang đến qua lời Chúa và qua những bí tích.
Ngày ngày qua Hội Thánh, Chúa ban lời của Người cho nhân loại: Lời Chúa là ánh sáng, là ngọn đèn chiếu soi dẫn lối tâm linh (x. Tv 118, 105); Lời Chúa sửa dạy, giáo dục người tín hữu trở nên công chính (x. 2Tm 3, 16)… Thánh Giê-rô-ni-mô kinh nghiệm: “Không biết Kinh Thánh cũng không biết uy lực của Thiên Chúa. Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô”.
Ngày ngày, qua những bí tích Hội Thánh cử hành, Chúa vẫn đang đến với nhân loại để: ban ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa, ban ơn Chúa Thánh Thần thêm sức mạnh cho sống đời tín hữu, ban Thánh Thể nuôi dưỡng tâm hồn, giao hòa con người với Thiên Chúa và với nhau, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh, hiến thánh để thi hành tác vụ thánh, lập hôn ước để trở thành gia đình làm nên dân Thiên Chúa.
Lãnh nhận lời Chúa và những bí tích, người tín hữu tìm được nguồn sức mạnh để hoạt động, được an ủi trong lúc cô đơn, được chia sẻ khi gặp đau khổ, được bênh vực khi bị ngược đãi, được nâng đỡ khi gặp gian truân, được soi sáng khi bị bế tắc, được thêm sức khi gặp thử thách, được bình an khi phải hy sinh, được cảnh tỉnh khi yếu đuối, được tha thứ khi bị vấp ngã, được hoán cải để biết thứ tha…
Chúa vẫn đang đến với con người qua muôn nẻo đường. Người sẽ đến trong ngày quang lâm.
III. CHÚA SẼ ĐẾN
Trước đây, người ta kháo nhau năm 2000 tận thế. Thời khắc ấy qua rồi. Bây giờ có người lại dự đoán năm 2012 sẽ tận thế với những tai ương khủng khiếp tàn phá nhân loại.
Trí tưởng tượng của con người thật kỳ lạ.
Thực ra, ngày Chúa đến “như chiếc lưới bất thần chụp xuống” (Lc 21, 34).
Ý Chúa thẳm sâu nhiệm mầu con người không tài nào suy thấu. Thiên Chúa quyền năng, không ai có thể làm quân sư chỉ vẽ cho Người.
Phần mình, người tín hữu trở về với lời Chúa để suy gẫm về thời gian của Thiên Chúa hầu vững vàng trước mọi tình huống xảy ra với đời mình. Từ đó, họ chọn cách sống tốt nhất là phải luôn sẵn sàng. Cách sống này thể hiện qua khiêm tốn và chân thành: “đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đặm đà thắm thiết” (Bài đọc II. 1Th 3, 12) “sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa”(Bài đọc II.1Th 4, 1), dìm mình trong “tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21, 38), hiên ngang trong sáng “đứng thẳng và ngẩng đầu” (Lc 21, 28).
Rõ ràng Thiên Chúa không hù dọa con người về ngày Chúa đến. Có chăng là do con người tự gây hoang cho chính mình bằng trí tưởng tượng về một ngày tận thế tai ương.
Thiên Chúa muốn con người đón nhận ngày Chúa đến với tư thế “đứng thẳng và ngẩng đầu”, bởi ngày ấy là ngày hồng phúc, ngày Thiên Chúa “cứu độ”. Xác tín như vậy, người tín hữu sẽ không bị một mãnh lực nào làm cho “hồn xiêu phách lạc”. Trái lại, họ sẽ được mạnh mẽ trong đức tin, phấn khởi trong đức cậy, sốt sắng bởi lòng mến, nung nấu lòng nhiệt thành…
Ngày Chúa đến là ngày cứu độ.
Trong quá khứ Chúa đã đến để giải thoát con người khỏi sự chết do họ gây ra.
Chúa vẫn đang đến để dẫn dắt con người bước đi theo đàng ngay nẻo chính.
Trong quyền năng và vinh quang Thiên Chúa sẽ đến để hoàn tất lịch sử. Phúc cho ai đứng thẳng và ngẩng đầu đón nhận ơn cứu độ.
Người ta thường hiểu chờ đợi hoặc là đứng hay ngồi chờ mà không làm gì hết. Không phải thế: MV 1-C76
Người ta thường hiểu chờ đợi hoặc là đứng hay ngồi chờ mà không làm gì hết. Không phải thế. Có hai cách chờ. Một là tích cực. Hai là tiêu cực. Cả hai đều phải làm việc.
Chờ tiêu cực khi ngày đêm lo vật lộn với cuộc sống mà quên phần tâm linh.
Chờ tích cực khi biết chuẩn bị cho cả hồn lẫn xác. Nghiêng hơn về tâm linh, phần hồn, nghĩa là dành nhiều thời gian, công sức cho phần linh hồn hơn phần xác.
Nhìn chung đại đa số thích chuẩn bị trang trí bên ngoài mà ít chú tâm, hay không quan tâm đến tâm linh. Số khác luôn chờ phút chót nên hấp tấp, vội vã.
Thương gia mong Giáng Sinh đến bán hàng, kiếm thêm lợi nhuận. Đi trước phụng vụ Giáo Hội, quảng cáo quà Giáng Sinh.
Công nhân chờ Giáng Sinh đến hưởng những ngày nghỉ dài cuối tuần và các bữa tiệc linh đình.
Học sinh mong Giáng Sinh đến vì đó là kì nghỉ dài nhất trong năm. Thi cử không còn là mối lo. Hè đến tha hồ vui chơi. Hơn nữa các em còn nhận nhiều quà Giáng Sinh.
Tích cực
Ngày xưa dân Chúa chờ mong Đấng Cứu Thế sinh ra vì đó là dấu chỉ ơn cứu độ đến gần. Chúa thực hiện lời hứa khi Đức Trinh Nữ Maria nói hai tiếng xin vâng. Từ giờ phút đó Đấng Thiên Sai đến cư ngụ giữa dân Ngài.
Kitô hữu có vẻ sống bình thường như mọi người. Thực ra họ trông chờ ơn đặc biệt. Món quà bình an nội tâm Chúa ban cho tâm hồn thiện tâm. Câu ca vang dậy không trung của thiên thần mừng Chúa Giáng Sinh loan báo món quà thiên quốc.
Học biết mình
Kitô hữu chuẩn bị đón Giáng Sinh, không phải chỉ bề ngoài, vật chất mà chú trọng nội tâm, uốn nắn tâm hồn ngay thẳng. Thiện tâm đón nhận bình an. Nhờ chuẩn bị kĩ, Kitô hữu học hỏi, nhận biết thêm về chính mình, mục đích cuộc đời, mối liên hệ mình với tha nhân và với Chúa. Học có lúc đúng, khi sai, thành công pha lẫn thất bại. Học cách sống khiêm nhường.
Con người khao khát và vui thích đào sâu kiến thức vũ trụ quanh mình; trái lại rất sợ học biết về chính mình. Một số kinh hoàng khi biết chân tướng thật của mình. Họ tìm cách chối bỏ, bao che, khỏa lấp con người bé nhỏ, tầm thường, tài mọn. Chối bỏ sự thật nên sống trong ảo vọng, xa vời thực tế. Trái lại tâm hồn thiện tâm chấp nhận sự thật đời mình. Chọn lối sống khiêm nhường đón nhận cái nhỏ bé, yếu đuối, tiến lên. Đức Maria gương mẫu khiêm nhường. Kinh Magnificat, Mẹ tự nhận nữ tì hèn mọn.
Chúa chờ ta Lòng người thay đổi bất thường. Xưa kia tổ phụ, cha ông chúng ta mòn mỏi, mong chờ Chúa đến. Đáp lại lòng mong đợi. Chúa đến, sinh nơi hang lừa, làm người ngự giữa chúng sinh, ban bình an và đón nhận toàn dân. Do kiêu ngạo con người đã chối Chúa còn đòi thoái ngôi, đổi vị.
Chúa từ trời cao, xuống thế, nhận thân phận con người.
Loài người lánh mặt, từ chối Chúa.
Chúa đến sanh nơi đồng hoang, hèn mọn, bé thơ, nghèo nàn.
Loài người ra tay, xua đuổi. Đón kẻ nghèo, hèn không được danh cũng chẳng có lợi.
Khi lòng người hướng về lợi danh, sẽ coi trọng lợi danh. Khi lòng người hướng về vật chất, sẽ coi trọng vật chất. Khi lòng người hướng về tinh thần, sẽ coi trọng tinh thần. Khi lòng người hướng về thần linh, sẽ coi trọng thần linh
Đức Kitô
Đức Kitô ngồi đồng bàn với người thu thuế. Người ta kết án Ngài ham ăn. Ngài mở mắt người mù. Người ta nói Ngài phạm luật. Ngài trừ quỉ. Người ta nói Ngài là tướng quỉ ngụy trang.
Xưa kia Ngài giảng dậy trong đền thờ. Người ta hỏi ai cho phép trước khi đuổi khỏi đền thờ. Ngày nay nhân danh tự do tín ngưỡng. Người ta cấm đọc kinh, treo ảnh tượng Ngài nơi công cộng. Cá nhân đuổi Ngài ra khỏi tâm hồn. Trong gia đình hình mỹ nhân, tài tử thay ảnh Ngài.
Đức Kitô mong chờ con người nghĩ lại, đổi mới, nhận ơn Ngài ban.
Đức Kitô kiên nhẫn chờ ta quay về, nhận ra Ngài ở giữa chúng ta.
Người ta không nhìn nhận Con Chúa hạ sanh nơi máng cỏ hèn mọn. Người ta không muốn tất cả mọi người được hưởng ơn cứu độ. Người ta muốn ơn cứu độ dành riêng cho một dân tộc, cho dân riêng Ngài tuyển chọn. Ngài, trái lại, ban ơn cứu độ, tha tội, mời gọi mọi người làm con Chúa, anh chị em với nhau. Vì thế người ta coi thường ơn Ngài ban. Những gì mình có mà thiên hạ khát khao không được người ta mới hãnh diện, khoe ra. Ai cũng có, cũng được ban cho thì cái hãnh diện kia với họ, không còn giá trị to lớn nữa.
Loài người ơi
Loài người ơi, đừng coi thường giá trị ơn Chúa ban. Con người không thể định giá trị cao thấp ơn Chúa. Loài người chỉ biết lãnh nhận và dâng lời tạ ơn. Thiên Chúa là Đấng duy nhất tạo tác ơn, ban phát ơn.
Một mình Ngài xác định sức mạnh, giá trị, uy quyền ơn Ngài tác tạo. Người khiêm nhường luôn coi trọng ơn Chúa. Ơn vượt trên trí hiểu nên vui mừng đón nhận trong tâm tình cảm tạ, tri ân.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến.
Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
SUY NIỆM
Hôm nay bắt đầu mùa phụng vụ. Chẳng có nhiều thay đổi bề ngoài để bảo chúng ta biết phụng vụ: MV 1-C77
Hôm nay bắt đầu mùa phụng vụ. Chẳng có nhiều thay đổi bề ngoài để bảo chúng ta biết phụng vụ bắt đầu một mùa mới. Chỉ có lễ phục trong mùa này dùng màu tím; và trong các thánh lễ Chúa nhật mùa Vọng, không đọc hoặc hát kinh Vinh Danh. Ngoài ra chỉ còn các bài đọc Kinh Thánh có nội dung và chủ đề đặc biệt. Những thay đổi ít ỏi ấy chắc chắn không đủ sức tạo nên một cảm giác, một ấn tượng mới mẻ gì. Chúng ta không thấy mình đã rơi vào, hay đã được đưa vào một mùa mới, như khi đi vào mùa đông hoặc mùa hạ. Các mùa thời tiết thiên nhiên có tính cách áp đặt và bó buộc; đang khi các mùa của năm phụng vụ hoàn toàn chỉ có tính cách tinh thần. Chúng ta phải có tinh thần muốn đón nhận sắp đặt của phụng vụ thì mới thấy có mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Chay, mùa Phục sinh và mùa Thương niên của năm Phụng vụ. Mỗi mùa sẽ làm sống lại một giai đoạn chính yếu trong lịch sử ơn cứu độ, từ ngày đầu hết cho đến ngày cuối cùng. Chúng ta được chiêm ngưỡng trong chu kỳ một năm, mọi hành vi chính yếu của Thiên Chúa cứu độ, từ khi hứa ban Ðấng Cứu Thế cho đến khi Ðấng này hoàn tất kế hoạch mầu nhiệm. Và như vậy để chúng ta quí mến và tham gia chương trình của Chúa nhiều hơn.
Riêng về nội dung và tinh thần của mùa Vọng, chúng ta có thể tìm thấy trong chính các bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật hôm nay. Bài Tin Mừng quan trọng hơn cả, nên nói đến ý nghĩa mùa Vọng một cách trực tiếp: đây là mùa hướng lòng chúng ta về Ngày Chúa đến, không phải trong xác thịt yếu đuối nữa, nhưng trong vinh quang bất diệt. Và như vậy, tuy hướng về tương lai, nhưng chúng ta phải căn cứ vào kinh nghiệm quá khứ mà chờ đợi. Chúng ta sẽ biết cách dọn đường Chúa đến khi nghĩ lại cách thức Chúa đã đến. Lễ Chúa Giáng sinh vì thế trở nên đích điểm gần cho mùa Vọng của chúng ta trước khi thật sự đi tới ngày Chúa đến. Và cũng vì vậy mà bài sách Giêrêmia đã được chọn để khơi lên niềm trông đợi; đang khi bài thư Phaolô chỉ dẫn một cách cụ thể hơn những thái độ sống đạo chân thực trong mùa Vọng.
Chúng ta hãy theo thứ tự trên đây để xem lại các bài Kinh Thánh.
1. Mùa Vọng Hướng Về Ngày Chúa Ðến
Bài Tin Mừng Luca đưa chúng ta về thời thế mạt. Tác giả đã theo truyền thống Khải huyền mô tả thời ấy như giờ cáo chung của vũ trụ hiện nay có nhiều điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Dưới biển nước gầm sóng vỗ. Người ta có cảm giác cơ cấu trời đất lung lạc, lay chuyển. Ai nấy thất kinh lo sợ, chẳng biết những gì sẽ xảy ra... Chính lúc ấy, Con người sẽ đến trong đám mây, với quyền năng và vinh quang cao cả.
Tác giả Luca chỉ chú trọng đến sự kiện cuối cùng này. Chúng ta đừng quan tâm nhiều lắm đến những nét tả ở trên. Tác giả chỉ lấy lại những hình ảnh văn chương đã có sẵn. Không tất nhiên mọi sự sẽ xảy ra như vậy. Ðó chỉ là nền trời dựng lên cho việc Con Người hiện đến. Chính việc này mới chính yếu. Luca biết như vậy, nhưng cũng chẳng biết tả thế nào. Ông mượn lại lời sách Ðanien (7,13). Nhà tiên tri nằm chiêm bao. Thoạt tiên ông thấy bốn con vật từ biển đi lên phá phách dữ tợn. Rồi ông thấy một Con Người (tức là một người) hiện đến trong mây (dấu chỉ có thần tính) được trao quyền thống trị trời đất các dân tộc.
Những lời tiên tri này rất thích hợp để nói về ngày Chúa Kitô trở lại. Ngài chẳng phải là Con Người sao? Ngài có bản tính nhân loại; đồng thời cũng có bản tính thần linh. Hình ảnh một Con Người đến trong mây rất thích đáng để nói lên cả hai bản tính ấy nơi Ðức Giêsu Kitô. Nhưng như vậy nó chưa đủ diễn tả việc Ngài trở lại. Thế nên tác giả Luca còn phải thêm vào hình ảnh kia những lời chú thích cần thiết... Người viết: "Con Người đến trong đám mây, với quyền năng và vinh quang cao cả". Những lời chú này chỉ được dùng để nói về Ðức Giêsu Kitô sau ngày Phục Sinh. Và như vậy, tác giả Luca muốn nói với chúng ta hôm nay rằng: sau này Ðức Giêsu Kitô sẽ trở lại, không như lần trước, lúc Ngài giáng sinh làm người nữa đâu. Lúc ấy chúng ta đã thấy Ngài trong thân thể một Hài Nhi, tinh sạch đấy nhưng yếu ớt và bé bỏng. Không, sau này Ngài đến trong quyền năng và vinh quang. Như một vị Hoàng đế ư? Hoặc như một vị Thầm phán? Chắc chắn cao cả hơn nhiều.
Ðó là niềm tin của Luca, của các Tông đồ, của Hội Thánh chúng ta. Niềm tin ấy, hôm nay Phụng vụ tuyên xưng khi khai mạc mùa Vọng. Phụng vụ muốn rằng trong mùa này, chúng ta suy nghĩ về ngày Chúa đến, không phải đến trong thân thể một Hài nhi, như ngày xưa nữa, nhưng đến trong quyền năng và vinh quang cao cả để chấm dứt lịch sử đổi thay, lành dữ lẫn lộn này để khai mạc triều đại thiên quốc thánh thiện và bất diệt. Phụng vụ vọng ngày đó chứ không vọng ngày lễ Giáng sinh. Và chúng ta được kêu gọi suy nghĩ về ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang chứ không phải chờ đón kỷ niệm ngày Chúa sinh ra làm người.
Tác giả Luca hẳn biết rằng có nhiều suy nghĩ không cần thiết về ngày Chúa lại đến. Thế nên người rất dè dặt trong các nét tả. Ngược lại, người chú trọng đến thái độ chúng ta phải có cho ngày trọng đại ấy. Theo Người, ngày ấy sẽ kinh khủng cho thiên hạ; nhưng đối với các tín hữu, đó là ngày cứu độ. Người bảo chúng ta hãy vươn người lên và ngẩng đầu lên vì Ðấng cứu chúng ta đang đến. Có thể nào những người tin Chúa Giêsu Kitô cứu thế lại sợ hãi việc Người trở lại?
Phải chăng chỉ có những kẻ đã bỏ niềm tin, hoặc không còn sống theo niềm tin ấy? Do đó, tác giả Luca khuyên ai nấy hãy sẵn sàng, đừng để ngày ấy đến chụp lấy mình như một cái lưới. Những kẻ chè chén say sưa và lo lắng sự đời chắc chắn sẽ bị bắt chợt không kịp sửa soạn. Còn những ai tỉnh thức và cầu nguyện làm sao có thể bị bắt gặp là bất xứng cho ngày Chúa đến?
Thật ra, giáo huấn của Hội Thánh về việc Chúa trở lại rất trong sáng và đơn sơ. Hội Thánh bảo chúng ta phải tin và sẵn sàng, tức là phải trông đợi. Cuộc đời Kitô hữu vì thế phải là mùa Vọng triền miên. Chúng ta không thể mãi mãi sống trong tâm trạng này, nếu không có những đà nhún để thỉnh thoảng thêm sinh lực cho niềm tin. Ðó là lý do và vai trò của lễ Giáng sinh được coi như điểm gần và trước mắt của mùa Vọng. Chúng ta hãy nhớ bài sách Giêrêmia để nói về ý nghĩa ngày lễ này.
2. Chúa Sẽ Ðến Như Ngài Ðã Ðến
Dĩ nhiên Giêrêmia đã không ngờ được có ngày Chúa sẽ đản sinh. Bài sách của ông hôm nay chỉ loan báo một niềm tin. Niềm tin này đã có từ lâu đời, khởi sự từ ngày Ðavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà để làm điện thờ cho xứng đáng. Nhưng Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói với Ðavít: không phải Ðavít sẽ xây nhà cho Chúa mà là chính Chúa sẽ cho Ðavít có nhà đến muôn đời (2S 7,5.11). Chúa chơi chữ với Ðavít. Ðavít muốn xây nhà cho Chúa nhưng Chúa không cần nhà ở. Ngược lại chính Chúa sẽ ban cho nhà Ðavít được tồn tại, tức là duy trì triều đại của dòng họ Ðavít.
Lời tiên tri Nathan lập tức đã trở thành niềm tin được gieo sâu vào lòng con cái Israen. Mỗi khi thế nước suy vi, người ta lại phập phồng nghĩ đến lời hứa. Người ta trông đợi gốc Giêsê - tức là dòng tộc Ðavít - sẽ đâm chồi mới, vua mới đem hòa bình hạnh phúc lại cho dân. Nhưng đã bao lần mong đợi hụt. Nhiều người đâm nghi nan Lời Hứa. Vào thời Giêrêmia - thời của lưu đày và sau lưu đày - người ta càng nản chí hơn nữa. Các vua Israen, kể cả những vị xuất thân từ dòng tộc Ðavít, đều đã tỏ ra không đáng tin cậy. Lời Chúa hứa về một người Con Ðavít có còn đáng quan tâm nữa không?
Như mọi tiên tri khác, và như mọi người đạo đức còn tin tưởng vào Lời Hứa, Giêrêmia khẳng định rằng: sẽ có ngày Chúa cho ứng nghiệm lời tốt lành Người đã phán về nhà Israen và nhà Giuđa. Bây giờ họ là hai nhà Nam Bắc khác nhau và đều điêu đứng khổ sở. Nhưng trong những ngày ấy, Chúa sẽ cho nhà Ðavít đâm ra chồi mới. Vị vua mới này sẽ không như các vị vua trước. Ngài sẽ đầy đức nghĩa và sẽ cho thi hành công minh đức nghĩa trong cả xứ đã thống nhất làm một. Giuđa sẽ được độ trì, Giêrusalem sẽ được an cư. Và như vậy Giêrusalem với Giuđa sẽ đóng vai trò quan trọng và tiêu biểu cho cả xứ. Nhất là Giêrusalem sẽ được gọi là "Giavê đức nghĩa của chúng tôi".
Lời sấm của Giêrêmia mang nhiều điển nghĩa Thánh Kinh. Nó quảng diễn và xác định lời tiên tri của Nathan. Nó cho người ta thấy vị Con Vua Ðavít sẽ là một hoàng đế đầy đức nghĩa, tức là đầy lòng công chính thánh thiện. Ngài sẽ cho thi hành công chính thánh thiện trong khắp xứ. Và Giêrusalem, đế đô của Ngài, tượng trưng cho tất cả dân Ngài sẽ được mang chính tên của Ngài là Thiên Chúa công chính và thánh thiện.
Chúng ta thấy Giêrusalem đã không chỉ quảng diễn lời tiên tri Nathan. Ông đã thêm những những ý kiến mới, những lời tiên tri mới thực sự. Những lời này đầy thánh thiện và không thể áp dụng cho một vị vua nào trong hoàng tộc Ðavít. Chúng chỉ hợp với Ðức Giêsu Kitô là Con Vua Ðavít thật, nhưng trước hết Ngài là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Chúnh Ngài là Ðấng công chính thánh thiện. Ngài đã cho thi hành công chính thánh thiện ở mọi nơi, nơi các tín hữu được công chính hóa nhờ ơn Ngài. Và Giêrusalem thánh thiện chính là Hội Thánh của Ngài mà chúng ta phải gọi là Hội Thánh của Thiên Chúa...
Như vậy Giêrêmia đã tiên báo về việc Chúa Giêsu ra đời trong dòng Ðavít. Ông đã nói về ngày lễ Chúa Giêsu Giáng sinh. Phụng vụ hôm nay đọc bài sách của ông để nói với chúng ta rằng: ngày Chúa Giáng sinh mà Giêrêmia đã nói tới chỉ là tiền đề và tiền ảnh của ngày Chúa sẽ trở lại. Chúng ta phải coi ngày lễ Chúa đã đến như là đảm bảo chắc chắn cho ngày Chúa sẽ đến. Hơn nữa như Ngài đã đến trong công chính thánh thiện và để thi hành công chính thánh thiện, thì chúng ta cũng phải trở nên công chính thánh thiện để chờ đợi ngày Chúa trở lại. Ðó cũng là ý của bài thơ Phaolô, hôm nay.
3. Hãy Thánh Thiện Trong Ngày Chúa Ðến
Giáo dân Thessalonica nghĩ nhiều đến ngày Chúa lại đến. Họ tưởng Người đã gần đến rồi. Như vậy làm ăn, xây dựng cuộc sống ở đời này làm gì nữa? Sự chểnh mảng công việc trần thế này không những không làm gia tăng sự thánh thiện; ngược lại nó đã là cớ sinh ra nhiều tội lỗi, không kể tội ích kỷ, chẳng nghĩ gì đến những người chưa biết Chúa và không chờ đợi ngày Người lại đến. Phaolô phải viết thư dạy dỗ.
Ðoạn trích hôm nay chưa đi vào chi tiết cụ thể Phaolô xin Chúa cho con chiên của Người được thêm lòng mến đối với nhau và đối với hết mọi người, như họ đã thấy ở nơi Người. Người đối với họ làm sao thì họ đã biết và Người đối với mọi người khác làm sao thì họ cũng đã thấy; vì không phải Người chỉ nhiệt tình đối với họ, nhưng đối với mọi người và đối với cả thế giới. Lòng mến của Người khiến Người bôn ba và chịu khổ không ngừng để cho mọi người được ơn Chúa cứu độ. Con chiên của Người, phải bắt chước Người. Trong khi trông đợi ngày Chúa trở lại, người ta không được ung dung nhàn rỗi; nhưng phải nỗ lực xây dựng cho kịp thời Chúa viếng thăm. Chỉ có như thế người ta mới có thể vô phương trách cứ trong sự thánh thiện trước mặt Thiên Chúa và vào thời quang lâm của Chúa chúng ta.
Lời khuyên tổng quát ấy thiết tưởng đã đủ. Nhưng Phaolô như người cha nhân ái còn muốn chỉ dẫn tỉ mỉ hơn. Người sẽ nói đến những thái độ cụ thể. Tuy nhiên tất cả sẽ chỉ là suy diễn từ chính thái độ và giáo huấn của các tông đồ mà con chiên của Người đã biết. Họ chỉ cần cứ sống như vậy và tiến thêm.
Chúng ta cám ơn thánh tông đồ đã nói với chúng ta những điều ấy. Nếu trong mùa Vọng ngày Chúa đến tức là trong suốt cuộc đời đi về với Chúa, chúng ta luôn bắt chước các Tông đồ, có lòng nhiệt tình đối với hết mọi người và muốn cho đời sống đạo đức luôn tiến thêm, thì chắc chắn sự công chính thánh thiện mà Chúa Kitô đã mang vào thế gian sẽ không ngớt lan rộng và tất cả sẽ vô phương trách cứ vào thời quang lâm của Người. Tinh thần mùa Vọng, vì thế, đầy tính cách truyền giáo và tiến bộ. Chúng ta phải cầu xin được thêm lòng mến như lời thánh Phaolô nói để có động lực giúp sống sẵn sàng và cầu nguyện không ngừng.
Lòng mến ấy, giờ đây chúng ta hãy thắp lên nhờ việc tham dự thánh lễ. Việc Chúa đến với chúng ta nơi bàn thờ không những nhắc nhở lại việc Người đã Giáng sinh vì chúng ta, mà còn hướng đến việc Người sẽ trở lại trong vinh quang. Nhớ lại công ơn Người đã làm cho chúng ta trong thời gian Người tại thế, chúng ta hãy sốt sắng cảm mến rước lấy Người nơi bí tích Thánh Thể, để với sự sống của Người, chúng ta nhiệt tình hướng về ngày Người trở lại. Người đã đến với chúng ta nơi xác thịt con người, Người muốn đến với chúng ta nơi Thánh Thể; Người sẽ đến với chúng ta trong vinh quang. Ðó là ba lần Chúa đến với mỗi người. Cả ba đều quan trọng, nhưng chủ quan thì lần thứ hai quan trọng hơn vì lẽ nó đón nhận lần thứ nhất và chuẩn bị lần thứ ba. Do đó, chúng ta hiểu hơn về vai trò của Thánh lễ trong đời sống và đặc biệt trong mùa Vọng. Chúng ta sẽ tham dự thánh lễ này sốt sắng và chúng ta quyết tâm sẽ dự lễ các Chúa nhật mùa Vọng sốt sắng hơn mọi khi.
Chúa Nhật đầu tiên của năm phụng vụ, là Chúa Nhật thứ I mùa vọng, nhưng các bài đọc sách: MV 1-C78
Chúa Nhật đầu tiên của năm phụng vụ, là Chúa Nhật thứ I mùa vọng, nhưng các bài đọc sách thánh và bài Tin Mừng lại nói về ngày cánh chung. Thật ra Chúa đến trong thế giới hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Giáo Hội lại muốn nhắc ta nhớ lại ngày Chúa đến, và ngày phán xét cũng là ngày mà mỗi người đang chờ đợi. Cho nên điều quan trọng trong thời gian Mùa Vọng này không phải là tưởng niệm ngày Chúa Giáng Sinh, hay xem dấu hiệu ngày tận thế, mà phải biết dọn mình thức tỉnh đón Chúa trong bất cứ lúc nào.
Trong Mùa Vọng Giáo Hội không muốn chúng ta đợi Chúa đến cách thụ động, mà muốn ta sống tâm tình đó cách năng động. Đặc biệt Giáo Hội muốn ta sống lại những tâm tình của bao thế hệ xưa đã mòn mỏi trông chờ Chúa. Nhất là muốn ta dùng Mùa vọng này để đón Chúa mùa Giáng Sinh, từ đó cũng đón nhận được những ơn mới Chúa ban trong dịp này để làm cho tâm hồn ta ngày càng được lớn lên trong tình yêu Chúa, giúp ta sống Mùa Vọng cách quyết liệt ngay từ Chúa Nhật thứ nhất này. Đồng thời với việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh Giáo Hội cũng nhắc ta chuẩn bị ngày Chúa đến sau hết trong ngày cánh chung.
Chúa đã đến với ta rất nhiều lần trong đời, nhưng đến ngày phán xét Chúa sẽ đến “như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Tuy rằng phúc âm có nói: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”. Nhưng nếu con người không thức tỉnh chắc chắn sẽ bị chìm vào nơi tăm tối. Mặc dù Chúa nói: “anh em sắp được cứu chuộc”. Nghĩa là không phải là tất cả mà chỉ là những người biết sống như năm cô khôn ngoan biết đem dầu và đèn. Ngược lại nếu chỉ sống như những cô khờ dại thì ngày đó thật khủng khiếp. Vì ngày đó còn gọi là ngày phán xét chung, nên mỗi người phải trả giá cho việc mình làm, trả lời cho Chúa về những ơn huệ mình đã lãnh nhận, và đã sinh lợi thế nào. Khi nói đến ngày phán xét thì người ta sẽ nghĩ đến hai hạng người: kẻ lành được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Còn kẻ dữ phải sa hỏa ngục ở đó phải đau khổ, khóc lóc nghiến răng. Hình phạt của kẻ dữ là đời đời không được thấy Chúa. Nhất là không còn được ở trong tình yêu của Người nữa.
Chắc chắc trong chúng ta không ai muốn bị vào số của những kẻ dữ, muốn sa hỏa ngục. Để dừng bị như thế đòi hỏi chúng ta phải dọn mình để đón Chúa ngay trong giây phút này. Đặc biệt là trong mùa vọng mỗi người chúng ta hãy dọn mình để chuẩn bị kỷ niệm việc Chúa đến. Nhưng dọn mình bằng cách nào? Mỗi người hãy nhớ lại tâm tình của người tội lỗi; để được ơn tha thứ ta phải ăn năn và quyết tâm không bao giờ phạm nữa. Thì trong giây phút này đặc biệt là trong mùa chờ đợi Chúa đến, mỗi người hãy ăn năn chê ghét hãm mình đền tội. Nhất là biết chết đi con người cũ và sống lại với con người mới để đón Chúa đến trong một ngôi nhà không vết nhơ, nhưng lộng lẫy trong tâm hồn thánh thiện.
Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta dọn mình đón Chúa cách riêng tư. Vì Chúa đến mang ơn cứu độ cho mọi người. Do đó, Mùa vọng còn là mùa để mỗi người mang ơn cứu độ đến cho tha nhân bằng cả tâm hồn và lòng tha thiết. Mỗi hành động ta làm cho tha nhân là một hành động ta đang làm cho Chúa. Vì vậy ngày Chúa đến lần thứ hai Ngài sẽ phán xét ta về việc bổn phận với tha nhân, cách cư xử với anh em. Nếu chúng ta muốn được Chúa mang hạnh phúc cho mình trong Mùa Giáng Sinh này, thì trước tiên chúng ta hãy biết mang lại hạnh phúc cho anh em chúng ta trong mù vọng này.
Tóm lại Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống tâm tình của người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Nhưng mùa vọng là thời gian tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử. Chính vì thế mà mỗi người phải biết dọn mình, để sẵn sàng đón Chúa cho dù Ngài đến bất cứ lúc nào cũng biết thức tỉnh để ra ngênh đón.
Lạy Chúa, Mùa vọng không chỉ là mùa chờ đọi mà còn là mùa sám hối, vì chỉ có sám hối ăn năn là cách chờ đợi Chúa tốt nhất và đẹp lòng Ngài nhất. Amen
---------------------------
MV 1-C79: SẴN SÀNG LÊN ĐƯỜNG
Lc 21, 25-36
Gp. Vĩnh Long
Có cuộc hành trình nào mà người lữ khách không chuẩn bị hành lý ?! Chuyến đi càng xa và càng: MV 1-C79
Có cuộc hành trình nào mà người lữ khách không chuẩn bị hành lý ?! Chuyến đi càng xa và càng quan trọng thì sự chuẩn bị càng phải chu đáo hơn và cẩn trọng hơn. Đời người được sánh ví như một chuyến đi, đi về quê hương thật của mình. Quê hương ấy chính là Nước trời. Trần gian được coi như cõi tạm mà con người là thân lữ khách phải đi qua. Chuyến đi này thật quan trọng và mang tính quyết định cho số phận đời đời của con người. Nhưng thử hỏi, có bao nhiêu người đã ý thức mình là thân lữ khách? Có mấy người đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi này? Chúng ta đã chuẩn bị được gì và có sẵn sàng lên đường cho cuộc hành trình ấy chưa?
Phải chuẩn bị những gì?
1. Tâm hồn cho nhẹ nhàng, thanh thoát:
Chuyến đi định mệnh này đòi hỏi con người mang túi hành lý là chính tâm hồn mình, để sao cho nó thật nhẹ nhàng và thanh thoát. “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc21,34). Xã hội ngày nay có nhiều cuộc vui đã cuốn hút nhiều người đi vào trong đó và biến họ thành những con rối, những con thiêu thân. Họ quay cuồng theo tiếng nhạc kích động, buông mình theo những làn khói trắng và những chén rượu nồng, đến quên cả lối về. . .Chè chén say sưa là đi vào những cuộc vui không biên giới. có nhiều người thì lại quá bận tâm đến chuyện làm giàu, cũng cố địa vị và chỗ đúng cho mình đến độ không còn chỗ cho Chúa trong tâm hồn mình nữa. Thời gian của họ đã dành hết cho công việc làm ăn sinh sống và gia đình con cái nên không có thời gian để lo lắng cho linh hồn mình cũng như lo lắng cho việc thờ phượng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến biến cố Hồng Thuỷ trong thời Nôe xem thế nào? Mọi người vui chơi, cưới vợ gã chồng, bình an như không bao giờ phải chết! Noê bị coi như người làm chuyện nhảm nhí, điên khùng. . . Rồi hồng thuỷ xảy đến, cuốn trôi tất cả, ngoại trừ gia đình Noe!
Việc sống đạo sốt sắn có thể bị coi như công việc làm dư thừa, chuyện của những con người non dạ, chuyện của trẻ con nếu không muốn nói là điên khùng! Nhưng chúng ta biết mình đang làm gì, cũng như Nôe biết công việc của ông làm vì ông tin vào lời Chúa phán với ông.
2. Đón ngày Chúa đến:
Mùa vọng là thời gian chúng ta hướng lòng về Chúa, mong đợi Chúa đến trong vinh quang và quyền năng: “Ngự giá mây trời mà đến”. Ngày Chúa đến sẽ làm cho mọi sự biến đổi. Trời đất sẽ rung chuyển khiến cho những gì con người từng nghĩ rằng nó là biểu tượng của sự vững bền ở trần gian sẽ phải tan biến để nhường chỗ cho vinh quang của Đấng Cứu độ con người. Những ai không mang trong mình niềm hy vọng sống sẽ phải rung sợ và hoang man. Còn con cái của Chúa, những người sống trong niềm tin và hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa sẽ “ngẫng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ”.
3. Thái độ sống: Tỉnh thức và cầu nguyện:
Đây là tâm thế cần thiết và xứng hợp của những con người sống niềm tin và hy vọng. Tỉnh thức để khỏi vướng vào những cám dỗ tinh vi của ma quỷ. Cầu nguyện để có sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Vũ khí chắc chắn nhất của con cái sự sáng là cầu nguyện. Cầu nguyện là mặc áo giáp. Xông vào cuộc chiến mà không có áo giáp sẽ dễ bị thương tích và ngã quỵ. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ lai bỏ đời sống cầu nguyện bất cứ trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Ngàu nào chúng ta bỏ cầu nguyện là dấu hiệu chúng ta đang có nguy cơ thua cuộc trong cuộc chiến chống lại ác thần. Hãy mặc lấy chiếc áo giáp cầu nguyện để chuẩn bị tư thế lên đường tiến về Nhà Cha, về quê hương đích thực của mình.
---------------------------
MV 1-C80: HÃY TỈNH THỨC
Lc 21, 25-36
Gp. Vĩnh Long
Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ tru” (Lc 21, 26). Đây là lời tiên báo: MV 1-C80
“Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ” (Lc 21, 26). Đây là lời tiên báo của Chúa Giêsu về sự thật ngày cánh chung. Nhưng, hơn 20 thế kỷ đã trôi qua, nhân loại vẫn còn tồn tại. Những câu chuyện về ngày cánh chung của Chúa Giêsu trở thành những câu chuyện cổ tích xa xôi. Nhân loại đang an tâm trong giấc ngủ say của những tư tưởng cánh chung riêng mình. Bởi Thiên Chúa đã chết rồi còn đâu.
Giấc ngủ của người vô thần.
Một chế độ chính trị ổn định, một nền kinh tế phát triển, một hệ thống giáo dục vững mạnh, một gia đình hạnh phúc… là thành công. Đó là quan niệm chung của con người thế kỷ 21 này, hay nói rõ hơn là quan niệm của những người không tin vào thượng Đế. Thế nhưng, đó là sự thành công trong một giấc ngủ say. Một lý tưởng sống rất tầm thường, một thái độ đang chối bỏ sự thật. Người vô thần cho rằng tất cả những gì họ làm là cho con người. Họ cố gắng rất nhiều, nỗ lực rất nhiều. Lẽ ra họ phải được coi là những người tỉnh táo và sáng suốt hơn bất kỳ ai. Tại sao cho rằng họ đang ngủ say? Rõ ràng một người duy trì một chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình ổn định, là những người có năng lực. Tôi dám khẳng định họ có khả năng lên kế hoạch, dự phóng rất tốt về tương lai trong 5 năm hay 10 năm. Tôi biết rõ họ chuẩn bị cho những kế hoạch đó rất kỹ lưỡng, chu đáo. Tôi tin rằng họ sẽ thành công. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ về sự ra đi ngày mai của họ. Một sự thật mà họ không tin, không muốn nghĩ đến. Và giả có nghĩ đến thì cũng không dự đoán được. Vậy đương nhiên là không có chuẩn bị gì cho ngày thế mạt đó. Đó phải chăng là một giấc ngủ say của cuộc đời?
Giấc ngủ của Kitô hữu.
Kitô hữu biết Chúa tử thuở nhỏ, tin Chúa từ khi lọt lòng mẹ qua niềm tin của Giáo Hội. Hiểu rõ về biến cố cánh cung có thật trong cuộc đời mình. Nên ta nghĩ rằng mình đang tỉnh thức trong cơn ngủ say của nhân loại. Ta đã lầm. Sự thật Kitô hữu cũng đang ngủ say. Ngủ trước sự quang lâm từng ngày của Thiên Chúa và ngủ bên những nhu cầu của tha nhân. Phụng vụ Kitô giáo kêu gọi tín hữu hướng về sự quang lâm của Chúa đặc biệt qua phụng vụ mùa vọng. Mừng Chúa đến lần thứ nhất và trông đợi Chúa đến lần thư hai. Chúng ta an vị trong những cử hành phụng vụ của Hội Thánh mà quên rằn Chúa đã quang lâm hằng ngày, từng giờ, từng phút trong cuộc đời ta. Chưa nhận ra Chúa Kitô đến trong cuộc đời mình thì mãi mãi ta sẽ sống trong thái độ mỏi mòn chờ Chúa. Nhận ra Đức Kitô đến với chúng ta từng ngày sẽ làm đôi mắt tỉnh ngủ với tha nhân. Ta sẽ có những thao thức của đức ái và hành động theo những đòi hỏi của con tim. Thái độ cơ bản của tỉnh thức là hướng đến việc nhận ra Đức Kitô đến từng giây phút trong đức tin và bản thân đến với tha nhân từng ngày trong đức ái.
Chúa nhật I mùa vọng Chúa Giêsu mời gọi ta tỉnnh thức. Ở đây Ngài không phân biệt đối tượng là vô thần hay hữu thần. Tất cả những ai trong trạng thái ngủ say đều được mời gọi: “Đừng chè chén say sưa”. Những ai biết dừng lại, biết sửa say đều đón nhận được ơn cứu độ.
---------------------------
MV 1-C81: SỐNG TĨNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN
Lc 21, 25 – 28. 34 – 36
Gp. Vĩnh Long
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ Năm C: MV 1-C81
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ Năm C. Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng giáng Sinh, trong lễ này, kính nhớ việc Con thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, mùa vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi ( trích AC 39).
Mùa vọng là mùa trông đợi, ai đã từng trông đợi thì đều cảm nghiệm được sự bồn chồn lo lắng, hồi hộp pha lẫn niềm vui của đợi chờ: như em bé đợi mẹ đi chợ về, như học trò chờ đợi kết quả sau những ngày chăm chỉ học tập, như người công nhân trông đợi ngày cuối tháng để lảnh lương, như người nông dân chờ đợi mùa thu hoạch đến, như người yêu đợi người tình, như ruộng khô hạn trông mưa ….tất cả đều chờ đợi một tương lai đổi mới với những điều tốt đẹp hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai ngày Con Người đến trong vinh quang, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và đợi chờ, trong lúc đợi chờ ngày trọng đại ấy đến thì sẽ có nhiều điềm thiêng dấu lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, nhân loại sẽ lo âu và sợ hãi ngày ấy đến.
1. Dấu hiệu của thời đại.
Dấu hiệu của thời đại ngày càng rõ rệt hơn, ứng nghiệm với lời cảnh báo của Chúa Giêu trong bài tin mừng hôm nay, dấu hiệu mà nhân loại có thể thấy được, sờ được, đó chính là chiến tranh, đói khát và ôn dịch, động đất, sóng thần, bệnh tật, HIV/AIDS, H5N1,H1N1,… với dấu hiệu ấy, người Kitô hữu chỉ có một thái độ duy nhất là ngẫng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến. Nhưng thực ra, ơn cứu độ đã đến hơn hai ngàn năm nay rồi, và thời viên mãn của nó cũng đang đến gần khi những điềm thiêng dấu lạ mà Chúa Giêsu đã loan báo đã và đang xảy đến. Người Kitô hữu là những người nhạy bén nhất trước những hiện tượng xảy ra của thời đại, bởi vì hằng ngày họ đều được nghe và suy gẫm lời dạy của Chúa Giêsu, và vì thế họ từng giây từng phút tỉnh thức và chuẩn bị ngày quang lâm của Ngài.
2. Tỉnh thức và đề phòng
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, tức là Ngài muốn chúng ta phải sẵn sàng luôn trong mọi hoàn cảnh và tình huống, bởi vì:
Có những người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người ăn thua đủ bên canh bạc thâu đêm.
Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người đang say đắm trong đam mê xác thịt, thân xác thì thức để chờ đợi cơn khát vọng của nhục dục, nhưng tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.
Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng cảnh giác, đó là những người kiêu ngạo, họ tỉnh thức trong kiến thức hạn hẹp của mình khi ai đó phê bình góp ý cho việc làm của mình, nhưng tâm hồn thì đã thoả mãn trong sự đắc thắng của mình...
Người Kitô hữu không thức tỉnh để ăn thua với canh bạc, vì đó là chuyện của con cái tối tăm; người Kitô hữu cũng không tỉnh thức để chờ đợi cuộc nhậu thâu đêm. Nhưng người Kitô hữu tỉnh thức để chờ đợi ngày sum họp với Chúa Giêsu, Đấng đã và đang đến trong cuộc sống của họ...
Thế nên, Mùa vọng không những giúp cho chúng ta biết thức tỉnh và chờ đợi ngày Chúa đến trong vinh quang để phán xét, mà còn thức tỉnh chờ đợi Chúa đến với mỗi người chúng ta, bởi vì dấu hiệu của thời đại trước hết không ở đâu xa, mà nó ở ngay trong con người của mình, chính là:
Khi chúng ta sung sướng hưởng thụ vật chất là dấu hiệu của những ngày đói khổ của linh hồn,
Khi chúng ta phê bình chỉ trích anh em là dấu hiệu ngày phán xét công thẳng và kinh khiếp đối với linh hồn và thân xác,
Khi chúng ta kiêu căng với mọi người là dấu hiệu của người bị hạ xuống tận cùng vực sâu,
Khi chúng ta vu oan giá hoạ cho người thì đó là dấu chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa lên án trong ngày chung thẩm...
Trong tâm tình chờ đợi Chúa đến, trong tuần thứ 1 mùa vọng này, Lời Chúa muốn nhắn nhủ với chúng ta là Chúa đến gần rồi đó, còn chúng ta, chúng ta hãy lo chuẩn bị sẳn sàng để đón Chúa. Chuẩn bị bằng thái độ tỉnh thức và cầu nguyện, bởi vì Chúa đến với chúng ta rất bất ngờ, bất ngờ ngay khi chúng ta lo cặm cụi làm các công việc thường ngày của mình, như nấu cơm, giặt giũ, may vá, đi ruộng, đi chợ, đi học, đi làm…Rồi chúng ta còn biết tỉnh thức để luôn luôn cảnh giác về những tình trạng lỗi phạm mà chúng ta thường gặp như lười biếng, như bỏ đọc kinh cầu nguyện, như làm thương tổn cho người khác, như làm mất lòng những anh chị em chung quanh chúng ta, sống thiếu lòng bác ái...
Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ buồn lắm, nếu đến ngày Ngài viếng thăm mà Ngài vẫn thấy chúng ta còn đang hững hờ, vẫn còn chưa chuẩn bị gì hết, vẫn cặm cụi với trăm công ngàn việc, vẫn mãi mê với những tình hư tật xấu, vẫn chưa sẵn sàng, vẫn chưa đổi mới…Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn luôn có được thái độ tỉnh thức và cầu nguyện, để chúng ta luôn tránh được những sai lầm đáng tiếc, tránh được những vấp ngã, tránh được những điều làm hại cho người khác, sống bác ái, yêu thương giúp đỡ chia cơm sẻ áo cho mọi người… để chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu giáng sinh đang ngự đến hằng ngày trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết sống tỉnh thức và cầu nguyện. Amen.
Nếu giờ nầy đây, có ai đó đến hỏi từng người trong chúng ta; đang mơ ước điều gì. Chúng ta: MV 1-C82
Nếu giờ nầy đây, có ai đó đến hỏi từng người trong chúng ta; đang mơ ước điều gì. Chúng ta sẽ trả lời ra sao? Người thì mơ ước có được cuộc sống đúng như ý mình. Người thì mơ ước được có cơ hội phát triển tài năng. Người mơ ước học giỏi, mơ ước được nhiều người thương. Người mơ ước có được nhiều tiền. Người mơ ước có được chỗ đứng khá tốt trong cuộc sống…Còn biết bao nhiêu mơ ước nữa. Với những mơ ước, con người cố gắng tìm mọi cách đạt cho được những gì mình mơ ước và hy vọng.
Mơ ước, hy vọng nghĩa là sống. Không mơ ước, không hy vọng, thì cuộc sống không còn ý nghĩa. Nhưng mơ ước, hy vọng chính đáng thì con người mới có giá trị, còn mơ ước hy vọng ngông cuồng, rồi dùng tất cả mọi cách để đạt mục đích, bất chấp tất cả. Đó là một điều đáng tiếc.
Chúa Giêsu vừa nhắc cho chúng ta về sự mơ ước, hy vọng của mỗi người. Nếu mơ ước, hy vọng không chính đáng, thì tất cả sẽ bị tàn phá và con người sẽ phải lâm vào tình trạng sợ hãi. Ngài kêu gọi mọi người đặt hy vọng vào ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến. Khi đó con người sẽ đứng thẳng và ngẩn đầu lên vì ơn cứu rỗi đã đến. Khi mơ ước điều gì, thì sẽ để hết tâm hồn vào điều đó, đem tất cả cuộc sống, dốc tất cả sức lực vào để đạt được mục đích. Nếu Chúa là mục đích của mơ ước, của hy vọng, khi đó chúng ta mới có thể đứng thẳng và ngẩn đầu lên để chờ đón Chúa đến.
Hiện tại, chúng ta đang mơ ước điều gì ?
Có phải cũng như bao nhiêu người bình thường khác. Chúng ta chỉ biết mơ ước những điều chóng qua, mơ ước những điều không giá trị, để rồi nếu giờ nầy, ngay bây giờ đây, Chúa đến bên cạnh và hỏi từng người trong chúng ta với câu hỏi: đang mơ ước gì? Chúng ta sẽ trả lời ra sao? Hay chúng ta lại phải run sợ như đứng trước loạn lạc, chiến tranh. Chúng ta sợ mất mát đi những gì mình đang tìm kiếm nhưng chưa đạt được. Chúng ta cũng lo sợ mất đi những gì mình đang có trong tay. Chúng ta cũng lo sợ Ngài sẽ biết tất cả những gì mình đang toan tính. Còn biết bao nhiêu điều lo sợ khác nữa, vì những mơ ước của chúng ta không chính đáng.
Có bao giờ chúng ta mơ ước mình sống sao cho đẹp lòng Chúa, rồi với tất cả sức lực, với cả tâm trí, trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta sống tốt, làm tốt những công việc hằng ngày với tinh thần trách nhiệm. Chúng ta đối xử tốt với những người chúng ta gặp gỡ, biết giúp đỡ những người cần đến mình, biết dằn đi những cơn nóng giận, để bớt đi những lời nói chua cay, gắt gõng, bớt đi những hành động cọc cằn thô lỗ. Chúng ta nhìn thấy được Chúa Kitô trong người bạn thường ngày mà mình gặp gỡ, để bỏ đi một chút ích kỷ, mà sống quảng đại tha thứ. Được như thế, chúng ta không còn sợ hãi khi Chúa đến bất ngờ nhưng chúng ta dám đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì ơn cứu rỗi đã gần đến.
Bước vào mùa vọng hôm nay, chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết nhìn đúng hướng của cuộc đời, để chỉ biết mơ ước và hy vọng vào Chúa và luôn làm mọi việc theo Thánh Ý Chúa.
---------------------------
MV 1-C83: HÃY TĨNH THỨC VÀ SẴN SÀNG
Lc 21,25- 28. 34- 36.
Gp. Vĩnh Long
Chúa phán: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến: MV 1-C83
Chúa phán: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”. (Lc 21, 36)
Câu chuyện tôi sắp kể đây, vừa xảy cách đây không lâu (09.11.2006): một anh giáo lý viên có tuổi có đứa con đang đi đại học; đứa con bổng bị đâm chết và gia đình đang kêu hoảng, vừa lo ma chay.… Điều tôi muốn nói, có liên quan tới cái chết của chú thanh niên trẻ này là: cách đây vài tháng, người cha giáo lý viên trong họ đạo lớn, trong cuộc bầu cử lại vào hàng Ban Qưới chức mới, đã không được bầu, nên anh bất mãn; và vì giận hờn, cả gia đình anh cải theo đạo Tin Lành; anh còn tỏ ra thái độ thù hằn, bài xích công giáo nữa. Nguyên do anh không được bầu, vì anh có nhiều khuyết điểm, không gương mẫu, nhất là vì anh vừa cưới vợ cho đứa con đang đi đại học, không có phép hôn phối… Bên ngoài người ta xầm xì: Chúa phạt! Thực ra, người Công giáo chúng ta không kết án như thế; nhưng chắc chắn đó là dấu chỉ nhắc nhở mọi người còn sống: hãy đề phòng, hãy tỉnh thức, đừng để mọi chuyện xảy tới như chiếc lưới chụp xuống đầu mà mình không hay biết gì, vì đã không chuẩn bị trước. Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ soi sáng cho ta hiểu rõ câu chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Bài Tin Mừng hôm nay, trích trong bài giảng về ngày tận thế. Chúa Giêsu dùng lối văn khải huyền như Cựu Ước để diển tả giáo huấn mà Chúa muốn nói. Chúa vì hiểu thấu sự yếu mềm và lầm lạc của con người, nên đã mạnh mẽ kêu gọi ta phải đề phòng. Nhưng làm cách nào để đề phòng? Hai phương thế đề phòng, đó là tỉnh thức và cầu nguyện.
Trước tiên, Tỉnh thức: tỉnh thức không phải là ngồi yên một chổ, mà là tích cực sống với tinh thần ý thức trách nhiệm, biết chọn lựa cái nào là thật và có giá trị cho mình, đồng thời sống trong mối tương quan tốt với Chúa và mọi người, thực sự bác ái, yêu thương, quảng đại, tha thứ, luôn trông cậy và sống theo Thánh Ý Chúa… Như thế thì khi chiếc lưới thình lình ụp xuống, ta đâu cần phải lo lắng điều gì nữa? Ngược lại nếu ta cứ tìm thú vui vật chất, lo lắng sụ đời, lười biếng, vụ lợi…. sống như thế thì khi chiếc lưới ụp xuống, cái gì sẽ nâng đỡ, sẽ cứu giúp cho ta?
Thứ hai: Cầu nguyện: theo sách GLCG, cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Chúa trong tình yêu; nhưng phương thế hữu hiệu nhất để ta nâng tâm hồn lên với Chúa, chính là tham dự tích cực các nghi lễ phụng vụ, các bí tích, vì chính qua các bí tích, ta mới gặp gỡ Đức Kitô dễ dàng và hữu hiệu…
b.Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hãy tỉnh thức: năm nào vào Mùa Vọng, ta cũng nghe câu nói này. Nếu năm nay, hay tháng này, Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi sẽ phản ứng ra sao? Nhất là bao lâu nay, tôi đã chuẩn bị cho ngày đó thế nào đây?
* Mùa Vọng là mùa hi vọng, mùa chuẩn bị đón Chúa đến, đón Chúa đến dịp lễ Giáng sinh, nhất là đón Chúa đến trong cuộc đời của mình. Trông chờ Chúa đến, không phải ngồi đó mà chờ, nhưng phải biết sống tích cực, phải tỉnh thức và cầu nguyện như Chúa dạy, phải trung thành với bổn phận mình. Bao lâu nay ta đã chờ đợi Chúa như thế nào?
* Khi ta lãnh nhận Bí tích rữa tội, chính là lãnh nhận thẻ Công dân Nước Trời. Vậy khi nhìn nhận mình là Công dân Nước Trời, lúc còn sống ở trên đời này, ta có nhận mình là khách lữ hành đang tiến về Nước Trời không? Nều nhận mình là khách lữ hành, ta không được sống tiêu cực, hưởng thụ,… ngược lại phải sống xứng với địa vị là khách lữ hành, là công dân Nước Trời không?
---------------------------
MV 1-C84: HY VỌNG
Lc 21,25- 28. 34- 36.
Gp. Vĩnh Long
Khi còn nhỏ, mỗi lần tựa cửa đợi mẹ đi chợ về là mỗi lần trong tôi có những tình cảm mong: MV 1-C84
Khi còn nhỏ, mỗi lần tựa cửa đợi mẹ đi chợ về là mỗi lần trong tôi có những tình cảm mong nhớ, đợi chờ, hy vọng... Mong nhớ vì mẹ đi chợ chắc chắn mẹ sẽ về, hy vọng vì rất có thể tôi sẽ có được quà bánh...
Hôm nay Chúa Nhật thứ I Mùa vọng, bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa vọng ( Adventus) có ý nghĩa hướng tâm hồn người tín hữu về việc Chúa Kitô sẽ trở lại vào ngày quang lâm, cũng như hướng tâm hồn mừng kỷ niệm việc Chúa đã đến trong lịch sử. Giai đoạn đầu mùa vọng Giáo hội chuẩn bị chờ đón cuộc tái lâm của Đức Kitô. Cuộc tái lâm sẽ hoàn tất mọi sự, cuộc tái lâm mà mọi người mong ngóng lo âu. Chúng ta những người Kitô hữu chờ đợi ngày đó như thế nào? Sợ hãi hay hy vọng.
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cũng như nhiều đoạn khác trong Kinh Thánh( Mc 13,24-27; Mt 24,3tt; 1Tx2,19....) cho ta thấy ngày trở lại của Đức Kitô thật vĩ đại kinh hoàng: đất đá nổ tung, mặt trời không còn chiếu sáng... thế thì ai lại mong chờ ngày ấy, ngày Chúa quang lâm.
Với mớ giáo lý vế tứ chung mà tôi được học từ nhỏ, tôi thường xin Chúa đừng trở lại lúc tôi còn đang sống trên dương thế vì tôi nghĩ nó quá khinh khủng, hãi hùng. Nhưng thật sự ngày quang lâm của Đức Kitô có hãi hùng như thế không?
Thánh Kinh dùng nhiều kiểu nói khải huyền để nói về ngày quang lâm chỉ với mục đích là diễn tả quyền năng của Thiên Chúa trên hoàn vũ. Ngày Chúa quang lâm là lúc Chúa biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa trên vạn vật, còn những hình ảnh được nói tới trong Kinh Thánh chỉ là tùy phụ so với uy quyền của Thiên Chúa. Vậy có nên sợ ngày quang lâm? Ngày Chúa trở lại là ngày Chúa hoàn tất mọi sự, Chúa sẽ tách biệt người lành kẻ dữ....nên ngày đó cũng phải là một ngày hãi hùng. Nhưng nỗi sợ đó phải là một nỗi sợ trong tình yêu vì Chúa sẽ xét xử ta trong tình yêu. Thánh Matthêu ghi lại hình ảnh cuộc phán xét chung thật nhẹ nhàng nhưng dứt khoát ( Mt 25, 31-46). Trong đoạn Tin Mừng ấy, Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với những người hèn mọn nhất và phần thưởng của ta có được là do ta biết yêu mến những con người hèn mọn đó. Như thế nỗi sợ của ta đang khi mong chờ Chúa trở lại phải là một nỗi sợ thánh. Ta sợ vì ta chưa yêu Chúa thật lòng, chưa nhận ra Chúa nơi anh em, sợ mất lòng Chúa....và nỗi sợ này thúc giục ta thực thi lòng mến chứa chan và thiết thực hơn .
Ngày Chúa trở lại cũng phải là một ngày đầy hy vọng. Nếu không có quà cho tôi thì mẹ tôi cũng không bao giờ phạt hay đánh tôi khi tôi chờ mẹ. Đức Kitô chính là niềm hy vọng của chúng ta (Cl 1,27). Mầu nhiệm cứu độ đã được Đức Kitô thực hiện trong lịch sử cứu độ chẳng lẽ lại vô hiệu cho những ai hy vọng vào Người. Chính Chúa Giêsu đã mở lối cho ta dõi bước tiến vào đời sống vĩnh cửu. Ngày Chúa trở lại hẳn thật là một ngày đầy hạnh phúc vì ta sẽ được hưởng kiến nhan Chúa trọn vẹn, được thỏa mãn mọi mong ước...trong ngày chiến thắng của Đức Kitô. Và vì là thần dân của Người ta cũng được vinh hiển với Người.
Tóm lại, đang khi còn sống trên dương thế ta không thể biết được rõ ràng ngày Chúa trở lại như thế nào. Tuy nhiên, nhờ mạc khải ta biết được chắc chắn Chúa sẽ trở lại để hoàn tất mọi sự, ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Trong khi mong chờ ngày ấy, Giáo hội mời gọi ta tỉnh thức và hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ đưa mọi con cái trở về trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta cũng hãy nhìn về Đức Mẹ Maria, Mẹ là hình ảnh cánh chung của Giáo hội (GLHTCG số 972). Mẹ đã tin rằng Con Mẹ sẽ phục sinh cho dù chưa ai tin như thế và phần thưởng tuyệt vời Thiên Chúa dành cho Mẹ là hồn xác lên trời. Xin Mẹ cũng dạy cho chúng con biết tin tưởng, phó thác và hy vọng vào tin yêu Thiên Chúa khi Người trở lại.
Đạo binh Rôma đã chiếm đóng xứ Pa-lét-tin khoảng 60 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh: MV 1-C85
Đạo binh Rôma đã chiếm đóng xứ Pa-lét-tin khoảng 60 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh. Người Rôma lúc đó là ông chủ của thế giới, nắm gọn trong tay mọi nền văn hoá, tri thức, khoa học kỹ thuật và của cải. Theo đường lối chính trị khôn khéo, người Rôma cắt cử những người yếu nhược, ham danh vọng cá nhân để cai trị địa phương. Vua Hêrôđê là người thuộc bọn đó, ông được đặt làm vua xứ Giuđê khoảng năm 40 trước Chúa giáng sinh. Hêrôđê là con người độc ác và mê sắc dục, sẵn sàng thoả hiệp với người Rôma để bảo vệ quyền bính và tậu thêm của cải. Hêrôđê không phải là con người của đức tin, hoàn toàn chỉ là một bạo chúa dưới tay người Rôma.
Bị bóp nghẹt và bị hạ nhục bởi những quân ngoại giáo này, dân Do Thái chịu khuất phục, nhưng trong thâm tâm thì hậm hực, tự biết mình không đủ sức chống lại quyền lực hung mạnh kia. Một số người cố gắng sống sao cho có lợi nhất trong hoàn cảnh bất khả kháng này: họ chấp nhận sống yên phận, cố duy trì một chút tự do còn lại để thực thị lề luật Thiên Chúa.
Một số khác lợi dụng sự chiếm đóng của quân đội Rôma để thủ lợi làm giàu, họ thông đồng với người Rôma, chối bỏ đức tin cha ông. Đó là lựa chọn không những của bọn thu thuế và những thương gia, những gái điếm, mà còn có cả những triều thần vua Hêrôđê và đội vệ binh của ông. Nhiều người cố che đậy nỗi sợ hãi và khổ nhục bằng nhậu nhẹt và chơi bời phóng đãng, họ cố nuốt nỗi ô nhục và sự cắn rứt lương tâm.
Một số khác, nhân danh tôn giáo, tự hào về nền văn hoá và nòi giống, đã lập những nhóm cách mạng, chiến đấu giành tự do, khủng bố để trả thù. Họ dùng bạo lực để để chống đối, như ám sát những vị chỉ huy quân đội, những tay sai cho đế quốc mà họ cho là người tục hoá danh thánh Chúa.
Trong dân Do thái thời đó, chỉ có một nhóm nhỏ giàu có, còn phần đông dân chúng là nghéo nàn và khốn khổ. Nhiều người giàu, người có chức quyền coi khinh bọn hành khất, người phong cùi, tàn tật … họ cọi bọn này như bị Thiên Chúa phạt. Họ còn bị coi là ô uế, là nhơ nhớp, không được “tiếp xúc” với Thiên Chúa. Hô không có tiếng nói trong xã hội và không có chỗ đứng trong đền thờ. Họ không nhìn thấy chút hy vọng nào cho bản thân, mà chỉ thấy án phạt ở đời này và đời sau.
Chính trong lúc tình thế đang hỗn loạn và sôi sục tranh chấp nầy, trong lúc căm thù và tuyệt vọng âm ỉ trong lòng người, thì xuất hiện một người tên là Gioan. Gioan loan báo rằng “có một Đấng khác” đến sau ông. Đấng khác này là Đức Giêsu. Ngài không đến với các kinh sư và Pharisêu, không đến với người giàu có thống trị, nhưng đến với người nghèo hèn đau yếu, người bị áp bức khổ đau, đến với tất cả những ai thấp cổ bé miệng, với tất cả những ai bị loại trừ ra khỏi đền thờ Giêrusalem, những ai sống trong lo âu sợ hãi, những ai bị giam cầm trong tội lỗi. Ngài bảo họ đừng sợ hãi vì Thiên Chúa ở bên họ, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, Thiên Chúa cảm thương họ. Ngài ăn uồng với người thu thuế và tội lỗi. Ngài chạm đến người cùi để chữa lành họ. Ngài kêu gọi “hỡi những ai khó nhọc và mang gánh nặng nề hãy đến với Tôi”.
Đức Giêsu là hy vọng của dân Do thái xưa thế nào thì Ngài cũng là hy vọng của chúng ta trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa Giêsu để Ngài khơi lên trong chúng ta niềm hy vọng mới trong Mùa vọng này. Đền lượt chúng ta cũng hãy ra đi gieo niềm hy vọng mới cho anh chị em chung quanh chúng ta. Hãy làm cho thế giới này thêm hy vọng, thêm niềm vui qua từng cử chỉ lời nói và cung cách sống của chúng ta.
Ngày nay, nhiều công ty bảo hiểm đưa ra nhiều loại bảo hiểm khác nhau cho người dân tham: MV 1-C86:
Ngày nay, nhiều công ty bảo hiểm đưa ra nhiều loại bảo hiểm khác nhau cho người dân tham gia. Nào là bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, bảo hiểm tai nạn giao thông, bảo hiểm nhà đất...Người tham gia sẽ được nhiều ưu đãi khi có sự cố. Như vậy, có thể nói hơn bao giờ hết bảo hiểm ngày nay thật phong phu và đa dạng.
Dường như cuộc sống càng văn minh bao nhiêu thì mức độ an toàn lại càng mong manh bấy nhiêu. Từ đó, con người mong được chút nào đó bảo đảm nơi các loại bảo hiểm trên. Ngoài ra, thiết nghĩ có một loại bảo hiểm mà ta ít để ý tới mà nó lại là vấn đề sinh tử. Loại ấy là bảo biểm Nước Trời.
Mùa vọng là mùa của hy vọng và trông chờ. Hy vọng và trông chờ ngày đại lễ Giáng sinh – ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất. Hy vọng và trông chờ ngày Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày tận thế. Cách riêng, hy vọng và trông chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với từng người. Nói cách khác, người tín hữu hy vọng và trông chờ vào bảo hiểm Nước Trời. Loại bảo biểm này hoàn toàn miễn phí nên không có phân biệt thành phần tham gia.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến cho những ai biết tỉnh thức và sẵn sàng. Xem ra Lời Chúa được Thánh Luca ghi lại trong đoạn Tin mừng hôm nay có vẻ ghê sợ. Từ cảnh “muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” đến “người ta sẽ lo sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu....”. Rồi “ngày ấy như chiếc lưới bất thần ập xuống...”. Những hình ảnh đó muốn nói lên thế giới này rồi sẽ qua đi. Nó sẽ nhường lại cho thế giới mới tốt đẹp hơn.
Hơn nữa, thế giới mới này có đặc tính vĩnh cửu và không hư mất. Không có quyền lực nào có thể làm gì được với thế giới mới này. Đối với những ai đã được bảo hiểm Nước Trời lo thì bảo đảm và không có gì phải ghê sợ.
Tóm lại, những gì con người cho là vững chắc ở trần gian này như quyền lực, địa vị, tiền bạc, vợ đẹp con ngoan hay nhà cao cửa rộng.....Thậm chí mặt trời, ngôi sao, biển cả và hàng vạn tinh tú sẽ thay đổi hết. Lúc ấy chỉ còn tồn tại duy nhất loại bảo biểm Nước Trời. Cho nên, thái độ khôn ngoan của người ta là hãy trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Đồng thời, luôn biết chuẩn bị sẵn sàng bằng siêng năng cầu nguyện và tỉnh thức đừng để mình mê ngủ trong tội.
Ở cuối trình thuật, tên qủy chỉ rời xa Con Thiên Chúa “cho tới thời khắc ấn định”. Bức tranh: MV 1-C87
Ở cuối trình thuật, tn qủy chỉ rời xa Con Thin Cha “cho tới thời khắc ấn định”. Bức tranh nầy tượng trưng cho những cm dỗ thương xuyn của Đấng Messia trước những chọn lựa của Người. Hoang mạc l nơi m dn được giải phĩng khỏi kiếp nơ lệ ở Ai cập đ lm một cuộc xuất pht mới. Cha Gisu vì thế được Thnh Linh dẫn tới nơi đó để đến lượt Người định hướng: ở đó Người viết lại lịch sử Israel trong sự trung tín.
Hai lần ma qủy đặt vấn đề căn tính của Người:” Nếu ơng l Con Thin Cha..”. Người Do Thái đ thử thch Thin Chanhư vậy khi nghi ngờ Người. Cm dỗ đầu tin của họ l quay trở lại Ai Cập, bn cạnh những nồi thịt: “Ai sẽ cho chng ta thịt để ăn? Chúng ta đ hạnh phc hơn khi ở Ai Cập”.
Sau 40 ngy ăn chay,theo một kinh nghiệm tơn gio phổ qut, Cha Gisu thấy đói bụng. “Nếu ơng l Con Thin Cha – ma qủy nĩi xa nĩi gần – hy ra lệnh cho hịn đá nầy trở thnh bnh”. Người trả lời bằng một hng Đệ Nhị Luật 8,3:”Con người sống khơng nguyn bởi bnh,nhưng bởi tất cả những gì đến từ miệng Thin Cha”. Tất cả những lựa chọn của Người sẽ được điều chỉnh theo Lời Cha.
Cm dỗ thứ hai lấy lại cm dỗ con b vng (Xh 32,4) hoặc cuộc tìm kiếm những dấu lạ ( Xh 17,7). Con Thin Cha bị cm dỗ lợi dụng quyền năng của Người để thắng địch thủ v thống trị thế giới hữu hình.
Suốt cuộc đời,Người sẽ bị cm dỗ tổ chức, cng với các đám đông v cc mơn đệ của Người, việc chinh phục quyền lực v vinh quang chống kẻ chiến đóng La M. Người trả lời lần thứ hai bằng một trích dẫn trong Đệ Nhị Luật 6,13:” Người phải kính y Đức Chu l Thin Cha ngươi v chỉ phụng sự một mình Người”. Luật lệ tối thượng của Người, cho đến khi chết trn thập gi, l thnh ý duy nhất của Thin Cha Cha.
Cuối cng cm dỗ thứ ba tập trung vo Girusalem, nơi Cha Gisu sẽ không được cc thin thần bảo vệ. Người sẽ từ chối cậy đến cc phương tiện ngoạn mục để thốt khỏi sứ mệnh của Người.
Chính trong sự ngho khĩ v vng phục hồn tồn Cha Người, m Người sẽ chứng minh cho mọi người rằng Người thật l Con Một.”Nếu ơng l Con Thin Cha, hy gieo mình xuống”. Lần thứ ba, Cha Gisu dng một cu trong Đệ Nhị Luật để chống lại nĩ:” Ngươi không được cm dỗ Đức Cha,Thin Cha ngươi”.
Cm dỗ đầu tin của chng ta cũng l lm sao bảo đảm tiện nghi vật chất. Đĩ l giới hạn phạm vi lương tm của chng ta vo thế giới hiện tại. Cm dỗ thứ hai của chng ta l thay vì phục vụ tha nhn, chng ta tìm những chỗ dựa để kiểm sốt họ v vượt qua họ. Chng ta muốn chiến thắng trong thế giới hữu hình. Cuối cng, đối diện với sự tin tưởng m Thin Cha chờ đợi từ chng ta, chng ta lại nghi ngờ sự hiện hữu của Người, để tổ chức thế giới của chng ta khơng cĩ người. Chng ta sẽ đánh giá lại những chọn lựa no? Trn căn bản no?
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Khởi đầu năm phụng vụ: MV 1-C88
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Khởi đầu năm phụng vụ là Mùa Vọng, trong mùa này chúng ta vừa mừng kỷ niệm việc Chúa Giáng Sinh; vừa là mùa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày quang lâm. Vì thế, mùa vọng được coi như mùa trông đợi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai. Ngày ấy, chính Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết "Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến". Tuy nhiên, không ai biết trước ngày đó xảy đến lúc nào chỉ có những dấu hiệu thấy trước được đề cập như: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển." (Lc 21, 25 - 27). Do đó, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đợi chờ và cầu nguyện để chờ Chúa đến.
Chúng ta thường nghe những lời khuyên tương tự hãy tỉnh thức như là "Hãy coi chừng, hãy cảnh giác, ngẩng đầu lên...". Tất cả nói lên thái độ sẵn sàng đối mặt với biến cố xảy đến. Đặc tính của mùa vọng là gì nếu không phải tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến? Nếu ngày xưa, dân Do Thái nhờ vào lời các tiên tri loan báo, đã sống tâm tình nhiều thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế đến, thì hôm nay chúng ta cũng phải tỉnh thức chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Khi xưa, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Đó là lúc Ngài đến lần thứ nhất. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên biến cố Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất này để vững tin và hy vọng vào việc Chúa sẽ lại đến trong ngày quang lâm. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ kỉ niệm quá khứ việc "chờ đợi" của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm "chờ đợi" của chúng ta.
Phần đầu của đoạn Tin mừng, Luca trình bày theo lối văn Khải Huyền. Đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn từ vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ và có sự liên đới mật thiết. Trình thuật trong sách khởi nguyên cho chúng ta thấy buổi khởi đầu là hỗn độn, hoang vu. Nhưng nó được Thiên Chúa can thiệp. Ngài sắp xếp trời đất vào trật tự của nó. Ngài làm cho cảnh hỗn mang nguyên thủy biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ, trông coi vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thủy. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với "Trời mới, Đất mới". Vì thế, "các tầng trời rung chuyển" là để trở lại trong trật tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, hủy diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó dân Chúa đạt được hạnh phúc. Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức, cầu nguyện và chuẩn bị sẵn sàng. Đó cũng là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần sau.
Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo là ngày Chúa đến gặp riêng mỗi người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức để đón chờ. Phải chăng không ít những lần chúng ta trở nên nặng nề vì chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm cho chúng ta quên ý ngĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ Chúa đến. Chính thái độ ích kỷ, hẹp hòi,...làm cho chúng ta mất quân bình nội tâm, và ảnh hưởng đến tha nhân. Do đó việc cần làm là phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày tận thế.
Một thoáng nhìn về tương lai không phải để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1, 11); nhưng cần phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống cho chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra ánh sáng trước công lý, chúng ta không thể che giấu.
Lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại. Đó là chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với chúng ta, đặc biệt là trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Đó là chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần trục: "phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, dùng những thời khắc trong ngày để đọc kinh, để xét mình và sám hối, đồng thời luôn hướng về Chúa để cảm tạ và xin cho chúng ta bền lòng vững chí sống theo ân sủng Thiên Chúa cho đến cùng, chờ đón Ngài xuất hiện trong vinh quang.
Mùa vọng là cơ hội tốt cho chúng ta. Nó cung cấp thời gian, không gian, bầu khí, lễ nghi để bày tỏ nỗi lòng mình trước tôn nhan Đấng Tối Cao. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng thế gian đầy dẫy sự dữ, những điều khiếm khuyết. Chúng ta mong muốn một thế giới tốt đẹp mà Thiên Chúa đã hoạch định cho con người. Hiện nay thì chưa được. Nhưng Đấng trở lại lần thứ hai sẽ biến đổi mọi sự cho nên tốt đẹp hơn. Chúng ta không có khả năng gây biến đổi và cũng không điều khiển tình thế khi Đấng Cứu Chuộc xuất hiện. Cho nên theo lời Ngài chỉ bảo, chúng ta hay luôn sống tỉnh thức và cầu nguyện, nhận ra những đường lối của Ngài. Hiện thời Ngài đang ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy tẩy trừ những cản trở trong linh hồn mình, lắng nghe tiếng Ngài qua Kinh Thánh và biến cố trong cuộc sống mình. Giống như tuyển dân thời tiên tri Giêrêmia, chúng ta phải can đảm chịu đựng để trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế ngự đến lần thứ hai trong tâm tình cảm tạ tri ân và xin cho mình được sống trung tín với ân sủng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết can đảm sống đức tin, sống tỉnh thức, cầu nguyện và trung thàn sống theo đường lối của Chúa. Amen.
Kết thúc Năm Phụng Vụ cũ với Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, toàn cảnh vinh quang của Vị Vua thương: MV 1-C89
Kết thúc Năm Phụng Vụ cũ với Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, toàn cảnh vinh quang của Vị Vua thương con dân đến nỗi hy sinh mạng sống mình cho con dân được sống và sống dồi dào, sống vĩnh cửu, hẳn đã lưu lại trong bạn, trong tôi ý nghĩa này: tất cả chúng ta và cả muôn loài, muôn vật sẽ phải trở về quy phục Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, là Vua của Vũ Trụ, Vua của chúng ta trong Nước Vinh Hiển của Ngài. Kết thúc Năm Phụng Vụ gợi nhắc cho chúng ta về sự kết thúc hành trình dương thế của chúng ta.
Thế nhưng, chúng ta lại được đón Tháng 12 về. Một Mùa Vọng mới khai mở Năm Phụng Vụ mới, như khởi đầu lại cho chúng ta một hành trình mới của đời người, hành trình mới của đời sống Đức Tin.
Ngày xa xưa ấy, vì ảnh hưởng của tội nguyên tổ mà con người chìm trong bóng đêm đầy u sầu thất vọng. Nhưng Thiên Chúa vì yêu đã sai các Ngôn Sứ thắp lên nơi trần gian ánh sáng của một niềm hy vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến giải thoát con người khỏi sự chết muôn đời. Và từ đó, Dân Thiên Chúa có niềm vui mới, có bình an mới vì có niềm hy vọng.
Mùa Vọng là Mùa Hy Vọng của Dân Thiên Chúa thế nào, thì cũng là Mùa Hy Vọng của mỗi chúng ta: hy vọng về một Sự Sống mới thay cho sự sống tạm thời, hy vọng về một ý nghĩa mới vĩnh hằng ngay giữa những thực tại phù vân chóng vánh, hy vọng về một nền hòa bình hạnh phúc thực cho nhân loại và niềm bình an hạnh phúc thực cho mỗi tâm hồn.
Mùa Vọng đã mở ra, thiết tưởng chúng ta không được phép thản nhiên để cho nỗi sợ hãi tử thần ám ảnh cuộc đời ta, cũng không thể thản nhiên để cho sự bất an, nỗi thất vọng có khi là tuyệt vọng hoành hành tâm hồn chúng ta. Bởi vì nỗi sợ hãi tử thần, sự bất an, thất vọng của một người sẽ là mầm mống quấy nhiễu sự bình an của kẻ khác, của cộng đồng.
Mùa Vọng càng không cho phép chúng ta ngồi lì trong bóng tối sự chết: bóng tối của những bất tín, nghi ngờ, vô thần, dẫn cuộc đời ta về cõi vô định hướng, bóng tối của những đam mê thế gian đưa ta vào sự hủy diệt muôn đời, bóng tối của những xảo trá, gian tà dần dần hình thành nơi ta cốt cách của một loài Satan quỷ quyệt.
Vâng ! Mỗi năm lại có một Mùa Vọng để chúng ta hiểu rằng không có lúc nào là quá muộn đối với một niềm hy vọng chính là ân huệ nhưng-không của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã mở cánh cửa của Niềm Hy Vọng để mỗi chúng ta có thể khởi đầu, và khởi đầu lại hành trình đời người, và hành trình Đức Tin trong hân hoan. Niềm Hy Vọng là ánh sáng của Thánh Thần Thiên Chúa dẫn đưa ta tới Niềm Tín Thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài.
Bạn và tôi, và cả nhân loại nữa, thiết tưởng:
- Phải dứt khoát với những thực tại phù vân vẫn thường quấy nhiễu chúng ta vì hậu quả của nó là bận tâm mà bất an, toan tính mà thua thiệt, tưởng thành công ai dè thất bại…
- Phải can đảm nói “không” với những cách sống buông tuồng dẫn đến vực sâu thất vọng… - Phải tiếp nhận ánh sáng mới của Thiên Chúa, là “Lời Thiên Chúa”, là “Ngôi Lời đã hóa thành Nhục Thể” để ánh sáng ấy biến đổi chúng ta nên con người thần linh với tính bất tử, vĩnh cửu, nơi Đức Giêsu Kitô.
- Và còn phải thắp lên niềm hy vọng tinh tuyền nhất ngay trong chính tâm hồn mình, để ánh sáng ấy, để ngọn lửa ấy có sức tỏa lan đến cuộc đời.
Mùa Vọng năm nay lại là Mùa Vọng trong Năm Đức Tin, cơ hội quý giá cho chúng ta đào sâu ý nghĩa “Tôi tin Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa làm người”… “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” ( Ga 1, 14 ).
Đáp lại lời mời gọi của Mẹ Giáo Hội, khi tham dự vào Năm Đức Tin, chúng ta có cơ hội tái lập niềm hy vọng chính đáng của mình và tái lập lời tuyên xưng sống động vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa:
“Tôi biết tôi tin vào Đức Kitô, Người là Thiên Chúa cứu độ tôi. Thì tôi hãi gì mà nao núng ? Thì tôi vững vàng lời tuyên xưng:
- Chính Chúa đã tác thành đời tôi, và ban ngàn ân lộc xinh tươi. Đời tôi là bức họa của Người, cho Tình Yêu hiện diện muôn nơi.
- Những Thánh Giá trong cuộc đời tôi là vinh dự cao cả cho tôi, vì tôi được thông hiệp với Người trong sự chết và sự phục sinh.
- Những bác ái trong cuộc đời tôi là kho tàng muôn đời cho tôi. Ngày tôi về với Người trên Trời, kho tàng ấy lại thuộc về tôi.
- Những tín thác trong cuộc đời tôi là đáp trả ơn Người cho tôi. Ngày qua ngày tôi được an bình trong lòng thương của Người vô biên” ( Lời bài hát “Tôi biết tôi tin”, PM. CHH )
Xin Tạ Ơn Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập và mời gọi con cái Chúa bước vào Mùa Vọng để tái lập hành trình Đức Tin của mình từ khát khao, tin tưởng và sống hân hoan, an bình, hạnh phúc.
Trong khi chúng ta đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa thì Thiên Chúa cũng đang mong mỏi chúng ta tin tưởng, yêu mến Người. Giáo Hội cũng đang chờ mong, thôi thúc, và đồng hành cùng chúng ta trên con đường hoàn thiện.
Nguyện Xin Chúa Giêsu Giáng Sinh, sẽ giáng sinh trong tâm hồn chúng con, trong các gia đình, để mọi người được an bình hạnh phúc trong Mùa Giáng Giáng Sinh, trong Năm Phụng Vụ Mới, trong Năm Mới và suốt cả đời người.
Mùa Vọng không chỉ là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần: MV 1-C90
Mùa Vọng không chỉ là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất, mà còn là mùa các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Bài Tin Mừng nói với chúng ta về biến cố Chúa Kitô đến lần thứ hai ấy ( Lc 21, 25 – 28 ) và kêu gọi chúng ta luôn tỉnh thức đón chờ ( Lc 21, 34 – 36 ).
1. Cuộc Quang Lâm của Con Người ( 21, 25 – 28 )
Miêu tả các hiện tượng vũ trụ là một đặc điểm của văn chương khải huyền. Các hiện tượng vũ trụ vừa loan báo vừa đi kèm sự can thiệp của Thiên Chúa để phán xét thế gian. Cuộc phán xét này có liên quan đến tất cả tạo thành, trong đó, các yếu tố vật chất vừa làm nên khung cảnh vừa tham dự vào chính số phận của nhân loại.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” ( c. 25 ). Cảnh tượng mang tầm vóc vũ trụ. Các hiện tượng lạ trên trời được nối kết với các cảnh tượng dưới đất và gây hoang mang lo lắng cho muôn dân. Đáng chú ý là sự quan tâm dành cho cảnh biển gào sóng thét, vốn thường được gắn với tình trạng hỗn mang ( G 38, 8 – 11 ) và vốn luôn khiến cho người Hípri lo sợ.
Một sự sợ hãi lớn lao tấn công loài người trên đất. “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển” ( c. 26 ). Các quyền lực trên trời, tức là các cơ binh tinh tú diễn tả trật tự của vũ trụ, bị lay chuyển toàn bộ: vũ trụ rơi vào trạng thái hỗn mang. Và đó sẽ là dấu hiệu Con Người ngự đến.
Trong khung cảnh được tạo nên bởi những biến động vũ trụ ấy, và đối nghịch với những biến động vũ trụ ấy, xuất hiện Con Người, tức là Đức Giêsu Phục Sinh trong vinh quang và quyền năng vĩnh cửu của ngài. “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” ( c. 27 ). Đám mây này gợi nhớ đám mây của cuộc Biến Hình ( Lc 9, 34 ) và đám mây của ngày Thăng Thiên ( Cv 1, 9 ). Đám mây ám chỉ rằng Con Người ngự đến từ thế giới của Thiên Chúa. Quyền năng và vinh quang là các phẩm tính của Thiên Chúa, được kể đến ở đây, để nhấn mạnh quyền Chúa của Đức Kitô. Khi ấy, quyền Chúa của Ngài sẽ hiển lộ hoàn toàn rõ ràng.
Lối miêu tả mang tính khải huyền về cuộc Quang Lâm của Con Người, về mặt văn chương, có lẽ đã được gợi hứng từ Đn 7, 13 ( LXX ). Tuy nhiên, không nên giải thích hình ảnh này một cách trực tiếp từ bản văn của Đaniel, mà phải giải thích dưới ánh sáng của những truyền thống có sau. Quả thực, trong Do Thái giáo, đã có một sự tiến triển trong cách hiểu về hình ảnh Con Người: đi từ hình ảnh mang tính tập thể sang hình ảnh mang tính cá nhân, đi từ hình ảnh Con Người đến bên Thiên Chúa để lãnh nhận quyền Chúa sang hình ảnh Con Người đến với nhân loại để thực thi việc phán xét. Lòng tin Kitô giáo sẽ đồng hoá việc Con Người đến với biến cố Quang Lâm của Đức Giêsu Phục Sinh.
“Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” ( c. 28 ). Khác với Mc 13, 27, tác giả Luca không nói đến một cuộc tập họp các kẻ được chọn, nhưng nói đến một cuộc giải thoát. Tất nhiên, cả Máccô lẫn Luca đều chú tâm đến khía cạnh tích cực là thực tại Con Người giải thoát các kẻ tin, nhưng trong Luca, mối bận tâm khích lệ anh em tín hữu có vẻ rõ nét hơn. Đối với các tín hữu Chúa Kitô, những hiện tượng lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao không phải là lý do gây sợ hãi, hoang mang, lo lắng, nhưng đó là dấu hiệu của niềm hy vọng, vì chưng, ơn giải thoát đã gần kề.
Trong thời gian Hội Thánh đi trên hành trình trần gian, để khuyến khích các tín hữu trung thành giữa những hoàn cảnh khó khăn, Thánh Luca kêu gọi họ hãy kiên nhẫn ( 21, 19 ), cúi đầu chấp nhận tình cảnh bị bắt bớ, bị bách hại. Bây giờ, vào thời gian sau hết, khi cuộc Quang Lâm diễn ra, ông mời gọi họ hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên ( 21, 28 ), vì đó là dấu hiệu của hy vọng và chiến thắng ( x. Tl 8, 28; Tv 83, 3; G 10, 15 ).
2. Lời khuyên tỉnh thức ( 21, 34 – 36 )
Đoạn văn này bao gồm:
– lời cảnh cáo ( c. 34 ): một mệnh lệnh ( “anh em phải đề phòng” ) được tiếp nối bằng hai mệnh đề chỉ mục đích ( “kẻo lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” và “kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”);
– lời khuyên nhủ ( c. 36 ): một lệnh truyền ( “anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” ) được tiếp nối bằng hai mệnh đề chỉ mục đích ( “hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến” và “đứng vững trước mặt Con Người” );
– ở giữa là phần nói về “ngày” ( với một ẩn dụ lấy từ Is 24, 17 ): “Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất” ( c. 35 ).
“Ngày ấy” là một cách diễn tả truyền thống trong Kinh Thánh, để nói về “ngày của YHWH” mà các ngôn sứ đã loan báo và được đồng nhất với cuộc Quang Lâm. “Ngày ấy” sẽ bất thần xảy đến, cho dù các tín hữu có thể nhận ra “ngày ấy” nhờ vào những dấu hiệu đã được nói ở các câu 25 – 28 trên kia.
Trong cuộc sống, có thể có rất nhiều nguy hiểm làm cho “lòng ra nặng nề”, tức là làm cho con người ta mất đi sự bén nhạy, mất đi khả năng chú ý vào thực tại thật đang diễn ra. Thánh Luca nhắc đến hai nguy hiểm: chè chén say sưa và lo lắng sự đời. “Chè chén say sưa” ở đây có lẽ là một hình ảnh ẩn dụ, có ý nói đến tình trạng tâm trí u mê, bị đầu độc bởi các trào lưu thế gian, như người say bị rượu làm cho không còn tỉnh táo nữa. Những lo lắng sự đời ( Lc 8, 14; 12, 22 tt ) thì sẽ làm cho người ta không còn nhận ra được cái gì là chính yếu, chỉ biết tập trung sống cho những lợi lộc ích kỷ ngắn hạn đời mình.
Bên cạnh lời cảnh cáo ( c. 34: “phải đề phòng” ) là một lời khuyên nhủ tích cực: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” ( c. 36 ). Sự tỉnh thức được thực hiện bằng cách cầu nguyện luôn, trong mọi lúc. Chính việc cầu nguyện trong mọi lúc sẽ làm cho chúng ta tỉnh thức, sẵn sàng hiểu biết và đón nhận biến cố Con Người đến.
Có hai lý do được nêu ra cho lời khuyên hãy cầu nguyện luôn. Thứ nhất: việc cầu nguyện sẽ đem lại sức mạnh giúp “thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến”, tức là thoát khỏi sự sợ hãi do các biến động lớn lao cùng tận gây ra, như đã được nói đến ở cc. 25 – 27. Thứ hai: một cách tích cực, việc cầu nguyện sẽ giúp cho tín hữu “đứng vững trước mặt Con Người” như lời kêu gọi ở c. 28 trên kia. Như vậy, giữa lời khuyên tỉnh thức cầu nguyện ( cc. 34 – 36 ) và những gì nói về cuộc Quang Lâm của Con Người ( cc. 25 – 28 ) có một sự tương ứng rất rõ ràng.
Thánh Luca viết sách Tin Mừng cho các tín hữu thời đại ngài, nhưng cũng là cho các tín hữu mọi thời, tức là cho mọi người sống lòng tin vào Chúa Kitô giữa thế gian. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta vẫn đầy những khó khăn, những biến động, những đau khổ. Nhưng ngay cả khi những biến động ấy làm cho muôn dân lo lắng hoang mang hồn xiêu phách lạc, thì đối với các tín hữu, đó vẫn có thể là dấu hiệu của thực tại Cứu Độ đang đến gần. Và do đó, họ có thể và cần phải đối diện với những biến động đó trong tư thế của những con người mang nơi mình niềm hy vọng vĩ đại: đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì sắp được cứu chuộc.
Tuy nhiên, trong một cái nhìn rất thực tế, cần phải ghi nhận rằng cuộc đời cũng mang nơi nó nhiều nguy hiểm và cám dỗ khiến lòng trí người tín hữu có thể ra nặng nề u mê và hèn yếu bạc nhược. Luôn luôn tỉnh thức và chuyên cần cầu nguyện, đó chính là cách sống mà Tin Mừng đề nghị cho chúng ta hôm nay. Đó cũng chính là một trong những điểm nhấn chính yếu của Mùa Vọng.
Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Chúa Nhật 18.5.1980, có một: MV 1-C91
Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Chúa Nhật 18.5.1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng, bỗng dưng một tiếng nổ vang trời động địa, mạnh bằng 500 quả bom nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy ( x. Lm. Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A ).
Hôm nay, chúng ta khởi đầu Năm Phụng Vụ mới, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Mùa Vọng, để chuẩn bị đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh. Một Đại Lễ đánh dấu kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người lần thứ nhất cách đây hơn 2.000 năm, tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đấy, mà Giáo Hội muốn chúng ta đi xa hơn nữa để đón chờ Chúa đến lần thứ hai trong ngày quang lâm, ngày tận cùng của cuộc đời ta. Đây là điểm trọng tâm của Mùa Vọng.
Trước tiên, Mùa Vọng là mùa đợi trông và hy vọng: không phải đợi trông trong lo âu sợ sệt, mà là đợi trông trong niềm vui, hy vọng và hân hoan: “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”; bởi vì: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” ( Gr 33, 14 – 16 ). Chúng ta còn mong đợi Chúa đến như một người con mong mỏi cha mình đi xa về, và, như mục tử đến với đoàn chiên: Tôi đến “để cho người ta được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10 ).
Thứ đến, Mùa Vọng còn là mùa chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang như Kinh Tiền Tụng II đã tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”. Nhưng Chúa đến giờ nào, ngày nào, chúng ta không biết, vì thế, trông đợi chính là tỉnh thức: “Ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya” ( 1Tx 5, 2 ); “Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ” ( Lc 12, 40 ). Vì thế mà Ngôn Sứ Isaia đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ…” ( Is 38, 21b ).
Tính bất định của sự sống đã được Tin Mừng nêu rõ khi Chúa Giêsu lấy hình ảnh lụt hồng thủy để nói về sự bất ngờ này: thiên hạ cứ vui chơi nhảy múa, chè chén say sưa, dựng vợ, gả chồng, cho đến khi nước lụt nhận chìm tất cả, chỉ trừ gia đình ông Nôe được cứu thoát. Hay như hai người đàn ông đang đi làm, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được đem đi, còn người kia bị để lại. Hoặc như người phú hộ, ông có nhiều ruộng nương và hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Sau đó, ông ăn chơi, tiêu xài cho đã, nhưng cuối cùng ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này và phải để lại tất cả. Như vậy: “Mọi sự dầu hay hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến.” Biết được điều đó để ta luôn sẵn sàng.
Tiếp theo, Mùa Vọng là mùa “chờ đợi” và hành động, vì “chờ đợi”, không phải là ngồi để mà đợi mà mong, nhưng chờ đợi ở đây là phải cầu nguyện. Lời Cầu nguyện được ví như dầu của đèn, đèn sáng được là nhờ có dầu bên trong. “Đèn tâm hồn chúng ta” phải là “đèn bừng sáng” vì có “dầu cầu nguyện”, tức là chúng ta phải luôn cầu nguyện và sẵn sàng chờ đón Chúa, để khi “chàng rể” đến, chúng ta đang trong tinh thần tỉnh thức và tư thế hân hoan đón Người.
Cuối cùng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống theo tinh thần của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đã khuyên nhủ các tín hữu: Anh em hãy ăn ở làm sao cho tốt, cho xứng đáng, hãy đối xử với nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người ( x. 1Tx 3, 12 – 13 ). Và, trên hết mọi sự, chúng ta hãy hân hoan đón chờ ngày ấy như một niềm hãnh diện, mặc cho mọi gian nan thử thách: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” ( Lc 21, 28 ).
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức, cầu nguyện và mong chờ ngày Chúa Quang Lâm:
Không ăn chơi đàng điếm, nhưng cầu nguyện mong chờ.
Không lẳng lơ chè chén, nhưng chu toàn bổn phận.
Không danh vọng, dục tình, Nhưng sớm lễ chiều kinh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho chúng con luôn ở gần bên Chúa trong tinh thần cầu nguyện, để lắng nghe được tiếng Chúa vang vọng trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa và sống chan hòa với anh chị em, ước gì ngày Chúa đến, chúng con luôn đứng thẳng và ngẩng cao đầu, đón mừng ơn cứu độ Chúa thương ban. Amen.
Trời thơ ở đời, nhà thơ nay đã hiểu. Thơ Trời của Đạo, người người rày cũng thấu. Hiểu và thấu Tin: MV 1-C92
Trời thơ ở đời, nhà thơ nay đã hiểu. Thơ Trời của Đạo, người người rày cũng thấu. Hiểu và thấu Tin Mừng đầy những thơ, nay người đọc đà thấy rõ Thánh Luca có nói về chất chính trị của mùa Vọng, ở trình thuật. Về cả hứa hẹn đầy ngóng đợi Đấng Mêsia nay kịp đến.
Hội Thánh nay chọn các bài Phụng Vụ nói về thế giới phàm trần đang chết dần. Thế giới này không của riêng ai. Và cũng không riêng gì nhà Đạo. Bởi Đạo Chúa đã và đang sản sinh nhiều điều rất mới. Sản sinh nguồn thơ sự sống rất mới. Sinh sản cả ý nghĩa lời thơ nơi Phụng Vụ hôm nay.
Ghi chép Lời Chúa, Thánh Gioan là nhà thần bí rất tuyệt vời. Trong khi các Thánh Máccô và Mátthêu lại chuyên kể chuyện dân gian Do Thái. Chuyện Chúa mặc khải cho dân con Ngài một sứ vụ. Riêng Thánh Phaolô lại chẳng gồm tóm ý nghĩa của truyện kể lẫn nguồn thơ. Chỉ mỗi Thánh Luca là đấng Thánh có nguồn thơ lai láng, tràn ngập hai chương đầu trình thuật.
Ở hai chương đầu, Thánh Luca đưa ra dấu chỉ về thời ấu thơ của Chúa. Cả chuyện kiểm kê là dấu chỉ về những o ép bách hại từ vua quan, ở đời. Kiểm kê, còn là dấu hiệu của một lăng nhục. Và câu nói: “Không có chỗ cho Ngài tá túc ở nhà trọ”, lại là dấu chỉ những kẻ lang thang khắp đây đó. Máng cỏ Chúa nằm, là dấu hiệu của việc đói ăn, thiếu mặc ở cõi đời đầy ô trọc. Và tã quấn Hài Nhi, là dấu chỉ về vải liệm và nỗi chết Chúa sẽ chịu. Nhưng dấu chỉ đây còn tỏ cho thấy niềm vui nơi mọi người. Vui vì Hài Nhi sinh ra là sinh cho ta. Còn sự chết cũng sẽ bị sự sống rất mới khuất phục để trỗi dậy không sợ sệt.
Thế giới, nay gồm đầy những chuyên gia binh bị, kinh tế và triết học. Về binh bị, có người lại biết cả cách thức áp đặt nền dân chủ hoà bình lên người khác, dù người khác không cần. Về kinh tế, có vị còn nói mình sẽ chỉnh đốn mọi khủng hoảng tiền bạc do họ tạo. Với Triết Học, có vị nghĩ mình thông thái biết hết mọi sự và làm được mọi việc. Còn ở nơi ta, có nhà thơ chỉ muốn nguồn thơ mình thai nghén sẽ giáng hạ sinh biến đổi con người từ bên trong, để thấy trẻ thơ sinh hạ, đến với ta. Và mỗi lần ta nhận ra được Nguồn Thơ Trẻ, sẽ tin vào tương lai mai ngày mà thế giới không thể trao tặng. Làm được thế, ta sẽ sống trong Nguồn Thơ rất Vọng.
Mùa Vọng, là trông ngóng Hồn Thơ ra đời như thế. Hồn Thơ có các Thánh ngóng chờ như bài đọc kể Abraham và Sarah mừng vui sau bao ngày đợi chờ, đã sinh con. Có Isaya và ngôn sứ đợi chờ đoàn tụ sau bao ngày lưu lạc chốn quê người. Chờ như Gioan Tẩy Giả chờ nơi hoang dã để lời tiên tri thành hiện thực. Chờ như Mẹ chờ Chúa Giáng hạ nơi cung lòng trinh trong của Mẹ. Và Mẹ tiếp tục chờ Chúa quang lâm ở đồi cao thánh giá. Tất cả đều chờ Nguồn Thơ như chờ Giáng Hạ
Đọc sách Ngôn Sứ Isaia, ta thấy giòng thơ dào dạt đầy chờ trông. Đặc biệt là giòng thơ trấn an dân con mọi người hãy cố chờ cả vào sau thời lưu đày nữa. Chờ đây là chờ Giêrusalem được dựng lại từ đổ nát. Chờ, như ngôn sứ lâu nay vẫn chờ Nguồn Thơ là tâm điểm thế giới, có Chúa vực đỡ quần thần dân nước tề tựu nơi đó để có được thị kiến giống nhà thơ Đạo.
Thánh Phaolô còn đi xa hơn, khi nhắn nhủ: ơn rỗi Chúa mang đến, không chỉ cho một dân tộc, mà là muôn dân nước. Thơ Nguồn cứu độ không lệ thuộc dân con nước nào hết. Chỉ cần ta có quan hệ mật thiết với Chúa là sẽ thành công. Và Nguồn Thơ Cứu Độ đến với mọi người dù họ có thuộc nhóm hội hoặc sắc tộc nào cũng sẽ được Nguồn Thơ Giáng Hạ rất đồng đều ở vạn vật.
Tại các nước như Úc Châu, Hoa Kỳ hoặc đâu đó, chúng nhân từ muôn nơi đổ về đây sinh sống. Họ thuộc đủ mọi thành phần giòng giống, sắc tộc, tôn giáo hoặc truyền thống văn hoá rất khác biệt, vẫn đến đây để mừng ngày Đức Chúa là Nguồn Giáng Hạ đến với họ. Với họ, Chúa giáng hạ Ngài không chỉ đến với đất nước hoặc sắc tộc nào tư riêng, mà cho hết mọi giống nòi, giòng tộc. Chúa Giáng Hạ, Ngài không chỉ đến với ai riêng rẽ mà là tất cả mọi người, như Nguồn Thơ lênh láng. Và Nguồn Thơ ấy, nay đã mặc lấy xác phàm làm Trẻ rất Thơ.
Nguồn Thơ giáng hạ, có xác thể, hình hài giống như ta, nhưng không giống Ông Già Tuyết. Cũng chẳng là truyện thần thoại đầy xảo thuật làm loé mắt dân con mọi người. Và Nước Trời là Trời Thơ của Chúa nay mặc xác phàm ở với thế trần, sống với ta. Trời Thơ đến với ta, đã biến cải thế giới của ta thành thế giới của Nguồn Thơ có nguồn sống, giống như ta. Trời Thơ của Chúa, lại cũng cấp nhận cuộc sống như ta. Chấp nhận cho cả lịch sử và giao ước, cùng nhu cầu chậm bước vẫn nhẫn nhục, giống hệt ta. Trời Thơ, cũng giàn giụa nước mắt than khóc nhiều như ta từng khóc than nhiều lúc quyết kiếm tìm cho đúng ngôn từ, nên đôi lúc cũng lạc loài, biến dạng, bị từ khước. Mặc lấy xác phàm loài người, Đức Chúa cảm nghiệm nhiều điều giống Nguồn Thơ, từ sự lạnh nhạt, yếu kém cho chí nỗi khước từ. Ngài cũng đã trải nghiệm vật vã, lưu lạc đến nỗi chết. Ngài cũng gặp cảnh huống ghen tuông, chối bỏ và trầm luân, lưu lạc sống khoảnh khắc thân xác lớn rất chậm. Mặc lấy xác phàm để sống như con người bằng xương thịt, còn là đi vào với thế giới ngôn ngữ, diễn tả bằng ngôn từ của con người. Vào với thế giới của ngôn ngữ, Chúa cũng trải qua các giai đoạn tiến triển trong tạo dựng. Có trao đổi hỏi han. Có, tham gia thành tâm điểm để người khác theo đó mà tin. Có tụ điểm đối chọi, để ta nhận ra động lực thúc đẩy mà sống vững chãi hầu đi vào quan hệ đặc biệt với người khác, biết mình và biết người.
Chúa mặc xác phàm làm người, Ngài tạo dựng chính mình Ngài để trở thành Con Người như ta, ở trong ta. Và giữa ta. Ngài viết lên Bài Thơ nơi da thịt, xác phàm làm người của chính ta. Không Tin Mừng nào lại trình bày sự việc Chúa Nhập Thể cách đột ngột, như bao giờ. Chúa Nhập Thể đến với con người là Ngài có chuẩn bị, từng chi tiết rất như Thơ.
Có chuyển tiếp dẫn đưa con người đến giai đoạn tháp nhập vào với Người để hiện diện với đời, chứ không chỉ mang tính thiêng liêng linh đạo rất tri thức. Chẳng linh đạo nào lại có thể hiện diện ở thể giới của con người bằng xương thịt, trừ Chúa ra. Nguồn Thơ Chúa Nhập thể, là Ngài mặc lấy xác phàm nhưng Ngài vẫn 100% là Thiên Chúa và 100% là con người, cùng một lúc.
Đồ đệ Chúa thời ban đầu, lại cũng là đồ đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả, đấng thánh biết tự rút lui vào chốn hư không trống vắng để Chúa toả sáng với những ai dõi bước theo Ngài. Thánh Gioan không tự nhận mình là tụ điểm thu hút hết mọi nguời. Và, thánh nhân tuyên bố mình chỉ là cây đèn chứ không là ánh sáng chiếu dọi mọi người. Thánh nhân là tiếng nói chứ không là Lời của Trời Thơ.
Đồ đệ đến với Chúa như việc tự nguyện; tức: không o ép bức bách hoặc bị dẫn dụ. Các thánh thấy Chúa nên đã đi theo như đã từng đi theo Thánh Gioan Tẩy Giả vào nơi hoang dã. Và, Chúa nhìn đoàn môn đệ rồi cảm kích; và cứ thế, Thầy trò nhìn nhau lại đã khám phá ra điều tuyệt vời ở nơi Cha, Đấng gửi Thầy đến với mình. Và với mọi người. Như Ngài từng gửi Nguồn Thơ Lời Ngài đến với trần thế. Cảm kích hơn, là khi đồ đệ thấy Thầy mình là Nhà Thơ Tuyệt Cú. Đê rồi cả Thầy lẫn trò là bầu bạn của Nguồn Thơ, vẫn tìm Nguồn Hứng nơi Cha, là Tất Cả. Và, Thầy trò cứ thế ra đi tìm về Nguồn Hứng của Thi Ca, cũng là Nguồn Mạch mọi sự ở thế trần.
Thánh Âu Tinh từng kêu lên: “Lạy Cha, chính Cha đã làm nên chúng con để Cha vừa lòng, và tâm can chúng con sẽ không ngơi nghỉ cho đến khi nào chúng con được nghỉ ngơi, nơi Cha.” Chính vì thế, chúng ta vẫn kiếm tìm Chúa nhưng không biết mình đang làm gì, và chẳng biết Ngài là ai. Rất thiếu hụt, nếu không có Ngài thì tất cả chẳng là gì cả. Và mọi sự sẽ đi từ thất bại đến tuyệt vọng hoặc từ rối rắm này đến ngõ bí khác. Chúng ta đến, vì lý do chính đáng. Ta ở lại cũng vì lý do nào khác…
Phải chăng, đó là lý do để ta hiên ngang trông mong Chúa lại đến ? Phải chăng Hội Thánh Chúa sẽ dạy dỗ con dân mình Lời Thơ sự sống, dù Thơ Trời nay đã đến và ở với ta ? Và đó có lẽ là ý nghĩa đích đáng của Mùa Vọng, rất chờ mong. Mong ai ? Mong gì ? Mỗi người và mọi người sẽ tự tìm ra câu giải đáp rất thoả đáng.
Trong mong đợi Nguồn Thơ sâu sắc đến, cũng nên ngâm thêm lời thơ đời đầy ý nghĩa rằng:
“Hiểu gì không, ý nghĩa của Trời Thơ ? Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy ? Của lời câm, muôn vì sao áy náy ? Hiểu gì không ? Em hỡi ! Hiểu gì không ?” ( Hàn Mặc Tử - Trường Tương Tư )
Nhà thơ xưa cứ tương tư dù đã hiểu. Hiểu “Lời Câm” hương hoa vẫn kiếm tìm. Hiểu “muôn vì sao áy náy”, “trăng lờn lợt bảy”. Hiểu cả Trời Thơ, nay đến ở với ta và với người, suốt cõi đời nhiều kiếp, rất ý nghĩa.
Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản phỏng dịch của MAI TÁ
Cuộc gặp gỡ lịch sử có một, chưa có hai, trong trần gian là cuộc gặp gỡ giữa Con Thiên Chúa thánh: MV 1-C93
Cuộc gặp gỡ lịch sử có một, chưa có hai, trong trần gian là cuộc gặp gỡ giữa Con Thiên Chúa thánh thiện vô cùng và nhân loại trầm luân tội lỗi.
Nhân loại ra u mê ám muội vì bị tội lỗi chế ngự, bị Satan khống chế. Và khi bị Satan đọa đầy trầm luân trong tội lỗi, thì không dễ gì con người nhận ra tín hiệu về việc có một Thiên Chúa, hay có một Con Thiên Chúa nào cả.
Vì thế, chuẩn bị cho cuộc gặp tận mắt, nghe tận tai, tận tay sờ chạm này, Thiên Chúa đã dày công và kiên trì biết bao để chuyển hóa lòng dạ con người. Khởi đi từ những mạc khải cho con người biết có Thiên Chúa là Cha toàn năng và yêu thương. Rồi đến mạc khải mở lòng mở trí cho nhân loại biết ý định của Thiên Chúa muốn cứu chuộc con người. Tuy nhiên, dễ gì mà lay chuyển được !?!
Vì con người thích sống trong u mê hơn là hành xử khôn ngoan, thích tăm tối hơn ánh sáng, thích dìm mình trong bất công gian dối, hơn là sống trong công lý, trong sự thật. Nhưng, Thiên Chúa toàn năng không bao giờ chào thua mưu lược của Satan ma quỉ. Sáng kiến tuyệt hảo của Tình Yêu Thiên Chúa là thành lập một Dân Riêng cho Ngài. Từ đó, Ngài chuyển hóa tâm trí con dân của Ngài từ u mê tăm tối, trước đây vẫn luôn hướng về điều gian ác bất chính bất công, thì nay thành lòng khát khao điều công chính thiện hảo; chuyển hóa từ cái vô tri về Thiên Chúa đến lòng dạ ngưỡng vọng Đấng Thần Linh, và nhất là, chuyển thành lòng khát khao, nỗi mong chờ một Đấng Cứu Thế.
Lòng khát khao, nỗi mong chờ ấy làm thành một Mùa Vọng kéo dài trong thời gian. Không ai dám biết thế nào là đủ, tới bao giờ mới đủ. Nhưng Ngôn Sứ Giêrêmia cho biết là sẽ đến ngày: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực”. Và ngày ấy: “Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: "ĐỨC CHÚA là-sự-công-chính-của-chúng-ta ! ( Gr 33, 15 – 16 ).
Chỉ có Thiên Chúa, và lòng yêu của Ngài mới định được lúc nào là thời gian viên mãn để gọi được là “lúc thuận tiện, giờ cứu độ”.
Và cuối cùng, cuộc gặp gỡ lịch sử, cuộc gặp gỡ được mong đợi – cả từ hai phía, trời cao và đất thấp – đã diễn ra, khi: “Công Lý nở hoa từ mặt đất, Hòa Bình ngó xuống tự trời cao !”
Như vậy, điều kiện để con người được sống trong nền hòa bình vĩnh cửu của Thiên Chúa, là, con người phải sống trong Công Lý.
Mùa Vọng của Dân riêng Thiên Chúa trong Cựu Ước đã mở ra với việc chuyển hóa tâm trí, để lòng khát khao nên công chính của nhân loại và Mùa Vọng ấy trở thành mùa chuyển tiếp giữa Cựu Ước và Tân Ước với ơn Hòa Bình của Thiên Chúa Giáng Sinh – Cuộc gặp gỡ lịch sử, lần thứ nhất.
Mùa Vọng của chúng ta
Mùa Vọng của Hội Thánh Công Giáo hôm nay lại là mùa chuyển tiếp giữa cuộc lữ hành trần gian với việc Chúa Kitô lại đến, làm thành cuộc gặp gỡ thứ hai – cuộc gặp gỡ mà con người phải trình diện với Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ lần thứ hai,
- Thánh Phaolô khuyên các tín hữu gia tăng tính tích cực của đời sống bác ái công giáo: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người” ( 1Tx 3, 12 ).
- Còn Chúa Giêsu, Ngài cảnh báo về những “điềm lạ…, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang…, Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc…, Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Ngài khuyên: “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc… Đừng quá bám víu vào những thực tại trần gian, nhưng hãy hãy tỉnh thức và cầu nguyện” ( Lc 21, 25 – 28 . 34 – 36 ).
Cũng như trong thời Cựu Ước, không ai có thể định được thời gian cho Thiên Chúa lại đến, và rõ ràng càng không định được cuộc trình diện lịch sử của đời mình trước Thiên Chúa. Nhưng để chuẩn bị tốt cho cuộc gặp gỡ ấy, Chúa Giêsu bảo: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”.
Nếu điều kiện của lần gặp gỡ thứ nhất là sống công chính, thì điều kiện của lần thứ hai cũng vậy. Đời sống công chính phải được thực hiện cách triệt để. Để sống công chính, phải tỉnh thức trước những nguy cơ chia cắt con người ra khỏi Thiên Chúa, ra khỏi vòng tay và ánh mắt của Ngài, ra khỏi sự công chính của Đức Chúa. Mà muốn được như thế, chắc chắn con người phải kết hợp từng ngày, từng giờ, kết hợp liên lỉ với Đấng Sẽ Đến – Đấng đã soi Đường Công Lý, Đấng là Sự Thật – ngay trong lúc này, không chờ đợi một lúc nào khác. Sự kết hợp dần dần nên toàn vẹn, làm thành một cuộc tỉnh thức và cầu nguyện chuẩn bị chu đáo cho lần gặp gỡ thứ hai chắc chắn sẽ xảy ra. Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình những ước vọng lên cùng Thiên Chúa, bằng kinh nguyện với lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ” ( Pl 4, 16 ).
Chúng ta, dẫu là người bán hàng rong, em bán vé số, cụ già trên giường bệnh, kẻ túng thiếu kẻ nợ nần, kẻ bị nhục mạ, oan sai, người bị chỉ trích, chê bai, hoặc người bị cách ly, khai trừ, tẩy chay… cũng không nên mặc cảm vì số phận thấp bé, nhưng hãy âm thầm trình lên Thiên Chúa những ước vọng, tín thác, khẩn cầu và chân thành cảm tạ. Hãy sống Mùa Vọng của đời mình bằng sự kết hợp toàn vẹn với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Ngay từ sáng sớm, xin hãy thầm nguyện:
“Lạy Chúa Giêsu,
Một ngày mới đang mở ra trước mắt con. Mỗi ngày là một bất ngờ. Con không rõ những gì sẽ xảy đến cho con, nhưng con biết chắc mình được sống trong vòng tay yêu thương của Chúa, nên con thấy vui tươi và bình an.
Mỗi ngày là một quà tặng của Chúa. Cả niềm vui lẫn nỗi buồn, cả thành công và thất bại, tất cả là quà tặng của Tình Yêu, tất cả đều đưa con tới gần Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, con muốn dang tay chào đón ngày mới. Con muốn tận dụng từng giây trong ngày để tôn vinh Chúa, để phuc vụ tha nhân và phát triển con người mình.
Ước gì con luôn sống dưới ánh mắt Chúa và để Chúa làm chủ mọi tư tưởng, lời nới việc làm của con. Và ước gì khi đêm về, con có thể tự hào mình đã biến hôm nay thành quà tặng để dâng lại cho Chúa. Amen. ( Kinh sáng – Rabbouni )
Và bất cứ giờ nào trong ngày, cũng có thể kính cẩn dâng hiến thân mình cho Thiên Chúa như một lời cảm tạ, như của lễ tạ ơn:
Lạy Cha, con phó mình con trong tay Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm chi mặc lòng, con cũng cảm ơn Cha. Con sẵn sàng luôn luôn. Con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được làm trọn nơi con, nơi tất cả mọi loài Cha tạo dựng. Con chẳng mong chi khác nữa.
Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó thác linh hồn con trong tay Cha. Lạy Cha với tất cả Tình Yêu của lòng con Vì con mến Cha. Và vì mến Cha, nên con thấy cần phải hiến thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do dự đắn đo, song, vô cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. ( Kinh dâng hiến – Charles de Foucauld )
Lạy Chúa, Mùa Vọng lại đến với chúng con. Xin cho chúng con biết tỉnh thức và cầu nguyện bằng việc sống kết hợp từng phút giây với Chúa Giêsu, để nên xứng đáng trong cuộc gặp gỡ chính Ngài, Đấng Sẽ Đến, trong lần gặp gỡ lịch sử lần thứ hai. Amen.
Trong khi một số nhà tiên tri loan báo Ngày Tận Thế là ngày 21.12.2012, Đức Giáo Hoàng Benedicto: MV 1-C94:
Trong khi một số nhà tiên tri loan báo Ngày Tận Thế là ngày 21.12.2012, Đức Giáo Hoàng Benedicto thứ 16 trong Thánh Lễ hôm 18.11.2012 tại Vatican, đã kêu gọi các tín đồ Công Giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo về Ngày Tận Thế.”
Từ cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã rao giảng bài Phúc Âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các Thánh Tông Đồ về ngày Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”. Theo Đức Giáo Hoàng, thì Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ và dân chúng thoát khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt.
Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 giải thích: Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Ngài nói tiếp: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng Lời của Chúa không hề thay đổi.” (Thụy Mi, VietCatholic )
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo ngày cánh chung: “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”
Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên !
Trước biến cố kinh thiên động địa, vô tiền khoáng hậu như vậy, mà Chúa Giêsu lại khuyên chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.” Làm sao ngẩng đầu lên nổi, khi đang còn sa đọa, chìm đắm trong tội lỗi, quyến rũ thế gian. Làm sao dám đứng thẳng lên, khi đang nặng nề đội trên đầu chức tước, của cải, danh lợi phủ vân ?
Biết thế, nên Chúa Giêsu biết rõ tim đen chúng ta, mới ân cần, cẩn thận khuyên răn: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới, bất thần chụp xuống đầu anh em.”
Vì chúng ta không thể nào biết giờ nào, ngày nào việc đó xảy đến. “Vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.”
Ngày cánh chung của mỗi người
Thế giới này là tạo vật của Chúa, dĩ nhiên có thời hạn, nên đương nhiên có khởi sự và kết thúc. Ngày cánh chung là ngày tận thế của muôn loài thọ tạo. Còn đối với từng người, cái chết chính là ngày cánh chung cá nhân, ngày chịu Thiên Chúa xét xử công phúc và tội lỗi. Vì “ngày Chúa đến như kẻ trộm ban đêm” ( 1Tx 5, 2 ), mà chính Người cũng đã xác nhân: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào Con Người đến” ( Mt 25, 13 ).
Sinh ký tử quy, sống là ký gửi thác là quy về, có sinh ắt có tử. Sinh ra từ bụi đất, chết trở về cát bụi. Nhưng chẳng ai biết được ngày trở về với Chúa. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ thời gian, mới biết ngày giờ sinh tồn của con người. Do vậy, Chúa Giêsu luôn nhắc nhở phải tỉnh thức và cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa luôn, để đón chờ ngày ấy. Luôn sẵn sàng như mười cô trinh nữ đem dầu theo đèn, tỉnh táo chờ đợi Chàng Rể đến.
Luôn tỉnh thức và cầu nguyện
Chúa Giêsu không muốn đe dọa chúng ta về ngày tận cùng của thế giới, mà Người chỉ muốn nhắc nhở như Đức Thánh Cha Benedicto 16 mới đây nhắc lại. Đề ứng phó ngày Cánh Chung chỉ có hai bửu bối duy nhất và quan trọng nhất, đó là tinh thần sẵn sàng đón nhận với tâm tình cầu nguyện.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng, đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn” ( Đường Hy Vọng, 670 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt con ra, thoát khỏi những đam mê, những lo lắng trần tục, mà hướng tâm hồn về Chúa, để sẵn sàng xứng đáng ngẩng đầu lên đón chào Chúa đến.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con biết tránh xa những mưu mô ma quỷ, xin giúp con tỉnh táo nhận ra những cạm bẫy nguy hiểm, để có thể đứng thẳng, nghênh đón Chúa giáng lâm. Amen.
1. LỜI CHÚA: "Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa" (Lc 21,34).
2. CÂU CHUYỆN: CON TÀU TI-TA-NIC
Đêm 15.04.1912 các báo đài trên thế giới đồng loạt đưa tin về con tàu Ti-ta-nic nổi tiếng bị đắm. Bấy: MV 1-C95
Đêm 15.04.1912 các báo đài trên thế giới đồng loạt đưa tin về con tàu Ti-ta-nic nổi tiếng bị đắm. Bấy giờ tàu này đang chạy trên vùng Bắc Đại tây dương đụng phải tảng băng ngầm, khiên thành tàu bị lủng một miếng lớn và nước ào vào các khoang hầm tàu. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tàu đã bị gãy ra làm đôi và chìm xuống lòng biển, mang theo phần lớn hành khách và toàn bộ thủy thủ đoàn.
Ti-ta-nic là một con tàu vĩ đại: dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét với 8 tầng đầy đủ tiện nghi. Trên tàu có phố chợ, hồ bơi, sân chơi thể thao, rạp hát, vườn bông, nhà hàng... Số hành khách có mặt trên tàu khi gặp nạn vào khoảng 1500 người. Hầu hết hành khách là các người có địa vị cao trong xã hội như các ông hoàng bà chúa, chính khách, đại phú gia, nghệ sĩ, thương gia... Con tàu Ti-ta-nic khi hạ thủy đã được người ta đánh giá là an toàn tuyệt đối, có thể thách thức trước mọi thời tiết. Nhưng trong thực tế khi mới khởi hành được mấy ngày thì tàu đã gặp tai nạn thảm khốc nhất trong lịch sử hàng hải thế giới từ trước đến nay.
3. SUY NIỆM:
Gần đây, trong dịp kỷ niệm biến cố đắm tàu Ti-ta-nic, một tạp chí tôn giáo kia, sau khi nhắc lại thảm họa, đã nêu ra một câu hỏi để độc giả suy nghĩ như sau: "Giả như chúng ta có mặt trên con tàu Ti-ta-nic khi nó đang bị chìm, thì chúng ta có tiếp tục vui chơi ăn uống khiêu vũ... mà quên rằng mình sắp chết chìm hay không?". Câu hỏi này phù hợp với câu nói của Đức Giê-su mà Hội thánh đề nghị các tín hữu suy nghĩ trong Mùa Vọng này như sau: "Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em" (Lc 21,34).
1)Cái chết thường đến bất ngờ: Lời Chúa hôm nay cũng nói đến sự bất ngờ này như sau: "Anh em phải đề phòng, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em" (Lc 21,34). Nơi khác Chúa cũng nói: "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến... Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến" (Mt 24,42.44).
2)Nhưng không hoàn toàn bất ngờ: Vì Chúa vẫn thương yêu chúng ta. Người luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước về cái chết, để chúng ta kịp thời chuẩn bị. Mỗi khi thấy một người chết vì bệnh tật hay bị tai nạn... là một tín hiệu Chúa gửi tới để nhắc ta về cái chết của mỗi chúng ta. Khi ta không may bị tai nạn xe nhẹ, bị trơn trượt té ngã ... Khi phát hiện ra mấy sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu, một chiếc răng sâu phát đau phải đi nhổ, đôi mắt ngày càng mờ đi phải cắt kiếng, tay chân bị thấp khớp sưng tấy lên khiến việc đi lại khó khăn, hay một cơn đau tim nhẹ xuất hiện... là những tín hiệu cho thấy sức khỏe mình bắt đầu suy yếu và tiên báo thần chết đang đến gần hơn ! Chúng ta không nên cố tình bịt tai nhắm mắt trước những tín hiệu ấy, nhưng hãy tìm hiểu ý nghĩa của nó và chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ giờ chết đến bất cứ lúc nào.
3)Chúng tôi phải làm gì?
- Phải canh thức và đề phòng: Đừng để cho những đam mê lạc thú bất chính, những nhu cầu của thể xác như cơm, áo, gạo, tiền... chi phối chúng ta, làm cho chúng ta quên đi cùng đích cuộc đời là trở về Nhà Cha trên trời. Trong khi chờ đợi ngày ấy, chúng ta cần phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng và ưu tiên tìm kiếm Nước Trời như Lời Chúa phán: "Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây?" (Mt 6,31). Nhưng "trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
- Phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn:
Tỉnh thức là không "chè chén say sưa",nghĩa là không quá mê đắm hưởng thụ các đam mê vật chất đời này. Tỉnh thức là không "lo lắng sự đời", nghĩa là không mê say tìm kiếm những giá trị đời này là danh, lợi, thú. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức là tuy đang còn sống trong thế giới vật chất hiện nay nhưng tâm hồn phải hướng về những giá trị thiêng liêng vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện: Ta phải cầu nguyện vì "tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn." (Mt 26,41. Cầu nguyện để luôn thức tỉnh. không mê ngủ, nhưng luôn "thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn" để đón Chúa đến bất cứ lúc nào (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa. Cầu nguyện luôn nghĩa là cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1), không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1). Cầu nguyện luôn là cách biểu hiện một đức tin mạnh mẽ sống động. Vì khi cầu nguyện là ta tách lìa khỏi các ràng buộc của thế giới vật chất để hướng tới các sự trên trời. Nhất là cầu nguyện còn để xin ơn Chúa trợ giúp. Vì xác thịt dễ bị các thú vui đam mê lôi kéo. Chỉ khi được Chúa giúp sức, chúng ta mới hy vọng sống siêu thóat, khỏi những quyến luyến lạc thú đời này để vươn tới cuộc sống hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Trong thực hành: Cầu nguyện là năng tưởng nhớ đến Chúa, dâng lên Người những lời nguyện tắt, kèm theo những việc quan tâm phục vụ tha nhân. Cầu nguyện còn là năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ và dọn mình rước lễ hằng ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ có đầy sức sống là ơn thánh hoá của Chúa, giúp ta mỗi ngày nên hoàn thiện giống như Chúa Cha trên trời (x. Mt 5,48). Có tỉnh thức cầu nguyện, chúng ta mới có thể gặp được Chúa ngay từ hôm nay, trong đêm mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới cũng như trong giờ chết mỗi người jay ngày cùng tận của nhân lọai sau này.
- Phai sẵn sàng đón chờ Chúa đến: Khi tổ chức mừng thọ 60, 70 tuổi... chúng ta cần ý thức ngày giờ Chúa đến có thể đã gần bên cửa. Hãy nhớ rằng khi chết, chúng ta không thể mang theo vàng bạc vật chất trần gian. Chỉ những của cải thiêng liêng như các việc từ thiện bác ái và các đóng góp để "làm cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" mới có giá trị trước tòa Chúa phán xét (x Mt 25,34-40). Do đó ta cần phải cấp thời lo hòan thành những gì đang còn dở dang hoặc các công trình văn hóa muốn lưu truyền cho con cháu. Ngòai ra các bậc làm cha mẹ hay các vị có trách nhiệm lãnh đạo cộng đòan cũng cần làm di chúc. Cần liệu sao để bản di chúc có giá trị pháp lý và ủy thác cho người có uy tín thi hành, hầu tránh tình trạng tranh chấp chia rẽ giữa các thành viên gia đình.
4. THỰC HÀNH LỜI CHÚA:
1) Khi vừa thức dậy, tôi quyết tâm sẽ dâng ngày mới cho Chúa và noi gương thánh nữ Tê-rê-sa: "làm những việc bình thường bằng một cách thức phi thường".
2) Tôi sẽ năng dâng lời nguyện tắt: "Lạy Chúa Giê-su. Xin dạy con yêu mến Chúa".- "Lạy Chúa. Con xin làm việc này để cầu cho (cha mẹ, con cái, anh em hay một tội nhân quen biết) được sớm nhận biết, ăn năn trở lại cùng Chúa".
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay Chúa dạy chúng con phải sẵn sàng tỉnh thức và cầu nguyện chờ đợi ngày cánh chung hay giờ chết của chúng con sẽ đến bất ngờ. Ngày nay những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và các sản phẩm kèm theo của nó thường là nguyên nhân phát sinh lối sống ích kỷ: Người ta chỉ lo kiếm tiền để rồi sau đó lại chiều theo các đam mê lạc thú bất chính. Chẳng mấy ai tỉnh thức nghĩ tới ngày tận thế chung hay giờ chết riêng của mỗi người chắc chắn sẽ đến. Thật hạnh phúc cho chúng con nếu khi Chúa đến, chúng con vẫn đang tỉnh thức cầu nguyện và ở trong tư thế sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
X. Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Phụng Vụ Giáo Hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Năm Phụng Vụ được tổ chức như một chu kỳ hàng năm để tưởng niệm những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu Kitô và các ngày lễ của các Thánh. Những mầu nhiệm này đã được hoàn tất trong thời gian của Chúa Giêsu Kitô, nhưng nay vẫn tiếp tục thể hiện trong thời gian của Giáo Hội. Năm Phụng Vụ có cơ cấu như hiện nay là cả một quá trình hình thành và phát triển dọc theo chiều dài lịch sử Phụng Vụ của Giáo Hội.
Mùa Vọng được tổ chức để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trong hai lần Người ngự đến. Gồm có hai giai đoạn: Từ Chúa Nhật 1 đến ngày 16 tháng 12, các bản văn Kinh Thánh dùng trong Phụng Vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. Từ 17 tháng 12 đến 24 tháng 12, trực tiếp nói đến sinh nhật của Chúa Giêsu. Theo tinh thần canh tân Phụng Vụ hiện nay, Mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi, mặc dầu phẩm phục vẫn là màu tím và không đọc Kinh Vinh Danh.
Mùa Vọng là mùa của những lời loan báo: loan báo việc Chúa sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Giêsu. Vì thế, các bài đọc của mùa này xoay quanh các chủ đề loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.
Mùa Vọng – Mùa loan báo
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa Nhật 4, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa Nhật 1 Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa Nhật 2, 3 dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa Nhật 4 là Chúa Nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh Thư của Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Mùa Vọng – Mùa chờ đợi
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách:
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
Mùa Vọng – Mùa tỉnh thức
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Tin Mừng Chúa Nhật 1 Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức
Thánh Kinh kể chuyện: Samson là vị thủ lãnh của dân Do Thái. Anh có sức mạnh phi thường, quân Philitinh khiếp sợ.
Ngày kia, một con sư tử gấm bất thần tấn công, Samson xé xác nó với hai bàn tay dũng mãnh. Có lần bị quân Philitinh vây chặt tư bề, Samson chộp lấy một chiếc xương hàm của con lừa gần đó và quật chết rất nhiều đối thủ. Sức mạnh vô song của Samson làm cho quân Philitinh phải khiếp đảm.
Không thắng được Samson bằng sức mạnh, người Philitinh tìm cách tiêu diệt anh bằng mỹ nhân kế. Nàng Delilah, một thiếu nữ Philitinh có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng đến với Samson và đã chiếm lấy trái tim vị anh hùng. Delilah gạn hỏi: do đâu anh có được sức mạnh phi thường ? Samson tiết lộ bí mật, sức mạnh liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt, sức lực sẽ không còn. Samson ngủ, Delilah lén cắt tóc rồi báo tin. Quân Philitinh xông đến tóm lấy anh, xiềng lại bằng những sợi xích đồng. Chúng tàn nhẫn khoét đôi mắt và bắt anh ngày ngày kéo cối xay như một con trâu ngoan.
Một Samson vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn bạt vía, tay không quật ngã và xé xác con sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quân Philitinh phải kinh khiếp. Giờ đây, anh chỉ là một tù nhân mù loà, tay chân mang xiềng xích, một tên nô lệ, ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay ! Than ôi ! Một thời oanh liệt nay còn đâu !
Chỉ vì không tỉnh táo trước kế mỹ nhân. Samson đã sa cạm bẫy và chịu hậu quả đau thương.
Thảm kịch Samson luôn mang tính thời sự. Nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình kể lại vô số cảnh đời gục ngã dưới nhiều hình thức: suy sụp vì ma tuý, sa đoạ vì gian dâm, sa ngã vì tham lam và vô vàn hình thức sa bẫy khác.
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị gục ngã, bị lún sâu xuống bùn lầy.
Dân gian nói: "Khôn ba năm, dại một giờ". Nhưng có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ !
Thánh Phaolô nhắc nhớ: "Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn ! Hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Ngài còn khuyên: "những ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã" ( 1Cr 10, 12 ).
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú. Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn.Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Cầu nguyện
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.
Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa Vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân ).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt Năm Phụng Vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
Chúa phán: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người". (Lc 21, 36)
Câu chuyện tôi sắp kể đây, vừa xảy cách đây không lâu (09.11.2006): một anh giáo lý viên có tuổi: MV 1-C97
Câu chuyện tôi sắp kể đây, vừa xảy cách đây không lâu (09.11.2006): một anh giáo lý viên có tuổi có đứa con đang đi đại học; đứa con bổng bị đâm chết và gia đình đang kêu hoảng, vừa lo ma chay.... Điều tôi muốn nói, có liên quan tới cái chết của chú thanh niên trẻ này là: cách đây vài tháng, người cha giáo lý viên trong họ đạo lớn, trong cuộc bầu cử lại vào hàng Ban Qưới chức mới, đã không được bầu, nên anh bất mãn; và vì giận hờn, cả gia đình anh cải theo đạo Tin Lành; anh còn tỏ ra thái độ thù hằn, bài xích công giáo nữa. Nguyên do anh không được bầu, vì anh có nhiều khuyết điểm, không gương mẫu, nhất là vì anh vừa cưới vợ cho đứa con đang đi đại học, không có phép hôn phối... Bên ngoài người ta xầm xì: Chúa phạt! Thực ra, người Công giáo chúng ta không kết án như thế; nhưng chắc chắn đó là dấu chỉ nhắc nhở mọi người còn sống: hãy đề phòng, hãy tỉnh thức, đừng để mọi chuyện xảy tới như chiếc lưới chụp xuống đầu mà mình không hay biết gì, vì đã không chuẩn bị trước. Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ soi sáng cho ta hiểu rõ câu chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Bài Tin Mừng hôm nay, trích trong bài giảng về ngày tận thế. Chúa Giêsu dùng lối văn khải huyền như Cựu Ước để diển tả giáo huấn mà Chúa muốn nói. Chúa vì hiểu thấu sự yếu mềm và lầm lạc của con người, nên đã mạnh mẽ kêu gọi ta phải đề phòng. Nhưng làm cách nào để đề phòng? Hai phương thế đề phòng, đó là tỉnh thức và cầu nguyện.
Trước tiên, Tỉnh thức: tỉnh thức không phải là ngồi yên một chổ, mà là tích cực sống với tinh thần ý thức trách nhiệm, biết chọn lựa cái nào là thật và có giá trị cho mình, đồng thời sống trong mối tương quan tốt với Chúa và mọi người, thực sự bác ái, yêu thương, quảng đại, tha thứ, luôn trông cậy và sống theo Thánh Ý Chúa... Như thế thì khi chiếc lưới thình lình ụp xuống, ta đâu cần phải lo lắng điều gì nữa? Ngược lại nếu ta cứ tìm thú vui vật chất, lo lắng sụ đời, lười biếng, vụ lợi.... sống như thế thì khi chiếc lưới ụp xuống, cái gì sẽ nâng đỡ, sẽ cứu giúp cho ta?
Thứ hai: Cầu nguyện: theo sách GLCG, cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Chúa trong tình yêu; nhưng phương thế hữu hiệu nhất để ta nâng tâm hồn lên với Chúa, chính là tham dự tích cực các nghi lễ phụng vụ, các bí tích, vì chính qua các bí tích, ta mới gặp gỡ Đức Kitô dễ dàng và hữu hiệu...
b.Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hãy tỉnh thức: năm nào vào Mùa Vọng, ta cũng nghe câu nói này. Nếu năm nay, hay tháng này, Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi sẽ phản ứng ra sao? Nhất là bao lâu nay, tôi đã chuẩn bị cho ngày đó thế nào đây?
* Mùa Vọng là mùa hi vọng, mùa chuẩn bị đón Chúa đến, đón Chúa đến dịp lễ Giáng sinh, nhất là đón Chúa đến trong cuộc đời của mình. Trông chờ Chúa đến, không phải ngồi đó mà chờ, nhưng phải biết sống tích cực, phải tỉnh thức và cầu nguyện như Chúa dạy, phải trung thành với bổn phận mình. Bao lâu nay ta đã chờ đợi Chúa như thế nào?
* Khi ta lãnh nhận Bí tích rữa tội, chính là lãnh nhận thẻ Công dân Nước Trời. Vậy khi nhìn nhận mình là Công dân Nước Trời, lúc còn sống ở trên đời này, ta có nhận mình là khách lữ hành đang tiến về Nước Trời không? Nều nhận mình là khách lữ hành, ta không được sống tiêu cực, hưởng thụ,... ngược lại phải sống xứng với địa vị là khách lữ hành, là công dân Nước Trời không?
Đồng xu rơi" (thành ngữ này có nghĩa là chợt hiểu ra). Đó là cụm từ một phụ nữ ở Maine trong đợt: MV 1-C98
"Đồng xu rơi" (thành ngữ này có nghĩa là chợt hiểu ra). Đó là cụm từ một phụ nữ ở Maine trong đợt tĩnh tâm của giáo xứ đã dùng để tóm kết bài Tin Mừng hôm nay. Tôi chưa nghe thành ngữ này bao giờ mà cũng chẳng biết nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu. Dường như thành ngữ này đã có từ "xa xưa" khi những đồng xu được sử dụng trong những thiết bị như cái cân nơi công cộng. Những đồng xu có thể đã được sử dụng. Sau khi thả đồng xu vào máy, người ta phải chờ một chút cho đến khi "đồng xu rơi xuống" và rồi cái cân cho biết mình nặng bao nhiêu.
Vì thế, thuật ngữ trên ám chỉ việc nhận ra điều gì đó sau một một lúc băn khoăn và chờ đợi. Có một sự liên hệ trong tiểu thuyết của Nigel Balchin, trong đó nhân vật thủ vai chính nói rằng, "Tôi ngồi suy nghĩ một lúc sau đó mới chợt hiểu ra". Chúng ta hãy trở lại Mùa Vọng và bài Tin mừng hôm nay để xem "chợt hiểu" như thế nào.
Với năm phụng vụ mới này, chúng ta bắt đầu những bài đọc Chúa Nhật trong Tin Mừng của thánh Máccô. Đây có thể là sự khởi đầu của năm phụng vụ, nhưng Tin mừng Máccô bắt đầu từ đâu? Bài đọc hôm nay không bắt đầu năm phụng vụ của chúng ta với chương thứ nhất, câu một, nhưng đoạn văn hôm nay là phần kế cuối của Tin Mừng Máccô.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1), nơi đó Người sắp kết thúc sứ vụ công khai của mình. Người khép lại cuộc sống phụng tự trong Đền thờ (11,15) và bước vào cuộc tranh luận với các thầy dạy truyền thống đức tin (12,12). Sau đó, từ trên núi Ôliu, Người tiên báo sự sụp đổ của thành Giêrusalem và ngày tận cùng của thế giới (13,1).
Bài Tin mừng được chọn đọc hôm nay kết thúc lời giảng dạy của Chúa Giêsu với các môn đệ. Vì vâng lời Chúa Cha và trao hiến chính mình trên thập giá, Chúa Giêsu sắp rời xa các môn đệ. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu liên hệ sự ra đi của Ngài với "người trẩy đi phương xa". Ông chủ đang rời xa, nhưng chắc chắn ông sẽ trở lại; dù những người đầy tớ được trao trách nhiệm trông coi nhà cửa không biết khi nào ông chủ về. Có một điều chắc chắn là khi ông chủ trở về ông muốn thấy nhà mình ngăn nắp và đầy tớ của ông còn tỉnh thức. Họ phải luôn luôn tỉnh thức.
Mùa vọng đã bắt đầu và chúng ta cần được điều này nhắc nhở rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại, vì ai trong chúng ta đã không từng có lúc ngủ quên trong việc phục sự Chúa? Dụ ngôn này nhắc chúng ta ý thức đầy đủ về sự sẵn sàng của người môn đệ. Đồng xu sẽ rơi xuống và chúng ta cần phải tỉnh thức cho đến giây phút chắc chắn đó trong cuộc đời mình.
Có vẻ như thánh Máccô đang nói về một biến cố tương lai. Nhưng ngài lại không lưu tâm đến tương lai vì ngài đang muốn nói và nhấn mạnh với cộng đoàn của ngài về thái độ của một Kitô hữu đối với hiện tại. Thánh Máccô nhắc lại một dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể để giúp thính giả không những chuẩn bị cho sự trở lại của Chúa Giêsu; mà còn đáp lại sứ điệp của Người ngay lúc đó.
Nếu dụ ngôn chỉ đơn thuần muốn cảnh giác các Kitô hữu hãy tỉnh thức, thì hóa ra sự nhấn mạnh đó chỉ tập trung vào người giữ cửa, vì anh ta là người đón ông chủ vào. Vậy, mục đích và nhiệm vụ của những người đầy tớ khác là gì? Chẳng lẽ họ chỉ là những nhân vật phụ trong bối cảnh của câu chuyện này sao? Thánh Máccô có lẽ đang nghĩ đến cộng đoàn rộng lớn hơn của ngài - tất cả những người "đầy tớ" trong Giáo hội lãnh trách nhiệm của mình và họ phải được động viên để luôn cảnh giác. Vì thế, những hàng cuối của dụ ngôn là, "điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" Những lời kết thúc của Chúa Giêsu như nói với tất cả những người tin sau này rằng hãy tỉnh thức.
Tin mừng của thánh Máccô dẫn đến trình thuật cuộc Khổ nạn. Sau khi ở Caesarea Philippi, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình với Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi đó Người hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Với dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, thánh Máccô tóm kết diễn từ khải huyền dành cho cộng đoàn của ngài. Bây giờ thánh sử sẵn sàng thuật lại những sự kiện dẫn đến Cuộc Khổ Nạn. Vì vậy, lời khuyên sau cùng của đoạn Tin mừng ngày hôm nay thật ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta được cảnh báo "hãy tỉnh thức". Tất nhiên, đó là sự nhấn mạnh về việc tỉnh thức và sự chuẩn bị đón ông chủ trở về.
Nhưng có lẽ thánh Máccô cũng đang nhấn mạnh ý nghĩa về những gì đang xảy ra. Ngài kêu gọi chúng ta "hãy tỉnh thức". Những sự kiện lớn lao diễn ra đều có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi người chúng ta. Hôm nay đã bắt đầu mùa Vọng, nhưng cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu được liên hệ với mùa này nhằm giữ chúng ta trong tư thế sẵn sàng và lưu tâm đến những gì mà Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ: sự tỉnh thức, lòng trung thành và phục vụ hy sinh vì danh Người.
Nhiều người mới hoán cải trong các giáo xứ sẵn sàng chia sẻ niềm phấn khởi của cuộc trở lại của mình. Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn là một tiến trình mà ở đó không chỉ dẫn họ vào trong Giáo hội mà còn thắp lên trong cuộc đời của họ một ngọn lửa niềm tin nồng ấm. Khi nghe các câu chuyện của những người mới trở lại, người ta hy vọng rằng niềm tin của họ sẽ giữ được niềm phấn khởi và sự sống động mãi như hiện nay. Nhưng họ và chúng ta dễ dàng bị cuốn vào nếp thường ngày và những phỏng đoán trong lời nguyện cũng như các thực hành đức tin.
Mùa Vọng bắt đầu với lời kêu gọi tỉnh thức, mời gọi và thôi thúc chúng ta tự vấn: "Tôi phải nhạy bén thế nào với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày?" Chúng ta biết rằng mình đang mong chờ cuộc quang lâm của Thiên Chúa trong tương lai, trong khi đó, tôi tỉnh thức ra sao với sự hiện diện của Người ngay ở đây và lúc này trong cuộc đời tôi? Chúng ta tin Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện ở giữa chúng ta. Chính niềm tin đó hôm nay đã qui tụ chúng ta quanh bàn thờ để nghe lời của Người và lãnh nhận Mình và Máu của Người để giúp chúng ta luôn cảnh giác và thức tỉnh chúng ta nếu chúng ta đang ngủ quên. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở, "đồng xu sẽ rơi".
Một người khác trong đợt tĩnh tâm đó đã thuật lại về những gì mà người mẹ 85 tuổi của chị mới nói với chị: "Cuộc đời của mẹ qua đi quá nhanh!" Ngẫm nghĩ về câu nói của mẹ, chị chia sẻ rằng, "Một ngày nào đó tôi cũng sẽ nói như vậy, vì thế, bây giờ tôi cần làm những gì phải làm, vì tôi đang còn có thời gian." Đó là một quyết tâm Mùa Vọng mà tôi từng được nghe.
Trong ánh sáng của bài Tin mừng hôm nay, người phụ nữ mô tả sự "chờ đợi chủ động". Tựa như lau nhà khi tôi chuẩn bị đón khách đến. Điều đó khác với sự "chờ đợi thụ động", nghĩa là chỉ để cho thời gian trôi qua mà không tập trung và cũng chẳng tỉnh thức như Tin mừng đòi chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm khi chúng ta sống trong "thời gian sẵn sàng và sắp tới". Người Dothái chờ đợi với lòng khao khát sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Chúng ta tin rằng Người đã đến, nhưng bây giờ chúng ta đang chờ đợi tích cực, sự chờ đợi đó được duy trì bởi niềm tin và hy vọng của chúng ta rằng Chúa Giêsu, Người đã đến và sẽ lại đến.
Hãy để ý cách Chúa Giêsu lặp lại yêu cầu "hãy tỉnh thức". Nếu chúng ta đang cố gắng sẵn sàng mọi lúc, chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô khi Người đến mỗi ngày. Đó là vì giây phút hiện tại là cơ hội. Thời gian trong Kinh thánh có thể được diễn tả theo cách mà chúng ta thường nói đến. Chúng ta nhìn vào đồng hồ và nói, "11 giờ sáng". Đó là giờ "chronos" trong tiếng Hylạp, nó chỉ phút, giờ, ngày, v.v... Nhưng trong Kinh thánh còn có giờ "kairos" - một thời cơ đặc biệt; một khoảnh khắc mà một điều không mong đợi lại xảy ra và làm thay đổi những công việc hằng ngày của chúng ta, hoặc thời khắc đó đưa chúng ta đến một thời cơ. Tin mừng đang nói về thời gian "kairos" và khiến chúng ta ngẫm nghĩ: có phải tôi chỉ đang chỉ giờ, bận rộn chờ đợi thứ tương lai xa rời với hiện thực. Hoặc tôi có cảm giác rằng hiện tại có những thời cơ, và vì thế, tôi cứ đưa mắt nhìn để đáp lại những khả năng đó khi nó đến?
Trong thời gian giao mùa này tôi có thực sự đang đi tìm những phương thế để thức tỉnh và giữ cho mình biết ý thức để tôi có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu khi Người đi vào trong cuộc đời tôi - vào một khoảnh khắc kairos nào đó hay không? Những người trong đợt tĩnh tâm ở Maine đã nhận thấy tĩnh tâm là một cách để tự mình cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời của họ. Những người khác lại dành thời gian cho việc đọc bài chia sẻ, suy niệm hoặc dành thời gian nghe giảng trong nhà thờ, thực hành một nghi thức sám hối mùa Vọng, hoặc tìm nơi ăn chốn ở và áo quần cho những người vô gia cư, hay dạy thêm cho những trẻ em trong thành phố và những khoảnh khắc khác với những khả năng thời cơ kairos. Một cách nào đó những người này đang tỉnh thức và sẵn sàng cho đến khi "đồng xu rơi".
Lm Jude Siciliano OP
Chuyển ngữ:: Anh em HV Đaminh Gò-Vấp
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm: MV 1-C99
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.
Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.
Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa. Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.
Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4
Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người: MV 1-C100
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm, nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Ðời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân của Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm ta mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm ta mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Ðức Kitô. Ðừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Ðừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Ðừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Ðức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hy sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Ðức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn xác con luôn tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.