Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức: MV 1-C101
Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức mong điều gì đó quý báu, điều gì đó mang đến cho con người niềm vui, bình an, hạnh phúc. Chắc có lẽ ai ai trong chúng ta cũng mang trong mình ít nhiều sự mong đợi, lòng ngóng chờ niềm vui, niềm hạnh phúc đến với mình. Nhìn những đứa con, đứa cháu trông đợi cha mẹ chúng đi làm về hay nhất là đợi mẹ cháu đi chợ về chúng ta thấy hay làm sao đó !
Chúng biết rằng mẹ của chúng thương chúng nên hễ đi chợ về là không ít thì nhiều chúng cũng sẽ được bọc xôi, gói chè ! Vì thế, hễ mẹ chúng đi chợ là y như rằng chúng cứ chờ, cứ đợi. Nhiều khi chúng ra tận ngoài ngõ để chờ niềm vui từ những gói chè tự tay mẹ chúng mang về cho chúng.
Tương tự thế, nhìn những đứa trẻ đi học mẫu giáo, dù là vui với các cô, các bạn. Ở với các cô, chơi chung với các bạn đồng lứa vui lắm chứ ! Nào là được ăn chung, chơi chung, đùa chung nhưng hình như chúng vẫn chưa thoả mãn với tất cả những gì mà cô mà bạn mang lại. Vì sao ? Vì tất cả những thứ ấy vẫn không mang lại cho chúng niềm vui, niềm bình an đích thực. Chúng biết rằng thời gian ở với cô, với bạn hay là chơi với cô với bạn chẳng hạnh phúc bằng được ở với cha với mẹ nên rằng cha mẹ chúng là nhất trên đời.
Ở nhà có các cháu nhỏ chúng ta sẽ thấy hình ảnh của chúng buồn cười lắm. Sáng thức dậy là ráng nằm nướng trên giường chưa muốn dậy. Phần lười biếng, phần buồn ngủ nhưng phần lớn chính là không muốn xa ba xa mẹ là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng. Chúng phải làm mình làm mẩy để được ở nhà với cha và với mẹ.
Rồi thử một buổi chiều nào đó, chúng ta đến các trường mầm non chúng ta nhìn hình ảnh những đứa trẻ đang đứng ngóng đợi cha mẹ chúng dễ thương làm sao đó. Dẫu chưa biết lúc nào ba mẹ đến nhưng mà cứ đến khi cô bảo mẫu bảo các con hãy thay đồ, rửa mặt là chúng không ai bảo ai đi thay đồ và làm vệ sinh thật là nhanh. Chẳng hiểu sao thật là thiêng liêng, thật là bí nhiệm khi nghe cô bảo mẫu nói như thế chúng làm nhanh thoăn thoắt. Thay đồ xong là chạy vụt ra sân để mà đợi mà chờ. Trong giờ học, các cô có thể bảo các cháu làm gì theo ý cô, theo bài học cô dạy nhưng đến giờ đó cô không thể nào điều khiển cháu được vì lẽ giờ đấy chỉ có một điều cần thôi là chờ ba mong mẹ.
Ngược lại với hình ảnh buổi sáng. Giờ làm sao cho nhanh để được nhìn thấy ba mẹ, để được ba mẹ đón về nên chúng không còn thiết tha với búp bê, với đồ hàng, với đồ chơi, với xe, với cộ nữa nhưng chỉ còn thiết tha sao cho mau gặp ba với mẹ mà thôi.
Nhìn lại lịch sử dân Israel ngày xưa chúng ta thấy rõ tâm trạng chờ đợi như những đứa trẻ vậy.
Do sự phản bội bất trung, họ đã bị bắt đưa đi làm nô lệ bên Babilon. Cuộc sống lưu đày không chỉ ràng buộc họ với những cảnh cùng cực, đói rét, gò bó, mà còn có cả những khe khắt trong cuộc sống tinh thần tôn giáo. Cuộc sống ấy sói mòn tinh thần và thể xác, khiến cho niềm tin vào Thiên Chúa không còn đứng vững, có khác nào như những cánh tay rời rã, bàn chân mỏi mòn.
Chờ Chúa đến nhưng thấy lâu quá để rồ họ đi tìm cho họ đủ thứ các loại thần để mà thờ để mà kính. Lịch sử viết lại cho chúng ta những dòng sử của dân Israel như là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Vì đi theo thần này, thần kia để rồi dân Israel cứ lầm lũi đi trong đêm tối.
Chính trong bối cảnh bi thảm đen tối, Giavê Thiên Chúa đã gửi tiên tri Giêrêmia đến loan báo về ngày giờ Thiên Chúa sẽ ra tay tế độ. Ngài còn mặc khải rõ hơn khi cho biết tin mừng ấy sẽ được khởi sự ngay qua một dòng tộc: Đó là dòng dõi vua Đavit: " Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavit một chồi Công Chính". Thế là một triều đại mới, một vận hội mới sẽ đem lại đổi thay cho kiếp đoạ đày đen tối của dân Israel. Từ đây, trật tự được tái lập, hạnh phúc sẽ nở ra và mọi người mọi nhà sống trong cảnh hoà bình thịnh vượng vì Đức Vua hiển trị sẽ xét xử chư dân trong sự khôn ngoan và công chính".
Lời hứa trên đã làm nao nức bao tâm hồn. Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với giao ước đã chẳng thể nuốt lời. Ngài đã cho Con Một Nhập thể làm người để thực hiện những gì đã hứa, nhưng không chỉ cho Israel mà còn cho các dân tộc. Ngài đã làm sống lại và khơi lên niềm tin tưởng khi loan báo cho họ biết rằng: Giờ cứu rỗi, ngày giải thoát đã gần đến rồi. Vì thế, Ngài kêu gọi mọi người hãy biết đọc qua những biến đổi của vũ trụ, qua những thay đổi của tâm hồn, dấu chỉ của ngày cứu độ. Những biến cố như động đất, mất màu, tai ương, ôn dịch, hạn hán cùng với những vật đổi sao dời làm cho lòng người khiếp run kinh hãi. Và còn có biết bao cái ta không mong đợi mà xảy đến: tai nạn, bệnh tật, chết chóc, hiểm hoạ ... Tất cả đều có giá trị như là một dấu hiệu, một lời nhắc nhở để ta hướng về ngày giờ của Con Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta, nhìn lại chúng ta ngày nay chúng ta thấy hình như chúng ta cũng chẳng khác Israel ngày xưa là mấy. Chúa yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che cuộc đời chúng ta như Israel ngày xưa vậy. Thế nhưng mà chúng ta vẫn chưa cảm thấy thoả mãn với tất cả những gì Chúa thương ban cho chúng ta để rồi chúng ta cũng loay hoay mãi trong bóng đêm như dân Israel vậy.
Tiếng kêu ai oán mong đợi Đấng Cứu Thế đến cứu muôn dân được ngôn sứ Isaia thốt lên trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đấy: "Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tạ sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài ? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài ? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải cho Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan". (Is 63, 16b-17.19b).
Vì lòng con người chai đá nên Isaia đã kêu lên với Đức Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta cũng gào lên với Chúa là vì tình thương của Chúa, xin Chúa mau trở lại để cứu chúng ta.
Lòng chờ mong, lòng mong đợi ấy chúng ta cũng được nghe Thánh Phaolô nói đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô của Ngài: "Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người".
Và Trong khi chờ đợi, Ngài mời gọi chúng ta hãy sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện như Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta trong Tin mừng của Ngài mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, Ngài cảnh báo với các môn đệ là phải tỉnh thức luôn luôn. Như những người lính tuần canh, chỉ được gọi là tỉnh thức khi biết luôn đứng với đôi mắt sáng rực nhìn về phía trước. Nói cách khác, như thánh Phaolô khuyên trong thư gửi cho giáo dân thành Thesalonica: Đó là không được để cho lòng trí ra nặng nề và tối tăm, bởi những tiệc chè chén, say sưa, bởi đam mê dục vọng, bởi ảo vọng vật chất. Thay vào đó là phải ra sức thực thi bác ái, yêu thương, mặc lấy một cuộc sống khiêm nhường vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho người ta nên thánh thiện.
Chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta nó mong manh, nó mỏng dòn, nó yếu đuối lắm nên cuộc đời muốn được đứng vững để đón nhận ân huệ của Chúa, tình thương và ơn cứu độ của Chúa không còn cách nào khác hơn là phải tỉnh thức, vẫn chờ mong Chúa đến như lính canh mong đợi hừng đông như suối mong đợi nước nguồn vậy.
Nhớ lại những đứa trẻ, những thú vui do các cô, các bạn mang lại vẫn không là niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực của chúng được. Chúng ta cũng vậy, những lạc thú trần gian: tiền - tình - danh, những thứ ấy vẫn không thể nào bù đắp, không thể nào lấp đầy nỗi khát khao, niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta được.
Mùa Vọng, mùa trông đợi lại về. Mùa Vọng như là thời gian, như là cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mỗi người chúng ta đâu là cùng đích, đâu là niềm vui đích thực của chúng ta. Nếu cùng đích của cuộc đời chúng ta là tiền - là danh - là dục thì chúng ta cứ tiếp tục cắm cúi đi tìm chúng. Còn nếu cùng đích, lẽ sống của cuộc đời chúng ta là Chúa thì còn thời gian, còn cơ hội, chúng ta hãy dùng thời gian, dùng cơ hội thuận tiện để biến đổi cuộc đời, để mà luôn tỉnh thức để đón chờ ánh sáng, đón chờ tình yêu vĩnh cửu đến với chúng ta.
Nguyện xin Emmanuel - Đấng Cứu Độ Duy Nhất đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta để tâm hồn, để cõi lòng cuộc đời chúng ta luôn bình an giữa biết bao nhiêu biến động, bao nhiêu xáo trộn của cuộc đời.
Với Chúa nhật này chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời: MV 1-C102
Với Chúa nhật này chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời gọi tâm linh, của niềm vui, hy vọng và sự chờ đợi thiêng liêng.
Dân Chúa sống lại một hoạt động kép của tinh thần: một đàng, hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trong lịch sử, đó là sự trở lại vinh hiển của Chúa Kitô; đàng khác, tưởng nhớ với những cảm xúc thánh thiêng sự sinh ra của Người tại Bethlem, nơi Con Thiên Chúa đã sinh hạ từ Đức Trinh Nữ Maria (x. Gal 4,4).
Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa tới sự Tĩnh Thức nhiều lần: "Anh Em nãy tĩnh thức bởi vì anh em không biết giờ nào" (Mc 13,23).
Vậy thì Tĩnh Thức có nghĩa là gì? Tĩnh thức để làm gì và Tĩnh thức cho ai?
Theo nghĩa đen, thì tĩnh thức có nghĩa là tĩnh táo, là không có ngủ. Theo nghĩa kinh thánh, thì từ tĩnh thức có một ý nghĩa rất sâu và mang tính biểu tượng (simbolico). Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng, một cách sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, dễ bảo và sẵn sàng, như những tôi tớ trung thành luôn chờ đợi chủ trở về bất thình lình (cf. Mc 13,24). Đó là hướng tâm hồn mình về một điều gì, hơn thế nữa, với một Người: với Thiên Chúa và với anh em.
Trái với thái độ sống đó là sự ngu mê, nghĩa là, người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ của mình, không còn cặp mắt để nhìn đời và đọc ra nhưng dấu chỉ của thời đại, của cuộc sống, không có khả năng đón nhận quà tặng của cuộc sống vốn là món quá qúi báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.
Người sống tĩnh thức là người nhạy bén (sensibile) với sự hiện diện của Thiên Chúa, với tiếng của Người và với các giá trị của Tin mừng. Người biết đọc cuộc sống, và nhận ra khôn mặt của Thiên Chúa với câu hỏi từ đáy lòng: Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Con tìm Ngài. Đó là người có khă năng để học từ mọi nơi mọi lúc, từ bất cứ ai và hoàn cảnh nào, kể cả từ những khủng hoảng và thất bại của đời mình, để lớn lên, và trưởng thành không ngừng.
Người sống tĩnh là người rất "dễ bảo" (docile) và biết vâng lời Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ đáy con tim của lòng ta. Trong tiếng Latin gọi là "docibilitas", nghĩa là người biết nghe và vâng phục Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần biến đổi mình, làm cho mình được giàu có khi trở nên giống Đức Kitô (bài đọc II), trở thành Con Thiên Chúa, khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Giêsu Kitô đối với Chúa Cha và đối với Anh Em. Đó là thái độ của Đức Maria, người nữ đầy Thánh Thần. Chúng ta hãy học từ Mẹ, để cho Đức Kitô được "nhập thể" trong lòng và trong cuộc đời chúng ta nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, người sống tĩnh thức là người sẵn sàng (disponibile) với thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh em mình trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh mà không có đòi hỏi điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34), như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, náo nức và hân hoan chờ chàng Rễ tới (Lc
Nhưng tắt một lời, ai yêu thì cũng biết sống tĩnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh trong sách Diệu Ca: "Trên giường ngủ, suốt đêm trường, tôi đã tìm chàng, hỡi người yêu dấu của lòng tôi, tôi đã tìm chàng, nhưng tôi không gặp chàng" (Ct 3,1-2); hay như Thánh Thi nói: "Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình".
Như thế, Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian của sự trở về cách thụ động, nhưng trở thành một thời gian quí báu mà trong đó, chúng ta khám phá lại vẽ đẹp làm người kitô hữu và tính xác thực của đức tin mình. Chúng ta hãy mỡ ra với sự mới mẽ và vẽ đẹp của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng vừa mạc khải Thiên Chúa nhưng cũng vừa con người là ai (LG 22) và chúng ta đến với Người, bởi vì lý do đó mà Ngài đã nhập thể vì chúng ta. Amen.
Kỷ niệm bảy năm, ngày chịu chức linh mục, Rôma 30.11.2008
Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm con: MV 1-C103
Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm con người sốt ruột, nôn nao, căng thẳng. Có những sự đợi chờ làm con người vui tươi, hạnh phúc như chờ đợi kết quả cuộc thi mà ta nắm chắc đậu một trăm phần trăm hay chờ đợi mẹ đi chợ về mua quà, mua đồ chơi cho ta. Tất cả đời người đều là một cuộc đợi chờ: đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong niềm tin và đợi chờ trong thất vọng ê chề. Mùa vọng là mùa đợi chờ. Các Kitô hữu hướng về niềm vui gần mong đợi ngày giáng sinh, ngày Chúa đã đến để khai mở Nước Thiên Chúa và hướng về ngày cùng tận, ngày cánh chung, Chúa sẽ đến để phán xét kẻ lành kẻ dữ.
Tin Mừng thánh Marcô căn dặn:" Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến ". Chúa lay tỉnh con người, Chúa nói với con người phải tỉnh thức. Ở đây, tỉnh thức có nghĩa là mau mắn, sẵn sàng, không được thụ động ngủ vùi. Thái độ tỉnh thức phải là thái độ của năm cô trinh nữ khôn ngoan, đem dầu nhưng còn cẩn thận mang cả dầu nữa...Tỉnh thức như người đầy tớ thức trắng đêm vì ông chủ trở về bất ngờ. Tỉnh thức làm lợi như người được chủ giao 5 nén, 2 nén và 01 nén. Tỉnh thức như cụ già trong một câu chuyện: " Hằng ngày ông cụ cứ ngồi trên xích đu mà chờ Chúa đến ". Chúa đến đột xuất, bí mật, bất ngờ nên Kitô hữu luôn phải có thái độ sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia cầu khẩn, van nài cùng Thiên Chúa:" Vì tình thương...xin Ngài mau trở lại. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống ". Đây là ước mong, là khát vọng của mọi người. Con người, loài người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên con người mong chờ ơn cứu chuộc của Chúa. Bài đọc II, thánh Phaolô đã cảm tạ Chúa vì Chúa thương ban cho cộng đoàn Corintô dồi dào ơn Chúa trong khi mong chờ Chúa Kitô tái giáng lâm, và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ họ tiếp tục sống tốt, tuân theo lời Chúa để khỏi bị Chúa khiển trách khi Chúa Kitô lại đến. Do đó, Tin Mừng hôm nay kêu mời con người phải có thái độ tích cực tỉnh thức, nghĩa là phải trở về với lòng mình, phải trở về với Chúa để gặp Ngài và luôn phải bám chặt lấy Ngài.
Chờ đợi Chúa không có nghĩa là cứ đọc dăm câu kinh hay đi nhà thờ cho có lệ là đủ rồi, là nắm chắc phần thắng Nước Trời thuộc về mình. Ngôn sứ Isaia kêu mời những con người tội lỗi hãy mạnh dạn quay về với Thiên Chúa bởi vì chính vị ngôn sứ đã níu chặt lấy Chúa, van nài Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân. Tỉnh thức ở đây không có nghĩa là khi chủ về thì họ đã mệt mỏi, nên li bì ngủ tiếp. Tỉnh thức ở đây là người tín hữu phải dọn mình xứng đáng để chờ gặp Chúa. Quả thực, Chúa đã đến và Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng con, hằng giây hằng phút Chúa hằng mong muốn đến với chúng con và ở với chúng con kia mà. Vấn đề của chúng con, của người môn đệ Chúa có chuẩn bị đón tiếp Chúa, có sẵn sàng để Chúa ở với mình hay không? Chỉ có một cách chờ đợi tốt nhất là tỉnh thức và cầu nguyện. Điều làm người môn đệ xa Chúa là không ý thức, không chuẩn bị, ngủ mê trong những ích kỷ, ươn hèn, lười biếng của mình bởi vì người môn đệ, loài người quá yêu mình đến nỗi đã quên Chúa, đã mất ý thức về Chúa.
Để chờ đợi Chúa đến, các Kitô hữu phải có tâm tình thống hối thật sự, phải biết biến đổi nội tâm, tái Phúc Âm tâm hồn và biết làm những việc tốt đẹp theo con đường của Chúa. Người mộn đệ Chúa phải biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại, phải biết nhận diện Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, nhận rõ Chúa vì chỉ có Chúa mới là nguồn sống, là thuẫn đỡ chở che, là gia nghiệp đời đời của con người. Nhận rõ Chúa cũng có nghĩa là từ bỏ con người xấu xa tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô và như thánh Phaolô:" Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ". Nhận ra Chúa là biết từ bỏ những dục vọng, những ham mê, những ham muốn bất chính, những tham lam mù quáng lôi kéo con người xa Chúa.
Nhiều Kitô hữu được rửa tội nhưng lại không hiểu biết giáo lý sâu xa, không hiểu thế nào là Đạo, thế nào là Chúa. Chính vì thế, họ thiếu tỉnh thức và cầu nguyện. Họ luôn chạy theo những trào lưu mới của thời đại, đặc biệt thế giới đang đi tới chỗ toàn cầu hóa, con người dễ chạy theo lợi nhuận, chạy theo tiền bạc, vật chất mà quên mất Chúa. Con người chỉ có thể gặp Chúa khi họ sẵn sàng tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan và như nguời khôn xây nhà trên đá.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết từ bỏ những gì là không đẹp lòng Chúa để chúng con càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn chúng con . Amen.
Người Việt Nam có câu "khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống". Câu này phải là lời cảnh: MV 1-C104
Người Việt Nam có câu "khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống". Câu này phải là lời cảnh tỉnh cho thái đô sống của chúng ta. "Hãy biết mình, biết người thì mới mong được sống". Thực vậy, giữa cuộc đời hôm nay đang cạn kiệt chân lý và sự thật thì làm sao dám tin người, tin đời? Thử hỏi, có gì đáng để chúng ta tin ở xã hội hôm nay? Niềm tin đã bị đánh mất bởi biết bao trò gian dối trong nhiều hoạt động từ truyền thông cho tới giáo dục đều đầy dãy trò lừa bịp, gian lận? Thử hỏi có gì đáng tin khi mà người ta đề cao đồng tiền đến mức độ đang tâm lại hại người khác như hàng loạt các đồ dùng giả và kém chất lượng đang bầy bán trên thị trường? Điển hình trong các vụ nổi cộm như: chuyện kem đánh răng giả, đồ chơi trẻ em có chất độc làm hại sức khoẻ trẻ em, chuyện bánh bao nhân làm bằng giấy cạc tông. Rồi đến chuyện kẹo trộn bột đá bán ra hàng tấn. Đáng ghê sợ là vụ sữa sữa Tam Lộc của Trung Quốc làm chết 3 trẻ em và bịnh 6.200 em khác ở Trung Quốc. Đó là một xì căn đan, một cú sốc toàn xã hội mà chúng ta đang phải gánh chịu. Theo dõi tình tiết nội vụ, người dễ tính nhứt cũng phải buộc miệng kêu lên. Mấy người sản xuất và buôn bán sao mà ác quá vậy, trẻ em có làm chi nên tội, sao nỡ vì tiền mà giết hại trẻ em!
Đó là những chuyện gián tiếp hại người, còn trực tiếp vẫn đầy dãy sự tráo trở, gian manh, mất tính người đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Trớ trêu thay niềm tin đã bị đánh mất giữa người với người ngay tại gia đình, ngay giữa những người ruột thịt vẫn còn đó sự rạn nứt của lòng tin. Ngày 10.11.2008 đài truyền hình Việt Nam chiếu cảnh một người con tên Diệu đã đánh mẹ già 85 tuổi. Hình ảnh này đã gây sốc cho nhiều người xem tivi. Thử hỏi trên đời còn hành vi nào côn đồ cho bằng con đánh cha mẹ? Thế mà xã hội chúng ta vẫn đầy dãy những hành vi bất hiếu tương tự như thế! Cứ ngồi bình tâm kiểm chứng lại mà xem, bây giờ có mấy ai kính cẩn dạ thưa với cha mẹ? Hay lúc nào cũng xẵng giọng như người ngang hàng, thậm chí như kẻ bề trên? Cứ nhìn xung quanh mình mà xem, có mấy người biết thương yêu cha mẹ mình thật sự; thương yêu vô điều kiện, không phải vì bổn phận, như lời thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: "Thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì đó rất tự nhiên, như khát thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ".
Con đối xử với cha mẹ đã vậy, nhưng chúng ta cũng không thể không nói đến những hành vi dã man mất tính người mà các bậc cha mẹ giáng xuống trên con cái của mình. Cụ thể là việc phá thai. Ai cũng biết phá thai là trọng tội. Ai cũng biết "cọp không ăn thịt con". Thế nhưng, ở Việt Nam mỗi năm có đến gần 2 triệu bà mẹ đem con đến lò sát sinh. Rồi còn biết bao hành vi gian ác mà các bà mẹ đang đang tâm hành hạ những người con. Mới đây người ta không khỏi bùi ngùi khi người mẹ ở Pleiku ra giá bán con với giá 20 triệu đồng, trước đó bà đã đánh đập con bằng roi, bằng lưỡi lam cho bầm dập khắp thân mình.
Đó là một quang cảnh xã hội xem ra đang mất dần tính người để cho thú tính lộng hành. Làm sao chúng ta có thể có niềm tin nơi nhau khi mà xã hội đầy dãy sự lừa đảo, lưu manh, gian ác đang len lỏi vào từng gia đình, từng đoàn thể, và xã hội? Sống giữa xã hội hôm nay kẻ khôn ngoan phải tỉnh thức đề phòng kẻo thiệt thân mình, mà ân hận cả đời nếu quá tin người. Sống trong xã hội hôm nay chúng ta chớ có quá tin người kẻo thiệt vào thân. Hãy tỉnh thức để chúng ta không bị người khác lợi dụng, hãm hại. Hãy tỉnh thức để chính chúng ta đừng để cho thú tính nổi loạn khiến chúng ta không tự chủ bản thân, dẫn dến hành động đánh mất tính người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức trước thái độ sống của mình. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về hành vi của chúng ta, về sự liên đới trách nhiệm của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa như một ông chủ đi phương xa trao cho chúng ta quản lý cuộc đời nhưng không phải theo ý mình mà là theo ý Thiên Chúa. Thiên Chúa còn trao ban cho chúng ta quản lý ngôi nhà vũ trụ để làm sao cho mọi người trong ngôi nhà này đều có quyền hưởng an bình thịnh vượng. Vì thế, chúng ta không có quyền vì sự an nhàn của mình, vì mạng sống, vì danh dự, vì quyền lợi của mình để rồi đầy đoạ hay loại trừ người khác. Chúng ta không có quyền vì hạnh phúc bản thân mình mà hành động thiếu công bằng bác ái với tha nhân. Chúng ta càng không có quyền lỗi công bình, bác ái chỉ vỉ thói tham lam giả hình của mình. Chúa sẽ đòi lại công bình. Chúa sẽ đến để lập lại trật tự đã bị đảo lộn bởi tội lỗi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Chúa bảo chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Hãy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Hãy tỉnh thức để vượt ra ngoài những thói đời tội lỗi. Hãy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lý, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hãy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan vì luôn trung thành sống cho Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của mình luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lý trung thành và tận tuỵ của Chúa.
Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền thờ: MV 1-C105
Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền thờ và trầm trồ khen ngợi về kiến trúc của ngôi Thánh Đường. Chúa Giêsu nhân đó đã tiên báo cảnh sụp đổ của Đền thờ - xảy ra vào năm 70, do tướng Titus phá hủy. Kế đó các Tông đồ hỏi Chúa về các sự việc ấy xảy đến và vào thời chung cuộc thì có những điềm báo gì? Đáp lại, Chúa Giêsu tiên báo hàng loạt những việc bách hại sẽ xảy đến cho các Tông đồ cũng như cho những ai tin vào Thiên Chúa. Đồng thời Ngài cũng nhận rằng ngày đó là ngày nào thì không ai biết được, chỉ có Chúa Cha biết được mà thôi (x. Mc 13, 1-32). Và để kết luận, Chúa đã dạy cho các Tông đồ biết phải sẵn sàng để chờ đợi ngày đó như được nói đến trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này.
Tin mừng hôm nay chỉ vắn gọn trong năm câu, nhưng có đến bốn lần Chúa Giêsu dùng từ "canh thức" và một lần dùng từ "tỉnh thức" cũng đủ nói lên tính khẩn trương của việc chuẩn bị chờ đón ngày Chúa đến. Các Tông đồ muốn biết ngày đó là ngày nào và sẽ xảy đến ra sao, bởi các ông cho rằng sẽ là hợp lý khi biết trước để tránh, biết trước để chuẩn bị vẫn tốt hơn ở thế bị động. Chúa Giêsu không thể khẳng quyết chính xác ngày đó là ngày nào bởi nó nằm trong sự quan phòng của Chúa Cha. Điều Người có thể khẳng quyết cách chắc chắn rằng ngày đó- không sớm thì muộn, nhất định sẽ xảy đến. Khi khẳng quyết như thế, Chúa Giêsu không làm gì khác hơn là khuyên nhủ các Tông đồ hãy thanh thản sống giây phút hiện tại một cách có ý nghĩa. Sống giây phút ấy trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, trong sự tỉnh thức thật nhậy bén cũng như dùng giây phút hiện tại để dấn thân cho Tin mừng Chúa Kytô cách trọn vẹn. Cũng giống dụ ngôn người kia trẩy đi phương xa, trao tất cả quyền hành cho đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc và dặn người gác cửa phải tỉnh thức. Khi sánh ví như thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày nào, giờ nào chủ sẽ về và việc chủ nhà đến bất thình lình cho thấy công việc và mục đích duy nhất của người đầy tớ là hãy sống giây phút hiện tại trong sự tỉnh thức.
Tính cách bất ngờ, không báo trước ngày ông chủ về đã được thánh sử Máccô ghi lại mang dụng ý thần học hơn là cách trình bày sự việc cách đơn thuần. Nếu người Phương đông chia đêm thành năm canh thì trái lại, người Rôma lại chia thành bốn canh. Chúa Giêsu cũng dùng cách chia này nhưng lồng vào đó một ý nghĩa có tính chất tiên báo về bốn giai đoạn của cuộc thương khó mà Người sẽ trải qua. Bốn giai đoạn đó tượng trưng cho sự phản bội (chập tối), dễ sa chước cám dỗ (nửa đêm), chối Chúa (lúc gà gáy) và trốn chạy (tảng sáng). Chúng ta nhận thấy là, trong bốn canh của đêm tối, không giờ nào lại không có sự sa ngã, không lúc nào lại không có sự hiện diện của thế lực thù địch với Thiên Chúa. Thế nên vũ khí để có thể thắng đựơc các thế lực thù địch ấy- theo Chúa Giêsu, chỉ có thể là tỉnh thức. Tỉnh thức ở đây không chỉ là việc chống lại với sự buồn ngủ của thể lý mà còn là việc sẵn sàng nghênh đón những biến cố xảy đến cách bất thình lình nữa. Tỉnh thức ở đây cũng không phải mang một tâm trạng nặng nề ủ dột hay thất vọng đến độ tiêu cực cho bằng một thái độ sống biết phó thác, tin tưởng và chờ đợi ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang của Người. Như thế, tỉnh thức là biểu hiện của một trạng thái sẵn sàng, hiên ngang ngẩng cao đầu, sống một cách trọn vẹn cho giây phút hiện tại, và vì thế, việc ông chủ về bất cứ lúc nào dường như không còn quan trọng lắm đối với họ, bởi họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng, không thiếu sự gì để nghênh đón ông cách chu đáo.
Mùa Vọng nhắc nhớ chúng ta chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến trong Vinh quang. Và bởi vì ngày Vinh quang của Chúa đến cách đột ngột, không báo trước, nên chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đã rồi. Ngày đó chắc chắn sẽ đến. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức đủ để chuẩn bị tâm hồn, trở về với nẻo chính đường ngay, ngõ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng Một mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu vào: MV 1-C106
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng Một mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu vào ngày 1 thánh Giêng. Năm mới theo phụng vụ, bắt đầu vào ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Mừng lễ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng là chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới.. Như vậy, Mùa Vọng là mùa xuân của năm phụng vụ, từ đó phát sinh hy vọng. Trong mùa xuân, cây cối trổ sinh lộc non lá mới, bắt đầu kết nụ đơm hoa chuẩn bị cho một mùa thu hoạch mới. Và như thế mùa xuân cũng là mùa hy vọng, đó là thời gian trông chờ, mong đợi.
Đối với niềm tin của chúng ta, Mùa Vọng thực sự là mùa trông chờ, mong đợi. Lòng trông đợi mỗi lúc một rộn ràng hơn khi càng gần lễ Giáng Sinh; đồng thời mang nhiều sắc thái và mức độ khác nhau tùy tâm trạng mỗi người: người ta đợi Nô-en như một dịp để ăn chơi, để giao thiệp; đợi Nô-en như một cơ hội "nhất cử lưỡng tiện": tiễn năm cũ và đón chờ năm mới may mắn, phát đạt hơn như phần đông tín hữu các nước theo dương lịch. Hoặc đợi Nô-en theo đúng tinh thần Tin mừng là đón Đấng Cứu Tinh nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta mong đợi gì ? Niềm trông đợi của chúng ta có ý nghĩa nào ?
Chúng ta có thể trả lời: Chúng ta mong đợi Chúa đến. Ý nghĩa "Chúa đến" thường được hiểu ba cách: - Chúa đến trong lịch sử nhân loại - Chúa đến trong ngày thẩm phán chung hoặc riêng - Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng coi cả ba ý nghĩa này đều xa lạ với tư tưởng mong đợi. Thực vậy, trong lịch sử, Chúa đã đến từ hai ngàn năm và hiện giờ chúng ta đã kỷ niệm ngày sinh của Chúa từng mấy chục lần trong đời sống rồi. Còn trong ngày chung thẩm, trong cái chết của mỗi người thì sao ? Dĩ nhiên Chúa đến, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi mà lo sợ chờ chết ư ? Cũng phải tạm quên cái chết để vật lộn với cuộc sống chứ ? Còn Chúa đến trong cuộc sống mỗi người, thì ngày nào chúng ta chẳng đón Chúa trong kinh lễ, trong giờ cầu nguyện sớm tối ? Thế thì chúng ta mong đợi cái gì nữa ?
Giáo Hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi. Và hàng năm Giáo Hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo Hội muốn nhân không khí Giáng Sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hàng ngày: Chúng ta mong đợi Chúa trong ngày chúng ta từ giã cuộc sống để về với Chúa. Đó cũng là một biến cố đích thực và có ý nghĩa.
Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất. Đành rằng có một ít người được ơn lạ chết đi sống lại hai lần, như La-da-rô hay con trai bà góa thành Na-im hay một vài trường hợp nào đó, nhưng hầu hết nhân loại chỉ chết có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy tới với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến. Và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó luôn cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại dụ ngôn về đầy tớ phải canh thức đợi chủ về: " Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến". Còn thánh Mát-thêu thì nói rõ: "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến". Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa đều rõ ràng là Chúa Giêsu nói về chính mình Ngài.
Chính vì yếu tố bất ngờ đó mà Chúa dạy chúng ta phải luôn canh thức và sẵn sàng. Bởi vì cuộc đời con người đem so sánh với thời gian đã là một cái gì tạm bợ. Nhưng nếu đem so sánh với sự sống vĩnh cửu, thì nó càng mong manh hơn biết bao. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như hơi thở qua mau, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết khi nào mình từ biệt cõi đời, như kinh nghiệm vẫn minh chứng và Kinh Thánh đã nói tới từ khi có con người.
Nhìn chung lại, đoạn Tin mừng này nêu chủ đề: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày nào, vậy phải canh thức để được sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thế chờ đợi Chúa đến.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi ra đi gặp Chúa. Chúng ta đã chuẩn bị hành trang gì cho giây phút gặp gở ấy và có canh thức sẵn sàng chu toàn bổn phận mà Chúa trao cho hay không, để ngày Chúa đến là một niềm vui chứ không phải nỗi buồn, và chúng ta gặp Thiên Chúa tình yêu chứ không phải Thiên Chúa phán xét. Chúng ta canh thức mong chờ Chúa thế nào thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
Năm phụng vụ lại bắt đầu bằng một lời cảnh cáo: hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Mùa: MV 1-C107
Năm phụng vụ lại bắt đầu bằng một lời cảnh cáo: hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Mùa vọng lại tới, nhân loại không còn chờ đợi lễ Giáng Sinh như dân Do Thái xưa. Nhân loại và mỗi người đang chờ đợi Đức Kitô lại đến để hoàn tất công trình cứu độ nơi con người, nơi toàn thể thế giới, nơi mọi dân tộc, mọi nước, mọi người. Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu trong Tin Mừng chúa nhật hôm nay không chỉ dành riêng cho các môn đệ nhưng là chung cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
Chúa Giêsu kêu mời nhân loại, gọi mời mỗi người hãy coi chừng, tỉnh thức. Lời kêu mời này không có ý làm cho con người phải chìm đắm trong sầu đau, thử thách, nhận chìm trong bóng tối, tội lỗi. Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu mang một tầm vóc hết sức lạc quan. Chúa đã có mặt trong lịch sử nhân loại, Chúa đã hiện diện nơi mỗi người. Chúa đã giang tay ra để gánh lấy tội lỗi cho nhân loại. Tội lỗi đã bị đánh tan nhờ cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa đã mang sự sống mới cho nhân loại. Hãy tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái mới mẻ đó để nhập cuộc, để vui sống, để chia sẻ...Tuy nhiên, đọc Tin mừng, ta vẫn bắt gặp vô số những người đang mê ngủ, họ không biết tỉnh thức để nhận ra những cái tiến bộ, những cái mới mẻ của lịch sử, họ luôn suy nghĩ theo lề lối cũ, theo định kiến hẹp hòi.
Các người Biệt phái, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục luôn mê ngủ trong sự tự mãn về sự thông hiểu của họ về Thánh Kinh. Dân thành Giêrusalem cũng tự ru ngủ trong thói quen, sợ dấn thân nhập cuộc, nên họ đã sống ngoài biến cố Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu như vị cứu tinh họ mong đợi nhưng họ lại không nhận ra Ngài, họ không muốn chấp nhận Ngài. Họ đã không nhận ra Chúa Giêsu, nhưng lại tìm cách giết Ngài. Họ không chấp nhận nghe tiếng Ngài, không chấp nhận lối sống, cách cư xử xem ra đi ngược với họ. Họ thực là những con người đang mê ngủ. Trong khi đó những con nngười nhỏ bé, những người thu thuế, những cô gái điếm lại có khả năng nhận ra tiếng hát các thiên thần, của ánh sao, của dấu lạ để cuối cùng họ nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một Hài Nhi Giêsu đặt trong máng cỏ hay nơi một Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân, đi vào lịch sử để nhận ra những cái mới, những biến chuyển lạ lùng nơi những con người đã được cứu chuộc, nơi những người là Con Thiên Chúa, là anh em với nhau.
Mùa vọng không chỉ có nghĩa là nhớ lại việc Chúa sinh ra như những người Do Thái đã sống. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại ngày cuối cùng để phán xét, thời gian chúng ta ít mong đợi nhất. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem cuộc sống của chúng ta làm sao. Mùa vọng là thời gian chúng ta hồi tưởng lại xem chúng ta đã sẵn sàng
đón tiếp Chúa đến phán xét chúng ta lúc chúng ta còn ở trần gian, chúng ta đã sống dấn thân và mở mang Nước Chúa như thế nào. Đây là sứ điệp các bài đọc Chúa nhật hôm nay muốn nhắc nhở: Chúa Giêsu Đấng đã tới trần gian các đây hơn 2000 năm, sẽ trở lại vào ngày cùng tận lúc chúng ta không ngờ. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử mỗi người tùy theo khả năng và tùy theo nén bạc Chúa đã trao phó cho sinh lợi.
Mỗi người chúng ta hãytỉnh thức, cầu nguyện, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta trung tín và kiên vững trong công việc Chúa trao phó:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh, xin ban cho chúng con tình yêu, xin ban cho chúng con đôi mắt tinh anh, xin ban cho chúng con chính mình Ngài để chúng con luôn sẵn sàng dấn thân nhập cuộc mà không hề thất vọng chán nản và không bao giờ an nghỉ cho tới khi được Chúa an nghỉ trong chúng con . Amen.
Một ngày trong tháng 12,cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt. MV 1-C108
Một ngày trong tháng 12,cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.
Lên được 9.000 bộ ( tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão tuyết.
Mười một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.
Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2 ), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.
Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa.
Nếu có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.
Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể bước đi được một ài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp cáccậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.
Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong hầm bằng tuyết chờ đợi cơn bão chấm dứt, là một hình ảnh tuyệt hảo tượng trưng cho mùa vọng.
Mùa vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm gì để cho Đấng Cứu Thế mau đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện y như các cậu bé kia đã làm trên ngọn núi Mt.Hood. Dân Do Thái chỉ còn biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để giải cứu họ.
Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt.Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một câu như sau: "Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài. Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa còn hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông". Nếu không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, thì các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ, thì họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.
Nhưng Mùa vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa vọng còn có ý nghĩa hơn như thế nhiều.
Mùa vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Chính vì thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay như sau:
"Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức...Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức".
Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.
Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú và thánh thiện nhìn lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với kẻ theo Ngài:
"Các con hãy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" ( Mt. 28, 19-20)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tự nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem chúng ta đã làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian này.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà bình, và yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đã sống ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng ta hoàn thành công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta hãy hồi tâm lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con sức mạnh, vì đôi khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ cuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, vì đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài, vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không còn biết đâu là đường chúng con phải đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm hồn chúng con đã được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài.
Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung: MV 1-C109
"Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời" là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự " < I>Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng ". Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. CứuTinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo " đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?"
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. " Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ".
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng: MV 1-C110
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. Vì thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rõ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mã đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy thì dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! Vì thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.
Hôm nay Tiên Tri Isaia đã nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi vì họ đã quên lãng Chúa và đi lạc đường lối.
Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. Vì thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. Còn giáo dân La Mã thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mã thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.
Còn giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đình, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lý cổ truyền đã bị quên lãng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đã bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đã trở nên bê trễ.
Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. Còn Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mã phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho mình một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đình cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.
Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, thì Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
1 Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì. ..
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào: MV 1-C111
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến «thăm» nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?
2. Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: « Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống» (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là « hình ảnh của Thiên Chúa» cũng là «con cái Thiên Chúa», thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: «Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu» (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3. Ngày của Chúa
Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa - hay ngày Chúa đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập thể... Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ... Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
4. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở nên « mê ngủ», mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực... đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công...), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù oán, giết người...) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích...), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện...) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn... có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm... Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức .
Khi đã đến Giêrusalem, Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn tại Đền Thờ. Tác giả Lc đã ghi lại một: MV 1-C112
Khi đã đến Giêrusalem, Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn tại Đền Thờ. Tác giả Lc đã ghi lại một diễn từ dài bàn về số phận của Giêrusalem và Đền Thờ (21,8-36). Bản văn được kết cấu theo cấu trúc đồng tâm. Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là nửa sau của bài Diễn từ trên.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Các tai họa vũ trụ vào lúc tận thế (21,25-28); 2) Cảnh báo kết thúc: hãy tỉnh thức (21,34-36).
3.- Vài điểm chú giải
- mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất … cảnh biển gào sóng thét (25): Toàn thể các yếu tố của vũ trụ, được diễn tả bởi câu mô tả là trời, đất và biển đều rung chuyển.
- các quyền lực trên trời (26): Vũ trụ quan cổ xưa cho rằng các quyền lực thiêng liêng thì ở trên không trung.
- Con Người đầy quyền năng (27): Đây là hình ảnh của Đn 7,13-14.
- cứu chuộc (28): Từ apolytrôsis, “cứu chuộc”, này không có trong các Tin Mừng, nhưng hẳn là Lc đã mượn của Phaolô, vì thánh tông đồ dùng nhiều lần từ này để nói về công trình cứu độ của Đức Giêsu (Rm 3,24; 1 Cr 1,30; Rm 8,23; x. Cl 1,14; Ep 1,7; 4,30). Ở đây từ ngữ này được dùng theo nghĩa “giải thoát” mà không có quan hệ gì với “tiền chuộc” (lytron).
- như một chiếc lưới (34): Có thể hình ảnh này gợi đến Is 24,17.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Các tai họa vũ trụ vào lúc tận thế (25-28)
Cho đến nay, tác giả Lc kể ra một loạt các biến cố gần kề mà hẳn là ngài đã chứng kiến (cc. 8-9.12-19.20-24). Bất chợt ngài rời bỏ các viễn tượng lịch sử này để đưa mắt hướng về thời tận thế. Tách biệt rõ rệt với thời kỳ trước, thời này được loan báo bằng các dấu hiệu vũ trụ (c. 25a) mà Lc đã phân biệt với các dấu hiệu trước (cc. 10-11).
Trước tiên, chúng ta ghi nhận rằng, các yếu tố tương tự của vũ trụ đã xuất hiện trong trang đầu tiên của Kinh Thánh. Sách Sáng thế kể rằng vào lúc khởi đầu, mọi sự ở trong tình trạng hỗn độn, và có bóng tối bao trùm vực thẳm. Thiên Chúa đã tạo ra mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và biển; nói cách khác, Người đã làm ra thế giới là nơi loài người, thú vật và cây cối có thể sống chung với nhau (x. St 1,1-2). Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc tới mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và biển, nhưng cho thấy sẽ có một tình trạng lộn ngược so với “lúc khởi đầu”. Các sức mạnh đang giữ cho vũ trụ có trật tự sẽ bị đảo lộn và vũ trụ lại trở về với tình trạng trước tạo dựng. Không phải là các tinh tú, càng không phải là Thiên Chúa, đã gây ra tình trạng hỗn độn, nhưng là tội lỗi của loài người.
Trong các áng văn chương khải huyền, các dấu hiệu này là khung cảnh cổ điển cho cuộc Phán xét chung. Chúng phát xuất từ các bản văn ngôn sứ phác họa cuộc chiến thắng của Đức Chúa (Yhwh) trên “đạo binh trên trời”, tức các thần linh của Átsua và Babylon (x. chẳng hạn Is 13,10 và 34,4). Nhưng các tác giả TM lẫn Đức Giêsu đều không nghĩ đến một cuộc giao đấu của vị Thiên Chúa chân thật với các thần linh ngoại giáo. Các hình ảnh cổ xưa đó chỉ diễn tả cho các ngài cuộc can thiệp quyết định của Thiên Chúa trên thế giới mà Ngài sắp giải thoát khỏi sự dữ (x. Rm 8,19-22; Kh 21,1-8).
Trong khi Mc và Mt nói chi tiết về các tai ương vũ trụ theo cách các bản văn khải huyền, Lc lại dừng lại nhiều hơn với các phản ứng của loài người khi thấy Cùng Tận đến gần (cc. 25b-26). Như thế ngài trung thành với tư tưởng của Kinh Thánh và của Đức Giêsu hơn: tấn bi kịch cánh chung trước tiên là một tấn bi kịch của con người. Chính trong khi dường như mọi sự đang rời vào tình trạng hỗn loạn hoàn toàn, Con Người lại xuất hiện để kéo một thế giới mới ra khỏi tình trạng hỗn độn (x. c. 27).
Các bản văn khải huyền Do Thái mô tả thời tận thế bằng một loạt các biến cố phức tạp như người chết sống lại, phán xét, những người công chính được cứu, những kẻ gian ác bị trừng phạt, thế giới mới được thiết lập (Giêrusalem trên trời), v.v. Ở đây, trong TM Lc, Đức Giêsu cô đọng tất cả các biến cố của thời tận thế vào cuộc ngự đến khải hoàn của Người trong tư cách là Con Người (c. 27; Mc và Mt nói rõ rằng Người đến để quy tụ các người được tuyển chọn, và đây rất có thể là câu nói nguyên thủy của Đức Giêsu). Mặt trời và mặt trăng cung cấp ánh sáng và được phân biệt nhờ dòng lưu chuyển đều đặn của chúng; chúng giúp ta đo đạc thời gian. Các tinh tú được bố trí lớp lang, đã trở thành như biểu tượng của trật tự và bền vững: người đi trong sa mạc hay trên biển có thể định hướng nhờ các ngôi sao. Sự đảo lộn các biểu tượng về bền vững và trật tự này có nghĩa là các thực tại hiện đang có không có một độ bền bỉ vĩnh cửu, nên ta không thể tín nhiệm chúng vô điều kiện và dùng chúng như những điểm quy chiếu hoàn toàn đáng tin cậy. Mọi sự tùy thuộc vào Con Người đang ngự đến.
Biến cố Con Người ngự đến này là lời loan báo cốt yếu đối với Đức Giêsu: Người nhắc đến nhiều lần trong các Tin Mừng (Mc 8,38 //; 14,62 //; Mt 10,23; 13,41; 19,28; 25,31; Lc 12,8; 17,30; 18,8; v.v.). Lời loan báo này có gợi đến cảnh Phán xét trong Đn 7,13-14, trong đó Con Người đại diện cho “dân các thánh của Đấng Tối Cao”, được ban cho quyền hành tối cao sau khi đã trải qua các thử thách (x. Đn 7,18.22.27). Đức Giêsu nhận lấy danh hiệu “Con Người” như danh hiệu riêng, diễn tả vai trò của Người là Đấng Cứu Độ, Đấng gánh vác định mệnh của loài người.
Tác giả Lc đã loại bỏ mọi hình ảnh khải huyền phụ thuộc để tập trung chú ý vào quyền năng và vinh quang của Đức Giêsu, Đấng chiến thắng sự dữ và là Chúa tể của Vương quốc.
Để kết thúc bản văn này, Lc ghi lại một lời khuyên của Đức Giêsu: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (c. 28). Người mời gọi sống niềm hy vọng. Các dấu hiệu và các biến cố Đức Giêsu vừa loan báo thì đáng sợ thật. Nhưng các tín hữu của Đức Giêsu không có gì phải sợ các biến cố này, vì chúng tỏ bày chiến thắng và quyền chúa tể của Thầy họ. Khi sống trong những đảo lộn của thế giới này, họ phải nhận biết rằng Nước Thiên Chúa đang đến gần và đã tới lúc họ được cứu chuộc (apolytrôsis).
* Cảnh báo kết thúc: hãy tỉnh thức (34-36)
Lời khuyên ở cc. 34-36 là kết luận của toàn bài diễn từ. Lời này theo một viễn tượng khác. Việc Chúa đến không còn được loan báo bằng những dấu hiệu, như ở cc. 11.25.28 nữa; nhưng được báo là sẽ xảy ra bất thình lình và không thể tiên liệu, như các dụ ngôn về sự tỉnh thức (12,35-46) hay như bảng phác họa Ngày của Con Người (17,23.36). Đức Giêsu đã vận dụng cả hai cách giới thiệu này bởi vì Người không quan tâm mô tả tương lai cho rõ ràng cho bằng mời gọi các môn đệ chuẩn bị đón biến cố đó bằng cách sống trung thành.
Trong đoạn văn cuối cùng này, thái độ mà các tín hữu phải có là tỉnh thức thường trực. Họ phải tránh các cám dỗ sống trụy lạc và say sưa (x. 12,45; 1 Tx 5,6-7; Rm 13,13), và còn hơn thế nữa, tránh các bận tâm về trần thế khiến họ có thể quay lưng lại với điều thiện hảo duy nhất đáng kể (x. 8,14; 12,22-31; 17,27-28). Họ phải sẵn sàng, bởi vì “ngày ấy” sẽ xảy đến thình lình (x. 1 Tx 5,3) và bắt chợt các dân cư trên mặt đất, như chiếc lưới của người thợ săn ụp xuống thình lình trên con mồi (x. Is 24,17). Trong thực tế, đối với Lc, sẵn sàng chính là luôn luôn lo công việc mà Thầy đã giao phó cho các tôi tớ Người (12,35-48); đó cũng là “cầu nguyện luôn luôn không bao giờ nản chí”, như Người đã nhắc nhở sau khi phác ra Ngày của Con Người (18,1). Bởi vì nếu người tín hữu không ngừng quay về với Chúa để thờ phượng Người, để xin Người trợ giúp và trước tiên cho Nước Người ngự đến, thì làm sao người ấy lại có thể bị bắt chợt bởi một cuộc ngự đến mà người ấy luôn trông mong? Được chuẩn bị như thế nhờ sự trung thành và cầu nguyện, người ấy chẳng sợ gì các thử thách vào lúc Cùng Tận: người ấy sẽ có thể đứng vững khi bị Con Người xét xử. + Kết luận Bài Tin Mừng này hoàn toàn thích hợp cho CN I MV , tức khởi đầu Năm Mới của Hội Thánh. Tuy nhiên, lễ Giáng Sinh đã hoàn tất rồi, trong sự nghèo khó và trong niềm vui Bêlem. Chúa đã đến mang Tin Mừng của Người cho chúng ta và đưa chúng ta vào trong Hội Thánh Người. Nếu chúng ta có nhắc lại cuộc hiển ngự đầu tiên trong tình trạng khiêm tốn nghèo hèn, là để tiến bước về cuộc hiển ngự vĩnh viễn của Con Người trong quyền năng và vinh quang. Nhưng từ cuộc hiển ngự đầu tiên đến cuộc hiển ngự cuối cùng, sẽ là một chuỗi những chọn lựa được mỗi người thực hiện. Nếu chúng ta liên tục chọn Đức Giêsu, chúng ta đã thực thi lời Người dạy: Hãy tỉnh thức!
5.- Gợi ý suy niệm 1. Khi bắt đầu Năm Phụng vụ mới, Hội Thánh đã dùng những lời Tin Mừng hôm nay để đẩy chúng ta tới trước, chứ không muốn chúng ta dừng lại và bằng lòng với một bảng tổng kết nào đó. Chúng ta còn phải đi tới trước, để đón gặp Đức Kitô vì Người đang đến. Sự chấm dứt của lịch sử được liên kết với sự đảo lộn của tất cả những gì cho tới nay được coi là cố định và chắc chắn và liên kết với việc Con Người ngự đến trong vinh quang. Tất cả các thực tại vẫn có cho đến nay không có độ chắc vĩnh cửu, nên ta không thể tín nhiệm vào chúng vô điều kiện, và chúng không thể được dùng như những điểm quy chiếu không phải nghĩ ngợi. Tiếng nói cuối cùng về tất cả lịch sử con người và mọi yếu tố của lịch sử này thuộc về Con Người khi Người đến trong vinh quang Thiên Chúa.
2. Con Người đã đi qua đau khổ và cái chết nhưng rồi đã trỗi dậy từ cõi chết. Người sẽ tỏ mình ra trước mắt mọi người trong phẩm cách đích thực của Người. Sự tỏ mình ra của Người và quyền chúa tể hữu hình của Người, quyền chúa tể duy nhất và vô biên chính là mục tiêu của toàn thể lịch sử nhân loại. Cho dù lịch sử này đã bị cày xới liên tục bởi các tai ương và sức mạnh hủy hoại, cuối cùng nó vẫn không phải là một tai ương. Thiên Chúa cho phép vô số chuyện lạ lùng và không hiểu được xảy ra, nhưng tiếng nói cuối cùng của Ngài trên lịch sử con người là sự mạc khải Con Người. Người sẽ xuất hiện ra trong vinh quang của Chúa Cha, trong vẻ xán lạn uy hùng ngang bằng Thiên Chúa. Lịch sử nhân loại có thể có vẻ còn quá tăm tối và đang đi đến chỗ tiêu vong, nhưng cuối cùng có Con Người, Đấng đã chia sẻ trọn vẹn định mệnh con người, nay đến trong vinh quang chói lọi và trong sự hiệp thông phong phú với Thiên Chúa là Cha Người.
3. Với bài diễn từ này, Đức Giêsu xác định cách sống của các môn đệ Người trong khoảng thời gian đi từ cuộc Phục Sinh của Người cho đến ngày Người trở lại. Người sẽ không hiện diện hữu hình với họ nữa; họ sẽ phải tiếp tục hành trình trong sự hiểu biết giới hạn về các thực tại trần thế, nhưng cũng trong xác tín vững vàng vào cuộc chiến thắng chung cuộc của Chúa mình. Họ “hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Nhưng cũng phải biết đề phòng những quyến rũ đam mê xấu. Cuối cùng họ “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
4. Lời cầu nguyện chân thật đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa và điều gì đưa tới với Thiên Chúa thì không thể tách chúng ta khỏi những người khác. Chúng ta không nhìn lên mây xanh, nhưng nhìn tới anh chị em mình. Chúng ta không cần phải lo lắng về chuyện sẽ xảy ra vào lúc cùng tận, nhưng phải bận tâm đến tình trạng cùng quẫn của những người sống chung quanh chúng ta. Khi bảo chúng ta tỉnh thức, Đức Giêsu muốn chúng ta nhận thấy những nhu cầu của anh chị em chúng ta.
Mùa vọng giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa.Qua sự can: MV 1-C113
Mùa vọng giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa.Qua sự can thiệp của Thiên Chúa, một con trẻ đã được cưu mang trong cung lòng trinh khiết của Đức trinh nữ Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần, Con trẻ tên là Giêsu đã mang lại cho thế giới niềm vui, hạnh phúc và ơn cứu độ của Người. Chúa nhật I Mùa Vọng bắt đầu năm Phụng Vụ mới, khơi dậy trong chúng ta việc Chúa Giêsu sẽ tới lại trong vinh quang vào ngày sau hết.
Thực tế cứ vào cuối năm Phụng Vụ và bắt đầu năm Phụng Vụ mới, Giáo Hội nhắc cho nhân loại, cho Hội Thánh và từng người chúng ta về hai biến cố đáng khắc ghi ; biến cố Con Thiên Chúa giáng sinh làm người và biến cố ngày quang lâm của Chúa vào ngày cùng tận. Hai biến cố này giúp chúng ta cảm nghiệm mầu nhiệm tình thương cao vời của Thiên Chúa. Nếu Con Thiên Chúa không nhập thể làm người và không có lời xin vâng chấp nhận làm mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria, chắc chắn thế giới còn lần mò trong u tối. Tuy nhiên, do việc can thiệp lạ lùng, kỳ diệu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu đã hóa kiếp làm người như lời thánh Phaolô viết thư gửi tín hữu Philipphê. Một sự lạ vô cùng cao quí, Chúa Giêsu đã được sai tới trần gian để cứu chuộc trần gian qua cung lòng thanh sạch, khiết trinh của Đức Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhân loại được đổi mới, được mang một ý nghĩa mới.Như thế, lời của các ngôn sứ đã được ứng nghiệm .Ngôn sứ Giêrêmia hôm nay đã bầy tỏ cho mọi người biết sấm ngôn của Đức Chúa:” Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israen và về Giuđa… Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành:” Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta”. Thánh vịnh 24 có đoạn viết:” Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa. Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Người “. Sự tin tưởng và cậy trông nơi Thiên Chúa đã được tác giả Thánh vịnh 141, 1-2 viết: “ Lạy Chúa, con kêu lên Chúa: xin Ngài mau đến phù trợ con ! Xin lắng nghe lời con khi con kêu gào lên Chúa ! Ước chi lời con nguyện như làn hương trầm bay tỏa lên trước tôn nhan, và đôi tay con dâng lên như của lễ ban chiều “. Thánh Phaolô lại cho chúng ta tin tưởng hướng về ngày quang lâm của Chúa.Chính vì thế, Chúa nhật I Mùa vọng nhằm đưa mỗi người chúng ta về một thực tại: Chúa đến mang bình an, hạnh phúc và đem lại cho con người ơn giải thoát. Được sống trong ơn huệ, ơn cứu độ của Chúa, con người chắc chắn sẽ được chết và phục sinh với Chúa.
Nhằm chờ Chúa đến trong ngày cùng tận, Chúa cảnh báo chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi vì, Chúa loan báo khi các điềm lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Và ở dưới đất sẽ có động đất, biển gào sóng thét. Lúc ấy, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và uy nghi ngự đến. Chúa nhắn nhủ khi thấy như vậy, chúng ta hãy biết rằng giờ cứu độ đã đến và chúng ta sẽ được cứu chuộc. Chúa bảo chúng ta hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Đứng thẳng để chờ đợi Đấng sẽ đến và ngẩng đầu lên để nhìn ngắm, tin tưởng cậy trông vào Đấng cứu độ. Nên, chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để không bị hụt hẵng và bị cửa Nước Trời đóng lại như năm cô trinh nữ dại khờ mang đèn mà không biết tiên liệu mang dầu theo. Cầu nguyện để khỏi sa chước ma quỉ cám dỗ.
Chúng ta hãy hiệp với Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Mùa Vọng. Mẹ đã ấp ủ Con Mẹ trong cung lòng và chờ đợi ngày Con Mẹ là Chúa Giêsu sinh ra. Mẹ đã luôn hy vọng, đã luôn tin tưởng và cậy trông. Mẹ đã tín thác hoàn toàn nơi Chúa. Chúng ta hãy đặt bàn tay chúng ta trong bàn tay Từ Mẫu của Mẹ để trong năm đức tin này với tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ sống hạnh phúc trong ân sủng vô biên của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, bởi có những lúc chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con đôi mắt của Chúa, vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không biết đâu là đường chúng con phải đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Chúa cho chúng con.Chúng con đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, để yêu Chúa, nên chúng con sẽ bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Maranatha, Người ơi hãy mau đến.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Mùa Vọng là gì ? 2.Xin kể ra hai đặc tính cốt yếu của Mùa Vọng ? 3.Tại sao lại gọi Mẹ Maria là Mẹ của Mùa Vọng ? 4.Ngày giáng lâm của Đức Kitô là gì ? 5.Tại sao lại gọi là ngày tận thế ?
Tờ báo địa phương vừa tả lại rất kỹ một chuyện xem ra thật động trời xảy ra tại một vùng ngoại ô: MV 1-C114
Tờ báo địa phương vừa tả lại rất kỹ một chuyện xem ra thật động trời xảy ra tại một vùng ngoại ô New Orleans: một người Mỹ tên là Maurice Sierra trong cơn tức giận cùng độ đã dám phạm tội công khai bằng cách lấy xe hất con chó Gris Gris vào bờ dậu sắt, rồi de xe lại đè lên con chó chòe choẹt máu ngay trước mắt nhiều người. Con chó quằn quại giẫy giẫy mấy cái rồi nhắm mắt an giấc ngàn thu. Thê thảm.
CHÓ CHẾT CHƯA HẾT CHUYỆN
Thế là cả trăm cú điện thoại gọi cho cảnh sát. Thế là còi hụ, đèn chớp, người người tuốn đến, rối cả lên một góc phố Gretna. Lập tức chàng Sierra bị còng tay vì phạm tội tầy trời. Hội bảo vệ súc vật lên tiếng tới tấp về vụ xâm phạm khuyển quyền trắng trợn này. Và bản án là anh chàng Sierra bị phạt một ngàn đồng tiền Mỹ, kèm thêm 100 giờ phải đi đến trung tâm tiếp chó "animal shelter" để tỏ dấu ăn năn thống hối bằng cách dọn phân rác hầu hạ làm tôi chó cho nên.
Ấy, chớ vội bảo người Âu Mỹ là bệnh hoạn, lệch lạc: bênh người không bênh lại đi bênh chó. Bởi vì chó ở xứ này là bạn thân của nhiều người cô quạnh đơn lẻ. Tình chó ở thời điểm văn minh của thiên niên kỷ 3 tưởng là cao độ này đang có thể vỗ về khỏa lấp trống rỗng phần nào thay cho sự thiếu vắng tình người. Chó nó biết vẫy đuôi chào chủ, chia sẻ niềm vui với chủ. Chủ có tức giận chửi đánh nó thì nó chỉ biết hờn. Buồn quá thì cũng biết xụt xùi thôi chứ không bắt phải ra tòa li dị. Chó rất chung thủy, biết tỏ tình quyến luyến. Hồi còn nhỏ tôi nhớ gia đình tôi có nuôi một con chó Vện thật khôn. Nhưng có dạo nó bị tật nên phải cho người ta làm thịt. Nó linh cảm rất bén nhậy. Biết sắp phải bị giết mà nó vẫn không trốn đi, chỉ nằm góc nhà mà khóc chảy nước mắt. Tội chưa?
VŨ THƯ HIÊN VÀ MỐI TÌNH CON CÓC
Con người ở thời điểm này cần tình thương quá sức mà lại khó tìm thấy nơi loài người mới khổ. Chẳng tìm được ở nơi người thì phải tìm ở chó chứ biết sao. Thời đại này nhiều tiến bộ lắm, chế ra được những lý thuyết vĩ đại: duy vật và duy con vật. Thời điểm của những chủ nghĩa thuyết lý "người là con vật kinh tế" mà, nên tiến hóa ra những loại người mất dần bản tính người.
Vũ Thư Hiên đã tả mối tình cóc thật cảm động trong cuốn hồi ký nhà tù Đêm Giữa Ban Ngày. Ông này bị giam cách li lâu ngày, chả còn ai nói chuyện, chả còn ai cảm thông. Thèm tình người quá đi. May vớ được một con cóc trong phòng giam bèn làm thân và đặt tên là Arlequin: "Sự bận rộn với con cóc làm cho cảnh sống của tôi dễ chịu hơn. Bây giờ hằng ngày tôi có được cái thú ngồi im lặng trên phản mà quan sát nó nhảy nhót qua lại trên khoảng đất trống giữa cái phản và cánh cửa. Con cóc xấu xí nhưng chăm chỉ chẳng mấy khi ngồi yên một chỗ. Suốt ngày nó tha thẩn nhẩy tới nhẩy lui, thỉnh thoảng lại đớp lia lịa những con kiến vô hình trong bóng tối. Tôi buộc phải đặt chân rất thận trọng mỗi khi bước xuống đất kẻo dẫm lên nó." (trang 580).
Giá mà nuôi chó, nuôi mèo, nuôi chuột nhắt con hay nuôi chim thì thú hơn. Nhưng trong nhà tù làm sao mà có. May mà còn vớ được một con cóc: "Đành nuôi con cóc xấu xí kia vậy. Những ngày đầu nó còn lẩn tránh tôi, mỗi lần tôi tới gần nó là nó vội vã nhảy đi. Lâu dần rồi cu cậu cũng quen, không đến nỗi xa tránh tôi như trước. Thậm chí thỉnh thoảng tôi có vuốt ve nó, nó vẫn ngồi im. Người ta nói khi đụng vào cóc, da nó sẽ tiết ra một loại mủ độc, chạm vào thì bị lở loét. Con cóc của tôi chẳng tiết ra chất gì hết. Chắc nó không muốn hại tôi. Quen thêm chút nữa, tôi lại đặt nó vào lòng bàn tay rồi đưa lên tận mắt ngắm nghía. Nó cũng mặc. Chỉ tiếc nó không biết nói, tôi có nói gì nó cũng không thèm đáp, chỉ giương đôi mắt thao láo ra nhìn tôi."
Vũ Thư Hiên còn cho cái nhìn tâm lý thật sâu của con người trong những lúc thấy mình thành vô dụng thừa thãi. Cái đó ông gọi là bản năng cầu bầu.
"Không phải chỉ nhu cầu có bạn trong cảnh cô đơn mà người tù xà lim nuôi những con vật chẳng ai nuôi làm cảnh bao giờ. Con người cần có ai đó để săn sóc. Nói cách khác, nó cần được thấy nó đang hiện hữu và hiện hữu có ích. Tình cảm đó là hạt nhân Thiện nằm trong mỗi chúng ta." (trang 585)
Ấy thế mà anh bạn cóc chẳng chịu ở trong cái phòng giam chật hẹp tối tăm này để cho Vũ Thư Hiên kết bạn mà bù đắp cái bản năng cầu bầu! Một ngày kia nó trốn mất ra ngoài, làm kẻ ở lại nhớn nhác tìm mãi trong thất vọng thẫn thờ.
"Mệt mỏi, tôi nằm vật ra phản. Nước mắt tôi chảy ra. Tôi nhớ Arlequin như nhớ một con người. Buổi chiều tôi bỏ cơm… Trong xà lim vắng lặng hẳn. Cứ như thể Arlequin còn đó thì xà lim không vắng vẻ đến thế. Tôi cảm thấy hụt hẫng. Không còn nữa tiếng sột soạt khe khẽ khi Arlequin di chuyển trên nền xi măng, chỉ có nghe thấy được khi rất chú ý. Không còn cái bóng nhỏ lui cui lúc chỗ này lúc chỗ kia, trong cái cũi người nay còn lại mình tôi." (trang 587)
Thế là trong cơn thương nhớ và chán nản Vũ Thư Hiên ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ ông ta thấy con cóc trở về. Chắc chắn là phải có màn trách móc và màn biện hộ. Con cóc nói lý do bỏ đi không phải vì gì khác hơn là không chịu nổi cảnh tù túng: "Tôi cũng muốn ở cùng anh, nhưng rất tiếc, không thể được. Tôi là một con cóc. Không con vật nào muốn sống trong lồng, trong chuồng, anh có hiểu như thế không? Sống như thế không phải là sống. Chúng tôi không cầm tù nhau như các anh, loài người… Không biết và không nỡ. Tôi biết: các anh nghĩ rằng loài người các anh là sinh vật thượng đẳng, các anh coi các anh cao hơn các loài khác, nhưng tôi nghĩ các anh lầm."
Hoàn toàn không phải thế… "Tôi không biết phải nói gì với Arlequin. Tôi buồn nỗi mình thuộc một loài mà cả đến con cóc cũng không thèm kính trọng." (trang 589).
TIN VUI CỜ PHÚT ĐỐN NGỘ
Thật tội cho những người tron glúc cô đơn cùng độ mà không có được con mắt của niềm tin để gặp được Chúa là Tình Yêu. Lúc quá đơn côi thì phải tìm chơi với chó hay cả với con cóc mà cũng không được. Có người thì khỏa lấp bằng đi casino đánh bạc hay chai rượu sương mù... mịt: một xị mở mang trí hóa, hai xị giải phá cơn sầu...
Niềm an ủi và sức mạnh lớn nhất cho người theo đạo Chúa là mở mắt thấy được Chúa luôn hiện diện bên cạnh săn sóc yêu thương, dù đang đi đường hay trong nhà tù. Chính vì thế mà người ta lấy làm lạ là tại sao Thánh Lê Thị Thành cũng như Các Thánh Tử Đạo Việt Nam luôn bình thản, và vui tươi khi bị giam nhốt hay bị dẫn ra pháp trường. Vì các Ngài thấy được: có Chúa nâng đỡ tôi, tôi còn sợ chi. Có lần quan đã dùng trò dã man là buộc ống quần áo của bà thánh lại rồi vất rắn độc vào trong người bà làm cho bà hoảng sợ. Đây là trò quá ác độc. Con rắn lành lạnh bò tới bò lui. Cơn sợ hãi tăng lên cùng độ. Nhưng bà luôn miệng cầu xin ơn Chúa: “Giêsu, Maria, Giuse, xin ba Đấng cứu con”.
Và Bà can đảm đứng yên không nhúc nhích nên rắn không cắn mà từ từ bò ra. Bà đã cầu nguyện tha thiết và Chúa đã ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách xem ra vượt quá sức của bà. Sau đó bà đã nói rõ bí mật của sức mạnh này: “Họ đánh đập dữ tợn lắm. Người thế gian không có sức nào mà chịu được, song khi tôi phải đòn thì tôi cầu xin Đức Mẹ phù hộ thêm sức mạnh cho tôi, nên tôi không cảm thấy đau đớn.”
Hội Thánh Công Giáo có truyền thống dành bốn tuần trước lễ Giáng Sinh để chuẩn bị đón Chúa, gọi là Mùa Vọng. Thực ra thì Chúa và Đức Mẹ đã đến rồi, mình phải điều chỉnh lại con mắt để bừng mở nhìn để thấy được Chúa và Đức Mẹ thì đúng hơn. Đó là giây phút đốn ngộ.
Vì thế mà Tin Vui tuần này bảo: "Chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn" (Luca 21:36). Tức là hãy khai mở con mắt của tâm để nhìn những dấu chỉ thì thấy được Chúa đang có mặt.
"Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, chúng con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi chúng con đã đến gần…"
" Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện Tin Vui Ta đã loan báo cho nhà Israel. Và đây tên người ta sẽ gọi Ngài: "Thiên Chúa, Đấng công chính của chúng tôi." (Giêrêmia 33:14-16).
PHÚT TỊNH TÂM
Trong lúc gặp nghịch cảnh đen tối buồn khổ, xin cho con phút lóe sáng để bừng mở con mắt thứ ba là con mắt của niềm tin. Vâng, con tin và thấy được Chúa đang có mặt nơi đây, bên cạnh con, đang kết thân với con và săn sóc yêu thương con. Bao người trong thời điểm này quá thừa mứa vật chất mà lại thật sự thiếu hụt tình thương. Cảm nhận được Chúa là tìm được tình thương yêu vỗ về mọi nơi, mọi lúc. Và trong thái độ kinh ngạc, con cung kính đón chào Chúa như Mô-Sê đã cảm nghiệm đốm lửa bật lên trong bóng tối sa mạc hoang vu cô quạnh lòng mình:
"Lạy Chúa, con sấp mình xuống trước mặt Chúa. Con tin thật Chúa ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự, hằng xem thấy con, hằng nghe lời con cầu nguyện."
Nếu chúng ta để một thái sơn bằng thép hoặc bạch kim rắn chắc trước mặt trời với sức nóng hằng: MV 1-C115
Nếu chúng ta để một thái sơn bằng thép hoặc bạch kim rắn chắc trước mặt trời với sức nóng hằng triệu độ, thì chỉ trong phút chốc khối núi thép hay bạch kim khổng lồ ấy sẽ chảy tan ra như nước và biến mất trong không khí.
Con người là chi mà Chúa Giêsu lại nói rằng chúng ta phải chuẩn bị để đứng trước mặt con người - Thiên Chúa, mặt trời công chính đời đời hằng hữu. Đứng trước mặt ngài, các thần Sêraphim và Kêrôbim cũng phải lấy cánh che mặt, huống chi tạo vật tầm thường và tội lỗi như chúng ta.
May thay, Con Người mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không phải là một Thiên Chúa uy nghi, cao cả. Một Thiên Chúa mà các Sêraphim và Kêrôbim phải lấy cánh che mặt, mà là một “con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”. Con người mà Thánh Phaolô đã diễn tả khi trình bày về Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đang xuất hiện, mà nhân loại và Giáo Hội đang chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm giáng trần của ngài trong Mùa Vọng này.
Khi Chúa Giêsu đề cập đến những điềm lạ xuất hiện, những biến chuyển lớn lao của trời đất phải chăng đó chẳng phải là ngài nói đến những biến đổi lạ thường khi mà con người tiếp cận và đón nhận Thiên Chúa nhập thể. Khi mà những thế lực tối tăm của Satan và ma quỉ đang cố gắng làm lu mờ hình ảnh Đấng Cứu Thế, thì kìa ngài đang xuất hiện. Và phải chăng đó cũng là tin mừng mà mỗi Kitô hữu và tất cả mọi người thiện chí phải hân hoan, vui mừng chuẩn bị đón nhận.
Nhưng nhận ra những dấu chỉ và những biến cố của thời đại thời đại, nhận ra sự xuất hiện của ngài trong cuộc sống không phải là chuyện dễ. Chúa Giêsu biết như vậy, nên ngài đã nhắn nhủ và lưu ý chúng ta: “Hãy giữ mình kẻo lòng trí anh em ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời” (Luca 21:34).
Đối với Chúa Giêsu, cái mất mát kinh khủng nhất chính là việc con người đánh mất tình ngài, bị lạc xa và tan biến vào những cái hư không hão huyền của thế gian và xác thịt. Do những điều này mà con người đã không đón nhận một Cứu Chúa tình thương trước khi phải miễn cưỡng xuất hiện trước mặt một Thiên Chúa uy nghi cao cả trong ngày ngài đến. Và lúc đó, dù là các thiên thần cũng không dám trực diện nhìn ngài, nói chi đến con người tội lỗi lại có thể đứng vững trước mặt ngài.
Mùa Vọng đang về, mùa của vui mừng, của chờ đợi, và của canh tân. Tinh thần mừng vui là niềm phấn khởi mong chờ sự xuất hiện yêu thương của Chúa Cứu Thế để chuẩn bị cho sự xuất hiện uy nghi của ngài trong ngày chung thẩm. Và chỉ ở điểm này, thì con người mới có thể đứng vững khi ra trước mặt ngài.
Thái độ chờ đợi được buổi lộ trong tâm tình mong mỏi và hồi hộp. Thánh ca tưng bừng réo rắt. Nến đèn lung linh thắp sáng. Cả đất trời như hòa miền vui chuẩn bị đón đợi ngày ngài hạ sinh giáng trần. Ngày mà các thiên sứ đã nói với các mục đồng tại Bêlem: “Ta báo cho anh em một tin vui - cũng là tin vui cho toàn dân - hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi trong thành Đavít, ngài là Đức Kitô Chúa chúng ta ” (Lc 2:10-11).
Và sau cùng thái độ sửa soạn, chuẩn bị. Đón một người bạn hay một người nào thì ngoài tâm tình vui mừng, sung sướng, ta còn phải có thái độ chuẩn bị. Người bạn càng quí, người khách càng có địa vị thì sự chẩn bị càng phải kỹ lưỡng và chi tiết. Không thể nào ta đón tiếp một thượng khách bằng bộ áo quần bẩn thỉu và luộm thuộm. Không thể nào ta đón tiếp một bạn tri kỷ lâu năm bằng một thái độ thờ ơ, lạnh nhạt.
Chúa Cứu Thế đang đến. Tinh thần mùa vọng là tinh thần canh sửa và chuẩn bị. Sự sửa sang tâm hồn là điều cần mà Chúa Giêsu muốn. Cũng chính vì vậy, ngài đã bảo chúng ta phải “coi chừng”. Thế gian, xác thịt và ma quỉ sẽ không để chúng ta có thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng. Đó là cái sẽ tạo nên những bất ngờ và gây sửng sốt giữa những người đã chuẩn bị cẩn thận và những người không chuẩn bị. Và đây cũng là điều khiến chúng ta, dù là những tội nhân yếu đuối vẫn có thể bình thản mà đứng trước mặt ngài.
Đứng vững trước mặt con người. Nhất là đứng vững giữa những kinh hoàng xẩy ra cho mình và cho vũ trụ quanh mình: mặt trời, mặt trăng mất sáng. Tinh tú trên trời quay cuồng, đảo lộn. Trái đất ầm vang tiếng nổ, và chát chúa tiếng binh đao. Một mặt, con người lại cuống cuồng hưởng thụ và cố tình trốn tránh sự thật bằng việc tìm kiếm và che đậy qua những ảo vọng, ảo tưởng và ảo giác do vật chất đời này đem lại. Đứng vững được giữa những thử thách và sức ép tinh thần cũng như vật chất ấy, thật là một điều hết sức khó khăn, con người không tự mình làm được. Vì thế, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta “hãy tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng” (Lc 21:36). Có nghĩa là để đứng trước mặt ngài dù là trong ngày ngài đến dưới thân phận hài nhi bé nhỏ, hay uy quyền trên đám mây, tất cả đều tùy thuộc ở thái độ khiêm nhường và yêu mến của mỗi chúng ta. Thiên Chúa sẽ làm công việc của ngài khi ngài nhìn thấy chúng ta khiêm tốn đóng góp phần nhỏ bé của mình với thiện chí và lòng khao khát chân thành.
Hôm nay, thêm một lần nữa, chúng ta lại bước vào Mùa Vọng!!
Ý nghĩa và mục đích của Mùa Vọng là chuẩn bị tâm hồn đón mừng Thiên Chúa xuống thế làm: MV 1-C116
Ý nghĩa và mục đích của Mùa Vọng là chuẩn bị tâm hồn đón mừng Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại và để làm chủ tâm hồn và cuộc sống của mỗi Ki-tô hữu chúng ta.
Xét về lịch sử thì Thiên Chúa Ngôi Hai đã đến trần gian khá lâu rồi và Người chỉ đến có một lần mà thôi. Còn xét về mặt tâm linh tức trong tương quan giữa Thiên Chúa nhập thể làm người và mỗi người chúng ta thì Thiên Chúa luôn ở đàng trước chúng ta, đang tiến lại gần chúng ta, sẵn sàng ngự vào tâm hồn và thâm nhập vào cuộc sống của chúng ta.
Do đó công việc của chúng ta phải làm là luôn tỉnh thức đợi chờ và kiên trì cầu nguyện để có thể:
nghe được tiếng bước chân của Người, nhận ra tiếng nói của Người và nhìn ra bóng dáng của Người lướt qua, mà chạy ra đón rước Người vào nhà và sống thân mật với Người.
Các bài Thánh Kinh hôm nay sẽ giúp chúng ta ý thức sâu sắc hơn về công việc hệ trọng này.
II. Lắng nghe & Tìm hiểu Lời Chúa trong ba bài Thánh kinh
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh:
Bài đọc 1: Gr 33,14-16: Định chế cho tương lai
14 Này, sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Ít-ra-en và về Giu-đa.15 Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.
16 Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: "ĐỨC CHÚA là-sự-công-chính-của-chúng-ta! "
Bài đọc 2: 1 Tx 3,12-4,2: Khuyên cộng đoàn sống thánh thiện và bác ái
(3) 12 Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. 13 Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.
(4) 1 Vả lại, thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giê-su, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. 2 Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giê-su mà ra những chỉ thị nào cho anh em.
Bài Tin Mừng: Lc 21,25-28.34-36: Phải tỉnh thức và cầu nguyện
25 "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc."
34 "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em,35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
Bài đọc 1 (Gr 33,14-16) là sấm ngôn của Thiên Chúa về những điều tốt lành mà Người sẽ thực hiện cho dân riêng là Ít-ra-en nói chung, cho chi tộc Giu-đa và cho thành thánh Giê-ru-sa-lem nói riêng: Đó là việc Thiên Chúa cho mọc lên một mầm non, là cho xuất hiện một Đấng Công Chính nối nghiệp Đa-vít, cứu thoát Giu-đa, ban an cư lạc nghiệp cho Giê-ru-sa-lem. Sấm ngôn trên đã được thực hiện khi Chúa Giê-su Ki-tô là Con Yêu Dấu của Cha xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và chết treo trên cây thập giá.
Qua đoạn văn Gr 33,14-16 này, gương mặt của một Thiên Chúa yêu thương, trung tín và quan phòng hiện rõ cho chúng ta chiêm ngưỡng, yêu mến và tin tưởng. Bài đọc 2 (1 Tx 3,12-4,2) là những lời khuyên của Thánh Phao-lô Tông đồ viết cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để nhắc nhở họ phải sống như thế nào cho phù hợp với ơn gọi của họ. Đó là cách sống bền tâm vững chí, thánh thiện và không có gì đáng trách trước thanh nhan Thiên Chúa trong ngày Chúa quang lâm. Đó là điều mà Thánh Phao-lô đã dày công dạy dỗ, khuyên bảo và khuyến khích họ xưa rày.
Qua những lời khuyên nhủ ấy, chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện và công minh. Người sẽ đến để phân xử loài người đâu vào đó.
Bài Tin Mừng (Lc 21,25-28.34-36) là những lời Chúa Giê-su nói về những gì sẽ xẩy ra trong ngày Chúa quang lâm (tức ngày Chúa đến lần thứ hai) và những lời khuyên dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện để không bị bất ngờ và nghiền nát trong ngày quan trọng ấy.
Qua đoạn Phúc âm Lc 21,25-28.34-36 này, cũng xuất hiện gương mặt của một Thiên Chúa toàn trí, yêu thương và chăm lo để chúng ta chiêm ngưỡng, yêu mến và thi hành lời khuyên của Người.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Để không bị bất ngờ và có thể đứng vững (không bị nghiền nát) trong ngày Chúa Quang Lâm, chúng ta phải biết đề phòng, không để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, và biết luôn sẵn sàng tỉnh thức chờ đợi và cầu nguyện không ngừng.
III. Sống Lời Chúa hôm nay
Muốn thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tức sẵn sàng trong Ngày/Biến Cố Thiên Chúa đến, thiết nghĩ chúng ta cần làm hai việc. Nhưng trước hết nên nhớ kỹ điều này: Thiên Chúa không chỉ đến với mỗi người chúng ta trong Ngày Quang Lâm mà Thiên Chúa còn đến với chúng ta trong mỗi ngày, mỗi giờ. Và để sẵn sàng trong Ngày/Biến Cố Chúa Quang Lâm thì chúng ta phải sẵn sàng trong bất cứ lúc nào Thiên Chúa đến. Hai việc phải làm là:
1. Tỉnh thức tức cảnh giác đề phòng trước hai nguy cơ khiến chúng ta bị bất ngờ và dễ bị nghiền nát:
một là chè chén say sưa, không chỉ trong rượu bia mà còn trong nhiều thứ khác như danh vọng, chức quyền, của cải, lạc thú, sự an nhàn và hưởng thụ ích kỷ.
hai là lo lắng sự đời: như chạy theo công danh, sự nghiệp, công ăn, việc làm, của cải, sức khỏe, sắc đẹp, chức quyền, địa vị, tiếng tăm…
2. Cầu nguyện không ngừng, vì cầu nguyện là như hơi thở của đời sống thiêng liêng và vì khi cầu nguyện, chúng ta sống trước tôn nhan Chúa, chúng ta ở trong trạng thái chờ mong đón đợi Chúa và múc được sức mạnh thần linh của Chúa.
IV. Cầu nguyện
* Lạy Thiên Chúa là Cha, con cảm tạ Cha vì lại được sống một lần nữa tâm tình và bầu khí Mùa Vọng là chờ đón Con Cha và chuẩn bị đón rước Người vào tâm hồn và đời sống của con.
Con còn có trách nhiệm đón rước Người vào trong các gia đình, cộng đồng xã hội và thế giới này nữa.
* Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, con biết rằng Chúa sẽ đến trong ngày Quang Lâm, Chúa cũng sẽ đến vào bất cứ lúc nào, cả khi con không chuẩn bị, chưa sẵn sàng.
Xét mình, con thấy con vẫn sống trong u mê, khờ dại mà chạy theo của cải, tìm kiếm chức quyền, ham hố danh vọng và đắm mình trong lạc thú hão huyền.
Con chẳng biết tỉnh thức và tích cực chuẩn bị tâm hồn và cuộc sống để đón rước Chúa.
Con cũng sống trong thờ ơ chểnh mảng với Chúa nên coi thường việc cầu nguyện hàng ngày.
Vì thế mà con chẳng nhận ra Chúa khi Chúa đi ngang qua bên con ở ngoài phố; con chẳng đón rước Chúa vào nhà khi Chúa gõ cửa tâm hồn con.
Con thật hững hờ, con thật có lỗi! Xin Chúa hãy rộng lòng thứ tha! Con xin dâng quyết tâm của con cho Chúa.
Xin Chúa chúc lành và giúp con điều chỉnh lối/cách sống trong Mùa Vọng này bằng cách:
* Thứ nhất: mỗi ngày con sẽ dành 30 phút để sống riêng với Chúa!
* Thứ hai: mỗi ngày con sẽ thực hiện một hy sinh, từ bỏ (bớt hút một điếu thuốc, bớt uống một chai bia, tránh một bữa nhậu, bớt một lời phê bình hay nói xấu cấp trên hay đồng nghiệp, đi thăm một người bệnh/già, tặng người nghèo một món tiền, quan tâm giúp đỡ người thân trong gia đình) để tâm hồn con được nhẹ nhàng, thanh thản hơn mà đón rước Chúa! (1).
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Garden Grove (CA/USA) ngày 18.11.2006
Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một Mầu Nhiệm được thực sự tái: MV 1-C117
Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một Mầu Nhiệm được thực sự tái diễn và tiếp diễn một cách trọn vẹn qua Phụng Niên của Giáo Hội, một Năm Phụng Vụ được mở màn từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng như hôm nay đây. Thế nhưng, theo Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa cũng như theo lịch sử, Chúa Kitô thực sự đã được sinh ra rồi, hơn 2000 năm trước đây, thì Mùa Vọng chúng ta đang cùng Giáo Hội bước vào đây là gì, nếu không phải là việc Giáo Hội hướng về và mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai. Đó là lý do bài Phúc Âm Thánh Luca Năm C hôm nay ở đoạn 21 và câu 27 đề cập tới việc Chúa Kitô đến lần sau hết: “Loài người sẽ thấy Con Người đầy uy quyền và vinh quang đến trên mây trời”.
Nhưng vấn đề ở đây là, nếu Chúa Kitô đã thực sự đến rồi, thì Kitô hữu chúng ta đã cảm nghiệm được Người chưa, hay Người vẫn ở trong tình trạng, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói thẳng với dân Do Thái là thành phần cũng trông đợi Vị Cứu Tinh của họ đến, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26 là: “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Đó là lý do tại sao, để nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến với Dân Do Thái, như lời Chúa hứa với họ qua tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng là Đấng đã ở giữa loài người chúng ta, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay, là chúng ta phải “đứng vững trước Con Người”. Thế nhưng, tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” và nhất là làm thế nào để có thể “đứng vững trước Con Người”? Nếu Kitô hữu chúng ta không ý thức được vấn đề “đứng vững trước Con Người” bằng đời sống của mình, thì chúng ta chưa thực sự Sống Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh trong Mùa Vọng của Giáo Hội, nghĩa là Chúa Kitô vẫn còn là một Đấng ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết!
Đúng thế, Mùa Vọng tới, chẳng những Kitô hữu mà cả trần gian, bao gồm tất cả mọi tín đồ thuộc tất cả mọi tôn giáo khác, không nhiều thì ít, đang sửa soạn đón mừng Giáng Sinh, ít là bề ngoài với những cánh thiệp chúc mừng nhau hay mua bán quà tặng trao cho nhau. Tuy nhiên, nếu không ý tứ, chúng ta đang sửa soạn dọn mừng Lễ Giáng Sinh hơn là dọn lòng để gặp được chính Vị Chúa Giáng Sinh. Những mầu sắc tưng bừng vui nhộn bề ngoài bắt đầu xuất hiện ở các khu thương mại, hay ở trước nhà của một số gia đình, liên quan đến việc mua sắm, trưng bày và tặng quà cho nhau, có thể làm cho chúng ta bị chi phối và quên đi chính cái ý nghĩa linh thiêng cao cả của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh. Từ đó, đối với không ít người, Lễ Giáng Sinh đã bị tục hóa, trở thành một dịp nghỉ ngơi vui chơi như tất cả mọi cuộc lễ khác.
Đó là lý do vấn đề tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” là vấn đề có liên quan hết sức mật thiết đến đức tin của Kitô hữu chúng ta. Thật vậy, tất cả Kitô hữu chúng ta đều đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức đã được trở nên con cái Thiên Chúa. Thế nhưng, biến cố chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa không phải chỉ là đặc ân Thiên Chúa ban cho chúng ta thôi, mà còn là việc chúng ta đáp ứng ân huệ Ngài ban nữa. Đúng thế, việc Con Thiên Chúa Làm Người là để loài người chúng ta được làm con Thiên Chúa, như Thánh Phaolô đã minh định trong Bức Thư gửi cho giáo đoàn Galata ở đoạn 3, câu 4 và 5 như sau: “Đến thời gian ấn định, Thiên Chúa đã sai Con Mình đến, sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật để giải cứu những ai bị lụy thuộc lề luật, để chúng ta được hưởng địa vị làm thành phần dưỡng tử”. Tuy nhiên, một khi được Thiên Chúa kêu gọi làm dưỡng từ của Ngài trong Chúa Kitô, loài người chúng ta cũng cần phải xòe tay mở lòng đón nhận nữa, ở chỗ tỏ ra tin tưởng nhận biết Con Thiên Chúa được hạ sinh bỡi người nữ. Đó là lý do Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 1, từ câu 10 đến câu 12, đã xác nhận như sau: “Người đã ở trong thế gian, nhờ Người thế gian đã được tạo thành, song thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến với dân riêng của Người, song họ không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa”.
Như thế, việc “đứng vững trước Con Người” đây chính là việc chúng ta tỏ ra hết sức trung thành với đức tin của mình, ở chỗ, không bao giờ chối bỏ hay dám chối bỏ Vị Thiên Chúa Làm Người, trái lại, hoàn toàn và liên lỉ tin tưởng chấp nhận Người, Đấng được Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 9 câu 28 xác định là “sẽ đến lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”, tức cho thành phần “bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ”, như Chúa đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 13. Chi tiết vùa đề cập đến trên đây có thể se õ làm cho một số người trong chúng ta tự nhiên nhớ lại lời Chúa Kitô tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 9 câu 27 tuần trước, đó là câu “trong những kẻ đang đứng đây có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”. Chúa Giêsu ám chỉ về ai khi Người nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”?
Về lời Chúa Giêsu nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”, theo suy diễn của người chia sẻ đây thì đó là môn đệ Stêphanô và tông đồ Gioan. Trước hết, đó là Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Kitô Giáo, bởi vì, ngay trước khi chết, Sách Tông Vụ ở đoạn 7 câu 56 đã thuật lại rằng “Người kêu lên ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa’”, một thị kiến rất ăn khớp với lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Mathêu, đoạn 16, câu 28: “có một số sẽ không nếm cái chết trước khi họ thấy Con Người đến trong vương quyền”. Sau nữa, trong số này còn có tông đồ Gioan, bởi vì, theo Phúc Âm Thánh Marcô đoạn 9 câu 1 ghi là “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”, thì trong Tông Đồ đoàn chỉ có một mình Thánh Gioan cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô (xem Jn 19:25), để chứng kiến giây phút Nước Cha bắt đầu trị đến, giây phút vương quốc Satan bị tiêu diệt, cũng là giây phút thiên đàng mở ra cho tội nhân vào, mà người đầu tiên bước vào lại là người tử tội bị đóng đanh bên hữu Chúa Giêsu (xem Lk 23:43). Ngoài ra, cũng chỉ có một mình vị tông đồ Gioan này, trước khi chết, như ngài đã cho biết trong Sách Khải Huyền của ngài, ở đoạn 21, câu 2, thế này: “Tôi cũng thấy một tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, diễm lệ như cô dâu sửa soạn nghênh đón lang quân của mình”, nghĩa là thánh nhân được thị kiến “thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”.
Vì vấn đề “đứng vững trước Con Người”, như đã diễn giải trên đây, mật thiết liên quan đến đức tin, do đó, để có thể “đứng vững trước Con Người”, Kitô hữu chúng ta cần phải giữ vững đức tin của mình, thế thôi, nói cách khác, giữ vững đức tin của mình là “đứng vững trước Con Người”, nhất là vào những lúc đêm tối đức tin, bị thử thách, chịu khổ đau, bị bách hại chống đối, đặc biệt vào những ngày cuối thời, những ngày khủng khiếp chưa từng thấy từ tạo thiên lập địa, như Chúa Giêsu báo trước trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 21, thời điểm mà, trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Chúa Kitô cũng căn dặn các môn đệ rằng: “Khi những điều này bắt đầu xẩy ra thì các con hãy thẳng đứng và ngước đầu lên, vì việc cứu chuộc các con gần đến rồi”.
Đúng vậy, cách duy nhất để chúng ta có thể “đứng vững trước Con Người”, tức để chúng ta tỏ lòng mình kiên trung với Chúa Kitô cho đến cùng, nhất là trong thời đại văn hóa sự chết của chúng ta ngày nay đây, đó là thái độ chúng ta “thẳng đứng và ngước đầu lên”. Thẳng đứng và ngước đầu lên như thế nào, Chúa Giêsu cũng đã cắt nghĩa rõ ràng trong bài Phúc Âm hôm nay ngay sau đó thế này, “các con hãy coi chừng kẻo tâm thần các con bị trì trệ bởi lạc thú, chè chén và lo toan thế gian”. Thẳng đứng và ngước đầu lên, về phương diện tiêu cực, chẳng những liên quan đến việc sống tu đức, mà còn, về phương diện tích cực, cho thấy cả cử chỉ cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin nữa. Đó là cử chỉ Đức Tin của Mẹ Maria “thẳng đứng và ngước đầu lên” nhìn Con Mình treo trên thập giá trên đồi Canvê, một cử chỉ phụng vụ long trọng tế lễ Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Chúa Kitô vẫn tiếp tục hiện diện và sống động với Giáo Hội cho đến tận thế, thì việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ “mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19) chính là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin của mình. Để rồi, nhờ tham dự Phụng Vụ một cách ý thức, chủ động và tích cực, Kitô hữu chúng ta được sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hay Chúa Kitô tỏ hiện nơi Đức Tin của chúng ta và tỏ mình cùng ban mình cho lòng khao khát và trông mong của chúng ta. Tóm lại, Mùa Vọng là thời điểm Kitô hữu chúng ta phải làm sao cảm nghiệm được Thiên Chúa Làm Người đang thực sự ở cùng mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng chẳng những là thời điểm Giáo Hội hướng về Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn là thời điểm rất thích hợp để Kitô hữu chúng ta trở về nguồn nữa, tức trở về với Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, để có thể cảm nhận được Thiên Chúa là Thần Linh đã thực sự tỏ mình ra cho loài người chúng ta, cho đến khi “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), để chúng ta “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
Về thời điểm Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ lúc nào, chúng ta có thể căn cứ vào những yếu tố sau đây để có thể đi đến kết luận thế này. Trước hết, nếu “vì một người mà tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian”, như Thánh Phaolô xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, đoạn 5 câu 12, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Adong, từ lời Thiên Chúa hứa với ông ngay trong bản án nguyên tội, như được Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15 như sau: “Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ, người miêu duệ này sẽ đạp nát đầu ngươi”. Sau nữa, nếu việc Thiên Chúa cứu độ con người cần con người phải đáp ứng bằng đức tin, nghĩa là phải có đức tin con người mới được cứu độ, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Abraham là cha những kẻ tin (xem Rm 4:16-22; Gal 3:29), người đã bỏ quê cha đất tổ đi theo tiếng Chúa gọi đến nơi không biết mình sẽ đi về đâu (Gen 12:1-4; Heb 11:8), và nhất là đã không tiếc đứa con trai duy nhất của mình (Gen 22:16), một mầm mống theo lời Chúa hứa sẽ phát sinh một dân tộc đông như sao trời cát biển (Gen 15:1-6). Sau hết, nếu Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa được thực sự tỏ hiện trong lịch sử loài người, chứ không phải là một chuyện hoang đường và mộng tưởng, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Moisen, người được Thiên Chúa thực sự sai đến cứu dân Ngài cho khỏi cảnh làm tôi người Ai Cập mà đưa họ vào mảnh đất Ngài đã hứa với cha ông tổ phụ của họ (xem Ex 3:10).
Trong 4 tuần lễ Mùa Vọng tuần cuối bao giờ cũng đọc bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến. Và tuần đầu tiên với bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới. Riêng chu kỳ năm C, Phúc Âm Thánh Ký Luca ghi lại lời Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta và căn dặn chúng ta phải làm sao khi ơn cứu độ đến: Người bảo là phải tỉnh thức đừng chè chén say sưa với đam mê nhục dục và những vui thú trần thế, trái lại, phải đứng dậy và ngước đầu lên.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người chúng con bằng xương bằng thịt hơn hai ngàn năm trước đây. Nhưng Chúa vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế qua Thánh Thể và Quyền Linh Giáo Hội. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin cho chúng con được cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa là Đấng Emmanuel. Amen.
Nếu hiểu ngày đầu năm là ngày tết, thì hôm nay là Tết của phụng vụ. Vì hôm nay là Chúa nhật I: MV 1-C118
Nếu hiểu ngày đầu năm là ngày tết, thì hôm nay là Tết của phụng vụ. Vì hôm nay là Chúa nhật I mùaVọng, Chúa nhật đầu tiên của năm phụng vụ mới. Nhưng không như tết bình thường mà chúng ta vẫn biết. Tết của phụng vụ không mang màu sắc của lễ hội, không ồn ào, không hình thức bên ngoài. Tết của năm phụng vụ vẫn có nội dung riêng của nó. Đó là ngày Tết của đức tin, vì thế cũng là ngày Tết của những ai sống đức tin. Vì chỉ có những ai sống đức tin mới cảm nhận trọn vẹn một cách riêng biệt sự thánh thiện, bình an, vui tươi sâu lắng mà ngày Tết rất riêng của phụng vụ mang lạ. Đó cũng chính là quà tặng dành cho những tâm hồn có Chúa.
Ý nghĩa niềm vui của ngày Tết như quà tặng dành cho người sống đức tin được Chúa Giêsu cho biết rất rõ trong bài Tin Mừng: Trong khi người ta kinh hồn bạc vía vì “những điềm lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao”, làm cho “các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ”. Nó khiến “người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời rung chuyển”. Chính lúc ấy, chính lúc vũ trụ dao động dữ dội như thế, “Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả”.
Mặc dù người ta và cả vũ trụ nữa, sống trong tâm trạng đầy bất an đến mức Lời Chúa phải diễn tả bằng những cụm từ: “Buồn sầu lo lắng”, “Sợ hãi kinh hồn”, thì Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ rằng, chính lúc đó, “Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”. Đó không phải là cách nói để diễn tả niềm vui mừng lớn lao dành cho những người thuộc về Chúa, những người sống đức tin đó sao!
Chỉ bằng một câu nói ngắn, Chúa Giêsu đã cho thấy vinh quang của những tâm hồn có Chúa: “Hãy đứng dậy”; “Hãy ngẩng đầu lên”; “Giờ cứu rỗi đã gần”. Cách riêng, những động từ: “đứng dậy”, “ngẩng đầu” là những động từ không chỉ nói lên niềm vui, nhưng còn là một niềm vui chiến thắng, một niềm vui chứa đựng vinh quang, niềm vui kiêu hãnh. Lý do của niềm vui lớn lao càng trở nên trọng đại vì đó là lúc “Con Người hiện đến”, đó là “giờ cứu rỗi đã gần”. Bởi có niềm vui nào dám sánh niềm vui ơn cứu rỗi. Và có tình yêu nào dám ví Tình Yêu của Đấng Cứu Rỗi đến cứu rỗi những ai thuộc về Người.
Vậy ai là người sống đức tin? Bởi đó, ai là người thuộc về Chúa?
Rất nhiều lần, Chúa Giêsu răn dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Hôm nay, ngày Tết của phụng vụ, một lần nữa, qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu lại nói với ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng không chỉ có hôm nay, ngày Tết chỉ là một khởi đầu. Vì Hội Thánh sẽ tiếp tục dùng chính những lời này của Chúa như một điệp khúc nhắc nhở ta, nhắc đi, nhắc lại suốt mùa Vọng. Hội Thánh sẽ còn tiếp tục nhắc nhở, cách này cách khác suốt năm phụng vụ.
Vì điệp khúc “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” quan trọng như thế, cho nên bất cứ ai sống và ý thức để sống cách trọn vẹn mỗi ngày một gia tăng, người đó là người sống đức tin. Bởi đó, họ là người thuộc về Chúa.
Vậy làm sao để có thể “tỉnh thức và cầu nguyện”?
Cầu nguyện thì ai cũng có thể hiểu được. Chắc hẳn trong đời sống thường nhật, người Kitô hữu vẫn biết rằng cầu nguyện là việc tối quan trọng đối với đức tin của mình, một việc làm không thể bỏ qua. Nhưng tỉnh thức là như thế nào? Chắc chắn tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ. Đối với đức tin của người Kitô hữu, tỉnh thức là cảnh giác, đề phòng. Cảnh giác những nguy hại, những chước cám dỗ, đề phòng để đừng rơi và cạm bẫy của tội lỗi, của sự dữ.
Một câu chuyện để có thể giúp chúng ta hiểu hơn ý nghĩa của tỉnh thức: Có một anh thanh niên, một hôm, gặp thần chết đến với mình. Anh sợ hãi, nài nỉ thần chết đừng hại nhưng hãy cho anh ta sống thêm một thời gian. Thần chết đồng ý. Nhưng không hiểu sao hôm ấy thần chết lại dễ tính quá. Sau khi để cho anh được sống, thần chết còn hứa, nếu sau này, khi nào thần chết đến gọi anh ra khỏi cuộc đời, thần chết sẽ báo trước để anh chuẩn bị. Anh mừng rỡ và cám ơn thần chết rối rít.
Thế là từ đó, biết rằng cái chết của mình sẽ được báo trước, anh thanh niên bắt đầu một cuộc sống rất thoải mái. Anh dung túng cho bản thân mình đến mức đêm ngày ngụp lặn trong tội lỗi, bất kể Thiên Chúa, bỏ mặc vợ con, mải miết đắm chìm trong những thú vui đồi bại. Không những thế, khi vợ con lên tiếng phản đối, anh còn tặng lại cho họ những trận đòn chí tử…
Rồi một ngày, anh bị một cơn bạo bệnh bất ngờ ập đến. Mọi người đều lo lắng cho anh. Ai cũng sợ anh phải chết. Riêng anh thanh niên vẫn thản nhiên vì mãi cho đến lúc này, lúc mà anh trở nên yếu sức vô cùng, anh vẫn chưa thấy thần chết nói gì. Và đúng như thế. Sau cơn bạo bệnh, anh nhanh chóng lấy lại sức khỏe như chưa hề có bệnh tật gì. Anh càng chắc mẫm rằng, ngày tận số của mình vẫn còn dài. Từ đó anh càng lao thân như điên như dại vào vũng bùng thối tha nhưng đối với anh, nó thật êm ái.
Lần khác, anh cùng vợ mình đang ngồi trên một toa xe lửa. Vì quá tủi buồn cho bản thân và cô đơn trong đời sống vợ chồng, vợ anh đã nhảy khỏi xe lửa trước mặt anh. Các bánh xe của đoàn tàu thản nhiên lăn trên thân thể của chị thật kinh hoàng. Bất giác làm anh rùng mình khiếp sợ. Nhưng giây phút chứng kiến cảnh tượng đó mau chóng biến tan. Không những anh vẫn thản nhiên sống, mà còn xem đó là cơ hội để thoát khỏi sự ràng buộc của vợ. Vợ anh chết, chứ thần chết có nói gì với anh đâu!
Một lần khác, anh lại bị một tai nạn khi đang đi đường. Anh ngất xỉu, máu me đầy người, nằm mê man, không hề biết gì. Đưa anh vào bệnh viện mà mọi người chẳng còn chút hy vọng nào cho sự sống của anh. Nhưng thần chết vẫn chưa đến, vẫn chưa báo trước điều gì. Và anh đã tỉnh lại. Lại thêm một lần, anh thầm cám ơn thần chết, vì ông đã không phản bội lời hứa của chính mình. Cuộc sống của anh lại bắt đầu và tiếp diễn.
Nhưng thật lạ lùng. Một hôm, khi anh vẫn đang là người khỏe mạnh, vẫn đang sống cuộc sống trác táng của mình, chính lúc ấy, anh lại gặp thần chết. Một lần nữa, thần chết viếng thăm anh. Anh lo sợ quá sức, bủn rủn tay chân. Dường như đất dưới chân anh đang quay cuồng. Tâm trí anh hoàn toàn sụp đổ. Thần chết mỗi lúc một đến gần hơn. Ông cho biết, hôm nay ông sẽ cất mạng sống của anh. Anh van lạy thần chết một cách tuyệt vọng và đớn đau. Anh trách móc thần chết đã quên lời hứa, đã không báo trước giờ chết của anh. Nhưng thần chết rất bình tỉnh, từ tốn nói với anh: “Ta đã báo cho ngươi biết trước giờ chết của ngươi, không phải một nhưng đã nhiều lần. Ngươi đâu có nghe ta, vì thế hôm nay người đừng van xin gì hết. Đã đến lúc ngươi phải theo ta”. Anh thanh niên vẫn tìm cách kéo dài sự sống: “Nhưng thưa thần chết, tôi đâu có bao giờ nghe thấy ông nói gì với tôi?” . “Ngươi đừng cố viện lý do. Qua những lần ngươi đau nặng, và qua chính cái chết tang thương của vợ ngươi, ta đã báo cho ngươi biết. Chính cuộc sống, sự đau khổ, bệnh tật, cái chết của bản thân và của mọi người xung quanh là bài học kinh nghiệm quý giá cho ngươi học lấy, đó chính là sự nhắc nhở của ta dành cho ngưoi. Nhưng ngươi vẫn không nghe, vẫn cứng đầu, vẫn cố tình ở lỳ trong tội của ngươi. Vì thế hôm nay ngươi phải đền tội”. Và thần chết tiến tới lôi anh đi trong khi lòng anh run sợ…
Như vậy: tỉnh thức là sự khôn ngoan, và tiên liệu trước giờ chết của mình ngay trong thực tại này, để giờ chết không bao giờ bất ngờ, nhưng luôn có trước một sự chuẩn bị sẵn sàng của bản thân ta.
Mùa Vọng là mùa của tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để cảnh giác với mọi cám dỗ của tội lỗi. Cầu nguyện để tinh thần mạnh mẽ, để ơn Chúa ngày càng thấm đẫm và lớn lên không ngừng trong tâm hồn. Cầu nguyện để hỗ trợ cho sự tỉnh thức của bản thân, giúp ta có đủ nghị lực vượt qua và vượt lên trên những thói xấu, những đam mê, những toan tính và dính bén quá nhiều với trần thế, làm cho tâm hồn ta xa rời Thiên Chúa, xa rời lòng mong ước và ái mộ quê trời của mình.
“Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, một điệp khúc dù rất quen thuộc, nhưng rất cần thiết để nhắc đi nhắc lại, không phải chỉ trong mùa vọng, mà trong cả cuộc đời của bạn và của tôi.
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu MV 1-C119
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu hỏ lại để những nguy hiểm không động chạm đến mình. Thế nhưng, trong cơn nguy hiểm tột cùng của ngày tận thế, Chúa lại bảo chúng ta hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Tại sao thế?
Xin thưa sở dĩ chúng ta nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ, con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình, không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của công việc và xác định xem đâu là việc tốt phải làm và đâu là việc xấu phải tránh. Nhất là không còn nhìn thấy tình thương của Chúa luôn ấp ủ, chở che chúng ta.
Bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách cứ chúng ta điều đó, nhưng hãy tin tưởng vì ơn Chúa đủ cho chúng ta. Vì thế, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Trong Phúc Âm, các tông đồ đã có kinh nghiệm về sự sợ hãi, thế nhưng lần nào cũng vậy, Chúa Giêsu đều nhắc nhở các ông: Thầy đây, đừng sợ. Nổi bật nhất là Phêrô, ông có nhiều thứ sợ.
Trước tiên là sợ chết, sợ bị liên luỵ với Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng Tin Mừng kể lại: Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết. Phêrô còn một nỗi sợ đặc biệt khác nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu đuối tội lỗi trước Thiên Chúa chí thánh, nên có lần ông đã phủ phục dưới chân Chúa và thốt lên: Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa đã nhìn ông và nói: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Với tình thương, Chúa đã làm được mọi việc ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Phêrô chối Chúa, nhưng Ngài không quở, không la, không phạt. Ngài chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương tha thứ, nên mới xoáy sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông đã ăn năn khóc lóc thảm thiết. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô muốn Chúa xa tránh vì ông cảm thấy không xứng đáng, nhưng Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần bằng cách chọn Phêrô cộng tác với mình và trên Phêrô, Người đã xây dựng Hội Thánh.
Trong mọi cơn gian nan thử thách, Ngài muốn chúng ta đứng vững và ngẩng đầu lên vì Ngài chính là nguồn sức mạnh của chúng ta. Tuy nhiên, muốn đứng vững, muốn ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng bao la, bởi vì Chúa là người cha nhân từ, vừa đầy quyền năng lại vừa đầy lòng thương xót, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài. Đồng thời ngay từ bây giờ chúng ta đã phải đứng vững và ngẩng đầu lên, bởi vì cây nghiêng bên nào sẽ đổ bên ấy.
Từ đó, Chúa đã dạy chúng ta: Hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề. Nặng nề vì bả vinh hoa trói buộc. Nặng nề vì tiền bạc và lợi lộc vật chất có thể làm mờ cặp mắt chúng ta, để rồi chúng ta không còn nhận ra ngày giờ Chúa viếng thăm.
Đêm 15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng MV 1-C120
Đêm 15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng sơn, khiến cho con tàu bị chìm và hơn 1500 người bị thiệt mạng. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất của lịch sử từ trước đến nay.
Cách đây vài năm khi thuật lại thảm họa này trong một bài báo, tác giả đã đưa ra một câu hỏi có tính cách châm biến: Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc tàu Titanic đang chìm, thì liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu hay không?
Thoạt nghe câu hỏi này, chúng ta thấy nó khôi hài làm sao, bởi vì khi còi báo động vang lên, thì người còn chút tỉnh tảo, ai lại đi dọn dẹp bàn ghế giữa những tiếng kêu la kinh hoàng và khủng khiếp của những kẻ sắp chết đuối? Tuy nhiên, nếu đọc tiếp bài báo chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên cau hỏi kỳ quặc ấy, để rồi chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu bây giờ cuộc đời tôi, như con tàu, đang chìm dần vào cõi chết, biết đâu tôi lại còn đang mải mê lo dọp dẹp bàn ghế, nghĩa là tôi đang còn mải mê lo những chuyện vật chất đời này mà quên đi những việc đạo đức thiêng liêng của mình, hay là cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chẳng còn biết đến mục đích cuối cùng của đời mình là gì nữa, chẳng còn biết rằng cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị cần thiết cho tương lai vĩnh cửu?
Bởi đó, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ, vào giờ các con không biết.
Và đây cũng chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng ta cũng chính là một Mùa Vọng.
Ước chi trong giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
Ít năm trước đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi ba năm MV 1-C121
Ít năm trước đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi ba năm trong nghề, bác đã đi được trên một triệu năm trăm cây số mà không gây nên một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao mà bác đạt được kỷ lục ấy, thì bác đã trả lời một cách đơn giản đó là hãy nhìn đường.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cũng đem lại cho chúng ta một lời khuyên tương tự: Hãy tỉnh thức luôn. Ý tưởng này được nhắc đi nhắc lại bằng những hình thức khác nhau: Hãy coi chừng, hãy chú ý, hãy ngẩng đầu lên.
Đó không phải chỉ là một lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là một quy luật cho những sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Đúng thế, chúng ta vốn thường nói: Hãy chú ý, hãy nhìn cho kỹ và hãy đề cao cảnh giác.
Để lái một chiếc xe, chúng ta phải nhìn đường. Một cầu thủ trên sân cỏ, phải lẹ mắt để sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ. Anh phải theo sát trái banh. Trong lớp, các em phải chăm chú lắng nghe những lời thày cô giảng dạy.
Qui luật này cũng được áp dụng trong những công việc bình thường nhất. Một bà mẹ, phải canh chừng đứa con nhỏ, kẻo nó té ngã xuống sông, xuống ao… Phải để ý tới cái nồi, cái chảo trên bếp, kẻo món ăn bị cháy khê cháy khét.
Cuộc sống giống như một chuyến xe mà chúng ta là người tài xế. Chúng ta không phải chỉ có một trách nhiệm đối với bản thân mà còn có cả trách nhiệm đối với người khác.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần phải nhìn đường, cần phải chú ý để khám phá ra sự hiện diện của Chúa. Thực vậy, Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng kẹt một nỗi, Ngài lại là Đấng thiêng liêng, nên con mắt phàm trần của chúng ta không thể nào nhìn thấy. Tuy nhiên với con mắt đức tin, chúng ta có thể khám phá ra Ngài.
Trước hết, Ngài ngự thật trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế khi tham dự thánh lễ, chúng ta phải tỉnh thức phần xác, không ngủ gà ngủ gật đã đành, mà còn phải tỉnh thức cả phần hồn bằng cách kết hiệp tâm tình của chúng ta vào với những lời kinh, những tiếng hát, nhất là khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp với Chúa, Đấng mà ngày xưa đã sinh ra trong máng cỏ Bêlem.
Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện qua những sự kiện, qua những biến cố xảy đến và bằng một bàn tay uy quyền và yêu thương, Ngài đang hướng dẫn cả lịch sử của nhân loại, điều cần thiết là chúng ta phải tìm biết và thực thi thánh ý Ngài qua những biến cố, những sự kiện, những dấu chỉ của thời đại.
Và sau cùng, với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm Giáng sinh, mà Ngài còn viếng thăm bản thân chúng ta khi chúng ta từ giã cuộc đời, cũng như Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận cùng của trời và đất.
Thế nhưng, chúng ta có biết tỉnh thức và nhất là chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa viếng thăm bản thân chúng ta hay không?
Đây, Mùa Vọng lại đến. Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt MV 1-C122
Đây, Mùa Vọng lại đến. Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.
Nhà Tiên tri Giêrêmia loan báo, trong bài đọc I, “ngày Thiên Chúa làm nẩy sinh một chồi công chính” và trên bước đường lịch sử, nhân loại sẽ gặp Đấng Cứu Độ. Mùa Vọng là thời điểm Chúa Kitô, Đấng mà Đavit là tiền ảnh, Đấng đã được tiên báo đến trong thế gian và còn tiếp tục đến.
Phải, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến giữa chúng ta. Nhân loại càng ngày càng thay đổi thì Chúa Kitô, niềm hy vọng thế giới, vẫn tiếp tục đến để đem sự công chính, hoà bình và ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến trong mỗi người chúng ta. Là một con người, ai lại không mong muốn được biết đường đi, xa lánh sự dữ, được khỏi tiêu diệt và khỏi chết. Thì Chúa Kitô chính là Đường, là sự Sống, là sự Thật sẽ đến hướng dẫn chúng ta và cứu chuộc chúng ta.
Thánh Phaolô, trong thánh thư gửi giáo đoàn Thessalonica, dạy chúng ta phải sống tinh thần Mùa Vọng như thế nào. Người tín hữu là kẻ đã được Đức Tin hướng dẫn ngày chịu phép Rửa tội thì phải tiến lên không ngừng, “phải gia tăng và tràn đầy lòng thương yêu nhau”. Phaolô dạy giáo đoàn Thessalonica vẫn đã sốt sắng, phải sốt sắng, phải thánh thiện hơn. Bằng bốn lần, Phaolô khuyên họ và khuyên chúng ta phải kết hợp với Chúa Kitô mật thiết và thương yêu anh em hơn, như Ngài đã thương yêu chúng ta. Đó là chìa khóa sự thánh thiện. Đó là tinh thần Mùa Vọng chân chính, mùa mong đợi Chúa đến.
Vì thế, Giáo Hội thường khuyến cáo tổ chức những buổi tĩnh tâm cấm phòng trong mùa Vọng, không ngoài mục đích thăng tiến lòng đạo đức. Chúng ta hãy sốt sắng tham gia. “Hãy quên đi đoạn đường đã qua và chạy đến cùng đích” (Phi. 3, 14). Cùng đích ấy là Chúa Kitô.
Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.
Bài Phúc âm mở cho chúng ta một cái nhìn bao quát vĩ đại đó. Thời gian từ ngày Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử đến ngày Chúa lại đến trong vinh quang là thời gian của Giáo hội. Và Giáo hội cũng vọng về ngày Chúa đến trong uy quyền. Ngày đó bao giờ đến?
Ngài không nói ra bí mật của Thiên Chúa! Nhưng Ngài cho ta những điềm báo trước: những điềm lạ trên trời, những rung chuyển dưới đất. Những vụ nổ như vụ núi lửa Pinatubo ở Phi luật Tân phun lên đến cao độ 12 miles với sức mạnh của 10 quả bom nguyên tử, tháng 6, 1991, là một tiếng dội xa xôi của ngày Chúa giáng lâm. Những điềm báo đó phải là những điều thức tỉnh, những bài học cho chúng ta.
Ngày nay, có nhiều người sống và tổ chức cuộc sống như rằng thế giới sẽ vô tận, không có một cùng điểm. Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Người tín hữu biết rằng Chúa đã đến và Chúa sẽ đến lại cho cả thế giới và với mỗi người chúng ta, nên phải chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ đó. “Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”.
Vậy chúng ta “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” trong Mùa Vọng này. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tôi.
Một năm phụng vụ nữa đang kết thúc. Hôm nay là Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu MV 1-C123
Một năm phụng vụ nữa đang kết thúc. Hôm nay là Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một chu kỳ mới của ơn cứu độ. Tưởng cũng nên nhắc lại, là sống những tâm tình của từng mùa trong năm phụng vụ không phải chúng ta chỉ sống lại những kỷ niệm của một thời đại đã qua, nhưng là sống chính trong nguồn mạch ơn Chúa tươi mát và mới mẻ để nuôi dưỡng con người nơi Giáo Hội trần gian này, trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Điểm quan trọng trong Lời Chúa hôm nay là câu của chính Chúa Giêsu khuyên bảo: "Trong mọi biến chuyển kinh hoàng xảy đến đó, chúng con hãy đứng vững và ngẩng đầu lên".
"Đứng dậy, ngẩng đầu", đòi hỏi con người phải hết lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, yêu mến Người hết lòng, hướng mọi khả năng về Thiên Chúa vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin vững mạnh, hy vọng bao la, yêu mến hết lòng, không ai có thể đứng vững được trong hiểm nguy gian nan thử thách. Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng Chúa Giêsu bảo: "Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên". Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm hy vọng.
Nơi bài đọc thứ nhất, qua miệng tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa bảo: "Đã đến ngày Ta thực hiện lời hứa Ta đã hứa cùng Israel và Giuđa. Ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát và Giêrusalem sẽ an lành". Tiên tri Giêrêmia báo cho dân chúng biết Thiên Chúa là Chúa trung thành, Người sẽ tạo lập một xã hội mới có một vị vua biết yêu thương dân và luôn thi hành công lý. Điểm thời gian mà lời tiên tri đó được thực hiện trong lịch sử chính là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người vừa là Vua vừa là Thượng Tế. Là Vua, chính Người lo cho Giuđa được cứu thoát. Là Thượng Tế, chính Người lo cho thành thánh Giêrusalem sống trong an bình. Thời gian đó là thời gian vui tươi, hy vọng, không còn sợ hãi, người người sẽ hớn hở gọi to tên của Đấng phải đến đó là: "Thiên Chúa Đấng công chính của chúng tôi". Như thế, bài đọc thứ nhất công bố một niềm hân hoan to lớn.
Sang bài đọc thứ hai, trong thư gởi tín hữu thành Thêsalônica, thánh Phaolô khuyến khích phải làm gì để đón nhận niềm vui trọng đại của ơn cứu thoát mà Thiên Chúa đã hứa? Thánh nhân đã đưa ra ba việc chính yếu phải làm:
Thứ nhất, là phải biết thương yêu nhau.
Thứ hai, là cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Thứ ba, thánh Phaolô bảo: Người van nài là làm sao càng ngày mọi người càng tiến thêm lên trên con đường thánh thiện.
Qua ba điểm, thánh Phaolô mong muốn, chúng ta nhận thấy rõ ràng như đã nêu lên ở trên, những nhân đức nòng cốt mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay mong muốn chúng ta phải sống, đó là một đức tin vững chắc, một niềm hy vọng sâu xa, một tình yêu chân thành và luôn biết hướng mọi khả năng Chúa ban cho mình để phụng sự Chúa là cùng đích tối cao và tối hậu của cuộc đời con người. Trong ba việc làm thánh Phaolô chỉ dạy, cần để ý đến lời khuyên: Cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đó lại là Cha yêu thương chúng ta chớ không phải là quan xét xử, và Cha chúng ta thấu suốt tận tâm can của từng người con một. Tư tưởng, lời nói, việc làm của từng người con, Người đều thấy hiểu và yêu thương ban ơn nâng đỡ, hướng dẫn. Vậy chúng ta hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến và hướng về Chúa.
Trong bài Phúc Âm như chúng ta đã nói, câu đáng lưu ý là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: "Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. "Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên". Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển "Bước qua ngưỡng cửa hy vọng" đã viết: "Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria "Hãy đừng sợ", và cũng đã nói với Giuse "Hãy đừng sợ". Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: "Hãy đừng sợ". Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: "Hãy đừng sợ" đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.
Nhưng chúng ta đừng sợ cái gì? Chúng ta đừng sợ sự thật của chính chúng ta. Thánh Phêrô đã sống kinh nghiệm bản thân của sự thật đó khi người nói cùng Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là người tội lỗi". Không phải chỉ Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều học biết và chúng ta biết rằng sau câu nói đó của Phêrô, Chúa Giêsu bảo: "Hãy đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta".
Với lời khuyên của Chúa Giêsu và lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đại diện của Ngài nơi trần gian, chúng ta hãy đừng sợ! Dầu cho con người chúng ta yếu đuối, hãy vững tin vào ơn Chúa, sống Mùa Vọng cho sốt sắng để trở thành con người mới, để cùng ca vang với trời đất, với thần thánh trên trời và loài người dưới thế.
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người được Chúa yêu thương".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi luôn nhớ lời: "Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên" để những lo âu của cuộc sống này không đè bẹp được tôi; để tôi niềm nở tươi vui với tất cả mọi người nhất là những người đang chung sống với tôi cùng một mái nhà; để tôi có một cái nhìn lạc quan vào mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố có vẻ đau thương nhất, vì Chúa dạy tôi: Hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến, và hứa dẫn tôi về với Người.
Với Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta đang bước vào ngày đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Vậy MV 1-C124
Với Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta đang bước vào ngày đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Vậy trước nhất mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mình biết sống trọn năm phụng vụ này, biết tận dụng những ơn lành Chúa ban, từng bước, từng bước theo chân Chúa Giêsu để suy niệm và sống lịch sử cứu độ, lịch sử của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Kế đó, khi nghe Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, có lẽ chúng ta đang hình dung ngày tận thế, ngày kinh hoàng và chúng ta sợ. Nhưng không sao, Chúa đã bảo: "Chúng con hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên".
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật nhất là các động vật, khi gặp hiểm nguy thì trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan đi để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng trong cơn nguy hiểm tột độ của ngày cánh chung đó, Chúa lại bảo: "Hãy đứng thẳng dậy, đừng khom lưng cúi mọp và hãy hiên ngang ngẩng đầu lên". Tại sao Chúa bảo một điều nghịch lại với bản tính tự nhiên: Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên trong nguy hiểm? Thưa cúi mọp và nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình. Không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của việc mình làm để nhận định đâu là phải thi hành và đâu là trái để lánh xa. Và nhất là không còn thấy được tình thương yêu che chở của Thiên Chúa.
Trong các phim nổi tiếng của Hoa Kỳ, "The wise of..." đã trở thành cổ điển và làm say mê khán giả nhỏ cũng như lớn trên 50 năm nay. Vào phần cuối, khi cô bé Dorothy muốn tìm đường về nhà và ba anh chàng người nộm, người sư tử và người kim loại muốn xin cho có khối óc, có quả tim, có sự can đảm, cả bốn đã vào một tòa lâu đài để xin lời chỉ bảo của thần minh. Đến trước bàn thờ thần minh, thấy khói lửa và những tiếng nói vang dội, cả bốn đều thất thanh cúi rạp người xuống và nghe theo, làm theo tiếng phán của thần minh đó. Trong khi đó, con chó Titô đi theo họ không sợ chi cả, bình tĩnh chạy vọng quanh. Và chính nó đã khám phá ra một nhà bác học tinh ma qủy quyệt đang núp bên trong, điều khiển tất cả bộ máy khổng lồ, dọa nạt những ai đến đó và sai khiến họ làm những chuyện "đội đá vá trời".
Bài học hơi mạnh, con chó không biết sợ mưu mô của người đời, đã tình cờ khám phá ra sự thật. Trong khi những con người vì thiếu khối óc, thiếu con tim, thiếu sự can đảm đã sợ run rẩy, khép nép, cúi rạp người, làm theo chỉ thị của phù thủy qủy quyệt, tinh ma. Đó là cái hại của sợ.
Như đã nói, bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách chúng ta điều đó. Nhưng hãy tin tưởng ơn Chúa đủ cho chúng ta: "Hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên". Trong Tân Ước, các tông đồ của Chúa cũng đã có kinh nghiệm sợ hãi, nhưng mỗi lần Chúa đều thương giúp bằng cách nhắc đi nhắc lại với các ông: "Thầy đây, đừng sợ". Nỗi bật nhất là Phêrô, ông có đủ thứ sợ. Trước tiên là sợ chết, sợ liên can tới Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng theo thánh Luca kể: "Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết". Phêrô còn có cái sợ đặc bệt nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu lòng, Phêrô sợ hãi phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và thưa: "Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi". Nhưng Chúa đã kéo Phêrô đứng dậy, nhìn vào mặt ông, chỉ thẳng vào ông và bảo: "Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ đánh lưới người". Với tình yêu thương, Chúa đã làm mọi việc ngoài sức tưởng tượng của con người.
Phêrô chối Chúa, Chúa không quở, không la, không phạt. Chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương, tha thứ nên mới xói sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông ăn năn khó lóc thảm thiết suốt đời và sau đó liều chết vì Thầy. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô bảo Chúa tránh xa vì ông không đáng ở trước mặt Chúa. Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần, ngoài dự đoán của Phêrô, bằng cách chọn Phêrô cộng tác với Người đem con người về Nước Trời, và trên Phêrô, Người đã xây Giáo Hội của Người. Vậy trong mọi nguy hiểm, mọi kinh hoàng, Chúa muốn chúng ta đứng vững và hiên ngang ngẩng đầu lên, vì Chúa biết Người là sức mạnh của chúng ta.
Nhưng muốn đứng vững, muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian. Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: "Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề". Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: "Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến".
Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân MV 1-C125
Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh.
Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.
Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.
Sức mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.
Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.
Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.
Một Sam-son vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quan quân Phi-li-tinh phải kinh hồn táng đởm giờ đây trở thành một tù nhân mù loà, thành một tên nô lệ ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay!
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Chỉ vì không sáng suốt tỉnh táo trước mưu độc của quân thù, vì thiếu tỉnh thức nên Sam-son đã sa vào cạm bẫy và lãnh lấy hậu quả vô cùng đau thương.
* * *
Có một thực tế đau lòng là so với các loài các vật khác, thì con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Một con thuyền mong manh ọp ẹp cũng thách thức được với sóng gió suốt nhiều năm tháng dài. Một cái bàn, cái tủ được sử dụng cả năm chục năm chưa hư, mà có khi càng lâu năm thì càng lên nước, càng đẹp và càng đáng quý hơn. Trong khi đó, con người là tạo vật thượng đẳng mà sao lại mỏng dòn, dễ thối, dễ hư đến thế!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư!
Bài học Sam-son tuy đã xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn mang tính thời sự vì nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình thuật lại vô số cảnh đời sa ngã dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức truỵ lạc khác...
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn.
Thế nên người ta thường bảo: "khôn ba năm, dại một giờ", nhưng không những thế, có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Thật đáng sợ thay!
Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: "Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!... hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em". Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: "những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" trong nay mai. (I Cr 10,12)
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Con người trở nên cao quý là do phẩm chất cao đẹp của mình. Một người dù nghèo xác nghèo xơ, nhưng có tâm hồn cao thượng, có nhiều phẩm chất cao đẹp... thì vẫn là người có giá trị cao, đáng được mọi người mộ mến. Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm tiêu tan giá trị và phẩm chất cao đẹp của con người.
Mỗi người chúng ta quý giá hơn những viên kim cương đắt giá nhất trần gian, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, biến chất, trở thành như một viên sỏi vô giá trị bất cứ lúc nào.
Vì lúc nào con người cũng mê muội và dễ chìm đắm, thế nên lời nhắn nhủ "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!... Hãy đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề u tối... là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần.
Lạy Chúa, biết đến bao giờ lời Chúa mới cảnh tỉnh được con và lôi con ra khỏi vũng lầy êm ái?
Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa MV 1-C126
Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cũng mong chờ con người.
I. Con người mong chờ Thiên Chúa
Ngày xưa dân Do Thái mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai để giải phóng họ khỏi ách người ngoại bang đô hộ. Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập bằng cách dẫn đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa đã sai các thẩm phán giải phóng họ khỏi cảnh đàn áp của những dân xung quanh. Thiên Chúa đã cho họ thoát cảnh lưu đày Babylon qua vị thiên sai ngoại đạo: vua Kyrô. Rồi thời gian đến, khi dân Do Thái đang mong chờ Ngài giải phóng họ khỏi cảnh người Roma đô hộ, thì Thiên Chúa đã sai Con Chí Ái của Ngài giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngày nay, Kitô hữu mong chờ Đức Giêsu đến trong vinh quang để giúp con người hạnh phúc trọn vẹn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Người đã sống lại, cho đến khi NGƯỜI LẠI ĐẾN”.
Con người như có thể làm tất cả mọi chuyện, vậy con người cần chờ mong gì nơi Thiên Chúa nữa không? Dường như con người ngày nay có thể độc lập với Thiên Chúa. Về phương diện y tế, con người tuy dù đối diện với bao bệnh nan y, nhưng vẫn liên tục tìm ra những phương thuốc để khắc phục các bệnh hiểm nghèo. Về giáo dục, người ta chờ mong nơi những thầy cô, những người làm công tác giáo dục để giúp các bậc cha mẹ làm trọn nghĩa vụ làm cha làm mẹ của mình; như vậy, dường như người ta chẳng còn cần gì nơi Thiên Chúa nữa!
Con người, tận thâm sâu lòng mình, đều cảm thấy mình bất lực để làm những điều tốt, cho cả mình và cho người khác. “Điều tốt tôi biết nhưng tôi lại không làm, tôi lại làm điều dở tôi thấy là không nên làm”. Khi chính mỗi người, người mà được người khác trông chờ, cảm thấy mình bất lực, cần Thiên Chúa trợ giúp để vượt thắng chính mình: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì làm sao những người này có thể giúp người khác “trọn hảo” được. Việc giúp đỡ người khác, giúp họ triển nở và hoàn thiện chính mình, là điều Thiên Chúa đang làm qua trung gian những con người. Không có Thiên Chúa, con người không thể hoàn thiện chính mình và triển nở toàn diện được.
II. Thiên Chúa chờ mong
Không phải chỉ có con người chờ mong Thiên Chúa đến, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng luôn chờ mong con người. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã lạc xa điều Thiên Chúa mong ước cho con người: họ đi tìm mình, quy hướng tất cả về mình chứ không về Thiên Chúa. Thiên Chúa mong muốn con người sống triển nở toàn diện và hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc thật sự không?
Dụ ngôn nén vàng (Mt.25, 14-30) gợi cho con người biết mỗi người đã được trao ban những nén vàng, và mỗi người đều được mời gọi để sinh lời. Những nén vàng Thiên Chúa ban cho tôi là gì? Tôi có làm phát triển những nén vàng tài năng Thiên Chúa ban cho tôi không? Thiên Chúa muốn tôi và mọi người sống triển nở và hạnh phúc. Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Ngài giúp người khác sống triển nở và hạnh phúc. Tôi có thực hiện điều Thiên Chúa muốn chưa?
Đức Giêsu, trong những giây phút cuối đời, đã để lại cho những người Ngài thương yêu một lời trối: “Hãy yêu mến nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Đây là một mệnh lệnh khó thực hiện, nhưng đó lại là mong ước của Thiên Chúa, vì điều này sẽ giúp con người được nên giống Thiên Chúa. Chính khi yêu thương, con người được triển nở và hạnh phúc. Có những người tưởng là yêu thương, tưởng là giúp người khác nhưng họ đang trói buộc người khác, họ làm những người này mất tự do bằng những giúp đỡ của họ, làm những người này lệ thuộc vào họ; những người này thật sự không phải là những người yêu thương kẻ khác, không phải là những kẻ giúp người khác thật sự, nhưng là những kẻ biến người khác thành nô lệ họ, bằng sợi dây tưởng rằng nhân nghĩa. Một tình yêu thực, là tình yêu làm con người tự do và phát triển, làm người được yêu cảm nghiệm tự do, triển nở và hạnh phúc.
III. Đức Maria đáp trả niềm chờ mong của Thiên Chúa
Đức Maria được Thiên Chúa chọn để thực hiện ý định cứu độ con người của Ngài. Ngài đã sai sứ thần tới hỏi ý kiến Đức Maria, xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời Mẹ một cách vô điều kiện; cụ thể, Đức Maria có sẵn sàng chọn Thiên Chúa trên tất cả, có sẵn sàng chấp nhận một thai nhi trong dạ mình. Đức Maria được hỏi ý kiến, nghĩa là, Đức Maria có thể nói “không” với sứ thần truyền tin; nhưng Đức Maria đã quảng đại nhận lời, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” bất chấp tất cả.
Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa không chỉ ở biến cố truyền tin, nhưng còn trong suốt đời Mẹ. Với biến cố phải trở về Bêlem để đăng ký nhân khẩu, Mẹ vẫn thưa xin vâng không một lời oán than. Với biến cố sinh con trong chuồng chiên cừu, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa khi chấp nhận biến cố này. Với biến cố Đức Giêsu ở lại đền thờ, Mẹ cũng không oán trách Thiên Chúa; và đặc biệt khi ở dưới chân thập giá, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng dù chẳng hiểu làm sao Lời Thiên Chúa hứa với Mẹ qua sứ thần được thành sự.
Đức Maria, suốt cả cuộc đời, đã đáp trả tuyệt vời hy vọng của Thiên Chúa về con người. Mẹ đã làm chương trình của Thiên Chúa cho con người được hoàn tất. Thiên Chúa hài lòng về Mẹ. Mẹ không chỉ là người nữ tuyệt vời, nhưng còn là con người tuyệt vời nhất của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn mong chờ Thiên Chúa điều gì cách đặc biệt? 2. Theo bạn, Thiên Chúa chờ mong gì nơi bạn?
------------------------------------
MV 1-C127: Tỉnh thức và cầu nguyện - Lm. G.B. Trần Văn Hào
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm MV 1-C127 Lượng
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong ngày tết đến về quê xum họp, gặp lại anh em hay bạn bè xưa cũ. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ đến. Chúng ta chờ đợi một con người. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo đặc biệt dựa vào sách tiên tri Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin Cậy Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Nhưng chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế. Lý do Chúa đưa ra, vì ‘anh em sắp được cứu chuộc’. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ:“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 24 )
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” ( Lc 21, 34 ). Những gì làm được hôm nay đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Hãy sống thánh thiện, không gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Chúa chúng ta trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Thes 3, 13 ).
Với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ MV 1-C128
Với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.
Chúa phán: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người trên trái đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Ở đây, chúng ta thấy có hai điều Chúa dạy chúng ta phải thực hiện. Điều thứ nhất là chúng ta phải giữ mình để khỏi bị say mê cuốn hút vào các vui thú và các sinh hoạt trần thế; nghĩa là chúng ta phải biết đề phòng hai kẻ thù của linh hồn chúng ta là những đam mê xác thịt và những quyến rũ của thế gian. Điều thứ hai là chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để luôn được yêu mến kết hợp với Chúa và chiến thắng ma quỷ là kẻ hằng ghen ghét và tìm cách hãm hại chúng ta.
Như để giúp các tín hữu thực hiện lời dạy quý giá này của Chúa Giêsu, trong bài đọc hai trích thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô Tông Đồ ân cần thiết tha nhắn nhủ họ phải ra sức sống thánh thiện để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang: “Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến cùng với tất cả các Thánh. Amen. Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em ” (1Tx 3:12-4:2).
Như vậy, sống đẹp lòng Chúa hay sống thánh thiện phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi tín hữu Chúa Kitô. Chính vì vậy, Thánh Trẻ Đaminh Saviô trong ngày Rước Lễ Lần Đầu đã đặt ra hai quyết tâm đơn sơ nhưng đủ khiến ngài nên thánh. Đó là: “Thà chết chẳng thà phạm tội và hai người tôi phải yêu mến nhất là Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng viết cho một người bạn: “Hãy tin tôi, đừng đợi đến ngày mai mới khởi sự nên thánh…Thế nhưng chúng ta phải làm việc, không phải để trở thành những vị thánh nhưng để làm vui lòng Chúa…một việc nhỏ nhặt nhất cũng quý giá trước mắt Người”.
Năm Phụng Vụ chúng ta bắt đầu hôm nay trùng vào Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI công bố để đánh dấu 50 năm khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Vì vậy, thật thích hợp và hữu ích cho đời sống tâm linh nếu chúng ta biết suy niệm và sống theo “Mười Điều Tâm Niệm cho Hôm Nay” sau đây của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII-Đấng đã được ơn Chúa soi sáng để triệu tập Công Đồng.
1. Hôm nay, tôi sẽ gắng sống suốt ngày một cách tươi vui tích cực mà không ước ao phải giải quyết mọi vấn nạn của đời tôi một lúc.
2. Hôm nay, tôi sẽ hết sức để ý đến dung diện của mình: tôi sẽ ăn mặc đoan trang; tôi sẽ không lớn tiếng; tôi sẽ giữ thái độ lịch duyệt; tôi sẽ không phê phán ai; tôi sẽ không đòi cải thiện hay kỷ luật bất cứ ai trừ bản thân tôi.
3. Hôm nay, tôi sẽ sống hạnh phúc trong sự xác tín rằng tôi được dựng nên để hạnh phúc không phải chỉ trong đời sau nhưng ngay cả trong đời này.
4. Hôm nay, tôi sẽ thích ứng với các hoàn cảnh mà không đòi mọi hoàn cảnh phải thích hợp với các ước muốn của tôi.
5. Hôm nay, tôi sẽ dành ra 10 phút để đọc sách tốt, luôn nhớ rằng như đồ ăn cần cho sự sống thể xác, việc đọc sách tốt cũng cần cho đời sống linh hồn như vậy.
6. Hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và sẽ không nói với bất cứ ai về việc ấy.
7. Hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích; và nếu tôi cảm thấy bị đau đớn điều gì, tôi sẽ cố không để ai nhận thấy.
8. Hôm nay, tôi sẽ xếp chương trình cho chính tôi. Có thể tôi sẽ không theo sát từng chữ, nhưng tôi vẫn phải có chương trình. Và tôi sẽ đề phòng hai điều tai hại: hấp tấp và không quyết định.
9. Hôm nay, tôi sẽ tin chắc rằng dù cuộc sống có thế nào, sự quan phòng tốt lành của Chúa vẫn săn sóc tôi như không có ai khác trên thế giới này.
10. Hôm nay, tôi sẽ không sợ chi. Đặc biệt, tôi sẽ không sợ thưởng thức những gì xinh đẹp và tin vào sự thiện.
Tóm lại, đây là một quyết tâm tổng quát: Tôi muốn ở nhân hậu với mọi người, hôm nay và luôn mãi.”
Ave Maria, xin Mẹ dạy con biết sống đẹp lòng Chúa.
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh. Đây là ngày kỷ MV 1-C129
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh. Đây là ngày kỷ niệm, vì Chúa đã đến cách đây 2015 năm. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta chờ đợi Chúa đến với từng người trong giờ chết và với toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.
Thật vậy, chết là có thật. Ngày tận thế cũng có thật. Nhưng giờ chết và ngày tận thế sẽ đến một cách thình lình như chiếc lưới chụp xuống trên mặt đất (x. Lc 21,34-35). Ngày đó lại quyết định số phận đời đời của con người. Cho nên, con người muốn được hạnh phúc vĩnh cửu cần phải chờ đợi trong “Tỉnh thức”.
1. Tỉnh thức là biết sống yêu thương (x. 1Tx. 3,12):
Thánh Phaolô mời gọi: Mọi người phải thể hiện tình thương đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết (x. 1Tx 3,12). Thông thường khi biết mình sắp chết, con người sẽ nói những lời yêu thương đối với người thân của mình: Cám ơn, xin lỗi, yêu mến…Nhưng vì cái chết thường xảy đến quá đột ngột nên con người ít có cơ hội để thực hiện điều đó. Chính vì vậy, hãy thể hiện tình yêu thương nhau khi còn có thể. Vợ chồng hãy yêu thương nhau, cha mẹ hãy yêu thương con cái. Con cái hãy yêu mến cha mẹ. Mọi người hãy thể hiện tình yêu thương nhau. Hãy cám ơn, hãy bỏ qua những bất bình, hãy xin lỗi nhau“Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).
2. Tỉnh thức là giữ mình không chè chén say sưa (x. Lc. 21,34):
Các chất có men như bia, rượu tự nó không xấu. Xấu tốt là do con người sử dụng nó. Khi dùng bia rượu quá liều lượng sẽ gây ra biết bao hậu quả khôn lường. Do bia rượu nên gây ra tai nạn giao thông, chính mình chết, người khác thiệt mạng (Khoảng 15% người chết tai nạn giao thông là do bia rượu). Do bia rượu nên nhiều gia đình tan nát: Vợ chồng ly tán; Anh em từ nhau; Làng xóm mất lòng nhau. Do bia rượu người ta chém giét lẫn nhau và biết bao nhiêu tội lỗi khác. Chính vì vậy, tỉnh thức là không chè chén say sưa.
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!” Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng "đô" lên và uống gấp nhiều lần mới thấy "phê". Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
3. Tỉnh thức là giữ mình, không lo lắng việc đời(x. Lc 21,34):
Dự tiệc Nước trời là công việc quan trọng hàng đầu, nhưng con người vẫn vịn lý do này khác để từ chối. Dụ ngôn khách được mời xin kiếu (x. Lc 14, 15,24) nói lên điều đó. Người thì bảo: "Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác thì nói: "Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Kẻ khác nữa lại vịn lý do: "Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Ngày nay con người vẫn vịn vào những lý do đó và các lý do khác tương tự để từ chối việc giữ đạo, sống đạo. Chẳng hạn: Vì ngày Chúa nhật tôi phải đi làm, phải đi học nên không thể tham dự thánh lễ. Vì bận công việc tối ngày nên tôi không còn thời gian để đọc kinh, cầu nguyện. Vì để thăng quan tiến chức nên tôi phải kết nạp Đảng, phải chấp nhận “Xa Chúa” một thời gian, sau này sẽ tiếp tục trở lại đạo. Vì chuyện gia đình, vì chuyện nghề nghiệp, vì chuyện nọ kia nên chưa có thể xưng tội rước lễ được, khi nào giải quyết xong việc tôi sẽ đi xưng tội…Đó là những hạng người quá lo lắng việc đời.
Nhưng lời Chúa hôm nay lại mời gọi chúng ta “không lo lắng việc đời”. Vì “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6,27). Nghĩa là đừng tìm bảo đảm nơi của cải vật chất mà phải tìm điều chính yếu của cuộc đời đã rồi mọi sự khác Ngài sẽ ban cho. “Trước tiên, hãy tìm kiếm nước Chúa, mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau”(x. Mt 6, 33). Vậy, hãy chọn Chúa và những gì thuộc về Chúa, chọn sự sống đời đời hơn sự sống tạm bợ chóng qua, đừng quá lo lắng việc đời.
4. Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét (x. Gr. 33,15):
Ngày đó, “Chúa sẽ xét xử và thi hành công lý”(Gr. 33,15). Cho nên luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét sẽ giúp con người biết tránh xa tội lỗi, chu toàn bổn phận và sống tỉnh thức hơn. Thánh Louis Gonzaga luôn “Nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời”. Cho nên, Ngài không hề sợ chết, cho dù giờ chết sắp đến.
Một hôm, ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi: "Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì?
Có nhiều câu trả lời khác nhau:
- Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện. - Tôi sẽ dọn mình xưng tội. - Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng. - Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi!.
Câu trả lời ấy của cậu Louis Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.
- Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi? - Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy!
5. Tỉnh thức là luôn cầu nguyện (x. Lc 21,36):
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không có Ta, các con không thể làm được gì”(Ga 15,5). Vì vậy, để sống tỉnh thức cần phải cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Bao lâu con người không còn cầu nguyện thì giống như linh hồn đã chết. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng”(1 Tx 5,17. Lúc nào ta cũng có thể cầu nguyện: Cầu nguyện hôm sớm; Cầu nguyện trước và sau khi dùng cơm; Cầu nguyện trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy; Cầu nguyện trong khi làm việc; Cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp mọi nơi: Cầu nguyện ở nhà thờ; Cầu nguyện trong gia đình; Cầu nguyện trên đường đi làm việc. Chúng ta có thể biến tất cả mọi thời gian trong ngày thành thời gian cầu nguyện. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Dù ở ngoài chợ hay đang đi dạo một mình, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Ngồi trong tiệm của bạn, hoặc khi mua khi bán, cả khi làm bếp, bạn cũng có thể cầu nguyện”. Làm được như vậy, tức là chúng ta đang tỉnh thức trong cầu nguyện.
Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ “Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm” (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng. Amen.
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, MV 1-C130
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”.
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non...” (x.Is 11, 1-10). Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa… ) - Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion... (Này hỡi Dân Sion…) - Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
- Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai: “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì quân khủng bố IS tại Syria. Nếu như các kitô hữu tại Irắc và Syria kêu la thảm thiết trong những năm qua, thì bây giờ là Nga và Pháp quốc hết sức lo lắng. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác nữa thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?
Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).
Năm Thánh Lòng Thương Xót
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của Năm Thánh Lòng Thương Xót với khẩu hiệu Thương Xót Như Chúa Cha (x. Lc 6,36) là lời mời gọi sống lòng thương xót theo gương Cha trên trời, dạy chúng ta đừng xét đoán và kết án, nhưng hãy tha thứ và yêu thương vô giới hạn (x. Lc 6,37-38).
Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Đức Phanxicô nói: Người Kitô hữu được khích lệ mở các cửa của mình để cùng Chúa Cứu Thế giáng sinh đi gặp gỡ những ai đang đi trên đường. Sách Khải Huyền viết: “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta: “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.
Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng lòng thương xót với tình nhân loại, và sự cảm thương dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, để bước vào ngưỡng của lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải ý thức mình là người mang lòng từ bi thương xót, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình thương xót, tử tế, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, đau khổ với đồng loại.
Lạy Mẹ Maria, Thân Mẫu của Lòng Thương Xót, Thân Mẫu của Đấng Chịu Đóng Đinh và cũng là Thân Mẫu của Đấng Phục Sinh đã bước vào trong thánh địa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, xin dẫn chúng con bước vào cửa lòng thương xót cả Thiên Chúa. Amen.
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế, anh lại xe MV 1-C131
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế, anh lại xe buýt trên 1.500.000km không gây tai nạn nào. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một lời khuyên tương tự: “Hãy tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”, “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Hãy ngẩng đầu lên”, “Hãy nhìn cho kỹ”. Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.
Tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa dân Do Thái dựa vào lời các tiên tri loan báo, đã sống những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại sao đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần rõ rệt: Phần thứ nhất là những hiện tượng lạ lùng trong vũ trụ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có thực sự xảy ra như vậy không? Đây là một lối diễn tả theo thể văn Khải huyền. Khó mà giải thích cho được sáng tỏ, khó mà thông hiểu cho rõ ràng. Vũ trụ sẽ thay đổi thế nào, thay đổi lúc nào, xác định việc đó là công việc của khoa học. Còn đối với chúng ta, đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn về vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ. Sự liên đới giữa vũ trụ và con người rất mật thiết. Trước tiên là hỗn độn, hoang vu. Thiên Chúa can thiệp khi tạo dựng đất trời, sắp xếp đâu vào đấy: Thiên Chúa làm cho cảnh hỗn mang nguyên thuỷ biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy, vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thuỷ. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”. Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, huỷ diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó Dân Chúa được hạnh phúc.
Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây, tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng. Đó là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần thứ hai.
Hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc những lời khuyên nhủ này. Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta giữ lòng mình như thế nào? Phải chăng không ít những lần lòng chúng ta trở nên nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ, hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và gây nhiều tác hại cho xã hội. Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày thẩm định số phận của mình. Không ai biết được ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại, ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Anh chị em thân mến,
Một thoáng nhìn về tương lai không phải chỉ để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống thực sự chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tuỳ cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết nào.
Cụ thể hơn mà nói: lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới: chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.
Đối với thể xác của con người, giấc ngủ thật là cần thiết. Theo lời khuyên của các bác sĩ, thì con MV 1-C132
Đối với thể xác của con người, giấc ngủ thật là cần thiết. Theo lời khuyên của các bác sĩ, thì con người phải ngủ mỗi ngày ít là 7 tiếng đồng hồ mới đảm bảo cho sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu giấc ngủ cần thiết cho đời sống thể xác, thì đối với đời sống tâm linh, ngủ lại vô cùng bất lợi. Càng ngủ về mặt tâm linh nhiều bao nhiêu thì càng mau dẫn đến cái chết về mặt tâm linh bấy nhiêu. Hôm nay, chúng ta bắt đầu bước vào MùaVọng. Đây chính là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy ra sức chuẩn bị tâm hồn, đổi mới đời sống để đón nhận hồng ân cứu độ mà Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể ban tặng cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui ơn cứu độ, nếu chúng ta biết làm theo điều Chúa chỉ dạy: là hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Hãy Tỉnh Thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.
Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.
Cho nên, mùa Vọng nhắc chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh táo hơn. Bởi Kytô hữu không chỉ là con của Đất, mà còn là con của Trời; người Công giáo không chỉ lo lắng ở đời này mà còn biết bận tâm cho đời sau. Và trên mỗi bước hành trình, Thiên Chúa vẫn có đó. Ngài vẫn đang đến, đơn sơ, dung dị. Không trống phách tưng bừng, nhưng âm thầm lặng lẽ. Không uy nghi lẫm liệt như những bậc quân vương, nhưng trong hiền lành khiêm nhường của một người phục vụ. Không như vị quan tòa nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương. Nếu bén nhạy, nếu biết mở lòng ra, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá dung mạo của Thiên Chúa trong cuộc sống. Có thể Ngài đang đến qua những con người hiền lành, bé nhỏ quanh ta; có thể Ngài đang ở bên ta nơi những người anh em khốn khổ túng cùng, nơi những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Ngài có thể đang lẫn vào giữa đám đông vô danh, chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài xã hội, Ngài đang ẩn mình giữa đám người ăn xin lê bước trên đường, đang rét run với cặp mắt ngơ ngác giữa những nạn nhân của thiên tai, khủng bố. Vì thế, phải tỉnh táo lắm mới có thể nhận ra Ngài. Phải tỉnh thức lắm mới có thể gặp được Ngài.
Tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó mà chờ đợi, nhưng là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng, giao cho ta trách nhiệm trông coi gia đình, giáo xứ, quê hương và cả thế giới mình đang sống. Ta được tự do hành động, và có trách nhiệm làm cho môi trường mình đang sống được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức còn là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy Ý Chúa trong những trào lưu của thời đại, là nhận biết Chúa đang hành động trong những tâm hồn thiện chí. Để thay cho đối kháng, hay tranh giành ảnh hưởng, là cộng tác với nhau trong huynh đệ chân thành.
Như thế, mùa Vọng cũng gọi mời chúng ta bước vào cuộc hội ngộ lớn của hồng ân cứu độ, là mùa của dấn thân, nhập cuộc. Nếu ngủ mê vì quá bận rộn với những công việc vật chất, chúng ta sẽ ở bên lề biến cố trọng đại này, và có lẽ sẽ phải hối tiếc khôn nguôi. Cho nên, mùa Vọng mùa của tỉnh thức, và cũng là mùa của lên đường, ra khỏi cái vỏ ốc của ù lì, ươn lười để bước đi trong hân hoan và hy vọng.
Như thế, chúng ta sẽ không ngồi đó mà chờ đợi, hay an phận thủ thường, “ai sao tui vậy – ai làm bậy tui làm theo”. Nhưng sẽ bước vào mùa vọng này với một ngọn nến thật sáng trên tay. Ngọn nến của Bình An, Đổi Mới, ngọn nến của Yêu Thương, Hy Vọng. Để biết đâu, một lúc nào đó, chúng ta chợt nhận ra Chúa đang đến thật gần, chợt nhận ra Ngài đang hiện diện nơi một ai đó trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta?
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ ở giữa hai ngày Đức Kitô đến. Ngày Người đến lần đầu tiên cách MV 1-C133
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ ở giữa hai ngày Đức Kitô đến. Ngày Người đến lần đầu tiên cách đây hơn 2000 năm tại Bêlem. Chúng ta tin tưởng rằng Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang vào thời sau hết. Trong khi chờ đợi, chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô ở đâu?
Lần kia, có một sinh viên người Do Thái rất đứng đắn, anh có một ao ước cháy bỏng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia, thế là anh khẩn khoản xin cha anh chỉ cho thấy ngài. Người cha trả lời: “Nếu con không ngừng hết lòng nghiên cứu kinh Tôra, cha hứa với con rằng con sẽ xứng đáng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia”.
Trong vài tuần, người con trai nhiệt thành chuyên chú vào việc học hỏi của mình, bằng cách miệt mài vào những cuốn sách thánh cả ngày lẫn đêm. Thế rồi anh đến gặp cha và nói: “Con đã làm điều mà cha dặn bảo, nhưng ngôn sứ Êlia vẫn không tự bộc lộ bản thân ngài cho con”.
Người cha trả lời: “Con đừng nản lòng như vậy. Nếu con xứng đáng, thì chắc chắn ngài sẽ tự bộc lộ về chính ngài cho con”.
Một đêm kia, con trai ông đang ngồi tại bàn của mình, thì một người nghèo khổ đi tới. Người này lấm đầy bụi đường và quần áo rách tả tơi. Với gương mặt thô nhám, trên chiếc lưng còng mang một cái túi nặng nề, người đó sắp sửa đặt cái túi xuống, thì anh ta tức giận nói với ông “Đừng làm như vậy. Thế ông nghĩ chỗ này là một cái quán trọ à?”.
Người khách vãng lai khẩn khoản “Tôi quá mệt. Xin cho tôi nghỉ ở đây một lát, rồi tôi sẽ đi tìm chỗ trọ”.
“Không. Ông không thể ở lại đây được. Cha tôi không cho phép những kẻ lang thang được đến và ở lại đây, với cái túi lấm đầy bụi bặm của họ”.
Thế là kẻ xa lạ thở dài, đỡ cái túi lên vai của mình và ra đi. Khoảng một giờ sau, người cha đến. Ông hỏi “Vậy con đã nhìn thấy ngôn sứ Êlia chưa?”.
Anh con trai đáp “Dạ chưa, con chưa hề nhìn thấy ngài”.
Người cha hỏi “Thế hôm nay không có người nào đến đây à!”
Anh con trai đáp: “Dạ không ạ. Vừa mới đây, có một kẻ lang thang mang một cái túi nặng đi tới đây”.
“Vậy con có tiếp đón họ không?”
“Dạ không ạ!”
“Tại sao con không chịu đón tiếp người này? Con không biết rằng đó chính là ngôn sứ Êlia sao? Cha e rằng quá muộn mất rồi”.
Kể từ ngày hôm đó, anh con trai tự bắt buộc mình phải đón tiếp kẻ xa lạ, bất kể người đó trông như thế nào, hoặc tình trạng cuộc sống của họ ra sao. Và khi làm như vậy, anh tin tưởng rằng mình đang thực sự đón tiếp ngôn sứ Êlia.
Chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô và phục vụ Người trong người đồng loại của chúng ta, đặc biệt nơi những người nghèo khổ và thiếu thốn. Nhưng chúng ta còn có một công việc khác nữa, nghĩa là làm cho Đức Kitô trở nên “hữu hình” đối với những kẻ đang hoài nghi và không có niềm tin. Chúng ta là những chứng nhân của Đức Kitô trên thế giới.
Cách làm chứng lôi cuốn nhất đối với thế giới chính là sự quan tâm đến mọi người, và sống bác ái đối với người nghèo khổ, yếu đuối và đau khổ. Lòng quảng đại bên dưới thái độ này, và những hành động này chứng tỏ sự tương phản đối với thói ích kỷ. Chắc chắn điều đó đưa đến những câu hỏi dẫn đến Thiên Chúa và Tin Mừng. Lời cam kết đem lại hòa bình, công chính và quyền lợi cho con người chính là một cách làm chứng cho Tin Mừng.
Trong khi mỗi người đều có một phần đóng góp, thì điều quan trọng nhất chính là chứng tá của cộng đồng Kitô hữu. Với tư cách là một thân thể, các Kitô hữu phải làm chứng cho thế giới về Đức Kitô, qua tình yêu của họ đối với nhau, qua niềm hy vọng và niềm vui mà họ phản ánh ra.
Vào năm 1987, người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: "After day" kể lại tình cảnh của ít người MV 1-C134
Vào năm 1987, người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: "After day" kể lại tình cảnh của ít người dân một thành phố lớn thuộc miền Bắc, Hoa Kỳ, còn sống sót sau một vụ nổ bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật thuộc nhiều đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc hoang tàn và đổ nát, đau khổ và thất bại của những người đang chờ mình phải chết vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu thức ăn chất uống. Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người sống sót của nhiều khu phố khác nhau đã tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là thứ ngày tận thế của chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới, cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Chương 33,14-16, sách Tiên tri Giêrêmia là một lời sấm và là văn bản tìm hiểu cho nền thần học cứu thế của Kinh Thánh Cựu Ước. Điểm nòng cốt của thần học cứu độ là sự chờ đợi ngày Đấng Thiên Sai, ngày Đấng Cứu Thế đến để thiết lập trời mới đất mới trong thế giới loài người. Trong "những ngày đó" hay "vào thời đó" là kiểu nói Kinh Thánh dùng để diễn tả tiến trình hiện thực của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp quan phòng của Ngài, đặc biệt dưới thời điểm và các biến cố của lịch sử mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp mà Thiên Chúa chọn. Trong bối cảnh của chương 34, ngày đó và thời đó có ý ám chỉ tình trạng sống lưu vong, ngày buồn thương của dân Do Thái, thảm cảnh phân rẽ của hai vương quốc Bắc Nam. Nhưng Thiên Chúa sẽ tụ tập dân chúng thuộc hai vương quốc lại với nhau và cho họ được thoát kiếp sống nô lệ, đày ải, để trở về quê cha đất tổ.
Tuy nhiên, lời sấm trên đây của Thiên Chúa vượt xa khỏi khung cảnh lịch sử của dân Do Thái. Bởi vì nó có thể được áp dụng vào cuộc sống của con người thuộc mọi thời đại, ở khắp nơi trên thế giới này. Một con người bị tội lỗi phân rẽ trong chính tâm lòng nó và sống kiếp đày ải xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ngài cống hiến ơn cứu độ cho tất cả mọi người, trong các thời điểm khác nhau, liên tục trong dòng lịch sử. Do đó, vấn đề là chúng ta có nhận ra thời điểm cứu độ đó hay không?
"Mầm giống sự công chính" là tên thường Kinh Thánh dùng để gọi Đấng Cứu Thế. Trong sa mạc nóng bỏng khô cạn của loài người, trên thân cây khô héo khẳng khiu của dòng tộc Đavít, Thiên Chúa khiến cho chồi lộc của niềm hy vọng và của ơn cứu độ nảy mầm tươi tốt. Tên gọi "Mầm giống sự công chính" diễn tả khí thế hành động của Thiên Chúa. Nếu tâm tính loài người thích phô trương, khoe khoang và chọn lựa cái vĩ đại, to tát, thì Thiên Chúa ưa thích kiểu cách hành sự khiêm tốn, kín đáo nghèo hèn, bé nhỏ. Đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế trẻ thơ được sinh ra từ lòng Trinh Nữ Maria. Chính Ngài là mầm giống của sự sống mới mà Thiên Chúa muốn cấy trồng vào giữa lòng lịch sử nhân loại.
Mặc dầu nhân loại tội lỗi, khô cằn và hấp hối, nhưng qua mầm giống sự công chính là Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không ngừng cống hiến nhựa sống thiêng linh của Ngài cho con người. Đấng Cứu Thế sẽ tái lập công bằng và vương quốc tinh thần của Ngài, trong đó, Ngài sẽ được gọi là Thiên Chúa sự công chính của chúng ta.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, sự công chính đồng nghĩa với ơn cứu độ toàn vẹn mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nó bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người từ chính trị, kinh tế, cho đến xã hội và tôn giáo. Con đường sự sống, con đường dẫn đến ơn cứu độ là con đường dẫn đến trời mới đất mới. Do đó, thời điểm của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đến trong tâm lòng và cuộc sống cho con người, không phải là ngày tận diệt, mà là ngày giải phóng. Bởi vì nó khai mào cho một cuộc sống mới, cuộc sống theo tinh thần của con cái Thiên Chúa.
Qua văn bản các hình ảnh biểu tượng của nền văn chương Khải Huyền, chương 21 Phúc Âm thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta biết tỉnh thức nhận ra các dấu chỉ của thời điểm cứu độ ấy trong đời mình. Để đường lối cuộc hẹn hò với Thiên Chúa, niềm tin vào ơn cứu độ và giải phóng giúp chúng ta hiên ngang ngẩng đầu lên sống tươi vui, tin tưởng ngay giữa những gian lao thử thách và khổ đau của cuộc đời. Vì thế cho nên, những biến động và tai ương cho dầu có kinh thiên động địa đến đâu đi nữa, cũng đều là các dấu chỉ kêu mời chúng ta hồi tâm suy nghĩ và hoán cải tâm lòng, chớ không được khiến cho chúng ta khiếp sợ, tê liệt, khép kín và chán nản thất vọng.
"Con Người" là tước hiệu Kinh Thánh dùng để diễn tả hoạt động của Chúa Giêsu cứu thế. Trong tư cách là vị quan án tối cao phán xử mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung, Chúa Giêsu đã đến trong dòng lịch sử nhân loại và trong lịch sử Tin Mừng cứu độ, qua cuộc khổ nạn cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu tiếp tục đến qua lời Ngài, qua tin vui cứu độ được Giáo Hội tiếp tục rao giảng và Chúa Giêsu sẽ trở lại trong ngày lịch sử cứu độ thanh toán bản án. Muốn nhận ra sự hiện diện và bước chân của Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống và hành sự theo tinh thần Đức Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu soi đời mình. Đặc biệt trong những bước đi, trên những đoạn đường hầm đen tối của cuộc đời này. Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ, và không để cho tâm lòng của chúng ta bị thế giới vật chất nặng nề cầm chân và nhận chìm cuộc sống thiêng linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu là một mầm giống cần được vun trồng, chăm bón, ấp ủ với hơi ấm của con tim và ánh sáng của niềm hy vọng.
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thêsalônica, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy một bí quyết để vun trồng sự sống thiêng linh ấy cách hữu hiệu, đó là phải có thái độ căn bản muốn sống đẹp lòng người ta, dầu người ta ấy có là ai đi nữa. Nhưng phải làm gì để đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta yêu thương với một tình yêu thương không so đo, tính toán hơn thiệt và không loại trừ chọn lựa, yêu thương hết mọi người và yêu thương tràn đầy chan chứa. Thiên Chúa vui sướng và hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Ngoài ra, cần phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm lòng và cuộc đời chúng ta bằng cách sống thánh thiện và kiên vững. Bởi vì nói cho cùng, sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn, yêu thương đến tận hiến chính mạng sống mình cho tha nhân. Càng biết yêu thương tha nhân, tình yêu vô vị lợi cụ thể và cao đẹp bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu thì càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu, và đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và khiến cho Ngài sung sướng nhất, hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người khổ đau vì loài người không yêu thương nhau đủ, hay không thương yêu nhau theo tinh thần của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thiêng linh và xây dựng trời mới đất mới cụ thể và hữu hiệu.
Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa MV 1-C135
Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc rằng: Tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho một Năm Phụng vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu Năm Phụng vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25-12 và trước đó Giáo Hội dành 4 tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một Năm Phụng vụ là Mùa Vọng.
Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Đối với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian 4 năm hay 5 năm ngồi ở giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường. Đối với người Dothái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong lịch sử cứu độ, hành trình của hơn 1.000 năm chờ đợi Đấng Cứu Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian 4 tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong Năm Phụng vụ mà Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi sống tâm tình Mùa Vọng của Năm Phụng vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài, mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui, hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại. Nói khác đi, Mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho biến cố Giáng Sinh tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và đón chờ Đức Giêsu Kitô là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?
- Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên trong tâm hồn.
“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo đèn, hội tiệc… là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân quý Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thương mại trong mùa này. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày lễ”, bởi vì ngày sinh của Chúa không phải là ngày lễ thường mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được trở nên thánh thiện (A Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc Chúa Giáng Sinh thì làm sao có ngày lễ để mà “happy holidays”? Do đó, khi gửi thiệp, tặng quà cho nhau, chúng ta hãy nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một tấm lòng chân thật, biết ơn người khác” (Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng, “Trông đợi”).
- Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh thức.
Điệp khúc “hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xảy đến bất ngờ cho con người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.
Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người uống rượu... cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởi đó, nhiều lần ta nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến) khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời,...
Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tàu. Dân chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tàu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ. Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết thảm trong trận hồng thuỷ thời bấy giờ.
Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Nếu chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Trời. Amen.
Hôm nay Giáo Hội bước vào chu kỳ Năm Phụng vụ mới bắt đầu với Mùa vọng. “Mùa vọng” là MV 1-C136
Hôm nay Giáo Hội bước vào chu kỳ Năm Phụng vụ mới bắt đầu với Mùa vọng. “Mùa vọng” là danh từ “Nôm”, “vọng” (望) là chữ mượn Hán, có nghĩa là: hướng đến, trông chờ, mong đợi. “Mùa vọng” tiếng La tinh là “Adventus”, có nghĩa là: đến, hiện diện hay hiển trị. Trong cử hành phụng vụ, Mùa vọng gồm 4 Chúa nhật và chia làm hai giai đoạn: giai đoạn một từ Chúa nhật I Mùa vọng đến hết ngày 16/12 là thời gian hướng tâm hồn người tín hữu đến ngày Quang lâm, ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai trong vinh quang; giai đoạn hai từ ngày 17 – 24/12, là tuần lễ chuẩn bị trực tiếp mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn hướng về “Ngày Chúa đến”.
Bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia tuyên sấm về một Đấng Công chính mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để giải thoát muôn dân: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.” (Gr 33,15). Đấng Công chính ấy là Đức Giêsu Kitô giáng trần để ban cho nhân loại Tin Mừng Tình yêu cứu độ.
Bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi dân thành Thêxalônica hãy sống Tin Mừng tình yêu để xứng đáng đón Chúa đến lần thứ hai. "Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1Tx 3,12-13).
Bài Tin Mừng, thánh Luca mượn ngôn ngữ khải huyền của Cựu Ước để nói về lần thứ hai Chúa đến, đó là ngày quang lâm. “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 34-36).
Thời gian gần đây (cuối tháng 11/2012) trên mạng lại bắt đầu râm ran tin tức đã gây ồn ào một thuở trước đây là ngày 21/12/2012 sẽ là ngày tận thế theo lịch người Maya cổ đại. Người ta lại nhân danh cả cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA của Mỹ làm vỏ bọc cho sự chính xác, củng cố niềm tin của độc giả. Tin tức này đã được các tờ báo hay các trang mạng lật tẩy sự “nửa vời”, không chính xác và thiếu thành thật. Thế nhưng nó cũng tạo ra một hiệu ứng hoang mang lo lắng cho một số người thiếu sự suy nghĩ chín chắn.
Chính Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã kêu gọi mọi người công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” hôm 18/11/2012 tại Vatican. Từ bài Tin Mừng trong ngày Chúa nhật 33 Thường niên (Mc 13, 24-32), Chúa Giêsu tiên báo về “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”, ngài giải thích: Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt; Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Cuối cùng Ngài khẳng định: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi”.
Giả như ngày tận thế có xảy ra thật vào ngày 21.12.2012 thì cũng chẳng có gì phải lo lắng nếu sống đúng lời dạy trong trang Tin Mừng hôm nay là “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. “Đứng thẳng và ngẩng đầu lên” là sống bác ái, công bằng, thành thật theo Tin Mừng. “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn” là luôn trong tư thế sẵn sàng, lòng qui hướng về Chúa, về đời sống mai sau mà vượt thắng mọi cám dỗ đam mê tội lỗi. Chúng ta chỉ hoang mang lo sợ ngày tận thế khi chúng ta đang ở trong tình trạng nặng nề, chìm đắm, buông thả, chạy theo những sự chóng qua của thế gian.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn để mỗi người chúng ta biết thức tỉnh, luôn ý thức mình là con cái Thiên Chúa có quê hương đích thực trên trời mà luôn quảng đại dấn thân sống yêu thương phục vụ theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu và luôn kết hiệp với Người trong mọi phút giây của cuộc sống. Có như thế chúng ta là những tín hữu “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”; là những chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chờ đợi Chúa trong ngày quang lâm chung thẩm. Amen.
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh MV 1-C137
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại.
Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống. Thế thì, đâu là ý nghĩa của việc chờ đợi và hy vọng của Mùa Vọng?.
Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì gia đình em quá nghèo. Họ không còn tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: "Hôm nay, nhà em không còn tiền và cũng không gì để ăn" Nghe lời chị ta nói, lòng tôi như bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi bị xúc động trước nỗi bất hạnh của em. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Tôi nhìn đôi mắt của em, thì hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Mặt dù, tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.
Cậu bé đã từng có những hy vọng và chờ đợi. Hy vọng một tương lai tốt đẹp. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra để em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng, và em đã kết thúc cuộc đời. Và tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải về những gì mình chưa làm được với một lời hứa. Từ kinh nghiệm này giúp tôi liên tưởng đến ý nghĩa của sự chờ đợi và hy vọng.
Chờ đợi không chỉ là mong đợi những điều tốt có thể sẽ xảy ra trong tương lai, mà là biết nhận ra những ân ban của Thiên Chúa cho ta trong cuộc sống hiện tại này. Giá trị của cuộc sống hiện tại của con người là kết quả cho cuộc sống tương lai tốt đẹp. Chờ đợi không chỉ đón nhận những điều tốt mà thôi, nhưng là còn phải chấp nhận những gì ngoài ý muốn của mình. Hơn nữa, chờ đợi không phải là ngồi đó để than van, trách móc, tủi hờn cho số phận, nhưng phải biết tìm kiếm và im lặng để lắng nghe được tiếng Chúa nói trong ta, và thực hiện bằng việc làm cụ thể.
Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" Và ngày đó, Thiên Chúa phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương. Chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người với chúng ta, và Ngài chết cho con người để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại, thì giờ đây Chúa đang ở cùng với chúng ta, và nơi những người anh em. Những người bất hạnh đang bị bỏ rơi, những người già bệnh tật, cô đơn, những trẻ em mồ côi đang cần có tình thương...
Có những mãnh đời đã đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như là một lời nhắc nhớ rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và bác ái trong Mùa Vọng.
Có lẽ, hơn ai hết, dân Israel có kinh nghiệm chờ đợi Đấng Thiên Sai. Thiên Chúa đã thiết lập MV 1-C138
Có lẽ, hơn ai hết, dân Israel có kinh nghiệm chờ đợi Đấng Thiên Sai.
Thiên Chúa đã thiết lập giao ước tình yêu với dân, Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng thế nhưng mà dân đã không nhận ra tình yêu đó. Nói không nhận ra thì cũng không đúng. Nhận ra đó nhưng nhiều lúc cứng tin và nản lòng nản chí để rồi đi tìm cho mình một thần minh khác ngoài Thiên Chúa. Cứ tưởng là thần minh đó sẽ làm cho cuộc đời mình, làm cho dân tộc mình khá hơn dân tộc khác nhưng đâu có biết rằng dân cứ mãi bước đi trong lầm than.
Đã quá nhiều lần bỏ Chúa để đi thờ thần này, tượng kia. Ít là hơn một lần kinh nghiệm của việc dựng bò vàng lên để thờ hay chạy theo các thần của Baal. Lẽ ra chỉ thờ mình Thiên Chúa vì Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ của đời mình nhưng không, đi tìm thần khác.
Thiên Chúa, Ngài cũng giận đó chứ nhưng Ngài vẫn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Độ dù dân của Ngài cứ phải lòng chai dạ đá với Ngài.
Bằng cách này cách khác, người này người kia, Thiên Chúa, nói to cũng có, nói nhỏ cũng có rằng sẽ có Đấng Cứu Độ đến để giải thoát dân và mang ơn cứu độ cho dân.
Hôm nay, qua lời ngôn sứ Giêrêmia, chúng ta nghe đây lời Chúa phán: Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện tin mừng Ta loan báo về nhà Israel và nhà Giuđa. Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: "Thiên Chúa, Đấng Công Chính của chúng tôi".
Thế đó, ngày Đấng Công Chính đến sẽ giải thoát cho dân và sẽ cho dân sống một cuộc sống yên ổn, bình an và hạnh phúc.
Và, sau đó một thời gian dài, Đấng Cứu Độ trần gian mà các ngôn sứ đã đến ở giữa trần gian, để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho dân.
Trong hành trình loan báo Ơn Cứu Độ, loan báo Tin Mừng, nhiều và quá nhiều lần Chúa Giêsu nói cho mọi người biết về ngày mà Con Người đến trong vinh quang và quyền năng của Ngài.
Hôm nay, qua trang Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”.
Không chỉ thế, Chúa Giêsu còn dạy thêm cho các môn đệ rằng: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
Trong tâm tình đó, nhiều và nhiều lời được khuyên nhủ, được loan báo tư thế của những người đón chờ Đấng Cứu Độ trần gian, đón chờ Chúa đến.
Để đón chờ Chúa đến, chờ Đấng Cứu Độ đến, đời sống của chúng ta cũng phải sống trong tâm tình chờ đợi. Tâm tình chờ đợi đó được Thánh Phaolô tông đồ gửi thư cho giáo đoàn Thessalônica cũng như gửi cho mỗi người chúng ta: Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh.
Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em.
Vâng ! Có lẽ lời mời gọi của thánh Phaolô là một lời mời gọi hết sức thiết thực, hết sức gần gũi với mỗi người chúng ta.
Hãy sống làm sao như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, bình an và hạnh phúc. Tính đi tính lại, cuộc đời chúng ta thật vắn vỏi.
“Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!”(c. 4) Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, Mạnh giỏi chăng là được tám mươi, Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi. (Tv 89, 10)
“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (c. 2). Để rồi từ đó, ta mỗi ngày thức dậy ta nguyện xin: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (c. 14). Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn hướng về ngày cuối cùng của đời ta và ta luôn sống trong tâm tình chờ đợi Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Từ Chúa Nhật I mùa vọng MV 1-C139
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.
Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.
1. Mùa Vọng - Mùa loan báo.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
2. Mùa Vọng - Mùa chờ đợi
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách: - Chúa đến trong lịch sử nhân loại. - Chúa đến trong ngày phán xét chung. - Chúa đến trong giờ chết của mỗi người. - Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Một lần nữa nhiều người lại bàn cãi về ngày tận thế, lần này thì thời điểm sẽ là ngày 21 tháng 12 năm 2012…
Sự ồn ào về ngày tận thế đã không khỏi vang đến tai Đức Giáo Hoàng. Ngày 18/11 vừa qua, Ngài đã lên tiếng kêu gọi chúng ta nên dừng lại "sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo" mà nên "suy ngẫm một cách sâu sắc hơn và đúng nghiã hơn".
Đề cập đến đoạn Phúc âm mô tả "bầu trời trở nên âm u" và "các vì sao rơi rụng từ trời xuống", Đức Giáo Hoàng cho biết Chúa Giêsu đã không mô tả "ngày tận thế" theo như cách chúng ta nghĩ là một "lời tiên tri", mà thực ra là Chúa muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi những đồn đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt. Chúa "muốn cho chúng ta một chiếc chìa khóa để suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng nghĩa hơn, và chỉ cho chúng ta con đường phải đi để bước vào cuộc sống vĩnh cửu". (x.Vietcatholic.org, ngày 11/23/2012).
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
3. Mùa Vọng - Mùa tỉnh thức
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “ lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
- Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
- Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
a. Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:
Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
b. Dụ ngôn người quản gia trung thành.
Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
Cô bé Sahatorn Matheryn Naovaratpong, 2 tuổi tại Mỹ, hiện đang trở thành bệnh nhân nhỏ tuổi MV 1-C140
Cô bé Sahatorn Matheryn Naovaratpong, 2 tuổi tại Mỹ, hiện đang trở thành bệnh nhân nhỏ tuổi nhất thế giới trải qua giấc ngủ đông ( frozen child ) với hy vọng một ngày nào đó sẽ tỉnh lại. Quyết định của gia đình khi để bé Matheryn Noavaratpong tách biệt hoàn toàn với các thiết bị hỗ trợ y tế chính thức thực hiện từ đầu năm nay, sau khi cô bé tử vong vì ung thư não.
Cô bé lần đầu tiên được chẩn đoán bệnh khi bố mẹ bé, cả hai đều là bác sĩ, đã vội vàng đưa con đến bệnh viện Bangkok lúc bé bắt đầu hôn mê vào năm ngoái. Các bác sĩ đã phát hiện một khối u não 11cm và tiến hành phẫu thuật loại bỏ một nửa khối u này. Sau ca phẫu thuật, bố mẹ bé gái nhận được thông báo cơ hội con gái họ tỉnh dậy sau hôn mê là rất thấp. Tuy nhiên, cha cô bé đã đưa ra ý tưởng giúp Sahatorn Naovaratpong sớm tỉnh lại. Ông cho biết: “Chúng tôi sẽ chiến đấu để chống lại căn bệnh ung thư này.” Những tháng tiếp theo, cô bé đã phải trải qua một số ca phẫu thuật khiến não trái của bé bị teo đến 80%. Dù phải trải qua một cuộc chiến rất khó khăn, tuy nhiên những tế bào ung thư cuối cùng vẫn lan ra toàn bộ não của Matheryn."Chúng tôi nhận ra rằng cuộc chiến đã kết thúc", bố cô bé nói.
Trước đó, gia đình cũng đã liên lạc với tổ chức Alcor Life Extension Foundation, một trong những tổ chức lớn nhất chuyên sử dụng kỹ thuật ‘đông lạnh’ để làm con người bất tử. Giám đốc tổ chức, ông Aaron Drake, cũng cho biết họ chấp thuận thực hiện kỹ thuật làm đông trên bệnh nhân Matheryn.
"Mọi người đều hy vọng cô bé 2 tuổi đã cạn kiệt sức lực này sẽ có nhiều khả năng sống sót hơn, khi thực hiện liệu pháp này”, giám đốc cho biết. "Tuy nhiên thật không may, hơi thở của cô càng yếu đi nhanh hơn so với dự đoán của bác sĩ. Vì vậy, hai ngày trước khi đưa sang Mỹ, cô bé tiếp tục phải sử dụng máy thở nhằm loại trừ khả năng xấu nhất có thể xảy ra đối với hãng du lịch hàng không”. Điều này buộc nhóm nhân viên y tế thực hiện truyền dịch cryoprotective cho Matheryn ở Thái Lan trước khi chuyển cơ thể cô bé về Mỹ.
Ông Drake cho biết não của Matheryn đã được tách chiết và bảo quản bằng thép không gỉ, cách nhiệt chân không chứa nitơ lỏng. Thi thể của bé sẽ được duy trì bằng chất cryofreeze cho đến tìm được một phương pháp điều trị mới phù hợp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải chờ đợi để có cách thức khiến cô bé có thể hồi sinh. "Chắc chắn sẽ phải mất một khoản tiền khá lớn khi thực hiện kế hoạch này, tuy nhiên chúng tôi sẽ rất vui nếu thu được hiệu quả”. Và, mặc dù đây là một chặng đường gian nan nhưng gia đình vẫn tiếp tục cố gắng tìm mọi cách để cứu sống em, bố cô bé cho hay. Hiện nay, "Thi thể của cô bé được trữ lạnh tại phòng chờ công nghệ mới Arizona", ông Noavaratpong cho biết thêm. ( Linh Nguyễn dịch theo News.com.au )
Cha mẹ bé Matheryn luôn cháy bỏng khao khát đứa con yêu thương tỉnh dậy. Mong ước này phản ảnh phần nào ước muốn nồng nàn của Đức Giêsu, khi Người kêu gọi Kitô hữu “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người !" Sẵn sàng tỉnh thức và cầu nguyện là hai điều cấp bách cho đời sống tín hữu Kitô.
Sẵn sàng tỉnh thức
Đức Giêsu tha thiết kêu gọi mọi người đừng ngủ mê trong vật chất, tiền bạc, của cải, trong danh lợi, chức tước, trong thú vui xác thịt, trong những đam mê vị kỷ, phù phiếm, bất nhân, thất đức, để khỏi bị bất ngờ Chúa gọi. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.”
Ngày Chúa gọi, cũng là ngày người đó xuôi tay nhắm mắt, từ giã cõi đời. Sống thác tử quy. Lẽ tự nhiên mỗi người đều phải trở về nguồn cội với Chúa, Đấng Tạo Hóa.
Sẵn sàng sống từng giây phút xả kỷ vị tha, sống cho người, chết đi bản thân, cái tôi ích kỷ, tham lam, ham hố, vơ vét, gian manh, dối lừa, hại người. Chọn cái dại dột, cái điên rồ, cái khờ khạo hơn là cái khôn lỏi của thế gian, mà xấu xa với Chúa. “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” ( 1Cr 1, 25 ).
Sẵn sàng sống cho Chúa, sống cho tha nhân, chết đi tánh xác thịt, cám dỗ phạm tội. Buông xuôi sống theo thế gian, hưởng thụ theo xác thịt và thỏa hiệp với ma quỷ, đều là chống lại Lời Hằng Sống, chống lại Đức Kitô, tuy nhiên vẫn “có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên Trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ Trời đến cứu chúng ta. ( Pl 3, 18-20 ).
Sẵn sàng làm chứng nhân Đức Giêsu mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh thuận hay nghịch. Bởi vì: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" ( Gl 2, 20 ).
Sẵn sàng dấn thân hy sinh phục vụ tha nhân, nhất là với những người nghèo khó, bệnh tật, côi cút, cơ nhỡ, đau khổ, vì những người đó chính là Đức Kitô bị bỏ rơi.”Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" ( Mt 25, 35 - 36 ).
Cầu nguyện
Để có thể sẵn sàng tỉnh thức theo Chúa, thì luôn cần đi đôi với việc cầu nguyện. Đây là phương thế quan trọng và cấp bách để liên kết mật thiết với Đức Giêsu, Nguồn Sống, nguồn hồng ân vô tận. Cầu nguyện như mạch máu lưu thông trong cơ thể, đem dưỡng chất nuôi sống các bộ phận. Bởi vì “Thầy là cây nho, chúng con là ngành nho. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, thì kẻ ấy sinh quả, vì không có Thầy chúng con không thể làm gì được” ( Ga 15, 5 ).
Từng giây phút, biết bao hồng ân đổ tràn đầy, được sống an toàn, được sức khỏe, được làm việc, sinh hoạt, thì người Ki tô hữu càng cần cầu nguyện để tỏ lòng biết ơn, cảm tạ và ngợi khen. Hơn nữa, khi gặp sự khốn khó, thì tiên quyết chạy đến với Chúa, khẩn khoản nài van, hay phó thác, dâng lên Ngài những đau khổ, gian nan, thử thách. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” ( Rm 12, 12 ).
Sắp bước vào Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, chớ gì tất cả tín hữu Kitô nhìn lại cuộc đời trầm luân bất nghĩa, bất tín, bất trung, trong suốt bao năm tháng, hầu thật lòng ăn năn, sám hối, canh tân đời sống, đừng tiếp tục nhẫn tâm phụ lòng quảng đại vô biên của Chúa.
“Con nhìn thấy những giọt nước lã chã rơi trong một chiều đông. Mỗi ngày bao nhiêu người cùng vào cõi đời đời, như hạt nước kia không ai để ý, và một giây phút nào đó, một hạt nước rơi ấy chính là con” ( Đường Hy Vọng, số 666 ).
Lạy Chúa Giêsu chúng con nặng nề xác thịt, hay ngủ vùi trong thú vui trần tục, hay mê man, chìm đắm trong những cám dỗ phù phiếm chóng qua. Xin Chúa thương xót thức tỉnh chúng con, luôn sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi, luôn chuẩn bị tươm tất cả xác lẫn hồn về với Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, gìn giữ chúng con luôn trung thành sống đạo, nhất là luôn tỉnh thức và cầu nguyện, để luôn sẵn sàng nghe tiếng Chúa gọi về. Amen.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong chương đầu của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” MV 1-C141 Luong
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong chương đầu của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: Đừng sợ. Đó là lời Chúa mời gọi nhiều lần với những người Ngài đã tiếp xúc.
Thực vậy, thiên thấn đã nói với Mẹ Maria: Đừng sợ. Cũng như đã nói với thanh Giuse trong giấc mộng: Đừng sợ. Ngài cũng đã nói với các môn đệ, đặc biệt với Phêrô trong những trường hợp khác nhau, chẳng hạn như khi mặt biển dậy sóng: Đừng sợ. Hay khi Ngài đã sống lại: Đừng sợ. Sở dĩ Ngài phải lặp đi lặp lại như vậy là vì Ngài biết rằng các ông đã sợ.
Phải, các ông đã sợ khi Ngài bị bắt. Các ông đã sợ khi Ngài phục sinh. Các ông họp mặt mà cửa thì đóng kín. Lời nói ấy của Chúa Giêsu cũng đã được Giáo Hội và Đức Thánh Cha lặp lại. Thế nhưng, chúng ta đừng sợ cái gì?
Xin thưa: Chúng ta đừng sợ sự thật của chính mình. Thánh Phêrô đã sống cái kinh nghiệm bản thân của sự thật đó, khi ông nói cùng Chúa Giêsu: Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi. Không phải chỉ mình Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều biết rằng sau câu nói ấy của Phêrô, Chúa Giêsu đã bảo ông: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Tuy nhiên, để đứng vững và ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải hết lòng tin tưởng và hy vọng vào quyền năng của Chúa, đồng thời phải yêu mến Ngài hết tâm hồn, quy hướng mọi khả năng để phục vụ Ngài, bởi vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin tưởng vững mạnh. Không có niềm hy vọng dạt dào. Không có lòng mến bao la thì chẳng ai có thể đứng vững được trước những hiểm nguy, gian nan và thử thách của cuộc đời. Bởi vì bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy nhiểm là trốn tránh, là ẩn núp, là nằm rạp xuống, là thu mình nhỏ lại, như muốn mình tan biến để những cơn nguy hiểm không đụng chạm đến. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại bảo chúng ta: Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, để những lo âu của cuộc sống không đè bẹp chúng ta và để cho chúng ta có thể niềm mở với hết mọi người, nhất là những người thân yêu trong gia đình, đồng thời để chúng ta có được một cái nhìn lạc quan trước mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố đau thương nhất, bởi vì có Chúa nâng đỡ, chúng ta sẽ không còn sợ hãi chi. Với niềm tin yêu và phó thác, thì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật MV 1-C142
Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng: Mùa của chờ đợi và hy vọng.
Mỗi lần mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất ta lại được mời gọi hướng lòng đến sự xuất hiện lần thứ hai của Chúa. Ngày Chúa đến lại lần thứ hai đó cũng chính là ngày mà chúng ta, mỗi người chúng ta cũng dù muốn dù không cũng phải tính sổ với Chúa.
Và rồi, chưa nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang thì ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta là một ngày hết sức bất ngờ, ngày mà chẳng ai có thể ngờ đến được. Vào ngày nay, ta phải chiết tính và phải thanh toán cho Chúa tất cả những gì Chúa đã trao ban cho chúng ta từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Ngày ấy như thế nào, ngày ấy sẽ là ngày vui mừng hân hoan hay là ngày kinh hoàng, điều đó hoàn toàn tùy thuộc thái độ và cách sống của mỗi người ngay ngày hôm nay.
Đặt mình vào dân Do Thái xưa, ta thấy dân quá vất vả để chờ đợi Đấng Cứu Độ trần gian đến thế giang trong thời gian quá dài. Cũng chính vì sự chờ đợi này đã giúp họ có niềm tin, niềm hy vọng, niềm trông cậy để họ vượt qua những thử thách đổng thời giúp họ điều chỉnh lại thái độ sống của mình.
Sự chờ đợi đó được Isaia nói lên qua tâm tình của ông: Lạy Đức Chúa, Ngài là cha chúng con, là Đấng cứu chuộc chúng con, tại sao Ngài lại để chúng con xa đường lối Ngài, tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá chẳng còn biết kính sợ Ngài?
Chính trong sự chờ đợi dài đăng đẳng như thế này dân Israel ý thức được rằng chình vì tội lỗi của họ, vì sự ngỗ nghịch cứng lòng của họ, và cũng vì sự quay lưng lại của họ với Thiên Chúa khiến cho họ phài trăm ngàn đau khổ:
Tất cả chúng con đã trở nên như đồ nhiểm uế, các việc làm của chúng con chỉ như chiếc áo dơ bẩn, và tội ác chúng con đã phạm đã khiến Ngài ngoảnh mặt làm ngơ.
Chính khi họ mặc lấy tâm tình khiêm nhường như thế, họ đã tha thiết nài xin Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan và Chúa đã đến như lời họ nguyện xin.
Cũng vì tội lỗi từ nguyên tổ loài người đến tội lỗi của bao thế hệ con cháu, đã khiến cho cửa trời như bị đóng lại, mối dây liên hệ với Thiên chúa như bị cắt đứt, nay dân Chúa đang nài xin Chúa xé trời mà ngự xuống để giải thoát họ.
Thiên Chúa không dửng dưng, Thiên Chúa không mãi đứng xa xa để nhìn con người đau khổ trong tội lỗi. Chính vì thế khi đến thời viên mãn, Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế để đồng hành, để yêu thương, để chữa lành và để cứu con người khỏi phải án chết và ban tặng cho con người sự sống mới của Thiên Chúa.
Đức Giêsu chính là Người Con ấy, Ngày đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát, băng bó những tâm hồn bị thương tích, công bố năm hồng ân và ngày cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những ai đón nhận Ngài và tin Mừng của Ngài cùng sống theo những điều Ngài hướng dẫn thì được cứu độ, được chia sẻ hạnh phúc làm con Thiên Chúa với Ngài.
Thánh Phaolô trong thư gửi cho cộng đoàn Corintô đã diển tả điều đó khi nói rằng: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chuá Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Thánh Phaolô đã mời gọi mọi người luôn ý thúc rằng mình đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc, được nghe Lời Chúa, được hiểu biết màu nhiệm Thiên Chúa, được ơn Chúa trợ giúp và làm cho nên phong phú sung mãn thì cần phải ăn ở cho xứng đáng cho đến ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai, phải sống làm sao để không ai có thể trách cứ được anh em điều gì cho đến ngày vinh quang Chúa tỏ hiện.
Chúa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang với quyền năng của một vị thẩm phán, đó là điều Đức Giêsu đã khẳng định và là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Trong Tin mừng đã nhiều lần Chúa nói đến ngày này, ngày Chúa sẽ là Đức vua phân biệt người lành và kẻ dữ như người mục tử phân biệt chiên ra khỏi dê, Ngày Người trở lại như ông chủ trở về đòi các đầy tớ tính sổ và nộp cả vốn lẫn lời. Chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng Ngài lại không hẹn giờ, vì thế, cuộc trở lại lần thứ hai là cuộc trở lại trong bất ngờ, và Ngài cảnh báo chúng ta: Anh em phải canh thức vì anh em không biết khi nào chủ nhà sẽ đến. Con người luôn để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, mê ngủ hoạc là chè chén say sưa bỏ bê công việc, như câu chuyện Chúa kể hôm nay.
Người chủ kia trẩy đi phương xa và trao quyền lại cho đầy tớ mỗi người một việc và ra lệnh cho họ phải canh giữ và tỉnh thức. Mỗi người đều có công việc riêng của mình và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều do ông chủ là Thiên Chúa trao cho, mà mỗi người phải hết mình và tận tâm để chu toàn.
Qua lời dặn dò, ông muốn những người đầy tớ này không chỉ giữ nguyên vẹn an toàn, mà còn phai làm việc để sinh lời những đồng vốn ông trao gửi. Ông sẽ trở về có thể là chập tối, lúc nửa đêm hay lúc gà gáy về sáng, ông không muốn thấy đầy tớ của ông mê man say ngủ, mà ông muốn họ phải tỉnh thức, thắp đèn chờ đón ông. Tinh thức, thắp đèn, chờ đón, đó là một thái độ chờ đợi trong sẳn sàng và chủ động làm việc chứ không phải là ủ rũ thụ động chờ đợi trong mòn mỏi.
Canh thức là điều chúng ta luôn được nhắc nhở và tự nhắc nhở vì lẽ đó là bổn phận, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Nhung, d, song cũng lại là điều chúng ta dễ quên nhất. Biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đến bất cứ lúc nào, song chúng ta vẫn bị bất ngờ. Chính sư lôi kéo của thế gian làm cho chúng ta quên ngày chúng ta phải trở về, nhiều người đã sống như thể mình sẽ không bao giờ phải chết hoặc là tránh né không dám nhắc đến ngày phải trở về, vì thế họ để cho công việc, tiền bạc, của cải chiếm hết thời gian và những lo toan của họ, khiến họ không còn giờ để lo cho Ngày Chúa đến với mình nữa.
Nhiều người đã quên mất thân phận của mình chỉ là một người đầy tớ, một người quản lý được Chúa trao cho tài sản để sinh lời cho Chúa, mà lại coi mình như là ông chủ bà chủ và ngủ mê trong trong công việc của mình, lo hưởng thụ và không lo làm lời những đồng vốn, những nén bạc Chúa trao hoặc lại đem đi chôn giấu.
Hôm nay, ta được Chúa lại đánh thức ta. Đơn giản vì ta có khi thức nhưng không tỉnh. Có khi ta lại sống trong trạng thái mơ mơ ảo ảo và ta không biết đâu là cùng đích cuộc đời. Sống nhưng ta không xác định được cái gì là bền vững, cái gì là mau qua, đâu là hạnh phúc thật và đâu là ảo ảnh.
Hạnh phúc thật của chúng ta là Thiên Chúa và Nước Trời, mọi sự ở trần gian: tiền bạc của cải danh vọng quyền lực rồi sẽ qua mau, chỉ có Thiên Chúa là bển vững và hạnh phúc ngài ban là vĩnh cửu. Những ai còn đang mê ngủ, hảy tỉnh dây để điều chỉnh cuộc sống của mình của gia đình mình đi cho đúng đường của Chúa thì mới có thể đạt được hạnh phúc thật.
Nhiều bậc làm cha làm mẹ vẫn đang mê ngủ trong sự lười biếng của mình, ngủ mê trong khối tài sản của mình, lấy lý do bận rộn để bỏ quên việc canh thức cho chính mình và cho gia đình mình. Là chủ của gia đình, ta ãy canh thức bằng cách sắp xếp và điều chỉnh lại nếp sống đạo đức của cả gia đình bằng việc giúp nhau lãnh nhận Bí tích, tham dự Thánh lễ, rước lể, bằng đọc kinh cầu nguyện và đọc Lời chúa mỗi ngày.
Ngày mỗi ngày, ta thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình, vì gia đình và con cái chính là tài sản quý giá nhất mà Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta, hãy làm cho gia đình trở nên phong phú và đầy tình yêu thương. Hãy canh thức đừng để cho sự nghi kỵ và ích kỷ tham lam nó làm đổ vỡ tình nghĩa gia đình giữa cha mẹ và con cái giữa anh em ruột thịt, đừng để cho đồng tiền nó cướp đi hạnh phúc và hơi ấm của gia đình, nó gây chia rẽ trong gia đình trong anh em, láng giềng.
Với người trẻ, Lời Chúa mời gọi các bạn canh thức, tức là canh chừng đừng để mình ngủ quên trong xã hội hưởng thụ hôm nay. Với tất cả công việc, tương lai của ta và cả danh vọng địa vị sẽ để làm gì nếu ngay đêm nay Chúa là ông chủ đòi ta tính sổ cuộc đời.
Hãy canh thức đừng để mình rơi vào tình trạng nghiện ngập bê tha, ăn chơi buông thả, đừng quên mình là người Công giáo, người con Chúa.
Ta đừng nghĩ rằng mình còn trẻ thì ngày ấy chưa đến, sẽ không phải chết, đừng sợ nghĩ đến cái chết, vì khi biết nghĩ đến ngày mai mình phải chết sẽ giúp cho mình biết sống tốt hơn và mỗi ngày sống hãy sống yêu thương cho đầy tràn, hãy sống cho có ý nghĩa và hãy sống có ích cho chính mình, cho đời, hãy sống như thể ngày mai mình sẽ phải chết, để mình khỏi mê ngủ và không uổng phí cuộc đời vào những chuyện mau qua.
Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản MV 1-C143
Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.
- Đây là ông A. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.
Ông ta bước đến xác thứ hai:
- Đây là Bo. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.
Đến cái xác thứ ba:
- Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
- Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?
- Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười!
Chết có muôn ngàn kiểu. Vui quá cũng chết. Buồn quá cũng chết. Không hẳn già mới chết mà có khi mới sinh cũng chết. Không hẳn bệnh mới chết mà có khi đang khỏe mạnh cũng lăn ra chết. Chết cũng không quy định nơi chốn. Có người chết ở nhà và cũng có người chết đang đi đường. Có người đang nằm viện nhưng cũng có người đang trên công trường. Nơi chốn và cách thức chết xem ra chẳng có một quy định nào dành cho con người.
Thế nhưng, có một điều chung cho con người là ai cũng phải chết. Cái chết là quy luật tất yếu của đời người. Sinh – lão – bệnh – tử. Có người còn cho rằng con người sinh ra để tiến về cái chết. Mỗi một ngày sống là tiến về cái chết gần hơn.
Hôm nay, Chúa Giê-su còn nói đến ngày cánh chung của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Vũ trụ có khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc. Sự sống con người tồn tại trong vũ trụ cũng kết thúc cùng với ngày cánh chung của vũ trụ. Ngày ấy sẽ đến với những dấu chỉ kinh thiên động địa. Ngày ấy sẽ san bằng mọi công trình do con người làm ra. Ngày ấy sẽ san bằng mọi giai cấp, chủng tộc. Ngày ấy là sự kết thúc cuộc sống hữu hình để bước qua một trang sử mới trong sự sống siêu nhiên. Con người sẽ bước qua một cuộc sống thần linh. Sự sống của linh hồn bất diệt. Sự sống đời đời ấy với hai thái cực. Một là sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa. Hai là sống lại để bị trầm luân hỏa ngục đời đời.
Song le, thưởng hay phạt đều tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường hy sinh từ bỏ những niềm vui bất chính, những thú vui tội lỗi để sống có trách nhiệm với bổn phận thì đời sau sẽ là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn. Ngược lại, sẽ chịu hình phạt đời đời khi ta cố tình sống buông thả tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm và gây đau khổ cho tha nhân.
Thế nên, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức thân phận mỏng dòn của mình để trông cậy vào ơn Chúa. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa ngã trong những đam mê tội lỗi nhưng luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm hôm nay liên quan trực tiếp đến sự quang lâm của Con Người, chấm dứt vòng MV 1-C144
Đoạn Phúc Âm hôm nay liên quan trực tiếp đến sự quang lâm của Con Người, chấm dứt vòng thịnh suy của thời gian và thiết lập Ngày Quang Vinh của Chúa (Chúa Nhật là biểu tượng, đồng thời là tiền diễn Ngày đó). Chọn bản văn này cho thời kỳ chuẩn bị lễ Giáng Sinh, Giáo Hội muốn lưu ý chúng ta đến sự kiện Chúa Giáng Sinh mở màn cho một lịch sử sẽ kết thúc trong huy hoàng rực rỡ, như chúng ta có thể đoán trước. Sự Chúa sinh ra, thời thơ ấu của Chúa đưa đến kết quả là tôn vinh tính loài người trong Chúa. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử ấy có xen lẫn những thảm kịch của tự do. Những kẻ được tham gia tôn vinh Đức Kitô là những kẻ đã cẩn mật canh thức, vì thế giữ vững được lòng trung thành. Họ chiến đấu chống sự dữ, vì sự dữ là thất bại của tự do.
Như vậy, Đức Kitô làm nổi bật khía cạnh cá nhân của một biến cố chung, là sự tận cùng thế giới chúng ta đang sống. Ngày nay, nhiều người muốn tổ chức thế giới như thể xem thế giới là bất diệt. Họ cũng cho rằng không cá nhân nào khỏi chết, tuy nhiên nhân loại gồm những cá nhân chìm biến trong đó thì bất diệt. Đức Giêsu nói: Thế giới trong hình thái hiện nay sẽ qua đi. Mỗi người tin, trong cuộc đời hiện tại, phải canh thức và cầu nguyện vì chính cá nhân mình chịu trách nhiệm về số phận vĩnh cửu của mình.
Đối với mỗi người, ngày giờ chết sẽ đến bất chợt, dù có dự đoán. Cũng vậy, đối với nhân loại, ngày tận thế sẽ đến vào lúc không ngờ. Chúng ta tự hỏi, mình có trong số những kẻ trông thấy ngày tận thế không? Chúng ta làm sao biết được? Dẫu thế nào đi nữa, chúng ta biết chắc chúng ta sẽ chết. Chúng ta phải chuẩn bị kỹ cuộc gặp gỡ riêng với Chúa, như thể ngày mai sẽ tận thế. Điều quan trọng là lúc gặp Chúa chúng ta có thể đứng thẳng trước Con Người, cách rất khiêm nhượng đơn sơ, hy vọng được Chúa đón nhận vì mình đã hết lòng ăn ở hiếu thảo, không bị Chúa xét phạt.
Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi, Cầu xin hãy mưa Đấng Thiên Sai, Chúa ơi, nghe lời MV 1-C145
Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi, Cầu xin hãy mưa Đấng Thiên Sai, Chúa ơi, nghe lời van thiết tha! Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ.
Lời nguyện cầu thiết tha nhắc tôi một năm phụng vụ mới đã tới. Một mùa Vọng nữa lại về. Giữa cái se lạnh của ngày lập đông lại có những giây phút hân hoan đợi chờ. Ngày Lễ Giáng Sinh sắp đến. Không gian như hơi giao động giữa từng cơn gió, nhưng vẫn ấm biết bao khi nghe văng vẳng bài thánh ca mừng Chúa ra đời. Không hiểu sao trong tất cả các mùa phụng vụ, tôi thích nhất mùa Vọng.
Nhưng hình như vẫn còn một thứ trái nghịch nào đó với nỗi chờ đợi mà nay đã thành quen thuộc trong nếp sống đạo của mình: thay vì hướng đến một sự gì sẽ xảy ra trong tương lai, tôi lại chỉ ngóng về một biến cố đã qua. Thành ra vọng mà không phải chờ; sống mùa Vọng mà chỉ như một cuộc tưởng niệm quá khứ. Thế nên Lời Chúa trong ngày đầu tiên của năm phụng vụ mới đã hướng tôi về với ý nghĩa căn bản của mùa Vọng: kỷ niệm ngày Chúa đã đến để hướng lòng về ngày Chúa lại đến.
Nhưng phải chăng Chúa sẽ đến trong hình hài đơn sơ của một trẻ thơ, được bọc trong khăn mỏng, nằm trong máng cỏ, có các thiên thần chầu chực và các mục tử bao quanh như cách đây hai ngàn năm? Chắc chắn không phải vậy. Trái lại, “Ngài sẽ đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả” với “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Dưới đất thì các dân buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Các tầng trời rung chuyển. Người ta kinh hồn khiếp đảm, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ” (Lc 21:25-27).
Cách mô tả theo truyền thống Khải Huyền trên đây không hoàn toàn phải xảy ra như vậy. Nhưng đó chỉ là cách mượn lại những hình ảnh văn chương đã có trong các sách Daniel và Isaiah để diễn tả một điều: thời điểm cánh chung của thế giới, ngày Đấng Cứu Thế ngự đến để viên toàn chương trình cứu chuộc và thánh hoá con người. Và như thế người tín hữu được mời gọi vọng về ngày đó, chứ không phải vọng ngày Giáng Sinh.
Người ta thường rơi vào một trong hai thái độ chờ đợi: tích cực hay tiêu cực. Người chờ đợi tiêu cực luôn ở trong trạng thái thụ động. Như một người chờ đợi xe bus, chỉ biết đứng trông, chờ mong chiếc xe ghé trạm. Trong khi đó, người có thái độ chờ đợi tích cực sẽ như gia chủ, bận rộn sắp xếp, sửa sang phòng ốc, chuẩn bị đón tiếp quan khách ghé thăm.
Bước vào mùa Vọng với thái độ trông chờ tích cực chính là lối đường mà Hội Thánh mời gọi. Dù rằng đất trời rung chuyển, dù cho thiên hạ âu lo, người Kitô hữu vẫn hãy “đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã gần đến” (Lc 21:28). Người tin Chúa Giêsu Cứu Thế không thể nào lại sợ hãi Ngài trở lại trong vinh quang. Họ cũng không thể xếp xó công việc, ngồi đó ngóng trông mà lơ là bác ái.
Tín hữu thành Thessalônica đã một lần rơi vào cảnh ngộ đó. Họ cứ tưởng Chúa gần đến lắm rồi. Và hậu quả là ăn không ngồi rồi, chểnh mảng công việc, tội lỗi nảy sinh. Thánh Phaolô đã phải lên tiếng răn bảo: càng trông chờ Chúa anh em càng phải “tràn đầy lòng thương yêu nhau… để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến cùng với tất cả các Thánh” (1 Tx 3:12-13).
Thế ra sống tinh thần trông đợi Đấng Cứu Thế không gì tích cực và ý nghĩa hơn việc tỏ bày đức ái.
Không có đợi chờ chân thành nào lại không hàm ẩn một cân lượng của yêu thương nhung nhớ. Vì có yêu mới nhớ, có thương mới chờ. Thế nên khi cất lên lời ca “Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương. Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ” đã như một lời khẳng định chỉ có Thiên Chúa Tình Yêu mới lấp đầy mọi khát vọng yêu thương của con người. Lời khẩn cầu chờ mong Chúa đến và nỗ lực thương yêu đã như đan quyện vào nhau mà làm nên bản sắc độc đáo của mùa Vọng.
Tôi cứ lầm tưởng mình đang đợi Chúa đến, nhưng đúng hơn, Ngài đang chờ tôi về. Chúa đã đến cách đây 2000 năm. Bước chân Ngài vẫn trải khắp trong từng phút giây và nơi mọi ngóc ngách của đời tôi. Ngài chờ đợi tôi như người cha trông mong đứa con hoang trở về trong vòng tay thân ái.
Không ai sống mùa Vọng đúng nghĩa bằng Thiên Chúa. Tình yêu nơi Ngài đã làm nên nỗi nhớ. Nhớ day dứt người con xa vắng mù khơi. Càng nhớ lại càng mong. Và nỗi mong đã khiến Ngài không ngừng tìm đến với nhân loại.
Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh phải là thời điểm nhắc tôi về một Tình Yêu đã đến, đang đến và sẽ đến. Tình yêu đó không ngớt mời gọi, chờ đợi ngày tôi trở về để “se nên chữ đồng” và để “kết nghĩa đất trời yêu thương.”
Đêm 15 tháng tư năm 1912, chiếc tàu khổng lồ titanic đang vung vút chạy trên cùng biển Bắc MV 1-C146
Đêm 15 tháng tư năm 1912, chiếc tàu khổng lồ titanic đang vung vút chạy trên cùng biển Bắc Đại Tây Dương… Mọi người vững dạ an tâm vì đang ở trong một chiếc tàu to lớn vĩ đại, nên tha hồ đàn hát, nhậu nhẹt, vui chơi…
Bỗng tàu đụng vào tảng băng vỡ tan chìm xuống đáy biển, hơn 1.500 người thiệt mạng !...
***
Nếu có mặt chúng ta trong tàu lúc chìm xuống biển, chúng ta làm gì? Đàn hát nhậu nhẹt chăng?.. Thật đúng như “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” chúng ta. Ngày chúa đến trong uy nghi vinh hiển cũng thế, liệu chúng ta có “đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì được Chúa giải thoát, hay ngã quỵ và gục đầu xuống vì phải khốn khổ muôi đời. Thế nên chúa mới bảo chúng ta ngay từ hôm nay: “Hãy đề phòng, chớ để lòng mình đắm say lửa tửu sắc, đa mang sự đời”…
2. Hãy tỉnh thức cầu nguyện
Tại Hollywood có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh cho anh, bác sĩ nói: Tình trạng sức khỏe của anh rất nguy kịch, cần giải phẫu ngay mới hy vọng cứu được, và cuộc giải phẫu có thể kéo dài 36 tiếng đồng hồ.
Nghe bác sĩ nói thế, người nhà của tài tử đều lo buồn khiếp vía, nhưng riêng anh, anh vẫn bình thản đi vào phòng giải phẩu, làm cho mọi người ngạc nhiên.
Sau khi sức khỏe bình phục, người nhà mới hỏi: Lúc sắp giải phẩu sao anh không lo sợ gì hết vậy? Anh không sợ chết à? Anh thú thật:
- Trong 36 tiếng đồng hồ đó, tôi học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi. Tôi chẳng hề sợ chết, vì trước đó mỗi ngày tôi đều cầu nguyện với Chúa, để phòng khi gặp gian nan nguy hiểm, Chúa cứu giúp tôi…” (Theo cha M. Linnk).
***
Ước gì ngày Chúa đến trong vinh quang, Chúa cũng thấy chúng ta hành động như anh tài tử điện ảnh này.
3. Tận thế
Vào đầu tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ ở Nam Hàn tập hợp về các nhà thờ để chờ đón chúa quang lâm và phán xét mọi người. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này thì giờ tận thế sẽ xảy ra đúng nửa đêm 28 tháng 10. Trong khi chờ đợi, họ trương các biểu ngữ, đại để nói: “Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”.
Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát được đặt trong tình trạng báo đông, đề phòng một cuộc tàn sát tập thể, nếu ngày tận thế không xảy ra; vì mọi người đã bỏ cửa nhà tài sản để chuẩn bị biến cố này.
Cuối cùng, ngày tận thế đã không xảy ra… (Theo sách “Như lòng Chúa khoan dung”)
***
Chớ gì mọi người biết lìa bỏ tội lỗi, và tính nết xấu, để chuận bị cho ngày Chúa quang lâm như nhóm tín hữu mê tín trên đây đã bỏ hết tài sản đợi ngày cánh chung. Và vì Chúa đến bất ngờ nên việc chuẩn bị này phải thực hiện hằng ngày, chứ không phải vào ngày tháng nào như số tín đồ lầm lạc nầy.
4. Tỉnh thức đích thực
Trong truyện các thánh ẩn tu nơi sa mạc ở các thế kỷ đầu Kitô giáo, có câu chuyện sau:
Một ông vua vừa lên ngôi muốn vào sa mạc tìm gặp các vị ẩn tu để học hỏi nhân đức cai trị dân. Ông ăn mặc giả làm thường dân, đến trước lều của một vi ẩn sĩ. Vừa mở cửa, vị ẩn sĩ đã biết nhà vua, nhưng giả làm như không biết là ai, và đón tiếp như mọi người. Nhà vua thăm sức khỏe các tu sĩ và hỏi các vị đang làm gì? Vị ẩn sĩ trả lời:
- Tất cả chúng tôi luôn cầu nguyện cho anh và mọi người.
Nhà vua nhìn xung quanh túp lều không có gì, trừ cái giỏ đựng bánh mì khô. Và vị ẩn sĩ mời vua:
- Mời anh ăn.
Nói xong, ngài cầm lấy bánh mì khô nhúng nước lã trao cho nhà vua. Ăn xong, nhà vua hỏi:
- Ngài biết tôi là ai không?
Vị ẩn sĩ đáp không một chút do dự:
- Chỉ có Chúa mới biết thôi.
Nhà vua liền tiết lộ tông tích của mình. Lúc đó vị ẩn sĩ mới cúi chào. Nhưng nhà vua đỡ dậy và nói:
- Ngài thật có phước vì không phải lo lắng chuyện đời. Còn tôi phải lo đủ thứ việc cho dân.
***
Nhà vua lo đủ thứ việc cho dân. Mùa Vọng, Chúa chỉ bảo chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện để Chúa đến cứu chúng ta. Chúng ta có lo thực hành chưa? Người đang đến trong từng giây phút của cuộc sống mỗi người chúng ta. Tỉnh thức và cầu nguyện là sống sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Nhà vua trong câu chuyện trên đây đã tìm thấy ý nghĩa của sự tỉnh thức và cầu nguyện với các ẩn sĩ đó.
5. Tinh thần cầu nguyện
Cha Anthony de Mello, giảng viên nổi tiếng người Ấn Độ kể:
Một hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà hai bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả. Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.
Tiếc thay khi dọn cơm lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách, vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần:
- Vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, tôi lo cầu nguyện nên quên chú tâm vào việc nấu ăn.
Vị khách mỉm cười đáp:
- Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh.
***
“Câu nói của vị khách diễn tả một sự thật rất thực tế. Cầu nguyện không phải bỏ trách nhiệm, cũng không ỷ lại vào quyền năng Thiên Chúa rồi khoanh tay lười biếng. Cầu nguyện giúp cúng ta đạt được những gì mà sức hạn hẹp của chúng ta không thể thành công được.
Mùa Vọng, Chúa kêu gọi chúng ta cầu nguyện để xin Chúa giúp chúng ta thấy thân phận hèn mọi tội lỗi của mình và hỗ trợ chúng ta sám hối canh tân, để được đứng vững trong ngày Chúa đến thẩm xét.
Nước Mỹ này có nhiều tờ báo nối tiếng nhưng bên cạnh cũng chẳng thiếu những tờ lá cải đăng MV 1-C147
Nước Mỹ này có nhiều tờ báo nối tiếng nhưng bên cạnh cũng chẳng thiếu những tờ lá cải đăng tin giật gân để thỏa tính tò mò của độc giả. thí dụ một tờ báo Mỹ đã đăng cái tin sau đây: "Ngày 20 tháng 6 năm 1997 quân đội Mỹ khám phá ra 1 đĩa bay bị đâm nhào xuống vùng sa mạc New Mexico. Họ lôi ra 1 người hành tinh từ trong đĩa bay và bí mật đưa về Washington DC để thẩm vấn. Người hành tinh này rất thông minh, gấp 500 lần trí thông minh của con người. Hắn ta học tiếng Mỹ trong vòng 24 giờ là có thể nói lưu loát. Hắn ta sống trong một hành tinh rất xa trái đất. Dân tộc của hắn cũng là những thụ tạo Chúa dựng nên nhưng họ cũng ham thích giầu có, quyền lực và phạm tội xác thịt nên dù bị Chúa cảnh cáo nhưng dân tộc hắn vẫn cứ xúc phạm tới Chúa. Người hành tinh này nói Thiên Chúa nổi giận với các thụ tạo khắp mọi nơi chứ không riêng gì trái đất. Và Chúa đã hủy diệt 4,000 hành tinh rồi, trái đất này sẽ là kế tiếp. Tin cuối cùng người hành tnh này cho biết là ngày 11 tháng 1 năm 2000 trái đất này sẽ bùng cháy và bị phá hủy hoàn toàn".
Tin tạo ra quá giật gân nhưng 12 năm qua rồi chẳng thấy xẩy ra. Ai nói mình biết được ngày tận thế là nói dối vì chính Chúa Giêsu đã nói ngày giờ đó không ai biết được, cho dù các thiên thần. Tuy nhiên Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói ngày giờ đó không ai biết được, cho dù các thiên thần. Tuy nhiên Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói rõ trước khi tận thế thì sẽ có những biến cố vật lý thật khủng khiếp. Còn về tâm lý thì các dân tộc buồn sầu, lo lắng. Thế nhưng chung cuộc không phải là những cái ghê rợn đó, mà là Chúa Giêsu, nguyên thủy và cùng đích, của lịch sử, sẽ xuất hiện trong danh dự và quyền năng. Rồi Chúa mời gọi chúng ta hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi đã tới gần. Thiên Chúa không muốn nhân loại kết thúc ở trong tình trạng tiêu cực, sợ hãi, chán chường, nhưng ở trong một tâm tình trạng tiêu cực, sợ hãi, chán chường, nhưng ở trong một tâm tình hy vọng, can đảm, bình an vì Ơn Cứu Rỗi tới gần.
Cuối cùng Chúa kêu gọi chúng ta phải Tỉnh Thức và Cầu Nguyện nếu muốn hưởng ơn Cứu Độ.
- Tỉnh thức là một động từ Phúc âm nói lên sự sẵn sàng của một đầy tớ trung tín và khôn ngoan chờ đợi chủ về. Tỉnh thức: có nghĩa là đừng quá ham mê lạc thú đời này mà quên đi hạnh phúc đời sau; có nghĩa là đừng ngủ mê trong biệt thự êm ấm của cá nhân mình mà vô cảm trước căn lều rách nát của tha nhân; có nghĩa là đừng chỉ quan tâm tới chương trình bất toàn của con người mà hững hờ với chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa; có nghĩa là đừng quảng đại phạm tội lỗi nhưng hà tiện làm việc lành ; có nghĩa là đừng nuôn chiều thân xác mà bỏ bê linh hồn.
- Cầu nguyện giúp chúng ta thăng bằng cuộc đời. Có nghĩa là biết đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó. Thí dụ Thiên Chúa thì hơn con người, con người thì hơn con vật, linh hồn thì hơn thân xác, đời sau thì hơn đời này, vĩnh cửu thì hơn thời gian, thiên đàng thì hơn trần thế... Nói tóm lại nhờ cầu nguyện mà chúng ta khôn ngoan hơn , bình an hơn , hạnh phúc hơn.
Trong mọi sự thì Ơn Cứu Độ quan trọng nhất, chính vì lý do n ày mà Chúa Giêsu xuống thế. (Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Kinh Tin Kính). Chúng ta được hơn ma quỷ chỗ này. Chúng là các thiên thần phản loạn, nhưng một lần sa ngã là muôn đời trầm luân, chúng ta sa đi ngã lại mà Chúa vẫn cứu. Thật hạnh phúc cho nhân loại biết bao.
"Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững trước mặt Con Người" đứng vững ở đây có nghĩa là chúng ta được hưởng Ơn Cứu Độ.
Một cô gái đang đi trên vỉa hè đường Trần Hưng Đạo – Q. 5 Sài Gòn bất ngờ bị tên cướp từ sau MV 1-C148
Một cô gái đang đi trên vỉa hè đường Trần Hưng Đạo – Q. 5 Sài Gòn bất ngờ bị tên cướp từ sau lao tới giật giỏ ngã đập mặt xuống đường. (Hình ảnh do camera ghi lại ngày 23.11.2012). (Với cô gái là hoàn toàn bất ngờ).
Một cô bé chạy xe đạp trên đường đi học về, một chiếc xe tải chạy sau bất ngờ lao tới cán chết cô bé. Em chẳng bao giờ nghĩ: "Hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình". Cha mẹ em cũng chẳng nghĩ: "Con mình hôm nay đi học là mãi mãi không trở về", vì quá bất ngờ. Cuộc đời đầy dẫy chuyện bất ngờ xẩy đến với mỗi người.
Lời Chúa trong Tin Mừng Luca hôm nay nói đến, "Ngày ấy bất thần chụp xuống anh em" (Lc 21,35). Ngày không được báo trước. Đó là ngày mà diễn từ của Chúa về ngày cánh chung: "Những điều xẩy ra trên trời - dưới đất", biển gào sóng thét, các tầng trời rung chuyển, những dấu lạ, quyền lực bị lay chuyển, tất cả ám chỉ những sự kiện báo hiệu một điều quan trọng sẽ xẩy ra. Nhờ đó người ta sẽ biết được sự xét xử đang đến. Những điều ấy không phải là để "đe dọa" con người. Nhưng chính là loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu Độ đang đến. "Bấy giờ Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả" (Lc 21, 27). "Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì anh em sắp được cứu chuộc". Và để chuẩn bị cho ngày "Con Người đến". Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy " tỉnh thức".
Chắc hẳn đã ít nhiều lần chúng ta gặp hình ảnh người lính "Người bảo vệ" cầm súng đứng gác ở đồn bốt, hay ở cơ quan chính quyền. Người lính không thể ngủ nhưng tỉnh táo với mọi động tĩnh. Một sự trung thành tỉnh thức, dù đêm hay ngày, để gìn giữ an ninh. đó là hình ảnh của người lính chân chính. Là hình ảnh gợi lên suy tư về Lời Chúa mời gọi " Anh em hãy tỉnh thức & cầu nguyện" (Lc 21,36). Sự tỉnh thức được Chúa nói đến là phải đề phòng.
- Lối sống thứ nhất là chớ để lòng mình ra nặng nề bởi một cuộc sống hưởng thụ, vùi mình trong những đam mê "chè chén" chẳng màng đến tương lai, lẽ phải, chừng mực & coi việc "sống hưởng thụ" là tất cả.
- Lối sống thứ hai lại thái quá chạy theo những gì mau qua, kém giá trị "lo lắng sự đời" mà quên đi giá trị vĩnh cửu – đề cao vật chất mà bỏ qua giá trị tinh thần. - Tỉnh thức với cuộc sống thiếu niềm tin, đề phòng chính bản thân mình vì "ham mê sự đời" mà đánh mất tương quan với Thiên Chúa, không thực hành lối sống của người Kitô hữu thì "ngày ấy" bất thần chụp xuống làm cho "thất điên bát đảo".
Sự "Tỉnh Thức" được biểu lộ như Lời Chúa là:
- Cầu nguyện luôn – là luôn hiệp thông trọn hảo với Chúa, là luôn sống trong ân nghĩa Chúa để có thể đứng thẳng & ngẩng đầu khi Chúa đến. Khi cầu nguyện người Kitô hữu thêm vững mạnh, Người sống niềm tin sẽ được thoát khỏi tất cả những điều sẽ xảy ra trên thế giới. Người sống niềm tin có thể đứng vững trước mặt Con Người, đứng vững vì mình đang sống vô tội và thuộc về Chúa.
- Là từ bỏ những gì "nặng nề tội lỗi", làm tâm hồn không thể vươn lên cùng Chúa.
Lạy Chúa! Trong cuộc sống đầy cạm bẫy & mê lầm, xin giúp con "tỉnh thức" vượt qua những cám dỗ "say sưa sự đời này" để tâm hồn được thuộc trọn về Chúa, để có thể ngẩng đầu khi Chúa đến.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MV -C – Lc 21, 25-28. 34-36) trình thuật về ngày tận thế. Thánh sử MV 1-C149
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MV -C – Lc 21, 25-28. 34-36) trình thuật về ngày tận thế. Thánh sử Lu-ca chỉ lấy lại những hình ảnh văn chương đã có sẵn theo truyền thống Khải huyền. miêu tả thời cánh chung của vũ trụ có nhiều điềm lạ (“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” – Lc 21 25-26). Đó chỉ là quang cảnh làm hình nền cho việc tiên báo sự kiện Con Người quang lâm. Chính điều này mới là trọng tâm, và vì thế, tác giả rất chú trọng đến sự kiện cuối cùng này, và ngài đã mượn lại lời ngôn sứ Ða-ni-en trong một thị kiến (Đn 7, 1-14) để tường thuật: Thoạt tiên ngôn sứ thấy bốn con vật từ biển đi lên phá phách dữ tợn. Rồi ông thấy một Con Người hiện đến trong mây được trao quyền thống trị trời đất và các dân tộc (“Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến...”).
Những lời tiên tri này rất thích hợp để nói về ngày Chúa Ki-tô tái quang lâm. Người chẳng phải là Con Người đó sao? Cùng lúc Ðức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: bản tính nhân loại + bản tính thần linh. Hình ảnh một Con Người đến trong mây rất thích hợp để nói lên cả hai bản tính ấy nơi Người. Nhưng nếu chỉ viết “Con Người ngự giá mây trời mà đến” thì vẫn chưa đủ để diễn tả việc Người trở lại lần thứ hai, nên thánh Lu-ca phải thêm vào hình ảnh Con Người những lời chú thích cần thiết: “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến" (Lc 21, 27). Những lời chú thích này chỉ được dùng để nói về Ðức Giê-su Ki-tô sau ngày Phục Sinh. Và như vậy, tác giả muốn nói rằng: Khi Ðức Giê-su Ki-tô trở lại sẽ không như lần trước – lúc Người giáng sinh làm người trong thân thể một Hài Nhi bé bỏng và yếu ớt – mà Ngườii sẽ đến với uy quyền và vinh quang tuyệt đỉnh.
Thánh sử Lu-ca thừa biết rằng có nhiều suy nghĩ không cần thiết về ngày Chúa lại đến, nên ngài rất dè dặt trong việc trình thuật. Ngược lại, ngài chú trọng đến thái độ người tín hữu phải có cho ngày trọng đại ấy. Theo ngài, ngày ấy sẽ kinh khủng cho thiên hạ; nhưng đối với các tín hữu, đó là ngày cứu độ. Ngài nhắc nhở: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21, 28). Vâng, có lý nào những người tin thật Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, lại sợ hãi trước việc Người trở lại? Phải chăng chỉ có những kẻ không có hoặc đã đánh mất niềm tin, không còn sống theo niềm tin ấy? Do đó, tác giả mới khuyên ai nấy hãy sẵn sàng, đừng để ngày ấy đến chụp lấy mình như một cái lưới. Những kẻ chỉ lo chè chén say sưa và lo lắng sự đời, chắc chắn sẽ bị bất ngờ không kịp sửa soạn. Còn những ai vững niềm tin, luôn tỉnh thức và cầu nguyện thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Khi miêu tả sự tự tin của con người trước một biến cố nào đó, người ta thường dùng cụm từ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu”. Ngẩng cao đầu không phải là thái độ kiêu ngạo coi thường sự việc, mà chính đó là một cách biểu lộ một niềm tin vào chủ định của bản thân. Nếu Ki-tô hữu đã vững tin vào Người Con đã vâng lời Thiên Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình chết treo trên thập giá và phục sinh vinh hiển, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết đời đời; đồng thời tin vào những lời dạy bảo của Người về ngày Người sẽ quang lâm lần thứ hai, thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” vui hưởng hồng ân cứu độ. Ấy cũng bởi vì chính Con Người đã khẳng định: “Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12, 47).
Một cách cụ thể, muốn “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” khi Con Người quang lâm, thì đừng lo lắng sợ sệt thái quá để rồi “rút cổ, gục đầu” phó mặc cho số phận đẩy đưa. Chẳng có số phận nào cả, mà chỉ có những "Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng” cùng với những “Ki-tô giả” doạ nạt, lừa đảo người ta (Mc 13, 14-23) mà thôi. Không sợ hãi lo lắng thái quá, nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác để "Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”; mà phải là “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." (Lc 21, 34-36).
Tỉnh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp của ma mị quỷ quái thông qua những “Ki-tô giả, ngôn sứ giả”, đồng thời phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy. Vâng, nhất quyết "Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng." (Rm 13, 11-14).
Nói thì đơn giản, nhưng thực hành được mới là thiên nan vạn nan, vì vào những ngày ấy từ hiện tượng thiên nhiên đến tâm trạng con người không lúc nào được bình lặng. Hơn thế nữa, còn biết bao nhiêu “Đồ Ghê-Tởm-Khốc-Hại” hay “Ki-tô giả, ngôn sứ giả” cũng chẳng để yên cho con người có đủ tỉnh táo mà phòng vệ. Chính vì thế, nên phải “tỉnh thức và cầu nguyện”, vì đó là hai chiều kích tất yếu nhắm tới mục tiêu duy nhất là “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày cánh chung. Cầu nguyện xin Chúa ban Thần Khí để Người soi sáng cho hiểu biết tận căn sự chân thật và điều giả dối, đâu là người công chính, đâu là kẻ giả hình, đồng thời Người ban cho đầy đủ can đảm và dũng khí đối diện với mọi nghịch cảnh, thử thách nghiệt ngã, để sẵn sàng đón Chúa trong ngày Người trở lại lần thứ hai.
Thật ra, giáo huấn của Hội Thánh về việc Chúa trở lại rất trong sáng và đơn giản. Hội Thánh khuyên nhủ mọi Ki-tô hữu phải tin và sẵn sàng, tức là phải trông đợi trong hy vọng. Mùa Vọng là mùa trông đợi, mong ngóng, chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng "mọi ngày cho đến tận thế". Tuy rằng ngày Chúa quang lâm lần thứ hai chưa tới, nhưng nó có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Người.
Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng sinh trong năm Phụng vụ thành Mùa Vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ. Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ, xin tất cả "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ" (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy. Amen.
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất lạ của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng này Chúa MV 1-C150
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất lạ của Chúa Giêsu.
Trong bài Tin Mừng này Chúa nói với mọi người về ngày Chúa Quang Lâm hay ngày Chúa trở lại phán xét trần gian mà chúng ta quen gọi là ngày Tận thế. Ngày ấy chưa xảy ra nhưng chắc chắn nó sẽ xảy ra.
Chúa đã dùng những lời nói và những hình ảnh hết sức ấn tượng để nói về ngày này.
Đây chúng con hãy nghe lại vài câu: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến."(Lc 21,26-27)
Chúa bảo lúc đó người ta sẽ sợ đến hồn xiêu phách lạc.Thật là đáng sợ! Nhưng giữa cảnh sợ hãi đó, Chúa lại nói với chúng ta là những người con cái của Chúa những lời hết sức phấn khởi. Chúa bảo làm sao chúng con? Chúa bảo: "Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc"(Lc 21,28).
Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Chỉ có hai câu thật vắn tắt thôi nhưng chúng ta cũng thấy được ý muốn của Chúa đối với chúng ta thật lạ lùng. Chúa muốn chúng ta phải tin tưởng vào Chúa và sống anh hùng.
1. Đứng thẳng!
Chúa không muốn chúng ta sống bạc nhược run sợ trước mọi thử thách ở trên trần gian này. Chúa muốn chúng ta phải biết đứng thắng. Đứng thẳng là tư thế của của những anh hùng.
Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
- Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho thần linh chúng ta!
Người ta giục anh như thế.
- KHÔNG! anh trả lời...
Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng thắng và im lặng. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ rơi hương xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do!.
- KHÔNG. Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng thằng và tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy... Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng! Đúng là thái độ của một anh hùng
Và đây đây là câu chuyện có thật xảy ra thời Liên xô còn thống trị cả một vùng đất lớn bên Âu Châu. Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hung-ga-ri để trấn áp một cuộc bạo động, có một viên sĩ quan trẻ hung hăng trong tư thế một kẻ chiến thắng, đã tìm đến nhà của một vị mục sư.
Anh ta bước vào phòng. Đóng xập cửa lại, tay chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường và bảo ông mục sư:
- Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu có thể kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông và tôi, ông hãy thú nhận là ông không hề tin cái ông Giê-su nào đó là Con của Thiên Chúa...
Vị mục sư điềm tĩnh nhỏ nhẹ trả lời:
- Không thể được, tôi thật sự tin vào Người!
Viên sĩ quan rút súng ra và bảo:
- Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là sự dối trá, tôi sẽ nổ súng giết ông ngay lập tức!
Vị mục sư đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
- Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa!
Thật không ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư. Anh vừa khóc vừa nói:
- Xin lỗi ông, tôi chỉ muốn thử xem ông có trung thực hay không! Đúng thế, tôi cũng đã âm thầm lặng lẽ tin trong suốt nhiều năm qua như ông đã tin! Nhưng giờ đây, tôi đã khám phá ra rằng: có ít nhất một người dám chết cho Đức Tin của mình, chính ông, ông đã củng cố Đức Tin cho tôi!
Đó! Những người theo Chúa phải sống anh hùng như thế.
2. Tiếp theo Chúa bảo chúng ta: Hãy ngẩng đầu lên!
Dale Carnegie trong tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn Quảng Ganh Lo Đi Và Vui Sống có thuật lại một câu chuyện rất nhỏ nhưng ý nghĩa của nó thì thật sâu sắc. Câu chuyện như sau: "Trong một nhà tù, hai người cùng đứng vịn tay vào song sắt; một người nhìn xuống chỉ trông thấy một bức tường trơ trụi, còn một người ngửa mặt nhìn lên trời, thì thấy những vì sao."
Hai người cùng một hoàn cảnh tù tội, cùng đứng trong một căn phòng, nhưng hai thái độ của họ đối với cuộc sống hoàn toàn khác nhau. Thái độ của người biết nhìn lên hoàn toàn khác với thái độ của người chỉ biết nhìn xuống.
Bước vào Mùa vọng hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta biết ngẩng đầu lên. Tại sao Chúa lại muốn chúng ta ngẩng đầu lên như vậy?
Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ngẩng đầu lên vì chúng ta thường cúi đầu xuống. Cúi đầu xuống để chỉ nhìn thấy những cái ở dưới đất. Chỉ khao khát, tìm kiếm những cái ở dưới đất và lấy làm thỏa mãn với những cái ở dưới đất, làm cho tâm hồn chúng ta tê liệt đến nỗi không còn đủ sức cất cánh lên cao, để khao khát, tìm kiếm những gì chân thật, vĩnh cửu là những cái tạo nên thực chất và ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời con người.
Hãy biết ngẩng đầu lên để nhìn thấy trời cao, thấy những vì sao sáng trên bầu trời bát ngát bao la. Trái đất nhỏ bé lắm chúng con. Hãy ngẩng đầu lên chúng ta mới được cuộc sống này thật đẹp và thấy được những việc lạ lùng Chúa làm cho chúng ta.
Ðây là câu chuyện của Jimmy Durante, một diễn viên hài được mời tham gia một buổi trình diễn để phục vụ những cựu chiến binh trong thế chiến thứ hai. Ông báo với ban tổ chức rằng lịch diễn của ông rất khít nên chỉ có thể tham gia diễn trong vài phút. Nhưng nếu họ cho phép, ông sẽ độc diễn một đoạn rồi đi ngay. Dĩ nhiên là ban tổ chức đồng ý.
Nhưng khi Jimmy lên sân khấu, điều thú vị đã xảy ra. Ðộc diễn xong ông vẫn đứng lại,.Tiếng hoan hô càng lúc càng lớn hơn và ông cứ đứng đấy trên sân khấu. 15, 20 phút rồi đến cả nửa tiếng. Cuối cùng ông mới cúi đầu chào lần cuối và rời sân khấu.
Tại hậu trường, có một người hỏi ông:
- Tôi ngỡ là ông sẽ đi sau vài phút chứ. Có chuyện gì xảy ra vậy?
Jimmy trả lời:
- Ðúng là tôi phải đi nhưng tôi sẽ chỉ cho anh thấy tại sao tôi lại ở lại. Anh hãy nhìn xuống hàng ghế trước xem. Anh có thấy 2 người đàn ông mỗi người đều bị cụt mất một cánh tay không. Một người mất cánh tay mặt. Người còn lại mất cánh tay trái. Vậy mà họ có thể vỗ tay được? Bạn hãy nhìn xem. Họ đang cùng nhau dùng bàn tay còn lại của mình để vỗ tay đấy. Họ làm điều đó một cách hết sức nhiệt tình.
Đẹp quá phải không!
Hãy ngẩng đầu lên để nhìn thấy những việc lạ lúng Chúa làm mà những người chỉ biết nhìn xuống không thể thấy nổi.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao ;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.