Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-A Bài 51-100: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó

Thứ tư - 29/01/2020 22:49
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-A Bài 51-100: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-A Bài 51-100: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 4-A Bài 51-100: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
----------------------------------------------------------------

Phúc Âm: Mt 5, 1-12a "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời". - Ðó là lời Chúa.
----------------------------------------
TN 4-A51. PHÚC CHO NHỮNG NGƯỜI NGHÈO KHÓ TÂM HỒN.. 2
TN 4-A52. Mối phúc thứ nhất. 4
TN 4-A53. Chú giải của Noel Quession. 6
TN 4-A54. Chúng ta là người “nghèo khó” trước mặt Chúa. 11
TN 4-A55. TÁM MỐI PHÚC (x. mồng 1 Tết) 12
TN 4-A56. Chúa nhật khó nghèo. 14
TN 4-A57. Người Nghèo Khó trong Tinh Thần. 18
TN 4-A58. Chúa Nhật 4 mùa Thường niên, A.. 21
TN 4-A59. Bí quyết để sống hạnh phúc. 25
TN 4-A60. CHÚA NHẬT 4 QUANH NĂM... 29
TN 4-A61. Tám mối phúc - Đường dẫn đến tự do. 32
TN 4-A62. CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN.. 34
TN 4-A63. CHÚA NHẬT 4 QUANH NĂM... 38
TN 4-A64. CHÚA NHẬT IV TN – 2002. 40
TN 4-A65. KỸ NGHỆ BÁN NỤ CƯỜI 42
TN 4-A66. HIẾN CHƯƠNG NGHÈO.. 46
TN 4-A67. NƯỚC TRỜI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN.. 48
TN 4-A68. CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN.. 55
TN 4-A69. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC THẬT.. 57
TN 4-A70. CHÚA TÔN NGƯỜI KHIÊM HẠ.. 60
TN 4-A71. Phúc Cho Các Con...". 63
TN 4-A72. Tám Mối Phúc: đường đưa tới tự do. 65
TN 4-A73. Tám mối Phúc Thật 67
TN 4-A74. Khó nghèo. 69
TN 4-A75. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền. 70
TN 4-A76. CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A.. 72
TN 4-A77. HẠNH PHÚC.. 82
TN 4-A78. Hạnh phúc. 85
TN 4-A79. Sự khiêm tốn - Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 86
TN 4-A80. ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO CÁC MỐI PHÚC.. 89
TN 4-A81: Chúa Muốn Con Người Hạnh Phúc. 95
TN 4-A82: CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A.. 96
TN 4-A83: CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN.. 105
TN 4-A84: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 107
TN 4-A85: Hạnh phúc thật 108
TN 4-A86: Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống. 110
TN 4-A87: Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?. 114
TN 4-A88: Bàn tay Chúa – Lm Vũ Đình Tường. 116
TN 4-A89: Hạnh phúc. 118
TN 4-A90: Bát phúc. 120
TN 4-A91: Các con hãy vui mừng hân hoan. 123
TN 4-A92: Phúc thay người nghèo!”. 125
TN 4-A93: Những người được chúc phúc. 127
TN 4-A94: Chỉ mong Ngài lấy đi 129
TN 4-A95: Hạnh phúc đích thực. 134
TN 4-A96: ĐƯỢC THUỘC VỀ “SỐ ÍT CÒN SÓt LẠI”. 137
TN 4-A97: LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU.. 139
TN 4-A98: HẠNH PHÚC KHI TRAO BAN.. 141
TN 4-A99: CHÚA KÊU GỌI TA LÀ KẺ NGHÈO HÈN VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA.. 142
TN 4-A100: TUYÊN NGÔN TÂM LINH.. 144

----------------------------------

 

TN 4-A51. PHÚC CHO NHỮNG NGƯỜI NGHÈO KHÓ TÂM HỒN


GỢI Ý SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 4 TN. A
Mt 5, l-12a

 

Đối với hàng ngàn người, trang về các Mối Phúc Thật nầy như một tượng đài được dựng lên: TN 4-A51


Đối với hàng ngàn người, trang về các Mối Phúc Thật nầy như một tượng đài được dựng lên sừng sững trên thế giới chúng ta, trang đáng ca ngợi nhất trong toàn lịch sử nhân loại. Nhưng nhìn vào thực tế cuộc sống của chúng ta và những chứng cứ phổ biến nhất, thì nó dường như cũng minh hoạ mặt trái thế giới

Khi chúng ta nghe đọc bài Tin Mừng nầy vào lễ Các Thánh, nó xuất hiện trong một bầu khí hoàn tất: đó là thành công vĩnh viễn công trình của Thiên Chúa. Hôm nay, nó xuất như một sự khởi đầu. Đó là lời loan báo Nước Trời trong căn rễ và trong mầm giống của nó.

Trong Phúc Âm Thánh Luca,Chúa Giêsu xuống khỏi núi sau khi đã qua một đêm cầu nguyện. Người nói với các môn đệ và đám đông tụ họp “trong vùng đồng bằng”. Trong Phúc Âm Thánh Mat-thêu, ngược lại, Chúa Giêsu leo lên núi, nơi Người nói với đám đông.

Trong cả hai trường hợp, Người xuất hiện như một Môsê mới, đến để thiết lập lại sự thống nhất Dân Chúa. Người ban chiếu chỉ luật lệ Vương Quốc. Những kẻ nghe Người tìm thấy ở trong đó một thông điệp chủ yếu: phải thay đổi đời sống, hoán cải tâm hồn, nhìn sự việc theo một cách khác, vì Nước Trời đang ở giữa chúng ta.

Từ bao thế kỷ qua, bài giảng trên núi đã làm cho nhiều thế hệ phải thán phục,say mê và làm cho từng tế bào con người mật thiết nhất của hữu thể chúng ta phải rung lên. Nó đụng tới tất cả những gì là khát vọng và ước ao sống quảng đại đang rung lên trong chúng ta.

Ngay thời khắc ấy, tất cả những gì là gian lao khốn khó trong cuộc đời chúng ta,cuối cùng được tỏ lộ, nhận ra và chữa lành. Sự lầm than vốn dường như ập xuống trên cùng những người nầy, sự loại trừ các bệnh nhân và người ốm yếu, sự nghèo khó và đau đớn, trở thành những nguồn mạch và những động cơ hân hoan. Nầy đây Đấng Giải Phóng.

Đã bao lần chúng ta thử bước theo và thực hiện những gì là thuần nhất trong chúng ta, nhưng chúng ta luôn cảm thấy không được tự do, như thể các lực lượng chống đối cấm cản chúng ta làm điều đó. Lúc ấy dường như tiến bộ được các Mối Phúc Thật loan báo cứ tuột khỏi tay chúng ta,không làm sao nắm bắt được. Người ta không thể đạt đến được nó và càng không thể thưởng thức được nó, nếu không có sự trợ lực của Thiên Chúa.

Bởi vì đó là một sự lật ngược triệt để các não trạng và các giá trị; một thay đổi sâu xa đến độ nó không thể xảy ra mà không có sự biến đổi hoàn toàn những gì không tương ứng với kế hoạch ban đầu của Đấng Tạo Hoá.

Bernard Lafrenière,C.S.C
BTGH chuyển ngữ

----------------------------------

 

TN 4-A52. Mối phúc thứ nhất.


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một: TN 4-A52 (CHUYỆN)


Người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh không còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.

Ông ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã chán chường và chẳng ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới đem lại cho ông sự thanh thoát.

Ông ta chưa kịp hút xong điếu thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người rách rưới đó đứng nhìn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:

Thôi, ông cầm lấy cả đi. Tôi đâu cần tiền làm chi nữa.

Người hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa ôn tồn vừa nghiêm nghị:

Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ ví tiền mà đem qua thế giới bên kia với ông.

Nói xong, người hành khất ném cái ví xuống giòng nước rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.

Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu đời mình. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên, ông ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt ví tiền trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.

Anh chị em thân mến,

Không gì buồn chán cho cho bằng một cuộc đời không định hướng. Không gì bất hạnh cho bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lo lắng tích góp cho riêng mình. Niềm vui sống chỉ có được khi ta hướng đời mình tới một cùng đích cao cả: Nước Trời hay Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đến để đem lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay ở trên đời này. Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đố, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá. Thế nhưng, Ngài hẳn là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó… Phúc cho những ai đau khổ, bị ngược đãi…”.

Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời khách sạn năm sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ. Đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn. Bởi vậy, mối phúc thứ nhất, theo Thánh Matthêu, bao gồm các mối phúc khác là “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó”. Các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Chính đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền lành, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sực chính trực, thương xót người đồng loại, trong sạch và biết xây dựng hoà bình. Thật ra tất cả những đức tính đó là đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê), của một “Anawim” theo truyền thống Kinh Thánh. “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.

Như thế, Chúa Giêsu xác nhận “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) như ngôn sứ Sôphônia rao giảng (Bđ. 1) mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì chính (Giavê) Thiên Chúa sẽ là hạnh phúc của họ. Nói chung, tám mối phúc thật xét theo nội dung cũng chỉ là mối phúc duy nhất: “Phúc cho những người sống tinh thần nghèo khó”.

Thưa anh chị em,

Ai trong chúng ta cũng khao khát tiền của, danh vọng, quyền thế. Chúng ta chạy theo những thứ ấy như một chiếc bóng, vì chúng không bao giờ thoả mãn được nỗi khao khát hạnh phúc vô biên trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu đến cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, tỷ phủ, siêu sao nổi tiếng, những nhà lãnh tụ chinh phục thế giới, những đại thiên tài… Nhưng là các kẻ nghèo khó, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hoà bình và chịu bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn của người đời. Nói cho cùng, tám mối phúc thật đều quy về một mối: Phúc cho ai sống như Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người trước tiên đã sống tám mối phúc này trong cuộc đời của Ngài: chẳng ai từ bỏ bản thân bằng Ngài, hiểu rõ nỗi khốn cùng của loài người, rộng lòng thương xót, thực thi thánh ý Thiên Chúa, ngay thẳng và đơn sơ, xây dựng hoà bình và cam chịu bách hại cho bằng Ngài. Vì thế, Ngài có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui của chúng nên trọn vẹn” (Ga 17,13). Và kết thúc bài giảng tám mối phúc, Ngài nói: “Anh em hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao”.

Vậy, anh chị em thân mến,

Ngay từ cuộc sống này, người tín hữu chúng ta phải tự nhận mình là những người hạnh phúc nhất. Mặc dù đang phải vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, đang cố gắng để tha thức cho những người bách hại mình, chúng ta hãy vui sướng để nhận ra mình là người có phúc, chúng ta hãy vui mừng, vì chúng ta đang đi lại từng bước của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế thì chắc chắn “Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta”.

----------------------------------

 

TN 4-A53. Chú giải của Noel Quession


Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi...

 

Phải suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh Matthêu giới: TN 4-A53


Phải suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh Matthêu giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ của Người, có một đám đông đi theo Người. Và những câu trước đó mô tả đám đông ấy gồm, những người bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ kinh phong, bại liệt... (Mt 4,23). Đức Giêsu là Đấng nhìn thấy đám đông lầm than vất vưởng mà chạnh lòng thương... như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngày hôm nay... tôi nhìn thấy ánh mắt của Đức Giêsu đẫm lệ xót thương những ai bị đè bẹp: bệnh hoạn, tật nguyền, những người không việc làm, những phụ nữ bị nhạo báng, những người nghèo thuộc mọi thành phần, "những người thu thuế và tội lỗi" cả một nhân loại ấy bên bờ tuyệt vọng.

Khi Đức Giêsu nhìn thấy tất cả nhữngđiều đó... Người làm gì? Người nói gì?

Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:

Phong cảnh này được cố ý dựng lên vĩ đại và long trọng. Đức Giêsu rất con người nhưng theo Tin Mừng của Matthêu cũng là "Đức Chúa Vinh quang", uy nghi như một tranh thánh của phương Đông. Phong cảnh núi non là "bài giảng" Đây không phải là một phác họa cho diễm lệ, đó chính là khung cảnh vĩ đại của việc công bố luật mới là núi Xi-nai mới, đỉnh núi bốc khói nơi Thiên Chúa nói với dân. Và Đức Giêsu là Môsê mới, nhà làm luật, nhà giải phóng chân chính cho tất cả những ai đang sống trong nô lệ.

Vâng, bạn đang bị đè bẹp bởi một hoàn cảnh mà con người không thể chịu đựng nỗi, bạn hãy lắng nghe! Thiên Chúa muốn nói với bạn môt điều. Bạn đang khốn khổ bởi vì bạn cảm thấy bị tổn thương trong những khát vọng sâu nhất bạn hãy lắng nghe! Nếu bạn có cơ may "'hiểu được, điều Người sắp nói với bạn, thì cuộc đời bạn sẽ được thay đổi. Hãy lắng nghe... Bạn hãy lắng nghe Thầy. Bạn hãy lắng nghe Đức Giêsu.

“Phúc thay... Phúc thay... Phúc thay...

Đó là chữ đầu tiên của tất cả các câu trong "bài giảng trên núi".

“Phúc thay"!, "makarioi" trong tiếng Hy-lạp.
“Phúc thay”!, "asherei” trong tiếng Do Thái...

Vâng chủ đề của bài thuyết giáo đầu tiên của Đức Giêsu chính là hạnh phúc. Các mối phúc thật là một sự loan báo về hạnh phúc, một "tin mừng tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Các bạn là những người nghèo khó, bị khinh miệt những người chán nản, thất vọng, các bạn có thể được hạnh phúc. Các bạn hãy hạnh phúc. Bởi vì hạnh phúc thật trước tiên không phải là công việc của sự giàu sang, của sự thành công, của lạc thú. Bạn đã tưởng rằng hạnh phúc không dành cho bạn... Đức Giêsu nói với bạn rằng bạn có thể được hạnh Phúc. Đức Giêsu muốn làm cho các môn đệ của người trở thành những người hạnh phúc. Bạn là Kitô hữu! bạn có biết rằng bạn đang hạnh phúc không? Nếu bạn không hạnh phúc, bạn không hỏi tại sao ư?

Nhưng vấn đề là hạnh phúc nào? Có nhiều loại hạnh phúc.Và hạnh phúc khi nào? Cho cuộc đời hiện tại hay cuộc sống mai sau?

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó...

Phúc thay ai hiền lành...
Phúc thay ai sầu khổ...
Phúc thay ai khao khát nên người công chính...
Phúc thay ai xót thương người...
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch...
Phúc thay ai xây dựng hòa bình...
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính...

Hạnh phúc mà Đức Giêsu nói đến không loại trừ những nghịch cảnh và sự đau khổ. Chúng ta đã thấy điều đó qua tất cả bản văn, một cách chính xác Đức Giêsu nhắm đến những người mà người ta coi như những người bất hạnh. Các mối phúc thật không nhắm đến "những"hạng người khác Những từ ngữ thay đổi ở đó chỉ để làm dôi lại một tư tưởng duy nhất: “Anh em hãy đến cùng tôi. tất cả những ai đang vất vả và nặng nhọc, và tôi, tôi sẽ cho anh em sự nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học vôi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,28-30).

Vâng, Đức Giêsu đúng là Đấng mà người ta chờ đợi "Đấng đã được loan báo", "Đấng phải mang lại Tin Mừng “cứu độ" Người ta hay quên rằng chữ "Tin Mừng" đã được chính Đức Giêsu lấy lại từ phần thứ hai của sách Isaia: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu (oint = chnstoa) tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức..." (Is 61, 1.6 - Lc 4,18)

Phúc thay... vì Nước Trời là của họ...

Tám mối phúc thật đầu tiên được đóng khung bằng sự bao gồm này, được lặp lại hai lần ở đầu và ở cuối (Mt 4,3 và 4,10). Bởi công thức này, Đức Giêsu trả lời hai câu hỏi của chúng ta: hạnh phúc nào? khi nào? Vấn đề là một hạnh phúc “từ bây giờ". Nước trời đang ở trong anh em: Không phải chỉ là một hạnh phúc được hứa cho mai sau, cho đời sau. Phải hiểu rõ sự tế nhị trong tư tưởng của Đức Giêsu.

Sẽ là một sự hiểu sai khi biến nó thành một thứ "thuốc phiện của quần chúng để người ta hút và ngủ thiếp đi với lại hứa sẽ được hạnh phúc sau này, bên kia thế giới sau khi chết! Đức Giêsu nói rằng những ai bị đè bẹp bởi thế giới này thì được hoặc có thể được hạnh phúc một cách thiết thực ngay trong lúc mà Đức Giêsu nói điều đó với họ. Nhưng điều này không hiển nhiên. Phải ý thức về nó. Và điều ấy dĩ nhiên không loại bỏ viễn cảnh của một "thế giới phải đến", "Nước Thiên Chúa" nhưng niềm hy vọng ấy đã chuyển biến hiện tại. Tương lai hạnh phúc mà Đức Giêsu hứa ban cho tất cả những ai bị hoàn cảnh nhọc nhằn hiện tại đè bẹp…. tương lai ấy đã trở thành một thực tại hiện diện trong ngôi vị và tình bạn hữu của Đức Giêsu

Bởi vì hạnh phúc ấy, chúng cuộc, chính là Triều đại của Thiên Chúa", chính là "Tình yêu Thiên Chúa" ngay từ Hôm Nay nếu bạn muốn thật sự soi sáng hoàn cảnh đau khổ của bạn. Đức Giêsu không bao giờ định nghĩa "Nước Thiên Chúa (những chữ Nước, Triều đại, Vương quyền đều giống nhau trong tiếng Do Thái), nhưng nó gợi lên ý tưởng và người ta có về Đấng Quân Vương, Đấng Thiên Sai lý tưởng trong toàn bộ Phương Đông Cổ đại: chức năng đầu tiên của vua (Đấng quân Vương) là bảo đảm sự giải phóng khỏi mọi sức mạnh ngoại bang đang đe dọa... bảo đảm công lý và bảo vệ những người nghèo, trẻ nhỏ chống lại những người giàu sang và quyền thế là những người luôn luôn có khuynh hướng bóc lôt những người yếu đuối. Khi Đức Giêsu khẳng định rằng những người nghèo là những người được Thiên Chúa ban đặc ân, rằng triều đại của Thiên Chúa thuộc về họ, rằng công lý vương đế đứng về phía những người phận nhỏ….Đức Giêsu không nói rằng những người nghèo là những tốt nhất, đạo đức hơn những người khác. Vấn đề ở đây không phải là tâm lý hoặc đạo đức của những người nghèo. Trong. Những công bố này về các mối phúc thật, có một sự mạc khải một ý tưởng nào đó về Thiên Chúa: Thiên Chúa tự nhận mình có bổn phận là một ông vua tốt. Thiên Chúa đặt niềm vinh dự của Người trong việc đem lại "hạnh 'phúc”, một cách mầu nhiệm, cho những người bị tước đoạt hết mọi hạnh phúc của con người. Cho cả bạn nữa, nếu bạn muốn! Hạnh phúc nghịch lý và không thể hiểu được đối với người nào đã không cảm nghiệm nó.

Vậy bạn hãy thử xem. Hãy bước vào hạnh phúc đó của Thiên Chúa. Ngay NGÀY HÔM NAY.

Nếu bạn đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa toàn diện" của các mối phúc thật, lúc đó bạn hãy lắng nghe cách thể hiện mà Matthêu đem lại. Sự công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa trình bày một chương trình sống cho người Kitô hữu: nếu bạn muốn hạnh phúc thì đó là cách mà bạn phải làm.

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Cùng một chữ Do Thái "anawim': có thể được dịch là “nghèo khó" hay là "hiền lành". Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chữ "anawim" gợi lên hình ảnh của một người "bị uốn cong", thái độ của kẻ yếu không còn khả năng tự vệ bắt buộc phải nhường bước trước những người là nạmh nhất. Là người bị hạ nhục, bị làm cho thấp kém, người đó dù là nam hay nữ không làm sao để cho người ta tôn trọng các quyền của mình…. Người "hiền lành" chính là người không bực tức trước sự thịnh vượng của những vô đạo và họ không đánh mất lòng nhẫn nại. Đức Giêsu nói về người "Thầy hiền lành và khiêm nhường ở trong lòng (Mt 11,29-12, 18-21). Bị các kẻ thù công kích, Người tha thứ cho họ. Đức Giêsu đã sống mối phúc thật thứ nhất:

Phúc ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc thay ai xót thương người
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã khóc với Mát-ta và Ma-ri-a. Đức Giêsu hoàn toàn "tương ứng" với ý muốn của Chúa Cha: Người là Đấng Công chính. Người là lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Người đã tha thứ tha thứ và tha thứ... Tâm hồn Người "thanh khiết" vô song, không chút sai lầm, không chút quanh co: hành động và ý định của Người hoàn toàn thống nhất.

Phúc thay ai xây dựng hỏa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Đức Giêsu đến để đem lại hòa bình. Ồ, những ai xây dựng hòa bình thật hạnh phúc, họ hòa giải những cặp vợ chồng gây gỗ, cãi vã nhau, họ nối lại những tình bạn bất hoà? họ làm dịu bớt những xung đột giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, họ tạo ra sự lắng nghe và hiểu biết lẫn nhau. Không có sự phục vụ nào lớn hơn là phục vụ anh em mình. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không như thế gian ban tặng". (Ga 14,27). Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng" hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

----------------------------------

 

TN 4-A54. Chúng ta là người “nghèo khó” trước mặt Chúa


CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Mát-thêu 5:1-12a)

 

Thường người đời trước khi làm việc gì lớn, thế nào cũng có một bài diễn văn trình bày kế hoạch, chương: TN 4-A54


          Thường người đời trước khi làm việc gì lớn, thế nào cũng có một bài diễn văn trình bày kế hoạch, chương trình…  Chúa Giê-su khi bắt đầu rao giảng Tin Mừng cũng đưa ra một bản đề cương gồm những mối phúc hoặc tin vui.  Nhưng khi nghe những “tin vui” ấy, người ta lại chẳng vui chút nào!  Những điều Chúa cho là hạnh phúc thì người đời cho là bất hạnh.  Làm sao là hạnh phúc khi mình nghèo, bị hà hiếp vì hiền lành, gặp sầu khổ, bị người khác hại?  Quả thực Chúa Giê-su đã đi ngược lại ước vọng của người đời.  Chính vì sự đối nghịch này nên Chúa Giê-su mới đòi người ta phải “sám hối và tin vào Tin Mừng”.  Ai muốn theo Chúa đều phải quay lưng lại với thế gian và hướng mặt về với Chúa, vì “đường lối của anh em không phải là đường lối của Thiên Chúa”.

          Có phải Chúa Giê-su vô lý hoặc “không giống ai” khi Người đi ngược lại với thói đời không?  Hoàn toàn không phải vậy!  Để hiểu tại sao Chúa Giê-su đi ngược đường, chúng ta cần hiểu tại sao Chúa mở đầu sứ vụ với bài giảng Tám mối Phúc.  Nếu nhìn vào vế thứ hai của mỗi mối Phúc, chúng ta đều thấy Chúa Giê-su đề cao vai trò của Thiên Chúa, hoặc nói khác đi, Người đều trình bày chân lý duy nhất, là chỉ có Thiên Chúa mới thỏa mãn được mọi khát vọng của con người.  Nhưng giữa thế giới quá nặng tinh thần thế tục và tự mãn này, liệu có bao nhiêu người thực sự ý thức rằng mình cần đến Thiên Chúa?  Do đó, điều căn bản là người ta phải “thay đổi não trạng” (metanoia), thay thế não trạng của người đời bằng não trạng của Thiên Chúa hay của Chúa Ki-tô, ý thức mình cần đến Thiên Chúa thay vì dựa vào thế lực của tiền bạc danh vọng.  Đấy cũng chính là ý nghĩa sâu xa của lời Chúa kêu gọi chúng ta hãy sám hối.

          Chúng ta thực sự cần đến Chúa tức là chúng ta nhìn nhận thân phận đích thực và chỗ đứng của chúng ta trước mặt Người.  Mỗi mối Phúc đều giúp chúng ta biết mình là ai và Chúa là Đấng nào.  Trước thân phận không là gì cả của chúng ta, Chúa luôn nâng đỡ, ủi an và thỏa mãn mọi ước vọng tốt của chúng ta.  Trước tất cả những nỗi đau và thống khổ của con người, Chúa luôn giúp chúng ta nhìn qua những điều ấy để nhận thấy hạnh phúc đích thực đang chờ chúng ta nếu chúng ta trung thành với Người trong đức tin.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Là bậc Thầy chí thánh và khôn ngoan, Chúa Giê-su biết phải làm thế nào để giúp chúng ta khởi hành trên đường về nhà Cha trên trời.  Qua bài giảng Tám mối Phúc, Chúa Giê-su trình bày bước đầu tiên, là phải thay đổi não trạng và đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa.  Cũng có thể nói đó là một chương trình đào tạo và tiến triển để giúp chúng ta mỗi ngày trở nên con Chúa xứng đáng hơn.  Đầu có xuôi đuôi mới lọt.  Thiếu não trạng cần đến Thiên Chúa và Thầy Giê-su, chúng ta không thể tiếp tục làm môn đệ Chúa được.

          Có thể vì đã nhiều lần nghe bài giảng này, nên chúng ta chỉ nhìn thấy đây là những “đòi hỏi” hoặc “điều kiện” để làm môn đệ Chúa.  Dĩ nhiên điều này không có gì là sai.  Nhưng cốt lõi của Tám mối Phúc là nhắm đến một thay đổi toàn bộ con người chúng ta trong lối sống.

          Tám mối Phúc cũng là một bản Xét lương tâm giúp Ki-tô hữu nhận định con người mình và được sử dụng để cử hành Bí tích Hòa giải.  Mười điều răn là bản xét mình của Cựu Ước thì chúng ta cũng có thể nói Tám mối Phúc là bản xét mình của Tân Ước mà Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta.  Rồi giáo lý của Tám mối Phúc này sẽ dần dần được trình bày cho chúng ta qua lời giảng và những việc làm của Chúa Giê-su.  Trong năm Phụng vụ, chúng ta sẽ có dịp để “suy đi nghĩ lại trong lòng” về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su, để chúng ta biết Chúa rõ hơn, yêu mến Người tha thiết hơn và bước theo Người sát hơn.            
Lm. Đaminh Trần đình Nhi 

----------------------------------

 

TN 4-A55. TÁM MỐI PHÚC (x. mồng 1 Tết)


CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN, năm A

Mt 5, 1-12

 

Ai cũng mong được hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc là một điều xem ra thấy đấy nhưng không: TN 4-A55


Ai cũng mong được hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc là một điều xem ra thấy đấy nhưng không phải ai cũng dễ nắm bắt được hạnh phúc. Có người ví hạnh phúc như chiếc bong bóng xà phòng được thổi bay trước gió xem rất đẹp mắt, nhưng rồi gặp cơn gió chiếc bong bóng xà phòng sẽ tan tành một cách mau lẹ. Hạnh phúc có đó nhưng con người phải bảo vệ, phải vun đắp…Bởi vì, không dễ gì chúng ta đều đồng ý với sự hạnh phúc có đó. Có người cứ tưởng càng giầu tiền lắm của, con người mới hạnh phúc.

Chúa Giêsu lại vạch cho nhân loại một con đường hoàn toàn trái ngược với những đánh giá, những ước mong của con người. Đồng tiền không phải là Tiên, là Phật…Đồng tiền không phải là cái đà danh vọng. Đồng tiền không phải là hết ý. Nhưng Chúa Giêsu lại nói:” Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó “ ( Mt 5, 3 ). Còn hơn nữa, Chúa Giêsu cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại vv…Chúng ta gọi đó là Tám Mối Phúc và Giáo Hội cho đây là Hiến Chương Nước Thiên Chúa. Những ai hiền lành, nhân hậu, sầu khổ, khóc lóc, bị bách hại, đó lại là những người được hạnh phúc, và họ là công dân Nước Trời. Tuy nhiên, đối với nhiều người và đặc biệt là những người không có niềm tin thì đó là điều không thể chấp nhận được và như thế, chúng ta hoàn toàn hiểu được sự khó chịu, chống đối của các Luật sĩ, Biệt phái, Kinh sư và nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu đối với tư tưởng, hướng đi xem ra thật nghịch lý của Chúa Giêsu.

Đối với những người này thì nghèo đói, sầu khổ, hoạn nạn, khổ đau, bệnh hoạn, túng quẫn chỉ có thể đem lại bất hạnh cho con người chứ làm gì mang lại hạnh phúc cho con người được. Vậy, phải chẳng Đức Kitô muốn bần cùng hóa xã hội, muốn con người luôn nghèo khổ ? Không, dứt khoát là không, Chúa Giêsu dạy con người qua Tám Mối Phúc bởi vì Ngài muốn con người đừng quá nô lệ của cải, đừng quá dính bén thế gian, Ngài chỉ muốn con người hạnh phúc khi tâm hồn họ thanh thản không quá bận tâm đến của cải mà tìm kiếm Nước Trời. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố trong Tin Mừng của thánh Gioan 10, 10:” …Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào “. Như thế, Chúa không bao giờ muốn con người bị bần cùng hóa, Chúa không bao giờ muốn con người nghèo nàn lạc hậu. Chúa muốn con người luôn làm thăng hoa thế giới này, luôn muốn con người góp tay làm đẹp công trình mà Thiên Chúa Cha đã miệt mài, đã dày công sáng tạo.

Vâng, Giáo Hội của Chúa được mời gọi sống nghèo vì Giáo Hội của Chúa có nhiều thứ giầu hơn, vĩ đại hơn đó là có Chúa luôn hiện diện và Chúa là sự giầu sang vô biên mà con người đang khát khao tìm kiếm. Sở dĩ Chúa nói:” Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó “ “ Phúc cho ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại “. Bởi vì, họ là những người khiêm tốn, là những người nhận ra sự yếu hèn của mình, nhận ra mình luôn cần ơn Chúa, luôn cần mở rộng tâm hồn để Chúa định liệu về cuộc đời mình. Nên, họ luôn tin cậy, phó thác trọn vẹn vào Chúa.

Chúa nói:” Phúc cho những ai ăn ở hòa thuận, xây dựng hòa bình, xót thương, khao khát sự công bình “ là vì những người này đã quyết tâm đi theo con đường ngay chính của Chúa.

Tám Mối Phúc thật là những nấc thang, những chặng đường đi theo Chúa. Do đó, thực hành những mối phúc và sống những mối phúc là được Chúa ban phúc và đồng thời, họ cũng đem lại hạnh phúc cho những người khác. Người sống hạnh phúc là người vừa biết đón nhận, vừa biết cho đi với lòng quảng đại và yêu thương của mình.

Đối với Chúa Giêsu, người giầu có đích thực là người biết bán hết của cải, phân chia cho người nghèo khó và đi theo Chúa Giêsu. Người giầu có đích thực là người có trái tim đẹp, nhân ái chứ không đo đếm, cân, đong bằng tiền của, vật chất, danh vọng ở trần gian này.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được thế nào là sống tinh thần khó nghèo và thế nào là giầu có đích thực. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi   DCCT

----------------------------------

 

TN 4-A56. Chúa nhật khó nghèo


Chúa Nhật 4 Mùa Thường Niên Năm A

 (So 2,3.3,12-13; 1 C 1,26-31; Mt 5,1-12)

 Phúc Âm: Mt 5, 1-12a

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

 Suy Niệm:

(Chúa Nhật 4 Thường Niên A)

(So 2,3.3,12-13; 1 C 1,26-31; Mt 5,1-12)

 

Có thể gọi tên Chúa nhật này là Chúa nhật khó nghèo, Chúa nhật mà chúng ta phải suy nghĩ về: TN 4-A56


Có thể gọi tên Chúa nhật này là Chúa nhật khó nghèo, Chúa nhật mà chúng ta phải suy nghĩ về tinh thần khó nghèo Phúc Âm. Như vậy chúng ta sẽ không bỏ rơi các mối phúc thật khác và chúng ta sẽ thấy bài Tiên tri và bài Thánh thư sáng sủa hơn nhiều. Vì tinh thần khó nghèo là điều kiện để được rao giảng Phúc Âm, là cơ sở của các mối phúc thật. Người khó nghèo được Chúa đoái thương và đổ đầy ơn cứu độ.

 A. Khó Nghèo Là Cơ Sở

Có một ngộ nhận căn bản khiến việc suy nghĩ về Bài giảng trên Núi dễ đi đến chỗ lệch lạc. Người ta muốn tách rời từng câu, từng mối phúc thật, coi như những chân lý tuyệt đối, biệt lập không lồng vào nhau, không thông với nhau. Người ta nghĩ đó là một số các nhân đức, chỉ cần tập được một là được vào Nước Trời. Người ta quên bối cảnh của Bài giảng trên Núi. Người ta không thấy rõ ý của Đức Yêsu khi tuyên bố các mối phúc thật.

Sách Tin Mừng kể hôm ấy Chúa trèo lên một sườn núi. Người gọi môn đệ lại chung quanh, rồi mở miệng dạy dỗ dân chúng. Người nói với hết mọi người. Người không muốn để người nào dửng dưng. Người muốn mọi lời Người nói trở nên của ăn tinh thần cho mỗi người. Rõ ràng Người không nói với người này trước, người kia sau. Người cũng chẳng muốn kẻ nghe lời này, kẻ bỏ lời kia. Người không đề ra một số những nhiệm vụ để mỗi người lựa chọn tùy ý hay để mọi người phải thi hành tất cả bằng nhau. Người giảng Tin Mừng cứu độ mọi người chứ không ban bố chỉ thị. Người vẽ ra các sắc thái của Nước Trời để người ta nhận ra Nước đó và muốn đi vào. Sau này sẽ có lần Người kể cho người ta nghe nhiều dụ ngôn về Nước Trời: các hình ảnh tuy khác nhau nhưng chỉ diễn tả một thực tại. Cũng vậy hôm nay trong Bài giảng trên Núi, Người cho thấy có nhiều hạng người ở trong Nước Trời hạnh phúc; tuy nhiên tất cả đều chung một mẫu số nào đó. Những con người khó nghèo, hiền lành, đói khát, thương xót v.v... không phải là những con người xa lạ nhau, không thông cảm gì với nhau, vì nếu không Nước Chúa sẽ là một cái chợ, một nơi ô hợp. Nhưng không! Nước Trời là một gia đình, một dân Nước, một cộng đoàn hòa hợp, một thân thể, Thân Thể Đức Kitô. Giữa những con người hạnh phúc kia có một cái gì thông hiệp với nhau một cách mật thiết, đến nỗi có thể nói yếu tố khiến họ được phúc lộc quan trọng hơn các sắc thái riêng biệt của họ.

Vậy yếu tố ấy là gì?

Chắc chắn đó là yếu tố khiến người ta có khả năng đón nhận sự sống của Chúa, sự cứu rỗi của Người, Tin Mừng cứu độ Người mang đến. Thế mà rõ ràng Thánh Kinh viết: Tin Mừng được rao giảng cho người nghèo. Tinh thần khó nghèo được Chúa nhắc đến đầu tiên trong Bài giảng trên Núi, phải chăng không phải là phúc đầu tiên trong các mối phúc thật, mà là điều kiện đi trước để có các mối phúc thật sau? Đó là cơ sở để phát huy mọi nhân đức, để đón nhận ơn cứu độ dẫn đến hạnh phúc Nước Trời.

 B. Nhưng Khó Nghèo Là Gì?

Không thiếu gì ngộ nhận. Phần đông chúng ta nghĩ ngay đến phương diện vật chất. Và thật là kỳ cục. Suy nghĩ như vậy không thể nào đúng được mà người ta vẫn không bỏ. Điều lạ hơn nữa, là suy nghĩ như thế đưa đến nhiều mâu thuẫn mà dường như người ta vẫn cứ tỉnh bơ. Đang khi bảo Giáo hội phải khó nghèo hơn, người ta lại hăng say phát triển đời sống vật chất cho con người. Cũng đừng lấy lẽ phải hiểu khó nghèo đây theo nghĩa tinh thần, nghĩa là có tinh thần khó nghèo chứ không nhất thiết phải thực sự nghèo khó. Thôi đi những luận điệu luẩn quẩn ấy! Chân lý rõ ràng là Bài giảng trên Núi nói về Nước Trời chứ không nói đến nước thế gian.

Vậy, trong bình diện Nước Trời, khó nghèo là gì? Là còn thiếu ơn cứu độ của Chúa, là muốn được ơn cứu độ ấy nhiều hơn, nhưng không có khả năng và còn bị trăm nghìn cản trở, là thiếu thốn thật sự và chỉ còn biết trông đợi vào lượng từ bi phong phú của Chúa, là đang đi trên đường về Nước Trời nên không dừng lại nơi một tạo vật nào mà chỉ bắt chước Phaolô: bỏ mọi sự lại đằng sau, lao thẳng về phía trước, theo ơn Chúa kêu gọi.

Hiểu như vậy thì nhất thiết phải nói mọi người đều khó nghèo. Nhưng thực tế thì lại ít ai có tinh thần khó nghèo như vậy. Cả những người nghèo về vật chất cũng thế. Và phải nói nhiều khi cái khó nó bó cái khôn; nghèo quá còn sức lực đâu mà nhận ra chân lý và theo đuổi được những sự tốt lành. Người Kitô hữu chắc như vậy nên nhiệt tình chống giặc đói, giặc dốt và quyết tâm đi vào con đường phát triển. Tuy nhiên như Chúa đã dạy, người giàu có khó vào Nước Trời vì người giàu thường cậy của, tin vào mình và chắc chắn về tương lai. Họ suy tính toàn chuyện làm ăn, phá lẫm cũ xây lẫm mới. Họ bảo linh hồn: bây giờ đã bảo đảm, hãy ung dung ngồi hưởng thụ.

Vấn đề không phải là tìm ra chỗ trung dung cho dù "đạo trung dung thật là khó vậy"; nhưng là đưa suy nghĩ lên bình diện khác, đặt con người không phải trước mặt của cải, mà là đối diện với Thiên Chúa. Người khó nghèo đặt mình ở trước Thiên Chúa, như người thu thuế khi vào Đền thờ cầu nguyện. Người ấy không như người biệt phái. Ông này ở trước mặt Chúa mà chỉ thấy mình đầy công trạng. Ông giàu có quá. Còn người kia chỉ thấy khiếm khuyết và bất lực. Người ấy nghèo thật. Và Chúa bảo người này ra về thì được công chính hơn, còn người biệt phái thì không.

Vậy được công chính hơn nghĩa là gì? Ở đây có thể đáp là được hiền lành, ưu phiền, đói khát, thương xót, tinh sạch, hòa bình, bắt bớ, tức là được mọi tư cách khác của các mối phúc thật. Điều này cũng dễ hiểu và dễ nghiệm thôi. Chắc chắn người thu thuế kia khi ra về sẽ đổi hẳn nếp sống. Cũng như ông Zakkhê nọ, sau khi thấy mình nghèo trước ở trước mặt Chúa và được Chúa đổ ơn dư đầy cho đã giũ bỏ lòng tham lam ích kỷ; trở nên nhân đạo và đói khát sự công chính; đời sống từ nay trong sạch và sẵn sàng hy sinh vì Chúa. Được như vậy là vì tinh thần khó nghèo, nghe nói thì có vẻ tiêu cực, nhưng thật rất tích cực. Kinh nguyện Hòa Bình của thánh Phanxicô đầy những công thức diễn tả chân lý ấy. Con người càng nghèo ở trước mặt Chúa, ơn Người càng đổ đầy vào lòng họ, khiến ta thấy tinh thần khó nghèo thật là cơ sở. Và hiểu tinh thần khó nghèo như vậy, chúng ta mới thấy bài sách Sôphônia và Thánh thư Phaolô thật phong phú.

 C. Thực Hành Khó Nghèo

Tiên tri Sôphônia kêu gọi người ta: Hãy tìm công chính và sự hiền lành nếu muốn được che chở trong ngày Chúa thịnh nộ. Là vì Người sẽ chỉ để sót lại một dân khó nghèo, thiếu thốn. Chính họ mới là những kẻ được chăn dắt, yên hàn, hạnh phúc.

Còn thánh Phaolô thì khẳng định dân khó nghèo thiếu thốn mà Chúa hứa để sót lại đó, chính là chúng ta, những thành phần không và chẳng ra gì, mà Chúa đã chọn để đổ đầy sự khôn ngoan, công chính và cứu rỗi cho chúng ta.

Chúng ta phải cảm tạ Chúa, nhưng đừng để mất những ơn đã được. Đừng trở nên giàu có trước mặt Chúa và cố gắng mỗi ngày càng trở nên khó nghèo. Muốn vậy, thánh Phaolô nói, một mặt đừng tự phụ cậy dựa vào mình cũng như vào tiền của, vào khả năng nhân đức cũng như vào ai khác; và mặt khác hãy đón nhận Đức Kitô là sự khôn ngoan, giàu có, thánh thiện và sự cứu rỗi của ta. Sở dĩ ta là dân nghèo của Chúa ngày hôm nay là vì ta đã mặc lấy Đức Kitô. Từ nay ta càng là dân nghèo có phúc của Người nếu ta tiếp tục đón nhận Ngài.

Ngài thật nghèo không phải chỉ vì đã sinh ra nghèo, đã sống nghèo và đã chết nghèo. Nhưng cái nghèo đích thực của Ngài là cái nghèo ở trước mặt Thiên Chúa Cha. Khi bị cám dỗ nơi sa mạc, Ngài không tựa vào gì khác để chiến thắng ngoài việc tựa vào Lời Chúa. Suốt thời kỳ giảng đạo, lương thực của Ngài là ý định của Chúa Cha. Cuối cùng khi hoàn tất sứ mạng trên Thập giá, Ngài đã hư vô hóa mình, ra nghèo trong sự chết, để được đổ đầy sự phục sinh và được tôn làm Chúa.

Giờ đây, trong thánh lễ, Ngài lại đến trong hình thức khó nghèo của bánh rượu, kêu gọi chúng ta tham dự tinh thần khó nghèo của mầu nhiệm Tử nạn, để ơn cứu rỗi được thông ban cho chúng ta. Vậy ai khó nghèo hãy đến lãnh nhận. Ai muốn lãnh nhận hãy thú nhận thân phận khó nghèo. Và lãnh nhận rồi, hãy có tinh thần khó nghèo để không phải tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi. Đời tôi sẽ đích thực là đời Kitô hữu. Chúa Kitô sẽ sinh động đời tôi để mọi mặt được phát triển, để đời tôi có đủ sắc thái của các mối phúc thật, vì không ai có thể hiền lành thật mà lại không trong sạch, thương xót, hòa bình, hy sinh v.v... Các mối phúc thật đều thông với nhau; và yếu tố chuyển thông ấy chính làtinh thần khó nghèo.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

----------------------------------

 

TN 4-A57. Người Nghèo Khó trong Tinh Thần


Chúa Nhật IV Thường Niên A

Mt 5,1-12a:

1 Thấy dân chúng thì Ngài lên núi. Ngài ngồi xuống và môn đồ đến bên Ngài.
2 Ngài mở miệng dạy họ rằng:
3 Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo,
vì nước trời là của họ.
4 Phúc cho những kẻ hiền lành,
vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp.
5 Phúc cho những kẻ ưu phiền,
vì họ sẽ được an ủi.
6 Phúc cho những kẻ đói khát công chính,
vì họ sẽ được no đầy.
7 Phúc cho những kẻ biết thương xót,
vì họ sẽ được thương xót.
8 Phúc cho những tinh sạch trong lòng,
vì họ sẽ thấy Thiên Chúa.
9 Phúc cho những kẻ tác tạo hòa bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
10 Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ.
11 Phúc cho các ngươi khi người ta sỉ mạ các ngươi, và bắt bớ, đặt điều nói xấu đủ điều về các ngươi một cách lếu láo vì cớ Ta. 12 Hãy vui xướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời:vì cũng như thế, chúng đã bắt bớ các tiên tri, tiền bối của các ngươi.

 

Đoạn 5:1-12a nằm trong văn mạch của Bài Giảng Trên Núi (5:1-7:29), diễn từ đầu tiên trong 5 diễn: TN 4-A57.


Đoạn 5:1-12a nằm trong văn mạch của Bài Giảng Trên Núi (5:1-7:29), diễn từ đầu tiên trong 5 diễn từ lớn của tin mừng theo thánh Matthêô; diễn từ thứ hai về truyền giáo (10:1-11:1); thứ ba là các dụ ngôn về Nước Trời (13:1-58); thứ tư là diễn từ về đời sống của Cộng đoàn Nước Trời (18:1-35); diễn từ cuối cùng về sự phá hủy đền thờ và tận cùng thế giới (24:1-25:46). Các Mối Phúc mở đầu Bài Giảng Trên Núi, gồm 8 mối phúc trong đó mối phúc thứ nhất và cuối cùng đóng khung đoạn bằng cụm từ giống nhau “vì Nước Trời là của họ” (cc. 3.10). Các mối phúc trong các câu 4-6 đề cập đến những khía cụ thể của mối phúc thứ nhất (c. 3). Trong khi ba mối phúc sau (cc. 7-9) nói đến những người thực hiện các việc khác nhau và họ sẽ được chúc phúc vì làm những việc ấy. Các mối phúc có cấu trúc giống nhau, gồm ba phần: - Lời tuyên bố “Phúc cho”, makarios; - các đối tượng khác nhau của sự chúc phúc; - Hành động chúc phúc của Thiên Chúa làm cho những người nầy. Nền tảng của các mối phúc là Thiên Chúa. Người chúc phúc cho những ai sống theo ý Người.

Văn mạch và bối cảnh (5:1). Diễn từ Bài Giảng Trên Núi mở đầu bằng “Người mở miệng dạy họ” và kết thúc bằng “sau khi Chúa Giêsu kết thúc nói với họ những lời ấy”. Diễn từ ngỏ với dân chúng và các môn đệ (5:1; 7:28); do đó, Bài Giảng nầy dành cho tất cả mọi người. Việc Chúa Giêsu lên núi, anabainô eis to opos, gợi lại hình ảnh Môsê lên núi Sinai để lãnh nhận lời Thiên Chúa và nói cho dân chúng (Xh 19:3; 24:15). Có thể Matthêô nhìn Chúa Giêsu như một Môsê mới. Thiên Chúa lại nói với dân Người qua Con của Người, và lời của người Con nầy có uy quyền và vượt qua mọi thầy dạy lề luật của Môsê (x. 7:29). Chúa Giêsu ngồi để giảng dạy; vị thế của các thầy dạy trong hội đường. Cụm từ “mở miệng giảng dạy và nói” là công thức trang trọng chỉ một diễn từ lớn sắp bắt đầu được nói ra.

Những người được chúc phúc (5:3-12). Makarios, nghĩa là “phúc lành”, “sự chúc phúc”. Trong Matthêô, makarios gắn liền với Thiên Chúa như là chủ thể của hành động. Người là chủ mọi phúc lành. Người “có phúc” là người được Thiên Chúa chúc phúc (x. Mt 11:6; 13:16; 16:17; 24:46). 

Người nghèo trong tinh thần (5:3). Khác với Luca, trong mối phúc thứ nhất, Matthêô nói đến “những người nghèo trong tinh thần”. Nói đến “người nghèo”, ptôchos, Luca trình bày những khuôn mặt cụ thể như Lazarô (16:20), Zachêô (19:8), bà goá nghèo (21:3), và việc mời người nghèo trong những buổi tiệc (14:13:31). Mối phúc về người nghèo trong Luca không có cụm từ “trong tinh thần” (6:20) như Matthêô. Như thế, có thể nghĩ là Matthêô bàn đến mối phúc nầy theo hướng khác. Trước hết ptôchos, “người nghèo” đối nghịch lại với “người giàu” (19:21; 26:9.11). Theo nghĩa rộng “người nghèo” là những người thiếu một điều gì đó mà một người bình thường có: vật chất, sức khỏe, thân xác lành mạnh, tình cảm, hiểu biết, tự do…(x. 11:5; Lc 4:18). Do đó, người nghèo thường lệ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác (x. 26:9), đặc biệt và cách tuyệt đối họ cần đến Thiên Chúa (11:5).

Tiếp đến Matthêô nói đến những người nghèo “trong tinh thần”, en pneumati. “Tinh thần”, Hipri ruah, Latin spiritus, đối nghịch với xác phàm, sarx: “Tinh thần thì sẵn sàng, thân xác thì yếu nhược” (26:41). “Tinh thần” là nguyên lý sống của thân xác. Còn tinh thần trong thân xác, con người còn sống. Pneuma ra khỏi thân xác, con người chết (x. 27:50). Bởi đó, pneuma là nguồn của sự sống, tình cảm, hiểu biết, tư duy, cảm xúc, ước muốn, ý chí…(x. Lc 8:55; 23:46; Gio 19:30; Cv 7:59).

Sau cùng, cụm từ “những người nghèo trong tinh thần” (“Những kẻ có tâm hồn nghèo khó”, Nguyễn Thế Thuấn) hiểu như thế nào? Theo ngữ pháp, cụm từ nầy ở trường hợp dative of respect, dùng để chỉ vị trí (locality) của một điều gì đó đang bàn đến. Vị trí ở đây là “trong tinh thần”, pneuma; chẳng hạn Chúa Giêsu biết “trong pneuma” của Người điều gì các kinh sư đang nghĩ trong lòng (Mc 2:8). Cũng thế, Người thở dài (Mc 8:12), Người xao xuyến (Gio 11:33). Pneuma là “nơi” mà sự hiểu biết, cảm xúc, tình cảm của Chúa Giêsu phát sinh. Như thế, khi nói “người nghèo trong tinh thần” Matthêô muốn nói về những người thiếu thốn về các khía cạnh tinh thần. Ông không đề cập đến khía cạnh vật chất cần cho thân xác và cũng không có ý nói đến tinh thần không dính bén vào của cải vật chất. Những thiếu thốn về mặt tinh thần sẽ được kê ra trong các mối phúc tiếp theo: hiền lành, ưu phiền, đói khát sự công chính (cc. 4-6). Chính Thiên Chúa sẽ ban cho “những người nghèo trong tinh thần” nầy Nước Trời.

Lời Thiên Chúa hứa cho những người nghèo trong tinh thần là Nước  Trời (c. 3b). Nước Trời chính là vương quyền của Thiên Chúa. Đó cũng chính là sự sống vĩnh cửu (19:16.21). Ngoài người nghèo trong tinh thần ra, Thiên Chúa còn dành Nước Trời nầy cho những người bị bách hại (5:10), người dạy và thực hiện Lời (5:19); người công chính hơn người Pharisêô (5:20), người thực hiện ý Chúa Cha (7:21), người bán mọi sự và theo Chúa Giêsu (19:21) và người bé mọn (19:14). Vậy, mối phúc dành thứ nhất chính là nội dung của tin mừng Nước Trời rao giảng cho người nghèo (4:23; 11:5) trong đó Thiên Chúa hứa ban cho họ Nước Trời.

Thiên Chúa hành động là yếu tố quyết định của Các Mối Phúc. Mọi phúc lành Thiên Chúa hứa ban đều qui về một điểm là ban Nước Trời; đó cũng chính là Người, Nguồn Phúc Lành vô biên.

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

----------------------------------

 

TN 4-A58. Chúa Nhật 4 mùa Thường niên, A

 

Với các bài đọc trong ba Chúa Nhật đầu của mùa Thường niên, ta đã có dịp suy niệm việc Chúa: TN 4-A58


          Với các bài đọc trong ba Chúa Nhật đầu của mùa Thường niên, ta đã có dịp suy niệm việc Chúa Giê-su khởi sự sứ vụ rao giảng Tin Mừng.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bắt đầu trình bày giáo lý của Chúa Giê-su về ơn cứu độ.  Qua bài giảng thường được mệnh danh là “Hiến chương Nước Trời” – Tám mối phúc – ta có thể nhận ra những giá trị chính yếu của Tin Mừng, đồng thời cũng nói lên những tương phản giữa những giá trị ấy với những giá trị trần thế.  Những ai có đủ điều kiện để đón nhận những giá trị Tin Mừng và phải đón nhận như thế nào?

1.  “Đức Ki-tô Giê-su đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa” (bài đọc Tân Ước – 1 Cr 1:26-31)

          Chúa Giê-su bắt đầu rao giảng Tin Mừng.  Nhưng ai sẽ là những kẻ được đón nghe lời giảng và đem ra thực hành?  Nhiều lần khi kết thúc bài giảng, Chúa Giê-su đã nói:  “Ai có tai nghe thì nghe” (Mc 4:9.23).  Nói như thế, Chúa muốn bảo rằng mọi người đều được mời gọi đón nhận Tin Mừng, không trừ ai.  Tuy nhiên, Chúa lại đặc biệt nhắc tới một lớp người thích hợp hơn để đón nghe Tin Mừng khi Người xác nhận Người được sai đi rao giảng Tin Mừng cho “những kẻ nghèo khó”.  Tại sao lại những kẻ nghèo khó mà không là những kẻ giàu có giỏi giang?  Là vì những ai muốn hấp thụ giáo lý của Người thì phải làm lại từ đầu, phải trở nên trẻ nhỏ, phải làm những học trò hoàn toàn tín thác vào thầy dạy. Quan sát một buổi rao giảng của Chúa, ta nhận thấy người nghe thuộc nhiều thành phần.  Đám đông dân chúng thì khao khát nghe những lời giảng dạy “có uy quyền” của Người (Mc 1:27) và “sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa”.  Nhưng lẫn trong đám họ, cũng xuất hiện một số người vẫn cho mình là đỉnh cao trí tuệ, cầm cân nảy mực cho cuộc sống cả đạo lẫn đời, đó là những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, Xa-đốc, thượng tế và các kinh sư.  Những người này đến nghe với mục đích là để vạch lá tìm sâu, bắt bẻ và nhiều khi còn giương những cạm bẫy mong làm cho Chúa mất uy tín trước dân chúng.  Họ muốn lấy sự khôn ngoan của người đời để phủ bác sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Thánh Phao-lô đã trình bày Chúa Giê-su là “Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa”.  Sự khôn ngoan này không thể đo lường theo mức độ trí tuệ con người, nhưng là một cách sống đi theo đường lối và lề luật của Thiên Chúa.  Điều vĩ đại nhất, đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa “đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta” nơi con người Chúa Giê-su.  Nói khác đi, sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã trở nên người phàm như chúng ta để chúng ta có thể sống theo khuôn mẫu khôn ngoan ấy.  Thật là kỳ diệu!  Làm sao ta biết được sự khôn ngoan của Thiên Chúa?  Làm sao giảng giải cho ta hiểu được sự khôn ngoan của Thiên Chúa?  Thế là Thiên Chúa có cách.  Người cho ta thấy được, sờ được, cảm nhận được sự khôn ngoan của Người nơi con người Đức Ki-tô!  Hơn thế nữa, sự khôn ngoan ấy đã đảo ngược những giá trị của khôn ngoan trần thế mà ta có thể thấy rõ qua bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su về Tám mối phúc.  Nhưng mục đích chính khi sự khôn ngoan của Thiên Chúa mặc lấy xác phàm là vì chúng ta:  để chúng ta “được hiện hữu, được trở nên công chính, được thánh hóa và được cứu chuộc”.  Ta được Thiên Chúa tạo dựng do sự khôn ngoan của Người là Đức Ki-tô.  Rồi từ đó, công chính hóa là bước đầu để ta làm con Chúa, thánh hóa là thời gian để ta được trở nên giống Chúa Ki-tô và được cứu chuộc là chung cuộc để ta được vĩnh viễn hưởng gia nghiệp Thiên Chúa ban.  Tất cả những bước này đều diễn tiến trong Chúa Ki-tô là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa.

2.  Chúa Giê-su giảng về sự khôn ngoan của Thiên Chúa hoặc những giá trị của Tin Mừng (bài Tin Mừng – Mt 5:1-12a)

          Trước hết hình ảnh Chúa Giê-su lên núi, ngồi xuống và các môn đệ đến gần gợi lại cho ta hình ảnh ngày xưa ông Mô-sê dạy dỗ dân Ít-ra-en trên núi Xi-nai.  Giờ đây ta có Mô-sê Mới, là chính Lời của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là phát ngôn viên của Thiên Chúa.  Ông Mô-sê truyền rao Mười giới răn của Thiên Chúa cho Ít-ra-en, còn Chúa Giê-su dạy ta về Tám mối phúc là lề luật của Tin Mừng.

          Có lẽ hầu hết ta đều quen thuộc với các mối phúc, nhất là người Công giáo Việt Nam với kinh “Phúc thật tám mối”.  Văn vẻ hơn thì ta gọi bài giảng này của Chúa Giê-su là “hiến chương Nước Trời”, vì nó đề ra những nét chính gặp thấy nơi những người có đủ điều kiện được làm thành phần của vương quốc cứu độ.  Tám điều này đều được thể hiện nơi Chúa Giê-su và nói lên sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Phân biệt ra làm tám điều không có nghĩa đó là những điều riêng biệt, nhưng liên hệ với nhau và bảy điều kia càng làm nổi bật lên một mối phúc.  Với lăng kính đức tin và xét theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng được gọi là các Mối phúc.  Nhưng nhìn theo con mắt người đời thì những Mối phúc đó lại là các Mối họa, vì tất cả đều là những bất lợi cho con người.  Chẳng ai dại chọn cái nghèo thay vì được giàu có.  Chẳng ai muốn để bị người khác bắt nạt, bị khổ đau, chịu thiệt thòi… Những giá trị Tin Mừng của Tám mối phúc là những điều người đời không thể chấp nhận và luôn dựa thế vào những giá trị trần thế như tiền bạc, danh vọng, chức quyền. 

          Nhưng ta đừng vội tin vào những giá trị trần thế, vì thánh Phao-lô quả quyết với ta rằng:  “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh;  những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người”.  Quả thực, qua Đức Ki-tô sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã thắng mọi quyền lực của ma quỷ và thế gian.  Mạnh mẽ như tội lỗi và sự chết mà cũng bị Chúa Giê-su chiến thắng.  Như thế, ta thấy rõ
Chúa Giê-su không những “giảng” về Tám mối phúc, nhưng hơn thế nữa, Người còn sống và thực hành những mối phúc ấy để làm gương mẫu cho ta.


3.  Ki-tô hữu thuộc về “số dân Ít-ra-en còn sót lại” (bài đọc Cựu Ước – Xp 2:3; 3:12-13)

          Làm Ki-tô hữu là ta làm những người học với Chúa Giê-su, sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã gióng lên lời kêu gọi những kẻ nghèo hèn hãy sống công chính và khiêm nhường “để được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa”.  Nhưng điều đáng để ý nhất, đó là vị ngôn sứ đã thấy trước sẽ có “số dân Ít-ra-en còn sót lại”, một hình ảnh ám chỉ những người sống theo giá trị Tin Mừng do Đức Ki-tô rao giảng.  Những người này sống hoàn toàn ngược lại lề lối của thế gian, bởi vì họ “sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt”.  Tuy nhiên, điều an ủi hơn cả, đó là những người này “sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ”.  Đúng vậy, Đức Ki-tô là vị Mục Tử Nhân Lành chăn dắt ta, thì ta còn phải lo lắng khiếp sợ gì nữa!  (Xem Ga 10:1-18).

          Bình thường ta dễ bị cám dỗ sống theo những giá trị trần thế và không mấy tin tưởng vào những giá trị Tin Mừng.  Thế giới càng văn minh và đời sống vật chất càng phát triển thì những giá trị bề ngoài của chúng càng có vẻ quyến rũ.  Chúng ngạo nghễ thách thức những giá trị Tin Mừng và luôn giành phần thắng ở đời này.  Do đó, đời sống Ki-tô hữu sẽ khó khăn hơn và đòi hỏi làm chứng cho những giá trị Tin Mừng cũng cam go hơn.  Ta là những người “còn sót lại”, điều này không có nghĩa là ta sẽ thất bại hoặc yếu thế.  Nhưng ta xác tín mình đã được Thiên Chúa “chọn” để hạ nhục những kẻ khôn ngoan và những kẻ hùng mạnh của thế gian, để hủy diệt sức mạnh của tiền tài danh vọng.  Ta xác tín mình đã được Thiên Chúa “chọn” để đạt được chiến thắng cuối cùng là được cứu độ và chia sẻ gia nghiệp của Thiên Chúa.

4.  Sống Lời Chúa

          Lời Chúa hôm nay đã cho ta một cái nhìn đại cương về giáo lý Chúa Giê-su sẽ giảng dạy trên đường rao giảng Tin Mừng.  Rõ ràng có sự đối nghịch giữa lối sống do Chúa dạy và lối sống của người đời.  Sự đối nghịch đó đã dần dần đưa Chúa Giê-su đến cái chết khổ nhục trên thập giá.  Tuy nhiên cuối cùng thì sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã chiến thắng vinh hiển qua sự Phục Sinh của Đức Ki-tô.  Chiến thắng ấy là bảo đảm và khích lệ ta hãy bước đi theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tức là thực hành những mối phúc Chúa Giê-su rao giảng.

Suy nghĩ:  Nhìn vào tấm gương “Tám mối phúc”, tôi nhận ra hình ảnh của tôi như thế nào?  Đâu là đường nét rõ nhất về con người tôi?  Nói khác đi, đâu là ưu điểm thể hiện một mối phúc rõ rệt nhất nơi tôi?  Tôi đang cố gắng sống theo mối phúc ấy như thế nào để nói lên hình ảnh của Chúa Ki-tô?

Cầu nguyện:  Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho tất cả các dân tộc có cùng một nguồn gốc.  Chúa lại muốn cho họ nhận biết Chúa, và quy tụ họ thành một gia đình.  Xin tuôn đổ tình thương Chúa trong lòng mọi người, để hết thảy đều cùng chung một khát vọng là lo sao cho anh em cũng được tiến triển với mình.  Rồi một khi đã dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách và cùng nhau chia sẻ những tài nguyên Chúa ban, cá nhân mỗi người sẽ được phát triển, và xã hội loài người sẽ công bình thịnh vượng hơn.  Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho các dân tộc được phát triển).

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

----------------------------------

 

TN 4-A59. Bí quyết để sống hạnh phúc


Chúa Nhật thứ 4 Thường Niên

 (30-1-2005)

 ĐỌC LỜI CHÚA

·        Xp 2,3.3,12-13: (3) Hỡi tất cả những ai nghèo hèn hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường, anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa.

·        1Cr 1,26-31: (27) Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; (28) những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có.
 
·        TIN MỪNG: Mt 5,1-12a

Tám mối Phúc

 (1) Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở miệng dạy họ rằng: (3) «Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (4) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (5) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. (6) Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. (7) Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. (8) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. (9) Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. (10) Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. (11) Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao».
 
CHIA SẺ 

Câu hỏi gợi ý:

 

Tám Mối Phúc» của Đức Giêsu nên hiểu theo nghĩa nào? Nghĩa đen hay nghĩa tâm linh?: TN 4-A59


1.      «Tám Mối Phúc» của Đức Giêsu nên hiểu theo nghĩa nào? Nghĩa đen hay nghĩa tâm linh?

2.      «Tâm hồn nghèo khó» là gì? Những người đang khổ vì nghèo mà ta thường gặp là người hạnh phúc thật sao? Người «sầu khổ» sao lại hạnh phúc được?
 
Suy tư gợi ý:

1.      «Tám Mối Phúc» đều là những chân lý rất nghịch lý

Đọc bài «Tám Mối Phúc» của Đức Giêsu, ai cũng nhận ra tám điều rất nghịch lý. Nghịch lý là đi ngược lại với lôgích thông thường của con người. Trong Tin Mừng, cũng như trong cuộc sống, có rất nhiều nghịch lý. Chẳng hạn những câu: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,25); hay «Sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối» (2Cr 12,9); chính vì thế, «khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh» (2Cr 12,10). Tuy nghịch lý, nhưng lại rất thực tế, và suy cho cùng, nhất là khi đã có thật nhiều kinh nghiệm trường đời, thì lại thấy chúng vô cùng hữu lý.

«Tám Mối Phúc» là bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu, được Ngài thực hiện trên núi, nơi tượng trưng cho những gì cao cả nhất. Toàn bộ những gì Đức Giêsu rao giảng và hành động để thực hiện Nước Trời, và chính cuộc sống vì Nước Trời của Ngài đều minh giải cho bài giảng đầu tiên ấy. Vì thế, Giáo Hội thật hữu lý khi gọi «Tám Mối Phúc» là «Hiến Chương Nước Trời». Đó là những nguyên lý căn bản nhất để thực hiện Nước Trời – tức Thiên Đàng hay Hạnh Phúc đích thực – ngay trong chính tâm hồn mình, trong đời sống cá nhân / xã hội, và trong cuộc sống vĩnh cửu mai sau.

2.      Phải hiểu «Tám Mối Phúc» theo nghĩa tâm linh

Thông thường, những câu diễn tả chân lý thâm sâu trong kinh điển của các tôn giáo đều phải hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm. «Tám Mối Phúc» là những chân lý căn bản nhất của Kitô giáo, cũng không ra ngoài quy luật ấy. Hiểu theo nghĩa đen thì có thể đúng, nhưng rất nhiều khi không phù hợp. Vậy muốn hiểu «Tám Mối Phúc» theo nghĩa tâm linh thì phải hiểu thế nào?

a) «Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ». Câu này khuyên ta phải «nghèo» lòng tham. Tâm hồn nghèo khó là tâm hồn ít lòng tham, ít dục vọng. Rất nhiều người nhờ tham lam mà trở nên giàu có; những người này tuy giàu nhưng vẫn khổ. Nhưng vẫn có một số ít người tuy giàu sang mà lại ít lòng tham, ít tham vọng; họ thường sung sướng. Cũng vậy, nhiều người vì ít lòng tham mà trở nên nghèo; họ là những người nghèo mà không thiếu, không khổ, vì họ hài lòng với những gì mình có: «Biết đủ thì đã đủ, không biết đủ thì biết đến bao giờ mới đủ?» (Nguyễn Công Trứ). Trái lại có rất nhiều người nghèo nhưng lại đầy lòng tham, đầy tham vọng, nên họ khổ sở hơn ai hết: vừa nghèo lại vừa khổ.

Đối tượng tham muốn của hầu hết mọi người là của cải vật chất như tiền bạc, đất đai, nhà cửa, những phương tiện để cuộc sống được thoải mái như xe cộ, các loại máy móc… Những người có trí tuệ hơn thì đối tượng tham muốn là tài năng, danh vọng, quyền bính, địa vị, uy tín, lòng kính trọng của mọi người dành cho mình… – Tham muốn giống như một bệnh ghiền, nó đòi hỏi và thôi thúc con người phải thỏa mãn cơn ghiền. Không thỏa mãn thì chịu không nổi: bực bội, khó chịu, phiền muộn vô cùng. Nhưng cơn ghiền chỉ được thỏa mãn trong một thời gian ngắn rồi lại đòi hỏi tiếp. Cứ thế mà tái diễn suốt cuộc đời. Tham muốn, cơn ghiền, giống như một túi bị lủng đáy, cứ đầy được ít lâu lại trở nên rỗng tuếch rồi lại đòi hỏi phải đầy nữa. Tham muốn đòi hỏi phải được thỏa mãn, nếu không thỏa mãn, ta sẽ khó chịu, bực bội, đau khổ, không hạnh phúc. Nhưng thỏa mãn nó, nhiều khi ta phải nhúng tay vào tội ác, làm những điều thất đức, vô lương tâm. Từ đó, đời sống ta không còn được an ổn, thậm chí có thể bị những hậu quả tai hại vì những tội ác ta gây nên. Do đó, tham muốn chẳng những khiến ta làm cho người khác đau khổ, mà chính ta cũng chẳng được hạnh phúc. Tóm lại, tham muốn thường tạo nên đau khổ. Vì thế, ta nên bỏ bớt tham muốn trong cuộc đời. Càng ít tham muốn thì càng dễ hạnh phúc.

b) «Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an».  Câu này khuyên ta đừng ham sướng, cũng đừng sợ khổ, hãy sẵn sàng chấp nhận đau khổ. Người càng sợ đau khổ thì càng nhạy bén với đau khổ, càng dễ đau khổ, càng hấp dẫn đau khổ đến với mình. Dân gian có câu: «Ghét của nào, Trời trao của ấy». Còn người sẵn sàng chấp nhận đau khổ, sẵn sàng «vác thập giá mình» (Mt 16,24)  thì vui vẻ khi đau khổ đến, và thái độ ấy hóa giải được đau khổ. Kinh nghiệm cho tôi thấy: không phải cứ sẵn sàng đón nhận đau khổ thì tất nhiên đau khổ sẽ tới, trái lại thì đúng hơn. Thái độ này khiến đau khổ ít xảy ra hơn. Nếu đau khổ có xảy đến, người có đức tin sẽ nhìn ra đó là thánh ý Thiên Chúa, vì: «Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ» (Mt 10,29.31). Một khi đã nhận ra thánh ý Chúa, ta vui lòng chấp nhận vì biết rằng thánh ý Chúa luôn có lợi cho mình. Đó là cách khôn ngoan nhất để ít đau khổ nhất, đau khổ chủ quan cũng như khách quan.

c) «Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp»; «Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương»; «Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa». Những câu này khuyên ta hãy yêu thương tha nhân và nỗ lực đem lại bình an hạnh phúc cho họ. Người thật lòng yêu thương tha nhân sẽ được mọi người yêu mến kính phục. Người lấy đau khổ của tha nhân làm đau khổ của mình, lấy hạnh phúc của tha nhân làm hạnh phúc của mình sẽ tự giải thoát khỏi «cái tôi» của mình, là cái đem lại cho ta biết bao âu lo, phiền muộn. Đó chính là tinh thần «từ bỏ chính mình» của Tin Mừng (Mt 16,24). Sự cao thượng của người có tâm hồn vị tha sẽ đem lại bao nguồn vui siêu nhiên sâu xa, vượt cao hơn những nguồn vui tự nhiên. Tình yêu làm con người nên giống Thiên Chúa hơn bất kỳ một nhân đức nào khác, vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16).

d) «Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng»; «Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa». Những câu này khuyên ta hãy quyết tâm nên thánh như Đức Giêsu đã mời gọi: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Sự hoàn thiện chính là thực hiện được tinh thần «Tám Mối Phúc» này. Bí quyết để sống được những mối phúc này là tinh thần xả kỷ, quên mình hay «từ bỏ chính mình» (Mt 16,24), coi nhẹ «cái tôi» của mình và những gì là của mình: ý riêng, lập trường riêng, quyền lợi riêng… Càng coi nhẹ «cái tôi» của mình, cuộc sống càng trở nên nhẹ nhõm, thanh thản, nên rất dễ được bình an. Tích cực hơn nên hoàn thiện là quan tâm thực hiện thánh ý Thiên Chúa như Đức Giêsu: «Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi» (Ga 6,38). Thánh ý Thiên Chúa được tỏ lộ qua Lời Ngài, đặc biệt qua những biến cố, những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc đời ta. Đây chính là tinh thần «theo Chúa» của Tin Mừng (Mt 16,24).

đ) «Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ»; «Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao». Trong xã hội đầy nhiễu nhương như thời nay, sống trong sạch, công chính – giống như lội ngược dòng nước – không phải chuyện dễ. Hơn nữa, người thật sự công chính không chỉ sống công chính cho riêng mình, mà còn nỗ lực đem lại công lý và hạnh phúc cho xã hội. Họ can đảm chống bất công, chống áp bức, bênh vực những kẻ yếu đuối, cô thân cô thế, lên tiếng thay cho những kẻ không có tiếng nói thường bị bắt nạt, đàn áp. Vì thế, người công chính giống như một cái gai cản trở những kẻ gian tham thực hiện những ý đồ sai trái, độc ác của họ hầu đạt được của cải, danh vọng, quyền bính. Do đó người công chính đích thực thường bị bạc đãi, bách hại… Chính vì thế, có danh nhân nọ nói: «Trong một xã hội đầy bất công, nơi ở của những người công chính thường là nhà tù». Nhưng với lý tưởng công chính, họ không lấy thế làm khổ mà vui vì đã thắng được chính mình, đã làm theo đòi hỏi của lương tâm mình cũng là thánh ý Thiên Chúa. Và đương nhiên phần thưởng mà Thiên Chúa dành cho họ trong tương lai thật lớn lao.

Đó là những bí quyết để sống hạnh phúc ngay ở đời này phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, và góp phần xây dựng Nước Trời ở trần gian, đồng thời tạo cho mình và cho người hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau. Với một cái nhìn toàn cục xuyên suốt cả đời này lẫn đời sau, thì đó chính là cách sống khôn ngoan nhất để được tổng số hạnh phúc tối đa.
 
CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, chỉ khi nỗ lực sống «Tám Mối Phúc» của Đức Giêsu, con mới thực hiện được tinh thần «từ bỏ chính mình», «vác thập giá mình» và «theo Ngài» mà người Kitô hữu phải có. Xin cho con nhận ra rằng đó chính là những bí quyết để con được hạnh phúc ngay ở đời này, một thứ hạnh phúc thanh thoát siêu nhiên, và để làm cho mọi người chung quanh con được hạnh phúc. Có như thế, con mới xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mà Cha dành cho con ở đời sau.
Joan Nguyễn Chính Kết

----------------------------------

 

TN 4-A60. CHÚA NHẬT 4 QUANH NĂM


(Mát-thêu 5: 1-12)

 

 Phụng vụ Lời Chúa của ba Chúa Nhật trước đã giới thiệu cho ta biết Chúa Giê-su là Đấng: TN 4-A60


                   Phụng vụ Lời Chúa của ba Chúa Nhật trước đã giới thiệu cho ta biết Chúa Giê-su là Đấng nào và Người đã chuẩn bị thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng ra sao.  Tiếp theo là phần trình bày giáo lý và việc làm của Người, sẽ bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”  Công việc của vị Sứ giả Tin Mừng là chỉ cho người ta biết Nước Trời là gì và đang đến như thế nào, để người ta nhận ra và chuẩn bị tiếp nhận bằng cách sám hối.  Với tư cách là Mô-sê Mới, Chúa Giê-su “lên núi, ngồi xuống, và mở miệng dạy dỗ dân chúng.”  Vì thế, bài giảng đầu tiên của Người được thánh sử Mát-thêu ghi lại gọi là “bài giảng trên núi.”  Bài giảng này cũng được mệnh danh là “Hiến chương Nước Trời”, hoặc nói theo học giả Kinh Thánh Neil Flanagan là “Tuyên ngôn Ki-tô” (Christian Manifesto).  Bài giảng quá đơn sơ và là những khẳng định chắc chắn nên thường làm cho ta không biết hiểu sao cho đúng. 
 
a)  Tám mối phúc là những nẻo đường Thiên Chúa đến với ta

          Đọc kinh “Phúc thật tám mối”, bình thường ta chỉ coi đó là những lời khuyên luân lý và cố gắng sống theo, ít khi coi đó là những lời giảng của Chúa Giê-su hé mở cho ta thấy thế nào là đời sống có Thiên Chúa hiện diện.  Thực vậy, mỗi mối phúc là một ơn lành đặc biệt biểu lộ quyền năng Thiên Chúa và Người ban cho ta để ta sống theo ơn lành đó trong đời mình.  Thí dụ, phúc lành Chúa ban cho tôi là tôi biết xót thương người khác.  Vậy khi tôi sống mà luôn biết xót thương anh chị em là tôi đã để cho quyền năng lòng xót thương của Thiên Chúa được biểu lộ cho anh chị em tôi vậy.

          Nhưng làm sao ta hiểu các mối phúc là những nẻo đường Chúa đến với ta để đưa ta đến với hạnh phúc trường sinh?  Ta phải căn cứ vào Cựu Ước và lấy đó làm nền tảng để hiểu Chúa Giê-su muốn trình bày những mối phúc ấy đến từ Thiên Chúa, hay nói khác đi, đó là những đặc tính của Thiên Chúa và Người ban lại cho ta như những ơn lành (mối phúc) của Người.  Khi nói về mỗi mối phúc, Chúa Giê-su không trích dẫn Cựu Ước, nhưng thính giả của Người đều quen thuộc với Kinh Thánh Cựu Ước nên họ hiểu ngay Người muốn nói gì.  Còn đối với hầu hết chúng ta ngày nay, muốn hiểu được như vậy thường phải dự một lớp học hỏi Kinh Thánh hoặc đọc sách vở giải thích về Kinh Thánh.  Vậy ta có thể trình bày tổng quát như sau.  Các trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước liên quan đến những mối phúc trong Tin Mừng thường có hai phương diện.  Về phía ta, có thể đó là những chỉ thị Thiên Chúa muốn ta phải làm theo hoặc những lời hứa Người nói với ta. 

Thí dụ:  “Nếu giữa anh em, trong một thành nào của anh em trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em ban cho anh em, có một người anh em nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng;  nhưng phải mở rộng tay và cho họ vay mượn tất cả những gì họ thiếu” (Đnl 15:7-8), hoặc: “Còn kẻ nghèo hèn thì được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (Tv 37:11).  Về phía Thiên Chúa, những trích dẫn hoặc những câu truyện trong Cựu Ước cho ta hình ảnh về Thiên Chúa là chính những mối phúc ấy.  Thí dụ những câu truyện trong sách Sáng Thế từ chương 3 – 11 kể lại việc người ta phạm tội đưa tới diệt vong.  Nhưng mỗi lần như thế, Chúa đều can thiệp để đưa họ tới một thực tại tốt đẹp hơn.  Điều ấy chứng tỏ lòng Thiên Chúa là Đấng hay thương xót con người.
 
b)  Chúa Giê-su là hiện thân của những mối phúc

          Dạy những điều chính mình đang sống, đó là đường lối giảng dạy của Chúa Giê-su.  Như thế các mối phúc đã hoàn toàn được thể hiện qua cách sống của Người.  Khi chọn xuống thế làm người và sống giữa nhân loại, Chúa Giê-su đã chọn làm một “người nghèo” (anawim) và “hiền lành” để hoàn toàn tín thác Thiên Chúa thay vì tin tưởng vào tiền bạc của cải và quyền lực trần gian.  Người đã đóng trọn vai trò vị ngôn sứ được sai đi để “yên ủi mọi kẻ khóc than; tặng cho những kẻ khóc than ở Xi-on tấm khăn đại lễ thay tro bụi” (Is 61:2-3).  Người luôn ấp ủ lý tưởng xây dựng nền công chính mới nên đã hăng say rao giảng Tin Mừng và còn mang theo niềm khát khao ấy khi ở trên thập giá:  “Tôi khát” (Ga 19:28).  Người luôn luôn biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa cho những người tội lỗi, những người bị xã hội ruồng bỏ, sống đúng như Châm ngôn 14:32, “Thương xót kẻ khó nghèo là tôn kính Đấng dựng nên người đó.”  Chúa Giê-su là câu trả lời cho câu hỏi “Ai được lên núi Chúa?  Ai được ở trong đền thánh của Chúa?”, vì chỉ có Người mới hoàn toàn là “kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24:3).  Người ra đi thiết lập hòa bình giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với con người.  Người giảng dạy và nêu gương để con người không còn là sài lang đối với con người (homo homini lupus), nhưng là anh chị em con cùng Cha và biết yêu thương cả kẻ thù của mình nữa.  Sau hết, Chúa Giê-su đã chấp nhận mọi bách hại, từ tâm lý cho đến thể lý và cả cái chết, để sống trung thành với sứ mệnh và chu toàn thánh ý Chúa Cha.
 
c)  Sống các mối phúc là làm cho Nước Trời được thể hiện

          Chúa Giê-su đã làm cho Nước Trời được người ta nhận biết qua lối sống và giảng dạy của Người.  Khi Người rao giảng:  “Nước Trời đã đến gần” thì không có nghĩa là sắp có một quốc gia mới, nhưng là chính Người đã tới gần, đang ở cạnh mọi người, vì Nước Trời đang thể hiện trong Người.  Kêu gọi chúng ta làm công dân Nước Trời, Chúa Giê-su trình bày cho ta một “hiến chương” hay một “tuyên ngôn” để giúp ta đi theo con đường Người đã đi xây dựng Nước Trời.  Ta không hiểu được hiến chương hay tuyên ngôn ấy nếu không nhìn vào chính cuộc sống của Chúa Giê-su, để từ đó nhìn vào bản chất của Thiên Chúa và ý thức cùng đích của ta là được ở trong hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa.

          Mỗi người chúng ta có một con đường quen thuộc để đi, để sống và để xây dựng.  Cũng thế, mỗi người đều nhận ra mình có một mối phúc trổi vượt hơn những mối phúc khác qua bản chất hoặc hoàn cảnh của cá nhân mình, tựa như những đặc sủng để ta sử dụng nó cho lợi ích của người khác, của cộng đoàn và xã hội.  Nước Trời giống như hạt kim cương với những khía cạnh tuyệt vời nhưng khác biệt nhau.  Do đó, khi sống mối phúc đặc biệt của mình là ta làm sáng lên một góc độ của hạt kim cương ấy và giúp mọi người nhận ra sự hiện diện của Nước Trời đang ở bên cạnh họ.
 
d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Khi nghe Chúa Giê-su lần lượt kể ra những loại người được chúc phúc, hoặc có Thiên Chúa hiện diện trong họ, tôi thấy mình thuộc loại người nào?  Nói khác đi, mối phúc nào là của tôi?  Tôi đã làm gì với ân sủng hoặc mối phúc ấy?

          Tôi có thể nói với những người chung quanh như Chúa Giê-su đã nói:  “Nuớc Trời đã đến gần” không?  Tại sao?

          Mối phúc thứ tám là tuyệt đỉnh đời sống người môn đệ Chúa, đồng hóa ta với Chúa Giê-su.  Vậy tôi đã nhìn theo khía cạnh nào những “thiệt thòi” vì tôi là người Công giáo?  Và tôi có can đảm để chấp nhận những thiệt thòi ấy không?  Gương của Chúa Giê-su dạy tôi thế nào về điều này?
 
Cầu nguyện:

          “Lạy Chúa Giê-su thương mến,
          xin ban cho chúng con
          tỏa lan hương thơm của Chúa
          đến mọi nơi chúng con đi.
          Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
          bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
          Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
          để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
          Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
          để những người chúng con tiếp xúc
          cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
          Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
          không phải bằng lời nói suông,
          nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
          và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
                                      - Mẹ Têrêxa Calcutta
                                      (Trích RABBOUNI, lời nguyện 68)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
1-28-05

----------------------------------

 

TN 4-A61. Tám mối phúc - Đường dẫn đến tự do


CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM A

Xp 2,3;3,12-13; 1 Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a

 

 Con người ngày nay hiểu và định nghĩa hạnh phúc theo nghĩa phàm tục. Người có phúc là: TN 4-A61


Con người ngày nay hiểu và định nghĩa hạnh phúc theo nghĩa phàm tục. Người có phúc là kẻ có nhiều may mắn giống như kẻ trúng số lớn, có thể sống cuộc đời vô tư. Người có phúc là kẻ có nghề nghiệp như ước mơ, có thể gặt hái nhiều lợi lộc. Người có phúc là kẻ có nhà cao cửa rộng, phú quý giầu sang, là kẻ có một gia đình trên thuận dưới hoà, … Hạnh phúc có nghĩa là đạt được những gì mình ước muốn.

          Trong thực tế, ở đâu mặt trời chói sáng, thì ở đó cũng có nhiều bóng tối! Sống trong thế giới văn minh chúng ta chứng kiến nhiều cảnh gia đình đổ vỡ dẫn đến ly dị. Cảnh chia ly xảy ra từ thôn quê đến thị thành. Theo thống kê thì tỷ số ly dị nơi các thành phố lớn rất cao, đặc biệt trong giới điện ảnh, minh tinh màn bạc, chính trị gia và thương gia. Nhiều người cho rằng: ngày nay phong trào tục hoá đã chiếm ưu thế trong mọi lãnh vực, ngay cả trong đời sống tôn giáo. Thị trường tìm đủ mọi cách qua điện ảnh, báo chí quảng cáo mời gọi con người ngày nay sống hưởng thụ. Sức dụ dỗ quá lớn, con người bị mê hoặc, không đủ sức chống lại, đành a dua hoặc tự nguyện chạy theo thói đời. Hậu quả tất nhiên chính là: Đời sống luân lý ngày càng suy yếu, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn hay bị bóp méo, … Thay vì tự do con người tự biến mình thành nô lệ!

          Trong bối cảnh này chúng ta lắng nghe tám mối phúc. Đó chính là học thuyết căn bản của Đức Giêsu. Có thể nói toàn bộ sứ điệp của Ngài được gồm tóm trong mười câu của bài Phúc âm hôm nay. Tám mối phúc - thoạt nghe dường như rất quen thuộc nhưng cũng rất xa lạ. Bởi vì ai là kẻ Đức Giêsu nhắm tới? Phải chăng chỉ những con chiên ngoan, sớm tối lo đọc kinh, làm việc phúc đức? Tội lỗi khô khan nguội lạnh như bản thân tôi chắc không đâu! Tôi làm sao có can đảm sống giống như thế! Sống hiền lành như cục đất thường bị người ta chê là cù lần, thậm chí bị kẻ khác trèo lên đầu lên cổ! Nghèo thì chẳng ma nào đếm xỉa tới! Tin người, thương người quá thì bị lợi dụng! …

          Tám mối phúc là lời hứa hay là lời mời gọi? Có lẽ cả hai đều đúng. Giống như Môsê từ trên đỉnh núi xuống, công bố cho dân Do thái mười điều răn như khuôn khổ giúp họ sống, thì hôm nay Đức Giêsu đi lên núi và loan báo cho chúng ta bí quyết để sống cuộc đời tự do. Nếu như chúng ta muốn biết rõ thế nào là tự do chúng ta chỉ cần đào sâu nghiền ngẫm tám mối phúc. Người sống tự do là người có một tâm hồn thanh thản, người đó đứng vững giống như chiếc kiềng ba chân không lo lắng sợ sệt trước gió bão. Bởi vì dầu biết mình chưa thành toàn, chưa hoàn hảo nhưng kẻ ấy thâm tín rằng mình được yêu thương chấp nhận. Sống trong vòng tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa thì tội tình chỉ phải đeo mặt lạ, cần gì phải xây cổng kín tường cao, cần gì phải tranh giành với thiên hạ những chuyện không đâu, cần gì phải quan tâm lo lắng đến thành công hay thất bại, … Còn gì hạnh phúc hơn khi có thể đối diện với con người thật của mình. Biết mình không thập toàn nhưng không sợ chê bai. Sống tự do có nghĩa là sống thành thật với chính mình.

          Nhiều người cho rằng tám mối phúc của Đức Giêsu quá lý tưởng. Dựa vào sức của con người không thể nào thực hiện nổi, có thể nói, tất cả chỉ là ảo tưởng mà thôi. Nhưng nếu như Đức Giêsu đã làm phép lạ, thì đây là dấu chỉ chắc chắn chứng thực rằng thời gian cứu độ đã bắt đầu. Nếu như Ngài loan báo một nền đạo đức mới, thì đây phải là những điều chúng ta có thể áp dụng và sống ngay từ bây giờ. Đức Giêsu là một người có đầu óc rất thực tế. Ngài biết rằng: những luật lệ, thói tục của con người từ trước đến nay không thể hoàn toàn biến mất trong chốc lát. Sự xuất hiện và sứ điệp của Ngài không phải là điểm kết thúc một quá trình phát triển lâu dài. Chính vì thế Ngài không công bố một giới luật mới. Ngài giống như một cơn lốc có thể cuốn theo rơm rác, có thể rửa sạch bụi bậm, giúp con người khám phá ra tinh hoa của lề luật.

          Chúng ta chưa có đủ can đảm sống xứng đáng với nhâm phẩm được chính Thiên Chúa ban tặng. Chúng ta sống do dự trong muôn vàn lo lắng sợ sệt. Khi sống theo tám mối phúc chắc chắn chúng ta có thể bị lợi dụng chê cười, nhưng mặt khác nếu như chúng ta không từng bước biến tám mối phúc thành hiện thực thì rồi đây tất cả mèo vẫn hoàn mèo! Hôm nay Đức Giêsu nhấn mạnh rằng, hạnh phúc tương lai chỉ thuộc về những người ngay tự bây giờ bắt đầu sống và hưởng nếm vị ngọt ngào của phúc thiên đàng.

Lm. Phêrô Trần Minh Đức

----------------------------------

 

TN 4-A62. CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN


03-02-2002
NGHE

·         Bài đọc 1: Xp 2,3; 3,12-13:

(3) Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa. (12) Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ12)y ra anh em sẽ được che tr trở trong ngày thịnh nộ của Ðức Chúãy tìm Ðức Khiêm Nhường; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. (13) Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ.

·         Bài đọc 1: 1Cr 1,26-31: Sự khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan theo Ki-tô giáo

(27) Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã dùng để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã dùng để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; (28) những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, (29) hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. (30) Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa.. (31) hợp như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.

·         Bài Tin Mừng: Mt 5,1-12a: Tám mối phúc
·                     .
· 
· 
· 
· 
· 
· 
· 
· 
· 
· 
·phụ trước mặt người. ng để hạ nhục những kẻ không ngoan
(1) Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (4) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (5) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. (6) Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. (7) Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. (8) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên chúa. (9) Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. (10) Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. (11) Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao."

NGẪM

* Câu hỏi gợi ý:

 

Chủ đề các bài đọc hôm nay ? Thế nào là người nghèo của Thiên Chúa ? 2. Tại sao Thiên: TN 4-A62


1.     Chủ đề các bài đọc hôm nay ? Thế nào là người nghèo của Thiên Chúa ?

2.     Tại sao Thiên Chúa yêu quí những người nghèo khó? Phải chăng tất cả mọi người nghèo đều được Thiên Chúa sủng mộ ? Chúng ta có thể rút ra được những bài học nào để áp dụng vào cuộc sống ?

* Suy tư gợi ý:

1.     Chủ đề: Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hình ảnh về những người nghèo của Thiên Chúa. Đó là những người cùng khổ, nhỏ bé hèn hạ, bị chà đạp. Họ sẽ được Thiên Chúa bênh đỡ ủi an.

Bài đọc 1: Ngôn sứ Xô-phô-nia kêu gọi những ai nghèo khó trong xứ sở, số dân nhỏ bé còn sót lại, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa, hãy tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm sự công chính của Ngài. Họ sẽ được Thiên Chúa chăn dắt chở che khỏi những kẻ áp bức, khỏi mọi điều tai họa.

Bài đọc 2: Thánh Phao-lô cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ nơi những con người thấp hèn yếu đuối, những người bị thế gian cho là khờ dại, kém cỏi. Thiên Chúa sẽ làm cho họ trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan khiến cho sức mạnh và sự khôn ngoan trần gian phải bẽ mặt. Quả vậy: ".những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người" (1Cr1,28-29).

Bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giê-su giảng về "Tám mối phúc". Đây chính là đáp án, là đích điểm cho dòng lịch sử xuyên suốt, lịch sử Ơn Cứu Độ. Quả vậy, Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân của Ngài là sẽ giải phóng họ thoát ách ngoại bang, khỏi vòng nô lệ tội lỗi, và trong suốt chiều dài lịch sử, Ngài luôn can thiệp cứu giúp dân trong những cơn nguy khốn, bị áp bức, đọa đày. Bài giảng "Tám mối phúc" trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay chính là lời tuyên thưởng cho những công dân đã trung thành với luật điều của Nước Trời.

Họ là ai? - là những người "có tâm hồn nghèo khó", "hiền lành" nhịn nhục "sầu khổ", "khao khát nên người công chính", "xây dựng hoà bình", "có tâm hồn trong sạch", "bị bách hại", "bị xỉ vả và vu khống đủ điều". Đó chính là những người nghèo được Thiên Chúa ưu ái mà các ngôn sứ đã từng nhắc đến.

2.    Tại sao Thiên Chúa yêu quí những người nghèo khó? Phải chăng tất cả mọi người nghèo đều được Thiên Chúa sủng mộ ?

Nói Thiên Chúa sủng mộ người nghèo, không có nghĩa là bất cứ ai nghèo khó đều được Thiên Chúa mến chuộng. Vì có những người nghèo là do làm biếng "Dài lưng tốn, vải ăn no lại nằm"; có những người nghèo là do làm bậy "Đói ăn vụng, túng làm liều" rồi bị bắt, bị bỏ tù; lại có những người nghèo mà lòng đầy những ham hố của cải.không còn chỗ dành cho Thiên Chúa. Chắc chắn Ngài không thể hài lòng về những người nghèo này.

Người nghèo của Thiên Chúa phải là:

Người thi hành mệnh lệnh của Ngài, tìm nương ẩn nơi Ngài, tìm sự công chính, sống sao cho xứng với phẩm vị của mình "Đói cho sạch, rách cho thơm".

Người sẵn sàng chịu bách hại, xỉ vả và vu khống đủ điều vì Danh Chúa. Đó là dấu chứng hùng hồn, là thước đo lòng thành của họ đối với Thiên Chúa "Lửa thử vàng, gian nan thử đức".

Và trên hết, Người nghèo của Thiên Chúa, phải là những người có tinh thần nghèo khó: Chúa Giê-su nhấn mạnh đến tinh thần khó nghèo. Tinh thần đó không hệ tại việc có tiền bạc, tài sản nhiều hay ít. Đa-vít là một vị vua nổi tiếng về sức mạnh quân sự, tài năng, giàu có và cả những tật xấu, nhưng lại được nhìn nhận là vua thánh, là người nghèo của Đức Gia-vê: Ông đã tha chết cho vua Sa-un, người đang tìm hại mạng ông, chỉ vì vua này là người đã được Thiên Chúa xức dầu(1Sm26,8-12); là vua, nhưng Đa-vít luôn ý thức mình là vật thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa: khi nghinh đón Hòm Bia của Thiên Chúa vào thành đô, ông đã cùng dân chúng reo hò nhảy múa hết sức mình trong tiếng tù và lừng vang (2Sm6,1-23); những lần bị Thiên Chúa trách phạt, ông khiêm nhường nhận lỗi: ăn chay nhiệm nhặt, nằm đất, sẵn sàng đón nhận hình phạt của Thiên Chúa với một lòng sám hối chân thành (2Sm12,1-19).

Tinh thần nghèo khó cốt ở chỗ biết sử dụng của cải đời này để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho tha nhân. Thánh Phao-lô có lần khuyên các tín hữu: ".Ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng."(1Cr7,30-31) còn Đức Giê-su, không những Ngài đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ của cải. người thân, và nếu cần từ bỏ chính bản thân mình để được thuộc trọn về Ngài(Mt19,27-30;Mc10,28-31). Đó là cái nghèo tột cùng, nhưng cũng từ cái nghèo này đem lại cho chúng ta sự giàu có phong phú không gì có thể so sánh được, vì chúng ta đã chiếm hữu được chính Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng.

NGUYỆN

Lạy Cha,
Chúng con cảm tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Đức Giê-su, Con Một yêu dấu của Cha. Ngài đã xuống trần gian sống đời sống của một người dân thường tại Na-za-ret để dạy chúng con bài học khó nghèo.

Xin cho mỗi người chúng con biết noi gương bắt chước Ngài: tập sống khó nghèo, chấp nhận hi sinh và trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, chúng con luôn chọn làm theo ý Cha hơn tất cả mọi của cải trần gian. Chúng con tha thiết cầu xin Cha. Amen.
P.Đamiano Đinh Ngọc Thiệu

----------------------------------

 

TN 4-A63. CHÚA NHẬT 4 QUANH NĂM


 Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       1 Cô-rin-tô 1: 26-31

 

Đức Ki-tô và mầu nhiệm thập giá được thánh Phao-lô trình bày như một giáo lý căn bản để: TN 4-A63


          Đức Ki-tô và mầu nhiệm thập giá được thánh Phao-lô trình bày như một giáo lý căn bản để bác bỏ mọi nguyên cớ và tình trạng phe phái trong cộng đồng dân Chúa. Giáo lý này được suy niệm một cách sâu sắc trong đoạn 1 Cr 1:18-25. Có lẽ Phụng vụ Lời Chúa bỏ qua đoạn nói về nghịch lý thập giá Đức Ki-tô là vì muốn chúng ta chú trọng đến những bài học luân lý thực hành liên quan đến việc tránh chia rẽ và cùng nhau xây dựng Nhiệm thể Chúa Ki-tô.

          Bài đọc Chúa Nhật 3 cho chúng ta thấy lý do gây chia rẽ phe phái là vì người ta nấp bóng dưới chiêu bài mình thuộc về một "lãnh tụ". Nhưng thánh Phao-lô dạy: chẳng có ai là lãnh đạo, ngoài Đức Ki-tô, Đấng đã chịu đóng đinh để loài người được hết hiệp với Thiên Chúa và với nhau. Trong khi sự khôn ngoan của người đời gây ra chia rẽ phe phái mọi nơi, thì sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Đức Ki-tô và mầu nhiệm thập giá) hiệp nhất mọi sự "trong Đức Ki-tô" và đưa về với Người. Nói khác đi, người ta rơi vào phe phái là bởi thay vì liên kết với chính Chúa Ki-tô thì người ta lại bám víu vào những người rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh, thay vì tự hào trong Chúa Ki-tô thì người ta lại tự hào trong người khác.

          Trích dẫn 1 Cr 1:26-31 Chúa Nhật hôm nay vẫn tiếp tục chủ đề về sự hiệp nhất trong Giáo Hội, nhưng được nhìn dưới một góc cạnh mới: tính kiêu căng và tự hào của mỗi người là nguyên nhân gây nên trình trạng chia rẽ phe phái. Do đó, lời dạy bảo của thánh Phao-lô ở đây nhắn nhủ tín hữu Cô-rin-tô là: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.

          Theo bản tính loài người, chúng ta ai cũng muốn hãnh diện. Hãnh diện tự hào với những gì mình có, mình là. Rất nhiều khi cũng hãnh diện cả với những gì vay mượn của người khác nữa, thí dụ cậy mình có gốc gác, có con cháu làm lớn trong xã hội... Người ta đã dựa vào "khôn ngoan của thế gian" để tự hào: tôi có bằng cấp này nọ, tôi có tài sản kếch sù. Thánh Phao-lô đã tế nhị, nhưng cũng không kém mỉa mai, nhắc khéo tín hữu Cô-rin-tô về gốc gác khiêm tốn của mình: "Anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái" (c. 26). Lai lịch của tín hữu Cô-rin-tô chỉ có thế thôi, đâu có gì đáng để tự hào với người đời. Nhưng thánh Phao-lô cho họ biết chính Chúa là Đấng đã biến đổi thân phận của họ: "Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su" (c. 30).

          "Được hiện hữu trong Đức Ki-tô" là một lối diễn tả tuyệt vời nói lên thân phận may mắn, giá trị của chúng ta, những người được Thiên Chúa tuyển chọn để được nên công chính, được thánh hóa và được cứu chuộc (c. 30). Nếu không ở trong Đức Ki-tô, chúng ta không thể hiện hữu, nói khác đi, chỉ là con số không. Trước khi được Chúa gọi, chúng ta chẳng là gì cả (c. 28). Sau khi được Chúa gọi, chúng ta "được hiện hữu trong Đức Ki-tô." Như thế đó quả thực là một ân huệ hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Bởi đó, điều duy nhất chúng ta có thể tự hào được, là hãy tự hào về ân huệ Chúa ban cho mình được hiện hữu trong Đức Ki-tô, về đời sống mới trong Đức Ki-tô và về "khả năng tiến gần đến với Đấng vô hạn" (capax infiniti) nhờ Đức Ki-tô. Cá nhân thánh Phao-lô đã thấu hiểu được giá trị tuyệt vời của ân huệ này. Ngài hiểu ân huệ ấy là chính Đức Ki-tô, "sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta". Ngài cũng nhận thức rằng không phải do sức tự nhiên của trí khôn loài người mà chúng ta có thể đạt tới sự khôn ngoan Ki-tô giáo. Nhưng chúng ta chỉ đạt được khi "đành mất hết, và coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô" (Pl 3:8), vì "trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2:3). Thánh Phao-lô đã đánh đổi tất cả, quá khứ, hiện tại và cả tương lai nữa để được chiếm hữu trọn vẹn Đức Ki-tô.

          Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa Ki-tô. Nắm vững nguyên tắc này, chúng ta sẽ nhận biết giá trị đích thực của mình và không còn lý do gì để tự hào theo kiểu khôn ngoan của thế gian nữa. Trái lại, chúng ta sẽ khiêm nhượng và biết ơn trước tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, quyết tâm xây dựng Nhiệm thể Chúa Ki-tô trong tinh thần bác ái và hiệp nhất, quyết tâm "rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh" (c. 23), "để thập giá Đức Ki-tô khỏi trở nên vô hiệu" (c. 17).

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Bài đọc Chúa Nhật trước đề cập đến tự hào về người khác là nguyên nhân gây kéo bè kéo cánh. Bài đọc hôm nay nói đến tự hào cá nhân. Vậy tôi nhận ra liên hệ thế nào giữa tự hào cá nhân với tự hào phe nhóm? Từ tự hào phe nhóm đến tự hào cá nhân, và từ tự hào cá nhân đến tự hào phe nhóm?

          Tôi đã nhận định ơn gọi được làm Ki-tô hữu như thế nào? Đáp lại ơn gọi ấy làm sao?

          Tôi suy niệm thêm về Đức Ki-tô là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa.

          Chúa Ki-tô đã làm cho tôi "trở nên công chính, thánh hóa và giải thoát" tôi trong một tiến trình cứu chuộc. Vậy tôi làm gì để tiếp tục "được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su"và được hiện hữu đời đời với Thiên Chúa?

          Việc cụ thể nào tôi sẽ làm để tỏ lòng biết ơn trước ân huệ "được hiện hữu"?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài tạ ơn. Hoặc kinh sau đây:

          Lạy Chúa Giê-su, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con. Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

          Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa, để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà, để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

          Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan, để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

          Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. A-men.

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 30)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

----------------------------------

 

TN 4-A64. CHÚA NHẬT IV TN – 2002


          Anh chị em rất thân mến,

 

Sau khi lướt nhìn qua qúa khứ, Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu xem xét trong hiện tại và: TN 4-A64


Sau khi lướt nhìn qua qúa khứ, Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu xem xét trong hiện tại và đưa ra nhiều dấu chỉ hy vọng vào "một mùa xuân mới của đời sống kitô hữu": như "càng ngày càng có nhiều giáo dân được huấn luyện tốt hơn, nhiệt tình và đầy ơn Thánh Thần... các giảng viên giáo lý... các phong trào tông đồ... các hiệp hội và các phong trào...nhằm thăng tiến nhân phẩm và công lý...". Có lẽ, khi nghe những nhận định ấy, chúng ta chưa cảm nghiệm được sự phấn khởi , vui mừng và hy vọng của Giáo Hội Á Châu, bởi vì chúng ta vốn xa lạ với một niềm hy vọng như thế. Trong thực tế, chúng ta đã chẳng ít phàn nàn khi thấy trong Giáo Hội thường xuyên mở ra những lớp giáo lý, những khóa hội thảo, những tuần học hỏi, tĩnh tâm... Chúng ta cũng đã chẳng thờ ơ với những mời gọi sinh họat phong trào tông đồ đó sao?

          Chúng ta chỉ có thể là đồng cảm với Giáo Hội tại Á Châu nếu chúng ta bằng lòng để lời Chúa hôm nay dạy bảo chúng ta.: "Anh em hãy tìm kiếm Chúa, hãy tìm kiếm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường...".

          Theo thánh Phaolô, người ta không thể "tìm kiếm Chúa", tìm kiếm sự công chính" trong "những kẻ khôn ngoan trước mặt người đời... những người quyền thế... những người qúy phái...". Không chỉ thánh Tông Đồ, mà từ xa xưa, ngay tiên tri Sophonia cũng đã nói tới "một dân nghèo hèn và bé nhỏ, chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa." Chính Đức Giêsu trong bài Tin Mừng, vốn được coi như là bản Hiến Chương Nước Trời, cũng đã khẳng định Nước Trời là của người nghèo...

          Vấn đề mà Lời Chúa đặt ra không chỉ là những nguyên tắc thuần lý để rồi chúng ta có thể đem ra cân nhắc và lựa chọn giữa muôn vàn đạo lý ở đời, nhưng Lời Chúa mạc khải chính mầu nhiệm thẳm sâu của Thiên Chúa: Một Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân lọai trong thân phận một con người , Đức Giêsu Kitô, là "sự khôn ngoan và công chính của chúng ta". Để từ đây, nhân lọai không còn phải tìm kiếm một Thiên Chúa theo trí tưởng tượng của lòng đạo đức cá nhân nào, không còn phải tìm kiếm sự công chính theo một hệ thống triết lý nào xa vời, càng không phải mặc lấy những mầu sắc khắc kỷ lệ thuộc bối cảnh văn hóa... Vì tất cả "đã đậu lại nơi Đức Giêsu Kitô". Chúng ta đã nhiều lần nói với nhau rằng Đức Giêsu đã dứt khóat lựa chọn đứng về phía người nghèo trong cuộc sống, trong lời rao giảng và cả trong cái chết của Ngài. Khi đọc Tin Mừng bất kỳ ở đâu và vào giai đọan nào, chúng ta đều thấy nổi bật hình ảnh này: những kẻ nghèo khó, những con người bị lọai trừ bởi xã hội cũng như tôn giáo, những người tội lỗi, những kẻ ốm đau tật nguyền... đều tìm thấy được nơi Đức Giêsu sự bênh vực chở che, sự tha thứ và tình yêu cưu mang họ, đem lại cho họ ý nghĩa mới để sống hạnh phúc.

          Lời Chúa còn đi xa hơn để loan báo Tin Mừng vĩ đại này: Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đã lựa chọn mãi mãi hiện diện và tự đồng hóa mình trong "dân nghèo hèn và bé nhỏ" của Người. Để từ đây con người sẽ chỉ gặp được Thiên Chúa của mình trong chính những anh chị em của họ. Vì thế Hiến Chương Nước Trời trở nên Hiến Chương cho cuộc sống cụ thể giữa anh chị em nhân lọai, theo đó, mỗi người được kêu gọi để sống hiền lành, đón nhận đau khổ, thực hiện đức đại nghĩa của Thiên Chúa, xót thương, và phục vụ cho hòa bình...

Trong thực tế, dù là những kitô hữu rất siêng năng và ngoan đạo, chúng ta vẫn sống theo những quy tắc càng ngày càng khơi sâu hố ngăn cách giữa chúng ta với những kẻ phận nhỏ, chúng ta lại đã rơi vào tội thờ ngẫu tượng, khi lòng ngoan đạo của chúng ta lại hướng về một thiên chúa do trí óc và con tim mình nhào nặn ra, chứ không phải Đức Giêsu Kitô. Do đó còn phải nỗ lực những họat động tông đồ, những lớp giáo lý, những khóa hội thảo... và nhất là cần canh tân và cử hành các mầu nhiệm của Đức Kitô với quyền năng của Chúa Thánh Thần. Đó là niềm hy vọng duy nhất và đích thực để đem lại hạnh phúc cho con người.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

----------------------------------

 

TN 4-A65. KỸ NGHỆ BÁN NỤ CƯỜI

 

Hàn Mặc Tử khoái trăng thì rao lên: ai mua trăng tôi bán trăng cho. Chứ thời bây giờ nhiều người: TN 4-A65


Hàn Mặc Tử khoái trăng thì rao lên: ai mua trăng tôi bán trăng cho. Chứ thời bây giờ nhiều người rầu rĩ lắm, đâu có giờ mà ngó trăng hay mua trăng, nhưng cần phải mua nụ cười, cần ai bán cười là mua liền.

Đừng có lo. Một ngân hàng ở vùng ngoại ô New Orleans đã trưng bày những bức hình chụp quảng cáo các dịch vụ bán nụ cười với kỹ thuật cao độ, hấp dẫn lắm, ai xem cũng bị thôi miên thu hút liền. Có khoảng tám bức hình khác nhau. Hình nào cũng rạng lên nụ cười tươi chứa chan hạnh phúc. Ngân hàng lo cho từng li từng tí, khẳng định rõ: "lo cho đời sống, cho cho chính bạn", "cắt may cho vừa nhu cầu của khách hàng".

THỜI ĐIỂM TÁM NGƯỜI CHUYÊN TRỊ MÉO MẶT

Kìa, một cặp sinh viên nam nữ vui vẻ quá chừng, đang tung tăng nhún nhảy chơi xích đu, với hàng chữ bên dưới ám ảnh: giờ đây khỏi phải lo tiền sách, tiền học, tiền cư xá... nghĩa là đã có ngân hàng lo cho. Một người trẻ khác đang nựng con chó đầy ắp tín trung, với cơ hội xin được thẻ tín dụng mà chỉ mất tiền lời chưa tới năm phần trăm trong vòng sáu tháng đầu, (và dĩ  nhiên đâu cần để ý tới những tháng sau vọt lên khoảng gần hai chục phần trăm!)

Đây là một đôi vợ chồng đang đầm ấm yêu thương tin tưởng hạnh phúc, vì hàng chữ đang rót vào tai: chúng ta đã chọn được một điều có ý nghĩa cho cuộc sống lứa đôi, là chọn được chỗ tín thác tiền bạc khỏi lo. Gần đấy là một người chủ tiệm đang méo mặt vò đầu vì nhiều chuyện tiền vào tiền ra bế tắc, nhưng bỗng cười lên rung rinh vì khám phá ra ngân hàng đã lo cho đủ mọi thứ này rồi. Thế là như "có ngân hàng chăn nuôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì được vay mượn cứ tha hồ mà nằm nghỉ...". Chỗ kia là hình một người đang vui vẻ điện thoại cho dịch vụ để yêu cầu trả cho các thứ "bill" hàng tháng, khỏi mất công rắc tối viết chi phiếu... tiện lợi quá chừng.

Rồi trong một công viên êm ả, một cặp vợ chồng già đã về hưu, chiều chiều khoác tay dìu nhau như đi vào cõi mộng. Lời thôi miên lại rủ rỉ ngọt ngào hơn lời yêu đương đầu đời: "Lúc này chúng mình muốn làm gì cũng được, vì chúng mình có khả năng." Tấm hình có ý nói rằng ngân hàng đã cẩn thận giữ tiền (ki cóp) để dành bấy lâu, bây giờ là lúc sung sướng nhất vì có giờ mà hưởng. Cũng đúng là ước mơ nơi một tấm hình khác với hai ông bà già ngồi câu cá thảnh thơi sung sướng, ánh mắt long lanh như rắc hàng triệu hạt trân châu óng ánh nhảy múa trên mặt nước kia.

Ở phòng chính ngân hàng là một tấm hình lớn nhất mà cũng mang nét biểu trưng nhất của nếp văn minh này. Một chị tuổi xồn xồn (có thể là sống độc thân hay mới li dị gì đó) nhưng còn rất thon trẻ tươi mát đang rất vui vẻ thoải mái dùng bữa một mình trong một căn phòng sang trọng ấm áp. Ở ghế đối diện là một con chó to lớn cũng có đĩa đồ ăn dành riêng cho chó. Cũng vẫn tình đượm đà. Cũng vẫn tình thiết tha. Khỏi phải to tiếng cãi cọ phiền rày. Chó nó rất trung thành, đâu có bao giờ lôi mình ra tòa đòi đá mình ra khỏi nhà! Có ngân hàng lo cho thì còn gì là cô đơn phiền muộn. Vườn địa đàng là đây, thảnh thơi yên ổn là đây, đâu cần gì khác!

NÚT BẬT TỰ ĐỘNG Ở GIẢI SUPER BOWL

Ngành quảng cáo thương mại đã tiến rất xa về kỹ thuật chiêu dụ, ám ảnh thôi miên từ trong mạch máu: khơi lên những nỗi khao khát sâu xa của con người, rồi đưa ra một hình ảnh đáp ứng, đến độ cao nhất với hình ảnh sung sướng nhất thì búng món hàng muốn quảng cáo ra. Người xem tự nhiên đồng hóa món hàng với hình ảnh thích thú kia. Mua món hàng có nghĩa là mua cái thích thú đó. Kỹ thuật này được gọi là "Nút Bật Tự Động" (anchoring).

Thế là cứ thảy hàng ra là mọi người chộp như tôm tươi ngay. Chẳng vậy mà hãng bia Anheuser Busch đã chịu trả tới 20 triệu đô la cho tổng cộng năm phút quảng cáo trong một trận banh chung kết Super Bowl của Mỹ trên Tivi vào ngày 31 tháng 1 năm 1999. Có khoảng 120 triệu người Mỹ xem trận đấu này, và cứ 30 giây các hãng quảng cáo phải trả một triệu sáu. Riêng hãng Busch lớn nhất của Mỹ với Budweiser và Michelob phải trả tới 2 triệu cho nửa phút đó vì độc quyền quảng cáo bia.

Ai cũng muốn chơi thắng, làm việc hiệu quả, tìm trị được chứng méo mặt bằng niềm vui và nụ cười. Kỹ thuật quảng cáo đã nghiên cứu các giải pháp xong xuôi cả rồi. Đơn giản lắm, chỉ cần bỏ tiền và mượn tiền tại ngân hàng trên là hết nhăn nhó cô đơn sầu đời. Chỉ cần chi mấy đồng là có một dây hạnh phúc, uống vô là ném banh dính đét không thể trật được. Hình ảnh thắng điểm "touchdown" hào hứng đồng hóa với uống một lon bia. Vậy là sẽ có nhiều người mê loại bia này sau trận banh. Hãng bia lại thu bộn bạc đủ cho 20 triệu mà còn lời gấp bội. Đó là điều chắc chắn.

TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ XÚI DẠI

Tám người quảng cáo cho dịch vụ bán nụ cười của ngân hàng thực ra là những người được thuê với giá cao, vì họ biết đóng kịch cười rất thu hút mà có thể trong lòng họ cũng đang rầu thối ruột. Cười ăn tiền là vậy. Vì thế mà quảng cáo cũng gọi là kỹ thuật chiêu dụ, và nhiều khi cũng trở thành kỹ thuật đánh lừa, kỹ thuật xúi dại. Vì có người sài thẻ nợ kỹ quá thì méo mặt khóc lên khóc xuống chứ có cười nổi đâu. Bởi lẽ tiền lời sau đó quá cao. Nốc cả dây bia vào thì mắt lờ đờ ngã giụi xuống "cho chó ăn chè" chứ còn sức đâu mà thắng điểm "touchdown!

Ấy, kỹ thuật quảng cáo tài tình đến độ tạo ra được sức ép tâm lý khiến khó mà cưỡng lại được. Những giá trị của món hàng cũng được tạo ra để mọi người có cảm tưởng cứ mua vào là trở thành hạng sang, hợp thời trang tiến bộ như dùng đồ Nike, Tommy Hilfiger... Riết rồi mình bị biến thành nạn nhân, thành con mồi bị xỏ mũi lôi đi theo những nhu cầu liên tu bất tận, khiến mỗi ngày mỗi xây xẩm tối tăm mặt mày!

Chưa bao giờ như lúc này vào thời điểm 2000, con người muốn mua được hạnh phúc sao mà phức tạp trầy da tróc vảy đến thế! Nghĩa là phải rướn theo nhiều điều kiện may ra mới cười lên được. Mà có kịp cười đâu! Phải còng lưng cầy thêm để mua thêm thứ này, đua chen thứ kia cho bằng người, cho được bớt tủi!

Từ trên phi cơ hay trên núi cao nhìn xuống, mình bỗng thấy nhà cửa và những bon chen ở dưới mặt đất kia tự nhiên nhỏ nhoi hẳn ra. Thì ra những giá trị mà mình đang vật lộn giằng giật nhiều khi lại do chính con người đặt ra với nhau để trói buộc áp lực hành hạ nhau mà thôi.

Thấy được tình trạng của dân chúng đang nhớn nhác chạy đi tìm thêm những điều kiện để đạt hạnh phúc, Chúa Giêsu liền đưa ra một cái nhìn rất cách mạng, đảo ngược tất cả, vẫn được gọi là hiến chương Nước Trời. Người lên sườn núi, ngồi xuống, có các môn đệ bao quanh. Bấy giờ Người bắt đầu giảng thuyết (Mt 5:1-10):

Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Phúc cho những kẻ hiền lành, vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp.
Phúc cho những kẻ ưu phiền, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được no đầy.
Phúc cho những kẻ biết thương xót, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho người có lòng tinh sạch, vì họ sẽ nhìn được Thiên Chúa.
Phúc cho người kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, vì nước Trời là của họ.


PHÚT TÌM LẠI ĐƯỢC NỤ CƯỜI

Tám điều có phúc của Chúa như tám mũi tên ngược. Theo cái nhìn của thời bị xỏ mũi này thì bị coi là tám điều thua thiệt xui xẻo, mang nét u ám tiêu cực. Nhưng thực ra lại là tám bửu bối như tám chìa khóa mở cổng vườn hạnh phúc đang nằm ngay bên, chứ có phải nhớn nhác đi tìm mãi đâu xa. Nói cách khác, đây là phút giác ngộ kết thúc mọi cuộc kiếm tìm, vì đã tìm thấy điều vẫn kiếm tìm bấy lâu nay.

Đến vậy là cùng, không còn một điều kiện gì theo tiêu chuẩn người đời đặt ra để sung sướng mà vẫn hạnh phúc, chẳng phải là một phát giác lạ lùng sao? Vì niềm hạnh phúc đã có sẵn rồi, hạnh phúc tự thân được Chúa Trời đất trao tặng nhưng không, có phải do những thứ bày đặt buôn bán nụ cười kia đâu. Vậy thì bất cứ gì xẩy đến cũng đâu có thay chuyển gì. Đây quả là một nhãn quan mới rất tích cực tươi mát khai mở giá trị mới về cuộc đời.

Tôi cảm nhận được phần nào cái nhìn này khi được tới đỉnh đồi Bát Phúc bên Do Thái vào một ngày đầu xuân năm 1986. Sáng hôm đó nắng rất mượt, "trời lửng lơ trời" mở lên cao và giuỗi rộng thật xa. Bên dưới kia là Biển Hồ Galilê vẫn còn ẩn hiện dưới làn sương mờ. Sườn đồi thoai thoải trải ra một thảm hoa đùa giỡn dưới làn gió nhẹ có sức lay động tâm hồn. Mấy chú chim ríu rít trên những cây hạnh đào nở tràn hoa từ gốc lên ngọn. Ánh sáng từ phía đông chiếu tới làm long lanh những hạt sương còn đọng lại như triển lãm cả triệu viên bích ngọc quí báu nhất trần gian.

À, đây rồi. Chắc Chúa Giêsu đã chỉ cho đám đông cái nhìn này. Cuộc sống giầu có quá, Chúa Trời Đất đã bày biện dọn sẵn cho mọi người, đâu phải là những điều kiện bon chen hay giá trị nhỏ nhoi bày đặt dưới kia. Có "áo lụa Hà Đông" hay Polo nào đẹp bằng bông hoa dại kia? Có ai hạnh phúc nhởn nhơ hơn con chim kia? Có viên kim cương nào mắc tiền hơn hạt sương lóng lánh kia? Thì ra, có Chúa là có tất cả rồi, không gì trên đời có thể làm mình sợ hãi đánh mất nụ cười được nữa. Vậy sao mình không khôn ra được một tí mà cứ để bị xúi dại hoài?!

Chúa Trời chăn dẫn tôi đi,
Lo chi thiếu thốn sợ gì gian nguy.
Mênh mông đồng cỏ xanh rì,
Tôi no búp mới, tràn trề lộc non.
Mát trong nước sạch suối nguồn,
Cho tôi nằm nghỉ tâm hồn thảnh thơi.

(Thánh vịnh 23, Hoàng Vũ chuyển thơ)

Lm. Trần Cao Tường
(từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình, Thời Điểm xuất bản)

Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường

----------------------------------

 

TN 4-A66. HIẾN CHƯƠNG NGHÈO

 

Không như những chính khách thường bắt đầu bài diễn văn khi nhận chức hoặc những dịp: TN 4-A66


Không như những chính khách thường bắt đầu bài diễn văn khi nhận chức hoặc những dịp quan trọng bằng những lời văn hoa, bóng bẩy, và bằng những hứa hẹn hấp dẫn để lôi kéo sự chú ý và ủng hộ của quần chúng, Chúa Giêsu đã bắt đầu bài nói truyện của Ngài bằng tinh thần NGHÈO: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo” (Mt 5:3).

Tự điển Việt Nam khi nói đến những cái có thể liên quan với cái nghèo, ít nhất cũng có đến 5 lối diễn tả: Nghèo khó, nghèo túng, nghèo đói, nghèo khổ, nghèo hèn. Chật vật về tiền bạc, khó khăn trong vấn đề tài chính là nghèo khó. Không đủ phương tiện tài chính để làm một việc gì, thỏa mãn một nhu cầu gì là nghèo túng. Không có tiền bạc để mua thức ăn, thực phẩm cần dùng là nghèo đói. Chịu khó nhọc, vất vả mà vẫn không đủ của ăn nuôi thân là nghèo khổ. Và sau cùng, những người thiếu thốn của cải vật chất, túng thiếu những nhu cầu thường ngày, lam lũ, vất vả với miếng cơm, manh áo thường bị coi khinh, và đó là nghèo hèn.

Ngoài ra, cái nghèo còn chi phối cả đời sống tâm lý, và tâm linh con người nữa. Nhiều khi biết đó mà không làm được vì thiếu tiền, thiếu phương tiện. Ca dao Việt Nam gọi trường hợp này là: “Cái khó, bó cái khôn”. Nhưng khó khăn quá, túng thiếu quá cũng khó lòng làm cho con người sống cao thượng, hoặc liêm khiết và công bằng. Đó là những trường hợp: “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Và tai hại hơn nữa: “Bần cùng sinh đạo tặc”. Hiểu điều này, nên trong kinh Lậy Cha, Chúa Giêsu đã dậy chúng ta phải xin với Chúa Cha trên trời để có đủ lương thực và nhu cầu cấp thiết trong cuộc sống: “Xin cho chúng con hằng ngày dùng đủ” (Mt 6:11).

Trong khi mọi người sợ cái nghèo, trốn tránh cái nghèo, và không muốn nhắc đến cái nghèo, thì Chúa Giêsu lại mở đầu những lời rao giảng của Ngài bằng một điểm liên quan trực tiếp đến những gì mà con người đang tìm cách xa tránh ấy, Ngài nói: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo”. Oái oăm thay, Ngài lại liên kết cái nghèo với nước trời. Ngài khẳng định nước Trời là của những người ấy. Không những thế, Ngài còn đề cao cái nghèo bằng cách để nó dẫn đầu những phúc đức của những ai theo Ngài sẽ được ban cho. Qua đó, nó mở đường để nhân loại tiến sâu vào những hồng ân của Thiên Chúa và chiếm hữu được nước Trời: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo, .vì nước Trời là của họ” (Mt 5:3).

Hiển nhiên khi đề cập đến cái nghèo, và như Thánh Ký đã ghi rõ, Chúa Giêsu không hẳn chỉ nói đến cái nghèo hoàn toàn vật chất được hiểu theo một ý nghĩa tự nhiên, trong thế giới hữu hình. Đây là cái nghèo tinh thần của nước Trời. Cái nghèo mang ý nghĩa nhân đức và trọn hảo. Một cái nghèo đưa đến ý niệm bóc trần con người tự nhiên, để họ chỉ nghĩ đến những giá trị tinh thần, những ơn huệ thiêng liêng. Tinh thần nghèo đây là tinh thần khiêm tốn và phó thác. Sự khiêm tốn và phó thác của những con thơ trước mặt Cha Nhân Lành. Không bon chen, không tích lũy, không chộp giật, không để những vấn vương trần tục làm nặng nề và chôn bám bước chân họ trên con đường về Vĩnh Hằng. Nó loại bỏ những lo lắng, băn khoăn và ngờ vực tình thương Cha Trên Trời và sự quan phòng đầy yêu thương của Ngài. Đấng không đành lòng nhìn thấy một con sẻ rơi xuống vì chết đói. Đấng đã tiên liệu về cuộc đời mỗi người cẩn thận đến nỗi tóc trên đầu của họ đã được đếm hết. Hơn thế, Ngài còn biết ngày nào, giời nào, lý do nào từng sợ tóc ấy rụng xuống.

Tóm lại, khi nói về tinh thần nghèo của Phúc Âm, Chúa Giêsu đã muốn nhắc nhở mọi người về thân phận của mình, về xuất xứ mỏng dòn của mình, và về cái hư không của của cảùi vật chất. Ngài không muốn chúng ta vì những thứ ấy làm mất đi ý nghĩa tín thác, và chân thành. Làm nặng nề và để lòng mình chôn bám vào những của cải phù vân là những thứ nay còn, mai mất để quên đi hạnh phúc Nước Trời. Nghèo khó nước trời khác với nghèo khó vật chất. Tuy nhiên, nghèo khó vật chất cho con người cái ý niệm thế nào về những thiếu thốn, khốn cùng, và đôi nghi rất nghiệt ngã của cái nghèo tâm linh. Một cái nghèo mà chỉ có Thiên Chúa nhân lành mới có thể giúp ta vượt qua được.

Tinh thần nghèo. Tinh thần khiêm nhường, và đơn sơ, phó thác của Phúc Âm. Tinh thần dẫn ta đến gặp gỡ chân lý sự sống là Chúa Giêsu. Đó cũng là lý do tại sao nó dẫn đầu những phúc đức được đề cập đến trong Hiến Chương Nước Trời. Theo đó, nếu không khiêm nhường, phó thác và đơn thành trước mặt Thiên Chúa, thì làm sao con người có thể nghĩ hoặc sống hiền lành, chấp nhận được đau buồn, khát khao sự công chính, mở rộng lòng để xót thương, giữ tâm hồn trong sạch, và hoà hợp xây dựng với mọi người. Chúng ta chỉ có thể đến với Thiên Chúa khi chúng ta thật sự khiêm tốn, và nhỏ bé. Mặt khác, chúng ta cũng khó đến với Ngài nếu tâm hồn chúng ta muốn nhỏ bé, khiêm tốn, nhưng tay chúng ta vẫn nắm chặt những túi tiền, và vai chúng ta vẫn mang theo những gói bạc. Hoặc chúng ta vẫn để lòng ham hố và ao ước tích lũy những của cải vật chất mặc dù có hay chỉ là mơ mộng trong tưởng tượng.

T.s. Trần Quang Huy Khanh (2005)

----------------------------------

 

TN 4-A67. NƯỚC TRỜI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN


 “Phúc cho anh em” (Mt 5,11)

Sợi chỉ đỏ:

 

Lời Chúa trong Chúa nhựt thứ 3 vừa qua loan báo Nước Trời đã đến gần. Lời Chúa hôm nay cho TN 4-A67


Lời Chúa trong Chúa nhựt thứ 3 vừa qua loan báo Nước Trời đã đến gần. Lời Chúa hôm nay cho ta biết thêm Nước Trời được ưu tiên dành cho những người bé mọn.

– Bài đọc 1: Ngôn sứ Xôphônia tiên báo dân Chúa trong tương lai gồm những người nghèo hèn bé nhỏ tìm nương ẩn nơi Chúa.

– Đáp ca: ca tụng việc Thiên Chúa ưu ái những người khốn khổ.

– Tin Mừng: Đức Giêsu công bố hiến chương Nước Trời “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo…”

Minh họa

– Mille images 59
– “Phúc cho anh em” (Mt 5,11)

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Chúa nhựt vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu loan báo “Nước Trời đã đến gần”. Hôm nay, chúng ta sẽ nghe Đức Giêsu cho biết những ai sẽ được làm công dân Nước Trời: đó là những người có tâm hồn nghèo, những người sống hiền hòa, những người khao khát sự công chính v.v.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta tập luyện được những đức tính ấy.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Lòng chúng ta quá lệ thuộc vào tiền bạc của cải.
– Chúng ta lo tìm kiếm hạnh phúc ở nước trần gian hơn là tìm hạnh phúc Nước Trời.
– Nhiều lúc chúng ta không coi việc làm công dân Nước Chúa là hạnh phúc, trái lại là một gánh nặng.

III. LỜI CHÚA

1. Bài đọc 1: Xp 2,3 ; 3,12-13

Dưới ách đô hộ của đế quốc Assyria, Israel trở thành nghèo hèn, bé nhỏ. Nhưng ngôn sứ Xôphônia lại xem đó là điều kiện căn bản để họ trở thành dân của Chúa. Vì thế ngôn sứ vừa an ủi họ, vừa khuyến khích họ sống công chính và khiêm nhu.

2. Đáp ca: Tv 145

Những người bị áp bức, những người đói khát, tù tội, mù lòa, lưu lạc tha phương, cô nhi quả phụ v.v. – tóm lại là những người khốn khổ – không nên thất vọng, vì Thiên Chúa sẽ đứng ra bênh vực và chăm sóc cho họ.

3. Tin Mừng: Mt 5,1-12

Đây là phần đầu của bảng Hiến chương Nước Trời, trong đó Đức Giêsu tuyên bố hạnh phúc Nước Trời được dành cho:

– Những ai có tâm hồn nghèo
– Những ai hiền hòa
– Những ai lo phiền sầu khổ
– Những ai khao khát sống đời công chính
– Những ai xót thương người
– Những ai có tâm hồn trong sạch
– Những ai xây dựng hòa bình
– Những ai bị ngược đãi vì sống công chính.

8 mối phúc này đều quy về mối thứ nhất là tâm hồn nghèo và đều dẫn tới hạnh phúc là được hưởng Nước Trời.

4. Bài thánh thư: 1 Cr 1,26-31

Bài đọc II của Chúa nhựt trước cho thấy tình trạng chia rẽ của giáo đoàn Côrintô: họ đã chia thành 4 nhóm chống đối nhau.

Đoạn hôm nay cho biết lý do: sở dĩ họ chia rẽ là vì họ kiêu căng cho rằng mình khôn ngoan hơn người khác. Thánh Phaolô lập luận cho họ thấy thứ khôn ngoan mà họ tự phụ ấy chẳng có chút giá trị gì. Ngài trình bày cho họ biết sự khôn ngoan của Chúa: những gì thế gian cho là điên dại, yếu kém, hèn mạt thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan.

IV. GỢI Ý GIẢNG

1. Những lời chúc mừng

Tám lời “phúc thay” trong đoạn Tin Mừng này không phải là những lời hứa (Đức Giêsu hứa rằng những ai nghèo khổ, đói khát, hiền lành… sẽ được hạnh phúc).

Tám lời này cũng không phải là những chỉ dẫn để được hạnh phúc (nếu muốn hạnh phúc thì phải có tâm hồn nghèo, phải hiền lành v.v.), mà trước hết đó là những lời chúc mừng: Đức Giêsu nói với những người nghèo, đói, bị ức hiếp v.v. rằng họ đừng buồn rầu nữa, đừng thất vọng nữa. Trái lại họ hãy ý thức rằng họ đang rất hạnh phúc, bởi vì cho dù người đời bỏ rơi họ, nhưng họ được một Đấng rất quyền phép luôn yêu thương họ, đó chính là Thiên Chúa ; cho dù họ thiếu thốn nhiều điều mà người đời tìm kiếm, nhưng họ có được một kho tàng không gì quý bằng, đó là Nước Trời. Họ hãy vui mừng vì Đức Giêsu đến trần gian để lập một nước hạnh phúc, mà nước đó Ngài ưu tiên dành cho họ.

2. Một chương trình hành động

Bài giảng trên núi mở đầu bằng những lời chúc phúc. Nghĩa là sứ điệp của Đức Giêsu chủ yếu là loan báo hạnh phúc. Nhưng loan báo cho ai, và như thế nào ?

Phải đau đớn nhận rằng các lời chúc phúc ấy đã bị hiểu sai và bị lợi dụng làm một thứ thuốc phiện nhằm ru ngủ nỗi khổ đau và sự nổi loạn của những người nghèo. Người ta muốn hiểu chúng như sau: “Hỡi những người nghèo, các người hạnh phúc lắm vì các người được Thiên Chúa yêu thương… vậy cứ tiếp tục nghèo đi ! Hãy chấp nhận thân phận của các người, rồi một nào đó ở trên trời các người sẽ được hạnh phúc”. Nhưng thực ra Đức Giêsu nói ngược hẳn lại: “Hỡi những người nghèo, chúng con hạnh phúc, vì từ nay chúng con không còn nghèo nữa, vì triều đại của Thiên Chúa đã đến”.

Một vấn nạn: nếu thực sự ý nghĩa lời chúc phúc của Đức Giêsu như thế thì… Ngài đã lầm, vì vẫn luôn còn những người nghèo, và bất công vẫn còn đấy ! Nhưng đặt câu hỏi như vậy thì hỡi ôi, những người Kitô hữu chúng ta đã không làm tròn bổn phận của mình. Chúng ta chỉ chờ một mình Đấng Messia thành lập triều đại Thiên Chúa. Đúng ra Đức Giêsu là người khánh thành nước Thiên Chúa và giao trách nhiệm cho chúng ta là các môn đệ của Ngài phải hoàn thành. Những Kitô hữu đầu tiên đã hiểu rõ điều ấy: họ để tài sản của họ thành của chung và không có người nghèo giữa họ (Cv 4,34). Không thể chỉ công bố suông những lời chúc phúc mà chẳng làm gì cả theo khả năng mình để cho sự nghèo khổ dưới mọi hình thức bị biến mất.

Công việc của Đức Giêsu là khánh thành Nước Thiên Chúa. Nếu thế thì các lời chúc phúc (và những giáo huấn triển khai các mối phúc ấy) đối với các Kitô hữu là một chương trình hành động trong sinh hoạt cụ thể của họ về chính trị, kinh tế, gia đình…

Chúng nhắc chúng ta nhớ rằng động cơ hành động của chúng ta chỉ là phục vụ tha nhân và trước tiên là những người nghèo, chứ không bao giờ được là tiền bạc hoặc quyền lực.

Chúng còn ban một ý nghĩa sâu sắc cho những việc người Kitô hữu làm: một y sĩ chiến đấu với bệnh tật, một công nhân đem sản phẩm của mình làm cho đời sung túc hơn, một giáo viên cố gắng giúp giới trẻ nên người… tất cả những người ấy đều có quyền nghĩ rằng mình đang thực hiện Nước Chúa. (Etienne Charpentier)

3. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó

Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: “Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ”, nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: con người sinh ra, để rồi già yếu bệnh tật, và cuối cùng phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ.

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ !” (Mt 5,3)

Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.

Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Đã có những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Giêsu đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng ; còn kinh nghiệm của Đức Kitô là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10,39) và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)

Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó Mát-thêu đã có lý khi thêm ba chữ “có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nàn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.

Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khuấy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.

Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.

Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa”, của một anawim theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình lien đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.

Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, “dĩ bách tánh tâm vi tâm” (ĐĐK XLIX, 1)

Theo truyền thống Ấn độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

(Lm Thiện Cẩm, OP, Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh 1995)

4. Chuyện minh họa

a/ Bài học của chó

Ngày nọ, W. Scott ném hòn đá vào một con chó lạc để đuổi nó đi. Nhưng ông hơi mạnh tay, nên con chó bị gãy chân. Thay vì chạy đi, con chó khập khiễng chạy lại bên ông và liếm lên bàn tay vừa ném nó. W. Scott bảo rằng ông không bao giờ quên chuyện đó, vì nó nhắc ông nhớ đến Bài giảng Trên núi.

 b/ Người hạnh phúc nhất

Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.

   Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo !

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT: Anh chị em thân mến

Đức Giêsu mời gọi tất cả chúng ta: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Mà muốn nên hoàn thiện như Chúa Giêsu dạy, nhất thiết phải sống theo “Tám mối phúc thật”. Với ước mong nên hoàn thiện như Cha trên trời, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.

1- Đức Giêsu kêu gọi / “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn dân Chúa và các nhà lãnh đạo / biết luôn cư xử hiền hòa nhân ái / và khiêm tốn với hết thảy mọi người.

2- Trong đời sống thường ngày / vì gương mù gương xấu của một số kitô hữu / mà nhiều người đã lìa xa Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thương nâng đỡ họ / và cải hóa chúng ta / để tất cả cùng nhau xây dụng một thế giới công bình bác ái.

3- “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” / Sống tinh thần nghèo khó của Tin Mừng phải là lý tưởng của người kitô hữu trên khắp trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết luôn yêu mến tinh thần nghèo khó của Tin Mừng / và sống tinh thần đó trong cuộc sống thường ngày.

4- “Phúc thay ai xây dựng hòa bình” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương / luôn hiệp nhất và đoàn kết / nhờ đó trở nên những người kiến tạo hòa bình.

CT: Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng đều mong muốn được hạnh phúc lâu dài. Nhưng trong thực tế, hạnh phúc mà chúng con đang có rất mong manh. Vậy, xin Chúa cho chúng con hiểu rằng hạnh phúc chỉ thực sự bền vững khi chúng con sống theo Lời Chúa dạy, đặc biệt Lời Chúa trong Bài giảng trên núi. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ

– Kinh Tiền Tụng: Nên dùng Kinh Tiền Tụng Chúa nhựt thường niên I, vì có nói tới Giáo Hội, Nước Trời ở trần gian.

– Trước kinh Lạy Cha: Tuy chúng ta là những người nghèo nàn khốn khổ, nhưng chúng ta có một người Cha cao sang trên trời. Chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha mà chính Đức Giêsu đã dạy chúng ta.

VII. GIẢI TÁN

Anh chị em hãy ra về và cố gắng sống theo tinh thần 8 mối phúc. Chúc anh chị em bình an.

----------------------------------

 

TN 4-A68. CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN


Các Mối phúc là lối sống của Ki-tô hữu

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Mát-thêu 5:1-12a)

 

Có lẽ thánh Phao-lô là người thấu hiểu nhất bài giảng trên núi của Chúa Giê-su.  Viết cho tín hữu Cô-rin-tô,: TN 4-A68


          Có lẽ thánh Phao-lô là người thấu hiểu nhất bài giảng trên núi của Chúa Giê-su.  Viết cho tín hữu Cô-rin-tô, Phao-lô quả quyết:  “Những gì thế gian cho là… điên dại, yếu kém, hèn mạt, thì Thiên Chúa đã chọn” (1 Cô-rin-tô 1:27,28).  Nghe bài giảng của Chúa Giê-su, não trạng thế gian của chúng ta khó mà chấp nhận được những nghịch lý của Tám Mối phúc.  Nhưng đó lại là những điều “Thiên Chúa đã chọn” để chúng ta bước đi trên đường làm môn đệ Chúa Giê-su.  Hy vọng những gợi ý của thánh Phao-lô trong bài đọc Tân Ước hôm nay sẽ giúp chúng ta nắm được ý nghĩa đích thực lời giảng của Chúa.

          Trước hết thánh Phao-lô cho chúng ta một hình ảnh về giáo hội Cô-rin-tô:  các tín hữu được Chúa kêu gọi thì không khôn ngoan, quyền thế và quý phái theo như lối sống của người đời, nhưng họ “được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su”, nghĩa là không những họ được sống như con cái Thiên Chúa ở đời này, mà còn được hiện hữu vĩnh cửu trong Chúa Ki-tô ở đời sau. 

Đúng thế, Chúa Giê-su không đặt mục đích của các Mối Phúc ở cuộc đời tạm này, nhưng cho đời sống mai sau.  Tại sao không chọn lựa những gì thế gian chọn mà lại phải chọn các Mối Phúc thiệt thòi cho chúng ta?  Chúa Giê-su đã trả lời rằng mục đích của các Mối phúc đều hướng về Thiên Chúa và đem lại lợi ích đích thực cho chúng ta.  Đó là chúng ta “được Nước Trời và Đất Hứa làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an và cho thỏa lòng, được Thiên Chúa xót thương, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa”.  Tất cả những cái “được” ấy, thế gian không bao giờ có thể đem lại cho chúng ta, có chăng chỉ là tạm bợ chóng qua chứ không thể bền vững.  Chỉ có những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Chúa Ki-tô mới tồn tại muôn đời, hoặc nói theo thánh Phao-lô, là mới “được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su”.

Khi rao giảng các Mối phúc, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy đó là những chọn lựa của Thiên Chúa để thắng thế gian.  Người đã lấy sự điên rồ và nhục nhã của thập giá Chúa Ki-tô để chiến thắng nọc độc của tội lỗi là sự chết.  Người đã lấy việc Chúa Giê-su trút bỏ vinh quang để đánh bại sự kiêu căng của A-đam xưa.  Các Mối Phúc là con đường Chúa Ki-tô đã đi để chiến thắng thế gian.  Giờ đây Thiên Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Chúa Ki-tô trên con đường ấy, cho nên Người đã để cho Con Một Người dạy chúng ta bài học về các Mối Phúc.

Một điều nữa giải thích cho nghịch lý của các Mối Phúc là để “không phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Thiên Chúa”.  Tất cả các Mối Phúc đều diễn tả một tư thế “nghèo khó” đích thực của một con người đứng trước Đấng tạo dựng nên mình.  Chúng diễn tả thật sống động mối tương quan giữa chúng ta với Cha trên trời, Đấng sẽ ban phần thưởng cho những ai yêu mến Người hết lòng, hết sức, hết tâm hồn và hết trí khôn.  Chúng cũng mời gọi chúng ta kết hiệp với Chúa Giê-su, Đấng đã sống toàn hảo những Mối Phúc để đưa chúng ta về với Chúa Cha.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Đáp lại lời Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta làm môn đệ thực là khó, thì một lần nữa chúng ta cũng cảm thấy khó đáp lời mời gọi sống những nghịch lý của các Mối Phúc.  Não trạng thế gian đã quá vững vàng và ngăn cản không cho chúng ta nhìn xa về tương lai đời sau.  Nó cám dỗ chúng ta bám chặt lấy những gì mắt thấy, như giàu sang, danh vọng, sức mạnh, thắng được người khác, không thương xót.  Trái lại, não trạng của Thiên Chúa muốn “làm cho chúng ta trở nên công chính, thánh hóa và cứu chuộc chúng ta” để chúng ta được sống đời đời.  Chọn lựa đích thực phải nhắm tới điều gì là phải là tốt.  Có ai lại chọn đồ giả thay vì đồ thật, chóng hư thay vì lâu bền?  Khi rao giảng các Mối Phúc, Chúa Giê-su muốn trình bày những đường lối chân chính của Cha Người để giúp chúng ta tiến về quê hương vĩnh cửu.  Dù trong cuộc đời này, chúng ta thường thấy những người xấu và những sự dữ có vẻ thắng thế, nhưng chắc chắn họ đã không thắng được trận chiến cuối cùng, tức cái chết sẽ đến với mọi người.  Chỉ những ai bước theo Đấng đã chiến thắng thần chết mới là những người chiến thắng cuối cùng.  Xin Chúa giúp chúng ta trở nên bé nhỏ để chấp nhận lối sống Người chỉ dạy chúng ta.

        Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

----------------------------------

 

TN 4-A69. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC THẬT


CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM  A

 (Xp 2,3; 3,12- 13; 1 Cr 1,26- 31; Mt 5,1- 12)

 

Trong mỗi tổ chức, đoàn thể, dù là lớn hay nhỏ, đều có những nội quy để ổn định sinh hoạt. Xa hơn, TN 4-A69


Trong mỗi tổ chức, đoàn thể, dù là lớn hay nhỏ, đều có những nội quy để ổn định sinh hoạt. Xa hơn, mỗi một quốc gia, chúng ta cũng thấy có hiến pháp để hướng dẫn dân chúng thi hành nhằm ổn định trật tự xã hội cũng như thăng tiến con người.

Riêng với đạo Công Giáo, bản Hiến Chương Nước Trời được coi là bản Hiến Pháp, là kim chỉ nam, giúp người Kitô hữu tiến bước trong đời sống đức tin của mình.

Tuy nhiên, điều lạ kỳ nơi bản Hiến Chương này chính là những trái khuấy theo lối suy nghĩ của con người, bởi vì nó không phải là kết quả suy tư tự nhiên của con người, nhưng nó được hình thành và công bố bởi chính Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống.

Vì thế, mục đích của bản Hiến Pháp này khác hoàn toàn với những quy ước, hiến pháp của nhân loại, tất cả mọi điều lệ trong bản Hiến Pháp được quy chiếu về việc thăng tiến tâm linh và hướng tới đời sống vĩnh cửu của con người. Nói khác đi, nó sẽ đem đến cho con người niềm hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu, nếu chúng ta thành tâm đi kiếm tìm và trung thành tuân giữ.

Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu ý nghĩa bản Hiến Pháp của Đức Giêsu, cũng như niềm hạnh phúc đích thực hay giá trị vĩnh cửu mà bản Hiến Pháp này mang lại, chúng ta hãy chia sẻ với nhau về sự khát vọng hạnh phúc tự nhiên nơi con người trong trần gian này là thế nào???

1.          Khát vọng đi tìm hạnh phúc nơi con người

Triết gia Blaise Pascal đã khẳng định trong tác phẩm triết học của mình như sau: “Tất cả mọi người đều đi tìm hạnh phúc, không trừ ai… Tất cả đều hướng về mục đích ấy, mặc dù phương pháp họ dùng có khác nhau” (x. Blaise Pascal, Pensées, t.II, tr 143).

Vậy hạnh phúc mà con người đi tìm, chúng ta có thể phân làm hai loại như sau:

-   Trước tiên là hạnh phúc khả giác: nói đến hạnh phúc khả giác là nói đến những gì ta đụng chạm, sờ mó, nếm thử, nghe được. Thứ hạnh phúc này quy chiếu về vật chất khả giác.

-   Còn một loại hạnh phúc nữa, người ta gọi nó là hạnh phúc tinh thần. Hạnh phúc này loại bỏ những gì là vật chất, khả giác, mà nó hướng con người đến hạnh phúc tinh thần. Chẳng hạn như ta cảm thấy hạnh phúc khi làm được một việc tốt. Hay trong cảnh nghèo, ta cố gắng vươn lên và vượt qua gian khổ để đạt được mục đích. Vợ chồng chung thủy, ấm êm. Con cái thảo hiền...

Như vậy, hạnh phúc là điều mà con người luôn khắc khoải mong đợi và khát khao đạt được càng sớm càng tốt. Hạnh phúc có lẽ là mối bận tâm hàng đầu của con người trong kiếp nhân sinh!

Tuy nhiên, cho dù những khát mong chính đáng tự nhiên của con người về hạnh phúc, nếu có đạt được đi nữa thì nó cũng không thể khỏa lấp được nỗi niềm của nhân loại, bởi vì: hạnh phúc tự nhiên không thể tồn tại lâu, bởi nó bị lệ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, tâm lý, thể lý...

Như vậy, chắc chắn nó không thể đem lại cho con người hạnh phúc vĩnh cửu.

Với người tín hữu Kitô, chúng ta được mời gọi vượt lên trên những gì là tự nhiên để đi tìm hạnh phúc Siêu Việt, vĩnh cửu. 

Hạnh phúc này, chúng ta tìm thấy nơi bản Hiến Chương Nước Trời mà hôm nay Đức Giêsu đã công bố trên núi.

2.          Hạnh phúc thật mà người Kitô hữu được mời gọi đi tìm!

Khi khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,12). Mời gọi như thế, ấy là Ngài muốn giới thiệu về Nước Trời. Tuy nhiên, để được vào Nước đó, cần phải sám hối, khiêm nhường. Chính vì lẽ đó mà hôm nay Ngài đã đưa ra Tám Mối Phúc Thật hay còn gọi là Hiến Chương Nước Trời. Ai muốn thực thi bản Hiến Chương này để được hạnh phúc đích thực thì phải sám hối, khiêm nhường.

Khi trở thành người khiêm nhường, chúng ta mới có được chìa khóa để mở vào các mối phúc cũng như hiểu được sự giá trị tiềm ẩn đằng sau những điều vô cùng nghịch lý của bản Hiến Pháp có một không hai này.

Tiêu chí để đạt được hạnh phúc đích thực theo bản Hiến Pháp là: có tinh thần nghèo khó, sống hiền hòa, lo phiền sầu khổ vì những tội lỗi của mình gây ra. Luôn khao khát lẽ công chính, biết xót thương người cùng khổ. Khước từ những điều lỗi đức khiết tịnh và luôn giữ tâm hồn thanh sạch. Chấp nhận trở thành chứng nhân cho sự thật để xây dựng hòa bình. Cuối cùng, vì Chúa, sẵn sàng chấp nhận bắt bớ, tù đầy, giết chết...

Thi hành những điều đó, chúng ta sẽ được Chúa ban Nước Trời làm gia nghiệp. Ngược lại, nếu không thi hành, có lẽ Nước Trời sẽ mãi mãi là điều xa vời đối với chúng ta. 

3.              Sứ điệp Lời Chúa

Thánh Augustinô đã thốt lên trong cuốn tự thuật của ngài như sau: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn còn vẫn còn khắc khoải lo âu cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”.

Như thế, chúng ta thấy: hạnh phúc đích thực chính là được ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Có Chúa là có tất cả. Không có Chúa là chẳng có gì.

Nhưng oái oăm thay, rất nhiều người đã khước từ chân lý này để đi theo một quy tắc khác. Họ đã thay Chúa bằng những lựa chọn khác mau qua chóng hết.

Vì thế, nhiều người đi tìm hạnh phúc nơi tiền bạc, giàu sang và toại nguyện với những thành quả vật chất mà mình đạt được. Có những người cảm thấy hạnh phúc khi nắm giữ quyền cao chức trọng, nơi đó, họ hét ra lửa và dễ bề gian tham, lộng hành, bóc lột, đàn áp để thể hiện quyền bính. Lại có những người đi tìm nó nơi những cuộc ăn chơi trác táng...

Nếu chúng ta cũng suy nghĩ và lựa chọn như thế, đời sống đạo của chúng ta không có lý tưởng. Hay nói cách khác, mục đích của chúng ta đã đặt sai chỗ. Những thứ mà ta tưởng chừng như là hạnh phúc đó nó chỉ như ngọn đèn leo loét hay như hoa kia sớm nở tối tàn...

Thứ hạnh phúc đích thực chỉ có thể tìm thấy ở nơi Thiên Chúa là nguồn cội của hạnh phúc. Bởi vì, mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa là tồn tại.

Những điều trong Tám Mối Phúc Thật chính là con đường dẫn ta đến hạnh phúc. Ngoài những con đường trong bản Hiến Chương ra, chúng ta không có con đường nào đưa đến hạnh phúc. Nếu chúng ta tự đặt ra cho mình những con đường khác, ấy là chúng ta đang đi lạc và cái kết sẽ bị rơi vào tình trạng bất hạnh và khổ đau.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu mến và trung thành tuân giữ luật Chúa khi khôn ngoan lựa chọn con đường hạnh phúc của tám Mối Phúc Thật. Ước gì ngay giây phút này, chúng con được diễm phúc nếm trải hạnh phúc viên mãn khi chúng con thi hành luật Chúa cách yêu mến. Amen.

Ts. Jos. Vinc. Ngọc Biển, s.s.p

----------------------------------

 

TN 4-A70. CHÚA TÔN NGƯỜI KHIÊM HẠ

 

Đang lúc thi hành việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời: TN 4-A70


Đang lúc thi hành việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do tay một Linh Mục bất mãn viết. Đọc xong bức thư, Đức Cha Roncalli không nói một lời, bình tĩnh, thản nhiên và vẫn yêu thương Linh Mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris, rồi Hồng Y Giáo Chủ tại Venezia và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII năm 1958.

Năm ấy, vị Linh Mục viết bức thư bất mãn kia hãy còn sống. Một hôm gặp dịp Giáo Dân vùng đó tổ chức cuộc hành hương Roma để triều yết Đức Tân Giáo Hoàng, cũng là vị nguyên Tổng Giám Mục yêu kính của họ, Linh Mục ấy cũng ghi tên theo phái đoàn. Đến Roma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến riêng Đức Thánh Cha. Lời thỉnh cầu được Đức Thánh Cha chấp thuận. Sau đây là câu truyện do chính Linh Mục ấy thuật lại:

"Trong lúc ở phòng đợi đến phiên được triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm qua, chắc Đức Thánh Cha cũng đã quên rồi. Nhưng rủi mà ngài còn nhớ thì sao? Mà thôi, đã lỡ xin gặp riêng, bây giờ rút lại cũng không được nữa. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp. Hy vọng ngài nhân hậu sẽ bỏ qua và tha thứ cho tôi.

Đang lúc miên man suy nghĩ thì cánh cửa mở, Đức Ông phụ trách dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo Phận và bùi ngùi nhắc đến những bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, không trừ ai, như thể xứ sở tôi là chính quê hương của Ngài vậy.

Lúc ấy tôi đang khấp khởi, vì tưởng Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào. Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn Thánh Kinh và từ từ mở ra. Ngài để trước mặt tôi bức thư khốn nạn. Hồn phách lạc xiêu, tôi xấu hổ và sợ hãi quá đỗi, ước chi được độn thổ cho khuất. Có ngờ đâu mấy chục năm qua mà bức thư vẫn còn nguyên. Tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: "Con đừng sợ, Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con, Cha cũng là con người, cũng có những yếu đuối, Cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày đọc vào đó mà hồi tâm kiểm điểm, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỗi có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con".

Nghe xong, linh hồn tôi chu du phương xa lúc ấy mới trở về. Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, ôm hôn từ giã tôi. Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung vị Giáo Hoàng nhân hậu khiêm nhu đến thế".

I. CHÚA TUYỂN CHỌN NGƯỜI KHIÊM HẠ

Qua bài sách tiên tri Sophonia và bài thánh thư của Thánh Phaolô gởi Giáo Đoàn Corintho hôm nay, chúng ta nhận thấy cái diễm phúc của chúng ta được Chúa tuyển chọn làm con cái Chúa, làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, không phải vì chúng ta tốt lành xứng đáng, nhưng chính là vì chúng ta hèn mọn bất xứng. Theo giáo huấn Thánh Phaolô thì, không phải chúng ta là người khôn ngoan, quyền thế, sang trọng mà Chúa đã tuyển chọn; nhưng trái lại, chỉ vì chúng ta hèn hạ, đáng khinh chê trước mắt trần gian mà chúng ta đã được Chúa đoái thương; để không ai trong chúng ta có thể tự hào được, rồi Thánh Nhân đã kết luận: "Nếu ai muốn tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa" (xem 1 Cor 1:26-31).

Tìm hiểu Tin Mừng là cuốn lịch sử tình yêu thương của Chúa, chúng ta thấy Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria, một thôn nữ khiêm hạ thành Nazareth để làm Mẹ sinh ra Con Một Chúa và thỉnh mời Mẹ cộng tác với Ngài trong sứ mạng Cứu Thế. Rồi thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng Cứu Thế của Chúa, Chúa đã chọn một nhóm ngư phủ vô danh tiểu tốt, chất phác quê mùa. Cũng nhờ nhóm dân thuyền chài quê mùa đó, mà Chúa đã thi thố biết bao việc lạ lùng trên trần gian: Một Giáo Hội vĩ đại lan rộng khắp thế giới, đến nỗi không một ai, kể cả những kẻ thù nghịch, những người chống đối, thù ghét bách hại cũng phải kính nể, phải đầu hàng, như chính lời Chúa đã tiên báo cho Thánh Phêrô: "Con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, dù các quyền lực của hỏa ngục cũng không thể phá hủy được".

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng còn thấy, biết bao việc vĩ đại Chúa đã dùng các tôi trung con thảo khiêm nhu của Chúa thực hiện. Biết bao kẻ chống đối, phi bác, nhưng Giáo Hội vốn đứng vững. Biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ Chúa thực hiện qua những dụng cụ đơn sơ chất phác khiêm hạ, như Gioan Vianney Cha sở xứ Ars, Bernadetta thôn nữ chăn chiên, Labourée Chị Dòng khiêm tốn, ba trẻ Fatima đơn sơ bé mọn.

II. CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI KHIÊM HẠ

Quả thật, theo lời Thánh Pherô và Giacobê Tông Đồ: "Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm hạ", và theo lời Đức Mẹ trong kinh Ngợi Khen: "Chúa truất phế khỏi ngai vàng những người quyền thế; và tôn vinh những kẻ hèn mọn khiêm nhu". Chính Chúa Kitô cũng đã trịnh trọng tuyên bố: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".

Thánh Phaolô đã dám quả quyết minh bạch giáo huấn chân thật của Chúa Kitô: "Những điều mà thế gian cho là điên dại thì Chúa đã tuyển chọn, để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; những điều mà thế gian cho là hèn hạ, thì Thiên Chúa đã kén chọn để làm cho những người mạnh mẽ phải hổ ngươi; hầu cho không ai còn có thể huyênh hoang được" (xem 1 Cor. 1:26).

Do đó, theo lời tiên tri Sophonia khuyên nhủ chúng ta: "Hãy tìm Chúa, hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhu, nếu chúng ta muốn được đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa cứu độ và đạt tới Đích Thánh Thiện như Chúa mong muốn" (xem Soph 2:3;3:12-13).

Kết Luận

Các Thánh là những sinh viên ưu tú và thành tâm thiện chí đã tốt nghiệp nơi trường đại học của Thầy Chí Thánh, các ngài đã đạt tới bậc tối ưu trong môn học thần diệu Chúa dạy: "Các con hãy học theo gương Thầy, vì Thầy hiền dịu và khiêm nhu thật lòng" (Mt 11:29). Chính vì thế mà các Thánh tới Đích Thánh Thiện, đã làm vinh danh Chúa, đã chu toàn được sứ mạng chinh phục các linh hồn về với Chúa, đã nêu cho nhân loại những tấm gương đáng khâm phục và noi theo bắt chước.

Xin Chúa cho chúng ta được thấu hiểu giá trị đích thực bài học khiêm tốn của Chúa, được thấm nhuần tình thần cao cả này và can đảm đem ra thực hiện trong đời sống hằng ngày, để chúng ta cũng được Chúa hài lòng như Chúa đã hài lòng với Mẹ Maria và các Thánh.

Lm. Minh Vận, CMC – 2005

----------------------------------

 

TN 4-A71. Phúc Cho Các Con..."

 

Trong tác phẩm mang tựa đề: "Người Nghèo của Thiên Chúa" có đoạn viết về Thánh Phanxico: TN 4-A71


Trong tác phẩm mang tựa đề: "Người Nghèo của Thiên Chúa" có đoạn viết về Thánh Phanxico Assisi như sau:

Khi mặt trời vừa ló dạng, tôi và một người bạn của tôi lại lên đường, chúng tôi đến một thành phố nhỏ mà tôi không nhớ tên. Người bạn của tôi vốn là một người bạn chí thân với Thánh Phanxicô Assisi từ thuở nhỏ. Tình cờ gặp lại vị Thánh giữa chợ, anh ta liền chạy đến ôm lấy Ngài và nói: "Này anh Phanxicô, ai đã khiến anh ra nông nỗi này!" Phanxicô cười đáp: "Chúa làm". Bạn tôi lại hỏi tiếp: "Bao nhiêu áo quần đẹp của anh, cả cái cánh lông chim đỏ gắn trên chiếc mũ da của anh thuở nào sao mất hết cả rồi? Và còn mấy chiếc nhẫn vàng trên tay anh đâu?" Phanxicô lại cười đáp: "Satan đã cho tôi, tôi đã trả lại cho hắn tất cả rồi". Bạn tôi đưa mắt nhìn từ đầu đến chân vị Thánh. Anh không thể tưởng tượng được người bạn hào hoa thuở nào bây giờ tàn tệ, không mũ, không giày dép và nhìn rất lạc lõng, đơn côi. Cảm xúc đến rơi lệ, anh hỏi vị Thánh: Này Phanxicô, anh đến từ đâu vậy?" Vị Thánh đáp: "Từ một thế giới khác". Bạn tôi thắc mắc:"Sao anh lại ca hát?" Vị Thánh giải thích: "Tôi hát để khỏi quên đường"...

Giai thoại trên đây có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ thế nào là niềm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống con người. Có người tưởng hạnh phúc nằm trong giàu sang. Có người lấy danh vọng, uy quyền làm hạnh phúc. Có người đi tìm hạnh phúc trong lạc thú. Người ta tìm cách tránh khó khăn, phiền toái trong đời sống bao nhiêu có thể và nghĩ rằng làm như vậy là đang đi tìm hạnh phúc cho mình. Xã hội Mỹ có khuynh hướng đánh giá trị con người qua số lượng và phẩm chất của đời sống hưởng thụ. Tuy nhiên tất cả những điều trên chỉ là cái bóng hạnh phúc, không phải hạnh phúc thật. Mà nhiều khi cái bóng hạnh phúc đó lại giết chết hạnh phúc thật. Ông Martin tại tiểu bang Atlanta mất một trăm ngàn Mỹ kim trong một cuộc buôn bán chứng khoán. Người đàn ông này không còn một giải quyết nào khác hơn là giết vợ, 2 đứa con thơ, sát hại mấy người vô tội khác và cuối cùng tự kết liễu đời sống mình.

Thiên Chúa, Đấng đã đặt để trong trái tim con người hạnh phúc, nên chỉ Thiên Chúa mới có thể chỉ cho con người cách đi tìm hạnh phúc. Trong bản Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đã chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến hạnh phúc thật, một con đường nghịch lý. Thế gian cho rằng giàu có lợi lộc là hạnh phúc thì Chúa bảo: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ" (Mt 5:3). Thế gian tranh giành địa vị danh vọng đến gây gỗ thù ghét nhau và tưởng đó là hạnh phúc, nhưng Chúa Kitô dạy: "Phúc cho những ai hiền lành..., ăn ở thuận hòa..., xót thương người..." (Mt 5: 4,7,9). Người đời ham vui thú và sợ khổ vì điều lành thì Chúa Kitô lại chúc phúc: "Phúc cho ai đói khát sự công chính, phúc cho những người có lòng trong sạch vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa" (Mt 5: 6-8). Những mối phúc không chỉ là những lời an ủi mà còn là những lời hứa long trọng do chính Đấng duy nhất hiểu rõ hạnh phúc là gì và còn có thể ban chính hạnh phúc ấy nữa.

Sống Hiến chương nước Trời đòi chúng ta thái độ nghịch lý: nghịch lại con người tự nhiên khuynh chiều về tội lỗi; nghịch lại văn hóa xã hội đặt cá nhân, vật chất và tự do không chính đáng lên trên những giá trị cộng đoàn, siêu nhiên và lề luật của Chúa. Thánh Phaolô đã nói đến sự đối chọi giữa tinh thần thế gian và tinh thần Đức Kitô: "Những điều mà thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ, điều mà thế gian cho là yếu hèn thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê..." (1 Cor 1:27-28). Trong Cựu Ước, tiên tri Sophonia cũng đề cập đến tinh thần này: "Những người hiền lành là những kẻ tuân giữ luật Chúa. Hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường vì một dân tộc khiêm tốn và nghèo nàn, biết tin tưởng vào danh Thánh Chúa sẽ được sống sót để sẽ không còn làm điều bất công, không nói dối, không phỉnh gạt" (Soph. 2:3, 3:12-13)

Ai muốn hiểu và sống những nghịch lý của tám mối phúc thật đòi sự hối cải, từ bỏ cái nhìn nhân loại mà nhận lấy cái nhìn của Thiên Chúa, để cho ánh sáng và chính cuộc sống của Con Thiên Chúa xâm chiếm mình. Lúc đó chúng ta hiểu rõ điệp khúc "phúc cho các con", một điệp khúc tràn đầy hoan lạc của hiến chương Kitô giáo.

Sr. Irene Khanh, CMR - 2005.

----------------------------------

 

TN 4-A72. Tám Mối Phúc: đường đưa tới tự do


Chúa Nhật 4 Thường Niên – Năm A; 3-2-2008

Xp 2:3; 3:12-13; 1 Cr 1:26-31; Mt 5:1-12ª

 

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hình ảnh về những người nghèo của Thiên Chúa. Đó là: TN 4-A72


Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hình ảnh về những người nghèo của Thiên Chúa. Đó là những người cùng khổ, nhỏ bé hèn hạ, bị chà đạp. Họ sẽ được Thiên Chúa bênh đỡ ủi an.

Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu giảng về “Tám Mối Phúc”. Kêu gọi chúng ta làm công dân Nước Trời, Chúa Giêsu trình bày cho ta một “Hiến Chương” hay một “Tuyên Ngôn” để giúp ta đi theo con đường Ngài đã đi xây dựng Nước Trời. Hay cũng là lời tuyên thưởng cho những công dân đã trung thành với luật điều của Nước Trời. Họ là ai? Là những người có tâm hồn nghèo khó, hiền lành nhịn nhục, sầu khổ, khao khát nên người công chính, xây dựng hoà bình, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại, bị xỉ vả và vu khống đủ điều. Đó chính là những người nghèo được Thiên Chúa ưu ái mà các ngôn sứ đã từng nhắc đến.

Con người ngày nay hiểu và định nghĩa hạnh phúc theo nghĩa phàm tục. Người có phúc là kẻ có nhiều may mắn giống như kẻ trúng số lớn, có thể sống cuộc đời vô lo. Người có phúc là kẻ có nghề nghiệp như ước mơ, có thể gặt hái nhiều lợi lộc. Người có phúc là kẻ có nhà cao cửa rộng, phú quí giầu sang... Hạnh phúc có nghĩa là đạt được những gì mình ước muốn và tự hào là do công sức mình tạo ra. Ngày nay phong trào tục hoá đã chiếm ưu thế trong mọi lãnh vực, ngay cả trong đời sống tôn giáo. Thị trường tìm đủ mọi cách qua điện ảnh, báo chí quảng cáo mời gọi con người ngày nay sống hưởng thụ. Sức dụ dỗ quá lớn, con người bị mê hoặc, không đủ sức chống lại, đành a dua hoặc tự nguyện chạy theo thói đời. Hậu quả tất nhiên chính là: đời sống luân lý càng ngày càng suy yếu, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn hay bị bóp méo,... Thay vì tự do con người tự biến mình thành nô lệ!

Theo bản tính loài người, chúng ta ai cũng muốn hãnh diện. Hãnh diện tự hào với những gì mình có, mình là. Rất nhiều khi cũng hãnh diện cả với những gì vay mượn của kẻ khác nữa, thí dụ cậy mình có gốc gác, có con cháu làm lớn trong xã hội... Người ta đã dựa vào khôn ngoan của thế gian để tự hào tôi có bằng cấp này nọ, tôi có tài sản kếch sù. Thánh Phaolô đã tế nhị nhưng không kém mỉa mai, nhắc khéo tín hữu Côrintô về gốc gác khiêm tốn của mình: «Anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quí phái» (c.26). Lai lịch của tín hữu Côrintô chỉ có thế thôi, đâu có gì đáng để tự hào với người đời. Nhưng Thánh Phaolô cho họ biết chính Chúa là Đấng đã biến đổi thân phận của họ nên: ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.

Đức Giêsu loan báo cho chúng ta bí quyết để sống cuộc đời tự do. Người sống tự do là người có tâm hồn thanh thản, người đó đứng vững như chiếc kiềng ba chân không lo lắng sợ sệt trước gió bão. Bởi vì dầu biết mình chưa thành toàn, chưa hoàn hảo nhưng kẻ ấy thâm tín rằng mình được yêu thương chấp nhận. Sống trong vòng tay yêu thương quan phòng của Thiên chúa thì tội tình chi phải đeo mặt nạ, cần chi phải xây cổng kín tường cao, cần gì phải tranh giành với thiên hạ những chuyện không đâu, cần gì phải quan tâm lo lắng đến thành công hay thất bại,... Còn gì hạnh phúc hơn khi có thể đối diện với con người thật của mình. Biết mình không thập toàn nhưng không sợ chê bai. Sống tự do có nghĩa là sống thành thật với chính mình.

Trong thực tế, dù là những Kitô hữu rất siêng năng và ngoan đạo, chúng ta vẫn sống theo những quy tắc càng ngày càng khơi sâu hố ngăn cách giữa chúng ta với những kẻ phận nhỏ, chúng ta đã rơi vào tội thờ ngẫu tượng, khi lòng ngoan đạo của chúng ta hướng về một Thiên Chúa do trí óc và con tim mình nhào nặn ra, chứ không phải Đức Giêsu Kitô trong Phúc Âm. Tiên Tri Sophonia cũng đã nói tới «một dân nghèo hèn và bé nhỏ, chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa». Người nghèo của Thiên Chúa phải là người thi hành mệnh lệnh của Ngài, tìm nương ẩn nơi Ngài, tìm sự công chính, sống sao cho xứng với phẩm vị của mình, «đói cho sạch, rách cho thơm». Người sẵn sàng chịu bách hại, xỉ vả và vu khống đủ điều vì danh Chúa. Đó là dấu chứng hùng hồn, là thước đo lòng thành của họ đối với Thiên Chúa «Lửa thử vàng, gian nan thử đức». Tinh thần nghèo khó cốt ở chỗ biết sử dụng của cải đời này để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho tha nhân. Đức Giê-su không chỉ đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ của cải, người thân, nhưng còn cần từ bỏ chính bản thân mình để được thuộc trọn về Ngài (Mt 19,27-30). Đó là cái nghèo tột cùng, nhưng cũng từ cái nghèo này đem lại cho chúng ta sự giầu có phong phú không gì có thể so sánh được, vì chúng ta đã chiếm hữu được chính Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng.

Sr. Marciana Chuẩn CMR

----------------------------------

 

TN 4-A73. Tám mối Phúc Thật


 (Mt. 5:1-12)

1. Hạnh phúc theo ý nghĩ loài người:

 

Loài người tượng hình cho việc mất hạnh phúc bằng trái tim có mũi tên xuyên qua. Và tượng: TN 4-A73


Loài người tượng hình cho việc mất hạnh phúc bằng trái tim có mũi tên xuyên qua. Và tượng hình cho hạnh phúc bằng trái tim có đôi cánh bay bổng lên cao. Trong thần thoại Việt Nam tượng trưng cho niềm hạnh phúc bằng 3 vị thần: phúc lộc thọ gọi là tam đa.

Thần thọ: râu tóc bạc phơ, tay phải chống gậy cong queo, tay trái cầm trái đào tiên thường đi với con rùa, một con vật sống dai nhất tượng trưng cho đường trường thọ.

Thần lộc: Cưỡi nai, tượng trưng cho niêm an vui thư thái, quan cách.

Thần phúc: Đi đâu cũng có mấy chú giơi theo hầu, tượng trưng cho giầu sang, phú quý. Ai muốn được hạnh phúc thì cố gắng đạp thằng bần ra khỏi cửa, giang tay mời ông phúc bước vào nhà.

Người Lamã thời Chúa Giêsu cũng không khác thời nay, họ đo lường hạnh phúc bằng giầu có vật chất, bằng khoái lạ, quyền thế, bằng thảnh thơi an nhàn, cơm bưng nước rót.

2. Hạnh phúc theo Phúc Âm:

Nhưng giờ đây theo quan niệm mới, Chúa cho chúng ta một mực thuớc mới để đo giá trị qua bản hiến chương nước trời:

Ai có tinh thần nghèo khó mới chiếm được nước trời.
Ai hiền lành không hách dịch mới được người đời mến chuộng.
Ai đầy lòng trắc ẩn, cảm thương mới được an ủi.
Ai khát sống công chính mới được no thỏa.
Ai nhân từ, xót thương người ta mới được thương lại.
Ai trinh tâm mới được thấy Chúa.
Ai thuận hòa mới được làm con Chúa.
Ai vui chịu sự khó mới được nước trời.


Chúa chọn những cái người đời cho là đê hèn: nghèo là thằng bần. Thương người là ngu. Hiền là cù lần. Trinh tâm là lạc hậu. Chịu khó là ham… Để làm cho người nhận là lớn phải hổ thẹn. Điều đó đã trở thành sự thật.

Nhà triệu phú Paul Getty chết năm 1976 đã nói trước khi chết: “Cả đời tôi chẳng được hạnh phúc.” Trái lại Lazarô, người hành khất được lĩnh hạnh phúc nước trời. Ông Diogènô được mệnh danh là người hạnh phúc trên đời. Ông sống trong một cái thùng lớn, nằm đọc sách triết, vua Hy Lạp nghe danh đến thăm ông và muốn ban cho cái ông cần thiết. Hỏi tới lần thứ hai ông không thèm trả lời, vua tưởng ông không nghe thấy, vua ghé sát vào lỗ thủng hỏi lại, ông trả lời “Hạ thần muốn xin bệ hạ một điều là bệ hạ tránh ra để hạ thần có ánh sáng mà đọc sách.” Ông đã đuổi khéo nhà vua vì vua đã sa vào vòng danh lợi để mất niềm vui thảnh thơi của cuộc sống.

Cái hạnh phúc của ông là từ bỏ, gác ngoài tai danh lợi và quyền thế.

Một hôm hoàn tử Ba Tư đi săn trong rừng cho khuêy khoả nỗi buồn vỉ mất người yêu. Hoàng Tử nghe thấy tiếng hát thánh thót nơi rừng thẳm, hoàng Tử tiến lại xem thì một người cùi đang nằm hát trong đống bầy ngầy thối rữa. Hạnh phúc của người này là chấp nhận thánh ý an bài của Chúa, dù gặp lúc vui hay lúc buồn.

Cha Daniêng tông đồ người hủi. Đức cha Cassege từ bỏ ngôi vị giám mục đi sống phục vụ người miền thượng Di Linh. Trước khi chết ngài nói: “Đời tôi không được dài để phục vụ nữa”. Hạnh phúc của ngài là hy sinh, thương xót, vui chịu sự khó, thực hiện lòng trắc ẩn.

Chức phận của ông tổng thống, của ông bộ trưởng, tỉnh trưởng chưa chắc vui bằng mấy ông bà già ngày ngày cầu kinh, hy sinh với nếp sống cứu các linh hồn.

3. Chúng ta có thực hiện được bản hiến chương nước trời hay không trong chức vụ hiện tại của mình?

Đây là phần trả lời của mỗi người chúng ta. Chúa không buộc chúng ta bỏ, nhưng Chúa đòi chúng ta cố gắng quan tâm. Giầu có nhưng có lòng quảng tâm. Có địa vị nhưng thực hành hiền lành không hống hách.. Sống giữa đam mê nhưng lòng trinh tâm, không tranh dành, chớp cơ hội để sống hiền hòa.

Tám mối phúc thật là đường lối mới Chúa ban để hướng dẫn chúng ta hướng lên cao. Hãy cố gắng thực hiện trong mọi lãnh vực sống. (30.1.2005)

Lm. Thu Băng, CMC

----------------------------------

 

TN 4-A74. Khó nghèo.

 

Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường: TN 4-A74


Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.

Một người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.

Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.

Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.

Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.

Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.

Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

----------------------------------

 

TN 4-A75. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

 

Khi nhìn về kiếp nhân sinh, với những thăng trầm nổi trôi của đời người, đầy những đau khổ, bất: TN 4-A75


Khi nhìn về kiếp nhân sinh, với những thăng trầm nổi trôi của đời người, đầy những đau khổ, bất hạnh lầm than, đại văn hào Nguyễn Du đã nói rằng:

"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Có người còn bi quan bảo rằng:
"Đời vui sao chẳng thấy cười -
Sinh ra chẳng cười lại khóc oe oe".

Phần nhiều trong văn học, thơ ca hay kịch nghệ, người ta đã thành công khi khai thác chủ đề bất hạnh của đời người: cái đói, cái nghèo, cái khổ đau của bệnh tật, cái khổ đau của bất công và áp bức đã gây nên biết bao nỗi oan khiên, bất trắc cho thân phận con người. Những bất hạnh mà ta thường gặp không chỉ đổ xuống trên những thân phận nghèo đói, túng thiếu mà còn đổ xuống trên những kẻ có tiền, có của, có địa vị nhưng lại không tìm được hạnh phúc ở trong cuộc sống của mình. Dang vọng, tiền tài xem ra cũng không quý bằng hạnh phúc ở trong đời sống hằng ngày. Cuộc đời không có hạnh phúc là cuộc đời bất hạnh tựa như cây xanh thiếu lá nên trơ trụi và cằn khô. Vì "Cây xanh thiếu lá nó cũng trơ trơ - Biết mình thế này thà đừng sinh ra". Vì sống là đi tìm hạnh phúc. Sống mà không có hạnh phúc thì cuộc đời như đã mất. Hạnh phúc là nỗi khao khát, là niềm ước mơ của mọi người. Từ những em bé bán vé số, đánh giầy, thu lượm ve chai cho đến những em sinh ra trong một gia đình giầu sang vẫn mang trong mình một khao khát được hạnh phúc. Từ những người quyền thế, giầu có lắm kẻ đón người đưa đến những con người xấu số bị bỏ rơi, khinh bỉ bên lề đường vẫn ao ước một khung trời hạnh phúc cho riêng mình.

Tựa như cuộc đời có nhiều nẻo đường khác nhau thì hạnh phúc cũng có nhiều cách khác nhau. Có hạnh phúc của người mẹ vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy, phố chợ. Có hạnh phúc của những con người đang quên mình vì tha nhân, vì bạn bè, dù rằng phải mang tiếng nợ đời "Ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Có hạnh phúc của những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: "Tay bưng bát muối chấm gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau". Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có lẽ ở đời, chẳng ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.

Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một phương thức để đạt được hạnh phúc. Con đường hạnh phúc của người môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình.

Như vậy, hạnh phúc của người môn đệ không hệ tại ở những cái mình có mà ở những cái mình dám từ bỏ vì Chúa và vì tha nhân. Vì Chúa mà ta từ bỏ mọi thứ tham lam, ích kỷ và bất chính để ta sống thanh thoát khỏi những đam mê của cải và lạc thú. Vì Chúa mà ta bỏ đi cái tôi ghen tương, nóng giận, để gìn giữ sự hoà thuận với những người mà chúng ta đang sống. Vì Chúa mà chúng ta dấn thân cho công lý được triển nở, cho hoa bác ái được toả hương, cho an bình được ngự trị. Vì Chúa mà chúng ta xả thân giúp người giúp đời mà không cần so đo tính toán thiệt hơn. Từ bỏ chính mình để ta hướng tới tha nhân. Có từ bỏ chính mình thì ta mới nghĩ tới thiện ích của tha nhân. Từ bỏ những quyền lợi, những nhu cầu của bản thân để chúng ta trao hiến những điều tốt đẹp nhất cho tha nhân.

Người ta bảo rằng ở bên Palestina có hai biển hồ là Biển Chết và biển hồ Galilêa, cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Thế nhưng, nơi Biển Chết thì không có một sự sống nào có thể tồn tại. Vì Biển chết đón nhận nhưng không trao ban, nó giữ lại cho riêng mình, nên nguồn nước trở thành mặn chát và độc hại. Ngược lại, tại biển hồ Galilêa cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.

Đời người cũng tựa như biển hồ, nếu chỉ biết giữ riêng cho mình tất cả mọi sự nhận được từ Thiên Chúa. Sự sống trong họ rồi cũng chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Thật hạnh phúc cho ai biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống như biển hồ Galilêa. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.

----------------------------------

 

TN 4-A76. CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A


Xp 2,3.3,12-13; 1 Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a

SỐNG SIÊU THOÁT KHIÊM HẠ TRONG TÌNH THƯƠNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 5,1-12a

(1) Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở miệng dạy họ rằng: (3) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. (4) “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. (5) “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ được Thiên Chúa ủi an”. (6) “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”. (7) “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. (8) “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. (9) “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (10) “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. (11) “Phúc cho anh em, khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.

2. Ý CHÍNH: TÁM MỐI PHÚC THẬT.

 

Mát-thêu đã tóm lược giáo lý của Đức Giê-su làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay cũng gọi là bản: TN 4-A76


Mát-thêu đã tóm lược giáo lý của Đức Giê-su làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay cũng gọi là bản “Hiến Chương Nước Trời”. Đây là Tám Mối Phúc mà chính Đức Giê-su đã nêu gương và đòi hỏi các tin hữu phải thực hành trong cuộc sống, như tiêu chuẩn để được gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập. Chẳng hạn: Phải có tâm hồn nghèo khó nghĩa là sống siêu thoát đối với của cải vật chất, rồi phải ăn ở hiền hòa, có lòng sám hối, giữ đức công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, ăn ở hòa thuận, sẵn sàng chịu bách hại vì đức Tin. Chỉ những ai sống theo các tiêu chuẩn nói trên mới đủ điều kiện để được hưởng hạnh phúc Nước Trời là thiên đàng đời sau.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3:

+ Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính phổ quát của sứ điệp Đức Giê-su.

+ Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một quả đồi ở gần thành Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng “núi” để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước và ban Lề Luật cho Ít-ra-en trên núi Si-nai.

+ Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị tôn sư khi giáo huấn môn đồ (x. Mt 13,1).

+ Phúc thay: Đây là kiểu nói thường được sử dụng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giê-su dùng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ… sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai…, đang khi Lu-ca thì viết: Phúc cho anh em... (6,20-26).

+ Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là tinh thần khiêm tốn với lối sống đơn giản, không tham lam tiền bạc; giống như trẻ em không tranh giành địa vị quyền hành. Đây là điều kiện để được gia nhập vào Nước Trời (x. Mt 18,1-11). Nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo như điều kiện để đi theo làm môn đệ Đức Giê-su và đáng được Nước Trời làm phần gia nghiệp (x. Mt 19,16-22).

+So sánh sự khác nhau giữa hai câu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3), và câu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20) giống và khác nhau thế nào ?

Hai câu trên trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca đều đề cập đến điều kiện phải có để được gia nhập vào Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên Tin Mừng Lu-ca nhấn mạnh những người nghèo khó không cơm ăn áo mặc sẽ được Chúa bù đắp cho ưu tiên gia nhập Nước Thiên Chúa, khác với Tin Mừng Mát-thêu cho biết để được gia nhập vào Nước Trời đòi người ta phải có tâm hồn nghèo khó, nghĩa là phải hóa nên như trẻ thơ không ham mê địa vị quyền hành (x. Mt 19,13-14), sẵn sàng chấp nhận ngồi chỗ thấp trong bàn tiệc (x. Lc 14,10-11). Họ sẽ được Thiên Chúa nâng lên và cho ưu tiên hưởng hạnh phúc là ơn cứu độ muôn đời (x. Lc 1,53; 16,25). 

- C 4-5:

+ Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và thiếu thốn.

+ Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11).

+ sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong chờ ơn cứu độ của dân Ít-ra-en như ông Si-mê-on đã ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,25).

+ Được Thiên Chúa ủi an: Sự đau buồn này sẽ được Thiên Chúa bù đắp bằng niềm an ủi và còn được Chúa xét xử khoan dung trong ngày tận thế.

- C 6-8:

+ Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính nghĩa là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy như ông Giu-se (x. Mt 1,19) và tránh thói giả hình của người pha-ri-sêu (x. Mt 5,20).

+ Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước trời sẽ được dành để ban thưởng cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện.

+ Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri-a nhân hậu đã sẵn lòng giúp đỡ người gặp nạn (x. Lc 10,33-37).

+ Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Có lòng thương xót và biết tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình thì sẽ được Thiên Chúa xót thương và được tha tội nợ (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao ?” (Mt 18,32-33).

+ Lòng trong sạch: Trong sạch ở đây không những là đức khiết tịnh, mà còn ám chỉ một lương tâm ngay thẳng, hết lòng phụng sự Chúa và tha nhân, không màng danh lợi...

+ Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được tiếp xúc thân mật với Chúa như ông Mô-sê xưa đã được gặp gỡ đàm đạo với Đức Chúa “diện đối diện” (x. Xh 33,11).

- C 9-10:

 + Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Sứ mạng của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau. Người tín hữu cần sẵn sàng làm hòa với những ai đang bất bình với mình, để lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24).

+ Được gọi là con Thiên Chúa: Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống yêu thương thì mới ở trong Thiên Chúa và trở nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn được bình an (x. 2 Cr 13,11).

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Có phúc vì nên giống Đức Giê-su, Đấng đã bị các đầu mục Do thái hãm hại. Người đã phải trải qua cuộc khổ nạn như vậy rồi mới được vào trong vinh quang phục sinh. Đây là một sự điên rồ đối với người Do thái và là điều không dễ chấp nhận, ngay cả các môn đệ Đức Giê-su cũng vậy (x. Mt 16,22). Tuy vô tội, nhưng Đức Giê-su săn sàng bị người Do thái bắt bớ giết hại trên cây thập giá để đền tội thay cho nhân loại chúng ta (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói thêm như sau: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc !” (1 Pr 3,14).

- C 11-12a:

+ Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đang bị bách hại.

+ Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14).

+ Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Chính khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa Giê-su, các tín hữu sẽ được nên giống Người và sau này còn được Người đón nhận vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc viên mãn với Người.

4. CÂU HỎI:

1) Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trời do Chúa Giê-su thiết lập. Trong Tám Mối Phúc này, mối phúc nào quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác ?

2) So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca giống và khác nhau thế nào ?

3) Tại sao Chúa Giê-su lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi chỉ người giàu có mới có điều kiện giúp xóa đói giảm nghèo ?

4) Ý nghĩa của các mối phúc còn lại như thế nào: Phúc cho ai hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì danh Chúa ?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).

2. CÂU CHUYỆN:

1) NGHỊCH LÝ CỦA KI-TÔ GIÁO:

Tonner, một nhân vật nổi tiếng hiện nay của Mỹ, là một tỉ phú giàu có, một trong các sáng lập viên của hệ thống truyền hình CNN. Gần đây trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí The New York, Tonner cho biết không phải lúc nào cũng thành công. Ông đã từng bị thất bại và đi đến thất vọng đến nỗi đã nghĩ tới việc tự tử. Một người là một trong những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ, nhất là sau khi đã tặng hàng tỉ Mỹ kim cho Liên Hiệp Quốc, giờ đây phải thú nhận mình đang là nạn nhân của một cuộc chiến về mọi mặt, từ việc kinh doanh đến cuộc sống gia đình và ngay cả niềm tin tôn giáo. Thất bại trong đời sống hôn nhân là điều tệ hại nhất đối với Tonner. Ông và nữ tài tử Folda đã ly hôn sau tám năm chung sống. Lý do chính khiến cho hai người chia tay là vì Folda đã theo đạo để trở thành một tín hữu Ki-tô. Tonner tỏ ra không mấy thiện cảm với đức tin tôn giáo. Ông cho rằng Ki-tô giáo là một tôn giáo chỉ dành cho những kẻ thua cuộc thất bại. Ông đã gọi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một tên ngu ngốc. Với tất cả những gì đang chiếm hữu, Tonner thật có lý khi coi các tín hữu Kitô là những kẻ thất bại nghèo đói. Nhưng điều nghịch lý nhất của Ki-tô giáo mà Tonner không sao hiểu được là người tín hữu Ki-tô chọn đi con đường: “thua để thắng”, “mất để được” như Đức Giê-su đã chọn và Tông đồ Si-mon Phê-rô đã phản kháng. Đó là con đuờng “Qua đau khổ của sự chết để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Mt 16,21-23), Nghịch lý này về sau đã được thánh Phan-xi-cô Át-si diễn tả trong lời cầu của kinh Hòa Bình. (nguồn: radio veritas Asia).

2) SỐNG SIÊU THOÁT HIỀN HÒA NHƯ PHAN-XI-CÔ ÁT-SI

Phan-xi-cô thành Át-si (Phanxicô Assise) là con một nhà quý tộc giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ và tình cờ nghe một vị linh mục giảng về Tám mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa Giê-su: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2). Từ hôm ấy, anh luôn suy nghĩ xem mình phải sống thế nào để trở thành một người nghèo thực sự theo lời dạy của Chúa? Rồi một ngày nọ, anh đi đến quyết định sống cuộc đời siêu thoát, từ bỏ mọi sự để hoàn toàn phó thác cuộc đời cho Chúa quan phòng. Anh đã bán gia sản của cha mình và đem phân phát cho những người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đã đến tai người cha khiến ông này nổi cơn thịnh nộ. Ông đã đến tịch thu tất cả những gì còn sót lại của Phan-xi-cô và tuyên bố từ không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Ngày hôm ấy Phan-xi-cô đã bỏ lại tất cả quần áo, giầy dép sang trọng đang mặc để ra kihỏi nhà với hai bàn tay trắng. Anh đã viết nhật ký như sau:

“Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ ngày đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã chọn lựa là “từ bỏ tất cả mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày, trong bộ quần áo vải thô, chân không giày dép, Phan-xi-cô đã đi bộ ngang qua các đường phố làng mạc để khất thực. Tối đến, anh thức khuya đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng giây da để hành xác. Anh đã được Chúa in năm dấu thánh trên hai bàn tay, hai bàn chân và cạnh sườn để nên giống Chúa Giê-su bị  đóng đinh chân tay và chịu lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Anh đã thực hành đúng theo Lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Lối tu luyện khổ hạnh của Phan-xi-cô đã được Hội Thánh đánh giá cao và dòng “Anh em hèn mọn” do Phan-xi-cô sáng lập đã trở thành một dòng tu lớn bậc nhất trong Hội Thánh. Sau khi qua đời, anh đã được Hội Thánh phong lên bậc hiển thánh là thánh Phan-xi-cô Át-si hay Phan-xi-cô Năm Dấu, kính nhớ vào ngày 04 tháng 10 hằng năm.

3. SUY NIỆM:

1)Thế nào là hạnh phúc ? Làm sao để có hạnh phúc thực sự ?  

Hạnh phúc là một khát vọng tự nhiên của con người muốn được thỏa mãn các nhu cầu cả về thể xác cũng như tâm hồn, mà sau khi đã được thỏa mãn người ta sẽ cảm thấy vui vẻ sung sướng không còn bị khát khao nữa. Có hai thứ hạnh phúc: Một là hạnh phúc tự nhiên khả giác và hai là hạnh phúc siêu nhiên tinh thần như sau:

 -Về hạnh phúc tự nhiên: Người ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi được thỏa mãn điều mình khát vọng như: Được có nhiều tiền của vật chất, được sống chung với người mình yêu, được khen ngợi thành tích đã đạt được, được thi đậu vào trường học hay được cấp visa nhập cảnh ra nước ngoài, được thăng quan tiến chức theo ý muốn… Tuy nhiên, thứ hạnh phúc này thường không bền lâu và nhiều khi hạnh phúc hôm nay lại trở thành nguyên nhân gây ra bất hạnh sau đó.

-Về hạnh phúc siêu nhiên: Tin Mừng hôm nay đề cầp đến thứ hạnh phúc tinh thần của các tín hữu Ki-tô là « Tám Mối Phúc ». Đây là bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su- Mô-sê Mới của thời Tân Ước đã công bố cho dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh, để kiện toàn Thập Giới do Mô-sê của thời Cựu Ước đã công bố cho dân Ít-ra-en trên hai bia đá trong cuộc Xuất Hành.

        2)Về tám mối phúc của Đức Giê-su:

Đây là những tiêu chuẩn mà những ai muốn được ơn cứu độ của Đức Giê-su phải thực hành trong cuộc sống như sau:

+ Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó: Người có tâm hồn nghèo khó là người không tham lam tiền của, không tranh giành địa vị chức quyền, nhưng luôn sống đơn giản siêu thoát và khiêm nhường phục vụ noi gương Đức Giê-su, nên họ sẽ được ban thưởng Nước Trời đời sau.

+ Phúc thay ai hiền lành: Người hiền lành là người có lòng từ bi nhân ái, không cố tình  làm hại ai, nhưng luôn biết nhẫn nhịn chịu đựng những xúc phạm của tha nhân vì lòng mến Chúa, nên họ sẽ được Chúa bù đắp các thiệt thòi bằng hạnh phúc là đất hứa Thiên Đàng.

+ Phúc thay ai sầu khổ: Người sầu khổ là người ý thức giá trị thanh luyện của đau khổ nên sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, nên họ sẽ được Chúa đoái thương “lau khô giọt lệ” và được Người động viên an ủi bằng hạnh phúc Thiên Đàng sau này.

+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: Người công chính là người luôn hướng thượng, muốn nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên Trời, nên họ sẽ được thỏa lòng mong ước nhờ tin vào Chúa Giê-su và ăn ở công minh chính trực giống như Người.

+ Phúc thay ai xót thương người: Người biết xót thương là người luôn cảm thông chia sẻ niềm vui nỗi buồn với tha nhân như thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), nên họ sẽ được Chúa xót thương và ban ơn tha thứ trước tòa phán xét sau này.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Người có tâm hồn trong sạch là người có nếp sống lành thánh trong tư tưởng lời nói và hành động, nên cặp mắt tâm hồn của họ sẽ nên trong sáng để có thể nhìn thấy Chúa nơi đang hiện thân nơi những người đói khổ bất hạnh (x. Mt 25,40), và sau này họ còn được “mặt giáp mặt” Chúa trên nước thiên đàng (1 Cr 13,12).

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Người xây dựng hòa bình là người luôn nhẫn nhịn chịu đựng, biết ứng xử theo nguyên tắc “dĩ hòa vi quý” để sống hòa thuận với tha nhân, nên họ sẽ  được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) và trở nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su (x. Ga 13,35).

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Người bị bách hại vì sống công chính là người do tin theo Chúa Giê-su nên đã bị bọn người gian ác thù ghét bách hại, nên họ sẽ được hưởng ơn cứu độ là hạnh phúc nước thiên đàng đời đời do Thiên Chúa thưởng ban.

Đối với những người không có đức tin thì bản Hiến Chương Nước Trời của Đức Giê-su là những điều nghịch lý khó lòng chấp nhận. Vì làm sao một người có thể được hạnh phúc khi đang trong tình trạng đói nghèo, buồn sầu, bách hại…? Nhưng đối với các tín hữu thì những điều nghịch lý nói trên lại trở thành hữu lý nhờ tin vào Chúa Giê-su và đi theo con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”  như Người đã ba lần tiên báo với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,22-23; 20,17-19).
 3) Mối phúc căn bản: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó:

Người có tâm hồn nghèo khó được Chúa chúc phúc phải sống nghèo khó vì người khác và cho người khác. Nếu một người sống nghèo khó vì mình, hà tiện không dám tiêu xài để mình ngày càng giàu thêm thì đó là thói hư hà tiện chứ không phải nhân đức khó nghèo của Tin Mừng. Rất nhiều người đã tưởng lầm mình có đức khó nghèo khi họ hà tiện không dám ăn uống, may mặc, hay chữa bệnh… vì sợ bị tốn tiền. Số tiền dư ra thay vì để chia sẻ giúp đỡ cho người nghèo thì họ lại gửi vào nhà băng hay mua vàng cất giữ. Khó nghèo như thế không mang lại ích lợi cho tha nhân và cũng sẽ không được hưởng lời Chúa chúc phúc.

Tâm hồn nghèo khó không những là sự quảng đại chia sẻ cơm áo tiền bạc vật chất, mà còn gồm cả sự quảng đại chia sẻ cho tha nhân về tinh thần. Chẳng hạn: Dành thời gian nghỉ ngơi để dấn thân làm công tác xã hội như: giúp chống dột, vệ sinh khu vực nhà thờ hay khu phố nên sạch đẹp… Một người dù có nhiều tiền bạc và phương tiện sống vẫn có thể được Chúa chúc phúc nếu biết chia sẻ vật chất tinh thần cho tha nhân, đang khi những kẻ nghèo khó do lười biếng ỷ nại vào người khác giúp đỡ, hoặc tham lam tiền bạc của cải cách bất công… thì cũng không thực sự có đức khó nghèo đáng được Chúa chúc phúc.

4)Các mối phúc đều là kết quả của việc thực hành giới răn “Mến Chúa Yêu Người”:

Mối phúc căn bản của tám mối phúc nói trên chính là lòng vị tha bác ái. Chính tình mến Chúa yêu người sẽ trở thành động lực khiến các tín hữu chúng ta sẵn sàng chịu đựng các sự thiệt thòi và đau khổ do kẻ gian ác gây ra cho mình. Điều quan trọng là chúng ta cần quyết tâm thực hành giới răn mến Chúa yêu người. Nhờ lòng mến mà mọi việc chúng ta làm sẽ được Chúa chúc phúc.

Mỗi mối phúc đều có hai vế: từ nguyên nhân đến hậu quả, từ việc gieo hạt giống đến mùa lúa bội thu; Từ “mình vì mọi người” đến chỗ “mọi người vì mình”; Từ “đi gieo trong nước mắt” đến “sẽ gặt trong vui mừng”… Sự nghèo khó, hiền lành, sầu khổ sẽ trở nên nguồn hạnh phúc nếu chúng ta biết chịu đựng vì lòng mến Chúa yêu người. Nếu không có tình thương làm nền tảng thì các sự nghèo khó, hiền lành, sầu khổ nói trên sẽ là tai họa và hình phạt mà thôi.

4. THẢO LUẬN:

1) Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh ?

2) Khi gặp một sự rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do người khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào ?

3) Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến sự rủi ro trở thành may lành, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa ?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong tám mối phúc thật Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa, nên sẽ cầu nguyện không ngừng; Là người ý thức về sự bất lực của mình, nên không bao giờ khinh dể tha nhân nhưng luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường noi gương Chúa khi xưa.

- LẠY CHÚA. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh đầu lên cao thì lại càng có ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH -  HHTM

----------------------------------

 

TN 4-A77. HẠNH PHÚC


Chúa Nhật 4A Thường Niên

 

Hạnh phúc là một huyền nhiệm.   Đó là động lực và mục đích cuộc đời.   Nhân loại không ngừng: TN 4-A77


Hạnh phúc là một huyền nhiệm.   Đó là động lực và mục đích cuộc đời.   Nhân loại không ngừng tìm kiếm hạnh phúc.   Nhưng hạnh phúc vẫn xa tầm tay.  Đức Giêsu mạc khải cho mọi người biết hạnh phúc nằm ngay trong đời thường.

SĂN TÌM HẠNH PHÚC.

Đức Giêsu không thể không đề cập vấn đề hạnh phúc.   Nhưng khác hẳn mọi người, Đức Giêsu mách lối đi đến hạnh phúc theo một chiều hướng nghịch thường.   Thoạt nhìn cứ tưởng “Người mất trí,” (Mc 3:21) hay khinh thế ngạo vật.   Trong khi ai cũng tránh đau khổ, nghèo đói, chết chóc, Đức Giêsu như muốn con người khai quật hạnh phúc từ những khốn cùng đó của kiếp người.   Tại sao dưới mắt Đức Giêsu, hạnh phúc lại mang một chiều kích lạ kỳ vậy ?

Hạnh phúc đích thực phải là trạng thái của một con người hoàn toàn tự do.   Còn bị lệ thuộc là còn bất hạnh.   Bởi thế, khi thoát ly khỏi mọi ràng buộc trần gian, con người sẽ hoàn toàn hạnh phúc.   Dĩ nhiên, con người không thể không cần tiền bạc, an ninh, quyền lực … Thế nhưng, lệ thuộc vào những thực tại trần gian đó, con người sẽ đánh mất tự do, một điều kiện căn bản vô cùng cần thiết cho hạnh phúc.   Đó là lý do tại sao Đức Giêsu muốn giải thoát con người khỏi tất cả những ràng buộc phi lý.  Phi lý vì có thể trở thành chướng ngại vật trên bước đường tìm kiếm hạnh phúc. 

Ai có thể đạt tới mức tự do đó, nếu không phải là Đức Giêsu ?   Nói khác, chỉ một mình Người mới là con người hoàn toàn hạnh phúc.   Thật vậy, ai có thể nói được như Người: “Cáo có hang, chim có tổ, Con người không có chỗ dựa đầu” ? Chính Người là người nghèo đích thực của Thiên Chúa.   Chính khi bị khinh chê, bóc lột, đau khổ cùng cực trên thập giá, Đức Giêsu đã trở thành sức mạnh giải thoát cho toàn thể nhân loại.    Bởi thế, chỉ khi nào khó nghèo như Thầy chí thánh, người môn đệ mới có thể thỏa mãn những đòi hỏi cần thiết để đạt hạnh phúc cho bản thân và tha nhân.   Đó là một cuộc giải thoát hoàn toàn.

Cuộc giải thoát hoàn toàn đó chỉ có thể thực hiện trong Nước Trời, nhất là vào thời cánh chung. Không ai có thể thực hiện cuộc giải thoát cuối cùng đó ngoài Giavê.    Chỉ những ai có tầm nhìn xa mới có thể thấy được tất cả lý do và động lực cho cuộc chiến chống lại ác thần hiện tại, kẻ đang vận dụng mọi bất hạnh để đầy đọa con người. Trái lại, Đức Giêsu đã dùng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”.  Người biến những bất hạnh đó thành lợi khí chinh phục hạnh phúc.  Những người nghèo đói, sầu khổ, bị bách hại, vu khống đều được mời gọi tham dự vào hạnh phúc cánh chung. Họ có thể “xoay bạch ốc thành lâu đài”, nếu tin tưởng tuyệt đối vào lời Thiên Chúa hứa.  

Lời hứa đó đang thực hiện nơi Đức Giêsu.   Chính Người đã mặc lấy thân phận khốn cùng của kiếp người.   Nhưng cũng chính từ thân phận khốn cùng đó, Người đã mạc khải tất cả sức mạnh của Thiên Chúa.   Chính thánh ý Chúa Cha hướng dẫn Người tìm ra sức mạnh đó.   Rời bỏ thánh y đóù, chắc chắn Người sẽ chỉ “trách lẫn trời gần trời xa” như mọi người thôi.   Như Môsê, Người đã tìm được con đường giải thoát, không phải cho một dân tộc, nhưng toàn thể nhân loại.   Con đường đó nằm ngay trong lòng tin vào Thiên Chúa.   Quả thực, không có niềm tin, không thể hiểu nổi ý nghĩa và giá trị tám mối phúc.   Niềm tin đó mời gọi con người đặt tất cả hi vọng vào lời Thiên Chúa cứu độ. Lời hứa là lý do và nền tảng cho từng mối phúc.   Nói tóm, không có lời hứa đó, mối phúc trở thành vô nghĩa và vô giá trị.

Thế nên, chính khi sống mối phúc đó là đang góp phần thực hiện lời hứa cứu độ cho toàn thể nhân loại.   Mỗi mối phúc như phản ánh cuộc đời Đức Giêsu trước và sau Phục sinh.  Trước Phục sinh, cả một màn đêm bao trùm cuộc đời Đức Giêsu.   Thánh giá sẽ trở thành phi lý nếu không dẫn đến Phục sinh.   Cũng thế, mối phúc sẽ trở thành mối họa, nếu không có lời hứa kèm theo.  Con người sẽ đón nhận những vinh dự hay phần thưởng lớn lao.   Họ sẽ trở thành con Thiên Chúa, được chính Thiên Chúa ủi an, xót thương và cho thỏa chí toại lòng vì được “nhìn thấy Thiên Chúa,” (Mt 5:8) Đấng quan phòng tất cả trong tình yêu và thượng trí tuyệt vời.

Đó là lý do tại sao thánh Phêrô nói: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu.” (1 Pr 4:13)    Nơi Đức Kitô, chúng ta mới thấy rõ: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan …” (1 Cr 1:27)  Thiên Chúa an bài mọi sự để tất cả được tìm thấy trong Đức Giêsu Kitô, “Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa,” (1 Cr 1:30) chứ không phải mất trí hay điên dại như có người lầm tưởng.   Chính nhờ sự khôn ngoan đó, Thiên Chúa “đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và cứu chuộc anh em.” (1 Cr 1:30)  

CUỘC SỐNG HUYỀN NHIỆM.

Chỉ những ai được kêu gọi để hưởng ơn cứu độ mới có thể hiểu được huyền nhiệm của tám mối phúc.   Trong từng mối phúc, người Kitô hữu thấy như nổi cộm lên tất cả vẻ huyền nhiệm cuộc đời Đức Giêsu.   Ai có thể thấy được huyền nhiệm ấy, nếu không tin rằng: “Chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu” (1 Cr 1:30) và được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện chương trình cứu độ.

Tất cả sức mạnh cứu độ nhân loại nằm trong tay Thiên Chúa, chứ không phải phàm nhân.   Chính vì không có niềm tin nơi Thiên Chúa, nhiều người mới đặt tất cả hi vọng vào chính trị, kinh tế, quân sự như những sức mạnh vạn năng cứu thoát nhân loại khỏi mọi khốn cùng trong thân phận làm người.   Họ đồng hóa sự khôn ngoan với tiền bạc, quyền lực, danh vọng.   Thực tế, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải thoát đem lại niềm hi vọng cho con người.   Chính vì thế,  trong ngày bổ nhiệm ông Jim Towey làm giám đốc văn phòng đảm trách triển khai những sáng kiến bác ái dựa trên niềm tin, tổng thống Bush mới nói: “Có những điều quan trọng hơn các đảng phái chính trị, và một trong những điều quan trọng hơn những đảng phái chính trị là góp tay cứu vãn vận mệnh dân tộc.   Không có gì quan trọng hơn việc giúp cho những người thất vọng thấy niềm hi vọng, những người nghiện ngập thấy một cuộc sống tốt đẹp hơn.” (CWNews 1/2/2002)   Một người đang nắm quyền lực cao nhất nước dẫn đầu thế giới lại không đặt tất cả niềm tin vào chính trị.  Trong khi đó, biết bao người đang mù quáng tôn sùng chính trị như một quyền lực vạn năng.   Ông tung ra những sáng kiến khác hẳn những kẻ ồn ào cổ động giúp người già chết êm dịu hay những người trẻ phá thai. 

Chắc chắn không thể phục hồi niềm hi vọng nơi những người đau khổ và cùng khốn, nếu không giúp họ nhìn xa hơn những giới hạn của kiếp người hiện tai.    Ai có thể đem lại niềm hi vọng cho con người ?  Ai có thể phá tung những giới hạn đó, nếu không phải là Đức Giêsu Kitô.   Quả thế, “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) khỏi cảnh nô lệ trần gian và chính bản thân.  Nhờ đó, chúng ta được “đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái” (Cl 1:13) và “trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng.” (Cl 1:12)    

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

----------------------------------

 

TN 4-A78. Hạnh phúc

 

Có thể một lần nào đó, chúng ta đã buột miệng khen là hạnh phúc những kẻ di chuyển trong những TN 4-A78 Lượng


Có thể một lần nào đó, chúng ta đã buột miệng khen là hạnh phúc những kẻ di chuyển trong những chiếc xe bóng loáng, những kẻ ở trong những ngôi biệt thự nguy nga, những người quyền cao chức trọng. Và quả là bất hạnh cho những người nghèo khổ, thiếu thốn mọi sự, những người cô thế bị trù dập.

Thế nhưng những lời tuyên bố của Chúa Giêsu hôm nay, hẳn phải làm chúng ta sửng sốt. Bởi vì những người được Người chúc phúc lại là những người nghèo khổ hiền lành, đau buồn, đói khát và bị bách hại. Phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một kẻ mị dân hay là một người lập dị?

Thánh Phaolô trong bài đọc II đã suy nghĩ về thái độ của Chúa Giêsu và đã thốt lên: Những gì người đời cho là điên dại, hèn yếu lại chính là những gì Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Xa xưa trong quá khứ, tiên tri Sophonia đã loan báo về sự chở che của Thiên Chúa đối với người hiền lành và khiêm tốn. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu không thể được coi như những lời chúc phúc bình thường theo kiểu chúng ta cầu chúc cho nhau thoát khỏi cơn hoạn nạn. Lời cầu chúc có thể là thành tâm nhưng lại bất lực trong việc biến đổi hoàn cảnh của kẻ khác. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu là những lời tuyên bố, những lời hứa thực hiện, tỏ bày sự chọn lựa của Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia: Thiên Chúa đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.

Nghèo khó phải chăng là một thứ công nghiệp đáng được khen thưởng? Không phải vậy, có thể trong ngôn ngữ tôn giáo, chúng ta đã nói nhiều đến thưởng phạt, nhưng Chúa Giêsu lại muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa chọn người nghèo khổ vì chính hoàn cảnh thua thiệt đó đối với Chúa lại là hoàn cảnh thuận lợi để Ngài  thi thố lòng yêu thương quảng đại của Ngài.

Điều Thiên Chúa muốn nhắm tới chính là mối liên hệ tình nghĩa giữa Ngài và con người. Ngài muốn cho chúng ta nhận ra rằng chính Ngài là nền tảng hạnh phúc đích thực và bền chắc của con người. Chúa Giêsu không phải chỉ dạy chúng ta một lối sống luân lý để rồi Thiên Chúa sẽ dựa vào việc người ta có sống hay không sống theo mẫu mực luân lý ấy mà thưởng hay phạt. Chúa Giêsu là Đấng trước hết thực hiện chương trình cứu chuộc, công trình giải phóng, đem lại hạnh phúc đích thực cho con người, và con người được mời gọi sống xứng đáng ơn huệ đã được ban cho.

Chúng ta hãy thực thi tinh thần của Chúa để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận niềm hạnh phúc Chúa đã hứa ban.

----------------------------------

 

TN 4-A79. Sự khiêm tốn - Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Truyện kể: Một hôm, vào ngày lễ thánh Têrêxa, một nhà Dòng kín mở cửa cho bà con thân thích vào TN 4-A79


Truyện kể: Một hôm, vào ngày lễ thánh Têrêxa, một nhà Dòng kín mở cửa cho bà con thân thích vào thăm. Các tín hữu xóm làng cũng lợi dụng cơ hội để vào xem nếp sống của các nữ tu chuyên hãm mình cầu nguyện. Một trong số những người hiếu kỳ không thể hiểu được lý do của cuộc đời tu trì khắc khổ. Có ông nghĩ bụng rằng: Hẳn đây là những người nghèo khổ không có đủ cơm ăn áo mặc. Chỉ có hạng người xấu số mới có can đảm hiến thân sống khó khăn như vậy. Rồi ông lân la nói truyện với một chị nữ tu đang tuổi xuân thì. Chỉ vào một tòa nhà đồ sộ nằm phía bên kia nhà dòng, ông nói: Này chị, giá chị có được một tòa nhà giầu sang như vậy, với những lạc thú người ta đang vui hưởng trong nhà ấy, chị có thể hy sinh để chôn mình vào bốn bức tường nhà kín này được không? Chị nữ tu kia giơ tay vuốt chiếc lúp trên đầu, nhìn ra và trả lời với một nụ cười đơn sơ chân thành: Thưa ông, đó chính là nhà của tôi.

Của cải trần gian không là cùng đích của cuộc sống nhưng chỉ là phương tiện. Sự giầu có của cải chưa chắc đã mang lại sự hạnh phúc và niềm vui an lạc cho cuộc đời. Có một điều gì đó cao quí hơn gấp bội những danh vọng, tiền bạc và thú vui trần đời. Tiên tri Sôphônia đã mở cửa dẫn chúng ta vào con đường hạnh phúc: Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả những người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Thiên Chúa (Soph 2,3). Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Ngài sẽ ban cho. Tìm kiếm Chúa là nguồn sự khôn ngoan. Thiên Chúa là chủ tể của toàn thể vũ trụ bao la vô tận. Trong khi con người chỉ sở hữu một mảnh không gian nhỏ nhỏ và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển tự nhiên của không gian và thời gian. Thế mà có nhiều người dám tự đắc kiêu ngạo khoe khoang chối bỏ sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa.

Thiên Chúa tao dựng con người có xác hồn, có ý chí và tự do. Con người biết suy tưởng những sự cao siêu nhưng rất giới hạn. Càng suy, tâm trí con người càng chìm sâu vào biển cả mầu nhiệm cao siêu. Sự hiểu biết của tâm trí con người thật bé nhỏ và giới hạn trong mọi lãnh vực. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường biết nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình mới có thể đào sâu ý nghĩa đích thực của sự sống. Sôphônia đã nhận biết giá trị của đức khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa thích kẻ kiêu căng, Ngài lật đổ những người quyền thế: Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào danh Chúa (Soph 3, 12). Sự khiêm tốn không phải là sự hèn nhát và yếu đuối, nhưng là một nhân đức. Khiêm tốn là một năng lực kỳ diệu thắng mình và thắng người. Kẻ khiêm nhu có thể đối diện được với tất cả mọi trạng huống của cuộc sống. Người biết sống khiêm hạ sẽ dễ dàng thuyết phục tâm tư của người đời.

Thiên Chúa đứng về bên những người nghèo khổ, cô đơn, khiêm hạ và chân thành. Đường lối của Chúa đi ngược lại với những tham vọng của con người. Chúa Giêsu xuống thế làm người đã chọn đi con đường nghéo khó và khiêm nhượng. Thiên Chúa cao cả hạ thân xuống cùng tận của sự khó nghèo và từ đó, Thiên Chúa đưa dẫn loài người lên chức bậc làm con Chúa. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã diễn tả: Những điều thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi (1Cor 1, 27). Sự khôn ngoan của thế gian là tìm thỏa mãn những ước mơ, đòi hỏi và tham vọng của tâm trí để đặt con người lên làm chủ mọi loài. Đã qua bao nhiêu thế hệ, sự hiểu biết về vũ trụ và sự sống cũng chỉ như giọt sương mai.

Thánh Phaolô mời gọi như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa (1Cor 1, 31). Tự hào trong Chúa có nghĩa là tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua mạc khải, chúng ta học biết lẽ sống và cùng đích của con người và vạn vật. Câu truyện về Kinh Thánh: Một vị tuyên úy trên bãi chiến trường đã đến gặp một người lính trẻ bị thương đang ẩn núp dưới hầm. Vị tuyên úy hỏi: Anh muốn tôi đọc vài đoạn trong cuốn sách Kinh Thánh này không? Người thương binh nói: Tôi đang qúa khát. Tốt hơn hãy cho tôi một chút nước. Vội vàng, vị tuyên úy mang cho anh chút nước. Anh thương binh nói: Cha có thể đặt cái gì đó dưới đầu của tôi không? Tuyên úy cởi áo choàng, cuộn lại và nhẹ nhàng đặt dưới đầu của anh ta như chiếc gối. Bây giờ, cha có thể phủ trùm thân tôi vì tôi đang lạnh run. Tuyên úy cởi cả áo ngoài và đắp cho anh ta để giữ ấm. Anh thương binh nhìn thẳng vào mắt vị tuyên úy và nói: Nếu có bất cứ điều gì mà cuốn sách đó đã thúc đẩy một người thi hành giúp người khác những điều mà cha đã làm cho tôi, vậy làm ơn đọc lời Kinh Thánh, bởi vì tôi mong muốn được nghe lời đó. Kinh Thánh là lời của sự khôn ngoan. Nghe, đọc Lời Chúa và đem ra thực hành thì như người xây nhà trên đá tảng vững chắc.

Bài giảng trên núi nói về Tám Mối Phúc Thật là một lời mời gọi lội ngược dòng. Những điều Chúa Giêsu giảng dạy qua tâm từ bi phản ánh một sự khiêm nhu thật sự. Chúa chúc phúc cho nhưng tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, lòng trong sạch, ăn ở thuận hòa và chịu sự bách hại vì lẽ công chính, họ sẽ được no hưởng niềm vui của Nước Trời. Tám Mối phúc thật là Kim Chỉ Nam sống đạo và là các nhân đức cao qúy cần thực hành. Đường dẫn vào Nước Trời có rất nhiều nẻo. Mỗi nẻo đường đều cần có đức khiêm nhượng làm căn bản. Trong sự phấn đấu để nên trọn lành, tâm hồn chúng ta cần có sự kiên tâm, nhịn nhục và hạ mình. Chịu mất mát thua thiệt để chiến thắng. Người ta thường nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.

Càng ở chức vụ cao, càng phải khiêm hạ phục vụ. Sự giầu có trong của cải, danh vọng và địa vị là dấu chỉ được chúc phúc. Người giầu có cần chia sẻ cho những người túng thiếu. Người giầu có của cải vật chất vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. Họ biết dùng của cải đời tạm này như phương tiện phục vụ. Tiền cho đi là đồng tiền có giá trị cả lượng lẫn phẩm. Chúa Giêsu phán dạy: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ (Mt 5, 3). Người nghèo dễ có tâm tình khiêm nhượng hơn, vì họ không cậy dựa vào chính họ. Người nghèo là người thấp cổ bé miệng dễ bị đàn áp và bóc lột, nên họ cần được sự bao vệ chở che và giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng đã trải nghiệm đời sống trong cảnh nghèo. Sống khó nghèo là một nhân đức. Một trong ba lời khấn quan trọng của các tu sĩ dòng là lời khấn sống khó nghèo. Chúng ta biết khi buông bỏ được sự tham lam tiền của và danh vọng, cuộc sống sẽ thanh thản hơn. Các tu sĩ không giữ tiền bạc làm của riêng, nhưng chia sẻ đời sống cộng đoàn để cùng nâng đỡ lẫn nhau.

Sống nhân đức khiêm nhượng cũng đòi hỏi sự từ bỏ ý riêng của mình. Hãm bớt cái ‘tôi’ kiêu căng, tham lam và độc tài. Khi biết bước xuống là chúng ta đang tiến lên một bước. Hạ mình xuống, chúng ta không đánh mất mình, nhưng là cơ hội để nhận diện chỗ đứng của mình rõ ràng hơn. Kinh nghiệm thực tế, chẳng khi nào chúng ta sống khiêm tốn cho đủ. Đôi khi chúng ta nhận định để tự an ủi rằng: Nhìn lên tôi chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống tôi cũng còn hơn nhiều người. Biết rằng mỗi người đều có cá tính riêng biệt. Chúng ta không thể so sánh hay xếp loại vị thế. Sự khiêm nhường không cần thứ bậc trong phục vụ, nếu làm được việc gì giúp ích cho đồng loại, chúng ta cố gắng sẵn sàng.

Lạy Chúa, đôi khi chúng con muốn đến để đựơc phục vụ thay vì phục vụ tha nhân. Chúng con muốn ăn trên ngồi trốc và ra lệnh điều khiển hơn là bỏ công sức phục vụ. Xin cho chúng con học biết thái độ khiêm tốn để phục vụ tốt cho anh chị em.

----------------------------------

 

TN 4-A80. ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO CÁC MỐI PHÚC


(Mátthêu 5,1-12 – CN IV TN - A)

 
1.- Ngữ cảnh

 

Bốn chương đầu của Tin Mừng Mátthêu là phần mở đầu (chính xác là đến 4,16). Với chương 5, TN 4-A80 Dalat


Bốn chương đầu của Tin Mừng Mátthêu là phần mở đầu (chính xác là đến 4,16). Với chương 5, chúng ta bắt đầu thấy Đức Giêsu đi hoạt động công khai. Một câu hỏi được nêu lên: Đức Giêsu có gì cống hiến cho nhân loại? Khởi đầu hoạt động công khai là một câu trả lời cho câu hỏi ấy.

       “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê/các thành thị, làng mạc/ giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này. Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).

       Chắc chắn Bài Giảng trên núi cũng diễn tả Tin Mừng về Nước Trời: đề tài Nước Trời là một trong những điểm nhấn mạnh của Bài Giảng. Ngay ở câu đầu của Bài Giảng, ta đã được đặt trong quan hệ với Nước Trời, với Mối Phúc đầu tiên (5,3; về Nước Trời, xem cả 5,10.19 (2 lần); 6,10.33; 7,21). Bài “huấn giáo” này (tức Bài Giảng trên núi) là một phần nối dài của kêrygma về Nước Thiên Chúa.

Bài Giảng trên núi bắt đầu với 8 Mối Phúc (hoặc là 9, nếu đếm các cụm từ “Phúc thay”; nhưng thật ra “Mối thứ 9” chỉ diễn nghĩa thêm cho Mối 8). Các Mối Phúc này xác định chiều hướng hoạt động của Đức Giêsu.
 
2.- Bố cục

       Đoạn văn này chỉ là phần mào đầu đưa vào Bài Giảng trên núi (ch. 5–7). Từ dikaiosynê (“đức công chính”) cắt các Mối Phúc thành hai nhóm (ở c. 6 và c. 10), mỗi nhóm 4 Mối Phúc. Do đó, ta thể phân bố cục cho bản văn hôm nay như sau:

1) Mở (5,1-2);
2) Nhóm thứ nhất các Mối Phúc (5,3-6);
3) Nhóm thứ hai các Mối Phúc (5,7-10);
4) Diễn nghĩa cho Mối Phúc cuối cùng (5,11-12).
 
3.- Vài điểm chú giải

- Phúc thay (3): Makarios, “có phúc” (blessed) dịch từ ngữ Híp-ri ’ashrê của Kinh Thánh Híp-ri (45 lần). Khác với từ ngữ Híp-ri bơrakhah (“phúc lành”, blessing) là một lời hướng về tương lai để thực hiện điều nó diễn tả, “mối phúc” (beatitude), được diễn tả bởi một câu bắt đầu bằng makarios (hay ’ashrê), là một tuyên bố về hạnh phúc trong hiện tại. Điểm này còn được hỗ trợ bởi ngữ pháp. Trong vế thứ nhất của các Mối Phúc trong Tin Mừng, không có động từ: trong Hy-ngữ, một câu như thế chỉ có thể có một ý nghĩa ở hiện tại mà thôi.

- Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó (ptochoi tô pneumati, 3): Câu này có nghĩa là “nghèo khó về phương diện tinh thần”. Đây là những người nhận biết mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, nên cũng biết phó thác trọn vẹn cho Người (tương tự các ânâwim trong Cựu Ước). Chúng ta có những điển hình là chính Đức Giêsu (x. Mt 11,29) và các trẻ em (x. 18,4). Có thể nói Mt 5 (bài diễn từ đầu tiên của Mt) và Mt 23 (Bài diễn từ cuối cùng) là hai chương ở thế song đối đối nghĩa.

- Phúc thay ai hiền lành (praeis, 4): Câu này có ý nghĩa tương tự Mối Phúc thứ nhất. Trong Tv 37,11, từ ngữ praeis được dùng để dịch từ Híp-ri ânâwim (x. Tv 25,9ab; 34,3; 76,10; 147,6; 149,4). Từ ngữ praüs diễn tả sự hạ mình, sự khiêm nhường của Đấng Mêsia (x. Mt 21,5). Vậy đây vẫn là một cách thức sống trước nhan Thiên Chúa, trước khi là cách thức sống các tương quan với người khác. Mối Phúc này không phải chỉ lặp lại Mối Phúc đầu, nhưng thêm vào một vài sắc thái mới: người hiền lành thì không nổi giận, không gây áp lực với Thiên Chúa, bình thản, chấp nhận thì giờ và cách thức của Thiên Chúa. Đây cũng là một người đầy nghị lực.  

- Phúc thay ai sầu khổ (penthountes, 5): Đây là những người đang sống một nỗi buồn sầu lớn lao (penthos, “một nỗi đau buồn rất lớn”) trong thái độ tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Đặt liên kết với 9,15 (động từ penthein, “chịu phiền sầu”), câu này còn có thể có nghĩa là: họ đau buồn vì thấy trong xã hội, Đức Kitô và Thiên Chúa còn “vắng mặt”; hoặc: họ đau buồn vì thế giới chúng ta quá ít mở ra với những giá trị thiêng liêng, những giá trị của Nước Trời. 

- Phúc thay ai khát khao nên người công chính (6): Mối Phúc này được diễn tả dưới hai dạng (cc. 6 và 10) và chia tám Mối Phúc đầu thành hai đoạn, mỗi đoạn bốn câu. Từ ngữ dikaiosynê cũng là một từ ngữ quan trọng trong Bài Giảng. Dựa theo năm chỗ khác trong Mt nói đến “đức công chính (3,15; 5,20; 6,1.33; 21,32), ta thấy rằng đức công chính đây là một cách xử sự của con người phù hợp với những gì Thiên Chúa muốn. Thực thi đức công chính là sống phù hợp với ý muốn của Chúa Cha như Đức Giêsu giảng dạy (Có thể liên kết “làm [poiein] sự công chính” [6,1] với “làm [poiein] ý Cha Thầy [7,21] và “làm [poiein] các lời của Thầy” [7,24]). Và sự công chính phải thực thi vừa liên hệ tới các tương quan với Thiên Chúavà tương quan với kẻ khác.  

- Phúc thay ai xót thương người (eleêmones, 7): Trong tiếng Híp-ri, re[k]hem có nghĩa là “dạ mẹ”và “lòng thương xót”. “Có lòng thương xót” là đau “lòng” truớc một hoàn cảnh tiêu cực. Những người có lòng thương xót là những người thực sự mở lòng ra với kẻ khác và làm những cử chỉ để xoa dịu nỗi cùng quẫn của họ. Có hai cách xoa dịu: (1) trợ giúp cảnh túng quẫn (x. 25,31-46: sáu hoàn cảnh khốn cùng cần được trợ giúp theo quan điểm Do-thái giáo, tượng trưng cho mọi cảnh khốn cùng); (2) tha thứ (x. 18,23-35, đặc biệt c. 27: “đau lòng”, “chạnh lòng thương). Xem thêm 9,13; 12,7, và nhất là 23,23 (Mối Phúc “ngược”).

- Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch (katharoi tê kardia, 8): Công thức của Mối Phúc thứ sáu này dường như phát xuất từ Tv 24,4-6 (“Kẻ tay sạch lòng thanh…”. Xem thêm Tv 15,1-2; 51,12; 73,13). Đây là những người trong lòng không có sự xảo trá gian tà, luôn tìm kiến điều thiện hảo, ngay thẳng và chân thật đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đây là những người sống một sự hài hòa giữa những gì họ nghĩ, nói và làm, tức những người “trung thực”: Họ vừa “chân thành” vừa ra sức tìm kiếm chân lý và sự ngay thẳng trong các tương quan với Thiên Chúa và với những người khác, vừa tìm cho có sự trong suốt trong lối sống và trong hành động.

- Phúc thay ai xây dựng hoà bình (eirênopoioi, 9): Công thức “làm hòa bình” chỉ xuất hiện một lần trong Cựu Ước (Cn 10,10 LXX), nhưng rất thông dụng trong các tác phẩm của Do-thái giáo. Đây là làm việc để giao hòa những người đang xung đột với nhau. Ngược lại, danh từ shâlôm (“hòa bình”) được sử dụng rộng rãi trong Cựu Ước, không chỉ với ý nghĩa là “sự ổn định chính trị”, mà còn có nghĩa là “sự phát triển toàn diện con người và các tập thể”. Vì thế, từ ngữ này được dùng để diễn tả kỷ nguyên thiên sai, và còn được dịch là “ơn cứu độ” (x. Is 54,10; Đấng Mêsia được gọi là “Hoàng tử hoà bình”: Is 9,5-6; x. Mk 5,4; Dcr 9,10). “Những người xây dựng hòa bình” không có nghĩa là những người có tính khí an hòa, nhưng là những người “tích cực thiết lập hoặc tái lập hòa bình tại những nơi đang có chia rẽ” (J. Dupont). Có hai cách: (1) mời gọi giao hòa (x. Mt 5,23-24); (2) cổ võ nên công lý nhân bản toàn diện (nghĩa xã hội): không chỉ cố gắng kiến tạo một xã hội vắng bóng chiến tranh, chia rẽ, nhưng còn là một xã hội trong đó mỗi người được hưởng những điều kiện thuận lợi mà tăng trưởng về nhân bản và tinh thần.

- Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính (10-11): Mối Phúc cuối cùng này được trình bày dưới hai hình thức (cc. 10 và 11-12), tuyên bố rằng phúc cho những ai chịu bách hại vì dấn thân sống phù hợp với những gì Thiên Chúa muốn. Hình thức thứ nhất áp dụng cho bất cứ người nào đang bị bách hại vì những xác tín tôn giáo của mình. Hình thức thứ hai, dài hơn, dành cho các môn đệ của Đức Giêsu đang bị bách hại nhiều cách (x. 10,17-25; 24,9): họ có phúc không do bị bách hại, nhưng do trung thành với Đức Giêsu khi phải chịu đau khổ vì Người.
 
4.- Ý nghĩa của bản văn

Mỗi Mối Phúc có ba phần. Phần đầu là lời công bố Mối Phúc. Phần hai nói về người được đón nhận Mối Phúc. Và phần ba là nền tảng của Mối Phúc (= Mối Phúc ấy dựa trên điều gì). Nền tảng này luôn luôn là một hành động của Thiên Chúa, được khẳng định vững vàng và được đoan hứa chắc chắn. Còn người được hưởng Mối Phúc chính là những người thực hiện một cách sống hay một thái độ được quy định trong Mối Phúc. Họ được tuyên bố là “phúc thay”, bởi vì hành động kia của Thiên Chúa chắc chắn được dành cho họ.

Đức Giêsu không diễn tả các Mối Phúc theo kiểu tình cờ. Người trình bày nền tảng cụ thể của mỗi Mối Phúc. Như chúng ta đã nói, phần thứ ba của mỗi Mối Phúc nói về hành động của Thiên Chúa. Mối Phúc đầu tiên và Mối Phúc thứ tám có cùng một nền tảng: “vì Nước Trời là của họ”. Mt nói về Nước Thiên Chúa chỉ trong một vài đoạn; thông thường tác giả dùng thành ngữ “Nước Trời” là kiểu nói của người Do-thái thời đó. “Nước Thiên Chúa” và “Nước Trời” có ý nghĩa như nhau: không có nghĩa là một lãnh thổ hay một nơi chốn, mà là quyền chúa tể của Thiên Chúa được tỏ bày ra trực tiếp rõ ràng. Vậy “Nước Trời là của họ” có nghĩa là Thiên Chúa với quyền chúa tể là của họ; đây không phải là quyền thống trị của một bạo chúa, mà là hành động quan phòng nhân hậu của một vị Mục tử. Người sẽ chứng tỏ rằng Vương quyền của Người vượt trên mọi thế lực hiện đang thống trị. Những ai sống theo lời Đức Giêsu dạy sẽ thuộc về Người, còn Người, đầy quyền năng và nhân ái, Người sẽ là của họ. Mối Phúc hoàn toàn dựa trên sự hiện diện trong uy quyền và nhân ái của Thiên Chúa. Chính vì thế thành ngữ “Nước Trời” được nói đến ở Mối Phúc đầu và Mối Phúc cuối như một lời mở và kết luận, và có giá trị cho tất cả các Mối Phúc khác[1][1].

Trong phần thứ ba của các Mối Phúc khác, Đức Giêsu diễn tả cho thấy sự hiện diện ấy của Thiên Chúa được bày tỏ ra thế nào, hành động với chúng ta thế nào để ban hạnh phúc cho chúng ta. “Họ được an ủi” có nghĩa là: Thiên Chúa sẽ an ủi họ. Tiếp theo là một loạt những hành động của Thiên Chúa nhằm ban ân huệ cho chúng ta và thỏa mãn mọi ước muốn của chúng ta: Thiên Chúa, như Người Cha của họ, sẽ ban cho họ đất hứa làm gia nghiệp. Thiên Chúa sẽ cho họ được thỏa lòng. Thiên Chúa sẽ thương xót họ. Thiên Chúa sẽ cho họ được trực tiếp nhìn thấy Người. Thiên Chúa sẽ gọi họ là con cái, sẽ đón tiếp họ vào gia đình của Người. Sứ điệp về các Mối Phúc trước tiên là một sứ điệp về Thiên Chúa. Trên nền tảng là sự hiểu biết của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta cách thức Thiên Chúa sẽ hành động với loài người. Chúng ta càng tin và hiểu Thiên Chúa là ai và cách thức Ngài hành động với loài người, chúng ta càng cảm nghiệm được sức mạnh tuyệt vời của Tin Mừng này.

Nhưng Thiên Chúa không muốn chúng ta thụ động; Ngài không muốn rằng đối với chúng ta chuyện gì cũng vậy thôi, hướng theo chiều nào cũng thế cả, sống theo cách nào cũng như nhau! Bởi thế, trong phần thứ hai của mỗi Mối Phúc, Đức Giêsu chỉ cho con người cách sống đúng đắn mà họ cần theo, cách thức họ phải mở ra với hành động của Thiên Chúa để hành động ấy có thể đến được với họ. Từ sự nghèo khó trong tâm hồn đến những bách hại vì sống công chính, Người nói đến những thái độ giúp cho con người sẵn sàng đón lấy hành động cứu độ của Thiên Chúa.

Yếu tố quyết định là ở lại trong hành động của Thiên Chúa. Đây là đối tượng của Tin Mừng mà Đức Giêsu loan báo; mỗi Mối Phúc đều dựa trên nền tảng này. Nhưng để đón tiếp được hành động này của Thiên Chúa, cần phải có những thái độ và phong cách mà Đức Giêsu đã nói đến.
 
+ Kết luận

Đức Giêsu đã loan báo hạnh phúc trọn vẹn và niềm vui hoàn hảo tám lần liên tục; tám lần không có nghĩa là tám lần lặp đi lặp lại, mà là “sự đầy đủ hoàn toàn”. Như vậy, Đức Giêsu không bắt đầu sứ vụ của Người bằng một giáo huấn hay bằng một lệnh truyền, nhưng đơn giản, bằng sứ điệp về “Hạnh phúc trọn hảo”.

Lời loan báo một hạnh phúc tròn đầy là niềm vui khôn tả và vô biên ùa vào chiếm trọn tâm hồn con người. Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng niềm vui của họ sẽ trọn vẹn và vô biên, nếu nó phát xuất từ hành động nhân ái của Thiên Chúa. Khi đó con người sẽ cảm thấy mình được đáp ứng đúng bản tính của mình, ngoài mọi ước mơ và toan tính. Khi đó sẽ biến mất mọi chán nản mệt nhọc, sẽ không còn có cuộc sống vô ý nghĩa và thất vọng, sẽ không có tình trạng buông xuôi và cay đắng, đau thương và mất mát, khổ sở và buồn phiền. Khi đó chỉ còn có hạnh phúc, sự hài hòa chan chứa và sự đồng tâm vô điều kiện, niềm hân hoan vô bờ và niềm vui sướng dạt dào. Niềm hạnh phúc này không do con ngươi tạo ra và không chấm dứt trong nỗi chán chường thất vọng. Niềm hạnh phúc này cũng không dựa trên ảo vọng và không biến mất khi phải đối diện với thực tại. Đây là niềm hạnh phúc chân thật, vì phát xuất từ Thiên Chúa.
 
5.- Gợi ý suy niệm

1. Bất cứ ai sống trên trần gian đều mong ước co hạnh phúc. Đó là điều người ta cũng thường xuyên cầu chúc cho nhau (vào các dịp đại lễ, dịp đầu Năm Mới…). Đức Kitô đã đến để chỉ cho người ta biết hạnh phúc đích thực nằm ở đâu, ai là những người thật sự hạnh phúc ở đời này.  Không phải những người giàu có, nổi tiếng, oai phong hiển hách, mà là những người nghèo, khiêm tốn, ngay thẳng, biết thương người, xây dựng hòa bình, chịu bách hại… mới hạnh phúc thật. Chẳng phải là Người muốn phá đổ các tiêu chí quen thuộc của loài người để gây chú ý đâu. Người chỉ muốn khẳng định lại cách sống con người phải theo để trở lại đúng với hình ảnh họ đã đánh mất khi phạm tội, để Thiên Chúa lại trở thành tất cả cho con người.

2. Sứ điệp của các Mối Phúc trước tiên là một sứ điệp về Thiên Chúa. Đây là điều Đức Giêsu nhắm khi loan báo lúc bắt đầu sứ vụ công khai: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Sứ mạng của Đức Giêsu là giúp các thính giả nhận biết vị Thiên Chúa chân thật và quay về với Ngài. Các Mối Phúc cho thấy Thiên Chúa là Đấng nào, Ngài hành động ra sao, Ngài chờ đợi điều gì nơi con cái Ngài.

3. Các Mối Phúc công bố những thái độ và cách xử sự con người phải theo để được thuộc về Nước Trời, tức để được sống dưới quyền lãnh đạo của Thiên Chúa. Dựa theo thứ tự các Mối Phúc, chúng ta nhận ra rằng chúng ta được mời gọi luôn mở ra với Thiên Chúa (Mối Phúc 1,2 và 3) và cương quyết thực hiện thánh ý Ngài (Mối Phúc 4), để có thể sống các Mối Phúc dấn thân phục vụ tha nhân (Mối Phúc 5,6 và 7). Khi chấp nhận chịu bách hại (Mối Phúc 8) vì kiên trì sống theo đường lối của Thiên Chúa, chúng ta nên giống Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, và Thiên Chúa sẽ hài lòng về chúng ta như vẫn hài lòng về Con yêu dấu của Ngài (x. 3,17). Thật ra, các Mối Phúc chỉ quy về có một Mối: trở nên giống Đức Kitô, bởi vì Người đã sống trọn các Mối Phúc này.

4. Mỗi Mối Phúc có một ý nghĩa và một tầm mức riêng, nhưng kết hợp với nhau như các yếu tố của một bản giao hưởng, làm nên chương trình sống cho người Kitô hữu. Như những ánh đèn tỏa sáng và hướng dẫn trong đêm tối, các Mối Phúc là những nẻo đường hy vọng cho nhân loại.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm
 
----------------------------------

 

TN 4-A81: Chúa Muốn Con Người Hạnh Phúc


(Mt 5, 1-12a )

 

Chúa nhật thứ IV thường niên A năm nay trùng vào ngày Mùng Hai Tết Nguyên Đán năm 2017, thật TN 4-A81


Chúa nhật thứ IV thường niên A năm nay trùng vào ngày Mùng Hai Tết Nguyên Đán năm 2017, thật là ý nghĩa khi chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng (Mt 5, 1-12a) đọc trong Thánh lễ Giao thừa, chúng ta có thể khẳng định rằng: Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc. Suy diễn này không có quá ảo tưởng, vì vào khởi đầu của Kitô giáo, các thành phần của Giáo hội cũng được gọi là "những người diễm phúc". Thiên Chúa là Hạnh Phúc, Ngài luôn muốn chúng ta hạnh phúc, nên Ngài thi ân giáng phúc cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta không chỉ hạnh phúc tạm thời, mà còn hạnh phúc luôn mãi cả đời này và đời sau. Quả thực, người kitô nhờ Bí tích Rửa tội, được kết hiệp với Chúa Giêsu là Quả Phúc nơi cung lòng Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc, nên chúng ta hạnh phúc là lẽ đương nhiên. 

Ngày đâu năm, chúng ta đã đi chúc tết nhau, ngoài bánh chưng, bánh tét, hoa đào, hoa mai… có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau là bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn... người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.

Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch mọi ân phúc, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh, huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Đoạn Tin Mừng đọc trong Thánh lễ hôm nay minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).

Hạnh phúc thật theo Chúa Giêsu phán trong Tin Mừng (Mt 5:1-12) nghe xong nhiều người không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt, bởi vì những người mà người đời coi là khờ dại, bất hạnh và đáng thương hại theo Chúa Giêsu lại là những người có phúc. Lý do là vì họ sống tinh thần nghèo khó, mặc dù họ giàu sang, có tiền của. Sống tinh thần nghèo khó, không cậy dựa vào tiền của, nhưng phó thác vào quyền năng của Chúa. Họ còn là những người hiền lành, những người đau khổ, những người đói khát sự công chính, những người có lòng trong sạch, những người ăn ở thuận hoà và những người bị bách hại vì lẽ công chính. Đó là những người được Thiên Chúa chúc phúc.

Chúa Giêsu là hiện thận của Chúa Cha là Hạnh Phúc, Người cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc, nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân. Con đường Chúa đã đi khi còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).

Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời ! Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

----------------------------------

 

TN 4-A82: CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A


Xp 2,3.3,12-13; 1 Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a

PHÚC THAY AI CÓ TÂM HỒN NGHÈO KHÓ

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 5,1-12a

(1) Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở miệng dạy họ rằng: (3) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. (4) “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. (5) “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ được Thiên Chúa ủi an”. (6) “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”. (7) “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. (8) “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. (9) “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (10) “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. (11) “Phúc cho anh em, khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.

2. Ý CHÍNH: TÁM MỐI PHÚC THẬT.

 

Mát-thêu gom nhiều điều Chúa Giê-su nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau làm thành “Bài Giảng Trên TN 4-A82


Mát-thêu gom nhiều điều Chúa Giê-su nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay là “Hiến Chương Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay là phần đầu của Bài Giảng Trên Núi, trong đó nêu ra 8 điều kiện mà ai muốn gia nhập vào Nước Trời của Chúa Giê-su phải có, được gọi là Tám Mối Phúc. Chẳng hạn: Tinh thần nghèo khó, nhân đức hiền lành, tâm hồn sám hối, luôn khao khát sống công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, biết ăn ở hòa thuận, bị bách hại vì đức Tin. Ai sống theo 8 tinh thần này thì thật diễm phúc, vì sẽ được làm thành viên của Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3:

+ Đoàn lũ đông đảo: Gồm các tông đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê-a, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính phổ quát của sứ điệp Chúa Giê-su.

+ Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một ngọn đồi ở gần Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng núi để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước cũ và ban Lề Luật cho Ít-ra-en trên núi Si-nai.

+ Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị Thầy khi giáo huấn các môn đồ (x. Mt 13,1).

+ Phúc thay: Đây là kiểu nói thường được sử dụng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giê-su dùng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ… sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai…, đang khi Lu-ca thì viết: Phúc cho anh em... (6,20-26).

+ Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là thái độ khiêm tốn, vô tư như trẻ em và là điều kiện để được gia nhập vào Nước Trời (x. Mt 18,1-11). Nghèo khó cũng đồng nghĩa với tinh thần siêu thoát, sẵn sàng từ bỏ của cải để đi theo làm môn đệ Chúa và sẽ được Nước Trời làm phần gia nghiệp (x. Mt 6,19-21).

- C 4-5:

+ Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và bị thiếu thốn.

+ Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11).

+ sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong chờ ơn cứu độ của dân Ít-ra-en như lời Si-mê-on ca tụng Chúa (x. Lc 2,25).

+ Được Thiên Chúa ủi an: Sự đau buồn này sẽ được Thiên Chúa bù đắp an ủi và còn được xét xử khoan dung trong giờ phán xét sau này.


- C 6-8:

+ Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính nghĩa là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy (1,19; 5,20).

+ Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước trời sẽ là phần thưởng dành cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện.

+ Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri-a nhân hậu đã sẵn lòng giúp đỡ cho kẻ gặp nạn (x. Lc 10,33-37).

+ Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Thương xót và tha thứ cho kẻ khác thì sẽ được Thiên Chúa xót thương tha tội nợ cho mình (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao ?” (Mt 18,32-33).

+ Lòng trong sạch: Trong sạch là ngay thẳng trong lương tâm. Người có lòng trong sạch là người hết lòng phục vụ Chúa và tha nhân, không màng tư lợi, không đạo đức giả. Sự trong sạch ở đây không những hiểu về đức trinh khiết, mà còn về nhiều phương diện khác nữa.

+ Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được gặp mặt Người ở đời sau (x. Dt 12,14).

- C 9-10:

+ Xây dựng hòa bình: Sứ mệnh của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Người tín hữu cần sẵn sàng làm hòa với kẻ đang có điều chi bất bình với mình, để lễ dâng lên xứng đáng được Chúa chấp nhận (x. Mt 5,23-24).

+ Được gọi là con Thiên Chúa: Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống yêu thương thì mới được ở trong Thiên Chúa và nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn họ sẽ được bình an (x. 2 Cr 13,11).

+ Bị bách hại: Bị bách hại là một đặc điểm của Chúa Giê-su, Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn để vào trong vinh quang phục sinh. Đây là một điều khó hiểu, điên rồ đối với người Do thái và khó chấp nhận ngay cả với các môn đệ (x. Mt 16,22).

+ Vì sống công chính: Nghĩa là sống phù hợp với giới răn của Chúa Giê-su (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc !” (1 Pr 3,14).

- C 11-12a:

+ Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đang bị bách hại.

+ Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14).

+ Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Chính khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa, các tín hữu sẽ được nên giống Chúa và sau này còn được vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc với Người.

4. CÂU HỎI:

1) Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trời do Chúa Giê-su thiết lập. Trong Tám Mối Phúc này, mối phúc nào quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác ?

2) So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca giống và khác nhau thế nào ?

3) Tại sao Chúa Giê-su lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi lẽ ra Người phải giúp đỡ người nghèo vượt qua sự nghèo đói bất hạnh ấy để cuộc sống của họ được ấm no hạnh phúc hơn ?

4) Ý nghĩa của các mối phúc khác như thế nào: hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì danh Thầy ?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).

2. CÂU CHUYỆN:

1) AI LÀ NGƯỜI THẬT SỰ HẠNH PHÚC ?

Có một phú ông có rất nhiều tài sản. Một hôm, ông đột nhiên lâm trọng bệnh và gia đình đã mời nhiều bác sĩ tài danh từ khắp nơi trong nước nhưng tất cả bọn họ đều bó tay. Khi ông nhà giàu nằm thoi thóp chờ chết, một vị chân tu từ phương xa đi ngang qua đến thăm và nói với gia đình: "Hãy đi tìm xem có ai thật sự hạnh phúc thì xin cái quần lót của người đó về cho ông cụ mặc thì sẽ khỏi bệnh".

Nghe vậy, mọi người trong gia đình liền chia nhau đi khắp bốn phương để tìm một người hạnh phúc. Tuy nhiên, sau nhiều ngày tìm kiếm khắp nơi, họ vẫn không thể tìm ra người thật sự hạnh phúc. Cuối cùng mọi người đành phải bỏ cuộc trở về nhà. Tuy nhiên, một người con trai của phú ông rất có hiếu. quyết tâm tìm mọi cách để cho cha mình bình phục, nên anh ta đến những nơi xa, quyết tâm tìm cho ra người thật sự hạnh phúc.

Một hôm, anh con trai của phú ông đi ngang qua một cánh đồng cỏ có nhiều chiên đang ăn cỏ và anh nghe thấy có tiếng hát của ai đó. Anh tìm đến nơi phát ra tiếng hát thì thấy một gã mục đồng đang nằm dưới gốc cây đa nghêu ngao hát xướng rất vui vẻ. Anh con trai của phú ông rất mừng khi nhìn thấy anh mục đồng này và lại gần hỏi thăm thì được anh ta cho biết anh luôn cảm thấy rất hạnh phúc trong công việc chăn chiên của mình. Con trai của phú ông liền xin anh ta chiếc quần lót anh đang mặc. Nhưng bị tù chối. Cuối cùng anh con trai phú ông phải dùng sức mạnh cưỡng đoạt. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy gã chăn chiên lại quá nghèo đến nỗi: Ngoài chiếc quần rách đang mặc, anh ta không mặc thêm một chiếc quần đùi nào khác!!!
2) GƯƠNG KHÓ NGHÈO CỦA THÁNH PHAN-XI-CÔ

Phan-xi-cô thành At-si (Phanxicô Assise) là con một quý tộc giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ và tình cờ nghe một vị linh mục giảng về Tám mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa Giê-su: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Từ hôm ấy, Phan-xi-cô thường suy nghĩ phải sống thế nào để thực thi ý Chúa, và trở thành một người nghèo thực sự ? Rồi một ngày nọ, anh quyết định sống siêu thoát từ bỏ và hoàn toàn tin cậy vào Chúa quan phòng. Anh bán tất cả gia sản của cha, rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đến tai người cha khiến ông nổi cơn lôi đình. Ông đã đến thu lại tất cả những gì còn sót lại của Phan-xi-cô và không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Hôm ấy anh đã cởi bỏ các thứ quần áo giầy dép quí giá đang mang trên người và ra đi với hai bàn tay không. Anh viết trong nhật ký: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có người Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”.

Từ hôm đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã lựa chọn, là từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày anh mặc quần áo vải thô, chân không giày dép đi qua các con đường phố xá và làng mạc để khất thực. Tối đến, anh lại thức khuya để đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng dây da tự đánh vào người để hãm mình phạt xác. Anh đã được Chúa Giê-su cho in năm dấu thánh trên hai bàn tay bàn chân và cạnh sườn để nên giống Chúa chịu đóng đinh. Anh đã thực hành theo Lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Lối tu luyện khổ hạnh của anh đã được Giáo Hội công nhận và dòng “Anh em hèn mọn” do anh sáng lập đã được nhiều người xin gia nhập, trở thành một dòng tu lớn trong Giáo Hội. Sau khi qua đời, anh đã được Giáo Hội phong hiển thánh. Đó là thánh Phan-xi-cô Át-si, hoặc Phan-xi-cô khó khăn hay Phan-xi-cô Năm Dấu.

3. SUY NIỆM:

1) HẠNH PHÚC LÀ GÌ ?

Hầu như không ai trong chúng ta đạt được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc xem ra hạnh phúc nhất như mới thi đậu, vừa được thăng chức, gặp được người thân, được du lịch ra nước ngoài, được trúng số… vẫn có những điều làm chúng ta chưa hòan tòan thỏa mãn. Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su đã chỉ cho chúng ta bí quyết để có hạnh phúc toàn vẹn đích thực: Thiên Chúa ban hạnh phúc, nhưng chúng ta chỉ nhận được khi sẵn sàng đón nhận. Hạnh phúc thật chỉ có được khi có Chúa, được sống trong ơn nghĩa Chúa và được hạnh phúc viên mãn trong Nước Trời đời sau. Tóm lại, người được chúc phúc là người biết mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân: mở trí khôn để hiểu rõ ý Chúa và thi hành, mở mắt mở tai để nhìn xem và nghe biết những nhu cầu của tha nhân, mở trái tim để yêu thương, mở nụ cười để thông cảm và mở đôi tay để an ủi chia sẻ và phục vụ…

2) GIÀU CÓ CÓ MANG LẠI HẠNH PHÚC KHÔNG?

Gần đây một cuộc khảo sát ở Hong Kong do một viện Đại Học thực hiện đối với 2 000 người giúp việc Philippines và khoảng 300 người chủ của các osin này, và đã kết luận như sau:

a) 99% người được hỏi thì hơn 92% người giúp việc Philippines cảm thấy “hạnh phúc” hơn là các ông bà chủ mà họ đang phục vụ làm công cho. Tuy nhiên, khi điều tra viên hỏi nếu được hoán đổi vị trí để người giúp việc trở thành ông bà chủ và ngược lại, thì 100% các chị giúp việc đều đồng ý đổi ngôi ngay. Dù họ ý thức rất rõ là các ông bà chủ của họ cũng không hạnh phúc, khi hàng ngày phải đối phó với bao nhiêu vấn đề khó khăn do áp lực công việc, nhu cầu tiền bạc, thời gian dành riêng cho mình. Nhất là lúc nào cũng phải cảnh giác đấu tranh để có thể sinh tồn….

b) Ngược lại, khi hỏi các ông bà chủ giàu có đang bất hạnh trong cuộc sống có sẵn sàng hoán đổi vị trí với các người osin không, thì 100% những người này cũng nói không, dù họ vừa công nhận người giúp việc được “hạnh phúc” hơn họ nhiều.

c) Tuy nhiên, thứ hạnh phúc do đồng tiền mang lại cũng chỉ có giới hạn mà thôi, như có người đã nói: "Tiền bạc có thể mua được chiếc giường, nhưng không mua được giấc ngủ; có thể mua sách vở nhưng không mua được trí tuệ; có thế mua thức ăn nhưng không mua được sự ngon miệng; có thể mua được nữ trang nhưng không mua được sắc đẹp; có thể mua căn nhà nhưng không mua được mái ấm gia đình; có thể mua được thuốc men nhưng không mua được sức khỏe; có thể mua sự lộng lẫy sang trọng nhưng không mua được hạnh phúc và bình an; có thể mua cây thập giá nhưng không mua được Ðấng Cứu Chuộc; có thể mua của lễ nhưng không mua được thiên đàng." Vậy làm thế nào để có được hạnh phúc thực sự đời này và đời sau?
3) PHƯƠNG THẾ ĐỂ ĐẠT HẠNH PHÚC: TÁM MỐI PHÚC THẬT:

Đây là các điều kiện mà ai muốn được hạnh phúc thực sự đời này và đời sau phải có:

+ Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó: Đó là những người nghèo của cải vật chất, nghèo địa vị chức quyền, ý thức thân phận tội lỗi bất lực của mình… Nhờ đó họ sẽ khiêm tốn xin Chúa ban ơn trợ giúp, sẽ phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng, sẽ cư xử khiêm hạ và trở thành người phục vụ rửa chân cho tha nhân noi gương Đức Giê-su.

+ Phúc thay ai hiền lành: Người hiền lành là người có lòng nhân từ đối với tha nhân, không lấy oán báo oán, biết nhẫn nhịn chịu đựng và sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của kẻ khác.

+ Phúc thay ai sầu khổ: Khi bị đau khổ, người này biết nhìn lên Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá để thấy được giá trị thanh luyện của đau khổ, sẵn sàng chịu đựng mọi đau khổ về tinh thần và thể xác để đền tội mình và đền tội tha nhân.

+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: là con người hướng thượng, muốn nên hoàn thiện giống như Chúa Cha trên Trời như Đức Giê-su dạy: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.

+ Phúc thay ai xót thương người: Đây là người biết mở rộng lòng để chia sẻ, cảm thông nỗi đau của người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc”. Sẵn sàng quảng đại cho đi những gì mình có cho người khác cùng hưởng. Họ sẽ được Chúa đền đáp như lời Chúa Giê-su: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng chính cái đấu ấy”.

+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Người có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả dối, nhưng luôn làm mọi việc cách trong sáng. Chính nhờ giữ đức trong sạch nơi thân xác và sự trong sáng nơi tâm hồn, mà người ấy sẽ được nhìn xem Thiên Chúa trong Nước Trời đời sau.

+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Xây dựng hòa bình là người đi đến đâu cũng gieo sự an vui hòa thuận đến đó. Nhờ họ mà gia đình, xã hội và thế giới luôn được an bình. Họ giải tỏa những điều hiểu lầm, tháo gỡ những bất hòa tranh chấp, luôn nhìn mọi người bằng cặp mắt yêu thương và chan chứa tình người. Nhờ đó, họ xứng đáng mang danh là con Thiên Chúa.

+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Khi chấp nhận sự sỉ nhục và đau khổ vì đức tin, chúng ta sẽ được nên giống Chúa Giê-su. Vì những ai cùng chịu khổ nạn với Chúa Giê-su, thì sẽ được tham phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.

4. THẢO LUẬN:

1) Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh?
2) Khi gặp một sự rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do người khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào?
3) Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến sự rủi ro thành may lành, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong tám mối phúc thật Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa, nên sẽ cầu nguyện không ngừng; Là người ý thức về sự bất lực của mình, nên không bao giờ khinh dể tha nhân nhưng luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng noi gương Chúa khi xưa.

- LẠY CHÚA. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh đầu lên cao thì lại càng có ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -  HHTM
 
----------------------------------

 

TN 4-A83: CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN


Tám Mối Phúc, lời kêu gọi phổ quát nên thánh
 
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Xp 2:3; 3:12-13;  1 Cr 1:26-31;  Mt 5:1-12a)

 

Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã trình bày khởi đầu sứ vụ của Chúa Giê-su.  Hôm nay Lời TN 4-A83


Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật trước đã trình bày khởi đầu sứ vụ của Chúa Giê-su.  Hôm nay Lời Chúa bắt đầu giới thiệu lời giảng đầu tiên của Chúa Giê-su mà tất cả chúng ta đều rất quen thuộc:  Bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc.  Những điều được nói lên trong bài giảng đầu tiên này hẳn phải là hết sức quan trọng.  Tám Mối Phúc nói lên căn tính của những người được Chúa Giê-su mời gọi làm môn đệ, tức là các Ki-tô hữu.  Việc trở thành môn đệ Chúa là một diễn trình biến đổi, từ bước đầu tiên là nhìn nhận thân phận nghèo hèn của mình để tiến tới thái độ sẵn sàng mở lòng đón nhận sự sống phong phú do lời giảng của Chúa Giê-su đem lại.  Cả ba bài đọc hôm nay đều nói về diễn trình biến đổi này.

          Một diễn trình biến đổi luôn có điểm khởi đầu.  Vậy trong diễn trình để trở thành môn đệ Chúa, chúng ta bắt đầu từ đâu?  Chúng ta bắt đầu từ khởi điểm là “một dân nghèo hèn và bé nhỏ   nương ẩn nơi danh Đức Chúa” (bài đọc 1).  Ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã nhắc nhở dân It-ra-en hãy bắt đầu từ thân phận nghèo hèn này mà “tìm kiếm Chúa, tìm sự công chính, tìm đức khiêm nhường” để được Chúa che chở.  Đúng vậy, muốn được Chúa che chở thì mình phải nhìn nhận thân phận nghèo hèn của mình.  Còn nếu chúng ta cứ vỗ ngực tự phụ mình làm được mọi sự không cần Chúa, thì làm sao Chúa che chở chúng ta được.  Cái nhìn của ngôn sứ Xô-phô-ni-a về dân Ít-ra-en cũng áp dụng cho tất cả những ai muốn tiếp nhận giáo lý của Chúa Giê-su.  Họ cần phải hoàn toàn khiêm nhượng để bắt đầu chấp nhận một cuộc thay đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.  Lời Chúa Ki-tô sẽ như sương sa từ trời xuống, thấm vào tâm hồn chúng ta và làm cho hạt giống nảy mầm, cây cối phát triển và sinh hoa kết quả (I-sai-a 55:10-11).

          Suy niệm về khởi đầu là những kẻ nghèo hèn trong diễn trình trở nên môn đệ Chúa hoặc Ki-tô hữu, thánh Phao-lô đã nói lên một nghịch lý trong đường lối Thiên Chúa biến đổi chúng ta.  Đó là “những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có” (bài đọc 2).  Thiên Chúa đã làm ngược đời!  Chúng ta là “điên dại, hèn mạt không đáng kể, là không có” trước mặt Chúa, nhưng Người sẽ biến đổi chúng ta thành “khôn ngoan, quyền thế và quý phái”, nếu chúng ta để cho lời Chúa Ki-tô thay đổi chúng ta.  Thánh Phao-lô quả quyết rằng “chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su”, nghĩa là chúng ta đích thực là con cái Thiên Chúa, mang căn tính đầy đủ của mình.

          Làm sao chúng ta có thể thực sự là những người “hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su”?  Chúng ta cứ đọc thật chậm những lời của Chúa trong Bài giảng Tám Mối Phúc, nếu chúng ta thấy mình thuộc về bất cứ người nào trong tám hạng người “có phúc” là chúng ta “hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su” rồi đó!  Hoặc nói khác đi, chúng ta trở thành môn đệ của Chúa rồi đó!  Tuy nhiên chúng ta đừng quên thân phận nghèo hèn của mình.  Nghèo hèn không phải là thiếu tiền thiếu bạc, nhưng là “tình trạng khởi đầu” (status quo) để chúng ta bắt đầu hành trình mới.  Chúa không kêu gọi chúng ta vì chúng ta thánh thiện, nhưng vì chúng ta là những kẻ tội lỗi, yếu đuối cần được dẫn dắt và che chở.  Càng chấp nhận thân phận tội lỗi, chúng ta càng dễ nên thánh!  Mỗi Mối Phúc ít ra là một lời kêu gọi thích hợp nhất được áp dụng cho một cá nhân và là một hướng đi giúp người ấy trở nên hoàn thiện theo khả năng của họ.  Như thế Tám Mối Phúc quả thực là một lời kêu gọi phổ quát hãy nên thánh dành cho hết mọi người không loại trừ ai.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Tại Đền Thánh quốc gia Vuơng Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Washington, D.C., đằng sau cửa chính có một bức họa nổi mang tên “Lời gọi phổ quát hãy nên thánh”.  Trên bức họa nổi ấy, người ta nhận ra nhiều khuôn mặt đương thời lẫn các vị thánh trong Giáo Hội, tất cả đều nằm trong tầm ánh sáng Chúa Thánh Thần.  Có Mẹ Têrêxa Calcutta, Đức giáo Hoàng Gioan Phaolô II, linh mục, tu sĩ, giáo dân nam nữ già trẻ.  Họ đều là những người “có phúc” mà Chúa Giê-su nói tới trong Bài giảng trên núi.  Như dân Ít-ra-en lãnh nhận Lề Luật Chúa từ ông Mô-sê trên núi xuống, ta cũng hãy lắng nghe Bài giảng trên núi của Chúa về Tám Mối Phúc như là cẩm nang giúp chúng ta thực hiện cuộc hành trình nên thánh!       
 
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

----------------------------------

 

TN 4-A84: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Là con người, ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc, nhưng quan niệm về hạnh TN 4-A84


Là con người, ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì khác nhau: Có người cho rằng hạnh phúc là có nhiều tiền bạc của cải; có người cho rằng hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn; có người cho rằng hạnh phúc là có quyền cao chức trọng; có người cho rằng hạnh phúc là được sống lâu…

Chính vì quan niệm như thế, cho nên có những người đang dùng những mánh khóe lừa gạt để kiếm cho được nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý, lẽ công bằng. Họ đang tích trữ kho tàng vật chất để sống hưởng thụ mà quên đi tình bác ái với anh chị em đồng loại; có những người đang tự hào về sắc đẹp của mình, thậm chí dùng sắc đẹp để thỏa mãn dục vọng, phỉnh gạt người khác nên đã gieo biết bao đau khổ cho tha nhân; có những người đang cố gắng dùng quyền lực để cai trị, để kiếm chác nên đã làm khổ dân nước…

Tôi có một người bạn, thi trường Đại Chủng viện 3 lần đều rớt, nên anh tìm đến dòng tu. Ở được một năm thấy không hợp, anh ta trở về cưới vợ. Sau một thời gian gặp lại, anh ta kể cho tôi nghe về vợ con, nhà cửa, nghề nghiệp và mọi thứ. Anh ta rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Tôi nhận thấy anh ta rất hạnh phúc. Nhưng sau đó, tôi lại nghe tin vợ anh ta dính líu vào vụ làm ăn gian lận sao đó, nợ nần chồng chất. Người ta thay nhau đến đòi nợ. Nhà cửa, tài sản, đất đai của gia đình anh ta không cánh mà bay. Cuối cùng, vợ anh ta bỏ trốn. Anh ta trở thành cái bia để cho người ta xỉ vả, chửi bới.

Hóa ra, những thứ hạnh phúc ở đời này quá mong manh: vợ đẹp con khôn, chức quyền danh vọng, của cải… có thể nay còn mai mất. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng: “Đặt niềm tin nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực, rất có thể chúng sẽ mang đến cho ta “một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng hạnh phúc” và cuối cùng, “chúng sẽ chiếm hữu ta, khiến ta luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ được thoả mãn.”  Pic de la Mirandole cũng đã nói: “Tìm hạnh phúc nơi tạo vật là một điên khùng. Hạnh phúc thật chỉ có thể gặp thấy trong Thiên Chúa.” 

Thật vậy, chỉ có Chúa và những gì thuộc về Chúa mới là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói: “Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.” Thánh Augustinô sau một thời gian đi tìm khoái lạc, hạnh phúc ở đời này, cuối cùng cũng đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn còn vẫn còn khắc khoải lo âu cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa.”

Nhưng để có hạnh phúc vĩnh cửu nơi Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa dạy, phải đi con đường Chúa đã đi. Con đường đó, các Thánh cũng đã từng đi qua. Đó không phải là con đường rộng rãi thênh thang, con đường của êm ái mà là con đường của hy sinh, từ bỏ, con đường của thập giá. Con đường đó là con đường của Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 5,1-12a): Đó là biết sống tinh thần nghèo khó, biết sử dụng tốt những của cải Chúa ban, biết sẻ chia cho những người đói khát, nghèo nàn; đó là biết sống hiền lành, cư xử nhẹ nhàng, mềm dẻo với những người xung quanh; đó là biết khóc lóc, sầu buồn, hối hận vì những lỗi lầm mình đã gây nên, giống như thánh Phêrô đã ăn năn khóc lóc mỗi khi gà gáy vì nhớ đến tội chối Chúa của mình; đó là biết khao khát điều công chính, mong muốn mình trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn; đó là biết thương xót người, nhất là những người cô thế cô thân, những người sống bên lề của xã hội, giống như gương của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta: “Hạnh phúc có nghĩa là  yêu như Chúa đã yêu, giúp đỡ như Người đã giúp đỡ, hy sinh như Người đã hy sinh, phục vụ như Người đã phục vụ…”; đó là biết sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói, việc làm; đó là biết xây dựng sự hòa bình, hòa thuận, không gây gỗ, chia rẽ, bất hòa với ai. Nếu lỡ bất hòa với ai thì biết làm hòa trước khi mặt trời lặn hoặc trước khi lên dâng của lễ trên bàn thờ; đó là biết bênh vực cho công lý và sự thật dầu có phải chịu đựng sự bách hại vì lẽ công chính: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Lời kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi).

Vậy, chúng ta đang đi tìm thứ hạnh phúc nào? Hạnh phúc nơi Chúa hay hạnh phúc nơi của cải, tiền bạc, quyền lực? Xin cho chúng ta không đặt tin tưởng nơi của cải, tiền bạc, quyền lực và những thứ ở đời này nhưng hãy tìm kiếm hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc của Tám mối phúc thật, đó là hạnh phúc của Nước Thiên Đàng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc thật đó là hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc trên Thiên Đàng. Amen.

----------------------------------

 

TN 4-A85: Hạnh phúc thật

 

Khi đứa trẻ vừa được sinh ra thì việc làm đầu tiên là khóc. Nên người ta gọi là cất tiếng khóc chào TN 4-A85


Khi đứa trẻ vừa được sinh ra thì việc làm đầu tiên là khóc. Nên người ta gọi là cất tiếng khóc chào đời. Tiếng khóc là báo hiệu cho cuộc đời sẽ gặp khó khăn và gian khổ. Vì thế mà Phật giáo nói "đời là bể khổ". Cho nên trong cuộc sống con người luôn đi tìm hạnh phúc để tránh đau khổ. Thế nhưng họ vẫn không có được hạnh phúc thực sự mà vẫn gặp đau khổ.

Vậy hạnh phúc thật là gì? Đó là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ hôm nay.

Người ta thường nghĩ hạnh phúc là: giàu có, thành đạt, mạnh khoẻ... Đối với mỗi người thiếu nhi đó là: quần áo đẹp, đồ chơi, bánh ăn, chơi games, được khen ngợi... Nhưng trong thực tế những điều trên chưa chắc đã mang lại hạnh phúc cho con người, bởi người ta nói người giàu cũng khóc là thế.

Theo định nghĩa: Hạnh phúc là sống đúng bản chất của mình. Chẳng hạn như: Con chim chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim, dù nó có được sống trong lồng vàng đi nữa vẫn không hạnh phúc; hay con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội tự do như cá. Như thế còn con người thì sao? Bản chất của con người là được Thiên Chúa tạo dựng, nên con người chỉ hạnh phúc khi được trở về với cội nguồn của mình là chính Thiên Chúa. Có nghĩa là được thông phần bản tính với Thiên Chúa (2 Pr 1,4) và sự sống đời đời (x. Ga 17,3). Để có hạnh phúc thật thì mỗi người chúng ta phải sống 8 mối phúc này hay còn gọi là bản hiến chương Nước Trời.

Có thể nói mối phúc thứ nhất là ý chính của bản hiến chương này. Đó là "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ".

Câu hỏi đặt ra là tại sao Chúa Giêsu lại nói nghèo là phúc? Đúng ra nghèo là điều vô phúc hay bất hạnh mới phải chứ! Thưa ý Chúa Giêsu nói tinh thần nghèo khó đây được hiểu theo 2 nghĩa:

Thứ nhất khi có tâm hồn nghèo khó thì ta không bám víu vào vật chất hay không bị ảnh hưởng bởi cuộc sống ở trần gian này. Như tiền tài, danh vọng hay lạc thú... Như trong câu chuyện "Người thanh niên có nhiều của cải" trong Tin Mừng theo thánh Matthêu kể lại: sau khi anh ta đã thực hành đầy đủ những gì Chúa Giêsu yêu cầu đó là yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình là điều rất tuyệt vời, thế nhưng khi Chúa Giêsu yêu cầu anh ta đi thêm một bước nữa là bán hết tài sản để cho người nghèo thì anh ta liền quay mặt bỏ đi (x. Mt 16, 19-22). Rõ ràng anh ta còn bám víu vào vật chất mà chưa có chọn Chúa.

Đối với mỗi người chúng ta thì sao? Khi không bám víu vào những gì ở trần gian đó là sống đơn sơ, giản dị và khiêm tốn. Như khi ở trong gia đình giàu có hay giỏi giang hơn các bạn thì cũng không kiêu căng, tự mãn, đua đòi, hơn thua hay coi thường các bạn nghèo khổ và dở hơn mình; ngược lại dù phải ở trong gia đình nghèo khổ hay kem cỏi hơn các bạn thì cũng không mặc cảm, tủi thân, đòi hỏi và trách móc cha mẹ. Đó là những biểu hiện ta đang sống tinh thần nghèo khó.

Thứ hai khi ý thức sống tinh thần nghèo khó là như thế thì ta sẽ đi tìm Chúa, thực hành Lời Chúa và luôn phó thác vào Chúa. Như trong đoạn Phúc Âm theo thánh Luca nói về "hạnh phúc thật sự" kể lại: khi Chúa Giêsu đang rao giảng thì có người phụ nữ thưa rằng: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm". Vì bà nghĩ rằng một người mẹ có người con tài giỏi như vậy thì thật là có phúc. Nhưng Chúa Giêsu đã sửa ngay: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa" (Lc 11, 28).

Tóm lại: để có hạnh phúc thật mỗi người luôn biết lắng nghe và thực hành lời Chúa. Nhất là không làm điều gì tội lỗi mất lòng Chúa. Có như thế chúng ta mới có được hạnh phúc thật như lời Chúa hứa trong bài Tin Mừng hôm nay: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ". Amen.

----------------------------------

 

TN 4-A86: Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống


(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát TN 4-A86


Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ "thiên thời địa lợi" để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?

1. Quan niệm về hạnh phúc.

Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.

Theo truyền thống Ấn Giáo, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hoà hợp với các thành phần khác do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thoả ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay...đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. Quan niệm về hạnh phúc, Nội san chia sẻ, số 23).

Theo Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc: Hạnh phúc là niềm vui, khi người ta vui thì hạnh phúc, khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, rất dễ hiểu. Niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng. Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi có tình yêu không ngừng được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức thì con ngươì ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương. (x.Bài giảng tại Nhà thờ Hạnh Thông Tây, Lễ Thánh Gia, 125 gia đình mừng kỷ niệm hôn phối, mp3, http://tgpsaigon.org).

Đối với nhạc sĩ Trần Tiến: "Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ" (Lời bài ca: Mặt trời bé con). Hạnh phúc quá đơn sơ. Chỉ có con người phức tạp hóa hạnh phúc khi mơ tưởng đứng vào hàng ngũ những kẻ giàu sang phú qúy và danh giá nhất. Cuộc chạy đua tranh dành tiền tài, danh lợi, lạc thú làm người ta bất hạnh. Tham sân si chẳng bao giờ để người ta có được một giây phút hạnh phúc thật sự.

Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.

2. Đi tìm về hạnh phúc.

Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.

Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp: "yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua". Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.

Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.

3. Tám mối phúc thật.

Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: "Vạn sự vô thường vạn sự thường", nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.

Đức Kitô trên "Núi Bát Phúc" đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc "Tám mối phúc thật": Phúc cho ai... (Mt 5, 1-12).

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó .

Lm Thiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.

Điệp ca trên núi của Chúa Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai... điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.

Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả;vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình;vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ai có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện, hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghỉ tới mình, tới hạnh phúc hay nổi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.

Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp,vất vả hơn đường xuống hoả ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sống.Tin và yêu mến Chúa Giêsu là được sống hạnh phúc mỗi ngày trong niềm vui.

----------------------------------

 

TN 4-A87: Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô TN 4-A87


Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến Chương Nước Trời”. Dưới một góc độ nào đó thì bản Hiến Chương cũng gần tương tự với bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối thượng của bản Hiến Pháp trong việc định chế các luật lệ để điều hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận, cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này nơi nọ, việc tuân thủ không được chặt chẽ và nghiêm túc.

Một ngộ nhận thường thấy khi đề cập đến các mối phúc của Tin mừng đó là người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích, biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu của câu nói mà ở vế sau. Để hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành tỉ phú. Một ngày kia, vé số bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé dư trả lại đại lý. Ai ngờ có trong số vé dư ấy có một cặp mười lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ. Như thế cái được gọi là có phúc không phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở vế “không trả lại số vé không bán được” mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.

Vậy chúng ta cần khẳng định rằng hạnh phúc thật chính tình trạng được ở trong Nước Trời, được có Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai của các mối phúc. Các vế thứ nhất của các mối phúc không phải là những điều kiện để có hạnh phúc, nhưng chỉ là những tình trạng được ban phúc, những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được ban.

Để hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca tường thuật các dữ kiện liên quan đến các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc 6,20-23).

Hạnh phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi người, cho cả những người mà dưới con mắt thế gian hay theo nếp nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều người vốn bị xem như là bé phận, hèn mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón nhận ân phúc Người ban. Trái lại, có nhiều người mà thế gian cho là may mắn thì không nhận được ân phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi tường thuật những lời chúc phúc của Chúa Kitô thì tường thật tiếp liền những lời cảnh báo về các mối họa với những người giàu có, những người đang được no nê, vui cười, đang được mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).

Những hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì họ giàu, đang được no nê hay vui cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.

Các mối phúc thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời không chủ ý nói đến những điều kiện để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt quá mọi khả năng chiếm hữu của con người. Con người chỉ có thể đón nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).

Có thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người…là những cách thế biểu lộ niềm tin, những con đường sống đức tin. Và chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn có đó muôn vàn con đường sống đức tin, muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc23,42). Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).

Cũng như Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính hướng dẫn, vừa có tính quy định những thể chế, tổ chức, luật lệ của quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc thật và con đường để có hạnh phúc thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng vụ, mọi luật lệ được ban hành… biết lấy Bản Hiến Chương Nước trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì được một lần trong đời chúng ta không chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc: “vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”

----------------------------------

 

TN 4-A88: Bàn tay Chúa – Lm Vũ Đình Tường

 

Nhắc đến bàn tay Chúa ta liên tưởng đến bàn tay ra oai thần lực, sức mạnh vô song, làm lay chuyển TN 4-A88


Nhắc đến bàn tay Chúa ta liên tưởng đến bàn tay ra oai thần lực, sức mạnh vô song, làm lay chuyển sao trời, rẽ nước khiến lòng biển khô cạn hoặc ngay cả lấp biển, dời non. Hình ảnh oai hùng đó dường như vắng bóng trong cuộc đời rao giảng công khai của Đấng Cứu Thế. Nơi Ngài chúng ta gặp bàn tay thi ân, giáng phúc. Bàn tay ban ân sủng, bình an. Bàn tay mở sách thánh trong hội đường. Bàn tay vỗ về con người đau bệnh. Bàn tay vác về con chiên lạc. Bàn tay mở mắt người mù. Bàn tay dìu người què đứng dậy bước đi. Bàn tay mở tai người điếc nghe được. Bàn tay sờ nắp quan cho kẻ chết sống lại. Bàn tay tha tội cho người bắt quả tang tội ngoại tình. Bàn tay giang ra kéo Phêrô khỏi chìm dưới làn sóng biển. Bàn tay cầm bánh và cá trong tay dâng lời tạ ơn Chúa Cha trước khi phân phát thực phẩm cho đám đông. Bàn tay chắp trước ngực cầu nguyện cùng Chúa Cha sau bài giảng hay sau khi làm phép lạ. Bàn tay rẽ đám đông lên núi một mình cầu nguyện trước tiếng hoan hô, ca tụng Ngài là vua, giải thoát họ khỏi ách đô hộ. Bàn tay dâng bánh chúc tụng. Bàn tay dâng rượu thiết lập Giao Ước mới trong bữa tiệc li. Bàn tay rửa chân cho các môn đệ. Bàn tay trải dài trên thập tự mong đón nhận toàn thể nhân loại vào con tim nồng ấm.

Bàn tay xây dựng

Bàn tay Đấng Cứu thế gắn liền với việc xây dựng nước trời. Để làm gì? Để đón nhận những ai sống theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật: sống nghèo khó, hiền lành, sầu khổ vì lẽ công chính, hay xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì làm chứng nhân nước trời.

Tám Mối Phúc Thật nhấn mạnh đến đức nghèo khó. Nghèo khó bao gồm cả nghèo vật chất lẫn nghèo đức tin. Nhận biết mình nghèo khó nên sống phó thác, đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Tự bản thân không có gì, thông minh, tài trí, sức khoẻ, tiền của và chức tước. Ta không làm chủ cả sự sống. Nghèo khó trong Chúa luôn sống tâm tình cảm tạ vì Chúa làm chủ mọi sự; ta chỉ là quản lí, coi sóc những gì Chúa giao phó.

Đời này từ bỏ mọi sự, giầu sang, tiền bạc lẫn chức tước bước theo Đức Kitô. Nếu Đức Kitô lại ban cho những gì trước đây họ đã từ bỏ thì giải thích sao cho thoả đáng việc từ bỏ lúc đầu để nhận lại nhiều hơn của cải vật chất sau này. Khó nghèo trong Chúa phải hiểu là có Đức Kitô là có tất cả vì nơi Ngài là nguồn sung mãn, là sức mạnh, là nguồn sống đời này và đời sau. Khó nghèo trong Chúa giúp sống đời sống khiêm nhường, hiền lành, xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình. Tất cả đều bắt nguồn từ ơn Chúa. Chúa đặt vào lòng người Tám Mối Phúc Thật để hướng dẫn con người sống theo đường lối Chúa. Trung thành sống Tám Mối Phúc Thật nhiều, ít, hay bất trung, phản nghịch do từng cá nhân tự quyết và chịu trách nhiệm về chọn lựa của riêng mình.

Phúc cho ai

Trong tám lần chúc phúc Đức Kitô luôn bắt đầu bằng câu: Phúc thay ai. Lời chúc phúc dành cho những ai sống Tám Mối Phúc Thật. Lời chúc thứ chín Đức Kitô nhắm đến các tông đồ, những người ngồi kề bên Chúa, từ bỏ mọi sự bước theo Đức Kitô. Lời chúc nhấn mạnh đến phần thưởng đời sau. Đời này họ bỏ mọi sự bước theo, đã thế họ còn bị bách hại, sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa không phải vì họ gây nên mà vì trung thành với Đức Kitô mà gặp sự khó, nên được Chúa ban ơn đặc biệt.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấy xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao Mt 5,12

Các tông đồ hiểu lầm đời sống khó nghèo Đức Kitô rao giảng. Vì thế có lần các ông thắc mắc. Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy để được gì? Đức Kitô đáp:

…. Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau. (Mc 10, 29tt).

Câu trả lời trên cho thấy ai trung thành sống Tin Mừng và chân thành theo Đức Kitô sẽ chia sẻ cuộc sống của Ngài. Cuộc đời của Ngài là cho đi tình thương, sống thể hiện ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống của Đức Kitô bao gồm cả vinh quang lẫn thập giá mà Đức Kitô tự nguyện vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống cho anh chị em khác chính là thương mến mọi người như anh em cùng cha Giêsu, trong đại gia đình Chúa, trong Giáo Hội. Giầu có không phải là lắm bạc, nhiều tiền mà chính là tự do, không bị đồng tiền chi phối lối sống, cách suy nghĩ. Nghèo tiền của, giầu tình người chính là đời sống bác ái, yêu thương Đức Kitô chọn sống trong cuộc đời rao giảng công khai của Ngài. Một khi giầu bác ái, yêu thương sẽ không còn cảm thấy tiền bạc, địa vị, tiếng tăm là quan trọng nữa.

Lời chúc phúc

Khi Đức Kitô chúc phúc cho ai, Ngài không phải chỉ ban cho người đó ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm mà còn lên tiếng ca ngợi đồng thời ban ơn thiêng như phần thưởng dành riêng cho tâm hồn ngay chính. Sống công chính nhận phần thưởng hai lần.

Lần thứ nhất Chúa ban ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm - ngay tại đời này - để người đó tiếp tục tiến bước trên con đường phục vụ, hy sinh làm chứng nhân cho Đức Kitô.

Lần thứ hai Chúa ban ơn cao trọng hơn đó là sự sống trường sinh. Phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Lời chúc phúc được thể hiện trong tương lai, trong ngày gặp lại Đức Kitô trên thiên quốc.

Hạnh phúc thay ai học sống nghèo khó vì Chúa và vì Tin Mừng.

----------------------------------

 

TN 4-A89: Hạnh phúc


Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 4 TN-A của LM.Giacôbê Phạm Văn Phượng op

 

Hạnh phúc là một trong những niềm khao khát căn bản của con người, vì thế, từ xưa cho đến TN 4-A89


Hạnh phúc là một trong những niềm khao khát căn bản của con người, vì thế, từ xưa cho đến nay, con người ở mọi nơi, mọi thời đều mong ước hạnh phúc. Nhà bác học đồng thời cũng là triết gia và văn sĩ nối tiếng của nước Pháp ở thế kỷ XVII, ông Pát-can đã nói: “Mọi người, bất kỳ ai, đều lấy hạnh phúc làm mục đích, phương tiện có khác nhau, nhưng mục đích chỉ có một”. Vậy, phải tìm hạnh phúc ở đâu ? làm sao để có hạnh phúc ? hay hạnh phúc là bởi cái gì ?

Có người cho rằng hạnh phúc ở tại tiền bạc, tiền bạc là con đường đưa tới hạnh phúc. Theo họ, có tiền mua tiên cũng được, nên với tiền bạc họ sẽ hóa giải được hết mọi sự như câu tục ngữ Anh: “Tiền là chìa khóa vàng mở được mọi cánh cửa”: có tiền là có nhà lầu xe hơi, có tiền là có đủ mặt bạn bè, có tiền là có người bênh che và phục vụ. Theo quan niệm một chiều, họ rất có lý. Nhưng họ có ngờ đâu trong thực tế “hoàng kim hắc thế tâm”: tiền vàng làm lòng người ra đen tối”. Tìm hạnh phúc ở tiền bạc chỉ là trò chơi “cút bắt”, chẳng bao giờ làm chúng ta thỏa mãn, có một triệu, chúng ta lại muốn được hai triệu, có hai triệu, chúng ta lại thèm ba triệu, có ba triệu, chúng ta lại ước bốn triệu. Cuộc  săn đuổi cứ tiếp tục leo thang, thỏa mãn là hai tiếng thật xa vời. Đàng khác, tiền là “bạc”. bạc không phải chỉ là một loại quý kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du trong truyện Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì ?”.

Tiền bạc không phải hạnh phúc, vậy phải chăng hạnh phúc ở tại chức quyền danh vọng ? Trong thực tế, ai ai cũng muốn được người khác yêu mến, quý trọng, kính nể, và từ đó con người đâm ra ham chức quyền, danh vọng. Theo một nghĩa rất tương đối, thì chức quyền, danh vọng là một trong những yếu tố góp phần vào hạnh phúc của con người. Nhưng thật sự chức quyền danh vọng có đem lại hạnh phúc không ? Chúng ta có thể trả lời ngay là không, bởi vì “càng cao danh vọng, càng đầy gian truân”. Biết bao nhiêu người trên cực điểm danh vọng, mà hạnh phúc vẫn chẳng ở tầm tay, thậm chí còn rớt xuống, thân bại danh liệt, chẳng hạn, ông Ních-xơn, nguyên thủ của một quốc gia vào bậc nhất thế giới, thế mà đã phải tủi nhục từ chức, về vườn không kèn không trống. Thật là “vèo trông lá rụng đầy sân. Công danh phù thế có ngần ấy thôi”.

Hạnh phúc không ở tiền bạc, không ở danh vọng, phải chăng ở lạc thú ? cũng gọi là thú vui xác thịt hay nhục dục, nghĩa là có người coi thú vui xác thịt là con đường hạnh phúc ở đời. Nhưng lịch sử nhân loại đã chứng minh biết bao người đi vào con đường đó, họ chẳng hạnh phúc chút nào. Như vậy, khách quan mà suy xét, và nhìn vào thực tế của xã hội, cũng như căn cứ vào kinh nghiệm và sự khôn ngoan của những người đạo đức hay của những người có sự nhận xét thành thực chính đáng, chúng ta có thể nói rằng lạc thú thay vì đem lại hạnh phúc, lại gây nên những đau khổ khôn lường. Ngay trong hôn nhân, những lời cầu chúc cho tân hôn, như “Bách niên giai lão”, “Trăm năm hạnh phúc”, “Sắt cầm hòa hợp” chẳng mấy khi thấy được thực hiện, hay chỉ thực hiện một phần nào thôi, còn cảnh trái lại: anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, hay là những lủng củng cũng chẳng hiếm.

Hạnh phúc không ở tiền bạc, không ở danh vọng, không ở lạc thú, vậy thì ở đâu ? Tiền bạc, danh vọng, sức khỏe, sắc đẹp, vợ chồng, con cái, nhà cửa, xe cộ, sống lâu,… đó là nội dung của phúc lộc thọ mà chúng ta thường cầu chúc cho nhau trong dịp Tết. Nhưng phúc lộc thọ vẫn chưa phải là điều thỏa mãn khát vọng sâu xa về hạnh phúc của lòng người. Tận thâm tâm, con người muốn có thứ hạnh phúc vĩnh cửu: tài sản không tiêu tan, sắc đẹp không phai tàn và cuộc sống vô tận, đó mới chính là hạnh phúc thật sự đáng mơ ước. Hạnh phúc này chỉ có thể tìm được nơi Thiên Chúa, vì Ngài là cội nguồn của sự sống và của chân thiện mỹ. Vì thế, khi công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã nói rõ hạnh phúc thật mà con người phải đạt tới là hạnh phúc Nước Trời, nghĩa là Chúa Giêsu không hứa ban cho con người thứ hạnh phúc ăn ngon mặc đẹp, hạnh phúc của tự do, của thế lực, tiền tài, danh vọng và lạc thú. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không nói: phúc cho bạn, vì bạn có nhiều tiền, vì bạn có thế lực, vì bạn tắm gội trong lạc thú, danh vọng…, không, hạnh phúc Chúa Giêsu hứa ban không phải là vật chất, tạm bợ ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cửu, chỉ được thực hiện ở bên kia thế giới hữu hình, đó là hạnh phúc Nước Trời.

Đó là mục đích, là lý tưởng mà con người cần phải đạt tới, nên Chúa đã chỉ dạy những cách thế, những bí quyết, đó là hãy sống siêu thoát đối với tiền bạc vật chất, hiền lành, trong sạch, thuận hòa, yêu thương, chấp nhận gian khổ. Vì thế, chúng ta hãy nhớ: trần gian này chỉ là quán trọ, là hành trình đi về Nước Trời, chúng ta hãy cố gắng thực hiện những cách thế Chúa chỉ dạy để đạt tới đích hạnh phúc đó.
Giacôbê Phạm Văn Phượng op

----------------------------------

 

TN 4-A90: Bát phúc


(Chúa Nhật IV TN, năm A)

 

Bát Phúc chính là Tám Mối Phúc, cũng gọi là Bài Giảng Trên Núi hoặc Hiến Chương Nước Trời TN 4-A90


Bát Phúc chính là Tám Mối Phúc, cũng gọi là Bài Giảng Trên Núi hoặc Hiến Chương Nước Trời. Cựu ước có Thập Giới, tức là Mười Điều Răn, theo hướng tiêu cực: ĐỪNG làm điều này, CHỚ làm điều nọ, CẤM làm điều kia. Tân ước có Bát Phúc, theo hướng tích cực: PHÚC cho ai làm điều này hoặc thực hành điều kia. Cựu ước và Tân ước “song song” với nhau, nghịch mà thuận.

Cựu ước hoặc Tân ước cũng đều hướng con người về Chân-Thiện-Mỹ. Quả thật, “Công Lý Chúa trường tồn, Luật Chúa là Chân Lý” (Tv 119:142). Thánh Gioan Tông Đồ đã xác định: “Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (1 Ga 5:3-4). Những người tin theo Chúa luôn “vui thú với Luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:2), họ “thích làm theo Thánh Ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40:9). Như vậy là hạnh phúc, vì “kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào” (Tv 119:165).

Sách Xô-phô-ni-a có lời hiệu triệu: “Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa” (Xp 2:3). Lời hiệu triệu này cũng chính là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta vậy!

Thiên Chúa là Đấng công chính và yêu người sống khiêm nhường, vì thế Ngài sẽ xua đuổi những kẻ kiêu căng đắc thắng, triệt hạ kẻ ngông nghênh tự phụ, như Ngài đã nói thẳng với dân Ít-ra-en: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ” (Xp 3:12-13). Thà có ít người mà tốt lành còn hơn nhiều người mà toàn “cá mè một lứa”, xấu xa, độc ác, giả hình,…

Thiên Chúa là “Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó, là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời” (Tv 146:6). Ngài Đấng chí công vô tư, không thiên tư tây vị ai, yêu chân lý và công lý, vì thế Ngài “xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng những ai tù tội, và mở mắt cho kẻ mù loà” (Tv 146:7-8a).

Thiên Chúa là tình yêu, hay “mủi lòng”, luôn chạnh lòng thương những người thấp cổ bé miệng bị những kẻ ăn trên ngồi trước áp bức, bị bóc lột tận xương tủy, bị lũ “đỉa người” hút máu. Ngài mạnh mẽ đòi lại công lý cho họ: “Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:8b-9). Thiên Chúa toàn năng và quyền phép, không một thế lực hoặc thần lực nào địch nổi, vì Ngài “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10).

Thật là diễm phúc khi chúng ta biết tôn thờ một Thiên Chúa như vậy, do đó chúng ta hãy đồng thanh và không ngừng tán dương Ngài: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19:38).

Tuy nhiên, đôi khi phàm nhân chúng ta quá yếu đuối nên khó tránh khỏi những phút xao lòng, bị dao động trước nghịch cảnh, thế nên Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1 Cr 1:26-29).

Chúa Giêsu luôn “khác người”, không giống ai, thậm chí là có vẻ “ngược đời”, gọi là nghịch-lý-thuận. Tại sao? Vì Ngài yêu thích và có cách sống lạ lùng với những chữ T kỳ diệu: Trầm Tư (cầu nguyện), Thật Thà (chân lý), Thẳng Thắn (công lý), Tha Thứ (nhân hậu, thương xót), Trừng Trị (công minh).

Thánh Phaolô tái xác định: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, hợp như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1 Cr 1:30). Đó là niềm hãnh diện cần thiết, sự đề cao đáng yêu.

Như chúng ta biết, Cựu ước chú trọng chữ CẤM – tức là ép buộc, còn Tân ước chú trọng chữ NÊN, tức là khuyên răn. Rõ ràng Tân ước tích cực hơn Cựu ước, vì Tân ước không hề áp đặt hoặc bắt buộc.

Trình thuật Mt 5:1-12 ghi lại “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” đầu tiên của nhân loại. Thánh sử Mát-thêu cho biết rằng, khi thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Ngài ngồi xuống, và các môn đệ đến gần bên. Rồi Ngài dạy dỗ họ 8 điều khoản ngắn gọn để làm kim chỉ nam cho cuộc sống:

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Sau đó Ngài nói thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11-12). Lời này vừa là nhấn mạnh, vừa là giải thích, và cũng vừa là lời động viên những người bước theo Chúa. Và Bát Phúc cũng chính là Ánh Sáng soi đường dẫn lối chúng ta trên bước đường lữ hành trần gian về Quê Trời.

Lạy Thiên Chúa, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 119:105). Xin giúp chúng con biết sống đúng những điều khoản trong “bản tuyên ngôn” Bát Phúc mà Thầy Giêsu đã dạy. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

----------------------------------

 

TN 4-A91: Các con hãy vui mừng hân hoan


Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật IV Thường Niên, năm A, của Đỗ Công Minh

( Mt 5, 12a )

 

Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV Thường niên hôm nay thường được các nhà chú giải Thánh Kinh TN 4-A91


Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV Thường niên hôm nay thường được các nhà chú giải Thánh Kinh đặt là “ Hiến chương nước trời”, có nghĩa là một văn bản qui định cho những ai tin vào nước Thiên Chúa, hiểu được nơi mình sẽ đến và điều kiện để vào.

           Lạy Chúa,
           Chúng con vừa trải qua Tết Canh Tý  được ít ngày, những ngày vui đầu năm mới, người ta gửi đến cho nhau bao lời chúc tụng, nào là khang an thịnh vượng, giàu sang phú quý, rồi vạn sự như ý, muốn gì được nấy. tiền vào như nước . . . Trong lúc xã hội hiện nay mọi người đang chạy đua làm giàu, người người đều trọng vọng những người có tiền của, danh vọng, địa vị thì Chúa lại chúc phúc: “ phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, những người biết sống liên đới  với những người đói khổ, bất hạnh. Trong lúc mọi người tìm đến sự an nhàn, vinh thân phì gia, hưởng thụ, trong ấm ngòai êm, Chúa cầu chúc:” phúc cho người bị sầu khổ “. Không phải chỉ đôi điều chúc phúc mà là tám mối phúc thật dành cho những người hiền lành, đơn sơ, chất phác; những ai khát khao nên người công chính,  những ai xót thương người, những ai có tâm hồn trong sạch, những ai xây dựng hòa bình. Và nhất là những ai “ Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ mọi điều xấu xa ”

          Lạy Chúa,
          Hẳn là Chúa không muốn để con người phải túng đói, nghèo hèn. Chúa cũng chẳng muốn một người nào trong chúng con bị người khác xỉ vả, bị bách hại. Nhưng Chúa chúc phúc cho họ vì  trong cuộc sống trần thế này, những người như thế cần được sự thương yêu, hỗ trợ. Họ trông mong được sự chở che, giúp đỡ hầu thoát cơn hoạn nạn. Chính vì vậy, khi nhận biết Chúa, họ đặt trọn niềm tin vào sự giải thoát, vào ơn cứu độ của Người. Chúa yêu thương họ vì chính Chúa là tình yêu. Chúa chúc phúc cho họ vì họ luôn hướng đến quê trời, nơi đó, họ tin rằng họ sẽ được hưởng phúc thật. Họ tin vào Chúa là Đấng đầy lòng xót thương .

          Trong chúng con đây, cuộc sống nhiều người chưa đến nỗi lâm vào cảnh túng thiếu, khốn cùng, cũng chưa gặp lao đao vất vả quá sức. Chúng con  xin cảm tạ Chúa. Chúng con cũng mong muốn đón nhận được những lời chúc phúc của Chúa, nhưng bằng cách nào? Phải chăng đó là con phải sống chia sẻ, biết ủi an, nâng đỡ những anh chị em còn khó khăn, đang gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Những người bị áp bức, bị lọai trừ trong xã hội. Biết sống tiết độ, công bằng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.  Đó chính là chúng con đang trở thành những người khó nghèo trước mặt Chúa.

          Xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống liên đới với  mọi người, nhất là những người đang cần đến sự giúp đỡ. Dám can đảm đứng về phía chân lý, sự thật, sự công bằng. Không thỏa hiệp với những điều xấu, không sa vào những cám dỗ tội lỗi và cùng giúp nhau vươn lên hòan thiện, để mai này sẽ được xum họp cùng Chúa là chủ của MÙA XUÂN VĨNH CỬU trên nước trời . AMEN .

 Fx Đỗ Công Minh

----------------------------------

 

TN 4-A92: Phúc thay người nghèo!”


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Chúng ta đang đón mừng xuân Canh Tý. Trong những ngày Tết cổ truyền của Dân tộc, ai cũng TN 4-A92


Chúng ta đang đón mừng xuân Canh Tý. Trong những ngày Tết cổ truyền của Dân tộc, ai cũng cầu chúc cho nhau sự thành đạt, giàu có, của cải như nước, luôn dồi dào và dư dả. Ấy vậy mà Lời Chúa hôm nay lại chúc phúc cho những người có tâm hồn nghèo khó. Phải chăng đó là một ảo tưởng, một nghịch lý giữa Đạo và đời, giữa Đức tin và cuộc sống?

Lời chúc phúc dành cho người nghèo là mối phúc đầu tiên trong Bài giảng trên núi. Theo Thánh Matthêu, đây là bài giảng khởi đầu sự sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài giảng khởi đầu này cũng tóm lược nội dung của giáo huấn mà Người sẽ rao giảng sau này. Bài giảng này cũng phản ánh chính con người của vị ngôn sứ thành Nagiarét, tức là người ta có thể tìm thấy nơi bản thân Người những mối phúc đã được nêu.

Đừng quên một chi tiết quan trọng trong lời giảng của Chúa, đó là “tâm hồn nghèo khó”. Nếu lời chúc phúc của Chúa Giêsu quá ngắn gọn và cô đọng, thì chúng ta có thể tìm thấy lời diễn giải thêm về ý niệm người có tâm hồn nghèo khó trong Bài đọc I trích sách Ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi Danh Đức Chúa. Số dân Israel còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng chúng không còn phỉnh gạt”. Dưới ngòi bút của Isaia, người nghèo đích thực là người cậy dựa phó thác vào Chúa và sống công chính ngay lành đối với tha nhân. Ông cũng tiên báo, những ai thực thi công chính, được gọi là những người nghèo của Thiên Chúa, sẽ làm thành số dân còn sót lại, tức là những người trung thành với Chúa cho đến cùng, là thành phần ưu tuyển của dân riêng. Qua đó, chúng ta thấy giáo huấn Chúa dạy chúng ta: những người nghèo theo nghĩa trên đây sẽ là những người được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.

Nếu Bài giảng trên núi khởi đầu với lời chúc phúc cho người có tâm hồn nghèo khó, thì có thể nói, bảy lời chúc phúc kế tiếp cũng diễn giải những “người nghèo” được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Quả vậy, người nghèo là người chọn Chúa làm gia nghiệp. Một khi chọn Chúa làm gia nghiệp, họ sẽ cố gắng để sống hiền lành. Họ sẽ than khóc thân phận thụ tạo còn nhiều giới hạn của mình để canh tân bản thân; họ sẽ mong ước được nên công chính; họ sẽ biết cảm thương trước nỗi thống khổ của đồng loại; họ sẽ kết nối tình huynh đệ giữa con người với nhau; họ sẽ cố gắng sống cuộc đời thanh sạch để nên hoàn thiện và họ sẽ sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì sống công chính. Như thế, mối phúc “nghèo” là nền tảng cho các mối phúc khác. Đó cũng là điều kiện căn bản để người tín hữu có thể nên hoàn thiện như lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Một người nghèo sẽ hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa và coi Ngài như đích điểm của đời mình, phó thác nơi sự dẫn dắt của Ngài, là Cha nhân hậu và yêu thương.

Như đã nói ở trên, Đức Giêsu không chỉ chúc phúc bằng những lời nói suông. Chính Người đã đạt được những phúc lành trong những lời Người giảng dạy. Trên cây thập giá, Người đã trở nên người nghèo nhất trong số những người nghèo. Người đã đau khổ với người đau khổ, để giúp họ biết cười vui trong niềm phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Cũng trên cây thập giá, Người đã hòa giải muôn loài với Chúa Cha, để dẫn đưa con người tới bến bờ của hạnh phúc. Chính Người đã chịu bách hại cách bất công vì Chân lý và để diễn tả tình thương vô bờ của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Chúa Giêsu là LỜI CHÚC PHÚC vĩ đại nhất của Thiên Chúa cho nhân loại. Người là mẫu gương cho hết thảy mọi người chúng ta.

Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc khi là người Công giáo? Có khá nhiều người tín hữu sống Đạo theo thói quen. Việc tham dự Thánh lễ và các bí tích không thực sự đem lại cho họ niềm vui, vì họ chỉ làm chiếu lệ, hời hợt bên ngoài. Nếu chúng ta không cảm thấy hạnh phúc khi thực hành sống Đạo thì làm sao có thể thuyết phục người khác theo Đạo của chúng ta được. Tám mối phúc thật là những gợi ý cụ thể để chúng ta nên thánh. Tám mối phúc là tám ngả đường, cùng dẫn chúng ta đến gặp Thiên Chúa Tình Yêu. Ước chi những anh chị em không cùng tôn giáo nói về chúng ta: “Thật hạnh phúc khi được làm người Công giáo!”.

Trong những Chúa nhật đầu của mùa Thường niên, qua Phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội mời gọi chúng ta cất bước theo Chúa Giêsu bằng việc chuyên tâm thực hiện những điều Người chúc phúc. Chúng ta gọi những lời chúc phúc này là “Tám mối phúc thật”, tức là hạnh phúc lâu bền, có sức cảm hóa cá nhân mỗi người và góp phần lan tỏa sự thánh thiện trong thế giới hôm nay. Giữa một xã hội bát nháo điên đảo và đầy bạo lực, những ai trung thành tìm kiếm Chúa sẽ được gọi là những người khôn ngoan và họ sẽ đạt tới hạnh phúc thật.

---------------------------------

 

TN 4-A93: Những người được chúc phúc


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Thường người ta nghĩ rằng, những người được chúc phúc là những người giỏi, thông thái, người TN 4-A93


Thường người ta nghĩ rằng, những người được chúc phúc là những người giỏi, thông thái, người giầu sang, người có sức mạnh, người được việc, người thành công trên đời. Nhưng Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn khác. Những người được chúc phúc là những người nghèo, người hiền lành, người thương cảm người, người nhân ái, người kiến tạo hoà bình, người đơn sơ trong sáng, người khao khát điều tốt lành, và cả những người bị bách hại nữa.

1. Phải chăng người giầu hạnh phúc

Tiền bạc là một yếu tố rất quan trọng trong đại đa số đời sống con người. Nó ảnh hưởng đời sống gia đình, ảnh hưởng tâm lý cá nhân, và đôi khi là yếu tố chính yếu chi phối đời sống cá nhân và gia đình. Tiền bạc ảnh hưởng đặc biệt trên những người coi tiền bạc là quan trọng. Với những người này, “đồng tiền là Tiên là Phật”, đồng tiền có thể điều khiển tất cả, thậm chí cả lề luật: “kim ngân phá lề luật”. Dùng tiền, người ta mua được tất cả: “có tiền mua tiên cũng được”. Với những người này, tiền bạc có thể mua được vợ được chồng (nhưng họ không mua được tình yêu), có thể mua được hạnh phúc kiểu “nhất dạ đế vương” (nhưng họ không mua được hạnh phúc sâu thẳm trong tâm hồn mà bình an là dấu chỉ).

Trên đời, rất nhiều người đi tìm tiền bạc. Họ nghĩ rằng có tiền, là có quyền lực, danh giá, được trọng vọng, và hạnh phúc. Tuy vậy, thực tế không hoàn toàn như vậy. Bao nhiêu người giầu sang cũng khổ. Chưa đủ làm con người hạnh phúc khi chỉ thoả mãn những đòi hỏi vật chất. Gia đình là một yếu tố rất quan trọng. Nếu có tiền của, mà có người vợ hoặc chồng không chung thuỷ, mà con cái hư hỏng, thì làm sao người đó hạnh phúc được. Tiền bạc, không là một yếu tố làm người chồng hoặc vợ chung thuỷ, làm con cái ngoan và tốt lành. Nếu một người coi tiền bạc là quan trọng, và người chồng hoặc vợ, con cái họ cũng quan niệm như vậy, thì điều gì sẽ xảy ra? Những người này có thể nghĩ: tại sao tôi phải trung thành với người chồng hay vợ của tôi, khi người khác có thể cung cấp cho tôi hơn điều người chồng hay vợ hiện tại cung cấp cho tôi, tại sao tôi phải trung thành khi tôi thích người này người kia, tại sao tôi phải “sống tốt” theo tiêu chuẩn luân lý, mà cha hoặc mẹ tôi không sống theo đó. Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ gian ác. Nếu người nào coi tiền bạc như phương tiện, người đó sẽ tốt; nhưng nếu ai coi tiền bạc là nhất, và họ chỉ biết đi tìm tiền, thì họ sẽ bất hạnh.

Biến cố của những cuộc đảo chánh chính trị, những cuộc chiến tranh, những tai họa, chẳng hạn cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diệm, biến cố 30 tháng 4, biến cố 11 tháng 9 ở World Trade Center, cuộc chiến Afganistan mới đây. Bao người giầu và quyền thế, bỗng chốc trở thành bình thường. Những biến cố đó, tuy dù tiêu cực, nhưng cũng giúp con người nhận ra sự thật về con người.

2. Nghèo làm sao hạnh phúc

Những người bị bách hại, là những người không còn hoặc không có quyền lực, bị người khác đàn áp và làm khổ. Mạng sống họ bị đe doạ, nhân phẩm không được tôn trọng, không có quyền lợi; tất cả những điều này giúp họ nhận ra điều gì trường tồn, đâu là giá trị thật trên đời. Trong hoàn cảnh khốn cùng, họ nhận ra giá trị đích thực của giầu có, tài năng, và chức vị. Thiên Chúa lúc đó là hy vọng cuối cùng của họ.

Khi một người nhận biết thực tại quan trọng “Thiên Chúa và con người”, và rồi thương cảm người bất hạnh, thương những người túng thiếu, thương cảm những người đang bị nô lệ bởi bao ràng buộc vật chất và tinh thần, và sẵn sàng giúp đỡ những người này, thì họ là những người được chúc phúc. Họ hạnh phúc ngay trong cuộc sống này.

Lời Chúa trong thư gởi tín hữu ở Corintô cho thấy, đa số các Kitô hữu không là những người khôn ngoan thông thái theo tiêu chuẩn người đời, không phải là những người giầu sang quý phái, không phải là những người thế lực, nhưng Thiên Chúa đã chọn để mặc khải cho họ biết điều làm con người hạnh phúc.

3. Hạnh phúc đích thực

“Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong được vào”. Có nhiều người sau một thời gian dài trong cuộc sống, mới nhận ra điều mà các Kitô hữu được nhận biết qua lời dạy của Chúa về tiền bạc, về danh vọng, về quyền lực. Họ phải trả một giá khá đắt để nhận ra bài học đó, và đôi khi khá trễ trong đời.

Hạnh phúc đích thực hệ tại một đời sống trong sáng, coi con người là quan trọng, yêu thương giúp đỡ người khác, nhân ái tha thứ những lỗi lầm của con người. Hạnh phúc ở đây không nhằm thoả mãn những đòi hỏi của xác thịt vật chất, nhưng là hạnh phúc khi thấy người khác vui và hạnh phúc, khi thấy mình giúp người khác bớt buồn và vui hơn.

Hạnh phúc đích thực có Thiên Chúa là nền tảng. Hạnh phúc đích thực không chỉ là hạnh phúc đời sau, nhưng là hạnh phúc ngay ở đời này. Niềm vui con người cảm nghiệm từng ngày trong đời, khi họ nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban, khi họ nhận ra Thiên Chúa dùng mình để giúp người khác nhận ra sự thật, giúp người khác được giải phóng khỏi quan niệm sai lầm để vui sống.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn kể một vài người giầu không hạnh phúc, một vài người nghèo hạnh phúc mà bạn biết qua kinh nghiệm.

2. Đâu là những bất lợi của giầu và nghèo? Nếu được chọn giữa giầu và đẹp (nữ), giữa giầu và giỏi (nam), bạn chọn điều nào? Tại sao?

3. Hiện tại bạn có hạnh phúc không? Tương lai bạn có thể hạnh phúc không? Tại sao?

-------------------------------

 

TN 4-A94: Chỉ mong Ngài lấy đi


(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

 

Trong những ngày Tết vừa qua, có lẽ cái từ được nhắc đến nhiều nhất đó là từ “PHÚC”; bởi chưng TN 4-A94


Trong những ngày Tết vừa qua, có lẽ cái từ được nhắc đến nhiều nhất đó là từ “PHÚC”; bởi chưng, đó chính là một từ mà nội hàm mang đậm ý nghĩa của lời chúc, của ước mơ, của niềm hy vọng…đẹp nhất dành cho nhau trong những ngày đầu năm. Chính vì thế, cố hiền nhân thi sĩ Nguyễn Công Trứ đã “nhân cách hóa” chữ “PHÚC” (“ÔNG PHÚC”) trong câu đối Tết để đời:

“Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.

Quan niệm và triết lý của Á Đông-Trung Hoa về “PHÚC” rất phong phú và tế vi. Điều nầy được dẫn chứng qua chính hình tượng chữ PHÚC () hình thành bởi bộ Thị (hoặc Kỳ ) có hình dạng “Bàn thờ” và ký tự PHÚC () được ghép bởi 3 tự: NHẤT (), KHẨU (), ĐIỀN () có hình dạng “Đôi tay nâng bình rượu” (Hình thức ký tự theo Giáp Cốt Văn) [1]. Qua cách chiết tự đó, nhiều người đã định nghĩa PHÚC chính là cuộc sống yên vui, đầy đủ như bình rượu đầy tràn dâng cúng thần linh[2]. Và cũng theo quan niệm và văn hóa Trung Hoa được ghi lại trong KInh Thi, cái Phúc tròn đầy luôn bao gồm 5 điều (NGŨ PHÚC): thọ (sống lâu), phú (giàu có), khang ninh (mạnh khoẻ bình an), du hảo đức (đức tốt lâu dài), khảo chung mệnh (chết già, chứ không phải chết non hoặc chết vì tai nạn). Cũng có nguồn khác cho rằng, “NGŨ PHÚC” bao gồm: phú, quý, thọ, khang, ninh”. Phú là giàu. Quý là sang. Thọ là sống lâu. Khang là mạnh khỏe. Ninh là bình an.[3]

Trong khi đó, giáo huấn xuyên suốt của truyền thống mạc khải Cựu Ước thì dạy rằng: hạnh phúc đích thực đó chính là Thiên Chúa; cụ thể hơn, đó là được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa (Câu chuyện sáng tạo và vườn địa đàng: St 1-2; chuyện tổ phụ Hênóc được đem đi: Kn 5,24; Êlia được cất đi: 2 Vua 2,11… để ở với Thiên Chúa trong một không gian đặc biệt; hạnh phúc cũng chính là được ở với Thiên Chúa ngay nơi thánh điện của trần gian (Tv 63); và nhất là khi thực thi thánh chỉ của Thiên Chúa (Tv 1), là bước đi và chọn lựa “sự khôn ngoan” như là hiện thân chính Chúa và ân điển của Ngài (Châm Ngôn 3, 13-18 và Giảng Viên 14,20-15,10)…Vì thế, có thể tóm kết quan niệm về phúc của Cựu ước qua câu nói của một hiền nhân trong sách Gióp: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22, 21).[4]

Từ truyền thống giáo huấn đó, các ngôn sứ không ngừng gióng lên sứ điệp canh tân và hoán cải mỗi khi dân Ít-ra-en đi lạc xa đường lối huấn lệnh của Thiên Chúa, tìm kiếm hạnh phúc ảo tưởng nơi những thực tại trần thế, nơi các thần tượng giả trá, nơi sự giàu có thế gian và quay lưng lại với Thiên Chúa. Có thể nói, sứ điệp canh tân và hoán cải của các ngôn sứ tập chú vào chính nội dung nầy: Thiên Chúa chính là gia nghiệp, là điểm tựa; và con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nhận ra thân phận khó nghèo, nhỏ bé của mình để tựa nương và phó thác nơi Thiên Chúa, như lời của ngôn sứ Sôphônia trong Bài đọc 1 hôm nay:

Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh ĐỨC CHÚA.
Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ. (Xp 3,12-13)

Nối tiếp truyền thống của các sứ ngôn và đưa tới một bình diện cụ thể hơn, rõ nét hơn, Đức Kitô đến loan báo: “Phúc cho ai khó nghèo, vì Nước Trời là của họ”. Toàn bộ bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” mà Tin Mừng Matthêô vừa nhắc lại cho chúng ta là “bản đúc kết” súc tích về con đường hạnh phúc đích thực Thiên Chúa đề nghị cho con người và cũng là “lời chúc thân thương của Thiên Chúa” dành cho những ai đang dấn thân trên con đường phúc thật ấy.

Để cảm nhận được những lời chúc phúc nầy, hay nói cách khác, để cảm nhận những ai thực sự là “kẻ nghèo có phúc”, chúng ta thử lắng nghe những dòng suy niệm của nhà chú giải Kinh Thánh Noel Quesson:

“Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Ôi ! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy ?

Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười…”[5]

Và rồi, tiếp bước theo Chúa Giêsu nghèo khó để cũng trở thành “kẻ nghèo có phúc”, Tin Mừng dã kể cho chúng ta:

– Giàu có ổn định với bàn đếm tiền của nghề thuế vụ, Lêvi đã chọn một “kẻ nghèo có phúc” để trở thành một Matthêô Tông đồ, theo chàng thợ mộc Giêsu sống đời “màn trời chiếu đất” để dấn thân cho công cuộc rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

– Giàu có như ông ty trưởng Thuế vụ Gia-kê, nhưng ông vẫn là “kẻ nghèo có phúc”, vì ông đã dám tước bỏ cái địa vị cao sang để trèo lên cây sung mà nhìn Đức Kitô, rồi sau đó là cuộc đổi đời để yêu thương và chia sẻ.

– Bụi đời như cô gái làng chơi M.Mađalêna, nhưng lại là “kẻ nghèo có phúc” vì cô đã biết nhỏ những giọt nước mắt sám hối để xin ơn tha thứ và mau mắn làm người đưa tin Chúa sống lại.

– Phản bội như Phêrô 3 lần chối Chúa, nhưng cũng là “kẻ nghèo có phúc” vì ông đã khóc lóc trở về để biến cuộc đời thành một lời đáp tín trung: “Bỏ Thầy con biết đến với ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.

– Trần trụi khốn nạn như tên trộm bên hữu Chúa vào chiều Thứ Sáu Khổ nạn, nhưng anh ta là “kẻ nghèo có phúc” khi biết ngước mắt về phía Chúa để thân thưa: “Xin nhớ đến tôi khi Ngài vào Nước Ngài hôm nay”, và tức khắc đã được đáp trả: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”…

Và chúng ta không quên dụ ngôn “Người Pharisiêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện”. Chúa Giêsu đã kết luận: “Người nầy ra về sẽ nên công chính, còn người kia thì không”. Người được nên công chính đó chính anh chàng thu thuế đứng cuối đền thờ đấm ngực ăn năn: “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con là kẻ có tội”. Quả thật anh chính là “kẻ nghèo có phúc” vì chấp nhận thân phận yếu hèn tội lỗi để phó thác cho lòng xót thương của Thiên Chúa bao dung…

Và nối tiếp “đường đi của Tin Mừng” đó, suốt 2000 năm nay đã có biết bao nhiêu “kẻ nghèo có phúc”, như Anê, Cê-ci-li-a, Au-gus-ti-nô, Mo-ni-ca, Tê-rê-xa hài đồng, Phan-xi-cô As-si-si…như cha thánh Maximilien Kolbe, như Mẹ Thánh Têrêxa thành Calcutta, như Á Thánh An-rê Phú Yên, Các Thánh Tử đạo Việt nam…và hằng ngày, khắp nơi hôm nay, có biết bao nhiêu người dám “đập bể bình dầu thơm quí giá cuộc đời”, dám “bán đi những thửa ruộng màu mỡ cuộc sống” để phục vụ Đức Kitô trong đời thánh hiến, trong chức linh mục, trong vai trò giáo lý viên, tông đồ giáo dân…Trước mặt người đời, trong bậc thang xã hội hoặc với sinh mệnh chính trị, có thể họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, là những người bị trù dập bách hại, là những thức “rác rưởi bỏ đi”, nhưng, như lời Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…”.

Thế nhưng, ngày hôm nay người ta hay dị ứng với chữ “nghèo”, mặc cảm với cái nghèo; và nói tới nghèo là cứ nghĩ ngay tới “miếng cơm manh áo, cái xe, cái nhà, con đi học, bệnh tật thuốc thang…”. Và cũng chính vì thế càng lúc con người càng trở nên nghèo nàn thực sự về phương diện tâm linh, khi cứ tất bật toan tính toàn chuyện làm ăn, “phá lẫm cũ xây lẫm mới”, để rồi khép kín trái tim và tâm hồn trước Thiên Chúa và anh em đồng loại.

Cơn đại dịch “Coronavirus” (Hay còn được gọi nôm na là “dịch cúm Vũ Hán) đang làm rung chuyển thế giới từ những ngày đầu năm Canh Tý, và là một cảnh báo thẳng thừng: vật chất, khoa học, kỷ thuật, kinh tế, chính trị…không bao giờ là là một bảo đảm cho hạnh phúc của nhân loại. Chỉ một con virus nhỏ thôi cũng đủ làm tiêu vong mọi thứ. Chính vì thế, chúng ta cần tìm kiếm một con đường khác, một bảo đảm khác cho hạnh phúc đích thực. Đó là con đường “Phúc thật của Tin Mừng”, một con đường “hẹp”, một con đường “chông chênh” và đôi khi trở thành “ngược dòng” đối với tâm thức của nhân loại muôn nơi muôn thuở.

Nhắc tới cơn “đại dịch Vũ Hán” hôm nay, chúng ta đừng quên một truyền thuyết của nhà Phật: “chiếc trâm của người thiếu phụ nghèo Lộc Nương”:

Thiếu phụ nghèo Lộc Nương chỉ có một chiếc trâm cài tóc bằng gỗ, đã thể hiện lòng thành, cúng cây trâm cho chùa Tế Vũ để đúc chuông trừ tà dịch. Sư đúc chuông lấy vàng bạc đúc còn chiếc trâm ném đi. Chuông đúc 3 lần không kêu lại có in lõm hình chiếc trâm trên thân. Sau nhớ lại, thành tâm sám hối, quyết tìm lại chiếc trâm, chuông tự động kêu vang và hình cây trâm vá lại chỗ lõm. Tà dịch được xua trừ.

Vâng, thế giới hôm nay, cuộc đời hiện tại luôn cần những “chiếc trâm của người thiếu phụ nghèo Lộc Nương”, luôn cần những kẻ như Phanxicô Assisi (1181-1226), không những là chứng nhân tiêu biểu của Đức Khó Nghèo Kitô giáo, của Tin Mừng Bát Phúc, mà còn là người đã trân trọng “đính hôn cuộc đời với cô Khó Nghèo”, một ý tưởng, một nhân đức, một quan niệm sống… được ngài nhân cách hoá như một ngôi vị: CÔ NGHÈO (LADY POVERTY)[6]

Tuy nhiên, con người thường quay lưng trước những đòi hỏi của Tin Mừng, như người thanh niên giàu có đã sụ mặt bỏ đi khi nghe Chúa Giê-su mời gọi: “Con hãy về bán hết mọi của cải, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta”…, nên lời nguyện sau đây của đại thi hào Tagore vẫn còn cần thiết cho mỗi người chúng ta:

Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con
Mong chẳng còn gì là của con
Để con được trắng tay
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy
Con được chọn Chúa mãi là của con
Chỉ mong Ngài xoá đi
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu
Mong chẳng còn gì ràng buộc con
Để con được ngước lên
Con tìm được Ngài là chân lý
Con được cùng Chúa đồng hành luôn
Chỉ mong Ngài cất đi
Mong chẳng còn gì để nắm giữ
Mong chẳng còn gì mà tự tôn
Để con chỉ biết yêu
Yêu một mình Ngài trọn đời con
Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.
-------------
[1] Giáp Cốt Văn: Một kiểu ký tự chữ Hán cổ trên mai rùa (Giáp) và xương thú (Cốt). Nguồn: thuphapdungpham.com
[2] Nguồn: thuphapdungpham.com
[3] Nguồn: mynghehaiminh.vn
[4] Xem thêm 2 bài viết của hai tác giả sau:
– Lê Phú Hải OMI: Quan niệm hạnh phúc theo Kinh Thánh Cựu Ước. Nguồn: hoaxuongrong.org
– Lm. Thái Nguyên: Hạnh phúc trong cuộc đời. Nguồn: simonhoadalat.com
[5] Noel Quesson: Chúa Nhật VI Thường niên C. Nguồn: Trang mạng giáo phận Phú Cường: giaophanphucuong.org
[6] Trang bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia: “Người ta kể lại rằng khi cố từ chối những trò giải trí và những buổi hội hè đình đám với bạn bè, những người này trêu chọc Francis và hỏi có phải cậu sắp kết hôn không, câu trả lời là “phải, với một cô dâu đẹp hơn bất cứ người phụ nữ nào mà các cậu từng gặp” – Francis ngụ ý “sự nghèo khó” (lady poverty), một thuật từ mà ông thường sử dụng sau này.”

---------------------------------

 

TN 4-A95: Hạnh phúc đích thực


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Vào sớm mùng 1 Tết, người ta đến đình chùa, đền phủ để hái một cành lộc non mang về nhà TN 4-A95


Vào sớm mùng 1 Tết, người ta đến đình chùa, đền phủ để hái một cành lộc non mang về nhà, với mong muốn được Thần linh thiêng ban cho phúc lộc suốt năm. Nhưng phong tục hái lộc đầu năm bắt nguồn từ đâu? Chuyện xưa kể rằng, nhân một ngày đầu xuân, khi các con đã khôn lớn, Vua Hùng bèn cho mời các Lạc Hầu, Lạc Tướng, thần dân và các con đến truyền dạy rằng: "Nay các con đã khôn lớn, ta muốn các con đi dạy dân làm ăn và trấn cứ các nơi". Nghe cha phán truyền, các con đều bịn rịn không muốn chia tay mà muốn ở lại cùng cha mẹ, các Lạc Hầu, Lạc Tướng, dân làng chưa biết tấu trình với Vua thế nào thì Hoàng hậu nói nhà Vua: "Các con đều luyến mẹ, thương cha không muốn đi xa, thiếp nghĩ rằng Nhà vua nên làm lễ tế trời đất rồi dùng cách hái lộc chia cho các con… các con, ai nhận được cành lộc đi phương nào thì phương ấy mà đi". Thế rồi, làm Vua làm lễ tế trời đất và cầu trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hòa, muôn dân no ấm. Chờ lúc sang canh, Vua cùng Hoàng hậu vào rừng hái lộc đầu xuân. Sáng sớm, khi mặt trời xuất hiện đằng Đông, Vua vời các con chia cho mỗi người một cành lộc và dạy rằng: “Các con hãy mang cành lộc này đi trấn giữ các phương răn dạy dân làm ăn, trên đường đi nếu gặp điều gì không may, các con hãy mang cành lộc còn đượm sương sớm này mà vẩy lên trời thì thú dữ, ma tà sẽ bỏ chạy không hại được các con và các con sẽ được hạnh phúc”. Từ đó, phong tục xin lộc đầu xuân đã trở thành nét văn hóa Tết trong đời sống của người Việt Nam.

Điều quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta là gì? Đi tìm hạnh phúc? Hạnh phúc là gì? Tiếng pháp là Bonheur (Bon là tốt, heur là thời giờ) hạnh phúc là thời giờ tốt lành cho mình), tiếng Tàu là  Xìngfú (hạnh phúc), tiếng Anh là Happy (hạnh phúc). Hạnh phúc là gì? Là phần thưởng cả nội tâm lẫn thể xác (chứ không phải vật chất). Cho nên, có những người tìm tìm vật chất để được hạnh phúc thì lầm vì cái vật chất chỉ cho cái khoái lạc (khoái là cái mau chóng nhẹ nhàng, lạc là vui, cái vui đó mau chóng qua mau). Ví dụ, uống rượu cho đã thì khoái lạc chứ không hạnh phúc. Uống vào ra đường phạt (7 triệu) chứ hạnh phúc gì; mình chửi sướng cái miệng, thỏa mãn chính mình nhưng xong mình có tội, mất một người chứ hạnh phúc gì! Vì vậy, hạnh phúc là phần thưởng nội tâm và thể xác, một cảm giác bình an, một cảm giác thỏa mãn vì mình được thưởng vì đã (1) chấp nhận hoàn cảnh, (2) mình làm điều tốt, (3) mình gieo hạnh phúc cho người khác.

Thật thế, lâu nay chúng ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất... nên người người ta đi tìm và vẫn hằng khao khát mà không biết rằng hạnh phúc phần thưởng Chúa ban cho khi mình biết chấp nhận hoàn cảnh của cuộc đời mình, làm điều tốt và gieo hạnh phúc cho người khác. Qủa thế, Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, của hoan lạc, an bình và của Tình Yêu. Vì chưng, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận hoàn cảnh giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoài trừ tội lỗi. Ngài chấp nhận sống kiếp phàm nhân, chịu nạn chịu chết để cứu độ nhân loài. Và khi sống trên trần gian, Ngài đã làm biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho con người: rao giảng Tin Mừng, yêu thương, phục vụ chữa lành bệnh nhân, cho kẻ đói ăn, tha tội và cho kẻ chết sống lại... Và cuối cùng Ngài gieo hạnh phúc cho con người là chết vả sống lại để cho con người được giao hòa với Chúa và với nhau, kết hiệp với Chúa, được sống dồi dào đời này và sống lại trong ngày sau hết. Cho nên, Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình và hạnh phúc là đang khao khát Chúa, chạy đến với Chúa và chính Ngài sẽ ban cho.

Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng, tức người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời. Nói đâu xa, thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian... nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi chỉ thấy bóng trăng in hình đáy nước nhảy xuống tìm cho ra nào ngờ chết ngộp trong tội lỗi mà không biết rằng Thiên Chúa mới là 'Vầng Trăng' thật, là Hạnh Phúc thật đang ở bên mình, với mình và trong mình nên Anh Augustinô đã ngoi lên khỏi vũng lầy tội lỗi về với Chúa và Chua đã ban cho Ngài hạnh phúc đích thực là thành nhân và thành vị Thánh vĩ đại.

Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được. Vì vậy, qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa và Ngài sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc đích thực trong đời sống này: 

* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban...

* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người...

* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác...

* Khao khát trở nên người công chính,

* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người...

* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công và tội lỗi...

* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau...

* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm và thánh thiện...

Vậy, bí quyết để có hạnh phúc đích thực cho mình và cho tha nhân đã rõ, vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan, ý chí nghị lực và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay như một Lộc Thánh mà chúng ta hái được trong những ngày đầu năm này và hãy sống Lộc Thánh trong năm và suốt đời ta hầu làm cho cuộc sống chúng ta có được hạnh phúc như lòng chúng ta và lòng Chúa ước mong. Amen.

--------------------------------

 

TN 4-A96: ĐƯỢC THUỘC VỀ “SỐ ÍT CÒN SÓt LẠI”

 

Xin Chúa thương ban ơn khiêm nhường để trong khi sống Tin Mừng Đức Giêsu giữa mọi người TN 4-A96


TMĐP- Xin Chúa thương ban ơn khiêm nhường để trong khi sống Tin Mừng Đức Giêsu giữa mọi người, chúng ta vui mừng nhận ra mình thuộc về Giáo Hội, là “số ít còn sót lại” được thương xót và sai đi loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu thương và cứu độ hết mọi người.

Trong khi sống đời Kitô hữu, mỗi người chúng ta cũng có lúc tự đặt câu hỏi về cách sống của mình trước cái nhìn của người khác, và vấn đề được đặt ra: Tôi phải sống  đời Kitô hữu thế nào giữa một thế giới ngày càng không thiện cảm với Giáo Hội?

Tôi sẽ thích nghi với những cái được gọi là giá trị của trần thế để lôi kéo thiện cảm của người chung quanh, hay tôi phải co mình, rút mình khỏi xã hội để tự bảo vệ những giá trị của đời sống Kitô hữu?

Phung Vụ Lời Chúa trong chúa nhật này mở ra cho chúng ta đường hướng  phải chọn, và  con đường phải đi để xứng đáng là  môn đệ Đức Giêsu.

Trước hết, ngôn sứ Xôphônia giúp chúng ta nhận ra vấn đề qua lời sấm của ông nói về con cái Ítraen, khi Ítraen bị các dân nước  chung quanh như Môáp, Ammon ở phương Đông, dân Cút ở phương Nam, Átsua ở phương Bắc, và quân Philitinh ở phương Tây đe dọa xâm chiếm và tai  họa mất nước ngày càng gần kề.

Ngôn sứ đã tiên báo về “một số ít còn sót lại”của Ítraen sẽ được  Thiên Chúa cứu trong ngày thịnh nộ khủng khiếp ấy . Họ là “những người nghèo hèn trong sứ xở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, những kẻ tìm kiếm Thiên Chúa, và sự công chính, đức khiêm nhường”(Xp 2,3), nghĩa là thay vì chạy theo thế gian, họ tìm kiếm Thiên Chúa; thay vì thoả hiệp với các thế lực chính trị ma mị,  phỉnh lừa, dẫn dắt họ  vào con đường chống lại Thiên Chúa, họ bám chặt vào đức công chính; thay vì đi theo quân thù để được vinh thân phì gia, họ kiên trì thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa với lòng khiêm nhường, tín thác tuyệt đối vào Ngài.

Họ khác số đông trong ítraen đã “không cậy trông vào Đức Chúa, chẳng đến gần Thiên Chúa của mình”(Xp 3,2). Số đông này gồm “các thủ lãnh như sư tử rống, các thẩm phán như sói ăn đêm, các ngôn sứ phản bội, lại  ba hoa khóac lác, các tư tế làm ô uế đền thờ và vi phạm Lề Luật” ở Giêrusalem (X. Xp 3,3-4). Và Thiên Chúa sẽ trút hết trên đầu số đông này cơn thịnh nộ của Ngài (x. Xp 3,8). Trái lại, Ngài sẽ cho sót lại  từ Ítraen “một dân nghèo hèn và bé nhỏ” biết “tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa”(Xp 3,12).

“Số dân Ítraen còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác, bất công, cũng không ăn gian nói dối, và miệng lưỡi sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ.”(Xp 3,13).

Hình ảnh “một dân nghèo hèn và bé nhỏ còn sót lại”của Ítraen chính là đám dân nghèo khó, sầu khổ, hiền lành, khao khát điều công chính, tìm xây dựng hoà bình,  hay chạnh lòng trắc ẩn, có tâm hồn trong sạch, bị  vu khống, nguyền rủa, và chịu bách hại vì danh Thiên Chúa đã được chính  Đức Giêsu tuyên dương và chúc phúc trên núi Bát Phúc, khi Ngài công bố Hiến Chương Nước Trời: phúc cho họ, vì họ được Đất Hứa làm gia nghiệp; phúc cho họ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an; phúc cho họ, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng; phúc cho họ, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa; phúc cho họ, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương ; phúc cho họ, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa; phúc cho họ, vì Nước Trời là của họ; phúc cho họ, vì phần thưởng trên trời của họ thật lớn lao. (x. Mt 5,3-12).

Vâng, “số ít còn sót lại”chính là Giáo Hội được kêu gọi làm Muối, Men và Ánh Sáng cho đời. Vì là Muối để ướp mặn đời, Men để làm dậy cuộc đời, Ánh Sáng để soi dẫn đường đời, nên Đức Giêsu không tách môn đệ của Ngài khỏi người đời, hay đưa họ ra ngoài thế giới, nhưng sai họ đi vào cuộc đời, ở  giữa lòng đời, để hành động giữa đời và sống với đời theo tinh thần Tin Mừng.

Tinh thần ấy được biểu hiện  cụ thể và sống động  trong Bát Phúc, là những giá trị của Tin Mừng có sức biến đổi thế giới, thay đổi lòng người theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế, hạnh phúc được Đức Giêsu hứa ban không hạn hẹp trong nhãn giới  của thế gian, nhưng mở ra viễn cảnh một vương quốc hạnh phúc đời đời sau cuộc sống này.

Tất nhiên, để đi vào “số ít còn sót lại” là Giáo Hội, và để sống tinh thần của Tin Mừng như hiến chương Nước Trời đòi hỏi, người môn đệ của Đức Giêsu không tránh khỏi những đàm tiếu, thị phi, khinh mạn, kể cả kỳ thị, tẩy chay, loại trừ của người đời, bởi dưới mắt thế gian, chúng ta là những người điên khùng, như thánh Phaolô đã  qủa quyết với kinh nghiệm sống đời môn đệ Đức Giêsu của bản thân: “ Anh em thử nghĩ xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ  khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người qúy phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người”(1 Cr 2, 26-29).

Xin Chúa thương ban ơn khiêm nhường để trong khi sống Tin Mừng Đức Giêsu  giữa mọi người, chúng ta không sợ hãi, mặc cảm, hay co mình, thu mình tránh né, nhưng vui mừng nhận ra mình thuộc về Giáo Hội, là “số ít còn sót lại” được thương xót và sai đi loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu thương và cứu độ hết mọi người.

Jorathe Nắng Tím

---------------------------------------

 

TN 4-A97: LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU


Tgm. Ngô Quang Kiệt

 

Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền TN 4-A97


Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.

Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.

Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.

Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?

2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?

3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?

-----------------------------------

 

TN 4-A98: HẠNH PHÚC KHI TRAO BAN


Jos. Lm. Tạ duy Tuyền

 

Cuộc sống con người luôn đòi phải liên đới với nhau, vì “không ai là một hòn đảo”. Có liên đới TN 4-A98


Cuộc sống con người luôn đòi phải liên đới với nhau, vì “không ai là một hòn đảo”. Có liên đới cũng đồng nghĩa con người phải có trách nhiệm với nhau đến nỗi như ca dao tục ngữ từng nói: “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, “đồng bệnh tương lân” v.v… Không người dân Việt nào mà lại không thuộc nằm lòng những câu ca dao nói về tính cộng đồng, liên đới và đoàn kết với nhau:

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Sống liên đới với tha nhân trong vui buồn sướng khổ cũng là cách chúng ta đạt được hạnh phúc Nước Trời như lời Chúa Giê-su  đã nói hôm nay. Con đường hạnh phúc của người môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, ai có tấm lòng hiền hậu, ai dám chấp nhận khổ đau, ai yêu thích sự chính trực, ai thương xót đồng loại, ai giữ lòng trong sạch, và phúc cho ai biết xây dựng hoà bình.

Có một phụ nữ kể rằng chị nằm mơ, thấy mình đang bước vào một cửa hàng mới khai trương. Chị rất ngạc nhiên nhìn thấy Chúa ngồi đằng sau quầy. Chị hỏi:

“Chúa bán gì ở đây vậy?”Chúa trả lời:
“Mọi thứ mà lòng người ao ước”.Thú vị quá, người phụ nữ hỏi mua những thứ tốt nhất mà con người có thể ước mơ:
“Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, hạnh phúc, khôn ngoan, và sự tự do khỏi mọi nỗi sợ hãi. Không chỉ cho con mà cho hết mọi người”.
Chúa mỉm cười nói:“Chắc con chưa hiểu rồi. Ta không bán hoa quả. Ta chỉ bán hạt giống thôi”.
Hạt giống trong câu chuyện này đòi hỏi chúng ta phải chăm sóc tận tuỵ hy sinh mới có hoa trái mà thưởng thức. Hạt giống ấy được gieo vãi, trồng tỉa, chăm bón, kết quả là do sự quyết tâm và tình yêu của mỗi người. Đây chính là trách nhiệm về chính cuộc đời mình.

Trách nhiệm ở đây là nỗ lực góp phần với Chúa để làm nên cuộc sống của mình như Chúa ước mong và cũng là như mình mong ước. Điều quan trọng ở đây là trung thành, chuyên chăm, cần cù, sáng tạo, tận lực mới có ngày bội thu.

Những hạnh phúc ấy chúng ta vẫn thầy bàn bạc trong cuộc sống chung quanh. Có hạnh phúc của người mẹ vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy,  phố chợ. Có hạnh phúc của những con người đang quên mình vì tha nhân, họ làm việc mà không mong đền đáp. Có hạnh phúc của những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: “Tay bưng bát muối chấm gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau”. Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có lẽ ở đời, chẳng  ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.

Chúa Giê-su đã sống điều đó khi hết mình phục vụ tha nhân. Ngài rong ruổi suốt dọc dài dải đất Palestina để gieo vãi tình yêu phục vụ cho mọi phận người. Ngài đã sống cho tha nhân và vì tha nhân. Hạnh phúc của Ngài chính là được hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.

Con người chỉ có hạnh phúc khi trao ban tình yêu và lòng quảng đại. Thật hạnh phúc cho ai biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống tình yêu và hạnh phúc cho đời. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.

----------------------------------

 

TN 4-A99: CHÚA KÊU GỌI TA LÀ KẺ NGHÈO HÈN VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA


Lm. Đa-minh Trần đình Nhi       

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Xp 2:3;  3:12-13;  1 Cr 1:26-31;  Mt 5:1-12a)

 

Sứ mệnh của Chúa Giê-su trước tiên là kêu gọi người ta sám hối và đón nhận Tin Mừng, vì Nước TN 4-A99


Sứ mệnh của Chúa Giê-su trước tiên là kêu gọi người ta sám hối và đón nhận Tin Mừng, vì Nước Thiên Chúa đã gần kề.  Nước Thiên Chúa đang mở rộng cửa cho hết mọi người không trừ ai.  Tuy nhiên muốn gia nhập Nước ấy, chúng ta phải biết Thiên Chúa dựa trên những tiêu chuẩn nào để kêu gọi chúng ta.  Có phải vì chúng ta là những người thông thái giàu sang?  Chúng ta có địa vị xã hội?  Nhất là chúng ta là những người tốt và thánh thiện, không phạm tội?  Tất cả đó không phải là những điều kiện Chúa đòi hỏi chúng ta, nhưng điều kiện duy nhất là chúng ta hãy thực thi lời Chúa Giê-su kêu gọi:  Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.  Lời Chúa hôm nay đặt câu hỏi cho chúng ta:  ai là những kẻ được kêu gọi vào trong Nước Thiên Chúa?

a)  Đó là những người thuộc “một dân nghèo hèn và bé nhỏ” (bài đọc 1).  Sau khi Ít-ra-en chia làm hai, phía bắc là nước Ít-ra-en và phía nam là nước Giu-đa, thì đời sống tôn giáo và luân lý của dân chúng đều suy đồi trước khi cả hai rơi vào tay ngoại bang và sống kiếp lưu đày.  Ngôn sứ Xô-phô-ni-a xuất hiện tại Giu-đa như người Thiên Chúa sai đến để hạch tội dân chúng cùng các nhà lãnh đạo.  Nhưng ngài cũng tiên báo việc Thiên Chúa sẽ “quét sạch” nước Giu-đa, mà vẫn “cho sót lại giữa Giu-đa một dân nghèo hèn và bé nhỏ”.  Vậy những kẻ còn sót lại này đã làm gì để giúp họ không bị tiêu diệt?  Ngôn sứ cho biết rằng trước khi xứ sở bị tiêu diệt, nếu những người này “thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa” mà “tìm kiếm Chúa, tìm sự công chính và tìm đức khiêm nhường” thì họ sẽ được Chúa bảo vệ trong ngày Giu-đa bị tàn phá.  Tuy nhiên ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng tiên báo rằng sau thời lưu đày, nếu đám dân nghèo hèn và bé nhỏ này vẫn “tìm nương ẩn nơi danh Chúa, không làm chuyện tàn ác bất công, không ăn gian nói dối, miệng lưỡi không phỉnh gạt”, thì Thiên Chúa sẽ tiếp tục chăn dắt họ và cho họ được hùng cường.  Với những lời hứa đầy hy vọng của Chúa từ miệng ngôn sứ Xô-phô-ni-a, chúng ta thấy Chúa đưa ra một tiêu chuẩn giản dị để tuyển chọn những ai muốn thuộc về đàn chiên Ít-ra-en Mới của Chúa:  họ phải nhận biết thân phận nghèo hèn và bé nhỏ của mình mà hoàn toàn tin cậy vào danh Chúa để sống dưới sự dẫn dắt của Người.  Ngôn sứ muốn ám chỉ Đấng Thiên Chúa trao cho sứ mệnh chăn dắt Ít-ra-en Mới chính là Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành vậy.

b)  Tiêu chuẩn Thiên Chúa tuyển chọn “kẻ nghèo hèn” cũng được thánh Phao-lô khai triển trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô (bài đọc 2).  Ngài phát biểu tiêu chuẩn ấy như sau:  Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn.  Trước hết, Phao-lô muốn giúp tín hữu Cô-rin-tô làm “phút hồi tâm” (anh em thử nghĩ lại xem!), để họ cảm tạ Chúa đã cho họ được tin kính Người và để họ luôn tự hào sống như một Ki-tô hữu chân chính.  Ở Cô-rin-tô, khi họ được Chúa kêu gọi thì họ không mấy ai “là kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, là kẻ quyền thế và là người quý phái”.  Tóm lại, họ thuộc thành phần nghèo hèn và bé nhỏ, như ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã nói đến ở trên.  Nhưng đường lối Thiên Chúa tuyển chọn họ khác với đường lối của loài người.  Thiên Chúa chọn những kẻ khờ dại, yếu kém và hèn mạt là để hạ nhục và hủy diệt những kẻ khôn ngoan, hùng mạnh và quý phái của thế gian.  Suy nghĩ về đường lối tuyển chọn ấy của Thiên Chúa, Phao-lô muốn nhắn nhủ tín hữu Cô-rin-tô đừng tự phụ, nhưng hãy khiêm nhường tin vào Chúa và sống công chính để được Người thánh hóa và cứu chuộc.  Rồi ngài đề ra một “luật vàng” để họ sống theo:  “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa”.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Giống như những người Ít-ra-en “còn sót lại” hoặc như các tín hữu Cô-rin-tô, chúng ta đều được Chúa tuyển chọn để sống theo đường lối Người qua lề luật của Tin Mừng mà chúng ta thường gọi là “Hiến chương Nước Trời”, hay Phúc thật tám mối.  Chỉ nghe qua là chúng ta nhận thấy ngay những điều Chúa Giê-su gọi là Mối Phúc đều đối nghịch với lối suy nghĩ và cách sống của người đời.  Tám Mối Phúc là tám câu hỏi đặt ra cho chúng ta:  Tại sao tôi phải sống với tâm hồn nghèo khó, sống hiền lành, sống với nước mắt thống hối, sống khao khát điều công chính, sống có lòng thương xót, tâm hồn phải trong sạch, phải xây dựng hòa bình và phải chấp nhận bị bách hại vì sống đàng hoàng?  Chúa Giê-su đã cho chúng ta câu trả lời ở phần thứ hai của mỗi Mối Phúc:  vì họ sẽ được… Tất cả những phần thưởng chúng ta sẽ được đó không chỉ là ước mong duy nhất của chúng ta sau khi chúng ta lìa trần, nhưng đó còn là những cơ hội, những tình huống, những điều kiện để chúng ta chiếu tỏa hình ảnh Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn đang sống.  Đúng thế, thực hiện các Mối Phúc qua lối sống Ki-tô hữu của mình chính là cách chúng ta tôn vinh Thiên Chúa và phụng sự Người, nhờ chúng ta giúp cho những người khác nhận biết hình ảnh Chúa trong chúng ta.

          Hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã kêu gọi và tuyển chọn ta là những kẻ nghèo hèn và bé nhỏ vào Nước của Người.  Người còn ban cho ta một vị Mục Tử và Lãnh Đạo là Chúa Giê-su để dẫn dắt ta, dạy dỗ và giúp đỡ ta sống theo luật Tin Mừng.  Nước Trời là của ta.  Đất Hứa là gia nghiệp của ta.  Thiên Chúa xót thương là Cha của ta.  Vậy tại sao ta không vui mừng hớn hở sống Tám Mối phúc ấy?

----------------------------------

 

TN 4-A100: TUYÊN NGÔN TÂM LINH


Trầm Thiên Thu

 

Khi nói đến tuyên ngôn, người ta thường nghĩ ngay tới tuyên ngôn độc lập của một quốc gia. Bài TN 4-A100


Khi nói đến tuyên ngôn, người ta thường nghĩ ngay tới tuyên ngôn độc lập của một quốc gia. Bài thơ tứ tuyệt “Nam Quốc Sơn Hà” được coi là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam – không rõ tác giả, nhưng thường được coi là của Lý Thường Kiệt, sau đó có “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.

Tâm linh cũng có bản tuyên ngôn đặc biệt: Bát Phúc, tức là Tám Mối Phúc – cũng gọi là Bài Giảng Trên Núi hoặc Hiến Chương Nước Trời. Trong Cựu ước có Thập Giới – tức là Mười Điều Răn, theo hướng “tiêu cực” một chút: ĐỪNG làm điều này, CHỚ làm điều nọ, CẤM làm điều kia. Tân ước có Bát Phúc, theo hướng “tích cực” hơn: PHÚC cho ai làm điều này hoặc thực hành điều kia. Cựu ước và Tân ước “song song” với nhau, có vẻ nghịch mà vẫn thuận – không hề đối lập.

Độc lập là tình trạng không lệ thuộc ai, nghĩa là được tự do. Có tự do là có hạnh phúc. Tự do tâm linh cần thiết hơn, vì không còn lệ thuộc tội lỗi nữa. Cả Cựu ước và Tân ước đều hướng con người về Chân-Thiện-Mỹ để có được bình an và tự do đích thực. Tự do không có nghĩa là phóng túng, xả láng, mà là tự do quyết định: sống theo luật hay không theo luật. Tự do sống theo luật Chúa là tự do làm theo ý Chúa, và chính “sự tự ép mình” đó lại chính là sự tự do đích thực – tự do yêu mến.

Quả thật, “Công Lý Chúa trường tồn, Luật Chúa là Chân Lý.” (Tv 119:142) Thật tuyệt vời đối với lời xác định của Thánh Gioan Tông Đồ: “Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.” (1 Ga 5:3-4) Những người tin theo Chúa luôn “vui thú với Luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày,” (Tv 1:2) họ “thích làm theo Thánh Ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng.” (Tv 40:9) Như vậy là hạnh phúc, vì “kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào.” (Tv 119:165) Hoàn toàn độc lập và tự do.

Con người như con ngựa chứng ngang bướng, thường ảo tưởng về mình nhưng lại yếu đuối và sa ngã. Sách Xô-phô-ni-a có lời hiệu triệu: “Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa.” (Xp 2:3) Lời hiệu triệu này cũng chính là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta ngày nay, chẳng trừ ai. Lời đó như “chiếc hàm thiếc” kiềm chế con ngựa vậy.

Là Đấng công minh và chính trực, Thiên Chúa chỉ yêu quý những ai sống khiêm nhường. Vì thế, Ngài xua đuổi những kẻ kiêu căng tự đắc, triệt hạ kẻ ngông nghênh tự phụ, như Ngài đã nói thẳng với dân Ít-ra-en: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ.” (Xp 3:12-13) Thà có ít người mà tốt lành còn hơn nhiều người mà toàn thứ dở hơi, xấu xa, độc ác, giả hình,… Kinh Thánh xác định: “Người triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt.” (G 22:29)

Thiên Chúa toàn năng và bất biến, chính Ngài “tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó,” và “giữ lòng trung tín mãi muôn đời.” (Tv 146:6) Ngài là Đấng chí công vô tư, không thiên tư tây vị bất cứ ai, yêu quý chân lý và công lý, vì thế Ngài “xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng những ai tù tội, và mở mắt cho kẻ mù loà.” (Tv 146:7-8a) Thật hạnh phúc cho ai nhận biết và hết lòng tôn thờ một Thiên Chúa tốt lành như vậy.

Thánh Gioan tông đồ xác định: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Vì thế, Ngài hay “mủi lòng”, luôn chạnh lòng thương những người thấp cổ bé miệng bị những kẻ ăn trên ngồi trước áp bức đủ kiểu. Mọi thời đều có lũ “đỉa người” hút máu dân lành, bóc lột tận xương tủy, áp bức tàn nhẫn mà không chút tình người. Nhưng Thiên Chúa mạnh mẽ đòi lại công lý cho họ: “Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.” (Tv 146:8b-9) Thiên Chúa toàn năng và quyền phép, không một thế lực hoặc thần lực nào địch nổi, vì Ngài “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:10) Chắc chắn những người chịu oan ức sẽ được Ngài giải thoát kịp thời.

Vì vậy, thật diễm phúc khi được tán dương Ngài: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.” (Lc 19:38) Tôn vinh Thiên Chúa không chỉ là niềm vinh dự mà còn là trách nhiệm của chúng ta – các thụ tạo của Ngài.

Nhưng vì là phàm nhân yếu đuối, chúng ta khó tránh khỏi những lúc xao lòng, dao động trước nghịch cảnh. Với lòng yêu thương, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người.” (1 Cr 1:26-29) Tự phụ hoặc tự mãn là do “cái tôi” quá lớn, loại gây ra các thứ tội. Nó không chỉ đáng ghét mà còn đáng sợ, thế nên Thánh Vịnh gia tha thiết kêu cầu: “Xin giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con.” (Tv 19:14a)

Phong cách sống của Chúa Giêsu luôn “khác người”, không giống ai, thậm chí là có vẻ “ngược đời”, theo dạng nghịch-lý-thuận. Thật vậy, cuộc đời Ngài luôn gắn liền với những mẫu tự T một cách lạ lùng: Trầm Tư (cầu nguyện), Thật Thà (chân lý), Thẳng Thắn (công lý), Tha Thứ (nhân hậu, thương xót), Trừng Trị (công minh). Thật tuyệt!

Một lần nữa, Thánh Phaolô xác định: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, hợp như lời đã chép rằng: AI TỰ HÀO THÌ HÃY TỰ HÀO TRONG CHÚA.” (1 Cr 1:30) Chỉ có điều đó mới là niềm hãnh diện cần thiết và đáng yêu thực sự.

Như đã nói trên đây, Cựu ước chú ý mệnh lệnh phủ định với chữ CẤM – tức là ép buộc, còn Tân ước chú trọng mệnh lệnh xác định với chữ NÊN – tức là khuyên răn. Rõ ràng Tân ước tích cực hơn Cựu ước, vì Tân ước không hề áp đặt hoặc bắt buộc, mọi người được sử dụng quyền tự do của mình mà chọn lựa và quyết định.

Qua trình thuật Mt 5:1-12, Thánh sử Mát-thêu cho biết rằng, khi thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Ngài ngồi xuống, và các môn đệ đến gần. Rồi Ngài dạy dỗ họ 8 điều khoản ngắn gọn để làm kim chỉ nam cho cuộc sống:

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Và rồi Ngài còn nói thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12) Lời này vừa là cách nhấn mạnh, vừa là lời giải thích, và cũng vừa là lời động viên những người bước theo Chúa. Bát Phúc cũng chính là Ánh Sáng soi đường dẫn lối cho các tín nhân trên bước đường lữ hành trần gian về Quê Trời, nếu không đi theo ánh sáng này thì chắc chắn sẽ lạc lối.

Đó là Bản Tuyên Ngôn Tâm Linh đầu tiên của nhân loại. Chắc chắn không có bản tuyên ngôn nào ngắn gọn và súc tích hơn nữa. Sau khi đọc Bản Tuyên Ngôn Nước Trời, vĩ nhân Gandhi (vị Cha già Đáng kính của dân tộc Ấn Độ và được tôn vinh như một thánh nhân) đã tuyên bố rằng Bài Giảng Trên Núi là bản tuyên ngôn hay nhất, và nhờ đó mà ông cảm thấy yêu mến Chúa Giêsu.

Lạy Thiên Chúa, nguyện xin Lời Chúa luôn là ngọn đèn soi bước đời chúng con và luôn là ánh sáng chỉ đường chúng con đi, (Tv 119:105) để nhờ đó chúng con biết tuân giữ các điều khoản mà Thầy Giêsu truyền dạy. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

-----------------------------

[1][1] Đây là kiểu hành văn “đóng khung”: tất cả bản văn nằm giữa hai thành ngữ ấy phải được giải thích dưới ánh sáng của thành ngữ ấy.

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây