“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. - Ðó là lời Chúa.
---------------------------
LênTrời ABC-251: Bình an và Vui mừng
Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các Tông Đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem LênTrời ABC-251
Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các Tông Đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhì
Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các Tông Đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.
Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.
Khi các Tông Đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.
Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh Tông Đồ nhiệt thành theo Chúa.
Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người ?
Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. ( Đường Hy Vọng, số 607 )
Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. ( Đường Hy Vọng, số 611 )
Lay Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.
Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa khô
ng muốn xa thầy. Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên.” Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy.” Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!”
Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên. Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo.
Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?” Ông Êlisa nói: ”Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra. Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các LênTrời ABC-252
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1, 9)
Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ. Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa. Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.
Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24, 50-53)
Chứng nhân & Đi gieo
Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.
Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.
Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.
Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng. Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.
Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)
Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân. Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội. Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.
Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Bình an & Vui mừng
Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.
Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.
Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.
Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu,, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.
Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?
Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)
Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. (Đường Hy Vọng, số 611)
Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.
"Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây LênTrời ABC-253
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 1,1-11
Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:
Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.
Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.
Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.
2. Đáp ca: Tv 46
Thánh vịnh này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Thánh vịnh này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.
3. Bài đọc II: Êp 1,17-23
Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53
Bài Tin Mừng này có hai phần:
1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):
Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.
Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.
Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.
2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là
Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.
Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.
IV. Gợi ý giảng
1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội
Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.
Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng "làm chứng", như lời Chúa Giêsu nói "Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy". Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.
Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.
Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: "Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời". Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:
Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.
Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.
Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: "Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới". Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:
Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.
Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.
Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.
Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.
2. Hiện diện và vắng mặt
Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.
Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói "đồng sàng, dị mộng" (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).
Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.
Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.
Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.
Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.
Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.
Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)
3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng
Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: "Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem..." Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?
Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v...
Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v
Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù», và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39).
Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?
Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.
4. Cuộc sống chứng nhân (Lc 24,46-53)
Báo "Le Figaro" mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi - Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời - Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
***
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế. Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: "Tôi tự hào là một người tín hữu... Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn".
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: "Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!"
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: "Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người".
***
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những ngư ời chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc, năm C)
5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội
Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).
Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).
1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:
Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:"...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).
Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".
Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).
Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).
Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế
2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:
Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:" Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 17-20).
Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.
Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa:" Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được... ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " (Mt 5,13-16)
Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)
6. Sứ mệnh của người Kitô hữu
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:
"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."
Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.
2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.
3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.
4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: "Anh em hãy đi đến với muôn dân", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.
Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta LênTrời ABC-254
Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta sẽ về nên Trời còn là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa cho thấy rõ hơn, Chúa lên trời là vì chúng ta, cũng như tất cả những việc người làm là vì loài người chúng ta, như lời kinh tin kính chúng ta đọc: "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế..." rồi Chúa lên trời là vì loài người chúng ta như lời Chúa nói: "Con muốn Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con". Cũng từ đó mà chúng ta nhận ra được một sự thật căn bản là quê hương chúng ta ở trên Trời. Mà nếu quê hương chúng ta ở trên trời thì hiện giờ chúng ta đang trên đường đi về quê hương đó. Đường về trời còn dài và lắm khó khăn vậy mà chúng ta lại mang quá nhiều hành lý. Những hành lý nào không nhãn hiệu đời đời, sẽ làm cho bước chân chúng ta chùn lại, khó đi. Biết bao nhiêu thứ hành lý chúng ta không thể mang vào Nước Trời được vậy mà chúng ta cứ cố tranh dành với người này, người nọ. Thật uổng công.
Nhiều người cho rằng chết là hết. Nhưng với người kitô hữu thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Tin vào Nước Trời là một thách đố lớn đối với chúng ta. Bởi vì ở nơi đó, chúng ta chưa từng có kinh nghiệm, chưa từng sống. Vì thế, Thánh Phaolô nói về Nước Trời như sau: "Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa." Muốn vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới. Niềm tin của người Kiô hữu được Chúa Giêsu mời gọi và hứa ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và khi chúc lành thì người rời khỏi các ông. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp các tông đồ hiểu được lời Chúa và làm cho các ông dám sống chứng nhân.
Chúa về trời còn cho chúng ta biết Chúa hoàn thành sứ mạng của mình và giờ đây, Người trao lại sứ mệnh đó cho chúng ta. Liệu chúng ta có ý thức được điều đó không? Chúng ta có làm cho người quanh ta hiểu rằng: Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết rồi mới được tôn vinh. Vậy, vai trò của chúng ta giờ dây là sống chứng nhân cho Chúa Giêsu. Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiadi đoạn 41, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: "Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nói cách khác, bằng sự chứng tá sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu - chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, vể sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian - nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện.
Chúng ta hãy làm cho người quanh ta hiểu rằng quê thật của con người là Trời chứ không phải trần gian. Thiên Chúa trên trời, Ngài muốn chúng ta yêu thương giúp đỡ nhau tiến về quê Trời. Đó là chúng ta đã làm chứng cho Chúa Giêsu.
Xin Chúa chúng con ý thức rằng: Chúa về trời nhưng vẫn hiện diện vô hình với chúng con. Chúa về Trời để dọn chỗ cho chúng con, xin cho chúng con biết quý trọng những sự cao siêu trên Trời, là quê hương đích thật của chúng con mong tới, để từ nay chúng con chỉ sống cho Chúa mà thôi. Amen.
Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ LênTrời ABC-255
Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ như ghi sản xuất tại Việtnam, hay Nhật Bản. Có những loại hàng sản xuất một nơi, đóng thùng một nẻo nên ghi thêm chi tiết hàng được công ti A nhập cảng và công ti B đóng thùng. Mục đích việc làm này mong giúp giới tiêu thụ không rơi vào trường hợp con buôn vì ham lợi đánh lận con đen, mua hàng giả dán nhãn thiệt thu lợi nhiều.
Kitô hữu cũng có nhãn hiệu không phải nhãn hiệu cầu chứng mà là ấn tín chứng thực. Mỗi người trong chúng ta là sản phẩm của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sáng tạo, đóng ấn tín cho từng người. Đây không phải là điều bịa đặt mà là một thực tại có từ thời sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng Thế Kí chương đầu 1, câu 27 trong phần lịch sử sáng tạo ghi rõ. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Người. Như thế chúng ta vào đời là thành quả yêu quí của Thiên Chúa yêu thương.
Trước khi cho ngươi thành hình người trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi. Jer 1,4
Hãy xem Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta Is 49,6
Dấu Ấn
Sản phẩm thường mang dấu hiệu cầu chứng thương mại, ghi rõ mã số cầu chứng. Kitô hữu không mang dấu hiệu cầu chứng thương mại mà là ấn tín đức tin. Ấn tín đức tin đó được ghi nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy với dấu thánh giá trên trán con người và được xức dầu thánh hiến để trở thành hàng thật, Kitô hữu thật trong Đức Kitô. Ấn tín thập giá là nhãn hiệu của mỗi Kitô hữu dưới danh hiệu chúng ta là con cái Thiên Chúa. Kitô hữu sống làm vinh danh thập giá là Kitô hữu chính hiệu. Đó là tiếp tục sứ mạng Đức Kitô đã bắt đầu như lời tiên báo của tiên tri Is 61,1-2
Thần Khí Chúa ngự trên tôi và đã xức dầu sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho kẻ giam cầm, phóng thích tù nhân và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma 8,17 còn cho biết là con cái Thiên Chúa nên được trở thành kẻ thừa tự, thừa hưởng tình yêu viên mãn và cuộc sống đời đời của Thiên Chúa.
Nhập cảng và đóng dấu
Chúng ta chính thức gia nhập Giáo Hội trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy nơi xứ tạo ta đang cư trú. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta được đóng gói, được đúc khuôn để trở thành người Kitô hữu tương lai. Xứ đạo địa phương dẫn dắt chúng ta trên con đường học đạo và hành đạo. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta cùng hội họp, cầu nguyện, lãnh nhận bí tích, cùng chia sẻ và nhận những đóng góp, hỗ trợ trong tinh thần Kitô hữu. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta kết hợp trong Chúa qua các buổi cùng cầu nguyện, cùng sinh hoạt. Vì thế có thể coi xứ đạo địa phương đóng góp rất lớn vào việc giúp thành hình và phát triển đức tin. Điều này ít nhiều gây hiểu lầm trong việc hành đạo. Kitô hữu quá cứng ngắc gắn bó với xứ đạo, nhà thờ, trung tâm gây nên chia rẽ trong cộng đoàn giáo xứ. Lí do chính là sống trong sợ hãi. Sợ hãi làm tâm hồn mất tự do. Có thể họ là người đạo đức, siêng năng, cần mẫn nhưng căn bản là đức tin chưa trưởng thành. Địa điểm thờ phượng là phương tiện cho chúng ta gặp gỡ, cầu nguyện. Viện ra đủ lí lẽ tranh đấu biến địa điểm thờ phượng thành nơi đấu lí có khác chi mượn chính đạo làm việc tà đạo. Tình trạng ngấm ngầm cạnh tranh về mọi phương diện giữa họ lẻ với giáo xứ không thể biện minh là làm việc đạo đức.
Đức Kitô về trời cho xác tín một điều quê hương chúng ta ở trên trời. Là công dân nước trời cần có tinh thần, coi trọng việc hướng về thiên quốc, luôn nhớ mọi sự trần gian đều qua đi. Vật thể cần cho cuộc sống, cần cho việc giữ đạo, Kitô hữu khôn ngoan dứt khoát từ bỏ bất cứ điều gì khi chúng trở thành vật cản bước tiến về thiên quốc, chắn tầm nhìn nước trời.
Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng LênTrời ABC-256
Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng với chúng ta là những người Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống đời sau, tin có Thiên Đàng. Chúng ta tuyên xưng niềm tin đó qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”. Vậy, Thiên Đàng là gì? Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng? Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?
1. Thiên Đàng là gì?
Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, và đã hoàn toàn được thanh tẩy, sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “Đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “Mặt giáp mặt”, không qua trung gian của một tạo vật nào hết. Sự sống hoàn hảo như thế với Ba Ngôi cực thánh, sự hiệp thông về sự sống và tình yêu với Chúa Ba Ngôi, với Trinh Nữ Maria, các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “Thiên Đàng”. Như vậy, Thiên Đàng là cùng đích tối hậu và là sự thực hiện những khát vọng sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh viễn (x. GLHTCG số 1023-1024).
2. Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng?
“Kinh Thánh nói về Thiên Đàng qua những hình ảnh: sự sống, ánh sáng, bình an, bữa tiệc cưới, rượu của Nước Trời, nhà Cha, thành Giêrusalem trên trời, Thiên Đàng: Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài” (x. GLHTCG số 1027). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu bằng cách này hay cách khác đã nói với nhân loại về Thiên Đàng. Xin được đơn cử một số dẫn chứng sau đây: Ngài khẳng định: "Tôi tự trời mà xuống" (Ga 6,38); Ngài còn nói với người Do-Thái rằng: "Các ông bởi hạ giới; còn Tôi, Tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 8,23); Khi đưa các Tông đồ lên núi Taborê, Ngài đã hé mở vinh quang Thiên Đàng cho các Tông đồ thấy; Ngài kể dụ ngôn người phú hộ và ông Lazarô để nói lên số phận khác biệt giữa hai người là Thiên Đàng và Hoả Ngục (x. Lc 16, 19-31); Ngài còn nói: “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”(Ga 14,2); Đặc biệt, trên Thánh giá, Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43)…
Thánh Phaolô thì khẳng định: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng như sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Chính bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay, cũng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu rời các Tông đồ mà lên trời (x. Cv 1,11; Lc 24, 51). Như vậy, chính những lời của Chúa Giêsu và các Tông đồ làm chứng cho chúng ta có Thiên Đàng.
3. Làm thế nào để được lên Thiên Đàng ?
Có nhiều cách để lên Thiên Đàng, xin được gợi ý một số cách thế sau đây:
Thứ nhất, xa tránh tội lỗi. Có những vị thánh sống trên đời này không hề phạm bất cứ một tội trọng nào, chẳng hạn: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu; Thánh Louis Gonzaga, Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse…Đúng như thánh vịnh 15 diễn tả: Đó là những “Kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã. Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI, lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15, 2-5).
Thứ hai, thống hối ăn năn tội. Bản chất của con người là yếu đuối, hay nghiêng chiều về sự dữ, nên con người thường sa ngã phạm tội. Vì thế, tội lỗi như là rào cản lớn nhất làm cho con người không đến được với Thiên Chúa. Đó cũng là rào cản không cho phép con người lên Thiên Đàng. Chính vì vậy, để đến với Chúa, để được lên Thiên Đàng, con người cần phải cố gắng xa tránh tội lỗi. Thánh Gioan khuyên dạy chúng ta “Đừng phạm tội nữa"(x. 1Ga 2,1). Bởi vì: "Ai phạm tội thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá công việc của ma quỷ"(1 Ga 3,8). Nhưng Ngài vẫn biết, con người không dễ gì mà làm được điều đó, vì bản tính con người yếu đuối dễ sa ngã phạm tội, nên Ngài khuyên chúng ta hãy đến với Bí tích Giao hoà để được khỏi tội: "Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa"( 1 Ga 2,1).
Thực tế cho chúng thấy có rất nhiều tội nhân, nhờ thống hối ăn năn trở về với Thiên Chúa nên đã được lên Thiên Đàng, các Ngài trở thành thánh, nghĩa là trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo, ví dụ: Kẻ trộm lành, Thánh Maria Mađalêna, Thánh Augustinô, thánh Phêrô...
Thứ ba, yêu thương anh em. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương nhau là thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công sẽ dựa vào điều này như là tiêu chuẩn, là giấy thông hành để nhận hay không nhận chúng ta vào Thiên Đàng (x. Mt 25, 31- 46).
Bởi vì: Ai yêu thương thì đi trong ánh sáng (x. 1Ga 2,9), đi trong ánh sáng thì chắc chắn sẽ đến cùng Thiên Chúa là nguồn gốc của ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Thiên Đàng. Còn ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối (x. 1Ga 2,9-10), đi trong bóng tối là đi theo đường lối của ma quỷ và chắc chắn sẽ không thể tìm thấy ánh sáng vĩnh cửu trên Thiên Đàng.
Yêu thương là dấu chỉ của sự sống thiêng liêng. "Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau" (1 Ga 3,14).
Yêu thương là dấu chỉ của người môn đệ Chúa, chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, Ngài nói: "Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).
Như vậy, ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa, và ở đâu có Thiên Chúa thì ở đó có Thiên Đàng. Trên Thiên Đàng người ta sống bằng Tình Yêu.
Khi nói về sự khác nhau ở Thiên Đàng và Hoả Ngục, người ta tưởng tượng câu chuyện sau đây: Cả Thiên Đàng và Hỏa Ngục đều dùng bữa với thức ăn như nhau trong một khung cảnh giống hệt nhau, trong đó mỗi người phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Trên Thiên Đàng mọi người không tự gắp thức ăn cho mình, mà lại gắp thức ăn cho người khác. Vì thế, ai cũng ăn được no. Còn những người trong hỏa ngục thì chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn đút vào miệng mình, mà đũa thì dài nên chẳng ai có thể đút được thứ gì vào miệng mình. Thế nên ai cũng đói, đến khi hết giờ ăn mà họ vẫn cứ đói, vì thế nên họ chỉ biết gây gỗ và căm thù nhau.
Thứ tư, chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Chúa Giêsu đã lên trời sau khi chu toàn bổn phận Chúa Cha trao phó. Mỗi người kitô hữu chúng ta muốn được lên Thiên Đàng cũng phải chu toàn bổn phận Chúa Giêsu trao phó. Đó chính là bổn phận loan báo Tin mừng. Trước khi về trời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,17). Như vậy, loan báo Tin Mừng là lệnh truyền. Lệnh truyền thì bắt buộc người thừa lệnh phải tuân giữ. Công đồng Vatican II khẳng định: “Loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô” (x. Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16) và đó cũng là bản chất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy chu toàn bổn phận đó trong gia đình và nơi mọi môi trường chúng ta sống:
Vợ chồng loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá đời sống gia đình bằng cách chu toàn bổn phận yêu thương, chung thuỷ, sinh sản và giáo dục con cái. Giáo viên, học sinh, sinh viên loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá trường học. Công nhân viên chức, bác sỹ, y tá loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá công sở, bệnh viện…Tóm lại, dù ở đâu, trong cương vị nào chúng ta hãy trở thành những cuốn Tin Mừng sống để qua chúng ta mọi người nhận biết Chúa và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bởi vì, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).
Chúa Giêsu đã từng nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12). Đó chính là sức mạnh của sự gìn giữ mình vô tội. Đó là sức mạnh của sự hy sinh từ bỏ tính mê nết xấu tội lỗi. Đó là sức mạnh của yêu thương tha thứ. Đó là sức mạnh của việc chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Xin cho mỗi người chúng ta biết cố gắng gìn giữ mình khỏi mắc tội, nhưng nếu sa ngã phạm tội thì hãy cố gắng thống hối ăn năn, đồng thời biết sống yêu thương tha thứ và chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng để ngày sau được lên Thiên Đàng. Amen.
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời LênTrời ABC-257
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, đó là chúng ta sẽ được về trời với Chúa sau khi hoàn tất cuộc đời trần gian này. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trong giây phút hiện tại hôm nay.
Có một sự thật mà con người thường không muốn nhắc tới hay không muốn bàn luận nhiều về nó. Tuy nhiên, cho dù con người muốn trốn tránh nhưng nó vẫn xảy ra đó là cái chết. Rất nhiều người muốn biết chết rồi sẽ đi đâu, sau cái chết sẽ như thế nào? Và không ai có thể trả lời được câu hỏi này ngoài một mình Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Trước sự bất lực của cái chết, và để cứu con người khỏi hư mất vì tội lỗi, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, Ngài sống trọn kiếp người như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua mọi vui buồn, đau khổ như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua cái chết nhưng Ngài đã sống lại.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ, để dạy dỗ, an ủi, và chuẩn bị cho các ông tiếp tục công việc của Ngài là làm cho mọi người nhận biết rằng: ngoài cuộc sống ở trần gian này họ còn có một quê hương vĩnh cữu trên trời. Biến cố Chúa Giêsu lên trời, giúp cho chúng ta phần nào hiểu được chết không phải là hết nhưng là sẽ bước vào cuộc sống bất diệt với Chúa, vì Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời. Ngài đi để chuẩn bị chỗ cho chúng ta, và chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài sau khi cuộc đời trần thế chấm dứt.
Trong bài đọc 1, Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy, khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ cứ mãi mê ngắm nhìn vinh quang của Thầy, cho nên thiên thần đã nhắc nhở các ông "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?". Hãy xuống núi và trở về với cuộc sống hiện tại. Hãy ra đi làm chứng cho những gì các ông vừa nhìn thấy. Chúa về trời không có nghĩa là Ngài bỏ con người mồ côi nhưng Ngài sẽ hiện diện với con người bằng cách khác. Ngài hiện diện qua các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, Ngài hiện diện qua lời dạy bảo của Hội Thánh và Ngài hiện diện qua cuộc sống của mỗi người chúng ta. Giờ đây Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian cho nên Ngài có thể hiện diện với chúng ta mọi nơi mọi lúc.
Việc Chúa Giêsu lên trời chứng tỏ công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất. Từ nay Giáo Hội hay nói cách khác là mỗi người chúng ta phải tiếp tục công việc của Chúa đó là "hãy nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân". Có nhiều cách thế để chúng ta làm chứng cho Chúa, nhưng cách làm chứng hữu hiệu nhất là cách sống tốt đẹp của chúng ta. Làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống biết yêu thương, giúp đỡ, phục vụ người khác ngay trong chính gia đình, xóm làng của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta cũng phải lo làm ăn, sinh sống. Chúng ta cũng gặp đau khổ, thử thách như bao người. Tuy nhiên, điều đó không làm chúng ta mất đi niềm vui và hy vọng. Vì chúng ta biết được cùng đích của đời mình là hạnh phúc quê trời.
Người công giáo tuy sống dưới đất nhưng có bổn phận làm chứng cho những sự trên trời. Chúng ta cũng sống, cũng làm ăn, cũng vui chơi như bao người nhưng trong khi người khác họ sống, làm tất cả như chỉ có đời nay thôi thì chúng ta lại tận dụng đời này để hướng về đời sau. Cuộc sống đời này là quãng đường để đi vào đời sau. Chúng ta không thể về trời với Chúa khi vẫn mang trong mình những hận thù, đố kỵ, ghen ghét, chia rẽ. Hành trang bước vào đời sau không phải là tiền của, tài sản, mà đó là sự phục vụ, yêu thương, tha thứ mà chúng ta đã làm cho anh chị em mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta có một quê hương vĩnh cửu trên trời. Nơi đó sẽ không còn đau khổ và sự chết. Nơi đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Nhưng để đạt được điều đó ngay từ hôm nay, chúng ta phải ra sức làm cho cuộc sống hiện tại thấm đượm yêu thương. Cuộc sống cho dù có gặp khó khăn thử thách cũng không làm chúng ta thất vọng. Vì chúng ta tin rằng Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.
Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho LênTrời ABC-258
Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho là chuyện phù phiếm hay hoang đường. Vậy làm sao người ta có thể chấp nhận khi nói đến hai chữ Thăng Thiên, Chúa về trời họ lại càng cho đó là chuyện phù phiếm giả tạo, khó tin. Nguyên do chính là con người thời nay có khuynh hướng tục hóa, quan niệm về thế giới tự nó có thể giải thích được, mà không cần tới Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã trở nên thừa thải và choán chỗ vô ích. Quan niệm đó đưa con người tới chỗ bỏ qua Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa thậm chí còn chối bỏ Thiên Chúa, để nhìn nhận khả năng của con người. Đối với nhiều người thời này không phải là sự lựa chọn giữa Thiên Chúa và Satan, mà là giữa Thiên Chúa và cái không, rồi người ta đã chọn lấy cái không đó. Điều đáng nói là cái không đối lại với Thiên Chúa không phải là cái không trống rỗng, mà nó chứa tất cả các nguồn lợi phong phú của Thế giới vật chất, tiến bộ, phát triển và hưởng thụ.
Vì thế, hơn hai ngàn năn trước, khi về trời Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ công việc "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội, chính anh em là chứng nhân về những điều này". Thật ra sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết, vá đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố rồi biến cố ấy thành lịch sử, rồi lịch sử ấy không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng tường thuật lại những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh của một vi Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy chính là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về biến cố ấy. Đó là làm chứng về lời nói, bằng đời sống, và có khi phải bằng máu nữa. Chính điều đó đã chỉ cho họ thấy chính Đức Giêsu Phục Sinh đã từ Thiên chúa mà đến bây giờ lại về với Thiên Chúa. Chúng ta không còn mặt gặp mặt nữa. Biến cố thăng thiên cũng nhằm ý nghĩa chỉ rõ đích điểm của đời người là sinh ra trong Thiên Chúa, và chúng ta cũng sẽ được trở về với Người.
Hơn nữa, để việc loan báo nên sống động và có kết quả tốt đẹp, con người phải biết đón nhận sức mạnh của Thánh Thần chúa "Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa", chính Chúa Thánh Linh là chứng ta đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Trước khi loan báo Tin Mừng cho người khác chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn từ bên trong con người của mình, để mỗi ngày mình càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Vì chúng ta không thể rao giảng và làm chứng về Đức Kitô nếu bản thân mình không phản ánh trung thực hình ảnh của Đức Kitô, gương mặt của Đức Kitô chỉ có thể trở nên sống động trong ta nhờ ân sủng và hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng: "sẽ không bao giờ có phúc âm hóa được, nếu không có tác động của Thánh Thần"(LBTM số 75). Thật vậy chính Thánh Thần đã khiến Phêrô Phaolô và các tông đồ của Đức Giêsu mạnh dan rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, cũng chính Ngài biến đổi và soi sáng cho các Kitô hữu hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và hiểu được mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có chịu đón nhận và để cho Ngài hoạt động trong mình không? Cho dù ngày nay với những phương tiện hiện đại người ta cũng đã biết tận dụng và đưa vào việc truyền giáo những kỹ thuật rất hữu ích. Tuy nhiên những kỹ thuật dù hoàn hảo đến đâu, cũng không thể thay thế được tác động âm thầm nhưng vô cùng hữu hiệu của Thần Khí, vì không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.
Lạy Chúa, xưa cũng như nay, công việc truyền giáo luôn gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, nhiều phức tạp. Xin cho con biết chấp nhận những khó khăn đó cùng với Chúa Thánh Thần để công việc loan báo ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.
Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau: LênTrời ABC359
Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
***
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi LênTrời ABC-260
Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi chịu khổ hình đau đớn theo ý Chúa Cha. Còn phần chúng ta, trước những khó khăn hiện tại trong bổn phận của mình, chúng ta phải làm gì để mai này về trời hưởng vinh quang với Chúa?
Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Lc kể lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Người từ cỏi chết sống lại. Lần này, Chúa Giêsu ăn uống trước mặt các môn đệ và giải thích Kinh Thánh cho các ông hiểu. Đoạn Kinh Thánh Chúa Giêsu đang giải thích nhắc lại mệnh lệnh loan truyền Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Trong mệnh lệnh này, chúng ta thấy có một điểm rất đặc biệt, đó là những đòi hỏi về phương cách rao giảng: không những chỉ bằng lời mà chính các tông đồ phải là chứng nhân về những điều rao giảng. Nghĩa là đời sống của các tông đồ phải giống như Chúa Giêsu: biết chấp nhận những khó khăn trong hành trình tông đồ trong sự gắn bó với Thiên Chúa. Những mong muốn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ xưa cũng là lời dạy dành cho chúng ta hôm nay: muốn được về trời hưởng phúc thiên đàng với Chúa thì trong đời sống đạo của mình, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn trong bổn phận hằng ngày với niềm tin tưởng gắn bó vào Thiên Chúa.
Có những khó khăn, đau khổ xảy đến người ta không chấp nhận nổi: Năm 2004, lúc đó, con còn đang ở thành phố học, ở trọ nhà chị bà con xa. Chị sinh được hai con. Con gái lớn tên là Trang. Cả gia đình chị lên thành phố gần được chục năm, lúc đó, Trang mới học lớp 5. Bây giờ, Trang đã hai mươi tuổi. Nó đẹp gái lắm, quen và lấy một anh tài xế đã có vợ rồi nhưng ly dị. Anh này tướng tá cũng lịch sự. Không hiểu vì lý do gì, vợ chồng lục đục, rồi chia tay. Hiện tại, Trang bắt đầu kiếm công việc làm, đi làm, quen nhiều bạn, anh kia ghen. Một đêm nọ, trên đường đi làm về, anh chồng cũ chờ sẵn, tạt một ca axít loãng lên người Trang. Người ta đưa em đi chợ rẫy. Kết quả thẩm định của bác sĩ, mù hai mắt, mặt mày trở nên dị dạng khác thường. Cha mẹ Trang ngày đêm túc trực trong bệnh viện, thay phiên nhau về nhà nghĩ ngơi. Lúc chị về với vẻ mặt buồn bẻ, bơ phờ, Con hỏi thăm, chị mới tâm sự: bây giờ, chị khổ quá em ơi, chị không còn biết cầu nguyện thế nào nữa, chị muốn buông xuôi tất cả.
Đau khổ như chị trong câu chuyện chắc ít người gặp qua nhưng khó khăn trong đời sống gia đình, thì chúng ta đã từng cảm nếm. Đối với mấy ông, khó khăn hệ tại ở việc tìm chén cơm cho gia đình, thời buổi này làm ăn đâu phải dễ, phải buôn ba vất vả, phải tính toán chi li, phải đổ mồ hôi, chịu nắng noi cả ngày. Lại thêm khó khăn đến từ phía gia đình, có ông than sau cái số mình hẩm hiu, đi làm quần quật cả ngày mệt thở không ra hơi, vậy mà về nhà cơm nước đâu hỏng thấy, nhà cửa thì dơ bẩn, con cái thì hôi hám, hỏng biết ở nhà bả làm cái gì? Mới quen, bả cũng ít nói, trông vẻ thuỳ mị lắm vậy mà bây giờ lúc đọc báo, bả cũng cằn nhằn, lúc coi ty vy, xem đá bóng, bả cũng nói, nói toàn những chuyện nhậu nhẹt, lương bổng của mình, nghe nhức đầu quá. Thêm vào đó, con cái không hiểu nổi khổ tâm lao nhọc của cha, chỉ có cái chuyện học mà cũng chẳng nên thân, tháng nào kết quả học tập cũng kém. Trong khi đó, các bà thì lại than các ông, lúc mới quen, ổng hiền lành, còn bây giờ, mới nói có mấy câu là nổi nóng, lớn tiếng. Vợ chồng mà la mắng như con ở làm sao chịu nổi. Hồi xưa mới yêu nhau, ho một tiếng là ảnh lấy dầu cho xức, mua thuốc cho uống còn bây giờ ho muốn bể phổi luôn mà ảnh cứ tỉnh bơ đọc báo. Nhà cửa, con cái, ăn uống, bao nhiêu việc phải chi tiêu, vậy mà đưa lương tuần nào cũng thiếu, làm sao xoay sở, như vậy mà sao không cằn nhằn được. Có chị khác thì bảo: ảnh cũng đi làm, tôi cũng đi làm, vậy thì việc cơm nước, con cái phải cưa đôi, để một mình tôi gánh, sức nào chịu nổi, vô tâm vô tình với tôi rồi có ngày sẽ phải hối hận đó nhe. Chưa kể những gánh nặng chất lên vai chị lúc con bệnh, con đau, khi gặp phải anh chồng không biết lo, tối ngày cứ rượu chè, cờ bạc, gặp phải bà mẹ chồng không biết cảm thông, suốt ngày cứ tìm những chuyện nhỏ để bắt lỗi, chì chiết làm khổ con dâu của mình.
Trong những khổ đau của cuộc khổ nạn, CG chấp nhận theo ý Chúa Cha, luôn gắn kết với Chúa Cha qua cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta trong những khó khăn của cuộc sống cơm áo gạo tiền, khó khăn trong bổn phận làm chồng, làm vợ, hãy biết chấp nhận và giữ vững đức tin, đừng bỏ Chúa giữa đường. Càng đau khổ, anh chị hãy càng đến với Chúa nhiều hơn. Chồng là chỗ dựa đức tin của gia đình, khi bản thân anh gặp khó gia đình gặp chuyện buồn phiền, thì chính anh phải là người đầu tiên chạy đến với Chúa. Chạy đến với Chúa để nâng đỡ đức tin của vợ và làm gương sáng dạy con sống đạo. Còn các bà, Chúa cho sở trường nói gì thì chồng nghe nấy: khi khó khăn, đêm về, ở bên chồng, chị hãy thủ thỉ vào tai chồng, dù gia đình mình gặp khó khăn thế nào cũng đừng bỏ Chúa nhe anh! Trực giác người phụ nữ rất nhạy, khi thấy chồng buồn phiền do công việc, hoặc đang buồn chị, chị hãy chạy đến với Chúa để cầu nguyện cho chồng. Người phụ nữ được ví là trái tim, là hơi ấm của gia đình. Chị chỉ có thể là trái tim, là hơi ấm cho gia đình nếu đời chị biết gắn kết mật thiết với trái tim tình yêu của Thiên Chúa trong cầu nguyện, với trái tim dịu dàng của người nữ nơi chuỗi mân côi. Khi lấy nhau, anh chị nên nhớ mình không chỉ có trách nhiệm dắt dìu nhau trong cuộc sống trần thế mà quan trọng hơn, vợ chồng phải có trách nhiệm dắt dìu nhau tiến về quê trời vĩnh cửu.
Thay cho lời kết, cầu chúc cho mỗi người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, biết giúp nhau vững tin vào Chúa, để dìu nhau về đến quê trời bình an. Amen.
Ngày 12.8.1985, tai nạn máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Nhật làm cho 520 người thiệt LênTrời ABC-261
Ngày 12.8.1985, tai nạn máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Nhật làm cho 520 người thiệt mạng. Thật là một tai nạn khủng khiếp!... Lúc máy bay sắp rớt, mọi người trên đó đều biết chắc mình phải chết, nên vội vàng ghi lại lời trối cuối cùng của mình, để từ biệt mọi người thân yêu.
Ông Kawaguchi viết cho vợ:
- Vĩnh biệt em! Nhớ chăm sóc các con!
Với ba đứa con, ông trối:
- Các con hãy sống thương yêu hoà thuận nhau. Cố gắng làm việc và giúp đỡ mẹ. (Theo "Chuyện hay ý đẹp").
Người sắp chết bao giờ cũng trối trăn lại với những người thân yêu, căn dặn họ mọi điều, nhất là uỷ thác cho họ những việc làm còn dang dở... để họ ở lại thực hiện cho hoàn tất.
Khi Đức Giêsu chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình nơi trần gian, chương trình cứu độ chưa hoàn thành, thế giới còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa biết ơn cứu độ. Chúa Giêsu biết rõ là loài người rất cần ơn cứu độ, cần được hạnh phúc nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng cứu thế này cho các môn đệ của mình: "anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em..." (x. Mt 28, 18; Lc 24,46)
Tuy nhiên, bản chất con người là yếu đuối, không thể tự mình đảm đương được công việc lớn lao như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh để Ngài dẫn dắt, an ủi và đồng hành với các môn đệ trong việc rao giảng và làm chứng cho Sự Thật, cho Tin mừng Chúa Phục sinh.
Bổn phận của chúng ta, những người môn đệ Chúa là làm chứng cho Chúa bằng cả cuộc sống của mình. Như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và sẵn sàng thí mạng để cứu chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng làm chứng cho Chúa. Tất cả mọi lời nói, công việc chúng ta làm thì hãy làm vì yêu mến Chúa, vì muốn đáp trả tình thương của Chúa, muốn làm đẹp lòng Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thể tách lìa việc sống đạo với cuộc sống hàng ngày. Có nhiều người chỉ giữ đạo trong nhà thờ, chỉ theo Chúa trong nhà thờ, còn những lúc khác thì họ không nhớ tới Chúa! Có người nói rằng: những lúc khác họ chạy theo tiền bạc, danh, tước.
Vì vậy, Chúa Giêsu có lần nhắc bảo các môn đệ: "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."(Lc 16, 13). Nếu chúng ta là môn đệ của Chúa thì chỉ tôn thờ Chúa mà thôi. Còn tiền, chức, danh chỉ là phương tiện. Nếu chúng ta sử dụng phương tiện đúng mục đích thì có công, còn sử dụng sai thì có lỗi với Chúa. Chúa ban cho các phương tiện để chúng ta làm chứng cho chân lý, cho sự thật về hạnh phúc đời sau. Chúng ta sử dụng các phương tiện đó để làm tròn bổn phận của mình được giao phó, nhưng chúng ta không quá lo tìm kiếm chúng mà xao lãng bổn phận với Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết hướng lòng về Chúa trong khi chu toàn các bổn phận nơi trần gian để mai sau được triều thiên vinh quang bất diệt trên quê Trời.
Khi kiến thức khoa học về vũ trụ còn phôi thai, người Do-thái coi “trái đất” như một cái đĩa LênTrời ABC-262
Khi kiến thức khoa học về vũ trụ còn phôi thai, người Do-thái coi “trái đất” như một cái đĩa khổng lồ, vây quanh bởi biển đảo, chống đỡ nhờ cột, đặt trên nền vững. Bầu trời úp trên mặt đất như một cái lồng bàn. Nó được điểm tô bằng mặt trời, mặt trăng và những vì tinh tú. Bầu trời có nhiều tầng; tầng dưới cùng có nhiều kho: kho tuyết, mưa đá, mây mù, gió bão, và cả kho sấm sét nữa. Thiên Chúa được cho là Đấng ở trên trời, ở tầng cao nhất. Trời là trời của Chúa, còn đất thì Ngài ban cho con cái loài người. Khi chết, vong linh phải vào âm phủ, nằm dưới lòng đất, xa với trời, xa với đất, xa với Thiên Chúa, xa với con người. Đức Giêsu đã chịu chết và được Thiên Chúa phục sinh. Được phục sinh là điều kỳ diệu, chưa từng thấy. Đấng từ thế giới Thiên Chúa bước xuống thế giới con người. Sau khi hoàn tất công trình cứu độ, Ngài trở về với Thiên Chúa. Lễ Thăng Thiên là lễ mừng Con Thiên Chúa thành công. Chính Thiên Chúa Cha rước Con về, đưa Con lên, tôn vinh Con trong thế giới thần linh vĩnh cửu. Người Con này không những có thần tính, mà còn có nhân tính. Ngài là Con Người đầu tiên đi vào thế giới của Thiên Chúa, với thân xác phục sinh được hoàn toàn biến đổi. Chúa Giêsu được rước về trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài là Đầu, mở cửa trời cho cả nhân loại bước vào, từ người đầu tiên là Ađam cho đến người cuối lúc tận thế. Lễ Thăng Thiên là lễ mừng cho phẩm giá con người. Nhân loại biết mình đi đâu sau cuộc sống ngắn ngủi tại thế. Thân xác con người biết mình sẽ không trở về bụi tro. Thiên Chúa và con người không gì chia lìa được. Khi được Cha đưa lên cùng Cha, đặt ngồi bên hữu Cha, ngồi ngang hàng với Cha trong tư cách là Chúa vũ trụ, Chúa Giêsu không còn hiện ra với các môn đệ như trước nữa. Các ông mất đi một sự hiện diện thấy được, sờ chạm được. Đây đúng là một mất mát lớn, gây đau buồn. Nhưng không vì thế mà Ngài trở nên vắng mặt, xa cách. Trái lại, Ngài hiện diện với họ cách gần gũi hơn xưa, thiết thân hơn xưa, và mạnh mẽ hơn xưa. Từ trời cao, Chúa Giêsu nghe được tiếng kêu của từng người, đến gặp từng người và ở với từng người trong mọi lúc. “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Chúa phục sinh ở với các tông đồ, xưa cũng như nay. Ngài không chỉ ở với, mà còn cùng làm việc với họ (Mc 16,20). Chẳng bao giờ các kitô hữu phải lao nhọc một mình. Trong Thánh Thần, Đấng phục sinh cho các cành nho thêm trái. Trước khi chết, Đức Giêsu nói:“Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19,30). Ngài đã hoàn tất việc Cha giao, đã vâng lời cho đến chết. Nhưng chúng ta chưa nói được như Đức Giêsu, vì sứ mạng Ngài giao, chúng ta chưa hoàn tất: “Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài, và làm Phép Rửa cho những ai có lòng tin” (Mt 16,15-16). Như Nhóm Mười Một, chúng ta từng không tin và cứng lòng, nhưng Chúa vẫn muốn sai chúng ta đi giúp cho người chưa tin, không chỉ bằng lời rao giảng suông, mà còn bằng những dấu lạ mạnh mẽ đi kèm với lời rao giảng. Với lòng tin, và với quyền năng của Danh Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình có khả năng trừ quỷ, chữa bệnh, và được bảo vệ khỏi mọi hiểm nghèo của kẻ thù. Lễ Chúa về trời nhắc chúng ta về sức hút của đất. Hấp dẫn của đất làm ta quên rằng trời mới là chỗ dừng chân. Những lo âu về cơm áo gạo tiền làm ta khép lại, so đo và ích kỷ. Những đau thương của phận người làm ta mất niềm hy vọng. Đất thì gần, còn trời lại xa xôi. Làm sao ta sống để người khác nhận ra trời ở ngay trong đất?
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người. Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại. Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định trong lời LênTrời ABC-263
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định trong lời thân thưa với Chúa Cha: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng. “Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa “cất lên” không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ. Được “cất lên” cũng là lối diễn tả sự thưởng công của Chúa cho một người đã trung tín với sứ mạng được trao.
Việc Chúa về trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, mang theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Việc Chúa Giêsu về trời đánh dấu sự hoàn tất của công trình cứu độ được thực hiện qua biến cố thập giá. Tuy vậy, sự hoàn tất này lại mở ra một giai đoạn mới trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã sang một trang mới kể từ biến cố phục sinh. Nhận được lệnh truyền của Chúa, các môn đệ đã hân hoan ra đi thi hành sứ vụ. Đây là một cuộc lên đường mới, đầy hứng khởi nhiệt tình. Việc Chúa được cất lên trời không làm cho các môn đệ u sầu buồn bã, trái lại các ông lại hân hoan vui vẻ, vì tin chắc có Chúa ở với mình. Từ nay, các ông được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm phép lạ mà chính Chúa đã ban cho các ông, như lời căn dặn trước khi Người về trời. Với lời “sai đi” của Chúa, sứ mạng truyền giáo không còn giới hạn trong xứ Palestina, nhưng đã mở ra những chân trời mới. Nước của Chúa không còn giới hạn ở những cột mốc lãnh thổ và những đường biên ngăn cách, nhưng lan rộng đến mọi nền văn hóa, đến mọi dân tộc. Chúa đã về trời. Cũng như trời rộng bao la mênh mông thế nào, thì vương quốc bình an mà Người đã khởi sự thiết lập cũng sẽ rộng lớn như vậy.
Chúa Giêsu đã nhập thể và mang lấy thân phận con người như chúng ta. Sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, Người đã khải hoàn về thiên quốc. Việc Chúa Giêsu về trời cũng khẳng định với chúng ta, đất và trời từ nay không còn cách biệt nữa. Dưới đất này đã có trời, và trên trời cao đã có đất. Quả vậy, nếu định nghĩa trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, thì trong “cõi người ta” này, Thiên Chúa đang hiện hữu để chúc lành và dẫn dắt chúng ta bằng cánh tay yêu thương của Ngài. Nếu định nghĩa đất là nơi con người sinh sống, thì trên trời, hiện đã có một “Con Người” là Đức Giêsu, mẫu mực chung cho tất cả mọi người về cách sống cũng như về sự hy sinh vì tha nhân. Vì thế, liền sau khi Chúa Giêsu được cất lên, trong khi các môn đệ còn bỡ ngỡ lưu luyến, thì hai sứ thần đã nói với họ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Qua những lời này, các sứ thần muốn khẳng định với các ông rằng, các ông hãy quay về với bổn phận, vì tuy Chúa đã về trời, Người vẫn luôn hiện diện trên mặt đất này với các ông. Từ nay, mọi bước đường truyền giáo của các ông sẽ có Chúa đi cùng. Người hiện diện thiêng liêng, vô hình nơi trần gian, và Người sẽ trở lại trong vinh quang vào thời tận cùng của lịch sử. Chính vì vậy, “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước” (Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên).
“Quê Trời” là niềm mơ ước của con người thuộc mọi nền văn hóa, dù khái niệm về trời rất mông lung bàng bạc và phong phú đa dạng. Trong quan niệm dân gian của người Việt, “Trời” không chỉ là cái vòm màu xanh ở tít trên cao, nhưng là một “Đấng”, một “Ông”, một “Vị”, một nhân vật. Nhân vật này vừa quyền năng mạnh mẽ vừa lắng nghe cảm thông với con người và giúp đỡ họ. Nơi “Ông Trời” người ta tin tưởng cầu xin ơn phù trợ để mọi sự tốt lành: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm” (Ca dao). Trời cũng là nơi ở dành cho các anh hùng dân tộc, những người có công với nước, như trường hợp Thánh Gióng, sau khi đánh giặc Ân, cưỡi ngựa về trời.
Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: Quê trời là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính. Hạnh phúc Nước trời là được chìm mình trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi, cùng với anh chị em mình. Đó là tình yêu vĩnh cửu, viên mãn, tồn tại muôn đời. Hạnh phúc Chúa Giêsu hứa ban không phải một thứ “bánh vẽ” xa vời, một thứ “thuốc phiện mê dân” ảo tưởng. Nước Trời đã hiện diện giữa trần gian, ngay ngày hôm nay, nơi cuộc đời của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận bằng con tim rộng mở và tấm lòng yêu mến chân thành.
(Bài giảng của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho –trong Thánh lễ Chúa Thăng Thiên, kỷ niệm 13 năm Giám mục, ngày 20 tháng 05 năm 2012).
1. Anh chị em rất thân mến,
Mầu nhiệm “Chúa Giêsu lên trời” mà chúng ta mừng lễ hôm nay, gắn chặt với mầu nhiệm “Sự Chết LênTrời ABC-264
mầu nhiệm “Chúa Giêsu lên trời” mà chúng ta mừng lễ hôm nay, gắn chặt với mầu nhiệm “Sự Chết và Sự Sống lại của Chúa”. Chúa Giêsu đã ra đi, rời bỏ các môn đệ còn ở thế gian, mà Người rất thương mến. Người đi lên cùng Chúa Cha, để ngự bên hữu Chúa Cha, được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha. Ra đi là “chết”, không phải chỉ là chết trong lòng, mà là chết thực sự, là ra đi vĩnh viễn. Nhưng sự ra đi của Chúa Giêsu, không phải là đi vào cõi hư vô, dẫn đến tiêu diệt, mà là ra đi để được sống, sống dồi dào và vĩnh viễn. Sự chết không cầm giữ được Người, Người đã sống lại và vẫn đang sống. Theo Thánh Luca, tác giả Sách Công vụ các Tông đồ, thì Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các Tông đồ thấy là Người vẫn sống, sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra để đàm đạo với các Tông đồ về Nước Thiên Chúa (Cv 1,3).
2. Chúa Giêsu không những vẫn “đang sống”, mà còn được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha, được hạnh phúc trong Lòng Chúa Cha. Theo ý muốn của Chúa Cha, “Người đã đi xuống”, Nhập Thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm Người. Giờ đây Người “đi lên”, lên ngự bên hữu Chúa Cha, để làm “Vua vũ trụ”, làm “Chúa” giống như Thiên Chúa Cha, Đấng làm chủ, không những trái đất, mà toàn thể vũ trụ, vì đã tạo dựng nó. Người làm Chúa, không để thống trị, mà để ban phát Tình Thương, ban phát Sự Sống. Người yêu cầu các Tông đồ đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa”, chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng là “Chúa và là Đấng ban Sự Sống”, là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Kitô Phục Sinh. Đấng là Sức Mạnh từ trên cao, là Quyền Năng của Thiên Chúa, là Thần Trí và là Ánh Sáng.
3. Các Tông đồ chờ Ngày lễ Ngũ Tuần, để nhận lãnh Chúa Thánh Thần, để “chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần” (Cv 1, 5), theo kiểu nói của Chúa Giêsu. Họ sẽ “làm chứng tá” về Chúa Giêsu Phục Sinh, cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1, 8). Họ sẽ đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng Cứu độ, Tin Mừng về Tình yêu của Thiên Chúa, biểu lộ trọn vẹn nơi “sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu”. Loan báo “Niềm Hy vọng” mà họ đã nhận được, khi được khai ân Thần Khí. “Chúa Giêsu lên trời” vừa là một sự kiện, vừa là một sứ điệp từ trời: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đang thấy Người lên trời” (Cv 1,11).
4. Hiện nay khoa học đã phát triển tột bậc, nhiều phi hành gia, và một ít người giàu có đã được lên trời, trên những phi thuyền không gian. Ước vọng của con người không bao giờ cùng, nhưng có thực sự là ước vọng vươn lên, theo nghĩa hướng thượng, hướng về Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ, hướng về hạnh phúc đích thực, về sự thành toàn nhân cách khi đạt tới mục đích cuối cùng của cuộc đời không? Muốn được như thế, không chỉ có việc ngước mắt nhìn trời, mà còn phải nhận lãnh sức mạnh từ trời. Kinh nghiệm cho thấy rằng: chỉ với sức mạnh tự nhiên, con người dễ sa đà xuống dốc, nhất là từ khi nguyên tổ loài người phạm tội. Trong xã hội hôm nay, con người chỉ tiến bộ về khoa học kỷ thuật, còn về những phương diện khác thì xuống dốc trầm trọng, hình như đang lao xuống vực thẳm của sự dữ và tội ác.
5. Chính vì thế mà ngày hôm nay hơn bao giờ hết Giáo hội phải hăng hái thi hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu trước khi Người lên trời: “ Đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh: Sự Sống chiến thắng sự chết, Tình yêu chiến thắng tội ác, chân lý chiến thắng dối trá và sai lầm. Đó là ước mơ của chúng ta, ước mơ của những người Kitô hữu. Không những thế, trong thâm sâu của “vô thức”, đó cũng là ước mơ của mọi người trong nhân loại và của mỗi con người. Tin Mừng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu luôn luôn hợp thời và luôn luôn cần thiết, như chính Chúa Giêsu đã phán dạy: “Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu rỗi; còn ai không tin, sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Không phải vì Thiên Chúa độc tài, độc đoán, nhưng vì không tin là không đón nhận “giải đáp đích thực”của Thiên Chúa cho các ước vọng chính đáng của mình, hay là tìm thoả mãn nơi trần thế, và cuối cùng sẽ “qua đi” như bộ mặt trần gian này sẽ qua đi.
Từ hơn 500 năm trước, ngôn sứ Dacaria đã tiên báo Chúa Giêsu sẽ chia tay các môn đệ tại LênTrời ABC-265
Từ hơn 500 năm trước, ngôn sứ Dacaria đã tiên báo Chúa Giêsu sẽ chia tay các môn đệ tại núi Ôliu. “Ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliu, đối diện với Giêrusalem về phía đông.” (Dcr 14,4). Điều đó đã được sách Công Vụ Tông Đồ xác nhận ngay trong phần mở đầu. (Cv 1, 12)
Mặt khác, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu diễn ra tại vườn Giệtsimani, dưới chân núi Ôliu. Nay Chúa thăng thiên trên núi Ôliu, phản ảnh sự liên tục đầy ý nghĩa, cũng như sự liên kết chặt chẽ giữa đất và trời qua trung gian Chúa Giêsu.
Kinh ngạc trước cảnh tượng Chúa Thăng Thiên vinh hiển và huy hoàng, các tông đồ cứ mãi ngẩn ngơ dõi theo, đến nỗi hai thiên sứ hiện đến nhắc nhủ: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông thấy Người lên trời. (Cv 1, 11)
Bây giờ, chúng ta cũng chẳng khác các ngài, cũng hay chỉ đơn giản nhìn lên trời, mà than thở, kêu van, kinh kệ, hay ao ước, mong vào cõi phúc vĩnh cửu. Làm như sống đạo chỉ biết đến duy nhất hai chữ “Xin Cho”, y như bắt chước nếp sống thế gian, khi long đong lận đận, chỉ biết xin xỏ lòng hảo tâm.
Tuy nhiên, điểm nổi bật trong bài Tin Mừng theo thánh sử Máccô hôm nay, chính là lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Người lên trời. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16, 15)
Sách Công Vụ Tông Đồ còn nhấn mạnh hơn nữa: “Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8)
Như thế, tuy hai câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu được hai sách thánh ghi lại, không hoàn toàn giống nhau về mặt chữ nghĩa, nhưng lại cùng chung một nội dung truyền giáo, một lời trăn trối, hay đúng hơn là một mệnh lệnh.
Mệnh lệnh truyền giáo đó được thực hiện cụ thể qua hai hành động: Loan báo Tin Mừng và làm Chứng Nhân của Chúa Kitô. Tuy hai, mà lại kết hợp mật thiết làm một, như hai mặt của một đồng tiền. Dẫu vậy, thường chúng ta lại chỉ quen chọn và ưu ái một việc, là thích rao giảng hơn làm chứng nhân.
Trước đây, Chúa Giêsu đã nêu tấm gương sáng, ngôn hành hiệp nhất, qua ba năm giảng dạy và cuộc khổ nạn đau đớn, để minh chứng công khai tính khả thi trọn vẹn của mệnh lệnh đó.
Riêng vai trò chứng nhân được Chúa nhắn nhủ nhiều lần. “Chính anh em là muối cho đời…Chính anh em là ánh sáng cho đời…Ánh sáng của anh em phải chiểu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp của anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”(Mt 5, 13-16) (Mc 9, 50)( Lc 14, 34-35)
Cảm nghiệm về vai trò chứng nhân, ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ:”Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai…Tóm lại, là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho kẻ khác Chúa Kitô.”( ĐHV, số 292)
Lạy Chúa Kitô, xin cho con biết nhiệt thành đón nhận sứ mệnh Đi Gieo Tin Mừng, mặc dù gian nan, thử thách và hiểm nguy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin giúp sức con can đảm, trở thành chứng nhân đích thực của Chúa Kitô, giữa xã hội xô bồ đầy mâu thuẫn, đang mải mê chạy theo tà thần và phù vân. Amen.
Mùa Phục Sinh theo niên lịch Phụng vụ sắp kết thúc. Hội Thánh dẫn đoàn con đến với mầu nhiệm LênTrời ABC-266
Mùa Phục Sinh theo niên lịch Phụng vụ sắp kết thúc. Hội Thánh dẫn đoàn con đến với mầu nhiệm Chúa Thăng Thiên. Dĩ nhiên là Kitô hữu trưởng thành, hẳn chúng ta không còn ngây ngô nhìn lên khoảng không gian trên trời để tìm xem nơi Chúa đã về. Chúa về trời nghĩa là Chúa lấy lại vinh quang của một Thiên Chúa có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Điều này được Thánh Kinh trình bày khi nói Chúa Kitô về trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Eph.1,20-21). Và chúng ta có thể nói rằng mầu nhiệm Chúa về trời như là một trong những điểm tới của nhiệm cục cứu độ.
1. Mầu nhiệm Chúa về trời khẳng định “thần tính” của Đấng vào đời: Không ai có thể lên trời nếu người đó không từ trời mà xuống (x.Ga 3,13). Đấng từ trên cao xuống là Đấng vượt trên muôn vật muôn loài. Khi tuyên xưng Đức Kitô về trời chúng ta không chỉ tuyên xưng một biến cố mà là tin nhận một quá trình. Đó là “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trỗi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil 2,6-11).
2. Mầu nhiệm Chúa về trời là nền tảng cho niềm hy vọng của con người: Chúa Kitô bỏ vinh quang danh dự của mình khi vào đời để rồi sau đó lấy lại thì có liên quan gì đến loài người chúng ta cũng như mọi loài thụ tạo? Xin thưa rằng có. Khi về trời, ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang bất diệt thì trong Chúa Kitô đã có tất cả những gì là thuộc nhân tính, thuộc thế trần. Bởi vì những gì thuộc thế trần, thuộc nhân tính đã được Đức Kitô tiếp nhận khi vào trần gian. Chính vì thế, từ đây mọi sự mọi loài, đặc biệt loài người chúng ta có thể đi vào cõi vinh quang vĩnh hằng chính là nhờ, với và trong Đức Kitô. Cái hữu hạn từ đây có thể trở nên thường tồn. Sự chóng qua từ đây có thể trở nên bất diệt. Và điều này đáp ứng nỗi khát mong muôn thưở của con người đó là được sống mãi. Niềm hy vọng của con người về sự trường sinh đã được mở ra với mầu nhiệm Chúa Kitô lên trời. Đức Giáo hoàng Lêô Cả khẳng định rằng khi mừng mầu nhiệm Chúa lên trời là “chúng ta đang tưởng niệm và long trọng cử hành ngày bản tính yếu hèn của chúng ta nơi Đức Kitô được đưa lên cao hơn các đạo binh trên trời, hơn tất cả các phẩm thiên thần, hơn tất cả các quyền thần, để cùng hiển trị với Chúa Cha” (Bài đọc 2 giờ Kinh Sách Thứ Năm tuần VI mùa Phục Sinh).
3. Mầu nhiệm Chúa về trời mời gọi, đúng hơn là thúc bách ta rao truyền tin vui: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,17-20). “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15) Tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, đồng thời tin nhận Người đã đưa các thực tại trần thế vào vinh quang Thiên Chúa với mầu nhiệm Thăng Thiên, không chỉ củng cố niềm hy vọng của chúng ta mà còn thúc bách ta rao giảng Tin Mừng. Nội hàm chủ yếu của Tin Mừng chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân trần mãi đồng hành với nhân loại mọi nơi, mọi thời. Thiên Chúa đã cắm lều giữa trần gian là ở mãi với nhân loại. Người mãi đồng hành với chúng ta, đặc biệt bằng Thánh Thần Người ban tặng, bằng Lời của Người đã trao ban, bằng các Bí tích, bằng Hội Thánh Người đã thiết lập…
4. Mầu nhiệm Chúa về trời đòi hỏi chúng ta làm cho cuộc đời hữu hạn này trở nên thường tồn. “Hởi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?…” (Cvtđ 1,11). Ái mộ những sự trên trời không có nghĩa là ái mộ những sự gì đó trên cao xanh mà là ái mộ những sự vĩnh hằng, những sự không thể bị kẻ trộm lấy mất hay mối mọt làm hư hoại (x. Mt 6,20). Lòng ái mộ này thúc bách ta không ngừng tìm cách vĩnh cửu hóa các thực tại chóng qua. Mọi sự, dù là bình thường hay tầm thường đều có thể trở thành phi thường trong tình yêu của Đấng Cứu Độ dành cho nhân trần. Tình yêu ấy có thể hiện rõ qua Lời Chúa, qua các Bí tích, qua Hội Thánh. Nhưng tình yêu ấy cũng có thể bàng bạc khắp mọi nơi bằng quyền năng của Thánh Thần, Đấng luôn luôn tự do như “gió muốn thổi đâu thì thổi” (x.Ga 3,8). Cùng với Thánh Thần, Hội Thánh không ngừng làm cho Nước Trời trị đến mọi lúc, mọi nơi, trong mọi thực tại của kiếp người: kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, giải trí, truyền thông…
Chính nhờ, với và trong tình yêu của Đức Kitô thì các thực tại trần gian trở thành vĩnh cửu. Đây là tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, một tình yêu hướng tha. Và Chúa Kitô đã cụ thể hóa tình yêu ấy bằng sự hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại (x.Ga 15,13). Yêu thương mà tự nguyện nhỏ mình đi, ẩn mình đi, tự hủy mình đi để cho người mình yêu được sống, sống dồi dào, được triển nở và tinh tuyền thì đúng là yêu thương cách hoàn toàn vị tha, chỉ vì người mình yêu. “ Thầy ra đi thì có lợi cho anh em …” (Ga 16,8). Có thể nói Chúa Kitô đã khởi đầu sự ra đi ấy với việc bỏ trời xuống làm người, với hiến tế thập giá và kết thúc bằng mầu nhiệm về trời.
Ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa (x.1Ga 4,7-21). Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong Nước Trời. Tuy nhiên, tình yêu ở đây phải là tình yêu một cách nào đó như Chúa Kitô yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34-35). Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã thực thi điều này. Dù ở trong đan viện, kín cổng cao tường, chị đã làm cho những việc bé nhỏ, bình thường, và cả tầm thường như quét nhà, giặt giũ…trở nên phi thường bất diệt bằng chính con tim tràn đầy tình mến của chị. Nước trời không ở đâu xa. Nước trời đang ở giữa chúng ta. Chính vì thế, ta có thể nói rằng đừng tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời ở một cõi nào đó trên cao, nhiều khi khiến chúng ta đâm ra ảo tưởng, xa rời thực tế, bỏ bê bổn phận, nhưng hãy làm cho hạnh phúc thành hiện thực ngay ở đây, lúc này.
Mấy tuần qua Phúc âm nhắc đi nhắc lại lời Đức Kitô mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Ngài LênTrời ABC-267
Mấy tuần qua Phúc âm nhắc đi nhắc lại lời Đức Kitô mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Liên kết với Đức Kitô để qua Đức Kitô, Kitô hữu được liên kết với Chúa Cha. Đức Kitô về cùng Chúa Cha, thường được biết đến như là lễ mừng Đức Kitô về trời. Dù Đức Kitô về cùng Chúa Cha, tình liên kết Chúa dành cho Kitô hữu không gặp bất cứ ngăn trở nào. Kitô hữu vẫn có thể liên kết với Đức Kitô qua tình yêu Ngài. Điều này không có chi lạ bởi chính tình yêu Chúa liên kết Kitô hữu nên một. Đức Kitô ở trần gian hay về cùng Chúa Cha, tình yêu Chúa dành cho nhân loại không thay đổi. Liên kết trong tình yêu Chúa để được trổ sinh hoa trái, không phải hoa trái thường, mà là hoa trái có phẩm chất đặc biệt, cùng phẩm chất hoa trái khi Ngài còn ở trần thế bởi hoa trái đó trổ sinh nhờ vào tình yêu Đức kitô.
Thứ hai, liên kết với Đức Kitô để mối giây liên kết liên tục đón nhận ân sủng Chúa, tránh cô đơn khi gặp nguy khó. Ai cũng có người thân và bạn thân, tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp người thân đó bó tay, dù ước ao, mong muốn nhưng không đủ khả năng giúp đỡ, hoàn cảnh không cho phép. Đức Kitô Phục Sinh là Đấng duy nhất có khả năng vượt mọi rào cản, cấm đoán hay hàng rào hạn chế bởi Ngài không bị ảnh hưởng bởi điều kiện không gian và thời gian. Vì thế liên kết với Đức Kitô sẽ luôn nhận được ơn Chúa dù trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, Ngài cũng hiện diện, kề bên, cùng dìu ta đi.
Thứ ba, liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được ơn can đảm và sức mạnh nội tâm để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Chính Đức Kitô đã trải qua cảm nghiệm cô đơn, môn đệ sợ hãi bỏ chạy, một mình Ngài đối diện với thập giá. Giờ phút kinh hoàng cuối đời của Ngài là giây phút cô đơn. Nó thể hiện trong câu nói 'linh hồn Thầy lo buồn đến nỗi chết'. Nó thể hiện trong lời than: không thể cùng thức với Thầy được một giờ sao? Thức để làm chi? Thức để liên kết với Chúa trong cầu nguyện; liên kết với Chúa để tránh được cơn cám dỗ. Sa ngã vì thiếu kiên tâm cầu nguyện, vì tự tin vào khả năng riêng mình, vì đời sống cầu nguyện nghèo nàn. Môn đệ vì mệt mỏi, nửa tỉnh, nửa mê và đã bỏ chạy khi Thầy bị bắt. Dẫu thế tình yêu Chúa dành cho các ông không thay đổi.
Thứ tư, liên kết với Đức Kitô để cảm nghiệm Đức Kitô luôn giữ trọn lời thề. Lời Ngài hứa chắc chắn sẽ được thực hiện cách tốt đẹp, hoàn hảo. Đức Kitô hứa, Ngài sẽ thực hiện. Làm sao, thời gian nào do Ngài quyết định.
Thứ năm, mục đích cuối cùng và là mục đích chính và là việc cao cả của việc liên kết. Bởi liên kết với Đức Kitô sẽ được liên kết với Chúa Cha. Liên kết một cách vững bền cùng mối liên kết Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Điều này được thực hiện bởi nhờ Đức Kitô liên kết với Chúa Cha trong mọi sự. Vì thế qua Đức Kitô mà Kitô hữu được kết liên với Chúa Cha. Chúng ta biết điều này qua lời cầu của Đức Kitô. Đức Kitô cầu xin Chúa Cha liên kết Kitô hữu trong Ngài để tất cả được nên một trong Chúa.
Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, đệ họ nên một như chúng ta. (Ga. 17,11)
Thứ sáu, liên kết cùng Đức Kitô sẽ vượt thắng, tránh được hãm hại của ác thần bởi chính Chúa Cha ban ơn bảo vệ giúp Kitô hữu chống lại ác thần. Ác thần ghét Kitô hữu vì Kitô hữu sống nơi trần thế nhưng không thuộc về trần thế, lòng luôn hướng về quê thật là nước trời. Vì không thuộc về chúng nên chúng tìm cách ám hại. Sa đoạ, hay sa chước cám dỗ bởi đời sống cầu nguyện nghèo nàn, bởi liên kết với Chúa một cách hời hợi, mở cửa cho ác thần lợi dụng, hãm hại.
Cuối cùng liên kết cùng Đức Kitô để cuối cuộc lữ hành trần thế cũng sẽ được liên kết, chung sống trong nhà Chúa. Đức Kitô đi trước mở đường chuẩn bị đón nhận Kitô hữu vào trong nhà Chúa. Kitô hữu được thánh hiến trong sự thật để trở thành chứng nhân đích thực, sống động trong Đức Kitô, loan bố Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô, Người hiến thân chịu khổ hình chết, ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Vì thế châm ngôn của Kitô hữu tóm gọn trong thánh lễ với lời Chúc tụng:
Chính nhờ Người với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu còn muốn giáo huấn các môn đệ lần cuối cùng và trao phó cho LênTrời ABC-268
Trước khi về trời, Chúa Giêsu còn muốn giáo huấn các môn đệ lần cuối cùng và trao phó cho các ông một sứ mạng quan trọng. Ngài nói: Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ và nhắc bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con. Như thế việc rao giảng Tin Mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.
Ngay từ những ngày đầu, các môn đệ đã gặp phải những sự thù oán, bắt bớ và cấm cách, nhưng các ông không hề nao núng sợ hãi bởi vì như lời Chúa đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Đây không phải chỉ là một lời nói đầy an ủi khích lệ mà còn la một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Giáo Hội qua dòng thời gian, cũng đã gặp phải biết bao nhiêu sóng gió và thử thách. Giáo Hội vẫn không hề nao núng và sợ hãi bởi vì Chúa luôn hiện diện trong lòng Giáo Hội, hầu nâng đỡ và phù trợ cho Giáo Hội. Nếu chỉ là một tổ chức bình thường, có lẽ Giáo Hội đã bị quét sạch từ lâu.
Khi học về lịch sử, chúng ta thấy biết bao nhiêu đế quốc đã bị xoá tên, biết bao nhiêu thể chế đã bị sụp đổ, nhưng Giáo Hội vẫn kiên vững trong muôn vàn sóng gió. Bởi vì nền móng của Giáo Hội là đá tảng. Vào năm 1952 ĐGM King đã viết cho các sinh viên công giáo tại Thượng Hải như sau: Cây thập giá thì nặng, nhưng nhờ cây thập giá ấy mà con người giữ vững được đức tin, và cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh những bông hoa chiến thắng. Khi nghĩ về một tương lai đen tối tôi bỗng mỉm cười, bởi vì chúng ta vác thập giá, chúng ta đi đường thập giá, chúng ta lai cảm thấy hạnh phúc bởi vì chúng ta đang sống trong một thời điểm đặc biệt. Nếu như Thiên Chúa muốn biến chúng ta trở thành những dụng cụ của Ngài, thì chúng ta phải sẵn sàng.
Trước khi về trời Chúa Giêsu còn nói: Các con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các con, để các con trở nên nhân chứng của Thầy ở Giêrusalem, ở Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Cho đến lúc bấy giờ các ông vẫn còn mơ tưởng đến của cải vật chất mà nhắm mắt lại trước những chân lý siêu nhiên. Các ông như bị cột chặt vào mặt đất và không thể bay bổng tới trời cao. Suốt ba năm sống với Chúa, nghe những lời Ngài nói và nhìn xem những việc lạ lùng Ngài làm, thế mà cõi lòng các ông vẫn chai đá, các ông quay lưng lại với ánh sáng.
Chúng ta cũng vậy, để được hướng tới bình diện siêu nhiên, để được sống trong Chúa Thánh Thần, chúng ta phải biết vượt qua lãnh vực vật chất và những níu kéo của trần gian. Có lần Chúa Giêsu đã nói: Thầy đi thì có lợi cho các con hơn, bởi vì nếu Thầy không đi thì Chúa Thánh Thần sẽ chẳng đến với các con. Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đa mặc lấy con người mới. Chính Ngài cũng sẽ giúp đỡ chúng ta để biết canh tân, để biết nhìn sự việc bằng đôi mắt của Chúa Giêsu.
Bởi đó trước những khó khăn của cuộc sống thường ngày chúng ta hãy kêu cầu Ngài đến với chúng ta. Thế nhưng cho đến ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn còn là một vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất. Vậy thì Chúa Thánh Thần hiện đang nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống chúng ta?
Chúng ta đang sống trong không gian vũ trụ bao la, nên khi nói lên trời chúng ta nghĩ rằng trời LênTrời ABC-269
Chúng ta đang sống trong không gian vũ trụ bao la, nên khi nói lên trời chúng ta nghĩ rằng trời không trong không gian vũ trụ, một nơi bên ngoài trái đất này. Vì thế, khi nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” tự động cất bổng mình lên trời ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Phi hành gia Mỹ New Amstrong đặt chân lên mặt trăng đầu tiên 1930, rồi đến các phi hành gia Liên Xô khi bay ra ngoài vũ trụ đã nói rằng chúng tôi không thấy Thiên Chúa đâu hết.
Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Thánh Kinh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được bài đọc 1 kể lại là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, tức là nhân tính của Chúa Giêsu được tôn vinh hay nói cách khác, được vào trong vinh quang Chúa Cha, được ngồi bên hữu Chúa Cha. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai”.
Cho nên, lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan giữa ta với Ngài. Chúa về trời là có nghĩa rằng ta không còn thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin thế nên, Chúa Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) là vậy đó!
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh, hôm nay Ngài được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Cho nên, Chúa về trời là bảo chứng rõ ràng nhất cho hy vọng của chúng ta đó là: được lên Thiên Đàng và hưởng vinh quang với Chúa Giêsu. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Qủa thế, cuộc sống này không có gì là đời đời, không có gì là vĩnh viễn mà chỉ sự sống lại, sự sống hạnh phúc bên Chúa trên trời mới là đời đời, muôn năm hay vĩnh viễn mà thôi.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Vì thế, Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, thấy được. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).
Rõ ràng, Chúa lên trời trước mặt các môn đệ và thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian khi các ông còn ở trần gian này và sẽ đồng hành với các ông mọi ngày cho đến tận thế. |Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng quê hương chúng ta ở trên trời nên chúng ta hãy tìm kiếm những sự trên trời (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta. Cho nên, trước khi lên trời, Chúa Giêsu sai mọi người vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16,15-18). Vì thế, cho đến ngày nay, Giáo Hội cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Chúa lên trời, Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta nhưng ở với chúng ta mọi ngày, mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này là: yêu thương, tha thứ, sống Phúc âm trong đời sống gia đình, giáo xứ hay xã hội và loan báo Tin Vui cứu độ cho mọi người để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón tất cả mọi người chúng ta lên trời về với Chúa Cha. Amen.
“Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). “Người được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9).
Biến cố thăng thiên đã được các thánh sử nhắc lại như một khẳng định chắc thực về việc Đức Giê-su LênTrời ABC-270
Biến cố thăng thiên đã được các thánh sử nhắc lại như một khẳng định chắc thực về việc Đức Giê-su đã sống lại và đã ngự trị trong Nước vinh quang của Cha. Biến cố này cũng nhắc nhở rằng Ngài đã được phong là Chúa (Kyrios), là Đấng Kitô (Christos), là Vua (Messia) vinh hiển, vì Ngài đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh thiên sai, như Ngài đã nói trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, “Thế là đã hoàn tất” (Gio 19, 20). Chúa đã hoàn tất sứ mệnh cực kỳ gian khổ nhưng đầy vinh quang của Ngài và từ nay sứ mệnh ấy sẽ được trao phó lại cho Cộng đoàn thừa sai mà Ngài đã thiết lập. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần...” (Mt 28,19).
Có thể các môn đồ của Đức Giê-su ngỡ ngàng và hụt hẫng trước việc Chúa “ra đi” trong biến cố “thăng thiên” này, nhưng hơn ai hết các ông sẽ hiểu rằng Chúa “ra đi” thì có lợi cho họ, và rằng Ngài “đi” nhưng không rời xa họ, Ngài luôn hiện diện với họ cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20). Sứ vụ của Chúa chỉ kéo dài hơn 30 năm tại thế, nhưng sứ mệnh của Hội thánh thừa sai thì kế tục mãi đến ngày Quang Lâm của Chúa. Chính vì lí do đó mà Chúa rất quan tâm gầy dựng một Cộng đoàn thừa sai hoạt động thật hữu hiệu, thật chuyên cần và thật khẩn thiết.
Từ biến cố thăng thiên của Đức Giê-su, người Ki-tô hữu chúng ta có thể nhận ra 3 vấn đề liên quan sứ mệnh truyền giáo.
* MỖI NGƯỜI TÍN HỮU LÀ MỘT TÔNG ĐỒ.
Tông đồ là người được sai, nghĩa là nhà truyền giáo. “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực của họ và tùy nhu cầu của thời đại ” (Vat. II, LG 33). Vậy đã rõ, người Ki-tô hữu chúng ta không phải chỉ lo “có đạo, giữ đạo” cho riêng mình mà còn có nghĩa vụ và bổn phận “tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội” nữa. Khi tham gia như thế, chúng ta không chỉ “làm tín hữu” mà còn làm người tông đồ, làm sứ giả Tin Mừng Đức Ki-tô...
Tuy nhiên, trước khi bắt tay vào công cuộc truyền giáo cách cụ thể, chúng ta được mời gọi đốt nóng lên nỗi băn khoăn thao thức muốn truyền giáo và sống đời truyền giáo. Quả vậy, chúng ta chưa thực sự truyền giáo nếu chúng ta chưa ước muốn truyền giáo, chưa cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, chưa hi sinh cho sứ mệnh loan báo Tin Mừng...Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giê-su được tôn phong là “Bổn mạng các xứ truyền giáo” không do những công trình truyền giáo vĩ đại mà là do những thao thức “muốn đi truyền giáo” khắp nơi trên thế giới. Ngài truyền giáo bằng đời sống hi sinh âm thầm, bằng kinh nguyện liên lỉ và bằng ước muốn sâu xa từ trong cõi lòng.
Ước nguyện truyền giáo của chúng ta phải xuất phát từ nhận thức rằng truyền giáo là ơn gọi của mỗi người tín hữu, “Tất cả các phần tử trong Hội Thánh mỗi người mỗi cách đều được sai đi. Ơn gọi Ki-tô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm làm cho Nước Đức Ki-tô mở rộng trên khắp hoàn cầu được gọi là việc tông đồ” (x. GLHTCG số 863).
* TẤM GƯƠNG CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO.
Việc truyền giáo khởi sự từ chính bản thân người truyền giáo. “Ngày nay người ta sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy” (ĐGH Phaolô VI), câu nói này thường được nhắc đi nhắc lại nhằm giúp chúng ta khẳng định là “lời nói” không quan trọng bằng “tấm gương sống” của chứng nhân. Chính Chúa Giê-su cũng đã nhắc nhở: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Ki-tô hữu là ánh sáng, là muối, là men cho mọi tầng lớp con người chưa nhận biết Tin Mừng. Thế giới ngày nay khát khao những tấm gương chứng tá Tin Mừng cứu rỗi do Chúa loan truyền. Tấm gương về bác ái công bình, về lòng bao dung tha thứ, về sự hi sinh quên mình phục vụ, về nếp sống nghèo khó, tín thác và vâng phục, về thái độ dám nói “không” với đủ mọi loại tội.
Theo dõi tin tức trên báo chí hằng ngày, chúng ta rất dễ dàng thấy rằng con người ngày nay, kể cả lớp trẻ tuổi niên thiếu, đã thực sự đánh mất cảm thức về tội. Tội giết người, tội dâm ô, tội loạn luân, tội lường gạt, tội vô cảm, tội trộm cắp, tội tham ô, tội bạo hành trong gia đình, tội phá thai, tội tôn thờ bản thân và thần thánh hóa ngẫu tượng vv...Thực tế là chúng ta sẽ mãi mãi phải sống chung với tội, như người ta chấp nhận sống chung với lũ, với bão, với ngập lụt, với nạn kẹt xe, với tình trạng ô nhiễm môi trường... Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, một mặt chúng ta không bao che, không đồng lõa với tội vì chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, một mặt chúng ta phải vươn cao, đứng thẳng hiên ngang làm chứng cho Tin Mừng như ngọn nến sáng trong đêm tối mịt mờ.
Có thể chúng ta sẽ không thể “nói” được nhiều, nhưng nhờ ơn Chúa, bản thân chúng ta sẽ trở thành tấm gương phản chiếu một góc độ nào đó của Tin Mừng Đức Ki-tô. Thực vậy, “Truyền giáo không chủ yếu là chuyển giao một lý thuyết, mà là chia sẻ một sự sống thiêng liêng có sức biến đổi con người nên người hơn và được trở thành con của Thiên Chúa Tình Yêu” (ĐGM GB Bùi Tuần, bài “Ra khơi từ đâu?”, tháng 2-2004). Tất cả chúng ta, một khi đã tin và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thì trở thành con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống tốt địa vị ấy, chúng ta sẽ là nhà truyền giáo có sức lôi cuốn đặc biệt và gây ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi ngày nay, người ta sống thiếu thốn tình thương và hạnh phúc, thiếu vắng bình an và hi vọng. Bản thân và đời sống Ki-tô hữu sẽ trở thành chứng tá sống động của Tin Mừng một khi mỗi người chúng ta tích cực thực thi Lời Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau ” (Gio 13, 34-35).
Ngược lại, “Trong đời sống thường ngày cũng có câu truyện thương tâm: một cô ngoại giáo lấy ngươì công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp nết, giục cô ta vào đạo Chúa. Cô ta trả lời: Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào. Tìm hiểu, người ta biết được bà mẹ chồng rất siêng năng đọc kinh, dự lễ, đã từng bỏ ra chục triệu cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang (nhà) giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo”. (Lm. FX. Nguyễn Hùng Oánh, “Bản chất của GH là truyền giáo”, VietCatholic News 18-10-2008).
* CHÚA LÊN TRỜI, MÔN ĐỆ VÀO ĐỜI.
Vào đời để nối tiếp công trình cứu độ của Chúa Giê-su. Vào đời, đó là mệnh lệnh của Chúa. Vì, như Chúa Cha đã sai Đức Giê-su thế nào, thì Chúa Con cũng sai chúng ta như vậy. Với ơn Chúa mà chúng ta cầu xin hằng ngày, với đức tin mà chúng ta nuôi dưỡng từ tấm bé đến giờ, với lòng mến mà chúng ta luyện tập thường xuyên, chúng ta sẽ mạnh mẽ và vững vàng bước vào cánh đồng truyền giáo bao la mà Chúa đang mong đợi chúng ta đến.
Theo ĐGH Gioan Phaolô II, cánh đồng truyền giáo ấy muôn dạng muôn vẻ, nhưng có thể đúc kết thành 3 nhóm: Nhóm những người chưa biết, chưa tin Đức Giê-su Ki-tô; Nhóm những người đã tin Đức Giê-su Ki-tô và đã lãnh nhận bí tích rửa tội, nhưng đã đánh mất niềm tin, rời bỏ Giáo hội, đang sống như người lương dân; Nhóm những người tin Đức Giê-su Ki-tô và đã được rửa tội (Nguyễn Văn Nội, “Loan báo Tin Mừng”- Hưởng ứng thư Mục Vụ 2003 của HĐGMVN, phần VI “Tông đồ giáo dân”).
Vậy tùy theo hoàn cảnh, điều kiện và môi trường cụ thể, chúng ta sẽ vận dụng sáng kiến và khả năng mình có để làm chứng Đức tin Ki-tô giáo và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Dù ở đâu và vào thời điểm nào, chúng ta vẫn cần phải tạo nên bầu khí bác ái cho truyền giáo và chính bản thân chúng ta luôn là dấu chỉ của lòng mến Ki-tô giáo. Sự hiện diện của tông đồ giáo dân ở khắp nơi, trong mọi thời, vừa mang tính chứng tá lại vừa được xem như công cụ giới thiệu Tin Mừng cho nhân loại.
“Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự Phục sinh và sự sống của Chúa Giê-su Ki-tô, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới này bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gl 5,22) và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5,3-9). Tóm lại, người Ki-tô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống” (Vat II, LG 38).
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Việc Đức Giêsu lên trời đã chấm dứt LênTrời ABC-271
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Việc Đức Giêsu lên trời đã chấm dứt cuộc đời trần thế và sứ mạng của Ngài trên trần gian theo ý muốn của Chúa Cha.
Tuy nhiên, sứ mạng ấy tiếp tục được chuyển trao cho các Tông đồ là những chứng nhân của tất cả những gì đã thấy và đã cảm nghiệm, để các ông ra đi làm chứng nhân cho Ngài.
Sứ mạng ấy cũng được trao phó cho mỗi người chúng ta trong vai trò là người thuộc về Đức Kitô.
1. Ý nghĩa của việc Đức Giêsu lên trời
Sự kiện Đức Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26).
Việc Đức Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần thế. Nhưng qua đó, Đức Giêsu hiện diện cách phổ quát: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Ngài hiện diện nơi Lời của Ngài và trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội và nơi các chứng nhân. Vì thế, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo Hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc cảm nghiệm, loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.
2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời
Đức Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), để “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết! Bởi lẽ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (x. Ga 17,18; 20,21).
Vì thế, khi Đức Giêsu đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh; Đấng là đường, là sự thật và là sự sống; Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.
Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em; một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất; một Giáo Hội công bằng, nhân ái.
3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta
Lời của Đức Giêsu khi xưa nhắn gửi các Tông đồ: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (x. Cv 1,8) cũng là lời mời gọi cho mỗi người Kitô hữu hôm nay.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Đức Giêsu. Công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Đức Giêsu đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: “Tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm chèo thuyền ra chỗ “nước sâu” để thả lưới...; cũng như tiến ra những vùng “ngoại biên” để đem Ánh Sáng Lời Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa.
“Nước sâu” ở đây chính là những nơi tội lỗi, gian tham, lọc lừa. Nó cũng là thái độ của những con người thù ghét, cấm cách, bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu hay là một thái độ thờ ơ, lãnh đạm với niềm tin Kitô Giáo.
Còn “ngoại biên” chính là những người vô gia cư; trẻ em mồ côi, những cụ già không nơi nương tựa... những người đói khát bần cùng, những người không có tiếng nói...
Những nơi ấy, rất cần các Kitô hữu can đảm, trung thành, bất chấp khó khăn, thử thách, để sẵn sàng làm chứng cho sự thật, công bằng. Mặt khác, nơi tâm hồn người tông đồ phải luôn mang trong mình trái tim của chính Thiên Chúa, để lòng thương xót của Ngài được lan tỏa đến những con người kém may mắn đang sống ở bên lề xã hội.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã trao phó cho các Tông đồ và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa trong lòng xã hội hôm nay, dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.
Khi sai Con của mình xuống trần gian, Thiên Chúa Cha đã có một kế hoạch đầy yêu thương dành LênTrời ABC-272
Khi sai Con của mình xuống trần gian, Thiên Chúa Cha đã có một kế hoạch đầy yêu thương dành cho nhân loại. Mục đích của kế hoạch ấy chính là quy tụ muôn người về một mối trong Nước Trời. Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã loan báo về Nước Trời và triều đại của Thiên Chúa; chiêu mộ và huấn luyện các môn đệ; thiết lập Giáo Hội… ; và cuối cùng, Ngài đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Khi đã kết thúc cuộc sống tại thế, Ngài được Thiên Chúa Cha ân thưởng vinh quang trên Nước Trời.
Nhưng, trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuyển trao cùng một sứ vụ ấy cho các môn đệ, để các ông tiếp tục loan báo về Nước Thiên Chúa cho mọi người.
1. Chuyển giao sứ vụ cho các môn đệ
Giờ đã điểm, Đức Giêsu đã hẹn: “Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông” (Mt 28,16).
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu, chẳng ai bảo ai: “Các ông phục lạy Ngài” (Mt 28,17).
Khi phục lạy như thế, các môn đệ muốn bày tỏ sự hiểu biết của mình về Đức Giêsu. Vì khi phục lạy ai thì nơi người ấy phải tôn nhận uy quyền với người mình phục lạy.
Hành vi này chúng ta cũng đã thấy nơi ba nhà Đạo Sĩ khi gặp được hài Nhi Giêsu, các ông đã phục lạy và tôn nhận vương quyền của Ngài (x. Mt 2,11). Hay như những người bị bệnh mà được Đức Giêsu chữa lành, trong số đó phải kể đến người phong hủi được lành sạch (x. Mt 8,2). Hôm nay, đứng trước sự huy hoàng của vinh quang phục sinh nơi Đức Giêsu, và hơn thế nữa, các ông nhận thấy mọi quyền năng, vinh quang và danh dự được trao ban cho Đấng Phục Sinh, vì vậy, các ông đã phục lạy Ngài.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã tiến lại gần họ và phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28,18). Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu chính thức chuyển trao sứ vụ của Ngài cho các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trong tương lai.
Vì thế, sau khi nhận lãnh, các ông có trách nhiệm loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Như một lời trấn an trước nghĩa vụ quan trọng mà các ông vừa nhận được, ĐỨc Giêsu đã nói:”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).
Tuy nhiên, dù về trời, nhưng Đức Giêsu vẫn hiện diện cách vô hình, và sứ vụ của các môn đệ luôn luôn có sự đồng hành của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Điều này đã xác tín mạnh mẽ về sự hiện diện của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Đây là niềm vui mừng và động lực mạnh mẽ để các ông ra đi thi hành sứ vụ.
Sau những giây phút chứng kiến cảnh huy hoàng cũng như lãnh nhận sứ vụ, các ông hân hoan trở về để cùng nhau xây dựng và phát triển Giáo Hội. Nhất là loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần, kêu gọi mọi người sám hối và lãnh nhận phép rửa để được cứu độ.
2. Chúa lên trời – ta vào đời
Cùng một sứ vụ mà Đức Giêsu đã trao phó cho các môn đệ, hôm nay, Ngài cũng trao phó cho mỗi người chúng ta.
Lời thiên thần nhắc các môn đệ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1,11) cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta.
Chúa lên trời là niềm hy vọng cho chúng ta, vì Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thánh Phaolô cũng đã xác tín khi nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Tuy nhiên, chúng ta không chỉ giữ niềm hy vọng ấy cho riêng mình. Chúng ta cũng không chỉ dừng lại ở việc tin vào lời Đức Giêsu đã truyền dạy, nhưng chúng ta cũng phải loan báo cho nhân loại về niềm hy vọng và niềm tin mà chúng ta đã nhận được. Để qua đó: chúng ta hãy đi “và làm cho muôn dân thành môn đệ” (Cv 1,11).
Nhưng, điều quan trọng, đó là chúng ta loan báo Tin Mừng bằng cách nào?
Lời Đức Giêsu hôm nay đã vạch ra cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta kế hoạch truyền giáo để cho có hiệu quả như:
Trước tiên là: “Hãy đi giảng dạy muôn dân”. Lời rao giảng rất cần thiết, vì như thánh Phaolô đã nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Tuy nhiên, nếu chỉ rao giảng không thôi thì chưa đủ, mà lời rao giảng quan trọng và hùng hồn nhất là bằng đời sống của người loan báo. Chính lời nói và hành động ăn khớp với nhau làm nên sự thống nhất nơi người môn đệ, và như thế, lời loan báo mới khả tín, đáng tin và đem lại niềm hy vọng cho người nghe.
Thứ đến là: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu cho thấy: Ba Ngôi chính là nội dung và cùng đích của lời rao giảng. Mọi hành vi khi thi hành sứ vụ loan báo Lời Chúa phải quy hướng về Ba Ngôi như là nguồn cội. Tách ra khỏi điểm tựa này, chúng ta sẽ bị rơi vào trạng thái vô định mất phương hướng.
Tiếp theo là: “Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Người môn đệ chỉ là người được sai đi để quy tụ muôn dân về với Đấng đã sai mình. Vì thế, không phải nhân danh cá nhân của mình để phô trương tài cán công lao của bản thân, mà ngược lại, phải trung thành loan báo chính lời của Thầy Giêsu. Chỉ khi nào chúng ta loan báo Lời Chúa cách trung thực, thì bản thân người loan báo mới cảm nhận được hạnh phúc và người nghe mới thấy được niềm hy vọng.
Mặt khác: nội dung của lời rao giảng chính là: “Loan báo về một Vị Thiên Chúa nhân từ, giàu long thương xót với hết mọi người. Ngài đến để yêu họ và yêu đến cùng, nên đã chết thay cho nhân loại để nhân loại được sống và sống dồi dào”. Vì thế, trước, trong và sau khi loan báo, chúng ta hãy: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chúng ta như chính mình”. Làm được điều đó, lời rao giảng của chúng ta mới thành công, nếu không, mọi lời rao giảng chỉ như chiếc phèng la điếc tai thiên hạ mà không có kết quả.
Cuối cùng, trong mọi biến cố của cuộc đời, nhất là mọi thăng trầm của công cuộc loan báo Tin Mừng, chúng ta an vui và vững bước vì có Đức Giêsu luôn ở cùng để bảo vệ, nâng đỡ như lời Ngài đã phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội chọn làm ngày quốc tế truyền thông. Khi chọn như vậy, Giáo Hội đề cao vai trò của truyền thông trong việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, chúng ta hãy biết tận dụng và chắt lọc khi sử dụng những phương tiện truyền thong như: ti vi, báo đài, điện thoại, Internet và các mạng xã hội toàn cầu để loan báo Lời Hằng Sống cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn hướng lòng lên trời, để ái mộ những sự trên trời. Ngõ hầu mai ngày chúng con cũng sẽ được hưởng trọn vẹn niềm vui Nước Trời. Amen.
--------------------------------
LênTrời ABC-273: Chúa về trời, con vào đời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để làm chứng về Đức-Kitô LênTrời ABC-273
Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để làm chứng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Ngài. Chúa Giêsu về trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về trời. Với hy vọng đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.
Theo sách Công vụ Tông đồ (Cv 1:1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Chúa.
CHÚA VỀ TRỜI
Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).
Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Bó tay! Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1:11).
Chúa đi rồi chắc hẳn các ông buồn lắm, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Đại Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người mà! Đại Sư Phụ biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng.
Từ khi phục sinh, Chúa Giêsu không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sống lại và về trời với Ngài. Vì thế: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:9).
Vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần tác động. Chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ…
CHÚNG TA VÀO ĐỜI
Thánh Phaolô nói: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4:1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự cho rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Chúa, mọi người đều bình đẳng!
Bằng nhau ư? Đúng, vì “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4:4). Đặc biệt là “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý.
Thánh Phaolô dẫn chứng rất lạ: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4:8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.
Ý Chúa quá mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn. Ai cũng làm giám đốc thì lấy đâu có công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy đâu nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Vì Chúa Giêsu đã xác định: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta thích làm ngược lại. Đừng khinh suất hoặc ảo tưởng! Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4:12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai.
Chúa Giêsu sai mọi người vào đời khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16:15-16). Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18).
Thánh Máccô kể: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Lạy Chúa, xin thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Cây Thánh Giá có hai chiều ngang dọc. Chúa xuống thế theo chiều dọc. Ngài đã đi giữa cuộc đời LênTrời ABC-274
Cây Thánh Giá có hai chiều ngang dọc. Chúa xuống thế theo chiều dọc. Ngài đã đi giữa cuộc đời theo chiều ngang, rồi lại về Trời theo chiều dọc thẳng đứng. Hành trình dương thế của mỗi tín hữu được ghi ấn tín là Thánh Giá Chúa Kitô trên thân mình, trong cuộc đời, hẳn phải bước theo sát dấu chân, theo đúng hành trình Chúa Kitô. Với xác tín ấy, mỗi tín hữu không thể muốn bay lên Trời theo chiều dọc, mà lại không muốn đi ra khỏi lâu đài của mình theo chiều ngang để đến với tha nhân, với cuộc đời.
Chúa Giêsu đã lên Trời, về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trên ngai tòa với vương quyền thống trị cả vũ hoàn, đại đế khắp trên trần gian… ( Tv 46 ). Thế thì, những tưởng nhắc lại chuyện Thánh Giá của Chúa Kitô có phải là chuyện không hợp thời chăng? Hay là nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng cho thân phận Con Thiên Chúa?
Thiết tưởng, trình thuật về biến cố lên Trời của Chúa Giêsu hôm nay qua nét bút của Thánh Marcô, trình bày một bức họa sống động: Bức Họa Thánh Giá.
Có phải thế không? Ô kìa! Chúa Giêsu lên Trời, một chiều thẳng đứng, và các Tông Đồ ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng theo chiều ngang. Như thế không phải đã tạo nên một bức họa Thánh Giá tuyệt vời ấy sao? “Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên Trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” ( Mc 16, 20 ).
Sẽ không còn là chuyện tưởng tượng hay ảo tưởng, nhưng là một sự thật từ căn tính của biến cố lên Trời: Chúa Giêsu Lên Trời, Chúa không bảo các Tông Đồ “hãy cùng lên Trời với Ta”, nhưng lại bảo các Tông Đồ “hãy ra đi rao giảng Tin Mừng”.
Vậy, muốn bay lên tới tận Trời hãy bay ra khỏi lòng mình mà đi tới với mọi người, mời gọi mọi người và cùng mọi người bay lên tới cõi cao siêu, nơi gặp gỡ Tình Yêu Thiên Chúa. Đó cũng chính là sứ điệp Tin Mừng hôm nay: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.” Đó không phải là thông điệp nhắc tới mầu nhiệm Thánh Giá sao?
Nếu trước đây đời sống đạo đức của Giáo Dân chỉ theo một chiều dọc là hướng lòng lên tới Thiên Chúa, ái mộ những sự trên Trời, và có thể đã xếp lệnh truyền ra đi theo chiều ngang là hàng thứ yếu, thì hôm nay, đã có bao tín hữu thực hiện vừa song toàn vừa cân đối lại vừa đúng thánh ý Chúa hơn: Quan tâm đến cuộc sống đời thường của tha nhân, làm cho cuộc sống ấy nên hoàn thiện hơn, và cùng tha nhân hướng về Quê Trời: cốt lõi của việc Rao Giảng Tin Mừng.
Quan tâm đến đời thường, quan tâm đến tất cả chiều kích làm nên cuộc sống phàm tục của mỗi con người. Cuộc sống ấy có xác có hồn, có tương quan nhân vị và có tương quan siêu nhiên, vô hình. Tạm gọi là đời thường, vì cái nhìn quá xoàng thường dành cho một hành trình dương thế vẫn cụ thể nơi chúng ta, mà quên rằng, giá trị vĩnh cửu bắt nguồn từ cuộc vượt qua những điều xoàng thường ấy. Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo đã mở ra cho mọi người một hướng đi ra với chiều ngang cần thiết cách cấp bách nhất, hướng tới những điều tưởng như rất xoàng thường, nhưng xác tín có sự can thiệp của Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí, làm cho những điều xoàng thường ấy trở nên bậc thang của đường lên Trời.
Vì thế, việc cần thiết thể hiện sự quan tâm ấy không cho phép chúng ta đứng hay ngồi yên vị một chỗ ở trên cao mà ngó xuống, một chỗ êm ấm trong nhà ngó ra, một chỗ ích kỷ trong lòng mình không thèm ngó ra hay ngó xuống… mà phải thực hiện ngay một cuộc vi hành cần có, vi hành đến tận hang cùng ngõ hẻm, đến tận vực sâu xoàng thường nhất trong thiên hạ, trong cõi nhân sinh. “Các con hãy đi khắp thế gian…”
Muốn đi khắp thế gian hẳn phải ra khỏi vỏ ốc của mình. Trong cái vỏ ốc ấy chứa đựng biết bao là định kiến, kỳ thị, phân cấp, óc thống trị, quyền bính… nhưng cũng chứa đựng cả sự lười lĩnh, nhát đảm, sợ hãi, ngại khó, lòng tham, vô cảm…
Những thứ lỉnh kỉnh trong cái vỏ ốc ấy cứ như những gông cùm, xiềng xích nó trói con người ta lại không cho bước ra, huống chi chuyện cất bước lên đường? Kẻ này nhìn người kia, người kia nhìn kẻ nọ, thấy ai cũng yên vị trong pháo đài, trong lô cốt mà giữ cái đạo chiều dọc của mình, làm phát sinh sự thiếu vắng trầm trọng những gương mẫu chiều ngang cần thiết của việc “Ra Đi Loan Báo Tin Mừng”.
Con số các tín hữu Công Giáo khiêm tốn trên tổng dân số Việt Nam là con số biết nói hai điều: một là chúng ta đã có một thời tự thu mình trong cái vỏ ốc cầu an, hai là đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi cái vỏ ốc ấy để đối diện với một toàn cảnh xã hội đang có nguy cơ xóa nhòa ảnh hưởng của Tin Mừng, và khẩn cấp khơi dậy ý thức “Ra Đi” cho đúng nghĩa lệnh truyền Chúa Giêsu. Việc ra khỏi vỏ ốc của mình mà đến với tha nhân, đồng nghĩa với việc thiết lập một Thánh Giá mới trên cuộc đời mình, và đó là bảo chứng cho một niềm hy vọng được lên Trời của chính mình hôm nay và mai sau.
Làm cho cuộc sống của tha nhân nên hoàn thiện đòi hỏi phải chấp nhận không ít những gian lao đau khổ, thậm chí có thể phải hy sinh cả danh dự, hy sinh cả sự nhàn nhã, yên ổn, hy sinh cả quyền cao chức trọng, hy sinh cả tánh mạng… Và đó lại là yêu cầu chính yếu của lệnh truyền: Hãy ra đi loan báo Tin Mừng. Tự việc ra khỏi vỏ ốc lòng mình đã là một chặng đường từ Thập Giá đến Thánh Giá.
- Trước tiên hoàn thiện phẩm vị làm con cái Thiên Chúa. Vâng, có thể thấy: đang có những người chưa tin vào Thiên Chúa. Có người chống lại Thiên Chúa. Có người tin Thiên Chúa nhưng không tin người có đạo. Cũng đang có những người có đạo, nhưng không giữ luật Chúa, giữ luật Giáo Hội như bạn, như tôi và có thể như hết thảy chúng ta.
Sứ điệp ra đi hẳn đang mời mỗi chúng ta phải là người trước tiên giữ luật Chúa, giữ luật Giáo Hội, để tha nhân nhìn thấy cuộc sống của chúng ta mà ngợi khen Cha trên Trời. Bởi người ta không tin hoặc chống lại Thiên Chúa cũng là do một phần cuộc sống của chúng ta cũng không hay ho tốt lành gì, không là họa ảnh xinh đẹp của những người làm con Chúa, không là họa ảnh là anh cả anh hai con lớn của Chúa trong đoàn chiên, không là họa ảnh tốt lành của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và công minh chính trực.
Đức Tin Cậy Mến và đời sống chân chính sẽ là gương phản chiếu ánh sáng Tin Mừng vào bóng tối trần gian. Thánh Phaolô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không Rao Giảng Tin Mừng” nhưng thiết nghĩ còn “khốn cho tôi hơn nếu tôi không sống Tin Mừng”. Vì thứ nhất, tôi chẳng được phúc gì cho tôi, và thứ hai chẳng đem được phúc gì cho người, cho đời. Không ai có thể cho cái mình không có.
Ngày nay, nhiều tín hữu đã ý thức hơn về sứ mệnh Loan Báo Tin Mừng. Họ gia nhập đoàn này, hội nọ với mục đích thánh hóa bản thân và loan báo Tin Mừng, tự hoàn thiện chính mình và hoàn thiện tha nhân. Đó là tín hiệu đáng vui mừng cho Giáo Hội. Tuy nhiên họ cũng gặp không ít những cản trở, khi chưa có một sự đồng thuận, nhất tâm chung trong mọi thành phần Dân Chúa.
Hai hội viên Legio hướng đến một người bỏ xưng tội lâu năm chỉ vì bất mãn một cha xứ. Họ cầu nguyện chung, riêng. Họ đi thăm năm lần bảy lượt đến mòn đường chết cỏ. Họ tìm đủ cách khuyên giải để một hối nhân trở về với Thiên Chúa, qua Tòa Cáo Giải. Họ vui mừng vì đương sự đã thành tâm tha thiết trở về. Họ gõ cửa cha xứ xin cho hối nhân xưng tội. Và điều gì đã xảy ra? Có người được xưng tội ngay, bất cứ giờ nào, ra về lòng thanh thản. Có người bị từ chối ngay vì đến không đúng giờ giải tội, quay đi thấy tủi thân, càng bất mãn hơn!
- Và sau đó làm cho hoàn thiện phẩm giá làm người, có nhân vị, có tự do, có chính nghĩa, có luân thường đạo lý, có công lý, có đạo đức… xứng với Tin Mừng Chúa dạy.
Thật đáng tiếc, có quá nhiều minh họa cụ thể trong muôn vàn bức tranh tương phản, bất nhất trong Giáo Hội hôm nay: Thiếu vắng sự “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” giữa Giáo Dân và Giáo Sĩ, thiếu vắng sự hướng dẫn, cỗ vũ, trợ giúp khi Giáo Dân làm Tông Đồ trong thế giới ngày nay giữa muôn vàn làn tên mũi đạn của những bất công gian dối, bạo lực côn đồ, thiếu vắng chỗ dựa vững chắc nơi cây cao bóng cả, lại còn bị cho là “bao đồng” làm mất ảnh hưởng, mất thế giá của hàng Giáo Sĩ, của Giáo Hội. Hoặc kẻ nào hăng say dấn thân bênh vực cho Công Lý của Chúa, hăng hái bước ra và bước đi đến mọi cảnh ngộ gian trần bất kể là ở đó có kẽm gai, có dùi cui, có lựu đạn cay, có hàm oan tù tội… thì lại bị chính anh em cho là kẻ dại dột, thiếu khôn ngoan, liều lĩnh, và thế thì… “sống chết mặc bay”!
Lời Chúa hôm nay củng cố cho mỗi chúng ta một xác tín: chỉ có khi nào thực sự bước đi theo con đường của Chúa là đưòng đến với trần gian và làm cho trần gian nên hoàn thiện mới là con đường đích thực lên Trời.
Con đường của Chúa Giêsu không phải là con đường ẩn mình trong cái vỏ ốc cầu an, nhưng là con đường đi ra với tha nhân và đi lên với Thiên Chúa: Con đường Thánh Giá.
Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa đang thôi thúc chúng con thánh hóa bản thân và ra khỏi cái ích kỷ của mình để làm chứng cho mọi người biết rằng: chân lý của Chúa Giêsu phải là chân lý toàn thắng.
Xin cho chúng con biết ngưỡng vọng lên Trời, về cuộc sống vĩnh cửu bằng chính sự quan tâm đến đời thường hôm nay, và nhờ ơn Chúa, hoàn thiện đời thường của mình và của mọi người. Amen.
Đức Giêsu đã từng ở trên trời trước khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu độ LênTrời ABC-275
Đức Giêsu đã từng ở trên trời trước khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài lại lên trời. Nước Trời cũng là quê hương của mỗi người chúng ta. Vậy, chúng ta phải làm gì để được lên Trời?
1. Đức Giêsu đã lên trời
Thật vậy, Đức Giêsu đã về trời. Sau khi sống lại, Ngài nói với bà Maria Mađalêna đi báo tin cho các Tông đồ rằng: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Sau đó, Ngài đã về trời thực sự. Tin mừng hôm nay cho biết: “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.”(Mc 16, 19). Sách công vụ Tông đồ cũng khẳng định: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.” (Cv 1,9). Vì thế, sự kiện Đức Giêsu lên trời là sự kiện lịch sử, là niềm tin của mỗi người kitô hữu chúng ta. Niềm tin đó được chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
2. Nước Trời cũng là quê hương của chúng ta
Ở trần gian này, mọi người chúng ta đều có một quê hương, đó là nơi chúng ta sinh ra. Nhưng quê hương ở trần gian này chỉ là “quán trọ”, là nơi tạm bợ. Nước Trời mới là quê hương thật của chúng ta, là nơi chúng ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Vì thế, ngày lễ hôm nay không những chúng ta mừng kỷ niệm Đức Giêsu lên trời mà còn nhắc nhở chúng ta nhớ tới Nước trời là quê hương thật của chúng ta để chúng ta chuẩn bị cho ngày được hưởng hạnh phúc viên mãn đó.
3. Chúng ta phải làm gì để được lên Trời.
Để được lên Trời, chúng ta cần chuẩn bị hành trang. Hành trang đó được thể hiện qua những việc làm cụ thể sau đây:
Thứ nhất, phải luôn sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa qua đời sống hằng ngày. Mặc dầu Đức Giêsu đã lên Trời nhưng Ngài vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến Tận thế. Ngài hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau: Ngài hiện diện cách thiêng liêng mọi nơi mọi lúc; Ngài hiện diện qua Giáo hội nơi các vị đại diện của Ngài ở trần gian này: Đó là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các linh mục; Ngài hiện diện qua Lời Chúa được viết lại trong cuốn Kinh Thánh; Ngài hiện diện qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể; Ngài hiện diện qua những người nghèo khó; Ngài hiện diện khi chúng ta họp nhau cầu nguyện…Vì thế, muốn được lên Trời cần phải sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa mọi nơi mọi lúc: qua Lời Chúa, qua Giáo hội, qua các Bí tich, qua người nghèo khổ và qua đời sống cầu nguyện.
Thứ hai, phải biết chu toàn bổn phận hằng ngày. Đó là bổn phận làm người, bổn phận làm con Chúa, bổn phận của đấng bậc mình. Đó là bổn phận vợ chồng, cha mẹ, con cái, giáo dân, tu sĩ, linh mục, giám mục, giáo hoàng. Đó là bổn phận học sinh, giáo viên, công nhân, bác sĩ… Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27).
Thứ ba, phải biết loan báo Tin mừng. Trước khi về trời, Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Không phải ai cũng có thể loan báo Tin mừng trực tiếp như các nhà truyền giáo, nhưng ai trong chúng ta cũng có thể loan báo Tin mừng gián tiếp bằng đời sống chứng tá của mình. Đặc biệt trong thời đại ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể loan báo Tin mừng bằng truyền thông. Trong thông điệp ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 52, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người phải truyền thông sự thật và biết ngăn chặn các “tin giả”. Ngài nói: “Trong một thế giới truyền thông và kỹ thuật số thay đổi nhanh chóng hôm nay, chúng ta đang chứng kiến sự lan tràn của cái được gọi là ‘tin giả’. Điều này buộc ta phải suy nghĩ, và đó là lý do tại sao trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông năm nay, tôi quyết định trở lại với vấn đề sự thật, là điều đã được các vị tiền nhiệm của tôi lặp đi lặp lại, bắt đầu từ Đức Phaolô VI, trong Sứ điệp năm 1972 với chủ đề: ‘Truyền thông xã hội phục vụ Chân lý’. Bằng cách này, tôi muốn góp phần vào sự dấn thân chung nhằm ngăn chặn sự lan rộng của tin giả và tái khám phá phẩm giá của báo chí và trách nhiệm cá nhân của các nhà báo trong việc truyền thông sự thật.” Từ thông điệp của Đức Giáo Hoàng trên đây cho chúng ta thấy, khi chúng ta góp phần ngăn chặn ‘tin giả’ và biết truyền thông sự thật cũng là cách thức truyền giáo cho người hôm nay. Vì làm như thế là chúng ta đang làm chứng cho Sự Thật, mà Sự Thật là chính Chúa như lời Đức Giêsu đã từng nói: “Ta là sự thật” (Ga 14,6).
Thứ tư, phải biết sống bác ái yêu thương. Vì trong ngày phán xét, mỗi người chúng ta sẽ chịu phán xét về bổn phận yêu thương. Vị Thẩm phán sẽ dựa vào việc ta làm hay không làm đối với những kẻ bé mọn để thưởng hay phạt chúng ta. Ngài đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn. Ngài nói với những kẻ lành rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”(Mt 25,34-36). Còn đối với những kẻ dữ, Ngài nói: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.”(Mt 25, 41-43).
Khi biết chuẩn bị như thế, hạnh phúc Nước Trời sẽ ở trong tầm tay của chúng ta. Ngược lại, nếu không biết chuẩn bị thì chúng ta có nguy cơ mất hạnh phúc Nước Trời.
Người ta kể rằng: Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng: Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp: Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói: Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi: Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói: Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được! (Sưu Tầm)
Thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trong câu chuyện trên đây cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta. Vậy ngày lễ hôm nay mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có bao giờ nói về Nước Trời không? Tôi có chuẩn bị hành trang cho chuyến đi cuối cùng này không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về Trời sau khi chu toàn bổn phận trần thế. Xin cho mỗi người chúng con biết chuẩn bị cho ngày về Trời với Chúa bằng cách chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình nhất là bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.
Hôm nay Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm vinh quang Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã LênTrời ABC-276
Hôm nay Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm vinh quang Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Cha Ngài ngay khi sống lại mà ta không cảm nghiệm được. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài rời bỏ chúng ta, trái lại, Ngài còn hiện diện hơn lúc nào hết giữa chúng ta ngay từ hôm nay: ”Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa về trời nhưng Ngài muốn Giáo hội – là cánh tay nối dài của Ngài - tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Ngài cho đến ngày tận thế. Nếu Chúa nói với các môn đệ ngay vào lúc từ giã họ: ”Các con hãy là những chứng nhân của Thầy cho toàn thế giới”(Cv 1,8) thì ngày nay Giáo hội cũng phải là chứng nhân trung thành của Ngài trong việc rao giảng Tin mừng, đem Chúa đến cho mọi người mọi nơi.
Ngoài ra, Thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta hướng lòng về trời là quê hương của chúng ta, nơi mà Đức Giêsu đã dọn sẵn và đang đón chờ chúng ta. Nhưng muốn về trời ta phải cố gắng sống đời chứng nhân cho tốt và chu toàn nhiệm vụ của mình theo thánh Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 1.1-11
Thánh Luca mởi đầu sách Công vụ Tông đồ bằng cách tường thuật lại cho ông Thêôphilê việc Đức Giêsu trước khi giã biệt các Tông đồ đã trao ban cho họ những huấn lệnh cuối cùng và trọng trách tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài cho thế giới. Ngài còn hứa sẽ hiện diện với các ông cho đến ngày tận thế.
Ngày Đức Giêsu về trời không phải là kết thúc công việc của Ngài, nhưng việc Ngài về trời là một khúc quặt trong lịch sử cứu độ. Ngày Chúa về trời là một trang sử mới bắt đầu: Lịch sử của hoạt động Đức Giêsu hiện diện trong thế giới và Giáo hội cùng với sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các Tông đồ họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận lời Ngài đã hứa: Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vì chưa nhận lãnh Chúa Thánh Thần nên các tông đồ chưa hiểu rõ những lời giảng dạy của Chúa, nhưng các ông sẽ hiểu rằng các ông được Chúa Kitô tuyển chọn để trở thành những chứng nhân của Ngài cho đến tận cùng thế giới.
+ Bài đọc 2: Ep 1, 17-23 Thần khí khôn ngoan mà thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Êphsêsô phải soi lòng mở trí họ “hiểu biết” kế hoạch của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể tuyên xưng lời tối thượng của Đức Kitô mà không thán phục quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa được biểu dương nơi Đấng chịu đóng đinh. Chính quyền năng ấy từ nay sẽ được thi thố nơi loài người để tạo nên một thân thể có Đức Kitô là Đầu và đạt đến sự viên mãn mà nhân loại hằng tìm kiếm. Tin vào ưu thế tuyệt đối của Đức Kitô, chính là ngay từ bây giờ góp phần vào sứ mạng của Hội thánh, là biết nhìn nhận một ý nghĩa và một nội dung cho niềm hy vọng. Trong viễn tượng này, mầu nhiệm Thăng Thiên làm cho ta hiểu rằng cùng với Đức Kitô, một kỷ nguyên mới đang được mở ra cho nhân loại.
Trước khi về trời, Đức Giêsu còn hiện ra với Mười một Tông đồ để dạy dỗ các ông những điều sau cùng. Thánh Luca thuật lại những nét chính yếu về các huấn lệnh và chỉ thị của Đức Giêsu cho các ông. Theo đó, Đức Giêsu nhắc nhở cho các ông hai điều:
a) Ngài sai các ông loan báo Tin mừng: ”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
b) Tin cậy giao phó cho các ông sứ mạng này, Đức Giêsu bảo đảm với các ông rằng Ngài sẽ mãi mãi trợ giúp họ, tăng cường lời giảng dạy của họ bằng những đặc sủng: làm phép lạ như trừ qủi, nói tiếng lạ, cầm rắn trong tay, chũa bệnh...
Các Tông đồ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan báo Tin mừng, và những lời hứa đã thành sự thật: ”Có Chúa cùng hành động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”(Mc 16,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sứ mạng loan báo Tin mừng
I. CHÚA GIÊSU VỀ TRỜI
1. Sự kiện:
Sau khi sống lại, Đức Giêsu còn ở lại trần gian 40 ngày, hiện ra với các môn đệ, dạy dỗ các ông nhiều điều mà trước đó Ngài chưa có thời giờ dạy hết. Hôm nay thánh sử Marcô cho chúng ta biết “Sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa”(Mc 16,19).
Bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay của thánh Marcô thuật lại việc trước khi chấm dứt sứ mạng ở trần gian để về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Ngài là rao giảng Tin mừng cho muôn dân.
2. Ý nghĩa việc lên trời
Việc Đức Giêsu lên trời có hai ý nghĩa hay có hai cách hiểu:
- Khi sống lại Đức Giêsu đã được tôn vinh. Cuộc tôn vinh đó đã được diễn ra chính vào lúc Chúa sống lại, Chúa lên trời ngay, giác quan không thể cảm nghiệm được, chúng ta chỉ có thể nhận thức bằng con mắt đức tin. Và sau đó, Chúa đã hiện ra với các Tông đồ nhiều lần để củng cố niềm tin của họ trong một thời gian mà sách Công vụ tông đồ xác định là 40 ngày.
- Nhưng có một dữ kiện thứ hai có tính cách lịch sử, cảm nghiệm được dựa trên chứng cứ của những người tai nghe mắt thấy, như thánh Luca cho biết: ”Vài tuần sau lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đã “được đưa lên trời” trước mặt các môn đệ”.
Mầu nhiệnm lên trời kêu gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liện hệ nhưng riêng biệt nhau: Một bên là Đức Kitô được vinh quang ngay lúc Ngài sống lại; một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:”Đức Kitô trở về nơi tối cao, nhưng vẫn ơ lại với chúng ta. Và cũng như chúng ta, chúng ta ở dưới đất nhưng chúng ta đã ở bên Ngài”.
3. Trao phó sứ mạng loan báo Tin mừng
Trước khi “lên trời” không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ, Đức Giêsu trao sứ mạng cho họ. Đức Giêsu, Đấng chỉ mới loan báo Tin mừng trong giới hạn là nước Israel, nay Ngài ủy thác cho các môn đệ nối tiếp sứ mạng loan báo của Ngài là loan báo Tin mừng khắp cùng trái đất. Vì thực hiện theo mệnh lệnh của Đức Giêsu nay đã ở trong vinh quang của Chúa Cha, các môn đệ sẽ có thể làm những gì mà xưa kia chính Đức Giêsu chưa làm được:”Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”(Ga 14,12). Việc hơn ấy là nay họ sẽ ra đi loan báo Tin mừng khắp thế giới.
Vì thế, việc rao giảng của các Tông đồ phải mang lại cùng hiệu quả giống như việc rao giảng của Đức Giêsu. Ngài ban cho các ông nhiều quyền năng làm phép lạ. Nhưng chúng ta không nên hiểu từng chữ về câu nói rằng “các tông đồ có thể cầm được rắn trong tay và uống thuốc độc mà vẫn không sao”. Theo tâm lý của người Trung đông, lối nói cường điệu được người ta chấp nhận như một cách thức nhấn mạnh đến một điểm – thông qua quyền năng của Đức Giêsu, các môn đệ sẽ chiến thắng được tất cả mọi sự dữ.
II. TA Ở LẠI DƯỚI ĐẤT
1. Chúa muốn ta tiếp tục công cuộc cứu rỗi
Đức Giêsu muốn dùng Hội thánh cũng như chúng ta như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Hội thánh như một nối dài của Đức Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp cho người ta. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hành động của Ngài được tiếp tục qua Giáo hội. Sứ mệnh của Đức Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Đức Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Đức Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Chúng ta chia sẻ công cuộc cứu rỗi ấy
Đức Giêsu không bảo các môn đệ là hãy cứ ngồi chờ đó, mọi thọ tạo sẽ đến với các con! Không. Ngài bảo:”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ. Loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
Đức Giêsu nhấn mạnh cho các môn đệ một tư tưởng là: hãy loan báo tin mừng cho “mọi loài thọ tạo”.
- Thọ tạo nghĩa là được Thiên Chúa dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú... Tóm lại là tất cả.
- Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin mừng cho loài người là có thể. Còn loan báo Tin mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
- Rốt cuộc, loan báo Tin mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi. (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 271)
3. Phương cách loan báo Tin mừng
a) Loan báo trực tiếp hay gián tiếp
Có những người trực tiếp đi rao giảng Tin mừng cho người ta, ví dụ các nhà truyền giáo chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, các Linh mục, họ có thể loan báo một cách trực tiếp. Còn hầu hết mọi người chúng ta không có khả năng loan báo trực tiếp mà chỉ bằng cách gián tiếp nhưng rất hữu hiệu như cầu nguyện, tham gia các hội đoàn, nâng đỡ các nhà truyền giáo, đóng góp vào qũy truyền giáo, nhất là bằng gương sáng.
b) Loan báo bằng cách sống đời thường
Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn: ”Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột”. Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau:
“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.
“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”.
(Trích Các Bài đọc Kinh sách, tập 2, tr 354)
Truyện: Đọc Thánh kinh hằng ngày
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc..
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng. tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:
- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:
- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
c) Thành công hay thất bại
Trong việc loan báo Tin mừng, thành công hay kết quả đều do ân sủng của Chúa như Chúa đã nói: ”Không có Thầy các con không làm được gì”. Đúng là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, nhưng Chúa không từ chối thiện chí của con người, Chúa muốn con người cộng tác làm việc, còn Chúa sẽ ban ơn cho. Cho nên, nhiều khi chúng ta thất bại trong việc loan báo Tin mừng vì cách làm chứng của chúng ta còn nghèo nàn quá, không có sức hấp dẫn người ta; có khi thay vì chúng ta là chứng nhân lại trở thành người phản chứng, có khi chúng ta là Kitô hữu lại trở thành phản Kitô. Tốt nhất phải làm gương sáng, vì trăm nghe không bằng một thấy:
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
III. NHƯNG LÒNG HƯỚNG VỀ TRỜI
Chúa về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha sau khi đã thi hành trọn vẹn sứ mạng đã được trao phó. Chúng ta còn ở lại dưới đất để tiếp nối chương trình cứu chuộc của Đức Kitô, và sau khi hoàn tất sứ mạng được trao phó chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài vì: ”Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó”(Ga 12,26). Công việc ở trần gian của chúng ta là mắt nhìn trời, chân đạp đất.
1. Mắt nhìn trời.
Sách Tông đồ công vụ kể rằng sau khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ đưa mắt trông theo và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc nhở cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc chắn là vì cảnh thiên đàng hấp dẫn lắm!
Chắc hẳn như vậy! Trời hay thiên đàng là quê hương của ta, nơi ta đang trông ngóng như lời thánh Phalô đã nói với tín hữu Philipphê: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Quê hương chúng ta ở trên trời, ở đó chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh Hạnh phúc Thiên đàng nói lại cho chúng ta điều họ thử nghiệm như sau:
- Các tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông dậy (Cv 1,9-10).
- Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi mãi trên ngọn núi đó (Mt 17,1tt).
- Thánh Phaolô khi được ngất trí đã thốt lên: ”Người ấy đã được nhấc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
- Ở Lộ đức, năm 1858 Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette, và ở Fatima, năm 1917. Đức Mẹ lại hiện ra với ba em Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Các nhân chứng chỉ biết khen rằng Đức Mẹ đẹp lắm và luôn ao ước tới ngày được lên trời.
Đó là vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Các nhân chứng chỉ thấy một chút hào quang mà đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được vào thiên đàng. Nếu thực sự được hưởng thiên đàng trọn vẹn thì hạnh phút ngây ngất đến chừng nào.
2. Chân đạp dất
Khi Đức Giêsu về trời, Ngài hứa sẽ đem chúng ta về với Ngài ở quê hương vĩnh cửu để hưởng phúc vô biên, nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn với hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ trần thế. Chúng ta còn phải xây dựng trần thế theo tinh thần Chúa Kitô.
Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tiến tới thiên đàng, thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này.
Để chuẩn bị về quê trời chúng ta hãy làm hai việc:
a) Loan báo Tin mừng cho muôn dân
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa dạy: ”Các con đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”(Mt 10,8). Trong ngày lễ Thăng Thiên hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại sứ mạng loan báo Tin mừng của chúng ta. Chúa muốn Giáo hội và từng người chúng ta tiếp nối công việc cứu chuộc của Ngài. Chúng ta phải là cánh tay nối dài của Chúa, làm sao cho Tin mừng của Chúa phải được loan truyền cho đến tận cùng trái đất. “Hỡi những người Galilê, sao cứ đứng đó mãi nhìn trời”? Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông thi hành nghĩa vụ rao giảng Tin mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Ngài về trời:”Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho nhân loại”.
b) Chu toàn nghĩa vụ hằng ngày
Đời là một cuộc hành trình về đời sau, mà cuộc hành trình nào cũng gặp nhiều khó khăn, gian khổ, đòi hy sinh cố gắng không ngừng. Mỗi khi ta phải chiến đấu, phải vất vả hy sinh, hãy nghĩ tới thân phận con người, nghĩ tới cuộc đời chóng qua, nghĩ tới lời Chúa phán: ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”(Mt 7,21). Muốn thi hành ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta càng phải nỗ lực vượt qua sự ươn lười, yếu đuối của ta vì như Chúa nói:”Nước Trời đòi sự cố gắng, ai cố gắng thì mới chiếm được”(Mt 11,12).
Truyện: Chiếc kim may
Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý:
- Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để vào Thiên đàng.
Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn Kinh thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác trao cho tu huynh cây thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc đầu.
Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại trên môi.
Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh thiêng mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát LênTrời ABC-277
Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh thiêng mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát được lên trời. Đi dưới đất, bơi trên sông, con người thấy mình thấp hèn quá! Phải làm sao lên được trời cao, con người mới thỏa mãn được những ước mơ lý tưởng của mình.
Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai ông Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Loài người đã hồi hộp theo dõi: các cuộc bay lên trời của mấy ông đó và mơ ước có ngày cũng được lên trời, nhưng rốt cuộc chuyến bay nào cũng phải trở về đất, lại phải sống kiếp thân phận bụi đất.
Chỉ có cuộc lên trời của Chúa Giêsu mới giải thoát con người khỏi kiếp sống lầm than, mới ban sức mạnh thần lực cho con người lên trời vinh quang muôn đời.
Cuộc lên trời của Chúa: thật là một cảnh tượng huyền diệu đang diễn ra trước mắt đức tin của chúng ta:
1. Ở trên cao: Các thiên thần và triều đình thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn trong niềm ngây ngất, tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, đe Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hien tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
2. Ở chung quanh: Đoàn tùy tùng theo Chúa đông vô kể, gồm các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính, các hiền nhân do Chúa Cứu Thế giải thoát khỏi ngục tối, đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có tổ phụ Abraham, Giacob, Môisê, thánh Job, thánh vương David, các tiên tri Isaia, Giêrêmia, nhất là hai bên tả hữu là thánh cả Giuse và thanh Gioan tiền hô và cả người trộm lành nữa.
3. Ở dưới đất: Quỳ trên núi Ôlivitê là Hội thánh sơ khai: Đức Mẹ, thánh Phêrô, các tông đồ, hàng trăm môn đệ và các thánh nữ. Trước sự hiện diện và trước những con mắt đang ngây ngất chiêm ngưỡng, Chúa Giêsu lên trời lòng tràn trề rộn rã hân hoan: “Mọi miệng lưỡi trên trời dưới đất cùng cả hỏa ngục đang tung hô rằng Giêsu Kitô là Vua, là Chúa chúng tôi” (Suy Niệm Đời Chúa).
Vì thế, bai Đáp ca Thánh lễ hôm nay đã hô hào khắp muôn dân, khắp hoàn cầu, khắp trời đất: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả (Tv. 47, 2-3, 6-9).
Sống trong nguồn vinh phúc của Chúa Giêsu lên trời, chúng ta phải thực thi hai điểm: Mắt nhìn trời, chân đạp đất.
- Mắt nhìn trời để “cầu xin Chúa Cha vinh hiển ban cho chúng ta thần trí khôn ngoan để nhận biết Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha. Ngài tôn vinh Đức Kitô trên mọi quyền lực thần thiêng trong thế giới hiện tại và cả thế giới tương lai. Xin Người soi trí mở lòng chúng ta thấy rõ gia nghiệp vinh quang phong phú của chúng ta được chia sẻ cùng các thánh, thấy rõ quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta” (Bài đọc 2). Mắt nhìn trời để đón nhận “sức mạnh của Thánh Thần” soi sang, trợ giúp khích lệ ta trong nhiệm vụ làm chứng về Đức Kitô.
- Chân đạp đất là “đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo tin mừng cho tất cả loài người”, “từ Giêrusalem, Giuđê, Samaria và cho đến cùng tận trái đất”. Từ kinh thành văn minh như Hy Lạp, Ai Cập, Roma đến hang cùng ngõ hẻm, rừng thiêng nước độc như Giaray, Kontum, từ bắc cực đến nam cực băng giá, ngày nay đều có thánh giá ngự trị để cho muôn dân được lành mạnh, được cứu độ, thoát khỏi loài rắn quỷ satan, khỏi nọc độc của tử thần.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho các con để Thầy ở đâu, chúng con sẽ được ở đó”. Giờ đây, Thầy đang ngự trên quê hương hạnh phúc nước Trời mà vẫn hằng chăm lo cho chúng con mọi sự. Xin cho chúng con biết luôn luôn nhìn trời để chăm lo đời sống chúng con và đời sống mọi người, mong xứng đáng được về hưởng vinh phúc quê trời với Thầy. Amen.
Có một số thanh thiếu niên hiện nay không màng đến chuyện học hành, chẳng lo trau dồi đức LênTrời ABC-278
Có một số thanh thiếu niên hiện nay không màng đến chuyện học hành, chẳng lo trau dồi đức hạnh, không chịu rèn luyện để trở thành người có ích… Trái lại, họ đâm ra lêu lỏng chơi bời, quậy phá, đắm mình trong truỵ lạc đê hèn. Nguyên nhân nào đã gây ra thảm trạng đó?
Không có hướng tiến thân sẽ làm con người hư hỏng
Các nhà nghiên cứu xã hội cho rằng mot trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đáng buồn đó là vì một số bạn trẻ cảm thấy không có đường tiến thân cho mình, cánh cửa mở vào tương lai dường như đang khép lại trước mặt họ. Họ chẳng hy vọng có chút địa vị trong xã hội hay có được công ăn việc làm ổn định với đồng lương cao. Họ chẳng còn mục tiêu nào tốt đẹp để phấn đấu vươn lên. Họ cảm thấy tương lai bế tắc, nên đâm ra chơi bời lêu lỏng, làm hư hỏng cả cuộc đời.
Nói chung, khi con người cảm thấy không có tương lai, nhìn về mai sau chỉ thấy ngõ cụt, thấy kết thúc của đời người chỉ là một nấm mồ … thì người ta không còn muốn cố gắng phấn đấu sống đời đạo đức, không còn muốn làm lành lanh dữ, không còn muốn tu thân tích đức… mà chỉ muốn ăn chơi cho qua ngày đoạn tháng, hoặc sống buông thả và làm hỏng đời mình.
Tâm trạng đó được nhà thơ Cao Bá Quát diễn tả như sau:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phu du trông thấy cũng nực cười, thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển một vài chung lếu láo.”
Vì cảm thấy kiếp người thì ngắn ngủi, mọi sự chỉ là phù du, nên người ta không muốn chuốc lấy sự đời, không muốn kê vai gánh vác trách nhiệm xã hội mà chỉ muốn tìm an nhàn trong chén rượu cho vơi nỗi sầu.
Vì cảm thấy tương lai là ngõ cụt, nên cũng có người chọn sống như những con thiêu thân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối, Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu).
Đức Giêsu lên trời hướng tâm hồn ta tới một tương lai huy hoàng
Có một đàn chim đông đảo bị giam nhốt trong một chiếc lồng khá lớn. Kiếp sống ngục tù trong cảnh “chim lồng cá chậu” làm cho đa số chim trong lồng không có cơ hội cất cánh bay lên, thế nên đôi cánh của chúng gần như bị tê liệt. Đối với chúng, thế giới chỉ là chiếc lồng chim chật chội và khung cảnh chung quanh mình. Hằng ngày chúng sống chen chúc trong khoảng không gian giới hạn của chiếc lồng, an phận sống kiếp gia cầm chờ ngày bị đem đi xào nấu.
Vào một ngày đẹp trời, một con chim mẹ trổ được một lỗ hổng trên nắp lồng và thoát ra được bên ngoài, tung cánh bay vút lên cao giữa khung trời cao rộng. Thế là từ hôm đó, nhiều con chim trong lồng cố gắng luyện tập cho đôi cánh mạnh mẽ lên để có thể bay cao, thoát ra khỏi chiếc lồng chật chội như ngục tù giam hãm mình, để bay vút lên trời xanh nối đuôi chim me.
Qua biến cố sống lại và lên trời, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy rằng kiếp người không phải chỉ giới hạn trên trái đất chật hẹp này nhưng còn được nối tiếp trong thế giới thiêng lieng và Ngài đã mở ra cho chúng ta một lối thoát, thoát ra khỏi thế giới tạm bợ này để vào thiên quốc.
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời hướng tâm hồn chúng ta về trời cao, giúp chúng ta biết cùng đích của đời người không phải là chốn trần gian tạm bợ mà là cõi hạnh phúc thiên đàng. Ngài lên trời mở ra cho chúng ta một chân trời mới, một triển vọng mới.
Vì thế, chúng ta đừng bám chặt vào thế giới phù du tạm bợ này, vì không sớm thì muộn, chúng ta cũng phải từ bỏ nó. Vậy thì đừng trầm mình trong nếp sống ươn hèn tội lỗi, đừng ngụp lặn trong lạc thú mau qua, đừng chỉ biết cúi xuống để sống an phận, mà biết sống siêu thoát và biết hướng tâm hồn lên cao.
Khi đàn chim non thấy chim mẹ bay thoát ra khỏi chiếc lồng giam nhốt mình từ bấy lâu nay thì chúng quyết luyện tập cho đôi cánh được mạnh mẽ để có thể thoát ra khỏi chốn ngục tù, tung cánh bay lên cao như chim mẹ.
Vậy thì chúng ta cũng phải kiên trì luyện tập mỗi ngày, cho đức tin của mình được mạnh mẽ, cho tâm hồn đạo đức được gia tăng, cho lòng mến được dồi dào, nhờ đó, mai đây chúng ta có thể “cất cánh” về với Thiên Chúa là nguồn hoan lạc của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xuống trần để vạch đường chỉ lối cho chúng con về thiên quốc. Chúa đã về trời để dọn sẵn chỗ ở cho chúng con trong Ngôi Nhà của Chúa Cha (Ga 14,2). Xin cho chúng con biết rèn luyện “đôi cánh mến Chúa yêu người” cho mạnh mẽ, để đủ sức “bay” về nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con.
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm đồng lúc hai biến cố: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Giê-su có LênTrời ABC-279
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm đồng lúc hai biến cố: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Giê-su có các Tông Đồ làm chứng và cuộc Siêu Thăng của Ngài không ai có thể chứng kiến được.
Cv 1: 1-11
Sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su Phục Sinh với các Tông Đồ, sách Công Vụ tường thuật cuộc Thăng Thiên hữu hình: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”.
Ep 4: 1-13
Sau khi gợi lên cuộc Siêu Thăng của Đức Ki-tô: “Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời”, thánh Phao-lô nhắc lại rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu là gặp lại Đức Ki-tô, vì Ngài là Đầu của Giáo Hội và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài.
Mc 16: 15-20
Tin Mừng Mác-cô hiệp nhất cuộc Thăng Thiên hữu hình và cuộc Siêu Thăng của Đức Giê-su, theo một biểu thức cô động: “Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”, mà Giáo Hội gìn giữ trong kinh Tin Kính.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Công Vụ Tông Đồ được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô nào đó, mà chúng ta không biết.
1. Hai cuộc Thăng Thiên:
Sách Tin Mừng Lu-ca kết thúc với cuộc Thăng Thiên của Đức Ki tô: “Người rời khỏi các ông và được đưa lên trời…” (Lc 24: 51) trong khi sách Công Vụ mở ra với hai lần gợi lên cùng một biến cố: “…… cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1: 1-2) và “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (1: 9). Như vậy, qua kiểu trình bày văn chương này: “ở phần cuối” sách Tin Mừng Lu-ca và “ở phần đầu” sách Công Vụ, cuộc Thăng Thiên được trình bày: vừa đích điểm sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa và vừa khởi điểm sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa ở giữa loài người; đồng thời, vừa hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và vừa khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
Theo cách trình bày của thánh Lu-ca như trên, chúng ta có thể phân biệt hai cuộc Thăng Thiên: Cuộc Thăng Thiên thứ nhất không ai có thể chứng kiến, đó là việc Đức Giê-su “được đem lên trời” ngay sau khi Ngài sống lại. Đây là một cuộc đoàn tụ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó cũng là cuộc tôn vinh của Đức Giê-su bên cạnh cạnh Chúa Cha, cuộc tôn vinh mà Ngài đã nguyện xin trong lời cầu nguyện của Ngài, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Vậy, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).
Cuộc Thăng Thiên thứ hai là việc Đức Giê-su lên trời hữu hình trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: chính nhân tính, cùng với Đức Ki-tô, sẽ chiếm chỗ trong vinh quang Thiên Chúa. Cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc thăng thiên của chúng ta.
2. Lý do của cuộc Thăng Thiên hữu hình.
Vào cuộc gặp gỡ sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su Phục Sinh chỉ cần loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, đoạn nói lời từ biệt với các ông, cuối cùng biến mất như Ngài đã nhiều lần làm như vậy trong suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh. Tại sao Đức Giê-su đã chọn cuộc ra đi khỏi thế giới nầy một cách ngoạn mục như thế, dù thoáng qua và kín đáo? Chúng ta gặp thấy câu trả lời qua cách thức mà Đức Giê-su, trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, đã trình bày cuộc sống tiền hữu và cuộc Nhập Thể của Ngài.
Trước hết, Ngài lên trời theo cách thức như vậy nhằm chỉ rõ Ngài dưới danh xưng “Con Người”, nhân vật này, theo thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13; 16: 28; 17: 11, vân vân).
Đức Giê-su cũng sử dụng hình ảnh nầy khi công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Ngài gợi lên sáu lần diễn ngữ “từ trời xuống” nầy, và cuối cùng, Ngài kết thúc bằng những lời nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Đây là cách thức Đức Giê-su dùng để loan báo cuộc Thăng Thiên của Ngài rõ ràng nhất.
3. “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra…”
Con số “bốn mươi” nầy chất chứa biết bao ý nghĩa: nó hình thành nên thể song đối với bốn mươi ngày Đức Giê-su trải qua trong hoang địa để chuẩn bị sứ mạng của Ngài, giữa phép rửa bởi thánh Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài. Đó cũng là khoảng thời gian để chuẩn bị cho các môn đệ bắt tay vào sứ mạng của họ, giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Ngài.
Chúng ta có thể tự hỏi Ngài đã sống như thế nào sau khi sống lại. Một cách nào đó, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một tiên trưng. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào chúng ta không nghĩ đến sách Tô-bi-a, trong đó thiên sứ Ra-pha-en, sau khi đã hoàn tất sứ mạng trần thế của mình, mặc khải cho hai cha con: ông Tô-bít và ông Tô-bi-a, chân tính của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Chúa… Đừng sợ! Bình an cho các ngươi!... Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi… do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy… Này tôi lên cùng Đấng đã sai tôi…’ Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa” (Tb 12: 15-21).
4. Chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi từ giả các môn đệ lên trời, Đức Giê-su dặn dò các ông những lời sau cùng và loan báo cho các ông: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (1: 5).
Vào lúc nầy, các ông đã hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (1: 6). Họ vẫn ôm ấp một giấc mơ chính trị xưa kia về việc khôi phục nền độc lập của quốc gia Ít-ra-en. Đức Giê-su không trách cứ họ; Ngài không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng mượn kiểu nói khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá đất nước nhỏ bé của xứ Giu-đê, cho đến tận cùng thế giới. Nhưng vào lúc nầy đây, họ chưa có thể nào hiểu được vì chưa đón nhận sức mạnh của Thánh Thần.
5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
“Nói xong, Người được cất lên, ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (1: 9). Đây không cốt là đám mây nào, nhưng đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như đã xảy ra biết bao lần trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là thành ký thuật lại biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào giây phút Ngôi Lời thụ thai trong cung lòng trinh khiết của Mẹ; đó cũng là đám mây quyện lấy Đức Giê-su khi Ngài từ giả cõi thế nầy. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ thưa “xin vâng”. Cũng thế, các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện của biến cố Ngũ Tuần; Chúa Thánh Thần ngự xuống sẽ biến đổi các Tông Đồ và thúc đẩy họ bắt tay hành động. Các thiên sứ đã mời gọi họ rồi: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (1: 11). Nhưng phải chuẩn bị ngày Ngài trở lại nầy bằng cách bắt đầu công việc truyền giáo vĩ đại mà Tin Mừng Mác-cô hôm nay nhắc nhở chúng ta.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-13)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô trong khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý (ch. 4-6). Cả hai phần được liên kết chặc chẽ với nhau. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai, trong đó thánh Phao-lô nhấn mạnh cuộc Siêu Thăng của Đức Ki-tô.
1. “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (4: 1):
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô chủ ý trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và ra lệnh phải truyền lại cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ.
Trong đoạn mở đầu của phần thứ hai về luân lý, trước khi đưa ra những lời khuyên nhủ, thánh Phao-lô nhắc nhớ ngài đang bị giam cầm: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (4: 1). Như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là chứng nhân chịu đau khổ vì Đức Ki-tô.
2. Ơn gọi làm người Ki-tô hữu (4: 2-3):
Từ đó, thánh nhân nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng: dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Thánh nhân khuyên họ phải ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại, lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau (4: 2). Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đã đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng” (Mt 11: 29).
Đoạn, thánh nhân khuyên họ hãy hiệp nhất bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (4: 3). Lời khuyên bảo: “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”, không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
3. Lời tuyên xưng đức tin (4: 4-6).
Tiếp đó, trong một niềm hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề về sự hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời công bố phụng vụ mà những người chịu phép rửa tuyên xưng khi khẳng định niềm tin của mình, chắc chắn được thánh Phao-lô diễn giải. Những thuật ngữ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê.
Thật kỳ lạ và có thể có chủ ý, khi ngỏ lời cả với những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân, thánh Phao-lô sử dụng những diễn ngữ nhắc nhớ trước hết lời tuyên xưng độc thần của Ít-ra-en: chỉ có một Chúa, đoạn sử dụng từ ngữ rất gần với phái Khắc Kỷ. Theo phái Khắc Kỷ, Thiên Chúa là nguyên lý hiệp nhất, là “cha của muôn loài muôn vật”, đấng duy trì sự cố kết và sự hòa điệu của vũ trụ. Đức Ki-tô cũng là nguyên lý hiệp nhất, nhưng không là một vị thần linh nội tại trong vũ trụ. Vai trò siêu việt của Ngài chính là hiệp nhất tất cả mọi sinh linh: Ngài là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (4: 6).
Biểu thức hoàn vũ của thánh Phao-lô cũng thay thế những suy luận Do thái giáo, trong đó họ đề cao những quyền lực trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhất là quy trật tự vũ trụ vào vai trò của các thiên sứ.
Muôn vàn ân sủng mà mỗi người đón nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho, Đấng “đã xuống tận các vùng đất sâu thẩm dưới mặt đất” (4: 9) cũng chính là Đấng “đã lên cao hơn mọi tầng trời” (4: 10). Ở đây, chúng ta nhận ra một trong những ý tưởng chủ đạo của thánh Phao-lô, thánh nhân thiết lập mối liên hệ giữa sự hạ mình của Con Thiên Chúa trong kiếp sống phàm nhân (Nhập Thể) và sự siêu thăng của Ngài.
Với diễn ngữ: “Để làm cho vũ trụ được viên mãn” (4: 10), thánh Phao-lô hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần, tức là việc Đức Giê-su lên trời và việc Ngài ban xuống muôn vàn ân sủng. Để thực hiện điều nầy, thánh nhân dựa vào một bản văn Kinh Thánh: Tv 68. Thánh Vịnh này là một bài ngợi ca được hát lên khi rước Hòm Bia Chứng Ước lên Giê-ru-sa-lem; bài ngợi ca nầy trình bày Đức Chúa tiến lên thánh điện của Người như một vị lãnh tụ chiến thắng, dẫn theo đám tù binh. Thánh Phao-lô áp dụng bài ngợi ca nầy vào Đức Ki-tô: “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người” (4: 8). Muôn vàn ân huệ nầy được ban trước tiên cho những ai xây dựng Giáo Hội của Ngài.
5. Giáo Hội, sự viên mãn của Đức Ki-tô (4: 11-13):
Lúc đó, thánh Phao-lô hướng về phía các tín hữu, chính họ xây dựng Nhiệm Thể Đức Ki-tô cho đến khi đạt được tầm mức tăng trưởng tối hậu, tầm vóc viên mãn. Sự viên mãn nầy chỉ có thể được thực hiện trong sự hiệp nhất của đức tin và của sự hiểu biết thật sự về Con Thiên Chúa (thánh Phao-lô trở lại chủ đề về sự hiệp nhất).
Như vậy, cùng với nhau tăng trưởng trong đức tin và trong đức ái, “chúng ta sẽ được đưa lên cao cho đến Ngài”. Biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô loan báo và chuẩn bị biến cố thăng thiên của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 16: 15-20).
Đây là đoạn kết Tin Mừng Mác-cô. Biến cố Thăng Thiên được gợi lên rất ngắn gọn nhưng đầy đủ: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (16: 19). Đây là cách diễn tả mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính. Quả thật, lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố lên trời của Đức Giê-su: Cuộc Siêu Thăng của Ngài ngay khi Ngài sống lại và cuộc Thăng Thiên hữu hình của Ngài trước mắt các Tông Đồ.
Như Tin Mừng Lu-ca, Tin Mừng Mác-cô định vị hai biến cố vào cùng một ngày: cả hai thánh ký đều đặt biến cố Thăng Thiên vào buổi chiều Phục Sinh. Đây là cách thức thâu tóm hai biến cố trong cùng một quan điểm thần học. Tuy nhiên, sách Công Vụ lại đặt biến cố Thăng Thiên vào “bốn mươi ngày sau”, sau nhiều lần Đấng Phục Sinh đã hiện ra, dạy dổ các môn đệ của Ngài.
Đoạn Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có ba phần:
- Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18). - Biến cố Thăng Thiên (16: 19). - Thi hành sứ mạng (16: 20).
1. Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
Biến cố Thăng Thiên đánh dấu việc kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giê-su và việc khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
Sự kiện Đấng Phục Sinh sai nhóm Mười Một đi thi hành sứ vụ đều được nhắc lại trong cả bốn sách Tin Mừng. Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh rõ nhất chiều kích phổ quát của sứ mạng nầy: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ” (Mt 28: 19). Tin Mừng Mác-cô cũng nhấn mạnh không kém: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16: 15). Diễn ngữ: “mọi loài thụ tạo”, rất gần với diễn ngữ của thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Rô-ma (Rm 8: 19-22), có chung một viễn cảnh về sự đổi mới tâm linh, không chỉ của nhân loại nhưng cũng toàn thể vũ trụ.
A. Tin và không tin.
Thế chọn lựa đôi ngã: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (16: 16), gợi nhớ bút pháp của Tin Mừng Gioan: hoặc tiếp đón ánh sáng hay ở trong bóng tối. Cuộc giáng trần của Đức Giê-su đòi buộc con người phải chọn lựa. Tất cả lời rao giảng tông đồ quả quyết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, không ai có thể đạt được sự sống siêu nhiên mà không qua Ngài. Chỉ Giáo Hội được trao quyền truyền đạt sự sống siêu nhiên nầy nhờ các Bí Tích, trước hết bí tích Thánh Tẩy. Lập trường không khoan nhượng nầy được giải thích do việc các Tông Đồ ngỏ lời với người Do thái, những người này từ chối tin vào Đức Ki-tô và chỉ thấy ơn cứu độ nhờ Lề Luật.
B. Dấu lạ.
Đức Giê-su kể ra một loạt dấu lạ mà “những ai có lòng tin vào danh Ngài” có thể thực hiện (16: 17a). Ở đây, Chúa Giê-su không không chỉ ngỏ lời với các Tông Đồ, nhưng còn với những ai tiếp nối sau các Tông Đồ: “Họ sẽ trừ được quỷ, họ sẽ nói được những tiếng mới lạ” (16: 17b)
Từ “dấu lạ” có một tầm mức rộng lớn hơn và sâu xa hơn từ “phép lạ”. Phép lạ hàm chứa một sự ngạc nhiên, một sự thán phục, trong khi dấu lạ hàm chứa một giáo huấn, một mặc khải chứ không luôn luôn là một điều kỳ diệu. Như nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giê-su là một dấu lạ về sự sinh hạ của Giáo Hội; cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su tự nó là dấu lạ về tình yêu tận mức của Thiên Chúa đối với nhân loại; muôn vàn ân huệ của Chúa Thành Thần, dù kín đáo, cũng là những dấu lạ không kém.
Trước đây Tin Mừng Mác-cô đã tránh dùng từ dấu lạ, vì đây là từ mà các đối thủ của Đức Giê-su đã sử dụng để đòi hỏi Ngài một bằng chứng để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai (8: 11). Trong đoạn kết nầy, từ dấu lạ mặc lấy một giá trị tương đồng với từ dấu lạ thường được dùng trong Tin Mừng Gioan: bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng cứu độ của Đức Giê-su.
Chúng ta gặp lại những dấu lạ nầy trong sách Công Vụ: các Tông Đồ đã trừ được quỷ, nói được những ngôn ngữ; thánh Phao-lô bị con rắn độc quấn vào tay mà không hề hấn gì (Cv 28: 3-6), thánh Phê-rô đặt tay và chữa người què (Cv 3: 7-8), ông Kha-na-ni-a đặt tay và chữa ông Sao-lô được thấy lại (Cv 9: 17-18), vân vân. Vả lại, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ của Ngài vào lúc sai nhóm Bảy Mươi Hai đi thi hành sứ vụ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10: 19).
Đó là những dấu lạ mà các ngôn sứ đã loan báo đánh dấu triều đại Thiên Sai, như ngôn sứ I-sai-a phác họa một cách sinh động: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất nầy, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11: 8-9).
Thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội được minh họa bởi muôn vàn ân sủng mà các Tông Đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi được lãnh nhận.
2. Thăng Thiên (16: 19).
“Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời”. Tước hiệu “Chúa” (Kurios) để chỉ Đức Giê-su chỉ được gặp thấy một lần trong Tin Mừng Mác-cô: khi Ngài sai hai môn đệ ra đi chuẩn bị cuộc khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem của Ngài, chính Ngài tự nhận mình với tước vị nầy: “Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói là Chúa cần đến nó” (Mc 11: 3). Tước hiệu “Chúa” nầy Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, được các Ki-tô hữu tiên khởi áp dụng cho Đức Giê-su để công bố “quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài”.
Cuộc tôn vinh của Đức Giê-su được diễn tả bằng hình ảnh: “ngự bên hữu Thiên Chúa”. “Bên hữu Thiên Chúa” là chỗ danh dự và là dấu chỉ của việc dự phần vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây là chỗ mà Thánh Vịnh 110 phân định cho Đấng Thiên Sai tương lai, Đấng sẽ là “Đức Chúa”. Chính Đức Giê-su tiên báo biến cố nầy cho các thành viên của Thượng Hội Đồng: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng…” (Mc 14: 62).
Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất cho vài chi tiết rõ ràng về biến cố Thăng Thiên hữu hình (sách Công Vụ cung cấp nhiều chi tiết rõ ràng hơn sách Tin Mừng Lu-ca), trong khi Tin Mừng Gioan dọi chiếu ánh sáng trên biến cố Thăng Thiên vinh quang không có nhân chứng. Trong bài Diễn Từ Cáo Biệt, Đức Giê-su nhiều lần nói với các Tông Đồ là Ngài “ra đi khỏi thế giới nầy mà về cùng Cha Ngài” và trong lời cầu nguyện của Ngài, Chúa Giê-su gợi lên cuộc tôn vinh của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5). Sau cùng, biến cố Biến Hình trên núi cao là dấu chỉ tiên báo biến cố Thăng Thiên vô hình và vinh quang mà Chúa Con sẽ nhận lại.
3. Thi hành sứ mạng (16: 20).
Sau cùng, không chút chậm trễ, các Tông Đồ “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông” (16: 20). Sự hiện diện vô hình của Ngài mà thánh Mát-thêu diễn tả trong cùng một bài tường thuật song song khi nhắc lại những lời sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20).
Biến cố Thăng Thiên không là một cuộc ra đi của Đức Giê-su, nhưng khai mạc một cách thế hiện diện mới của Ngài. Từ nay, với cách thế hiện diện mới nầy, Ngài không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa, nhưng đồng hiện diện với các ông ở mọi nơi và mọi lúc, thậm chí ở trong các ông.
Tin mừng Mc 16: 15-20 Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài tạo vật”.
Hôm nay Giáo Hội long trọng cử hành lễ Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã lên trời vinh quang ngự LênTrời ABC-280
Hôm nay Giáo Hội long trọng cử hành lễ Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Chúa Cha ngay khi sống lại. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Chúa đã lên trời.
Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài tạo vật”.
Đây là một nhiệm vụ cấp thiết như thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông Điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio) đã nói:
“Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (RM 86).
Và Đức Phaolô VI đã khẳng định trong Tông Huấn “Loan báo Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi): “đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế” (EN 5).
Vì vậy không lạ gì khi Công Đồng Vaticanô II và Huấn Quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện.
Thực vậy, Sứ điệp của Đức Giêsu luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa”
Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ một phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta. Chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
- Cách rao giảng của Thánh Phanxicô Assisi
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
– Giảng ở đâu?
Cha thánh trả lời:
– Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
- Cách rao giảng của bác tài xế xe taxi
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức làm tông đồ truyền giáo của một bác tài xế xe taxi ở đó như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.
(Suy niệm của John W. Martens - Lm. Phêrô Phạm Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6)
Dầu vẫn đang còn bị tổn thương bởi cuộc khổ nạn và những mơ ước trần thế bị tan vỡ do sự LênTrời ABC-281
Dầu vẫn đang còn bị tổn thương bởi cuộc khổ nạn và những mơ ước trần thế bị tan vỡ do sự sống lại của Đức Giê-su từ cõi chết, các tông đồ vẫn cố bam víu vào niềm tin chung của người Do thái về một Đấng Mê-si-a và việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa. Họ đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi đơn sơ trước khi Ngài lên trời: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”.
Mặc nhiên trong câu hỏi này hàm chứa ước muốn được biết về những gì sẽ xảy đến sau này. Nếu như đường lối của Thiên Chúa đã để họ rơi vào tình trạng hoang mang, bối rối, tuy vẫn còn chút niềm hy vọng, vậy liệu họ có thể biết được những biến cố sắp xảy đến không? Liệu kế hoạch của Thiên Chúa theo sau những gì họ hiểu ra, sẽ là một dạng mẫu về nước Thiên Chúa phải đến không? Hoàn toàn không phải như thế. Vì Đức Giê-su đã nói với họ: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt”. Tất cả những gì họ cần biết là họ phải trở thành chứng nhân cho sự sống và sự sống lại của Đức Giê-su, làm chứng cho sự thật về Đức Ki-tô cho thế giới, khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem, Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, cho đến tận cùng thế giới. Bất luận điều gì xảy đến sau đó, cũng phải được khám phá trong quá trình trung thành thực thi sứ mệnh của họ.
Hẳn rằng Đức Giê-su không phải là Đấng mà họ đã từng nghĩ, dầu họ sẽ khám phá ra Ngài còn hơn cả những gì họ có thể mường tượng, tức là một vị Thiên Chúa nhập thể - chính cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi phải khám phá ra rằng hành vi cứu độ của Thiên Chúa theo lối suy nghĩ của thế gian thì khác với việc đăng quang của Con Người ngự đến để xét xử trần gian; cộng đoàn Giáo hội tiên khởi phải khám phá ra rằng việc Dan ngoại được thông phần vào cùng hành vi cứu độ này đòi phải thực thi một sứ vụ cho thế giới” (Ben F. Meyer, Những mục đích của Đức Giê-su). Chính trong kinh nghiệm sống cuộc đời của những người môn đệ trung thành của Đức Giê-su mà họ phải hiểu những biến cố trong cuộc đời của Đức Giê-su đã nói về phận vụ của họ trong tư cách là Giáo hội.
Việc lên trời của Đức Giê-su có lẽ dễ bị hiểu sai nhất và bỏ quên những biến cố được tưởng niệm trong suốt mùa Phục sinh, từ biến cố phục sinh đến lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Thế nhưng câu chuyện thăng thiên với việc Đức Giê-su “lên trời”, vốn được diễn đạt theo ngôn ngữ của vũ trụ luận xa xưa, lại muốn noi tới việc đăng quang của Đức Ki-tô trong tư cách là Thiên Chúa. Chính Tin mừng theo Thánh Mác-cô cũng mô tả việc Đức Giê-su được “đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
Niềm hy vọng trước đây của các tông đồ rằng đa đến lúc Đức Giê-su khôi phục là vương quốc cho dân tộc Ít-ra-en trong khía cạnh trần thế, thì giờ đây lại được hiểu như là việc đăng quang của Đức Giê-su trong tư cách một vị vua cai trị với thẩm quyền trên mọi sức mạnh trần gian và thần thiêng. Đức Giê-su không chỉ là Vua của dân tộc Ít-ra-en, nhưng Ngài còn thực sự là Vua của vũ hoàn.
Lá thư của Thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô cho thấy quyền năng của Thiên Chúa đang được biểu dương nơi Đức Ki-tô khi làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết và “đặt Ngài ngự bên hữu Người trên trời, vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong the giới tương lai”. Chính vì Đức Giê-su Ki-tô đã thống trị, nên Ngài có thể hướng dẫn Giáo hội trong sự khôn ngoan và sáng suốt, và hơn nữa còn đặt niềm hy vọng của chúng ta vào một vương quốc sẽ đến trong vinh quang tràn đay. Quyền năng này cũng đang hoạt động nơi Thân mình của Đức Ki-tô trên trần thế tức là Giáo hội, cho phép Giáo hội tiếp tục sứ mệnh của Đức Giê-su trong việc loan báo tin mừng cứu độ cho toàn thế giới.
Các tông đồ lên tiếng hỏi: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Đức Giê-su liền giúp các tông đồ tập trung vào sứ mệnh của họ trong tư cách là Giáo hội. Điều này không có nghĩa là Ngài từ khước vương quyền của mình, nhưng là cách mà vương quyền của Đức Giê-su sẽ thống trị trên toàn thế giới (danh Ngài sẽ được toàn thế giới biết đến).
Đúng thế, vương quốc này đã đến theo cách mà họ không ngờ. Giả như chính chúng ta được nghe trực tiếp lời này: “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11), thì chúng ta cũng tự hỏi: khi nào điều ấy sẽ đến?
Như Phê-rô và các tông đồ khác, chúng ta cũng có phận vụ làm chứng nhân trong khi mong đợi nước Thiên Chúa ngự trị cách sung mãn tròn đầy, vì biết rằng đấng đã hứa, thì cũng sẽ thực hiện điều đó. Ngài sẽ lấp đầy niềm hy vong của chúng ta, vượt xa những gì chúng ta mong đợi nữa. Chúng ta không biết điều đó sẽ xảy đến khi nào và thế nào, nhưng Đấng đã hứa điều đó sẽ ngự đến, Ngài sẽ thực thi điều đó theo cách thế mà chúng ta chẳng bao giơ ngờ trước được.
Cầu nguyện: Việc Đức Giê-su lên trời giúp bạn hiểu về sứ mệnh của Giáo hội như thế nào?
Con người khi đối diện với khó khăn vượt quá sức mình thường tìm đến thần linh. Thần linh như LênTrời ABC-282
Con người khi đối diện với khó khăn vượt quá sức mình thường tìm đến thần linh. Thần linh như một cứu cánh để giúp con người vượt qua phong ba. Thế nên theo dòng lịch sử rất nhiều những câu chuyện huyền thoại được dựng nên kể về những vị thần dạy người ta trồng trọt, chống lại thiên nhiên, chống lại sự dữ, và sau khi hoàn thành sứ mệnh họ bay về trời.
Ở Việt Nam không ai mà không biết đến câu chuyện về Thánh Gióng. Truyện Thánh Gióng được kể rằng: “Cậu bé Gióng được sinh ra do một lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm thử, không ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú, nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa, liền cất tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Được lời, sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.
Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ. Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ cho cậu. Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc sứ giả đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến thành một tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp, cầm kiếm và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng sỹ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.
Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến chân núi Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ đó dân gian mới có câu:
… Làng Phù Đổng có một người Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ Những ngờ oan trái bao giờ Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân…”.
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày Chúa Giê-su vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây không phải là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự kiện lịch sử. Một sự kiện xảy ra cách đây hơn 2000 năm đã được biết bao thế hệ tiếp nối nhau làm chứng và loan truyền. Giáo Hội luôn loan tin rằng Chúa Giê-su sau khi hoàn tất việc cứu độ trần gian, Ngài đã được đưa lên trời trước sự chứng giám của các môn đệ. Ngài vinh thăng về trời như một cuộc khải hoàn sau cuộc chiến thắng diệu kỳ là đánh bại sự chết, để từ nay con người không còn chết nữa mà cái chết sẽ mở ra một sự phục sinh trong vinh quang với Đức Giê-su. 7 Sứ điệp Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một Quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Nhưng để về Trời thì con người con người phải biết hoàn thành sứ mạng trần gian là làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói luôn nói về Chúa và về tin mừng cho anh em. Làm chứng bằng việc dựng xây thiên đường hạ giới ngập tràn tình yêu. Làm chứng bằng đời sống chọn Chúa , chọn giá trị Nước Trời hơn là những vinh hoa phú quý trần. Dẫu chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao đồng tiền đến nỗi bán rẻ nhân phẩm của mình, thì người tín hữu phải sống sao cho nhân loại thấy còn một nhu cầu cao quý hơn vật chất chính là tìm kiếm Nước Trời.
Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.
Có thể nói: tôn giáo là nhu cầu của con người. Là người ai cũng có tôn giáo. Ai cũng tin vào LênTrời ABC-283
Có thể nói: tôn giáo là nhu cầu của con người. Là người ai cũng có tôn giáo. Ai cũng tin vào thần thánh, tin vào ơn trên. Tôn giáo xuất phát từ bản tính tự nhiên của con người luôn quy hướng về Đấng tạo thành. Vì thế, có rất nhiều tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều dạy người ta ăn ngay ở lành, đều quy hướng con người về với Đấng tạo hoá để sống thanh thoát với những đam mê trần gian. Điểm chung của các tôn giáo là tin có đời sau. Hay có thể nói là các tôn giáo đều tin có sự sống siêu nhiên, sự sống vô hình. Người ta thường chia cuộc sống con người thành hai thái cực: trần gian và thiên đàng. Trần gian thì tạm bợ. Thiên đàng thì vĩnh cửu. Cuộc sống ở trần gian là đi tìm hạnh phúc. Cuộc sống ở Thiên đàng là ở trong hạnh phúc. Người ở trần gian phải chiến đấu, phải nỗ lực vươn lên. Người ở thiên đàng thì vui thoả những công lao mình đã lập được ở trần gian. Thiên đàng là chung cuộc mà ai cũng mong đạt được sau cuộc sống trần gian. Thiên đàng là vương quốc của yêu thương, của hạnh phúc vô biên. Vì thế, người ta có thể vì hạnh phúc thiên đàng mà hy sinh những lợi ích tầm thường ở trần gian. Người ta không vì những bổng lộc trần gian mà đánh mất thiên đàng mai sau khi vì nó mà sống hèn hạ, sống thất đức...
Người ta kể rằng: Năm 1285, quân Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Bình Trọng được giao coi giữ Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Khi giặc đánh xuống, vì lực lượng yếu, Trần Bình Trọng bị bắt, Lý Hằng sai giải đến cho Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy Bình Trọng người cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút gì là sợ sệt thì biết không phải là tướng thường, nên muốn khuyên dỗ về hàng, liền tiếp đãi rất tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan lại hỏi: "Tướng quân có muốn làm vương đất Bắc không?".
Bình Trọng trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có chết là cùng, can gì phải hỏi lôi thôi".
Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần Bình Trọng hàng, nhưng vì có ý mến phục, cũng không nỡ giết, cho giải theo quân. Được mấy hôm, lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Trần Bình Trọng bấy giờ mới 26 tuổi.
Bình Trọng không bán nước cầu vinh. Bình Trọng chọn chết vinh hơn sống nhục. Không vì giầu sang hay chức vụ mà sống hèn hạ, sống lệ thuộc, sống mất tự do. Bình Trọng chọn cái chết để trung thành với quê hương đất nước. Rất đáng được người muôn thế hệ noi theo.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng có một vương quốc để yêu mến, để phụng sự. Đó chính là Nước Trời. Đó chính là quê hương đích thực của đời người chúng ta. Chúa Giê-su Ngài đã về trời sau một cuộc đời phụng sự Chúa Cha. Ngài về trời như một ân thưởng mà Chúa Cha dành cho Ngài về một cuộc đời luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha.
Biết bao các tín hữu từ xưa tới nay đã can đảm từ khước những cám dỗ mời mọc để sống trung thành theo Chúa. Họ thà chết chứ không phạm tội. Họ thà nghèo đói mà tâm hồn thanh thoát còn hơn là giầu có mà đầy lo âu bất an. Họ sẵn sang đánh đổi tính mạng của mình để bảo vệ đức tin, để làm chứng cho tin mừng. Họ không thể làm tôi hai chủ, nhưng luôn chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình.
Sứ điệp Chúa về trời luôn nhắc nhở chúng ta hãy làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng cách sống chiến thắng những tham sân si của lòng người. Làm chứng bằng đời sống hy sinh, sống cao thượng trước những cám dỗ của đam mê thấp hèn. Làm chứng cho nhân thế thấy rằng có một cuộc sống thiêng liêng, cuộc sống hạnh phúc vô biên mà chúng ta dám đánh đổi mọi sự để đạt được là Nước Trời. Làm chứng nghĩa là chọn Chúa, là trung thành phụng sự Chúa. Làm chứng nghĩa là không bán rẻ linh hồn mình vì một chút bổng lộc trần gian. Cuộc sống của người ky-tô sống dưới thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Người ky-tô không thể vì một chút bổng lộc trần gian mà đánh mất nước trời mai sau.
Lạy Chúa, Chúa đã lên trời vinh hiển sau một cuộc đời trần gian đầy hy sinh, gian khổ. Xin cho chúng con biết theo gương Chúa mà đón nhận thập giá trong bổn phận hằng ngày. Xin giúp chúng con biết sống thanh thoát khỏi những đam mê thấp hèn ngõ hầu mai sau chúng con cũng được vinh hiển bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Trong thánh lễ này, Giáo Hội cho chúng ta đọc hai trình thuật về cuộc thăng thiên của Chúa Giêsu LênTrời ABC-284
Trong thánh lễ này, Giáo Hội cho chúng ta đọc hai trình thuật về cuộc thăng thiên của Chúa Giêsu: đoạn mở đầu là sách Công Vụ Tông Đồ của thánh Luca và đoạn kết của sách Tin Mừng theo thánh Maccô. Đoạn này không do thánh sử viết mà do một người khác thêm vào nhưng Giáo Hội vẫn nhận đó là mạc khải.
Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ gồm nhiều chi tiết đang lúc đoạn Tin Mừng rất ngắn gọn.
Thánh Luca viết sách Công Vụ Tông Đồ và đề tặng một người tên là Thêôphilô. Thêô, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là Thiên Chúa; và philô, cũng theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là yêu. Thêôphilô là người yêu mến Thiên Chúa, tức là tất cả chúng ta. Thánh Luca gọi các Tông Đồ là những người mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn, nhờ Chúa Thánh Thần. Một chi tiết nhỏ nhưng rất quan trọng. Như thế các ngài được Thánh Thần bảo đảm, nhưng vẫn có một người bị loại đó là Giuđa. Như thế, chúng ta thấy rằng, Thánh Thần tuyển chọn, nhưng vẫn tôn trọng quyền tự do của mọi người. Chúng ta cũng được tuyển chọn vào Giáo Hội, do Chúa Thánh Thần, nhưng trung thành hay không là do quyền quyết định của mỗi người. Thánh Luca cũng nhắc đến sự cứng tin của các Tông Đồ, và Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách giúp các ông tiến sâu hơn vào niềm tin, cho các ông thấy Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.
Ngài ở lại với các ông 40 ngày. Đây là con số tròn của người Do Thái, chỉ một thời gian dài, không nhất định. Thánh Luca cũng cho chúng ta thấy rằng, Ngài thường dùng bữa với các ông: “khi đang dùng bữa với các ông, Ngài truyền cho các ông đừng rời khỏi Giêrusalem… chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa… là chịu phép rửa trong Thánh Thần” và nhờ Thánh Thần đó các ông sẽ là chứng nhân của Ngài.
Trước khi rời khỏi các Tông Đồ, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho sứ mệnh Ngài sẽ giao: Ngài nói với các ông về Nước Thiên Chúa, Ngài ban Thánh Thần, và sau đó, Ngài mới sai họ đi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…”
Một sứ mệnh cao cả và nặng nề!
Sứ mệnh đó được trao cho mỗi người chúng ta là những kẻ tin, những người được sai đi, những nhân chứng hôm nay của Ngài.
Chúng ta phải loan báo Tin Mừng để mọi người được cứu độ: “Tình yêu Chúa thúc bách chúng ta.”
Sau khi trao sứ mệnh cho các môn đệ, “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu của Thiên Chúa”. Lên trời đây được hiểu như một sự tôn vinh. Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh Chúa Cha đã trao cho Ngài. Nhiệm vụ trần thế của Ngài xem như chấm dứt, nhưng vẫn được tiếp tục qua các chứng nhân là các Tông Đồ hôm nay là chúng ta. Ngài không còn hiện diện hữu hình với chúng ta, nhưng Ngài vẫn hoạt động như thánh Maccô nói: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
Ngài ở lại nhờ Thánh Thần của Ngài như Ngài đã hứa: “Thầy không bỏ anh em mồ côi, Thầy sẽ ở lại với anh em.” Đây chính là một bảo đảm chắc chắn.
Có lẽ nhiều người ngạc nhiên vì Chúa đã hứa sẽ có những dấu lạ kèm theo để xác nhận lời rao giảng, nhưng chúng ta không thấy những dấu lạ đó nơi các nhà truyền giáo hôm nay nữa. Nhưng thời các thánh Tông Đồ, các ngài làm nhiều dấu lạ như Phêrô, đến nỗi người ta mang bệnh nhân đến những nơi ngài sắp đi qua để chỉ cần bóng của Ngài chạm đến họ thì họ sẽ được lành bệnh.
Thánh Phaolô cũng làm nhiều dấu lạ khiến dân chúng tưởng ngài là thần minh và muốn tế lễ cho ngài. Những dấu lạ ấy chỉ còn rải rác nơi một vài Đấng Thánh như thánh Gioan-Maria Vianney, thánh Piô Pietrelcina… Chúng ta không thể mơ mộng trở về thời các Tông Đồ, chúng ta đừng quá ước vọng vào các dấu lạ. Chính chúng ta phải thành dấu lạ của Thiên Chúa: “Anh em là nhân chứng cho Thầy”.
Chúng ta đã lãnh nhận sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Đó là một mệnh lệnh, không chỉ cho các Tông Đồ mà cho toàn thể Giáo Hội, cho từng người đã được ghi ấn tín trong phép rửa tội, được Thánh Thần sai đi.
Nhiều người tưởng rằng công việc truyền giáo đòi hỏi nhiều điều kiện: kiến thức, tài năng… Đó là một sai lầm của đa số người Công giáo, vì thế họ chỉ cố giữ đạo cho chính mình thôi. Vì hiểu lầm, nhiều người chùn chân trước mệnh lệnh của Chúa, dành việc này cho các linh mục hay tu sĩ, không biết rằng chính mỗi người đều là sứ giả của Tin Mừng.
Mọi người đã được thanh tẩy trong Thánh Thần phải hiên ngang rao giảng Tin Mừng. Rao giảng như thế nào? Vấn đề là: chỉ cần tin. Chúng ta có thể loan báo Tin Mừng bằng niềm tin. Khi chúng ta tin, chúng ta mới có thể nói và có rất nhiều cách để nói. Nói bằng lời, nhưng chúng ta có thể dùng một thứ ngôn ngữ không lời, đó chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta, một cuộc sống khắng khít với Chúa.
Cuộc sống Kitô hữu đòi hỏi chúng ta gắn bó với Chúa và như thế, mọi hành động ngôn từ của chúng ta đều trở thành loan báo. Tất cả những gì là thiện hảo, bác ái, chân thật đều trở thành một loan báo rõ rệt và hữu hiệu hơn cả lời nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Ánh sáng này tuy không rõ rệt như ánh sáng mặt trời nhưng cũng rất dễ nhận thấy. Đó là một loan báo sống động. Sở dĩ thế giới chưa nhận biết Thiên Chúa, đó là vì lỗi của chúng ta. Công Đồng Vatican II đã nêu rõ như thế. Chúng ta đã được Chúa tuyển chọn, chúng ta chưa là ánh sáng cho trần gian và nhiều người đã trở thành bóng tối che lấp ánh sáng và vẻ đẹp của Chúa.
Chúa bảo chúng ta: “Hãy ra đi”. Chúa không bảo chúng ta dừng chân ở một trạm nào. Cuộc sống là một dòng chảy không ngừng. Việc loan báo Tin Mừng phải như thời gian vẫn tiếp tục tuôn chảy. Mỗi hành động ngôn từ của chúng ta là LOAN BÁO, tốt hay xấu là do chúng ta. Chúa đang ở phía trước và mời gọi chúng ta dấn bước.
Đừng sợ sệt. Đừng mang một mặc cảm nào. Hãy hiên ngang tiến bước trong sự lành, vì chúng ta luôn có Chúa đồng hành với chúng ta: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Ông mục sư Wumbrand ở Rumani đã thuật lại mười năm tù của ông. Ông nói: “Tôi giảng đạo và người ta bắt tôi và bảo tôi không được rao giảng như thế nữa. Đó là một lời cảnh báo. Ra về, tôi tiếp tục rao giảng trong các gia đình. Người ta lại bắt tôi và cấm không cho tôi rao giảng và hăm dọa nếu tôi rao giảng thì sẽ có biện pháp. Tôi vẫn tiếp tục rao giảng. Lần này người ta bắt tôi và đánh tôi một trận rồi cảnh cáo một lần nữa. Nhưng khi về, tôi vẫn tiếp tục rao giảng và lần này người ta đánh tôi nặng hơn. Tôi nói với những người đánh tôi: “Tôi ký hợp đồng với các anh thế này: hễ tôi giảng đạo, các anh đánh tôi và hễ các anh đánh tôi rồi thì tôi giảng đạo”. Sau cùng họ cho ông ngồi tù 10 năm…
Chúng ta có can đảm như thế không?
Chúng ta làm được gì nếu Chúa không hoạt động với chúng ta? Nhưng chúng ta có cùng hoạt động với Ngài không? Hay chúng ta chỉ sống cho mình, cho bản thân và mơ mộng những kết quả thấy được?
Chúa bảo chúng ta ra đi…và ra đi là phải bỏ lại sau lưng tất cả mơ mộng trần thế, tiện nghi và cả bản thân: “Sống là sống cho Chúa và chết cũng là chết cho Chúa”. Như thế mới có thể truyền giáo – hôm nay và tiếp tục…
Chúng ta là giòng giống lang thang trên khắp thế giới, (dù chúng ta không đi đâu cả), để loan báo hồng ân cứu độ. Không bám vào một cái gì… Ra đi mỗi ngày trong tự do, dù chúng ta vẫn có thể có gia đình, của cải. Ra đi trong nhiệm vụ hằng ngày. Đó là môi trường truyền giáo của chúng ta, và chúng ta cũng đừng quên mỗi người chúng ta là một xứ truyền giáo vì chính chúng ta cũng chưa biết Chúa đủ.
Chúng ta cứ ra đi, đừng tưởng rằng chúng ta hèn yếu, chẳng ích lợi gì cho Nước Chúa. Mỗi ngày, chúng ta nguyện “Danh Cha cả sáng”, Danh Cha vẫn chưa được bao nhiêu người biết đến, “Nước Cha trị đến”, Nước Cha vẫn chưa đến. Ý Cha cũng chưa được thể hiện…
Con đường còn dài và rất dài. Hãy bước từng bước một, nhỏ thôi, nhưng mỗi bước sẽ đem lại cho Nước Chúa một chiều kích rộng lớn hơn. Chúng ta cũng nhớ lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngài đang có mặt nơi đây dưới hình thức tấm bánh, một món ăn, đem lại sinh lực cho mọi người. Hãy ăn lấy Ngài để cùng Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ. Chúng ta không cô đơn trên đường. Có Ngài, chúng ta dám dấn thân sống cuộc sống trần thế của chúng ta như một loan báo liên lỉ.
Theo Tin mừng của Gioan, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ LênTrời ABC-285
Theo Tin mừng của Gioan, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… Thầy đi để chọn chỗ cho các con…Thầy lại đến để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”. Hôm nay, mừng Lễ Chúa Lên Trời, câu hỏi được đặt ra cho mỗi người chúng ta: Chúa Lên Trời, vậy Ngài ở đâu và Chúa sẽ đem chúng ta đi về đâu với Ngài? Một nhà du hành vũ trụ nọ (xin không nêu tên), lần đầu tiên khi ông được cùng với các nhà thám hiểm khác bay vào không trung, khi con tàu của họ bay qua hết các tầng khí quyển, ông đã cố gắng để tìm xem Thiên Chúa ở chỗ nào trên bầu trời, ông tìm hoài nhưng đã thất vọng. Một thời gian, sau khi ông được về lại trái đất, ông đã mạnh dạn, tự hào để công bố rằng: “Không có Thiên Chúa nào ở trên trời cả”. Còn với chúng ta, là những người Kitô hữu, những người con cái Chúa, chúng ta tin, sống và loan báo niềm tin về mầu nhiệm Chúa lên Trời như thế nào? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng và minh chứng cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa lên trời trong vinh quang - đầy uy quyền và sứ vụ Chúa trao cho mỗi người chúng ta qua việc loan báo Tin mừng có ý nghĩa to lớn thế nào trong hành trình sứ vụ của chúng ta tại trần gian này.
Bài đọc một từ TĐCV và Tin mừng của Marcô như đan xen và hòa quyện vào nhau khi tường thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu lên trời. Đây là những giây phút rất xúc động và linh thiêng, vì đây chính là những lời dạy bảo, dặn dò-trăn trối rất tâm huyết cuối cùng của Chúa Giêsu cách cụ thể dành cho các môn đệ mà Ngài yêu mến. Thật vậy, ơn thánh sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ là những gì mà Ngài đã nhận được từ Thiên Chúa Cha. Cho nên, giờ đây Ngài truyền ban và ủy thác lại cho các môn đệ, để các ông ra đi, vẫn tiếp tục sứ vụ của Chúa tại trần gian này mãi cho đến ngày Chúa lại đến. Chúa Giêsu không chỉ truyền và ủy thác sứ vụ cho các môn đệ mà thôi, Ngài còn hứa ban cho các ông những ơn thánh kèm theo và đặc biệt hơn, đó chính là ơn của Chúa Thánh Thần qua sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thần. Trong giây phút trọng đại như vậy, “Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông…sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Chứng kiến việc Chúa lên trời, các môn đệ vừa thán phục, vừa ngỡ ngàng trước quyền năng đầy uy quyền của Chúa, nên các cứ mãi dõi theo ngước nhìn lên trời.
Thật vậy, với các Tông đồ, sau khi Chúa về trời, các ông giờ đây được mời gọi để tiếp tục thi hành sứ vụ của Chúa truyền đó là: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật”. Loan báo Tin mừng chính là làm chứng và rao giảng về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đến từ Thiên Chúa Cha, là Thiên Chúa Thật, Đấng đã vì con người chúng ta mà chịu đau khổ, chịu tử nạn, nhưng đã được phục sinh. Sứ điệp rao giảng và sự minh chứng đích thực qua đời sống sứ vụ của các Tông đồ, cũng chính là những gì mà trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã tái khẳng định lại với các tín hữu tại Êphêsô. Chúa lên trời, sau khi Ngài đã trải qua cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh. Chính vì lẽ đó mà mọi quyền năng, ân sủng được ban cho Ngài. Để từ đây, những ai tin, chấp nhận và sống trọn vẹn với sứ vụ mà Chúa trao, qua đời sống gắn bó mật thiết với Ngài, thì được Ngài ban ơn cùng với những quyền năng, ân sủng và sự sống đời với Chúa trên quê trời.
Chúng ta vững tin, khẳng định và loan truyền một cách mạnh mẽ về những ơn thánh mà Chúa đã trao ban lại cho chúng ta qua các Tông đồ và những người kế nhiệm các Ngài. Tin mừng Marcô hôm nay đã minh chứng điều này: “Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”. Thật vậy, sự hiện diện của Chúa và ơn thánh kèm theo qua lời rao giảng và các phép lạ mà các Tông đồ đã làm giúp cho chúng ta vững tin rằng ơn thánh cứu độ mà Chúa Giêsu đã trao ban, giờ đây vẫn luôn được tiếp diễn và trao ban qua Giáo hội Chúa cho những ai biết khiêm tốn, mở lòng và sống tín thác vào Chúa qua sứ vụ của mình.
Thật vậy, niềm tin vào Nước Trời, nơi Chúa Giêsu trở về cùng Chúa Cha, cùng với những ơn phúc Chúa ban, điều này được diễn tả và minh chứng qua Lời Chúa hôm nay, hầu giúp chúng ta xác tín hơn và có một cái nhìn tổng thể về đời sống và sứ vụ của mỗi người trước ơn Chúa. Chúa luôn hiện diện đồng hành, ban ơn thánh hóa cho chúng ta mọi nơi, mọi lúc. Nhờ vậy mà chúng ta có đủ sức để thi hành sứ vụ Chúa trao. Đồng thời, chúng ta luôn được mời gọi để trở nên những nhân chứng và sứ giả của ơn thánh Chúa cho ACE mình qua đời sống chứng tá yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vững tin hơn vào tình yêu thương và sứ vụ cao cả Chúa trao ban, xin cho chúng con từ nay không phải chỉ lo lắng cho cuộc sống mưu sinh tại trần thế với cơm-áo-gạo-tiền, nhưng luôn biết nỗ lực, hy sinh và tìm ra những phương cách hữu hiệu để làm sao tin mừng tình thương và ơn thánh Chúa được trao và ban lan tỏa đến với tha nhân. Mẹ Maria trong Tháng Hoa là gương mẫu tuyệt hảo cho những ai luôn biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và thực thi trọn vẹn sứ vụ Chúa trao trong tin yêu-phó thác và giờ đây bên Chúa, Mẹ là Đấng chuyển cầu cùng Chúa ban ơn cách đắc lực cho chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Michael Simone - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Làm thế nào bạn có thể trở nên dấu chỉ của Chúa Kitô cho người khác? ‘Hãy đi khắp LênTrời ABC-286
Làm thế nào bạn có thể trở nên dấu chỉ của Chúa Kitô cho người khác?
‘Hãy đi khắp thế gian và loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo.’ (Mc 16,15)
Tự bản chất, lễ Thăng thiên rất khó hiểu. Chỉ có Luca nói đến biến cố này, mặc dù tất cả các tác giả Tân Ước đều đồng ý rằng vào một lúc nào đó Chúa Giêsu đã không còn hiện ra nữa. Việc lên trời trong Kinh thánh chỉ có thể đối chiếu nơi câu chuyện của Êlia và Khanốc. Kinh thánh không cho biết chi tiết về việc biến mất của Khanốc (St 5,24). Trong khi đó, Êlia lên trời trong một cỗ xe lửa và gió lốc (2V 2,10-11). Trong cả hai trường hợp, Thiên Chúa hành động và tưởng thưởng cho một ai đó vì sự phục vụ của họ. Điều này ít rõ ràng trong trường hợp của Chúa Giêsu. Luca đề cập việc Chúa Giêsu “được đưa lên”, ám chỉ một người khác chứ không phải Chúa Giêsu hành động, nhưng ông lại không nói đến việc Thiên Chúa can thiệp trong sự kiện này. Luca cho chúng ta cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đã tự mình đảm trách mọi việc.
Tuy nhiên, trong một bối cảnh lớn hơn thì lễ Thăng thiên sẽ dễ hiểu. Ngay trước thời kỳ lưu đày ở Babylon (586 TCN), Thiên Chúa, hằng ngự trong Đền thờ Giêrusalem, đã rời bỏ Đền thờ và lên Núi Ôliu, phía đông Giêrusalem (Ed 11,23). Mặc dù đây là một hình phạt đối với các thầy tư tế vì đưa việc phượng tự ngoại bang vào đền thờ, đó lại là một phúc lành cho những người Do Thái đã bị phân tán do chiến tranh. Giờ đây, Thiên Chúa ngự trên cao Giêrusalem, và dân chúng có thể hướng lời cầu nguyện của mình về đó dù ở bất cứ nơi nào trên mặt đất, và tin tưởng rằng họ sẽ được nhậm lời (Đn 6,10). Khi mô tả việc Chúa Giêsu lên trời, Luca ngụ ý rằng Chúa Giêsu là Đấng thánh và ngài sẽ tiếp tục dự phần vào sự hiện diện thánh thiêng đó trên thành Giêrusalem. Từ bên hữu Chúa Cha, Ngài sẽ hướng dẫn Hội thánh trên toàn thế giới.
Phần kết Tin mừng của Thánh Maccô, mà Giáo hội đọc vào Chúa nhật hôm nay, đưa ra nhiều dấu hiệu về sự hiện diện tiếp tục của Chúa Kitô trong cộng đoàn Kitô hữu. Các Kitô hữu sẽ nhân danh Chúa mà xua trừ ma quỷ, họ sẽ nói những thứ tiếng mới lạ, không bị hại vì những hiểm nguy, và họ sẽ chữa lành người bệnh. Lịch sử bản văn phần kết của Tin mừng Maccô thì phức tạp. Các thủ bản cổ chứng thực là có nhiều biến thể, vì vậy rất khó để diễn đạt một cách chắc chắn những gì thánh Maccô đã nghĩ về những dấu chỉ này. Tuy nhiên, phần kết thúc mà chúng ta đọc vào Chúa nhật này vẫn thuộc thư quy, cung cấp một kết thúc thích hợp cho “sứ mệnh cứu nạn” của Chúa Giêsu. Giờ đây, các môn đệ trở những người “cứu hộ”, đi vào thế giới với quyền năng của Chúa Kitô bên cạnh, để giải thoát nhân loại khỏi sự chết.
Trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật hôm nay, thánh Phaolô đưa ra những dấu chỉ khác cho thấy Chúa Kitô đang hoạt động. Cộng đoàn Kitô hữu là thân thể Chúa Kitô trên mặt đất này, và từ trời, Ngài tiếp tục cung cấp những đặc sủng cần thiết cho sự an lành của họ. Khi một người cho thấy khả năng làm một môn đệ, ngôn sứ, nhà truyền giáo, mục tử hoặc thầy dạy, thì họ chứng thực rằng Chúa Kitô vẫn đang hoạt động trong cộng đoàn Kitô hữu. Trong bất kì cách thức nào, những ai đón nhận ân sủng để xây dựng thân thể Chúa Kitô thì họ trở thành một dấu chỉ cho thấy Chúa Kitô vẫn đang hoạt động.
Điều này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Chúa Giêsu vẫn ngự bên hữu Chúa Cha, hướng dẫn và trao quyền hành cho cộng đoàn Kitô hữu cùng với Chúa Thánh Thần. Mặc dù các dấu chỉ có khác đối với thời các Kitô hữu thời sơ khai, thì vẫn có bằng chứng cho thấy Chúa Kitô của Thiên Chúa tiếp tục hoạt động qua con người các môn đệ của Ngài. Trong một thế giới đầy bạo lực, các Kitô hữu rao giảng hòa bình. Giữa những người thù ghét, các Kitô hữu hành động trong yêu thương. Khi đối mặt với lòng tham, các Kitô hữu trao ban dù họ nghèo khổ. Giữa những người kiêu hãnh, các Kitô hữu vẫn giữ lòng khiêm tốn. Đây là những dấu chỉ của Chúa Kitô phục sinh vẫn đang hoạt động.
Một người đàn ông khi còn sống chuyên làm nghề quảng cáo. Khi ông ta chết, ông ta đến gặp LênTrời ABC-287
Một người đàn ông khi còn sống chuyên làm nghề quảng cáo. Khi ông ta chết, ông ta đến gặp diêm vương. Diêm vương ân cần hỏi ông: "Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục." Ông ta ngập ngừng đáp. Tôi chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao tôi có thể chọn!. Diêm vương dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho ông ta thấy cảnh thiên đàng. Đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, thanh bình, vui chơi..., người ta ăn nói nhẹ nhàng, lịch thiệp. Sau đó, Diêm vương dẫn ông ta đến xem hỏa ngục, thì ông ta thấy vui nhộn, người ta ăn nhậu, vui vẻ, có các cô gái chân dài, trẻ đẹp múa hát. Thế là ông ta thích thú. Khi nhìn thấy thiên đàng và hỏa ngục rồi, ông ta mau mắn trả lời: ở thiêng đàng buồn quá, tôi thích chọn quả ngục vui sướng hơn. Thế là Diêm vương sai hai thằng quỷ đưa ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi, ông ta hoảng hốt la hét lên: nóng quá làm sao tôi chịu nổi, ông ta la hét lên: sao không có ăn nhậu hay các cô gái đẹp gì cả, toàn là lũ quỷ đen đang hành hạ các tội nhân. Ông ta tức giận quay lại hỏi Diêm vương. Thế hỏa ngục lúc ông chỉ cho tôi ở đâu? Diêm vương khoái trí cười trả lời: "Đồ ngu, đồ thứ tham lam duc vọng, đó chỉ là quảng cáo thôi." Đời là thế đấy! Và ông cũng làm nghề quảng cáo mà.
Người ta thường nói: "Sinh nghề tử nghiệp". Khi còn sống ông ta cũng đã dùng nhiều cách mánh khóe, gian lận, sảo huyệt để quảng cáo và đánh lừa người khác để làm lợi cho mình. Đến khi chết rồi, ông ta vẫn còn cái tính tham lam, tính toán, nên bị Diêm vương cao tay đánh lừa ông ta. "Gậy ông đập lưng ông". Một cách nào đó, câu chuyện này có thể minh họa cho lối sống thực dụng của con người trong thời đại này. Cuộc sống là một cuộc chay đua để kiếm tìm danh lợi, của cải, vật chất, hưởng thụ và khoái lạc. Mạnh được yếu thua. Do đó, việc quảng cáo là tuyệt chiêu để đánh lừa người khác, đánh bóng tên tuổi và tạo sự hấp dẫn để che lấp sự giả tạo bên trong. Con người nhìn nhau qua lăng kính vẻ bên ngoài hơn là cái giá trị thiêng liêng cao đẹp, lấy lợi trước mắt mà quên tác hại đằng sau, thấy xác quên hồn. Chúng ta vẫn biết sai lầm, nguy hiểm, tội lỗi, nhưng cuộc sống lôi cuốn chúng ta chạy theo cuộc chơi của thế gian, bất chấp tất cả vì nhu cầu cuộc sống, và ta lại bảo: đời là thế.
"Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật Thế cho nên tất bật bến bây giờ! Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ Khi trở về cát bụi cũng trắng tay Cuộc đời ta phù du như cát bụi Sống hôm nay và đâu biết ngày mai Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi Rồi cũng về với cát bụi mà thôi Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét Ðừng hận thù tranh chấp với một ai Hãy vui sống với tháng ngày ta có Giữ cho nhau những giây phút tươi vui Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc."
Dù biết rằng, thế gian chỉ là quán trọ dừng chân. Của cải, danh vọng chỉ là phù du và cát bụi, thế mà chúng ta vẫn mãi mê kiếm tìm. Đâu là nơi chốn đích thực, thì hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho ta nơi đó là trên Trời. Ngài về Trời trong ánh vinh quang rạng ngời, nơi đó con người tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, và không còn tranh giành ganh đua tua thiệt. Mọi người sống trong thanh bình, yêu thương. Nhưng để đạt tới thiên đàng, gặp được thiên nhan Chúa, thì chúng ta cần phải hoàn thành cuộc sống nơi trần gian này.
Nước Trời không phải xây dựng trong mây gió, nhưng là sống và thực hiện tốt trong thực tại trần gian này. Chúa Giê-su căn dặn các tông đồ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Hoàn thành bổn phận trách nhiệm người con dân của Chúa ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Nhiệm vụ đó không chỉ là sống tốt, sống công bình bác ái mà còn là nhiệm vụ mang ánh sáng và gieo Tin Mừng cho thế gian. Việc làm tốt ở trần gian là cách xây dựng Nước Trời mai sau. Trần gian này chỉ là quán trọ dừng chân, nó không vĩnh cửu, nhưng là cơ hội cho ta đạt tới hạnh phúc viên mãn Nước Trời.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, Xin hướng dẫn con theo lối bước của Ngài, để hồn con ngập tràn niềm vui, bình an và thanh thoát. Ngài về Trời trong ánh sáng vinh quang, và xin cho con luôn biết khao khát tìm kiếm Nước Trời quê hương vĩnh cữu. Amen.
Chủ đề: THẦY VỀ CÙNG CHA, ĐỂ SAI ĐẤNG BẦU CHỮA ĐẾN VỚI CHÚNG CON
Kính thưa quý anh chị em,
Lên trời”, kiểu nói văn chương trong Kinh Thánh, diễn tả quan niệm trời/đất của người Do Thái LênTrời ABC-288
“xưa. “Trời” là nơi cư ngụ của các thần minh, còn “đất” dành cho con người.
Chúa lên trời, diễn tả trọn vẹn con người Giê-su được thần hóa, được tôn vinh, bình đẳng, đồng quyền năng với Thiên Chúa. Giê-su lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, hợp thành một nguồn cội, cùng đồng sai phái Chúa Thánh Thần xuống trên thế gian, đổi mới và đưa con người vào trong chân lý toàn vẹn.
Thánh giáo hoàng J-P. II diễn tả mầu nhiệm nhập thể: Thánh Thần làm cho Đức Giê-su, một khi đã làm người, thì đời đời là người, ngay cả khi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Ngài cũng là một con người, vì thế, hy vọng có chỗ cho chúng ta trong gia đình Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Chúa lên trời gieo niềm hoan hỉ, vui mừng cho dân Chúa trong cuộc lữ hành tiến về Nhà Cha và giúp hiểu thấu đáo hơn lời Chúa Giê-su nói với các Tông Đồ: “Thầy đi thì có lợi cho chúng con hơn, vì nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Phù Trợ đến với các con” (Jn 16, 7).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy dân Chúa sống mầu nhiệm Nước Trời trong khi chu toàn các bổn phận trần thế thuộc đấng bậc mình.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, nhấn mạnh các hoạt động trần thế của Đức Giê-su, từ đầu cho đến khi Người được rước lên trời, nghĩa là: từ nhập thể cho đến chết trên thập giá vì chúng ta.
Nhắc lại cuộc đời Chúa Giê-su là muốn khẳng định giá trị thật, giá trị vĩnh cửu các hoạt động đó. Mọi việc Giê-su làm, cốt vì “vâng lời”, nhằm chu toàn trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho những ai tùng phục Người.
Nhờ sự vâng phục, Giê-su chuộc lại sự bất trung của nguyên tổ xưa, khơi nguồn cứu độ cho cả thế gian, vì thấu hiểu giá trị vĩnh cửu của sự vâng phục cứu độ, Giê-su đã sống vâng lời, vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá, vì thế, Thiên Chúa tôn vinh Người, tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu (Ph 2, 8 - 9).
Công cuộc đào tạo các môn đệ sống “vâng phục” có tính trường tồn, nên khi hoàn tất sứ vụ, trở về cùng Cha, Người đã sai Chúa Thánh Thần như ơn đầu mùa đến với các tín hữu, để dạy dỗ họ mong chờ ơn cứu độ trong sự vâng phục đức tin.
Các môn đệ Giê-su chỉ có thể chu toàn sứ vụ “chứng nhân Tin Mừng”, khi họ yêu mến vâng phục như chính Thầy mình, nhất thiết họ phải được Thánh Thần của Đấng Phục Sinh dạy dỗ. Chúa truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng ở lại, chờ đợi điều Cha đã hứa (cf. Cv 1, 4 – 5).
Sự vâng phục đức tin giải thoát môn đệ khỏi những áp lực thế gian, những lo toan, tưởng tượng viển vông về tương lai kỳ hẹn xẩy đến cho thế giới, nhưng một lòng tín thác cậy trông vững vàng, nên nhân chứng cho Ngài khắp cả trần gian.
Bài sách thánh dạy người môn đệ phải chủ động nhập thể vào lịch sử, văn hóa cụ thể, không được phép xem nhẹ hay trốn tránh bổn phận trần thế, trái lại, phải kiến tạo hạnh phúc Nước Trời trong chính những bổn phận ấy.
Kitô hữu tốt, không hệ tại ở hình thức bề ngoài như thuộc nhiều kinh, đi nhiều lễ, nhưng, nơi phẩm chất, luôn chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình, cầu nguyện liên lỉ, nhất là chuyên chăm lắng nghe, thực thi ý Chúa...
Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng, không phải để lìa xa các môn đệ, nhưng hiện diện gần gũi hơn trong Chúa Thánh Thần.
Thân mình mầu nhiệm là cách thức hiện diện mới của Đấng Phục Sinh, để từ nay, Chúa hoạt động trong và nhờ các chi thể của Ngài. Có Chúa cùng hoạt động với các ông, chứng nhận, củng cố lời rao giảng bằng những dấu lạ đi kèm (cf. Mc 15, 20).
Hội Thánh, hậu Phục Sinh, đang chứng kiến một “lễ hiện xuống mới”: mạnh mẽ và tỏa rộng khắp nơi.
Mạnh mẽ nơi chủ thể đón nhận Tin Mừng phục sinh. Các Tông Đồ được đầy Thánh Thần, can đảm, dạn dĩ phi thường, tìm đến nơi tụ tập đông người để rao giảng, bất chấp đe loi, tù tội, hiểm nguy, miễn sao Chúa Kitô được rao giảng. Họ hoạt động, không vì lợi lộc thấp hèn, không vì thành công theo kiểu thế gian, nhưng vì vinh danh Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.
Hội Thánh thời các Tông Đồ, đã luôn cẩn trọng biện phân “dấu chỉ thời đại”, đọc ra được ý Chúa muốn, cụ thể, khi bị bách hại, cấm cách, các môn đệ chuyển đến các vùng dân ngoại thiết lập cộng đoàn. Bách hại trở thành cơ hội để Tin Mừng loan đi khắp chân trời góc biển, ứng nghiệm lời vị Tông Đồ dân ngoại: “Thiên Chúa biến mọi sự nên lành cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8, 28).
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, liệt kê những ân huệ lớn lao Thánh Thần đã làm nơi Đức Kitô và nơi cộng đoàn. Ngài làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, đặt ngự bên hữu Thiên Chúa, đồng thời, luôn ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế. Thánh Thần cũng làm cho những kẻ tin được tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm Chúa, đến độ có Giê-su làm đầu và mỗi tín hữu là các chi thể của Người.
Như vậy, nhờ Thánh Thần, người tín hữu trở nên “con” đích thực của Chúa Cha, đồng thừa tự lời hứa sự sống đời đời với Đức Kitô. Một nhân loại mới phát xuất từ Chúa Giê-su và có khả năng tăng triển đạt tầm vóc viên mãn của Người.
Thưa anh chị em,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thâm tín sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng được sai đến đưa dẫn tất cả vào trong chân lý toàn vẹn. Hồng ân Thánh Thần luôn là sự dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn, trung thực, đạo đức thánh thiện, trong trắng, hiếu hòa, vị tha và các điều khác tương tự như vậy, sẽ chỉ dành cho người thiện tâm, yêu chuộng chân lý, sẵn sàng đón nhận và mong muốn được biến đổi nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn.
Họ là công dân Nước Trời! Chúng ta cũng được mời gọi gia nhập Nước Chúa! Vậy hãy bước theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Amen.
Chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một LênTrời ABC-289
Chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một Tông đồ, có lẽ chúng ta lòng cũng buồn rười rượi, bịn rịn phải nói lời chia tay với Chúa Giê-su vì hôm nay Người lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Nhưng con thiết nghĩ nỗi buồn này được lấp đầy với niềm vui chan chứa, và ngôn từ chia tay này được thay thế bằng lời trấn an đầy xác tín của Chúa Giê-su Ki-tô với các môn đệ và với mỗi người chúng ta: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Các bài đọc hôm nay chúng ta vừa nghe, đặc biệt trình thuật ngắn gọn của Thánh Sử Mác-cô về sự kiện Chúa Thăng Thiên cho chúng ta thấy: Mác-cô không đơn thuần thuật lại chuyện Đức Giê-su được đưa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, mà còn nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy nhớ “bài sai” của Chúa Giê-su gửi cho mọi người tin nhận vào Người rằng: “Các con hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16). Nói cách khác, mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi và được sai đi làm chứng nhân cho Chúa tình yêu trong mọi hoàn cảnh sống, mọi thời đại và mọi lãnh vực.
Trước tiên, chúng ta nên hỏi bản thân: ai là chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu? Và chứng nhân cho Chúa là người như thế nào? Thông thường, anh chị em nghe quý cha, quý sơ, quý thầy được nhận bài sai đi truyền giáo, phục vụ ở nơi này hay nơi khác, ở quê hương hay trên một vùng đất xa lạ nào đó, chứ ít ai nghe giáo dân được sai đi?!! Nghĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, nhưng chúng ta nên biết rằng: khi được chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên người thuộc về Chúa Ki-tô (Ki-tô hữu), người được thông phần vào sứ vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Ngài; còn nữa, chúng ta cam kết từ bỏ mọi âm mưu đen tối của tội lỗi, ma quỷ và hứa sống tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa qua việc sống đức tin và làm chứng cho Chúa qua đời sống hằng ngày. Như vậy, chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu chính là mỗi một người Ki-tô hữu chúng ta, là những người được khắc sâu trong tâm khảm mình ấn tín thánh thiêng không bao giờ phai mờ, là người mặc lấy thánh danh Ki-tô hay là người mang tên Ki-tô hữu. Như bài đọc 1 trích trong sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giê-su khẳng định: các tông đồ sẽ được lãnh nhận sức mạnh của Thánh thần khi Người ngự xuống trên các ông. Bấy giờ các ngài sẽ là chứng nhân của Thầy Chí Thánh Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). Chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu là người được Thánh thần thúc giục, nâng đỡ, ban sức mạnh, can đảm, quả quyết, dũng cảm ra khỏi con người yếu đuối, sợ sệt, nhút nhát của mình, vứt bỏ những thú vui trần tục, thói quen đam mê mà dám tuyên xưng vào Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban Con Một yêu dấu của mình để cứu độ con người tội lỗi (x. Ga 3, 16). Còn gì đẹp hơn, cao cả hơn tình yêu của một Thiên Chúa trao ban chính sự sống mình cho chúng ta dù chúng ta bất xứng, vô ơn!
Như vậy, anh chị em chúng ta phải khẳng định một điều: đã là người Ki-tô hữu, tất cả chúng ta đều là chứng nhân của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm chứng cho ai và cho điều gì? Một câu hỏi dường như không cần thiết và có lẽ hơi dư thừa, nhưng nếu nhìn vào cuộc sống gia đình, lịch sử bản thân,những thăng trầm, và bước ngoặt lớn trong đời sống đức tin của mỗi người, chúng ta sẽ nhận ra: lắm lúc chúng ta không làm chứng cho Chúa tình yêu và cho Chân lý. Lý do thì ôi thôi vô số, hơn cả 1001 lý chứng để biện hộ, biện minh hay giải trình. Thay vì làm chứng cho Chúa Ki-tô đã yêu thương tôi, đã chết cứu chuộc tôi, tôi lại làm chứng cho “cái tôi”, cho “bản ngã” tự kiêu của mình. Thay vì làm chứng cho lòng thương xót, lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa dành cho tôi, tôi lại làm chứng cho sự cứng nhắc, hành vi lên án và ghen ghét đối với chính mình và đối với tha nhân. Thay vì làm chứng cho cử chỉ khoan dung, chờ đợi và vòng tay rộng mở của Chúa dành cho con người tội lỗi như tôi, tôi lại làm chứng cho lối suy nghĩ kết án, xua đuổi và tách biệt của mình đối với anh chị em trong cộng đoàn; và còn vô vàn nhiều điều khác mà đáng lẽ chúng ta phải làm chứng, nhưng vì sự yếu đuối, chúng ta đã nhiều lần thỏa hiệp với điều bất chính hoặc cho tư lợi cá nhân.
Là con cái Chúa, chúng ta phải sống trong sự thật, làm chứng cho chân lý, nhưng lắm lúc chúng ta lại làm chứng gian. Chính vì nhận biết con người thật mỏng manh, yếu đuối và dễ sa ngã như vậy, thánh Phao-lô đã nhắn nhủ chúng ta qua bài đọc II, thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô: “Anh em được ban thần khí khôn ngoan và mạc khải để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh...” (Ep 1, 17-18). Lời nguyện xin của thánh Phao-lô cho tín hữu Ê-phê-sô cũng chính cho mỗi người Ki-tô hữu chúng ta. Thật không sai khi chúng ta nhận mình yếu đuối, nhưng với ơn Chúa, chúng ta trở nên can đảm làm chứng cho Ngài. Chẳng chút gì sai khi chúng ta nhận biết mình mù quáng trước lợi danh, tiền, tài, tình, tham vọng và đam mê, nhưng với Thần khí khôn ngoan, đôi mắt tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt, can trường đứng về phía chân lý và làm chứng nhân cho tình yêu đích thật, làm chứng tá cho Thiên Chúa.
Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã biết mỗi một người trong chúng ta được Thiên Chúa mời gọi trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa và cho chân lý. Tuy nhiên, sống trong một thế giới đầy chuyển biến như ngày nay, chúng ta phải sống chứng tá như thế nào? Một niềm vui an ủi chắc chắn cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho chúng ta, đó là: mặc dù Chúa Giê-su vinh hiển lên trời, nhưng Người luôn đồng hành, ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bằng chứng cụ thể, mỗi ngày Ngài hiện diện qua bí tích Thánh thể, trao ban chính sự sống Người cho chúng ta. Trong mọi phút giây, những khi ta quỵ ngã vì phạm tội, Ngài đồng hành với chúng ta qua bí tích Giải hòa để ban ơn tha thứ và bình an cho ta. Khi ta ốm đau bệnh tật phần hồn cũng như phần xác, Ngài đỡ nâng và cảm thông với ta, v.v...Những cảm nghiệm này, tiên vàn các Tông đồ là nhân chứng hùng hồn nhất “...phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” (Mc 16, 20). Trong đời sống mục vụ và truyền giáo ở xứ sở hoa anh đào này, con cũng được nhiều anh chị em chia sẽ: làm sao sống giữ vững đức tin ở đất nước phồn thịnh Nhật Bản này; làm sao sống chứng tá cho Tin Mừng và rao truyền Nước Chúa cho những người chưa tin nhận Chúa, v.v...Và câu chuyện đó luôn kết thúc bằng bốn chữ “khó lắm cha ơi”. Thật sự, bản thân con cũng đồng cảm với quý ông bà, anh chị em; nhưng cũng nên khẳng định một điều: “khó không có nghĩa là không thực hiện được”. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng bắt đầu làm chứng tá cho Chúa từ những việc làm bé nhỏ nhất, cử chỉ yêu thương, vị tha, sống hài hòa và hiệp thông với nhau. Và rồi từ tình yêu thương trong cộng đoàn dù bé nhỏ ấy sẽ như hương hoa lan tỏa khắp nơi. Hơn nữa, nếu chúng ta luôn tin tưởng rằng: chúng ta không ‘đơn thân độc mã’ sống chứng tá cho Tình yêu, nhưng các anh chị em khác đang cùng với ta và nhất là Chúa Ki-tô Phục Sinh luôn đồng hành, nâng đỡ ta trên bước đường trở nên nhân chứng Tình yêu như tâm tình trong một bài hát sinh hoạt “Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, Thiên Chúa sẽ cho mọc lên. Tôi trồng, anh tưới, Thiên Chúa cho bông lúa vàng”.
Với niềm tin xác tín vào Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa đã chịu chết cho nhân loại vì tình yêu. Và hôm nay Ngài lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài luôn ở cùng chúng ta cho đến ngày tận thế, chúng ta xin Chúa giúp sức cho mỗi người biết ý thức, can đảm trở nên chứng tá cho tình yêu mà Ngài đã dành cho chúng ta.
Chung lời ngợi khen Chúa Con, Hân hoan thờ kính sắt son một niềm. Ứng viên của Chúa tình yêu Nhiệt tâm, nhiệt huyết, đìu hiu xa rời, Gần gũi, gắn bó đầy vơi Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông. Hoạt động hăng say vun trồng, Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân Người người chung sức tảo tần, Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.
“Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16, 19-20).
Hai câu cuối cùng trên trong Tin Mừng Marcô mang lối văn nặng hình tượng nhưng, với tôi LênTrời ABC-290
Hai câu cuối cùng trên trong Tin Mừng Marcô mang lối văn nặng hình tượng nhưng, với tôi, là lời mời gọi vô cùng tha thiết trong thế giới ky thuật số hiện nay.
Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Lời Chúa, như Phaolô quả quyết: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu, tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1, 1), phải là người rao giảng thật xứng danh với địa vị cao cả, vì Chúa Giêsu đã kêu gọi trong chân lý trọn vẹn: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29), hay như thánh Phaolô đã nêu gương: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kiô” (1Cr 11, 1).
Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Đức Kitô không thể là những kỳ lục và biệt phái, những kẻ bị Chúa quở trách khi căn dặn dân chúng: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 2-4).
Những người rao giảng Lời Chúa như vừa nêu trên cao rao một lý tưởng sống cao đẹp nhưng bản thân lại sống mâu thuẫn. Họ hô hào những người khác dấn thân vào con đường hẹp. Còn chính ho thì lại vi vút giữa đại lộ thênh thang. Chính vì thế mà những người được nghe giảng khi họ gặp những con người kiên trung với nội dung rao giảng, chấp nhận đau khổ thua thiệt, không bị của cải thế gian vùi dập, vượt lên khỏi những sự dữ tác hại và dám chết vì điều mình loan báo (Mc 16, 17-18), thì đây quả là một ấn tượng rất lớn đối với họ. Một chân lý hiển nhiên là, từ kinh nghiệm bản thân, ai cũng biết rằng người ta chỉ sẵn lòng chịu cực khổ vì những điều họ thực sự thâm tín mà thôi. Do đó, Lời đã được sống có một sức mạnh thu hút vô địch, không gì thay thế được. Lời đó đầy lôi cuốn, đầy thuyết phục bởi đó là Lời đã từng cảm nghiệm, và đã vì đo mà chịu thương chịu khó trong cõi đời và trong nếp sống cầu nguyện của người rao giảng. Lời đó từ môi miệng phát ra mang theo một nhiệt tâm và một sức mạnh hết sức đặc biệt. Trong Lời đó có mảng linh hồn của chính ngươi giảng, và có thể bắt gọn linh hồn người nghe. Sự tương giao giữa người giảng và người nghe xẩy ra không phải trên ý niệm suông, nhưng trên thực tế. Đây cũng chính là điều mà tác giả trong phần cuối của Tin Mừng Marcô đã khẳng định: “có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.”
Chính thánh Phaolô tông đồ đã khích lệ: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4, 5). Vậy ở đâu chưa có sự nhất quán với Lời Chúa, tức chưa cùng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô thì trước tiên cần có đức khiêm nhường. Đây là thái độ tối cần thiết cho những tôi tớ của Lời Chúa. Người rao giảng phải tự xóa nhòa bản thân trước sự hiện diện của Lời Chúa, phải khước từ vinh quang của riêng mình, như thánh Gioan Tẩy Giả đã sống và đã chia sẻ với các môn sinh của mình: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Không chỉ hạ mình khiêm nhường, thánh Phaolô, Vị Tông Đồ rao giảng vĩ đại đã sống chết với Tin Mừng khi ngài viết cho môn đệ Timôthê yêu dấu: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xich!” (2Tm 2, 9). Với lòng mến thâm sâu, ngài đã đặt trọng tâm tất cả vào việc loan báo Tin Mừng, cho dù có phải bị gông cùm, ngài vẫn sẵn lòng đón nhận. Với lòng mến đầy tin yêu và để “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” như Đấng mà ngài say mê rao giảng, thánh Tông Đồ đã thể hiện đươc ý nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã truyền đạt trước khi trở về nơi Người đã đến là “dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.”
Mới đây, kết thúc buổi triều yết chung tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng ngày 20/5/2009, ĐTC Biển Đức XVI đã vắn tắt mở lời kêu gọi về Ngày Truyền thông Thế giới sẽ được cử hành vào ngày Chủ nhật 24 tháng 5 sắp tới. Ngài mời gọi:
“Đặc biệt với giới trẻ, cha kêu gọi các con hãy làm nhân chứng cho đức tin của chúng con qua thế giới kỹ thuật số. Hãy dùng những kỹ thuật mới đó để truyền bá Thánh Kinh, hầu cho Tin Mừng về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa vang dội bằng những phương thức mới khắp trong thế giới của chung ta, một thế giới không ngừng tăng tiến về kỹ thuật.” (trích Vietcatholic.net)
Làm nhân chứng cho đức tin mà ĐTC vừa nhắc nhở trên đã giúp tôi khâm phục biết bao một nhân chứng trên xe lăn mà tôi mới nhận được từ một nhóm trên mạng gửi tới. Bài viết có nội dung như sau và trích từ R. Veritas:
“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng cáo trên một tờ báo địa phương như sau: "Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề nào, xin hãy gọi điện thoại cho toi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất ít khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi rất thích nói chuyện với bạn".
Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ. Mỗi tuần bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc đẩy một người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những người khác?
Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt bà có sức khỏe hoàn toàn, nhưng rat tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ trên gác cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Nằm trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa Giêsu nói với ba: "Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo, nhưng linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng linh hồn con kháng kiện".
Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi quyết tâm dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.
Công việc của bà Mensi xem ra như không có gì đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một người tàn tật có thể làm để phục vụ Chúa.”
Và lời cuối cùng của bài viết cũng là lời nhắc nhở rất cụ thể về việc loan báo Tin Mừng bình an dành cho những ai muốn “có Chúa cùng hoạt động” trong thế giới ky thuật số hiện đại như ngày nay:
“Mỗi người tin Chúa phải làm một việc nào đó để giúp đồng bào, đồng loại của mình. Mạnh khỏe hay tật nguyền, trẻ tuổi hay già nua, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện, viết thư hay làm bất cứ điều gì theo khả năng, nếu chúng ta thực sự muốn đem Chúa vào tâm hồn những người chung quanh mình”.
Lạy Chúa,
Xin giúp con sức mạnh để con cũng kiên cường biết sống cho tha nhân như bà Mensi dù cho bà ngồi trên xe lăn như con vậy. Amen.
Đoạn Mc 16,9-20 không tìm thấy trong những thủ bản xưa nhất của Tin mừng Marcô. Có thể LênTrời ABC-291
Đoạn Mc 16,9-20 không tìm thấy trong những thủ bản xưa nhất của Tin mừng Marcô. Có thể đây là phần được thêm sau nầy, trong đó tóm tắt những điều mà trong các Tin mừng khác nói đến Đấng Sống Lại. Phần thứ nhất (16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18). Phần thứ hai (16,12-13) kể tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus (x. Lc 24,13-35). Phần thứ ba (16,14-18) kể lại chuyện Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43). Phần cuối cùng (16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Tđcv 1,9-11).
Đoạn nầy không chắc chắn do Marcô viết ra; tuy nhiên nó được viết theo một truyền thống cổ xưa và được công nhận thuộc về Kinh thánh. Có thể phân chia đoạn 16,15-20 làm ba phần: 1- Mệnh lệnh rao giảng Tin mừng và những hành động quyền năng kèm theo (16,15-18); 2- Chúa Giêsu lên trời (16,19); Các tông đồ đi rao giảng và Chúa cùng hoạt động với họ (16,20).
Lần đầu tiên việc rao giảng Tin mừng được giao phó cách rõ ràng và như một mệnh lệnh cho các tông đồ để chu toàn. Ngay từ đầu, Marcô đã ghi nhận nhiều lần là Chúa Giêsu không mệt mỏi đi rao giảng khắp miền Galilê và những vùng lân cận của nó (1,14-15.39.45; 5,20). Khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Marcô ghi nhận là Người kêu họ đến với Người để có thể sai họ đi rao giảng (3,14); tuy nhiên, ông đã không nói là khi nào. Trong diễn từ nói đến những thử thách và bách hại các môn đệ sẽ chịu, Người tiên báo là qua đó Tin mừng sẽ được rao giảng cho mọi dân tộc (x. 13,10). Như thế, “Anh em hãy rao giảng Tin mừng” là mệnh lệnh trực tiếp và đầu tiên các tông đồ lanh nhận sau khi Chúa Giêsu sống lại, và họ sẽ bắt đầu thực hiện nó cách công khai sau khi Người đã lên trời (16,15.20). Đây là thời điểm thích hợp nhất để làm việc đó, vì sứ vụ của Người trên trần gian chấm dứt khi Người lên trời; họ phải tiếp tục sứ vụ ấy của Người. “Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1) đã được loan báo trọn vẹn và đã thấm nhập họ không chỉ lời nói mà cả bản thân của Người. Rao giảng Tin mừng lần nầy sẽ được mở rộng cách phổ quát cho mọi người (16,15).
Những hành động quyền năng được hứa như xua trừ ma quỷ, nói được những ngôn ngữ mới, tiêu trừ những độc hại và chữa lành những bệnh tật là biểu trưng cho sự chien thắng trên sự chết và tội lỗi (16,17-18). Người ban những quyền năng ấy cho tất cả những ai tin vào Người; tuy nhiên, không chỉ chừng ấy thôi, mà cả ơn cứu độ dứt khoát trong sự sống vĩnh cửu nữa.
Như việc sống lại do bởi Chúa Cha thực hiện (16,6), việc Chúa Giêsu được đưa lên trời cũng bởi Người. Được đưa lên trời là trở lại nơi Người đã từ đó mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Cha của Người, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Thành ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành lớn chỉ sau Thiên Chúa (14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1). Sau cùng, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (16,20). Họ đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Thay vào lời hứa Chúa Giêsu sẽ ở cùng họ cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Marcô ghi nhận là Chúa cùng hoạt động và trợ giúp lời họ rao giảng bằng những dấu hiệu quyền năng (16,20).
Đang ở trong vinh quang và quyền năng với Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn luôn hoạt động liên lỉ với Giáo Hội để hoàn thành viec rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa cho muôn dân.
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa đi liền nhau. Như chúng ta đọc trong kinh Tin kính LênTrời ABC-292
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa đi liền nhau. Như chúng ta đọc trong kinh Tin kính: "Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha", Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha tức là Chúa Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Chúa Cha, Chúa hoàn thành sứ mạng Chúa Cha giao phó, nay Chúa trở về lại với Chúa Cha như lời Chúa Giêsu nói: "Thầy bởi Cha mà ra và đến trong thế gian và nay Thầy bỏ lại thế gian mà trở về cùng Cha"(Ga 16, 28). CG lên trời vì Chúa đã từ trời mà xuống như Chúa khẳng định:"Không ai lên trời trừ Con người, Đấng từ Trời xuống"(Ga, 3,13)
Chúng ta may mắn vì có Chúa Giêsu là đầu, là thủ lãnh: Chúa đi trước để chúng ta được theo sau, Chúa khai đường mở lối cho ta và để Chúa ở đâu thì chúng ta cũng được ở đó với Chúa. Chúa lên trời không hiểu theo nghĩa địa lý nhưng là một tình trạng hơn là nơi chốn. Chúa Giêsu được lấy lại vinh quang Chúa đã có từ trước. Tôi xin ra hai điều mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay:
1) Chúa dọn chỗ cho chúng ta như lời Chúa: "Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con ...(Ga 14,2) để các con có được chỗ trên nhà Cha trên trời vì thế chúng ta vui mừng vì việc Chúa ra đi chứ không phải buồn phiền và điều này cũng khẳng định là có Thiên đàng thực sự và Chúa muốn chúng ta theo Chúa để xứng đáng có được một chỗ trên Thiên đàng bằng cách chúng ta phải hết lòng ao ước Thiên đàng tức là ao ước những sự trên trời như chúng ta đọc trong gẫm thứ hai mùa Mừng: "Thứ hai thì gẫm ĐCG lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời." Ao ước và hướng về quê hương đời sau như lời thánh Phaolô: "Quê hương chúng ta ở trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa"(Pl 3,20)
Nhưng để được lên Thiên đàng, chúng ta hãy dùng những phương thế Chúa ban: có thể là như người trộm lành đã được Chúa cho lên Thiên đàng chỉ vì hành động sám hối và lời cầu xin: "Lạy Ngài khi nào về Nước Ngài xin nhớ đến tôi"(Lc 23,43) hoặc là ta rước Mình và Máu thánh Chúa như Chúa hứa:"Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời"(Ga 6,51) Giáo lý Công giáo dạy chúng ta phải làm sao khi chết, ta sống trong ân sủng và có tình bằng hữu với Thiên Chúa, thì Chúa sẽ đón nhận ta vào Nước vinh hiển Chúa: những điều này chắc chắn ai cũng làm được
2) Thực hiện di chúc Chúa để lại: trong Tin Mừng Mathêô trước khi lên trời, Chúa Giêsu nói: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ..."(Mt 28,19) Còn TM Maccô thì ghi lại lời Chúa như sau: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật"như vậy Chúa để lại cho GH cũng như cho mọi người tin Chúa một sứ mạng có tính cách phổ quát: Rao giảng Tin Mừng không hạn hẹp ở địa phương nào nhưng là khắp muôn dân, là tứ phương thiên hạ và cũng như lời các thiên thần nói với các môn đệ là đừng có đứng mãi nhìn lên trời nhưng hãy về dấn thân thi hành sứ mạng Chúa trao phó và khi các ông mạnh dạn rao giảng làm chứng cho Chúa thì có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng của các ông bằng những phép lạ kèm theo.
Giáo hội chọn ngày lễ Chúa lên trời làm ngày thế giới truyền thông để nối kết việc Chúa thăng thiên với lệnh truyền rao giảng tin mừng cho khắp thế giới. Vậy chúng ta ghi nhớ lời Chúa dạy trước khi lên trời để góp công sức vào việc thông truyền Lời Chúa bằng mọi phương tiện truyền thông chúng ta đang có hiện nay như điện thoại di động, Internet, video, TV, phim ảnh, phát thanh...
Thời gian từ khi Chúa lên trời cho tới ngày Chúa lại đến tức là ngày Tận thế là thời gian của Giáo hội, của sự mong chờ Chúa trở lại cũng là thời gian Chúa dành cho mỗi người chúng ta: chúng ta hãy tận dụng thời gian này để chu toàn sứ mạng Chúa trao đem lại nhiều hoa trái cho Nước Chúa và cho bản thân mình
Khi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ em ở Fatima, thì Fanxicô và Giacinta hỏi Đức Mẹ là các em có được lên Thiên đàng không? Đức Mẹ trả lời hai em sẽ sớm được Đức Mẹ đưa về trời, còn Luxia thì Đức Mẹ cho biết phải ở lại thế gian lâu hơn để phổ biến sứ điệp Fatima cho toàn thế giới. Quả đúng như thế, Fanxicô qua đời khi mới 11 tuổi, Giacinta chết khi 10 t, còn chị Lucia sau vào dòng kín và mãi tới năm 2005 mới qua đời khi đó thọ 98 tuổi
Chị Bernadetta được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức năm 1858. Người ta hỏi chị: Đức Mẹ có đẹp không? Chị trả lời Đức Mẹ đẹp lắm, nếu ai đã được nhìn thấy Đức Mẹ một lần thì sẵn sàng muốn chết đi để được nhìn thấy Đức Mẹ lần nữa
Bà Emilia Wojtyla là thân mẫu của ĐGH Yoan Phaolô II, khi bà mang thai thì bác sĩ bảo bà phải phá thai, nếu không bà sẽ chết, còn con trẻ thì nguy tới tính mạng nhưng cả hai ông bà đều quyết định không phá thai. Bà sinh rất khó khăn nhưng Chúa cho qua được và khi đứa con 9t bà mới chết, sau này người con đó trở thành vị thánh Giáo hoàng nổi tiếng trong thời đại chúng ta
Chúng ta nguyện làm theo lời Chúa dạy là lo tích lũy kho tàng trên trời (Mt 6, 20) và hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa để khi ra đi về với Chúa chúng ta có được một chỗ trên Nhà Cha trên Trời mà Chúa Giêsu đã dọn sẵn cho mỗi người chúng ta. Amen.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu ở lại với các môn đệ 40 ngày, và trước mặt các môn đệ, Ngài lên LênTrời ABC-293
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu ở lại với các môn đệ 40 ngày, và trước mặt các môn đệ, Ngài lên trời. Ngài khép lại một cánh cửa để mở ra một chân trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài tạo vật…”
Đoạn Tin Mừng của thánh Maccô thuật lại việc Chúa lên trời quá ngắn gọn, phải được bổ túc bằng tường thuật của thánh Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta mới thấy toàn cảnh.
Việc Chúa lên trời là một biến cố có tầm vóc rộng lớn hơn chúng ta tưởng. Ngài lên trời chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa chứ không chỉ là con người. Chính Ngài đã nói với ông Nicôđêmô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”.
Các môn đệ trước kia, khi Thầy còn sống giữa họ, mặc dù Phêrô đã tuyên xưng: Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống. Dù ông đã chứng kiến vinh quang của Ngài trên đỉnh núi biến hình, các ông vẫn xem Ngài là Thầy như là một con người. Giờ đây, khi Ngài được cất lên trời, các ông mới biết Ngài là ai, là người Con Một đầy ân sủng và chân lý”.
“Ngài được cất lên”, câu nầy không thể hiểu theo nghĩa thông thường. Thánh sử phải dùng ngôn ngữ thông thường để diễn tả những thực tại thiêng liêng, vì thế chúng ta không thể hiểu theo những hình ảnh thực tế mà phải tìm thấy những gì thánh sử muốn nói. “Ngài được cất lên” nghĩa là Ngài không còn thuộc về thế giới vật chất của chúng ta, Ngài là Thiên Chúa. Ngôn ngữ của chúng ta nghèo nàn không thể diễn tả những gì vượt xa tầm mức của chúng ta.
Các môn đệ nhìn trời, luyến tiếc. Họ cảm thấy mất đi cái gì họ đang nắm trong tay. Thầy vẫn là nơi họ nương tựa, giờ đây không còn ở với họ nữa. Một người thân của chúng ta đi xa và sẽ không trở về, chúng ta cảm thấy thế nào ?
Ngài không lên không trung. Thiên đàng không ở trên không trung. Một áng mây bao phủ lấy Ngài. Áng mây, theo Cựu Ước là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, và chính Chúa đã nói giữa Hội Đồng Do thái: “Rồi đây các ông sẽ thấy Con Người ngự trên áng mây”, nghĩa là các ông sẽ biết tôi là Thiên Chúa. Ngài rời bỏ thế gian, rời bỏ các môn đệ nhưng sẽ hiện diện một cách khác, Ngài “ở trong”. Thân xác hạn chế Ngài, giờ đây, Ngài có thể hiện diện trong mọi người và như thế, Ngài hoạt động hữu hiệu hơn, rộng rãi hơn. Ngài làm việc trong mọi người, trong Giáo Hội Ngài. Ngài cắt tỉa những cành nho của Ngài.
Trước khi ra đi, về với Chúa Cha, Ngài đã cẩn thận báo trước: “Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em, và Thầy sẽ lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy… Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em sẽ vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha”. Ngài cũng hứa là sẽ ở lại với anh em mọi ngày cho đến tận thế. Nhưng khi Ngài lên trời, các ông cứ đứng nhìn trời luyến tiếc. Họ vẫn không thể hiểu được rằng Thầy không lìa bỏ họ, mà ngược lại, Ngài sẽ có mặt một cách hữu hiệu hơn, rộng rãi hơn.
Ngài trao cho họ một sứ vụ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Ngài không bảo họ ở lại trong cuộc sống nhàn hạ của mình, chỉ lo cho cuộc sống vật chất, mà phải ra đi. Ra đi là từ bỏ mọi cái gì mình thích, bỏ cả những mơ mộng trần thế: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá và theo Ta”. Lúc Chúa lên trời là lúc chúng ta phải đi ra, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nói. Ra đi loan báo những gì Chúa đã làm, loan báo ơn cứu độ, loan báo tình yêu của Chúa. Chúng ta không thể đứng nhìn trời hay trông đợi Ngài khôi phục nước Itraen như các môn đệ đã ước mơ, hay cứ đặt câu hỏi: tại sao. Tại sao có chiến tranh, tại sao sự ác và đau khổ cứ tràn ngập cuộc sống ?
Không có lúc nào thế giới cần Tin Mừng như hôm nay. Khoa học đem lại tiện nghi nhưng không đem lại được bình an. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói, chúng ta đang sống trong một nền văn minh của sự chết, hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống và của tình thương. Ông Gabriel Marcel đã nói từ lâu: Chúng ta đang sống trong một thế giới đã gãy đổ. Chỉ có Tin Mừng của Chúa mới khôi phục lại sự bình an và giá trị cho con người. Chỉ khi con người biết mình là con Thiên Chúa, con người mới biết yêu thương nhau. Đó là điều chúng ta phải loan báo không ngơi nghỉ.
Loan báo Tin Mừng. Sứ vụ của chúng ta thật lớn lao! Chúng ta có rất nhiều phương tiện và khả năng, nhưng gần như chúng ta không sử dụng một cách chính xác, chúng ta không tận dụng mà bỏ rơi và chúng ta nói rằng tôi không biết làm sao loan báo Tin Mừng. Như thánh Phaolô nói, mỗi người được một ơn gọi khác nhau, nhưng mọi người đếu là một thân thể, hoạt động trong thân thể đó theo hoàn cảnh của mình. Công Đồng Vatican II cũng thối thúc tất cả con cái Giáo Hội đem hết năng lực loan báo kho tàng tình yêu Chúa.
Chúng ta làm được gì? Cầu nguyện. Đó là phương tiện mà mọi người không trừ ai có thể làm và bất cứ lúc nào. Đa số chúng ta quên cầu nguyện cho việc truyền giáo, quên cầu nguyện cho những người đang chờ đợi Tin Mừng. Có ai trong chúng ta đứng giữa đường, nhìn thấy những người đi qua mà cầu nguyện cho họ?
Chúa bảo chúng ta làm chứng cho Ngài. Làm chứng bằng chính bản thân chúng ta, bằng chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Hãy sống tốt, và thật tốt để mọi người thấy những việc lành chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Đây cũng là một phương tiện trong tầm tay chúng ta, và là một phương tiện hữu hiệu nhất, hơn cả những bài giảng hùng hồn nhất.
Một phương tiện khác: yêu thương. Đây cũng là một phương tiện mà chúng ta vẫn có sẵn. Ở đâu tình yêu được tỏ hiện thì nơi đó Thiên Chúa được loan báo. Tin Mừng là chính Chúa và Thiên Chúa là Yêu thương. Một người Công giáo và là một triết gia nói: “Từ khi có Chúa Giêsu trên trần gian thì cuộc đời của mỗi tín hữu là một quyển sách Tin Mừng được mở ra”.
Thánh Maccô cũng nói: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Chúng ta làm những gì có thể làm được và chính Chúa hoạt động trong các tâm hồn. và trong mỗi người chúng ta. Có lẽ chúng ta không trừ quỷ, không cầm rắn trong tay, không nói tiếng mới lạ, nhưng chúng ta có thể giúp người khác thấy được Thiên Chúa một cách nào đó mà chúng ta không thể biết.
Ngày hôm nay, Chúa thăng thiên chính là ngày xuất hành của chúng ta. Có lẽ chúng ta sẽ đi trong sa mạc loài người, chúng ta sẽ gặp khó khăn, trở ngại. Nếu chúng ta tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta sẽ thấy rằng không có gì vô ích. Cứ ra đi trong cuộc đời với một khí giới duy nhất là niềm tin. Hãy đứng lên và đi. Chúa đã nói với người bất toại như thế, Ngài cũng bảo chúng ta như thế. Hãy đi, mang trong tâm hồn sự hiện diện vô hình của Chúa, mang kinh nghiệm của chúng ta là sự hiện diện của Lời nhập thể. Lời nhập thể không phải là của chúng ta mà là của những người đang mong đợi Lời đó.
Chúa Giêsu không đòi những gì quá sức chúng ta, Ngài chỉ mong chúng ta bước một bước đầu tiên và Ngài sẽ cầm tay chúng ta giúp chúng ta bước tới. Chúng ta không là một Phaolô vĩ đại, một Phanxicô Saviê hăng say nhưng chúng ta có thể là một tiếng kêu trong sa mạc loài người. Hãy cầu xin cho mọi người anh em chúng ta nhận thấy tiếng gọi ra đi của Chúa để cùng nhau, mọi người đều trở thành một loan báo sống động của Chúa, để ngày nào đó, chúng ta cùng thăng thiên, vì Thầy ở đâu anh em cũng sẽ ở đó với Thầy.
Chúa về trời, nhưng Ngài vẫn còn đây, là tấm bánh hằng sống. Ngài không lệ thuộc vào thời gian, không gian nữa, Ngài đi và vẫn ở lại bằng nhiều cách, và cách rõ rệt nhất là Thánh Thể của Ngài trao ban làm của ăn để giúp chúng ta đủ sức lên đường mỗi ngày. Ăn lấy Tấm Bánh Tình Yêu nầy, chúng ta sẽ thấy vững mạnh hơn, can đảm hơn. Thật kỳ diệu những gì Chúa làm cho chúng ta ! Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta thành những con người nhỏ hèn mà thật lớn lao, là những người được tham gia vào công việc cứu độ của Ngài.
Theo vũ trụ quan của người Việt nam: - Trời là một quãng không (impersonnel) ở trên đầu ta LênTrời ABC-294
a- Theo vũ trụ quan của người Việt nam:
- Trời là một quãng không (impersonnel) ở trên đầu ta đối với đất ta đang đứng đây:
Trên trờì có đám mây xanh, Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng. Trời quang, mây tạnh, trời u ám, trời nắng, trời mưa. - Trời là Ông Trời (personnel): Trời sinh voi, trời sinh cỏ. Ngẫm hay muôn sự tại Trời Trời kia đã bắt làm người có thân. (Kiều, câu 3241)
Dưới mắt người Do thái, trời là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là một kiến trúc vững chắc có các cột trụ chống giữ (Giop 26,11), có nền móng chắc chắn (2 Sm 22,8), có bể chứa nước, tuyết, băng giá, gió (Giop 38,22; Tv 33,7), có các cửa cống để tuôn các chất đó ra: tháo cống nước làm mưa, tháo cống gió làm gió (Stk 7,11; 2 V 7,2; Mal 3,10).
Trời ở trên, đất ở dưới. Trời là nhà của Thiên Chúa (Is 66,1) và đất là phần Thiên Chúa ban cho loài người (Tv 115, 16). Không ai lên trời được (Gioan 3,13; Cn 30,4; Rm 10,6). Kẻ mơ ước lên trời là người điên (xem Stk 11,4) vì tự xem mình đồng hàng vơi Thiên Chúa (Is 14,13).
2- Chỉ có Chúa Giêsu Kytô đã lên trời vì Ngài từ trời xuống:
"Thầy từ trời mà xuống, không phải làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Gioan 6,38). Thầy phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến"(nt 8,42).
Và khi Chúa Kytô đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha trong mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại), Ngài trở về với Chúa Cha bằng "con đường thăng thiên":
"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Marcô 16,19).
" Đang khi chúc lành cho họ, thì Người rời khỏi họ và được đem lên trời" (Luca 24,51)
"Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa "(Công vụ 1,9)
"Thiên Chúa đã biểu dương nơi Đức Kytô, khi làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết, và đặt ngư bên hữu Người trên trời" (Ephêso 1,20)
"Thiên Chúa ban cho ta một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kytô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời" (I Phêrô 3,21-22).
Đức Tin dạy chúng ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa xuống mặc lấy thân xác người phàm như chúng ta ngoại trư tội lỗi, gọi là Đức Chúa Giêsu Kytô. Vậy Chúa Giêsu Kytô là Thiên Chúa thật và là người thật. Là Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài ở khắp mọi nơi bằng bản tính và Ngôi Vị nên không thể nói Ngài "lên trời hoặc xuống trần gian ". Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm của chúng ta, như vậy khi sống như con người thì phải hoạt động trong Thân xác có giới hạn trong phạm vi của nó trên bình diện tự nhiên. Khi sống lại, vào trong vinh quang (siêu nhiên), than xác Chúa biến đổi hợp với tính siêu nhiên, nhưng vẫn là thân xác loài người, có những hạn chế, giới hạn. Chúa Kytô lên trời tức là thân xác của Ngài lên trời nghĩa là được đưa lên trời, được vinh thăng trong Nươc Trơi, Ngài làm chủ, làm vua trời đất muôn loài, muôn vật. Và khi Ngài hiện ra, không có nghĩa là Ngài từ trời xuống, nhưng là Ngài ban ơn đặc biệt để các Tông đồ thấy con người của Ngài, nghe tiếng Ngài nói như cũ.
Hiểu như trẻ thơ thế nầy: Chúa sống lại, hiện ra cho các Tông đồ thấy rồi biến đi, trốn vào một nơi bí mật, rồi lại hiện ra. Cứ thế trong vòng bốn mươi ngày, sau đó Chúa mới lên trời. Thật ra, khi sống lại, thân xác Chúa đã ơ cõi siêu nhiên, cõi trời rồi và Ngài hiện ra tức là Ngài ban ơn cho người ta thấy,nghe Ngài nói. Đến ngày thứ bốn mươi, Chúa hiện ra lần chót bằng một "cử chỉ lên trời" đề cho các Tông đồ biết Ngài không còn hiện ra như thế nữa.
Nhưng sự kiện Chúa thăng thiên có một tầm rất quan trọng nên thánh Phaolô đã nói rất mạnh: "Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải Người đã xuống tận các vùng sâu thẩm dưới mặt đất. Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi từng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn"(Eph 4,9-10). Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người" (Col 2,14-15). Bản văn nhấn mạnh đến cuộc "đảo chính" (truất phế) vì một nhóm người xem Chúa Kytô ngang hàng với thiên thần nên phải "truất phế, bêu xấu, trói tay" điệu chúng đi trong đám rước chiến thắng của Chúa Kytô.
Về phần tín hữu của Chúa Kytô, vì Chúa lên trời mở đầu cho việc Chúa trở lại trong vinh quang giữa hàng thần thánh, ban ơn cứ độ viên mãn (xác sống lại trong vinh quang), đây là thời gian "trời đất giao hòa" vì Chúa lên trời mà còn ỡ trần gian. Ngay từ bây giờ, dầu chúng ta còn sống trên cõi trần, "Chúa Kytô đã cho chúng ta được cùng sống lại với Người và cùng ngự trị với Người trên cõi trời"(Eph 2, 6), "cũng như chúng ta dã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì nay chúng ta đang mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến (1 Cor 1,49). Tín hữu giống như người thiên quốc, "không thuộc thế gian nhưng không được cất khỏi thế gian" (Ga 17,15-16) và phải hoàn thành sứ mệnh Chúa trao phó trước khi Chúa lên trời nên rất cần sự hiện diện của Chúa tức là Chúâ ở lại cùng Hội Thánh cho đến tận thế. Công đồng Vatcan II đã dạy như thế nầy:
Chúa Kytô hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện thực sự trong Hy lễ, không những trong con người của thừa tác viên, vì " như xưa chính Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục", nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình thái Thánh Thể. Người hiện diện thiết thực trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế, ai rửa tội thì chính là Chúa Kytô rửa. Người hiện diện thiết thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: "Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ" (Mt 18,20) (Hiến chế Phụng vụ, số 7).
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói LênTrời ABC-295
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?
Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyen: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trơi là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chua Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chat đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất ca những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đo biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trơ về quê trời.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu,
Chua về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.
“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chua là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.
Lịch phụng vụ của Giáo hội Công giáo trình bày hai lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên và Đức Maria Lên LênTrời ABC-296
Lịch phụng vụ của Giáo hội Công giáo trình bày hai lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên và Đức Maria Lên Trời với những tên gọi giống nhau và có ý nghĩa tương đồng, nhưng thực chất rất khác nhau. Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên được mừng kính sau lễ Phục Sinh 40 ngày, và lễ Đức Mẹ Lên Trời được cử hành vào ngày 15 tháng 8. Trong tiếng La tinh từ Ascensione “Thăng thiên” chỉ dành riêng cho Chúa Giêsu Kitô, nó có nghĩa là “đi lên”: Ngài đã lên trời, đã thăng thiên, tự thân, nghĩa là nhờ quyền năng của Ngài với tư cách là Thiên Chúa. Với Đức Maria, từ Asumptione, muốn nói rằng: Mẹ “được đưa lên”, “được Thiên Chúa mang đi”. Mẹ được Chúa đưa về trời, không do khả năng của mình mà nhờ quyền năng của Thiên Chúa. (x. Chúa Giêsu Thăng Thiên và Đức Maria Lên Trời khác nhau thế nào?. aleteia.org).
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô hôm nay ghi lại rất vắn tắt: “Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời: đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính… đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Gióp, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu, cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa Giêsu lên trời, một cuộc tạm biệt, chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.
Chúa Giêsu lên trời, những chữ lên trời bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của con người. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Con người đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó.Trời ở đây không phải là một khoảng không gian rõ rệt, nhưng là một tình trạng (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 659-667, 2794-2796) mà Chúa Giêsu đi vào trong đó để dẫn chúng ta theo.
Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ bình dân của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Ngày xưa khi Chúa Giêsu nhập thế thì gọi là ‘xuống trần’. Hôm nay Người trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là ‘lên trời’. “Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4,10). Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi trên chốn bồng lai tiên cảnh đầy mây, nhưng đó là tình trạng Người đã lấy lại vinh quang.
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ, Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).Thành ngữ “bên hữu Chúa Cha” ám chỉ đến vị trí danh dự của Con Thiên Chúa, bên cạnh vinh quang vĩnh cửu của Cha. Nếu Chúa Giêsu không trở về với Cha thì sẽ không có ơn cứu chuộc nào dành cho con người; bằng cách trở về với Cha, Ngài hoàn tất sự Phục sinh và gửi Thánh Thần An ủi đến cho thế giới.
Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần. Người chính là “vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người (x. Pl 2,10-11).
Chúa Giêsu lên trời, điều đó dạy cho chúng ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.
Trời không phải là một nơi chốn xác định, chẳng phải là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.Lên trời không phải là bay bổng lên không gian, nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa. Lên trời không phải là vắng mặt, là xa cách nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.
Chúa Giêsu lên trời, đưa mọi người về trời với Người vì chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Thánh Phaolô trong thư Êphêsô (1,17-23) đã nói, Giáo hội là Hiền thê của Chúa Giêsu, Người là đầu và chúng ta là những chi thể. Khi Chúa Giêsu về trời là mỗi người cũng được chia sẻ thần tính của Người, đi vào một tình trạng kết hợp hoàn toàn mới mẻ với Người. Điều này không phải chỉ xảy ra sau khi ta chết, nhưng có thể thực hiện ngay trong đời sống trần thế như đời sống của nhiều tín hữu đã chứng minh: thánh Phaolô được đưa lên tầng trời thứ ba (x. 2Cr 12,2). Nhiều vị thánh như Phanxicô Assidi, Gioan Thánh Giá, Catarina de Sienna… cảm nghiệm trời trong những lần xuất thần; còn thánh Têrêsa Calcutta lại thấy trời giữa lòng xã hội với những con người khốn khổ, bệnh tật.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chúa Giêsu lên trời, mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ.Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Chủ đề của Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 55 năm nay là “Hãy đến mà xem” (Ga 1,46). Truyền thông bằng cách gặp gỡ mọi người như chính họ là.
Chúa Giêsu lên trời, nhưng không rời xa nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” Như vậy, khi đang sống ở trần thế này, chúng ta được vui hưởng niềm hạnh phúc Chúa ở cùng. Ai sống trong tình yêu Chúa thì ở trong Nước Trời. Thế nên, Chúa đã trao cho các môn đệ sứ mạng xây dựng Nước Trời ngay đời này bằng cách làm chứng cho Chúa, làm cho mọi người tin yêu Chúa. “Đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời”. Yêu thương làm Nước Trời xuất hiện ngay bây giờ và cho tới muôn đời. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin Mừng Cứu Độ và loan báo Tin Vui.
Con người từ cổ chí kim đều tin rằng có thiên đường và có hỏa ngục. Thiên đường là niềm khao LênTrời ABC-297
Con người từ cổ chí kim đều tin rằng có thiên đường và có hỏa ngục. Thiên đường là niềm khao khát của con người qua mọi thời đại. Không ai muốn sống trong hỏa ngục. Trái lại, ai cũng mong được sống trong thiên đường. Một cuộc sống thiên đường có bình yên, có hạnh phúc. Một cuộc sống thiên đường sẽ không còn nhưng bon chen tranh giành, hận thù, chia rẽ mà chỉ có hòa thuận, chia sẻ, yêu thương.
Điều lạ là ai cũng thích thiên đường nhưng lại không ra sức xây dựng thiên đường. Cuộc sống luôn là chiến trường, là tranh giành, là đọa đay khổ đau. Con người luôn phải đối mặt với biết bao bể dâu cuộc đời. Chính con người đã tạo ra hỏa ngục trong khi họ lại mơ ước thiên đường.
Cuộc sống xem ra nhiều khổ đau của hỏa ngục hơn là hạnh phúc của thiên đường. Con người dễ đầy đọa nhau hơn là nâng đỡ nhau. Nhu cầu hưởng thụ càng nhiều khiến con người loại trừ và làm khổ nhau nhiều hơn.
Người ta thường kể cho nhau về sự khác biệt giữa thiên đường và hỏa ngục qua câu chuyện sau:
Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?”. Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa…
Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.
Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.
Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.
Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng mình được. Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục”.
Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây trông thật to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.
Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”
Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa”.
“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn”.
Thiên đường hỏa ngục khác nhau ở cho có tình yêu hay thiếu vắng tình yêu. Ở nơi đâu có tình yêu ngự trị sẽ mang lại thiên đường tại thế. Ở nơi đâu thiếu vắng tình yêu sẽ là hỏa ngục nơi đầy đọa nhau mà thôi.
Hôm nay Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đay đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Nhưng để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.
Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.
Phi hành qia Gagarin sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ trụ khi trở về trái đất đã tuyên bố rằng LênTrời ABC-298
Phi hành qia Gagarin sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ trụ khi trở về trái đất đã tuyên bố rằng: tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả. Thế nhưng, nhà Bác hoc Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng đã thốt lên: tôi thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi.
Chúng ta là những người tin Chúa Giêsu Phục Sinh và lên trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giêsu lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?
Theo quan niệm của người Do Thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần: Phần dưới mặt đất là là âm phủ dành cho người chết;phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh.
Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn I: Sống lại, Đức Giêsu đi từ âm phủ lên mặt đất - Giai đoạn II: Lên trời, Đức Giêsu bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.
Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế,hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng khi lên trời như thế Chúa Giêsu sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta.Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian.Thưc ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao.Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đ¨¤ng là một trạng thái hơn là một nơi chốn.Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vao một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.
Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì bước vào coi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha,mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Đức Kitô ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần Đức Giêsu sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thay là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Hình thức của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ Đức Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng giáo hội như đôi tay để tiếp tục công cuoc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài.Giáo hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của giáo hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
Hơn ai hết các Tông Đồ trông chờ nhiều điều ở cuộc hẹn của Chúa Giêsu tại Galilê, vì Người vừa LênTrời ABC-299
Hơn ai hết các Tông Đồ trông chờ nhiều điều ở cuộc hẹn của Chúa Giêsu tại Galilê, vì Người vừa trải qua một biến cố trọng đại vô tiền khoáng hâu: sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu Phục Sinh đã không để các ông phải thất vọng: Người đã ban cho các ông một mệnh lệnh và một lời hứa. Mệnh lệnh là: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” Còn lời hứa là: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” Mệnh lệnh và lời hứa được đặt trên nền tảng vững chắc là quyền bính của Đấng Phục Sinh: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.‘
Chúng ta hãy dành thời gian để chiêm niệm ý nghĩa của Lễ Chúa Giêsu Kitô Thăng Thiên và hãy mạnh dạn đi đến với chư dân như Chúa đã truyền.
II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): "Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời" Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Đức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: "Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần".
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?" Người bảo họ rằng: "Đâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất". Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Đang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): "Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời". Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người; xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): "Mọi quyền năngg trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy" Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha, Đấng “đã biểu dương sức mạnh toàn năng nơi Chúa Kitô, khi làm cho Chúa Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Chúa Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh.
Hành động trên của Thiên Chúa Cha chính là ý nghĩa của Sự Kiện Thăng Thiên (lên trời) của Chúa Giêsu Nadarét.
* Là Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng
- “đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.”
- đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”
- đã giao sứ vụ giảng dậy và làm phép rửa cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
- đã long trọng hứa với các Tông đồ: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”
- và đã lên trời trước mắt các Tông đồ: “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh và hành động cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Đấng được Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ để giúp các ngài thực thi sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó trước khi Người về trời.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau:
Thứ nhất là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu khổ hình (chết) và phục sinh, đã thăng thiên về trời.
Thứ hai là tin vào lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Thứ ba là thực thi lệnh truyền của Người cũng là sứ vụ Người giao cho chúng ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
Mỗi người được Thiên Chúa và Hội Thánh mời nhìn lại mình xem trong cuộc sống hàng ngày mình đã thể hiện lòng tin và đã chu toàn sứ vụ như thế nào?
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 2 bước:
* Bước 1: Tăng cường lòng tin đối với Chúa Giêsu Kitô và với lời Người hứa, nhờ:
- đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày; - chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ; - học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh; - đào luyện tâm linh; - các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.
* Bước 2: Hiến dâng tài năng, tâm trí, của cải và thời gian cho công cuộc loan báo Tin Mừng và hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người cần được giúp đỡ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha của Người, để họ được Thần Khí khôn ngoan mặc khải về Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu trở thành người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người vững tin vào lời hứa và sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời mỗi người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những nhà truyền giáo trên mọi nẻo đường để họ nhận được sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Tin mừng Mc 16: 15-20 - Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta chứng kiến việc Chúa về Trời. Chúa về Trời trước hết diễn LênTrời ABC-300
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta chứng kiến việc Chúa về Trời. Chúa về Trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Nhìn lại lịch sử thăng trầm của con người, con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Việc Chúa Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng.”Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ.
Chúa Phục sinh đang hiện diện, đang có mặt trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ khi chúng ta họp nhau cầu nguyện, không phải chỉ khi chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng Người còn hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Khi thì như một người đang làm vườn (Ga 20,11-18), lúc thì như một người đi đàng (Lc 24,13-35), khi thì lại như một người đang cầu nguyện (Lc 24,50-53), lúc lại như một người thuyền chài (Ga 21,4-23). Chúa Phục sinh vẫn luôn đang hiện diện như vậy, không ngừng hiện diện như vậy với Giáo hội. “Lên trời” đấy, “ngự bên hữu Thiên Chúa” đấy; ấy vậy mà Giáo hội vẫn mạnh dạn khẳng định chắc chắn rằng: “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).
Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người. Sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là điểm kết thúc sứ mạng của Ngài và mở ra sứ mạng của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa về trời không phải Ngài thoái thác trách nhiệm, cũng không phải Ngài từ bỏ con người, nhưng Ngài hoàn tất nhiệm vụ Thiên Chúa Cha đã trao phó và trở về với Chúa Cha trong vinh quang của Ngài.
Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời đúng bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội có ý giúp con cái mình sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, một kinh nghiệm rất hữu ích và phong phú cho đời sống của những người con Chúa. Trong thời gian bốn mươi ngày, Giáo hội sơ khai đã vinh dự được sống những tháng ngày mà Thầy Chí Thánh “chiếu cố” gặp gỡ một cách hữu hình, và ngày thứ bốn mươi là lần cuối cùng họ được diễm phúc gặp gỡ Người một cách trực tiếp. Để rồi từ đây, họ sẽ vui mừng hơn nữa khi đã đủ khả năng để bước vào một kinh nghiệm lớn lao hơn, đó là kinh nghiệm gặp gỡ. sống và hoạt động tông đồ với Người, Đấng từ nay sẽ hiện diện một cách vô hình. Điều này đã được thánh Luca mô tả rất hay. Sau khi đã chứng kiến tận mắt Thầy Chí Thánh “được cất lên” và “có đám mây quyện lấy Người”, để rồi “không còn thấy Người nữa”. “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,53).
Chúa lên trời, không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện tại trần gian, nhưng là một sự thay đổi cách thức hiện diện. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước đây, nhưng vẫn hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Người được cất lên trước mặt các Tông đồ và có đám mây bao phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Hình ảnh đám mây bao phủ lấy Ngài, Thánh Kinh muốn nói rằng, Ngài vẫn hiện diện ở bên mỗi người, chỉ có điều là mắt chúng ta bị mây che phủ nên không nhận ra Ngài.
Chúa về trời để chỉ cho ta rằng, mục đích của mỗi người và quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời. Chúa về trời là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin theo Chúa, thực hành những điều Chúa dạy, đi theo con đường của Ngài thì cũng sẽ được về trời với Ngài. Ngài là người mở đường, Ngài đi trước để dẫn lối cho chúng ta theo sau. Vì thế, mỗi người phải luôn nhớ hướng tâm hồn và cả con người mình về quê trời, là nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đón đợi chúng ta.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Sống trong hy vọng phải là thái độ không thể thiếu nơi người tín hữu. Chúng ta không thể để những khó khăn hoặc những đe dọa của con người, của xã hội làm chúng ta mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng của người tín hữu không ảo tưởng, nhưng được đặt trên lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về với Ngài và chung hưởng hạnh phúc với Ngài.
Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho người khác khi chúng ta có Chúa, đồng thời, ta chỉ có thể nói về Chúa một cách không mệt mỏi khi chúng ta hoàn toàn xác tín vào Chúa. Trong khi anh em Tin Lành không hề ngại ngùng nói về Chúa Giêsu, thì dường như người Công Giáo lại rất ngại khi nói về niềm tin của mình. Lý do là vì đời sống của họ quá khác với đời sống của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Họ sống đạo một cách hời hợt qua lần, không cầu nguyện, không lãnh nhận Bí tích. Nhất là nhiều người không tự tin về vốn giáo lý của mình, bởi vì họ không học hỏi, không trau dồi nên họ tránh né không dám nói về Chúa, không dám mạnh dạn bênh vực niềm tin của mình.
Thật vậy, để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.
Và thầm mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.