Sau những biến cố quá ư là đặc biệt đi kèm với việc truyền tin và sinh ra của Gioan và của Chúa Giêsu, tất cả đã trở lại yên tĩnh. Suốt trong ba mươi năm, người ta không nghe nói gì nữa. Cảnh cậu bé mười hai tuổi trong đền thờ không được ai nhắc tới. Những tiếng đồn thổi trong nhân gian về các điềm lạ quanh việc truyền tin đã bị quên đi từ lâu. Vì thế, khi vị tẩy giả xuất hiện và Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy đã gây ngạc nhiên không ít. Vị Tiền Hô vào cuộc trước, rồi sau đó mới tới Thày Chí Thánh.
1. Thời kỳ
Tin mừng đã đánh dấu thời kỳ này cách uy nghiêm và trang trọng. Những thời biểu lịch sử được nhắc đến ở đây che dấu một thảm kịch sâu xa:
‘Năm thứ mười lăm thời hoàng đế Tibêriô-Xêda’. Hoàng đế Augustô mà vì chiếu chỉ của ông, Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem thay vì Nagiarét, đã băng hà ngay vào lúc đó. Tất cả mộng ước mà vị hoàng đế Rôma xây dựng đã theo Ngài xuống mồ. Ngài đã không trở thành ‘vị cứu tinh nhân loại’ như người ta hy vọng ở ông. Các con trai ông cũng vậy, đều đã qua đời. Và như vậy, triều chính phải trao cho người ông nhận làm con nuôi, Tibêriô, con người bẳn gắt và đa nghi, nên ít người còn trông đợi ông sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Vinh quang của Rôma bắt đầu lạt dần, và trong cái khung nhà của hoàng đế đã có những tiếng gẫy răng rắc.
‘Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa’. Dưới những tiếng này, như muốn che đậy những biến cố đáng lưu ý. Trong thời gian trên, Hêrôđê, vị đại sư của người Do thái cũng đã chết. Sự thống nhất của vương quốc bị đổ vỡ…. chia làm bốn quận vương nhỏ. Dù cho các vị cầm quyền vẫn còn mang tước hiệu ‘vương’, nhưng đó chỉ là tia sáng mờ nhạt và phần đất quan trọng nhất, miền Giuđêa và Giêrusalem, đã bị mất cho dù tới lúc này bên ngoài vẫn mang bộ mặt tự trị. Vì thực ra người kế vị Hêrôđê, Archelaus đã do người Rôma đặt lên. Miền Giuđêa đã trực thiếp bị khuất phục quyền Rôma và được cai trị bằng một vị toàn quyền Rôma.
Trong pháo đài Antônia đã có những toán quân Rôma. Binh lính Rôma đi tuần trên đường phố và coi sóc miền này. Dân Chúa đã tùng phục dân ngoại và phải đóng thuế. Vẻ hào hùng và sự tự do đã mất.
Ngoài ra, Philatô còn là một cao uỷ cứng rắn và không biết kiêng nể. Để biết những chuyện xảy ra, ông đã cho một toán quân mặc thường phục, trang bị gậy ngắn, lẫn lộn vào dân chúng, rồi còn để quân sĩ của ông can thiệp thẳng thừng nếu cần… ông không hề nể vì gì tập tục Tôn giáo của người Do Thái. Ông bãi bỏ tuỳ ý và chỉ muốn làm giàu.
‘Hêrôđê làm quận vương xứ Galilêa, còn em ông là Philiphê làm quận vương vùng Iturêa và Tracônitiđê; Lisania làm quận vương xứ Abilêna’. Hêrôđê Antipas là người phóng đãng. Ông muốn làm thân với người Rôma và vì muốn tâng bốc, ông đã đặt tên cho công thự mà ông xây trên bờ hồ Giênêsarét là Tibêriađê, để tỏ lòng tôn kính hoàng đế Tibêrio, nhưng ông vẫn còn nể nang người Do Thái, còn dự các buổi lễ ở Giêrusalem hầu chứng tỏ mình đạo đức. Hơn nữa, ông còn có những đội quân bí mật dùng để chống lại sức mạnh này khác nếu thấy cần. Miền Galilêa nơi mà Chúa Giêsu hoạt động lại thuộc quyền nhân vật đáng buồn này.
Quận vương thứ ba là một người thân Hy lạp, hoà hoãn nhưng lại quá bình thường. Còn quận vương thứ bốn là một nhân vật không được biết đến. Như vậy, xứ sở thì bị phân chia, dân chúng thì bị trao vào cho các quan quyền chuyên chế chỉ nghĩ tới thân họ và cuộc sống xa hoa, tiện nghi của riêng họ. Chẳng còn gì vẻ lớn lao của một đất nước cựu trào. Vương miện đã rớt khỏi trán Israel.
‘Dưới thời thượng tế Anna và Cai pha’. Israel là một dân tộc tư tế. Đền thờ là nơi cần thiết nhất. Tư tế và vua chúa đều được Giavê xức dầu, đặt tên và trao phó việc phục vụ. Nhưng sự thánh thiện của chức Tư tế tinh tuyền đã mất đi. Vị thượng tế được gọi phục vụ trong cả cuộc đời, là nhân vật được thánh hiến trong dân chúng. Thế mà người Rôma lại không để ý gì đến tập tục này, họ tự gọi và đặt lên tuỳ ý họ. Sứ vụ thánh được trao phó cho dân ngoại và người ta còn có thể mua chức đó nữa. Hai vị thượng tế đã được đặt lên như thế đó: Anna và rể ông là Caipha. Anna đã lãnh trách vụ, rồi lần lần tới năm người con và bây giờ thì tới con rể ông.
Như vậy quyền thế tạm thời và thiêng liêng không còn nữa, và tất cả hình ảnh lịch sử được gợi lên bằng những hàng chữ này chỉ nói lên một kỷ niệm buồn của một dĩ vãng vàng son đồng thời với ảo ảnh hiện tại thất vọng hoàn toàn.
‘Lời Chúa được phán ra’. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa chỉ bắt đầu ở điểm mà khôn ngoan của con người sắp kết thúc. Khi sức mạnh của con người ngừng lại, sức mạnh của Thiên Chúa mới tỏ hiện. Ân sủng giả thiết phải có bản tính và liên kết với bản tính, nhưng không thể bị đầy đoạ ở đó. Lời của Thiên Chúa có thể được phán ở nơi và vào lúc mà người ta ít chờ đợi nhất.
Thiên Chúa có thể dùng Xêda và hoàng đế Rôma để thống nhất nhân loại, dùng con đường Rôma để dễ giảng truyền Tin mừng và để trao sứ điệp cho thế giới. Ngài cũng có thể dùng các binh lính và thương gia. Rồi Ngài có thể từ khước sự sửa soạn tự nhiên đó và can thiệp bằng một cách hết sức bất ngờ dựa vào chính sức mạnh của lời Ngài. Ngài hoàn toàn tự do, toàn quyền quyết định khi nào, ở đâu, trao cho ai, trong mục đích nào Ngài sẽ phán.
Đó là lý do khiến con người không bao giờ phải thất vọng vì cái có thể ấy là Thiên Chúa phán bảo và hoạt động, lời Ngài vẫn luôn sẵn sàng. Lại là lúc Israel được nâng cao nhất. Khi mà yếu kém cả về chính trị lẫn Tôn giáo, thì Đấng Mạnh Mẽ, Quyền Năng lại đến.
Một dòng dõi suy tàn đã nảy sinh trong Đấng Messia, vị tạo Thành thế giới mới.
2. Nơi chốn
‘Lời Thiên Chúa được phán với Gioan con Giacaria, trong hoang địa. Và ông đi khắp vùng xung quanh sông Giođan’.
Hai địa danh được nhắc đến:
Hoang địa: Môisen đã được Chúa gọi, và sai đi trong hoang địa. Dân chúng đã được dẫn dắt vào đây và giáo dục ở đây. Êlia đã đến đây. Chúa Giêsu đã chuẩn bị ở nơi này. Thánh Phaolô cũng tới đây sau khi trở lại. Có hàng triệu và hàng chục triệu người nối gót theo gương này. Trong im lặng, người ta thấm Lời Chúa rõ hơn, và cuộc sống khắc khổ làm cho người ta thấy tỏ tình thương Chúa hơn.
Sông Giođan: Dòng sông không phải chỉ làmột lãnh giới để dân địa phương và người từ hoang địa về gặp gỡ nhau. Nhưng Giođan là dòng sông mà những người Do Thái đã vượt qua để chiếm Đất Hứa: bây giờ, họ phải từ bỏ một hoang địa thiêng liêng và phải bước vào nước Thiên Chúa.
Ở Giođan, nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, tường thành Giêricô đã bị sập xuống; thì bây giờ tới lượt tường luỹ thiêng liêng của Satan đã ngăn lối vào nước Chúa cũng sẽ bị đổ như vậy.
Do đó, hoang địa và sông Giođan đều có ý nghĩa. Đấy là những nơi mà Lời của Chúa được vang vọng đặc biệt, được đón nhận tốt, là những miền của ân phúc nơi mà dân chúng hành hương tới, là những nơi thuận tiện cho hoạt động của Thiên Chúa, nơi có đền thờ vì Thiên Chúa là Đấng Thánh đã tới gần.
3. Hoạt động
Ba sự việc đáng được để ý đặc biệt.
Thánh Gioan rao giảng: đã qua nhiều thế kỷ, từ ngày Thiên Chúa phán với Israel, nay mới lại thấy xuất hiện, lần đầu, một trong các đại nhân của Thiên Chúa mà ngày xưa thật dễ gặp thấy trong dân được Chọn. Từ nay không còn là lời của Thiên thần mà là Lời của Thiên Chúa, không qua trung gian nào cả, phán bảo với Gioan và Ngài sẽ truyền đi.
Trong bài giảng, người ta đâu được công bố sự hiểu biết riêng hay kết quả của nghiên cứu thần học hoặc truyền bá kinh nghiệm nội tâm, mà là giảng Lời Chúa. Vị giảng thuyết chỉ là dụng cụ, là trung gian. Cá nhân Ngài hoàn toàn giữ vai trò thứ yếu. Ngài chỉ biết lắng nghe và truyền lại. Như vậy, cùng một lúc phải mở lòng ra với Thiên Chúa (từ trên xuống) và với dân chúng (từ dưới lên), Ngài không được giữ gì cho mình, nhất là không được thay đổi gì, giảm bớt hay làm sai lạc đi.
Loan báo Lời Chúa, người ta không thể tìm thấy nơi mình sự bất trắc hoà lẫn với sự hoài nghi, sự phức tạp và một tình trạng thua sút của một người yếu kém, vì tất cả đều không đảm bảo cho công việc của mình. Nhưng họ cũng không được cậy vào một thế lực, phát sinh từ một khoa học kiêu hãnh và thấm nhuần tư tưởng này, vì lời giảng với sức mạnh và theo Thần Trí đã đủ xứng với Lời Chúa rồi.
Gioan tẩy giả: cử điệu thêm vào với tiếng nói, nghi lễ đi với lời giảng. Con người không phải là một hữu thể tinh thần thôi. Vì thế, họ phải nhờ vào những dấu thấy được để suy niệm cái chẳng thấy.
Chúa Giêsu đã lập các bí tích đi theo lời giảng dạy. Nơi thánh Gioan cũng vậy, bên cạnh những từ ngữ mang tính cách nhất thời là những dấu hiệu, những điềm báo về các bí tích. Rửa tội là một cuộc thanh tẩy vì từ nay tội lỗi sẽ được xoá sạch. Một dân tộc nhơ nhuốc sẽ được rửa sạch. Thanh tẩy là trầm mình xuống nước rồi lên lại, vì tạo vật phải trầm mình với Đức Kitô để chết cho cái chết của con người tội lỗi cũ và được nâng lên nhờ Đức Kitô Phục sinh để sống cuộc sống mới trong ân sủng. Thanh tẩy, nước trôi chảy… Vì từ đây nước Thần Linh sẽ đổ tràn và vọt lên ngập đồng.
Thanh tẩy của Gioan, như vậy cũng có giá trị lớn lao. Gioan kêu gọi thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lỗi, không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa tới việc trở lại. Họ không thể tiếp nhận Lời Chúa. Sự thánh hoá giả thiết và đòi buộc phải có sự thống hối như bước đầu, khước từ tội phạm, ra khỏi mình, và hướng về Thiên Chúa. Sự thay đổi trong những định hướng của tư tưởng và sự sẵn sàng thâm sâu, đã thấy được khi Chúa giáng sinh và lúc thiếu nhi mười hai tuổi giảng dạy trong đền thờ, bây giờ rõ ràng là một đòi hỏi đối với với chúng ta. Sự thống hối là cốt cán của ơn cứu độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ tự ý muốn nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho họ.
4. Hoàn tất.
Tin mừng thêm vào ở đây như để làm trọn lời tiên tri Isaia:
‘Có tiếng kêu trong hoang địa, hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu, và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa’.
Bản văn ngôn sứ bàn về cuộc tái trở về từ nơi lưu đầy của dân Do thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài qua hoang địa vào Đất Hứa. Để đám rước khải hoàn đi qua thì đường xá phải bằng phẳng và có sửa soạn đàng hoàng. Lời tiên tri đã được nên trọn lúc này với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói về xứ sở hay về đường xá trần tục. Rời bỏ cuộc lưu đầy và tôi đòi thiêng liêng con người lên đường về nước Chúa với một thái độ cương quyết. Và chính Thiên Chúa sẽ là đầu đoàn rước: nhưng xác đáng hơn phải nói là Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa nhập thể, Đấng Messia.
Vì thế, những con đường thiêng liêng hẳn sẽ phải phẳng lì do việc sửa soạn tinh thần và tâm hồn. Gioan là tiếng kêu, là người tiền hô đến kêu gọi dọn đường vì sắp có vị Đại Vương tới.
Không có gì ngạc nhiên cả khi thấy sau lời kêu gọi đó, dân chúng bị lay chuyển và lũ lượt kéo về Giođan để nghe lời giảng và theo sát các biến cố này.
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không "ở bên ngoài” thế gian, trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một "lịch sử Thánh" phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa "nói" và "hành động" trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, "Tin Mừng", phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc “Công vụ Tông Đồ" (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu... Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: “Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô... Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người "cứng rắn và không xót thương", theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người "hợp tác". Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là "con cái Israel" (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân "ngoại giáo" (Iturê - Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn "thần học": Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một "phát ngôn viên", một "ngôn sứ", Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ "bên trong” những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. "Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng" (Lc 1,52). Một “lời”, từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử - Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? “Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!". Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: "Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại".
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là một cái "loa phóng thanh" với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp "Kérygme" có nghĩa là "tiếng la", lời “tuyên bố”. Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa "như thế", nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải "lao mình" vào Ngài! Chữ “batisma" phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: "Tôi muốn thay đổi cuộc sống... và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh".
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết "con người cũ” để cho "con người mới" tái sinh (Rm 6,6-7,6 - Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai... mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta "quay trở lại với Chúa" cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v...
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do "thừa tác viên" thi hành bí tích, nói "nhân danh chính Chúa Kitô" (in persona Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi Người "Tự hiến để tha thứ tội lỗi", trong hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để "hướng về" Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có "xưng tội riêng", không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là "Cứu chuộc". Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta “hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng".
Chúa nhật trước, chúng ta mượn ở Tin Mừng Luca một trích đoạn bài diễn từ mang tính cánh chung, diễn từ về "tiến trình dài dẫn đến giải phóng" (H. Cousin). Hôm nay, với lời kêu gọi và rao giảng của Gioan Tẩy Giả, chúng ta đang ở vào giai đoạn đầu của tiến trình ấy.
Bản văn hướng ta về một thời kỳ dài có nhiều báo trước một kỷ nguyên mới của lịch sử.
- Tiên vàn hoạt động khởi sự được ghi vào lịch sử Israel một cách thật trang trọng, bằng cách nhắc đến tên tuổi của sáu nhân vật:
+ Năm vị đầu là những vị đại diện cho quyền lực chính trị hiện hành tại Palestin và trong một vài tỉnh lân cận.
+ Vị thứ sáu đứng đầu giới tư tế mà sau này cùng với Philatô và Hêrôđê sẽ là những người đóng vai trò tích cực trong cuộc Khổ nạn của Chúa theo Tin Mừng Luca 22 và 23. Công việc mở đầu này, như tác giả xác định rõ, xảy ra vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô”, tức là năm 28.
Vai chính của trang sử này, mặc dầu không ai nhìn thấy, cuối cùng cũng được chỉ định là chủ thể của suốt thời kỳ dài lâu này. Đó chính là “lời của Thiên Chúa”.
Chủ thể ấy được giới thiệu ở cuối câu, khi nói về người được kêu gọi làm trung gian của lời này: "Gioan con ông Dacaria”.
“Việc sử dụng nhiều chi tiết trang trọng như thế để xác định về mặt lịch sử buổi khai mào sứ mệnh của ông Gioan, theo Roland Meynet nhận xét, là điều không cần thiết. Vả chăng, không phải dể xác định rõ ràng về mặt đia lý một địa danh bé nhỏ của Đế quốc, mà tác giả Luca đã muốn kể ra những địa danh khác nhau là tên tuổi những vị tổng trấn và tiểu vương nắm quyền cai trị trên những miền đất ấy. Cuộc "diễu hành” của những nhân vật tai to mặt lớn kia là hoàng đế Rôma là người dẫn đầu, thực ra có một cái gì long trọng và gây ấn tượng khác thường đế nói lên tầm quan trọng lớn lao của sự việc đang xảy ra. Và những con người đang sát cánh với nhau khi ấy, là Do Thái hay Rôma đang cai trị Israel hay những miền dân ngoại, đều phải mắt thấy tai nghe về một sự việc có liên can tới họ hết thấy. Việc gì xảy ra với Giêsu, thì có liên can tới tất cả mọi người trên toàn thế giới (“Tin Mừng theo thánh Luca”. Phân tích tu từ", Cerf, trg 44).
Gioan, người trung gian cho Lời:
Hai câu đầu đã chỉ cho ta thấy gốc gác con người của Gioan: ông là "con ông Dacaria" và sứ mệnh của ông có gốc gác của Thiên Chúa: Ông đã được "lời Thiên Chúa" kêu gọi. Giờ đây bóng dáng của vị ngôn sứ được rõ nét.
Nơi Gioan thi hành sứ vụ là "vùng ven sông Giođan".
Chính ở đó, ông rao giảng một "phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội".
Giống như các thánh sử khác, Luca định nghĩa cho sứ mệnh của Gioan từ sách Isaia đoạn 40: "Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: "Có tiếng người hô to trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đườn g của Đức Chúa".
Nhưng chỉ có mình Gioan là người theo đuổi cho đến cùng lời trưng dẫn sau đây: "Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa". Tin Mừng mà Gioan loan báo chính là Thiên Chúa cứu độ, và ơn cứu độ của Người dành cho hết mọi người. Điểm phổ quát này, chính Luca, người ngoại giáo trở lại đón nhận đức tin đã làm vang dội lên trong 2,30-31 rồi khi đặt vào miệng ông già Simêon lời ca: "Vì chính mắt con dược thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân".
Điểm son ấy, Luca sẽ không ngừng làm vang lên trong tác phẩm của mình, mà Phaolô sẽ là người đưa ra phần kết khi tới Rôma, kinh đô của đế quốc "Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại, họ thì họ sẽ nghe" (Cv 26,26).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Chính hôm nay, ta phải dọn sẵn con đường cho Chúa.
Đây là giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình vào tầng sâu của nội tâm sám hối, để tính toán việc loại bỏ đi những chướng ngại cản đường Chúa tới giải phóng: Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ tạo mới, trở nên những con người đã được tôi luyện và can trường.
Vậy để cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở những con đường thênh thang của tâm hồn rộng mở và chan hòa yêu thương, hãy đạp đổ những bức tường cách ngăn kỳ-thị và phân biệt chủng tộc. hãy cất đi những rào chắn của tư lợi nhỏ nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình đẳng mà người ta đang la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh thơi tung hoành, hãy thức dậy và đứng thẳng người lên".
2. “Chính hôm nay, ta phải khai mở những con đường”.
(J. Debruync, trong “Jesus, son Evangile", Descléc, trg 14- 16).
Tin Mừng thánh Luca cho rằng Ngôn sứ Isaia đã nhìn thấy tiếng nói ấy đến từ xa: một tiếng nói phát ra như tiếng hô to vang lên giữa nơi hoang đia, rằng:
Hãy khai mở con dường của Chúa. Hãy dọn sạch khắp mọi nẻo đường! Con đường thẳng tắp giữa chốn hoang vu, mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải san thấp xuống, lối quanh co, phải uốn cho ngay đường lồi lõm phải san cho phẳng, rồi hết mọi người phàm sẽ được thấy ơn Cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".
Nếu đường đi cần được mở, là để ta đi tới nơi kia. Vậy là hiện có một nơi. Và đường dẫn tới cho người khát khao.
Đường kia phải mở làm sao, để không còn những hàng rào chặn ngang. Đường đi rộng rãi thênh thang, để ta vui bước mà lòng thảnh thơi.
Vẫn luôn có một con đường giải thoát, để con người không còn phải sống cảnh tù đày, để hy vọng luôn chiếu sáng con tim, và để tầm nhìn không còn bị mây mù che lấp.
Nếu phải mở những con đường, chính là để ta phải cất bước ra đi, là để ta phải mau mắn lên đường, để cho Lời cùng ta vui bước.
Nếu phải mở những con đường, thì cần phải có những bước chân khai sáng. Những kẻ vạch đường. Những kẻ tìm ra bao người không ai biết đến. Những người thích đi chinh phục những thế giới mới. Những bàn tay dám đục đá vá trời. Những ai biết vượt khó vượt nguy. Những ai biết khai phá, mở lối cho tương lai. Những ai biết khoan đường hầm để lần ra ánh sáng.
Nếu phải mở những con đường, là vì tha nhân mà tôi vẫn hững hờ, thì nay phải trở nên người khẩn thiết. Tha nhân ở đàng kia kìa. Tôi phải vội vã lên đường, tôi phải đi để gặp cho được.
Thật bất ngờ. Không còn phải là lề luật mới là con đường tốt. Chính là con đường trở thành luật; Không còn phải là quy tắc cho thấy rõ con đường phải đi, mà chính là đường đi định ra quy tắc.
Vậy đây còn phải là Đền Thờ làm ra lề luật. Đền Thờ đích thực, từ nay chính là con đường.
Vậy Thiên Chúa không còn ở trong bốn bức tường nữa, Người đang đi trên đường".
Chúa Nhật 2 Mùa Vọng hàng năm, chúng ta chiêm ngắm dung mạo Gioan Tiền hô, một Ngôn Sứ MV2-C54
Chúa Nhật 2 Mùa Vọng hàng năm, chúng ta chiêm ngắm dung mạo Gioan Tiền hô, một Ngôn Sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã cận kề”. Giống như các Ngôn Sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5, 21-27; Is 1, 10-20; Gr 7, 1 – 8, 3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời sám hối và loan báo sẽ có một Đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.
Sự xuất hiện của Gioan không phải là chuyện ngẫu nhiên, đột ngột, bất ngờ nhưng là kế hoạch của Thiên Chúa đã được loan báo trong Cựu Ước.
Trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa tuyên bố với dân của Giao Ước: “Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn” (Xh 23, 20).
Trong sách Ngôn Sứ Malakhi: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh điện của Người” (Ml 3, 1).
Trong sách Ngôn Sứ Isaia: “Có tiếng hô, trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40, 3-4).
Trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa sai thiên sứ đi trước để gìn giữ và đưa Dân vào Đất Hứa. Trong sách Isaia, Thiên Chúa gởi tiếng hô dọn đưởng để Thiên Chúa đưa Dân lưu đày trở về. Trong sách Malakhi, Thiên Chúa sai sứ giả dọn đường trước mặt Thiên Chúa, để Ngài đến cứu độ. Ba lời này gom lại để diễn tả hai nhân vật: “Đúng theo lời đó, ông Gioan đã xuất hiện trong hoang địa…”
Trước hết, sự xuất hện của ông Gioan Tẩy Giả trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Isaia nói về việc phải dọn một con đường trong hoang địa để Thiên Chúa đưa dân lưu đày trở về; Máccô di chuyển dấu phết để nói về ông Gioan xuất hiện trong hoang địa. Con đường ông dọn không phải là con đường trong hoang địa, nhưng là con đường trong lòng người, được uốn thẳng san bằng nhờ lòng sám hối, để được Ơn Cứu Độ tức là ơn tha tội. Sách Malakhi nói về dọn đường trước mặt Ta, tức là Thiên Chúa. Máccô ghép với lời sách Xuất Hành để nói sứ giả dọn đường trước mặt Con, tức là Đức Giêsu, như tiếng từ Trời xác nhận sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa. (x. Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Máccô, Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ).
Gioan là cầu nối giữa hai giai đoạn của Lịch Sử Cứu Dộ. Ông vừa thuộc nhóm những Ngôn Sứ của giai đoạn trước, vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau. Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa, và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này. Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau. Nhưng Ngài cần Gioan để làm người tiền hô, dọn đường.
Con đường Gioan mời gọi tu sửa là đường trong lòng người. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo, hãy san cho thẳng. Những gì nhô cao cần phải bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy được Ơn Cứu Độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp; đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến, như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Khi Đức Giáo Tông hay vị Nguyên Thủ quốc gia đất nước nào muốn đến thăm viếng đất nước khác, vị Đại Sứ hay đoàn Sứ Giả được cử đến nơi đó hội đàm dọn đường, sắp đặt chương trình cho cuộc viếng thăm, có thể cả hằng năm trước đó. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời, nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua; như căn nhà cho Chúa ngự tới; Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nỗi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Sửa đường là sám hối, không nói suông, không chỉ là đấm ngực, xé áo. Sám hối là nhận ra cái sai của mình và quyết tâm sửa đổi. Sám hối sẽ không làm nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực; sám hối là sống công bằng, không tham lam nhũng lạm, không dùng quyền thế để cưỡng đoạt, áp bức người khác.
Đường vào tâm hồn có những khúc quanh co: lén lút sống trong vòng tội lỗi, dối lừa. Sách Cách Ngôn có dạy “Thiên Chúa ghê tởm tâm địa quanh co” (Cn 11, 20). Cứu cánh của kẻ quanh co là gian ác, cho nên cần phải uốn nắn lòng mình thẳng ngay như sách Cách Ngôn nói: “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng” (Cn 21, 28). Uốn những chỗ quanh co là sống chính trực công minh ngay thẳng, ví như tác giả thư Do Thái nhấn mạnh: “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1, 9).
Nếu lòng còn mãi quanh co, gập ghềnh, đầy những dối lừa biện minh cho những sai trái của mình… thì làm sao mà sửa đổi được!. Nếu không nhìn nhận mình sai lỗi thì làm sao có lòng thật tâm sửa lỗi. Sám hối đích thực là hoán cải. Hoán cải đòi hỏi phải hành động, phải trả giá, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, mất mát liên quan đến sự an toàn và tiện nghi của bản thân. Chỉ có sám hối và hoán cải cách đích thực thì mới dọn đường tâm hồn xứng đáng để đón Chúa.
Sửa đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén bạc cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến động chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ, kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen ghét, lười biếng, hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường được làm bằng đất đá, nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông, trên biển, trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi. Chính vì thế, Giáo Hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc: bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết rõ ý Chúa.
Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép rửa, sửa đường nội tâm. Nếp sống giản dị của Gioan mang tâm tình sám hối, sửa đường. Gioan kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế, và chính Gioan đã sống như con đường thẳng. Gioan mời gọi người ta sám hối, và chính đời ngài đã là tấm gương sửa chữa bằng tâm tình sám hối tâm thành.
“Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”, lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể. Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Nhân dịp ÐGH Bênêđíctô XVI đã làm một chuyến tông du lịch sử sang Thổ Nhĩ Kỳ. Đức Thánh Cha đã đóng góp “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và trong đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết.”[1] Ðúng là một ngôn sứ thời đại ! Khi ÐGH về đến Roma, Giáo Hội bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Ðây thật là một dịp may cho những ai muốn tìm hiểu về ngôn sứ thời đại.
Ngày xưa, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả xuất hiện đúng thời gian niềm hy vọng Ðấng Thiên Sai lên tới tột đỉnh. Trước khi giới thiệu ông, thánh Luca đã ghi rất rõ thời điểm cả đời lẫn đạo.[2] Sứ mệnh ngôn sứ luôn mang tính “hôm nay.” Ngôn sứ sống giữa những thế lực đạo đời đang thi nhau chiếm ưu thế trong quần chúng.
Giữa một khung cảnh ồn ào như thế, Lời Thiên Chúa âm thầm nhưng mãnh liệt đến với ông trong hoang địa.[3] Trong cảnh tĩnh mịch đó, ông nghe rất rõ tiếng Chúa. Ông đã dành thời gian học hỏi, lắng nghe và trau giồi sức mạnh để có thể đi khắp nơi kêu gọi mọi người trở về đường công chính. Chỉ trong đường công chính, con người mới có thể tìm lại chính mình và “sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”[4]
Ông Gioan đạt tới chóp đỉnh đoàn sủng ngôn sứ, vì ông “đã thấy tận mắt, (...) đã chiêm ngưỡng, (...) đã chạm đến Lời sự sống,”[5] nơi hiện thực toàn thể lời ngôn sứ. Ông đã loan báo và thấy Ðấng Thiên Sai. Ông đã không ngần ngại nói về Ðức Giêsu: “Tôi đã thấy và tôi chứng thực rằng Người là Ðấng Thiên Chúa tuyển chọn.”[6] Có ngôn sứ nào có một chứng từ hùng hồn và dứt khoát đến thế không ?!
Dĩ nhiên, ông Gioan rao giảng cùng một nội dung và có một thái độ như các bậc ngôn sứ tiền bối. Ông phải nhân danh Thiên Chúa nói những lời đã đón nhận từ Thiên Chúa cho anh em. Về căn bản, nội dung những lời rao giảng luôn giống nhau: Chúa đang ở gần bên dân Người, Chúa trung tín giữ lời Giao ước. Ðối lại, con người phải trung thành và yêu mến Thiên Chúa, Ðấng yêu thương và không bỏ rơi họ. Phải thay đổi sâu xa tận bên trong, con người mới có thể thấy Thiên Chúa đang hướng dẫn lịch sử về tột đỉnh giao ước và mạc khải[7] là Ðức Giêsu Kitô.
Ngôn sứ quan sát hiện tại một cách sâu sắc. Ông chú ý tới các biến cố. Sở dĩ thấy xa hơn những người đồng thời, vì cái nhìn của ông sâu hơn. Không dừng lại ở hình thức bên ngoài, những bằng chứng sơ khởi, ông luôn suy tư, nghiền ngẫm. ông xem xét các biến cố, hoàn cảnh, cử chỉ, sự lựa chọn và thái độ nội tâm của những nhân vật chính trong các biến cố. Giữa các tiếng nói khác nhau trong lịch sử và thời đại, tiếng nói Thiên Chúa trổi vượt hẳn lên. Bên kia những hiển thị, vẫn có những mũi nhọn sâu hơn của công lý và tình yêu. Bằng chứng, giữa những bất công và sa đọa của xã hội đương thời, ông Gioan đã trở nên mũi nhọn đâm thẳng vào những bộ mặt phi nhân thời đại như nhóm Pharisêu, các vua chúa, quan quyền, linh tráng, con buôn v.v.
Ngoài việc tố cáo những tệ trạng xã hội, ngôn sứ còn phải nhắc cho mọi người biết Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Người sẽ đến cứu tội nhân. Ngôn sứ cho thấy chân lý về cuộc sống con người không đóng khung trong những giới hạn hẹp hòi của tội lỗi. Phải làm sao sám hối để lương tâm ngày càng ý thức hơn về việc lành phải làm và việc dữ nên tránh, đồng thời cần dấn thân để canh tân đời sống theo ân sủng.
Ông Gioan đã đến để công bố một thế giới mới sắp đến gần, nhổ tận gốc hỗn loạn của tội lỗi. Một thế giới thái bình sống bằng ơn cứu độ do Thiên Chúa mang đến với con người của Ðấng Thiên Sai. Chắc chắn thế giới chúng ta đang sống chưa đạt được điều đó. Vạn vật vẫn còn rên siết trong cơn đau đớn như người phụ nữ sắp sinh con.
Có thể nghe thấy tiếng rên siết đó nơi Giáo Hội toàn cầu trước tình trạng Âu châu đang chối bỏ nguồn gốc Kitô giáo của mình. Một khi Âu châu không còn ý thức và đánh mất căn tính, niềm hãnh diện và sức mạnh cũng tiêu tan. Chỉ còn sự nhút nhát và ô nhục. Nhân danh văn hóa, lòng kiên nhẫn, việc thiện, đa văn hóa, người ta không dám quả quyết về nhân quyền nữa. Tây Phương nhút nhát trước những tấn công về văn hóa từ thế giới Hồi giáo. Trong khi đó, những giá trị như nhân vị, bình đẳng, nhân quyền, tự do, dân chủ, sinh thái học, bất bạo động đều do Âu châu cống hiến cho các nền văn hóa thế giới khác.[8]
Tại Resenburg, Ðức quốc, ÐGH Bênêđictô XVI chứng tỏ là vị ngôn sứ thời đại, khi lên tiếng đề nghị Âu châu làm sống lại ý thức và cởi mở với cuộc đối thoại toàn cầu. Hai chủ đề được nhấn mạnh: “Tôn giáo không bạo động và sự hòa hợp đức tin và lý trí.” ÐGH đã đưa ra lịch trình đặc biệt cho thế giới thiên niên kỷ thứ ba: cùng nhau suy tư về bạo động và bất bạo động, nhất là về những mối liên hệ giữa chúng với các tôn giáo và ý thức hệ ; cùng suy tư về việc duyệt xét lại các bản sách thánh, để có một giải thích xứng đáng với Thiên Chúa và Con người ; cùng suy tư về những đồ án xây dựng một xã hội công bình và nhân đạo hơn ; về những giá trị và giới hạn của tự do, về việc tục hóa và chủ nghĩa thế tục lành mạnh ; về các nền văn hóa và đa văn hóa v.v.[9]
Có thể kiếm thấy một ngôn sứ giống như ÐGH Bênêđictô XVI ở Việt nam hiện nay không ? Còn đâu hình ảnh một GM Nguyễn Kim Ðiền ngày xưa ? Phải chăng hiện tại GHVN đang lựa chọn cuộc sống mà quên đi căn tính hay bản chất của mình ? Rất may, tới nay vẫn còn những linh mục và giáo dân ngoài Huế tiếp nối tinh thần Nguyễn Kim Ðiền, cương quyết lựa chọn theo chiều ngược lại. “Giám mục Nguyễn Kim Điền là một tấm gương cho sự lựa chọn này. Và cái giá mà vị giám mục này phải trả chẳng phải chỉ là sự khó khăn, đau đớn và cái chết cho bản thân mình, mà toàn giáo phận Huế phải cùng chịu khó khăn và thiệt hại với Ngài. Chủng viện không được mở, không có linh mục mới, việc bổ nhiệm linh mục về các nhiệm sở theo nhu cầu không thực hiện được, các linh mục không được cử hành phụng vụ hay làm mục vụ ở nhiều nơi khiến giáo dân ở những nơi đó thiếu thốn những phương tiện tâm linh cần thiết, v.v… Những thiệt hại ấy không phải là nhỏ. Phần nào ngài đã đánh giá bản chất Kitô giáo quan trọng hơn đời sống hay sinh hoạt Kitô hữu!
Trái lại, muốn tránh những thiệt hại to lớn ấy cho Giáo Hội, muốn Giáo Hội dễ thở và có thể phát triển, thì phải biết mềm dẻo, nhượng bộ, nghĩa là phải trả giá bằng sự im lặng hay bất động trước những điều mà cứ bình thường thì lương tâm buộc phải lên tiếng hay can thiệp. Các giám mục Việt Nam nói chung đã chọn cách ứng xử này. Phần nào các ngài đã đặt nặng đời sống hay sinh hoạt Kitô hữu hơn bản chất Kitô giáo!”[10] Lựa chọn như thế có khác gì Âu châu hôm nay ?
Khi đánh mất căn tính, Giáo hội không còn sức mạnh làm chứng. Vai trò ngôn sứ cũng phai tàn. Sự hiện hữu không còn ý nghĩa và trở nên thừa thãi. Thực vậy, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! Lạy Chúa !’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”[11] Nói khác, không phải có đủ thứ đền đài, nghi lễ, hành hương, quyền bính v.v. mà xây dựng được Nước Trời ở trần gian. Xây dựng Nước Trời trên những thứ đó có khác gì xây nhà trên cát ? Chỉ khi nào dám “làm chứng cho sự thật”[12] trước mặt thế quyền như Chúa, Giáo hội mới thấy rõ tại sao mình “sinh ra và đến trong thế gian.”[13] Chính vì can đảm chứng cho sự thật, Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả đã mất cả mạng sống và cơ hội đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Nhưng nhờ chết đi, Chúa đã làm cho cả Giáo hội bừng dậy bao nhiêu thế hệ ngôn sứ.
Lạy Chúa, xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn can đảm làm chứng cho sự thật để tự do, công lý, hòa bình mau đến với quê hương con . Amen.
đỗ lực, 10.12.2006
[1] Giampaolo Mattei, L’Osservatore Romano, ghi lại VietCatholicNews 05/12/2006. [2] x. Lc 3:1-2. [3] x. Lc 3:2. [4] Lc 3:6. [5] 1 Ga 1:1. [6] Ga 1:34. [7] x. Gr 31:31-37; Ed 34:11-30; 36:23-36. [8] x. Samir, S. K., Violent Islam, cowardly Europe: from the cartoons to Regensburg, AsiaNews, 30.09.2006. [9] ibid. [10] Nguyễn Chính Kết, Thái Ðộ Im Lặng của Các Giám Mục Việt Nam, Tập San Dấn Thân, www.danthan.com [11] Mt 7:21. [12] Ga 18:34. [13] ibid.
Nếu chỉ xét về lợi ích,thì Biển Chết chỉ có muối va muối khoáng. Độ mặn của nước Biển Chết không thể dùng làm nước uống và không có bất cứ sinh vật gì có thể sinh sống được,thậm chí những người có ý định quyên sinh cũng chẳng thể nào kết liễu đời mình,do bị tỷ trọng nước đẩy lên,không thể chìm được. Biển Chết là một trong tám cảnh thiên nhiên đẹp nhất của Israel. Biển ấy đang chết. Biển Chết đang chết vì không được tiếp thêm nước. Trong khi mực nước các đại dương và biển khơi đang dâng,do sự tan băng, đe doạ nhấn chìm nhiều vùng đất và hải đảo trên thế giớ, thì Biển Chết chịu tác động biến đổi khí hậu,sự ấm lên của trái đất và đang bốc hơi cạn khô dần. Các nhà khoa học ước tính nếu không được xem xét cải tạo,thì năm 2050,Biển Chết với diện tích ngày nay chỉ còn hơn 1.300 cây số vuông ( 67 km x 18 km), sẽ vĩnh viễn chỉ còn là một di tích lịch sử. Cái gọi là ‘đức tin’ nơi người Công giáo có được khi chịu phép rửa, cũng sẽ chóng khô cạn như dầu đèn của năm cô trinh nữ khờ dại, khi không mang dầu theo,khi không được nạo vét, tu sửa,tiếp nước.
Hồ Hoàn Kiếm với những “cụ” rùa hàng trăm năm tuổi sẽ biến thành một đầm lầy do bao thứ rác rến,đất đai trôi xuống đọng lại từ bao đời, nếu như không nhờ cái dịp “ngàn năm thăng Long” mà thuê một công ty Đức đến nạo vét. Nhiều người ngỡ ngàng khi biết nước trong hồ Hoàn Kiêm nơi sâu nhất cũng chỉ hơn một thước! Thay vì giữ gìn tôn tạo, người Hà Nội ‘thanh lịch’ vứt rác bừa bãi vô tư,như đã từng vô tư vặt trụi những cành anh đào từ Nhật Bản đưa qua triển lãm hoặc lén lút đốn hạ những hàng sứa lâu năm giữa lòng thủ đô. Cảnh mạnh ai nầy sống, chụp giựt,ích kỷ nay đã thành nếp. Người Sàigòn cũng chẳng hơn chi: những kênh rạch nước tù đọng, đen ngòm, hôi thối là hậu quả của nếp sống tắc trách của một số người. Đường phố Sàigòn vốn chật hẹp, ngày càng không chịu nỗi lượng xe hơi, xe máy tăng cấp số nhân, trong khi đường sá hầu như không tăng, cầu cống ngày càng yếu kém,hư hao. Kế hoạch đường thông hè thoáng sớm thất bại. Nói đến Sàigòn là nói đến nạn kẹt xe, bụi khói và tiếng ồn. Thói quen xấu - kể cả tật ăn nhậu, hút sách,nghiệp ngập - đều có một lần đầu, cơn cám dỗ đầu tiên – mà nếu ta coi thường,không kháng cự lại quyết liệt, không chỉnh đốn tâm hồn, thì sẽ thành ‘tật’ khó hoặc không thể sửa chữa, thành ‘cơn cám dỗ cuối cùng’.
Một trong những yếu tố khiến doanh nghiệp nước ngoài ngại đầu tư vào Việt-Nam,ấy là sự yếu kém về giao thông,mà nói theo cách nhà nước,là ‘vừa thiếu lại vừa yếu’. Những tuần nầy,giới xe tải vò đầu bứt tai vì con đường huyết mạch quốc lộ 1 A không còn thông thương nữa, do cây cầu Bà Rén (Quảng Nam) xây trước năm 1975, hết chịu nỗi mỗi ngày gần bảy ngàn lượt xe qua lại, trong đó hơn hai phần là những xe ghi tải trọng 10 - 15 tấn, kỳ thực chở 20 - 30 tấn,chưa kể những xe container và những xe chất các kiện hàng siêu trường siêu trọng. Không oằn,không gãy mới là chuyện lạ. Ngành giao thông buộc các xe phải đi vòng theo lộ trình mới, vdo vậy đã làm dội chi phí lên rất nhiều . Người ta biết rõ điều nầy từ lâu, nhưng kế hoạch nâng cấp,sửa chữa đều dừng lại trên giấy tờ, cứ tiếp tục khai thác cho đến ngày rệu rã, hết phương cứu chữa,mới quay đầu nhìn lại. Rất nhiều những công trình giao thông tốn kém hàng ngàn tỷ, có khi chưa khánh thành đã vội xuống cấp, vì thói làm ăn gian dối. Khắp nơi thấy cảnh mặt đường bị cày xới, vá víu, ổ gà,ổ voi và vô số đoạn lún sụp gây ách tắc. Người dân đi lại chỉ biết lầm bầm than thở bất mạn. Chúa ban cho chúng ta Lời và các Bí Tích,nhất là bí tích Thánh Thể và Bí tích Thống Hối, để chúng ta luôn có đầy dư sức mạnh chống trả và chiến thắng cám dỗ, và nếu do sơ sẫy mà thua cuộc, sa ngã, thì Chúa luôn giang rộng đôi tay đón chúng ta thống hối trở về.
Luận về những yếu tố đã giúp Miền Bắc cộng sản chiến thắng, thì hàng đầu phải kể đến đường mòn Trường Sơn, hình thành qua bao gian khó không nói hết được, mặc cho quân đội Hoa Kỳ rải xuống vô số đạn bom sát thương biết bao bộ đội và công trình đã và đang làm. Giống như bầy kiến,vừa ngưng tiếng bom,lại uà ra tiếp tục đào đắp, tu sửa, không bao giờ ngưng nghỉ. Miền Nam và người Mỹ thua,vì không có được sự cần mẫn, kiên trì,’tiếng hàt át tiếng bom’ ấy. Hãy để lịch sử phê phán những chuyện lịch sử; với chúng ta đó lại là một bài học đắt giá: khi người ta ăn sung mặc sướng rồi, khi đã hưởng thụ đam mê tiền bạc và lắm thú vui, khi đã có chức cao quyền trọng, con người ngại hy sinh và cũng không ‘dại’ gì hy sinh vô nghĩa,trong khi các quan chức tham ô, ăn chơi, không hề có chút lòng yêu nước thương dân, dù miệng vẫn lải nhải do dân, vì dân! Nhưng Trường Sơn vẫn là một bài học đáng cho chúng ta suy nghĩ noi theo, đặc biệt như tin thần Tin Mừng hôm nay với lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả: hãy dọn đường và sửa sang mọi lối đi để đón Đấng Messia đến! Đây không phải là một công việc làm lấy lệ hằng năm khi Mùa Vọng về (hay là tâm tình thống hối Mùa Chay), mà là việc ‘thanh kiểm tra’ hằng ngày, soi tận đáy lòng, và sửa sang ngay những chỗ u tối,hư hỏng,tội lỗi.
Vì thế sẽ không sai khi nói rằng cuộc sống nhân chứng và truyền giáo của tín hữu Công giáo là một công trường ngành giao thông công chánh: liên tục làm đường, bắc cầu, sửa sang đường sá, làm cho đường thông hè thoáng. Tóm lại, làm tín hữu là làm công nhân cầu đường Nước Trời ( công chánh), sao để không chỉ đón Chúa đến, mà để tha nhân đến được với Chúa và với chúng ta. Còn hơn thế nữa, để chúng ta có thể vào và ở trong chính ngôi nhà mình, vì nếu chính đường vào nhà mình bị gai góc bịt kín, sụp lún,trơn trượt, thì làm sao giúp anh em dọn đường lòng nhà họ và làm sao có thể nhân danh Chúa mà mời họ vào nhà mình? Và cũng có thể nói “ông bộ trưởng giao thông công chính Gioan Tẩy Giả” được Chúa giao cho sứ mệnh dọn một con đường dẫn từ Cựu Ước sang Tân Ước. Những lời giảng dạy và những lời chỉ trích nghiêm khắc của Ngài đối với đù thành phần đạo đời thời bấy giờ,cũng như lời cảnh cáo Hêrôđê và nhất là cái chết của Ngài, cho thấy công việc dọn đường không thể nặng hình thức hoặc đơn giản và tùy hứng,như chúng ta vẫn nghĩ và vẫn làm! Trước khi muốn thực hiện công trình ‘giao thông công chánh’ ấy, Thánh Gioan Tẩy Giả đã ăn châu chấu với mật ong rừng, những thực phẩm đạm bạc,không do tay người đời làm ra, để giữ cho tâm hồn,thể xác thanh khiết ,và có sức mạnh của Chúa . Giao Ước Mới – Chúa Kitô - đến và cũng sẽ đi theo con đường mà Gioan Tẩy Giả giới thiệu: con đường khổ nạn! Không thể khác được! Nhưng đã cò một thời Giáo Hội (và ngày nay vẫn còn vô số Kitô hữu, từ linh mục,tu sĩ tới giáo dân) ưa thích những xa lộ thênh thang, mà lại do người khác xây dựng cho mình: danh lợi,vật chất, quyền uy,tiện nghi,…những thứ không hề có trong tinh thần Tin Mừng, trong lời Chúa Giêsu kêu gọi đi theo Người và hôm nay,trong lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả.
Nhưng xem ra không chỉ lời của Gioan Tẩy Giả,mà cả lời của Giáo Hội,Lời của Chúa Kitô, chẳng khác nào viên đá nhỏ ném vào đại dương, như “tiếng kêu trong sa mạc”: có lời vọng lại,nhưng không người hưởng ứng! Lời nói gió bay! Nước đổ lá môn!
Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây! Không dễ gì có đường Hồ Chí Minh ngày nay,nếu đã không có cả biển nước mắt,mô hôi và máu chảy suốt dãy Trường Sơn. Kitô hữu chúng ta suy nghĩ thế nào về con đường Nước Trời, con đường để Chúa đến trong thế gian và sẽ lại đến trong vinh quang, khi mà chúng ta đùn đẩy trách nhiệm, khước từ hy sinh, cân nhắc từng chút hơn thua? Những bộ đội,thanh niên xung phong đã thi nhau ùn ùn ra tiền tuyến, bị ném vào dãy Trường Sơn không hẹn ngày về,với lòng yêu nước và tinh thần quả cảm rất chân thành (bất kể là đang bị lạm dụng), còn người Công giáo thì một đoạn đường tới nhà thờ,bớt đi một giờ ngủ, bớt đi một nắm gạo mỗi ngày chia sẻ cho anh em nghèo đói nạn nhân thiên tại, mà vẫn không muốn làm. Thử hỏi làm sao để có, dù chỉ là một lối mòn nhỏ, cho Chúa bước đến với mình và với anh em?
Giai đoạn đầu của công cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường thuật các việc Đức Giêsu làm và các lời Người nói tại Galilê. Kể từ 9,51, Đức Giêsu mới đi ngang qua Samari mà tiến lên Giêrusalem.
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Đoạn 3,1-6 là phần mở chính thức của Tin Mừng Luca.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (cc. 1-2a); 2) Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (cc.2b-3); 3) Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5 (cc. 4-6).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô (1): Hai câu đầu của đoạn văn khiến ta vừa nhớ đến các lời tựa của các sử gia Hy-lạp (Thucydide, Polybe …) vừa nhớ đến mở đầu sách Giêrêmia (1,1-2 LXX). Điều này gợi ý là tác giả Luca có ý viết trong tư cách sử gia, và cũng gợi lên ý nghĩa thánh thiêng của biến cố ngài khám phá ra nơi biến cố ông tường thuật. Ngài nêu lên nhiều điểm quy chiếu liên kết biến cố này với lịch sử thời ngài: khi lần lượt kể ra hoàng đế Rôma, tổng trấn của hoàng đế, ba tiểu vương và hai thượng tế, ngài nêu bật tính long trọng đặc biệt của sự kiện.
Là chúa tể thế giới thời đó, hoàng đế Tibêriô kế vị hoàng đế Augúttô ngày 19-8-14 kỷ nguyên chúng ta (năm 767 của Rôma). Vậy “năm thứ mười lăm” có thể chạy từ 19-8-28 đến 18-8-29. Nhưng đa số các nhà phê bình hiện nay cho rằng tác giả Lc tính các năm trị vì của hoàng đế theo kiểu người Xyri, mà với họ, năm dân sự bắt đầu vào ngày 1/10. Như thếâ, họ xác định năm đầu của triều Tibêriô đi từ 19-8 đến 30-9-14, còn năm thứ mười lăm thì đi từ ngày 1-10-27 đến 30-9-28. Khoảng thời gian này phù hợp với thời gian được ghi trong Ga 2,20 là câu đặt lễ Vượt Qua đầu tiên thuộc sứ vụ của Đức Giêsu vào mùa xuân năm 28.
- Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê (1): Ông này làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do-thái nhận định ông là con người “không khoan nhượng và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được Philon ghi lại, Legatio ad Caium, 38); còn các Tin Mừng thì vĩnh viễn nối kết ông với cuộc xử án Đức Giêsu (Tacite cũng làm như thế trong các Annales, III, 15,44). Ông cai trị miền Giuđê, Bắc Samari và Nam Iđumê.
- Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê (1): Ông là con của Hêrôđê đại đế, có tên là Antipa, đã được làm tiểu vương cai trị miền Galilê và Pêrê sau khi vua cha qua đời, vào năm 4 tr CG. Ông chỉ lấy tên Hêrôđê sau khi đã hạ bệ anh là Áckhêlao vào năm 6 kỷ nguyên chúng ta. Ông xuất hiện nhiều lần trong các Tin Mừng: như là người đã giết Gioan Tẩy Giả (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29; x. Lc 3,19-20), rồi như là đối thủ của Đức Giêsu (Mc 6,14-16; Lc 13,31-32; 23,6-12). Cuối cùng ông sẽ bị hoàng đế Caligula đưa đi lưu đày bên xứ Gôn, vào năm 39, sau khi bị cháu là Hêrôđê Ácríppa I tố cáo.
- Philípphê làm tiểu vương miên Iturê và Trakhonít: Ông là người con khôn ngoan nhất trong số tất cả các con của Hêrôđê đại đế. Triều đại bình an của ông kéo dài từ năm4 trước CG đến khi ông chết vào năm 34. Thật ra ông cai trị tất cả vùng đông bắc hồ Tibêriát (miền Gaulanít, Batanêa, Trakhonít, Auranít và vùng Panêa, nơi ông đã xây dựng kinh đô với tên Xêdarê Philípphê: x. Mt 16,13; Mc 8,27). Lc cố tình kể tên những miền đất ít có người Do-thái nhất, tức là tượng trưng cho lãnh địa ngoại giáo.
- Lyxania làm tiểu vương miền Abilên: Chỉ có một Lyxania, vua dân Iturê ở Khanxi, bị đại tướng Antôniô giết vào năm 36 tr CG để trừng phạt ông đã liên minh với người Pácti. Vị tiểu vương mờ nhạt này với miền đất xa lạ với Paléttina được Lc nhắc đến có lẽ do những lý do sau: 1) Lc thích các cấu trúc song đối và danh hiệu “tiểu vương” (tetrarchês, trong đó có tetras, “ngày thứ tư trong tháng”) hẳn đã gợi ý cho ông giới thiệu ra ở đây bốn miền đất lân cận; 2) Lý do lịch sử: vào lúc TM Lc được viết, tức năm 80-85, lãnh thổ của Lyxania đã thuộc về một ông hoàng Do-thái (Hêrôđê Ácríppa II, trị vì từ năm 53 cho đến cuối thế kỷ, kế vị vua cha là Hêrôđê Ácríppa I, trị vì từ năm 37 đến năm 44). 3) Nhưng có lẽ lý do chính là lý do thần học: miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do-thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này.
- Khanan và Caipha làm thượng tế (2): Công thức này gây ngạc nhiên do chỗ gán danh hiệu thượng tế cho hai nhân vật, có tên tuổi rõ ràng, mà trong thực tế chức vụ này chỉ luôn luôn được thực thi bởi một người mà thôi. Ở đây, Lc muốn nói lên một hoàn cảnh có thật. Khanan đã được Quiriniô đặt làm thượng tế vào năm 6 kỷ nguyên chúng ta, và chín năm sau, vào năm 15, bị Valerius Gratus truất phế. Nhưng do chỗ các tổng trấn Rôma cho năm con trai và con rể Caipha của ông kế vị, ta hiểu ông vẫn có một uy tín đặc biệt nơi giới tư tế và dân chúng. Dường như chính ông mới là người lãnh đạo cộng đồng Do-thái dưới các đời thượng tế sau ông. Các tác giả Tân Ước gán cho ông một vai trò quan trọng trong việc thẩm cứu vụ án Đức Giêsu (Ga 18,13-24).
Caipha là thượng tế từ năm 18 đến năm 36. Vai trò của ông trong cuộc xét xử Đức Giêsu đã được Mátthêu (26,3.57.63-65) và Gioan (11,49; 18,24-28) ghi lại. Trong vụ án này cũng như trong mọi sinh hoạt của ông, hẳn là ông làm việc hài hòa với và dưới ảnh hưởng của nhạc phụ.
- Công bố một phép rửa sám hối hướng tới ơn tha tội (3): Lời công bố này nối dài lời rao giảng của các ngôn sứ Cựu Ước: y như vị Tẩy Giả, các ngôn sứ đã kêu gọi dân Thiên Chúa “trở lại” với Đức Chúa của mình bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Nét mới mẻ đầu tiên của Gioan là đóng ấn sự hoán cải này bằng một phép rửa. Nhưng ông còn thêm vào một nét mới thứ hai: ông chỉ ban phép rửa này một lần mà thôi, bởi vì Cuộc Phán Xét đang đến gần (Lc 3,7-9.17); chỉ còn chỗ cho một cuộc hoán cải duy nhất mà thôi để được ơn cứu độ(x. Gr 31,31; Ed 36,25). Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo có khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16): “Đấng mạnh thế hơn … sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (3,16). Vai trò chính yếu của Gioan là “bảo cho dân Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội khiên” (1,77). Do đó dịch “hướng tới ơn tha tội” thì tốt hơn là dịch “để được ơn tha tội”.
- như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia (4): So với các tác giả Tin Mừng khác, Lc nối dài bản văn trích để nêu bật những yếu tố ngài coi là quan trọng. Trước tiên là Is 40,3 (x. Lc 3,5) giúp Lc nhắc lại mối quan tâm của ngài đối với việc đề cao những người nghèo hèn và hạ thấp những kẻ kiêu căng (Lc 1,52; 14,11; 18,14). Nhưng nhất là Is 40,5 (Lc 3,6) mới là mối quan tâm chính của ngài: loan báo ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho “mọi xác phàm”.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Thánh Luca bắt đầu bản tường thuật đời sống công khai của Đức Giêsu bằng cách giới thiệu các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo đang nắm quyền lúc ấy. Phải chăng ngài đã chịu khó cung cấp các thông tin ấy chỉ để thỏa mãn tính tò mò của chúng ta? Không phải thế.
* Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (1-2a)
Sau phần dẫn nhập lịch sử, tác giả Lc dùng giọng văn long trọng để giới thiệu Gioan: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa”. Bản văn giới thiệu ơn gọi ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả. Nhưng do giọng long trọng, ta cảm được là bản văn này muốn đi xa hơn vị Tẩy Giả. Bên kia vị Tiền Hô, tác giả loan báo Đức Giêsu và đặt Người vào giữa lòng lịch sử nhân loại. Chúng ta khẳng định được như thế nhờ một số những nhận xét: 1) Thật đáng ngạc nhiên là tác giả đã dành nhiều quy chiếu về lịch sử như thế để mở đầu hoạt động của Gioan, mà lại không nói gì để định vị cho hoạt động của Đức Giêsu (3,21), mà chắc chắn Đức Giêsu mới là nhân vật trọng yếu. Ta giải thích được sự bất thường này khi nhớ rằng ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả đã bàn về Gioan và Đức Giêsu song song và liên đới với nhau. 2) Việc liệt kê hoàng đế, tổng trấn và các tiểu vương chỉ thật sự cần thiết nếu hướng về cuộc xuất hiện của đức vua Giêsu. 3) Lc trích sấm ngôn Is 40 như các tác giả Tin Mừng khác để đưa lại ý nghĩa cho sứ mạng của Gioan. Nhưng khi kéo dài câu trích cho tới tận lời loan báo sự tỏ hiện của ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngài cho thấy rằng trước tiên ngài nghĩ tới cuộc xuất hiện của Đức Giêsu.
Ở đây khi nêu tên vị chúa tể ngoại giáo của thế giới, cũng như vào dịp Đức Giêsu giáng sinh, khi nhắc đến hoàng đế Augúttô (2,1), Lc giữ thói quen đặt vương quốc trần gian đối diện với Vương quốc của Thiên Chúa đã đến nơi Đức Giêsu.
Còn lý do chính là lý do thần học: Miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do-thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này. Còn khi nhắc đến cả Khanan lẫn Caipha, tác giả Lc cho hiểu rằng thực quyền nằm nơi thượng tế đã bi truất phế.
* Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (2b-3)
Giọng văn của c. 2b rất cổ. Có lẽ Lc đã cảm hứng từ Cựu Ước và đặc biệt từ ơn gọi của Giêrêmia (Gr 1,1 LXX). Như thế, với việc Gioan Tẩy Giả ra làm việc, tác giả cho thấy đã xuất hiện một ngôn sứ, vị đầu tiên sau một thời gian thinh lặng gần năm thế kỷ (Tv 74,9; l Mcb 4,46; 9,27; 14,41). Ơn gọi của vị Tẩy Giả được thể hiện trong hoang địa, là nơi ông đã sống thời trai trẻ “cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (1,80). Nhiều dấu chỉ cho thấy là ông có quan hệ với phái tư tế ở Qumrân: ông thuộc dòng dõi tư tế, ông sống trong hoang địa, ông đi rao giảng một phép rửa và cả bốn Tin Mừng đều xác định sứ mạng của ông khởi đi từ lời sấm Is 40,3 mà Luật Qumrân dùng đề diễn tả lý tưởng của họ (1 QS 8,14). Cho dù thế nào, kể từ nay Thiên Chúa kêu gọi ông thực hiện một sứ mạng của riêng ông.
Theo Mt (3,1-6) và Mc (1,4-5) la hai bản văn theo sát bản Is 40,3, Gioan rao giảng trong hoang địa và làm phép rửa tại sông Giođan ở bìa sa mạc; các đoàn người đã từ Giêrusalem và miền Giuđê kéo đến với ông (Mc 1,5; x. Mt 3,5). Theo Lc, Gioan rời hoang địa để rao giảng trong vùng sông Giođan như là lãnh địa riêng của ông. Rất có thể Lc đã nghĩ rằng phép rửa ban trong hoang địa có thể khiến các độc giả ngạc nhiên, vì họ không biết địa lý của xứ Paléttina. Trong thực tế, hai bờ sông Giođan là vùng hoang địa. Ông đã kêu gọi dân chúng đến nhạân phép rửa để bày tỏ lòng sám hối, hầu có thể nhận lấy ơn cứu độ mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong sứ vụ Vượt Qua (Lc 24,47; Cv 3,19; 5,31; 10,43; 13,38; 26,18).
* Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5 (4-6)
Như các tác giả Tin Mừng khác (Mt 3,3; Mc 1,3; Ga 1,23), Lc xác định ý nghĩa của sứ vụ Gioan đảm nhận khởi đi từ sấm ngôn Is 40. Nhưng ngài đặt lời sấm này vào cuối phần giới thiệu Gioan, để dẫn độc giả đi từ biến cố lịch sử đến lời giải thích biến cố trong khung cảnh lịch sử cứu độ. Và ngài nối dài câu trích để nêu bật các yếu tố ông coi là quan trọng.
TM Lc đã bỏ đi lời loan báo mở đầu của Is 40,5: “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện”. Đối với ngài, trách nhiệm của vị Tẩy Giả không phải là loan báo vinh quang này, vì vinh quang này chỉ được tỏ hiện vào cuộc Vượt Qua bởi Đức Giêsu thôi. Ngài nói ngay đến đích điểm của sấm ngôn, cũng là đỉnh điểm của sứ điệp của Gioan: loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đây mới là nhiệm vụ của Gioan (Lc 1,77). Lc ưa thích nhấn mạnh trên đề tài “ơn cứu độ”: Cụ Simêôn (Lc 2,30); Phaolô (Cv 28,26); ngài là tác giả nhất lãm duy nhất gọi Thiên Chúa và Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (Lc 1,47) và nói đến ơn cứu độ nơi Đức Giêsu (Lc 1,69.71.77; 19,9).
Có lẽ lý do chính đã thúc tác giả kéo câu trích Is đến tận c. 5 là vì câu này có công thức Kinh Thánh “mọi xác phàm”. Hẳn là ngài thấy từ này là một lời loan báo kín đáo ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi người. Thuật ngữ mơ hồ này đáp lại ý muốn của ngài là ghi dấu các chặng trong việc mạc khải tính phổ quát của Đức Giêsu, là đặc tính đã được cụ Simêôn công bố (Lc 2,30-32): không phải là Gioan có nhiệm vụ loan báo rõ ràng ơn cứu độ Dân ngoại, nhưng là Đức Giêsu.
+ Kết luận
Bản văn đã đặt hoạt động của Vị Tiền Hô trong khung cảnh lịch sử của nó. Thời gian của hoạt động này không còn được quy định theo triều đại của một vị vua Giuđa hay Ít-ra-en, như đối với các ngôn sứ ngày xưa (x. Is 1,1; Ge 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1; Mk 1,1; Xp 1,1), mà là theo triều đại của Vị Chúa tể thế giới, của hoàng đế Xêda Rôma. Như thế, ngay khi được loan báo, Tin Mừng đã mang tính phổ quát.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Cũng như ơn gọi của Gioan Tẩy Giả, ơn gọi của chúng ta được Thiên Chúa ban cho chúng ta vào thời đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải sống “trong ngày hôm nay của Thiên Chúa” (Dt 4,7); đối với chúng ta, thời đại chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta: giống nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng ta với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy Giả, đó là chấp nhận dứt khoát thời đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ Lời Chúa, làm khung cảnh cho cách thức ứng xử ki-tô hữu theo gương Đức Kitô.
2. Theo quan điểm của Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những cuộc chinh phục ngoạn mục của các hoàng đế Rôma hay các mánh khoé của tiểu vương Hêrôđê, mà điều quan trọng là Lời của Thiên Chúa phải được ngỏ với Gioan, con Dacaria. Trong bình diện thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng đối với cuộc sống con người, các dáng vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới bằng cách dùng những cái yếu đuối và nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và hoán cải mỗi ngày.
3. Trong sa mạc cuộc đời chúng ta hôm nay, Lời Chúa đang vang lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng, khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả các tín hữu trên thế giới, mặc cho họ theo thể chế nào, nghi thức nào … Chúng ta được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta: tức là hãy để ý đến ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng; hãy kiên vững bước đi theo con đường thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui; hãy lấp đầy các thung lũng của lòng ta, nếu chúng còn thiếu quảng đại và lý tưởng ki-tô hữu. Hãy san bằng các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những sù sì của tính tình chúng ta và chấm dứt những chia rẽ.
4. Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Mỗi năm, Phụng vụ lại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Cũng như ngài đã chuẩn bị cho dân Israel đón tiếp Đấng Mêsia ngự đến, ngài cũng có thể chỉ cho chúng ta cách thức chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Lời lẽ của ngài đôi khi rất mạnh. Nhưng thế giới hôm nay cần những con người giống vị Tẩy Giả, để nhắc cho chúng ta nhớ lại tầm mức hệ trọng của đời sống trần gian, để tố giác sự dữ, và để đứng thẳng trước các kẻ quyền thế khi họ xử sự bất công.
5. Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho “mọi xác phàm”. Chúng ta nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các nhà thừa sai theo gương vị Tiền Hô, ít ra bằng việc cầu nguyện và chu toàn trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa Quan phòng đặt để chúng ta.
Lẽ ra con người phải tìm đến với Chúa, thế mà chính Chúa tìm đến với con người. Chúa đến với chúng ta, đó là một vinh dự và là một ơn lành trọng đại. Nhưng vì không ý thức về vinh dự và ơn lành trọng đại đó nên chúng ta không thiết tha mấy với việc Chúa đến, và cũng chẳng quan tâm chờ đón Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình thương của Ngài và tích cực đón tiếp Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúa biết chúng con khốn khổ nên muốn đến cứu chúng con. Vậy mà chúng con cứ muốn ở lì trong khốn khổ và không cần tới Chúa.
Chúa chính là Ðấng cứu độ duy nhất của chúng con. Vậy mà chúng con vẫn coi tiền tài, danh vọng và lạc thú của thế gian này như là cứu tinh của đời mình.
Chúa luôn chờ đón chúng con, nhưng chúng con ít khi tìm đến với Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Br 5,1-9
Ba-rúc là thư ký của ngôn sứ Giêrêmia. Quyển sách mang tên ông cũng được viết vào thời dân Do thái đang bị lưu đày.
Trong trích đoạn này, tác giả an ủi dân bằng cách loan báo ngày giải thoát:
Ðó sẽ là một ngày đổi đời: "Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu"
Là ngày con cái Israel sẽ được quy tụ lại và trở về Giêrusalem thân yêu: "Kìa xem con cái ngươi từ Ðông sang Tây tụ họp về"
Tất cả mọi điều tốt đẹp đó đều là việc làm của Thiên Chúa: "Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Ngài"
2. Ðáp ca Tv 125
Tâm tình hân hoan của người thoát cảnh lưu đày trở về quê hương. Kèm theo tâm tình hân hoan này là tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa: "Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ... Bấy giờ trong dân ngoại người ta bàn tán: việc Chúa làm cho họ vĩ đại thay"
3. Bài đọc II Pl 1,4-6.8-11
Philipphê là giáo đoàn được Phaolô yêu thương đặc biệt, bởi họ luôn trung thành thực hiện những lời ông khuyên nhủ. Trong trích đoạn hôm nay, Phaolô khuyến khích họ gia tăng lòng mến, tiếp tục hoàn thành điều tốt đẹp Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ, để trở nên tinh tuyền không có gì đáng trách trong ngày Chúa lại đến.
4. Tin Mừng Lc 3.1-6
Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng này nhằm 3 ý:
a. Muốn cho thấy Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bởi thế Luca liệt kê những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,
Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.
Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.
Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất Do Thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).
b. Khi kê khai những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất Do Thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nói Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ phổ quát, chẳng những cho người Do Thái mà còn cho mọi dân tộc.
c. Và Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Thiên Chúa không quên dân Ngài
Không ai trong chúng ta muốn bị người ta quên lãng. Dù vậy ai trong chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm về cảm giác bị lãng quên. Người ta tổ chức một cuộc họp có liên quan đến chúng ta, thế mà người ta quên mời chúng ta. Chúng ta đã đóng góp công sức rất nhiều vào một công trình nào đó, nhưng dường như chẳng ai biết đến phần đóng góp ấy. Ngày sinh nhật của chúng ta đã đến, nhưng không ai nhớ mà mừng cả. Thực ra những trường hợp vừa kể chỉ là chúng ta bị quên vì người ta sơ ý mà thôi. Vậy mà chúng ta cũng rất buồn, vì chúng ta nghĩ rằng người ta đã không nhớ đến chúng ta, người ta không coi chúng ta ra gì.
Có một loại quên khác trầm trọng hơn, đó là người ta hoàn toàn không còn nhớ đến chúng ta nữa. Chẳng còn ai quan tâm tới chúng ta, mọi người như không nhớ là chúng ta vẫn còn hiện hữu. Nghĩa là không những chúng ta bị quên mà còn bị bỏ rơi nữa. Bị cảm giác như thế này thì đau khổ hơn nhiều.
Một linh mục kia được các linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ, quý mến. Thế rồi ngài mắc một chứng bệnh nên bị buộc phải về hưu, cả quãng đời còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, người ta đến nhà hưu thăm ngài rất đông. Nhưng năm tháng trôi qua, dòng người tuôn đến thăm viếng ngày càng giảm bớt và cuối cùng khô cạn hẳn. Không một bức thư, không một cú điện thoại. Tuyệt đối không còn gì cả, mà chỉ toàn là cô độc, lặng thinh, trống vắng. Ngài buồn nản vô cùng, nhất là những khi nhớ lại bao nhiêu công sức mình đã nhiệt tình đổ ra để phục vụ mọi người.
Rồi một hôm có một linh mục cùng lớp ngày xưa ghé thăm. Vị linh mục về hưu mừng rỡ vô hạn. Hai người đã nói chuyện huyên thuyên với nhau rất lâu. Cuối cùng vị linh mục về hưu hỏi: "Anh nghĩ là có ai còn nhớ đến tôi không?" Vị linh mục bạn không trả lời. Mà biết trả lời thế nào đây!
Quả thực, bị quên lãng là điều chẳng tốt đẹp gì cả, trái lại còn cực kỳ đau khổ. Chúng ta cũng có thể nghĩ như thế về Chúa. Khi một điều gì xấu xảy đến cho ta thì ta nghĩ "Chúa đã quên tôi rồi". Và chúng ta nghĩ tiếp: "Chúa không còn thương tôi nữa, Ngài không chăm sóc tôi nữa".
Ðó cũng là cảm nghĩ của dân Do Thái thời ngôn sứ Ba-rúc, thế kỷ II trước công nguyên. Ðất nước họ đã rơi vào tay quân thù, thành thánh của họ bị tàn phá, Ðền thờ chỉ còn là một đống gạch vụn, con cái họ bị lưu đày. Bởi thế họ hỏi nhau "Thiên Chúa ở đâu rồi? Ngài có còn nhớ đến những lời đã hứa chăng?" Và họ kết luận: Chúa đã quên chúng ta!
Nhưng ngôn sứ Ba-rúc trấn an rằng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài, những đau thương sầu khổ của họ sẽ sớm chấm dứt, Thiên Chúa sẽ mang con cháu họ trở về quê hương. Họ cần phải dọn đường cho Ngài đến cứu họ. Những lời này có sức an ủi rất lớn lao, và dân chúng lại hồ hỡi. Quả thực, những tù nhân lưu đày đã trở về cố hương. Dù vậy, lời Chúa hứa vẫn chưa thực hiện trọn vẹn mà phải chờ tới khi Ðấng Messia đến.
Gioan Tẩy Giả là người loan báo rằng Ðấng Messia đã đến. Chúa Giêsu chính là Ðấng Messia ấy, và còn là Con Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến với loài người là bằng chứng rõ ràng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài. Dù khi mọi người đều đã quên chúng ta, nhưng Thiên Chúa vẫn nhớ đến chúng ta. Ngài không thể nào không nhớ đến chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái yêu dấu của Ngài.
Hơn nữa, vì chúng ta thích được người khác nhớ đến, nên chúng ta cũng hãy nhớ đến người khác, nhất là nhớ đến những người đã làm điều tốt cho chúng ta và những người đã từng hy sinh cho chúng ta. Mùa Giáng sinh là thời gian nhớ đến tha nhân. Những cách thức nho nhỏ biểu lộ lòng mình nhớ đến người khác là gởi một món quà, hay một tấm thiệp, đi kèm với một lời chúc xuất phát tự tấm lòng và củng cố bằng lời cầu nguyện cho nhau. (FM)
* 2. Mở rộng lòng ra đón nhận ơn cứu độ
Ơn cứu độ là một đề tài lớn của Mùa Vọng. Hôm nay phụng vụ hô lớn cho mọi người nghe rằng: "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải san cho phẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa". Thật là những lời rất an ủi vì chúng cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương con người.
Thế nhưng có người nghĩ rằng để được Chúa yêu thương thì mình phải hoàn hảo. Nghĩ thế nên họ cố gắng luyện tập mọi nhân đức và tránh không bao giờ phạm tội. Tuy nhiên đó là dựa vào sức mình. Phần Thiên Chúa thì khó mà cứu độ những kẻ dựa vào sức mình như vậy.
Có một thầy tu kia tên là Ambrôsiô, rất đạo đức, rất thông minh, và cũng rất cần cù. Thầy được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi, và ai nấy đều kinh ngạc vì kiến thức và uy tín của Thầy. Thầy sung sướng vì đã làm chủ được mọi việc mình làm.
Nhưng đột ngột thầy ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu thầy rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, thầy chợt nghĩ phải biết cách dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là thầy vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với thầy, thầy chia xẻ những suy nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của thầy còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian thầy còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, Thầy viết: "Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước khi bệnh".
Có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở lòng chúng ta ra đón nhận những điều Chúa muốn ban cho chúng ta. Khi chúng ta đến với Chúa trong tư thế của người tự mãn và hùng mạnh, thì khi đó chúng ta đẩy Ngài ra xa. Còn khi chúng ta đến với Ngài mà cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, thì khi đó chúng ta mời Ngài vào lòng mình. Chính những sự bất toàn của linh hồn chúng ta mở rộng lòng chúng ta đón nhận ơn ban của Chúa, vì đó là những vết thương thu hút cặp mắt nhân từ của Chúa, làm cho chúng ta đáng được Ngài thương xót và chữa lành. Chúa Giêsu đã nói: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần". (FM)
*3. Sám hối canh tân
Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở. Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo:
Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
Tô Tần thưa:
Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?
Vua Sở khẩn khoản nói:
Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Củi quế gạo châu", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4).
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng:
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu. Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Ðộ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận. Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Ðộ. Amen. (TP)
*4. Cách dọn đường cho Chúa ngày hôm nay
Nếu chúng ta muốn đón Chúa - dù Ngài đến bằng cách nào chăng nữa - thì chúng ta cũng phải chuẩn bị, phải dọn đường cho Ngài đến với chúng ta. Ngôn sứ Ba-rúc cũng như Gioan Tiền Hô đều nhắc lại lời Kinh Thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa: «Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nồng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa». Và «Hãy dọn sẵn con đường cho Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng».
Cách nói đầy hình tượng của Thánh Kinh thật đơn sơ dễ hiểu: Công việc dọn đường cho Chúa của chúng ta là chấn chỉnh đời sống, là điều chỉnh tư tưởng, lời nói, việc làm của mình. Ðó chính là ý nghĩa của từ «metanoia», nghĩa là hoán cải, thay đổi, trở lại, không chỉ trong hành động vi phạm các nguyên tắc luân lý, mà cả trong lời nói và suy nghĩ, não trạng, trong hiểu biết của chúng ta nữa.
Ngày nay việc chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng dễ bị «nhiễu» bởi những cách chuẩn bị bề ngoài và nặng tính thương mại. Hang Ðá, Máng Cỏ đủ kiểu đủ mầu, đèn hoa rực rỡ, cờ xí tung bay... đẹp thì đẹp thật đấy, nhưng là những hình ảnh rất xa lạ với cảnh Bê-lem đích thực. Tệ hơn nữa, có không ít người lại bị nhiễm cách người đời mừng Lễ Thiên Chúa giáng trần, bằng những hàng hóa «de luxe» (=sang trọng) và những bữa tiệc linh đình, phung phí, thậm chí tội lỗi nữa.
Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta hãy tự kiểm điểm một cách chân thành và khiêm tốn:
Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Ðạo và rao giảng Tin Mừng đã tạm đủ và phù hợp với Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội chưa? Tôi phải làm gì để có được một hiểu biết đầy đủ hơn về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Ðạo, về cách rao giảng Tin Mừng?
Cách suy nghĩ, cách đánh giá con người và sự việc của tôi dựa vào Phúc Âm và Giáo Huấn của Giáo Hội hay dựa vào dư luận và thói thường của thế gian?
Mọi hành động của tôi (làm ăn, buôn bán, việc đạo, việc đời...) nhằm mục đích làm đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích sinh lợi (vật chất, tinh thần, tâm linh) cho bản thân tôi và những người chung quanh (gia đình, bạn bè, lối xóm, khu vực... xã hội) hay chỉ nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ và các dục vọng xấu trong tôi?
Chắc chắn khi thành thật trả lời các câu hỏi trên mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta sẽ thấy «thung lũng» phải lập đầy, «núi đồi» phải san bằng, «đường quanh co» cần phải uốn ngay trong tư tưởng, lời nói, hành động thường ngày của mình.
Lạy Chúa, xin hãy đến với con! với gia đình, với giáo xứ và với dân tộc con! Lạy Chúa, xin hãy tu sửa lòng trí và cách sống của chúng con! (Giêrônimô Nguyễn văn Nội)
* 5. Lạc quan
Biết bao người bi quan với cuộc đời và với thế giới. Chúng ta đã nghe quá nhiều những nhận định chán chường, như: Ðời là bể khổ; đời là con đường đi vào ngõ cụt; tha nhân là hỏa ngục v.v. Nhưng giọng điệu của Lời Chúa hôm nay khác hẳn: "Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Ngài" (bài đọc 1); Ngay cả những người đang "nghẹn ngào ra đi gieo giống" cũng có thể mong chờ "mùa gặt mai sau khấp khởi mừng" (Ðáp ca); "Ðấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó cho tới chỗ hoàn thành" (bài đọc 2); "Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa" (Tin Mừng)
Người đời bi quan là vì họ không có đức tin. Kitô hữu thì phải lạc quan vì có đức tin. Ánh sáng đức tin giúp chúng ta giúp chúng ta thoát khỏi kiểu nhìn những biến cố một giới hạn và cục bộ, nhưng mở rộng tới tầm nhìn toàn diện lịch sử diễn tiến theo chương trình của Thiên Chúa.
* 6. Bài giải thích của Origène (+ 253)
Câu Cựu Ước được trích dẫn là của ngôn sứ Isaia: "Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi" (Is 40,3) Con đường mà chúng ta phải dọn cho Chúa là con đường nào? Phải chăng là con đường vật chất? Thế nhưng Lời Chúa có cần đi con đường này không? Hay là phải dọn cho Chúa con đường nội tâm và thu xếp trong tâm hồn chúng ta những con đường ngay thẳng và liền lạc? Vâng, đây chính là con đường mà Ngôi Lời Thiên Chúa vạch trong tâm hồn con người để nó có khả năng đón nhận Lời Ngài.
Tâm hồn con người thật rộng rãi và dễ đi, miễn là nó thanh sạch. Bạn có muốn biết con đường ấy rộng lớn thế nào không? Hãy xem nó có thể chứa đựng biết bao hiểu biết thần linh. Chính tâm hồn con người thố lộ: "Quả chính Ngài ban cho tôi trí tri cách vật, biết được cơ cấu càn khôn và năng lực của ngũ hành, mối đầu, mút cuối và khoảng giữa các thời, đông chí hạ chí đắp đổi và thời tiết tuần hoàn, tần niên chu kỳ, vị trí tinh sao, bản tính loài vật, bản năng mãnh thú, sức mạnh tinh thần, tâm tư người thế, phân loại thảo mộc, dược tính rễ cây. Mọi điều ẩn tàng hay minh bạch, tôi đều đã biết. Phải, chính tay thợ làm ra mọi sự đã dạy dỗ tôi, sự khôn ngoan" (Kn 7,17-23). Bạn thấy đấy, tâm hồn con người đâu phải là nhỏ vì có thể chứa đựng bấy nhiêu điều ấy. Bạn phải hiểu rằng nó rộng lớn không phải về những chiều kích thể chất, mà về năng lực của tư tưởng, có thể ôm trọn những hiểu biết chân lý to lớn dường ấy.
Ðể giúp những người đơn sơ nhận biết sự to lớn của tâm hồn con người, tôi sẽ đưa ra những thí dụ quen thuộc. Tất cả mọi thành thị chúng ta đi qua, chúng ta đều giữ lại trong tâm trí: những nét đặc thù của chúng, hoàn cảnh ở các nơi, những tường lũy, những dinh thự... Tất cả đều ở lại trong tâm hồn chúng ta. Con đường mà chúng ta đã đi qua, nó cũng ở lại như vẽ như in trong trí nhớ của chúng ta. Biển cả mà chúng ta đã bơi lội, chúng ta vẫn còn giữ lại trong ý tưởng một cách thầm lặng. Tôi xin lặp lại, chẳng nhỏ bé đâu cái tâm hồn có khả năng ôm ấp biết bao điều như thế ấy! Và nếu nó không nhỏ vì có thể ôm ấp bao điều như vậy, ta có thể dọn đường cho Chúa và sửa thẳng lối lại để cho Ðấng là Lời và Khôn ngoan có thể đi. Hãy dọn đường cho Chúa bằng một cách sống đáng khen, bằng những việc làm tuyệt hảo; hãy san phẳng con đường để Ngôi Lời có thể đi mà không gặp cản trở nào. Rồi Ngài sẽ ban cho bạn được hiểu biết về những mầu nhiệm và về việc Ngài ngự đến, "kính dâng Ngài vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời" (1 Pr 4,11)
7. Chuyện minh họa ý nghĩa Mùa Vọng
Tôi đưa một người bạn mù ra sân bay. Khi đến nơi, tôi bảo người đó "Tôi đi lo chút việc. Anh đứng đây chờ tôi nhé. Ðừng đi đâu cả". Rồi tôi đi mua vé, gởi một lá thư và đọc thông báo về các chuyến bay. Khi tôi quay lại, tôi thấy người bạn mù vẫn đứng đấy. Người ta chen lấn chung quanh anh, một người phu khuân vác đây xe trước mặt anh, một đứa bé ngạc nhiên nhìn anh chăm chăm, một người bán báo rao inh ỏi trước mặt anh... Nhưng anh vẫn đứng yên, nét mặt bình thản, không chút nghi ngờ, không hề sợ sệt. Anh tin chắc tôi sẽ trở lại đón anh. Cảnh một người mù nhắm mắt đứng yên chờ tôi trở lại khiến tôi liên tưởng tới thái độ người tín hữu phải có trong Mùa Vọng để đón chờ Chúa đến. (Willi Hoffsuemmer).
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa mời gọi con người hiệp thông với Chúa và với nhau. Ðể đáp lại lời mời gọi đó, con người phải hoán cải con tim, rồi suốt cuộc đời, phải ăn năn sám hối. Với lòng thống hối chân thành vì những lỗi lầm đã phạm, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin:
1. Sứ điệp của thánh Gioan Tẩy giả được đúc kết trong lời mời gọi; / Anh em hãy sám hối / vì Nước Trời đã đến gần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình / và quyết tâm đổi mới đời sống / để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh.
2. Trên thế giới ngày nay / tội ác vẫn lan tràn khắp nơi / đặc biệt là tội buôn bán phụ nữ và trẻ em / Chúng ta hiệp lời cầu xin hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo của hết thảy mọi quốc gia / tìm được những biện pháp thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng ghê tởm này.
3. Ngày nay có một số người hầu như mất hết ý thức về tội lỗi / họ coi việc phạm tội là bình thường / vì lương tâm họ đã trở nên xơ cứng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn soi sáng / để mọi người biết cố gắng lánh xa tội lỗi / và tích cực làm nhiều việc thiện.
4. Trong một thế giới còn nhiều bạo lực / bất công / hận thù / chia rẽ / cần có những người dám xả thân / mang sứ điệp yêu thương của Chúa đến cho mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những chứng nhân của Thiên Chúa là tình yêu / bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha nhân hậu từ bi, để hết thảy mọi người có thể nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa, chúng con phải sống gương mẫu trong đời sống tin cậy mến. Vì thế, xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con biết sống theo lời dạy dỗ của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng là chúng ta có dịp nhắc nhiều đến Gioan Tẩy Giả, người dọn đường: MV 2-C59
Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng là chúng ta có dịp nhắc nhiều đến Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến.
Gioan tẩy giả sống trong thời kỳ đất nước Do thái bị chia năm xẻ bảy, chịu sự cai trị của những kẻ thân Rôma, ngay cả vị thượng tế cũng do Rôma đặt lên chứ không phải là người xứng đáng trong hàng tư tế được bầu chọn! Chính lúc đó, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả đi dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Bên dòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người lấp mọi hố sâu hằn thù ghen ghét, bạt đi những kiêu căng tự phụ, chỉnh sửa lối sống mình cho ngay chính và nhận phép rửa tỏ lòng sám hối.
Chắc chắn, thánh Gioan Tẩy Giả đã gặp nhiều khó khăn trong nhiệm vụ tiền hô vì trong dân Do thái có quá nhiều phe phái với chủ trương có phần trái nghịch nhau: Phái Sađôc phần lớn thân Rôma, họ không tin vào sự sống lại và chỉ lo tìm chức tước, quyền lợi của Rôma ban bố hơn là lo cho dân nước. Trong khi đó, Biệt Phái và Luật sĩ công nhận có đời sau nhưng lại kiêu căng mù quáng, họ quá tự hào về sự chính thống của mình, cho rằng mình hiểu biết lề luật và đạo đức hơn mọi người nên chẳng cần nghe ai. Chính Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo về sự kiêu căng và giả hình của họ trong đời sống đạo nhưng họ bịt tai, nhắm mắt trước những lời giảng dạy của Ngài! Ngoài ra còn phe theo hêrôđê, phe theo đế quốc Rôma và những nhóm chủ trương giải phóng dân tộc.
Giữa những phức tạp của xã hội đó, Gioan Tẩy Giả tẩy giả đươc kêu mời làm người dọn đường, giúp mọi thành phần dân Do thái biết trở về với Chúa , biết hoán cải thật lòng để xứng đáng đón Đấng Thiên Sai ngự đến. Thánh Gioan Tẩy Giả tẩy giả đã đón nhận một nhiệm vụ hết sức khó khăn, không đơn giản chút nào. Thế nhưng, Gioan Tẩy Giả xem ra không lo sợ trước những khó khăn đó vì ngài đã dâng trót thân mình cho Chúa và công cuộc dọn đường này. Từ lúc thiếu thời, ngài đã tôi luyện mình trong hoang địa, đêm ngày cầu nguyện, ăn chay, từ bỏ mọi quyến luyến thế gian, bỏ của cải vật chất, danh vọng và cả gia đình vì bổn phận Tiền Hô. Trong dòng nước Giođan, ngài đã giúp cho biết bao người sám hối trở về cùng Chúa . Tuy nhiên, cũng chính vì nhiệt tình với luật Chúa mà ông phải thiệt thân. Ông đã không ngần ngại nói sự thật về tội của Hêrôđê và mong vua hoán cải, nhưng vua đã không nghe, lại còn ỷ quyền ỷ thế tống giam Gioan Tẩy Giả vào ngục và chiều theo ý mụ hêrôđiađê mà giết người công chính.
Gioan Tẩy Giả đã hết mình chu toàn nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Messia và ông làm chứng cho Chúa bằng mạng sống của mình.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, chúng ta cũng được Chúa kêu mời làm những Gioan Tẩy Giả trong thời đại hôm nay, chúng ta cũng có bổn phận sống gương mẫu để kêu mời mọi người đến với Chúa , chúng ta hãy là những tiếng kêu cho mọi người thức tỉnh, biết hoán cải thật lòng để xứng đáng đón Chúa ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang.
Để tiếng kêu của chúng ta được rõ ràng và mạnh mẽ, chúng ta hãy gia tăng cầu nguyện, sửa đổi chính mình, hãm dẹp tính hư tật xấu và nhất là tập các nhân đức như bác ái, khôn ngoan, tiết độ…để chúng ta mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Đó cũng là những món quà chúng ta dâng lên Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.
Chúa đang đến! Hãy nhìn để thấy, hãy chuẩn bị tâm hồn, Chúa sẽ hoàn tất những gì người đã khởi sự nơi mỗi người chúng ta.
1. Hãy đứng lên cao và hãy quan sát, để thấy. ..
Dân chúng, số sót lại tại Giêrusalem thời Barúc rất bi quan vì vua quan và những người tài giỏi đã phải đi đày ở Babylon. Đất nước tiêu điều tang thương. Làm sao mà vui được khi đất nước trong hoàn cảnh như vậy! Chính trong hoàn cảnh âu sầu đó, tiên tri loan báo cho dân một tin mừng: dân con Do Thái sẽ trở về từ khắp đông tây. Chính Thiên Chúa sẽ đem con dân Ngài trở về quê hương thoát cảnh lưu đày biệt xứ. Vui mừng trên toàn đất nước, cả đến suối nước rừng cây cũng cùng dân vui mừng hoan hỉ, vì chính Thiên Chúa lãnh đạo dân và tình thương lan toả trên khắp đất nước.
2. Thiên Chúa đã và đang làm những điều vĩ đại
Đưa dân Do Thái trở về từ nơi lưu đày, làm sao người có thể làm được. Làm sao người Do Thái có thể mạnh, để đánh thắng nước đang bắt những người Do Thái lưu đày để giải phóng họ, khi “số sót” những người không bị lưu đày là những người hèn yếu kém tài? Thiên Chúa đã sai Đấng Kitô của Ngài tới để giải phóng dân Do Thái đang bị lưu đày trở về, đó là vua Kyrô, một vua ngoại không phải là người Do Thái, đã ban lệnh cho người Do Thái lưu đày được trở về quê hương, và được phép tái thiết đền thờ đã bị vua Babylon phá hủy (Is.45, 1). Điều con người không thể ngờ, không dám mong chờ thì Thiên Chúa vẫn làm cho con người. “Đức Chúa đã làm những điều trọng đại cho chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan”!
“Tin vào Tin Mừng, tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa làm người”, là điều vô cùng khó đến độ có thể nói, không ai có thể làm được. Ấy thế mà Thiên Chúa vẫn làm; Ngài đã cho chúng ta và bao người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu.
Yêu người, cũng là những điều khó mà Thiên Chúa vẫn giúp chúng ta thực hiện. Người ta có kinh nghiệm yêu thương khó đến mức nào, khi người đó bị xúc phạm hay bị làm hại nặng nề. Con người không thể làm được, thì Thiên Chúa vẫn có thể và luôn giúp con người thực hiện.
3. Chúa đang tới
Những nhân vật quan trọng trước khi đến đâu, thường có những người tới trước để dọn đường, để chuẩn bị. Chúa sắp tới, nên Gioan Tẩy Giả đã được sai tới để chuẩn bị cho dân đón Chúa. Điều Gioan Tẩy Giả hô hào dân chúng chuẩn bị đón mừng Đấng Thiên Sai, là “hãy dọn đường cho Chúa trong tâm hồn mỗi người, hãy uốn cho thẳng những chỗ quanh co không ngay thẳng, san bằng những hố sâu ngăn cách”.
Chỉ khi nào con người chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, con người mới có thể nhận ra Chúa mà thôi. Ngày xưa dân Bêlem không nhận ra Chúa tới với họ, nên Chúa đã phải được sinh trong chuồng chiên cừu; dân chúng không nhận ra Chúa, nên đã không tin theo và còn đóng đinh Ngài vào thập giá.
Hôm nay, tôi có nhận ra Chúa tới với tôi qua những “dấu chân” không? Tạo vật và mỗi người chúng ta, cũng có thể trở thành “dấu chân” của Chúa. Nếu tôi không biết nhìn, không biết trèo lên nơi cao để nhìn, hoặc không biết vào nơi kín đáo để thấy, hoặc không sẵn sàng, thì không thể thấy Ngài được. Xin cho chúng ta cũng biết lên núi (cầu nguyện) để nhận ra Chúa đang tới, đang ở với chúng ta.
Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt cho bằng, hãy uốn cho ngay....! Nếu không làm vậy, không thể nhận ra Chúa được. Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị bằng từ bỏ chính mình, để nhận ra và đón mừng Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Bạn có nhận ra những chỗ quanh co và hố sâu nơi bạn, ngăn cản bạn tới với Chúa và với anh chị em không? Đây là điều rất sâu kín của mỗi người, nhưng nếu bạn thấy nó giúp ích cho bạn và những người khác, thì xin bạn chia sẻ.
Đâu là biến cố trọng đại nhất trong đời bạn? Tại sao nó lại là biến cố quan trọng nhất?
Theo bạn, “sám hối” có cần để bắt đầu lại và sống một đời sống mới không? Sám hối, hệ tại ở điểm nào nhất?
Có vô vàn ngăn trở khiến con người không thể đến được với nhau.
Ngăn cách vì tường cao luỹ sâu, vì đồi núi chập chùng hiểm trở, có một thời là trở ngại lớn cản trở nhiều người, nay không còn là vấn đề đối với phương tiện đi lại tân tiến hôm nay.
Ngăn cách vì đường xa thiên vạn lý đã dần dần bị thu ngắn lại; hai người ở cách nhau nửa quả địa cầu có thể gặp nhau sau vài ngày du hành bằng máy bay.
Thậm chí ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng đã được bắc cầu.
Bên cạnh những ngăn cách về không gian, về đường sá thì ngăn cách về quan điểm, về ý thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.
Đã có thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản), bởi những quan điểm đối nghịch và những chủ trương khác nhau, đã tạo nên những chia cắt rất sâu sắc giữa cộng đồng nhân loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng không bao giờ có thể vượt qua. Vậy mà hôm nay những ngăn cách như thế xem ra đã được thu hẹp rất nhiều.
Rốt cuộc, chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do lòng hận thù, do ghen tị, do hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất và tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử loài người. Những ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được; khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.
Con người đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên cố, bắc qua những dòng sông rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể xây dựng những nhịp cầu thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách? Thánh Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những nhịp cầu như thế.
Theo Tin Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm kẻ bắc cầu, dọn đường cho Chúa đến:
"Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng." (Lc 3, 4-5)
Phải dọn đường đón tiếp Chúa thế nào đây?
Người con cái Chúa rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi trời cao thẳm nhưng lại hay lãng quên các chi thể của Người đang sống kề cận quanh mình; thế nên việc dọn đường đón tiếp những chi thể của Thiên Chúa đang sống quanh ta là điều đáng được thực hiện ngay không trì hoãn.
Chúa Giê-su luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Người đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25, 40)
Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là dọn đường cho anh chị em chung quanh có thể đến được với mình.
Các chủ quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành lạc lõng đi tìm chỗ trọ (thánh Giu-se và Mẹ Maria) là trực tiếp khước từ Thiên Chúa. Hài Nhi Giê-su phải sinh trong chuồng bò vì con người đã không tiếp nhận con người. Tất cả những ai hành xử như thế với người chung quanh sẽ bị Chúa Giê-su cảnh cáo: "Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước" (Mt 25, 43)
Vậy thì đón tiếp Chúa là sẵn lòng tiếp nhận mọi người không trừ ai. Dọn đường đón Chúa là xoá bỏ đi những ngăn cách do chúng ta dựng lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp mặt hằng ngày.
Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân li ngăn cách, ấy mới là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể đến được với mình.
“Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa vời người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa vời Ta” (Kh 3, 20).
Theo lời sách Khải Huyền, Thiên Chúa vẫn hằng gõ cửa tâm hồn mỗi và không phải mọi đều đón nhận lời của Người.
Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn có nhiều cách thế để người để thổ lộ tâm tình với con người để dẫn đưa họ tiến bước theo nẻo chính đường ngay.
I. CHỐN CÔ TỊCH
Tin mừng thánh Lu-ca trong phụng vụ Chúa nhật II mùa Vọng năm C (Lc 3, 1-6) khởi đầu với việc giới thiệu bối cảnh lịch sử của đất nước Do Thái với những chi tiết cụ thể: Năm thứ muời lăm triều đại hoàng đế Ti-bê-ri-ô thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn… Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế.
Lời giới thiệu vừa nêu cho thấy đất nước do Thái thời ấy là đất nước do vua-chúa cai trị và bị người Rôma đô hộ. Đất nước ấy cũng có những sinh hoạt tôn giáo do những vị thượng tế như Kha-nan và Cai-pha hướng dẫn.
Một bối cảnh lịch sử xã hội và tôn giáo tạm gọi là “hoành tráng” nhưng lại vắng bóng Thiên Chúa trong lòng con người. Bằng chứng là trong cung điện lầu son gác tía, trong đền thờ đầy ắp những nghi thức tế tự người ta không nghe được Thiên Chúa. Chỉ trong chốn hoang địa và nơi tâm hồn cô tịch người ta mới nghe được tiếng Chúa: “Thiên Chúa đã phán cùng ông Gio-an, con ông Da-ca-ri-a, trong hoang địa” (Lc 3, 2).
Trước đó, thời Cựu Ước, Thiên Chúa cũng thường lên tiếng với con người trong chốn cô tịch:
Ngày ngôn sứ Ê-li-a trốn lên núi Kho-rép, Thiên Chúa đã đến gặp ông không phải trong trận cuồng phong hay trong cơn động đất, nhưng Thiên Chúa phán với ông trong tiếng thì thào của làn gió nhẹ (x. 1V 19, 11-12).
Khởi sự gọi Sa-mu-en làm ngôn sứ, Thiên Chúa đã cất tiếng gọi ông trong khung cảnh ban đêm yên tĩnh của đền thờ (x. 1Sm 3, 1-15).
Ngày nay, cuộc sống con người ngày càng tấp nập với những bận rộn. Bên cạnh nền văn minh hiện đại thì không ít nơi xảy ra tình trạng hờ hững với tâm linh, khép chặt tâm hồn trước mạc khải của Thiên Chúa, chọn lọc chặt chẽ mối tương giao với đồng loại, chốn chạy sự thịnh lặng để bớt đối diện với lương tâm…
Lời thánh Lu-ca mời gọi người tín hữu tìm về hoặc tự tạo cho mình chốn cô tịch cần thiết để lắng đọng tâm hồn. Nơi ấy, họ sẽ đón nhận được tiếng Chúa, hầu nghe tiếng lương tâm hối hận.
II. NƠI TÂM HỒN SÁM HỐI
Trong chốn cô tịch, nhờ “ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên” (Bài đọc II Pl 1, 9), thánh Gio-an tẩy Giả đã nghe được tiếng Chúa nói với chính mình:
“Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3, 4-5).
Rõ ràng, thánh nhân đã nghe được tiếng Chúa mạc khải về cách sống của những tâm hồn thao thức chờ đợi Chúa. Đó là một cuộc hoán cải và canh tân đời sống:
Chỉnh đốn cho ngay thẳng tâm hồn, diệt tan đi những mờ ám gian manh, xảo quyệt.
Lấp đầy hố sâu mặc cảm tự ti để tự tin vững vàng bước đi trong cuộc đời.
San bằng những núi đồi của sự kiêu ngạo… Sửa trị thói quanh co gian dối giả hình… Triệt tiêu đi những sự lồi lõm nơi những rắc rối phức tạp, gây hấn…
Bằng kinh nghiệm khổ chế của bản thân và sự gặp Thiên Chúa trong chốn cô tịch, thánh Gio-an Tẩy Giả đã lên tiếng mời gọi con người làm một cuộc biến đổi cuộc đời hầu trở về với Thiên Chúa.
Tiệc rằng, ngày nay, trong nhân gian đã nảy sinh hiện tượng duy chủ thể đức tin. Người ta không thích những hướng dẫn đức tin tôn giáo truyền thống; họ chỉ chấp nhận những gì khớp với kinh nghiệm đức tin theo chủ quan của họ.
Lời thánh Lu-ca mời gọi người tín hữu tìm về với truyền thống của cội nguồn đức tin, sám hối bằng một cuộc hoán cải nội tâm, một niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa tình thương, một sự chân thành khiêm tốn. Hẳn một cuộc sống biến đổi và canh tân như thế không chỉ mang lại ơn cứu độ cho bản thân mà còn làn tỏa sức sống cho muôn người.
III. CHAN HÒA KHẮP NƠI
Tiếng Chúa đã đến với tâm hồn cô tịch của thánh Gio-an tẩy Giả. Từ đây, tiếng Chúa lại nhân rộng ra đến muôn người qua đời sống canh tân tốt lành của toàn thể dân Chúa: “Rồi hết mọi phàm nhân sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 6).
“Hữu xạ tự nhiên hương”, khi dân Chúa canh tân đời sống “khoác lên mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng” thì muôn dân “khắp cả hoàn cầu thấy hoàng quang rực rỡ” (Bài đọc I. Br 5, 2. 3).
Rõ ràng sức sống nội tại của dân Chúa không phải bằng vũ lực, tranh chấp hơn thua theo kiểu “hàng tôm, hàng cá” hoặc theo kiểu trả đũa“đấu đá ăn thua”.
Sức sống nội tại của dân Chúa là dìm mình trong sự sống của Thiên Chúa. Mọi cuộc xuất phát của cuộc sống, của những kế hoạch trong đời đều phải xuất phát từ nơi Thiên Chúa, “từ một đời sống công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (Bài đọc II. Pl 1, 11).
Ngày nay, người tín hữu đang đồng hành với một cuộc sống ngày càng phát sinh nhiều hệ tư tưởng phủ nhận Thiên Chúa. Nhiều người chủ trương phủ nhận Thiên Chúa. Vật chất chiếm một vị trí độc tôn trong lòng họ. Quyền lực của nắm đấm và tiền bạc là phương thế trấn áp mọi người hầu duy trì thể chế và củng cố địa vị.
Qua lời kêu gọi sám hối của thánh Gio-an Tẩy Giả, Thiên Chúa đang nói với con người: thiện sẽ tháng ác, hoán cải sẽ cảm hóa sự cố chấp. Sự thiện và hoàn cải ở đây không chỉ là thiện chí hoặc cách xử thế trên lý thuyết mà phải được cụ thể qua một đời sống hoán cải và canh tân, thể hiện qua những cách sống xứng hợp “không gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm” (Pl 1, 10).
Ta còn nhớ, gương sống huynh đệ tương thân tương ái, tỉnh thức cầu nguyện trong khiêm hạ của cộng đoàn Hội Thánh tiên khởi đã thuyết phục toàn dân thương mến và ngày ngày có nhiều người gia nhập đạo, để được cứu độ (Cv 2, 46-47).
Tiếng của Chúa đã ban cho muôn dân thiên hạ. Trong chốn cô tịch người ta sẽ nghe được tiếng Chúa. Nơi tấm lòng sám hối chân thành, tiếng Chúa sẽ biến đổi nên tốt lành thánh thiện.
Chúa sẽ dùng những tâm hồn canh tân, biến đổi để ban ơn cứu độ cho muôn người.
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại dí dỏm giữa Đức Phật và ác thần Mara:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân tín của Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ tưởng rắng Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara nên hỏi lại:
Ngươi còn đứng đây để làm gì ? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao ? Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì ? Ngươi không biết xấu hổ sao ? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư ?
Ananda cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng ngài có kẻ thù. Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài. Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara. Ananda hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn. Ngài niềm nở: Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không ? Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Ananda pha trà. Ananda bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được. Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú nhận một cách chản nản như sau:
Mọi việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ. Ngài biết đấy, đóng vai Mara không phải là chuyện dễ, có nói thì nói gian nói dối, cón có làm thì làm điều dữ điều ác. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính là các môn sinh của tôi. Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đến đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.
Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài nói:
Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao ? Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao ? Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để đổi chác. Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu nhưng lại là một thực tế bi thảm: môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam chuối và tiền bạc thay vì chuyên tâm tự giác giác tha. Sự thiếu nhất quán và óc thực dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn giáo cao siêu ! (x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston,2003,tr 203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ Đức Giêsu qua trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay. Gioan và Giacôbê đã nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thụi rụi cả làng Samaria chỉ vì dân làng không tiếp đón Thầy của mình.
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Ngài đã sai sứ giả Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp Thầy trò. Thế nhưng hai môn đệ trở về, lòng đầy căm tức thốt lên lời giận dữ: Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó không ? Phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Elia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ (2 V 1,10-12). Chúa đã nặng lời khiển trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy: nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con. Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ ngàng về thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Samaria, họ càng kinh ngạc hơn khi Chúa tuyên bố: anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào,vì Con Người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu sống.
Trong não trạng của các môn đệ cũng như nổi khát khao hàng thế kỷ của dân Do thái là mong đợi một Đấng Messia giải phóng dân tộc, phục hồi sức mạnh trần thế của Israel. Chúa Giêsu thận trọng để không bao giờ đồng hoá với hình ảnh một Đấng Thiên sai đã bị “chính trị hoá”. Chúa khai mở một con đường cứu độ bằng yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục…
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ Satan trong sa mạc là khởi đầu một cuộc đấu tranh cam go và kiên trì kéo dài trong suốt hành trình dương thế. Chúa đã qưở trách Phêrô khi ông đóng vai trò satan dụng tâm cám dỗ Chúa bỏ con đường cứu độ theo chương trình của Thiên Chúa: ”Satan, xéo đi ! vì tâm tư ý nghĩ của ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 8,32). Chúa đã bỏ trốn lên núi một mình khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ hoá bánh ( Ga 6,5-15). Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu một dấu lạ nhãn tiền vì người ta muốn thử tài Ngài (Mt12,38; Mc 8,11) hay để thoả mãn óc hiếu kỳ của người đời (Lc 23,8). Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc dùng phép lạ để hù doạ hay trừng phạt dân chúng. Ngay cả giây phút bi đát nhất bị quân binh vây bắt, một môn đệ vung kiếm chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế, Chúa liền truyền lệnh: ”Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?” (Mt 26,52-54).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái. Tin mừng cứu độ được gửi đến mọi người đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi. Hình ảnh người Mục tử bỏ lại 99 con chiên để vất vả ngược xuôi đi tìm con chiên lạc và khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, mời mọi người chia sẻ niềm vui ( Lc 15, 4-7). Con đường Chúa chọn là con đường yêu thương của vị Mục tử nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng cho đàn chiên (Ga 10,11). Nơi Ngài, sứ vụ Messia và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ Giavê đã quyện lẫn với nhau, như Isaia đã diễn tả trong “Bài ca về Người Tôi Tớ” (Is 52,13-53,12). Ngài là người Tôi tớ trung tín của Giave ”bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”(Is 53,8). “Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng”(Is 53,7) và tuyệt đối từ chối mọi hình thức sử dụng bạo lực.
Hình ảnh Đấng Thiên sai đau khổ nơi Đức Giêsu diễn tả một cách thật hùng hồn điểm độc sáng của Kitô giáo: Thiên Chúa của Đức Giêsu không hù doạ hay ép buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá và tự do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết (x.sđd tr 217).
Chúa Giêsu không muốn sử dụng phép lạ quyền uy để thu phục nhân tâm. Chúa dùng tình thương để cảm hoá lòng người. Chúa Giêsu không xây dựng giáo thuyết trên quyền bính trần thế mà là ở sự từ bỏ và con đường thập giá. Chúa đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Chúa đã phục sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa vị cao quý con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giêsu, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và cùng đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương, bao dung, hướng đến trọn lành.
Trong Mùa Vọng, qua các Bài Đọc trong Thánh lễ, chúng ta được sống lại lịch sử Ơn Cứu Độ. Các Bài Đọc Cựu Ước thường trích ra từ sách Tiên Tri Isaia, một vị Tiên Tri lớn trong thời Cựu Ước, sống vào khoảng hậu bán thế kỷ VIII trước Chúa Giáng Sinh. Tiên Tri đã được linh ứng và tuyên sấm về ngày Đấng Cứu Thế đến, mặc thân xác loài người và sống giữa nhân loại như một con người để chia sẻ thân phận con người như chúng ta, rao giảng Tin Mừng tình thương và Ơn Cứu Độ, chịu bao khổ hình, và chết trên Thập Giá để đền tội và cứu chuộc nhân loại tội lỗi; rồi Ngài đã sống lại và về Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho mọi người tin và sống theo tinh thần Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng. Ngài được sinh ra từ cung lòng một Trinh Nữ và được gọi là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tiên Tri Isaia đã loan báo trước: “Này một Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai…” (Isaia 7: 14)
Tiên Tri Isaia cũng nói đến Đấng Cứu Thế như một “Hoàng Tử Hòa Bình”, và triều đại của Ngài là một thời thanh bính: “Người ta lấy gươm mà rèn nên lưỡi cầy, lấy dao rèn nên lưỡi liềm. Nước này sẽ không còn tuốt gươm để chống nước kia!” (Isaia 2: 4). Đó cũng là thời đại của tình yêu thương, hòa hợp: Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ sống chung với nhau; các trẻ thơ sẽ chăn dắt đoàn thú vật, bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi!...” (Isaia 11: 6-9).
Nhưng để có thể đi vào thời đại của Đấng Cứu Thế trong một “Trời Mới Đất Mới”, mỗi người phải sửa đổi cuộc sống cho ngay thẳng, lương thiện, sống công chính và yêu thương. Tiên Tri Isaia đã hô hào: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp các hố sâu, và bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy sửa cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng; rồi vinh hiển của Chúa sẽ xuất hiện; mọi người sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa…” (Isaia 40: 3-5).
Chúa Nhật hôm nay (Bài Phúa Âm trích trong Phúc Âm Thánh Luca 3: 1-6), Thánh Gioan Tiền Hô cũng nhắc lại lời Tiên Tri Isaia để kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến. Chính Người là Đấng Tiên Tri Isaia đã loan báo: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng…”
Bài Đọc I (Sách Baruc 5: 1-9) nói đến ngày Thiên Chúa đến giải thoát Dân Chúa khỏi cảnh lưu đầy và đưa về quê hương. Tiên Tri hô hào dân chúng hãy hân hoan vui mừng, “hãy cởi áo tang chế.” Hãy vui mừng vì ngày giải thoát đã đến. Các núi đồi đã bị triệt hạ, các hố sâu được lấp đầy, mặt đất được bằng phẳng để mọi người bước đi ca hát tôn vinh danh Chúa trong niềm hân hoan. “Khi Chúa đưa dân Sion bị bắt trở về, người người hân hoan như trong một giấc mơ…” (Đáp Ca trích trong Thánh Vịnh 125). Đây cũng là hình ảnh ngày Chúa Cứu Thế đến, ngày công lý và hoà bình ngự trị!
Những hình ảnh cụ thể về công việc “sửa đường và dọn đường đón Đấng Cứu Thế…” đều nói lên công cuộc sửa đổi đời sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn đi theo “đường ngay nẻo chính” sẵn sàng đón Chúa đến với chúng ta. Đó là công việc thánh hóa bản thân và thánh hóa môi trường sống của chúng ta. Thời đại nào, xã hội cũng có những ‘tệ đoan’, những cảnh bất công, gian tham, hà hiếp lẫn nhau. Nhưng chúng ta, những tín hữu của Chúa, chẳng những phải tránh xa những tệ đoan đó, phải tránh xa những sự gian tham, ích kỷ tư lợi, mà còn có bổn phận phải góp phần vào việc sửa đổi xã hội khỏi những tệ đoan đó. Hơn nữa, chúng ta còn phải sống khiêm tốn, hòa hợp yêu thương với mọi người. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (Philipphê 1: 4-6, 8-11) đã nói với chúng ta: “Tôi cầu xin cho anh em được nên tinh tuyền, không gì đáng trách trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô lại đến. Như thế, anh em có thể mang lại hoa trái dồi dào là sống một đời sống công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.”
Mùa Vọng là mùa tĩnh tâm dài để mọi người chúng ta dành nhiều thời giờ hơn vào việc cầu nguyện, và trong thinh lặng của đáy tâm hồn, và “từ trong sa mạc ‘của đời sống, chúng ta có thể lắng nghe thấy tiếng Chúa mời gọi chúng ta: ‘Hãy sửa đường lối cuộc đời chúng ta cho ngay thẳng, tránh những quanh co, gian dối; hãy lấp đầy lòng chúng ta bằng công việc lành phúc đức “hoa quả của sự công chính” (Bài Đọc II) thay vì những gian tham; bạt núi đồi của tính kiêu ngạo khoe khoang để tâm hồn chúng ta luôn sống khiêm tốn và hòa hợp yêu thương với mọi người, và “chúng ta sẽ cảm nghiệm được Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đến với chúng ta và gia đình chúng ta.”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng hiệp lời cầu nguyện để mỗi người chúng ta, dù sống trong điạ vị nào, hoàn cảnh nào, là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta luôn cố gắng sống theo ‘đường ngay nẻo chính’ và lo chu toàn bổn phận của mình. Xin cho các Chủ Chăn, các Linh Mục, tu sĩ nam nữ, luôn cố gắng tận hiến cuộc đời phục vụ Chúa và dân Chúa. Xin cho các bậc cha mẹ biết sống đức tin mạnh mẽ để làm gương sáng cho con cháu. Xin cho các cặp vợ chồng biết sống yêu thương, chịu đựng lẫn nhau, chung thủy trong tình yêu. Xin cho giới trẻ lớn lên được hưởng một nền giáo dục tốt từ nơi gia đình để nắm vững đức tin và luôn cố gắng sống theo đường lối của Chúa.
“Hãy san bằng đồi núi cho Người đi, Lấp vũng sâu ham hố cho Người qua: Núi kiêu căng và hố tham lợi danh và hố của hờn ganh! Hãy lấp cho thật nhanh!
Người đang đến, kìa Người đang đến giữa chúng ta. Người mang đến, kìa Người mang đến ơn cứu độ. Người đang đến thăm chúng ta, va cứu rỗi, và Người cứu rỗi ta khỏi tội.” (Ngọc Kôn: Thánh ca “Hãy San Bằng Đồi Núi”).
Mùa vọng luôn mời gọi: hãy dọn đường cho Chúa – hãy sửa lối cho thẳng để Chúa ngự đến. Hành vi dọn đường và sửa lối cho thẳng được thánh Gioan tiền hô mời gọi là hãy “Sám Hối”. Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì việc sám hối xem ra chưa trọn vẹn. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội đã làm nhưng ông thiếu niềm tin tưởng cậy trông vào sự tha thứ của Chúa, nên ông đã treo cổ tự vẫn. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng thánh nhân còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.
Chúng ta thử nhìn lại lối đường của chúng ta là thẳng ngay hay quanh co để sám hối những lối đường lầm lỗi của mình. Chúng ta có khúc quanh co, lồi lõm nào cần uốn nắn, sửa đổi. Lối mòn của chúng ta đang đi là nhân đức hay tội lỗi thành thói quen không thể sửa? Nhìn lại con đường chúng ta đang đi để uốn nắn sửa đổi cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Trước tiên chúng ta cùng nhìn vào thế giới hôm nay, một thế giới có quá nhiều những lối mòn sai lầm nhưng người ta cố tình không nhìn nhận và không chịu sửa đổi như gian dối trong mọi lãnh vực: thông tin, giáo dục, thương trường. Tình trạng đó dẫn đến sự phá sản khắp nơi và trong mọi lãnh vực từ vật chất đến tinh thần.
Thực vậy, trong những năm gần đây, người ta thường hay xôn xao về những vụ phá sản, bể nợ, thua lỗ và mất khả năng chi trả của rất nhiều công ty xí nghiệp. Song song với những phá sản về tài chính, chúng ta cũng chứng kiến những phá sản về đạo đức và tinh thần. Khủng bố, chiến tranh, bắt cóc, giết người, các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng: xì ke, ma tuý, mại dâm. Mỗi ngày xem tivi chúng ta lại đau buồn khi thấy biết bao người đã chết do chiến tranh, khủng bố, cướp bóc, đói nghèo, bệnh tật. Ở Việt Nam còn có một vụ phá sản về tình người, ngay giữa gia đình vẫn không có tình yêu chân thành. Cụ thể: mỗi ngày hơn 1 người tự tử vì thiếu tình yêu từ gia đình. Vợ chồng thiếu chung thuỷ vơi nhau. Con cái thiếu tin tưởng nơi cha mẹ. Anh em lừa dối nhau.
Trước sự phá sản về đạo đức, về giá trị làm người, Đức Piô X đã nói một cách xót xa: “Con người hôm nay đã đánh mất ý thức về tội”. Nghĩa là họ không còn sống theo lẽ phải, họ cố tình làm ngơ trước tiếng cảnh tỉnh của lương tâm, họ quá quen với khuynh hướng tuyệt đối về tự do nên họ không còn thấy những điều gì là cấm. Họ muốn, họ thích và họ làm mà không cần suy xét có hợp với luân thường đạo lý hay không?
Có lẽ đây là lúc phải trực diện với một trong những chủ đề then chốt nhất của mầu nhiệm cứu độ: vấn đề sự dữ, tức là tội. Tại sao sự dữ vẫn hoành hành, tỗi lỗi vẫn tràn lan? Đâu là nguyên nhân đưa đến sự xấu hiện diện trong thế giới hôm nay?
Trước tiên cũng nên nhớ lại: tội là toàn bộ những hành vi ác hại, sai quấy, mất trật tự của con người; đó là hành động ác hại làm đổ máu hoặc xúc phạm đến danh dự, là trộm cướp, vu khống, phẫn nộ, lười biếng, là kiêu căng chà đạp người khác, là đam mê nhục dục, v.v . . . mà truyền thống gọi là bảy mối tội đầu. Như vậy nguồn gốc sự dữ hệ tại ở chính lòng người. Chính lòng dạ con người là nguyên nhân dẫn đến những sự dữ ở trần gian.
Căn nguyên của tội chính là con người đã dùng sai sự tự do. Sự tự do đích thực là tự do hướng về sự thiện, là điều khiển hành vi nhân linh của con người theo lề luật tự nhiên, theo những quy tắc của luân thường đạo lý, hay nói cách khác chính là biết sử dụng tự do để điều khiển hành vi của mình theo lẽ phải. Nhiều người lầm tưởng rằng, tự do là muốn làm gì thì làm, nhưng thực ra họ đã đánh mất tự do khi buông mình theo những đam mê thấp hèn, những thói hư tật xấu. Họ bị lệ thuộc vào đam mê nghĩa là họ mất tự do đích thực. Họ trở thành nô lệ của những thói hư tật xấu mà các nhà luân lý gọi là nô lệ tội lội. Adam tưởng đã sử dụng tự do theo ý mình nhưng thực ra ông đã đánh mất tự do khi không chế ngự được bản tính kiêu căng của mình. Cain đã đánh mất tự do khi để sự ghen tương làm chủ dẫn đến án mạng mà hậu quả là cả đời trốn chạy, bất an và lo sợ. Con người ngày hôm nay tưởng rằng mình có khả năng làm ra vật chất và tận hưởng theo ý mình, nhưng thực ra họ đã để mình lệ thuộc vào những tiện nghi vật chất, trở thành nô lệ cho vật chất một cách mù quáng đến độ, số tiền làm ra chỉ đủ để trang trải cho những tiện nghi, những trò vui chơi giải trí. Rốt cuộc vẫn cảm thấy thiếu thốn vì chẳng bao giờ con người thỏa mãn những nhu cầu vật chất tầm thường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần xét lại con đường chúng ta đang đi có phải là con đường quanh co, thiếu chân thành với nhau, thế nên, vẫn còn đó sự gian dối, thiếu cởi mở, với nhau không? Con đường chúng ta vẫn còn đó khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm nên hành động hồ đồ và làn thương tổn đến tha nhân. Con đường chúng ta đang đi là con đường gồ ghề bởi những lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu bác ái, thiếu xây dựng, luôn chỉ trích nặng lời với nhau, dẫn đến một đời sống thiếu hoà nhã với mọi người, thiếu khiêm tốn nên luôn bẳn gắt, luôn khó chịu về người khác một cách vô cớ, đôi khi nóng giận một cách hồ đồ mà không có nguyên do. Con đường chúng ta vẫn còn những thung lũng của những tư tưởng lỗi đức trong sạch, những ước muốn lầm lạc, luôn làm chúng ta quyến luyến các tạo vật mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó những hố sâu của chia rẽ, hận thù, luôn gây ra bất hoà, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ với nhau. Con đường chúng ta đang đi, vẫn còn đó những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn đề cao mình quá đáng đến coi khinh anh em, không bao giờ chịu thua kém người khác.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Vì thế mùa vọng, là thời gian mời gọi chúng ta hãy sửa chữa lại con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những sự trống vắng Thiên Chúa nơi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá và giả hình. Hãy san bằng những nghi kỵ, ganh ghét, bất hoà. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau nhưng hãy luôn nói tốt, nghĩ tốt về nhau.
Đó là cách duy nhất để dọn lòng Chúa đến, để Chúa giáng sinh mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy cất khỏi chúng con tất cả những gì làm cho chúng con xa lìa Chúa, và xin ban cho tâm tình thống hối ăn năn để sửa đổi con người theo tinh thần phúc âm của Chúa. Amen
Ngày khai mạc năm thánh nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam vừa qua tại Sở Kiện, những ai trực tiếp tham dự hay theo dỏi cách nào đó đêm diễn nguyện, hẳn ít nhiều cũng cảm thấy xúc động về phần sám hối của giáo hội Việt Nam. “Giáo Hội chúng con xin chân thành thú tội. Giáo hội chúng con xin cúi đầu tạ tội.” Câu ca thú lỗi lặp đi lặp lại sau những lời xưng thú với từng đối tượng về những lỗi lầm cụ thể khiến lòng người chìm hẳn xuống trong sự khiêm nhu. Một trong những lỗi lầm mà đoàn con Chúa dân Việt cần xưng thú đó là thái sống đạo ích kỷ, nghĩa là chỉ biết lo giữ đạo cho mình mà quên, đúng hơn là xao nhãng nghĩa vụ chia sẻ hồng ân tin mừng cứu độ mình đã lãnh, cụ thể là chưa tạo điều kiện để cho mọi người nhận biết ơn cứu độ.
Các bài trích đọc lời Chúa trong Chúa Nhật II Mùa Vọng C, đặc biệt bài trích sách Tiên tri Baruc và bài Tin mừng theo thánh Luca hướng cái nhìn của chúng ta đến hạnh phúc của tha nhân. Để cho đoàn dân đã bị lưu đày khắp cõi Đông Tây hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ, đem họ trở về Giêrusalem trong vinh dự như các ông hoàng, Thiên Chúa ra lệnh hãy triệt hạ mọi núi cao, lấp bằng mọi hố sâu ( x. Bar 5,7 ). Thánh Gioan Tẩy Giả đã lấy lại lời ngôn sứ Isaia để xác định sứ vụ của mình là kêu gọi người ta “hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghế hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” ( Lc 3, 4-6 )
Mùa Vọng về, chúng ta vốn quen với nhiều lối suy tư mang tính luân lý như hãy bạt đi những núi đồi của sự cao ngạo, hống hách; hãy lấp đầy các hố sâu chia rẽ hay hố sâu của lòng tham vô đáy; hãy sửa cho ngay các con đường gian dối, xảo trá, bất công…Tuy nhiên cần để ý rằng những suy tư này thường mang tính cá nhân vị kỷ, nghĩa là hãy sửa lại những tâm tư, lối sống sai lạc, bất chính của mình để bản thân mình có khả năng hay gọi là xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Độ.
Xin được hướng cái nhìn ra khỏi lòng mình để đến với tha nhân theo thánh ý Chúa là muốn cho mọi người nhận biết chân lý hầu được hưởng ơn cứu độ ( x.1Tim 2,4 ). Theo viễn kiến này thì việc bạt núi đồi, lấp hố sâu, sửa đường quanh co… không hạn chế ở chiều kích cá nhân mà còn mang chiều kích xã hội.
Bạt đi núi đồi kiêu căng, ngông cuồng: Chước cám dỗ thưở ban đầu sáng tạo vẫn còn đó. Nhân loại hôm nay dường như tiến bộ vượt bực trong các lãnh vực khoa học kỹ thuật. Dù còn nhiều hạn chế và bất cập, nhưng có thể nói rằng con người ngày nay có thể làm chủ các quy luật tự nhiên một cách nào đó. Và rồi đã có lúc con người những tưởng rằng mình có thể không chỉ thay trời làm mưa mà có thể tự mình làm ra cả trời. Việc kiếm tìm sự thiện, việc phân biệt điều thiện ác, lành dữ là việc đáng làm và phải làm hầu xứng với phận người. Tuy nhiên con người lại bị cám dỗ lấy bản thân mình làm điểm quy chiếu cho sự thiện sự ác. Khi chủ trương rằng không có sự thiện sự ác khách quan mà chỉ có điều dữ, điều lành theo sự thẩm định chủ quan của mình thì vô tình hay hữu ý con người muốn tự phong thần phong thánh cho bản thân. Cái nguy hiểm của sự kiêu ngạo còn nhân lên gấp bội khi được khoác chiếc áo tập thể. Biết rằng cái đa số chưa hẳn là chân lý, thế nhưng người ta cũng dễ an tâm khi thuộc về số đông ngay cả trong những điều nghịch lý hay vô luân. Người ta lại còn dễ bị cám dỗ đề cao cái tập thể của mình lên hàng muôn năm để rồi cá nhân của mình trở thành bất diệt. Chúng ta đừng quên bất cứ tập thể nào cũng do từng cá nhân gộp lại.
Khi nói đến các hố sâu, chúng ta dễ liên tưởng đến lòng tham lam vô đáy của con người. Thánh Kinh đã từng ví sự tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Cần nhìn nhận rằng sự tham lam khi mang tính cá nhân thì dễ bị trách cứ hay lên án, thế nhưng khi nó mang tính tập thể thì rất dễ được châm chước hay được biện minh, cho dù lắm khi chỉ là sự ngụy biện. Xin được nói đến các hố sâu của sự chia rẽ. Cần phải lấp đầy những hố sâu chia rẽ do hận thù, do bất đồng quan điểm, do khác nhau về niềm tin, về chính kiến. Ở đây không bàn đến những khác biệt mang tính cá nhân. Những sự khác biệt mang chiều kích tập thể, xã hội rất có thể là nguyên nhân phát sinh nhiều sự tranh chấp, loại trừ khủng khiếp. Các cuộc chiến tranh mang tính tôn giáo hay mang tình ý thức hệ mà lịch sử ghi lại cho chúng ta xác tín sự thật này.
Và cuối cùng là hình ảnh con đường quanh co. Với cá nhân thì có thể nghĩ đến sự thiếu ngay thẳng trong tâm tư, ý nghĩ và hành động của con người. Tuy nhiên dưới chiều kích xã hội thì chúng ta có thể nói đó là sự thiếu công minh trong các chủ trương, đường lối, chính sách, luật lệ. Hoặc nếu có luật lệ, chủ trương chính sách xem ra công minh nhưng việc áp dụng lại không công bình. Hiện tương “quan xử tình, dân xử nhặt” là một đan cử. Chính cái quanh co của các thể chế luật lệ đã hình thành nhiều tệ nạn như gian dối, tham ô, hối lộ, cửa quyền… mà không dễ gì diệt trừ ngày một ngày hai.
Phải sửa, phải lấp, phải bạt những gì cần bạt, cần lấp, cần sủa nơi con người mỗi người chúng ta. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói với đám đông dân chúng là: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Với người thu thuế thì rõ ràng “đừng thu thuế quá mức ấn định” Với binh lính thì “đừng hà hiếp dân, hãy bằng lòng với lương bổng của mình” ( x. Lc 3,-14 ). Thế nhưng với nhiều người Pharisiêu và nhóm Sađốc thì Ngài mạnh mẽ vạch mặt: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ?” ( Mt 3,7 ).
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu rất độ lượng, khoan dung với những người bé mọn, yếu đuối và cả tội lỗi, thế nhưng Người lại có vẻ cương quyết và nghiêm khắc với nhiều người lãnh đạo Do Thái giáo, hoặc có vai vế, có ảnh hưởng trên dân thời bấy giờ. Cái nguyên nhân chính đó là vì không chỉ cung cách sống của họ bất minh mà còn vì lề lối hướng dẫn, sự chỉ đạo của họ không ngay thẳng khiến cho nhiều người lầm lạc. “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình ! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại không để họ vào…Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các ngươi…” ( Mt 23, 13-32; x. Lc 11,39-48 ).
Sự cao ngạo, xấu xa, bất minh, quanh co…trong đời sống cá nhân là điều đáng trách nhưng cũng có thể đáng thương vì ít nhiều còn vấn vương sự yếu đuối. Sự xấu xa, quanh co, bất chính, bất minh, ngông cuồng trong các chủ nghĩa, chủ trương, đường lối, chính sách…và cơ chế vận hành của chúng thì cần phải mạnh mẽ lên án và loại trừ, không nguyên chỉ vì chúng được hình thành bằng sự chủ ý, mà con vì hậu quả khôn lường mà chúng di hại cho xã hội, đặc biệt cho những người bé mọn.
Vừa qua, giám mục Thomas J. Tobin, giám mục Providence đã mạnh mẽ khẳng định rằng trong việc tranh luận” ( bàn về chân lý ), thì không thể chấp nhận chuyện đưa má bên kia cho người ta tát, nghĩa là luôn luôn tỏ ra dịu dàng, dễ thương. " Khi đối chứng với điều ác, Chúa Giêsu đã không dễ chịu, tử tế, nhẹ nhàng, và dịu ngọt ”. “ Chuá đã sống trong một thế giới thô bạo và đảo ngược và Người đã tuyên xưng thông điệp của Người trên đường phố.” ( x. Chân dung một Giám Mục Mỹ: Khi tranh luận, sẽ không đưa ra má bên phải -VietCatholic News (12 Nov 2009 18:17)
Để mọi người nhận biết ơn cứu độ, thì còn đó rất nhiều việc Kitô hữu chúng ta, con chiên lẫn chủ chiên, cần phải làm, và lắm khi phải can đảm lội ngược dòng. Dĩ nhiên khi đã làm thì chúng ta khó tránh khỏi chuyện phải vác thập giá. Và chuyện cũng đương nhiên đó là có vác thập giá mình đi theo Đấng đã bỏ trời xuống làm người để làm chứng cho sự thật thì mới đích thực là môn đệ của Người (x. Lc 14,27; Ga 18,37 ).
Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng Giáo Hội dạy chúng ta hãy trông đợi chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày kết thúc vũ trụ hay ngày kết thúc của đời mình. Trong ngày đó, chúng ta đừng sợ, hãy đứng dậy và ngẩng cao đầu lên vì ơn cứu rỗi của chúng ta đã gần đến.
Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng hơm nay, thêm một bước nữa, Giáo hội dạy chúng ta hãy dọn đường để đón tiếp Chúa. Trông đợi và dọn đường là hai sự việc mĩc nối với nhau, để việc Chúa đến sẽ gây một chú ý đặc biệt nơi chúng ta.
Ra vào phải có cửa, qua lại phải có đường là lẽ cố nhiên. Nhưng đối với Chúa đường lối Ngài đến với chúng ta có điều hơi khác. Chúa đến với chúng ta bằng con đường thiêng liêng, hay nói cách khác, con đường Chúa đến phải là con đường lòng của chúng ta. Tiên tri Barúc cũng như Gioan Tiền hô đều nhắc lại lời Kinh thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa: “ Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an tồn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa”. Và “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng”.
I. NHU CẦU DỌN ĐƯỜNG.
Trên thế giới ngày nay có rất nhiều con đường để di chuyển vừa dài vừa rộng lại đẹp đẽ tối tân, để giúp cho việc di chuyển được nhanh chóng, tiết kiệm được thời giờ và tiền của. Nhưng từ những con đường rộng rãi thênh thang ấy cũng cần có những con đường nhỏ để dẫn tới từng ngôi nhà. Nhà nào mà không có đường vào? Vì thế, trước khi xây nhà, người ta phải tính chuyện mở con đường vào nhà trước, nếu không có đường vào, không ai xây nhà cả.
Sách có chữ rằng: ”Thùy năng xuất tất do hộ, nhi bất hành tất do đạo”: ai ra vào phải qua cửa, cũng như đi lại tất phải có đường. Có đường đi là một điều cần, không có đường đi thì việc di chuyển bị bế tắc. Đường đi thì có muôn ngàn lối và cần phải sửa sang cho việc di chuyển được dễ dàng. Chúng ta cũng đã có con đường đến với Chúa và Chúa đến với chúng ta, nhưng con đường đó nhiều khi bị bỏ hoang, gây khó khăn cho việc di chuyển nên cần phải sửa sang lại cho việc di chuyển được dễ dàng.
Chúa nhật tuần trước chúng ta đã nghe Giáo hội dạy phải ngửa mặt lên để mong chờ Chúa. Chúa nhật hôm nay Giáo hội lại dạy chúng ta phải dọn đường để đón tiếp Ngài. Mong chờ và dọn đường là hai sự việc móc nối với nhau, để việc Chúa đến gây một sự chú ý đặc biệt nơi chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay hô hào chúng ta dọn đường cho Chúa, tất nhiên dạy chúng ta phải dọn lòng để đón rước Chúa:”Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi: Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề, hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
1. Dọn đường cho vua chúa đến.
Gioan là sứ giả được Thiên Chúa sai đến hô hào cho dân chúng dọn đường cho Chúa đến. Sau một thời gian tôi luyện bằng đời sống khắc khổ trong sa mạc, ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả quyết từ Thiên Chúa lôi cuốn quần chúng đông đảo đến thung lũng Giođan, để nghe giảng đạo và tiếp nhận lễ rửa như một dấu hiệu và dấu chứng cho lòng ăn năn. Bản chất của chức vụ ông là làm ứng nghiệm lời báo trước của tiên tri Isaia “Tiếng kêu trong hoang địa”, người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu thế đến.
Sự chuẩn bị này có tính cách Đông phương, khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương quốc mình thì sai một vị quan đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá. Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho thẳng, đường gồ ghề phải sửa cho êm. Như vậy, muốn cho người ta sẵn sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức cần phải dẹp sạch, phải sám hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu trích Isaia rằng: ”Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” để phù hợp với tính cách phổ thông của Tin mừng.
2. Lời kêu gọi vẫn còn tính thời sự.
Đức Giêsu đã đến trần gian thực hiện công cuộc cứu độ loài người từ 2000 năm nay rồi. Vậy phải chăng lời loan báo của Gioan Tẩy giả đã trở thành quá cũ kỹ với tín hữu chúng ta ngày hôm nay chăng? Vâng, quả thực Đức Kitô đã đến và làm mọi sự để cứu độ con người và lẽ ra với sự hy sinh tuyệt vời của Ngài, nhân loại đã được giải thoát mọi tội lỗi để sống trong yêu thương và hạnh phúc. Thế nhưng, chính sự tôn trọng phẩm giá, tự do và ý thức của con người nên Thiên Chúa đã không dùng bất cứ một hình thức cưỡng chế nào để bắt con người phải chấp nhận chân lý của Ngài. Nên thực tế là sự lầm lạc, tội lỗi và đau khổ vẫn còn tồn tại.
Gioan Tẩy giả đến rao giảng sự thống hối bằng việc chịu phép rửa để xin ơn tha tội. Chịu phép rửa là nói lên quyết tâm sám hối, thay đổi cuộc sống. Sám hối hay hoán cải mà chúng ta nói ở đây (Metanoia: sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại còn không hoàn hảo bằng những học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta “quay trở lại với Chúa” cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng. Thái độ chế ngự kẻ khác (Quesson).
II. NHỮNG CON ĐƯỜNG TRẦN THẾ.
1. Những con đường tinh thần.
Thánh Gioan không nhọc công hô hào sửa đường cho vua chúa - việc đó thuộc về xã hội – mà muốn chúng ta chú trọng vào con đường thiêng liêng: những con đường ấy ở ngay trong lòng chúng ta, những con đường ấy bị bom đạm của tội lỗi làm hư hỏng, đã trở nên con đường kinh hoàng mà thánh Matcô đã mô tả: ”Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21-22).
Người Pharisêu và Saducêu cho rằng chỉ cần giữ Lề luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là cần phải có sự đổi mới tâm hồn:”Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp hố sâu (tội lỗi), hãy bạt núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”.
Dọn đường có nghĩa là sám hối canh tân. Muốn sám hối cần phải biết mình, biết những sở trường sở đoản của mình. Một mình mình biết, một mình mình hay là một điều tốt, nhưng chưa đủ, còn cần những lời của người khác thức tỉnh, con người mới thoát ra khỏi cảnh u mê lầm lạc. Lời thánh Gioan là những nhắc nhở mà Giáo hội muốn chúng ta thực hiện trong Mùa Vọng này.
Truyện: Tô Tần và vua nước Sở.
Đời Chiến quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo:
Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quí như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. May tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao ?
Tô Tần thưa:
Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao ?
Vua Sở khẩn khoản nói:
Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một nước mà vật giá đắt đỏ: ”Củi quế gạo châu”, vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm C, tr 13).
Đọc xong câu truyện nhà du thuyết Tô Tần với vua nước Sở, chúng ta cũng phải suy nghĩ về hồn cảnh của chúng ta: có cái gì nhắc nhở chúng ta trong dịp mừng lễ Giáng sinh không? Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc nhở chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy giả: ”Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho phẳng để Người đi”(Lc 3,4).
1. Những con đường phải sửa.
Nghe theo lời kêu gọi của thánh Gioan, chúng ta hãy dùng Mùa Vọng này như là bầu khí thuận tiện để sám hối và quay về với Chúa bằng cách:
a) Hãy lấp đầy những hố sâu.
Hố sâu hay lũng sâu bao giờ cũng tượng trưng cho hố thẳm của mọi nguy hiểm, mọi bất trắc. Hố sâu tượng trưng cho túi tham vô đáy của con người. Vì gian tham, con người có thể thực hiện được mọi tội ác để vơ vét. Tưởng rằng càng vơ vét nhiều, mình càng giầu, càng đầy. Nhưng óai oăm thay, mình lại càng thấy cuộc đời trống rỗng. Hành động “lấp đầy” theo nghĩa siêu nhiên ở đây là lấp đầy những hố thẳm mênh mơng (những khát vọng vô biên) của con người bằng đạo đức, bằng công chính, bằng chính Thiên Chúa, là Đấng Cội nguồn sự sống, là chính Chân, Thiện, Mỹ.
Truyện: Lịnh tham vô đáy.
Người Trung hoa kể câu truyện ngụ ngôn nói lên được cái dục vọng thầm kín của con người muôn thuở:
Một người bị giam ở địa ngục, sắp được đi đầu thai. Anh ta tâu với Diêm Vương:
Như quả thật Đại Vương muốn cho tôi trở về dương thế, thì xin cho tôi được mấy đặc ân.
Diêm Vương hỏi:
Ngươi xin điều chi ?
Anh ta đáp:
Tôi xin đầu thai làm con một vị tể tướng, làm cha một vị trạng nguyên. Tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả cá, có cây trái đủ thứ. Tôi xin có một người vợ tuyệt sắc, nhiều tì thiếp diễm lệ, tất cả đều chung tình ngoan ngỏan chiều chuộng tôi. Tôi xin được châu báu chất đầy phòng, lúa thóc đầy lẫm, tiền bạc đầy rương. Tôi xin được làm một vị quan công khanh, suốt đời vinh hoa phú quí, sống lâu trăm tuổi. Chỉ bấy nhiêu thôi.
Diêm Vương đáp:
Trần thế mà có được người như vậy, thì ta đây đã đầu thai thế cho ngươi rồi. (Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, tr 100-102)
b) Hãy bạt núi đồi xuống.
Đồi núi đây là tính kiêu ngạo. Chúng ta thường nghe câu: “Tam sơn tứ hải nhất phần điền”, nhưng đọc Thánh kinh không nghe nói Chúa đã dựng nên đồi núi lúc nào cả. Có người đốn: có lẽ đồi núi đã mọc lên sau ngày nguyên tổ Adong Evà phạm tội kiêu ngạo, do đó kiêu ngạo lại là của gia truyền.
Con người mãi mãi chỉ là tạo vật, không phải là “Chúa”. Phải biết mình là con người bất tồn như người ta nói:”Nhân vô thập tòan” nên phải ý thức sự bất tồn và giới hạn của mình, hay đúng hơn, “biết mình để đừng tự cao tự đại, để cải quá tự tân”.
Truyện: Giỏi gì đâu.
Trần-nghiêu-Tử làm quan tiết độ sứ đời Tống, là người tài bắn, thiên hạ khen phục, Nghiêu Tử cũng lấy làm kiêu căng tự đắc. Nghiêu Tử thường bắn ở trong vườn nhà mình. Một hơm có ông lão bán dầu đi qua, thấy Nghiêu Tử bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé đứng xem. Ông lão thấy Nghiêu Tử bắn 10 phát trúng 7, 8 thì hơi gật gù và mỉm miệng cười.
Nghiêu Tử thấy thế, gọi vào bảo:
Nhà ngươi cũng biết bắn chứ? Người cười ta bắn không được phải không?
Ông lão đáp:
Giỏi gì đâu, chẳng qua là quen tay đấy thôi.
Nghiêu Tử giận, nói:
A, nhà ngươi dám khinh ta không bắn giỏi có phải không ?
Ông lão bán dầu đáp:
Khinh hay không ngài cứ xem, tôi rót dầu đây thì biết !
Nói xong, ông lão lấy ngay cái bầu đặt xuống đất, trên miệng bầu để một đồng tiền rồi từ từ rót dầu qua lỗ mà không nhiễu một tí dầu nào ra lỗ đồng tiền cả.
Rót đoạn, ông lão ngẩng mặt lên Trần nghiêu Tử:
Như tôi đây cũng chẳng giỏi gì đâu, chỉ quen tay đó thôi.
Nghiêu Tử cười, khen phải và từ đó không lên mặt là tay bắn giỏi nữa.(Thái Bạch, Đơng tây kim cổ tinh hoa, 1971, tr 84-85)
c) Đường con queo phải uốn cho thẳng.
Cong queo đây là thiếu ngay thẳng. Nhiều người suốt đời đã sống bằng mưu mơ, bằng thủ đoạn, chỉ cốt mưu lợi cho mình, bất chấp tội phúc và sự thiệt hại cho người khác.
Đường quanh co đây còn có thể là gian dối, tính tự phụ, kiêu căng, thích khoe khoang, coi mình hơn kẻ khác, coi khinh người ta. Vì thế, phải tập sống lương thiện, sống hồn nhiên tự tại theo “nhân chi sơ tính bản thiện” như trẻ thơ (x. Mt 18,3) mới có thể vào Nước trời.
Truyện: Bán cam thối.
Lưu Cơ một danh sĩ nước Tầu về đời nhà Minh cĩ viết một bài văn kể lại câu chuyện sau đây. Chuyện kể rằng: Ở Hàng Châu (bây giờ là tỉnh Chiết giang) có người bán các thứ hoa quả, anh ta để dành cam rất khéo, để lâu không úng, vỏ vẫn đỏ tươi, trông đẹp như vàng ngọc. Anh đem ra chợ bán rất đắt người người tranh nhau mua.
Ông ta thấy vậy, cũng lại mua một quả đem về. Nhưng khi bóc ra thì hơi xông lên mũi như xác bông nát. Vì thế, ông ta phải ra chợ tìm người bán cam, trách rằng:
Anh bán cam cho người ta để làm cúng lễ, để đãi khách khứa, hay là chỉ làm cho óng ả bề ngòai để đánh lừa người ta. Tệ thật, sao anh làm người mà giả dối như vậy ? Người bán cam cười đáp:
Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, thiên hạ mua chẳng ai nói gì chi nhiều. Ông ơi, người đời giả dối nhiều, há phải một mình thằng tôi đâu. Sao ông trách tôi mà không nghĩ. Kìa người đeo hổ phù ngồi da cọp, hùng dũng trông thật đáng quan võ, nhưng xét sự thật được bằng Tôn Tẫn, Ngô Khởi hay không? Người đội mũ cao, thắt đai dài, đường hồng ra vẻ quan văn lắm, nhưng xét sự thật hỏi được như Y Dõan, Cao Dao hay không ? Than ơi, giặc giã không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ mục nát không biết sửa, ngồi rồi ăn lương không biết xấu. Thế mà lúc ở công đường ăn của quÍ, uống rượu ngon, đi xe ngựa, trông thật oai vệ, thật vô cùng hách dịch. Đó bề ngòai chẳng như vàng như ngọc mà trong như bông nát là gì? Sao ông không xét những người ấy lại chỉ chú ý vào quả cam của tôi.
Ông ta nghe nói, nín lặng không trả lời sao được, và nghĩ người ấy có giọng khôi hài nên có cảm tưởng như:
Dễ chừng anh ta ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới nhận chuyện bán cam để dạy mình đây chăng? (Thái Bạch, Đơng tây cổ kim tinh hoa, tr 194-195).
d) Đường lồi lõm san cho bằng.
Đường lồi lõm đây là những tính xấu như cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, gây gỗ, nghi kỵ, ghen tương, cố chấp, vị kỷ, giận hờn, bất hòa. Phải nỗ lực chỉnh đốn và sửa sang lại những chỗ “lồi lõm”. Chính là những tính mê nết xấu lớn nhỏ, những sỏi đá làm cho lời Chúa không thể đâm chồi nảy lộc và đâm rễ sâu vào trong tâm hồn.
III. MÙA VỌNG VÀ VIỆC DỌN ĐƯỜNG.
Đây là giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình vào tầm sâu của nội tâm sám hối, để tính tốn việc loại bỏ đi những chướng ngại cản đường Chúa tới giải phóng. Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ tạo mới, trở nên những con người đã được tôi luyện và can trường…
Vậy để cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở những con đường thênh thang của tâm hồn rộng mở và chan hòa yêu thương, hãy đạp đổ những bức tường cách ngăn kỳ thị và phân biệt chủng tộc, hãy cất đi những rào chắn của tư lợi nhỏ nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình đẳng mà người ta đang la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh thơi tung hòanh, hãy thức dậy và đứng thẳng người lên (Fiches dominicales, C, tr 11).
1. Dọn đường mừng lễ Giáng sinh
Hôm nay bước vào tuần lễ thứ hai của Mùa Vọng, phần đông thế giới đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, các cửa tiệm tràn ngập những thiệp Giáng sinh, cây thông Giáng sinh, bao nhiêu quà Giáng sinh, món ăn, quần áo, đồ chơi Giáng sinh. Ở Việt nam chúng ta tuy còn nghèo khó nhưng bầu khí Giáng sinh đã tới, mọi người đang nô nức mua sắm, dọn dẹp nhà cửa, nhạc Giáng sinh đã vang rộn khắp nơi, lòng người đã thấy rạo rực.
Nhưng phải dọn mừng lễ Giáng sinh thế nào cho xứng đáng, đúng theo Tin mừng của Chúa hôm nay mà thánh Gioan đã hơ hào: ”Hãy dọn đường cho Chúa đến”. Con đường lòng của chúng ta đã tốt chưa ? Và lòng chúng ta đã trở nên thửa đất mầu mỡ để đón ơn Chúa chưa ? Hay lòng chúng ta lại trở nên một sa mạc cằn cỗi ?
Nếu biết biến sa mạc thành đất tốt, có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khókhăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thắm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng phải dấn thân thực sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen, một đam mê, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống phục vụ hơn, vị tha hơn…
Chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà chung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó khơng dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khốt như thế, để Ngài đi vào tâm hồn, và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Ngài. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn là sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hóa, nếu biết giữ mãi ơn Chúa trong tâm hồn mình bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện (JKN).
2. Dọn đường chờ đợi Chúa đến
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến, Chúa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang của Ngài, nhưng Ngài cũng âm thầm đến gọi chúng ta ra về với Ngài. Cũng có thể nói Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn chúng ta đến giờ chết. Đó là thời gian để chúng ta hồi tâm và chuẩn bị. Đây là thời gian để tự vấn chính mình: chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa Giêsu vào giờ chết không ? Lúc này chúng ta đã sẵn sàng chưa ?
Truyện: Sẵn sàng về với Chúa.
Vài năm trước đây, tạp chí This Week có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé 17 tuổi người Hà Lan đã từng trốn khỏi trại tập trung Đức quốc xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho bố cậu lá thư sau đây. Xin trích lại: ”Bố thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho bố lá thư này, nhưng con vẫn phải cho bố hay rằng con đã bị tòa án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo bảo cho mẹ biết dùm con… Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ, điều đó sẽ xẩy đến cho con… chỉ một chốc thôi thế là con sẽ về với Chúa, Nói cho cùng đấy có phải là cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi không?...Con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn bố nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng hết tội lỗi, và hiện tâm hồn con hòan tòan thanh thản… Ký tên: “Kless”.
3. Dọn đường còn là làm chứng cho Chúa
Mừng lễ Giáng sinh là chúng ta kỷ niệm việc Chúa đã xuống trần và sẽ còn đến nữa. Chúng ta có trách nhiệm làm cho người biết Chúa để cùng mừng lễ Giáng sinh. Nếu thánh Gioan Tiền hơ đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói, bằng việc làm và bằng chính đời sống của Ngài. Ngày hơm nay cũng vậy, chúng ta phải làm chứng cho Chúa trong mơi trường của chúng ta. Nhưng muốn cho lời chứng hay bằng chứng của chúng ta có hiệu quả, trước hết chúng ta phải có đời sống xứng đáng, đoạn tuyệt với tội lỗi và những tính mê nết xấu và thể hiện một đời sống bác ái yêu thương. Đó là những việc chúng ta cần làm để chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh.
Mùa Giáng sinh đã theo khí lạnh mang đến niềm vui trải nhẹ khắp trời đất và lòng người. Nhiều nhà đã bắt đầu giăng những chùm đèn rực rỡ. Các đại nhạc hội, ca vũ, hội thảo, tĩnh tâm góp phần đào sâu mầu nhiệm Giáng Sinh. Hôm nay, niềm vui bắt đầu với hình ảnh của một vị ngôn sứ tự xưng mình là “tiếng kêu trong hoang địa” (Lc 3:4) càng như một sức mạnh đẩy lùi những trở ngại, giọn đường cho Chúa đến.
CHUẨN BỊ
Bao ngàn năm dân Do thái đã phập phồng chờ đợi ngày Chúa đến viếng thăm. Càng gần ngày Chúa đến, niềm hi vọng càng lớn lao. Chính vì thế thánh Gioan Tẩy Giả đã thành công khi kêu gọi đoàn người đông đảo đến sông Giođan “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3:3) hầu xứng đáng đón chào Đấng Cứu Thế. Ơn cứu độ không lơ lửng trên chín tầng mây, nhưng “được xác định rõ trong bối cảnh lịch sử rộng lớn. Thánh Luca đã làm nổi bật vai trò của những nhân vật thời đại thuộc lãnh vực chính trị và tôn giáo: hoàng đế, toàn quyền xứ Palestin, các nhà cầm quyền Do thái, và giới lãnh đạo tôn giáo.” (Faley 1994:28)
Ơn cứu độ bao trùm cả vũ trụ. Không một ai đứng ngoài chương trình của Thiên Chúa. Chính ông Gioan đã phóng lên tầm nhìn phổ quát đó của ngôn sứ Isaia khi lên tiếng với quần chúng: “Mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3:6) Đức Giêsu chính là mặt trời công chính, là vinh quang Thiên Chúa xuất hiện giữa trần gian. Người đến để cứu độ toàn thể nhân loại, chứ không chỉ riêng dân Do thái. “Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi.” (Br 5:3) Vui chừng nào khi biết Thiên Chúa muốn cứu độ muôn dân.
Tiếng nói ngôn sứ của thánh Gioan áp đảo tất cả những ồn ào chính trị và tôn giáo đương thời vì “có lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan, con ông Dacaria, trong hoang địa.” (Lc 3:2) Sứ mệnh Gioan bắt đầu từ nơi dân Do thái hành trình về Đất Hứa. Hoang địa gợi lên sứ mệnh Đức Giêsu như nhà lãnh đạo cuộc xuất hành mới. Oâng Gioan đã chung nhịp bước với dân Chúa chuẩn bị cho Đức Giêsu xuất hiện với sức mạnh Thiên Chúa.
Chính vì là một ngôn sứ, hơn nữa còn là vị tiền hô, nên ông mới có thể dõng dạc hô toàn dân: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Lc 3:4) Con đường cong queo giấu ẩn lối sống bất chính của nhân loại. Đó không phải con đường tốt đẹp, thích hợp đón bước chân Đấng Công Chính, Vua Hòa Bình. Bởi vậy, phải nỗ lực sửa đường cho ngay thẳng. Nếu không, cuộc sống con người vẫn mãi chìm đắm trong bất công, đau khổ. Vì “Bình an xây dựng trên công chính.” (Br 5:4)
Oâng Gioan có lý khi đưa lên những hình ảnh ngôn sứ Isaia để đập vào mắt quần chúng: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.” (Lc 3:5) Ngổn ngang trước mắt ngôn sứ Gioan toàn những đồi núi, thung lũng, ổ gà. Mở một đường lối xứng đáng cho Đấng Cứu thế đòi bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Bao nhiêu công việc lớn lao phải chuẩn bị trong một thời gian kỷ lục, vì “cái rìu đã đặt sát gốc cây.” (Mt 3:10) Công việc đã vượt sức nhân loại. Bởi vậy chỉ Thánh Linh mới chuẩn bị cho Đấng Cứu thế đến với con người. Oâng Gioan chính là một dụng cụ của Người. Sa mạc chính là môi trường xứng hợp nhất để Thánh Linh chuẩn bị cho Đức Giêsu dẫn cả nhân loại vào Đất hứa.
GIÁO HỘI LÀ CON ĐƯỜNG
Nếu thế, không một hoàn cảnh, một lối sống nào không cần chuẩn bị cho bước đường Đức Giêsu đến cứu độ con người. Bởi vậy, mọi Kitô hữu đều phải chuẩn bị cho Người đến với đồng loại. Đúng hơn, “tự bản chất, đời sống Kitô hữu là một con đường hay một lối đi (Cv 9:2; 18:25)” (Faley 1994:29) dẫn mọi người về Đất Hứa. Niềm vui sẽ tràn ngập muôn dân. “Vì Thiên Chúasẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.” (Br 5:9) Không thể nào dẫn người khác đến hạnh phúc tuyệt vời đó, nếu trước tiên mình không “khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.” (Br 5:2)
Các tín hữu sơ khai đã chuẩn bị sẵn sàng cho bước đường Chúa đến. Thánh Phaolô đã cho thấy nét tích cực trong cộng đoàn Philip: “Từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng.” (Pl 1:5) Rao giảng Tin Mừng chính là một hồng ân ngôn sứ vì trực tiếp đưa nhân loại vào miền hoan lạc, tràn ngập ánh vinh quang Thiên Chúa. Tín hữu cộng đoàn tiên khởi đã dọn đường cho Chúa đến bằng cả một đời sống luân lý tốt đẹp, đến nỗi thánh Phaolô không ngưng được cảm xúc khi nói với họ: “Tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu.” (Pl 1:8) Họ đã chuẩn bị cho Chúa bằng cả tấm lòng, bằng cả cuộc đời. Bởi vậy họ đáng được hưởng lời cầu nguyện của thánh nhân: “Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm.” (Pl 1:10) Giáo hội tiên khởi đã hoàn thành sứ mệnh cách xuất sắc khi làm chứng cho mọi người biết Đức Giêsu Kitô.
Ngày nay Giáo Hội cũng trở thành con đường cho người ta đi về với Thiên Chúa. Nhưng muốn chu toàn sứ mệnh đó, Giáo Hội đang lắng nghe để hiểu rõ người đồng loại hơn. Có thật tình đi đến với nhân loại, có mở cõi lòng cho mọi người, Kitô hữu chúng ta mới trở thành con đường dẫn mọi người về Thiên Chúa. Trong nỗ lực hôm nay, chúng ta phải chú trọng tìm “những cách diễn tả mới mẻ về các chân lý ngàn đời, phải hòa giải với những lập trường cố cựu bằng những suy tư và những triển khai sâu xa hơn.”
Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng, Giáo Hội lại giới thiệu cho chúng ta một nhân chứng sống động là thánh Gio-an Tiền Hô, để thúc đẩy chúng ta bắt chước thái độ của ngài, trước sứ điệp cứu độ. Có lẽ đôi khi chúng ta có cái nhìn “hơi hà tiện” đối với thánh Gio-an, và cho rằng đời ngài chỉ là thứ “quét dọn mở đường”. Dĩ nhiên đó là hình ảnh trước Chúa Cứu Thế. Nhưng thật ra danh hiệu và sự nghiệp của ngài gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc đến vị Tiền Hô của Người. Chính phụng vụ đã để cả Mùa Vọng nhắc đến ngài.
Ngài là con hiếm muộn duy nhất của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Ngay từ trong lòng mẹ ngài đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, nghĩa là được Thiên Chúa cho khỏi tội tổ tông khi còn trong lòng mẹ và được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Lớn lên, ngài sống một cuộc đời khắc khổ: vào trong “hoang địa” tu thân, ăn châu chấu với mật ong rừng và mặc áo nhặm. Tới tuổi trưởng thành, ngài được Thiên Chúa thúc đẩy đi hành nghề ngôn sứ: vào năm 15, thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô là vị vua uy hùng lúc ấy. Trong bối cảnh lịch sử đó còn có tổng trấn Phi-la-tô, vua Hê-rô-đê, quan Phi-líp-phê, tiểu vương Ly-xa-ni-a làm mốc thời gian. Về phần tôn giáo có thượng đế Kha-nan và Cai-pha làm nhân chứng cho ngài.
Ngài xuất hiện trong lịch sử Do Thái sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ngài hành nghề khắp vùng sông Gio-đan. Dân chúng từ khắp Giê-ru-sa-lem và cả miền Giu-đê tuôn đến với ngài. Ngài rao giảng kêu gọi thống hối và làm phép rửa cũng nhắm tới sự thống hối. Ngài tha thiết kêu gọi dân chúng trở về với Chúa bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Sứ mạng của ngài là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, nên ngài kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”.
Cụ thể, bạt núi đồi là hãy dẹp bỏ tính kiêu ngạo, khoe khoang, tự hào, tự phụ, khoác lác ba hoa. Lấp mọi hố sâu là hãy điều chỉnh lại cho tròn đầy những thiếu sót bổn phận đối với Chúa, đối với người, đối với gia đình và với chính bản thân mình. Uốn nắn lại những quanh co, cong queo là hãy sửa chữa lại những gian dối, giả hình, ăn không nói có, thay trắng đổi đen, thay đen đổi trắng, ngôn hành bất nhất, lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. San phẳng những gồ ghề lồi lõm là từ bỏ những tính khó nết, khó sống, chẳng sống được với ai và cũng chẳng ai sống được với mình v.v…
Thánh Gio-an đã lãnh sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho ngài trong một khung cảnh của lịch sử thời ngài, và làm tròn sứ mạng là chuẩn bị tâm hồn mọi người đón Chúa Cứu Thế đến. Chúng ta cũng lãnh nhận sứ mạng Ki-tô hữu trong thời đại chúng ta. Sứ mạng của chúng ta vẫn là dọn đường cho mọi người được thấy, được biết ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Gio-an đã dạy cho người thời ngài: bạt đồi lấp hố, uốn nắn cong queo, san bằng lồi lõm để dọn đường cho Chúa. Chúng ta hôm nay cũng phải dọn đường cho Chúa như thế. Đâu là những đồi cao, những hố sâu, những cong queo, những lồi lõm gồ ghề nơi bản thân, trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xã hội. Và chúng ta phải quyết tâm sửa chữa những sai lầm, những thiếu sót ấy. Mùa Vọng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy xét mình, kiểm điểm đời sống qua lời kêu gọi của thánh Gio-an Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Mỗi người chúng ta đều có một giấc mơ về một thế giới tốt đẹp hơn, đầy yêu thương và an hòa. Nhưng phương thế duy nhất để xây dựng một thế giới tốt đẹp là xây dựng con người chúng ta tốt đẹp hơn, thiện hảo hơn.
Đối với chúng ta hôm nay, ơn kêu gọi của chúng ta cũng là làm chứng cho Chúa. Thánh Gio-an Tiền hô đã làm chứng cho Chúa trong thời đại của ngài bằng lời nói, bằng việc làm và bằng chính đời sống của ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải làm chứng cho Chúa trong môi trường chúng ta sống. Nhưng muốn cho lời chứng hay bằng chứng của chúng ta có hiệu quả, trước hết chúng ta phải có một đời sống xứng đáng, đoạn tuyệt với tội lỗi và những tính mê nết xấu và thể hiện một đời sống bác ái yêu thương. Đó là những việc chúng ta cần làm để chuẩn bị mừng Chúa giáng sinh.
Tóm lại, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh nào thì lời Chúa hôm nay vẫn là một lời khẩn thiết. Xin mỗi người hãy lắng nghe và thực thi để kinh nghiệm được ơn lộc của Mùa Vọng năm nay như cách đây hai ngàn năm, những người Do Thái đã nghe lời Gio-an Tiền Hô. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đều hăng say nhiệt tình thực hiện lời Chúa hôm nay để đổi mới cuộc đời mình, vừa chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh vừa lãnh nhận được nhiều hồng ân của Chúa. Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
Khởi đầu Phúc Âm của Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Như có lời Tiên tri Isaia chép rằng: Ðây Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi. Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng".
Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong hoang địa, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Dân cả miền Giuđêa và Giêrusalem tuôn đến với người, thú tội và chịu phép rửa trong sông Giođan.
Lúc đó Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Người rao giảng rằng: "Ðấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần".
Ðiểm nổi bật trong các bài đọc hôm nay là tiếng kêu. Khi một âm thanh vang động, thì tiếng ấy phải phát xuất từ đâu, muốn nói gì và cho ai? Tiếng kếu chúng ta nghe hôm nay phát xuất từ Thiên Chúa qua Gioan Tiền hô loan báo cho ta một sứ điệp: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước để dọn đường cho con". Sứ giả Gioan chính là tiếng kêu trong sa mạc: "Hãy dọn đường cho Chúa, chỗ quanh co hãy uốn lại cho ngay thẳng" (Mc 1,1-3).
1. Tiếng Kêu Của Chúa
Từ ngày xưa cũng như bây giờ, Thiên Chúa vẫn làm phát xuất những tiếng kêu: qua các ngôn sứ, qua tiếng lương tâm và qua cả những trạng huống của đời sống con người. Những tiếng kêu bi thiết trầm thống của mọi thời đại đã vang tới Chúa. Phải chăng chỉ vì vậy mà Chúa mới nhắn bảo các sứ ngôn: "Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy nói cho Giêrusalem biết rằng: nó không còn phải mang kiếp tôi đòi nữa và tội lỗi của nói đã được tha" (Is 40,2-2).
Vì thế tiếng kêu của Chúa là một tiếng kêu đặc biệt. Thông thường khi nói tới tiếng kêu, chúng ta quen nghĩ tới kêu cứu, kêu gọi, kêu cầu: kêu cứu vì mình đang lâm nguy; kêu cầu để van xin giúp đỡ; kêu gọi để nhắc bảo phải làm một cái gì. Tiếng kêu của Chúa không hàm nghĩa kêu cứu và kêu cầu, mà chỉ ngụ ý kêu gọi.
2. Chúa Kêu Gọi Ta Làm Gì?
Ðể lay động thức tỉnh ta, bắt ta chú ý và chuẩn bị đón nhận một sứ điệp. Tiếng kêu của Gioan tiền hô giữa nơi hoang vắng tiên vàn cũng đánh thức, gây chú ý và quy tụ dân chúng để nghe ông nói.
Sứ điệp của ông cũng tương tự như những điều ngôn sứ trong sách Ðệ nhị Isaia đã nói với dân Dothái vào thế kỷ VI, sau khi họ vừa thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
Chúa đã thẳng tay trừng trị Giêrusalem, nhưng giờ đây họ không còn phải làm nô lệ nữa, và tội lỗi của họ đã được tha thứ. Phải dọn đường cho Chúa trong sa mạc. Chỗ gập ghềnh khúc khuỷu hãy uốn lại cho ngay. Mọi người sẽ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, vì Người đến với đầy vẻ lẫm liệt oai phong. Người lãnh đạo dân mình như mục tử chăn dắt đoàn chiên (Is 40,1-5.9-11).
Những năm tháng lưu đày đã giúp họ hồi tâm lại và nhận thức lý do đem tới đau khổ là chính tội lỗi của họ (Is 7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm tình sám hối, dẫn đến quyết định dứt khoát với tội lỗi. Khi làm như thế là họ sửa sang đường lối trong tâm hồn cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa đến. Ðó chính là điều các ngôn sứ nhắm, khi các ngài gióng lên tiếng kêu.
3. Tiếng Kêu Của Gioan Gây Nên Âm Hưởng Nào Ðối Với Người Do Thái Ðương Thời?
Chắc chắn, tiếng kêu ấy đã khiến họ ngỡ ngàng, băn khoăn và làm cho họ như phải đối diện với một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14). Họ đã chịu phép rửa sám hối, xin ơn tha tội để dọn tâm hồn tiếp nhận Ðức Kitô.
Còn đối với chúng ta hôm nay thì sao?
Sứ điệp của sách Ðệ nhị Isaia và của Gioan tiền hô vẫn thúc bách chúng ta dọn đường cho Chúa trong sa mạc, nhưng là để đón Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Quả vậy, kinh nghiệm sa mạc của người Dothái trong biến cố Xuất hành khỏi Aicập hướng về Ðất Hứa và trên đường hồi cư từ Babylon trở về Quê Hương vẫn mang một giá trị hiện thực cho cuộc sống chúng ta hôm nay. Sa mạc trong lịch sử cứu độ mang những ý nghĩa thần học sâu xa. Chính trong sa mạc con người chịu thử thách và phải chiến đấu để trung thành với Giao ước; cũng chính trong sa mạc, con người được thanh luyện tinh tuyền để xứng đáng với Thiên Chúa trong cuộc gặp gỡ ân tình. Giáo hội hôm nay cũng phải trải qua kinh nghiệm sa mạc bằng cuộc sống chiến đấu và thử thách để minh chứng lòng trung thành với ơn gọi Kitô hữu của mình và để tự thanh luyện xứng đáng gặp lại Ðức Kitô đến thiết lập Trời mới Ðất mới (2P 3,13).
4. Phải Chăng Trời Mới Ðất Mới Chỉ Hình Thành Trong Thời Viễn Lai?
Ngay từ bây giờ Trời mới Ðất mới xuất hiện khi mỗi người thi hành sứ điệp dọn đường cho Chúa và biến cõi đời này thành nơi đáng sống hơn. Ở đó mỗi ngày một bớt dần những cảnh bất công tàn ác; ở đó nhân phẩm được kính trọng và các quyền lợi căn bản của con người được bảo đảm; và nhất là ở đó mọi người được hòa giải với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Như thế, vinh quang Thiên Chúa đang xuất hiện giữa thế giới loài người, vì theo thánh Irênê: "Con người là vinh quang của Thiên Chúa". Chúng ta không ngừng xây dựng Trời mới Ðất mới để tiến tới ngày viên mãn rực rỡ lúc mà Ðức Kitô trở lại hoàn tất lịch sử cứu độ, thu hồi vạn vật về một mối (Ep 1,10) và trao phó vương quyền cho Thiên Chúa Cha, để Người trở nên mọi sự trong mọi người. (1Co 15,28).
Ðó là viễn tượng giúp ta hiểu đúng câu nói của thánh Phêrô trong bài đọc thứ 2: "Ngày đó, các tầng trời sẽ sụp đổ tan tành, lửa, nước, ánh sáng, gió, mây đều cháy tiêu tan, và trái đất với tất cả mọi công trình xây dựng của con người đều bị thiêu đốt" (2P 3,10). Câu đó có nghĩa là chính Ðức Kitô sẽ dùng năng lực Thánh Thần và lửa tình yêu nung nấu tất cả, để siêu thăng và biến đổi chúng nên rực rỡ tốt đẹp cách nhiệm mầu chứ không hủy diệt chúng. Ðó sẽ là cuộc biến hình hoàn vũ, mà cuộc biến hình trên núi Tabo là dấu chỉ và khởi đầu.
Tiếng kêu của Gioan vọng lại tiếng kêu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, đang gọi ta đứng dậy, ngước mắt nhìn lên và hướng về tương lai. Viễn tượng Chúa đến trong vinh quang đem lại cho ta niềm tin, phấn khởi trong cuộc hành trình qua sa mạc của đời sống hiện tại. Vì thế, tiếng kêu của vị tiền hô là một tiếng kêu mang đầy Hy Vọng và Niềm Vui.
BÀI GIẢNG:
Chúa nhật hôm nay có thể gọi được là Chúa nhật của vị Tiền Hô, của Gioan Tẩy giả, của "tiếng kêu" dọn đường Chúa đến, và như thế là Chúa nhật của niềm trông đợi chứa chan hy vọng.
Chúng ta ngày nay, xét về mặt xã hội, không còn như Israel ngày xưa. Dân Chúa bấy giờ đang lầm than trong cảnh nô lệ lưu vong. Nhưng xét về nhiều phương diện khác, đời người luôn luôn có những khổ sở. Và chẳng bao giờ nhân loại thấy đã thoát khỏi lầm than, đau đớn... Luôn luôn chúng ta có một số vấn đề không làm đau khổ thể xác thì cũng làm khắc khoải tâm hồn. Và cái khổ là bao giờ những khó khăn hiện tại đối với tâm lý, cũng vẫn là những gò bó khó chịu nhất mà chúng ta muốn cựa quậy, giũ đi cho bằng hết. Trong hoàn cảnh đó tiếng kêu của vị Tiền hô đang muốn khơi lại niềm tin hun đúc niềm cậy, để mọi người chúng ta tìm lại được tinh thần chứa chan hy vọng do Tin Mừng cứu độ mang tới.
Gioan không bịa ra những nguồn tin giả dối, trần tục, vô căn cứ và miễn cho ta những nỗ lực chính đáng. Chính ông cũng không tự xưng là người sẽ giải thoát anh em. Ông chỉ cho chúng ta thấy Ðấng Cứu thế đích thực, là Ðức Giêsu Kitô. Nói đúng hơn, khi rao giảng, ông bảo mọi người hãy trông cậy vào Ðấng sẽ đến sau, Ðấng chưa ai thấy, nhưng chắc chắn sẽ đến mà ông chẳng đáng cúi xuống cởi dây giày Người. Gioan không nói viển vông. Ðặt niềm tin ở Sách Thánh, căn cứ vào mạc khải của Thiên Chúa, Gioan khẳng định Ðấng Cứu thế không phải là phàm nhân, không hành động như các vĩ nhân trong lịch sử. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên mình như mục tử; Ngài ẵm chiên con trên cánh tay; ôm ấp chúng vào lòng và nhẹ tay dẫn dắt các chiên mẹ.
Ðấng Cứu thế chúng ta trông đợi là như thế. Ngài không có những toan tính trần gian. Ngài là một mục tử hiền lành săn sóc từng con chiên và cả đoàn chiên. Vì thế, chúng ta hãy trút bỏ não trạng trần tục khi khắc khoải đợi chờ Ðức Kitô trở lại. Trong bất cứ thử thách nào Ðấng Cứu chuộc chúng ta vẫn là Chúa, vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được niềm trông cậy của ta.
Niềm trông cậy ấy tạo nên ở nơi ta một thái độ, một tác phong, một nếp sống đặc biệt. Khi người ta ao ước những sự hão huyền hay chờ đợi những giải pháp trần tục, thường người ta dành công việc cứu thế cho người khác; còn chính bản thân người ta chỉ thụ động ỷ lại và biếng nhác. Ngược lại, khi rao giảng Ðấng Cứu thế là ai, thì Gioan cũng vạch ra cho mỗi người con đường phải sửa soạn có thể tiếp một vị cứu tinh như thế. Người sẽ rửa ta trong Thánh Thần. Người sẽ thánh hóa tất cả những ai sẵn sàng. Thế nên hết mọi người phải ăn năn thống hối, phải thú tội và sửa lại đường lối xưa nay. Không còn được sống quanh co, lúc thế này khi thế khác. Phải trước sau như một, thi hành một đòi hỏi của sự thánh thiện. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình người và lòng bác ái cứu độ của Ðức Kitô đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn và chúng ta mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa trải rộng trên khắp mặt địa cầu.
Không những rao giảng, Gioan còn sống cuộc đời sám hối. Ông ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da thú. Ông sống như các thánh nhân thời bấy giờ: không quan tâm đến việc trang điểm bằng các sản phẩm mỹ nghệ, không ăn dùng như những người tưởng chỉ có các thú vui ở đời này. Ngược lại, ông thấy hạnh phúc trong nếp sống gần thiên nhiên, thấy thiên nhiên như tiếng gọi trở về đời sống chất phác và chân thật. Ông coi cuộc đời phù phiếm như đã qua, và trông đợi Trời mới và Ðất mới trong đó có công lý sẽ ngự trị.
Tất cả chúng ta không đang được kêu gọi đi vào một nếp sống cụ thể như thế sao? Cả một lối sống phù phiếm như đã qua rồi. Những giờ lao động tiếp xúc với thiên nhiên như đang khiến ta có một nhân-sinh-quan mới: chân thật và đơn sơ hơn. Nhiều nhân đức Phúc Âm như đang có cơ hội được thực thi dễ dàng hơn trước. Chúng ta phải bắt lấy thời cơ, nhờ ơn từ trời xuống, giúp nhau sám hối và đổi đời. Làm được như vậy, là đang san phẳng đường đi cho Chúa đến. Nói đúng hơn, Thánh Thần Chúa ở trong ta đang muốn dùng ta để thay đổi mặt đất này cho công lý ngự trị.
Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ cũng chỉ muốn thực hiện những điều đó. Ðức Kitô cứu thế mời ta góp phần đời sống sám hối canh tân của chúng ta vào mầu nhiệm Tử nạn của Người, để ơn Phục sinh của Người tràn vào tâm hồn và đời sống chúng ta, dùng nếp sống đổi mới hằng ngày của ta, canh cải mặt đất này tạo nên một Trời mới Ðất mới cho tất cả mọi người.
Xin anh em hãy hết mình đi vào mầu nhiệm bàn thờ với những tâm tư quyết liệt như thế.
Ba nhân vật tiêu biểu cho tinh thần mùa vọng là ngôn sứ Isaia, ngôn sứ Gioan.B và Đức Trinh nữ Maria. Và trong mùa vọng ta thấy kinh tiền tụng số 2 ca lên rằng: “Người là Đấng các tiên tri loan báo, Đức Mẹ Đồng Trinh đã cưu mang với tình y6eu khôn tả, thánh Gioan đã loan tin sắp đến và đã chỉ cho thấy khi xuất hiện”. Nếu xét về tầm quan trọng thì GB là khuôn mặt nổi hạng nhì của mùa vọng. Chính phúc âm cho ta biết về thời thế xã hội khi ông ra đời, cho ta hiểu gia cảnh thân thế và chức vụ của ông “Tiền hô” làm nổi bật lên sứ điệp ông rao giảng. Ông đi khắp vùng ven sông rao truyền sự ăn năn thống hối, làm phép rửa. Nhất là chấp nhận bị lãng quên, và ví mình như một ngọn đèn bị lu mờ để Đấng Cứu Thế sáng lên. Đời sống của ông hầu hết là ẩn dật trong hoang địa và chỉ xuất hiện khi sứ mệnh đòi hỏi, để rồi lại tự xóa mình đi khi sứ mệnh chấm dứt. Ông thật chẳng khác nào một tiếng kêu nơi hoàng địa, vẳng lên không trung để rơi vào hư vô. Nếu nhìn toàn bộ cuộc đời của Gioan.B ta dễ dàng nhận thấy cả đời ông là chứng nhân cho Chúa Kitô và kêu gọi người ta ăn năn sám hối trở về với Chúa. Tất cả những công việc của Gioan.B làm cũng chỉ nhằm “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. GB thật là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta chiêm ngắm qua hành động:
1. Kêu gọi thống hối
Phép rửa của GB tuy không phải là Bí Tích nhưng nó cũng có giá trị thật lớn lao. Phép rửa đó chính là dấu chỉ của lòng thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lối, không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa đến việc trở lại, và không thể đón nhận được Đấng Cứu Thế nếu không có lòng ao ước, không có sự thống hối như đòi buộc bước đầu. Vì sự thống hối là cốt lõi của ơn cứu Độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ muốn tự ý nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho họ
2. Sửa đường cho ngay thẳng
Lời Tin Mừng được chen vào như để làm trọn lời ngôn sứ Isaia: “Hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay đường lồi lõm phải sang cho thẳng. Rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Bản văn ngôn sứ bàn về việc tái trở về từ nơi lưu đày của dân Do Thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài trong sa mạc để vào đất hứa. Vì thế, đám rước khải hoàn đi qua thì đường sá phải bằng phẳng, không còn ghồ ghề nữa. Đến lúc này, lời tiên tri đã nên trọn vẹn với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói về sứ sở hay chỉ về con đường trần tục, mà nói về một hành trình thiêng liêng. Con người đã thoát khỏi cảnh lưu đày tội lỗi lên đường về Nước Chúa với một thái độ cương quyết, vá chính Đức Giêsu Đấng Cứu Thế sẽ dẫn đầu đoàn rước. Vì thế con đường thiêng liêng ắt hẳn sẽ phẳng lì, do việc sử soạn tinh thần và tâm hồn. Do đó, mà ta không có gì ngạc nhiên sau lời kêu gọi của GB dân chúng đã bị lay chuyển và lũ lượt kéo đến với Ngài.
3. GB mẫu gương trong mù vọng
Sau khi nghe tiếng “hô” của GB người ta đã lũ lượt kéo đến với ngài. Còn chúng ta ngày nay không những chỉ kéo đến với ông, mà còn phải trở nên giống ông, để trông chờ Chúa và được đón rước Chúa. Người Kitô hữu cũng phải bắt chước như ông GB vậy. Ai muốn tìm gặp Chúa mà không phải lui vào sa mạc của tâm hồn để nghe Chúa nói rót vào lòng, giữa thinh lặng? Ai muốn gặp Chúa mà không phải noi gương GB, sống bản tính khắc khổ. Ai muốn được chiếm hữu Thiên Chúa mà không phải bắt chước GB, xóa bỏ con người cũ tội lỗi của mình đi? Ai muốn được kết hợp với Chúa mà không phải mô phỏng GB, để hy sinh mạng sống mình vì Chúa, vì chân lý, vì anh em. GB là ngôn sứ được Chúa khen thưởng bởi đã sống khiêm tốn, khắc khổ, âm thầm, đã nhiệt tình rao giảng sự ăn năn thống hối, đã chấp nhận hy tình cảm và mạng sống để dọn đường cho Chúa ngự đến. Tóm lại, mầu nhiệm GB đang còn tiếp tục nơi trần thế, vì ông là gương mẫu cho ta trong mùa vọng nói riêng, và cả trong cuộc đời trông đợi Chúa nói chung.
Lạy Chúa, trong một xã hội bon chen nhiều náo động. Xin cho con biết học theo GB, biết ăn năn thống hối, biết rửa sạch tội lỗi, đổi mới tâm hồn để đón Chúa trong mùa vọng này. Amen
Trong những ngày gần đây, chúng ta nghe tin tức trên các đài phát thanh, trang báo đều nói về những việc chuẩn bị cho ngày đại lễ Giáng sinh sắp tới. Nhiều nước trên thế giới đang chuẩn bị thật tốt để mừng lễ Giáng sinh. Người ta chuẩn bị các cây thông và còn trang trí trên đó nhiều đèn đèn sao, thiệp mừng, quà mừng giáng sinh… Các cửa tiệm cũng đã bày bán đầy những món hàng phục vụ cho dịp lễ Giáng sinh, nào là thiệp chúc mừng Giáng sinh đủ màu đủ loại, rồi cây thông, đèn sao, tượng Chúa để làm hang đá, rồi đèn màu, đèn chớp, rồi những kiểu chữ Noel, chữ mừng Chúa Giáng sinh, rồi những dây treo đủ màu lấp lánh. Rồi cũng phải kể đến những chiếc mũ Noel, những bộ quần áo để làm ông già Noel… rồi trong các tiệm bánh cũng đã có bánh Sinh nhật, ai muốn chọn loại nào thì họ có đủ để cung cấp loại đó…
Những tin tức nghe được, và ở ngoài xã hội, người ta đã chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh rồi, đặc biệt các nhà kinh doanh họ đã chuẩn bị cho lễ Giáng sinh từ lâu rồi, chuẩn bị một cách chu đáo, chuẩn bị bằng nhiều công sức, và còn phải đầu tư vào đó với rất nhiều tiền bạc.
Ngoài xã hội, người ta đã đầu tư vào dịp lễ Giáng sinh với nhiều công sức như vậy, còn chúng ta, chúng ta đã vào mùa vọng được một tuần rồi, vậy chúng ta có chuẩn bị gì cho lễ Giáng sinh của chúng ta chưa ?
Còn các họ đạo Công gáo mừng lễ Giáng sinh cũng lớn lắm, nào là làm văn nghệ, làm nhạc cảnh canh thức, nào là rước kiệu Chúa Hài đồng cách trọng thể, nào là làm lễ ngoài trời. Cũng có họ đạo chỉ tổ chức lễ đơn sơ hơn tổ chức vài ngày cho giáo dân xưng tội, làm hang đá, treo cờ, treo đèn sao là được rồi. Như vậy, có họ đạo thì mừng Giáng sinh thật lớn, có họ đạo cũng chỉ mừng lễ Giáng sinh đơn sơ vậy thôi.
Hôm nay, đọc qua bài Phúc âm, chúng ta thấy Lời Chúa đã hướng dẫn chúng ta một cách thức để chúng ta chuẩn bị lễ Giáng sinh cho thật đúng , cách thức đó đã được Thánh Gioan nói lại lời của tiên tri Isaia một cách rõ ràng rằng: “Hãy dọn đường cho Chúa ngự đến,hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng,những thung lũng sâu, hãy lấp cho đầy,những núi đồi hãy bạt xuống,những khúc quanh co, hãy làm lại cho ngay thẳng,và mọi chỗ lồi lõm, hãy sửa lại cho bằng”. Như vậy, cách thức mà Thánh Gioan nói tới ở đây, là dọn những con đường cho Chúa ngự đến, mà phải dọn những con đường đó cho ngay thẳng, nhưng những con đường phải dọn, đó là những con đường nào ? Đó chính là những con đường để mỗi người chúng ta đi đến gặp gỡ Chúa, và cũng là những con đường để chúng ta đi đến gặp gỡ những anh chị em của chúng ta. Vậy thì phải dọn những con đường đó như thế nào ? như Thánh Gioan đã gợi trong bài Phúc âm thì:
Trước hết, những thung lũng sâu, hãy lấp cho đầy, nghĩa là hãy lấp đầy những hố sâu là sự ngăn cách giữa tôi và tha nhân, lấp đầy những ngăn cách do mặc cảm tội lỗi, do hận thù, do tranh chấp với nhau, lấp đầy những ngăn cách do đầu óc bè phái, do ganh tỵ, do phân biệt giai cấp, do sự chênh lệch về giàu nghèo.
Tiếp đến, Thánh Gioan kêu gọi mỗi người hãy bạt xuống những đồi núi, nghĩa là hãy bạt xuống những đồi núi của tính kiêu căng, của sự tự mãn, của thói giả hình giả bộ ; rồi cũng phải bạt xuống những núi đồi của thành kiến, của sự “ta đây”, của lòng tự ái, của sự hơn người, của óc kỳ thị khinh bỉ kẻ khác.
Tiếp theo nữa, Thánh Gioan kêu gọi hãy sửa lại cho ngay thẳng những khúc quanh co, sửa lại, có nghĩa là hãy dẹp bỏ mọi trở ngại trên lối đi, dẹp bỏ mọi ngăn cách, dẹp bỏ mọi lối suy nghĩ quanh co, dẹp bỏ những tính toán sai lầm, dẹp bỏ mọi cái nhìn sai lạc về người khác.
Cuối cùng, Thánh Gioan cũng kêu gọi, hãy sửa lại cho bằng mọi chỗ lồi lõm, những chổ lồi lõm đó, chính là những sự chênh lệch giữa người với người, đó cũng là những lối phân biệt trong đối xử, đó là những sự chênh lệnh giữa những người không cùng giai cấp, địa vị trong xã hội. Sửa lại cho bằng phẳng, tức là mở lối cho Chúa đến với tôi, mở lối cho tôi đến với Chúa ; mở lối cho mọi anh chị em đến được với tôi, và cũng là mở lối để tôi đến được với mọi anh chị em trong tình yêu thương chan hòa.
Trong cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta, thường có rất nhiều những hoàn cảnh trái ngang, làm cho con người thường hay hiểu lầm và nghi kỵ lẫn nhau, có khi đối với những người mà chúng ta thân thích nhất, trong cả môi trường mà chúng ta thấy thân thuộc nhất.
Trong Mùa Vọng, nhiều người nghĩ đến việc chỉ cần đi xưng tội trước lễ Giáng sinh thì tôi đã dọn được một đại lộ rộng thênh thang, tha hồ mà đi thoải mái trên đó để vui với lễ Giáng sinh. Nhưng khi nhìn lại, thì ta mới thấy được rằng: trong cuộc sống này, không phải chỉ có đi xưng tội là xong, nhưng chúng ta còn phải dẹp bỏ những chướng ngại trên con đường đi, nhưng đến nay vẫn còn thiếu những con đường ngay thẳng, vẫn còn rất nhiều những núi đồi kiêu căng, còn rất nhiều những hố sâu ngăn cách giữa người với người… Trái lại, càng ngày lại càng xuất hiện thêm những con đường cong queo, những con đường ngoằn ngoèo, những con đường giả dối, những con đường chia rẻ có từ trong thẳm sâu cõi lòng của các con người trong xã hội…
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nghe theo lời của Thánh Gioan trong bài Phúc âm hôm nay là “Hãy dọn đường Chúa”, để chúng ta can đảm dẹp bỏ mọi con đường quanh co, để từ tôi đến với Chúa, từ tôi đến với mọi anh chị em sẽ có những con đường thẳng tắp, để rồi tất cả chúng ta đều đến được với nhau trong yêu thương hoà thuận, và trong tình nghĩa thật chân thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa mau đến với chúng con. Amen.
Chúa Giêsu đã từng công khai tuyên bố với mọi người: “Thầy là Đường”. Ngài là con đường dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Đồng thời, Ngài cũng là con đường để Thiên Chúa đến với con người. Con đường Chúa đến với con người là con đường từ “trái tim đến trái tim”. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Tình yêu. Thánh Gioan Tẩy giả loan tin cho mọi người hãy chuẩn bị con đường cho Chúa đến. Con đường đó chắc chắn phải là con đường tình yêu. Vì Gioan tẩy Giả đã loan báo rằng: “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng; con đường gồ ghề hãy san cho bằng” (Lc3,4-5). Con đường Chúa đi là con đường bằng phẳng của tình yêu; không có hố sâu của chia rẽ của hận thù, không có núi đồi của sự cố chấp, kiêu căng, tự mãn; không có chỗ quanh co của tội lỗi và không có chỗ gồ ghề của những tính mê nết xấu cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, ghen tương, bất hòa, tranh chấp . . . Khi con đường không còn những chướng ngại vật đó nữa thì đó quả là con đường của tình yêu, con đường được lót bằng hoa thơm của lòng bát ái yêu thương, rất êm ái và mát mẻ. Chúa sẽ đến với từng người chúng ta bằng con đường như thế và Ngài cũng sẽ dẫn dắt chúng ta đi trên con đường ấy để về lại Nhà Cha trên trời.
Khi yêu thương nhau rồi, con người ta sẽ có nhiều sáng kiến hay và tuyệt vời lắm . Người ta kể về sáng kiến độc đáo của một nông dân như sau. Ngày nào người nông dân cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám gà của những người hàng xóm chúng cứ chui qua hàng rào vả bới nát cả vườn tược của ông. Người nông dân này đã xin những người láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Thế nhưng không ai thèm chú ý đến lời yêu cầu của ông, đám gà cứ thản nhiên chui qua hàng rào và phá nát hoa màu của ông ta. Là một con người ưa chuộng hòa bình, người nông dân không muốn ăn miếng trả miếng. Ông liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo: ông đi mua một ít trứng gà, cho vào trong giỏ và cứ vài ngày lại mang sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà đám gà của họ đã đẻ trong vườn của ông. Ông làm như thế liên tiếp ba lần, và quả thật kết quả đã diễn ra nhanh chóng: Chỉ trong một tuần lễ người láng giềng nào cũng rào dậu cẩn thận để giữ không cho gà của mình sang đẻ bên nhà bác nông dân nữa. Chỉ mất một ít trứng gà mà người nông dân đã tránh được những tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm láng giềng.
Ng ười biết tạo dựng tinh thần hòa thuận và yêu thương nơi mọi người chính là hình ảnh của người dọn đường cho Chúa ngự đến. Anh nông dân trong câu chuyện mà chúng ta vừa nghe quả đã có một sáng kiến tình yêu rất tuyệt vời. Anh chính là mẫu gương rất đẹp về hình ảnh của người dọn đường đón Chúa ngự đến. Xây đắp tình thương, tạo sự cảm thông và tha thứ cho nhau mới là khó; còn đạp đổ và phá hủy thì dễ dàng lắm! Chúa Giêsu là Đấng không muốn “dập tắt tiêm đèn còn leo lét khói, không nở bẻ gãy cây lao bị giập”. Ngài cũng muốn mời gọi mọi người chúng ta hãy dùng mọi khả năng Chúa ban để kiến tạo sự hòa thuận và xây đắp tình yêu.
Nhưng trong thực tế, con người ngày nay xem ra không thích giải hòa với nhau khi có những bất đồng xảy ra, mà chỉ muốn chiến tranh, thích trả thù, thích dùng bạo lực để giải quyết những bất đồng đó. Thung lũng sâu của sự thù hằn trong lòng con người xem ra ngày càng quá rộng, quá sâu, khiến nhiều người không thể ngồi lại với nhau nhưng có khuynh hướng muốn loại trừ mà thôi. Thế giới ngày nay tuy văn minh, tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng là một thế giới bất ổn hơn bao giờ hết. Tệ nạn khủng bố, đánh bom tự sát, xử nhau theo kiểu Mafia . . .đang lan tràn lan khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, nạn xã hội đen, đâm thuê chém mướn diễn ra hằng ngày nơi những khu dân cư đông đúc. . .
Gần đây nhất (ngày 27/11/2009) là vụ đánh bom trong chiếc xe lửa dài 14 toa ở nước Nga, một đất nước được coi là “quốc gia hòa bình”, đã cướp đi sinh mạng của 40 người và 130 người khác bị thương! Hố sâu nơi tâm hồn con người xem ra quá rộng, quá sâu, quá đen tối!
Trong lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc Phòng - An Ninh dành cho các nhà chức sắc, nhà tu hành vừa được tổ chức tại Tỉnh Bến Tre vừa qua, người ta đánh giá rằng: những xứ đạo có đông người có đạo như Cái Mơn chẳng hạn, thì tệ nạn xã hội ít xảy ra, nhất là tệ nạn hành xử theo lối xã hội đen. Nghe điều đó, tôi rất mừng và rất hãnh diện vì những người con cái Chúa sống tốt lành như thế. Đó là những tấm gương sáng, là ngọn đèn soi rọi vào chốn tối tăm của thế giới hôm nay. Chúng ta hãy tiếp tục là ánh sáng cho trần gian như lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Các con là muối đất, là ánh sáng của thế gian”. Chúng ta hãy siết chặt tay nhau để xây đắp hòa bình và yêu thương. Chúng ta hãy tiếp tục chiếu sáng như “những vì sao trên bầu trời” vào một thế giới sa đọa và tối tăm. Hãy trở thành những người mở đường và dọn đường cho Chúa ngự đến- con đường của TÌNH YÊU!
Trong thời gian gần đây, chúng ta nhìn thấy những con đường đã được mở rộng, cảnh quang đô thị mỗi ngày được đổi mới, trật tự giao thông cũng được chỉnh đốn tốt đẹp hơn. Để có được quang cảnh như thế, chắc anh chị em biết, có nhiều người phải hy sinh. Trước tiên là những người buôn bán trên vỉa hè, kế đến là những ngôi nhà lấn chiếm lòng lề đường, còn những ngôi nhà trước kia được ở hợp pháp, nhưng vì ích lợi chung của xã hội, giờ đây cũng phải chịu nhường bước để cho con đường được ngay thẳng, được mở rộng tốt đẹp. Chính vì những hy sinh, phải di dời, phải tháo dở, phải dẹp bỏ đi những gì cản trở, mà chúng ta mới có được quang cảnh tốt đẹp của ngày hôm nay. Nếu mọi người cứ ngoan cố, cứ tùy tiện lấn chiếm, không muốn theo trật tự chung; thử nghĩ xem, xã hội sẽ như thế nào.
Trong tâm tình của mùa vọng, Gioan xuất hiện, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để được ơn tha tội. Ngài mượn lời Ngôn Sứ Isaia:
“ Hãy dọn đường Chúa, hãy sữa đường Chúa cho ngay thẵng, Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi hãy bạt xuống, Đường quanh co hãy sữa cho ngay, Đường lồi lõm hãy san cho bằng ” .
Gioan kêu gọi mọi người chuẩn bị đón tiếp Thiên chúa qua việc chuẩn bị con đường tâm hồn, không để một chướng ngại vật nào làm ngăn bước đi của Thiên Chúa đến với tâm hồn của mỗi người.
Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng văn minh hơn, trật tự hơn. Đó là vì con người ngày càng sống có xã hội tính nhiều hơn, biết từ bỏ đi những gì là riêng tư không cần thiết. Chính vì thế mà con người ngày càng đến với nhau dễ dàng hơn
Nhưng ngày hôm nay, Thiên Chúa muốn đến với con ngưới có dễ dàng không? Thiên Chúa muốn đến với từng người trong chúng ta, Ngài muốn viếng thăm, an ủi, yêu thương và đem chúng ta về với Ngài.. Nhưng không biết bao nhiêu chướng ngại vật, bao nhiêu rào cản, bao nhiêu vực thẩm ngăn cách, khiến Ngài không thể đến gần tâm hồn chúng ta được. Cứ nhìn vào cuộc sống đã qua của mỗi người, chúng ta sẽ thấy tại sao Chúa không thể đến với tâm hồn của mình được.
Trong tâm hồn chúng ta, có những dãy trường sơn ngăn cách ngọn gió yêu thương, che chắn những cơn mưa hồng ân mà Thiên Chúa muốn tưới xuống tâm hồn khô cằn của chúng ta. Những ngọn núi cao ngất ngưởng cũng che chắn không cho chúng ta nhìn thấy được ánh sáng chân lý, không cho chúng ta hưởng được hơi nắng ấm của tình yêu thương đồng loại qua những người bên cạnh. Đó là những ngọn núi cao của tự phụ kiêu căng. Tự phụ về con người của chính mình, cho dù chúng ta chẵng có gì đáng tự phụ. Tự phụ về những gì mình đang có, cho dù những thứ đó xét cho cùng chẵng đáng là gì. Đôi khi còn tự phụ về những điều mình không có, nhưng do trí tưởng tượng vẽ nên, hoặc do người khác gán ghép cho mà chúng ta cảm thấy vui thích mặc dù những điều không có thật, nhưng không muốn từ chối nó. Chính những thứ đó đã che chắn, bao vây không cho chúng ta nhìn thấy Chúa và làm cho Chúa không thể nào đến gần chúng ta được .
Còn những hố sâu ngăn cách của sự nghi kỵ, hận thù, tìm cách loại trừ nhau. Những hố sâu của sự ích kỷ hẹp hòi. Đó là những hố sâu khi chúng ta lo sợ hao tốn đi một chút sức lực, của cải, quyền lợi, để rồi chỉ biết có mình và không bao giờ có thể nhìn thấy Chúa trong những người anh em, thì làm sao chúng ta có thể tiếp nhận, nhưng rất nhiều lần đã xua đuổi , loại trừ khi Chúa đến với chúng ta qua những người anh em thân cận.
Tâm hồn chúng ta có là một con đường thẳng, hay toàn là những khúc quanh co gập ghềnh, với những toan tính mưu mô để lừa lọc, để che giấu, để hại ngưới khác. Với con đường như thế thì làm sao Chúa có thể thong dong mà đến với tâm hồn mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi của gioan Tẩy giả từ 2000 năm qua vẩn còn vang động, khẩn thiết và cấp bách cho những con người của thời đại hôm nay, cho từng người trong chúng ta: “ Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng để Người đến ” .
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn, biết sửa đổi con người của mình thật sự, để xứng đáng đón rước Chúa.
----------------------------------
MV 2-C76: CON ĐUỜNG TÂM HỒN
Lc 3, 1-6
Gp. Vĩnh Long
“Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… rồi hết mọi người sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ” (Lc 3, 4-6)
Trên đời này, nói về đường đi, có rất nhiều từ để diễn tả về: “đường đi” như: đường nhựa – xa lộ - quốc lộ - đường sông – đường biển – đường núi – đường đèo - đường nhỏ - đường đất – lối đi – lối mòn (đường rất nhỏ) ….
Cũng có một con đường siêu nhiên, theo nghĩa tinh thần: đó chính là con đường tâm hồn, là cách sống, cách ở đời …. Vd. như nói: anh chàng đó khi xưa là tay đầu trộm đuôi cướp, nhưng nay đã bỏ đường xấu, đường tà mà theo đường chánh, đường sáng rồi; tất nhiên muốn nói anh chàng này nay đã sửa đổi cuộc sống, ăn ngay ở lành rồi… Con đường này chính là con đường ngày xưa, cách nay 20 tk, thánh Gioan Tiền Hô đã kêu mời mọi người đi theo, mời mọi người chuẩn bị con đường đó để đón mời Đấng Cứu Thế đến. Mỗi năm khi Mùa Vọng đến, ta đều nghe vang lời kêu mời này. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
Mùa Vọng là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta sẵn sàng, chuẩn bị, dọn đường cho Đức Kitô ngự đến, không phải dọn dẹp làm Máng cỏ bên ngoài cho đẹp, sạch sẽ, điều cần hơn cả là dọn con đường tâm hồn mình… Thánh Gioan Tiền hô chính là người đi trước dẫn đường, người hô vang lên trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa lối Người đi cho ngay thẳng. chính thánh Gioan đã thực hiện lời đã được loan báo trước từ tiên tri Isaia, cách đó 8 tk…. Thường người ta giải thích: Mùa Vọng là mùa trông đợi Đấng Cứu Thế đến; giải thích như thế chưa đủ, vì Mùa Vọng không phải chỉ có ý nghĩa trông chờ Đấng Cứu Thế mà thôi, mà còn phải là mùa của mọi người , khi muốn nhận Đấng Cứu Thế, phải dọn con đường tâm hồn của mình trước, như lời Isaia nói: thung lũng phải lấp đầy, núi đồi phải bạt xuống, quanh co phải uốn cho ngay, lồi lõm phải ban cho bằng…. và khi mọi việc chuẩn bị xong, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ…
Có một số câu hỏi: Gioan Tiền Hô đã loan báo 20 tk rồi, lời loan báo đó ngày nay còn thực tế không, có cần thiết không? Đức Kitô đã đến 20 tk rồi, vậy tại sao hôm nay vẫn phải chờ đón, không lẻ chúng ta chỉ chờ đón Ngài trong đêm Giáng sinh thôi sao?
Thực ra, lời loan báo này của Thánh Gioan Tiền hô, đã vang động từ 20 tk qua, vì thế có người đã nại vào đó mà nói: nó cũ kỹ quá rồi, nhất là hôm nay nhân loại đã lên tới Mặt trăng, và còn sửa soạn lên Sao Hỏa nữa, phải nói cái gì mới hơn chứ! Lời loan báo này lại nói về Đức Kitô sẽ đến, nhưng mà Ngài cũng đã đến trong lịch sử, trong trần gian từ lâu rồi, cả 2000 năm nay, vậy hôm nay ta cần gì phải nói lại?
Để trả lời cho các vấn nạn trên có hai câu hỏi tôi muốn đặt ra cho người hoài nghi lời loan báo của Gioan, đó là: 1. Đức Kitô đã đến rồi, nhưng Người có đến với bạn, đến trong tâm hồn bạn không? 2. Thánh Gioan đã loan báo: hãy dọn đường cho Chúa đến, thực ra câu này bạn nghe gần nhàm tai, nhưng bạn đã dọn đường để Chúa đến chưa? Hay bạn đã dọn thế nào rồi?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Đức Kitô đã đến rồi, không phải chỉ đến sau Mùa Vọng, nhưng cụ thể nhất là Người có đến trong bạn trong tôi không?
Thánh Gioan đã loan báo: hãy dọn đường cho Chúa đến…có phải vì cố chấp, lầm lạc mà tôi cho rằng lời loan báo này xưa cũ quá, hay là tại tôi không muốn dọn đường tâm hồn cho Chúa đến? Thực tình tôi có muốn không?
Tôi đã dọn đường cho Chúa đến thế nào? Tôi có muốn bạt núi đồi xuống là tính kiêu căng tự phụ không? Tôi có muốn lấp đầy thung lũng là những ước muốn, đam mê xác thịt không? Đường nẻo quanh có, tôi có muốn sửa cho ngay, đó là các tội gian tà, tham lam, ganh tị, xảo trá không?
Một đất nước được coi là phồn thịnh, một thành phố được xem là phát triển thì một trong những yếu tố mà người ta đánh giá đó là hệ thống giao thông của đất nước đó, của thành phố đó có thông thoáng và hiện đại không? Để chuẩn bị đón một nhân vật quan trọng đến thăm đất nước hay một thành phố nào đó thì người ta phải chuẩn bị nhiều thứ: an ninh công cộng, vệ sinh môi trường, giao thông đi lại.... Thế nên chuẩn bị đón Chúa trở lại ta cũng phải dọn con đường trong tâm hồn cho quang đãng, bằng phẳng để Chúa có thể đến được với tâm hồn ta.
Chủ đề của Chúa Nhật trước, Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng mời gọi ta chuẩn bị sẵn sàng, tỉnh thức chờ đón Chúa trở lại. Tin Mừng thánh Luca hôm nay cho ta thấy cách thức đón Chúa trở lại theo lời rao giảng của Gioan Tiền hô là hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi thung lũng hãy lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Con đường mà Gioan kêu gọi hãy sửa lối đó chính là tâm hồn mỗi người chúng ta. Thế ta phải chuẩn bị thế nào để đón Chúa? Thiết tưởng có nhiều cách thế nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra 3 cách thế tiêu biểu.
Thứ nhất: Hãy hoán cải. Hoán cải là đổi chiều, là từ bỏ con đường lầm lạc để quay về nẻo ngay. Gioan mời gọi hãy dọn có hoang đãng con đường tâm hồn, dọn sạch những vướng víu của những đam mê, sửa cho thẳng những quanh co gian dối, lấp cho đầy những tỵ hiềm ghen ghét, bạt cho phẳng những ích kỷ tự kiêu...Nhưng để được hoán cải trước tiên phải là một ân ban của Thiên Chúa sau là con người thật của mình. Thiên Chúa thì luôn tha thứ cho con người nên việc hoán cải tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Hoán cải phải được thực hiện liên lỷ vì khi còn sống trong thân xác ta vẫn còn phải chiến đấu với ba thù đang rình rập chống lại ta. Hoán cải chính là nhận ra con người thật của mình.
Thứ hai: Thiên Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu độ. Thiên Chúa hằng yêu thương con người, Người chẳng bao giờ khước từ đến cư ngụ trong tâm hồn người khao khát. Đây là một ý thức quan trọng vì ta được nên tốt không phải bởi công nghiệp ta lập được nhưng là do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lễ vật của Abel không được chọn vì Abel công chính nhưng Abel công chính vì đã được chọn. Thế nên, ơn gọi người Kitô hữu là ơn gọi nên thánh trong bậc sống, trong hoàn cảnh của mình nhờ ơn Chúa trợ giúp. Chắc chắn với tấm lòng quảng đại Thiên Chúa sẽ lấp đầy những yếu đuối còn thiếu trong ta.
Thứ ba: Sống chứng nhân cho thời đại. Gioan đã có một thời gian dài cô tịch trong hoang địa để đón nhận Lời Chúa và hôm nay ông rao giảng cho những người cùng thời với ông. Ông đã thâm tín lời dạy của các tiên tri xưa hôm nay ông nhắc lại. Giống như ơn gọi của Gioan, ơn gọi Kitô hữu của chúng ta là trở nên chứng nhân cho thời đại chúng ta. Con người ngày nay muốn nhìn thấy những chứng nhân hơn là những thầy dạy suông. Thế nên cách thế để đón Chúa trở lại là cầm đèn sáng chính là thực thi ý Chúa trong đời sống hằng ngày và chiếu tỏ ánh sáng đó cho mọi người chung quanh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy hoán cải tâm hồn, sửa đổi những quanh co, lồi lõm, những nghi kỵ ghét ghen...biến đổi con người để xứng đáng là một con người mới, một con người đã được Đức Kitô cứu chuộc. Nhưng việc đổi mới này không phải là một việc làm vu vơ nhưng phải được thực hiện hằng ngày trong cuộc sống của ta, phải nâng cấp con người của ta hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Gioan Tẩy Giả là anh em bà con với Chúa Giêsu, là con ông Dacaria và bà Êlisabét. Ông xuất hiện như một ngôn sứ, để công bố sự thật, nhiệm vụ của ông là dẫn đường chỉ lối cho dân chúng đi về sự sống. Gioan rất ý thức về vai trò tiền hô của mình, là dọn đường cho Đấng Messia sắp đến nay mai. Ông mặc áo lông lạc đà, chứ không mặc áo rộng thùng thình như các ông Pharisêu, ông ăn châu chấu với mật ong rừng, ông dốc toàn lực rao giảng, kêu gọi dân chúng chuẩn bị dọn đường để Chúa đến. Ông cảnh cáo rằng: nếu ai không thay đổi đời sống, không ăn năn sám hối, thì sẽ bị trừng phạt, bị lửa thiêu rụi. Lời kêu gọi của Thánh Gioan x em ra thật gay gắt, không thay đổi đời sống nên tốt hơn, không nhận lỗi, không sám hối sẽ phải chết. Nhưng phải thay đổi đời sống như thế nào đây ? Đó là: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uống cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”.
Hãy dọn sẵn con đường, nhưng con đường nào đây ? Có phải đó là những con đường nhựa, những con đường “Xi-măng”, chưa khánh thành đã hư chăng ? Hay là những con đường sắt kém chất lượng đã làm hại sinh mạng nhiều người trong những năm qua ? Hoặc những con đường lầy lội, trơn trượt hằng năm trong mùa mưa bão ?
Con đường mà lời Chúa qua miệng thánh Gioan, là con đường của cõi lòng con người, đường đi vào tâm hồn chúng ta. Con đường mà lầy lội, trơn trượt, con đường mà quanh co, con đường mà đầy núi đồi hay thung lũng sâu sẽ rất khó đi và đầy nguy hiểm, có thể sẽ không lưu thông được nữa. Đường quanh co, núi đồi làm cản trở và gây nguy hiểm trong lưu thông.
Trong tâm hồn ta cũng đầy những cản trở:
Của những suy tính quanh co, không ngay thật, không trong sáng, những ước muốn tham lam, chiếm đoạt;
Của những núi đồi của sự kiêu ngạo chẳng xem ai ra gì, coi mình là Chúa để xét xử phê phán anh chị em, mà quên mình cũng đẩy dẫy tội lỗi;
Của những thung lũng tối tăm tội lỗi thầm kín, những ham muốn bất chính, những dục vọng ngông cuồng…
Rất nhiều người đã nghe lời thanh Gioan kêu gọi, từ Giêrusalem đến các vùng phụ cận đều tuôn đến để được Gioan thanh tẩy, họ thú nhận sự bất trung đối với Thiên Chúa và những tội ác đã phạm. Mỗi người chúng ta hôm nay thì sao ? Chúng ta có nghe lời kêu gọi sám hối và sửa đổi đời sống của Gioan không ? Sám hối là dọn con đường của lòng mình để Chúa ngư đến “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi biết ăn năn sám hối”, tâm hồn đẹp nhất là tâm hồn biết ăn năn sám hối vì vậy sẽ làm cho các triều thần thánh trên trời vui mừng hoan hỷ (Lc 15, 10). Biết mình sai lầm, rồi chấp nhận thay đổi bằng một hành động thiết thực, đó là điều Thiên Chúa mong muốn nơi mọi người chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” để luôn nhận ra lỗi lầm của mình, cố gắng sửa sai, tránh mọi tật xấu, để dễ dàng đón nhận ơn Chúa.
Cuộc sống hôm nay có nhiều phương tiện giúp con người có thể đến với nhau và gần nhau dễ dàng. Hệ thống giao thông đường bộ thì có các loại xe từ bình dân đến đắt tiền. Muốn nhanh hơn thì có máy bay. Còn muốn nhanh và đỡ mất thời gian hơn thì có các loại phương tiện thông tin liên lạc hiện đại hơn như điện thoại, internet...Nói chung phương tiện không thiếu nhưng điều cần là đường để nối lại phải thông thoáng. Chẳng hạn trên đường bộ, xe có hiện đại cách mấy mà gặp phải đường gồ ghề và chật hẹp thì cũng phải chịu.
Là con Thiên Chúa, cần nhất là ta nên giữ cho mình mối liên lạc thật tốt với Ngài. Thiên Chúa đã dọn sẵn đường cho, nhưng nhiều khi ta lại tạo nên những trở ngại khiến sự liên lạc quý báu ấy không còn tốt nữa. Điều đáng nói bấy lâu để mất liên lạc với Chúa do những trở ngại ấy thì ta sẽ phải đi trong mù tối. Muốn được ánh sáng Chúa soi dẫn nhất thiết ta cần phải khai thông. Như vậy, ta phải khai thông bằng cách nào?
Rất may mắn, Thánh Gioan đã chỉ cho ta: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4 – 6)
Đây là việc làm của mỗi cá nhân, không ai có thể giúp ai được. Bởi lẽ, con đường nối kết giữa ta với Chúa là con đường riêng tư. Vả lại, trên con đường ấy mỗi người tự biết mình cần phải khai thông những gì và chỗ nào.
Có khi ta đang gặp trở ngại bởi thung lũng ngăn cách tình người. Sự ngăn cách ấy có thể xảy ra giữa ta với bạn bè, lối xóm hay đồng nghiệp. Có khi sự ngăn cách ấy lại xảy ra với chính những người thân thuộc hay chính trong gia đình ta.
Có khi ta gặp trở ngại bởi núi đồi kiêu căng. Kiêu căng từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chỗ tự cho mình là nhất và không coi ai ra gì. Nguy hiểm hơn, thái độ này ta lại đem áp dụng với cả Thiên Chúa. Bất cần ơn Chúa là thái độ hết sức nguy hiểm.
Có khi ta lại gặp trở ngại bởi những lời nói và cách sống gian dối. Câu “Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt. Lươn lẹo luồn lách lại lên lương” dường như là châm ngôn sống cho mình.
Trên đây chỉ là một vài trở ngại trong vô số những trở ngại khác. Ước mong nhờ ơn Chúa giúp mỗi người sẽ thấy được những trở ngại của mình. Khi đã thấy được những trở ngại, hãy can đảm và mạnh dạn dẹp bỏ nó. Hãy luôn nhớ, bao lâu những trở ngại ấy còn lại trong ta thì bấy lâu ánh sáng Chúa không thể soi bước đường ta đi. Mà nếu như không được ánh sáng Chúa soi dẫn, thì có lẽ ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ khó mà đến được với ta.
“Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 1,6)
Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong những nhân vật nổi bật vào các ngày của Mùa Vọng. Bối cảnh: MV 2-C80
Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong những nhân vật nổi bật vào các ngày của Mùa Vọng. Bối cảnh cuộc đời và chính cách sống của ngài đã nói lên tâm tình của Mùa Vọng. Ngài đóng vai trò Tiền Hô, sống chay tịnh và kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng, chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón Chúa Kitô, Đấng cứu độ loài người. Chúa Nhật II Mùa Vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta thực hành tâm tình cầu nguyện thiết thực và sâu sắc hơn. Tâm hồn hướng về Chúa với việc dọn đường, sửa lối, lấp đầy, san bằng để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Lời mời gọi của Thánh Gioan nhắc lại lời của tiên tri Iasia với những từ ngữ rất tượng hình và hổn độn. Đó cũng chính là tình trạng tâm hồn của mỗi chúng ta, do khuấy động của cuộc sống bên ngoài và tội lỗi của chúng ta.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn luôn có những tâm tình và thời giờ dành cho Chúa cũng như nhìn lại những gì mình đã sống, đã làm. Nhưng có lẻ chưa đủ nó còn rất nhiều thứ chi phối những tác động của môi trường bên ngoài ồn ào, bề bộn do những nhu cầu hằng ngày cũng như những cám dỗ làm cho chúng ta không trung thành với Chúa. Nhưng nhất là tình trạng tâm hồn của chúng ta với những lo toan của cuộc sống âu lo, buồn phiền và tội lỗi. Giờ đây với tâm tình Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Vọng chúng ta nhìn lại chính tâm hồn mình và quyết tâm điều chỉnh lối sống của mình. Chuẩn bị, sửa sang mảnh đất tâm hồn của mình để đón Chúa để nó là nơi tốt đẹp, sạch trong cho ơn cứu độ của Chúa.
Mùa Vọng là thời gian quý báu để chỉnh sửa tâm hồn mình. Một thời gian chờ đợi trong niềm vui và tin tưởng vì chúng ta biết rằng chắc chắn ơn cứu độ sẽ dành chúng ta nếu chúng ta thật tâm quay về với Chúa. Thời gian này cũng mời gọi chúng ta dành thời giờ cho Chúa nhiều hơn, lắng động nhiều hơn và hướng lòng lên Chúa nhiều hơn.
Sống với tâm thế của một tâm hồn khao khát và ước mong thật sự Chúa đến ngự vào tâm hồn ta. Tư thế của người cầu nguyện, chờ đợi và thiện chí muốn sửa đổi đời sống của mình. Một đời sống nội tâm kết hợp với Chúa mật thiết không chỉ trong giây phút hiện tại mà còn liên lỉ trong mỗi ngày sống và suốt hành trình đời người của chúng ta.
----------------------------------
MV 2-C81: MỌI NGƯỜI SẼ THẤY ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
Nếu sứ điệp của Chúa Nhật mở đầu Mùa Vọng năm C là “Anh em sắp được cứu độ”, thì điểm nhấn: MV 2-C81
Nếu sứ điệp của Chúa Nhật mở đầu Mùa Vọng năm C là “Anh em sắp được cứu độ”, thì điểm nhấn trong sứ điệp của Chúa Nhật II sẽ là “hết mọi người phàm sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Ơn cứu độ mà Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta khao khát mong đợi, là thực tại đến từ Thiên Chúa, được thực hiện trong lịch sử và thế giới phàm trần nhân loại, và do vậy, được dành cho tất cả mọi người, miễn là họ hối cải để được ơn tha tội.
Mở đầu bài Tin Mừng, tác giả Luca miêu tả khái quát một hoàn cảnh chính trị và tôn giáo xác định: “Năm thứ mười lăm dưới triều đại hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxanya làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế” ( cc. 1 – 2a ).
Đã đành, những chi tiết ấy được đặt trước hết trong tương quan với sự xuất hiện của ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng bởi vì ông Gioan chuẩn bị cho Đức Giêsu đến và hoạt động ngay sau đó, nên những chi tiết ấy thực ra cũng có giá trị mô tả khung cảnh lịch sử của biến cố Đức Giêsu.
Khung cảnh lịch sử được khái lược ở đây với những chỉ dẫn cụ thể về thời gian, về không gian và về những thẩm quyền chính trị và tôn giáo sẽ có ảnh hưởng trực tiếp trên sứ vụ của ông Gioan và của Đức Giêsu. Tác giả Luca đã viết theo cách viết của các bộ sử thời đại ông, nhưng đồng thời, ông cũng viết theo cách viết của các sách ngôn sứ trong Cựu Ước nữa: quả thực, ta gặp ở đây cách miêu tả tương tự như khi các ngôn sứ nói về sự xuất hiện của họ trong lịch sử ( x. Gr 1, 1 – 3; Ed 1, 1 – 3; Hs 1, 1; Am 1, 1… ).
Ý định trước tiên của tác giả sách Tin Mừng không phải là miêu tả cách chính xác thời gian ông Gioan xuất hiện và rao giảng. Bởi nếu thế, ông chỉ cần nói đến năm thứ mười lăm triều đại hoàng đế Tibêriô là đủ. Và thực ra, trong các chi tiết được ông Luca nêu lên ở đây, chỉ có chi tiết đó là có giá trị giúp xác định chính xác thời điểm Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai.
Có lẽ tác giả muốn đặt những sự kiện, mà ông sắp kể trong sách Tin Mừng của ông, vào trong một khung cảnh lịch sử với những khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo phức tạp của nó. Vậy, điều mà tác giả Luca muốn nhấn mạnh ở đây, là hành động cứu độ của Thiên Chúa không xảy ra trong một hoàn cảnh huyền thoại, phi lịch sử và không thể xác định, mà là trong một khung cảnh thời gian và không gian xác định rõ ràng với những khía cạnh khác nhau của khung cảnh đó. Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ của Người không phải trong một khung cảnh bất kỳ nào. Người can thiệp trong một khung cảnh lịch sử cụ thể, và làm cho Lời Cứu Độ của Người vang lên trong một thời điểm và một nơi chốn cụ thể. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa “dính dự” cách thiết thân vào lịch sử của nhân loại và của mỗi con người phàm trần chúng ta.
Ông Gioan và Đức Giêsu sinh sống và thi hành sứ vụ trong một khung cảnh lịch sử xác định. Đó là khung cảnh của đế quốc Rôma thời hoàng đế Tibêriô. Một con người vô danh tiểu tốt là Giêsu Nadarét được đặt đối diện với vị hoàng đế La Mã đầy quyền uy đang bá chủ thế giới ! Đại diện cho hoàng đế ấy ở Giuđê là quan tổng trấn Phongxiô Philatô. Theo nhận định của nhiều người đương thời, Philatô là một người cứng rắn và không biết thương cảm. Ông sẽ bị La Mã cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các nhà lịch sử cổ thời như Flavius và Philon cho biết: ông cai trị xứ sở bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc, tra tấn và hành quyết không nương tay. Còn các ông vua như Hêrôđê chỉ là những ông vua bù nhìn, thậm chí còn “hợp tác” với quyền lực La Mã để hiếp đáp và bóc lột dân chúng.
Rõ ràng, Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả đã phải sống và lên tiếng trong một miền đất bị chiếm đóng và cai trị bởi những con người tàn bạo. Ngày nay, tại nhiều nơi, Hội Thánh và các tín hữu cũng đang phải sống và loan báo Tin Mừng trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, đôi khi là bi thương. Nhưng chính ở bên trong những thực tại của nhân loại cụ thể và phàm trần mà sự thay đổi được thực hiện và ơn cứu độ được thành toàn cho con người.
Khi tác giả Luca viết sách Tin Mừng, các hoạt động của ông Gioan và của Đức Giêsu đã diễn ra và kết thúc được mấy thập niên rồi. Ông Gioan và Đức Giêsu không phải là những hình ảnh huyền thoại không thể hiểu thấu, mà là những nhân vật đã sống trong một khoảnh khắc lịch sử xác định. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã thực sự bước vào trong lịch sử và trong những điều kiện sống chung của cuộc sống nhân loại. Sự kiện Ngài trở thành “một người trong số chúng ta” và ở bên cạnh chúng ta, luôn luôn là một sự kiện đầy sức an ủi. Nhân loại chúng ta không bị phó mặc cho những quyền lực chính trị, kinh tế và tôn giáo trong lịch sử, vốn là những thứ quyền lực có thể huỷ diệt chúng ta. Nơi con người Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đã đi vào lịch sử, và do bởi mầu nhiệm vượt qua của Đức Giêsu, lịch sử và nhân loại được điều khiển và dẫn dắt bởi quyền năng cứu độ của chính Thiên Chúa.
Hoạt động của ông Gioan được giới thiệu theo kiểu giới thiệu ơn gọi của ngôn sứ trong Cựu Ước: “Có lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan, con ông Dacaria, trong hoang địa” ( c. 2b; x. Gr 1, 1 ).
“Có lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan”. Ngay từ khi sinh ra, ông Gioan đã được dành riêng cho Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần ( Lc 1, 15 – 17 ). Bây giờ, ông được Thiên Chúa kêu gọi thực hiện sứ mạng đặc biệt. Sứ mạng của ông đến từ chính Thiên Chúa. Ông không hiện diện và hoạt động trong tư cách cá nhân, mà là trong tư cách của một người được Thiên Chúa sai đến, và vì thế, thẩm quyền của ông đến từ Trời. Sau này, nói về thẩm quyền ấy, Đức Giêsu sẽ hỏi các thượng tế, kinh sư và kỳ mục Do Thái: “Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta ?” ( Lc 20, 4 ).
Chính Thiên Chúa phán với ông Gioan, và đó là yếu tố quyết định nhiệm vụ và giá trị của ông. Ông sẽ phải diễn tả tư tưởng và ý muốn của Thiên Chúa cho dân, để chuẩn bị dân đón nhận Đức Giêsu. Lời rao giảng của ông được liên kết với Thiên Chúa và ý định cứu độ của Người. Và giá trị của ông sẽ không được xác định bởi những tiêu chuẩn phàm trần. Sau này, dân chúng sẽ coi ông là một vị ngôn sứ ( x. Lc 20, 6 ), nhưng Đức Giêsu sẽ nói về ông: “Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng vậy, nhưng tôi bảo các người, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa! Chính ông là người đã được Kinh Thánh nói tới khi chép rằng: Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến !” ( Lc 7, 26 – 27 ).
Như vậy, qua ông Gioan con ông Dacaria, Thiên Chúa bây giờ can thiệp vào lịch sử. Không phải những nhân vật nắm giữ quyền lực chính trị và tôn giáo như Tibêriô, Philatô, Hêrôđê, Philipphê, Lyxanya, Khanna, Caipha… và những ý thức hệ cũng như những hệ thống chính trị – tôn giáo đam mê quyền lực của họ, sẽ làm thay đổi thế giới; nhưng chính Lời Cứu Độ của Thiên Chúa đi vào lịch sử và đi vào bên trong những thực tại nhân loại, sẽ làm nên cuộc thay đổi kỳ diệu số phận của toàn thể nhân loại.
Ngày nay cũng vậy, Thiên Chúa công bố Tin Mừng cứu độ của Người nhờ Hội Thánh và mỗi người chúng ta. Chúng ta không công bố sứ điệp Tin Mừng nhân danh con người hay tổ chức phàm trần của mình, mà là trong sứ mạng do chính Thiên Chúa trao phó. Và còn cao cả hơn cả sứ mạng của ông Gioan, sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh là sự tiếp nối sứ mạng cứu độ của chính Chúa Giêsu trên trần gian.
Vấn đề là chúng ta có dám để cho Lời Thiên Chúa “chộp lấy” như ông Gioan xưa hay không. Vấn đề là Lời Thiên Chúa có thể chiếm hữu và chi phối cuộc sống cũng như hoạt động của chúng ta hay không.
“Trong hoang địa”. Sự kiện “lời Thiên Chúa phán cùng ông Gioan con ông Dacaria” đã xảy ra “trong hoang địa”. Theo Lc 1, 80, ông Gioan “sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel”. Có lẽ sẽ là vô ích nếu chúng ta tìm cách xác định nơi chốn cụ thể của “hoang địa” mà tác giả Luca viết ở đây. Đối với Luca, đó là nơi xảy đến ơn gọi của vị tiền hô. Ông phải đến từ nơi đó theo lời tiên báo của Isaia sẽ được trích ở câu 4, và chính ở nơi đó, vị ngôn sứ đã lớn lên trong sự gần gũi và tình thân nghĩa của Thiên Chúa, trước khi ông được sai đi dọn đường cho Con Thiên Chúa đến.
Hoang địa là một nơi chốn cô tịch, trong đó, ông Gioan nghe được Lời mầu nhiệm của Thiên Chúa. Xa lánh những ồn ào thế gian, xa lánh cuộc sống náo nhiệt bị chi phối bởi những vọng động điên cuồng, đi vào trong cõi cô tịch và hoang vắng của lòng mình, sống trong sự hiện diện cận kề của Thiên Chúa, chúng ta sẽ có thể gặp được Lời Thiên Chúa phán với chính mình. Và chính ở đó, sự thay đổi của thế giới chúng ta đang sống sẽ bắt đầu, nhờ Lời Thiên Chúa. Đây có lẽ cũng là một điểm nhấn quan trọng của Mùa Vọng.
“Gioan đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng hối cải để được ơn tha tội” ( c. 3 ). Ông Gioan rời khỏi khung cảnh bình an và hạnh phúc mà ông đã sống từ nhỏ, lên đường đi khắp vùng ven sông Giođan, nơi ông rao giảng.
Theo Mc 1, 4 ông Gioan rao giảng trong hoang địa, nhưng tác giả Luca phân biệt hoang địa ( nơi có lời Thiên Chúa phán với ông Gioan ) và vùng ven sông Giođan ( nơi ông Gioan rao giảng ). Đừng tìm cách xác định đó là vùng nào. Điều quan trọng là Gioan đi khắp vùng ( vì Lời Thiên Chúa phải vận hành ): như thế, trong phong thái một vị ngôn sứ, ông thực hiện sứ mạng của vị tẩy giả, chuẩn bị cho mọi người đón Chúa Kitô.
Ông Gioan rao giảng một phép rửa tỏ lòng hối cải để được ơn tha tội. Điều đó có nghĩa là ông phải dấn thân cho một sứ mạng đầy thách thức và rất dễ gây mất lòng. Thông thường, người ta thích nghe những lời công nhận ( thậm chí là ủng hộ, hay ít nhất là không phê phán ) những tư tưởng và những cách hành xử của mình. Không ai muốn nghe tuyên bố rằng lý tưởng hay cách hành xử của mình là sai lầm và phải thay đổi. Vì thế, chấp nhận sứ mạng kêu gọi người ta hối cải, là chấp nhận không sống quỵ luỵ trước thế gian, nhưng dấn thân sống trong nguy hiểm, bị khước từ và thậm chí bị giết hại. Và quả thực, đó sẽ là số phận bi thương của chính ông Gioan sau này ( Lc 3, 19 – 20 ).
Ông Gioan đòi hỏi người ta phải hối cải, phải quay về với Thiên Chúa, phải kính trọng Thiên Chúa và thánh ý Người. Dân chúng sống trong tội lỗi là sống trong sự bất tuân Thiên Chúa. Họ cần ơn tha thứ. Khi lãnh nhận phép rửa của ông Gioan, người ta công nhận rằng mình cần được Thiên Chúa tha thứ và muốn quay trở về với Người. Và như thế, người ta được chuẩn bị để đón nhận biến cố Đức Chúa ngự đến và để được nhìn thấy ơn cứu độ của Người.
Sự hối cải được nói ở đây ( mêtanoia ) là một cuộc quay trở lại với Thiên Chúa, chứ không chỉ là một cuộc thay đổi mang tính luân lý hay xã hội. Nếu chỉ mang tính luân lý hay xã hội và bỏ mất chiều kích “về với Thiên Chúa”, thì sự hối cải Kitô giáo sẽ chẳng hơn gì ( thậm chí có thể thua kém ) nhiều lý thuyết nhân bản trong lịch sử nhân loại. Nhưng đây là một cuộc quay trở lại với Thiên Chúa, và chính do vậy mà kéo theo những hiệu quả về luân lý và xã hội. Đàng khác, sự hối cải mà ông Gioan rao giảng đòi được thể hiện ra bên ngoài bằng một hành động thấy được: chịu phép rửa. Tất nhiên phép rửa này chưa phải là phép rửa Kitô giáo, nhưng ít nhất nó cũng cho chúng ta thấy rằng: hối cải không phải chỉ là chuyện của tư tưởng thầm kín, thuộc phạm vi tâm trí, mà còn là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện cho mọi người thấy bằng một hành vi công khai. Phép rửa này là một hành vi biểu tượng bên ngoài, nói lên sự trở lại của tâm hồn bên trong.
Nhưng ông Gioan không chỉ là người rao giảng sự hối cải. Ông còn là người công bố một sứ điệp mang lại niềm vui: khi kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón Đức Chúa ngự đến, ông đồng thời loan báo rằng cuộc ngự đến ấy của Đức Chúa đã gần kề, và “hết mọi người phàm sẽ được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Tác giả Luca trích Is 40, 3 theo bản dịch LXX và nhấn mạnh tính phổ quát của ơn cứu độ. Trong sách ngôn sứ Isaia đệ nhị, tiếng hô công bố cuộc trở về của những người Israel từ nơi lưu đày; được Đức Chúa YHWH dẫn đầu, họ đi qua hoang địa đã được sửa lối và tiến về quê hương như trong một đoàn rước. Trong truyền thống Kitô giáo: từ hoang địa vang lên lời của vị ngôn sứ ( ông Gioan Tẩy Giả ) rao giảng cuộc hoán cải chuẩn bị cho cuộc ngự đến của Đấng Mêsia.
Trong viễn tượng của Luca, ông Gioan không chỉ là ngôn sứ rao giảng sự hoán cải, mà còn là ngôn sứ công bố ơn giải thoát. Là vị tiền hô, ông được soi sáng bởi ơn cứu độ thời đại Mêsia vốn đã gần kế, và ông kêu gọi Israel đón nhận ơn cứu độ đó. Ông là ngôn sứ và là người loan tin vui, hơn là người làm phép rửa và kêu gọi sống khổ hạnh.
Giữa thế giới hôm nay, Hội Thánh và từng người chúng ta cũng phải là “tiếng người hô” giúp nhân loại đón nhận ơn cứu độ. Niềm hy vọng Chúa đến trong Mùa Vọng sẽ là vô nghĩa, nếu chúng ta không phải là tiếng kêu mang tính ngôn sứ công bố ơn cứu độ cho mọi người phàm. Và tất nhiên chúng ta sẽ có thể phải trả giá vì tư cách ngôn sứ đó của mình.
Vua Hêrôđê không thể làm điều gì có thể khiến ông được thần dân Giuđê yêu mến, ngay cả việc: MV 2-C82
Vua Hêrôđê không thể làm điều gì có thể khiến ông được thần dân Giuđê yêu mến, ngay cả việc chi tiền không tiếc cho công trình xây Đền Thờ. Người ta không bao giờ quên ông là người gốc Êđôm. Nếu ông là một người Giuđa về mặt tôn giáo, đã xây lại Đên Thờ Giêrusalem, thì điều đó cũng không ngăn ông xây dựng các đền thờ cho các thần ngoại giáo khắp nơi. Trên hết, việc ông tiêu diệt dòng dõi Hasmonaean là điều không thể tha thứ được.
Trên thực tế, hành động thẳng tay này đã không chấm dứt được những bất ổn trong hoàng gia. Có sự xích mích giữa họ hàng bên ngoại với những người vợ của ông, và giữa những người con của các bà vợ. Hai người con của ông và Mariamne, là Alexander và Aristobulus, được dưỡng dục tại Rôma, và được chọn làm thừa kế. Chúng vốn thuộc dòng dõi Hasmonaean ( họ mẹ ) nên được dân Giuđa chấp nhận. Nhưng sự ưu ái đó làm những anh em khác mẹ ghen tỵ, đặc biệt là Antipater, con cả của Hêrôđê, đã quyết tâm gieo cho cha mình ý tưởng chống lại họ. Cuối cùng, năm 7 trước Công Nguyên, họ bị khép vào tội âm mưu chống lại cha và bị xử tử. Antipater cũng chẳng lợi lộc gì từ cái chết của hai em. Ba năm sau ông cũng là nạn nhân của sự nghi ngờ của vua cha, và đã bị xử từ, chỉ vài ngày trước khi Hêrôđê băng hà, năm 4 trước Công Nguyên.
Bản chất đa nghi của Hêrôđê được minh chứng bằng chuyến thăm viếng của ba vua, và các hài nhi Bêlem bị giết hại. Bất cứ tin đồn nào về sự dấy lên của một vị vua dân Giuđa cũng làm ông sợ hãi tột cùng. Sự nghi ngờ này đã lên đến mức điên cuồng. Hậu quả là Hêrôđê được nhớ đến qua cơn cuồng sát hài nhi, hơn là vì khả năng cai trị. ( Flavius Josephus, Ant, A.H.M. Jones, The Herods of Judea )
Trước bối cảnh lịch sử máu me ghê tởm, tràn đầy những âm mưu, thù hận, nghi kỵ, hãm hại, giết chóc, từ nội tình lãnh đạo đế quốc Rôma đến hoàng gia chư hầu Giuđa, Israel, thì Ngôn Sứ Gioan Tiền Hô xuất hiện như một niềm hy vọng giải phóng dân Israel khỏi lầm than.
Trong khi quyền lực thế gian tập trung trong tay các hoàng tộc kiêu căng, độc đoán, gian manh, ác độc thì lịch trình Cứu Độ của Thiên Chúa lại khởi sự từ sự khiêm nhường, nhân ái, tràn đầy tình yêu.
Chúa nói trong nơi thinh lặng
Chính trong hoang địa, chứ không phải tại đền đài cao sang, ồn ào, nguy nga, tráng lệ, Thiên Chúa phán dạy, trao sứ vụ cho ông Gioan, vốn là con của hai người công chính, thầy tư tế Dacaria và bà Êlisabet. Chúa gần gũi thân mật với người thành tâm nơi cô tịch. Ngài không khoe khoang, không quảng cáo, không tiếp thị nơi phồn hoa, đô hội. Chúa luôn ẩn dấu trong mọi sự, dưới nhiều sự kiện, trong mọi biến cố, mà chỉ thổ lộ tâm tình trong cô liêu, tĩnh lặng.
Ông Gioan theo gương Chúa, cũng đi rao giảng trong hoang địa, cũng chẳng chọn nơi phố xá đông đúc, thị tứ xô bồ, náo nhiệt, ô nhiễm, ồn ào. Thế nhưng, “bấy giờ người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giô đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giôđan” ( Mt 3, 5 ).
Do vậy, sẽ thất vọng khi tìm nghe tiếng Chúa nói với mình trên làn sóng radio, tivi, trên báo chí, truyền thông, hoặc trên internet. Tất cả những phương tiện đó, nếu có, chỉ là tiếng vang vọng của Chúa mà thôi. Bởi vì Chúa chỉ muốn “nói chuyện tay đôi” với chúng ta trong thinh lặng, tĩnh mịch, khi chúng ta giũ bỏ được mọi lo toan, đam mê, hay dục vọng thấp hèn.
Chúa nói cho tâm hồn khiêm nhu
Phần đầu bài Tin Mừng hôm nay có hai ý nghĩa. Trước hết ý nghĩa lịch sử về thời điểm Chúa Giêsu đến thế gian. Ý nghĩa thứ hai, chương trình cứu chuộc của Chúa hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng thế gian. Không cần uy lực, không cần vinh quang phù du, không cần bá quyền, lẫn vương quyền. Ngài chỉ dùng đến con người tầm thường, nhỏ bé, khiêm hạ, nhân ái, để loan truyền Ơn Cứu Độ.
Vì thế, Chúa phán truyền sứ vụ cho ông Gioan Tiền Hô, khiêm tốn, ẩn dật trong hoang địa, ăn mặc xuềnh xoàng thô thiển, không khoác áo da thú đắt điền, như quý bà giàu sang bây giờ, không ăn ngon thỏa thuê, thừa mứa như các đại gia, thừa bạc lắm tiền, mà chỉ chay tịnh châu chấu với mật ong rừng.
Chúa kêu gọi cải tà quy chánh
Khi nêu ra các hoàng gia đương thời, qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta, đừng bắt chước, học đòi những thủ đoạn dã tâm của họ, để củng cố địa vị, để hưởng giàu sang phú quý, mà chà đạp, hay hãm hại người khác.
Trái lại, phải dọn đường cho thẳng, công tâm, chánh trực, phải lấp đầy thung lũng ham muốn, tham lam chức tước, của cải, tiện nghi, phải bạt cho thấp núi đồi kiêu căng, cao ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, phải uốn cho ngay khúc quanh co gian tà, lưu manh, dối trá, phải san cho phẳng đường lồi lõm, đam mê, hưởng lạc thú vui xác thịt…, mới có thể nhận ra Chúa đang đến, mà hưởng được Ơn Cứu Độ.
“Canh tân không phải chỉ đổi nước mã bên ngoài, đổi một số nghi thức cho ngoạn mục… Thánh Phaolô nói rõ: Hãy cởi con người cũ, mặc lấy người mới, là Chúa Giêsu” ( Đường Hy Vọng, 635 ).
Lạy Chúa Giêsu, hãy cho con thoát ra khỏi tiếng ồn ào, huyên náo danh lợi, cám dỗ xác thịt, để nghe được tiếng Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi canh tân đổi mới. Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết ăn năn, sám hối, cũng như khiêm nhường, vâng phục và phó thác noi gương Mẹ, để có thể đón mừng Chúa đến. Amen.
“Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy Ơn Cứu Độ của Chúa”.
Và mọi người sẽ thấy Ơn Cứu Độ”. Có lẽ nào ông Gioan nói sai ? Bởi Chúa Giáng Sinh đã hơn hai: MV 2-C83
“Và mọi người sẽ thấy Ơn Cứu Độ”. Có lẽ nào ông Gioan nói sai ? Bởi Chúa Giáng Sinh đã hơn hai ngàn năm rồi, mà vẫn còn nhiều người… chưa “thấy ơn cứu độ của Chúa”. Cụ thể, ở Việt Nam, sắp đến 400 năm kể từ khi Tin Mừng đến Nước Mặn ( Đàng Trong ), đã qua hơn 350 năm thành lập 2 Giáo Phận Tông Tòa, hơn 50 năm thành lập hàng Giáo Phẩm, hơn 130.000 vị Tử Đạo… mà chỉ có hơn chục triệu người được rửa tội, trong số hơn 80 triệu dân Việt Nam. Và đó là con số được rửa tội. Còn con số được “thấy ơn cứu độ của Chúa” thì không ai có thể làm một bản thống kê !
Chẳng lẽ ông Gioan nói sai rồi sao ? Ông nói là… “mọi người sẽ thấy Ơn Cứu Độ của Chúa” cơ mà ! Trong bản văn Tin Mừng, Thánh Luca không dùng điều kiện cách “nếu… thì”, nhưng dùng cách câu đề nghị, khuyên bảo “hãy… sẽ…”, cho thấy mức độ tôn trọng đối với người làm chứng và cả người đón nhận Ơn Cứu Độ. Như vậy, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, để tự do ấy thực sự có giá trị khi con người biết dùng tự do mà chọn lựa cho mình phần tốt nhất. Phần tốt nhất phải ngộ cho ra, đó là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa chúng ta.
Nhiều người chưa thấy Ơn Cứu Độ, cách riêng ở Việt Nam, trước tiên là do bị Satan đầu độc tâm trí con người không cần đến Ơn Cứu Độ, hoặc sử dụng tự do lệch lạc theo cách “tự do tin, tự do không tin”. Tự do theo cách của người vô thần. Suy nghĩ ấy đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết đời đời, chấp nhận một cuộc sống không có niềm hy vọng ! Cũng đồng nghĩa với việc chỉ sống cho đời này, vì chỉ có đời này, nên có thể làm bất cứ điều gì miễn là có được một cuộc sống sung sướng no đủ về vật chất !
Không cần đến Ơn Cứu Độ cũng được hiểu là xác nhận không có một hữu thể nào siêu phàm thượng trí bằng… con khỉ đột, ông tổ của loài người như người ta vẫn lải nhải tuyên truyền ! Những con người này đang sống trong thế giới ảo, hạnh phúc ảo, sự sống ảo. Và khi hạnh phúc thật, sự sống thật, chắc chắn sẽ xuất hiện cách cá vị ngang qua cái chết, họ vẫn cứ một mực ngoan cố không nhìn ra sự thật, liều mình chọn cái chết đời đời !
Thật đáng tiếc, các tín hữu Việt Nam vẫn thường gặp, thường nghe những lời thách thức để từ chối Thiên Chúa: Chúa đến đem hòa bình, sao vẫn còn chiến tranh ? Chúa đến xóa bất công, sao bất công vẫn còn nhan nhản ? Chúa đến đem sự thật, sao giả dối vẫn lan tràn ? Chúa đến đem tình yêu, sao vẫn còn tỵ hiềm, ghét ghen thù hận ? Ngay cả miền đất Chúa sinh ra kìa, có khi nào được yên ổn đâu ?
Thứ đến, còn nhiều người chưa thấy Ơn Cứu Độ là do không có người làm chứng, hoặc chứng tá “đời sống trong Ơn Cứu Độ” chưa thực sự đủ sức thuyết phục. Chứng từ hùng hồn của các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã trổ sinh muôn ngàn bông hạt Đức Tin trên quê hương Việt Nam. Rõ ràng là cho đến nay, chúng ta vẫn đang là người thừa hưởng gia sản của các Thánh Tử Đạo Việt Nam để lại. Các Thánh Tử Đạo, có thể nói, là những người đã tận mắt “nhìn thấy Ơn Cứu Độ” ngay khi còn sống trên trần gian này, nên các Ngài đã dám “lấy chính giọt máu của mình mà gieo trồng Hội Thánh Chúa”. Còn chúng ta, có dám hy sinh không ? Con số những người mới theo Đạo, mới được rửa tội tại Việt Nam những năm sau 1975 chưa hẳn đã nói lên điều gì, mà nếu có nói được điều gì, thì điều ấy vẫn chưa gọi được là xứng đáng với các bậc tiền nhân anh dũng. Một cơ hội để chúng ta tự vấn về việc chúng ta đang để lại cái gì cho thế hệ hậu duệ ?
Sự băng hoại trầm trọng của xã hội không Thiên Chúa có ảnh hưởng đến con cái Chúa không ? Những lời thách thức từ chối Thiên Chúa càng có lý do để tiếp tục nhũng nhiễu các tín hữu hơn khi họ không nhìn thấy chứng tá đời sống Ơn Cứu Độ nơi mọi thành phần Dân Chúa. Bất kể thành phần nào, khi vướng vào một chút bất chính, cũng đủ trở thành nguy cơ che khuất ánh sáng, hồng ân của Ơn Cứu Độ. Đã thế, lại còn cảnh chia rẽ đố kỵ trong nội bộ các thành phần Giáo Hội, chỉ khiến cho “đục nước béo cò” mà thôi, chẳng sinh ích gì cho việc giúp mọi người quanh ta có thể nhìn thấy Ơn Cứu Độ. Có khi “cò béo” lại còn viết sẵn kịch bản để ta quậy cho “đục nước” mà càng thêm “béo cò”. “Cò béo” cứ thế mà vỗ bụng khoái chí mà ta không hay biết !
Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng trong Năm Đức Tin thật sự là một cơ hội vàng cho Dân Chúa Việt Nam. Lời ông Gioan Tiền Hô vẫn còn đó ! Để chính ta được nhìn thấy Ơn Cứu Độ, và để mọi người quanh ta cũng nhìn thấy Ơn Cứu Độ, ta phải sám hối, phải đổi mới canh tân: Lấp mọi hố sâu ích kỷ, tham lam, dục vọng; bạt mọi núi đồi chủ quan, kiêu ngạo, trịch thượng, quyền hành; sống công chính, ngay thẳng giữa những bất chính, gian dối, lọc lừa…
Canh tân không chỉ tuyên tín trong sâu thẳm tâm hồn mà còn phải biểu lộ điều chúng ta tuyên tín bằng đời sống công chính có sức thuyết phục của người Công Giáo.
Hẳn chúng ta còn nhớ nghi thức sám hối đầy ấn tượng trong phần Sám Hối Năm Thánh 2009 tại Sở Kiện, và lời của Giám Mục Nguyễn Chí Linh vẫn còn vang vọng: “Chiều hôm nay, khơi lại ngọn lửa Đức Tin như hồng ân quý giá nhất mà Chúa đã ban, đốt lên nén hương lòng tưởng nhớ tiền nhân đã để lại gương sống tuyệt vời, chúng ta tri ân cảm tạ và nguyện hết lòng trung kiên làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận, rằng với tư cách là Kitô hữu đang mang trong mình dòng máu Adam-Evà, chúng ta đã phạm tội, đã vấp phải nhiều lỗi lầm thiếu sót. Chúa Kitô là “Ánh sáng đã đến thế gian” nhưng chúng ta “đã ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng” ( Ga 3, 18 ).
Hãy xin lỗi Chúa. Hãy xin lỗi nhau. Và hãy xin lỗi mọi người lương dân vì chúng ta chưa thực sự làm chứng cho Ơn Cứu Độ. Việc xin lỗi ấy đồng nghĩa với quyết tâm theo lời mời gọi của Ông Gioan trong Tin Mừng hôm nay, và cụ thể là – Khâu lại tấm áo hiệp nhất – Làm đẹp dung nhan Thánh Thiện của Chúa Kitô – Nhiệt tình truyền giáo – Tin tưởng truyền thống Giáo Hội; sống yêu thương nhau, và hòa mình với những nỗi đau của những người đau khổ bất hạnh, bạn hữu chí thiết của Chúa Kitô.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, trong Năm Đức Tin này, nguyện xin Ánh Sáng Lời Chúa, Ánh Sáng Tình Yêu của Chúa chiếu dọi chúng con sống công chính, để đời sống chúng con trở nên lời tuyên tín và lời chứng về Ơn Cứu Độ của Chúa cho mọi người. Amen.
Đường là để đi, đi đến một nơi nào đó, một nơi để cư trú. Bởi thế, đường không thể là nơi cư trú: MV 2-C84
Đường là để đi, đi đến một nơi nào đó, một nơi để cư trú. Bởi thế, đường không thể là nơi cư trú của con người. Nói như vậy, trần gian chỉ là đường và không phải là nơi cư trú. Đường trần gian sẽ đưa con người đến nơi cư trú của họ. Nơi đó là đâu ? Thưa, chính là Thiên Chúa.
Trần thế có trăm vạn nẻo đường. Và trên bất kỳ con đường nào, cũng thấy có sự hiện diện của con người. Dù là đường rộng thênh thang hay đường gập ghềnh sỏi đá. Dù là đường quang minh chính đại hay là đường gian dối, nơi nào cũng thấy có dấu chân của nhân loại. Thế nhưng, chỉ có một con đường Giêsu – con đường yêu thương, chỉ có con đường ấy… dường như vắng bóng nhân loại.
Có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân căn bản nhất là vì con người sợ đau khổ, sợ thập giá. Vì chưng, nếu thực sự muốn bước theo Đức Giêsu thì chúng ta không thể đi con đường nào khác hơn ngoài con đường khổ giá của Ngài. Phải qua thương khó, qua đau khổ, qua hy sinh mới đạt đến vinh quang bất diệt. Chính con đường khổ nạn ấy đã khiến cho nhiều người chùn chân, mỏi gối và bỏ cuộc. Nhìn lên thập giá hãi hùng, người ta đã thối lui… vì sợ phải bỏ mình, sợ phải hy sinh, sợ mất mát, sợ đánh đổi.
Con đường mà thánh Gioan Tẩy Giả loan báo hôm nay trong hoang địa. Tiếng réo gọi từ trong sâu thẳm tâm hồn con người đã được ngài thúc lên, cũng chính là con đường thập giá. Con đường phải từ bỏ mình để đón Chúa.
Đường trần gian có ối như tơ nhện, trăm ngả, vạn nẻo… cũng không rối bằng đường tham vọng trong lòng con người. Chính sự hưởng thụ, ích kỉ, tham lam, ganh ghét… làm nảy sinh ra con đường thù hận, thì còn chỗ đâu cho Thiên Chúa ngự trị ?
Thiên Chúa đến trần gian chỉ bằng một con đường duy nhất đó chính là con đường yêu thương. Thế nên, tất cả những ai muốn đi về nơi họ được sinh ra thì cũng đều phải đi trên con đường này. Chỉ có một con đường duy nhất nối đất với trời, trời với đất đó là con đường yêu thương, phục vụ. Chỉ những ai đến và đi bằng yêu thương mới có thể đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Ắt nhiên, ai bước ra hoặc đi chệch con đường yêu thương ấy đều không thể tìm gặp Thiên Chúa.
Tạo dựng nhân loại trong yêu thương nhưng con người đã lạm dụng tự do Thiên Chúa ban để phản nghịch cùng Ngài, bước ra khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa, để rồi lạc đường, lạc hướng. Không thể bỏ mặc con người bơ vơ, vất vưởng… Thiên Chúa đã ban chính Con Một của Ngài đến trần gian, khai thông đất với trời để đưa con người bước vào Chính Lộ. Thiên Chúa đã dùng các tiên tri, các ngôn sứ… loan báo Đường Cứu Độ của Ngài qua Đức Giêsu Kitô, vị Vua Hòa Bình, Đấng Cứu độ thế giới sắp ngự đến để dẫn đưa con người về với yêu thương. Những nẻo đường Ngài sắp đi, những dấu chân Ngài sắp qua, những miền đất Ngài sắp hiện diện chính là con đường đưa nhân loại về với hạnh phúc vĩnh cửu.
“Đường nhân gian đầy ải thương đau, ai chưa qua chưa phải là người”. Vâng, chính vậy, đã làm người tất nhiên phải bước đi trên cõi đường đầy ô trọc, gian nan như vậy. Cho dù bạn có là ai? Có sống ở môi trường, hoàn cảnh nào cũng không thể tránh khỏi khổ đau và nước mắt. Đó là một điều hiển nhiên tất yếu, vì ngay từ thuở đầu tạo dựng, tổ tông đã đánh mất cái hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thế nhưng, mất không phải là hết, nhưng vẫn còn có thể phục hồi được, với điều kiện: can đảm bước theo con đường của Đức Chúa.
Điều kiện cần để có thể đặt chân lên Chính Lộ Yêu Thương, đó chính là phải thay đổi, phải từ bỏ, phải hoán cải, phải canh tân. Tiếng kêu trong hoang địa mà Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi tha thiết hôm nay còn gì khác hơn là tiếng gọi của Thiên Chúa từ tận đáy tâm hồn con người. Ở trong tận sâu thẳm linh hồn mỗi người, Ngài đang réo gọi, chờ đợi sự hoán cải, đổi thay: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để đường đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho bằng. Rồi hết mọi người phàm, sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” ( Lc 3, 4 – 6 )
Lời lẽ rõ ràng, minh bạch quá, không còn gì phải giải thích. Mở đầu là lời kêu gọi “hãy”, biểu lộ sự tôn trọng tự do, thành ý đáp trả của người được kêu gọi. Nhưng sau đó là lời khẳng định, nhấn mạnh cương quyết, có hàm ý bắt buộc. “Mọi” nghĩa là tất cả, đều “phải”… thay đổi, phải sửa sang, phải hoàn toàn đổi mới… thì sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Tất cả những cái “phải” ấy chính là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận ơn cứu độ, để có thể bước đi trên con đường bình an, yêu thương, con đường hạnh phúc. Nếu nói rằng trần gian là đau khổ thì tại sao con người không bước về cùng Thiên Chúa để được hạnh phúc vĩnh cửu ?
Lạy Chúa, có tiếng người đã réo vang trong hoang địa, kêu gọi con chuẩn bị dọn tâm hồn đón ơn cứu độ của Ngài. Con đã nghe, thế nhưng dường như con nhắm mắt làm ngơ, bịt tai để khỏi phải hiểu, khỏi phải sửa đổi. Ai cũng sợ phải từ bỏ mình, ai cũng sợ phải đổi thay. Con người luôn ràng buộc mình trong vỏ ốc ích kỉ, hẹp hòi của lối suy nghĩ bảo thủ, thành kiến. Ai cũng sợ mất mát, phải đổ máu, phải… không còn là mình.
Thế nhưng, tất cả đều là sự biện hộ cho lối sống ích kỉ hưởng thụ mà thôi. Đó chính là những ngọn núi cao cần phải bạt xuống, đó chính là hố sâu tham vọng cần phải lấp đầy, đó chính là sự gian dối, ganh ghét cần phải uốn sửa cho ngay. Quả thật, lòng con người đáng sợ hơn tất cả, nó đều là đường quanh co, gồ ghề dẫn tới hủy diệt. Chỉ cần một Chính Lộ, một con đường ngập tràn ánh sáng. Ở nơi đó, không có ngã rẽ, cũng chẳng có lối tắt nào vắt ngang. Chỉ cần có một Chính Lộ ở trong lòng, đối với con đó mới là đường hạnh phúc đích thực.
Bao nhiêu năm qua, con đã tất tả ngược xuôi kiếm tìm, đường cho mình sự sống, cho mình hạnh phúc. Có nhiều lúc, một mình con đối diện với sa mạc hoang vu trong cõi lòng… đau đớn nhận ra sự trái ngang, đắng cay của cuộc sống khi vắng bóng Thiên Chúa.
Giờ đây, con muộn màng nhận ra, con đường ấy ở ngay trong chính tâm hồn mình, ở ngay trong tận sa mạc sâu thẳm của trái tim. Chỉ cần con thay đổi, chỉ cần con sữa chữa… là Thiên Chúa đã có thể đến trao hạnh phúc bất diệt cho con. Nếu đã ý thức được như thế, con cần gì phải hối hận, cần gì phải lo sợ, nô lệ lời khen tiếng chê của đời… mà hãy lặng lẽ đổi thay… đón Chúa ngự đến cõi sâu thẳm của tâm lòng hạnh phúc.
Người Hồi Giáo Ả Rập có kể một giai thoại nói về sám hối rất hay: một ngày kia, Đức Thánh Allah: MV 2-C85
Người Hồi Giáo Ả Rập có kể một giai thoại nói về sám hối rất hay: một ngày kia, Đức Thánh Allah cho gọi một thiên sứ đến và bảo: “Ngươi xuống trần gian kiếm cái quý giá nhất của con người và mang về đây cho Ta”. Thiên sứ ra đi thi hành mệnh lệnh.
Lần đầu tiên, ngài mang về cho Đức Thánh Allah một bình máu của các chiến sĩ mà ngài hứng được trong trận chiến giữa người Hồi Giáo và người Ấn Giáo ( đó là máu của các vị Tử Đạo theo quan niệm của người Hồi Giáo ).
Lần thứ hai thiên sứ mang về là hương thơm của lòng biết ơn mà người dân dành cho vị trưởng làng qua cái chết của ông. Cả hai lần, Đức Thánh Allah rất vui, vì đó là những điều quý ở trần gian mà sứ thần tìm kiếm được. Tuy nhiên, đây vẫn không phải là món quà quý giá mà Đức Thánh Allah muốn tìm.
Và Ngài lại sai thiên sứ đi lần thứ ba. Lần này thiên sứ vừa đi vừa suy nghĩ, điều quý giá nhất ở trần gian là cái gì ? Bỗng nhiên, từ đàng xa, thiên sứ nghe thấy tiếng khóc của một phụ nữ. Đến gần, thiên sứ cảm thương hỏi: “Sao cô khóc ?” Không có tiếng trả lời ! Cô gái lại càng khóc nức nở hơn trước. Bấy giờ vị thiên sứ tiến lại gần nắm lấy tay cô và hỏi: “Sao cô khóc nhiều đến thế, có gì nói cho tôi nghe với ?” Bấy giờ có tiếng nói từ miệng cô thoát ra hòa lẫn tiếng nấc cùng với dòng nước mắt tuôn rơi. Cô gái nói: “Thưa ngài con đau khổ quá, con đau khổ vì lỗi lầm của con, con đã xúc phạm đến nhiều người và làm trái với lòng mình… Bây giờ con hối hận lắm…”
Thật cảm động ! Thiên sứ liền hứng những giọt nước mắt của cô mang về cho Đức Thánh Allah. Lần này Ngài vui mừng và reo lên: “Đây chính là điều Ta mong muốn. Giọt nước mắt của lòng sám hối chính là món quà quý giá nhất mà Ta cần”.
Bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại việc Gioan Tiền Hô loan báo và kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối, vì Ơn Cứu Độ đã gần đến. Vậy ăn năn sám hối là gì ?
Trước tiên, sám hối là quay trở về với Chúa, xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi. Sám hối là một động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm và liên đới với mọi người.
Thứ đến, sám hối còn là hành vi mong chờ Ơn Cứu Độ: “Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”. Phải chăng vì thế mà động từ “gần đến” của Gioan ở đây có thể hiểu được là sắp đến lễ Giáng Sinh. Và, cũng có thể hiểu là ngày “gần đến” của Ơn Cứu Độ, ngày Cánh Chung của mỗi người chúng ta.
Tiếp theo, sám hối là làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy tâm tình mới.
Tinh thần đó, được Thánh Gioan vạch ra cho những người đương thời với ngài, và cũng là cho mỗi người chúng ta: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” ( Lc 3, 5 ).
Thung lũng ở đây là những tham lam ích kỷ, hẹp hòi nhỏ nhen, ăn chơi vô độ, chỉ biết thu góp cho mình, bất chấp mọi điều bất chính. Đồng thời phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Có thì nói có, không thì nói không. Thêm điều bịa đặt là do Ma Quỷ. Mặt khác, phải san cho phẳng những núi đồi của sự kiêu ngạo và tự mãn. Ai kiêu ngạo thì sẽ chết trên đỉnh cao của sự tự phụ. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và nâng đỡ những người khiêm nhường. Và, phải bạt cho bằng những gồ ghề, lồi lõm của bất công, bất chính.
Thiết nghĩ, hành động cụ thể nhằm đáp lại lời mời gọi của Thánh Gioan hôm nay và cũng là thể hiện lòng sám hối chân thành, chính là: phải lấp thật đầy những hố sâu ngăn cách bằng sự quan tâm, chia sẻ với những người bất hạnh, người khổ đau, nghèo đói. Sẵn sàng đến với những người bé mọn, kém may mắn để nâng đỡ, yêu thương và lắng nghe họ... luôn trung thành với lương tâm và đứng về phía sự thật, dầu có phải chết. Quyết không bao giờ đứng về phía bất công, không vì lợi nhuận trước mắt mà bán đứng anh chị em đồng loại, đồng thời cũng đừng bao giờ lên án cách bất công người khác. Và, hãy ý thức những giới hạn của bản thân, để cần đến ơn Chúa trợ giúp.
Nếu Thánh Gioan là vị Tiền Hô kêu gọi sám hối để chuẩn bị đón Chúa ngự đến, thì chúng ta là những người sống lời loan báo ấy và làm cho tiếng hô của ngài âm vang trong xã hội và lòng người hôm nay.
Tắt một lời, sám hối là trở về với Chúa và xin ơn tha thứ của Người. Sám hối là để nhận ra những thiếu sót của mình. Biết khiêm tốn sửa sai, để liên đới, lắng nghe và yêu thương anh chị em đồng loại. Cuối cùng, sám hối là canh tân, là đổi mới để đón nhận ơn cứu độ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị con đường tâm hồn, để trở nên trong sạch, thênh thang nhờ gạt bỏ những vẩn đục của tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu ngạo... để trở thành đại lộ yêu thương, xứng đáng đón Chúa ngự đến trong đêm Giáng Sinh và ngày cánh chung của mỗi người chúng ta.
Như vậy, sám hối là món quà quý giá nhất mà chúng ta dâng lên cho Chúa trong Mùa Vọng này.
Lạy Chúa, xin cho con có được tâm tình sám hối. Sám hối với Chúa và tạ lỗi với anh chị em mình. Biết khiêm tốn nhìn nhận mình yếu đuối để canh tân, đổi mới. Ước gì con đường tâm hồn chúng con không còn những thung lũng, gồ ghề, cong queo, nhưng thay vào đó là một con đường khiêm nhường, trong sạch và chân thật, để đón Chúa ngự đến. “Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”. Amen. Tu Sĩ JV. NGỌC BIỂN
Người ta thường ví đời sống con người như một cuộc hành trình. Bước chân vào đời đồng nghĩa với việc: MV 2-C86
Người ta thường ví đời sống con người như một cuộc hành trình. Bước chân vào đời đồng nghĩa với việc bắt đầu một chuyến đi. “Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi chẳng chờ đợi ai”. Con người đôi khi muốn “dừng lại” một phút trong đời cũng khó ! Chả thế mà có nhà thơ nọ đã phải thốt lên:
“Học đi – học chỉ một năm Học dừng – học đến rụng răng chưa thành” ( NVT )
Nhưng ĐI cũng có nhiều cách, nhiều kiểu; đó là chưa kể mỗi người có một cái đích khác nhau để đi tới. Có những cái đích thật rõ nét thể hiện qua tác phong và nếp sống của người chọn nó, nhưng cũng có những cái đích mơ hồ kiểu “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Có lẽ không mấy ai trong chúng ta là không biết đến lối đi “lập thành tích” đã góp phần hình thành mấy câu thơ mỉa mai châm biếm của dân gian:
“Thi đua ta quyết tiến lên, Thi đua là phải ở trên hàng đầu Hàng đầu rồi tiến đi đâu ? Đi đâu không biết – hàng đầu cứ đi !...”
Hễ nói tới đi tất nhiên phải nói đến con đường như một hệ quả tất yếu. “Đường đi, nước bước” còn ám chỉ sự am hiểu trong cuộc sống. Tất nhiên, không ai muốn đường đời của mình gập ghềnh, khúc khuỷu… Chúa lại càng không muốn điều đó !
Con đường của Ađam – Eva lẽ ra đã phẳng như gương, êm như nhung và rắc đầy hoa hồng; nhưng Adam – Eva đã chọn… sai !
Con đường Sinai của dân Do Thái xưa lẽ ra chỉ cần một tháng với lương thực sung mãn, nhưng dân Do Thái đã chọn… sai !
Con đường chiếm hữu Thiên Đàng của anh tử tội bên tả Chúa Giêsu lẽ ra cũng đơn giản và dễ dàng như của anh tử tội bên hữu, nhưng anh ta đã chọn… sai !
Như vậy, chúng ta đang đối diện với một nghịch lý: Chúng ta muốn đường đời của mình bằng phẳng nhưng cũng chính chúng ta là tác nhân tạo nên những gồ ghề, quanh co trên đường đời của chúng ta. Những nhà làm dự án cũng muốn phóng những con đường thẳng tắp thênh thang, thế mà, chỉ vì “con đường dự án” đụng phải nhà một xếp lớn nào đó nên đành phải uốn cong một chút để trở thành… “con đường dự ớn” ! Hóa ra, chuyện “uốn cong” không phải hiếm hoi gì trong xã hội loài người; trái lại, còn rất phổ biến là đàng khác:
Đường đời cong queo xuất phát từ tâm hồn cong queo ! Những chuyện đó chắc chắn không phải mới mẻ gì. Không phải là chuyện của vài chục năm hay trăm năm, mà là chuyện của nhiều ngàn năm. Gioan Tiền Hô không phải là bộ trưởng Công Chánh đi kêu gọi dân chúng sửa chữa đường sá, cầu cống cho xứ Giuđêa. Ông kêu gọi mọi người sửa chữa những cong queo trong tâm hồn. Nhưng tiếc thay, ông vẫn là “tiếng kêu trong hoang địa”. Tiếng kêu trong hoang địa chỉ vang vọng trong tiêu sơ, cô tịch. Không hề có chút “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” ! Chả thế mà đến hơn hai ngàn năm sau, tâm hồn con người ta vẫn cong queo, không duỗi thẳng ra được.
“Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Lc 3, 6b ).
Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng: MV 2-C87
Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Để đón khách người ta phải chuẩn bị. Vị khách quan càng quý thì việc chuẩn bị lại càng quan trọng hơn. Chúa Cứu Thế hẳn là vị khách vô cùng đáng quý trọng, Ngài là Ngôi Hai đến trần gian để cứu chuộc nhân loại. Nhân loại đang khao khát đón chờ Ngài, hy vọng vào Ngài. Chính trong bài Phúc âm hôm nay, Thánh Luca cho chúng ta thấy ơn cứu chuộc của Ngôi Hai quan trọng vì có liên quan đến không gian và thời gian của nhân loại. Ngài đến trong không gian cụ thể là nước Do thái và thời gian có những vị lãnh đạo cả đời lẫn đạo: "Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế" (Lc 3, 1 - 2). Như thế, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này. Thánh Luca dẫn chúng ta vào trong thời gian mà người dọn đường là Gioan Tẩy Giả và con Đường là Đức Giêsu đưa ta tới ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ diễn ra ngay trong chính cuộc sống hằng ngày.
Con đường mà Phúc âm chỉ cho chúng ta để gặp Thiên Chúa không ở đâu xa nhưng nằm ngay trong lòng mỗi người. Chúa Giêsu đã đến, không bằng sức mạnh của quyền thế cũng như không phải ở nơi giàu sang. Chúa đến một cách âm thầm và đơn sơ. Con người cũng chỉ có thể gặp được Chúa khi con người biết quay về với lòng mình trong sự khiêm nhường và chiến đấu. Đời sống và lời loan báo của Gioan Tẩy Giả mời gọi ta đến gặp Chúa qua những con đường ấy. Ta chỉ có thể gặp Chúa khi trở lại với lòng mình. Thật vậy, ơn cứu độ của Thiên Chúa không được mạc khải cho những vị lãnh đạo quyền đời và tôn giáo, nhưng được mạc khải cho một con người bé nhỏ là Gioan Tẩy Giả. Cuộc sống ồn ào náo nhiệt của đô thị phồn hoa làm cho các vị lãnh đạo không còn nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếp sống văn minh đô thị, tiếng kêu mời của dục vọng quá lớn làm các vị ấy không thể gặp được Chúa. Ngược lại, Gioan Tẩy Giả đã từ bỏ tất cả để vào trong hoang địa, xa rời sự náo nhiệt của thế giới bên ngoài. Chính sự tĩnh lặng của hoang địa đã giúp Gioan Tẩy Giả quay về với lòng mình. Đời sống cầu nguyện trong hoang địa giúp Gioan nuôi dưỡng bầu nhiệt huyết. Từ đó ông nhận ra lời mời gọi của Chúa. Chính sự từ bỏ và quay về với lòng mình giúp Gioan gặp được Chúa và nhận ra chương trình cứu độ của Người. Chỉ những ai dám từ bỏ, dám quay về trong sâu lắng của lòng mình trong cầu nguyện thì mới có thể nhận ra được tiếng Chúa và gặp được Người. Chính thái độ tự mãn, tự kiêu làm con người đóng kín lòng mình lại trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả sống âm thầm trong hoang địa, khiêm nhường mở lòng mình ra và đã khám phá được ý định của Thiên Chúa. Ông sống đơn sơ trong áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da; ăn uống đơn sơ bằng những gì có sẵn trong hoang địa như châu chấu và mật ong.
Còn các vị lãnh đạo sống trong giàu sang, yến tiệc linh đình... Thái độ kiêu căng tự mãn làm các vị lãnh đạo quên mất cõi lòng đơn sơ và khiêm nhường của mình. Uy quyền và địa vị làm các vị quên đi lòng khiêm nhường cần có của người lãnh đạo. Gioan khiêm nhường nhìn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ vậy Gioan đã gặp được Chúa và hoàn thành sứ mạng của mình.
Ta cũng chỉ gặp được Chúa trong tinh thần phấn đấu không ngừng, chiến đấu với bản thân, trong tâm hồn của mỗi người.
"Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ". (Lc 3, 5 - 6). Gioan Tẩy Giả mời gọi mọi người chúng ta hãy sửa lại cho thẳng lối đi quanh co. Lối đi ấy là cách sống của mỗi người. Có thể đó là lối sống chỉ quy về của cải, vật chất hay địa vị và quyến thế nên bất chấp tất cả. Đó cũng có thể là thái độ sống gây nên chia rẻ, bất hoà trong cộng đoàn. Sửa lại cho thẳng lối quanh co trên là một cuộc chiến cam go. Đó là cuộc chiến với lòng mình mà chúng ta chỉ có thể thắng được khi chúng ta nhận ra và dám sống yêu thương. Gioan Tẩy Giả còn mời gọi chúng ta lấp cho đầy những thung lũng và san cho bằng con đường lồi lõm trong lòng mỗi người. Thung lũng và con đường lồi lõm có thể đó là lối sống thờ ơ, thiếu tinh thần quảng đại của mỗi người. Chiến đấu với lối sống như trên đòi hỏi mỗi người chúng ta phải dám đi ra khỏi ốc đảo của lòng mình để thấy, để thông cảm và chia sẻ nhu cầu tha nhân. Để có thể lấp đầy thung lũng và sửa cho ngay khúc quang co trước hết chúng ta cần bạt đi những núi đồi lòng ta. Đó là thái độ tự mãn, kiêu căng. Chính thái độ này làm cản trở con đường Chúa đến với chúng ta cũng như tạo ngăn cách làm cho lòng ta khó gặp được Chúa và qua tha nhân.
Nghe lời Gioan kêu gọi, chúng ta dùng thời gian của mùa vọng này như là bầu khí thuận tiện để sám hối và quay về với Thiên Chúa bằng cách: sửa đường Chúa ngay cho thẳng. Ngay thẳng về tư tưởng: không có ý tưởng xấu, quanh co, gian dối, lừa đảo...Ngay thẳng về lời nói: không ăn gian nói dối, không chửi mắng. Ngay thẳng về việc làm: chu toàn tròn bổn phận hằng ngày, làm đến nơi đến chốn chứ không làm dối trá. Ngay thẳng trong tâm hồn: sống tình cảm chính đáng trong tương quan với tha nhân, không chạy theo tiếng gọi bừa bãi của con tim, nhưng giữ vững niềm tin cậy mến theo ơn Chúa gọi. Hãy lấp mọi hố sâu, mọi chia rẽ, hận thù ghen ghét...phải được lấp đầy bằng sự tha thứ hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương. Tâm hồn trống rỗng khô khan phải được lấp đầy bằng lý tưởng yêu mến Thiên Chúa và đời sống hăng say làm việc Tông Đồ. Hãy làm cho ngay thẳng những điều quanh co, cần uốn nắn những tính tự phụ, kêu căng thích khoe khoang, coi mình hơn kẻ khác, phải sống khiêm nhường để dám sống từ bỏ tính háo danh, lợi lộc...Đồng thời, con đường ghồ ghề hãy san cho bằng, sửa chữa những tính nết xấu: cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, gây gỗ, nghi kỵ, ghen tương, cố chấp, ích kỷ, giận hờn, bất hoà...Sống tâm tình yêu thương của Chúa.
Hãy lòng mừng Chúa đến. Khiêm tốn trở về với lòng mình giúp chúng ta nhận ra con người mình. Khi nhận ra con người yếu đuối bất toàn của mình thì chúng ta mới dám khiêm nhường và chạy đến với Chúa, để cầu khẩn Người sửa đổi và uốn nắn con người chúng ta. Cùng với ân thánh Chúa giúp, chúng ta dám quay lại, dám từ bỏ và sống đời sống mới, sống đức tin mạnh mẽ trong ân sủng. Như thế, chúng ta sẽ gặp Chúa trong cuộc sống và nhận ra con đường mà Người dành cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm dọn lòng mừng Chúa đến bằng những việc thiết thực, sống đức tin và đức ái trong đời sống thường ngày của chúng con. Ước gì từng giây phút, từng nhịp đập của quả tim con là lời ca tụng Chúa, sống đẹp lòng Chúa để đón mừng lễ Chúa Giáng sinh sắp đến. Amen.
1. LỜI CHÚA: "Hãy sửa lối cho thẳng để Người đi"(Lc 3,4b).
2. CÂU CHUYỆN: GIẢI NÔ-BEN HÒA BÌNH
AN-PHỚT NÔ-BEN (ALFRED NOBEL) sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại SÌ-TỐC-KHÔM (Stockholm): MV 2-C88
AN-PHỚT NÔ-BEN (ALFRED NOBEL) sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại SÌ-TỐC-KHÔM (Stockholm) Thụy Điển, là con trai thứ ba của nhà khoa học Imanuel Nobel. Từ nhỏ Nobel đã theo gia đình đến sinh sống tại Le-nin-grad nước Nga.
Nobel đặc biệt thích văn học, nhưng vâng lời cha, ông theo học ngành khoa học kỹ thuật và nghiên cứu về thuốc súng và thuỷ, địa lôi. Ông đã phát minh ra chất nổ và cũng nhờ bán đi bằng sáng chế này mà ông đã trở thành một nhân vật nổi tiếng giàu có nhất thế giới thời bấy giờ.
Vào ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, rất nhiều công nhân bị thiệt mạng, trong đó có cả Emil Nobel là em út của Nobel. No-ben bàng hoàng khi ngay từ sáng sớm hầu hết các tờ báo phát hành đều loan tin sai lạc về cái chết của chính ông, người mà họ mô tả là kẻ đã sáng chế ra cốt mìn, một thứ vũ khí giết người hàng loạt. Các bài viết mang những tựa đề lớn như: "Nhà buôn cái chết đã chết" - hoặc: "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua". Thực ra báo chí đã hiểu lầm về bản chất con người ông. Việc phát minh ra chất nổ của No-ben ban đầu chỉ là công trình khoa học nhằm phục vụ cho nhân lọai. Chẳng hạn: Phá đá làm đường hầm xuyên qua núi, hoặc lấy đá làm nguyên liệu xi măng xây dựng đường xá, cầu cống, nhà cửa và các công trình phục vụ công ích. Nhưng về sau khi chiến tranh nổ ra, chính quyền đã lạm dụng phát minh của No-ben chế tạo mìn sát thương trái với ý muốn nhân đạo của ông.
Ngay sáng hôm đó, Nô-ben đã quyết định nhờ luật sư làm di chúc để tình nguyện hiến toàn bộ tài sản to lớn phục vụ nhân lọai. Đó là nguồn gốc của giải thưởng Nô-ben được công bố hằng năm ngày nay. Mỗi năm, số tiền lời phát sinh từ tài sản kếch xù ban đầu của No-ben đã được sử dụng làm giải thưởng có giá trị cao cho bất cứ ai, không phân biệt quốc tịch, có công sáng chế phục vụ nhân lọai về năm lãnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và đấu tranh cho hòa bình.
3. SUY NIỆM:
- BÀI HỌC TỪ NÔ-BEN: Chính nhờ có cái tâm bác ái quảng đại, sẵn sàng hy sinh toàn bộ tài sản phục vụ công ích, cũng như nhờ biết ứng xử khôn ngoan, mà No-ben đang từ một kẻ bị người đời nguyền rủa là tác nhân gây ra chết chóc... trở thành một nhân vật được cả thế giới ngưỡng mộ, và được công nhận là ân nhân của nhân lọai, vì đã cổ võ hòa bình, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho các dân tộc trên thế giới. Còn bạn, bạn sẽ làm gì trong những ngày này để phục vụ công ích và gây hòa thuận giữa các thành viên trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của bạn?
- "HÃY SỬA ĐƯỜNG CHÚA CHO NGAY THẲNG": Trong Mùa Vọng này Giáo Hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh bằng việc thực hành theo lời thánh Gio-an Tiền Sứ: "Sửa đường cho ngay thẳng đón Chúa đến" như sau: * Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Cần lấp đầy tâm hồn bằng sự tha thứ, hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương thay cho chia rẽ, thù ghét lẫn nhau...
* Mọi núi đồi phải bạt cho phẳng: Cần tránh khoe khoang thành tích, làm việc để tìm tiếng khen. Cần tỏ lòng kính trọng tha nhân bằng cách xưng hô xứng hợp với địa vị mỗi người. Tránh tự cao khi nghĩ mình hơn kẻ khác và khinh thường những ai không bằng mình về trình độ, địa vị, tiền bạc, tài năng....
* Đường quanh co phải uốn cho ngay: Cần tránh những lời nói thiếu trung thực, dối trá, chua cay hay tục tĩu.
* Đường lồi lõm phải san cho bằng: Phải tránh tính nóng giận bằng sự làm chủ bản thân, thay nét mặt cau có bằng nụ cười thân ái. Tránh tranh cãi to tiếng. Tránh thói ganh tị nhỏ nhen, gàn dở cố chấp và ích kỷ hại nhân...
- HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI: Nội dung chính trong lời kêu gọi của Gio-an Tiền sứ là "Hãy sám hối". Sám hối bao gồm sự nhìn nhận tội lỗi của mình, hối tiếc vì tội đã phạm tội, và quyết tâm chừa cải để quay về xin lỗi làm hòa với Chúa. Thiếu một trong ba yếu tố trên thì không còn là sám hối. Giu-đa biết tội của mình, hối tiếc vì tội đã phạm và lẽ ra phải quay về xin Chúa tha thứ, thì ông ta lại đi treo cổ tự tử! (x. Mt 27,5) nên ông đã bị Chúa trách: "Thà nó đừng sinh ra thì hơn!" (x. Mc 14,21). Còn thánh Phê-rô sau khi ý thức tội chối Thầy của mình, đã hồi tâm sám hối (x. Mt 26,75) và trông cậy vào lòng khoan dung của Chúa, nên đã được Chúa tha tội. Cũng nhờ đã yêu mến Chúa nhiều, nên ông còn được trao quyền chăn dắt đòan chiên (x. Ga 21,15-17).
2) Ta phải làm gì để chừa bỏ thói tự cao tự đại trong mùa Vọng này?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ thực hiện, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận ra lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúa là Đấng trong sạch thánh thiện, thế mà lại tình nguyện đến xếp hàng, đứng chung với các tội nhân để xin Gio-an làm phép rửa. Tuy vô tội, nhưng Chúa đã muốn trở nên bạn đồng hành của lòai người chúng con khi mang lấy thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết điều chỉnh cách suy nghĩ và lối sống của chúng con: Luôn tỉnh thức để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để không tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn sám hối thực sự trong mùa Vọng này. Cho chúng con quyết tâm làm những việc lành cụ thể, và can đảm chấp nhận những lời phê bình của tha nhân để ngày một nên tốt hơn, như người đời thường nói: "Thuốc đắng dã tật".
X. Hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
Hôm nay thánh Luca đưa chúng ta tiến thẳng vào giữa lịch sử. Ở những câu mở đầu của bài Tin mừng: MV 2-C89
Hôm nay thánh Luca đưa chúng ta tiến thẳng vào giữa lịch sử. Ở những câu mở đầu của bài Tin mừng hôm nay, không thấy có các thiên thần, mục đồng, chiên cừu hay một đêm đầy sao. Bài Tin mừng hôm nay không có một khởi đầu nên thơ, nhưng là một thực trạng lạnh lẽo của thế giới mà Đức Giêsu bước vào và khởi sự rao giảng ở đó.
Chúng ta vẫn còn trong mùa Vọng, dù trong các nơi mua sắm đang bày bán đầy rẫy những đồ trang trí hay nhạc Giáng Sinh. Chính thế giới còn mệt mỏi và cũ kỹ của chúng ta cần được hồi sinh, uốn nắn và đánh bóng lại cho sáng sủa hơn, đó là những gì nên diễn ra. Khởi đầu Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho ta thấy một bức tranh của thế giới, trong đó ông Gioan Tẩy giả loan báo về việc Đức Giêsu ngự đến. Thánh sử bắt đầu một trình thuật lạnh lùng, bởi lẽ ông kể chi tiết về cảnh tượng tôn giáo và chính trị cùng với những tên tuổi mà vài người trong số họ nghĩ rằng mình có trách nhiệm trong các biến cố đó.
Ông Gioan Tẩy giả xuất hiện trong một thế giới thuộc vùng chính trị và địa lý của Đế quốc Rôma,"triều hoàng đế Tibêriô". Những người lãnh đạo bù nhìn của dân Dothái là Antipas, Asêlus và Philiphê, các con trai của Hêrôđê Cả. Khi Asêlus bị trục xuất vào năm 6 TCN, những người đại diện chính quyền Rôma đã lên thay thế. (Chúng ta không biết nhiều về Lysania người trị vì ở vùng Abilên). Thánh Luca cũng kể đến tên thượng tế Anna và con trai của ông là Caipha, người trở thành tư tế khi Đức Giêsu chịu chết.
Bối cảnh được đưa vào, giống như việc mở màn với âm thanh của những cái chũm choẹ, ông Gioan Tẩy giả xuất hiện để rao giảng về "phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội." Thánh Luca trích dẫn lời ngôn sứ Isaia để loan báo rằng "hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa." Không phải chỉ những người đạo đức được phép rửa của ông Gioan tác động, nhưng cả trật tự tạo dựng cũng sẽ được biến đổi - đường đi, hố sâu và đồi núi.
Thánh Luca không kể cho chúng ta nghe về một câu chuyện thần tiên dành cho trẻ con. Tin mừng của thánh sử đưa chúng ta vào một dòng chảy mênh mông của lịch sử. Người phân chia lịch sử thành ba thời kỳ. Trước hết, từ thời kỳ tạo dựng cho đến ông Gioan Tẩy giả, vị này đã loan báo kết thúc giai đoạn cũ, đồng thời loan báo việc khai mở cho giai đoạn mới. Giai đoạn thứ hai là thời sứ vụ của Đức Giêsu, từ lúc Người chịu phép rửa cho đến khi lên trời. Sau đó, theo sách Công vụ của các Tông đồ, giai đoạn thứ ba của lịch sử chính là Giáo hội. Giai đoạn này sẽ chấm dứt khi Đức Giêsu trở lại kết thúc lịch sử.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ thứ ba, nhưng Tin mừng ngày hôm nay quay trở lại lúc khởi đầu của giai đoạn thứ hai khi ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện để báo tin. Liệu chúng ta có thể nghe ông Gioan với đôi tai nhạy bén qua những gì mà chúng ta biết được về hoàn cảnh lịch sử của một dân tộc như họ đã nghe ông ấy từ thuở đầu hay không? Đối với một dân tộc nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Rôma và những tay sai bù nhìn của họ, ông Gioan công bố một điều quan trọng mà Thiên Chúa sắp thực hiện, đó là ứng nghiệm lời hứa mà Người đã nói qua các ngôn sứ của mọi thời: cuối cùng họ cũng được nhìn thấy, "Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc".
Chúng ta đã nghe lời hứa đó trong bài đọc một. Ngôn sứ Barúc hứa không còn những lưu đày ở Babylon nữa, nhưng "Thiên Chúa lại đưa chúng trở về"; sẽ có một cuộc xuất hành mới từ việc giam cầm này. Bấy giờ ông Gioan Tẩy giả loan báo rằng một sự phục hưng lâu dài của Israel sắp diễn ra. Hơn thế nữa, một vị vua mới không chỉ có lợi cho một số người được lựa chọn, mà "tất cả mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Trong một bài giảng về Mùa Vọng, cha Robert Waznak, SS ("Like Fresh Bread: Sunday Homilies and the Parish". New York: Paulist Press, 1993) chia sẻ cho chúng ta những điều mà cha đã nhìn thấy và đã khơi lên niềm hy vọng cho Mùa Vọng của cha. Khi Cha lái xe ngang qua trường tiểu học thì nhìn thấy một cô giáo cùng với các học trò trong lớp. Thay vì treo đèn Giáng sinh hay trưng bày ông già Noel, họ lại đào lỗ dưới mảnh đất mới đóng băng để trồng những củ hành tượng trưng cho mùa Xuân sắp đến. "Cô giáo dạy cho học sinh về những lời hứa sẽ được hoàn tất" (tr.22).
Đó là điều mà các ngôn sứ khác cũng như ngôn sứ Barúc đã làm là rao giảng về niềm hy vọng. Quả thế, ngôn sứ Barúc đang nói với một dân tộc bị hủy diệt vì họ không nhìn thấy điều tốt lành để hy vọng cho tương lai của mình. Qua lời rao giảng, vị ngôn sứ đã đào xuống dưới mặt đất cứng cỏi của sự tuyệt vọng nơi dân tộc này. Quân Babylon sắp tiêu diệt vương quốc ở phía Nam là Giuđa và Giêrusalem, sau đó bắt dân chúng đi đày. Dân tộc bị đánh bại nơi lưu đày đang cần những lời hứa đầy hy vọng của ngôn sứ Barúc, "Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người."
Trong bài giảng, cha Waznak cũng nói rằng, "Cô giáo đó giống như Giáo hội, đang giúp chúng ta đào sâu hơn nữa vào ý nghĩa đức tin của mỗi người"; Giáo hội đang thúc dục chúng ta tận dụng thời gian trong mùa đội trông này để gieo trồng những hạt mầm hy vọng nơi Thiên Chúa, Đấng sẽ đến cứu độ hết thảy mọi người" (tr.22).
Trong bài giảng giữa mùa Vọng này, ông Gioan kêu gọi mọi người hãy sám hối và thay đổi lối nghĩ cũng như cách hành động. Vậy những gì cần dọn dẹp điều gì để cho Thiên Chúa đi sâu hơn nữa vào cuộc đời của chúng ta? Ngôn sứ Barúc và ông Gioan Tẩy giả đã loan báo rằng, Thiên Chúa sẽ đến để thiết lập mọi sự theo đúng trật tự. Trong cuộc sống chúng ta và thế giới này có quá nhiều hố sâu tuyệt vọng cần được lấp đầy; những núi đồi của lòng kiêu ngạo cần được san bằng; những con đường quanh co của sự hỗn loạn cần được uốn nắn cho ngay thẳng, và những con đường gồ ghề, gập gềnh cần phải được san cho phẳng phiu. Chúng ta không thể tự mình làm được những điều này, nhưng trước hết hãy đặt những điều ngay thẳng đó cho Thiên Chúa, nhờ vào công nghiệp của Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa đã khởi sự công việc tốt lành nơi chúng ta. Đường lối thì êm ái, vì thế bây giờ chúng ta có thể đáp trả lại bằng tình yêu. Chúng ta là những người tiếp nhận công việc cứu độ "nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa."
Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò-Vấp Lm Jude Siciliano, OP
Ngày kia tôi đứng trên đồi cao phóng tầm mắt tận chân trời. Hàng hàng lớp lớp núi non bao bọc: MV 2-C90
Ngày kia tôi đứng trên đồi cao phóng tầm mắt tận chân trời. Hàng hàng lớp lớp núi non bao bọc, ngọn này che khuất ngọn kia. Hùng vĩ mấy cũng có ngọn khác hùng vĩ hơn. Tôi thấy cây cao phủ bóng che nắng của cây thấp và cây thấp cố vươn lên hút ánh nắng trời cho lá thêm xanh. Những tia sáng mặt trời dọi chiếu trên cành lá tạo ra những mảng màu sắc khác nhau. chỗ ươm vàng óng ả, chỗ lại sáng chói chang, chỗ màu xanh lục gần như tím thẫm. Đảo mắt quanh chỗ nào cũng gợi lên cảm giác hữu tình, ngây ngất lòng người, tâm thanh thản, lòng trải rộng và trí bay bổng tận cao xanh. Lồng trong rừng lá xanh tươi có những đường mòn chân thú chạy ngược, xuôi, lớn nhỏ, đan chéo chằng chịt. Bỗng một cơn gió bay đến làm rung động cành lá, cành lá vươn dài che khuất lối mòn như trò chơi trốn, bắt của gió rừng.
Phía kia là đại dương xanh ngắt mang nhiều lớp sóng bạc thi nhau vỗ bờ. Hết lớp này đến lớp khác thi nhau nhảy múa trên sóng nước. Mỗi lớp sóng đến tạo thành một sợi chỉ nhỏ màu trắng lăn theo chiều gió, lúc hai lớp sóng hợp, khi xé ra. Cảnh hợp tan xảy ra trong nháy mắt. Gần hơn nữa trên đỉnh đầu là lớp mây nhảy múa, thành quả nước biển bốc hơi tạo thành.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời trên sẽ giảm sức thu hút lòng người nếu núi có chiều cao như nhau, nếu các đồi đều là đồi trọc, nếu cây cối cùng màu sắc và các đường mòn thẳng tắp như kẻ. Thử hỏi làm sao còn tạo được sức hấp dẫn nữa. Đây không phải í nghĩa những gì thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi trong bài Phúc Âm thánh Luca 3,4
Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đuờng cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lời nguyện nhập lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng giải thích làm sáng tỏ điều Gioan kêu gọi.
Xin phá vỡ những gì ngăn cản chúng con được vui mừng đến gần Chúa, để chúng con chia sẻ ơn khôn ngoan Chúa ban và được liên kết khi Ngài đến trong vinh quang.
Có ai ngờ cảnh rừng xanh bao la tuyệt vời làm rung động lòng người ẩn dấu bao hiểm nguy. Ẩn nấp sau vỏ cây khô là những con bò cạp rừng. Dưới hốc đá nào đó có rắn hổ ẩn mình và đâu đó nhện cắn độc đang rình rập con mồi. Không ai đoán biết khi nào chết chóc xảy đến, đâu đâu cũng có hiểm nguy. Gioan Tiền Hô dùng kinh nghiệm hoang địa bản thân cho biết cảnh rừng bao la, bát ngát là nơi thanh tĩnh để ngắm nhìn, không phải là chốn an toàn để náu thân bởi vì rắn độc, bò cạp và khí độc đến lúc chúng ta không ngờ. Gioan liệt kê một số những chứng bệnh thời đại làm hại đến tâm hồn con người, ngăn cản con người đến gần Chúa, ngăn cản con người đón nhận Lời Chúa. Thánh nhân kêu gọi con ngưòi sống đường lối ngay thẳng, đừng quanh co, uấn éo, lươn lẹo trong lối sống. Gioan hy vọng con người sống đường lối công chính, thật thà. Gioan mời gọi con người hãy san bằng gánh nặng cuộc đời, đừng để công việc chồng chất trên đôi vai gầy, đừng để gánh nặng mối lo làm còng lưng son trẻ. Gioan hướng dẫn cuộc sống mới bằng cách cân bằng thời gian giữa làm việc và cầu nguyện, dành thêm giờ cho tâm linh và biết để giờ cho việc truyền bá Phúc Âm, Tin Mừng. Quan trọng hơn hết là hãy làm cho tình yêu Chúa mỗi ngày mỗi lớn lên trong cuộc sống. Làm được những điều trên con người sẽ cảm thấy cuộc sống nhiều í nghĩa hơn và ơn cứu độ là điều nằm trong tầm tay với.
Thường Chúa nhật thứ hai và Chúa nhật thứ ba Mùa vọng, Giáo Hội cho chúng ta hiểu và biết thấu: MV 2-C91
Thường Chúa nhật thứ hai và Chúa nhật thứ ba Mùa vọng, Giáo Hội cho chúng ta hiểu và biết thấu đáo về vai trò của Gioan Tẩy Giả. Sở dĩ, Giáo Hội trình bầy hai tuần liên tiếp về Gioan Tảy Giả bởi vì Gioan Tẩy Giả có một mối liên hệ thật đặc biệt với Chúa Giêsu.
Đọc lại Tin Mừng, chúng ta thấy việc Gioan Tẩy Giả được sinh ra là một sự lạ lùng. Diệu kỳ và mầu nhiệm vì Gioan Tẩy Giả được sinh ra trong khi cha mẹ của Ngài đã già nua, không còn khả năng sinh con xét theo sinh lý học và khoa học. Rõ ràng, Gioan Tẩy Giả được bà Élisabeth cưu mang là bởi quyền phép của Chúa khi mà chính Giacaria là cha của Gioan Tẩy Giả lại không tin vào lời của Chúa. Và ngày Gioan Tẩy Giả được cắt bì và đặt tên theo tục lệ của người Do Thái thì mọi người đều muốn lấy tên Giacaria là tên của con trẻ để đặt tên cho con trẻ. Nhưng ông Giacaria đã nhất mực đòi đưa một tấm bảng vì lúc đó ông đang bị câm vì tội không tin. Ông đã viết tên con trẻ là Gioan Tẩy Giả. Lúc đó lưỡi của Giacaria được mở ra và ông tuyên bố to lên rằng: " ...Con trai của ta sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Tối Cao, vì con trẻ sẽ đi trước Chúa và sửa soạn đường cho Người ". Quả thực lời tiên báo này đã được ứng nghiệm và Chúa nhật thứ hai Mùa vọng cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta được biết sứ điệp về Gioan Tẩy Giả: " Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa " ( Isaia). Thánh Gioan làm chứng về Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia. Cả cuộc đời của Người là một lời chứng. Chúa nhật thứ ba Mùa vọng nói lên lời chứng của Gioan: " Có Đấng đến sau tôi nhưng quyền năng hơn tôi và tôi không xứng cởi giây dép cho Người " và " Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ". Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người ăn năn, sám hối để chờ đón Đấng Cứu Thế. Do đó, nói tới Gioan Tẩy Giả là chúng ta phải nghĩ tới Chúa Giêsu. Bởi vì, vai trò của gioan Tẩy Giả chỉ là dọn đường, còn khi Chúa Giêsu xuất hiện Gioan đi vào bóng tối để vai trò, sứ mạng của Chúa Giêsu nổi bật lên đúng như lời Kinh thánh viết: " Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho Con đến ". Lời Kinh Thánh nói về vai trò của Gioan Tẩy Giả nhưng một cách nào đó cũng nói với mọi người chúng ta. Mỗi người chúng ta khi được lãnh nhận phép rửa chúng ta được gọi là Kitô hữu nghĩa là người thuộc về Chúa, là môn đệ của Chúa, chúng ta cũng có trách nhiệm, nghĩa vụ và sứ mạng làm cho Chúa Giêsu nổi bật trong con tim của chúng ta và thông truyền Ngài cho những người khác.
Là ngôn sứ của Chúa Giêsu, chúng ta có bổn phận mặc lấy Đức Kitô, cởi bỏ con người cũ và luôn sống trong Người, với Người và vì người. Điều này cho chúng ta xác tín mạnh mẽ, và sâu xa, chúng ta hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, nên chunhg1 ta phải mạnh dạn nói như thánh Phaolô: " Tôi sống nhưng không còn phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi ".
Trong năm đức tin, chúng ta phải đào sâu đức tin của chúng ta hơn bằng cách học Giáo lý, đọc Kinh Thánh và học hỏi các Giáo huấn của Hội Thánh, nhờ đó càng ngày chúng ta càng hiểu sâu về Chúa Giêsu, nhận ra Ngài và yêu mến Ngài. Chúng ta hãy bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả can đảm làm chứng cho Chúa và luôn luôn minh chứng cho Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đồng thời thông truyền cho người khác về Đức Kitô.
Chúng ta cùng nhau cầu nguyện:
Từ trần gian con ngước mắt khẩn nguyện
Hỏi Chúa Trời, Chúa cứu độ thế gian ?
Bao năm tháng, con một lòng cầu khẩn
Mong đợi chờ Đấng Cứu Thế giáng sinh
Vâng lạy Chúa, muôn người chờ mong Chúa
Hơn lính canh mong chờ ánh hừng Đông
Chúa yêu thương, sai Giêsu Con Chúa
Đến gian trần ban hạnh phúc bình an
Giêsu Con Chúa vô cùng nhân hậu
Ngự cung lòng Đức Trinh Nữ Maria
Bởi Thánh Thần, Đấng rợp bóng trên Mẹ
Đức Giêsu là Con Chúa Trời cao
Lời nguyện ước của con đầu Mùa Vọng
Hát vang lên cùng toàn thể Thiên Triều
Maranatha, Người ơi mau hãy đến !
Và để chuẩn bị sốt sắng tâm hồn đón mừng Con Chúa giáng sinh, chúng ta hãy sốt sắng hiệp dâng thánh lễ và rước Mình Máu Chúa bởi vì thánh Tôma Aquinô đã xác tín sâu xa: " Trong bữa tiệc thần linh này, Đức Kitô đã bị thiêu hủy để khi tưởng nhớ cuộc tử nạn thương khó của Người, linh hồn chúng ta được đầy tràn ân sủng và chúng ta được lãnh nhận một bảo đảm cho vinh quang mai sau ".
Hơn bao giờ hết, người Việt Nam đang phải đối diện với "văn hoá giao thông" vì lẽ mở mắt bước: MV 2-C92
Hơn bao giờ hết, người Việt Nam đang phải đối diện với "văn hoá giao thông" vì lẽ mở mắt bước chân ra đường lúc nào thì đều ngán ngẫm với cảnh kẹt xe. Nguyên nhân kẹt xe do lòng đường thu hẹp bởi các công trình đang thi công. Thế nhưng, nguyên nhân chính vẫn không phải là nguyên nhân ấy nhưng lại là nguyên nhân do lòng con người bị thu hẹp lại. Khi ra đường, ai cũng giành đi trước thì ai sẽ nhường cho ai để rồi kẹt xe là chuyện dĩ nhiên. Người ta càng gào càng thét nhưng lòng người ta không lay chuyển, không biến đổi thì muôn đời vẫn bị kẹt xe.
Để đi đến một nơi nào đó thì cần lắm một cái lòng đường thông thoáng cộng với lòng người vui tươi hớn hở. Đối diện với cái cảnh kẹt xe thì chẳng tìm thấy một nụ cười trên môi được. Có chăng là những tiếng xì xầm khó chịu. Lòng đường và lòng người có cái gì đó đi đôi với nhau thì phải. Lòng người đủ lớn thì lòng đường mới lớn lên được. Lòng đường lớn lên thì người đi trên đường cảm thấy thoải mái và vui tươi.
Để đón một ai nào đó đến chơi nhà, điều hết sức tự nhiên là ta phải dọn con đường dẫn vào nhà ta được thông thoáng cũng như lòng ta phải rộng mở. Đơn giản thế thôi.
Để đón Chúa vào nha thì ta cũng cần có một lòng đường đủ lớn và lòng ta cũng đủ rộng.
Thánh Luca có nét đặc biệt hơn các thánh sử khác đó chính là khai mở sứ vụ rao giảng của Gioan. Sứ vụ rao giảng ấy được Luca mô tả trong một bối cảnh lịch sử khá chi tiết của thế giới ngoại giáo và của thế giới dân thánh. Mục đích của thánh sử nhằm đánh dấu thời gian bắt đầu sứ mệnh của Chúa Giêsu mà Gioan chỉ là kẻ dọn đường.
+ Hoàng đế Cêsarê Tibêriô kế nghiệp Augustô lên ngôi trị vì ngày 19 tháng 8 năm 14 sau Công nguyên. Như vậy năm thứ 15 của vua này là khoảng tháng 8 năm 28 hay năm 29. Nhưng hầu chắc Thánh Luca sử dụng niên lịch của người Syriên: theo lịch Syriên, năm mới bắt đầu ở đầu tháng 10. Vì thế từ tháng 9 trở về trước, được kể như là thuộc năm trước. Như vậy năm thứ 15 ở vào khoảng ngày 1 tháng 10 năm 27 hay 30 tháng 9 năm 28: lời rao giảng của Gioan cũng như khởi đầu sứ mệnh của Chúa Giêsu xảy ra khoảng năm 27 hay 28 (sau Công nguyên).
+ Philatô cai quản xứ Giuđêa với tước hiệu tổng trấn (thái thú), vào năm 26 đến 36 (sau Công nguyên). Ông thuộc quyền quan toàn quyền xứ Syria. Lãnh thổ của ông còn bao gồm cả Samaria và Idumêa.
+ Hêrôđê Antipa con của Hêrôđê Đại đế và của Malthakê. Đây là kẻ mà sau này Chúa Giêsu gọi là "con cáo già" (Lc 13,32). Arkêlaô cũng là con của Hêrôđê Đại đế và Malthakê song bị truất phế vào năm 6 (trước Công nguyên). Hêrôđê Antipa làm quận vương xứ Galilêa và Pêrêô vào năm thứ 4 (trước Công nguyên). Ông cai trị cho đến năm 39 (sau Công nguyên). Tước hiệu quận vương chỉ một thứ phó vua cai quản một phần lãnh thổ của Hoàng đế Thánh sử Maccô (6,14) gọi Hêrôđê là Vua theo cách xưng hô bình dân.
+ Philip cũng là con của Hêrôđê Đại đế và Clêopâtre (không phải hoàng hậu Ai Cập), tức là anh em cùng cha khác mẹ với Hêrôđê Antipas. Làm quận vương xứ Iturê và Trakhônitô, cũng như gồm cả Auranitô, Batanêa, Gaulinitô. Philip cai quản năm 4 trước Công nguyên cho đến chết vào năm 34 sau Công nguyên. Vì không có con nối ngôi, vua Tibêriô sáp nhập phần đất này vào miền Syria.
+ Lysania, không thuộc về gia đình Hêrôđê. Làm quận vương xứ Abilênê. Vùng này Chúa Giêsu ít qua lại.
+ Anna và Caipha: vị thượng tế chính thức là Giuse tên gọi Caipha. Ông làm thượng tế từ năm 18 đến năm 36 (sau Công nguyên). Anna là cha vợ của Caipha, làm thượng tế trước đó, từ năm 6 (trước Công nguyên) đến năm 15 thì bị hoàng đế Gratô bãi chức. Tuy thế, uy tín của ông vẫn còn lớn đối với dân Do Thái.
Các ngôn sứ trước hoạt động trong khung lịch sử của Guđêa hay Israel (x. Is 1,1; Gr 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1 v.v...). Chắc hẳn Thánh Luca có dụng ý khi nới rộng khung cảnh lịch sử trong toàn đế quốc Rôma nhắm đến sự phổ quát của ơn cứu độ. Đấng Cứu thế sẽ đem ơn cứu độ đến cho mọi dân không trừ ai, trong mọi lãnh thổ và dưới mọi sinh hoạt xã hội khác nhau.
Để được cứu độ thì con người phải thay đổi con người cũ của mình, phải ăn năn thống hối như Gioan mời gọi.
Gioan, con của Giacaria (câu 2b): Thánh Luca quy chiếu vào Gr 1,1: "Xảy đến lời của Thiên Chúa cho Giêrêmia, con của kelkiel...". Thánh sử đặc biệt lưu ý tới sứ mệnh của Gioan tiếp tục vai trò ngôn sứ của Giêrêmia. Được thánh hiến từ trong dạ mẹ (Gr 1,1; Lc 1,13) vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét cánh chung (Gr 1,10; Lc 3,9t) công bố vinh quang Đấng Thiên Sai (Gr 31; Lc 1,14; 3,15t) và giao ước mới của Thiên Chúa ký kết với mọi người dù họ là kẻ thấp hèn nhất (Gr 31,31-34; Lc 7,18-23).
Mọi xác phàm sẽ thấy sự cứu thoát của Thiên Chúa (câu 6): Đối với Thánh Luca, điều quan hệ không phải là những niên biểu chi tiết của lịch sử trần tục mà Thánh sử nêu ra. Ngài sử dụng khung cảnh đó để trình bày lịch sử cứu độ.
Khi trích dẫn lời ngôn sứ Isaia 40,3-5 Thánh Luca minh chứng rằng nơi những sự việc này đã hoàn tất lời tiên báo của Cựu ước. Thánh sử cho thấy tầm vóc chính xác: sứ mệnh của Gioan chính là loan báo lần cuối về ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Và sứ mệnh của Chúa Giêsu: Người là "Con Thiên Chúa đến ban ơn cứu rỗi cho mọi xác phàm".
Qua những lời tiên báo trên của Isaia, độc giả Tin mừng, nhờ ánh sáng phục sinh chiếu dọi, có thể nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu cũng như ơn cứu rỗi Người mang đến cho mọi người.
Bởi vì ơn cứu rỗi được mời gọi đón nhận một cách phổ quát, nên Thánh Luca đặt nó vào trong bối cảnh lịch sử dân Chúa (ở Giuđêa, Galilê khắp vùng quanh sông Gardan dưới thời thượng tế Caipha v.v...) cũng như trong lịch sử dân ngoại (ở Iturê, Abilênê, dưới thời hoàng đế Tibêriô Gêdarê v.v...)
Tất cả những ai nghe lời hối cải, "hạ thấp đồi cao, lấp hố sâu", thì sẽ nhìn thấy Đấng Thiên Sai. Hay nói cách khác, điều kiện ắt có của ơn cứu độ là phải thay đổi tâm hồn. Gioan Tẩy giả cũng như các ngôn sứ Cựu ước đều rao giảng sứ điệp đó.
Ngôn sứ Baruc trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe cũng thấp thoáng tâm tình hạ đồi lấp hố hay đơn giản là dọn đường và dọn lòng để Chúa đến:
Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Ít-ra-en tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en,
vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người. (Br 5, 7-9)
Sứ điệp, tâm tình của Baruc và của Gioan Tẩy giả gửi đến chúng ta hết sức rõ ràng. Chúa thật sự đã đến trong cuộc đời này rồi, Chúa đã vào nhà của Người nhưng hình như người nhà không đón tiếp.
Dừng lại một chặng đường để nhìn lại cuộc đời, đôi lần đôi lúc chúng ta đã để những hố thật sâu, những núi thật cao của tiền tài và danh vọng trong cuộc đời của ta che lấp lối đi cũng như chỗ của Chúa trong lòng chúng ta. Chúa thì đã sẵn, phần còn lại lại của chúng ta. Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thay đổi lòng dạ chúng ta, biến dọn đường trong cuộc đời chúng ta để Chúa đến và ở lại trong cuộ đời chúng ta. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an đích thực và là Chúa của cuộc đời chúng ta mà thôi.
Cứ thử tưởng tượng khuôn mặt của bạn bị dị hình vì bẩm sinh, hoặc do tai nạn, và bạn đuợc 'ráp': MV 2-C93
Cứ thử tưởng tượng khuôn mặt của bạn bị dị hình vì bẩm sinh, hoặc do tai nạn, và bạn đuợc 'ráp' một khuôn mặt khác của ai đó đã... chết rồi! Thân hình "quanh co uốn cho ngay" hoặc "lồi lõm san cho phẳng" thì còn có thể tin đuợc, nhưng thay cả khuôn mặt thì cứ như trong chuyện thần thoại hoang đuờng.
Mà không thần thoại hoang đuờng làm sao đuợc vì chỉ cách đây vài thập niên, đã có ai dám nghĩ dám tin rằng tim gan mình đuợc thay bằng tim gan người khác! Hoặc phẩu thuật mà chẳng cần kéo cần dao! Và với những tiến bộ vượt bực về y khoa, chuyện tưởng chừng như không thể kia sẽ trở thành hiện thực một ngày không xa lắm.
Nhưng thay hình đổi dạng bên ngoài không phải là trọng tâm và chủ đích của mùa Vọng. Mùa mong "trời cao đổ sương xuống" và mùa đợi "mây mưa Đấng Cứu Tinh" đòi buộc sự lột xác toàn diện của mỗi một người. Một thay đổi từ tận nguồn căn. Từ trong ra và từ đáy rễ.
Như tiên tri Ba-rúc bắt đầu bằng thay đổi xiêm y: "Hỡi Giêrusalem! Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và muôn đời mặc lấy ánh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa, hãy khoác vào mình đức công chính của Thiên Chúa như tấm áo choàng, đội lên đầu vinh quang của Đấng vĩnh cửu.."
Và thay đổi ngay cả tên gọi mình: "Mãi mãi Người sẽ gọi tên ngươi là 'Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính' và 'Vinh-quang-phát-xuất-tự-lòng-tôn-sùng-Thiên-Chúa." Từ nơi hoang địa, Gioan Tiền Hô chân đất mình trần kêu gọi mọi người quanh bờ sông Giođan trù phú hãy vuợt ra khỏi những sa mạc hoang vắng đời mình. Thật thế, tuy sống thảnh thơi trong dinh thự lầu cao giữa những phố phường ngựa xe tấp nập, chúng ta dễ tự tạo cho mình những sa mạc xa vắng cách ly. Với gia đình. Với bà con chòm xóm. Với bạn hữu thân quen...
Và điều cực kỳ nguy hiểm là khi sống cô lập trong những hoang địa tự tạo kia, chúng ta xem thường và dần quen với ngàn muôn thú dữ. Thú dữ của ganh tỵ ghen tương. Thú dữ của đua đòi thèm muốn. Thú dữ của quyền bính tham lam.
Mùa Vọng, vì thế, không phải là thời gian thụ động bó gối chờ mong mưa mây và sương mai từ trời cao đổ xuống, mà là lúc tay áo xắn cao vượt ra khỏi những tháp ngà cao đóng khung vị kỷ. Hãy xẻ núi phân chia và hãy bạt đồi hiềm khích. Hãy uốn nắn những dối trá quanh co và hãy san bằng những đảo điên lồi lõm.
Thật dễ dàng khi thản nhiên sống nhỡn nhơ trong sa mạc cô vắng đời mình. Nhưng một đời sống xiềng xích không biết người chỉ biết mình kia không mang nghĩa "tốt lành" theo ý Đấng Tạo Thành. Mùa Vọng không chỉ là mùa của đợi chờ. Đó là mùa lá vàng phải rụng xuống. Là mùa cây cỏ phải khô đi...
Tiên tri Barúc sống trong thời dân Chúa bị lưu đầy, ông đã lên tiếng an ủi dân bằng việc loan báo: MV 2-C94
Tiên tri Barúc sống trong thời dân Chúa bị lưu đầy, ông đã lên tiếng an ủi dân bằng việc loan báo ngày giải thoát sắp đến "Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc dưới ánh vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Ngài" với điều kiện hãy bạt thấp núi cao và gò nổng có từ lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt dất phẳng phiu" (Br.5,1-9), và Thánh Gioan Tẩy Giả cũng kêu gọi dân chúng trong thời Tân Ước hãy dọn đường cho Chúa đến bằng cách sám hối, hoán cải đời sống ( Lc.3,1-6). Còn Thánh Phaolô mời gọi dân thành Philipphê hãy dọn đường một cách tích cực hơn, qua việc bồi dưỡng tình mến ngày càng thêm dồi dào, và cố gắng sống tinh tuyền để không có gì đáng trách trong ngày Chúa đến (Pl.1,4-6.8-11))
Trong Cựu Ước thời ngôn sứ Barúc, dân tộc Israel bị rơi vào tình trạng bị đô hộ, thành Giêrusalem bị tàn phá, và con cái họ bị lưu đầy sống trong cảnh lưu vong khổ cựu, họ đã than phiền " Thiên Chúa ở đâu?" phải chăng Ngài quên lời hứa....Chính vì những lời than vãn ấy, tiên tri đã phải trấn an họ và nhắc nhở rằng: Thiên Chúa không bao giờ quên. Những khốn khó họ đang chịu sẽ chấm dứt, nhưng họ cần phải dọn đường cho Ngài.
Dọn đường đó là gì thì Gioan Tiền Hô đã dạy: Hãy làm cho đường cong queo thành ngay thẳng, thung lũng lấp cho đầy, núi đồi san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa chúng ta. Lời của ông của ông đã đến với mọi người vùng ven sông Giodan. Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Ong kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng là con đường nội tâm: Phải lấp đầy những hố tham sân si. Phải uốn ngay nhưng suy nghĩ quanh co, tính toán sai lạc. Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự ái, kiêu căng. Phải phạt cho thấp những chỗ gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Gioan Tiền Hô mời dân chúng phải hoán cải, không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, lối suy nghĩ. Ong kêu gọi cả Thành Giêrusalem hãy sửa sang đường sá để đón vua Israel, Đấng ông không dám cởi dây giầy. Con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng. Bao nhiêu toan tính quanh co lệch lạc. Bao nhiêu lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu đều phải canh tân. Canh tân những thứ đó chính là sám hối. Dẹp bỏ những chướng ngại tâm hồn để Chúa có thể đến và ngự lại đó. Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu, và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Lời mời gọi của Tin mừng hôm nay thật dễ hiểu, công việc dọn đường của chúng ta là chấn chỉnh đời sống, điều chỉnh tư tưởng, lời nói, việc làm của mình. Đó chính là hoán cải, là trở lại, không chỉ trong hành động vi phạm các nguyên tắc luân lý, mà cả trong lời nói và suy nghĩ, não trạng, trong hiểu biết của chúng ta. Ngày nay chúng ta thường đón Chúa bằng cách lo cho hang đá thật đẹp, đủ kiểu, đủ màu, đèn hoa rực rỡ. Những hình ảnh ấy rất xa lạ với hang đá Belem. Chúng ta còn lo đón Chúa với những bữa tiệc linh đình mà quên đi phần thiêng liêng. Hãy sám hối những lầm lỗi ấy mà lo dọn đường tâm linh. Tuy nhiên việc dọn đường này không dễ, nó gây cho chúng ta nhiều đớn đau lắm. Đớn đau vì phải lội ngược dòng, chấp nhận bị khai trừ. Chúa Giêsu hôm nay cũng mời gọi chúng ta trở thành Gioan Tẩy Giả, biết kêu lên bằng chính cuộc sống canh tân của mình, dám sống điều mình nói và dám nói điều mình sống.
Chúng ta đã bước vào Tuần II Mùa Vọng, hãy thức tỉnh và suy nghĩ, con đường chúng ta phải dọn cho Chúa đến là con đường nào? Con đường vật chất hay tinh thần? Con đường Chúa mong muốn đi qua đó là con đường nội tâm, thu xếp trong tâm hồn chúng ta những con đường ngay thẳng, cách sống đáng khen, những việc làm tuyệt đẹp để con đường Ngôi Lời có thể đi mà không gặp cản trở nào, đó là con đường mà thánh gioan Tẩy Giả vạch ra. Mùa Vọng trở về chúng ta phải nghe theo lời của thánh Gioan và dọn đường ngay đi kẻo không kịp.
Lạy Chúa, xin lửa tình yêu Chúa lấp đầy những hố sâu chia rẽ, tị hiềm. San bằng những núi đồi kiêu căng tự mãn. Uốn ngay những thành kiến cong queo nơi mỗi người chúng con. Để chúng con xứng đáng là hiện thân của Thánh Gioan Tiền hô trong ơn gọi Kitô hữu, giúp mọi ngừơi và bản thân chúng con chuẩn bị lòng đón Chúa đến.
Đổi mới tâm hồn, chuyển hóa nội tâm là điều kiện cần thiết nhất để con người được sống tốt hơn, trong: MV 2-C95
Đổi mới tâm hồn, chuyển hóa nội tâm là điều kiện cần thiết nhất để con người được sống tốt hơn, trong sáng hơn và gần gũi Chúa nhiều hơn. Xem ra việc đổi mới con người, cải tà qui chánh, biến đổi tâm hồn vẫn là những việc đòi con người phải cố gắng, phấn đấu, hy sinh từ bỏ. Bởi vì ai cũng ngại vác thánh giá mà thánh giá lại là con đường giúp người ta nên thánh, con đường giúp con người tốt hơn, đẹp hơn vv...Muốn đổi mới nội tâm, biến đổi con người nên tốt cần phải có người nhắc bảo, chỉ vẽ...Thánh Gioan Tẩy Giả đã làm công việc dọn đường cho Chúa, ông kêu gọi con người ăn năn, sám hối: " Đồi cao phải bạt xuống, hố sâu phải lấp cho đầy, quanh co phải uốn cho ngay...". Đó là lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả để con người có thể đón nhận được Đấng Cứu Độ.
Tin Mừng của thánh Luca 3, 1-6 trình bầy bối cảnh chính trị khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Các bộ mặt lớn lúc đó đều hiện nguyên hình: hoàng đế Tibêriô, còn Phongxiô Philatô đại diện hoàng đế làm tổng trấn miền Giuđêa, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philíp làm tiểu vương Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilê, Hanna và Caipha làm thượng tế. Với thế lực cường quyền mạnh nhất lúc đó, Gioan Tẩy Giả chỉ là một con người vô danh tiểu tốt, trần trụi và thấp bé theo nghĩa trần gian: "...Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa" ( Lc 3, 2 ). Đã lâu lắm rồi, từ thời các ngôn sứ, dân Do Thái không được nghe tiếng Thiên Chúa dậy bảo. Hôm nay, Ngài lại lên tiếng. Tiếng của Ngài không phải qua miệng các Vua chúa quan quyền, những người có thế lực trong xã hội, mà ngang qua một con người dân dã, chân quê. Thiên Chúa cũng không lên tiếng trong Đền Thờ, trong nơi thờ phượng mà Ngài lên tiếng trong vùng hoang địa, gần sông Gio- đan.
Gioan Tẩy Giả là con người dân dã, nhưng lòng ông không phải tầm thường, trí khôn ông thì khôn lường, ông đầy chữ nghĩa của các bậc thánh hiền, ông trưng ra những câu sấm ngôn, những lời nói của ngôn sứ Isaia loan báo cuộc lưu đầy tại Babylon đã chấm dứt, dân Do Thái trở về quê cha đất tổ và Thiên Chúa đích thân đến an ủi dân của Ngài. Ông Gioan đi khắp ven vùng sông Gio-đan, rao giảng phép rửa sám hối. Phép rửa của Gioan là dìm tội nhân xuống nước có ý nói rằng con người phải chết đi cho tội lỗi, rồi mới được tái sinh mà lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên chúa sắp ban cho con người. Đây là một biểu tượng cụ thể kêu gọi con người "dìm xuống", tức chết đi, thay đổi tận cội nguồn gốc rễ để trở thành con người mới mà đón nhận Thiên Chúa đến. Việc làm của Gioan Tẩy Giả mang theo sự đổi mới của toàn xã hội khiến những người cầm quyền xã hội và những nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó lo âu, sợ sệt. Họ hốt hoảng vì sợ ông Gioan, do đó, họ bắt giam và hành hình ông Gioan, nhưng có người tới sau ông là" Chúa Giêsu, người có đầy quyền năng, uy dũng hơn ông", lại phải tiếp tục đương đầu với giới cầm quyền và những người lãnh đạo tôn giáo. Họ sợ Người, nên họ muốn ra tay trừ khử Người vì sợ hậu hoạ.
Sợ Gioan Tẩy Giả vì những lời rao giảng thống hối, lãnh nhận phép rửa do ông loan báo, các vị cầm quyền xã hội và các vị lãnh đạo tôn giáo thời đó đã loại trừ Gioan ra khỏi xã hội con người bằng việc hành hình man rợ. Chúa Giêsu đến. Họ vẫn sợ Chúa Giêsu. Họ đã tìm đủ cách để loại trừ Ngài. Nhưng họ đã thấy gì nơi Chúa Giêsu ? Phải chăng họ đã thấy một Chúa Giêsu ham danh vọng, ham chức tước, một Chúa Giêsu giầu sang, phú quý. Không, nhất định là không, vì Chúa Giêsu chỉ là vị Vua phục vụ, Vua tôi tớ: " Đến để phục vụ, chứ không đến để được hầu hạ ". Chúa đến để thiết lập một xã hội mới, một Vương Quốc hòa bình và yêu thương. Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian:" Nước Tôi không thuộc thế gian này "
Chúa là Vua nhưng Vua yêu thương, Vua hiền hậu, Vua khiêm nhượng, cỡi lừa đi vào Thành Thánh. Chúa đến để khai mở một tương lai mới, một trời mới đất mới. Chúa đến để thiết lập một Vương Quốc công bình, hiệp nhất và đầy tình bác ái, một Vương Quốc mà những người có lòng tin luôn luôn hướng tới và mong chờ.
Gioan Tẩy Giả đã chết đi để nói lên sự thật, làm chứng cho sự thật và minh chứng cho Đức Kitô Giêsu: " Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ".
Vâng, "...Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi...Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa " ( Lc 3, 4-6 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến ! Maranatha, Người ơi, xin mau đến. Amen.
Để nói lên tầm quan trọng của một nhân vật, thánh Lu-ca giới thiệu nhân vật ấy trong bối cảnh: MV 2-C96
Để nói lên tầm quan trọng của một nhân vật, thánh Lu-ca giới thiệu nhân vật ấy trong bối cảnh lịch sử cả đạo lẫn đời. Ngài nói đến khung cảnh lịch sử khi Chúa Giê-su giáng sinh, rồi ngài cũng kể tên các người lãnh đạo quốc gia và tôn giáo vào thời gian Gio-an Tẩy Giả xuất hiện như “tiếng người hô trong hoang địa”. Trước hết chúng ta thấy rõ sự tương phản giữa Gio-an với những người kia. Dù chỉ là một người sống trong hoang địa, nhưng tiếng hô của ngài chuyển tải một sứ điệp vô cùng quan trọng: hãy dọn sẵn con đường cho Thiên Chúa đến cứu độ. Vậy đâu là nội dung của lời Gio-an Tẩy Giả rao giảng về việc dọn đường Chúa đến?
Với kỹ thuật cao và máy móc tối tân, ngày nay người ta có thể làm những con đường siêu tốc ngoài sức tưởng tượng. Chúng giúp người ta đến điểm tới một cách nhanh chóng và an toàn. Đồi núi hay thung lũng cỡ nào người ta cũng có thể bạt đi hoặc lấp bằng để làm những con đường thẳng tắp và phẳng phiu. Nhưng đối với việc làm một con đường thiêng liêng và nội tâm để Chúa đến với linh hồn chúng ta, thì chẳng có máy móc nào làm nổi, chỉ còn tùy thuộc vào cố gắng của mỗi người và ân sủng của Chúa mà thôi. Làm sao lại khó khăn như vậy? Vì đó là những thung lũng tham lam không đáy của chúng ta. Lúc nào chúng ta cũng muốn có thêm. Có nhà tranh rồi lại muốn có nhà gỗ, nhà xây; có xe Toyota rồi lại muốn có Lexus… Tham tiền bạc, tham địa vị, ham thú vui và ăn uống. Khi dọn đường Chúa đến, chúng ta gặp hết thung lũng lại đến núi đồi lớn nhỏ đủ hạng. Từ những núi kiêu căng tự ái đến những đồi ganh tị hận thù. Chúng ta đứng cao trên núi đồi của mình để khinh miệt anh chị em, hoặc tệ hơn nữa để đấu đá nhau và bóc lột đàn áp những người yếu đuối cần được giúp đỡ. Nhiều kẻ lãnh đạo đứng trên núi đồi quyền lực để vơ vét của cải của quốc gia và dân chúng.
Có khi người ta đứng trên đỉnh cao của chính mình để rồi không cần đến Chúa và loại bỏ Người ra khỏi cuộc đời mình. Thí dụ người ta dành quyền của Thiên Chúa để quyết định những vấn đề luân lý và phẩm giá con người, như ủng hộ đồng tính luyến ái hay việc phá thai. Sửa lối cho thẳng để Chúa đi cũng là công việc cam go, vì có rất nhiều khúc quanh co phải uốn cho ngay. Đường quanh co nguy hiểm vì nó không để chúng ta thấy rõ nguy hiểm. Quanh co của tâm hồn cũng vậy. Nó thường che khuất hướng đi của chúng ta đến với Chúa. Nó dễ làm cho chúng ta lạc đường. Quanh co là những ngụy trang của ma quỷ tội lỗi để đánh lừa chúng ta rơi xuống hố sâu, để dần dần lôi kéo chúng ta ra khỏi mối tương quan mật thiết với Chúa, hoặc tạo ra những ảo ảnh để chúng ta không còn trung thành với đời sống đức tin nữa. Quanh co còn biểu lộ một tâm hồn không tôn trọng sự thật, thiếu ngay thẳng và gian lận.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Tất cả những trạng thái xấu xa của tâm hồn được tóm tắt trong ba hình ảnh thung lũng, núi đồi và quanh co là những chướng ngại không cho chúng ta “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, hoặc nói khác đi, ngăn cản không cho Chúa đến với tâm hồn chúng ta. Những trở ngại này, tự sức riêng chúng ta không thể khắc phục để dọn đường Chúa đến. Nhưng thánh Gio-an Tẩy Giả đã “hô lên” cho chúng ta một phương thức: hãy tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sám hối là công việc lấp thung lũng, bạt núi đồi và uốn thẳng khúc quanh co của tâm hồn. Công việc ấy không chỉ được thực hiện qua bí tích giải tội, nhưng còn phải được thể hiện qua cuộc sống hằng ngày khi chúng ta xét mình để nhận ra những tội lỗi hoặc thói xấu cần dứt bỏ. Về mặt tích cực, chúng ta lo bồi đắp đời sống thiêng liêng khi tập tành và phát huy những nhân đức cũng như lối sống theo những tâm tình của Chúa Giê-su. Sám hối là cả một diễn trình kéo dài suốt cuộc đời chúng ta, tuy không sôi nổi ngoạn mục nhưng vẫn đòi hỏi phải có sự nâng đỡ của ơn Chúa và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cây cối không sinh hoa kết trái trong nháy mắt. Cũng vậy, theo lời thánh Phao-lô, sám hối sẽ giúp chúng ta “đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Phi-líp-phê 1:11). Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
ĐÁP: Gio-an là con của hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay I-sa-ve), và đã được hòai thai cách khác thường (x. Lc 1,57-68). Từ nhỏ, ông đã sống khắc khổ chay tịnh trong hoang địa như ngôn sứ Ê-li-a (x. Mc 1,6). Sau đó ông được kêu gọi làm ngôn sứ để loan báo tin mừng Đấng Thiên Sai (x. Lc 1,76). Ông thi hành sứ mệnh tại vùng sông Gio-đan. Chính ông đã làm phép rửa cho Đức Giê-su và đã được chứng kiến cuộc Thần hiện xảy ra sau khi Người chịu phép rửa (x. Mt 3,16-17). Sau đó ông bắt đầu giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa (x. Ga 1,29), và khuyến khích hai đồ đệ bỏ mình đi theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,35-37.43). Ông cũng loan báo về Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mc 1,7-8) và khiêm tốn nói rằng: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người... Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30). Cuối cùng Gio-an đã kết thúc cuộc đời tiền sứ bằng cái “chết vì lẽ công chính” ở trong nhà ngục (x. Mt 14,3-12), vì đã dám khiển trách tội loạn luân của vua Hê-rô-đê (x. Lc 3,19). Đức Giê-su đã khen Gio-an: “Trong số các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không ai cao trọng hơn Gio-an” (Lc 7,28).
- HỎI 2: KỶ NGUYÊN CHUNG HAY CÔNG NGUYÊN LÀ GÌ? CÔNG NGUYÊN CÓ TỪ KHI NÀO VÀ DO AI SÁNG LẬP? KỶ NGUYÊN CHUNG DỰA TRÊN MỐC THỜI GIAN LÀ NGÀY SINH CỦA AI? VIỆC TÍNH TOÁN THỜI ĐIỂM ẤY ĐÚNG SAI THẾ NÀO?
ĐÁP:
Công Nguyên, Anno Domini, viết tắt AD, nghĩa là Kỷ nguyên Ki-tô. bắt đầu bằng năm sinh của Chúa Giê-su. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên (TCN).
Từ xa xưa, mỗi nước đều sử dụng lịch riêng của nước mình, không có sự thống nhất nên rất khó giao thương với nhau. Do đó các nhà lãnh đạo đều mong muốn có một lịch chung, một kỷ nguyên chung hay cũng gọi là công nguyên cho toàn thế giới.
Vào thế kỷ thứ VI, một tu sĩ tên là DI-O-NY-SI-US E-XI-GU-US đặt ra vào thế kỷ 6 khi ông tính lịch cho ngày lễ Phục Sinh. Ông đã chọn Đức Giê-su làm nhân vật trung tâm của lịch sử nhân lọai. Dựa vào các thông tin về cuộc đời của Đức Giê-su trong các sách Tin mừng như: sinh ra dưới thời Hê-rô-đê Đại vương (x. Mt 2,1); trong lúc Rô-ma đang làm sổ kiểm tra dân số và Qui-ri-nô làm toàn quyền xứ Sy-ri-a (x. Lc 2,2); Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su trạc độ 30 tuổi (x. Lc 3,23); Gio-an Tẩy giả thi hành sứ mệnh tiền sứ vào năm thứ 15 triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô (x. Lc 3,1)... Tu sĩ Di-o-ny-si-us đã so sánh các chi tiết trên với lịch sử của đế quốc Rô-ma để tìm ra năm sinh của Đức Giê-su tương ứng với lịch Rô-ma tính từ ngày thành lập thành Rô-ma, và chọn năm này là năm thứ nhất của Kỷ Nguyên Chung. Từ đó mọi nước trên thế giới đều thống nhất dùng lịch chung này. Như vậy năm 2012 nghĩa là năm thứ 2012 tính từ năm Chúa Giê-su giáng sinh.
Tuy nhiên, ngày nay người ta đã khám phá ra có sự sai sót trong cách tính của Di-o-ny-si-us. Hầu hết các học giả Kinh Thánh hiện nay cho rằng Di-o-ny-si-us đã tính sai, và rằng trên thực tế Chúa Giê-su sinh trong khoảng từ năm 8 TCN tới năm 4 TCN (tức vào khoảng năm 748-750 tính từ ngày thành lập thành Rô-ma). Có như vậy sự giáng sinh của Chúa Giê-su mới trùng hợp với cái chết của Hê-ro-đê Đại Đế (x Mt 2,15) vào năm 4 TCN.
Nhưng sai sót này không quan trọng và không ảnh hưởng đến lịch chung đang được sử dụng trên thế giới hiện nay.
- HỎI 3: CÓ MẤY THỨ PHÉP RỬA VÀ PHÂN BIỆT VỚI NHAU THẾ NÀO?:
ĐÁP: Tin mừng Gio-an cho thấy có hai thứ phép rửa: Một là “phép rửa trong nước” của Gio-an Tiền Sứ (x Ga 1,26.31), và hai là “phép rửa trong Chúa Thánh Thần” của Đức Giê-su (x Ga 1,.32-34).
Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ, giúp người ta tỏ lòng sám hối để cầu xin Chúa xá tội. Còn phép rửa do Đức Giê-su thiết lập đem lại ơn cứu độ cho người lãnh nhận như sau: Một là được ơn tha tội tổ tông truyền và các tội đã phạm từ khi có trí khôn, nhờ công nghiệp chết và sống lại của Chúa Giê-su. Hai là được tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Hãy sửa lối cho thẳng để Người đi”(Lc 3,4b).
2. CÂU CHUYỆN: GIẢI NÔ-BEN HÒA BÌNH
AN-PHỚT NÔ-BEN (ALFRED NOBEL) sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại SÌ-TỐC-KHÔM (Stockholm) Thụy Điển, là con trai thứ ba của nhà khoa học Imanuel Nobel. Từ nhỏ Nobel đã theo gia đình đến sinh sống tại Le-nin-grad nước Nga.
Nobel đặc biệt thích văn học, nhưng vâng lời cha, ông theo học ngành khoa học kỹ thuật và nghiên cứu về thuốc súng và thuỷ, địa lôi. Ông đã phát minh ra chất nổ và cũng nhờ bán đi bằng sáng chế này mà ông đã trở thành một nhân vật nổi tiếng giàu có nhất thế giới thời bấy giờ.
Vào ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, rất nhiều công nhân bị thiệt mạng, trong đó có cả Emil Nobel là em út của Nobel. No-ben bàng hoàng khi ngay từ sáng sớm hầu hết các tờ báo phát hành đều loan tin sai lạc về cái chết của chính ông, người mà họ mô tả là kẻ đã sáng chế ra cốt mìn, một thứ vũ khí giết người hàng loạt. Các bài viết mang những tựa đề lớn như: “Nhà buôn cái chết đã chết” – hoặc: "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua". Thực ra báo chí đã hiểu lầm về bản chất con người ông. Việc phát minh ra chất nổ của No-ben ban đầu chỉ là công trình khoa học nhằm phục vụ cho nhân lọai. Chẳng hạn: Phá đá làm đường hầm xuyên qua núi, hoặc lấy đá làm nguyên liệu xi măng xây dựng đường xá, cầu cống, nhà cửa và các công trình phục vụ công ích. Nhưng về sau khi chiến tranh nổ ra, chính quyền đã lạm dụng phát minh của No-ben chế tạo mìn sát thương trái với ý muốn nhân đạo của ông.
Ngay sáng hôm đó, Nô-ben đã quyết định nhờ luật sư làm di chúc để tình nguyện hiến toàn bộ tài sản to lớn phục vụ nhân lọai. Đó là nguồn gốc của giải thưởng Nô-ben được công bố hằng năm ngày nay. Mỗi năm, số tiền lời phát sinh từ tài sản kếch xù ban đầu của No-ben đã được sử dụng làm giải thưởng có giá trị cao cho bất cứ ai, không phân biệt quốc tịch, có công sáng chế phục vụ nhân lọai về năm lãnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và đấu tranh cho hòa bình.
3. SUY NIỆM:
- BÀI HỌC TỪ NÔ-BEN: Chính nhờ có cái tâm bác ái quảng đại, sẵn sàng hy sinh toàn bộ tài sản phục vụ công ích, cũng như nhờ biết ứng xử khôn ngoan, mà No-ben đang từ một kẻ bị người đời nguyền rủa là tác nhân gây ra chết chóc... trở thành một nhân vật được cả thế giới ngưỡng mộ, và được công nhận là ân nhân của nhân lọai, vì đã cổ võ hòa bình, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho các dân tộc trên thế giới. Còn bạn, bạn sẽ làm gì trong những ngày này để phục vụ công ích và gây hòa thuận giữa các thành viên trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của bạn?
- “HÃY SỬA ĐƯỜNG CHÚA CHO NGAY THẲNG”: Trong Mùa Vọng này Giáo Hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh bằng việc thực hành theo lời thánh Gio-an Tiền Sứ: “Sửa đường cho ngay thẳng đón Chúa đến” như sau:
* Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Cần lấp đầy tâm hồn bằng sự tha thứ, hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương thay cho chia rẽ, thù ghét lẫn nhau...
* Mọi núi đồi phải bạt cho phẳng: Cần tránh khoe khoang thành tích, làm việc để tìm tiếng khen. Cần tỏ lòng kính trọng tha nhân bằng cách xưng hô xứng hợp với địa vị mỗi người. Tránh tự cao khi nghĩ mình hơn kẻ khác và khinh thường những ai không bằng mình về trình độ, địa vị, tiền bạc, tài năng….
* Đường quanh co phải uốn cho ngay: Cần tránh những lời nói thiếu trung thực, dối trá, chua cay hay tục tĩu.
* Đường lồi lõm phải san cho bằng: Phải tránh tính nóng giận bằng sự làm chủ bản thân, thay nét mặt cau có bằng nụ cười thân ái. Tránh tranh cãi to tiếng. Tránh thói ganh tị nhỏ nhen, gàn dở cố chấp và ích kỷ hại nhân...
- HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI: Nội dung chính trong lời kêu gọi của Gio-an Tiền sứ là “Hãy sám hối”. Sám hối bao gồm sự nhìn nhận tội lỗi của mình, hối tiếc vì tội đã phạm tội, và quyết tâm chừa cải để quay về xin lỗi làm hòa với Chúa. Thiếu một trong ba yếu tố trên thì không còn là sám hối. Giu-đa biết tội của mình, hối tiếc vì tội đã phạm và lẽ ra phải quay về xin Chúa tha thứ, thì ông ta lại đi treo cổ tự tử! (x. Mt 27,5) nên ông đã bị Chúa trách: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (x. Mc 14,21). Còn thánh Phê-rô sau khi ý thức tội chối Thầy của mình, đã hồi tâm sám hối (x. Mt 26,75) và trông cậy vào lòng khoan dung của Chúa, nên đã được Chúa tha tội. Cũng nhờ đã yêu mến Chúa nhiều, nên ông còn được trao quyền chăn dắt đòan chiên (x. Ga 21,15-17).
2) Ta phải làm gì để chừa bỏ thói tự cao tự đại trong mùa Vọng này?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sám hối không phải là điều dễ thực hiện, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận ra lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúa là Đấng trong sạch thánh thiện, thế mà lại tình nguyện đến xếp hàng, đứng chung với các tội nhân để xin Gio-an làm phép rửa. Tuy vô tội, nhưng Chúa đã muốn trở nên bạn đồng hành của lòai người chúng con khi mang lấy thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết điều chỉnh cách suy nghĩ và lối sống của chúng con: Luôn tỉnh thức để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để không tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn sám hối thực sự trong mùa Vọng này. Cho chúng con quyết tâm làm những việc lành cụ thể, và can đảm chấp nhận những lời phê bình của tha nhân để ngày một nên tốt hơn, như người đời thường nói: “Thuốc đắng dã tật”.
Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê: MV 2-C98
Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa". Suy Niệm:
Chúa nhật 1 mùa vọng đã loan báo ngày Chúa đến. Người sẽ trở lại khi thời gian đã mãn. Người sẽ đến trong vinh quang và lấy vinh quang biến đổi chúng ta nên con cái của sự trường sinh bất tử. Bài đọc sách Barúc hôm nay còn nói đến việc ấy. Nhưng chủ yếu của lời Chúa này là việc dọn đường Chúa đến. Chúng ta sẽ được nghe tiếng nói của Gioan Tẩy Giả. Ông được Phụng vụ mùa Vọng nhắc nhiều, vì ông là tiên tri cuối cùng của Cực Ước, và sứ mạng của ông là hoàn tất việc Cứu Ước chuẩn bị ngày Chúa đến.
Hơn nữa, ông còn là người giới thiệu và trỏ cho mọi người thấy Ðấng Cứu Thế đã đến. Tiếng nói của ông vì thế có khả năng giúp đỡ chúng ta dọn đường Chúa đến và nhận ra Người. Nhưng phải nói như thư Phaolô còn trực tiếp hơn nữa vì nhắm thẳng vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Chúng ta xin ơn Chúa soi sáng để biết hiểu và thi hành Lời Chúa hôm nay. 1. Ðây Là Ngày Thiên Chúa làm Nên
Trước hết, chúng ta hãy mở sách Barúc. Ðó là một tác phẩm rất ngắn, chỉ gồm tất cả năm chương. Tác giả tự coi như là "Thư ký" của tiên tri Giêrêmia, nên văn phẩm của ông được tính vào ngay sau phần "Ai ca" của sách Giêrêmia. Tác giả còn giới thiệu bản văn của mình như là một bức thư gửi từ Babylon trong buổi lưu đày về con cái Israen còn ở lại Giêrusalem, để họ thống hối ăn năn, suy nghĩ lại về đường lối ăn ở, hầu nhận được Lời Hứa cứu độ và giải thoát. Bài đọc hôm nay loan báo Tin Mừng cứu độ này.
Nhưng dần dần khoa chú giải Kinh Thánh đã nhận ra sự thật không đơn sơ như thế. Sách Barúc là một tác phẩm của một cây viết vô danh. Nói đúng hơn, đó là văn phẩm hỗn hợp đã do một người đạo đức nào đó ở giữa thế kỷ thứ hai ghép thành. Tác giả đã lấy nhiều bản văn khác nhau để làm nổi bật một lời kinh thú tội thống hối, đọc trong một buổi lễ xá tội nào đó. Tuy nhiên ý tưởng và lời văn ở mọi chương đều đạo đức sâu xa và trình bày rất khôn khéo. Chương thứ năm cũng là chương cuối cùng trong sách Barúc mà chúng ta đọc hôm nay, chứng tỏ điều ấy.
Vậy, muốn hiểu, chúng ta phải đọc đoạn văn tiên tri này trong bối cảnh "giả định" của tác giả. Tức là ở đây chúng ta có những lời Chúa muốn an ủi dân Người khi họ thống hối ăn năn. Người loan báo cho họ về ngày vinh quang sau lưu đày, ngày cứu độ sau đau thương, ngày ân thưởng sau cuộc đời lao nhọc. Ðối với chúng ta, đó là ngày Chúa lại đến.
Ngày ấy, chính Thiên Chúa sẽ làm ra chứ không phải ai khác. Người sẽ lấy vinh quang bất diệt của Người choàng lên Giêrusalem, tức là trên chúng ta và tất cả tạo vật, sự vinh quang ấy cũng là sự công chính thánh thiện mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại được cứu độ khiến tên của Giêrusalem mới tức là của nhân loại mới, sẽ là Hòa bình và vinh quang, Hòa bình vì có sự công bằng của Chúa, và vinh quang nhờ có lòng thương xót của Người. Tất cả những điều này nói lên rằng chính Chúa là tác giả của thời đại sau này. Chính Người sẽ làm ra cảnh trời mới, đất mới. Những nét đẹp, nét tốt của thời đại mai sau hoàn toàn là của Chúa. Do đó Nước Trời sẽ đến không bao giờ thay đổi và suy vi nữa, vì tất cả sẽ được bao bọc trong vinh quang thánh thiện đời đời của Thiên Chúa.
Tự nhiên chúng ta muốn hỏi: như vậy, loài người chúng ta không đóng góp gì được vào ngày Chúa đến sao? Chắc chắn có phần nào đó mà chúng ta sẽ nói sau. Nhưng cũng chắc chắn, phần đóng góp của chúng ta sẽ không đáng kể sánh với ơn ban của Chúa. Có thể nói trời với đất xa nhau bao nhiêu thì phần trao ban của Chúa còn vượt xa phần lãnh nhận của chúng ta bấy nhiêu và hơn nữa. Chúng ta hãy cứ nói như Barúc: ngày vinh quang sau này của chúng ta khi Chúa Kitô hiện đến hoàn toàn là công trình của Chúa. Người đem vinh quang thánh thiện đến biến đổi chúng ta và tất cả nên thành trì "hòa bình của công bình và vinh quang của thương xót". Thành trì ấy được đứng lên mỏm cao để thấy con cái khắp nơi, nhân loại khắp xứ tuôn về. Khi xưa, tội lỗi đã làm chúng phiêu bạt ra đi tiều tụy, bây giờ Thiên Chúa công chính thánh thiện đưa tất cả về vinh quang như trên một ngai vua.
Không những thế, Thiên Chúa còn cho bạt núi, lấp sông để đường đi của con cái Chúa được vững chắc trong vinh quang. Ðang khi ấy cỏ cây bên đường sẽ rợp bóng, tỏa hương và ánh sáng quang vinh phổ... xuống... Ðoàn người trở về với Chúa, đi về nhà Cha, tuôn về gặp Chúa thật là ngoạn mục và sung sướng...
Chúng ta có thể bảo đây là những lời thơ. Nhưng cũng là những lời ấp úng trước một cảnh tượng chưa thể nào tưởng tượng được. Trong ngày ấy, Chúa sẽ thánh hóa dân Người, sẽ quy tụ dân Người lại, sẽ làm cho cảnh vật thiên nhiên được chia sẻ sự vui mừng tự do của con cái Thiên Chúa. Bằng ấy ý tưởng đúc nên bài sách Barúc hôm nay. Những ý tưởng ấy nằm trong nhiều trang Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Ðó là nội dung Lời Hứa ngàn đời của Chúa về thời đại người viếng thăm, về ngày Chúa trở lại với Dân Người.
Và Lời Hứa của Người bền vững trung kiên. Ðã bao lần Chúa thi hành trong lịch sử Do Thái. Nhưng đó mới chỉ là những lần tập dượt cho ngày Ðức Giêsu Kitô Giáng Sinh làm người. Và Hội Thánh từ ngày được Ngài sáng lập không mang nhiều màu sắc của Giêrusalem trong bài sách Barúc đó sao? Nhưng Giêrusalem đích thực mà sách này muốn loan báo là Giêrusalem thiên quốc, là Hội Thánh sau này trên Trời, là Dân Chúa trong vinh quang của Ngày Chúa đến. Chúng ta đang vọng ngày đó, đang chờ Chúa Kitô trở lại. Chúng ta sung sướng hân hoan nghĩ về Ngày Chúa sẽ làm ra, không phải để mơ mộng, nhưng để cầu xin Chúa ban cho mình được tham dự ngày vinh quang ấy và nhất là để chuẩn bị. Và muốn làm công việc này, chúng ta hãy nghe Lời Tin Mừng trong sách Luca. 2. Chúng Ta Hãy Dọn Ðường
Tác giả khai mạc cuộc đời hoạt động của Gioan Tẩy Giả một cách rất long trọng. Ðã đành ông muốn viết sử có đầu có đuôi và một cách khoa học. Ông phải đặt các biến cố vào lịch sử có các niên hiệu chắc chắn. Nhưng vì sao khi kể việc Ðức Giêsu ra giảng đạo, ông không viết một cách long trọng như vậy? Thực ra trong những chương đầu tiên của tác phẩm Tin Mừng mang tên ông, tác giả Luca thuật những chuyện về Gioan chen lẫn với những chuyện về Ðức Giêsu. Ông viết về Gioan để làm nổi bật Ðức Giêsu thế nên không phải vì Gioan mà ông viết bản văn long trọng chúng ta đọc hôm nay. Bản văn này có ý giới thiệu Ðức Giêsu. Nó là tiền đề đưa vào những câu chuyện về Ðức Giêsu, giống như Gioan chỉ là tiền hô của Ngài.
Vậy chính vì Ðức Giêsu mà chúng ta có bản văn long trọng hôm nay. Tác giả Luca muốn cho chúng ta thấy cuộc đời hoạt động của Ngài đã được khai mạc cách trọng thể nhờ việc Gioan bắt đầu rao giảng phép rửa thống hối. Luca đặt việc này vào khung cảnh Lịch sử đạo đời để chúng ta có sẵn khung cảnh lịch sử này mà hiểu biết về các hoạt động của Ðức Giêsu, vì khi Gioan bắt đầu rao giảng, thì Ðức Giêsu cũng đã sẵn sàng xuất hiện.
Bấy giờ là năm thứ 15 triều hoàng đế Tibêrô cai trị Ðế quốc La Mã, rộng lớn như cả thế giới. Ở đất Do thái, về đời có Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê và Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê. Về đạo có thượng tế Hanna và Caipha. Chúng ta có thể thắc mắc vì sao lại có hai thương tế, điều chẳng bao giờ thấy trong lịch sử Dân Chúa. Nói đúng ra, bấy giờ là thời thượng tế Caipha; nhưng thực quyền lại nằm trong tay nhạc phụ là Hanna. Ông này cũng là Thượng tế. Ông đã từ chức nhượng lại cho con rể, nhưng thực tế vẫn nắm quyền, ít ra về vấn đề ảnh hưởng. Do đó, không phải vô lý mà tác giả Luca đã viết: Bấy giờ là thời thượng tế Hanna và Caipha. Ông đã viết sự thật và là sự thật đau đớn!
Cũng như ông đã hữu ý khi nói đến những nhà cầm quyền đời lúc bấy giờ. Ông kể tên Philatô và Hêrôđê cai trị hai vùng đất của Dân Chúa; và ông cũng nói đến Philíp và Lysania, trấn nhiệm hai phần đất kề cận mà dân cư lại là kẻ ngoại. Phải chăng tác giả Luca đã không muốn nói rằng: môi trường hoạt động của Chúa Giêsu sẽ là cả Dân Chúa và cả Dân ngoại? Người sẽ mang ơn cứu độ đến cho mọi người chẳng kỳ là Do Thái hay Hy Lạp.
Vậy sau khi đã kể hai tọa độ không gian và thời gian, tác giả bắt đầu viết sử. Người ta thấy Gioan nhận được lời Chúa. Kiểu nói này làm chứng ông lãnh được sứ mạng tiên tri từ trời cao. Ông không làm việc tự ý. Khi ông đang ở trong sa mạc thì được gọi; tức là sứ mạng đã được trao cho ông đang lúc ông sống cho Chúa và tận hiến đời mình cho Người.
Tác giả Luca nói rằng ông đến giảng ở miền sông Giođan, trong khi Ðức Giêsu sẽ không hoạt động ở đây. Phải chăng Luca không muốn phân biệt hoạt động của hai Ðấng, khi viết như vậy? Ý muốn phân biệt thật rõ khi tác giả nói: phép Rửa của Gioan chỉ để được tha thứ tội khiên, chứ chưa tha thứ tức thời đâu. Ðó là công việc chuẩn bị, dọn đường theo lời sách Isaia: tiếng của Người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.
Những lời này có khác với những lời mà Barúc đã công bố không? Nhà tiên tri ngày xưa nói rằng: chính Chúa san phẳng đường lối cho dân được cứu độ. Còn ở đây, dường như đó lại là việc của chúng ta. Sự thật, lời sách Isaia không phải chỉ có bấy nhiêu. Luca đã có lý để tiếp tục trích dẫn. Bốn câu nữa đã được thêm vào hai câu trên. Và những câu này cho thấy việc lấp đầy hạ thấp để đường đi được phẳng lỳ sẽ là công trình của Chúa; nhưng Người đã làm gì khi người ta có thái độ thống hối ăn năn. Chính Chúa đã làm ra đường lối cứu độ, nhưng con người phải tỏ thiện chí muốn lãnh nhận. Và đường lối phẳng lỳ mà Chúa làm ra đòi lấp đầy hạ thấp tức là Chúa vẫn nâng cao những người phận nhỏ và hạ xuống những phường tự cao tự đại. Ðề tài này luôn được Luca yêu thích. Có lẽ chính nó đã khiến Luca trích hết lời sách Isaia, đang khi Mátthêu và Marcô đã dừng lại ở hai câu đầu.
Nhưng điều quan trọng hơn cả mà Luca muốn nhấn mạnh để kết thúc đoạn văn hôm nay, là việc mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Không những ông nhấn mạnh tư tưởng "mọi người" tức là tính cách phổ cập của ơn Ðức Giêsu dành cho hết thảy chúng ta; Nhưng ông cũng muốn nhắc đó là công trình của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta. Và như vậy Luca cũng như Barúc muốn nói với chúng ta hãy trông đợi ngày Chúa đến như là ơn cao cả. Người sẽ làm cho những ai có thái độ thống hối ăn năn và khiêm nhường khó nghèo. Tác giả Tân Ước chỉ khác nhà tiên tri Cựu Ước ở chỗ trỏ cho chúng ta thấy Ngày ấy đã đến trong lịch sử rõ rệt, nơi Ðức Giêsu Kitô. Nhưng ngay trong đoạn văn này, Luca còn mượn lời của Gioan để bảo chúng ta phải chờ đợi nữa, vì tuy Ðức Giêsu đã đến, nhưng chưa phải mọi người đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta còn phải vọng đến ngày ấy nữa. Và chúng ta phải nghe lời thư Phaolô để dọn đường cho Chúa. 3 Và Tiếp Tục Cho Ðến Hoàn Thành
Trong đoạn thư này, Phaolô nói rằng luôn luôn Người cầu nguyện cho giá dân Philíp một cách vui sướng.
Chúng ta hãy chú trọng đến sự hân hoan toát ra từ những lời thư này. Phaolô không có gì phải lo cho giáo dân Philip cả. Từ ngày nhận được Tin Mừng đến nay, họ vẫn tốt, không những họ đã thông phần vào việc rao giảng Tin Mừng khi họ đón nhận ơn Chúa kêu gọi; mà họ còn phấn đấu sống Tin Mưng ấy và giúp đỡ Phaolô cũng như các giảng viên Tin Mừng. Nghĩ đến họ, Phaolô như rộn lòng trìu mến lên. Giống như Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô luôn rộn lòng yêu mến cứu chuộc chúng ta.
Vậy Phaolô luôn cầu nguyện cho giáo dân Philip, không phải vì họ đang gặp những khó khăn nào, mà chỉ vì Người vui sướng thấy giáo đoàn đó tốt lành, cần được cầu nguyện để "một công trình thiện hảo như vậy sẽ tiếp tục cho đến hoàn thành trong ngày của Ðức Giêsu Kitô". Tức là dù nếp sống đạo đã tốt lành đến đâu, cũng vẫn còn phải tiến bộ để được kiện toàn trong Ngày Chúa trở lại. Chính vì vậy mà Phaolô phải cầu nguyện cho giáo dân Philip được lòng mến dẫy tràn nhiều hơn mãi mãi về trí tri và thông hiểu để biết biện phân ra điều ưu hảo mà ăn ở cho vô phương trách cứ, hầu dư đầy hoa quả công chính nhờ Ðức Giêsu Kitô.
Những lời súc tích này rõ ràng có tính cách khuyên nhủ và dạy dỗ, Ðó là cả một chương trình sống đạo phải đi đôi với việc cầu nguyện cho mình được ơn cứu độ trong ngày Chúa đến. Ðành rằng đời sống mai sau là việc Chúa làm mà chúng ta phải cầu xin để Người ban cho chúng ta. Nhưng Người đã khởi sự ban khi cho chúng ta được đón nhận Tin Mừng. Bây giờ hằng ngày cho đến khi Chúa trở lại chúng ta phải cầu nguyện để luôn được thêm lòng mến, lòng tin, để biết ăn ở một cách ưu hảo hầu sau này sẽ vô phương trách cứ và dư đầy hoa quả thánh thiện. Chúng ta không thể làm được những việc ấy nếu không khiêm nhường và cố gắng.
Thánh lễ này là nơi để chúng ta khiêm nhường đón nhận ơn Chúa. Chúng ta phải thấy mình còn tội lỗi và yếu ớt. Chính Mình Máu Thánh Chúa sẽ vừa tẩy sạch tâm hồn và củng cố sự sống. Nhờ Chúa Giêsu Kitô chúng ta có thể bước đi trên đường, tuy nhiều gồ ghề nhưng có thể vẫn cảm thấy phẳng lì khi chúng ta nhiều lòng mến trông đợi ngày Chúa đến.
Lc 3:1-6: 1 Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, 2 thời thượng tế Khanan và Caiapha, có lời Thiên Chúa đến cùng Gioan con ông Zacaria, trong hoang địa. 3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng phép rửa tỏ lòng sám hối để được tha tội, 4 như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng lối đi của Người. 5 Mọi thung lũng, phải được lấp cho đầy, mọi núi đồi phải được bạt xuống thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6 Rồi hết mọi xác phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Nằm trong văn mạch của việc chuẩn bị sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (3:1-4:13), đoạn 3:1-6 nói: MV 2-C99
Nằm trong văn mạch của việc chuẩn bị sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (3:1-4:13), đoạn 3:1-6 nói về sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Luca còn bàn thêm về lời rao giảng của ông (3:7-18) và việc ông bị tống ngục (3:19-20). Phần còn lại nói đến các biến cố của Chúa Giêsu trước khi Người đi rao giảng công khai (3:21-4:13). Đoạn 3:1-6 có thể được phân chia như sau: - 1/ Bối cảnh lịch sử và tôn giáo (3:1-2); - 2/ Công việc của Gioan (3:3-6).
Luca thích đặt các biến cố của Chúa Giêsu và Gioan trong bối cảnh lịch sử đời và tôn giáo (3:1-2). Về lịch sử đời (3:1), ba người liên quan trực tiếp đến Chúa Giêsu và Gioan là Tibêrius Cêsarê (2:1; 3:1; 20:22.24.25; 23:2); Philatô, tổng trấn miền Giuđêa (3:1; 13:1; chương 23); Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilêa (3:1; 3:19; 8:3; 9:7.9; 13:31; 23:7.8.11.12.15). Philatô là người xét xử Chúa Giêsu; trong khi, Hêrôđê là người ra lệnh lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Về lịch sử tôn giáo (3:2), có hai thượng tế Anna (3:2) và con rể của ông là Caipha (Mt 26:3.57; Ga 11:49; 18:13.14.24.28). Về phần Gioan, cách nói “Lời Chúa đến cùng Gioan con ông Zacharia” ngụ ý ông là ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến, tương tự như Giêr 1:2; Ôs 1:1; Mic 1:1 và Hag 1:1. Điều nầy còn quy chiếu về chương Lc 1-2, trong đó nói đến sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa trong việc giáng sinh của Gioan. Để làm ngôn sứ, ông được đổ đầy tràn Thánh Thần từ khi mới sinh (1:15.44), và được kêu gọi đi làm ngôn sứ của Đấng Tối Cao. Sống “trong hoang địa” (1:80; 3:2; 7:24-28) Gioan được xem là ngôn sứ đã được hứa từ trong Cựu ước (Xh 23:20; Mal 3:1). Ông đến để chuẩn bị lối đi cho Chúa (x. 1:76).
Đoạn tiếp theo (3:3-6) nói đến nơi chốn và sứ vụ của Gioan. Vùng chung quanh sông Giorđan là nơi ông rao giảng về phép rửa tỏ lòng sám hối. Sám hối và tha thứ tội lỗi để được cứu độ là chủ đề chính trong lời rao giảng không chỉ của Gioan, mà cũng của Chúa Giêsu và các tông đồ (Mc 1:15; Lc 5:32; 5:32; 15:7; 5:20-24; 7:47-49; Cvtđ 2:38). Trước tiên việc nầy được rao giảng cho dân Israel (3:3), sau cùng cho mọi dân tộc (24:47). Sự sám hối chân thật là thay đổi tận căn tâm hồn và trí óc như là nguồn gốc để có thể sinh hoa trái tốt (x. 6:43-45). Đối với dân Israel, sám hối là không còn cậy thế “thuộc về dòng dõi Abraham” nữa (x. 3:8), mà phải lắng nghe và chú tâm vào Thiên Chúa và ý muốn của Người.
Trích dẫn của Is 40:3-5 trong những câu Lc 3:4-6 được dùng như là nội dung của lời Gioan rao giảng, “như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia”, bởi vì Gioan lấy tinh thần và quyền năng của Isaia mà đến rao giảng cho dân (x. 1:17). Trích dẫn nầy nằm ở khởi đầu tập sách Isaia 40-55, trong đó loan báo sự tha thứ và hy vọng. Những đau khổ của dân Israel bị lưu đày ở Babylon được giải thích như là sự trừng phạt của Thiên Chúa đã qua rồi (39:6-7). Thiên Chúa sẽ trở lại đền thờ Giêrusalem và cư ngụ lại trong đó. Bởi đó, phải dọn đường để chuẩn bị cho ngày Ngài trở lại. Ngày ấy cũng là ngày Ngài tỏ vinh quang và sự cứu độ cho toàn dân. Luca đã cố ý sửa đổi một vài chi tiết nhỏ trong bản văn của Isaia 40:3-5 với dụng ý chỉ việc Chúa Giêsu sắp đến. Câu 3:4 là một lời kêu gọi gồm hai mệnh lệnh: “Hãy dọn đường” và “Hãy làm”. “Chúa” ở đây là Đấng Cứu Độ, Đức Kitô (2:11). Gioan không chỉ kêu gọi dân chúng chuẩn bị đường cho Chúa đến, mà chính ông cũng đang làm việc đó (x. 7:29-30, 31-35; 20:1-8). “Đường” cũng chính là lối sống. “Đường thẳng” theo nghĩa đen là đường dễ đi nhất trong sa mạc. Nghĩa bóng của nó là “ngay chính”, “ngay thẳng” (x. Cv 8:21; 13:10). Con đường ngay thẳng sẽ dẫn ơn cứu độ đến.Các hình ảnh minh họa cách ẩn dụ về việc dọn đường ngay thẳng trong câu 3:5 gồm bốn yếu tố phân thành hai cặp. “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy - mọi núi đồi phải bạt cho thấp” và “khúc quanh co phải uốn cho ngay - đường lồi lõm phải san cho phẳng”. “Hạ thấp xuống” ám chỉ việc Thiên Chúa yêu thích những người khiêm nhượng (1:52; 14:11; 18:14). “Đường quanh co” là đường gian tà (x. Cv 2:40). Mục đích của việc dọn đường là để thấy ơn cứu độ (3:6). Theo lời của Simêon, “ơn cứu độ của Thiên Chúa” chính là Chúa Giêsu. Nơi Người ơn cứu độ được thực hiện viên mãn (x. 2:30). Ơn nầy được mở ra cho “mọi xác phàm”; chính là toàn thể nhân loại (x. 2:11.32; 3:6). Vậy, khi kêu gọi chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, Gioan cũng mời gọi mọi người đáp trả. Do đó, phép rửa, ơn tha tội và ơn cứu độ đi chung với nhau và không thể tách lìa nhau. Phải dọn đường để Thiên Chúa có thể trở lại, nhưng không phải tại Giêrusalem hay bất cứ nơi nào, mà trong lòng mỗi người,vì mỗi người là đền thờ quý trọng nhất của Ngài.
Chúa Nhật trước chúng ta đã nghe Chúa Giê-su công bố tin mừng là Người đến để cứu độ chúng: MV 2-C100
Chúa Nhật trước chúng ta đã nghe Chúa Giê-su công bố tin mừng là Người đến để cứu độ chúng ta. Hôm nay, cũng cùng một tin mừng ấy sẽ được thánh Gio-an, vị Tiền hô của Chúa, loan báo cho tất cả những ai thực lòng muốn đón nhận Đấng Cứu Độ.
Thánh sử Lu-ca ghi lại sinh hoạt của thánh Gio-an Tẩy giả: “Ông Gio-an, con ông Da-ca-ria, đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Như thế, địa bàn hoạt động của ông Gio-an là khắp vùng ven sông Gio-đan, công việc ông làm là rao giảng tin mừng Đấng Cứu Độ sắp đến và ông kêu gọi người ta hãy chịu phép rửa như dấu hiệu sám hối để được tha tội. Phép rửa của ông không tha được tội cho ai cả, nhưng chỉ chuẩn bị tâm hồn người ta để họ được Đấng Cứu Độ xóa bỏ tội lỗi cho họ. Nói khác đi, ông Gio-an chỉ giúp chúng ta sám hối ăn năn, còn chính Chúa Giê-su mới là Đấng sẽ tha thứ tội lỗi cho chúng ta.
Bài Tin Mừng đặc biệt đề cập tới sứ điệp ông Gio-an nói với dân chúng, vì đây là cốt lõi của bài Tin Mừng, với lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a.
“Có tiếng người hô trong hoang địa”: chính ông Gio-an là tiếng hô trong hoang địa. Hoang địa là nơi thanh vắng, nên người ta dễ nghe được mọi tiếng động. Ở đó, giọng nói bình thường chúng ta còn có thể nghe rõ, huống chi là “tiếng hô”. Bởi vậy, chúng ta không thể bỏ ngoài tai những điều ông Gio-an kêu gọi chúng ta. Vậy ông Gio-an hô to điều gì?
Trước hết ông hô: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Điều hô này có nghĩa là ơn cứu độ có tính cách phổ quát, dành cho mọi người không phân biệt ai, miễn là họ thực lòng muốn đón nhận Đấng Cứu Độ đến cứu thoát họ khỏi vòng tội lỗi.
Nhưng muốn đón nhận Đấng Cứu Độ, người ta “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Dĩ nhiên Chúa có thể đến cứu độ chúng ta mà chẳng cần chúng ta phải dọn con đường cho Người. Nhưng chuyện cứu độ đâu có phải là chuyện bắt ép hay độc đoán, mà là Chúa muốn dành phần cho chúng ta cộng tác với Người. Con đường ngôn sứ I-sai-a nói đây là tâm hồn chúng ta, hoặc là lối sống của chúng ta. Con đường ấy cần phải rộng rãi và sạch sẽ. Lối sống ấy phải là lối sống của những người con cái đích thực của Chúa.
Dọn đường làm sao và thay đổi lối sống thế nào? Ngôn sứ I-sai-a trả lời: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”. Những hình ảnh sống động và thiết thực về một con đường đã được sử dụng để mô tả con đường xấu cần phải sửa chữa. Nhưng chúng cũng được sử dụng để diễn tả những tình trạng xấu xa cần phải sửa đổi của một tâm hồn. Thung lũng là lòng tham, núi đồi là kiêu căng, khúc quanh co là gian dối, lồi lõm là những lo lắng ưu tư không chính đáng. Như thế, sửa chữa con đường thế nào thì sửa đổi tâm hồn cũng vậy thôi, nghĩa là phải dẹp bỏ đi những xấu xa: lấy quảng đại mà lấp đầy lòng tham, lấy khiêm nhượng mà bạt đi kiêu căng, lấy ngay thẳng mà diệt trừ gian dối và lấy lòng cậy trông Chúa mà xóa bỏ mọi lo lắng ưu phiền.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trước hết chúng ta cần xác tín lại niềm tin rằng Chúa muốn cứu độ chúng ta là vì Người yêu thương chúng ta. Sau là thực hành việc sám hối, chúng ta thay đổi lối sống sao cho đúng với những đề nghị thánh Gio-an Tiền hô đã rao giảng và kêu gọi.