Suy Niệm Tin Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi ABC Bài 1-50: Thiên Chúa duy nhất, nhưng có Ba Ngôi Vị ------------------------------------------ Năm A: Phúc Âm: Ga 3, 16-18 "Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian, nhờ Người mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa". - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Phúc Âm: Mt 28, 16-20 “Làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
Năm C: Phúc Âm: Ga 16, 12-15: "Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy; Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Làm sao định nghĩa được tình yêu. Đúng thế, ai trong chúng ta cũng muốn yêu và được yêu: BaNgôi ABC1
Làm sao định nghĩa được tình yêu. Đúng thế, ai trong chúng ta cũng muốn yêu và được yêu, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ lúng túng khi phải xác định tình yêu là gì, bởi vì tự bản chất tình yêu vốn là một màu nhiệm. Và cội nguồn của mọi tình yêu nơi chúng ta lại là chính Thiên Chúa, như thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Đây là một câu định nghĩa độc nhất vô nhị của Kitô giáo, bởi vì trước và sau Kitô giáo, chưa một tôn giáo nào đã gọi Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, Ngài đã yêu thương nhân loại bằng cách dựng nên con người từ hư vô để con người được chia sẻ phần vinh quang và hạnh phúc với Ngài.
Thế nhưng, con người đã quay lưng chống lại Thiên Chúa qua hành động phản bội của Adong Evà. Dầu vậy, Ngài vẫn yêu thương chúng ta bằng cách sai Con Một Ngài xuống thế, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, đúng như lời thánh Gioan tông đồ cũng đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Sở dĩ chúng ta gọi Thiên Chúa là tình yêu, bởi vì Ngài vừa tỏ mình cho chúng ta một cách cụ thể, lại vừa là một màu nhiệm chúng ta không bao giờ hiểu thấu.
Đúng thế vì yêu thương, Ngài đã tỏ mình cho chúng ta qua Con Một của Ngài. Đồng thời qua người con ấy, chúng ta thấy được khuôn mặt đầy yêu thương và giàu lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Kitô đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương. Ngài đã sống kiếp sống lần than của con người và đã chết một cái chết nhục nhã để nói với chúng ta rằng:
- Thiên Chúa luôn yêu thương con người.
Một trong những nhu cầu chính đáng và cần thiết của tình yêu là muốn được bộc lộ. Bằng cuộc sống và bằng chính cái chết của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bộc lộ, đã tỏ tình với con người để con người hiểu rằng Ngài đã yêu thương chúng ta cho đến cùng.
Chính vì thế, Ngài đã sai phái Chúa Thánh Thần đến để khai sinh Giáo hội. Chúa Thánh Thần chính là tình yêu nối tiếp Chúa Cha và Chúa Con.
Thiên Chúa đã thông ban tình yêu cho Giáo hội để Giáo hội hiện diện như dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Và Giáo hội cũng chính là một lời tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Với ngày lễ hôm nay, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng:
- Ngài là Ba Ngôi và cũng là tình yêu, từ đó Giáo hội được xuất phát và xây dựng.
Giáo hội vừa là một hình ảnh vừa là thể một hiện của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, màu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là ánh sáng chiếu dọi vào cõi bí ẩn của con người, bởi vì chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và số mạng của mình.
Thực vậy, nếu Thiên Chúa là tình yêu và con người được dựng nên giống hình ảnh Ngài, thì con người chỉ thực sự là con người khi biết yêu thương mà thôi.
Phẩm giá con người được xây dựng trên tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ nhân phẩm và địa vị của chính mình cũng như của người khác. Và do đó, cũng chối bỏ Thiên Chúa. Trái lại, ai sống trong tình yêu,người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Như vậy, lễ Chúa Ba Ngôi không phải chỉ là thời điểm thuận lợi để chúng ta ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, mà còn là thời điểm thuận lợi để chúng ta tuyên xưng phẩm giá của con người.
Thiên Chúa đã yêu thương con người, đồng thời trao ban cho con người khả năng biết yêu thương. Nhất là qua cái chết trên thập giá, Ngài không những đã bảy tỏ cho con người biết màu nhiệm của Thiên Chúa, mà còn vạch ra cho chúng ta con đường để đi vào màu nhiệm ấy, đó chính là con đường tình yêu.
Đức Kitô đã yêu thương và Ngài đã yêu thương cho đến cùng với những giọt máu chảy xuống từ một trái tim bị đâm thâu qua. Ngài đả tỏ cho chúng ta khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và dạy cho chúng ta biết yêu thương là gì và phải yêu thương như thế nào.
Ước chi dấu thánh giá chúng ta làm hằng ngày để tuyên xưng màu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, không phải chỉ là một cử chỉ, một việc làm có tính cách máy móc, chiếu lệ và bôi bác, nhưng phải được cụ thể hóa bằng niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa, cũng như phải được thể hiện bằng hành động, bằng cả cuộc sống ngập tràn yêu thương của chúng ta. --------------------------------
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà: BaNgôi ABC2 C. Mễn.
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền, nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà.
*****
Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc.
Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gàng – ngoại trừ một mảng cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng: Ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
*****
Thiên Chúa là tình yêu.
Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt,
- lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người.
- Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời.
Đó là mầu nhiệm tình yêu, mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế,
Lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của Tình Yêu.
Chỉ những ai sống yêu thương, mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ những ai thực thi đức ái, mới sống trọn ơn gọi làm con Thiên Chúa. Chỉ những ai biết sống trao ban, mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa Tình Yêu.
- Nếu Thiên Chúa đã hiến trao con Một của Người để người Con ấy phải chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ, để giữ lại cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
- Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba ngôi, là không muốn cho con người phải chết, nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng ta đành khép lại con tim, để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, nên ơn gọi đích thực của con người chính là ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô hữu, chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Kết Luận:
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi, từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu:
- Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Bởi: “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”.
- Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, thì mới được ở lại trong Thiên Chúa.
- Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em, thì mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu. --------------------------------
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu: BaNgôi ABC3
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất của Kitô giáo. Không một ngày nào Hội thánh và mỗi người chúng ta lại không tuyên xưng mầu nhiệm ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh thì đó là lúc chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ chẳng mấy khi ta quan tâm để tìm hiểu xem mầu nhiệm này có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc đời của chúng ta. Bởi vì nói tới các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta dễ có cảm tưởng đó là những chuyện xa vời và chẳng liên hệ gì tới đời sống của mình. Nhưng không phải thế. Mầu nhiệm nào cũng rất gần gũi và liên hệ mật thiết với đời sống của con người, bởi mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng soi cho chúng ta hiểu rõ thân phận mình và dẫn lối để chúng ta đi tới bến bờ hạnh phúc.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời mình.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, cho các vườn cây được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình không có chút nước nào để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao?
Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông. Như cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái nếu nó không hút lấy sự sống từ dòng sông mang lại. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người. Lời Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay dạy ta như thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Mà tin vào Chúa Kitô chính là thể hiện trong đời mình cuộc sống của Người, nghĩa là suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử như Người. Điều Chúa Kitô quan tâm nhiều nhất và đã sống triệt để nhất chính là tình yêu thương. Người yêu Chúa Cha nên thi hành mọi sự theo ý Cha. Người yêu con người nên chấp nhận chết để cho con người được sống.
Yêu Chúa và yêu người, đó chính là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vậy.
Hôm nay, khi kính nhớ Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không phải chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại: BaNgôi ABC4
Hôm nay, khi kính nhớ Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không phải chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại màu nhiệm quan trọng này, mà còn mời gọi chúng ta hãy sống niềm tin ấy, nghĩa là sống yêu thương, bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu.
Thiên Chúa có ba ngôi khác biệt nhau, nhưng chỉ là một Chúa, một tình yêu. Chúng ta cũng vậy, mỗi người là một người riêng biệt, tuy khác biệt nhau, nhưng chúng ta có thể liên kết, liên hệ tốt đẹp với nhau bằng tình yêu thương. Cũng như, tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Bởi đó, đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mời gọi chúng ta hãy sống với, sống vì và sống cho người khác, tức là hãy tôn trọng nhau và yêu thương nhau.
Cách đây ít lâu, trên tuần báo Catholic tức là Công giáo, xuất bản tại Mỹ, có một bài, tựa đề là “Cô giáo năm xưa”, một thương gia đã chia sẻ kinh nghiệm bản thân của ông như sau: Hồi nhỏ tôi học rất kém, năm nào cũng đứng đội sổ. Thành tích này đeo đuổi tôi mãi cho tới khi bước vào trung học. Nhưng một ngày kia, một biến cố xảy đến đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Năm tôi học lớp chín. Nhân một buổi học về giao tế, cô giáo chủ nhiệm của lớp tôi đã mời một số người đến tham dự. Giảng bài được một lúc, cô giáo gọi tôi lên đứng bên cạnh cô, cô đặt tay trên vai tôi và giới thiệu với mọi người:”Đây là một học sinh có nụ cười dễ thương nhất lớp”. Thật bất ngờ, cô giáo không nói đây là một học sinh học dở nhất lớp mà lại nói đây là một học sinh có nụ cười dễ thương nhất lớp. Hôm đó, ra khỏi lớp, tôi cảm thấy như mình cao hơn được một chút. Tôi vừa đi vừa nhảy vừa ca hát và tự tin hơn bao giờ hết. Từ đó, tôi bắt đầu đạt được những thành tích khả quan hơn trong việc học. Sau đó, tôi tốt nghiệp cao học, làm giáo sư và nay đang hăng say trong lãnh vực kinh doanh. Tất cả đều bắt đầu với cô giáo năm xưa của tôi. Cô đã cho tôi thấy rằng tôi cũng là một người có giá trị. Tôi cũng có một cái gì đó để trao tặng cho người khác.
Kinh nghiệm của ông thương gia Mỹ trên đây thật phù hợp với cái nhìn của kitô giáo về con người. Trước hết, với cái nhìn đức tin, chúng ta biết rằng mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị có một không hai. Bởi vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa. Giàu sang hay nghèo hèn, thông minh lỗi lạc hay hèn kém dốt nát, xinh đẹp hay bình thường… tất cả mọi người đều không những bình đẳng theo phẩm giá mà còn là những nhân vật khác biệt, độc nhất vô nhị, bất khả xâm phạm.
Chúa Giêsu đã muốn mạc khải cho chúng ta cái giá trị cao cả ấy nơi mỗi một con người qua cung cách đối xử của Ngài đối với mọi người. Dưới ánh mắt của Chúa, mỗi người là một giá trị độc nhất, là một đối tượng của sự tôn trọng và yêu thương. Đây quả thực là một cái nhìn cách mạng có giá trị cho mọi thời đại. Không thể cải tạo xã hội, không thể cải tạo con người, không thể có một cuộc cách mạng đích thực nào nếu không có cái nhìn tôn trọng và yêu thương ấy đối với con người.
Từ kinh nghiệm của ông thương gia Mỹ trên đây, chúng ta cũng có thể rút ra một chân lý khác trong cái nhìn Kitô giáo về con người. Đó là giá trị đích thực của con người không hệ tại ở những gì họ có mà chính là ở những gì họ trao tặng. Và giá trị của trao tặng không tùy thuộc ở số lượng vật chất, mà chính là ở tấm lòng của con người. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: Dù nghèo hèn đến đâu, dù không có sắc đẹp hay duyên đón duyên đưa chăng nữa, ai cũng có cái gì đó để trao tặng, để chia sẻ cho người khác: một nụ cười nhân ái, một lời nói cảm thông, một cữ chỉ hòa nhã, một thái độ tha thứ, một hành động chia sẻ… ai cũng có và ai cũng có thể thực hiện được. Chỉ khác một điều là chúng ta có muốn thực hiện hay không và thực hiện với tấm lòng chân thành hay không mà thôi.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu thương, nghĩa là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho nhau, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nối dài đôi chân, và nhất là mở rộng tấm lòng đối với mọi người chung quanh. --------------------------------
Tại vùng Tesxas Hoa kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông: BaNgôi ABC5
Tại vùng Tesxas Hoa kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại.
Dù là người giàu có nhất vùng, nhưng nếp sống ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng xung quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay, trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em ai ai cũng gọi nó là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
“Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó”. Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hiểu cho thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần, nhưng chúng ta hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo hóa đẵ an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được cứu, ai không tin thì đã bị lên án rồi”.
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức tin cho con để chúng con mỗi ngày được trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen
Không một ai trong chúng ta thích bị bỏ lại. Chẳng hạn, chúng ta mong muốn được mời tham dự: BaNgôi ABC6
Không một ai trong chúng ta thích bị bỏ lại. Chẳng hạn, chúng ta mong muốn được mời tham dự một lễ cưới sắp đến. Tuy nhiên, khi các thiệp mời đều đã được gửi đi rồi, mà chúng vẫn không nhận được một tấm thiệp nào. Điều này thật đụng chạm đến chúng ta, đôi khi rất đau lòng. Chúng ta cảm thấy bị loại ra ngoài, không được mong đợi.
Tất nhiên, chúng ta cũng phải nhìn vào bản thân mình, và nhận ra xem lòng quảng đại của chúng ta ra sao, khi xảy đến việc phải mời người khác vào nhà mình. Thỉnh thoảng, có người đến gõ cửa nhà chúng ta. Một số người bị chúng ta mời đi ngay lập tức, mà không hề nói với họ một lời nào. Những người khác được chúng ta cư xử lịch sự hơn, nhưng cũng chỉ là một vài câu nói ngắn ngủi ở ngoài cửa, mà vẫn không mời họ vào nhà. Còn những người khác nữa, được chúng ta mời vào phòng khách để nói chuyện về công việc, và khi công việc kết thúc, chúng ta tiễn họ ra về. Nhưng chỉ có một ít người được chúng ta chọn lựa để đón tiếp, đưa vào nhà ngay tức khắc, và mời họ ăn uống đầy đủ.
Có một tu sĩ người Nga tên là Rublev đã khắc họa một hình tượng đẹp đẽ về hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Bức tranh này mô tả cảnh ba con người đang nồi tại một cái bàn, trên đó có một đĩa thức ăn. Nhưng điều ngay tức khắc đánh động bạn, đó là phía đằng trước bàn, có một chỗ trống. Chỗ trống này có ý muốn nói đến tính cởi mở, hiếu khách, và sẵn sàng đón tiếp người xa lạ ở bên ngoài.
Chỗ trống này có ý muốn nói đến mỗi người chúng ta, và tất cả gia đình nhân loại. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ sự sống của Ba Ngôi. Thiên Chúa không hề loại bỏ chúng ta. Người không đứng ở thềm cửa mà nói chuyện với chúng ta. Người mời chúng ta vào nhà, và ngồi tại bàn của Người. Thiên Chúa mong muốn chia sẻ sự sống của Người cho chúng ta. Trong những lời Tin mừng cho ngày lễ này, có câu:”Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban con một duy nhất của Người…”
Nhiều người cảm thấy mình như bị dọa dẫm do mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thật đáng tiếc! Chúng ta nên xem Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như là những người bạn, mà chúng ta có thể quan hệ, và có thể nói chuyện với, qua lời cầu nguyện. Bởi Đức Giêsu, con của Thiên Chúa, đã trở nên bạn bè với chúng ta. Chúng ta không còn là những kẻ xa lạ và ở bên ngoài nữa. Chúng ta là những con cái của Thiên Chúa, là phần tử của gia đình Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dành sẵn cho chúng ta một chỗ tại bàn tiệc trong cuộc sống trần gian này. Nhưng Người cũng mong muốn chúng ta có được một chỗ tại bàn tiệc trong cuộc sống đời đời. Chỉ tại bàn của Thiên Chúa, chúng ta mới tìm thấy được lương thực nuôi dưỡng, mà tâm hồn chúng ta đang khao khát.
Từ tất cả điều này, chúng ta nhận thấy rằng Chúa là Thiên Chúa của tình yêu. Cách đáp trả của chúng ta chỉ có thể là tin vào Thiên Chúa và yêu thương nhau. Điều mà thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Côrintô cũng có ý nghĩa đối với chúng ta:”Anh em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh em”.
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ trên một con đường đông: BaNgôi ABC7
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta nói với một người bạn cùng đi với mình:”Tôi có thể nghe được tiếng kêu rúc rích của một con dế”. Người bạn của anh ngạc nhiên và hỏi:”Làm sao mà anh lại có thể nghe được tiếng dế, giữa tất cả những tiếng động ồn ào này?”
Người nông dân đáp lại:”Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp được với tiếng dế”.
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng nghe nhiều hơn, và dõi theo âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò trên bờ cửa sổ. Người bạn của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người nông dân không hề tỏ ra ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong túi áo ra, và ném chúng xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng xu, những người qua đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói:”Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai trong số những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có thể nghe được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai tai của họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại”.
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu ít bị lo lắng phiền muộn, chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã nói:”Ngay khi mở đôi mắt của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa”. Và Abraham Lincoln đã nói:”Tôi có thể nhận thấy con người có thể nhìn xuống mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao, nhưng tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu trời, và nói rằng không hề có Thiên Chúa”.
Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận biết ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên Chúa. Tương tự như một căn nhà phải có người xây dựng ra nó, một cái áo do người may, một cánh cửa do thợ mộc. Như vậy, thế giới chứng tỏ rằng phải có Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa.
Khi nhìn vào một công trình nghệ thuật, không thể nào bạn không nghĩ đến người nghệ sĩ. Nhìn vào thế giới tạo vật, mà không nhận thấy Đấng Tạo hóa, chính là mù quáng, không thấy được ý nghĩa của toàn thể công việc sáng tạo, và ý nghĩa sự hiện hữu của bản thân mình. Tuy nhiên, thật đáng buồn là có nhiều người nhìn, mà vẫn không thấy gì. Họ lắng nghe, mà vẫn không nghe được gì. Đức Giêsu đã nói về Thiên Chúa, như là một người Cha đầy lòng xót thương và khoan dung. Người nói về chính mình, với tư cách là Con của Cha, và Người gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để trợ giúp chúng ta sống tư cách người môn đệ và con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta đang trực diện với một mầu niệm vĩ đại. Tuy nhiên, bất cứ người con nào cũng đều có thể thấu hiểu, bằng cách cầu nguyện và sống mầu nhiệm này. Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như là một người Cha (và người Mẹ), một người Cha yêu thương chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như là một người Anh, Đấng hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như là một người Bạn. Đấng trợ giúp chúng ta sống theo Đức Giêsu, và liên kết chúng ta với nhau, như là anh chị em trong một cộng đoàn của lòng tin và tình yêu thương. Với tư cách là những người Kitô hữu, đây là bầu khí mà trong đó chúng ta sinh sống, di chuyển và hiện hữu. -------------------------------
Ngày kia, có hai nhà trí thức đang đi dạo dọc theo bờ biển, trong khi bàn luận về mầu nhiệm: BaNgôi ABC8
Ngày kia, có hai nhà trí thức đang đi dạo dọc theo bờ biển, trong khi bàn luận về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, cuộc tranh luận của họ không đạt được tiến bộ nào cả. Đột nhiên, họ nhìn thấy một bé trai đang chơi trên bãi biển. Chú bé này đào một cái lỗ trong cát, và tiếp tục chạy xuống biển, nhận chìm cái sô bằng đồ chơi của mình xuống nước, rồi lại chạy trở lên bãi biển, để đổ nước vào trong lỗ.
Hai người đàn ông nhìn đứa trẻ này một lúc, trong khi chú bé cứ chạy lên chạy xuống, hết múc đầy rồi lại đổ nước trong sô ra. Họ nhận thấy cảnh tượng này thật thú vị. Họ tiến đến, và hỏi xem đứa trẻ đang làm gì. Bằng thái độ rất nghiêm trang, chú bé đó nói với họ rằng mình đang múc cho cạn đại dương vào trong cái lỗ đã đào trên bãi cát. Cả hai người đàn ông đều mỉm cười và đi tiếp, trong khi tóm tắt phần bàn luận của họ về Thiên Chúa. Một lúc sau, một trong hai người dừng lại, và nói với người kia “Anh thấy đấy, lúc bấy giờ, chúng ta đều thú vị, khi đứa trẻ đó nói với chúng ta về công việc mà cháu bé đang cố gắng làm. Tuy nhiên, điều mà chúng ta đang cố gắng thực hiện trong khi bàn luận về Thiên Chúa, thì cũng tương tự như vậy. Đúng là chúng ta không thể nào thấu hiểu được mầu nhiệm về Thiên Chúa, giống như đứa trẻ đó cứ cố gắng đổ hết nước của đại dương vào trong cái lỗ. Tư tưởng của chúng ta chỉ là những cái ống nhỏ xíu, ngược lại, chân lý về Thiên Chúa thì vĩ đại như đại dương”.
Câu chuyện trên muốn nói rằng: chúng ta không thể nào thấu hiểu được Thiên Chúa. Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Nhưng mầu nhiệm không phải là điều gì đó mà chúng ta không thể hiểu biết. Một mầu nhiệm có quá nhiều ý nghĩa, đến nỗi bất kể chúng ta hết sức nỗ lực, cũng không bao giờ đi đến tận cùng được. Do đó, chúng ta không được sử dụng câu chuyện trên, để biện hộ cho thói lười biếng và nông cạn của mình, trong cố gắng hiểu biết một điều gì đó về mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, bằng lý luận của riêng mình. Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận biết ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên Chúa. Nhưng nếu Thiên Chúa không tự mặc khải về chính mình Người cho chúng ta, thì chúng ta sẽ hiểu biết được rất ít về Người. Đặc biệt là qua Kinh thánh, chúng ta nhận biết Thiên Chúa. Từ Kinh thánh, chúng ta được học hỏi rằng Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Và từ Kinh thánh, chúng ta học hỏi được Thiên Chúa ra sao. Chẳng hạn, Bài đọc 1 hôm nay nói rằng Thiên Chúa là “một Thiên Chúa dịu hiền và khoan dung, chậm tức giận, giàu lòng nhân hậu và trung tín”, và Tin mừng nói rằng “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Người…”
Cả hai bài đọc đều có cùng một thông điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình yêu. Đó là một điều cực kỳ quan trọng để nhận biết về Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, không phải chúng ta tốt lành, nhưng vì Thiên Chúa là Đấng nhân hậu. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hioeụ về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa chính là Tin mừng.
Sự đáp trả của chúng ta chỉ có thể là tin tưởng vào Thiên Chúa, và yêu thương nhau mà thôi. Điều mà Thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Côrintô cũng có ý nghĩa đối với chúng ta:”Anh em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh em”. -------------------------------
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện về thánh Augustinô ngày kia gặp một cậu bé đang cố: BaNgôi ABC9
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện về thánh Augustinô ngày kia gặp một cậu bé đang cố sức lấy một chiếc vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang. Thánh nhân đã chê cười cậu bé. Nhưng cậu đã đáp lại: việc tôi làm không đáng chê cười bằng việc ngài muốn dùng trí khôn loài người để tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm là sự thật vượt quá tầm hiểu của trí khôn loài người. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chúng ta không thể biết tí gì về mầu nhiệm ấy. Mặc dù Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm, nhưng Thiên Chúa cũng cho chúng ta hiểu biết đôi điều về mầu nhiệm ấy:
- Ngài đã ban rất nhiều dấu chỉ trong vũ trụ thiên nhiên. Voltaire đã nói:”Chỉ cần mở mắt ra là ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa”. Abraham Lincoln giải thích rõ hơn:”Tôi không hiểu làm sao người ta có thể là người vô thần được khi nhìn xuống mặt đất. Tôi cũng không thể hình dung được một người nào đó nhìn lên trời mà nói rằng không có Thiên Chúa”.
- Qua những trang sách thánh, Thiên Chúa còn cho ta biết thêm rằng Ngài có Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần; rằng Ngài yêu thương loài người đến nỗi ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; rằng chúng ta được Ngài nhận làm con và có quyền gọi Ngài là Cha; rằng chúng ta có thể nói chuyện thân mật với Ngài khi cầu nguyện; rằng Ngài để dành sẵn hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta trong nhà Ngài… Tóm lại là Ngài yêu thương chúng ta vô cùng.
Một tu sĩ tên là Rublev đã vẽ một bức tranh rất đặc biệt về Ba ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi ngồi quanh một cái bàn, và trên bàn có một đĩa thức ăn. Nhưng nét đặc biệt là có một chiếc ghế trống. Chiếc ghế trống ấy ngụ ý một sự mời mọc, một sự sẵn sàng. Bàn ăn Của Ba Ngôi còn một chiếc ghế trống nghĩa là Ba Ngôi sẵn sàng đón tiếp bất cứ ai đến thông chia sự thân mật và tình yêu thương của các Ngài.
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một người cha là gia trưởng. Trong: BaNgôi ABC10
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một người cha là gia trưởng. Trong một nhà máy gồm hàng trăm thợ thuyền, thế nhưng, chỉ có một ông giám đốc để điều hành. Trong một sư đoàn gồm cả ngàn binh lính, thế nhưng, chỉ vó một vị tướng để chỉ huy. Trong một quốc gia gồm hàng triệu triệu người dân, thế nhưng, chỉ có một ông tổng thống để cai trị.
Cũng vậy, chỉ có một Thiên Chúa là chủ tể, là vị vua tối cao, đã an bài và sắp xếp mọi sự. Ngoài Ngài ra, không còn một thần minh nào khác. Đó là một sự thật tương đối dễ hiểu và dễ tin. Tuy nhiên đã từ lâu, mỗi khi làm dấu thánh giá hay đọc kinh Sáng danh. chúng ta vốn hằng tuyện xưng: Thiên Chúa ấy lại có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con cũng là Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần cũng lại là Thiên Chúa. Thế nhưng, cả ba chỉ là một Thiên Chúa vì cùng chung một bản tính. Đó là một màu nhiệm vượt ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.
Người ta đã cố gắng đưa ra những hình ảnh để sánh ví. Chẳng hạn hình ảnh về mặt trời. Phải, mặt trời là một khối lửa, vừa tỏa sáng vừa đem lại sức nóng. Lửa, sáng và nóng, ba đặc tính này cũng chỉ làm nên một mặt trời mà thôi. Chẳng hạn một cây hồng gồm rễ, thân và hoa. Thế nhưng, cả ba phần nay cũng chỉ làm thành một cây hồng mà thôi. Chẳng hạn như nước, có thể ở ba trạng thái khác nhau, lỏng như nước lã, đặc như nước đá, khí như hơi nước. Thế nhưng, cả ba trạng thái này cũng chỉ là nước mà thôi.
Tuy nhiên, những so sánh trên chỉ là những hình ảnh quá mờ nhạt, nếu không muốn nói là què quặt và lệch lạc, khã dĩ bóp méo cả sự thật mà chúng ta đã tin theo. Trí khôn và ngôn ngữ của con người thì quá nghèo nàn, không thể nào hiểu thấu và diễn tả nổi về màu nhiệm cao cả này, như trường hợp của thánh Augustinô: Múc cả nước biển mà đổ vào chiếc lỗ nhỏ còn dễ hơn là suy nghĩ về Chúa Ba Ngôi.
Sởi dĩ chúng ta tin, đó là vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ và truyền dạy. Thực vậy, khi Ngài chịu phép rửa của Gioan ở sông Giócđan, Phúc âm đã kể lại: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Qua đó, chúng ta thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao, Chúa con đang chịu phép rửa và Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Taborê, Phúc âm cũng ghi nhận: Lúc Phêrô còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ và từ trong đám mây có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng lời Ngài. Qua đó, chúng ta cũng thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con đang biến hình và Chúa Thánh Thần qua đám mây chói lòa.
Sau cùng, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần.
Tuy nhiên, điều quan trong chúng ta cần tìm hiểu, đó là Chúa Ba ngôi đã làm gì cho chúng ta?
Trước hết, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta bằng cách dựng nên chúng ta, nhận chúng ta làm con để rồi trao ban cho chúng ta quyền thừa kế Nước trời.
Ông vua kia nuôi một con chim hoàng yến. Nó hót rất hay khiến ông thích nó lắm. Ông mua những thức ăn hảo hạng và làm cho nó một chiếc lồng bằng vàng. Trong lúc quá say mê, ông đã nói với nó: Ta sẽ nhận ngươi làm con để ngươi thừa kế gia tai và vương quốc của ta. Chắc hẳn chúng ta sẽ bảo ông vua này điên khùng hay sao mà lại nói với một con chim như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên khùng hơn thế nữa.
Báo chí cách đây đã lâu có đăng tải tin một công chúa nước Anh sẵn sàng từ bỏ tất cả để kết hôn với một anh chàng phó nhòm. Người ta cho rằng cô công chúa này đã yêu một cách cuồng si. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu cuồng si hơn thế nữa. Chúng ta là gì mà lại được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha ?
Thứ đến, Chúa Con đã yêu thương chúng ta bằng cách xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi cha Đamiêng, người đã tình nguyện đến sống chung với những người cùi ở Molokai, một hòn đảo xa xôi và hẻo lánh, để rồi đã chết đi giữa những người cùi bất hạnh ấy, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn nữa, bởi vì Ngài đã đến ở với chúng ta, những kẻ đang mắc phải chứng phong cùi thiêng liêng là tội lỗi.
Nếu chúng ta ca ngợi cha Maximilanô Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn thế nữa bởi vì Ngài cũng đã tình nguyện chết thay cho chúng ta để nhờ đó chúng ta được sống muôn đời.
Sau cùng, Chúa Thánh Thần đã yêu thương chúng ta bằng cách cư ngụ trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh cùng với những ơn sủng do công nghiệp của Chúa Giêsu để nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần sản nghiệp Nước trời.
Để đáp lại tình yêu cao cả đó, chúng ta sẽ làm gì ? Tôi xin đề nghị hai việc.
Việc thứ nhất đó là mỗi khi làm dấu thánh giá hay mỗi khi đọc kinh Sáng danh, chúng ta hãy làm và hãy đọc cho trang nghiêm và sốt sắng, để nhờ đó tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi.
Việc thứ hai đó là trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, bởi vì tội lỗi chính là kẻ nội thù, làm cho chúng ta quay lưng chống lại tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta không còn vâng phục Chúa Cha, chúng ta đóng đanh Chúa Con một lần nữa và chúng ta xua đuổi Chúa Thánh Thần ra khỏi cõi lòng chúng ta. -------------------------------
Ca dao Việt Nam có câu: Sông sâu còn có kẻ mò, Mấy ai lấy thước mà đo lòng người. Câu: BaNgôi ABC11
Ca dao Việt Nam có câu:
Sông sâu còn có kẻ mò, Mấy ai lấy thước mà đo lòng người.
Câu ca đao nói trên là đúc kết kinh nghiệm sống ở đời. Nó diễn tả lòng người như một vực thẳm không đáy và không thể dò thấu. Cho dù ta có biết rõ lý lịch của một người, biết rõ cuộc sống cụ thể của họ thì cũng kg chắc gì ta hiểu rõ được điều thâm sâu, dấu ẩn trong lòng người ấy. Chỉ khi nào chính người ấy bộc bạch nỗi lòng với ta, ta mới có cơ may hiểu được đôi chút chiểu sâu của lòng họ. Sự bộc bạch nỗi lòng chỉ có được khi người ta tin nhau và yêu thương nhau thật tình.
Đối với con người sống cận kề bên ta, ta còn chẳng hiểu nổi được họ, huống chi là đối với Thiên Chúa. Con người qua các thời đại vẫn nuôi tham vọng dùng lý trí hữu hạn của mình để chọc thủng bức màn màu nhiệm của Thiên Chúa. Người ta vẫn cố công để chứng minh tại sao một Thiên Chúa lại có ba ngôi, và tại sao 3 ngôi lại là một Thiên Chúa. Nhưng sẽ chẳng bao giờ con người có thể chứng minh điều đó mà phải tin, phải chấp nhận đó là sự thật. Tin bởi vì chính Thiên Chúa đã bộc bạch nỗi lòng của Người, đã tỏ bày cho con người những sự thật thâm sâu ở nơi Người. Người giãi những điều ấy chỉ vì yêu thương và tín nhiệm con người, đồng thời cũng để soi sáng cho cuộc sống và thân phận con người, bởi con người là hình ảnh của Thiên Chúa.
Điều sâu kín mà Thiên Chúa đã tỏ bày cho con người đó là: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một Mình, để những ai tin vào Con thì được sống đời đời”.
Thật vậy, Tình yêu như một dòng chảy từ Cha đến Con và từ Con đến Cha. Mọi sự của Cha là của Con và mọi sự của Con là của Cha. Và dòng chảy tình yêu ấy nơi Thiên Chúa chính là Thánh Thần. Tình yêu ấy không giới hạn và không chỉ dừng lại nơi Thiên Chúa, nhưng trào vọt ra bên ngoài làm nên những tạo vật trên thế gian. Và khi thế gian sa đọa, tình yêu ấy lại cứu độ bằng sự hiến dâng của Người Con Một. Như vậy, Tình yêu dâng hiến chính là sứ điệp chủ yếu của mầu nhiệm Ba Ngôi và đó là điều mà chúng ta cần quan tâm.
Bà Kyi, người phụ nữ Miến Điện đoạt giải Nobel hòa bình năm 1992 đã nói: “Không phải quyền lực làm người ta hư hỏng, nhưng là sự sợ hãi. Sự mất quyền, mất của cải, mất phương tiện sinh sống”. Đúng vậy, vì sợ mất mà người ta tìm cách chiếm giữ và bảo vệ. Từ đó sinh ra áp bức, bất công, gian dối, lừa đảo,v.v…Nhưng ẩn sâu bên trong thái độ sợ hãi ấy chính là một cách đáng giá về cuộc đời. Người ta coi cuộc đời như một món đồ phải chiếm hữu. Càng chiếm đoạt nhiều, càng sở hữu nhiều, giá trị con người càng cao, càng đáng kính trọng. Trong khi đó, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những gì người ta sở hữu mà là những gì người ta cho đi. Càng cho đi nhiều, càng hiến ban nhiều, người ta mới thực sự là người có giá trị và mới là hình ảnh đích thực của Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, lễ Chúa Ba Ngôi là lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết vượt thoát ra khỏi cái tôi ích kỷ, ra khỏi những toan tính tầm thường, nhỏ nhen, để vươn lên tới tầm cao của một tình yêu trao hiến cho nhau. Hiến dâng cho nhau trong đời sống vợ chồng, trong đời sống gia đình và trong các mối quan hệ xã hội. -------------------------------
Thánh Augustinô, một hôm ra bãi biển đi đi lại lại suy gẫm miên man về mầu nhiệm Chúa Ba: BaNgôi ABC12
Thánh Augustinô, một hôm ra bãi biển đi đi lại lại suy gẫm miên man về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng thánh nhân thấy một em bé lấy vỏ sò rồi cứ múc nước biển đổ vào lỗ cáy. Thánh nhân ngạc nhiên nói với em nhỏ đó: "Này em, sao em làm việc gì kỳ vậy, làm sao em có thể đổ hết nước biển vào lỗ cáy này được?" Em bé trả lời: "Múc hết nước biển đổ vào lỗ cáy còn dễ hơn việc Ngài đang suy để hiểu về màu nhiệm Chúa Ba Ngôi." Nghe vậy, thánh nhân chưng hửng và hiểu ra rằng, Chúa đã sai một thiên thần hiện ra thành một em nhỏ để giúp thánh nhân hiểu rằng tự sức con người không thể dùng trí khôn riêng mình để suy và hiểu rõ về màu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi được bày tỏ dần dần theo thời gian. Ngôi Cha được bày tỏ cho Dân Do Thái trong Cựu Ước. Trong thời gian này, Chúa tỏ cho Dân Chúa biết Ngài là "Cha chúng ta" và cũng là "Cha tôi". Do đó mọi người Do Thái đều tin rằng họ là con cái Chúa. Nhưng từ khi Đức Kitô là Ngôi Con đến, thì ý nghĩa đầy đủ về Thiên Chúa là Cha mới được rõ ràng. Ngài tỏ cho thấy Ngài là Con Một của Chúa Cha. Sự thân tình giữa Ngài và Chúa Cha được diễn tả dưới danh hiệu Abba: Nghĩa là "Lạy Cha." Từ Abba theo tiếng Do Thái là từ mà trẻ con dùng để nói với ba nó một cách thân tình; giống như tiếng "daddy" của tiếng Anh vậy.
Trong mối thân tình với Chúa Cha, Chúa Kitô cho chúng ta thấy Ngài và Chúa Cha là một. Ngôi Cha không có tuổi tác, và Ngôi Con cũng không lớn lên hay phụ thuộc. Đấng Bằng Nhau sinh ra Đấng Bằng Nhau giống như ngọn lửa sinh ra ánh sáng. Nhưng ngọn lửa lại khác với ánh sáng sinh ra nó. Thực vậy, ngọn lửa tác sinh không sinh ra bởi ánh sáng được tác sinh. Cả hai cùng bằng nhau, cùng hiện hữu, nhưng ánh sáng sinh ra khác với ngọn lửa.
Nói về Chúa Thánh Thần trong Ngôi Ba Thiên Chúa thì được Chúa Kitô cho thấy là Ngài là Thần Chân Lý, là Đấng yên ủi. Trong tương quan của Ngài với Chúa Cha và Chúa Con, chúng ta có thể dùng hình ảnh về hơi ấm phát sinh từ ngọn lửa và ánh sáng. Không hề có ngọn lửa mà không kèm theo ánh sáng và hơi ấm. Sự ấm áp khác với ngọn lửa và ánh sáng, nhưng nó lại cùng hiện hữu với ngọn lửa và ánh sáng. Không có chuyện ngọn lửa hay ánh sáng, hay hơi ấm sinh ra bởi nhau. Vì chúng đều đồng hành với nhau. Hình ảnh này cho thấy Ngôi Cha, Ngôi Con, và Ngôi Thánh Thần luôn bằng nhau, không ngôi nào hơn, không ngôi nào kém.
Sự hiệp thông thân thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa còn có tính cách lan toả. Tự bên trong bản tính thần linh Chúa chiếu toả và đổ tràn tình thương của Ngài qua việc sáng tạo muôn loài, trong đó có chúng ta. Do tình thương yêu Chúa đã dựng nên chúng ta qua trung gian thụ tạo của Ngài là cha mẹ chúng ta. Đó là nói về việc Chúa sáng tạo bởi lan toả.
Còn nói về việc tái tạo chúng ta thì như thế nào? Từ khi Chúa Kitô làm người, chịu nạn, chịu chết và sống lại, chúng ta được tái tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rực rỡ hơn nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Qua tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta được biến tan trong Chúa như người yêu biến thành Đấng được yêu. Chúng ta sẽ trở nên thần linh, trở nên Chúa do sự tham phần vào bản tính của Ngài. Sự hợp nhất này hoàn hảo đến nỗi tất cả những gì Thiên Chúa có thì linh hồn chúng ta có. Nghĩa là chúng ta được biến hoá để đạt tới sự sung mãn cuối cùng là sự thánh thiện.
Nhưng con đường duy nhất để trở nên trọn lành thánh thiện và hạnh phúc với Chúa Ba Ngôi là sự từ bỏ mình. Đó là con đường Chúa Kitô đã đi qua trước khi sống lại và lên trời vinh hiển. Chúa Kitô đã từ bỏ mình, bằng cách nhận lấy bản tính loài người và làm cho bản tính ấy dần dần biến cải trong bản tính Thiên Chúa của Người. Sự biến cải đó đạt tới tuyệt đỉnh qua cái chết của Ngài. Nhờ đó Ngài đã trở thành hoàn toàn là Thiên Chúa và hoàn toàn là loài người.
Ở trần gian này mỗi người chúng ta cũng phải trải qua con đường từ bỏ để đạt được vinh quang sau này trên trời. Đức Kitô đã từ bỏ mình, đã sống lại và lên trời vinh hiển thì chúng ta cũng phải giống như Người trong việc từ bỏ những gì chưa biến cải thành Thiên Chúa. Xin Mẹ Maria là cung thánh của Chúa Ba Ngôi giúp chúng ta biết sống cuộc đời quên mình trong các việc bổn phận hằng ngày để trở nên giống Chúa hơn. Nhờ đó chúng ta càng ngày càng biến đổi và đạt được cùng đích cuối cùng đời người là kết hợp với Chúa Ba Ngôi sau này trên thiên đàng. -------------------------------
Ngày giới trẻ năm nay được tổ chức tại Carthage, MO, Tony và mấy người bạn xin đóng góp một: BaNgôi ABC13
Ngày giới trẻ năm nay được tổ chức tại Carthage, MO, Tony và mấy người bạn xin đóng góp một nhạc phẩm cho tiết mục văn nghệ với tựa đề: "Greatest love of all" của ca sĩ Whitney Houston. Tuy hay nhưng thiệt là xui vì lời nhạc đã không được các thầy đồng ý. (Dzắc dzối vậy đó!) Bản nhạc định nghĩa tình yêu cao cả nhất là học sao cho biết để yêu mình (learning to love yourself, it is the greatest love of all). Ngược hẳn với lời Chúa dạy: "Tình yêu cao cả nhất là chết cho người mình yêu."
Thật thế, trao ban chính là yêu sách của tình yêu. Càng yêu thì càng trao ban. Và bao lâu ngừng trao ban là bấy lâu ngừng yêu. Thánh Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định với chúng ta điều đó. Rằng yêu là trao ban; và chính Thiên Chúa là Tình Yêu; ngài đã trao ban chính Con Một Người cho chúng ta, để chúng ta được sống đời đời. Ở đây chúng ta thấy có 2 điểm:
Điểm thứ nhất là về việc Chúa trao ban. Chúng ta thấy mặc dù Phúc Âm thánh Gioan không qui hướng vào cái chết của Chúa Giêsu như một việc hiến tế như Phúc Âm nhất lãm (Mát-thêu, Mát-cô, và Luca). Tuy nhiên, việc diễn tả "Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài" (3:16) có thể hiểu được như nói đến việc hy hiến của Chúa Giêsu vậy (xem Gal 1:4; 2:20; Rom 8:32). Thiên Chúa đã cho chúng ta hết tất cả khi Ngài trao ban Con Một Ngài hay đúng ra là trao ban chính Ngài. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà Giáo Hội hôm nay long trọng mừng kính đã minh chứng điều đó.
Lý do nào đã thúc đẩy tình Chúa yêu ta đến thế? Thánh Gioan đã nói rõ. Đó là, để chúng ta được sống đời đời. Và đó là điểm thứ hai mà chúng ta cần xét đến. Theo thần học thánh Gioan, ngày cánh chung được trình bày rõ ràng nơi sự liên hệ giữa việc tin vào Con Một Thiên Chúa và sự sống đời đời. Để được sống đời đời, điều kiện cần có là tin vào Con Một Thiên Chúa. Ai không tin thì bị hư mất.
Càng yêu thì càng cho, càng thích cho, càng muốn cho, và càng xoay dở tìm đủ mọi cách để cho. Mặc dù cho là mất, nhưng khi đã yêu rồi thì mất cũng chẳng thấy tiếc. Nếu không dám nói là càng cảm thấy sung sướng khi được mất đi. Cái này thì có lẽ quí anh chị đang ở trong lứa tuổi mắt có khói cảm nghiệm rõ hơn ai hết. Leo lên mạng Internet cả đêm mà vẫn thấy còn sung sức. Thẻ điện thoại quăng vào sọt rác hết cái này đến cái khác mà cũng chẳng tiếc xót... ngày quên ăn, hay đúng ra là cố quên ăn để giữ eo... đêm thì cứ thổn thức bóng hình ai... rồi lại nhớ nhung mơ mộng suốt đêm dài... ai da...
Sống cho tha nhân và chết cho tha nhân không phải là điều dễ. Đây là một ơn Chúa ban. Đây là một ơn gọi cao quí mà Chúa vẫn hằng luôn kêu mời chúng ta đáp trả. Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu, đã trao ban chính Ngài cho chúng ta, và muốn chúng ta cũng dâng hiến chính mình cho Ngài và trao ban cho tha nhân.
Mẹ Têrêsa Calcutta tâm niệm: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho tha nhân một cái gì làm tôi cảm thấy mất mát, đau khổ thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban những cái dư thừa, ba cái lẻ tẻ, mà chính là trao ban chính tôi, con người và tâm hồn tôi." -------------------------------
Trong Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta tuyên xưng: "Vì cùng với Con Một: BaNgôi ABC14
Trong Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta tuyên xưng: "Vì cùng với Con Một Chúa và Chúa Thánh Thần, Chúa là Thiên Chúa và Chủ Tể duy nhất, duy nhất không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể... Để khi tuyên xưng thiên tính chân thật và hằng hữu của Chúa, chúng con tôn thờ Ba Ngôi riêng biệt, một bản thể duy nhất và một uy quyền như nhau".
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao cả và quan trọng nhất trong Đạo, không phải do trí khôn nhân loại bày đặt ra, nhưng là do Chúa là Đấng chân thật vô cùng đã mạc khải cho chúng ta trong Thánh Kinh. Mầu nhiệm đó vượt quá trí khôn thụ tạo, nhưng là một chân lý vĩnh cửu, do thế giá của Đấng chân thật vô cùng đã mạc khải và Giáo Hội truyền dạy chúng ta phải tin. Mà theo Thánh Phaolô dạy: "Đức Tin là bảo đảm những điều chúng ta hy vọng, là bằng chứng thực tại những điều chúng ta không thấy" (Heb 11.1). Thánh Gioan Thánh Giá cũng dạy chúng ta tin khi ngài nói: "Hãy nghe lời cốt yếu và đầy chân thật mà giác quan không thể chạm tới. Hãy tìm lời đó trong Đức Tin và trong tình yêu mến, con đừng tìm vui thỏa, mãn nguyện trong bất cứ thụ tạo nào".
Người vô tín ngưỡng không tin những điều không trông thấy và khoa học không giải thích được. Nếu vậy thì vô vàn điều tự nhiên nơi trần gian này khoa học vốn không giải thích được mà nó vốn là một sự thật không ai có thể chối cãi được thì sao.
Ví dụ: Nếu chúng ta hỏi các nhà khoa học: Điện khí là gì và tại sao điện khí có nhiều công hiệu khác nhau, đôi khi lại tương phản nhau, như cùng một dòng điện, tại sao khi nó làm cho bàn ủi nóng, lúc nó lại làm cho tủ lạnh tỏa hơi lạnh giúp cho người ta giữ các đồ ăn khỏi hư hỏng? Chẳng ai thấy được hình thù sắc thái của điện khí ra sao, nhưng cứ lắp bóng đèn vào là đèn liền được thắp sáng, bật công tắc máy quạt, máy quạt liền quay, bấm nút máy télévision, máy télévision liền phát tiếng nói và xuất hiện hình ảnh... Còn biết bao điều tương tự như thế, dù các nhà khoa học có dùng sự khôn ngoan thông thái của mình cũng không thấu hiểu và giải thích thỏa đáng được, nhưng nó vốn là một sự thật không ai chối cãi được.
Vậy trong lãnh vực tự nhiên mà các nhà khoa học còn không thể hiểu hết, thì trong lãnh vực siêu nhiên, con người dùng trí khôn thụ tạo hữu hạn của mình đòi hiểu thấu thế nào được? Đúng như lời nhà khoa học Paul Termien đã thú nhận: "Khoa học đi liền với bất khả tri" và ông còn nói tiếp: "Khoa học khơi gợi bí nhiệm, hơn là giải thích bí nhiệm".
Chúng ta hãy lấy lòng khiêm nhượng tin phục và thờ kính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà Chúa đã tỏ cho chúng ta và chúng ta tuyên xưng Đức Tin đó như Giáo Hội Công Giáo đã truyền dạy.
I. MẠC KHẢI MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI
Nếu tìm hiểu Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy lời Chúa mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, ngay lúc Chúa tạo dựng nguyên tổ Adam Evà như lời Ngài phán: "Chúng Ta hãy tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúng Ta" (Gen 1:26). Khi Chúa muốn phá hủy cái dự tính kiêu căng của loài người muốn xây tháp Babel cao ngất tận trời xanh để ghi danh muôn thuở, Chúa cũng phán dạy: "Chúng Ta hãy xuống, để làm cho tiếng nói của chúng ra lộn xộn, không hiểu nhau được nữa" (Gen 11:7). Rồi khi Thiên Chúa hiện ra với tổ phụ Abraham dưới hình ảnh ba chàng thanh niên tuấn tú giống hệt nhau, khiến cụ tổ hiểu rằng: Cả ba vị chỉ là một, nên cụ đã sụp lạy một Vị trong Ba (Gen 18:1-10).
Trong Tân Ước, chính Chúa Kitô đã mạc khải mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi khi truyền cho các môn đệ đi rao giảng Nước Trời cho muôn dân: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần" (Mt 28:19). Khi Chúa Kitô vừa lên khỏi bờ, sau khi chịu phép rửa bởi Gioan dưới sông Jordan, Chúa Thánh Thần lấy hình ảnh Chim Bồ Câu hiện xuống đậu trên đầu Ngài và đồng thời có tiếng Chúa Cha từ trời tuyên phán: "Đây là Con Cha yêu dấu, Con làm vui thỏa lòng Cha" (Mt 3:17). Rồi khi khác, Chúa Kitô lại phán với các môn đệ: "Nếu các con yêu mến Thầy, hãy vâng giữ lệnh Thầy truyền, Thầy sẽ nài xin Chúa Cha sai Đấng An Ủi đến ở cùng các con mọi ngày" (Jn 14:15)... và còn nhiều dịp khác nữa, Chúa đã mạc khải cho chúng ta được nhận về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và tình yêu thương Chúa dành cho với chúng ta.
II. NGHĨA VỤ PHẢI CÓ ĐỐI VỚI CHÚA BA NGÔI
Chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội tuyên xưng niềm tin vào Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, đồng thời chúng ta cảm tạ Chúa, vì muôn việc kỳ diệu Chúa đã thực hiện vì yêu thương chúng ta. Thiên Chúa Ngôi Cha đã tạo dựng nên chúng ta giống hình ảnh Chúa, cho chúng ta được tham dự vào bản tính Ngài. Sau khi nguyên tổ phạm tội chống lại thánh lệnh Chúa, Thiên Chúa Ngôi Con đã mặc xác thể của bản tính nhân loại để chịu chết, nên giá cứu chuộc và phục hồi quyền làm con Thiên Chúa cho chúng ta. Thánh Thần Ngôi Ba được Chúa Cha và Chúa Con sai đến để thánh hóa chúng ta, áp dụng Ơn Cứu Chuộc, giúp chúng ta được hưởng nhờ ơn Chúa ban để sống xứng đáng ơn gọi làm con Chúa.
Khi lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Chúa, sống trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa và được hưởng tình yêu thương của Người, không những như một thụ tạo với Đấng Tạo Hóa, mà còn như một người con ngoan thảo đối với Cha Nhân Từ, mà còn hơn nữa như một người bạn tâm phúc với Người Yêu muôn thuở.
Chúng ta hằng được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, Chúa ngự ở đấy như Thiên Đàng hạnh phúc của Người, như chính lời Chúa đã phán: "Hạnh phúc của Ta là ở giữa con cái loài người". Chính Thánh Phaolô để minh xác cái diễm phúc đó khi ngài viết: "Anh em là Đền Thờ Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần" (I Cor. 3:16).
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, để nên nguồn an vui hạnh phúc, nên niềm an ủi nâng đỡ, nên Đấng Phù Trợ soi sáng, hướng dẫn và tăng sức mạnh cho chúng ta, giúp chúng ta được dũng cảm vượt qua mọi trở ngại, chiến thắng mọi địch thù trên đường lữ hành tiến về Quê Trời và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu Chúa sắm sẵn cho con cái trung thành ngoan thảo của Chúa, và nhất là chiếm được chính Chúa là gia nghiệp đời đời, là thác nguồn mọi hạnh phúc của chúng ta.
Vậy chúng ta phải có nghĩa vụ nào đối với Chúa Ba Ngôi, là Vị Thượng Khách hằng ngự trong tâm hồn chúng ta? Chúng ta đừng để Chúa phải cô đơn, chúng ta hãy năng tưởng nhớ đến Người, hãy năng dâng lên Chúa lòng tôn thờ, yêu mến, tri ân và nhất là đừng bao giờ cố tình phạm tội trọng xúc phạm đến Người. Vì phạm tội trọng là xua đuổi Cha Ba Ngôi ra khỏi tâm hồn và rước Satan vào làm chủ và thống trị linh hồn mình thay Chúa.
KẾT LUẬN
Ôi Maria, xin Mẹ giúp chúng con, được hiểu biết giáo huấn của Chúa Giêsu Con Cả yêu dấu của Mẹ, đã mạc khải Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chúng con, để chúng con biết quí trọng và gìn giữ ơn cao cả Chúa ban là được Chúa Ba Ngôi hiển ngự trong tâm hồn chúng con như Đền Thờ và Thiên Đàng của Người.
Xin cho chúng con năng tưởng nhớ, năng thăm viếng và tâm sự với Chúa, nhất là giữ tâm hồn chúng con được luôn trong sạch thánh thiện, để chỉ phụng sự yêu mến và làm hài lòng Chúa. -------------------------------
Mở đầu cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bao giờ cũng có ba Lễ Lễ Trọng liên quan đến: BaNgôi ABC15
Mở đầu cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bao giờ cũng có ba Lễ Trọng liên quan đến chủ đề “Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh” của cả thời đoạn phụng vụ này. Trước hết là Chúa Nhật tuần vừa rồi, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, như Kinh Tin Kính tuyên xưng. Chúa nhật hôm nay là Lễ Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch phát sinh sự sống. Chúa Nhật tuần tới là Lễ Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô, phương tiện hay bí tích thông ban sự sống. Riêng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi tuần này, căn cứ vào việc sắp xếp ba bài Phúc Âm cho ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, chúng ta thấy Giáo Hội muốn bày tỏ toàn diện Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi là Nguồn Mạch Phát Sinh Sự Sống, căn cứ đúng theo như thứ tự lời Thánh Phaolô chào chúc tín hữu Côrintô trong bài đọc hai của Năm A hôm nay: “Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em”.
Thật vậy, ở chu kỳ Năm A, chu kỳ theo Phúc Âm Thánh Mathêu, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm Thánh Gioan ghi lại lời Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết về vai trò của Con liên quan đến “ân sủng” sự sống, ở chỗ: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Con Một mình cho thế gian, để thế gian tin vào Con mà được sự sống đời đời”.
Ở chu kỳ Năm B, chu kỳ theo Phúc Âm Thánh Marcô, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm Thánh Mathêu (là bài Phúc Âm đáng lẽ thuộc về Năm A) về vai trò của Cha liên quan đến “tình yêu”, một vai trò được thể hiện nơi công thức hay mô thức ban phép rửa tái sinh nhân danh Ba Ngôi, một công thức trước hết phải “nhân danh Cha”, vì Ngài là Đấng đã tỏ mình ra nơi Con; bởi thế nhân danh “và Con” tức là chính tác động tin vào Con, tác động “chấp nhận “ Lời Nhập Thể (Jn 1:12) bởi Cha mà đến: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16); và chính Con là “sự sống hằng ở nơi Cha” (1Jn 1:2) đây cũng đã tái sinh Giáo Hội bằng “phép rửa trong Thánh Linh” (Jn 1:33, x. 20:22), nhờ đó Giáo Hội cũng tiếp tục truyền đạt “Thày là sự sống” cho các linh hồn bằng “quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49; x. Acts 1:4-12), do đó, nhân danh “và Thánh Thần” đây tức là chấp nhận chứng của Thần Chân Lý mà tin vào Đấng Cha sai.
Ở chu kỳ Năm C, chu kỳ theo Phúc Âm Thánh Luca, Giáo Hội lại chọn Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn nhấn mạnh đến vai trò “hiệp thông” của Chúa Thánh Thần: “Tất cả mọi sự Cha có đều ở nơi Thày. Nên Thày mới nói những gì Ngài (Thần Chân Lý) thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ Thày”.
Theo phụng niên, Giáo Hội cử hành Lễ về Chúa Giêsu Kitô, tiêu biểu nhất là hai Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh, cũng như cử hành Lễ về Chúa Thánh Thần, như Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống tuần vừa rồi, nhưng tuyệt nhiên không cử hành một Lễ nào về Chúa Cha. Thật ra, trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Chúa hay Một Chúa Ba Ngôi thì cử hành Lễ về Ngôi nào cũng là tôn kính cả Ba Ngôi, hay cũng là tôn thờ Một Chúa (Cha). Vì việc cử hành Lễ về Chúa Kitô chẳng những là việc trực tiếp tưởng niệm Đấng Cha Sai Đến, mà gián tiếp còn là việc tôn kính chính Đấng đã Sai Con đến, Đấng “đã yêu thương thế gian đã ban Con Một mình…”. Và việc cử hành Lễ về Chúa Thánh Thần chẳng những là việc trực tiếp tưởng niệm Đấng Con Hứa Ban (x Jn 14:16) mà gián tiếp còn là việc tôn kính “Cha sai Ngài đến nhân danh Thày” (Jn 14:26). Có thể nói, nếu Ba Ngôi chỉ là “một Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Jn 17:3), mà nói đến Thiên Chúa là nói đến Ngôi Cha (như từ ngữ “Thiên Chúa” ám chỉ về Cha trong bài đọc hai và bài Phúc Âm hôm nay), thì Lễ Chúa Ba Ngôi là Lễ về Chúa Cha, Đấng mọi sự phải qui về nơi Lời Nhập Thể (Lễ Giáng Sinh), nhờ Chúa Kitô Vượt Qua (Lễ Phục Sinh), và bởi Quyền Lực Từ Trên Cao (Thánh Thần Hiện Xuống). Phải chăng đó là lý do Lễ Chúa Ba Ngôi (hay Lễ về Chúa Cha, Đấng là cùng đích của tất cả mọi sự), mà theo thứ tự của lịch trình phụng niên, lễ này được Giáo Hội cử hành sau các Lễ Giáng Sinh, Phục Sinh và Hiện Xuống?
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Nơi Kinh Lạy Cha
Ý nghĩa phụng vụ về Lễ Chúa Ba Ngôi cũng có thể gọi là Lễ về Chúa Cha đây còn được phản ảnh nơi nội dung của Kinh Lạy Cha, một Kinh Nguyện trực tiếp với Ngôi Cha, nhưng thật ra bao gồm cả Ngôi Con và Thánh Thần. Thật vậy, “Lạy Cha chúng con ở trên trời” đây nghĩa là gì, nếu không phải chúng ta tuyên xưng Đấng chúng ta gọi “Cha” đây là “Thiên Chúa”, vì “ở trên trời” đây là ở nơi chính Thần Tính của Ngài.
“Danh Cha” ở câu nguyện ước thứ nhất đây không liên quan đến chính Ngôi Cha hay sao, Đấng đã liên lỉ tỏ danh Ngài ra cho dân Do Thái trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, như Thánh Kinh của họ đã cho thấy, nhất là trong đoạn Ngài tỏ danh Ngài “Là Hiện Hữu” cho Moisen (x. Ex 3:14), hay ngay trong chính Lời Nguyện Hiến Tế của Chúa Giêsu được Phúc Âm Thánh Gioan ghi nhận (x Jn 17:6): “Con đã tỏ danh Cha cho những kẻ Cha đã trao cho Con nơi thế gian…”?
Nếu “Danh Cha” trực tiếp với Ngôi Cha, thì “Nước Cha” liên quan tới Lời Nhập Thể, tới Chúa Giêsu Kitô, Đấng đến để thiết lập vương quốc mà Người được Cha sai đến hầu làm vua cai trị, bằng việc Người tỏ mình thực là Đấng Thiên Sai. Đến nỗi, có thể nói, Chúa Giêsu Kitô chính là vương quốc của Thiên Chúa trên trần gian này, và sự kiện “trị đến” của “Nước Cha” đây là sự kiện đã được bắt đầu từ khi Chúa Kitô Phục Sinh, cũng như sẽ được kết thúc vào lúc Người đến trong vinh quang (x Mt 26:64; 25:31). Bởi thế, sự kiện “trị đến” của “Nước Cha” đây còn có thể hiểu là tất cả Mạc Khải Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô được đạt đến mức độ hoàn toàn sáng tỏ trên thế gian.
Nếu “Danh Cha” liên quan đến Cha, “Nước Cha” liên quan đến Con, thì “Ý Cha” liên quan đến Thánh Thần. Vì nếu không ai biết được bản thân mình bằng chính tâm linh của mình thế nào, cũng chỉ có Thần Linh mới biết được Thiên Chúa như vậy mà thôi. Do đó, không ai biết được bản tính Thần Linh của Thiên Chúa, biết được nội tâm vô cùng viên mãn của Ngài, cũng như biết được ý muốn vô cùng sâu nhiệm của Ngài để có thể làm theo, nếu không có chính Thần Linh của Ngài ở nơi họ. Đó là lý do “tất cả những ai được Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Hơn nữa, nếu bản chất của ý muốn là tự do, mà càng tự do càng quyền năng, mà tự do nơi Thiên Chúa là một tự do tuyệt đối, nên ý muốn của Thiên Chúa là một quyền năng tối cao, là một quyền năng vô cùng, muốn làm gì cũng được. Nếu Thánh Thần là “quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49; x Acts 1:8), thì “Nước Cha” được đồng hóa với Lời Nhập Thể thế nào, “Ý Cha” cũng được đồng hóa với Thánh Thần Hiện Xuống như thế. Vậy ước nguyện thứ ba “Ý Cha thể hiện dưới đất (tức nơi mỗi người nói riêng nhất là nơi thế gian nói chung) cũng như trên trời (tức đúng như những gì Thiên Chúa mong muốn xứng với Thần Tính của Ngài)” đây tức là ước nguyện để cho Thánh Thần, cho “Quyền Lực từ trên cao”, cho “gió muốn thổi đâu thì thổi” (Jn 3:8), “theo ý muốn của Thiên Chúa” (Rm 8:27).
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Trong Giòng Lịch Sử
Mầu Nhiệm Ba Ngôi được diễn đạt thứ tự trong Kinh Lạy Cha thế nào, Mầu Nhiệm này cũng được thể hiện nơi lịch sử của nhân loại như vậy. Trước hết, Thiên Chúa (hay Chúa Cha) đã tỏ mình qua dân Do Thái, và cốt lõi của việc tỏ mình ra của Ngài là việc Ngài tỏ cho họ biết danh của Ngài, hay bản tính “chân thật duy nhất” của Ngài, thực tại Hiện Hữu của Ngài. Trước hết, Ngài đã tự động chọn họ và ký giao ước với họ qua các vị tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacóp. Sau đó, Ngài tiếp tục trung thành với giao ước và lời hứa của Ngài, cho dù dân Do Thái có hết sức bất trung. Ở chỗ, họ đã bỏ Ngài là Đấng tỏ ra cho họ thấy tận mắt Ngài luôn ở với họ và ra tay cứu độ họ, nhất là qua việc Ngài đã giải thoát họ khỏi dân Ai Cập, mà đi tôn thờ ngẫu tượng. Điển hình nhất là việc họ thờ con bò vàng đúc trong sa mạc, và ngoại tình với ngẫu tượng của họ, được tỏ hiện qua việc họ bái lậy và cúng tế cho các thứ ngẫu tượng này. Các vị tiên tri, bởi đó, mới được sai đến, với sứ vụ, ngoài việc loan báo Vị Thiên Sai Cứu Tinh (như trong Sách Tiên Tri Isaia) và Thần Linh Sự Sống (như trong Sách Tiên Tri Êzêkiên), trước hết là để các vị nhắc nhở họ về Giao Ước Thần Linh, và từ đó cảnh tỉnh họ về hai tội căn bản chính yếu này, tội ngẫu tượng và ngoại tình.
Mạc Khải Thần Linh của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái nói riêng cũng như trong lịch sử thế giới nói chung, (vì lịch sử dân Do Thái có liên hệ với các dân tộc thuộc khối Hồi Giáo ở vùng Trung Đông và Tiểu Á bây giờ, nhất là với Ai Cập), đạt đến tột đỉnh khi Ngài trực tiếp tỏ mình cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) theo huyết tộc Do Thái. Sự kiện dân Do Thái cho tới nay vẫn còn trông mong Đấng Thiên Sai Cứu Tinh theo ý họ, vì họ hoàn toàn phủ nhận Đấng Sáng Lập Kitô Giáo là Đức Kitô Thiên Sai, đã hiển nhiên cho thấy lịch sử thực sự có một nhân vật mang tên Giêsu, con bà Maria và ông Giuse ở Nazarét, một con người đã được sinh ra ở Bêlem nơi dân tộc Do Thái, cũng là con người đã bị dân tộc này cho là “lộng ngôn phạm thượng” (Mt 26:65-66) nên đã dùng thẩm quyền dân ngoại Rôma bấy giờ đóng đanh vào thập giá. Thế nhưng, chính trong lúc tối tăm nhất lịch sử loài người này (x. Lk 22:53), tức chính trong tình trạng hoàn toàn “vô tri” (Acts 3:17; x Lk 23:34) của dân tộc diễm phúc đã được Vị “Thiên Chúa chân thật duy nhất” tỏ mình ra cho này, mà “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến thế gian” (Jn 1:9) lại càng sáng tỏ: “Khi các người treo Con Người lên, các người sẽ nhận ra Là Tôi” (Jn 8:28).
Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu, biến cố tử nạn bởi tay loài người song phục sinh bởi Thần Linh Thiên Chúa (x Rm 8:11), đã cho dân Do Thái nói riêng thấy rằng Người chính là Đức Kitô Thiên Sai và Đấng Sai Người thực sự là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” của họ, đúng như thánh danh muôn đời của Ngài là “Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp” (Ex 3:15). Cũng chính vì thánh danh muôn đời này của mình, những gì Thiên Chúa đã hứa với Abraham ngay từ ban đầu, là cho giòng dõi ông đông như sao trời cát biển, và các dân tộc trên thế giới sẽ được phúc lành nơi giòng tộc của ông (x Gen 12:2-3, 22:17-18), mà Ngài tiếp tục tỏ mình trong lịch sử loài người, khi Ngài nhân danh Con sai Thánh Thần xuống với Giáo Hội của Con (x Jn 14:26). Bởi thế, sau khi Đấng Ngài Sai đã thiết lập “Nước Cha” tại Giêrusalem bằng Cuộc Vượt Qua của Người, một vương quốc sẽ “trị đến” vào ngày giờ ấn định của Ngài (x Acts 1:7), theo “Ý Cha” dự định, như Ngài cũng đã báo trước qua miệng tiên tri Joel (3:1): “Ta sẽ đổ thần linh của Ta trên toàn thể nhân loại”, mà Thánh Thần đã hiện xuống trong Ngày Lễ Ngũ Tuần của dân Do Thái, và, qua Giáo Hội như Bí Tích Cứu Độ, như phương tiện hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại (x Hiến Chế Lumen Gentium 1), Vị “Thánh Thần là Đấng ban sự sống” này đã liên lỉ hoạt động “cho tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8), để “canh tân bộ mặt trái đất” (Ps 104:30), cho “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”: “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28).
Vấn đề thực hành sống đạo:
Chúng ta đã nói tới Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nơi phụng niên, nơi Kinh Lạy Cha và trong giòng lịch sử, giờ đây, trong phần thực hành sống đạo, chúng ta nói tới vấn đề Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nơi đời sống đạo. Nếu Mẹ Maria là tạo vật đệ nhất về ân sủng đã phản ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi thế nào, Kitô hữu chúng ta, muốn phản ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, tức muốn Sự Sống Nội Tại của Thiên Chúa Ba Ngôi dồi dào trong chúng ta, chúng ta cũng phải giống như Mẹ mới được. Ở chỗ, đối với Chúa Cha, chúng ta phải là những đứa con ngoan ngoãn mau mắn “xin vâng” (Lk 1:38) như Mẹ, nhờ đó, chúng ta mới xứng đáng làm mẹ cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa Nhập Thể, vì Thánh Thần sẽ bao phủ chúng ta là bạn tình trinh khiết (x Lk 1:34) của Ngài. Như thế, Sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hay Sống Sự Sống Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là Kitô hữu chúng ta sống thế nào cho xứng đáng với thân phận làm con với Cha, với sứ vụ làm mẹ với Con, và với vai trò làm bạn với Thánh Thần vậy. -------------------------------
Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời, thì tội lỗi con người được tha hết: BaNgôi ABC16
1. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời, thì tội lỗi con người được tha hết. Tại sao Ngài phải cho Con Một của Ngài xuống trần chịu đau khổ làm chi cho phức tạp và khổ lụy như thế?
2. Theo sự công bằng vô biên của Thiên Chúa, thì tội lỗi của con người đáng phạt thế nào? Ngài có phạt con người đúng theo sự công bằng của Ngài đòi hỏi không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (…) Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian (…) để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". Để cứu chuộc con người, tại sao Thiên Chúa lại phải hành động một cách nhiêu khê là phải sai Con Một mình xuống thế, chịu đau khổ và chết nhục nhã trên thập giá? Ngài là Thiên Chúa quyền năng vô biên, trên nguyên tắc, Ngài chỉ cần phán một lời, thì tội lỗi con người dù to như núi lớn như biển cũng được tha hết, tại sao Ngài không làm như thế? Muốn hiểu được điều ấy ta phải hiểu được tội lỗi của con người lớn lao thế nào, đồng thời hiểu được sự xung đột kỳ diệu giữa hai thuộc tính công bằng và yêu thương của Thiên Chúa trước tình trạng tội lỗi ấy của con người.
1. Tội lỗi con người.
Muốn hiểu được tội lỗi con người, ta thử làm một so sánh. Khi nói một câu xúc phạm đến người bạn ngang hàng với ta, ta chỉ bị người bạn của ta buồn giận, và ta thấy tầm mức của lầm lỗi ấy không đến nỗi quan trọng lắm. Nếu ta xúc phạm đến một người dưới quyền ta, lỗi ấy lại càng nhỏ hơn. Nhưng nếu cũng câu xúc phạm ấy ta nói với cha mẹ ta, thì tội ta nghiêm trọng hơn rất nhiều, ta bị buộc tội bất kính hay bất hiếu với cha mẹ. Nếu cũng câu xúc phạm ấy ta nói với một ông vua, thì ta mắc tội khi quân là một trọng tội, nếu không bị bay đầu thì cũng phải tù tội. Như vậy, phẩm giá người bị xúc phạm càng cao, thì tội xúc phạm ấy càng lớn, cho dù hành động xúc phạm ấy hoàn toàn giống in hệt nhau. Phẩm giá của Thiên Chúa, là Chúa tể vũ trụ, cao hơn ông vua hàng tỷ lần (tạm diễn tả như vậy cho dễ hiểu), nên tội xúc phạm đến Ngài cũng lớn hơn lên hàng tỷ lần. Thế mà tổ tông loài người đã xúc phạm đến chính Ngài.
Một minh họa khác tuy què quặt nhưng giúp ta hiểu được phần nào sự di truyền của tội tổ tông. Một ông phù thủy quyền năng kia có một con chó mà ông hết mực yêu thương. Một hôm, khi tình yêu dâng lên dào dạt, ông đã tận dụng quyền năng của mình biến nó thành một người như ông, đồng thời nhận nó làm con. Thế là từ đấy con chó - giờ đã thành người - có thể suy nghĩ, nói năng như con người, tuổi thọ cũng dài như con người, có khả năng làm được tất cả những gì mà một con người có thể làm được. Thật là một thay đổi và thăng tiến vĩ đại! Ông phù thủy còn dự tính sẽ truyền đầy đủ những bí quyết phù thủy cho nó, để nó cũng có tài năng biến hóa như ông, và khi ông sang bên kia thế giới, toàn bộ sản nghiệp vĩ đại của ông sẽ để lại cho nó. Và con cháu do nó sinh ra cũng đều là người và cũng sẽ được kế thừa nghề phù thủy và sản nghiệp của ông.
Nhưng một hôm vì say rượu nó đã nói những lời xúc phạm đến ông, thậm chí còn đả thương ông. Vì thế, trong cơn giận dữ, ông đã biến nó trở lại thành chó. Thế là chó lại hoàn chó! Nó không còn nói được tiếng người, không còn làm được những việc mà chỉ con người mới làm được! Không còn sống đến 7, 8 chục tuổi như con người. Không còn được ngồi bàn ăn uống như người, mà phải ăn uống theo kiểu chó, v.v… Khả năng trở nên một thầy phù thủy hoàn toàn mất. Và tệ hại nhất là con cháu của nó, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cũng chỉ là chó và mãi mãi là chó!
Cũng vậy, con người đã được Thiên Chúa dựng nên làm người ở bậc tự nhiên như bao thú vật khác, có điều cao hơn thú vật một chút. Nhưng không chỉ có thế, vì yêu thương con người một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã nâng con người lên bậc siêu nhiên để trở thành con cái Ngài, có đầy đủ những khả năng tương xứng với phẩm giá ấy.
Các nhà thần học gọi bản chất được nâng cao thành con cái Thiên Chúa với quyền thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu là ơn siêu nhiên, và gọi khả năng được nâng cao như không phải chết, không phải đau khổ, hạnh phúc hơn, hướng thiện hơn, khôn ngoan hơn, v.v… là những ơn ngoại nhiên. Nhưng tổ tông con người đã phạm tội làm mất tất cả những ơn đặc biệt ấy - siêu nhiên cũng như ngoại nhiên - để trở lại thành con người hoàn toàn ở bậc tự nhiên. Các thế hệ sau của con người cũng không hơn gì tổ tông mình. Và vì tội lỗi ấy, con người phải đau khổ và chết, phần xác cũng như phần hồn.
2. Sự xung đột giữa công bằng và yêu thương nơi Thiên Chúa.
Tôi xin trình bày khái lược và tổng hợp cách lý giải vấn đề đặt ra ở trên của ba nhà thần học Tin Lành: Martin Luther (vị sáng lập đạo Tin Lành, người Đức), J. Moltmann (người Đức) và Kazo Kitamori (giáo sư chủng viện, người Nhật) để chúng ta cùng suy niệm.
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa vừa công bằng vừa yêu thương. Vì là Thiên Chúa vô hạn và tuyệt đối, nên sự công bằng và yêu thương của Ngài cũng vô hạn. Công bằng và yêu thương là bản chất của Ngài, Ngài không bao giờ hành động ngược lại bản chất của Ngài, vì như vậy là tự phản lại chính mình. Chính vì bản chất hai mặt ấy mà Thiên Chúa trở nên khó xử. Một đằng sự công bằng đòi buộc Ngài phải phán xử tội lỗi của con người một cách hợp lý. Nếu thế thì con người phải chịu hình phạt tương xứng với tội lỗi mình. Con người hữu hạn nên tội của con người là hữu hạn. Nhưng Thiên Chúa là vô hạn, nên tội xúc phạm đến Thiên Chúa lại là vô hạn. Tội của con người đối với Thiên Chúa vì thế có hai mặt: vừa hữu hạn lại vừa vô hạn. Tội hữu hạn thì hình phạt phải hữu hạn, tội vô hạn thì hình phạt cũng phải vô hạn. Hình phạt của con người vì thế cũng có hai mặt: vừa hữu hạn vừa vô hạn. Dù thế nào thì con người cũng bị phạt rất nặng, nên phải thiệt hại vô cùng và đau khổ rất nhiều.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa công bằng, mà còn là một Thiên Chúa đầy yêu thương. Tình thương vô hạn của Ngài không thể chấp nhận để cho con người phải vĩnh viễn đau khổ vì chính sự công bằng của Ngài. Tình thương ấy đòi hỏi Ngài phải cứu con người cho bằng được. Nhưng thật vô cùng khó vì phải cứu thế nào để vẫn thỏa mãn được sự công bằng của Ngài. Lúc này Thiên Chúa duy nhất dường như bị xẻ thành hai: một Thiên Chúa công bằng đòi hỏi phải xử phạt con người một cách xứng đáng, và một Thiên Chúa yêu thương đòi hỏi phải cứu con người với bất cứ giá nào. Trước sự đòi hỏi gắt gao của bản tính vừa công bằng vừa yêu thương ấy, trong nội tâm Thiên Chúa có sự xung đột vì con người. Đó chính là nỗi đau khổ của Ngài, tạm dùng tữ như thế. Thiên Chúa vô cùng hạnh phúc bây giờ trở nên đau khổ vì con người. Vì là Thiên Chúa, nên đau khổ ấy cũng là vô cùng.
Sự đau khổ vô cùng ấy của Thiên Chúa được biểu lộ qua sự đau khổ cùng tột và cái chết thê thảm của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa.
3. Giải pháp cứu con người: Đức Giê-su đau khổ và chết.
Vẫn theo quan điểm của ba nhà thần học trên, muốn cứu con người, thì trong số con người phải có một người có địa vị xứng đáng có khả năng đại diện cho con người để đền tội thay cho cả loài người. Vì tội ấy xúc phạm đến Thiên Chúa rất cao cả, nên để đền tội cho cân xứng theo sự đòi hỏi của lẽ công bằng, người đại diện cho loài người cũng phải cao cả ở một tầm vóc nào đó xứng với sự cao cả của Thiên Chúa. Nếu không thì người ấy chỉ có thể đền tội tối đa cho một mình mình thôi, không đền thay cho cả nhân loại được. Thật là nan giải! Làm sao trong hàng ngũ con người tội lỗi đang bị thất sủng trước Thiên Chúa có thể có được một con người như thế? Con người chắc chắn không thể làm nổi, nhưng Thiên Chúa quyền năng vô biên chắc chắn có thể. Do tình thương vô biên đối với con người thúc đẩy, đồng thời nhờ sự khôn ngoan và quyền năng vô hạn của mình, Thiên Chúa đã thực hiện một sáng kiến tuyệt vời là cho Ngôi Hai nhập thể làm người để làm công việc đền tội ấy.
Khi nhập thể làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa trở thành Đức Giê-su, một con người thật sự. Nhưng con người này lại hết sức cao cả, cao cả ngang hàng với Thiên Chúa, vì đó chính là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa. Vì thế, Ngài rất xứng đáng để đền tội thay cho cả nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Và để đền một cách thật cân xứng với cái tội vô cùng to lớn của nhân loại - cả tội tổ tông được di truyền và vô số tội riêng của toàn thể loài người - Đức Giê-su đã tự nguyện chịu biết bao đau khổ ở trần gian, và cuối cùng chết vô cùng nhục nhã và thê thảm trên thập giá.
Công trình nghiên cứu đầy tính khoa học về tấm khăn liệm xác Đức Giê-su của bác sĩ giải phẫu học Pierre Barbet cho thấy sự đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu là cùng tột và khủng khiếp như thế nào. Nhưng chính qua sự đau khổ và sự chết ấy, cả sự công bằng lẫn tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với con người được hoàn toàn thoả mãn. Thật là một giải quyết tài tình, qua đấy ta thấy được sự công bằng và tình yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời thấy được tội lỗi của ta trước con mắt của Thiên Chúa lớn lao như thế nào.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nói của Đức Giê-su: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ". Thì ra sự công bằng vô biên của Cha không cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đó có con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vô biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Amen. -------------------------------
Trong phòng xử án Toà án nhân dân TP. Saigon sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu: BaNgôi ABC17
Trong phòng xử án Toà án nhân dân TP. Saigon sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu “AB”. Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án “hai mươi năm tù vì tội giết người” bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà...
Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: “Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia...” Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ!
Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: “Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!” Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: “Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8.” Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: “Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá.” Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: “Xin đừng chụp ảnh con tôi...”
Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
“Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa vă thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù! Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: “Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho.” (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là CHÚA THÁNH THẦN. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là “kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời” (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người” (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi “trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29) nhờ “Thần Trí làm nên nghĩa tử” (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là “ân sủng được trao ban từ muôn thuở” (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn được đáng động nhất do điều gì trong câu chuyện kể về phạm nhân Lương Quốc Tuấn và người mẹ của anh? 2. Bạn có thể nói gì về kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi đối với những người như Lương Quốc Tuấn, người mẹ đáng mến của anh, hoặc người bố của anh? -------------------------------
"Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi thí ban Con Một của mình, để những ai tin vào Ngài thì không phải hư mất nhưng được sự sống đời đời", Thánh Sử Gioan xác quyết như thế (Gn 3,16).
Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh rằng: "Người đã không dung tha cho chính Con của mình, nhưng đã phó nộp vì chúng ta hết thảy" (Rm 8,32).
Thử hỏi "chúng ta" là ai mà Thiên Chúa biệt đãi đến thế? Khi chiêm ngưỡng bao kỳ công: BaNgôi ABC18
Thử hỏi "chúng ta" là ai mà Thiên Chúa biệt đãi đến thế?
Khi chiêm ngưỡng bao kỳ công mà Đấng Tạo Hóa đã làm cho con người, tác giả Thánh vịnh cũng phải thốt lên:
Con người có là chi mà Chúa cần biết đến. Phàm nhân có là gì mà Chúa phải bận tâm. Ấy con người khác chi hơi thở, Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.
Thân phận "chúng ta" hèn mọn như "hơi thở" và "bóng câu", nhưng sao Thiên Chúa lại phó nộp Con mình cho án chết để "chúng ta" được sống như vậy?
Sẽ không có một câu trả lời nào có thể hóa giải thỏa đáng cho vấn nạn trên bằng câu trả lời của thánh Gioan: Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tình yêu đó được bộc lộ trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Đức Giêsu, Con Một nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri cho chúng ta mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa (Gn 1,18). Lời thông tri tình yêu đầu tiên là việc Thiên Chúa xuống làm con người.
Khi yêu ai người ta trở nên khiêm tốn. Đó là một trong những thuộc tính của tình yêu. Một tác giả đã viết: "Có bao giờ một người thanh niên có thể nói với người yêu của mình: "Tôi yêu em, nhưng em phải nhớ: tôi là con nhà giàu, có bằng tiến sĩ vật lý, còn em chỉ là con bé nhà quê ít học, cho nên em phải biết thân biết phận của mình'. Nếu thế, chẳng phải là tình yêu thật sự... Không thể có một thái độ kênh kiệu như thế trong tình yêu chân thật" (x. Nghe Trong Thinh Lặng).
Có yêu ai tha thiết, người ta mới khát mong được ở cùng người ấy. Thực tế cho thấy, cao điểm tình yêu và hạnh phúc giữa một người nam và một người nữ trong ngày thành hôn không phải là vì được mặc áo soirée, tuxedo, đi xe limousine, hay được bạn bè họ hàng chúc tụng, song là vì họ đạt đến ước nguyện ở cùng và nên một với nhau.
Cũng thế, tình yêu Thiên Chúa đã khiến Ngài khiêm tốn đến nỗi hạ mình thẳm sâu: từ Thiên Chúa xuống kiếp người, để ở với con người.
Thuộc tính khác của tình yêu là trao ban. Yêu nhau không thể không tặng nhau thứ gì. Mới quen thì tặng chiếc khăn, chiếc áo. Đậm hơn thì trao nhau chiếc nhẫn, chiếc hôn. Khi đến cao điểm yêu thương thì tặng luôn con tim, cuộc đời.
Tình yêu bộc lộ chính mình qua sự cho đi. Và thường là cho đi những gì tươi đẹp quí giá. Không chàng trai nào đi hái những bông hoa héo hoa khô trong vườn để tặng người yêu, cũng như chẳng có cô gái đang yêu nào lại muốn gặp gỡ người yêu bằng một gương mặt sầu úa.
Yêu là phải cho đi. Càng yêu nhiều, càng cho nhiều. Càng yêu hết lòng càng cho đi hết những gi quí nhất. Mà trên đời này có gì quí báu cho bằng sự sống; không phải chỉ là sự sống thân xác, nhưng còn là sự sống thần linh. Thế nên, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu của Ngài bằng cách truyền ban sự sông cho con người qua việc tạo dựng: chuộc lại sự sống con người qua việc cứu rỗi; và làm phong phú sự sống con người qua việc thánh hóa. Đó cũng chính là giòng chảy của Tình Yêu nơi Ba Ngôi Thiên Chúa - Cha, Con, và Thánh Thần - trong chương trình cứu độ con người.
Nói cách khác, trong yêu thương Thiên Chúa Cha đã dựng nên con người. Khi con người phản bội tình Chúa, lăn lộn trong vũng bùn nhơ nhớp của tội khiên, phải gánh lấy hậu quả của tội lỗi là sự chết, Thiên Chúa Con đã cứu chuộc nhân loại bằng cái chết tha thứ và hoà giải của mình. Rồi để tiếp tục cứu chữa và làm cho con người ngày thêm xinh đẹp theo hình ảnh Thiên Chúa, Ngôi Ba Thánh Thần đã không ngừng nhắc nhở chân lý, đỡ nâng tác động, và dẫn lối thiện toàn.
Như thế tiến trình cứu độ là giòng chảy liên lỉ của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi trên nhân gian, và những ai "bơi lội" trong đó sẽ được sống sung mãn đời đời. Còn những ai từ khước yêu thương là tự chuốc lấy án phạt ngàn thu.
Người chối từ yêu thương cũng giống như kẻ không chịu hít thở khí trời. Người nhịn thở sẽ chết rất mau. Kẻ nhịn yêu cũng tàn rất chóng.
Yêu thương là mở ngỏ cho sự sống phát sinh. Tình yêu Thiên Chúa đã tác sinh, cứu chữa, và làm thăng hoa thế nào, bạn với tôi cũng được mời gọi tham gia tác tạo sự sống, chữa lành tâm hồn, và làm đẹp cuộc đời như vậy.
Thế nên, khi bóp nghẹt mầm sống, khi gây đau thương đổ nát bằng hận thù, ghen ghét, hay khi làm nhuốc nhơ cuộc đời bằng ích kỷ, kiêu căng, tội lỗi, là ta đang tách rời Thiên Chúa, tự lên án chính mình, và đi vào chốn tăm tối khổ đau.
Nhưng Thiên Chúa không bao giờ muốn thấh con người rơi vào tình cảnh như thế. Ngài đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, ngay như thí cả chính Người Con yêu dấu nhất, để nhân loại được hạnh phúc trong Ngài.
Thế bạn còn đắn đo gì để không đáp trả lòng yêu mến siêu vời đó. -------------------------------
Giáo Hội vừa hân hoan mừng lễ Phục Sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống. Tất cả những lễ này: BaNgôi ABC19
Giáo Hội vừa hân hoan mừng lễ Phục Sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống. Tất cả những lễ này diễn tả lại chặng đường xuyên suốt của Chúa Giêsu Kitô trong lịch sử cứu rỗi nhân loại. Những biến cố chịu nạn, sống lại, lên trời và ban Thánh Thần làm nổi bật sự kiện duy nhất của Chúa Kitô: qua Thập Giá mới tới vinh quang. Chúa Giêsu đã kinh qua con đường khổ nạn theo ý Chúa Cha để rồi khải hoàn vinh quang trên nước trời, ngự bên hữu Cha của Ngài. Hôm nay, Giáo Hội lại cho toàn thể dân Chúa chiêm ngắm Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi như niềm tin lớn lao, niềm yêu thương sâu xa , thăm thẳm vì Chúa đã sống trong sự duy nhất: " Cha, Con và Thánh Thần "
Trong niềm tin, cậy, mến , mỗi người chúng ta hãy biểu tỏ sự gắn bó của ta như dấu chứng chắc chắn của người Kitô hữu qua dấu Thánh Giá:" Nhân danh Chúa Cha, nhân danh Chúa Con và nhân danh Chúa Thánh Thần ".
I. CHÚA GIÊSU MẠC KHẢI VỀ CHA CHO NHÂN LOẠI:
"Thiên Chúa là tình yêu "( 1Ga 4, 8 ).Trước hết Chúa Giêsu cho ta biết Thiên Chúa của Đức Giêsu là Chúa Cha. Là Cha, Thiên Chúa hiểu thấu mọi nhu cầu của con người, Ngài lo lắng cho con người mọi sự, Ngài quan phòng con người. Từ sợi tóc trên đầu, từ nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ đến sự kín ẩn của tâm hồn, Thiên Chúa đều biết và lo lắng cho con người . Hình ảnh của Chúa Cha là hình ảnh của người Cha tốt lành, thánh thiện, đầy xót thương. Dụ ngôn về đức con hoang đàng cho thấy Chúa Cha là Đấng tốt lành, thánh thiện biết chừng nào ! Để tóm tắt mọi nét về Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: " Chúa Cha là Cha chúng ta ". Ngài nói khi cầu nguyện, hãy thưa:" Lạy Cha chúng tôi, Đấng ngự trên trời, ước gì danh Cha hiển thánh " ( Mt 6, 7-14 ). Như thế, lời rao giảng về Chúa Cha của Chúa Giêsu luôn luôn được vang lên trong Tin Mừng .
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ rao giảng về mình Chúa Cha mà thôi, nhưng Ngài còn xác nhận Ngài là Thiên Chúa, trong Thiên Chúa, Ngài là Con. Sự liên hệ giữa Ngài và Cha Ngài có ý nghĩa khác với ta. Ngài nói với chúng ta: " Cha các ngươi ", nhưng về Ngài, Ngài minh định "Cha Ta". Ngài cư xử với Cha Ngài các rất hiếu thảo: " Không làm theo ý Ta mà là theo ý Cha " ( Ga 6, 38 ). Trong lời nguyện tế hiến, Ngài nói: " Cha ở trong Con và Con ở trong Cha " ( Ga 17, 21 ) và " Chúng Ta là một " ( Ga 17, 22 ).
Đức Giêsu Kitô tuy sống các rất hiếu thảo với Cha, nhưng Ngài cũng rất thần thiêng và tràn đầy thần khí của Cha. Chúa Giêsu luôn tràn đầy thánh Thần, thần khí của Cha ở trong Chúa Giêsu và làm cho Ngài đầy đủ mọi sự để hoàn thành đầy đủ ý định của Chúa Cha:" Thần khí sự thật tự Cha xuất ra " ( Ga 15, 26 ). Thánh Thần là sự kết hợp tình yêu giữa Cha và Con.
Nói cách nào đó, chính Đức Giêsu đã dùng cuộc sống và lời nói mạc khải Thiên Chúa Cha.Đồng thời, Ngài cũng tự mạc khải là Con bình đẳng với Cha và Thiên Chúa cũng là Thánh Thần, Ngài đến để thông truyền cho ta về Ba Ngôi . Vậy, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô là Cha, là Con và là Thánh Thần .
II. MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI GIÚP GÌ CHA TA ?
Khi tin Chúa Giêsu là Đường, tức ta tin vào Chúa Ba Ngôi, tự vì Đường dẫn tới Thiên Chúa Ba Ngôi.Nhưng làm sao để ta có thể hiểu phần nào về Chúa Ba Ngôi. Ta có thể lấy hình ảnh gia đình để diễn tả phần nào về Chúa Ba Ngôi. Sự duy nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con diễn tả tình yêu hỗ tương trong Thánh Thần, có thể so sánh với sự duy nhất của vợ chồng, diễn tả tình yêu nơi đứa con. Hay hình ảnh cộng đoàn xã hội do con người lập ra đều hướng về một sự duy nhất của Chúa Ba Ngôi, như lời của chính Đức Giêsu xác nhận:" Để hết thảy chúng nên một…Lạy Cha,như chúng Ta là một. Để chúng nên một " ( Ga 17, 21-22 ).
Đọc các bài sách thánh hôm nay,ta hiểu được rằng trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã thương nhân loại, đặc biệt dân Israen qua Môsê, mặc dù dân luôn phản bội, đúc bò vàng, thờ ngẫu tượng. Thiên Chúa hay ghen, nhưng cũng đầy tình xót thương, bao dung, tha thứ và hết mực yêu thương những người tội lỗi. Ngài đã hứa thực hiện kế hoạch cứu rỗi nhân loại, đưa nhân loại, giải thoát nhân loại ra khỏi vòng nô lệ, u mê, tội lỗi. Ngài thánh thiện, công minh, nhưng vẫn một mực yêu thương Israen tội lỗi.Lời hứa của Thiên Chúa chỉ được thực hiện trong thời Tân Ước khi Nicôđêmô tới gặp Chúa Giêsu trong đêm , chính Chúa Giêsu đã vén lộ cho ông luật sĩ này thấy: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài,thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời…" ( Ga 3, 16 ). Đây là một mạc khải rất đặc biệt,vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho Nicôđêmô cũng như nhân loại có thể hiểu được mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Cha của Ngài. Nơi chính Chúa Giêsu đã có Cha: " Cha và Con là một ". Hiểu được mối tương quan Cha Con như thế, ta đồng ý với thánh Phaolô dùng lời để khuyên nhủ các tín hữu của Ngài.
Ơn đầu tiên thánh Phaolô nhận được trên đường Damas là được thấy và được đầy tràn Thánh Thần của Chúa.Trước kia Phaolô chỉ mới hiểu được Cựu Ước và nghiệm ra thần khí đã được đổ xuống trên Môsê và các ngôn sứ. Nhưng,bản thân của Ngài chưa cảm nghiệm được về Chúa Thánh Thần.Nên, khi Anania đặt tay trên Phaolô, Phaolô đã được tràn đầy Thánh Thần và Ông đã bắt đầu rao giảng công khai về Chúa Giêsu, về mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính trong mối tương quan ấy,mọi người đã được cứu độ. Hoa quả của Thánh Thần là mến yêu,vui mừng, bình an, bao dung, huệ ái. Hiểu thế, ta mới thấy lời của thánh Phaolô kết thúc trong thơ thứ hai gửi tín hữu Corintô đoạn 13, câu 11 tới 13 quả có liên quan mật thiết với sự mạc khải của Chúa Giêsu về Chúa Ba Ngôi: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em ". Chúa Giêsu không nói đến Chúa Cha trước nhưng nói đến chính Ngài vì nơi bản tính Ngài đã có Chúa Cha rồi. Ơn thông hiệp mà thánh Phaolô nguyện xin cho mọi người là để mọi người được mọi ân sủng phong phú của Chúa Thánh Thần khiến mọi người được kết hiệp trong Ba Ngôi duy nhất ." Thiên Chúa là tình yêu " (1Ga 4,8 ). Là tình yêu, Chúa Cha yêu thương Chúa Con sinh ra Chúa Thánh Thần để ta được sống trong yêu thương .
Trong mầu nhiệm Ba Ngôi duy nhất: Thiên Chúa là lòng mến. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống trong nguồn mạch của Chúa Ba Ngôi. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá:" Nhân danh Chúa Cha, nhân danh Chúa Con và nhân danh Chúa Thánh Thần ", mọi ngườii sẽ hiểu rõ Chúa Ba Ngôi đã ở trong mọi người.
Xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse giúp mỗi người chúng ta biết chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tình yêu của Chúa để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con trong Cha . Amen.
Làm sao giải thích được Thiên Chúa Ba ngôi? Chỉ một Chúa duy nhất, nhưng lại có Ba Ngôi: BaNgôi ABC20
Làm sao giải thích được Thiên Chúa Ba ngôi? Chỉ một Chúa duy nhất, nhưng lại có Ba Ngôi phân biệt rõ ràng: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh thần. Ba Ngôi phân biệt, tách biệt, khác biệt đến nỗi không hề lẫn lộn, không bao giờ hòa trộn, nhưng lại chỉ là một Chúa. Làm sao giải thích? Hình như càng giải thích càng khó hiểu(?)!
Nhưng dẫu cho cố gắng của ta có khó khăn đến đâu đi nữa, dẫu cho mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn chỉ là một huyền nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp, suy nghĩ non nớt của ta, thì không phải vì thế mà ta không thể biết gì về mầu nhiệm cao cả và là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo này.
Trong những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu rất nhiều lần tỏ bày mầu nhiệm Thiên Chúa: Người gọi Thiên Chúa là Cha của mình, nhưng đồng thời Người cũng cho biết: “Ta và Cha Ta là một”.
Khi mạc khải Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu cho thấy Thánh Thần là Tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa, là mối hiệp thông, là sự sống và sức sống… giữa Cha và Con.
Dựa trên lời mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu rằng:
Nơi Chúa Giêsu, Đấng hóa thân làm người, ta nhận ra Thiên Chúa cụ thể hơn, dễ hiểu hơn. Thiên Chúa tỏ mình nơi khuôn mặt của Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, nhân hậu, tha thứ, Thiên Chúa đau khổ vì tội lỗi nhân loại, đau khổ khi nhân loại đau khổ… Đặc biệt, khuôn mặt đầy lòng thương xót, vị tha của Thiên Chúa được khắc sâu nơi khuôn mặt thập giá của Chúa Giêsu. Cũng chính nơi thập giá, Chúa Giêsu khắc sâu khuôn mặt quằn quại, đau khổ của cả nhân loại một cách tuyệt hảo.
Trên hết mọi sự, Thiên Chúa tỏ mình là Thiên Chúa cứu độ, để trong tất cả mọi hành động, mọi lời mạc khải đều nhằm vào cứu độ con người.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa là Cha chúng ta, và ngược lại Người nhận ta làm con của Người. Nhưng ta chỉ là con Thiên Chúa trong tương quan với người Con Một duy nhất là Đức Giêsu. Tách rời người Con Một này khỏi đời mình, ta sẽ đánh mất Thiên Chúa, mất ơn nghĩa mà qua người Con, Thiên Chúa ban cho ta. Nói tóm lại: Chúng ta là những người con trong Người Con (filii in Filio).
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Thánh Thần của Người. Trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần là “Đấng Bảo Trợ” từ nơi Chúa Cha cho các môn đệ (Ga 14, 26). Sau khi sống lại, Người hiện ra nhiều lần, và thổi hơi ban Thánh Thần, trao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ (Ga 20, 22).
Và trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện đến trên các môn đệ, biến các ông từ những kẻ nhút nhát trở nên những người mạnh dạn loan báo Tin Mừng.
Đối diện với Thiên Chúa, con người quá bé bỏng. Mầu nhiệm về Thiên Chúa như một bầu trời mênh mông, trí tuệ con người như một cánh chim tung mình trong mênh mông ấy. Cánh chim không thể che phủ cả bầu trời. Nếu muốn che phủ bầu trời, cánh chim phải lớn bằng cả bầu trời. Điều này không thể tưởng tượng
Thiên Chúa là huyền nhiệm. Nơi Thiên Chúa thật là khó hiểu. Trí tuệ con người không thể hiểu tường tận mọi mạc khải về Thiên Chúa. Muốn hiểu Thiên Chúa cách tường tận, trí tuệ phải bằng Thiên Chúa, điều này không thể tưởng tượng.
Tuy nhiên, nhờ mạc khải, ta nhận ra rằng, Thiên Chúa nơi từng Ngôi một: là Chúa Cha, là Chúa Con, là Chúa Thánh Thần. Ta cũng nhận ra Thiên Chúa duy nhất “không phải trong một ngôi đơn độc nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể” (Lời Tiền Tụng lễ Chúa Ba Ngôi): Cha-Con-Thánh Thần.
Con đã từng đến trong trần gian. Mọi hoạt động nhằm cứu độ trần gian đều có Cha và Thánh Thần cùng hiện diện và hoạt động nơi Con. -------------------------------
Ngày 22.8.2004, ba người bịt mặt cướp đi bức họa “Tiếng Thét” ( The Scream – 1893 ) của hoạ: BaNgôi ABC21
Ngày 22.8.2004, ba người bịt mặt cướp đi bức họa “Tiếng Thét” ( The Scream – 1893 ) của hoạ sĩ Edvard Munch ( 1863 – 1944 ) trong một bảo tàng ở Oslo trước những con mắt sững sờ của khách tham quan. Mãi đến ngày 27.4.2005 người ta mới tìm lại được bức hoạ.
Tuy nhiên, điều đáng nói đối với bức tranh này lại là cuộc tranh cãi giữa các chuyên gia hội họa vì bất đồng ý kiến ở chỗ: Hình người kỳ lạ trong tranh, hai tay ôm đầu và há miệng kinh hoàng, là do anh ta gào thét hay đang nghe tiếng thét ? Riêng hoạ sĩ Munch cho biết: Ông nghĩ ra ý tưởng bức tranh khi đi dạo với bạn bè và thấy bầu trời đỏ như nhuộm máu: ”Tôi đứng đó, run rẩy vì sợ hãi và như nghe thấy tiếng kêu vô tận xuyên qua bầu trời”. Các chuyên gia, người thì cho đó là tiếng thét của tự nhiên và nhân vật trong tranh là hiện thân của tiếng kêu đó; người thì cho đó là chính con người đang gào thét. Rõ ràng “Tiếng Thét” có thể là của tôi ( ngôi thứ nhất ), của bạn ( ngôi thứ hai ) và của nó ( ngôi thứ ba ). Và cũng rất có thể là ba ngôi ở số nhiều: chúng tôi – các anh – chúng nó ! Một “Tiếng Thét”... ba ngôi !
Phụng Vụ Giáo Hội ngay sau Lễ Hiện Xuống liền bước vào những ngày thường của Mùa Thường Niên cùng với “Tiếng Thét” ( Mc 9,14 – 29 ) mà chúng ta cũng không biết chắc là của ai: Vui mừng tột độ của em bé thoát kìm kẹp của ma quỷ ? Kinh hoàng tột cùng của ma quỷ khi bị sức mạnh Chúa Giê-su tống khứ ? Nhưng “Tiếng Thét” vẫn còn tiếp diễn cho tới Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: Với sự kinh hãi của các môn đệ khi nghe báo về Thương Khó ( Mc 9, 30 – 37 ); với nỗi kinh hoàng của kẻ bị cột cối đá ném xuống biển vì làm gương xấu ( Mc 9, 42 – 50 ); tiếng thét của người dâm tà ( Mc 10, 1 – 12 ), v.v... Tất cả chỉ dịu đi khi Chúa Giê-su chỉ cho thấy con đường thơ ấu, con đường an bình duy nhất để vào Nước Trời ( Mc 10, 13 – 16).
Ba Ngôi Thiên Chúa mà hôm nay chúng ta thờ kính, có liên hệ gì với “Tiếng Thét ba ngôi” trong cuộc đời đầy dẫy những tiếng thét này chăng ?
Trước hết, Chúa Ba Ngôi đã nghe “Tiếng Thét” của nhân loại và của mỗi người: Không ai có thể biết được Mầu Nhiệm Ba Ngôi và Tình Thương Vô Biên, nếu như Thiên Chúa đã không mặc khải qua Đức Ki-tô, Ngôi Hai. Nhưng Thiên Chúa đã không mặc khải, nếu như Người không “lắng tai nghe” và không vì “Tiếng Thét” kinh hoàng tuyệt vọng của loài người kể từ khi con người nghe theo Thần Dữ mà phạm tội. Thiên Chúa chuyển tiếng thét của loài người thành Vui Mừng và Hy Vọng phát xuất từ một Người Nữ, để rồi chiến thắng của Người Nữ sẽ biến sự vênh vang đắc thắng của Xa-tan trở thành “Tiếng Thét” bại trận kinh hoàng cho nó.
Sau khi Chúa Giê-su chịu Khổ Nạn và Phục Sinh, thì “tiếng thét tập thể” không còn nữa, nhưng đã được Ơn Cứu Rỗi xoá sổ nhờ Máu Con Chiên đổ ra. Chỉ còn lại “Tiếng Thét” cá nhân của mỗi con người đối diện với sự lựa chọn giữa Lành và Dữ, giữa Thiện và Ac, giữa kính tôn Thiên Chúa và ngã theo ma quỷ, giữa thế gian và bản thân. Con người đã được chỉ cho Đấng Cứu Độ và con đường cứu rỗi. Còn lại là những nét tạo nên bức tranh đời đời, ở đó sẽ là “tiếng thét” kinh hoàng của những thế lực xấu xa hoặc của chính con người thua cuộc ? Và tất cả hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ sống của mỗi người.
Quả thật, bài học tình thương vô biên của Chúa Ba Ngôi dạy ta phải biết nghe được “tiếng thét ba ngôi”:
Trước hết, đó là tiếng thét của chính mình – ngôi nhất –, mà lắm khi chúng ta cố tình “cả vú lấp miệng em” khi lòng chúng ta muốn hướng thiện, muốn dứt bỏ những cái “đuôi” tội lỗi ( in cauda venenum: nọc độc ở đuôi ), nhưng sự đam mê vật chất, chuộng hư danh, thói quen ích kỷ, nuông chiều xác thịt, đã khiến chúng ta bịt kín tiếng thét và giãy giụa của chính mình. Khi giữa Sự Dữ và Sự Lành, giữa Thiện và Ac, giữa Thiên Chúa và Xa-tan bị đánh đồng với một dấu bằng ( = ), thì mọi hy vọng cũng phụt tắt.
Kế đến, chúng ta không được quên là chúng ta đang sống trong Giáo Hội, trong một cộng đoàn yêu thương và liên đới, để chúng ta biết củng cố cho nhau niềm tin, sức mạnh: không binh chủng nào, đội quân nào tự tác chiến hay không phối hợp với nhau mà có thể chiến thắng những kẻ thù liên minh chặt chẽ trong Sự Ac và đầy hung hãn quyết tâm.
Bài học “bó đũa từng chiếc và gộp lại” phải trở thành kinh điển cho người Công Giáo: Không để tâm nghe “Tiếng Thét” của đồng đội thì chính là chúng ta đang làm cho mình yếu thế.
Cuối cùng, một Ki-tô hữu không thể không nghe “Tiếng Thét” của tha nhân, mà chỉ có thể là do cố tình “bít tai, bịt mắt, ngoảnh mặt” làm ngơ ! Theo Thánh Gio-an Kim Khẩu: không ai có thể nại ra bất cứ trường hợp nào của bản thân để tự cho mình có quyền hững hờ với số phận, với đau khổ, với “Tiếng Thét” của anh em; khi mà Chúa Giê-su chỉ cho thấy cách hành xử của bà già goá nghèo: một đồng xu, vốn là thứ nuôi sống bà ( Mc 12, 41 – 44 ) !
Ngày hôm nay, giữa lúc hạn hán gây đói khổ khắp đất nước mà vẫn có một số kẻ mang danh Ki-tô hữu hành xử báng bổ với Lời Chúa, chà đạp anh em bằng sự phè phỡn trác táng, bằng việc bo bo vinh thân phì gia, thì khi ấy “Tiếng Thét” của những người đói khổ, nghèo túng, bất hạnh sẽ bay tới Chúa và đòi công lý. Không sai ! Tiếng Thét, những tiếng thét ấy “buộc” Chúa Ba Ngôi phải xét xử, phải tỏ rõ công lý và Chúa sẽ chiếu theo đó mà phán xét: “Vì xưa Ta đói,các ngươi đã không cho Ta ăn. Vì xưa Ta khát,Ta tù đày,Ta bệnh hoạn, v.v... Các ngươi đã không cho Ta uống, không thăm viếng, không ủi an, không có chút thương xót từ tâm đối với Ta, v.v...”
Và rồi cũng sẽ có những “Tiếng Thét” kinh hoàng, nhưng hối hận – nếu như còn biết hối hận – thì đã quá muộn màng !
CVK62 NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 101 -------------------------------
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (…) Thiên Chúa sai Con: BaNgôi ABC22
Suy tư gợi ý:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (…) Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian (…) để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". Để cứu chuộc con người, tại sao Thiên Chúa lại phải hành động một cách nhiêu khê là phải sai Con Một mình xuống thế, chịu đau khổ và chết nhục nhã trên thập giá? Ngài là Thiên Chúa quyền năng vô biên, trên nguyên tắc, Ngài chỉ cần phán một lời, thì tội lỗi con người dù to như núi lớn như biển cũng được tha hết, tại sao Ngài không làm như thế? Muốn hiểu được điều ấy ta phải hiểu được tội lỗi của con người lớn lao thế nào, đồng thời hiểu được sự xung đột kỳ diệu giữa hai thuộc tính công bằng và yêu thương của Thiên Chúa trước tình trạng tội lỗi ấy của con người.
1. Tội lỗi con người.
Muốn hiểu được tội lỗi con người, ta thử làm một so sánh. Khi nói một câu xúc phạm đến người bạn ngang hàng với ta, ta chỉ bị người bạn của ta buồn giận, và ta thấy tầm mức của lầm lỗi ấy không đến nỗi quan trọng lắm. Nếu ta xúc phạm đến một người dưới quyền ta, lỗi ấy lại càng nhỏ hơn. Nhưng nếu cũng câu xúc phạm ấy ta nói với cha mẹ ta, thì tội ta nghiêm trọng hơn rất nhiều, ta bị buộc tội bất kính hay bất hiếu với cha mẹ. Nếu cũng câu xúc phạm ấy ta nói với một ông vua, thì ta mắc tội khi quân là một trọng tội, nếu không bị bay đầu thì cũng phải tù tội. Như vậy, phẩm giá người bị xúc phạm càng cao, thì tội xúc phạm ấy càng lớn, cho dù hành động xúc phạm ấy hoàn toàn giống in hệt nhau. Phẩm giá của Thiên Chúa, là Chúa tể vũ trụ, cao hơn ông vua hàng tỷ lần (tạm diễn tả như vậy cho dễ hiểu), nên tội xúc phạm đến Ngài cũng lớn hơn lên hàng tỷ lần. Thế mà tổ tông loài người đã xúc phạm đến chính Ngài.
Một minh họa khác tuy què quặt nhưng giúp ta hiểu được phần nào sự di truyền của tội tổ tông. Một ông phù thủy quyền năng kia có một con chó mà ông hết mực yêu thương. Một hôm, khi tình yêu dâng lên dào dạt, ông đã tận dụng quyền năng của mình biến nó thành một người như ông, đồng thời nhận nó làm con. Thế là từ đấy con chó - giờ đã thành người - có thể suy nghĩ, nói năng như con người, tuổi thọ cũng dài như con người, có khả năng làm được tất cả những gì mà một con người có thể làm được. Thật là một thay đổi và thăng tiến vĩ đại! Ông phù thủy còn dự tính sẽ truyền đầy đủ những bí quyết phù thủy cho nó, để nó cũng có tài năng biến hóa như ông, và khi ông sang bên kia thế giới, toàn bộ sản nghiệp vĩ đại của ông sẽ để lại cho nó. Và con cháu do nó sinh ra cũng đều là người và cũng sẽ được kế thừa nghề phù thủy và sản nghiệp của ông.
Nhưng một hôm vì say rượu nó đã nói những lời xúc phạm đến ông, thậm chí còn đả thương ông. Vì thế, trong cơn giận dữ, ông đã biến nó trở lại thành chó. Thế là chó lại hoàn chó! Nó không còn nói được tiếng người, không còn làm được những việc mà chỉ con người mới làm được! Không còn sống đến 7, 8 chục tuổi như con người. Không còn được ngồi bàn ăn uống như người, mà phải ăn uống theo kiểu chó, v.v… Khả năng trở nên một thầy phù thủy hoàn toàn mất. Và tệ hại nhất là con cháu của nó, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cũng chỉ là chó và mãi mãi là chó!
Cũng vậy, con người đã được Thiên Chúa dựng nên làm người ở bậc tự nhiên như bao thú vật khác, có điều cao hơn thú vật một chút. Nhưng không chỉ có thế, vì yêu thương con người một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã nâng con người lên bậc siêu nhiên để trở thành con cái Ngài, có đầy đủ những khả năng tương xứng với phẩm giá ấy.
Các nhà thần học gọi bản chất được nâng cao thành con cái Thiên Chúa với quyền thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu là ơn siêu nhiên, và gọi khả năng được nâng cao như không phải chết, không phải đau khổ, hạnh phúc hơn, hướng thiện hơn, khôn ngoan hơn, v.v… là những ơn ngoại nhiên. Nhưng tổ tông con người đã phạm tội làm mất tất cả những ơn đặc biệt ấy - siêu nhiên cũng như ngoại nhiên - để trở lại thành con người hoàn toàn ở bậc tự nhiên. Các thế hệ sau của con người cũng không hơn gì tổ tông mình. Và vì tội lỗi ấy, con người phải đau khổ và chết, phần xác cũng như phần hồn.
2. Sự xung đột giữa công bằng và yêu thương nơi Thiên Chúa
Tôi xin trình bày khái lược và tổng hợp cách lý giải vấn đề đặt ra ở trên của ba nhà thần học Tin Lành: Martin Luther (vị sáng lập đạo Tin Lành, người Đức), J. Moltmann (người Đức) và Kazo Kitamori (giáo sư chủng viện, người Nhật) để chúng ta cùng suy niệm.
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa vừa công bằng vừa yêu thương. Vì là Thiên Chúa vô hạn và tuyệt đối, nên sự công bằng và yêu thương của Ngài cũng vô hạn. Công bằng và yêu thương là bản chất của Ngài, Ngài không bao giờ hành động ngược lại bản chất của Ngài, vì như vậy là tự phản lại chính mình. Chính vì bản chất hai mặt ấy mà Thiên Chúa trở nên khó xử. Một đằng sự công bằng đòi buộc Ngài phải phán xử tội lỗi của con người một cách hợp lý. Nếu thế thì con người phải chịu hình phạt tương xứng với tội lỗi mình. Con người hữu hạn nên tội của con người là hữu hạn. Nhưng Thiên Chúa là vô hạn, nên tội xúc phạm đến Thiên Chúa lại là vô hạn. Tội của con người đối với Thiên Chúa vì thế có hai mặt: vừa hữu hạn lại vừa vô hạn. Tội hữu hạn thì hình phạt phải hữu hạn, tội vô hạn thì hình phạt cũng phải vô hạn. Hình phạt của con người vì thế cũng có hai mặt: vừa hữu hạn vừa vô hạn. Dù thế nào thì con người cũng bị phạt rất nặng, nên phải thiệt hại vô cùng và đau khổ rất nhiều.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa công bằng, mà còn là một Thiên Chúa đầy yêu thương. Tình thương vô hạn của Ngài không thể chấp nhận để cho con người phải vĩnh viễn đau khổ vì chính sự công bằng của Ngài. Tình thương ấy đòi hỏi Ngài phải cứu con người cho bằng được. Nhưng thật vô cùng khó vì phải cứu thế nào để vẫn thỏa mãn được sự công bằng của Ngài. Lúc này Thiên Chúa duy nhất dường như bị xẻ thành hai: một Thiên Chúa công bằng đòi hỏi phải xử phạt con người một cách xứng đáng, và một Thiên Chúa yêu thương đòi hỏi phải cứu con người với bất cứ giá nào. Trước sự đòi hỏi gắt gao của bản tính vừa công bằng vừa yêu thương ấy, trong nội tâm Thiên Chúa có sự xung đột vì con người. Đó chính là nỗi đau khổ của Ngài, tạm dùng tữ như thế. Thiên Chúa vô cùng hạnh phúc bây giờ trở nên đau khổ vì con người. Vì là Thiên Chúa, nên đau khổ ấy cũng là vô cùng.
Sự đau khổ vô cùng ấy của Thiên Chúa được biểu lộ qua sự đau khổ cùng tột và cái chết thê thảm của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa.
3. Giải pháp cứu con người: Đức Giê-su đau khổ và chết.
Vẫn theo quan điểm của ba nhà thần học trên, muốn cứu con người, thì trong số con người phải có một người có địa vị xứng đáng có khả năng đại diện cho con người để đền tội thay cho cả loài người. Vì tội ấy xúc phạm đến Thiên Chúa rất cao cả, nên để đền tội cho cân xứng theo sự đòi hỏi của lẽ công bằng, người đại diện cho loài người cũng phải cao cả ở một tầm vóc nào đó xứng với sự cao cả của Thiên Chúa. Nếu không thì người ấy chỉ có thể đền tội tối đa cho một mình mình thôi, không đền thay cho cả nhân loại được. Thật là nan giải! Làm sao trong hàng ngũ con người tội lỗi đang bị thất sủng trước Thiên Chúa có thể có được một con người như thế? Con người chắc chắn không thể làm nổi, nhưng Thiên Chúa quyền năng vô biên chắc chắn có thể. Do tình thương vô biên đối với con người thúc đẩy, đồng thời nhờ sự khôn ngoan và quyền năng vô hạn của mình, Thiên Chúa đã thực hiện một sáng kiến tuyệt vời là cho Ngôi Hai nhập thể làm người để làm công việc đền tội ấy.
Khi nhập thể làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa trở thành Đức Giê-su, một con người thật sự. Nhưng con người này lại hết sức cao cả, cao cả ngang hàng với Thiên Chúa, vì đó chính là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa. Vì thế, Ngài rất xứng đáng để đền tội thay cho cả nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Và để đền một cách thật cân xứng với cái tội vô cùng to lớn của nhân loại - cả tội tổ tông được di truyền và vô số tội riêng của toàn thể loài người - Đức Giê-su đã tự nguyện chịu biết bao đau khổ ở trần gian, và cuối cùng chết vô cùng nhục nhã và thê thảm trên thập giá.
Công trình nghiên cứu đầy tính khoa học về tấm khăn liệm xác Đức Giê-su của bác sĩ giải phẫu học Pierre Barbet cho thấy sự đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu là cùng tột và khủng khiếp như thế nào. Nhưng chính qua sự đau khổ và sự chết ấy, cả sự công bằng lẫn tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với con người được hoàn toàn thoả mãn. Thật là một giải quyết tài tình, qua đấy ta thấy được sự công bằng và tình yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời thấy được tội lỗi của ta trước con mắt của Thiên Chúa lớn lao như thế nào.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nói của Đức Giê-su: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ". Thì ra sự công bằng vô biên của Cha không cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đó có con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vô biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Amen. -------------------------------
Chủ đề: "Nhờ thực hành việc cầu nguyện, học thuyết Ba Ngôi trở nên sống động trong cuộc sinh hoạt hằng ngày của chúng ta."
Ở Luân Đôn có một công viên là Hyde Park. Đây là nơi thuận tiện cho các diễn giả ngoài phố xá: BaNgôi ABC23
Ở Luân Đôn có một công viên là Hyde Park. Đây là nơi thuận tiện cho các diễn giả ngoài phố xá. Vào chiều Chúa nhật, bạn có thể đến đó nghe đủ thứ câu chuyện về mọi chủ đề dưới bầu trời này. Người ta bàn từ chính trị cho đến tôn giáo. Frank sheed, một giáo dân Công giáo nổi tiếng sống ở Anh thường hay đến đó bàn luận về tôn giáo. Ong thường nói ông có thể cầm giữ một đám đông suốt hai giờ đồng hồ trong mưa khi ông nói về Ba Ngôi.
Nhận xét của Sheed thật thú vị vì nó nêu lên được một điểm quan trọng: Quả là người ta chú tâm đến Ba Ngôi, họ muốn hỏi thêm về Ba Ngôi, họ muốn làm cho Ba Ngôi sống động trong cuộc sinh hoạt thường nhật của họ. Nhưng rủi thay, có rất ít bản văn được viết về Ba Ngôi, và rất ít bài giảng lễ chú tâm về mầu nhiệm Ba Ngôi. ngay cả khi đọc một bản văn hoặc nghe giảng lễ về Ba Ngôi anh chị em cũng thường cảm thấy chán ngắt. Điều này có thể hiểu được bởi vì khi chúng ta nói về Ba Ngôi là chúng ta đang có nói về một mầu nhiệm sâu thẳm.
Thánh Kinh có bàn nhiều về “mầu nhiệm Ba Ngôi”. đặc biệt Phúc âm thánh Gioan nói về Cha Đức Giêsu và Chúa Thánh Linh. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Ba Ngôi được tìm thấy trong Phúc âm Matthêu khi Chúa Giêsu truyền bảo các môn đệ:
“Các con hãy đi khắp muôn dân và khiến họ thành môn đệ Ta: Hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28: 19). Tuy nhiên hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi lại xảy ra khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Lúc đó một hình chim bồ câu bay lượn trên Chúa Giêsu, một tiếng từ trời phán ra: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mt 1: 11) Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Ba Ngôi.
Thánh Phaolô cũng có bàn về Ba Ngôi. đoạn văn đựơc biết nhiều nhất là câu chúc lành nổi tiếng chúng ta gặp thấy trong bài đọc thứ hai hôm nay: “An sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Linh ở cùng tất cả anh chị em”. Và thánh Luca trong sách Công Vụ Tông đồ cũng như trong Phúc âm của mình cũng đã nhìn lịch sử cứu độ của chúng ta như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi.
Thời kỳ Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời rao giảng Phúc âm là kỷ nguyên của Chúa Con và thời kỳ hậu Phúc âm mà sách Công vụ sứ đồ ghi lại là thời kỳ của Chúa Thánh Linh. Kinh Tin Kính chúng ta đọc ở mỗi Thánh lễ Chủ nhật bảo tồn mẫu tuyên xưng này. Mẫu này khởi đầu với Chúa Cha như là Đấng sáng tạo chuyển sang Chúa Con như là Đấng Cứu Chuộc, và kết thúc với Chúa Thánh Linh như là Đấng ban nguồn sống. Tuy nhiên chúng ta không được quên rằng hễ Chúa Cha ở đâu thì Chúa Con và Chúa Thánh Linh cũng ở đó. Ba Ngôi luôn luôn là mầu nhiệm thâm sâu của sự vừa đơn nhất vừa đa dạng.
Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. ông thường nói: “Nước đang rơi đây thực là nước nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn, và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng, và dạng mưa đang rơi đây”.
Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên tôi nghĩ rằng anh chị em thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế. Một phương cách khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có một lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Và cuối cùng, chúng ta cũng nhìn thấy Thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta ? có phương cách mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt. Phút thứ nhất, họ rút ra những điểm hay tốt trong ngày – chẳng hạn giữ được bình tĩnh khi bị vu khống – và họ thưa lên Chúa Cha đồng thời cảm ơn Ngài về điều ấy.
Phút thứ hai, họ rút ra những điểm dở – chẳng hạn làm lơ một người nào đó đang thực sự cần được giúp đỡ. Họ thưa với Chúa Giêsu điều này và cầu xin Ngài tha thứ.
Phút thứ ba, họ nhìn về ngày mai, nhớ đến một điểm cam go hiện thời, chẳng hạn phải đương đầu với ai đó về một sự việc gì. Họ thưa với Chúa Thánh Linh điều ấy và cầu xin Ngài ơn khôn ngoan và lòng can đảm để xử lý cho thích đáng.
Như quí vị thấy đó, việc thực hành này bao gồm cả sự cầu nguyện lẫn sự xét mình. tuy nhiên, quan trọng hơn, việc thực hành này mang Ba Ngôi Chí Thánh vào cốt lõi cuộc sống thường nhật của chúng ta.
Tôi xin đề nghị với anh chị em là trong tuần lễ tới, anh chị em hãy dành riêng ba phút mỗi tối và cố gắng thực hành việc cầu nguyện theo cách thức này để tôn vinh Ba Ngôi.
Chúng ta hãy kết thúc với nghi thức mang chiều kích Ba Ngôi Thiên Chúa, là làm dấu Thánh giá trên người. Nghi thức này đã trở nên nhãn hiệu của đức tin chúng ta: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen”. -------------------------------
Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. - Đáp ca: Ba: BaNgôi ABC24
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc Cựu Ước: Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
- Đáp ca trẻ trong lò lửa ca tụng Thiên Chúa đã yêu thương che chở và cứu thoát mình.
- Tin Mừng: Đức Giêsu nói cho Nicôđêmô hiểu cụ thể về Thiên Chúa yêu thương: Ngài đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian.
- Bài đọc Tân Ước: Vì được yêu thương bởi Thiên Chúa tình yêu, kitô hữu hãy vui mừng và sống yêu thương nhau.
Minh họa
- Mille images 189 B
- "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người" (Ga 3,16)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý sám hối
- Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
- Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
- Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc Cựu Ước: Xh 34,4-6.8-9
Trong đoạn sách Xuất hành này, Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là một Thiên Chúa giàu lòng thương xót:
- Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ. Nhưng họ lại phản bội Ngài đi thờ lạy tượng bò vàng. Môsê đã tha thiết nài xin Thiên Chúa tha thứ cho họ. - Đáp lại, Thiên Chúa nói Ngài là "Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín".
2. Đáp ca: Đn 3,52-56
Đây là trích đoạn bài ca của ba trẻ trong lò lửa. Các em chúc tụng Thiên Chúa đã yêu thương che chở và giải thoát những kẻ đặt niềm tin vào Ngài.
3. Tin Mừng: Ga 3,16-18
Bài Tin Mừng lặp lại ý tưởng của bài đọc Cựu Ước, nhưng cho biết cụ thể hơn: Thiên Chúa đã tỏ ra Ngài là Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài cho thế gian, để ai tin vào Người Con ấy thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời.
4. Bài đọc Tân Ước: 2Cr 13,11-13
Thánh Phaolô rút ra hệ luận từ niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi: Kitô hữu hãy vui mừng và sống hòa thuận thương yêu nhau, bởi vì họ được Thiên Chúa yêu thương và ban cho dư đầy ân sủng.
IV. Gợi ý giảng
1. Tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi có gì hay ?
Có lẽ từ trước tới nay, chúng ta nghĩ tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi quá khô khan, như một công thức toán: một Chúa ba Ngôi, ba Ngôi một Chúa !
Nhưng có đi sâu vào nội dung tín điều này thì chúng ta mới thấy chúng ta thật hạnh phúc khi Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa Ba Ngôi:
- Ngài là Cha chứ không phải là một vị thần độc đoán.
- Chúng ta thờ Ngài, nhưng không phải trong tâm tình sợ sệt, mà trong tâm tình yêu mến như Đức Giêsu, Con của Ngài.
- Ngài không ở xa chúng ta, nhưng ở ngay trong lòng chúng ta, bằng Chúa Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.
- Ngài là ba Ngôi, nghĩa là Ngài sống tập thể, yêu thương nhau, kết hợp với nhau và luôn trao ban cho nhau. Do đó Ngài không phải là một mẫu khô cứng để ta tôn thờ, nhưng là một cuộc sống để chúng ta sống theo.
2. Sửa lại hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa
Lời Chúa hôm nay vẽ lên một hình ảnh Thiên Chúa rất dễ thương, có lẽ khác hẳn hình ảnh méo mó lệch lạc trong đầu chúng ta bấy lâu nay: Ngài là Thiên Chúa yêu thương, với những biểu hiện rất cụ thể của tình yêu
- Yêu thương là Cho: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian"
- Yêu thương là làm cho Sống và sống dồi dào: "… để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời".
- Yêu thương là Tha thứ: Thiên Chúa mặc khải cho Môsê biết Ngài là "Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín".
- Yêu thương là ở chung, sống chung, đi chung: Môsê đã nài xin và được Thiên Chúa chấp nhận "Dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi". Thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết Thiên Chúa "sẽ ở cùng anh em".
3. Mầu nhiệm Ba Ngôi
Ai trong chúng ta cũng biết cầu chuyện về Thánh Augustinô ngày kia gặp một cậu bé đang cố sức lấy một chiếc vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang. Thánh nhân đã chê cười cậu bé. Nhưng cậu đã đáp lại: việc tôi làm không đáng chê cười bằng việc Ngài muốn dùng trí khôn loài người để tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm là sự thật vượt quá tầm hiểu của trí khôn loài người. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chúng ta không thể biết tí gì về mầu nhiệm ấy. Mặc dù Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm, nhưng Thiên Chúa cũng cho chúng ta hiểu biết đôi điều về mầu nhiệm ấy:
- Ngài đã ban rất nhiều dấu chỉ trong vũ trụ thiên nhiên. Voltaire đã nói: "Chỉ cần mở mắt ra là ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa". Abraham Lincoln giải thích rõ hơn: "Tôi không hiểu làm sao người ta có thể là người vô thần được khi nhìn xuống mặt đất. Tôi cũng không thể hình dung được một người nào đó nhìn lên trời mà nói rằng không có Thiên Chúa".
- Qua những trang Sách Thánh, Thiên Chúa còn cho ta biết thêm rằng Ngài có Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần ; rằng Ngài yêu thương loài người đến nỗi ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta ; rằng chúng ta được Ngài nhận làm con và có quyền gọi Ngài là Cha ; rằng chúng ta có thể nói chuyện thân mật với Ngài khi cầu nguyện ; rằng Ngài để dành sẵn hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta trong nhà Ngài… Tóm lại là Ngài yêu thương chúng ta vô cùng.
4. "Hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện"
Nụ hôn bình an trong Thánh lễ đã có từ thời Thánh Phaolô. Sau đó nó bị bỏ đi một thời gian. Rồi từ việc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, nó lại được tái lập.
Tại sao Giáo Hội tái lập nụ hôn bình an ? Vì đó là một cử chỉ yêu thương, đoàn kết, thông hiệp. Cử chỉ này vừa biểu lộ niềm tin của chúng ta vào một Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nhau, vừa nhắc nhở chúng ta phải sống yêu thương như Thiên Chúa chúng ta tôn thờ.
Khi hôn bình an trong Thánh lễ, chúng ta đừng thờ ơ chỉ làm cho xong một chi tiết lễ nghi phụng vụ, cũng đừng hôn nhau mà lòng còn đố kỵ nhau. Hãy hôn nhau "một cách thánh thiện" với nguyện ước sẽ hết lòng yêu thương người mình hôn theo gương mẫu tình yêu của chính Thiên Chúa.
5. Chuyện minh họa
a/ Thiên Chúa mời gọi
Một tu sĩ tên là Rublev đã vẽ một bức tranh rất đặc biệt về Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi ngồi quanh một cái bàn, và trên bàn có một đĩa thức ăn. Nhưng nét đặc biệt là có một chiếc ghế trống. Chiếc ghế trống ấy ngụ ý một sự mời mọc, một sự sẵn sàng. Bàn ăn của Ba Ngôi còn một chiếc ghế trống nghĩa là Ba Ngôi sẵn sàng đón tiếp bất cứ ai đến thông chia sự thân mật và tình yêu thương của các Ngài.
b/ Thiên Chúa ở trong ta
Một người dân Gypsy đứng gần một cái giếng uống rượu. Chốc chốc ông lại nhìn xuống giếng như nhìn một người nào đó. Một cậu bé nảy giờ quan sát người Gypsy này, ngạc nhiên hỏi:
- Ai ở dưới đó vậy ? - Thiên Chúa. - Vậy cháu có thể nhìn Chúa không ? - Đương nhiên rồi.
Thế rồi người Gypsy bế cậu bé lên để cậu nhìn xuống giếng. Cậu bé:
- Nhưng cháu chỉ thấy mặt cháu thôi. - Đó cũng là mặt Chúa. Chúa ở trong chúng ta mà !
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu: một tình yêu sáng tạo, một tình yêu cứu độ và một tình yêu thánh hóa. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Trong lịch sử / nhiều khi hình ảnh của Hội Thánh bị méo mó lệch lạc / vì đời sống không gương mẫu của các kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nmọi thành viên trong đại gia đình Hội Thánh / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / mà trình bày khuôn mặt đích thực của Hội Thánh cho mọi người.
2. Mỗi ngày có biết bao nỗ lực của những người có trách nhiệm / nhằm đem lại hòa bình cho thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa soi sáng / và hướng dẫn những nhà lãnh đạo các dân tộc / để họ biết dẹp bỏ mọi tị hiềm / và chân thành cộng tác với hau / hầu mang lại hòa bình thực sự cho thế giới.
3. Từ xưa đến nay / lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / luôn sẵn sàng hy sinh mọi sự / kể cả tính mạng của mình / và dùng tình thương để xoa dịu đau khổ của những người bất hạnh trong các trại phong / các bệnh viện tâm thần / các nhà nuôi người già / cũng như nơi các nhà nuôi trẻ mồ côi / các trẻ em đường phố / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ những con người nhiệt thành ấy.
4. Đời sống người kitô hữu phải phản ánh trung thực đời sống yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn chân thành yêu thương nhau / cũng như hiệp nhất và nâng đỡ nhau trong mọi tình huống của đời sống thường ngày.
CT: Lạy Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, Chúa đã để lại cho chúng con một điều răn mới: "Anh em hãy thương yêu nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em". Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mới này. Chúa hằng sống và hiển trị…
VI. Trong Thánh Lễ
- Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
- Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Đức Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
- Chúc bình an: Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô đã khuyên: "Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện". Giờ đây chúng ta hãy thực hiện lời khuyên đó: chúng ta hãy chúc cho nhau được luôn bình an trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần".
Trong thế giới có nhiều tôn giáo. Mỗi tôn giáo là một ước vọng và đồng thời là một nỗ lực của: BaNgôi ABC25
1. “Đạo Chúa là Đạo mặc khải”
Trong thế giới có nhiều tôn giáo. Mỗi tôn giáo là một ước vọng và đồng thời là một nỗ lực của con người tìm gặp Thượng Đế, vị thần linh siêu việt mà trí khôn con người có thể khám phá ra được, khi nhìn vào vũ trụ vạn vật và suy gẫm về nó. Trong các tôn giáo ít nhiều đều có ánh sáng của Chúa Thánh Linh, và đều chứa đựng một phần chân lý về Thiên Chúa, về con người và về vạn vật. Vì thế mà tôn giáo chân chính nào cũng có thể dẫn con người đến cùng Thiên Chúa và đem đến cho họ hạnh phúc đích thực.
Trong các tôn giáo thì Ki-tô giáo không chỉ là một tôn giáo của con người mà còn là và nhất là một Đạo mặc khải, một tôn giáo được chính Thiên Chúa tỏ mình ra. Ngoài từ “mặc khải”, người ta còn quen dùng từ “mạc khải”, theo nguyên ngữ, nghĩa là kéo, là vén bức màn chắn ngang giữa khán giả và sân khấu để khán giả nhìn thấy sân khấu và các diễn viên diễn xuất trên sân khấu ấy. Mặc khải theo nghĩa tôn giáo là vén bức màn che chắn giữa Thiên Chúa và con người để con người nhìn thấy bí mật của Thiên Chúa. Người vén bức màn bí mật ấy chỉ có thể là chính Thiên Chúa mà thôi, vì bí mật Thiên Chúa là thuộc về Thiên Chúa và việc bộc lộ bí mật ấy cho con người cũng hoàn toàn do thiện ý của Thiên Chúa.
Loài người không có quyền gì mà đòi hỏi và tự sức mình hay có cố gắng mấy đi nữa con người cũng không có khả năng khám phá ra hay lọt vào thế giới bí nhiệm ấy của Thiên Chúa. Chỉ có Con Một Thiên Chúa từ Trời đến mới có khả năng vén bức màn bí mật và dẫn đưa chúng ta vào trong thế giới huyền bí của Thiên Chúa mà thôi !
Thật vậy, thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông Áp-ra-ham, là người mà Thiên Chúa đã chọn để khai sinh một dân tộc mới, dân Ít–ra-en làm dân riêng của Chúa. Rồi Thiên Chúa lại đã tỏ mình ra cho ông Mô-sê là vị lãnh tụ của dân Ít-ra-en, đã được chọn để thực hiện sứ mạng cứu dân ra khỏi cảnh nô lệ Ai-cập. Thiên Chúa tự mặc khải mình cho ông Mô-sê là “ĐỨC CHÚA ! ĐỨC CHÚA ! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giầu nhân nghĩa và thành tín... “
Mặc khải ấy được tiếp tục và hoàn chỉnh trong thời Tân Ước, nơi Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa nhập thể làm người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”
Trọng tâm của mặc khải là Lòng Yêu Thương khôn lường của Thiên Chúa đối với nhân loại cứng đầu cứng cổ và bất tín bất trung. Vì yêu thương con người vô bờ bến, nên Thiên Chúa chẳng những không oán giận tội lỗi, thiếu sót của loài người mà còn muốn cho mọi người được sống hạnh phúc, sống muôn đời !
Chúng ta chỉ có thể hiểu một phần nào và đón nhận mặc khải của Thiên Chúa khi được Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng, hướng dẫn và tác động.
2. Tin Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải thực hiện những điều mà Lời Chúa gợi ý, mời gọi trong ba bài đọc của Phụng vụ hôm nay:
2.1 Việc đầu tiên chúng ta phải làm là bắt chước thái độ và tâm tình của Mô-sê khi ông phủ phục mà ca tụng ngợi khen Thiên Chúa khi ông đón nhận mặc khải của Thiên Chúa. Chúng ta hãy không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ chân tình và xin Chúa hãy luôn đồng hành với chúng ta. Thật ra thì dù chúng ta có cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa ngày này qua ngày khác… thì chúng ta vẫn chưa đền đáp nổi một phần hồng ân mà Thiên Chúa khứng ban cho chúng ta. Vả lại, chúng ta càng tỏ ra biết ơn đối với Thiên Chúa thì chúng ta càng nhận được thêm nhiều hồng phúc của Người.
2.2 Việc thứ hai mà chúng ta phải làm là thực hành điều mà Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu Cô-rin-tô: “anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện.” Vui mừng vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương mặc dù chúng ta bất xứng. Gắng nên hoàn thiện để xứng đáng hơn với Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, là Đấng Cực Thánh. Gắng nên hoàn thiện có nghĩa là chúng ta nỗ lực để mỗi ngày mỗi trở nên giống ( đồng hình đồng dạng ) Đức Giê-su Ki-tô, Con yêu dấu của Cha nhiều hơn: trong tâm tình, lời nói cũng như hành động của chúng ta.
2.3 Việc thứ ba mà chúng ta phải làm là thực thi đức bác ái huynh đệ và xây dựng sự hiệp thông mà Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu Cô-rin-tô: “Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, ăn ở thuận hòa và hãy hôn chào nhau cách thân thiện.” Quả vậy nếu chúng ta đã tin vào Thiên Chúa Yêu Thương và Cứu Độ thì chúng ta phải đối xử với nhau như những người anh chị em con cùng một Cha. Không lẽ nào anh chị em một nhà mà sống thờ ơ, không quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Trái lại anh chị em một nhà thì phải tương thân tương ái và giúp đỡ lẫn nhau, san sẻ cho nhau.
Hơn nữa tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi chúng ta còn được mời gọi xây dựng sự “hiệp thông cộng đoàn” tức sự hiệp thông của cộng đoàn, trong cộng đoàn, giữa các cộng đoàn Dân Chúa là nhóm, là Hội Đoàn, là Giáo Xứ, là Dòng Tu, là Giáo Phận của chúng ta. “Hiệp thông cộng đoàn” là một chiều kích được Giáo Hội nhấn mạnh rất nhiều ngày hôm nay vì chiều kích này chẳng những là hệ quả đương nhiên xuất phát từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần thông hiệp với nhau, mà còn là chiều kích căn bản nhất, quan trọng nhất của người và Giáo Hội Công Giáo.
“Hiệp thông cộng đoàn” phải được thể hiện bằng niềm Tin Cậy Mến và cụ thể bằng đời sống yêu thương, san sẻ, liên đới trách nhiệm giữa các Ki-tô hữu và các cộng đoàn Ki-tô với nhau cũng như giữa các Ki-tô hữu và các cộng đoàn Ki-tô với những người và các cộng đồng dân cư chung quanh.
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con nhận biết một phần nào mầu nhiệm cao siêu của Cha. Xin Cha giúp chúng con biết đón nhận mặc khải của Cha và sống theo ý muốn của Cha.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Cha, là Đấng đã được Cha gửi đến trần gian để cho chúng con được sống, xin Chúa ban sự sống thần linh cho chúng con và đưa chúng con vào thế giới mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Ngôi Ba là Thánh Thần Thông Hiệp, xin Chúa hãy nối kết chúng con một cách chặt chẽ, keo sơn và bền vững với Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thầ.; Cũng xin Chúa nối kết chúng con với nhau và với mọi người một cách chặt chẽ, keo sơn và bền vững, bằng một Niềm Tin Cậy Mến và bằng một đời sống yêu thương và liên đới. Amen. Gs. Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI -------------------------------
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Ki-tô giáo, Đây là một mầu: BaNgôi ABC26
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Ki-tô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng ; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này ? Chính Chúa Giê-su Ki-tô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Ki-tô đến, loài người không có một ý niệm nào, dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này.
Ngài cho biết ; Chúa Cha là Thiên Chúa, còn ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Vậy tại sao Chúa Giê-su lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế ? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tượng chặn đứng suy luận và óc tưởng tưởng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Ki-tô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Ngài đã sai Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Cho nên, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội Không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Ki-tô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa ; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Ngày kia, có một đan viện phụ tìm đến một thiền sư. Vị đan viện phụ buồn rầu cho biết tình trạng bi đát của tu viện mình và xin ý kiến. Trước đây, tu viện là một trung tâm hành hương lớn, thu hút không biết bao nhiêu tâm hồn mộ đạo. Nhưng bây giờ tu viện gần như đã trở thành ngôi chùa trống vắng. Nghe xong vị thiền sư nói: “Tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn là tội vô tình. Thiên Chúa đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài”. Khi biết điều đó, trong tu viện, mọi người đều thắc mắc không biết ai trong số những thành viên của tu viện là Thiên Chúa đã cải trang. Và từ đó ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện.
Mạc khải lớn nhất mà Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta, đó là Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta vô cùng. Tình yêu của Ngài là một lời mời gọi. Ngài muốn chúng ta lên đường, nói theo Con Một của Ngài: sống yêu thương nhau, vì tất cả đều là anh chị em, con cùng một Cha. Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài, cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu thương, có nghĩa là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho anh em, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nới dài đôi chân và mở rộng tấm lòng đến với mọi người chung quanh. -------------------------------
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Hay nói cách khác Thiên Chúa chính là: BaNgôi ABC27
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Hay nói cách khác Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu có nghĩa là không có nơi nào tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho tình yêu loài người.
Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì ?
1. Đặc điểm thứ nhất là tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
- Thiên Chúa không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi yêu thương nhau.
- Điều đó cho thấy yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
- Nhưng tại sao yêu thương cần phải có đối tượng ? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát… nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2. Đặc điểm thứ hai của tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.
- Chỉ có một Thiên Chúa nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
- Có câu thơ “Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2”.
Ap dụng vào tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà 1”, hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
- Ý nghĩa đó là: Thiên Chúa có ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà Ba Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là 1 Thiên Chúa.
- Điều đó có nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hòa hợp với nhau.
Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi:
. Yêu thương là cho đi. . Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. . Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hòa hợp với nhau. -------------------------------
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt: BaNgôi ABC28
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao - dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: "Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?"
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. -------------------------------
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mysterium absolutum trong Kitô giáo chúng ta. Cho dù chúng ta: BaNgôi ABC29
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mysterium absolutum trong Kitô giáo chúng ta. Cho dù chúng ta tin Đức Giêsu là Con một Thiên Chúa đến trong thế gian, mặc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhưng đây là mầu nhiệm tuyệt đối không một người trần thế nào có thể hiểu thấu được.
Về mặt tín lý, Công đồng Nicêa (325) xác nhận thiên tính của Đức Giêsu, đồng bản thể (Homoousios) với Thiên Chúa Cha và Công đồng Constantinople I (381) xác nhận thiên tính của Chúa Thánh Thần: một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Dù giải thích như thế nào về Nhiệm sinh và Nhiệm xuất của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta khó mà hiểu rõ Thiên Chúa nội tại (in se). thế nhưng qua hành động ra bên ngoài, vì loài người chúng ta (pro mobis) và nhờ mặc khải của Đức Giêsu, chúng ta cảm nhận tình yêu vô biên của Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hoạt động vì muốn chia sẻ đời sống Thần linh cho nhân loại, cho từng người chúng ta.
Về phụng vụ, chính Đức Giáo Hoàng Gio-an XXII đã đưa thánh lễ kính Chúa Ba Ngôi vào lịch phụng vụ Rôma vào năm 1334 và đặt thánh lễ này vào Chúa nhật sau Chúa nhật lễ Hiện xuống. Năm 1911 lễ này được nâng lên hàng lễ trọng. Kinh nhật tụng thánh lễ này đã có từ thời Đức Piô V.
II. Gợi Ý Bài Giảng
1. Ba Ngôi Thiên Chúa Nguồn Mạch Sự Hiệp Thông Của Con Người Và Thế Giới Hôm Nay: Nhân loại hôm nay đang đối diện rất gần, đang sống với chia rẽ, hận thù và chiến tranh. Từng người đang sợ hãi nỗi cô đơn. Chính vì thế, hơn bao giờ hết thế giới hôm nay đang khao khát sự hiệp thông liên đới với nhau. Nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều quốc gia đã và đang nỗ lực tìm kiếm xây dựng sự liên kết với nhau trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị đến tinh thần văn hóa. Trong nhãn giới đức tin thì mọi sự, mọi vật đều phát xuất từ Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và rồi sẽ trở về với Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình cứu độ. Sáng tạo và cứu độ là một hành trình bày tỏ ý định yêu thương của Ba Ngôi dành cho muôn thụ tạo. Vì thế, có thể nói được rằng: mọi sáng kiến hiệp thông liên đới để xây dựng thế giới tốt đẹp hơn đều phát xuất từ Ba Ngôi và để đi tới mục đích tối hậu là hiệp thông trọn vẹn với nhau trong Ba Ngôi. Trong hành trình tiến tới sự hiệp thông viên mãn ấy, Giáo Hội và mọi thành viên của Giáo Hội là nhưng nhân tố tích cực cổ võ, kiến tạo những sáng kiến hiệp thông cho con người và thế giới hôm nay.
2. Giáo Hội Là Hình Ảnh Của Sự Hiệp Thông Nơi Ba Ngôi Thiên Chúa: Thế giới ngày nay đang bị chia rẽ, bị xâu xé bởi chiến tranh, hận thù, lòng đố kỵ và ích kỷ… Với những chủ trương Duy đa diện, đa cực, duy thực dụng làm cho các hố phân cách giàu nghèo, chủng tộc, văn hóa ngày càng lớn. Trước một thực trạng như thế, Giáo Hội cần phải trình bày cho thế giới biết về sự hiệp thông nên một của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo Hội là màu nhiệm Hiệp thông: Hiệp thông trong cơ cấu Phẩn trật; hiệp thông trong đời sống phụng vụ; hiệp thông trong đời sống yêu thương. Điều trước tiên để diễn tả sự hiệp thông của Giáo Hội đó là sám hối về sự hiệp thông của chính mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô mời gọi con cái mình sám hối về những sai lầm gây tổn thương cho sự hiệp thông và tình liên đới trong nhân loại:: “Trong số những tội lỗi cần phải dứt khoát sám hối và cải thiện, chắc chắn phải kể đến những tội lỗi đã làm hại đến niềm hiệp nhất theo ý Chúa muốn nơi dân của Người … Trong lịch sử Giáo hội, việc hiệp thông đã bị tổn thương một cách đau xót.” (ĐTC J.P II – Tông thư Ngàn năm thứ ba đang đến – No 34). Sám hối không phải để bi quan, bôi nhọ, nhưng để lột xác đổi mới. Mỗi thành phần và từng thành viên trong Giáo Hội phải nỗ lực hết sức để xây dựng tình hiệp thông liên đới trong cuộc sống hằng ngày của mình. Mỗi Kitô hữu phải cùng trăn trở, thao thức với Giáo Hội. Chung một nhịp thở với toàn thể Giáo Hội, chia sẻ ưu tư gánh nặng và trách nhiệm với các vị chủ chăn của mình. Ngay từ mỗi gia đình Kitô hữu, từ mỗi Giáo xứ, những hạt nhân cơ bản của Giáo Hội luôn phải cùng nhau hiệp nhất yêu thương thì mới có một Giáo Hội Phổ quát hiệp thông.
3. Trong Chúa Ba Ngôi Người Kitô Hữu Sống Tình Hiệp Thông Liên Đới: Mối hiệp thông giữa người với người sẽ tìm thấy một mẫu mực nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi luôn hướng về nhau, quay mặt vào nhau. Noi gương Ba Ngôi, muốn yêu thương hiệp thông với nhau thì phải biết hướng Thiên Chúa và hướng về nhau. Hướng về Thiên Chúa cụ thể là thái độ tham dự, sự mở lòng đón nhận nguồn sống hiệp thông từ Thánh lễ. Thánh lễ là nơi, là lúc biểu lộ cao nhất mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Trong Thánh lễ, con người được gặp gỡ, được tiếp chuyện với Thiên Chúa (nơi bàn tiệc Lời Chúa) và kín múc sự sống thần linh của Người (nơi bàn tiệc Thánh Thể). Nhờ đó, con người chúng ta thực sự được hợp nhất với Thiên Chúa. Đức Kitô trong tôi, tôi trong Đức Kitô. Một sự hiệp nhất đến độ ‘tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi’ (Gl 2,20).
Trong cuộc sống mọi người biết hướng về nhau trong tâm tình, trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm. Hướng về nhau trong tâm tình là xây dựng mối thiện cảm, nhìn nhau bằng ánh mắt của tình thương và cảm thông chứ không phải bằng ác cảm hay thành kiến. Hướng về nhau trong tư tưởng là biết nghĩ đến người khác, biết cầu nguyện cho nhau. Thờ ơ với người khác hình như đang trở nên căn bệnh của thời đại. Làm sao cho tâm hồn mình cũng có nhiều chỗ ở cho mọi người như ‘trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở’(Ga 14,2). Hướng về nhau trong lời nói: “Lời nói không mất tiền mua,Lựa lời mà nó cho vừa lòng nhau.”Lời nói dành cho người khác có truyền tải được một thông điệp cảm thông, thông điệp yêu thương hay ngược lại, mở miệng ra chỉ biết oán trách, chê bai, khích bác nhau, nói xấu nhau … Hướng về nhau trong việc làm: hành động cụ thể là minh chứng rõ ràng nhất cho sự hiệp nhất với nhau, hướng về nhau. Yêu thương hiệp nhất không phải bằng đầu môi chót lưỡi nhưng phải bằng hành động cụ thể ‘nói hay vạn lần về tình yêu không bằng một lần biết yêu’ . -------------------------------
Nếu bạn đi khắp cùng trời cuối đất, bạn sẽ gặp những dấu vết của Thiên Chúa. Nếu bạn đi thẳng: BaNgôi ABC30
"Nếu bạn đi khắp cùng trời cuối đất, bạn sẽ gặp những dấu vết của Thiên Chúa. Nếu bạn đi thẳng vào cung lòng bạn, bạn sẽ gặp chính Thiên Chúa."
Nhiều người đã gặp thấy Ngài nhờ chiêm niệm suy tư. Nhưng con người không thể biết hết về Thiên Chúa, cũng không thể mô tả cho đủ về Ngài. Có những thiếu sót, vụng về và đôi khi sai lạc.
Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Phải là Đấng ở nơi cung lòng Thiên Chúa, Đấng ấy là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Nhờ Đức Giêsu mà mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Ba Ngôi khác nhau nhưng là cùng một Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài duy nhất nhưng không đơn độc.
"Ta và Cha là một" (Ga 14,10). "Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta" (Ga 16,15).
Tình yêu khăng khít giữa Cha và Con là Thánh Thần.
Trong niềm hạnh phúc sung mãn, Ba Ngôi đã dựng nên con người giống hình ảnh mình và muốn đưa con người đi vào hiệp thông với Thiên Chúa.
"Đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần": đó là hành trình thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của Ba Ngôi ở trong ta. "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và cư ngụ nơi người ấy" (Ga 14,23). "Cha sẽ ban cho các anh một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các anh luôn mãi" (Ga 14,16).
Chúng ta cần có tương quan riêng với từng Ngôi! Chúa Cha, Đấng hằng làm việc để duy trì vũ trụ, con người. Chúa Con, Đấng cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh mạng sống. Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá và dẫn dắt Giáo Hội.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong Tình Yêu vì "ai ở trong Tình Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1Ga 4,16).
Mỗi ngày chúng ta làm dấu nhiều lần trên thân xác: "Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời ta, trên thế giới chúng ta đang sống.
Chúng ta đã được chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhưng làm Phép Rửa cho muôn dân vẫn còn là ước mơ Đức Giêsu chờ ta thực hiện. -------------------------------
Khi nói tới Mầu nhiệm Ba Ngôi, theo thói quen, chúng ta thường nghĩ tới bài giáo lý đã thuộc nằm: BaNgôi ABC31
Khi nói tới Mầu nhiệm Ba Ngôi, theo thói quen, chúng ta thường nghĩ tới bài giáo lý đã thuộc nằm lòng từ tấm bé: “Một Chúa mà lại Ba Ngôi, Ba Ngôi nhưng chỉ một Chúa. Ba Ngôi bằng nhau không ngôi nào hơn, không ngôi nào kém”. Một khái niệm thật khô khan và trừu tượng, chúng ta đọc lên và cảm thấy chẳng liên hệ gì tới đời sống hàng ngày của mình. Tuy nhiên, câu giáo lý này lại làm tôi liên tưởng tới một câu ca dao khá hay, nói về đời sống gia đình: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”. Khi nghe câu ca dao này, chắc quý ông bà anh chị em không thấy khô khan, nhưng chắc có cùng một cảm nhận, đây là sự diễn tả tuyệt vời của một gia đình đang thật sự hạnh phúc. Và nếu để ý, chúng ta sẽ thấy: điều làm cho đời sống gia đình trở nên hạnh phúc, không phải chỉ là: “Mình với ta, tuy hai mà một”, nhưng còn là: “Ta với mình tuy một nhưng vẫn là hai”. Vì vẫn còn là hai, nên mới thực sự hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong thực tế của cuộc sống gia đình, chắc hẳn quý ông bà anh chị em cảm nhận được rằng: rất khó để có thể sống được cái gọi là: “hai mà một, một mà hai” này.
Do đó, trong ngày lễ mừng kính mầu nhiệm Ba Ngôi, mầu nhiệm của “ba mà một, một mà ba”, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào lời Chúa để chiêm ngắm đời sống của Ba Ngôi, nhờ đó, chúng ta có thể làm cho gia đình chúng ta thực sự trở thành “hai mà một, một mà hai”.
1. Mầu nhiệm Ba Ngôi:
Nói về Ba Ngôi, trước hết, chúng ta cùng nghe lại lời tuyên xưng trong sách Đệ Nhị Luật: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác”. Lời tuyên xưng này của dân Do thái, chính là kết tinh của cả một quá trình suy gẫm về tất cả những gì mà Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ. Niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất cũng chính là đặc điểm làm cho dân Do thái khác các dân tộc khác thời bấy giờ. Mặc khải về một Thiên Chúa duy nhất kéo dài trong suốt thời Cựu Ước cho tới khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Nhờ Ngôi Lời, chúng ta biết rõ hơn về Thiên Chúa, bởi vì: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Đó là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng có ba Ngôi.
Ngay trong sự kiện Truyền Tin, Thiên Chúa đã bắt đầu tỏ cho con người về mầu nhiệm Ba Ngôi, khi sứ thần loan báo về việc Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người bởi quyền năng của Thánh Thần. Tuy nhiên mặc khải này được tỏ hiện cách rõ ràng nhất vào lúc Đức Giêsu chịu phép Rửa tại sông Giođan. Theo tường thuật của thánh sử Luca, lúc đó, Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Giêsu dưới hình chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha xác nhận: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x. Lc 3, 21-22). Và hôm nay, trong lệnh truyền cho các môn đệ lên đường, Đức Giêsu một lần nữa tuyên bố rõ ràng, công khai về mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm Ba Ngôi. Ngài nói: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đức Kitô đã căn dặn các môn đệ làm phép rửa nhân danh cả Ba Ngôi trong cùng một Thiên Chúa duy nhất.
Mặc dù chỉ có một Thiên Chúa, nhưng lại có Ba Ngôi riêng biệt. Đó là Chúa Cha, Đấng hằng yêu thương đã dùng “sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ,…, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác”. Đó còn là Chúa Con, Đấng đã hy sinh trên thập giá và sống lại vì chúng ta, và nếu “chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người”. Đó còn là Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho chúng ta sự sống mới, sự sống của con cái Thiên Chúa, khi chúng ta chịu phép Rửa trong Đức Kitô, như lời thánh Phaolô chúng ta vừa nghe: “Ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa thì là con cái Thiên Chúa”. Và cũng nhờ Thánh Thần, chúng ta nhận được “tinh thần nghĩa tử của Thiên Chúa; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: “Abba”, “Cha ơi””.
Mặt khác, Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cũng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Chính vì yêu nên “Ba là một”. Chính vì yêu nên Thánh Ý của Cha cũng là ý của Con, chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này với các môn đệ tại bờ giếng Giacóp: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga 4, 34). Và trong sự duy nhất đó của Ba Ngôi, Thánh Thần chính là Đấng đến để làm cho ơn cứu độ của Đức Giêsu được phát triển một cách sung mãn. Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng ấy sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em… Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 14, 26. 16, 14).
Như thế, chúng ta thấy cho dù là một Thiên Chúa duy nhất, Ba Ngôi vẫn riêng biệt, không đánh mất ngôi vị và đặc tính riêng của mình, mỗi ngôi đều chu toàn trọn vẹn vai trò của mình trong một tình yêu duy nhất. Hay nói theo cách nói của Nho giáo và cũng đã trở thành một đặc điểm trong nền văn hoá Việt Nam, Ba Ngôi đã thực sự “Chính Danh”. Ngôi nào đúng với “Danh” ngôi đó. Nhờ Chính Danh, Ba Ngôi là một, và cho dù là một, nhưng vẫn là ba riêng biệt. Chính nhờ có sự phân biệt đó, sự duy nhất của Ba Ngôi không đơn điệu, nhưng thật phong phú và sung mãn.
Như thế, Ba Ngôi chẳng phải là mẫu gương cho các gia đình chúng ta hay sao? Mẫu gương “ba mà một, một mà ba”
2. Gia đình sống mầu nhiệm Ba Ngôi:
Mẫu gương đầu tiên, các gia đình chúng ta học được nơi mầu nhiệm Ba Ngôi là mẫu gương về hiệp nhất. Đây là sự hiệp nhất trong tình yêu, khiến cho Ba Ngôi nên một. Nếu mỗi thành viên trong gia đình chúng ta cũng biết yêu thương nhau theo mẫu gương của Ba Ngôi, nghĩa là người này luôn nghĩ đến ý muốn, hạnh phúc của người kia, và luôn muốn làm vui lòng người kia, thì gia đình chúng ta cho dù có nhiều người cũng sẽ trở nên một.
Kế đến, điểm thứ hai chúng ta học được nơi mầu nhiệm Ba Ngôi đó là: Tuy chỉ có một Chúa, nhưng lại là Ba Ngôi riêng biệt. Sự riêng biệt này nhắc nhở chúng ta rằng: trong gia đình, mỗi người có một chổ đứng và một bổn phận riêng. Do đó, mỗi người cần chu toàn bổn phận của mình trong gia đình cách chu đo. Mỗi người phải sống cho “Chính Danh”, nghĩa là, sống đúng với địa vị và vai trò của mình. Vợ chồng biết tôn trọng lẫn nhau. Cha mẹ sống đúng với vai trò của cha mẹ, luôn làm gương sáng cho con cái bằng chính đời sống tiết độ, công chính của mình. Con cái phải biết vâng phục cha mẹ trong tâm tình yêu mến và thảo hiếu, như Đức Giêsu đã luôn vâng phục Chúa Cha (x. Ga 4, 34; Dt 5, 8-9).
Nếu mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta biết sống “Chính Danh”, nghĩa là, từng người trong gia đình luôn sống đúng vai trò của mình và chu toàn nhiệm vụ của mình trong tình yêu, gia đình chúng ta dù đông cũng trở nên một. Chúng ta trở nên một, nhưng mỗi người vẫn còn là chính mình. Nhờ đó, gia đình của chúng ta sẽ không tẻ nhạt, nhưng ngày càng trở nên sung mãn, phong phú và thật sự hạnh phúc. Amen. -------------------------------
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm tối thượng của Kitô Giáo. Đã là một mầu nhiệm: BaNgôi ABC32
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm tối thượng của Kitô Giáo. Đã là một mầu nhiệm thì chúng ta không hiểu hết nổi, đây lại là mầu nhiệm tối thượng thì càng không làm sao hiểu thấu được. Tuy nhiên, Chúa Thánh Linh đã làm cho chúng ta hiểu được phần nào về mầu nhiệm một Thiên Chúa nhưng ba ngôi vị này, rồi cũng nhờ Thần Khí chúng ta hiểu thì ít, mà cảm nhận thì nhiều, để từ đó tin vững vàng vào Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong toán học nếu ta lấy 1 rồi lũy thừa lên 3 lần, ta có: 1 X 1 X 1 = 1. Thiên Chúa ba ngôi cũng gần như thế. Chỉ có Một Thiên Chúa nhưng có ba ngôi vị khác nhau. Cả ba đều có cùng bản tính Thiên Chúa như nhau, mặc dù hoạt động với chức năng riêng biệt và Ngôi này không phải là những Ngôi kia.
Giống như nước chúng ta uống là hợp chất của H2O, khi ở thể rắn là nước đá, ở thể lỏng là nước, ở thể bốc hơi là khí, cả ba thể đều chỉ là nước. Hay khi nhìn mặt trời ta thấy ánh sáng, hơi nóng, tia hồng ngoại, cả ba đều phát xuất từ mặt trời, nhưng chỉ có một mặt trời duy nhất.
Trong đoạn Tin mừng ngắn ngủi, kết thúc cuốn Phúc Am thứ nhất hôm nay, Chúa Kitô mạc khải công khai về mầu nhiệm ba ngôi Thiên Chúa. Và gián tiếp tuyên bố Ngài đã hoàn thành công cuộc cứu chuộc. Ngài trở thành Chủ tể vạn vật trên trời lẫn dưới đất. Ngài động viên các môn đệ, cùng trấn an họ, vì Ngài được toàn quyền và Ngài sẽ ở với họ cho đến ngày tận thế.
Một cuộc tình hay chuyện yêu đương đúng nghĩa nào cũng đòi phải hội đủ ba yếu tố: người yêu, kẻ được yêu và tình yêu, và tất cả tình yêu sâu thẳm thực sự, đều không giải thích được bằng lời: khi tình yêu kết hiệp Cha và Con đến mức sung mãn, tột cùng, tình yêu tuyệt vời đó sản sinh ra Chúa Thánh Linh, hay còn gọi là hơi thở, thần khí hay tình yêu Thiên Chúa. Nói một cách cụ thể: Thiên Chúa là tình yêu.
Vì yêu thương, Thiên Chúa Cha đã tác tạo nên vạn vật, vũ trụ này. Vì yêu thương Ngài cho con một của Ngài là Thiên Chúa Con đến trần gian để cứu chuộc nhân loại, vì nhân loại sa ngã, phạm tội. Vì yêu thương Chúa Thánh Linh (Ngôi Ba) được gởi đến để Thánh hóa và ở lại trong thế gian khi Chúa Con về với Chúa Cha.
Vì yêu thương Ngài dựng nên vườn Địa Đàng, rồi cũng vì yêu thương Thiên Chúa đã đặt câu hỏi đầu tiên với loài người, khi Ngài hỏi:”Adam, ngươi ở đâu?”, Tại sao ngươi trốn ta? Cuộc đối thoại kế tiếp về anh em là khi Ngài hỏi Cain:”Abel, em mày ở đâu?”. Ở đây chúng ta tìm thấy hai giới luật của Thiên Chúa đòi hỏi người Kitô hữu tuân giữ: Yêu Chúa và yêu anh em. Dĩ nhiên, với bối cảnh lịch sử hiện nay, hai câu hỏi sẽ là: “Này Anh bạn, anh đang ở đâu?” và “Anh em của bạn ở đâu?”. Phải chăng có một số Kitô hữu chúng ta -nhất là đang sống tại hải ngoại-, bằng một cách nào đó không những đang trốn tránh Thiên Chúa, mà còn trốn cả anh em. Ai cũng có thể viện dẫn ngàn lẻ một lý do để bào chữa cho chính mình ! Nhưng lý do dễ hiểu nhất, đó là: khi không còn thương yêu, thân mật, cần nhau nữa; khi đã hết hấp dẫn, lôi cuốn nhau thì người ta bắt đầu chán chường, tránh mặt nhau. Khi khuôn mặt của Thiên Chúa đã nhạt nhòe, phai mờ dần thì hình ảnh của một vị thần vô danh nào đó hiện ra rõ nét, đầy thu hút, ma lực. Có một điều chúng ta phải nhận thức rằng: ai biết Chúa, nhưng rồi trốn tránh hay chối bỏ Ngài là phạm tội.
Thánh Tomas Aquinô giải thích rằng có ba loại tội chống lại ba ngôi Thiên Chúa:”Một tội có thể phạm bằng ba cách, hoặc do ngu dốt, hoặc do cảm xúc hoặc chủ ý. Vì ngu dốt nên không biết về những điều nêu trên, vì sự hiểu biết có thể ngăn ngừa phạm tội. Do đó sự ngu dốt là nguyên nhân làm cho tội lỗi hiện hữu. Đây là loại tội chống lại Chúa Con. Thứ hai, những tội lỗi bắt nguồn từ cảm xúc, vì chỉ dựa hoàn toàn vào xúc cảm mà bỏ qua sự suy xét của lý trí. Và đây là những tội phạm phải do sự yếu đuối của ý chí, nó là loại tội chống lại Thiên Chúa Cha. Thứ ba là những tội do chủ ý, cố tình vi phạm mặc dù biết nó là tội, không phải phạm tội vì bị cám dỗ, hay không tránh thoát, nhưng bởi vì có xu hướng muốn phạm tội, nên chính bản thân của tội đó đã làm thỏa mãn đương sự. Đây là tội phát xuất từ ác tâm, hiểm độc và nó là loại tội chống lại Chúa Thánh Thần”.
Tóm lại, trên thế gian này có rất nhiều điều không thể giải thích hoặc hiểu thấu hết được, cũng như những mầu nhiệm trong Kitô Giáo, nhất là mầu nhiệm một Chúa nhưng Ba Ngôi Vị -đây là mầu nhiệm chính của đạo và chỉ có thể hiểu thấu khi được ở với Ngài, trên thiên quốc-. Chưa kể có những con số cứ trùng lặp trong Phúc Am, cũng đã làm cho chúng ta đau đầu không sao hiểu nổi. Như con số 3 chẳng hạn. Tại sao lại Một Chúa có Ba Ngôi; tại sao Chúa chỉ sống có 33 năm; tại sao 30 tuổi Chúa bắt đầu cuộc đời rao giảng; tại sao Chúa chỉ rao giảng có 3 năm; tại sao Chúa hấp hối đúng 3 giờ trên thập giá; tại sao sau khi chết, 3 ngày Chúa sống lại v.v… Chân lý rõ ràng nhất không thể chối cãi được: Thiên Chúa là Tình Yêu, và đây là đường hướng cho mọi Kitô hữu. Và yêu Thiên Chúa thì không khó -vì không thấy-, nhưng yêu anh em mình như luật Chúa đòi hỏi mới là điều rất khó. Để kết thúc, chúng ta nghe Bishop Sheen nói về “Bí Quyết Tình Yêu”: Một lần tôi gạt bỏ hết cái hời hợt, hào nhoáng bên ngoài để đạt cho được cái cốt lõi qúy báu bên trong, từ đó tôi tìm ra cho mình một bí quyết của tình yêu: Tôi thấy rằng mình không thể yêu thương bất cứ ai, trừ khi người ấy phải có vài điểm tốt đẹp; hay đáng yêu trên một vài phương diện nào đó. Nhưng tôi lại thấy rằng, Chúa đã không yêu thương tôi vì tôi đng yêu! Tôi chỉ trở thành đáng yêu khi Chúa rót vào tôi một ít sự tốt đẹp, thiện hảo và tình yêu của Ngài. Thế là tôi bắt đầu áp dụng nhân đức này cho người chung quanh. Nếu tôi thấy anh ta không đáng yêu chút nào, tôi phải cố rót vào anh ta một vài nét đáng yêu, một vài điều tốt lành nào đó - như Chúa đã làm với tôi- thế là tôi có thể yêu thương anh ta được ! Lúc này nhân cách nguyên thủy của tôi đã được phục hồi và tôi khám phá ra một điều vô cùng quan trọng, đó là: không ai có hạnh phúc được, nếu không yêu thương cả Thiên Chúa lẫn người chung quanh”. -------------------------------
Trong lịch sử, người ta thường dùng những hình ảnh khác nhau để trình bày mầu nhiệm Thiên: BaNgôi ABC33
Trong lịch sử, người ta thường dùng những hình ảnh khác nhau để trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn hình ảnh của một ngọn lửa. Trong lửa luôn luôn có ba yếu tố: lửa - ánh sáng - sức nóng. Ba yếu tố đó không lẫn lộn vào nhau: ánh sáng là ánh sáng, lửa là lửa, sức nóng là sức nóng. Ba yếu tố phân biệt rõ ràng, nhưng cũng không bao giờ tách biệt khỏi nhau, ngược lại gắn chặt vào nhau. Có lửa là có ánh sáng, có sức nóng.
Từ hình ảnh ngọn lửa, người ta áp dụng để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa ba Ngôi. Ba Ngôi chỉ là một Chúa duy nhất, nhưng phân biệt rõ ràng: Chúa Cha - Chúa Con - Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi nhưng cũng chỉ là một. Và một Thiên Chúa nhưng vẫn cứ là Ba Ngôi. Cũng như không thể lấy đi ánh sáng khỏi lửa và bảo rằng lửa cứ cháy mà không cần ánh sáng được. Cũng vậy, vì ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa, nên mọi hoạt động nơi Thiên Chúa đều quy về Ba Ngôi…
Dẫu sao mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vẫn chỉ là một huyền nhiệm lớn lao đối với con người. Đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm ấy, con người làm một sự cố gắng vượt trên sức hiểu biết của mình. Bởi thế, những hình ảnh mà con người cố gắng suy nghĩ để giải thích, dù có hay đến mấy, vẫn chỉ là một cố gắng còn khiếm diện và bất toàn mà thôi.
Điều hay nhất chúng ta cần làm có lẽ không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Thiên Chúa cho bằng quay về với chính mình để sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Bởi vậy, tôi muốn mời bạn cùng tôi suy nghĩ về gia đình vì gia đình là một cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Từ xưa, trong Hội Thánh đã có thói quen áp dụng hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi là kiểu mẫu của tình yêu cha - mẹ - con cái. Ngay từ trong cung lòng mình, tình yêu Thiên Chúa đã là một tình yêu trao ban, tình yêu mở ra, vì thế một mà lại là ba: Trao ban giữa Cha, Con, Thánh Thần.
Nếu Ba Ngôi là kiểu mẫu của gia đình thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu nhau bằng tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân, tình yêu mở ra đối với người mà mình yêu. Tình yêu gia đình đòi hỏi có nhau, cho nhau và vì nhau. Nếu một thành viên nào trong gia đình chỉ biết có bản thân mình, yêu nhưng chỉ yêu chính mình, tình yêu đó đang phản lại kiểu mẫu của tình yêu Ba Ngôi. Không thể chấp nhận được một người chồng, một người cha quyên trách nhiệm của mình, chỉ biết có say sỉn, còn vợ con có khổ, có đói không đoái hoài tới.
Cũng không ai có thể chấp nhận được một người vợ, một người mẹ tệ cho đến mức quyên hết vai trò của mình, chỉ biết bài bạc, có khi thức thâu đêm suốt sáng chỉ để thỏa đam mê thấp kém này.
Chúng ta cũng không thể chấp nhận hình ảnh một đứa con trả treo với cha mẹ. Có khi bất chấp cha mẹ có khả năng hay không, nó đòi cho bằng được điều mà nó muốn có.
Tất cả những hình ảnh trên đều đi ngược lại tình yêu Ba Ngôi. Vì đó chỉ là một thứ ích kỷ, vụ lợi cho bản thân. Trên hết mọi sự, hãy bắt chước tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu là cho đi, là rộng ban, là mở ra. Hãy sống làm sao để gia đình trở thành cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Ba Ngôi. -------------------------------
Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi không được mạc khải trong Thánh kinh Cựu ước, bởi vì dân riêng: BaNgôi ABC34
Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi không được mạc khải trong Thánh kinh Cựu ước, bởi vì dân riêng của Chúa trong Cựu ước chưa sẵn sàng đón nhận Màu nhiệm này. Đối với người Do Thái, cái thiết yếu trong nền tôn giáo của họ là độc thần, nghĩa là họ chỉ tôn thờ một Chúa. Như ta thấy trong bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay, Thiên Chúa bày tỏ mình cho Mô-sê như là Chúa tể duy nhất, Đấng sáng tạo và chủ thể vũ trụ. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, cho nên bất cứ một ý thức nào về Ba ngôi Thiên chúa có thể làm suy giảm lòng tin của họ vào một Chúa. Như vậy thì cái ý tưởng của họ về Ba ngôi Thiên Chúa vừa nhắc đến có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa, ba thần, mà ba chúa - ba thần đối với họ là điều nghịch với bản tính Thiên Chúa đã được mạc khải cho họ. Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về màu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ - ám chỉ chứ không nói rõ - về Ba ngôi Thiên Chúa mà thôi. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị trong Thiên chúa.
Chỉ khi Chúa Giê-su xuống thế làm người chứng tỏ người là con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh cho loài người, thì tín điều Ba ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi Gio-an tiền hô làm phép rửa cho Đấng cứu thế ở sông Gio-đan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: ‘Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người’ (Mt 3:16-17). Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su còn bày tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thày ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thày không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bày tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, và Chúa Thánh thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Màu nhiệm. Ta có thể dùng cái hình tam giác cân để diễn tả Màu nhiệm đó. Trong hình tam giác cân, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau. Khi học kinh bổn hồi nhỏ, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước năm 1960 hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa trời có Ba ngôi: ngôi Nhất là Cha, ngôi Hai là Con, ngôi Ba là Thánh thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba ngôi, có ngôi nào trước, ngôi nào sau, ngôi là hơn, ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo Sách Bổn: Thưa Ba ngôi cũng bằng nhau. Sở sĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng như vậy còn có điểm lợi là ghi vào ký ức của họ một niềm tin sắt đá.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai màu nhiệm quan trọng trong đức tin công giáo là màu nhiệm một Chúa Ba ngôi và màu nhiệm Cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy: Các con hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba ngôi. Linh mục kêu cầu Chúa Ba ngôi khi cử hành Bí tích Giải tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu Chúa Ba ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày. Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba ngôi ta cần giải đáp một vài thắc mắc:
Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả vô ý thức? -------------------------------
Trong một buổi thuyết trình về thần học, thuyết trình viên hỏi các thính giả rằng: Giả: BaNgôi ABC35
Trong một buổi thuyết trình về thần học, thuyết trình viên hỏi các thính giả rằng: Giả sử như Giáo Hội nói với anh chị em rằng: Thiên Chúa chỉ là một ngôi vị duy nhất chứ không phải là ba ngôi, thì điều đó có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của anh chị em không?”. Câu hỏi này tự nó đã hàm chứa một lời khẳng định rằng: Các chân lý tôn giáo không phải là những tín điều chỉ đòi chúng ta tin trong trí khôn hay chỉ tuyên xưng ngoài miệng. Nhưng các chân lý còn phải được chúng ta sống trong cuộc đời. Nghĩa là khi chúng ta tuyên xưng một chân lý, muốn lời tuyên xưng ấy là một lời tuyên xưng đích thực, thì ta phải để cho chân lý ấy hướng dẫn và biến đổi cuộc đời ta.
Cụ thể như mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vấn đề không phải là cố gắng tìm hiểu tại sao một Chúa mà lại có ba ngôi, ba ngôi lại là một Chúa. Mà có cố gắng tìm hiểu thì cũng chẳng bao giờ ta hiểu thấu, bởi lẽ chân lý tôn giáo nào cũng vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta. Nhưng chúng ta tin vì chính Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa đã dạy chúng ta như thế.
Dù ta không thể hiểu được mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi bằng sự suy nghĩ của trí khôn, thì ta cũng có thể hiểu được một phần nào mầu nhiệm ấy do sự cảm nhận của trái tim. Nói đến trái tim là nói đến tình yêu. Trong tình yêu người ta chú trọng đến yếu tố hiệp nhất. Thật vậy, ước vọng của những người yêu nhau là được hiệp nhất, được nên một với người mình yêu. Nên một trong tinh thần, nên một trong suy nghĩ, nên một trong thân xác, v.v...
Ca dao Việt nam đã diễn tả thực tế này qua 2 vần thơ:
“ Mình với ta tuy hai mà một - Ta với mình tuy một mà hai”. Hai mà trở thành một, một mà vẫn là hai. Chúa Giêsu cũng đã nói về đời sống vợ chồng rằng: “Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ để luyến ái người vợ của mình và cả hai sẽ nên một huyết nhục” (Mt.19,5). Là hai và trở nên một. Trở nên một mà vẫn còn là hai. Điều xem ra vô lý trong lãnh vực tư tưởng nhưng lại rất hợp lý trong lãnh vực tình yêu.
Hình ảnh của đời sống vợ chồng là một minh hoạ cho mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ba mà là một. Một mà là ba. Xem ra vô lý nhưng lại rất hữu lý. Và ta chỉ có thể hiểu được điều này nhờ tình yêu mà thôi.
Như vậy, sứ điệp của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là YÊU THƯƠNG, là HIỆP NHẤT. Sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là ta kết hiệp và yêu mến Thiên Chúa cũng như anh chị em mình. Khi yêu thương, khi hiệp nhất với Chúa và với nhau thì đó là lúc chúng ta đang tuyên xưng mầu nhiệm này. Ai từ chối yêu thương, ai gieo rắc hận thù, ai ham thích bạo lực, ai chỉ biết ghen ghét, thì đó là những người không thực sự tin vào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Có lẽ trong chúng ta không ai lại không biết yêu thương là gì và có lẽ không ai trong chúng ta lại không biết cách biểu lộ tình yêu thương. Vấn đề là chúng ta có dám quên mình để sống tình yêu thương hay không mà thôi. -------------------------------
Làm sao định nghĩa được Tình yêu? Có lẽ đây không chỉ là những câu hát thi vị trên môi miệng: BaNgôi ABC36
Làm sao định nghĩa được Tình yêu? Có lẽ đây không chỉ là những câu hát thi vị trên môi miệng của những cặp uyên ương hay của những tâm hồn đang tương tư, mà còn là khắc khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta cũng yêu và muốn được yêu. Tình yêu quả thực là một mầu nhiệm. Tại sao chỉ có con người mới biết yêu ? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi ấy bằng chính cảm nhận của Thiên Chúa mà thôi.
Vào cuối cuộc đời của mình, khi suy niệm về cuộc đời, cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô, thánh Gioan tông đồ đã phát triển như sau: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Đây quả thực là một công thức độc nhất vô nhị của Ktiô giáo. Trước và sau Kitô giáo chưa có một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi “Thiên Chúa là Tình yêu”. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban con Một Ngài cho thế gian.
Gọi Thiên Chúa là Tình yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng ta một cách gần gũi, thân thiết nhưng cũng là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình qua Con Một của mình, Người con đó đã sống kiếp sống của một con người và chết một cách đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.
Tình yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ mình. Bằng cuộc sống và cái chết của của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình yêu thương đối với con người. Thiên Chúa đã tỏ tình và Ngài đã yêu thương cho đến cùng, chính vì thế mà Ngài đã sai Thánh Thần để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con, Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội để Giáo Hội hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài. Giáo Hội là tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và được xây dựng. Giáo Hội vừa là hình ảnh, vừa là thể hiện mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng cho Giáo Hội mà còn là ánh sáng chiếu dọi và bí ẩn của con người.
Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là Tình yêu, và nếu con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa thì một cách tất yếu con người chỉ thực sự là con người, khi con người biết yêu thương.
Phẩm giá con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa. Trái lại, ai sống trong tình yêu người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là lời ca tụng tình yêu của Thiên Chúa mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa yêu thương con người vì thế Ngài đã phú bẩm cho con người khả năng biết yêu thương, Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng nhận ra được phẩm giá cao cả của mình.
Mỗi ngày, trước lúc khởi đầu một ngày mới cho đến lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với Thập giá của Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết của Ngài trên thập giá, không những Chúa Giêsu đã tỏ bày cho chúng ta mầu nhiệm của Thiên Chúa, Ngài còn vạch ra con đường để đi vào mầu nhiệm ấy của Thiên Chúa, đó là con đường của tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng, Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy được bộ mặt của Thiên Chúa, Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương.
Sống và chết như Chúa Giêsu, nghĩa là sống quảng đại, sống quên mình, sống hy sinh và sống tha thứ. Đó là dấu Thánh Giá đích thực của người Kitô hữu chúng ta.
Nếu có khi nào chúng ta nhìn thấy một tượng ảnh vẽ một vị Thánh nữ, tay cầm cành lá thắng: BaNgôi ABC37
Nếu có khi nào chúng ta nhìn thấy một tượng ảnh vẽ một vị Thánh nữ, tay cầm cành lá thắng trận tử đạo, đàng sau là ba cửa sổ có ánh sáng mặt trời chiếu qua chói lọi: đó là Thánh nữ Barbara. Ảnh tượng đó đã diễn tả cuộc đời của Thánh nữ như sau Barbra sống vào thế kỷ thứ ba, một thời kỳ mà theo đạo đức hiểu ngầm là bằng lòng tử đạo. Dù vậy, Thánh nữ vẫn kiên trung giữ vứng đức tin. Cha của Thánh nữ là người ngoại đạo, trước khi đi chu du, đã phác thảo một họa đồ để xây nhà mới. Theo họa đồ thị phòng của Barbara có hai cửa sổ, nhưng vì Barbara có lòng tôn sùng Chúa Ba Ngôi và để tỏ lòng tôn kính bà đã sửa lại phòng mình có ba cửa sổ. Khi trở về, ông bố thấy đồ án bị sửa đổi và ông ta đoán có lý do gì đây. Thế là Barbara thú nhận mình đã theo đạo từ lâu. Vừa tức giận vừa không muốn nhà vua làm lôi thôi, ông ta đã tố cáo con mình và đích thân đem con ra pháp trường xử tử. Thiên Chúa định nộ trước hành động vô nhân đạo đó nên đã cho sét đánh chết ông bố tàn nhẫn.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng kính Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như là một cơ hội thuận lợi để mỗi người chúng ta ra soát lại bản thân mình coi thử mức độ lòng tin, lòng mến của chúng ta đối với Chúa Ba Ngôi như thế nào ? Bởi vì, như giáo lý dạy, đây là một mầu nhiệm then chốt và quan trọng nhất trong đạo mà không tin vững, không sống đúng thì còn gì là người công giáo.
Với Chúa Cha, chúng ta có tin rằng từ muôn thuở Ngài đã yêu thương ta, đã cho ta sinh làm người, đã an bài mọi sự tốt lành cho ta sống không ? Với Chúa Con, chúng ta có thâm tín rằng Ngài vì yêu ta đã bỏ trời cao, đã xuống trần gian mặc lấy thân phận hư hèn của con người, đã chịu mọi khổ hình cho đến chết để cứu vớt ta khỏi chết đời đời không ? Với Chúa Thánh Thần, chúng ta có xác tín rằng Ngài vẫn âm thầm săn sóc ta, vẫn theo dõi để soi sán, hướng dẫn ta theo con đường công chính không ?
Tất cả những hồng ân vĩ đại đó đã đủ để nói lên tình thương bao la của Thiên Chúa đối với từng người chúng ta, nhưng chúng ta vẫn u mê tăm tối, vẫn cứng lòng thách thức quyền năng Thiên Chúa cách trắng trợn bằng một đời sống khô khan nguội lạnh, vô luân vô đạo. Vì như người ta thường nghĩ hễ có tội trọng là Chúa phạt nhãn tiền liền. Ban đầu người ta còn áy náy lo sợ, nhưng dần dần cứ phạm tội nhiều lần hoặc để tội trong mình lâu ngày mà chẳng thấy có dấu hiệu gì Chúa phạt cả. Cứ thế rồi người ta đi đến kết luận: có tội hay không có tội mình vẫn bình an mạnh khỏe. Từ đó người ta đâm nghi ngờ sự diện hữu của Chúa hoặc người ta cho Chúa không thông suốt tài năng mấy.
Và khi người ta có lý do gì đó để nghi ngờ Chúa thì người ta thường hay đi tìm sự trợ giúp ở nơi những thế lực thần thông khác. Nói rõ hơn, người công giáo chúng ta có được phép mê tín dị đoan không ? Câu trả lời chắc chắn là “không”, nhưng thực tế nhiều người trong chúng ta không tin vào quyền phép của Chúa, trái lại hay kiêng kỵ chuyện này chuyện nọ và tin tưởng vào đồng bóng, bói toán. Tình trạng này chứng tỏ niềm tin của chúng ta nơi Chúa Ba Ngôi quá non yếu và thiếu chất lượng trầm trọng.
Ngoài ra, người ta còn nghi ngờ và thách thức quyền năng của Thiên Chúa trong những biến cố khó hiểu như tình trạng tội lỗi liên tục của cá nhân hay tập thể. Chẳng hạn khi người ta thấy rõ có những người gian tham độc ác, bậy bạ xấu xa đủ kiểu mà vẫn cứ bình chân như vại hoặc có những tập thể xã hội bất công tàn nhẫn đến độ ai cũng căm ghét mà sao vẫn đứng vững tồn tại lâu ? Tại sao Chúa không trừng phạt ? Tại sao Chúa vẫn làm ngơ? Chính không gặp phải những sự khó hiểu đó con người đâm ra nghi ngờ Chúa và đôi khi còn cả dám buông lời thách thức Chúa nữa.
Với một trí khôn hãn hẹp và với biết bao điều lạ lùng nhiệm mầu ở đời làm sao chúng ta có thể thấu hiệu hết mọi sự. Vì thế, chúng ta đừng dại dột thách thức Ngài vì Ngài vẫn luôn im lặng nhịn nhục. Sự im lặng nhẫn nhục này không có nghĩa hiểu rằng không có Thiên Chúa hay Thiên Chúa hết linh, nhưng nó lại là một bằng chứng hùng hồn tỏ rõ sự hiện hữu của Ngài vì Ngài là Tình yêu. Mà tình yêu chân thật thì bao giờ cũng cảm thông, tha thứ, hy sinh, nhịn nhục. Đó chính là yếu điểm của Thiên Chúa nên con người khờ dại cứ tưởng không có Ngài. -------------------------------
1. Còn nhiều điều phải nói về TC hơn những điều đã nói ra:
Đức Giê-su đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá: BaNgôi ABC38
Đức Giê-su đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi (33 năm), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ (3 năm) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giê-su lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như Đức Giê-su có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: «Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi». Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được!
«Không có sức chịu nổi», vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giê-su không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức Giê-su, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?
2. Thần Khí sự thật sẽ tiếp tục mạc khải
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giê-su đã hứa: «Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn». Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giê-su: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giô-en đã báo trước: «Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ» (Cv 2,17-18; xem Ge 3,1-2).
Nếu tất cả những gì Đức Giê-su nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giê-su đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Ki-tô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn giáo khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Ki-tô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Ki-tô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn Ki-tô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy! (xem Is 55,8-9)
3. Muôn loài vạn vật đều đa dạng và đa diện
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo (người được mặt này kẻ được mặt kia), mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
4. Hãy bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng ta
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giê-su muốn xây dựng cho trần gian. -------------------------------
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy: BaNgôi ABC39
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy kitô hữu. Ngài sẽ dạy kitô hữu biết sự thật, sự thật toàn vẹn
B. ... nẩy mầm.
1. “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con nhưng bây giờ chúng con không chịu nổi. Khi nào Thần Chân lý đến, Ngài sẽ dẫn chúng con tới sự thật toàn vẹn”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết về Chúa Thánh Thần: Sau khi vạch cho chúng ta thấy những sai lầm của mình, Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn chúng ta đến sự thật, sự thật toàn vẹn:
- Xã hội mà chúng ta đang sống là một xã hội nhiều gian dối, ngay cả mỗi người đối với bản thân mình mà cũng thường tự dối gạt mình: mình xấu mà mình nghĩ mình tốt, mình sai mà mình nghĩ mình đúng. Tất cả những sự dối trá đều gây hại, ngược lại, sự thật thì có lợi, như lời Chúa nói “Sự thật sẽ giải thoát chúng con”. Bởi thế mỗi người chúng ta đều cần biết sự thật, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: thỉnh thoảng chúng ta nên xét mình thành thật trong ánh sáng Chúa Thánh Thần, xin Ngài cho ta hiểu rõ con người mình như thế nào, còn những gì yếu kém cần sửa đổi.
2. Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật, không phải chỉ là sự thật về bản thân mình như vừa nói trên, mà còn là sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì ? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi”. Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không ?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn.
Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con”. Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói “Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô trong thân xác tôi”. Ngài còn nói “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”, cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người do thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
3. “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
“Giêsu, ông là ai ?”. Đó là câu hỏi của nhân vật Giuđa Iscariot trong tác phẩm “Giêsu, ông là ai ?” của nhà văn Dominico Donrio. Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Mêssia của dân Israel . Khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người ; lúc đó, Đức Giêsu biến mất. Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền thì lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy, Đức Giê su lại âm thầm đến với cộng đoàn Esseniens, nơi Giuđa Iscariot làm thủ lãnh.
Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng họ lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài sử thế và Giáo lý Ngài truyền dạy.
“Giêsu, Ngài là ai ?” là câu hỏi của các môn đệ và người đương thời.“ Giêsu, Ngài là ai ?” cũng là câu hỏi cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội ngược dòng.
Lạy Chúa, chỉ trong Chúa Thánh Thần, các muôn đệ mới hiểu và tin vào lời Ngài, một hiểu biết mang lại sức mạnh cho các ông đón nhận mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Và con cũng thế, sẽ chẳng hiểu được lời Ngài dạy trong cuộc sống, nếu không có thần khí của Ngài hướng dẫn Nguyện xin Thánh Thần Chúa toả trên chúng con. (Epphata)
4. “Khi nào Thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13a)
Chúa Giêsu đã chọn những ngư phủ quê mùa dốt nát làm tông đồ của Ngài. Dù sống với Ngài đã 3 năm, cùng ăn uống đồng bàn với Ngài, đi theo nghe Ngài giảng, thế mà các ông chẳng hiểu những gì Ngài nói và làm.
Nhiều lần trong cuộc sống, tôi mù tối, chẳng hiểu nổi kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời tôi. Vì thế, tôi lo ấu, sợ hãi…
Lạy Chúa, Chúa đã phục sinh và ban Chúa Thánh Thần cho chúng con. Xin cho con mở lòng để đón Thần khí Sự thật ấy. (Hosanna) -------------------------------
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là chân lý nền tảng và cao siêu nhất trong đạo, nhưng lại ảnh: BaNgôi ABC40
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là chân lý nền tảng và cao siêu nhất trong đạo, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đặc biệt tới con người.
Các tông đồ học với Đức Giêsu chỉ mới được gần ba năm, coi như trình độ lớp ba. Cho nên Người nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Đối với môn học đời, muốn biết được những điều căn bản phổ thông, phải học hết lớp mười hai; muốn biết sâu sắc tường tận một môn học phải học hết cử nhân, kỹ sư, luật sư, phó tiến sĩ. Muốn khám phá được điều mới, phải là tiến sĩ, bác học. Đó là tiến trình học vấn của loài người. Những mầu nhiệm cao siêu trên trời mênh mông vô cùng chỉ có kỳ công của Chúa Thánh Thần soi sáng, dậy dỗ được thôi: “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dậy anh em tới chân lý toàn diện”.
I- Bây giờ các tông đồ mới biết được vài điều về Chúa Ba Ngôi.
Điều thứ nhất: Một Thiên Chúa có Ba Ngôi riêng biệt: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu” và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp trên Người. Nhờ thế, các ông biết được: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi, gọi theo tiếng loài người là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ví như trong một gia đình có cha, mẹ và con ; hay một mặt trời có ánh sáng, sức nóng và lửa cháy; hay một hình tam giác đều có ba góc riêng biệt và bằng nhau.
Điều thứ hai: Ba ngôi bằng nhau về bản tính, uy tín và phép tắc vô cùng. Khi Đức Giêsu dậy: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt. 28, 19).
Chữ và chỉ ngang hàng nhau, không có ngôi nào hơn ngôi nào kém nhau. Ví như ta nói: Anh và tôi và ông ấy, cả ba nhân vị đều là người cùng bản tính như nhau, cùng phẩm giá như nhau, và ba người đều có những cơ năng: Trí khôn, ý chí, tình cảm, tinh thần và vật chất. Mỗi khi ta làm dấu Thánh giá, nhắc nhở ta đã được Rửa tội nhân danh Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời ta được chia sẻ đời sống hạnh phúc vinh quang của Người.
II- Ba Ngôi với con người: Ba Ngôi đặc biệt trực tiếp thương yêu ta
Theo giáo lý “Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta”. Tuy nhiên, Ba Ngôi luôn luôn hợp nhất với nhau nên một để cứu độ ta như Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Thánh Thần lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy, của Cha là của Con và cũng là của Thánh Thần. Thánh Phaolô đã giải thích cho Giám mục Titô về công việc Ba Ngôi thực hiện ơn cứu độ cho ta như thế này: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng thương yêu của Người đối với nhân loại. Không phải tự sức chúng ta đã làm nên việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt. 3, 4-6). Như vậy, chúng ta có thể nói: Của trời đất vô tận Chúa Cha đã dựng nên, Chúa Con hy sinh làm lụng vất vả, cực khổ đến chết để thâu góp lương thực vào kho cho ta, và Chúa Thánh Thần lấy lương thực đó ra ban phát cho ta. Hay Ngôi Cha như một bác học, sáng chế đủ mọi thứ thuốc, Ngôi Con như một bác sĩ toàn năng đến sống lăn lộn với chúng ta, khám bệnh, ra toa cho ta, Ngôi Thánh Thần như một dược sĩ coi toa phát thuốc cứu chữa ta. Thánh Phaolô cảm thấy ơn phúc Chúa Ba Ngôi làm cho ta vô cùng trọng đại, nên Ngài luôn luôn nhập đề các thơ gởi cho các giáo đoàn bằng những lời chào: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph 1, 3) và khi kết thúc, Phaolô thường dâng lời cầu chúc cho các giáo đoàn bằng câu: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cr. 13, 13)
Ba bài đọc lời Chúa hôm nay còn giúp ta nhận ra sâu sắc hơn ơn Chúa Ba Ngôi làm cho ta:
Bài I kể ra công trình sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Ngài đã dựng nên đức khôn ngoan được áp dụng vào Đức Kitô. Thực vậy, “Thiên Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống”. Con Một đã sinh ra từ đời đời như tác phẩm đầu tay và Người lấy làm vui thú đến ở giữa phàm nhân. Rồi Chúa Cha dựng nên cõi trời, làm ra mặt đất, vực thẳm, núi non, mạch nước và các nguyên tố vũ trụ. Sau là dựng nên phàm nhân được sống với đức khôn ngoan là nguồn vui của Chúa Cha.
Bài II kể đến công trình cứu độ của Ngôi Con là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người làm cho ta nên công chính, mở lối cho ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, cho ta được trông đợi hưởng vinh quang Thiên Chúa, nên khi gặp gian truân, ta phải trung kiên chịu đựng, đừng thất vọng “vì Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, Nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta”.
Bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói đến công trình giáo dục, thánh hóa của Thánh Thần: Người sẽ dẫn ta đến chân lý toàn diện. “Người sẽ lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy “chỉ một mình Thánh Thần mới có thể hé mở cho ta thấy tình yêu của Chúa Ba Ngôi, dẫn dắt ta vào tình yêu của Ngài, và giúp ta sống sâu thẳm trong tình yêu chân thật của Thiên Chúa” (Charles Brethes; Feuillets liturgiques, Annec).
Lạy Ba Ngôi cực Thánh, qua phép rửa tội, chúng con đã được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con trọn đời trung thành với đức tin để Người thương đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng con. Amen. -------------------------------
Trước hôm bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức Giêsu đã tâm sự cùng những người theo: BaNgôi ABC41
Trước hôm bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức Giêsu đã tâm sự cùng những người theo Ngài rằng sẽ có một ngày Ngài lìa xa họ để về cùng Chúa Cha. Đối với các môn đệ, đây là một tâm sự buồn. Bởi vì sau bao tháng ngày bên nhau, tình thầy trò trở nên nồng thắm tưởng chừng không thể phân ly. Ay thế mà giờ đây Thầy lại nói đến giây phút chia lìa.
Song với tình thương bao la, muốn lắng lo chăm nom mọi sự cho đoàn chiên non yếu, Đức Giêsu đã vội trấn an các môn đệ: "Ta sẽ không bỏ các con mồ côi đâu... Nhưng Ta sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các ngươi Đấng Bầu Chữa để ở với các ngươi luôn mãi" (Ga 14&15).
Như thế, với lời yên ủi động viên trên, Đức Giêsu đã mạc khải một mầu nhiệm vô cùng quan yếu của niềm tin Kitô giáo—Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là "nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin, là ánh sáng soi chiếu các mầu nhiệm đó." Giáo lý Công giáo đã xác định: có ba mầu nhiệm căn bản cho niềm tin, và mầu nhiệm thứ nhất, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là điểm khởi phát của hai mầu nhiệm còn lại--mầu nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm Người và mầu nhiệm Ngôi Hai Cứu Chuộc nhân loại.
Cũng như trong nỗi sầu thương của thánh giá có tia sáng của phục sinh, thì trong giai điệu của biệt ly giữa thầy trò vẫn ánh lên hào quang của chân lý cứu độ. Ngay trong khúc tâm sự "buồn", Đức Giêsu đã mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như căn nguyên và đích cùng của sự sống nhân thế. Ngài đã nói về Cha như Ngôi Thứ Nhất trong Ba Ngôi; Ngài nói về mình như Ngôi Thứ Hai xuất tự nơi Cha; và Thần Chân Lý là Ngôi Thứ Ba phát xuất từ Cha và Con. Mỗi Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng đều là một Chúa duy nhất, không Ngôi nào trỗi vượt hay kém thua Ngôi nào.
Nói cách khác, theo định nghĩa của Công đồng Tôlêđô năm 675: "Chúa Cha cũng là cái là Chúa Con, Chúa Con cũng là cái là Chúa Cha, Chúa Cha và Chúa Con cũng là cái là Chúa Thánh Thần, nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất về bản tính." Nhưng ba Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau chứ không phải thông chia với nhau một thần tính duy nhất. Sự riêng biệt trong Ba Ngôi Thiên Chúa cũng có nghĩa là: "Ngôi Con không phải là Ngôi Cha; Ngôi Cha không phải là Con; và Thánh Thần không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con."
Ba Ngôi tách biệt nhau nhưng lại tương quan vô cùng chặt chẽ. Điều đó có nghĩa là khi nói đến Cha tức phải có Con, không thể là Cha nếu không có Con. Rồi khi nói về Con nghĩa là đã có Đấng sinh nên mình chính là Chúa Cha. Tương quan Cha-Con và Con-Cha đã làm nên Ngôi Vị Thánh Thần.
Qua Thánh Kinh, không ít người Kitô hữu đã nhìn thấy Ngôi Cha như Đấng sáng tạo đất trời và con người, Ngôi Con là Đấng nhập thế cứu đời, và Ngôi Ba Thánh Thần là Đấng tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngôi Hai qua việc hiện diện, thánh hoá, và hướng dẫn Giáo hội cho đến ngày cánh chung. Nhìn như thế thì có vẻ như Ba Ngôi hoàn toàn tách rời nhau trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.
Đúng hơn, Ba Ngôi luôn "đồng hành" với nhau kể từ khi dựng nên vũ trụ cho đến khi viên thành mọi sự: Thiên Chúa Cha sáng tạo, nhưng luôn có Thần Khí "là là trên mặt nước" và Lời Sáng Tạo (St 1:1-3). Thiên Chúa Con cứu thế nhưng luôn được Chúa Cha ở cùng và được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 3:21-22). Và trong công việc thánh hoá của Chúa Thánh Thần thì Ngài lại luôn truyền đạt cho nhân thế những gì của Đức Giêsu, mà những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Gn 16:15).
Trong bài Phúc âm Lễ Chúa Ba Ngôi năm nay, Chúa Thánh Thần được nhắc đến như Thần Chân Lý, Đấng sẽ nói cho các môn đệ tất cả những gì nhận được từ Đức Kitô, Đấng tự xưng mình là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Thực tế, Chúa Thánh Thần đang ban ơn trợ giúp Giáo hội khám phá và bước theo chân lý hầu được sống trong sự sống sung mãn của Chúa Ba Ngôi.
Một trong những ơn đặc biệt của Thần Chân Lý mà Thiên Chúa trao ban cho Giáo hội để giúp Giáo hội giữ gìn nguyên vẹn và truyền đạt trung thành các mạc khải của Đức Kitô là ơn vô ngộ hay còn gọi là ơn không thể sai lầm.
Đức Giáo hoàng được ơn vô ngộ đó, nhưng tất nhiên chỉ những khi Ngài quyết định "tự ngai toà" (ex Cathedra) với tư cách là thủ lãnh của toàn thể Giáo hội, để tuyên dạy những gì liên quan đến tín lý và luân lý. Các giám mục thông hiệp với Đức Giáo hoàng, chẳng hạn như trong các công đồng chung, để ấn định và truyền dạy những điểm giáo lý một cách vô ngộ, cũng được Chúa Thánh Thần ban cho ơn đó.
Những lần tuyên bố hay giáo huấn với tư cách vô ngộ thường là rất hiếm. Trong lịch sử Giáo hội, những vấn đề đã được xác định bằng ơn vô ngộ như: Bản tính Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên thần, Ơn sủng, Sa ngã, Cứu chuộc, Nhân tính và Thiên tính của Đức Kitô, các Bí tích, Thiên đàng, Hoả ngục, Luyện tội, Đức Mẹ Vô Nhiễm. Trong thế kỷ vừa qua, năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã dùng đặc ân không thể sai lầm để tuyên bố về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Tất nhiên không phải lúc nào các Đức Giáo hoàng cũng đều sử dụng ơn vô ngộ. Trong khi giảng dạy bình thường, các ngài sẽ không hưởng ơn đó. "Tuy vậy, các giáo hữu vẫn buộc phải vâng lời các Ngài như một chiến sĩ phải vâng lệnh cấp trên mình mặc dầu cấp ấy không có ơn vô ngộ" (F. Lelotte).
Có những sắc lịnh không được phán đi "từ ngai toà", nhưng nếu đó là những vấn đề liên quan đến tín lý, luân lý và được Giáo hội nắm giữ cùng giảng dạy từ lâu đời thì nó vẫn mang tính chất vô ngộ và buộc giáo dân đón nhận, ví dụ như việc răn dạy về tội ác của việc ngừa thai nhân tạo trong thông điệp Humanae Vitae hay việc truyền chức thánh chỉ dành cho phái nam trong thông điệp Ordinatio Sacerdotalis.
Người Kitô hữu chân chính sẽ luôn nhận thức rằng qua Giáo hội Thiên Chúa Ba Ngôi muốn truyền ban sức sống phong phú dồi dào cho con người. Chúa Thánh Thần không khi nào lại dùng Giáo hội để bóp nghẹt những gì là niềm vui, hạnh phúc, và bình an chân thật trong lòng nhân thế. Trái lại với ơn Chúa soi dẫn, Giáo hội đang là công cụ để đưa nhân loại đến với sự sống trọn vẹn trong tình yêu của Cha và Con và Thánh Thần.
Xác tín như thế, bạn và tôi hãy cùng can đảm học hỏi và vững vàng bước đi trong lối đường mà Giáo hội đã chỉ ra. Có được như vậy, chắc chắn lời đoan quyết của Chúa Giêsu, "Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn," sẽ viên thành trong cuộc đời của chúng ta. -------------------------------
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay được Giáo hội: BaNgôi ABC42
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay được Giáo hội sắp xếp vào tuần thứ hai của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, ngay sau tuần Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi được Giáo Hội cử hành ngay sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống như thế thật là hợp tình hợp lý, vì biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là biến cố cho thấy Ngôi Ba Thiên Chúa là Ngôi Vị cuối cùng trong Ba Ngôi tỏ mình ra, sau khi Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người vào thời của Người, “thời sau hết” (Heb 1:2), “thời viên trọn” (Gal 4:4) cũng như sau khi Ngôi Cha đã tỏ Danh Ngài ra qua Moisen cho dân Do Thái trong thời Cựu Ước (x Ex 3:14). Tuy Giáo Hội không cử hành Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi trọng thể như Đại Lễ Giáng Sinh hay Đại Lễ Phục Sinh về phương diện phụng vụ, thế nhưng, về phương diện tín lý và tu đức, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao trọng nhất và siêu việt nhất.
Nếu trong Cựu Ước Thiên Chúa đã tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất, một thực tại chi phối toàn diện Lịch Sử Cứu Rỗi thời Cựu Ước, thì trong thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất này lại tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi tuy được mạc khải sau Mầu Nhiệm Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất nhưng lại là tuyệt đỉnh của tất cả Mạc Khải Thần Linh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi vì, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất trong thời Cựu Ước ấy cũng chính là Vị Thiên Chúa Ba Ngôi của thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Con của Mình là Lời Nhập Thể bằng Quyền Phép Thánh Linh. Đó là tất cả ý nghĩa của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan Năm C hôm nay: “Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài truyền đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày”.. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy niệm câu Phúc Âm mạc khải về hoạt động ngoại tại của Chúa Ba Ngôi này.
Trước hết, “những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày” đây là gì, nếu không phải là “những gì Cha có”? Mà “những gì Cha có” đây là gì, nếu không phải, như Chúa Kitô khẳng định, “đều ở nơi Thày” hay “đều thuộc về Thày” hoặc “đều là của Thày”, tùy theo bản dịch. Theo tôi, cả câu Phúc Âm “Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày”, và riêng câu “tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày” đây là cốt lõi của tất cả mạc khải về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì, qua câu “tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày” này, Chúa Kitô muốn mạc khải cho chúng ta thấy rằng: Người chính là bản thân của Cha, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 1 câu 3: “Người Con này là phản ánh vinh hiển Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha”. Chính Chúa Kitô đã minh định trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 30: “Cha và Ta là một”, đến nỗi, Người còn đoan quyết cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 9: “ai thấy Thày là thấy Cha”.
Thế nhưng, dù con người có được Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất mạc khải cho biết chính bản thân Ngài là ai và như thế nào qua Con Ngài Nhập Thể và Tử Giá, tự mình, con người vẫn không thể nào thấu hiểu được Mạc Khải Thần Linh tự bản chất vô cùng cao cả và có tính cách vô cùng lạ lùng không thể tin được này đối với tâm trí thấp hèn và hạn hẹp của con người. Do đó, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất đã tỏ hết mình ra nơi Con Mình như thế mới cần phải sai đến cùng con người “một Đấng Phù Trợ khác” (Jn 14:16), “Ngài là Thần Chân Lý” (Jn 16:13), “Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả những sự sâu nhiệm nơi Thiên Chúa”, như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Một gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 2 câu 10. Như thế, sứ vụ của Thánh Linh được sai đến là để giúp con người nhận biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài, đúng như Chúa Kitô minh xác về sứ vụ của Vị Thiên Chúa Ngôi Ba này, là để “thông đạt cho các con những gì Ngài lấy từ Thày” hay “những gì Cha có ở nơi Thày”, tức là làm cho chúng ta “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3).
Nếu theo lời Chúa Giêsu mạc khải trong Lời Nguyện Tiệc Ly đoạn 17 câu 3, “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô”, thì một khi chúng ta nhờ Thánh Thần để có thể nhận biết Chân Lý Tối Thượng này, tức là chúng ta đã có một Kiến Thức Thần Linh như Thiên Chúa, hay nói cách khác, tức là chúng ta biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài. Mà “nhận biết” đây hay Kiến Thức Thần Linh đây là chính “sự sống”, vì “Sự sống đời đời là nhận biết”, do đó, Thánh Linh là Đấng làm cho chúng ta “nhận biết”, hay ban cho chúng ta Kiến Thức Thần Linh, tức là làm cho chúng ta được sống, Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa. “Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” chính là ở chỗ này. Thật vậy, Sự Sống Thần Linh đây chính là Sự Sống nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Nếu Thiên Chúa không biết mình ngay từ đời đời cho đến đời đời thì Ngài không phải là Thiên Chúa, không phải là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu, Toàn Hữu, Hiện Hữu. Không phải hay sao, chỉ có tạo vật vô tri, mới không biết mình. Kể cả tạo vật có sự sống thể lý đi nữa, như cây cỏ thuộc loài thực vật và muông chim cầm thú thuộc loài động vật, cũng không biết mình.
Trong “muôn vật hữu hình” được Thiên Chúa dựng nên trên “đất” thế gian chỉ có loài người mới có khả năng biết mình mà thôi. Khả năng đó chính là tâm linh của họ. Thế nhưng, thực tế cho thấy, dù con người có tâm linh để biết mình, song họ cũng không biết mình ngay khi vừa được thụ thai trong lòng mẹ, tức vừa hiện hữu trên đời. Trái lại, dù có thể biết được bản thân mình đi nữa, thế nhưng, cho tới chết, họ vẫn không thể nào thấu triệt được bản thân mình, tức vẫn không hoàn toàn biết hết về mình. Đó là lý do cho tới giây phút cuối cùng của cuộc đời, con người vẫn có thể lầm lỗi, vấp phạm, hay vẫn không biết mình đã lầm lỗi, vấp phạm mà ăn năn thống hối, nghĩa là, nếu không có ơn trên trợ giúp, hay nói đúng hơn, nếu không có “Đấng Phù Trợ khác” là Thánh Thần Thiên Chúa ở với, con người vĩnh viễn sẽ không nhận ra Chân Lý mà trở về với Đấng Tối Cao, tức vẫn không biết mình, hay nói cách khác, vẫn ở trong sự chết. Một tử thi vô hồn không biết gì nữa chính là hình ảnh của con người chết về tâm linh, hoàn toàn và vĩnh viễn không biết mình. Trái lại, Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan đoạn 1 câu 5 đã công bố: “Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm”. Nghĩa là Thiên Chúa là hiện hữu, trong Ngài không có sự chết, không có vô tri, đúng như Ngài đã mạc khải Danh Ngài cho Moisen trong sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 14 “Ta là Đấng Hiện Hữu”.
Đúng thế, “Hiện Hữu” chính là Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa cũng là Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, như trên đã xác tín, chính là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Sáu chữ “Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân” đây là câu nói có thể tạm tóm gọn Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. “Thiên Chúa” đây hiểu là Ngôi Cha, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 245 giải thích: “Giáo Hội nhìn nhận Ngôi Cha như là ‘nguồn gốc của tất cả thần tính”; “Bản Thân” đây hiểu là Ngôi Con, vì như trên đã trích lời Con tuyên bố: “Ai thấy Thày là thấy Cha”; và “Ý Thức” đây hiểu là Ngôi Ba, vì “Ngài là Thần Chân Lý” như Chúa Kitô đã mạc khải trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 17 và đoạn 16 câu 13. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hay nói rõ hơn, Mầu Nhiệm Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, cũng là Thực Tại Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân này thật ra đã được mạc khải ngay từ đầu, khi Thiên Chúa thực hiện dự định “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta và tương tự như chúng ta”, một dự định được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 26. Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài đây là gì, nếu không phải là “Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ”, một mạc khải cũng được ghi nhận trong cùng Sách Khởi Nguyên ở đoạn 1 câu 27. Và Thiên Chúa đã dựng nên con người tương tự như Ngài đây như thế nào, nếu không phải có tâm linh, tức có khả năng nhận biết. Đó là lý do, ngay sau khi tỉnh dậy từ một giấc ngủ say, Adong đã nhận ngay ra bản thân mình là Evà qua câu nói đầu tiên mở màn cho lịch sử xã hội loài người: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, như được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 2 câu 23.
Vâng, theo tôi, con người chúng ta chính là dụ ngôn Thiên Chúa muốn dùng để diễn tả Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của Ngài. Thật vậy, nếu đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa có Ba Ngôi, và Ngôi nào cũng là Thiên Chúa, song chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất chứ không phải là Ba Thiên Chúa, thì mầu nhiệm đức tin này đã được Thiên Chúa tỏ cho thấy một phần nào nơi Mầu Nhiệm Con Người, một thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Ngôi Con được nhiệm sinh từ Ngôi Cha và cũng là Thiên Chúa thật thế nào, thì Evà cũng từ Adong mà có, và cũng là một con người thật như vậy. Rồi nếu Thánh Thần “bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra”, Ngài cũng là Thiên Chúa thế nào, thì từ Adong cũng xuất phát một ý thức nhận biết Evà rồi cả hai nên một xác thịt, một con người như thế. Tóm lại, nếu chỉ có một Thiên Chúa duy nhất thế nào thì đầu tiên cũng chỉ có một con người duy nhất như vậy; thứ đến, nếu Thiên Chúa Duy Nhất ấy là chính Ngôi Cha thì con người duy nhất đầu tiên ấy là chính Adong; rồi từ Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha thế nào, thì từ Adong cũng phát sinh ra Evà cũng là con người có cùng bản tính như Adong như vậy; sau hết, bởi Chúa Cha và Chúa Con đã xuất phát Thánh Thần cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha và Ngôi Con thế nào, thì Adong và Evà cũng nên một xác thịt như một con người như vậy.
Ôi, được phản ánh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế, thân phận con người nhân loại chúng ta nói chung cao cả biết bao, và ơn gọi hôn nhân của chúng ta nói riêng trọng đại biết mấy! Thế nhưng, chúng ta đã sống thân phận làm người và ơn gọi hôn nhân của chúng ta như thế nào để phản ảnh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi? -------------------------------
Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra Đức Giê-su đến thế gian để: BaNgôi ABC43
Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra Đức Giê-su đến thế gian để mặc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi ( 33 năm ), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ ( 3 năm ) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận ? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ.
Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giê-su lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được ? Giả như Đức Giê-su có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường ! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các Tông Đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được !
“Không có sức chịu nổi”, vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giê-su không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mặc khải qua Đức Giê-su, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao ?
2. THẦN KHÍ SỰ THẬT SẼ TIẾP TỤC NÓI
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mặc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mặc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giê-su đã hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thánh Thần đã hiện xuống trên các Tông Đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mặc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giê-su: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giô-en đã báo trước: “Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” ( Cv 2, 17 – 18; xem Ge 3, 1 – 2 ).
Nếu tất cả những gì Đức Giê-su nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mặc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giê-su đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công Vụ Tông Đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mặc khải của Thánh Thần. Những mặc khải ấy ở đâu ? là gì ? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Ki-tô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn giáo khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Ki-tô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Ki-tô giáo đến trễ như vậy ? Ngài có muốn Ki-tô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không ? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta ! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy ! ( xem Is 55, 8 – 9 )
3. MUÔN LOÀI VẠN VẬT ĐỀU ĐA DẠNG VÀ ĐA DIỆN
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ.
Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo, mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
4. HÃY BẮT CHƯỚC BA NGÔI THIÊN CHÚA CỦA CHÚNG TA
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
NGUYỄN CHÍNH KẾT
CẦU NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giê-su muốn xây dựng cho trần gian. -------------------------------
Ba ngôi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, trời đất, muôn loài và muôn vật theo khuôn mẫu nào, theo: BaNgôi ABC44
Ba ngôi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, trời đất, muôn loài và muôn vật theo khuôn mẫu nào, theo mô hình nào ?
Chắc chắn là không có một cái gì ngoài Thiên Chúa lại có thể làm khuôn mẫu, làm mô hình cho các công việc của Thiên Chúa. Một Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu là “mô hình” cho các hoạt động của Thiên Chúa. Một Thiên Chúa chung cho Ba Ngôi vị và Mỗi Ngôi hoàn toàn là Thiên Chúa, phân biệt nhưng bằng nhau về mọi mặt và kết hiệp với nhau thành một, trọng một bản tính Thiên Chúa.
Nơi Thiên Chúa, có cái chung là bản tính Thiên Chúa, có cái riêng là ba Ngôi Vị phân biệt, bằng nhau, có tương quan mật thiết với nhau trong một tình yêu, một quyền năng, một bản tính. Đây là mô hình được thấy trong công trình tạo dựng và trong xã hội của con người.
Thử nhìn vào một giọt nước uống hằng ngày. Giọt nước này có bao nhiêu tỉ tỉ phân tử nước. Mỗi phân tử nước cấu tạo bởi một nguyên tử Oxygène và hai nguyên tử Hydrogène dưới một góc 1050 và cách nhau 96 Angstroem. Phân tử nước là cái chung, ba nguyên tử (một nguyên tử Oxy, hai nguyên tử Hydro) là những cái riêng. Những cái riêng này không hòa tan với nhau, trái lại mỗi nguyên tử có một chỗ đứng bền vững và tạo nên tương quan kết hiệp thành một phân tử. Chúng là thành phần cốt yếu cho nhau để tạo nên một đơn vị vững bền.
Trong xã hội loài người, người ta thấy phải có một hàm số đồng biến giữa cái chung và cái riêng. Cái riêng tiến thì cái chung tiến. Cái chung tiến thì phải làm cho cái riêng tiến mới tiến bền vững. Nếu cái riêng tiến và cái chung lùi, tổ chức đó không phát triển được. Nếu cái chung tiến, cái riêng lùi, tổ chức đó cũng lùi.
Thí dụ nền kinh tế một nước, nếu đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là để cái chung “nuốt chửng” cái riêng thì nền kinh tế nước đó không phát triển được. Đã có một thời, nền kinh tế thuộc về nhà nước dưới hình thức quốc doanh và tập thể, người lao động chỉ đóng vai trò người làm công, được trả lương không đủ sống, nền kinh tế nước đó không phát triển được. Cuối cùng, người ta phải để ý tới cái riêng (người làm công), đặt cái riêng ngang tầm với cái chung: dân giàu nước mạnh. Nền kinh tế nước đó khởi sắc ngay và phát triển mạnh.
Trong một xí nghiệp, trong một tổ hợp sản xuất, công nhân được trả lương cân xứng, được tôn trọng, công nhân sẽ có khuynh hướng gắn chặt đời sống lao động của mình với sự thịnh vượng của xí nghiệp, của tổ hợp. Xí nghiệp đó, tổ hợp đó phát triển được. Để đẩy mạnh cường độ gắn bó với xí nghiệp v.v, người ta tạo điều kiện để công nhân có cổ đông trong xí nghiệp, người công nhân sẽ xem xí nghiệp như là của mình, họ sẽ cố gắng lo cho xí nghiệp phát triển.
Tại các xí nghiệp v.v, khi thâu nhận công nhân, Ban Giám đốc giúp công nhân thực hiện chương trình của xí nghiệp qua mấy giai đoạn:
Phương thức chỉ huy: bắt công nhân tuân theo sự xắp xếp, chỉ huy của Ban Giám Đốc. Công nhân phải làm đúng chương trình của Ban Giám Đốc từ A đến Z.
Phương thức hướng dẫn: khi người công nhân đã quen việc, cứ làm một công việc đều đều sẽ sinh ra nhàm chán, người ta hướng dẫn để cho công nhân góp ý kiến thực hiện chương trình, chỉ thị của xí nghiệp. Làm như thế, tâm lý công nhân được giải tỏa, họ thấy họ có phần đóng góp trong việc họ phải làm.
Phương thức yểm trợ: công việc chỉ huy được trao cho công nhân, xí nghiệp chỉ còn yểm trợ, giúp giải quyết những vướng mắc, tháo gỡ những khó khăn. Phương thức ủy quyền: chủ và công nhân thảo luận với nhau và đưa ra một quyết định chung, rồi chủ trao toàn quyền cho công nhân quyết định.
Ban Giám Đốc sẵn sàng khen thưởng sáng kiến có lợi cho sản xuất do công nhân đóng góp. Có khi người ta còn cho công nhân vay tiền của xí nghiệp, xúi các bà vợ công nhân tiêu tiền nhiều hơn để cột chặt chân công nhân có tài. Người ta mở những lớp học đào tạo công nhân để nâng tay nghề cho công nhân. Vai trò nghiệp đoàn tranh đấu cho công nhân cũng tạo nên một thế cân bằng giữa quyền lực của xí nghiệp và thợ thuyền.
Rõ ràng cái chung (xí nghiệp v.v) cần tái riêng (công nhân) và cái riêng cần cái chung. Loại trừ nhau chỉ đưa đến ngưng trễ, đổ vỡ.
Thời phong kiến, nhà vua nắm tất cả, giang sơn và mọi thứ trong nước thuộc quyền nhà vua. Nhà vua nắm trọn quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp, nhưng nhà vua biết đi cầu tài, cầu người hiền, xem nhân tài là “nguyên khí quốc gia”. Nhà vua biết tôn trọng đất nước, biết tôn trọng dân. Lịch sử đánh giá nhà vua tài giỏi, sáng suốt. Chính triều đại thịnh trị của vua đó làm chứng cho bản thân nhà vua. Trái lại, ông vua độc tài, làm khổ dân, không thể tồn tại lâu bền.
Trong thế kỷ hai mươi vừa qua, Hitler đã muốn tạo nên một chủng loại người ưu thắng (race dominante) tiêu diệt chủng tộc khác, gây đau khổ cho bao nhiêu triệu người. Cuối cùng ông ta tự diệt chính mình.
Rồi thế giới đi vào lưỡng cực (phe Mỹ, phe Liên Xô), đi vào tam cực (phe Mỹ, phe Liên Xô, phe không liên kết) v.v cũng để tạo ra những cân bằng giữa những cái riêng để gìn giữ cái chung (thế giới hòa bình).
Lịch sử thế giới cho biết nước mạnh nước lớn, nước giàu nước nghèo thường xảy ra cảnh cá lớn nuốt cá bé. Cần phải có một sự tôn trọng nhau, một sự cân bằng trong việc tôn trọng chủ quyền của nhau nên vai trò tổ chức Liên hiệp quốc đóng vai trò tiếng nói chung mặc dầu tiếng nói chung nầy thuộc loại “khập khểnh”, nhưng là một tổ chức cần thiết.
Ngày nay, Internet là một phương tiện thông tin chung cho hoàn cầu, vấn đề hoàn cầu hóa kinh tế cũng có thể tiến đến một cái chung nhưng cũng có những nguy cơ không nhỏ. Thay vì một phương tiện chung phục vụ lợi ích nhân loại thì nó có thể là thứ vi trùng độc hại nhất. Thay vì một nền kinh tế chung trên địa cầu thì có thể mọc lên những thế lực lớn hơn, mãnh hơn nuốt chửng những nền kinh tế yếu kém, chưa phát triển. Nền kinh tế chung giúp các nước kém phát triển tiến lên ngang tầm cở nước lớn là mục đích, nhưng bước đầu không dễ dàng gì. Xung khắc sẽ xẩy ra nhưng nhân loại sẽ khôn ra.
Hết đánh nhau, hết tiêu diệt nhau, người ta mới bắt đầu khôn ra để nhìn nhận nhau, bắt tay thân thiện với nhau và tìm ra khuôn mẫu “sống chung hòa bình”. Đánh nhau chán rồi mới nghĩ ra điều cuối cùng phải làm mà thực ra phải làm từ đầu: ngồi vào bàn thương quyết, chấp nhận nhau.
Người ta không biết đến Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng khi người ta đưa ra những giải pháp để giải quyết xung đột thì giải pháp đó là kinh nghiệm trải qua cảnh giết người, tàn phá của cải. Khi diễn tả cái kinh nghiệm này thì đằng sau mỗi chữ, tín điều Một Chúa Ba Ngôi hình như đã ẩn dấu để hướng dẫn tư tưởng để hướng dẫn tư tưởng của người ta. Con người có lúc điên dại tiêu diệt nhau, làm khổ nhau, nhưng khi bừng tỉnh nhìn vào mình và nhìn vào tha nhân để cùng nhau đưa ra một giải pháp hòa bình thì họ đang tiến về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. -------------------------------
Nếu hiểu rằng mầu nhiệm là những gì chúng ta chưa thể hiểu thấu, thì quả thực đời sống của: BaNgôi ABC45
Nếu hiểu rằng mầu nhiệm là những gì chúng ta chưa thể hiểu thấu, thì quả thực đời sống của chúng ta bị chìm đắn, bị bao phủ bởi biết bao nhiêu mầu nhiệm.
Thực vậy, chúng ta băn khoăn thắc mắc về tương lai hậu vận, để rồi có người đã đi hỏi ông thày bói, thế nhưng như tục ngữ đã diễn tả:
- Bói ra ma, quét nhà ra rác. - Tay cầm tiền quí bo bo,
Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình.
Rốt cuộc cũng chẳng giải quyết được gì. Hậu vận thì vẫn mịt mù, còn tương lai thì vẫn là một mầu nhiệm.
Chúng ta suy nghĩ về tình yêu, mà rồi cũng chẳng biết được cái tình là cái chi chi. Bao nhiêu người tôi gặp, bao nhiêu người tôi quen, mà sao trái tim tôi vẫn lạnh lùng băng giá. Thế rồi tới một lúc nào đó, trái tim tôi lại “lúc lắc” và chỉ lúc lắc với một người nào đó. Và tình yêu mãi mãi vẫn còn là một mầu nhiệm.
Ngoài ra, còn biết bao mầu nhiệm khác nữa. Nào là mầu nhiệm về sự sống, mầu nhiệm về sự chết, mầu nhiệm về thiên nhiên, mầu nhiệm về con người…Chúng ta cố gắng tìm tòi để thỏa mãn phần nào nhu cầu hiểu biết, cũng như để hạnh phúc cuộc đời được bảo đảm hơn.
Thế nhưng, có một mầu nhiệm rất quan trọng, khả dĩ có thể đem lại cho chúng ta lời giải đáp về số mệnh, về cuộc sống, mà chúng ta lại quên lãng, đó chính là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Đây quả thực là một mầu nhiệm tuyệt vời, đến nỗi thánh Phaolô đã phải kêu lên:
- Ôi thẳm sâu thay sự khôn ngoan và phong phú của Thiên Chúa. Đường lối của Ngài cao cả lắm thay.
Ngày nay, mặc dù nhiều người không chối bỏ Thiên Chúa, nhưng lại coi Thiên Chúa như là đã chết, không còn tác động và ảnh hưởng tới sinh hoạt của cá nhân và xã hội. Đó chỉ là một vị Thiên Chúa vừa trừu tượng lại vừa xa lạ, bị đóng băng vào trong những ý niệm mang tính cách triết học.
Nhưng với chúng ta thì khác. Thiên Chúa vẫn còn mãi và Ngài luôn hiện diện. Ngài đã vén bức màn che phủ để hé mở cho chúng ta được hiểu biết về Ngài. Việc mạc khải, việc hé mở này được thự hiện nhờ Đức Kitô.
Thực vậy, nhờ Đức Kitô, chúng ta biết được rằng có một Thiên Chúa và Ngài có ba ngôi. Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, Đng đã dựng nên chúng ta. Ngôi thứ hai là Chúa Con, Đấng đã cứu chuộc chúng ta và Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa chúng ta.
Hơn thế nữa, cũng nhờ Đức Kitô chúng ta còn biết được rằng Thiên Chúa chính là một người cha hằng yêu thương, chăm sóc chúng ta cũng như lo lắng đến tương lại của chúng ta.
Phải chăng tâm trạng của chúng ta cũng giống như tâm trạng của các tông đồ khi lên tiếng hỏi Chúa Giêsu:
- Xin Thày chỉ cho chúng con biết Chúa Cha.
Và Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ai thấy Thày là thấy Cha.
Như vậy, Thiên Chúa Cha đã tỏ mình ra nơi Đức Kitô. Và cùng với Đức Kitô, chúng ta có thể mừng vui kêu lên rằng: Abba, cha ơi.
Trong một trận cuồng phong, con thuyền chao qua đảo lại, khiến mọi hành khách đều khiếp sợ, tuy nhiên có một em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi trong một xó góc. Người ta hỏi em:
- Tại sao em không sợ hãi.
Em trả lời:
- Làm sao cháu có thể sợ hãi khi chính ba cháu là người đang điều khiển con tàu.
Cũng thế, tại một thành phố nọ đã xảy ra động đất dữ dội, mọi người đều run sợ kinh hoàng. Thế nhưng, có một bà cụ rất bình tĩnh đi lại chăm sóc cho các nạn nhân, mặc dù nhà của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao, bà trả lời:
- Không khi nào tôi run sợ, trái lại tôi luôn bình an, bởi vì Thiên Chúa là Cha của tôi, Ngài có thể lay chuyển cả nền móng trái đất.
Hãy xác tín rằng: Thiên Chúa là Cha nân từ. Ngài nắm giữ toàn bộ con người và cuộc sống của chúng ta trong bàn tay đầy quyền năng và yêu thương của Ngài. -------------------------------
Đôi khi, một người chăm sóc có thể làm cho một người nào đó, chỉ là sự hiện diện bên người này: BaNgôi ABC46
Đôi khi, một người chăm sóc có thể làm cho một người nào đó, chỉ là sự hiện diện bên người này mà thôi. Nhưng đây là một điều quan trọng, bởi vì giúp cho người đang đau khổ có được một quan hệ đồng hành vững vàng. Để nhận biết được điều này, chúng ta phải nhận biết có một Đấng luôn săn sóc con người, làm cho thế giới khác biệt hẳn, giải thoát người đau khổ khỏi cảm giác bị bỏ rơi.
Đức Giêsu ủy thác cho các tông đồ của Người sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, Người còn nói với họ là sẽ luôn luôn ở cùng họ. Đó là tất cả những gì mà Người có thể hứa hẹn với họ. Người nói một cách đơn giản “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em… cho đến tận thế”. Không còn lời đảm bảo nào khác nữa, mà chỉ là “Anh em hãy tin tưởng vào Thầy. Thầy sẽ luôn ở cùng anh em”.
Nhưng đây là lời đảm bảo quan trọng nhất, mà Người có thể ban cho họ. Mặc dù lời nói này không đảm bảo tránh cho họ một cuộc sống khỏi bị rắc rối, và cũng không mang lại cho họ một cuộc sống thành công; họ biết rằng miễn là Đức Giêsu ở với họ, thì họ sẽ có lòng can đảm và sức mạnh, để đương đầu với bất cứ khó khăn nào ở phía trước.
Đối với chúng ta, cảm giác về sự hiện diện của Đức Giêsu ở với chúng ta không làm thay đổi được thế giới, nhưng sự hiện diện của Người có thể ban cho chúng ta lòng can đảm để đương đầu với thế giới. Chúng ta không cầu xin Thiên Chúa thay đổi thế giới, để làm cho cuộc sống dễ dàng hơn đối với chúng ta, trong khi chúng ta đang đối phó với một số hoàn cảnh khó khăn mà thôi. Sự gần gũi của Thiên Chúa che chở chúng ta khỏi cảm giác bị bỏ rơi thất vọng.
Theo truyền thống Kinh Thánh, Credo (Kinh Tin Kính) của những người đạo đức là niềm tin vững vàng của họ vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi họ. Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ những người ngay chính, nhưng Người ban cho họ phần thưởng ở cuộc sống mai sau.
Theo thời gian, không phải lúc nào những người đi theo Đức Giêsu cũng luôn luôn cư xử với nhau theo cách thế mà các Kitô hữu nên làm. Đã có những cuộc cãi vã nhau giữa họ, đưa đến hậu quả là ngày nay, chúng ta không chỉ có một Giáo hội Công giáo, mà còn có đến mấy Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, bất chấp những sa ngã của những kẻ đi theo Người, và nhiều cuộc bắt bớ khủng khiếp. Tin Mừng vẫn đến với chúng ta qua 2000 năm. câu giải nghĩa cho điều này chắc chắn nằm ở lời hứa của Đức Giêsu “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng ở với Thiên Chúa. Cuộc sống bận rộn của chúng ta làm cho chúng ta mất quan hệ với Thiên Chúa. Khi mất quan hệ với Người, thì nơi chúng ta, xảy ra một sự mất mát rất lớn. Chúng ta nên chú tâm vun xới ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, và nuôi dưỡng ý thức này bằng lời cầu nguyện. -------------------------------
Người ta tìm thấy lời cầu nguyện sau đây trên xác của một người lính trẻ, đã bị tử nạn trong: BaNgôi ABC47
Người ta tìm thấy lời cầu nguyện sau đây trên xác của một người lính trẻ, đã bị tử nạn trong thế chiến I:
“Lạy Thiên Chúa, trước đây con chưa bao giờ nói chuyện với Chúa, nhưng nay con muốn được kính chào Người. Người ta nói với con rằng Chúa không hề hiện hữu, và giống như một kẻ điên rồ, con đã tin vào điều đó. Nhưng đêm hôm qua, con nhìn lên bầu trời qua một cái lỗ của quả đạn pháo. Khi nhìn thấy vẻ đẹp của các ngôi sao, con nghĩ rằng vũ trụ thật bao la. Con biết rằng người ta đã nói dối con.
“Con thắc mắc không biết Chúa có bắt tay với con, khi chúng ta gặp nhau không ? Không biết bằng cách nào, mà con cảm thấy rằng Chúa thấu hiểu tất cả những sa ngã của con. Thật kỳ lạ, khi con người phải đến cái nơi khủng khiếp này, thì mới nhận ra được Người. Con sẽ làm gì trước cảm giác này đây ?
“Không có gì để nói nhiều hơn nữa, nhưng con biết chắc chắn rằng con vui mừng vì hôm nay, con được nhận biết Chúa. Con cảm thấy rằng chẳng bao lâu, giờ quyết định sẽ xuất phát từ nơi đây. Đây là một cuộc chiến đấu khủng khiếp. Ai biết rằng chỉ có con sẽ đến nhà của Người trong đêm nay.
Con đang kêu gào ! Ôi con đang kêu gào ! Con không bao giờ nghĩ rằng điều này có thể xảy đến với con. Bây giờ con phải ra đi. Thật kỳ lạ, kể từ khi con được gặp Chúa, con không còn sợ chết nữa”.
Thật đáng buồn vì người lính trẻ đó nhận biết Thiên Chúa quá trễ. Nhưng người ta nói rằng thà trễ còn hơn là không bao giờ. Khi chúng ta tự cho phép mình đánh mất quan hệ với Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra một sự mất mát quá lớn. Tác giả Salman Rushdie nói “Khi tôi còn trẻ, tôi sống đạo đức một cách không ý thức. Nhưng hiện nay thì không, tôi đã có ý thức về khoảng không gian nơi Thiên Chúa ngự”.
Khi con người mất quan hệ với Thiên Chúa, thì phần lỗi không thuộc về Thiên Chúa. Bài đọc 1 chứng tỏ rằng Thiên Chúa đã đi vào một mối quan hệ thân mật và đầy yêu thương đối với dân của Người. Trong bài đọc 2, mối quan hệ này thậm chí lại càng trở nên thân mật hơn. Chúng ta không chỉ là những thành viên của dân Thiên Chúa, mà còn là con cái, là những thành viên trong gia đình của Người. Mặc dù mối quan hệ gia đình có sự ràng buộc, nhưng các ân sủng tuôn chảy từ mối quan hệ này thật lớn lao. Chúng ta là những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong nước trời.
Chúng ta thật cô đơn, nếu không biết Thiên Chúa. Con người tìm kiếm sự an toàn nơi sự giàu có, những của cải sở hữu, các mối tương quan v.v…Nhưng Thiên Chúa chính là nơi nương ẩn cuối cùng. Những ai để cho Thiên Chúa chi phối, thì bắt đầu được cảm nếm sự an bình không thể hiểu hết được. Con người không thể sống hạnh phúc, trừ phi có lòng đạo đức, và người ta không thể sống đạo đức được, nếu không có Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã vén mở bức màn về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta không còn ở xa nữa, mà đã được đưa vào gia đình của Thiên Chúa. Chúng ta có một Người Cha luôn quan tâm săn sóc chúng ta, chúng ta có một Người Anh Cả đã chịu chết vì chúng ta, và có một Đấng an ủi luôn hướng dẫn chúng ta suốt hành trình đến cuộc sống đời đời. -------------------------------
Một người đàn ông bị bắt giam vào nhà tù. Ông ta chỉ được nhìn ra thế giới bên ngoài, thông: BaNgôi ABC48
Một người đàn ông bị bắt giam vào nhà tù. Ông ta chỉ được nhìn ra thế giới bên ngoài, thông qua một cửa sổ nhỏ cao trên tường. Lúc đầu, ông ta ghét cảnh bị giam hãm, và coi thường tầm nhìn khốn khổ mà ông ta có về thế giới bên ngoài, đó là thế giới duy nhất mà ông ta tin tưởng.
Nhưng thời gian qua đi, và cái cửa sổ nhỏ đó đã trở thành một người bạn của ông. Thật vậy, mặc dù nó chỉ cho ông một mẩu cuộc sống nhỏ xíu – một làn mây, một máy bay vụt bay qua, một chiếc lá rơi, một giọt nước mưa, một bông tuyết…, nhưng ông nhận ra rằng nó không phải là một đồ vật xấu xa gì. Ô cửa sổ đó bắt buộc ông phải tập trung vào những điểm đặc biệt, và biến cái nhỏ nhoi trở thành cái lớn lao. Ông kinh ngạc khám phá ra rằng thông qua một mẩu vật nhỏ bé như thế, làm thế nào mà cuộc sống lại có thể thật phong phú đến thế. “Nhìn qua một khe hở, không lạ gì khi có cả một bầu trời quá rộng lớn ở đó” (Patrick Kavanagh).
Đôi khi, khung cảnh từ cửa sổ lại nông cạn và mờ đục. Dường như thế giới kết thúc ngay tại khung cửa sổ. Nhưng những lúc khác, cửa sổ lại mở ra một bầu trời trong xanh và trống trải. Thế rồi cửa sổ còn mở vào cõi vô biên, và ông cảm thấy bên trong con người ông bừng tỉnh những ước muốn siêu việt, mà ông không bao giờ biết rằng những ước muốn này muốn có ở đó. Vì thế, cái cửa sổ đó đã giúp ông đánh giá được những sự vật ở trên cõi trời, cũng như ở dưới mặt đất.
Cuối cùng, ông được phóng thích. Tất nhiên là khi được phóng thích, ông sẽ có được nhiều thứ. Bây giờ, tất cả mọi sự đều sẵn có đối với ông. Nhưng ông lại có khuynh hướng nhìn vào tất cả mọi sự một cách chung chung, và không có gì là đặc biệt cả. Và ông cũng cảm thấy là mình bị mất mát. Ở trong tù, ông có được một chiều kích siêu việt về cuộc sống của mình. Thế giới, “bên ngoài” rất quan trọng đối với ông. Ông gia tăng tình yêu đối với cảm giác rằng có một thế giới khác vĩ đại hơn nhiều, so với thế giới hiện tại của ông. Hiện nay, ông e sợ rằng một khi đã bị nhận chìm do sự tầm thường, thì cảm giác này, ước muốn này sẽ quay trở lại với giấc ngủ im lìm, hoặc sẽ chết đi vì sự thờ ơ.
Đức tin cung cấp cho chúng ta một khung cửa sổ để nhìn ra bên ngoài. Đức tin mở ra cho chúng ta một lối đi đến một thế giới khác – thế giới của cõi đời đời, thế giới của Thiên Chúa. Nhưng sự bận bịu của chúng ta đối với cuộc sống tại – đây – và – trong – lúc này có thể tước đoạt của chúng ta “bên ngoài”, có thể kéo một bức màn che mất khung cửa sổ. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể chôn vùi những ước muốn siêu việt của mình, nhưng chúng ta không thể dập tắt chúng được.
Khi chúng ta tự cho phép mình đánh mất quan hệ với Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra một sự mất mát rất lớn. Tác giả salman Rushdie nói “Khi tôi còn trẻ, tôi sống đạo đức một cách không có ý thức. Nhưng hiện nay thì không, tôi đã có ý thức về khoảng không gian nơi Thiên Chúa ngự”.
Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có ước muốn chiếm hữu được một cái gì đó ở bên ngoài thế giới mà chúng ta đã biết, bên ngoài bản thân chúng ta, thậm chí vượt ra khỏi sức tưởng tượng của chúng ta. Đây là nơi mà đức tin của chúng ta vươn tới. Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Thiên Chúa là Cha, chúng ta có một Người Cha luôn quan tâm săn sóc chúng ta, chúng ta có một Người Anh Cả đã chịu chết vì chúng ta, và có một Đấng An ủi luôn hướng dẫn chúng ta đến với vương quốc vĩnh cửu. -------------------------------
Đôi khi ta không thể làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng: BaNgôi ABC49
Đôi khi ta không thể làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng việc này thật quí giá, vì người đau khổ ấy cảm thấy được an ủi rất nhiều bởi tình bằng hữu của ta. Nếu biết có ai đang ở với mình để an ủi mình thì cuộc đời sẽ khác đi rất nhiều do không còn cảm thấy cô đơn nữa.
Đức Giêsu bảo các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và Ngài hứa sẽ ở cùng họ luôn mãi. Ngài chỉ hứa có bấy nhiêu, không có sự bảo đảm nào khác. Nhưng đó chính là sự bảo đảm quan trọng nhất Ngài có thể ban cho họ. Mặc dù Ngài không bảo đảm cho họ có một cuộc sống khỏi mọi ưu phiền, thậm chí Ngài cũng không bảo đảm là họ sẽ thành công, tuy nhiên họ ý thức rằng bao lâu Ngài còn ở với họ thì họ sẽ có can đảm và sức mạnh để có thể đương đầu với bất cứ khó khăn nào trước mặt.
Ý thức có Chúa ở cùng chúng ta không thay đổi được thế giới của chúng ta nhưng có thể cho chúng ta can đảm để đối diện thế giới ấy. Chúng ta không xin Chúa thay đổi thế giới hầu làm cho thế giới dễ chịu hơn. Chúng ta chỉ xin Ngài bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn ở với chúng ta khi chúng ta phải đương đầu với những khó khăn. Việc Ngài luôn ở với chúng ta sẽ che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn và thất vọng. Chúa luôn ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta không luôn ở cùng Chúa. Những bận rộn trong cuộc sống đã cắt đứt liên hệ của chúng ta với Ngài, và khi liên hệ của chúng ta với Ngài bị cắt thì chúng ta phải mất mát thiệt thòi rất nhiều.
Vì thế, chúng ta cần bồi dưỡng ý thức có Chúa luôn ở cùng chúng ta, bồi dưỡng bằng cầu nguyện. -------------------------------
Trong bài Tin Mừng ta vừa nghe, Chúa Giêsu quả quyết với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa đã: BaNgôi ABC50
Trong bài Tin Mừng ta vừa nghe, Chúa Giêsu quả quyết với ông Nicôđêmô:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một người, để tất cả những ai tin ở con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời.”
Thực vậy, niềm tin vào Chúa Kitô đã khiến tất cả các vị tử đạo sẵn sàng bỏ tất cả những gì thân yêu nhất trên đời, đã chấp nhận những đau khổ cơ cực ngoài sự tưởng tượng, nhằm mục đích không bị án phạt, nhưng được sống đời đời với Chúa.
Khi ông Nguyễn Kim Thông (tử đạo ngày 15-7-1855, 65 tuổi) bị bắt: Quan tỉnh vốn quen biết ông từ hồi làm lý trưởng, và trước đây được ông đãi ngộ rất hâu, nên tỏ ra rộng lượng với ông, nhờ đó ông không bị đánh đập, thỉnh thảong còn được phép về thăm nhà. Ông lợi dụng cơ hội này, khuyên nhủ con cháu trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Ông nói:
“Tôi đã già, chẳng còn ham sống lâu nữa, tôi sẵn sàng chịu tù đày và chịu chết vì Đức Kitô. Nhất định tôi không vận động xin tha.”
Rồi ông lại trở về trình diện quan cai ngục.
Đã nhìu lần quan tỉnh gọi ông Thông ra công đường, nhỏ nhẹ khuyên ông bỏ đạo. Quan nói:
“Ông chỉ cầm giẫm lên Thập Tự đi, chỉ tôi và ông biết thôi, rồi về xưng tội là xong, chớ có chi phải sợ.”
Ông trả lờ:
“Không, Thập giá mà tôi thờ kính, giẫm lên sao được!”
Và ông khẳng định với quan:
“Thà to chịu lưu đày và chịu chết, chứ tôi không chối đạo.”
Sau ba tháng tù, ông nhận được án phạt bị lưu đầy vào Vĩnh Long. Các con ông dự tính bỏ tiền vận động xin giảm án, nhưng ông khuyên can: “Các con cứ để Thánh ý Chúa được thực hiện.”
Ông chánh trương Thông có một người cháu tên là Út, tính ngang tàng, phóng đãng, nên hay bị ông quở mắng. Để trả thù, hắn viết một bức thư nặc danh lên quan tỉnh, tố cáo ông vì tội chứa chấp đạo trưởng. Thế là quan quân kéo đến vây bắt ông cùng với bốn giáo sĩ khác, đem giam vào ngục ở Bình Định.
Sau ba tháng tù, ông Thông nhận được án phạt bị đày vào Vĩnh Long. Đường vào Nam xa xôi, ông Thông cùng đi với bốn chứng nhân khác. Những chứng nhân này bị đày vào Vĩnh Long. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông xiềng. Ông bước đi một các rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đồn quan, hay nhà tù đại phương. Được vài ba ngày, lính ông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Khi ngang qua tỉnh Bình Thuận, ông may mắn gặp Linh mục Nguyễn Kim Thư, con của ông, ông xin lãnh Bí tích hòa giải.
Đến chợ quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Bốn người bạn tù của ông đã tới Vĩnh Long trước, báo tin cho cha bế trên Borelle Hòa, về tình trạng nguy tử của ông. Cha Hòa liền cử một y sĩ đến Mỹ Tho, săn sóc ông. nhưng không kịp nữa, vì khi chứng nhân của Chúa đặt chân lên đất lưu đày, chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh Kính Mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
Thi hài vị tử đạo, được viên y sĩ của cha Hòa đem về Cái Nhum. Đến sau các con ông: Linh mục Thư, ông Ngọc, ông Xa rời về an táng tại nhà thờ Gò Thị. Hiện nay tại Gò Thị còn mộ của ông. Nhưng hài cốt đã được rời sang chủng viện Làng Đông (Bình Định).
Trong khi bị giam, một hôm, quan án gọi Thánh Laurensô Ngôn (tử đạo ngày 22-5-1862, 22 tuổi) ra tòa và dụ dỗ:
“Anh còn trẻ, sao lại dại dột muốn chết? Hãy bước quan Thập tự, anh sẽ được tha về với gia đình.”
Thánh Ngôn trả lời:
“Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể đất trời. Thập giá là phương thế Thiên Chúa dùng để cứu độ nhân loại, tôi chỉ có thể tôn kính, chứ không bao giờ chà đạp. Nếu quan để tôi sống, tôi cảm ơn quan, còn không, tôi sẵn sàng va vui lòng vhịu chết vì niềm tin vào Chúa tôi.”
Trong ngục, Thánh Ngôn chịu nhiều khổ nhục vì Chúa thế mà Ngài vẫn chưa lấy làm đủ, Ngài còn ăn chay mỗi tuần ba ngày, Ngài thường hối hận ăn năn mỗi khi nhớ đến những lỗi lầm trong quá khứ. Ngài còn an ủi khích lệ các đồng bạn can đảm chấp nhận mọi cực hình, đừng bao giờ xúc phạm đến Thiên Chúa: “Chúng ta hãy bền vững kiên tâm, dù bị đánh đòn tra tấn dã man. Chúng ta hãy lo lắng sợ hãi khi nghĩ đến chà đạp lên Thánh giá.”
Trong một cuộc tra tấn, khi líng tìm cách bắt Ngài chà đạp Thánh giá, thì lúc đó Ngài quỳ phục xuống và kính cẩn thờ lạy Thánh giá. Thái độ khiến các quan càng nổi giận, lập án trảm quyết Ngài. Tám tháng rưỡi sau ngày bị bắt, Ngài đã được diễm phúc đổ máu đào vì Chúa. Trước sự chứng kiến của hai người thân thiết: Bà mẹ và người vợ hiền, Thánh Laurensô Ngôn hiên ngang bước ra pháp trường An Triêm (huyện Đông Quan) lãnh triều thiên tử đạo ngày 22-5-1862.