Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 19 TN-A Bài 1-50: Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 14, 22-33: “Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa!”, và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Chúa phán: “Hãy đến!” Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con!” Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
TN 19-A1. SỐNG LỜI CHÚA- MẶT BIỂN DẬY SÓNG.. 2
TN 19-A2. SCĐ/422- UY QUYỀN.. 4
TN 19-A3. NTĐY / 110- ĐỨC TIN.. 6
TN 19-A4. STM / 172- ĐI TRÊN BIỂN.. 7
TN 19-A5. CSTM / 188- TIN TƯỞNG.. 9
TN 19-A6. CS / 120- HIỆN DIỆN.. 11
TN 19-A7. PV / 484- SỰ YÊN TĨNH.. 12
TN 19-A8. PV/486- QUYỀN NĂNG.. 13
TN 19-A9. NGƯỜI KÉM TIN, SAO NGƯƠI LẠI NGHI NGỜ?. 15
TN 19-A10. Suy Niệm của Lm. Augustine. SJ. 19
TN 19-A11. XIN CHO CON ĐI TRÊN MẶT NƯỚC.. 23
TN 19-A12. LẠY THẦY XIN CỨU CON.. 24
TN 19-A13. TIN VÀO CHÚA KITÔ.. 25
TN 19-A14. NHỮNG LỜI CẦU NGUYỆN NGẮN.. 29
TN 19-A15. Sống trước sự hiện diện uy quyền của Thiên Chúa. 30
TN 19-A16. THẦY ĐÂY ĐỪNG SỢ.. 33
TN 19-A17. SÓNG GIÓ BA ĐÀO.. 35
TN 19-A18: Hình ảnh về một Thiên Chúa. 36
TN 19-A19: Đức Giê-Su Đi Trên Mặt Nước. 38
TN 19-A20: CÁC CON ĐỪNG SỢ.. 41
TN 19-A21: HÃY NHÌN TRỞ LẠI BẦU TRỜI 43
TN 19-A22: Sống trước sự hiện diện uy quyền của Thiên Chúa. 46
TN 19-A23: Con đường của Chúa. 53
TN 19-A24: VỮNG TIN Ở CON THIÊN CHÚA LÀ ĐỨC GIÊSU KITÔ.. 55
TN 19-A25: CHÚA GIÊSU QUYỀN PHÉP. 58
TN 19-A26: Khi Hành Trình Đức Tin Có Sóng Gió. 60
TN 19-A27: Sóng Gió Liền Yên Lặng. 63
TN 19-A28: Thầy Đây, Đừng Sợ. 64
TN 19-A29: NGƯỜI ĐÂU MÀ KÉM TIN VẬY !. 66
TN 19-A30: Lm. Đan Vinh. 68
TN 19-A31: SLC – Đi trên mặt biển. 76
TN 19-A32: SLCTTY/267 – Xin cứu tôi 78
TN 19-A33: SLCTTY/267 – Xin cứu tôi 79
TN 19-A34: Chúa cầu nguyện. 81
TN 19-A35: Cam kết cho đến chết 82
TN 19-A36: MẪU SỐ CHUNG: HỘI CHỨNG SỢ.. 84
TN 19-A37: Hành trình đức tin: Những bước chân trên sóng. 86
TN 19-A38: ĐỨC KITÔ, ĐẤNG BAN BÌNH AN.. 89
TN 19-A39: HÃY ĐẶT TIN TƯỞNG VỮNG MẠNH VÀO CHÚA.. 92
TN 19-A40: SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA.. 96
TN 19-A41: Phép lạ hóa bánh ra nhiều. 98
TN 19-A42: Yêu Mến Và Tín Thác Vào Chúa Giêsu. 101
TN 19-A43: HÃY AN TÂM VÌ LUÔN CÓ CHÚA.. 105
TN 19-A44: Đi trên mặt biển. 107
TN 19-A45: Nơi ẩn náu duy nhất 109
TN 19-A46: Phép lạ. 111
TN 19-A47: Hãy lưu lại trên thuyền. 112
TN 19-A48: Gió trở nên yên lặng. 114
TN 19-A49: CHÚA GIÊ-SU ĐI TRÊN MẶT BIỂN VỚI PHÊRÔ.. 115
TN 19-A50: Đi Bộ trên Biển Hồ. 118
------------------------------------------
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh mặt biển dậy sóng: TN 19-A1
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh mặt biển dậy sóng.
Thực vậy, hình ảnh này trước hết được áp dụng cho Giáo hội. Đọc lại lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy Giáo hội không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, sóng yên biển lặng.
Trái lại, rất nhiều lần phong ba đã nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền Giáo hội. Bão táp có thể đến từ bên ngoài do những bắt bớ Giáo hội đã gặp phải. Ngay từ khi còn phôi thai, Giáo hội đã phải trải qua ba trăm năm cấm cách dưới thời các bạo vương La mã, khiến cho hàng ngàn tín hữu đã phải đổ máu đào làm chứng cho Tin mừng.
Giáo hội Việt Nam cũng không thoát khỏi định luật ấy, đã phải gánh chịu hơn ba trăm năm cấm cách khiến cho hàng ngàn người đã phải hy sinh mạng sống vì danh Đức Kitô.
Ngày nay, cấm cách vẫn còn đó, nay thì ở chỗ này, mai thì ở chỗ kia trên thế giới, bằng những cách thức khác nhau, đúng như Lời Chúa đã tiên báo:
- Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.
Bão táp còn có thể xuất phát từ bên trong, ngay giữa lòng Giáo hội, bời những chia rẽ và bất đồng, những giáo phái và phe nhóm, làm cho khuôn mặt Giáo hội bị rạn nứt.
Ngoài ra, hình ảnh mặt biển dậy sống còn được áp dụng cho mỗi người chúng ta. Thực vậy, cuộc đời không lúc nào cũng là những ngày nắng ấm và thành công không phải lúc nào cũng mỉm cười với chúng ta. Trái lại, rất nhiều khi chúng ta đã gặp phải bão táp.
Nào là những khổ đau, những bất hạnh từ bên ngoài xô tới. Nào là những khủng hoảng, những đam mê sai trái từ bên trong, lôi cuốn chúng ta vào vòng tội lỗi. Mỗi khổ đau, mỗi cám dỗ là như một con sóng bạc đầu muốn nhận chìm chúng ta xuống đáy nước.
Vậy trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì ?
Trước hết là trên bình diện Giáo hội. Đối với những bão táp từ bên ngoài xảy đến, chúng ta hãy xác tín rằng: Cấm cách chỉ là chuyện thường tình, bởi vì nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Tuy nhiên, điều quan trọng, đó là chúng ta hay xác tín vào Chúa như lời Ngài đã phán:
- Các con hãy tin tưởng, Thày sẽ thắng thế gian.
Sau cơn mưa,trời lại sáng. Sau những bắt bớ và cấm cách, Giáo hội sẽ lại càng được phát triển và lớn lên, như lời Tertulianô đã nói:
- Máu cách thánh tử đạo là hạt gióng làm nảy sinh các tín hữu.
Còn nếu như cuồng phong xuất phát từ trong lòng Giáo hội, thì chúng ta cần phải kêu lên cùng Chúa như thánh Phêrô ngày xưa:
- Lạy Thày, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất.
Chắc chắn Chúa sẽ ra tay nâng đỡ, để con thuyền Giáo hội của Ngài không bị đắm chìm và cuốn trôi, như lời Ngài cũng đã nói với thánh Phêrô:
- Con là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo hội của Thày và các cửa hỏa ngục cũng không làm gì nổi.
Tiếp đến là trong phạm vi cá nhân. Đứng trước những khó khăn từ bên ngoài cũng như những cám dỗ từ bên trong, điều quan trọng đó là chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Đừng bao giờ xa lìa Chúa, trái lại hãy tin tưởng và phó thác vào tình thương và quyền năng của Ngài.
Sở dĩ thánh Phêrô đã chìm xuống đáy nước chỉ vì đã nghi ngờ và sợ hãi. Sở dĩ thánh Phêrô đã chối bỏ Chúa chỉ vì đã quá cậy dựa vào sức riêng của mình. Với chúng ta cũng thế, hãy tin tưởng và cầunguyện.
Như một em nhỏ, ngày kia chẳng may gặp phải con chó dữ. Em sẽ làm gì ? Chạy trốn thì không đủ nhanh nhẹn. Chống cữ thì không đủ sức mạnh. Trong trường hợp này, em chỉ còn có một cách thức duy nhất, đó là kêu ba, kêu má tới giúp đỡ. Và một khi được đi bên ba, bên má, em sẽ cảm thấy an toàn và không còn sợ hãi.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ thành thâm kêu cầu Ngài. Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói: Có Chúa thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thi tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
------------------------------------------
Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin: TN 19-A2
Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin:
- Ban đầu khi thuyền gặp bão và không có Đức Giêsu trong thuyền thì Phêrô và tất cả các môn đệ khác đều sợ.
- Đến khi nhận ra cái bóng kia đang đi trên mặt nước là Đức Giêsu thì Phêrô tin, dám xin Thầy cho mình cũng bước trên mặt nước được như Thầy.
- Nhưng khi thấy sóng to gió lớn, đức tin của ông suy giảm, ông liền sợ và bắt đầu chìm.
- Lúc đó ông nhớ tới Chúa, giục lòng tin lại và kêu xin “Lạy Thầy, xin cứu con”. Đức Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Ông không còn sợ gì nữa.
- Cuối cùng khi Thầy trò đã ở trên thuyền, Phêrô và các môn đệ không sợ nữa, họ tuyên xưng đức tin “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”.
Bài học ở đây là: Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém, nhưng khi tin thì không còn sợ nữa.
Đức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió, nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời.
Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước:
- A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa Nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín di đoan. Sau vài phút giằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
- B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì… ôi thôi, cô không giám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi Cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
- C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn, nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác, trong đó có thí dụ hợp với hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.
-------------------------------
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi: TN 19-A3
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân, đã chạy đến tiếp cứu. Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia tưởng như ngàn cân treo sợi tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có mơ ước gì không. Chú trả lời: “Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu người”.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở thành vĩ nhân của thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé nhà quê, nhờ sự giúp đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ danh tiếng, và là ân nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin. Tên của ông Fleming.
Có ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi tiếng đều bó tay, thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan nghiệt, để rồi sau này Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện và tự hào của cả nước Anh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Đức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong ba bão táp, “bị sóng đánh vì ngược gió”.
Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có Đức Giêsu bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Đức Giêsu mắng: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Đó là hành trình Đức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi người tín hữu chúng ta. Đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu “cứ đến”, mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Để cuối cùng, chính Đấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững mạnh.
Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Có một thước phim mà người xem chớ vội bỏ qua, là “Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay”. Chính Đức Giêsu và Phêrô đã cứu con thuyền trong cơn sóng gió.
Có một lời tuyên xưng mà người tín hữu Kitô không ngừng thốt lên trong các cơn giông tố của cuộc đời: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Người tín hữu như chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Muốn đưa đời mình về với trùng khơi hãy xác tín như thánh Phanxicô Salêsiô: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
-------------------------------
Đứng bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người cha không ngừng trấn: TN 19-A4
Đứng bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người cha không ngừng trấn an con mình với những lý luận dựa trên tài năng nổi tiếng của nhóm bác sĩ giải phẫu với những phương tiện tối tân, ông còn trấn an con là sẽ hiện diện bên cạnh để cung ứng mọi nhu cầu cho con.
Nghe xong lời cha khuyên, người con trả lời với cha:
Xin cha đừng lo lắng nhiều, con không sợ đâu, con tin tưởng phó thác mọi sự cho Chúa Giêsu, Người hiện diện bên con và giúp con chịu đựng, hy sinh âm thầm trong tâm trí.Người cha cảm phục lòng tin của con, vừa hổ thẹn vì mình không có được thái độ tin Chúa như con mình.
Chúng ta cũng thường hành sử như vậy khi gặp những thử thách xảy ra cho anh chị em xung quanh, cũng như và nhất là cho chính chúng ta. Phản ứng tự nhiên trước những thử thách, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phương thế, những tài năng riêng của con người mà quên đi phần đóng góp tích cực và quan trọng của Chúa.
Bài Phúc âm của Chúa nhật XIX Mùa thường niên năm A, trích từ Phúc âm thánh Mattheu hôm nay trình bày cho chúng ta một toàn cảnh thật ý nghĩa, ở đây chúng ta thấy hai khía cạnh: trước hết, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, xem ra như Ngài xa cách không còn quan tâm gì đến những nguy hiểm mà các Tông đồ đang gặp sóng to gió lớn trên mặt biển hồ Galilêa. Mặt hồ của toàn cảnh là cảnh tượng các Tông đồ đang trên thuyền và phải tận lực chiến đấu với những nguy hiểm. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Hai khía cạnh này xem ra như không có liên hệ gì với nhau, Thiên Chúa xem ra như hoàn toàn xa lạ, vắng mặt khỏi hoàn cảnh sống của con người, xa lạ, lạnh lùng với những thử thách của con người đang gặp phải.Là môn đệ của Chúa Giêsu, các ngài cũng có thể bị cám dỗ có những suy nghĩ như vậy, Chúa ở đâu mà tôi không nhìn thấy Ngài đâu cả? Nhưng thật sự không phải như vậy, Thiên Chúa không vắng mặt, không rời xa con người. Các Tông đồ đang gặp sóng to gió lớn là vì tuân lệnh Chúa Giêsu mà chèo thuyền vượt biển cực khổ giữa ban đêm để qua bên kia bờ. Ban đêm thường có sóng to gió lớn, các Tông đồ biết như thế, vì là những ngư phủ trong vùng.
Thông thường các ngài có thể lý luận với Chúa để ở lại với Chúa chờ qua ngày hôm sau đi lại ít nguy hiểm hơn, và cũng để được nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc vì bận rộn lo cho hơn năm ngàn người ăn uống khi nghe Chúa giảng dạy. Thế nhưng lý do gì mà Chúa ra lệnh cho các Tông đồ lên thuyền chèo qua bên kia bờ biển hồ vào giữa đêm khuya như vậy?Các Tông đồ gặp thử thách nguy hiểm kia là vì tuân lệnh Chúa, và chúng ta thấy Chúa không để cho những người vâng phục Chúa bị thiệt hại. Phải bị thử thách và chịu thử thách nhưng không bị đè bẹp, Chúa để cho các Tông đồ phải chiến đấu với thử thách trong một thời gian mãi đến ba giờ sáng rồi Chúa mới đến với các ngài. Sau biến cố, sau kinh nghiệm và có thể nói được là hai kinh nghiệm, tập thể các Tông đồ đi trên thuyền và Phêrô muốn đi trên mặt nước đang nổi sóng. Sau kinh nghiệm đó, Chúa Giêsu rút ra bài học cho các ông: “Tại sao các con kém tin thế?”, tại sao không tin rằng Chúa hằng hiện diện bên cạnh, Ngài không xa vắng, Ngài không ngủ quên hay bỏ mặc những kẻ Ngài đã chọn.Đó là bài học cho các Tông đồ sau này khi lãnh nhận sứ mạng chính thức sau khi Chúa Phục sinh: “Thầy đã được mọi quyền năng trên trời dưới đất, chúng con hãy ra đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân”. Đây không phải lời hứa suông, mà là một bảo đảm mạnh hơn mọi thứ bảo đảm do con người đặt ra trong xã hội hôm nay. Những bảo hiểm của con người sẽ vô ích nếu như không có sự bảo đảm của Thiên Chúa, dù con người không chấp nhận hay không biết đến sự bảo đảm này, hơn ai hết, sau khi đã trải qua kinh nghiệm trên biển hồ nổi sóng, các Tông đồ sẽ xác tín hơn sau này cho sứ mạng làm chứng cho Chúa: “Không gì có thể tách rời tôi ra khỏi tình yêu Chúa”.
Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa. Chúng ta hãy nhìn lại xem mình đã có kinh nghiệm sống như bài học của Phúc âm hôm nay Chúa đã dạy các Tông đồ chưa? Cùng với các ngài vâng lệnh Chúa vào thuyền, và sau cơn giống tố chúng ta hãy tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”, Chúa sống với chúng ta thì chúng ta còn lo sợ chi nữa.
-------------------------------
Không biết có ai ở đây đã có lần nào đi biển không, nhưng có lẽ, cũng hơn một lần chúng ta: TN 19-A5
Không biết có ai ở đây đã có lần nào đi biển không, nhưng có lẽ, cũng hơn một lần chúng ta nghe người khác kể lại về những người đi vượt biên bằng đường thủy, thật là sợ hãi. Quả thực, tâm trạng của hầu hết những người đã đi biển trong những điều kiện eo hẹp và thiếu thốn, thường là rất lo sợ, và hầu như không còn đủ can đảm để đi biển thêm lần nữa. Lý do của tâm trạng này cũng dễ hiểu thôi, là khi đã ra tới ngoài khơi, giữa biển cả mênh mông, con người cảm thấy mình quả thực là nhỏ bé và không nghĩa lý gì trước thiên nhiên bao la. Mạng sống của con người trước biển cả thật là mong manh chẳng khác gì chuông treo chỉ mành. Sự mong manh đó lại càng trở nên mong manh hơn nếu lúc đó lại gặp những cơn cuồng phong bão táp. Trong những trường hợp như thế, có lẽ chỉ còn nhắm mắt lại để phó thác cho số mệnh mà thôi.
Bài Tin mừng hôm nay cũng tường thuật lại một cuộc đi biển, tuy cuộc đi biển này không giống như cuộc đi biển của những người vượt biên bằng đường thủy, bởi vì những người đi biển này là những người sống với nghề chái lưới, họ đã đi biển rất nhiều lần, do đó, cuộc ra đi của họ chắc chắn đã được chuẩn bị đầy đủ cả về những phương tiện vật chất cũng như tinh thần.
Tuy nhiên, những người đi biển ở đây là các Tông đồ, vẫn sợ. Các ông sợ không những vì cuồng phong bỗng nổi lên, biển động mạnh, mà các ông còn sợ vì các ông thấy một bóng người đi trên biển, đang tiến về phía thuyền của các ông. Làm sao một người lại đi trên mặt nước được? Phải chăng là thấy ma? Trước những mối lo sợ đó, Chúa Giêsu đã phải trấn an các ông ngay rằng: “Thầy đây, đừng sợ”.
Cuộc đời của chúng ta thường được sánh ví với một cuộc đi biển. Ngày bắt đầu là ngày chào đời. Ngày tới đích là ngày giã từ cuộc sống. Trần gian là đại dương dậy sóng. Con thuyền hay con tàu là bản thân mình. Sự sánh ví này thật thích hợp. Bởi vì có cuộc sống nào của ai mà lại không gặp những nghịch cảnh và khó khăn đó, chúng ta phải chèo chống. Nhưng có những lúc, dường như sức chèo chống của chúng ta vơi cạn đi, rồi những bóng ma của cuộc đời là những lầm lỡ, những thất bại cứ lảng vảng trong tâm tư của chúng ta. Chính những lúc đó là những lúc chúng ta hoảng sợ. Chính những lúc đó là những lúc chúng ta cần nghe được lời trấn an của Chúa: “Thầy đây, đừng sợ”.
“Thầy đây, đừng sợ” không có nghĩa Thầy đây mà chứ không phải ma đâu mà sợ, nhưng có nghĩa là có Thầy đây rồi, đừng sợ gì cả. Phải, đúng như thế, nếu đã có Chúa ở bên cạnh rồi thì đâu còn phải sợ hãi gì nữa. Sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của chúng ta sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an, cho dù cuộc đời của chúng ta có đang trải qua những cơn phong ba bão táp..
Lúc này cuộc sống của chúng ta đang phẳng lặng hay đang gặp phong ba bão táp? Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng chính là chúng ta đã có Chúa hiện diện trong cuộc sống của mình chưa? Về phía Chúa thì Ngài lúc nào cũng có mặt ở bên cạnh chúng ta. Còn về phía chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa hay không? Trong cuộc sống, rất nhiều khi người Kitô hữu cảm thấy như Thiên Chúa bỏ mặc cho bão táp xô đẩy. Thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho ta lý trí, tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sóng gió cuộc đời. Có thể đến khi cập bến chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xảy ra và những gì Ngài sẽ làm.
Ý thức và sống được như thế, đòi hỏi chúng ta phải có một lòng tin vững chắc, một sự xác tín rất cao. Bởi vì ai trong chúng ta lại không có những mối lo, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống ngày hôm nay: lo ăn, lo mặc, lo cho hiện tại, lo cho tương lai, lo cho chính mình, lo cho con cháu, và đôi khi quá khứ đã qua rồi mà vẫn làm chúng ta phải lo âu, sợ hãi. Lo âu sợ hãi là điều tự nhiên và cũng tốt thôi, nhưng chúng ta phải biết tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Đừng vì lý do gì hay hoàn cảnh nào mà mất niềm tin hay giảm bớt sự cậy trông và phó thác vào Chúa.
Vì thế, Lời Chúa hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta: giữa những phong ba thử thách của cuộc đời, chúng ta hãy luôn tin tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó chúng ta an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.
-------------------------------
Đọc lại bài Cựu ước trong toàn bộ câu chuyện của nó, ta sẽ thấy rằng: sau cuộc thách đấu và: TN 19-A6
Đọc lại bài Cựu ước trong toàn bộ câu chuyện của nó, ta sẽ thấy rằng: sau cuộc thách đấu và chiến thắng vẻ vang 400 tiên tri của thần Baal, tiên tri Êlia đã bị bà hoàng Izabel đe dọa thanh toán nên ông đã phải chạy trốn vào trong hoang địa. Vì bảo vệ cho quyền lợi của Thiên Chúa mà ông lâm cảnh bi đát ấy. Và trong cảnh bi đát này, cộng thêm những gian khổ của cuộc chạy trốn, tiên tri Êlia cảm thấy chán chường hầu như tuyệt vọng đến độ ông chỉ muốn chết. Tình cảnh bi đát, những gian khổ, những nỗi chán chường và tuyệt vọng ấy đã như những cơn giông bão vùi dập cuộc đời của vị tiên tri.
Liên kết bài Cựu ước với bài Tin Mừng, ta thấy nổi bật lên một chủ đề chung. Đó là: có những cơn cuồng phong dữ dội trong đời sống mỗi người nói riêng và trong cộng đoàn Hội thánh nói chung. Tuy nhiên nếu suy nghĩ kỹ hơn, ta lại thấy điểm nhấn của Lời Chúa hôm nay không phải ở đó nhưng là ở SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA giữa những phong ba bão táp trong đời sống của mỗi người và trong đời sống của Hội thánh.
Thật vậy, chính trong lúc mỏi mệt và chán chường, tiên tri Êlia đã khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở bên mình. Chính trong lúc các Tông đồ đang phải chống chọi với giông bão, Chúa Giêsu đã đến và ở giữa các ông. Sự hiện diện ấy thật nhẹ nhàng như cơn gió hiu hiu, nhưng cũng lại mãnh liệt đến độ làm biển cả phải vâng phục.
Chỉ có điều là sự hiện diện của Thiên Chúa không dễ nhận biết. Thiên Chúa hiện đến với tiên tri Êlia không qua những cách thức thường thấy trong Cựu ước. Người không hiện đến qua cuồng phong bão tố hay trong cơn động đất kinh hoàng. Người cũng không hiện ra trong đám lửa cháy rực. Nhưng Người hiện đến trong cơn gió hiu hiu, một cách thức hiện diện khá mới mẻ trong Cựu ước. Chúa Giêsu cũng đến với các Tông đồ không theo cách bình thường, nhưng Người đi trên biển khi trời đã về đêm để đến với các ông làm cho các ông tưởng Người là ma.
Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đời sống của Hội thánh cũng như trong cuộc đời riêng của mỗi người, nhất là trong những lúc sóng gió. Thế nhưng, nhận biết sự hiện diện ấy lại không phải là điều dễ dàng. Vì khó nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nên ta dễ có cảm tưởng Người bỏ rơi ta khi đời ta gặp phong ba bão tố, khi ta bị nhận chìm trong đau khổ. Tâm trạng này cũng là điều bình thường, bởi ngay cả Chúa Giêsu cũng đã có tâm trạng ấy khi Người ở trong vườn Cây Dầu và ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha đành bỏ con”.
Vì thế, có thể coi Lời Chúa hôm nay như một sự điều chỉnh lại cái nhìn của ta về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình. Người vẫn luôn ở bên ta, ở trong ta mọi lúc, nhất là những khi đời ta gặp phong ba bão tố. Lời Chúa cũng củng cố niềm tin của ta nơi Người, tin rằng: có Người đời ta sẽ bình yên.
-------------------------------
Nếu hiểu theo mặt chữ thì câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay rất ít sự thích đáng với chúng: TN 19-A7
Nếu hiểu theo mặt chữ thì câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay rất ít sự thích đáng với chúng ta. Nhưng xem ra thánh Matthêu muốn nói theo ý nghĩa tượng trưng. Con thuyền tiêu biểu cho Giáo Hội, gió và sóng có nghĩa là sự bách hại sẽ chụp xuống trên các Kitô hữu tiên khởi. Đức Giêsu không ở với họ một cách thể lý; Người ở trên thiên đàng cầu nguyện cùng Chúa Cha. Tuy nhiên, đến giờ họ cần Người sẽ xuất hiện ở giữa họ, để làm cho nỗi sợ hãi tan biến và đưa họ đến sự bình an. Hiểu như thế, câu chuyện Tin Mừng quả là thích hợp với chúng ta.
Một số người nghĩ rằng nếu bạn có đủ đức tin, đời sống sẽ như một con thuyền êm ả. Nhưng không phải thế. Đức tin không che chở chúng ta khỏi những cú đánh của cuộc đời và của cái chết.
Chúng ta thấy điều ấy trong trường hợp của ngôn sứ lớn Êlia (bài đọc 1). Chắc chắn ngôn sứ là người của đức tin. Nhưng vì ông chống lại việc thờ thần tượng nên hoàng hậu I-de-ven muốn giết ông. Vì thế ông trốn vào hoang địa và trú ẩn trong một hang động. Là một người bị săn đuổi với cõi lòng tan nát, ông chỉ muốn chết. Tuy nhiên trong hang động, ông cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa. Và kinh nghiệm này ban thêm sức mạnh cho ông để ông tiếp tục cuộc hành trình.
Chúng ta thấy cùng một sự việc trong đời sống của các Kitô hữu tiên khởi. Họ cũng là những người của Đức tin. Tuy nhiên khi họ gặp sự bách hại, họ nghĩ rằng Chúa đã bỏ rơi họ và đức tin của họ trở nên suy yếu. Tuy nhiên, họ đã khám phá rằng dù Chúa không ở với họ một cách thể lý, Người vẫn ở với họ cách thiêng liêng, và luôn giúp đỡ họ. Vì thế đức tin của họ lại hồi sinh và họ có thể đối diện với thử thách và nguy hiểm.
Ví dụ của Phêrô đặc biệt làm sáng tỏ điều đó. Câu chuyện của Phêrô chìm xuống nước và được Đức Giêsu cứu thoát cách lạ lùng. Tuy nhiên nó thể hiện một điều gì đó thật sự đã xảy ra với Phêrô. Nó nhắc đến sự thất bại của ông trong cuộc khổ nạn của Chúa và sự sửa chữa lỗi lầm của ông sau khi Chúa sống lại.
Lúc đầu, ông có đức tin tràn đầy khi ông nhảy xuống nước. Chúng ta nhớ lại những lời can đảm của ông trong bữa tiệc ly: “Lạy Chúa, nếu cần, con sẵn sàng chết với Chúa”. Nhưng rồi sự hồ nghi và hèn nhát đến và ông bắt đầu chìm, vì thế Đức Giêsu phải cứu ông. Phêrô tiêu biểu cho một môn đệ điển hình của thời đại hôm nay bị giằng xé giữa đức tin và sự hoài nghi.
Điều an ủi chúng ta là thấy rằng có lúc các tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên đã yếu ớt và sợ hãi. Nói cách khác, họ cũng giống chúng ta. Lúc bắt đầu cuộc phiêu lưu, chúng ta có thể xác tín rằng mình có đầy đủ đức tin. Tuy nhiên khi cuộc hành trình kéo dài, và những khó khăn nổi lên, chúng ta khám phá rằng mình có quá ít đức tin. Đó chính là lúc chúng ta phải quay về Chúa để kêu cầu giúp đỡ. Chính trong lúc yếu ớt, chúng ta mới cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không bao giờ cảm thấy mình sút kém thì chúng ta cũng không bao giờ biết cầu cứu đến quyền năng của Thiên Chúa.
Đức tin không tránh cho chúng ta khỏi những thử tháh và đau khổ. Điềm màu đức tin làm được là cho chúng ta sức mạnh để đối đầu. Người có đức tin sẽ có một suối nguồn sức mạnh và cảm hứng, đặc biệt khi đau khổ tấn công. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin mà chính đức tin gìn giữ chúng ta. “Một người với một hạt giống đức tin vào Thiên Chúa không bao giờ đánh mất niềm hy vọng”.
Mặt khác, người không có đức tin, không biết dựa vào đâu khi bị phiền muộn và bất an tấn công. Người vấy hoàn toàn cô độc, không có sự an ủi hoặc nguồn cảm hứng nào.
Câu chuyện của Tin Mừng cho chúng ta thấy quyền năng của đức tin. Nó cho chúng ta thấy Đức Giêsu lúc nào cũng hành động vì dân Người, khi ngọn gió thổi ngược và khi họ ở trong cả nguy hiểm, bị cơn bão cuộc đời lấn ướt làm chìm đắm. Đối với những người có đức tin, Đức Giêsu không phải là một bóng ma của quá khứ. Người là con Thiên Chúa hiện diện với chúng ta và ân sủng của Người nâng đỡ chúng ta khi sự việc trở nên quá sức chúng ta.
-------------------------------
Nếu hiểu theo nghĩa đen, câu chuyện ông Phêrô định đi bộ trên mặt nước có thể khôn thích: TN 19-A8
Nếu hiểu theo nghĩa đen, câu chuyện ông Phêrô định đi bộ trên mặt nước có thể khôn thích hợp với chúng ta. Nhưng hiểu theo nghĩa tượng trưng, sẽ có sự thích hợp lớn đối với chúng ta. Đi bộ trên mặt nước là một biểu tượng của điều không thế có, nhiều hoàn cảnh trong đó chúng ta cảm thấy yếu ớt và bất lực.
Ở lúc này hay lúc khác, mỗi môn đệ của Đức Giêsu phải đối mặt với những hoàn cảnh thử thác, những quyết định khó khăn, những nỗi lo buồn to lớn, những cám dỗ mạnh mẻ. Trong những lúc ấy, chúng ta như thể được mời gọi “đi bộ trên mặt nước”. Sau đây là một vài ví dụ về những sự việc mà các Kitô hữu hiện tại có thể phải đương đầu.
Mary là một cô gái độc thân và đã mang thai. Cô đang ở giữa con bão tố vì ngay khi tin này được tiết lộ thì cha mẹ cô sẽ phản đối và láng giềng của cô sẽ đem câu chuyện này ra đàm tiếu. Vì thế cô tìm được một giải pháp: cô sẽ âm thầm phá thai. Không một ai sẽ hay biết việc này. Những rồi cô nghe thấy tiếng nói hiền từ của Đức Kitô nói với cô rằng phá thai là sai. Liệu cô có can đảm để nghe theo tiếng nói nhân từ ấy không ?
Eileen là một bà mẹ trẻ có ba đứa con . Thình lình chồng cô bỏ cô đi theo một phụ nữ khác. Cô cảm thấy tổn thương và bị phản bội, cô độc và giận giữ. Thế rồi cô nghe được tiếng nói của Đức Kitô mời gọi cô tín thác. Liệu cô có can đảm đi trên mặt biển đau buồn ấy và chỉ còn tin cậy vào lời Đức Kitô không?
Chúng ta có thể nhân lên nhiều ví dụ khác, nhưng tôi nghĩ đã làm sáng tỏ điều quan trọng. Ở lúc này hay lúc khác, mỗi người đều phải đương đầu với những hoàn cảnh đầy thử thách. Trong những lúc ấy, Chúa như đang yêu cầu chúng ta phải “đi bộ trên mặt nước” nhưng đồng thời, Người cũng dang tay ra để nâng đỡ chúng ta.
Trong những lúc đó, chúng ta có thể theo gương can đảm của Phêrô. Phêrô tiêu biểu cho người môn đệ điển hình bị giằng xé giữa đức tin và hoài nghi. Ông bắt đầu vâng lời Đức Giêsu, nhưng ngay khi ông cảm thấy sức mạnh của gió tức là sự bách hại thì đức tin ông tiêu tan. Như thế, lời quở trách của Đức Giêsu “Người đâu mà kém tin vậy ! Sau lại hoài nghi ?” cũng nhắm đến chúng ta. Giống như Phêrô, chúng ta thường bắt đầu một cách can đảm nhưng rồi lại mất hết can đảm khi mọi việc trở nên khó khăn.
Chúng ta phải chiến đấu không chỉ với cuộc chiến đấu bên ngoài (chống lại các sức mạnh tự nhiên), mà còn phải với cuộc chiến đấu bên trong,(chống lại chính mình). Trong một mức độ nào đó, toàn bộ đời sống của một Kitô hữu tương tự như một cuộc “đi bộ trên mặt nước”, tới một mức độ nó bao hàm một cuộc hành trình trong đức tin, có nghĩa là trong cậy hoàn toàn vào lời của Đức Kitô. Nhiều lần chúng ta được yêu cầu dừng lại bên ngoài lời Chúa. Nhưng Đức Kitô không phải là một bóng ma của quá khứ. Người là con Thiên Chúa sống giữa chúng ta.
Một ngày kia, chúng ta sẽ phải rời bỏ “con thuyền” trái đất đã đưa chúng ta đi qua mặt nước bão tố của thế giới này, và bắt đầu đi qua mặt nước của sự chết. Nếu vào những lúc khó khăn trong suốt cuộc đời chúng ta đã chọn lựa Đức Kitô, thì vào lúc chết chúng ta tự nhiên níu chặt lấy bàn tay của Người, để Người có thể lôi chúng ta lên đến bến bờ vĩnh cửu.
-------------------------------
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Nỗi sợ hãi của các môn đệ cô đơn giữa cơn bão táp.
Đoạn văn tường thuật việc Đức Giêsu đi trên mặt nước, ta đọc thấy cả trong Mt, Mc (6,45-52: TN 19-A9
Đoạn văn tường thuật việc Đức Giêsu đi trên mặt nước, ta đọc thấy cả trong Mt, Mc (6,45-52 và Ga (6,16-21). Cả ba tác giả đều đặt biến cố này sau phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Tường thuật của Matthêô gồm 4 phần nối kết chặt chẽ với nhau:
1. Tương quan với việc hoá bánh ra nhiều;
2. Việc Đức Giêsu rút lui lên núi;
3. Việc Đức Giêsu đi trên mặt nước;
4. Việc Phêrô bước đi trên mặt nước và tuyên xưng đức tin.
1. Tương quan với phép lạ hoá bánh J.Potin coi như tương quan thần học. Trong sa mạc Sinai, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna và đã dẫn dắt họ đi qua Biển Đỏ. Cũng vậy, Đức Giêsu nuôi dân chúng và bước đi trên biển để dẫn dắt các môn đệ tới bến bờ bên kia.
("Jésus, l'histoire vraie”, Centurion 1994, trang 257).
Thánh Matthêô thuật lại: “Ngay sau khi đã nuôi dân trong sa mạc, Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo qua bờ bên kia trước”. Tại sao phải lên thuyền vội vã và bị bắt buộc như vậy? Cả hai tác giả Matthêô và Maccô đều không giải đáp câu hỏi này. Trái lại, Gioan cho ta biết: dân chúng quá cuồng nhiệt về phép lạ hoá bánh, nên muốn ép buộc Ngài làm vua (Ga 6,15). Phải chăng Đức Giêsu muốn ngừa môn đệ khỏi ô nhiễm bởi cám dỗ về một thành công hão huyền.
2. Sau khi đã giải tán đám đông, Đức Giêsu rút lui lên núi một mình để cầu nguyện. Núi là khung cảnh của bài giảng Bát Phúc, và cũng là nơi diễn ra biến cố Hiển Dung (17,1) và cuối cùng là nơi hẹn của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ ở Galilê (28,16). Đọc qua Thánh Kinh, ta thấy núi là một địa điểm thần học hơn là một địa điểm địa lý; núi là nơi được chọn để Thiên Chúa tỏ mình ra và để ta gặp gỡ Thiên Chúa (xem bài đọc I Chúa nhật này), là nơi ưu tiên dành cho việc cầu nguyện.
G.Gaide giải thích: Đức Giêsu hướng về Cha của Người. Dự kiến của quần chúng là một thử thách đối với Đức Giêsu, một cơn cám dỗ lôi kéo về thành công dễ dãi - cơn cám dỗ số hai (Mt 4,5-7) - là muốn lôi kéo quần chúng theo mình bằng những hành động kỳ diệu, trong khi Chúa Cha muốn cho Người lôi kéo mọi người lên với Người bằng việc chịu treo lên thập giá (rồi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Ga 12,32). Trong cơn cám dỗ này, Đức Giêsu hướng về Đấng đã sai phái mình, để hiểu rõ ý nghĩa sứ mạng của mình ("Assemblee du Seigneur”, trang 25-26).
“Chiều đến” Đức Giêsu ở đó, múc lấy sức mạnh trong cuộc đàm thoại với Cha Người, sức mạnh để đẩy lui cơn cám dỗ, dụ dỗ Người chiều theo ý kiến cứu chuộc bằng cách thức loài người. Người “cô đơn” giống như vào một buổi tối hấp hối sau này, trong khi các môn đệ của Chúa bất lực, thiếp ngủ vì buồn sầu.
3. Đức Giêsu bước đi trên mặt biển. Matthêô thuật tiếp: “Thuyền bị sóng dập vùi bởi vì gió ngược”. Trong khi Đức Giêsu ở cách xa họ để cầu nguyện, thì con thuyền của các môn đệ - tượng trưng cho Hội Thánh - phải đương đầu với đêm tối bão táp.
“Vào canh tư đêm tối, Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển”. Cuộc đi bộ trên biển trong đêm tối không chỉ biểu dương một phép lạ suông, xét theo cách diễn tả của tác giả Tin Mừng, nhưng nó hàm ngụ nhiều ý nghĩa khác:
- Biển đối với người am hiểu Thánh Kinh, tượng trưng cho quyền lực của sự ác; biển rẽ ra hai bên dưới cây gậy của Môsê, mở một con đường cho Dân Chúa đi về tự do. Thánh vịnh 77 ca ngợi: “Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Chúa”. Đi trên biển, Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng chiến thắng sự dữ, Người đến để mở cho dân của Giao ước mới lối đi từ sợ hãi qua tin yêu.
- Chính “vào lúc đêm tàn” giống như buổi bình minh của ngày Phục sinh, Đức Giêsu đến: cách nói điển hình chỉ cuộc hiển linh phục sinh (xem Ga 20). Cuộc tỏ mình này, thánh ký Tin Mừng trình bày như báo hiệu và như tiến trưng của cuộc toàn thắng phục sinh của Đức Giêsu đối với biển cả chết chóc.
- Vì “xao xuyến” nên các môn đệ không nhận ra Người. Họ sợ hãi kêu lên: “Ma kìa”. Lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ lúc đó còn hơn là một lời trấn an: “Hãy vững tin. Đừng sợ. Thầy đây mà”. Đây là một lời mạc khải: Đức Giêsu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Họ không phải sợ hãi. “Thầy đây mà ”. J.Potin đã giải thích: Đàng sau câu nói quả quyết này, các môn đệ được mời gọi cảm nghiệm câu định nghĩa mà Thiên Chúa đã phán với Môsê về chính mình, khi Người xuất hiện đột ngột với ông ở núi Sinai: Ta là Ya-vê: Đấng Tự Hữu”.
2. Tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu “Con Thiên Chúa”
4. Và cuối cùng là việc Phêrô đi trên biển, việc này cũng mang ý tượng trưng, cùng với việc tuyên xưng đức tin.
“Lạy Chúa, nếu thực là Chúa thì xin truyền cho con đi đến với Ngài trên mặt nước”.
Nơi Maccô, tường thuật chấm dứt lúc Đức Giêsu bước lên thuyền với các môn đệ và lúc đó sóng gió lắng dịu. Nơi Matthêô tường thuật còn nối dài với cảnh tượng báo trước thái độ mà Phêrô sẽ xử sự sau này: một buổi chiều kia, sau khi đã tuyên xưng lòng tin không hề lay chuyển của mình, Phêrô sẽ té nhào cách thảm hại. Ông còn cần phải gặp gỡ Đấng Phục sinh để bước qua thử thách ngày thứ sáu đau thương, mà tới được bến bờ lòng tin vào Chúa Phục sinh.
Lúc này Phêrô liều mình bước đi trên mặt nước để đến gặp Đức Giêsu, đó là một hình ảnh sống động về thân phận của người tín hữu. Bị giằng co bởi một bên là lòng tin, lòng tin đem ông đến với Chúa, và bên kia là sự nghi ngại, nghi ngại khiến ông chìm xuống nước. Ông kêu lên: Chúa ơi, cứu con với! Và Đức Giêsu giơ tay ra để cứu ông.
“Và khi đã lên thuyền, sóng gió lắng dịu”. Lúc này Phêrô đã lên thuyền với Đức Giêsu. Gió lắng dịu. Mọi người trên thuyền, con thuyền Hội Thánh, đều sấp mình để tung hô lời tuyên xưng đức tin đầu tiên mà ta thấy được trong sách Tin Mừng: “Thầy thật là Con Thiên Chúa”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Đi từ mạc khải đến nhận biết” (L.Montoubou, trong "Evangile de Matthieu”, Salvator trang 198-199).
Chính vào lúc con thuyền của các tông đồ bị bóng đêm vây kín vào canh tư đêm tối (khoảng 4 giờ sáng), lúc thuyền bị những đợt sóng lớn nhồi đập dữ dội, bị cản trở bởi gió ngược, thì chính lúc đó Đức Giêsu đến với họ, bước đi trrê mặt biển. Đó là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh, Thiên Chúa bước đi trên biển cả. Ta đọc trong Thánh vịnh 77: Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Người, không ai biết được đường lối Chúa”.
Các môn đệ ngạc nhiên, vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng vạch lối đi trên biển cả, họ nghĩ đó là một bóng ma. Họ cần đến câu nói của Chúa: Thầy đây mà! mới nhận ra Người.
Nhận ra Chúa trong khi tuyên xưng Người là Đấng nào. Thành ngữ “Ta đây” là một cách chuyển dịch câu: “Ta là Ta: Ya-vê”. Mà câu “Ta đây” nói ở giữa biển cả là câu nói, theo Matthêô, công bố thần tính. Đây là thuật ngữ mà Thiên Chúa đã tự mạc khải cho ông Môsê, rồi sau đó cho dân Israel, trong quá trình một cuộc phiêu lưu lịch sử, ở đó biển đóng một vai trò quan trọng, Thiên Chúa Ya-vê dùng để tỏ ra quyền lực vô biên của Người.
Nhưng mạc khải này đã không đi sâu vào nội tâm của các môn đệ, như thái độ của Phêrô chứng tỏ. Ông còn cần cảm nghiệm bản thân và trực tiếp sự phũ phàng của cơn bão táp, cảm nghiệm sự nguy hiểm mà ông phải đương đầu, sau đó ông mới tìm được tận thâm sâu con người ông một thái độ sẵn sàng để tin. Ông kêu lên: “Chúa ơi, xin cứu con!”. Kìa Đức Giêsu được Phêrô kêu bằng danh hiệu “Đức Chúa” (KURIOS, chuyển ngữ Hy Lạp của danh Chúa YAHVE), có nghĩa là Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa hiệu năng, Thiên Chúa cứu độ.
Giờ đây bão táp đã chấm dứt, gió đã lắng dịu, các môn đệ mới hiểu rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa”. Trước hết Người là Đấng mà họ tìm đến, bởi vì khi Người xuất hiện giữa lúc họ gặp nguy nan, Người có dáng vẻ hấp dẫn, nên đã khiến cho Phêrô kêu lên: “Xin Ngài truyền cho tôi đến với Ngài”. Lúc này, Người là Đấng mà họ phục lạy và tuyên xưng: “Thầy thật là Con Thiên Chúa”. Những người ở trong cùng một con thuyền đã có được sự đồng nhất trong đức tin, cùng có một thái độ trước Đức Giêsu và tuyên xưng cùng một đức tin.
2. Chúng ta cũng giống như các môn đệ trong thuyền. (Mgr Daloz trong cuốn “Le Règne de Dieu s'est approché” Desclée de Brouwer, trang 222).
Các môn đệ hoảng sợ khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển tiến đến với họ, và họ tưởng Người là ma. Chính họ đã hoạt động với Người để phục vụ dân chúng, thế mà giờ đây họ không nhận ra Người. Chỉ Đức Giêsu cho người khác thì dễ hơn là nhận ra Người trong giờ phút gian nan của cuộc sống của chính bản thân ta. Trong những giờ phút đó, đức tin của ta bị thử thách, đức tin với những bóng tối của nó. Lúc đó chính Chúa phải tự tìm cách tỏ cho ta biết Người. Khi ta tuyên xưng đức tin, khi ta chia sẻ hoặc giáo huấn đức tin, khi ta hoạt động rao giảng Tin Mừng, đức tin được ta coi như một của sỡ hữu yên tĩnh, một hiểu biết êm vui giúp sống và hoạt động. Nhưng những thời điểm quan trọng nhất, quyết liệt nhất của đức tin thì không êm ả chút nào: đó là những lúc ta gặp thử thách, như một tai hoạ lớn, một sự đe doạ liên quan đến mạng sống, đe doạ cho lẽ sống của ta, đe doạ những người thân nhất của ta, hoặc có thể là một hoàn cảnh hay một ý nghĩ thúc giục ta tự vấn sống để làm gì, hoặc khi công việc mà ta đang làm gặp thất bại, ta cảm thấy mình yếu đuối, bệnh tật, tội lỗi vv... Bấy giờ đức tin không còn là của sở hữu yên tĩnh nữa, ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nữa. Ta giống như các môn đệ ở trên thuyền. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu có thể gây ngộ nhận, nó khác với điều mà ta tưởng tượng hoặc ta giảng giải cho người khác. Ta không nhận ra Người nữa, giống như các môn đệ nghĩ rằng mình thấy ma...
Tuy nhiên, phải chăng những lúc này mới là giờ phút ta có được đức tin tinh tuyền hơn. Phải chăng đến gần Thiên Chúa thường làm ta mất phương hướng, chẳng là chuyện thường tình sao? Người là Đấng khác, Hoàn Toàn Khác, làm sao ta có thể nhận biết Người, nếu Người không tỏ mình cho ta? Những giờ phút ta bị lạc hướng bởi sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa, chính là những thời điểm nền tảng cho đức tin. Đó là lúc Chúa nói với trái tim ta, là lúc ta nhớ đến một trong những lời của Chúa để ta đoán biết Người ở đó: Hãy an tâm, Thầy đây mà. Đừng sợ!
-------------------------------
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Năm 1974, một nhà quí tộc Ba Lan - linh hoạt và có quan điểm thế giới chủ nghĩa - bước vào: TN 19-A10
Năm 1974, một nhà quí tộc Ba Lan - linh hoạt và có quan điểm thế giới chủ nghĩa - bước vào phòng làm việc của vị hồng y giáo chủ, tin tưởng rằng bà đã tìm được người có quan điểm gần gũi về mặt triết học. Tên bà là Thùy Minh Kha (Anna - Teresa Tymiennecka). Trong bốn năm tiếp theo đó, bà và hồng y giáo chủ đã lao vào một cuộc đối thoại triết học độc nhất vô nhị, đưa tới một ấn bản tiếng Anh rõ ràng và có sửa chữa của tác phẩm quan trọng nhất của hồng y giáo chủ, là cuốn Con Người và Hành Động.
Hãy triệu tập cho Ta những người trung hiếu (Tv 49,5)
"Hồng y giáo chủ ấy, chính là Đức Gioan Phaolô II. Bà Thùy Minh Kha đánh giá như sau về Đức Giáo Hoàng đương kim: "Sức mạnh lớn nhất ở Giáo Hoàng, sức hấp dẫn đặc biệt này, là giống như Chúa Giêsu. Nó bao hàm những gì? Ông gặp ai đó lần đầu tiên trong đời, ông cũng có thể mở ra cho người ấy cái kho báu được giấu kín của tình anh em. Bản thân Giêsu cũng không làm hơn thế được. Đó là vì sao mà người ta bị quyến rũ bởi ông. Với nụ cười của mình, thái độ tình cảm nồng ấm thật quyến rũ, Giáo Hoàng đã gởi gắm hết mình như thể người kia là anh em gần gũi nhất, người bà con thân thiết nhất. Đây không còn là vấn đề giả bộ hay thực tế nữa. Đó là bản chất.
Mọi người xung quanh ông thấy ở ông một con người nồng hậu nhất, khiêm nhường nhất. Họ không bao giờ thấy cái ý chí sắt đá ở đàng sau đó. Đó chính là Giáo Hoàng. Phong cách của ông hoàn toàn thoải mái. Những gì không thể tin nổi đang diễn ra trong đầu ông, người ta không nhìn thấy. Thái độ thông thường của ông với những người khác là mềm mỏng. Ý chí sắt đá của ông được tôi luyện với sự mềm mỏng này và sự thận trọng lớn lao. Nó không bộc lộ mình cách trực tiếp. Ở một mức độ nào đó, điều này là giả tạo. Nhưng đó là bản chất thứ hai, hoàn toàn không phải là giả tạo. Có thể là ông đã luôn luôn như thế này. Người ta nhìn những tấm ảnh của ông thời niên thiếu: Một cậu bé rất đáng yêu, rất suy tư, thậm chí hơi đa cảm.
(-) Sự kiên trì là một đặc tính chủ yếu khác. Ông không bao giờ thấy một trở ngại. Không có gì là một trở ngại cả." (Đức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Hà Nội 1997 trg 254-255)
Trên đây là lời mô tả về sức hấp dẫn đặc biệt của Đức Gioan Phaolô II. Bà Thùy Minh Kha muốn tóm tắt bằng cách nói rằng Đức Giáo Hoàng như vậy đã nên giống Chúa Giêsu. Nhưng để nhấn mạnh hơn nữa sức hấp dẫn đó, bà nói rằng gặp ai, dẫu là lần đầu tiên trong đời, Giáo Hoàng cũng có thể tỏ ra gần gũi nhất, thân thiết nhất dựa vào tình huynh đệ có sẵn nơi Giáo Hoàng, điều ấy theo bà, "bản thân Giêsu cũng không làm hơn thế được"
Lời khẳng định của bà Thùy Minh Kha liên quan tới Đức Giêsu đòi ta, một cách gián tiếp, phải định hướng đúng về ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu tỏ ra sức hấp dẫn phi thường nhưng Người không qui hướng mọi người và mọi sự xung quanh về với Người như đích điểm. Người luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa là Cha. Đó chính là hướng huấn luyện Đức Giêsu áp dụng với các môn đệ.
Trước đây (Mt 4,12) khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị bắt, Người lánh đi... Nay nghe biết ông bị giết, Người rút lui vào hoang địa (Mt 14,3-12). Chính nơi hoang địa, Đức Giêsu tỏ ra là Môsê mới của dân Thiên Chúa. Hơn nữa, Người là hiện thân của Giavê Thiên Chúa thân hành tới chăm sóc đoàn chiên như ngôn sứ Ezekien từng loan báo (chương 34)
Những người đã giao ước với Ta bằng hy lễ (Tv 49,5)
Song song với bài Tin Mừng này của Mátthêu, ta có Tin Mừng Máccô soi sáng cho thấy cách Đức Giêsu huấn luyện các môn đệ. Cả Mátthêu và Máccô đều cho thấy Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trong lúc Người giải tán dân chúng (Mt 14,2; Mc 6,45). Tại sao lại có vụ cưỡng ép này? Ta thấy các môn đệ đã tỏ ra quan tâm về nhu cầu cơm bánh của dân nên Đức Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn no. Chính các môn đệ đã dọn đồ ăn cho dân chúng. Vậy thì tại sao về cuối bữa ăn lại có sự can thiệp để chính Đức Giêsu lo việc giải tán dân chúng, còn các môn đệ buộc phải xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu cũng như trước đó của Gioan Tẩy Giả là "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 3,2; 4,17). Nước Thiên Chúa chẳng phải là lãnh thổ nhưng chính là quyền uy Thiên Chúa được nhìn nhận nơi tạo thành và Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được phái đến để thực hiện công trình đó. Giữa tạo thành, con người luôn được mời gọi tham gia Nước Thiên Chúa với tất cả tự do được ban cho mình. Theo cách đó bốn môn đệ đầu tiên đã được mời gọi, gồm hai anh em là Anrê và Simon tức Phêrô; và hai anh em nữa là Giacôbê và Gioan (Mt 4,18-22). Cả bốn người này đều từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu.
Các môn đệ được huấn luyện kỹ lưỡng. Bài huấn luyện đầu tiên theo thánh Mátthêu dành ưu tiên cho các môn đệ. Đức Giêsu như Môsê mới lên núi và khi ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy các ông về các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các ông được dạy để sống nghèo, hiền lành, nhận lấy những an ủi của Thiên Chúa ngang qua đau khổ, khao khát sống công chính, thương người, giữ tâm hồn trong suốt, xây dựng hoà bình, chịu bách hại vì sống đời công chính. Tất cả những lời Đức Giêsu dạy dân chúng, các môn đệ đều được nghe và được kèm thêm khi thầy trò sống tách biệt khỏi dân chúng.
Các môn đệ không những được Đức Giêsu dạy dỗ, họ còn được Người phái đi thực tập trong tác vụ rao giảng (Mt 10). Đề tài rao giảng sẽ là "Nước Thiên Chúa đã đến". Sự hiện diện của Thiên Chúa là điều hiện thực tới mức sự dữ như bệnh tật hoặc quỉ ám đều được khắc phục. Tin tưởng vào Thiên Chúa, các môn đệ chẳng còn gì phải sợ. Chính các ông cần nhận lấy Nước của Thiên Chúa thay thế mọi sự khác: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm thấy được." (Mt 11,38-39).
Trong bài Tin Mừng Máccô việc phái các môn đệ đi thực tập được đề cập ở chương 6(6-13) rồi được tiếp nối giữa hai trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều (Mc 6,30-44) và phép lạ Đức Giêsu đi trên mặt nước (Mc 6,45-52). Ở đây, Đức Giêsu không những dạy các môn đệ, Người còn nêu gương sáng để các ông thấy rõ thế nào là đặt ưu tiên cho Nước của Thiên Chúa.
Rất sớm trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã tỏ ra là một nhân vật hấp dẫn quần chúng. Người chữa lành bệnh nhân và trừ quỉ hữu hiệu đến nỗi, theo Máccô, cả thành như xúm lại trước cửa nơi Đức Giêsu tá túc (Mc 1,33). Thế mà sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó (Mc 1,35). Rồi khi được cho biết rằng mọi người tại Caphácnaum đang tìm Người, Đức Giêsu trả lời rằng: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (Mc 1,38).
Ai sống đời hoàn hảo, ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời (Tv 49,23)
Một sự dứt bỏ tương đương như vậy được thấy giữa hai trình thuật hoá bánh ra nhiều và đi trên mặt nước. Ta được cho biết: "Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện (Mt 14,22-23).
Các môn đệ cần phải dứt bỏ đám đông, dứt bỏ mọi ảo tưởng mà xã hội có thể tạo nên cho mình, nhờ đặt mình trước cảnh bao la của biển hồ Galilê sóng gió. Các ông cần phải noi gương Đức Giêsu là luôn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Chính từ bối cảnh cầu nguyện, Đức Giêsu đến với các ông, mang lại cho các ông ơn bình an. Tuỳ ở mức độ tin vào Đức Giêsu, ông Phêrô đi trên mặt nước để đến với Đức Giêsu. Ngược lại, giảm bới niềm tin đó, ông liền bắt đầu chìm. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu, nên các môn đệ nhìn nhận "Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa." Một lần nữa, ta thấy Đức Giêsu dùng quyền năng để qui người ta về Thiên Chúa thay vì qui về bản thân mình.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy điều gì đáng kể về sức hấp dẫn của Đức Gioan Phaolô II như bà Thuỳ Minh Kha nhận xét: Mọi người xung quanh thấy Đức Giáo Hoàng là một con ngưòi nồng hậu nhất, khiêm nhường nhất? Thái độ thông thường của Đức Giáo Hoàng là mềm mỏng? Sự kiên trì là một đặc tính chủ yếu khác? Bạn có ý kiến khác?
2. Bạn nghĩ tại sao Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước (c22)?
3. Bạn nghĩ gì về lối so sánh sức hấp dẫn của Đức Giêsu với sức hấp dẫn của Đức Gioan Phaolô II theo bà Thuỳ Minh Kha?
-------------------------------
Suy Niệm
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, sau khi đã được no nê bánh và cá, thì Ngài: TN 19-A11
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, sau khi đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia. Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng. Chỉ còn một mình Đức Giêsu, cầu nguyện. Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Đấng sai Ngài. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình. Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ. Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến. Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ: "Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị: "Nếu quả là Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy." Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc. Phêrô có thể chỉ cần nói: Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng. Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc. Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột. Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Đức Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: "Cứ đến." Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Đức Giêsu. Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng. Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi: "Đúng là Thầy rồi!" Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn. Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng tin mạnh mẽ. Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao đi với sóng, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con." Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.
"Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!" Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống.
Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua đoạn Tin Mừng trên đây, bạn có thấy Đức Giêsu là một nhà huấn luyện giỏi để cho các môn đệ trưởng thành hơn trong đức tin không? Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm đi trên mặt nước. Trong đời bạn, bạn có một kinh nghiệm kinh khủng tương tự như thế không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước. Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi. Xin cứu con khi con hầu chìm. Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã. Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
-------------------------------
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: TN 19-A12
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” - phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất...
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida...
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế ; ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
“Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra...
Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
-------------------------------
Cuộc sống người môn đệ Đức Kitô ở bất cứ thời đại nào cũng dược dệt nên bởi đức tin và sợ hãi: TN 19-A13
Cuộc sống người môn đệ Đức Kitô ở bất cứ thời đại nào cũng dược dệt nên bởi đức tin và sợ hãi, bày tỏ niềm tin trong cuộc sống hoặc tỏ ra bất tín, nghi ngờ trước những nghịch cảnh. Nhưng Thiên Chúa đã muốn sắp xếp như vậy để những thách đố cuộc đời trở thành bài trắc nghiệm cho đức tin, và để cho đức tin của người tín hữu nhờ cọ xát, va chạm với những cái không nghĩ trước và không ngờ tới mà lớn lên và đạt tới tầm vóc viên mãn. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, dù ở hoàn cảnh nào, bình an hay bão táp, bình thường hay bất bình thường, Đức Giêsu vẫn luôn có mặt trong từng biến cố cuộc sống của người tín hữu, và chính Người, đồng thời chỉ mình Người là Đấng gìn giữ đức tin và củng cố đức tin cho thêm lớn mạnh.
1. "Thấy Người đi trên mặt biển, các õng hoảng hốt"
Khi xuống thuyền qua bờ bên kia, các môn đệ thấy rõ Đức Giêsu không cùng đi với họ, mà Người còn ở lại để giải tán đám đông. Một thời gian dài trôi qua, các ông đã ra xa bờ và phải vất vả chèo chống vì thuyền ngược gió. Các ông phải tự mình giải quyết chuyến đi trong đêm tối. Còn Thầy thì đang ở xa các ông, ở một nơi nào đó trên đất liền. Các ông cũng không thắc mắc đặt vấn đề về chuyến đi qua biển, vì đây là nghề của các ông. Các ông quen rồi ! Vào gần sáng (khoảng canh tư) Đức Giêsu đến với các môn đệ đã mệt mỏi vì chèo chống .Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hót bảo nhau: "Ma dấy”.
Tại sao các môn đệ trông thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển lại hoảng hết sợ hãi?
- Các ông không tin rằng Thầy lại đến với các ông lúc này. Thầy đang ở trên đất liền, ở một nơi nào đó và đang cầu nguyện. Thầy đang ở xa các ông. Các ông không nghĩ tới và cũng không mong chờ Thầy đến. Cho nên thấy Người, các ông không nhận ra Người, và các ông hoảng hết. Hai môn đệ trên đường về Em-mau cũng không hề hy vọng gặp lại Thầy, vì Thầy đã chết nằm trong mồ. Cho nên khi đức Giêsu phục sinh đồng hành với các ông, cả gần một một ngày trời, các ông vẫn không nhận ra Người. Các môn đệ ở đây chưa đủ đức tin để chờ mong Chúa đến, và để có thể nhận ra Chúa có mặt trong bất cứ hoàn cảnh nào.
- Các môn đệ không tin rằng Thầy lại có đủ quyền phép để đi trên mặt biển và như vậy chỉ có thể là ma quái ! Khi đi trên mặt biển đến với các môn đệ, Đức Giêsu muốn tỏ cho các ông thấy Người là Đức Chúa: có quyền năng làm chủ các quái vật hung dữ của biển cả, và quyền năng khắc phục mọi thế lực chống đối. Nhưng lúc này rõ ràng các môn đệ chưa đủ đức tin để nhận ra, mà phải đợi sau khi đức Giêsu từ cõi chết sống lại và nhận lãnh tràn đầy Thánh Thần, các ông mới nhận ra và tuyên xưng Thầy là Đức Chúa và là Đấng Kitô (x Cv 2,36)
2. "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài"
Khi thấy các môn đệ hoảng sợ vì đức tin yếu kém, Đức Giêsu dùng lời Người để củng cố đức tin và trấn tĩnh các ông: "Cứ yên tôm, chính Thầy đây, đừng sợ !" Lời Chúa đã tác động trên các môn đệ, và các ông đã lấy lại được niềm tin. Được Thầy khuyến khích, "ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu”.
Hành trình của ông Phêrô ở đây là hành trình đức tin. Đức tin có đối tượng rõ rệt là đức Giêsu, nhằm trực tiếp Đức Giêsu. Tin là đến với đức Giêsu. Nhưng làm sao có thể đến với đức Giêsu nếu không phải là ân huệ Người ban cho: nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” Và ân huệ đức tin ông Phêrô nhận được vượt quá mọi khả năng thông thường và mọi tính toán tự nhiên của phàm nhân. Ông đã bước xuống nước một cách táo bạo và liều lĩnh. Táo bạo vì ông chưa hề bao giờ có một hành vi như vậy; ông là dân chài chuyên nghiệp kia mà? Liều lĩnh vì ông Phêrô đã dám đặt mạng sống trong tay Đức Giêsu và hoàn toàn phó thác cho Người. Tin ở đây là “đi trên mặt nước và đến với Đức Giêsu ".
Hơn nữa, đức tin của ông Phêrô không chỉ thể hiện khỉ ông đi trên mặt nước và đến với đức Giêsu, mà còn tỏ ra hiệu quả ngay khi ông bắt đầu chìm xuống nước. “Thưa Ngài, xin cứu con với " Tiếng kêu của ông Phêrô là tiếng kêu của đức tin. Tiếng kêu vắn tắt này vừa tự tố cáo sự bất lực hoàn toàn của mình và từ chối mọi cậy dựa tự nhiên, vừa hướng thẳng trực tiếp vào Đức Giêsu, vắn tắt nhưng đầy đủ. Tin ở đây cũng chính là từ chối bản thân trọn vẹn, để hoàn toàn thuộc về Đức Giêsu.
3. Những kẻ ở trong thuyền bái tạy Người và nói: "Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa"
Những kẻ ở trong thuyền không chỉ là các môn đệ tại chỗ lúc xảy ra sự kiện, mà còn là cộng đoàn các tín hữu mà Thánh Mát-thêu có liên hệ. Sau khi đức Giêsu từ cõi chết sống lại, đức tin của cộng đoàn tín hữu trong cùng một "con thuyền Hội Thánh” đã nhận những lời tuyên xưng ở đây làm của mình, với đầy đủ ý nghĩa và nội dung sâu xa và đích thật: "Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa". Khi tuyên xưng mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, là Đức Chúa và là Cứu Chúa của mình, cộng đoàn tín hữu đã đạt tới tột đỉnh của đức tin là sự sống muôn đời (x Ga 3,16 ; 1Ga 5,10-12 )
Các Kitô hữu hôm nay đã được đón nhận trọn vẹn đức tin tông truyền của cộng đoàn Hội Thánh qua hai mươi thế kỷ. Là những con người có tự do và ý thức, các tín hữu ở mỗi thời đại, đều phải khám phá kho làng đức tin đã được truyền lại và đi tại hành trình đức tin của cộng đoàn, mà đón nhận cho riêng mình.
Hành trình đức tin của Kitô hữu có khởi điểm và cùng đích là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã đến trong xác phàm, "là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,2)
Công việc cần thiết và chính yếu của lữ khách trên hành trình đức tin là khám phá và đón nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng không chỉ là khởi đầu và tận cùng của lòng tin, mà còn là con đường của đức tin. Người luôn có mặt và hoạt động nơi các tín hữu, trong công việc làm và trong mọi tương quan với tha nhân cũng như với toàn thể vạn vật hoàn vũ. Mọi sự xảy ra, kể cả những sự kiện vượt quá giới hạn con người, hoặc ra ngoài định luật tự nhiên, không thể gán cho bất cứ quyền lực ma quái" nào, mà tất cả phải qui về Chúa Giêsu Kitô, Đấng "đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất" (Mt 28,l8), Đấng đã từng "ngăn đe gió và biển và biển liền lặng như tờ (x Mt 8.26.).
Nhưng làm sao có thể khám phá và nhận diện Chúa Giêsu trong cuộc sống đức tin, vốn không thiếu thử thách và nghịch cảnh như con thuyền đi ngược gió trong đêm tối? Lời Chúa sẽ hướng dẫn người tín hữu trong từng bước đi giữa đêm tối trần gian: “ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 1l8/ 119, l05)
Lời Chúa đem lại bình an vững tâm giữa những xao xuyến cuộc đời? “ Cứ yên tâm, chinh Thầy đây, đừng sợ".
Lời Chúa an ủi khích Lc và giúp ta can đảm tiếp bước như đi trên mặt nước: “cứ đến”
Lời Chúa nhắc nhở soi sáng cho ta thấy những yếu kém và mời gọi lên không ngừng: “Người đâu mà kém tin vậy . Sao lại hoài nghi?"
" Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay"
Đức Giêsu là khởi điểm và cùng đích của đức tin, là con đường đức tin và còn là nội dung đức tin. Tin vào Chúa Giêsu Kitô là nên một với Người, là gắn bó với Người như cành nho với cây nho, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Lúc đó. Chúa Giêsu không chỉ ban bình an cho chúng ta (xGa 14,27) mà hơn nữa chính Người là bình an của chúng ta (Ep 2,14). Điều này vẫn tiếp tục xảy ra khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. "
-------------------------------
Một linh mục đang nghĩ hè với người em và gia đình ở Illiois. Một đêm nóng nực và oi ả, họ: TN 19-A14
Một linh mục đang nghĩ hè với người em và gia đình ở Illiois. Một đêm nóng nực và oi ả, họ quyết định đi bơi ở hồ gần bên. Một ít nhóm người khác cũng đi bơi như vậy, trong số họ có mấy thanh niên đã uống quá nhiều bia. Linh mục và những người thân thuộc đang hưởng một thời gian vui thích thì bỗng nghe tiếng hét xé tan bầu không khí: “Cứu tôi ! Cứu tôi với !”.
Một trong những người uống nhiều bia đã lội ra chỗ nước dâng lên tới cổ, phủ cả cằm và miệng. Các bạn anh ta ở trên bờ la lên: “Lối này, Ernie, lối này !” – Nhưng Ernie bối rối và kinh hòang nên la lớn: “Cứu tôi, cứu tôi với”. Linh mục bơi ra tới gần để túm lấy tay Ernie, nhưng chưa đủ gần để Ernie nắm chặt. “Ernie, đi theo lối này”, Linh mục vừa nói vừa lôi Ernie tới chỗ nước cạn.
Chúng ta vừa nghe đọc về thánh Phêrô, ông nghĩ rằng mình sắp bị chết đuối và kêu cầu Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin cứu con với”. Trong cả hai câu chuyện đều có một điểm mà tôi muốn nhấn mạnh, là cả Thánh Phêrô và Ernie kêu xin giúp đỡ chỉ với vài lời thôi. Lời kêu xin của họ ngắn, qui vào một điểm. Thật là thú vị khi chú ý xem bao nhiêu người xin Chúa Giêsu trong vài lời. Điều đó gợi ý cho chúng ta biết cách đến gần Chúa Giêsu.
Người ta cầu xin Chúa Giêsu thế nào ? Chúa nhật trước, chúng ta đã nghe các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: đám dông dân chúng không còn gì ăn. Chúa nhật tới, chúng ta sẽ nghe bà mẹ của đứa con bị quỉ ám kêu xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !”. Hôm nay chúng ta nghe thánh Phêrô kêu xin: “Lạy Thầy, xin cứu con !” – “Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi !” là lời cầu xin của người cha mà con ông bị kinh phong (Mt 17,14). Ngay cả khi người ta cầu xin bằng một câu hỏi bày tỏ vắn tắt: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời dời ?”. Người thanh niên giàu có đã hỏi Chúa như vậy (Mc 10,17). Bạn hãy nhớ lời cầu xin vắn tắt của người mù: “Lạy thầy, xin cho tôi được trông thấy” (Mc 11,51). Kinh lạy Cha cũng gói ghém một số lời cấu vắn tắt: “ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.... Xin cho chúng con lương thực.... xin tha tội chúng con!”
Chúng ta muốn cầu nguyện theo mẫu mực những lời cầu xin vắn tắt mà người ta đã thưa cùng Chúa Giêsu, không phải là sao nhãng những kinh nguyện chính thức của gia đình Chúa, trong vì chúng ta thường không có thời gian hay nghị lực tinh thần để thực hiện lời cầu nguyện dài dòng, và bởi vì chúng ta có thể cầu nguyện vắn tắt bất cứ lúc nào và ở đâu !
Ngay tại bàn ăn. Thay vì kinh quen đọc trứơc bữa ăn, bạn hãy thưa một cách đơn giản: “Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì thực phẩm này”. Khi bạn ra khỏi nhà xe: “Lạy Chúa, xin cho con cuộc hành trình bình an”. Sau sự chết hụt trên xa lộ: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã cứu con”. Có người khuyên: “Nên đếm đến 10 lần trước khi bạn nói lời giận dữ”. Nhưng còn ý kiến tốt hơn, chỉ bằng nửa tiếng đó: “Lạy Chúa, xin giúp con kiên nhẫn”. Kinh nguyện Thánh Thể có thể chia ra thành nhiều lời cầu xin vắn dâng lên Thiên Chúa quyên năng. Bạn hãy chọn một lời cầu nguyện và nhấn mạnh lời cầu đó trong mọi thánh lễ bạn tham dự. Trước tiên là bạn hãy thực hiện những lời cầu vắn tắt ngoài thánh lễ. Bạn hãy thưa với Chúa Giêsu bằng những lời riêng của bạn, một vài tiếng thôi.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
-------------------------------
GỢI Ý GIẢNG
1. Tin lúc an bình và khi gặp sóng gió
Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Máthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói: TN 19-A15
Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Máthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của “Thiên Chúa ở cùng" luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa, cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xao động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.
Nhìn lại những thăng trầm cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những khó khăn thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh - như các môn đệ xưa giữa cơn sóng gió - Chúng ta cũng dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng "phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin" (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh - một khi chúng ta không biết tín thác vào Đức Kitô để có sự bình an, không cùng chia xẻ con đường thập giá, như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đón nhận thử thách như những cơ hội để trưởng thành lòng tin. Và xin cho chúng con luôn suy gẫm lời dạy của Thánh Bênađô: "Khi bạn được tràn đầy ơn phúc thì chớ có nói ‘Không gì làm tôi nao núng’. Như thế bạn sẽ không phải rên siết: Chúa vừa dấu tôn nhan, lòng tôi đã bàng hoàng"
2. Sợ và Tin
Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin:
- Ban đầu khi thuyền gặp bão và không có Đức Giêsu trong thuyền thì Phêrô và tất cả các môn đệ khác đều sợ
- Đến khi nhận ra cái bóng kia đang đi trên mặt nước là Đức Giêsu thì Phêrô tin, dám xin Thầy cho mình cũng bước trên mặt nước được như Thầy.
Nhưng khi thấy sóng to gió lớn, đức tin của ông suy giảm, ông liền sợ và bắt đầu chìm. Lúc đó ông nhớ tới Chúa, giục lòng tin lại và kêu xin "Lạy Thầy, xin cứu con". Đức Giêsu đưa tay nắm lấy ông. ông không còn sợ nữa.
- Cuối cùng khi Thầy trò đã ở trên thuyền, Phêrô và các môn đệ không sợ nữa, họ tuyên xưng đức tin "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Bài học ở đây là: Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém; nhưng khi tin thì không còn sợ nữa.
3. Những người đi trên mặt nước
Đức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời. Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước:
- A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì... Ôi thôi, cô không dám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác trong đó có thí dụ hợp với hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.
4. Chúa hiện diện trong làn gió hiu hiu
Cách viết của tác giả bài đọc I hàm chứa một bài học sâu sắc về sự hiện diện của Chúa. Khi ngôn sứ Elia đứng trong một hốc núi Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi xé non, nhưng Chúa không ở trong đó; ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất bị động, nhưng Chúa không ở trong bão; ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông thấy một làn gió hiu hiu: ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền cung kính lấy khăn che mặt đại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa.
Bài học là: Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời thường.
Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tâm Ngài trong những sự phi thường.
5. Chuyện minh họa
a/ Nếu tin, hãy buông tay ra
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: "Lạy Chúa". Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: "Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa? Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: "Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế?". “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất? Tiếng ấy trả lời: "Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra?” Người vô thần thất vọng thốt lên: "Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!" (Trích "Món quà giáng sinh")
b/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao? Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
-------------------------------
Lạy Thầy, xin củng cố đức tin cho chúng con", đó cũng là lời chúng ta luôn phải cầu xin với: TN 19-A16
"Lạy Thầy, xin củng cố đức tin cho chúng con", đó cũng là lời chúng ta luôn phải cầu xin với Chúa Giêsu. Bởi vì, trong cuộc sống chúng ta có quá nhiều sóng gió, chắn chắn nếu không có sự nâng đỡ của Chúa thì chúng ta sẽ chao đảo và sẽ chìm tặng trong chiều sâu. Xin Chúa nâng đỡ chúng ta và xin Ngài tha thứ cho ta, để ta khỏi thất vọng và nghi ngờ về tình yêu của Chúa trong cuộc sống.
Trong một cuốn phim Mỹ với tựa đề "Công Viên Joveshid" là một cuốn phim thu hút nhiều khán giả trên thế giới. Chuyện phim kể lại một cuộc hãi hùng của một số nhà bác học lại một công viên có tên là Joveshid nằm trong một khu rừng hẻo tánh Nam Mỹ.
Lại đây, một nhà bác học đã thành công trong công việc tái tạo một giống vật khổng lồ đã xuất hiện trên trái đất vào kỷ Nguyên Thứ Hai của lịch sử trái đất Tức là cách đây trên cả trăm triệu năm, trong những giống vật khổng lồ này có những con vật được nhà bác học nuôi bằng thịt sống.
Công việc được trang bị bằng một hệ thống tối tân để tránh những bất trắc có thể xảy ra cho du khácho Thế nhưng, chữ "ngờ" là điều mà nhà bác học đã không học trước được. Do sự phá hoại của một nhân viên, nguyên hệ thống phòng thủ đã bị phá hủy, những con thú dữ do chính tay nhà bác học tạo nên đã xổ lồng chạy đi săn mồi khắp nơi. Nhà bác học và du khách đành phải rời bỏ công viên ra đi trong sự tiếc xót và hãi hùng.
Nhà làm phim không chừng muốn nói lên một chân lý về con người giữa thiên nhiên, con người là con vật yếu đuối mỏng giòn nhất. Con người bị đe dọa và săn đuổi bởi chính những sản phẩm do tay của nó làm ra. Lại nữa, có biết bao nhiêu kẻ thù mà mãi mãi con người sẽ không bao giờ đánh bại được, dù cho khoa học có tiến bộ đến đâu thì bệnh tật vẫn còn đó. Có thể con người luôn là một miếng mồi ngon của biết bao nhiêu đội quân vi trùng.
Tuy nhiên, sự yếu đuối mỏng giòn ấy cũng chính là những nét cao cả của con người. Bởi vì, chỉ có con người mới là con vật duy nhất ý thức được sự yếu đuối bất lực của mình. Và chính khi ý thức được yếu đuối bất toàn ấy, con người mới nhận thức được rằng, nó không thể tự cứu lấy mình. Cứu cánh của nó không nằm trong chính nó, mà là nơi một Đấng siêu việt cao cả hơn nó. Y thức về sự bất lực yếu đuối của con người, đó là một tiếng gọi thúc bách con người ra khỏi chính mình để không ngừng vươn lên và trở về với Đấng Tạo Hoá của mình.
Bài Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta tắng nghe hôm nay giúp chúng ta nhận ra được thân phận mỏng giòn yếu đuối của mình, đồng thời mời gọi chúng ta đặt tin tưởng phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa.
Chiếc thuyền con bập bềnh giữa biển khơi, nỗi lo sợ của các tông đồ, niềm tin chao đảo của thánh Phêrô, đó là hình ảnh thân phận con người giữa dòng cuộc sống. Nếu không có một niềm tin, nếu không có một nơi vững chắc để nương tựa và bám lấy, con người sẽ chìm sâu trong khổ đau và thất vọng. Con người bị vùi dập giữa không biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời mà không biết mình sống để làm gì? Mình sẽ đi về đâu? Mình không có một nơi nương tựa vững chắc, sống như thế quả là điều bất hạnh nhất trên cõi đời này.
Mở đầu sứ mệnh công khai của Ngài Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám hối chỉ có được khi con người biết khiêm tốn nhận thấy thân phận yếu đuối mỏng dòn, trơ trụi, bất toàn của mình. Càng ý thức được nỗi bất lực ấy, con người càng cảm thấy cần có một sứ mạng cứu rỗi của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã trở thành đại thánh kể từ lúc Ngài nhìn thấy ánh mắt của Chúa Giêsu, để rồi nhớ lại hành động chối Thầy của mình. Tất cả các vị thánh trong Giáo Hội đều khởi đầu cuộc đổi đời từ ý thức về thân phận yếu đuối của mình, đó là nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo chúng ta.
Càng cảm thấy mình mạnh mẽ khi nó nhận ra thân phận yếu đuối của nó, thánh Phaolô đã diễn tả các nghịch lý ấy như sau: "Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang với những cái yếu đuối của tôi mà thôi. Khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ". Thánh nhân muốn nói với chúng ta rằng, càng yếu đuối thì con người càng phải nương tựa vào Thiên Chúa và lấy Thiên Chúa làm sức mạnh cho cuộc đời.
Dưới ánh mắt của người đời thì Chúa Giêsu là một con người yếu đuối nhất. Ngài như một con chiên bị người ta trói đem đi xén lông mà không biểu lộ bất cứ một sự kháng cự nào, nhưng đó cũng chính là sức mạnh của Chúa Giêsu. Ngài dũng mạnh đến độ chịu đựng tất cả mọi cực hình và nhất là chiến thắng được hận thù.
Sức mạnh ấy Chúa Giêsu múc lấy từ sự tuân phục và tín thác vào Thiên Chúa Cha. Đó là con đường mà Chúa Giêsu đã muốn vạch ra cho các môn đệ của Ngài. Sống đích thực, sống đúng với ơn gọi làm người là sống theo ý muốn của Thiên Chúa, là thuộc trọn ý Thiên Chúa, lấy Thiên Chúa làm sức mạnh và gia nghiệp của cuộc đời.
Nguyện xin Thánh Thể của Chúa Giêsu mà chúng ta rước lấy trong Thánh lễ hôm nay nâng đỡ bổ sức chúng ta, để chúng ta tiến bước trong niềm tin tưởng và phó thác ấy một cách kiên cường và mạnh mẽ.
-------------------------------
“Thầy đây, chúng con đừng sợ”
Trong Kinh Thánh, có nhiều đoạn nói đến việc Thiên Chúa khắc phục biển cả và những sức: TN 19-A17
Trong Kinh Thánh, có nhiều đoạn nói đến việc Thiên Chúa khắc phục biển cả và những sức mạnh thến dữ (Tv 103,5-9;105,9;73,13-14; Is,9-10).
Sau khi ăn uống no nê, dân chúng được Chúa giải tán. Các Tông đồ được lệnh chèo thuyền sang bờ bên kia, trong khi Ngài lên núi cầu nguyện.
Giữa đêm thâu, con thuyền ra biển thì gặp cơn bão lớn. Các Tông đồ cố hết sức chèo chống. Chúa Giêsu hiện ra đi trên mặt biển. Các Tông đồ hoảng sợ, cho là bóng ma. Chúa lên tiếng trần an: “Thầy đây, chúng con đừng sợ”. Chúa bước lên thuyền và gió yên biển lặng.
Đây là một cuộc hiển linh, bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa. Đây là một thài độ đức Tin đáp lại. Những người ở trong thuyền đế lạy Ngài mà rằng: “Thật, Thầy là Con Chiên Thiên Chúa”.
Thánh Matthêô là Thánh sử nhân chứng của Giáo Hội tiên khởi gồm những cộng đoàn mỏng manh như những con thuyền chơ vơ trên sóng nước. Ngài ghi lại câu chuyện để trần an họ xưa Thầy đã trần an các Tông đồ: “Thầy đây, chúng con đừng sợ’.
Thật là tương phản khi Chúa ở một mình trên núi cầu nguyện và các môn đệ đơn độc chống lại ba đào. Điều đánh trách là các ông không đủ niềm tin vào Ngài, mặc dầu ngài không có mặt ở đó. họ cho rằng họ có thể vượt qua được, không cần đến Ngài. Hơn nữa, khi Ngài đến với họ, họ cho là bóng ma.
Nhưng câu chuyện nói lên lòng ưu ái Chúa dành cho Giáo Hội của Ngài, qua sóng gió ba đào, Ngài sẽ đưa về đến bến.
Matthêô lại là một tác giả nhiều mẫu chuyện vui về Phêrô như việc ông thử đi trên mặt biển như Thầy. Phêrô là con người đầy tương phản, đầy chất người. Lúc thì can đảm hết mức, lúc thì sợ hãi thê thảm. Thấy Thầy đi trên mặt biển, ông cũng muốn đi đến với Thầy, nhưng lại hoài nghi khi nhìn thấy sóng cả. Nhưng Chúa giơ tay nâng đỡ ông. Rồi đây, Giáo Hội cũng được gọi là “Con thuyền của Phêrô”, ông sẽ được trao trách nhiệm như Thầy, ông sẽ khắc phục được biển cả với niềm tin trọn hảo vào Thầy.
“Khi cả hai (Chúa và Phêrô) đã lên thuyền thì gió yên biển lặng”. Không có Chúa và Phêrô, con thuyền Giáo Hội sẽ lâm nguy, nhưng khi hai Đấng đã bước vào thuyền thì tứ bể im lặng, sóng gió cõi lòng đầu lắng xuống, hình ảnh Giáo Hội của Chúa sau này qua các thời đại. Phêrô được trao phó trách nhiệm lèo lái con thuyền Giáo Hội, nhưng đàng sau Phêrô có Thầy: “Thầy hằng ở với chúng con cho đến tận thế”.
“Lạy Chúa xin cứu con”, khi con bị sóng gió phủ tứ bề.
-------------------------------
1 Sách Các Vua 19,9.11-13
Chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng không nhìn thấy Ngài. Kinh sách dạy ta và ta vẫn hằng ôm ấp: TN 19-A18
Chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng không nhìn thấy Ngài. Kinh sách dạy ta và ta vẫn hằng ôm ấp trong tâm hồn cùng mường tượng đến một Thiên Chúa uy quyền toàn năng. Niềm tin vào Ngài vẫn thế. Nhưng hình ảnh về Ngài không phải lúc nào cũng giữ nguyên như ta đã học, đã nghe. Nó biến đổi theo với thời đại cuộc sống.
Vậy đâu là hình ảnh một Thiên Chúa mà ta hằng tôn kính, yêu mến tin thờ?
Khi cuộc sống xã hội thời kỳ nông nghiệp, hình ảnh về một Thiên Chúa trong tâm trí người tín hữu có nhiều nét tương hợp với đời sống lúc đó: một Thiên Chúa phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để mùa màng, hoa quả, ruộng nương vườn tược tười tốt, hoa trái được mùa bội thu.
Vào thời kỳ này niềm tin, niềm trông cậy vào Thiên Chúa còn đậm nét tình nghĩa ân đức Cha con, Đấng Tạo Hóa với tạo vật. Vì thế chúng ta gọi Ngài bằng một danh xưng thân mật tình nghĩa con người: Ông Trời.
Nhưng khi cuộc sống xã hội bước sang thời kỹ nghệ biến chế phát triển, kỹ nghệ thông tin biến đổi đa dạng ngày nay ở những xã hội tân tiến, hình ảnh về một Thiên Chúa cũng khác đi nhiều. Thiên Chúa bây giờ phải là một Thiên Chúa của trí tuệ thông minh sáng chế ra điều gì mới lạ.
Niềm tin vào Ngài lúc này không còn đậm nét tương quan cá nhân Đấng tạo Hóa và tạo vật hay tình nghĩa cha con nữa. Khối óc phát minh làm ra sản phẩm. Phương thức chế tạo ra hàng hóa, tìm ra nguyên nhân kết quả hay chế ngự được khó khăn chướng ngại
là đỉnh cao tối thượng.
Tiên tri Ê-li-a ngày xưa đã sống trải qua nhiều giai đoạn cuộc sống khi thì trong giông bão, khi thì qua nạn động đất, khi thì giữa ngọn lửa cháy tràn lan. Tin vào Thiên Chúa, nhưng ông toàn nhìn thấy những đau thương tàn phá. Ông không còn biết thế nào là hình ảnh đích thật một Thiên Chúa của lòng tin nữa. Thất vọng, ông lẩn trốn vào một hang động. Thiên Chúa không để ông yên trong đó, Ngài kéo ông ra khỏi nơi đó và cho ông biết: Đó không phải là hình ảnh Thiên Chúa với sức mạnh tàn phá chém giết đâu. Ngài là Thiên Chúa của lòng nhân lành.
Còn với chúng ta thì sao?
Mỗi cuộc đời con người có những giai đoạn khác biệt và có những cảm nghiệm về Ngài cũng rất khác biệt. Khi cuộc đời trải qua giai đoạn lầm than cực khổ, thất vọng hay bị đe dọa, tưởng chừng như đến cùng đường. Chính lúc như thế Thiên Chúa âm thầm trong thinh lặng tỏ lòng nhân lành của Người cho con người, bằng cách phấn chấn tinh thần, giúp can đảm sống vươn lên.
Khi đời sống đức tin lâm vào cơn khủng hoảng hồ nghi vào chính Thiên Chúa của niềm tin. Những lúc đó Thiên Chúa không bỏ mặc ai, Người hằng đồng hành với trong tâm hồn và tỏ bày hình ảnh Người qua những dấu chỉ trong thiên nhiên, trong thời đại.
Cả khi sống trong lầm lạc tội lỗi, chối bỏ xa lạc Ngài, Ngài cũng không xa lánh. Ngài vẫn chờ đợi rộng vòng tay chào đón, khi trở về với Ngài, như dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhà diễn tả hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa và muốn cùng bắt đầu đời sống mới: cuộc sống niềm tin và niềm hy vọng.
Lm Nguyễn Ngọc Long
-------------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Khi cầu nguyện, ta có làm gì ích lợi cho ai đâu! Tại sao người Ki-tô hữu lại coi cầu nguyện là cần: TN 19-A19
1. Khi cầu nguyện, ta có làm gì ích lợi cho ai đâu! Tại sao người Ki-tô hữu lại coi cầu nguyện là cần thiết?
2. Cầu nguyện thường xuyên một thời gian mà không thấy mình tiến bộ về tâm linh, không thấy mình nhận được sức
mạnh, không thấy tâm hồn bình an vui tươi, thì phải làm gì? Liệu mình đã thật sự gặp Chúa khi cầu nguyện chưa?
3. Niềm tin vào Thiên Chúa đóng vai trò gì khi cầu nguyện? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Cầu nguyện có cần thiết không?
«Giải tán họ xong, Người lên núi một mình cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình». Bài Tin Mừng cho thấy: cuộc đời Đức Giê-su có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động và cầu nguyện. Nghĩa là Ngài không chỉ hoạt động cũng không chỉ cầu nguyện, mà cả hai luân phiên nhau. Nhưng cầu nguyện để làm gì? Vì hoạt động thì rõ ràng đem lại lợi ích cho mọi người, còn cầu nguyện có vẻ như chẳng làm gì cả, như vậy thì lợi ích cho ai? Các sách Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su cầu nguyện một mình rất nhiều lần (x. Mc 1,35; 6,45; Lc 5,16; Mt 26,36-44
), và Ngài cũng khuyên các tông đồ cầu nguyện như Ngài (x. Mt 26,41; Lc 21,36). Chắc chắn cầu nguyện phải rất cần thiết và đem lại nhiều ích lợi thì Đức Giê-su mới cầu nguyện nhiều và khuyên các tông đồ hãy cầu nguyện như vậy.
2. Cầu nguyện, một hình thức «sạc pin» tâm linh
Một vài minh họa giúp ta hiểu được vai trò của cầu nguyện:
a) Mục đích của bình ắc-quy là để phóng điện hầu làm sáng bóng đèn, làm động cơ quay, tạo nên những phản ứng hóa học, khởi động máy, v.v
nói chung là sinh một lợi ích nào đó. Nhưng ắc-quy không thể cứ phóng điện hoài, vì điện phóng một thời gian là hết, không phóng được nữa. Nếu muốn tiếp tục phóng điện để sinh lợi ích, thì phải «sạc điện». Sạc điện xem ra vô ích, chẳng tạo ích lợi trực tiếp, nhưng hết sức cần thiết để ắc-quy có thể tiếp tục hoạt động.
b) Khi đóng đinh, người ta phải nâng búa lên và đập xuống, rồi lại nâng búa lên và đập xuống nữa. Cứ vậy cho đến lúc chiếc đinh lún xuống hoàn toàn. Chỉ động tác đập xuống mới làm đinh lún, còn động tác nhấc lên có vẻ như hoàn toàn vô ích, nhưng phải nói rằng nó tuyệt đối cần thiết. Nếu không nhấc búa lên, không ai có thể đập búa xuống lần thứ hai, và như thế đinh chỉ lún xuống một chút xíu, và như thế là không đạt yêu cầu.
Cầu nguyện xem ra chẳng lợi ích gì cả, nhưng quả thật nó là một điều tối cần thiết cho những ai muốn hoạt động hữu hiệu cho Thiên Chúa, cho nhân loại, cho tha nhân, và cho sự phát triển tâm linh của bản thân. Cầu nguyện chính là tiếp xúc với Thiên Chúa, nguồn của mọi năng lực, nhất là sức mạnh tâm linh để yêu thương và mạnh dạn dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân, để củng cố đức tin vào Thiên Chúa và tự tin vào chính mình, để được khôn ngoan, sáng suốt, nhận định chính xác điều nào điều nào đúng điều nào sai, điều nào chính điều nào phụ trong mọi lãnh vực hoạt động (tâm linh cũng như trần thế), để tâm hồn được bình an và tràn ngập niềm vui, v.v
Thiếu sức mạnh tâm linh ấy, con người giống như một bình ắc qui hết điện, hay như những bóng đèn và động cơ không nhận được nguồn điện, khiến mọi hoạt động của họ chỉ còn được thúc đẩy bởi những động lực tự nhiên như: «đói thì đầu gối phải bò», ham được tiếng khen, muốn được danh vọng, v.v
Những động lực này vẫn cần thiết và có ích cho sự sống tự nhiên, nhưng không ích lợi cho sự sống siêu nhiên hay tâm linh. Nói tới đây, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần tự xét xem sự sống siêu nhiên hay tâm linh của mình thế nào? có phát triển hay còn èo ọt?
3. Cầu nguyện đích thực tất nhiên phải nhận được sức mạnh từ Thiên Chúa
Bản chất của cầu nguyện là tiếp xúc thật sự với Thiên Chúa, và nhờ đó tiếp nhận được năng lực (tâm lực, trí lực, thể lực, sự an vui
) từ nơi Ngài. Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, rước lễ
Tất cả những cách thức cầu nguyện vừa kể chỉ là một số trong rất nhiều phương tiện hay cách thức để tiếp xúc với Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn có thể có những người đọc kinh, dự thánh lễ, thậm chí rước Mình Máu Thánh Đức Giê-su vào lòng mà không phải là cầu nguyện, vì họ không thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Thiên Chúa. Trái lại, cũng có những trường hợp người ta thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Thiên Chúa mà không cần phải dùng những cách thức vừa kể.
Muốn biết mình có thật sự cầu nguyện, nghĩa là có thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay không, ta chỉ cần xem mình có nhận được sức mạnh từ nơi Ngài hay không, và đời sống có biến đổi thật sự sau khi cầu nguyện không. Vì càng tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, thì càng nhận được sức mạnh tâm linh của Ngài. Nhờ đó, đời sống tâm linh của ta tất yếu phải thay đổi, chẳng khác gì một người nghèo càng nhận được nhiều tiền thì đời sống vật chất hay kinh tế của người ấy tất nhiên phải thay đổi. Không thể khác được! Chính Đức Giê-su cũng được biến đổi khi cầu nguyện (x. Lc 9,29). Rất nhiều người đã được biến đổi tâm hồn khi tiếp xúc với Đức Giê-su: như Mát-thêu, Gia-kêu, Ma-đa-lê-na, người phụ nữ Sa-ma-ri, v.v
Vì thế, không thể có trường hợp thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Ngài một thời gian mà lại không nhận được sức mạnh của Ngài, và không được Ngài biến đổi nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Nếu sau cả một thời gian cầu nguyện mà không thấy mình được biến đổi về tâm linh, không nhận được sức mạnh, bình an và niềm vui sâu xa, thì ta cần phải nghiêm túc xét lại xem cách thức cầu nguyện của ta có thật sự giúp ta tiếp xúc với Thiên Chúa không.
4. Đừng quan niệm Thiên Chúa là một bóng ma theo tưởng tượng của ta
Trở lại với bài Tin Mừng, ta thấy thoạt đầu các tông đồ tưởng Đức Giê-su là ma. Điều ấy cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Rất nhiều khi chúng ta tưởng Thiên Chúa là một bóng ma, hay là một cái gì đấy mà bản chất không phải là Ngài. Có người tưởng Ngài là một bức tượng, hiện diện trước mặt mình một cách vật chất; họ đã vật chất hóa Ngài. Những người trí thức thì lại tưởng tượng Ngài, phác họa chân dung của Ngài theo những quan niệm riêng của mình, hoặc của nền văn hóa dân tộc mình. Vì thế, thay vì gặp được Ngài, ta chỉ gặp được một bóng ma, một Thiên Chúa do chính ta tạo dựng nên theo quan niệm hay sức tưởng tượng của mình.
Để đề phòng chuyện này, Thiên Chúa đã cấm người Do Thái không được tạc tượng Ngài, vì Ngài có hình dáng đâu mà tạc, nên tạc thế nào cũng chẳng bao giờ là tượng của Ngài được (x. Xh 20,4; Đnl 5,8; 27,15). Nhưng con người từ thời cổ đại đến giờ luôn luôn bị cám dỗ tạc tượng Ngài. Người bình dân tạc theo kiểu bình dân, tạc bằng gỗ, đá
Người trí thức tạc theo kiểu trí thức, tạc bằng những ý niệm. Nhà thần học tạc theo kiểu thần học, bằng những tư tưởng thần học. Nhưng Thiên Chúa vốn vượt khỏi mọi kinh nghiệm, mọi ý niệm và ngôn ngữ của con người, nên không thể diễn tả hay quan niệm Ngài bằng bất kỳ một ý niệm hay ngôn ngữ nào của con người. Thiên Chúa không thể diễn tả hay quan niệm được ấy đã bị con người biến thành một Thiên Chúa diễn tả được, quan niệm được, thậm chí được xác định và mô tả dứt khoát bằng vô số chi tiết nhỏ nhặt. «Thiên Chúa» do con người tạo dựng nên ấy làm sao đem lại sức mạnh tâm linh đích thật cho ta? «Thiên Chúa» ấy có thật sự là Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, và là Thiên Chúa của Đức Giê-su không?
5. Vai trò của đức tin khi cầu nguyện
Khi các tông đồ nhận ra Đức Giê-su, Ngài liền nói: «Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!» Một trong những đặc tính căn bản của Đức Giê-su là, khi ta gặp được Ngài, Ngài làm cho tâm hồn ta được bình an, Ngài tiêu hủy mọi nỗi sợ hãi của ta. Khi gặp các tông đồ, Ngài hay nói: «Bình an cho anh em!» (Lc 24,36; Ga 20,19; 20,21; 20,26). Và bình an của Ngài là thứ bình an «không ai lấy mất được» (Ga 16,22).
Khi gặp được Đức Giê-su, Phê-rô tin tưởng rằng nếu đó chính là Thầy mình thật, ắt Ngài có thể cho mình đi trên mặt nước giống như Ngài. Và quả thực ông đã đi được trên mặt nước. Nhưng đức tin của ông vào Ngài không vững, nên khi thấy gió thổi, ông sợ, và lập tức bị chìm xuống nước. Thì ra việc ông đi trên nước được là do quyền năng của Đức Giê-su, nhưng cũng do đức tin của ông vào Ngài nữa. Tin Mừng cho biết: tại Na-da-rét, «Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin» (Mt 13,58). Khi chữa ai khỏi bệnh, Ngài thường nói: «Đức Tin của anh đã cứu anh» (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 8,48; 17,19). Để được cứu rỗi cũng vậy, chính Đức Giê-su cứu ta, nhưng chính ta cũng phải tin vào Ngài thì Ngài mới cứu ta được. Đó chính là điều kiện tối yếu về phía ta. Tương tự, đức tin của ta vào Thiên Chúa cũng đóng một vai trò không thể thiếu được khi cầu nguyện để Ngài có thể làm điều gì đó cho ta, như ban bình an, ban sức mạnh, hay biến đổi ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin dạy con biết cầu nguyện đích thực, nghĩa là dạy con tiếp xúc với Cha thật sự, để nhờ đó nhận được sức mạnh của Cha. Rất nhiều khi con đọc kinh, dâng lễ, rước lễ chẳng khác gì một cái máy, trí óc con không hề nghĩ đến Cha mà chỉ tập trung vào những nhu cầu mà con muốn xin Cha thỏa mãn. Con chỉ có vẻ cầu nguyện, chứ không phải là cầu nguyện đích thực. Xin Cha hãy dạy con cầu nguyện đích thực.
JKN
-------------------------------
Mt 14,22-33
Chúa Giêsu khi bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng , loan báo Nước Trời, đã chỉ cho nhân loại thấy: TN 19-A20
Chúa Giêsu khi bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng , loan báo Nước Trời, đã chỉ cho nhân loại thấy rằng, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, ở đâu Người cũng có mặt, Người cũng hiện diện . Người không ở nơi sấm chớp,bão bùng, giông tố, ở trong những đam mê, thù hận, ghen tương, tranh chấp. Chúa ở nơi thanh bình, an vui, hòa nhã, cảm thông, tha thứ , ở trong những tâm hồn đạo đức, thánh thiện , đầy lòng tin, cậy, mến và phó thác. Các môn đệ của Chúa, ở kề cận bên Chúa, được Chúa uốn nắn, giáo dục, hướng dẫn , nhưng gặp hoạn nạn, thử thách các Ngài vẫn nao núng, nếu không nói được là các Ngài muốn chùn bước, muốn khựng lại và bỏ cuộc. Theo Chúa Giêsu, các môn đệ cứ tưởng lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió . Bước theo Đức Kitô, các môn đệ cứ đinh ninh sẽ không có thử thách, đắng cay. Các Ngài cứ yên tâm, rồi đây Thầy mình sẽ đánh Đông, dẹp Bắc, khôi phục lại vương quốc Israen và như thế các môn đệ sẽ nghênh ngang làm lớn, ăn trên ngồi trốc với quyền lực vô song, không ai địch nổi . Nhưng, tất cả đều là nhưng .... Các môn đệ đã lầm, theo Thầy là vác thập giá hằng ngày mà bước theo Thầy. Thập giá xem ra vẫn còn xa lạ đối với các môn đệ . Các Ngài đâu có ngờ rằng theo Thầy sẽ phải ngang qua nhiều đau khổ, nhiều thử thách mới tới vinh quang .
Theo Chúa Giêsu, Người vẫn nung nấu tâm can của các môn đệ. Có lúc Chúa như vờ thử thách để hiểu rõ các môn đệ của Ngài hơn . Chẳng hạn,Chúa hỏi các môn đệ nghĩ gì về Ngài để Ngài lượng định tình hình về sự hiểu biết của các môn đệ đối với Chúa Giêsu. Phêrô vẫn nhanh nhảu thưa Chúa Giêsu:" Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống ". Phêrô sống chất người thực sự. Ông thưa đó, nhưng ông cũng nản đó, cũng chối đó. Phêrô vẫn là mẫu người thật, mọi thế hệ phải suy nghĩ . Quả thực, Phêrô đã can đảm, hung hăng, rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của vị đại giáo trưởng, khi chúng xông tới bắt Chúa Giêsu. Phêrô, hung hăng đó, nhưng ông chỉ đứng xa xa, sợ cả tên phụ nữ nhận ra tông tích của mình và Ngài đã chối Chúa ba lần, đúng như lời Chúa đã nói trước.
Tin mừng Mt 14,22-33 trong Chúa nhật 19 , năm A chỉ cho nhân loại hay rằng Chúa đã đánh tan quan niệm xưng hùng xưng bá của các môn đệ, quan niệm đi ngược với Nước Trời Chúa thanh lọc, gạn trong tư tưởng, ý nghĩ của các môn đệ . Nên, Ngài đã thấy trước, các môn đệ đang chuẩn bị cơ hội cho dân chúng tôn vinh Chúa Giêsu làm vua . Vì qua phép lạ, Chúa Giêsu vừa mới làm cho 5 chiếc bánh và 2 con cá hóa ra nhiều để nuôi hơn 5.000 người ăn. Đây là cơ hội ngàn vàng để các môn đệ chuẩn bị dân chúng suy tôn Chúa Giêsu làm vua theo ý nghĩ của các môn đệ.
Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ giải tán dân, Thầy trò chèo thuyền qua bờ bên kia, nghĩa là tránh đám đông, rồi Chúa lên núi cầu nguyện một mình. Điều này làm các môn đệ không được hài lòng chút nào cả . Các môn đệ chán nản, mệt mỏi , ngã lòng .Chúa biết rõ tất cả.
Ngài thấu suốt tận cõi lòng của các ông . Ngài biết rõ mọi sự vì Ngài đang thực hiện công trình cứu độ của Ngài . Ngài biết các ông đang chèo lái con thuyền ngược sóng, ngược gió và ngược với cả ý muốn của mình. Ngài sẽ chứng tỏ uy quyền của Ngài trên vạn vạn, trên con người . Ngài có toàn quyền trên mọi vật, mọi loài như bài đọc I đã nói , Ngài muốn con người tin tưởng tuyệt đối vào Ngài bài đọc 2.
Các môn đệ khi thấy sóng to, gió lớn, khi tới giông bão nổi dậy thì hoang mang sợ sệt . Ngài đi trên mặt biển tới với các ông để các ông tin vào Ngài:giờ của Ngài đã điểm .Tuy nhiên, con người của Phêrô đã tin vào Chúa lại còn nghi ngờ Chúa. Ông đã nói: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài , thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài " ( Mt 14,28 ). Ông đã đi trên mặt nước mà tới với Chúa Giêsu, nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm ông la lên: " Thưa Ngài, xin cứu con với "( Mt 14, 30 ). Chúa đã trách mắng Phêrô: "Sao lại hoài nghi" ( Mt 14,31 ). Phêrô hăng say đó, nhưng lại xìu đó và tỏ ra nhát đảm vì thiếu tin tưởng vào Chúa Giêsu. Chúa đã cứu Phêrô trong cơn thử thách .
Sau này, Chúa trao trọng trách cho Phêrô làm đầu Giáo Hội hoàn vũ và các môn đệ tất cả đều là nền tảng xây dựng Hội Thánh trần gian . Chúa luôn ở cùng Giáo Hội , Ngài hứa: " Cửa hỏa ngục sẽ không phá nổi ". Giáo Hội sẽ gặp biết bao phong ba bão táp. Chúa luôn hiện diện và cứu vớt Hội Thánh của Ngài . Trong đời sống, lúc gặp an bình, thịnh vượng, dễ dàng, chúng ta tưởng đã vững vàng, khi gặp khó khăn ta đâm ra hoang mang,lo lắng. Nhiều lúc, ta cũng có thái độ và tâm trạng như Phêrô, như các tông đồ. Chúa nói với ta: " Ta đây đừng sợ ". Chúa hiện diện, Ngài đang giơ tay nâng ta dậy khi ta bị ngụp lặn xuống nước và khi ta gặp thử thách hoang mang.
Gợi ý:
1. Khi gặp hoang mang thử thách trong cuộc sống, ta có thái độ nào ?
2. Ta có hoảng hốt như Phêrô khi ta hoài nghi tình thương và quyền năng của Chúa không ?
3. Ta có buồn phiền trách Chúa khi gặp thất bại trong cuộc đời hay không ?
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-------------------------------
Lm Mark Link S.J.
Chủ đề:
"Nếu chúng ta cảm thấy khó sống phúc âm, thì có lẽ do chúng ta đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu."
Có một ông nọ nói: Tôi cứ nghĩ là càng về gìa tôi sẽ càng ít bị cám dỗ, nhưng thực tế tôi lại bị cám: TN 19-A21
Có một ông nọ nói: Tôi cứ nghĩ là càng về gìa tôi sẽ càng ít bị cám dỗ, nhưng thực tế tôi lại bị cám dỗ nhiều hơn. Có một phụ nữ kia nói: Tôi cứ ngỡ là khi các cháu bé lớn lên tôi sẽ kiên nhẫn hơn, thế mà ngược lại tôi thấy mình nóng tính hơn trước. Một thiếu niên nói: Trước đây tôi cứ nghĩ vâng phục luật Chúa là dễ dàng. Bây giờ thì tôi lại thấy càng ngày càng khó .
Bạn có lời nói nào tương tự như vậy không? Bạn có thấy bị cám dỗ thường xuyên không? Bạn có thấy mất kiên nhẫn với những kẻ thân yêu không? Bạn có cảm thấy càng ngày càng khó vâng theo luật Chúa không? Nếu có, thì bài Phúc Am hôm nay chắc chắn là một sứ điệp quan trọng đối với bạn.
Câu chuyện trên đây minh hoạ điều đó. Nó giống hệt câu chuyện trong Phúc Am hôm nay.
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thuỷ thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thuỷ thủ già liền la to lên với cậu: Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi! Nhìn lên lại bầu trời đi !. cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn. Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phêrô trong Phúc âm hôm nay. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.
Và điều này thường xảy ra cho bạn cũng như cho tôi. Lúc đầu chúng ta khởi sự cuộc sống thật tốt đẹp, đôi mắt đăm đăm nhìn vào Chúa Giêsu, nhưng rồi một điều gì đó xảy đến khiến chúng ta rời xa mắt Ngài. Chúng ta không còn nhìn vào Chúa Giêsu nữa; thế là chúng ta bị mất thăng bằng, chúng ta bắt đầu chìm xuống. Tôi xin nêu một ví dụ cụ thể.
Trong cuốn sách của mình tựa đề The taste of new wine (Hương rượu mới). Keith Miller có mô tả một biến cố thay đổi cuộc đời ông. Biến cố này xảy ra vào mùa hè ngay sau năm thứ nhất đại học của ông. Đêm hôm ấy, Keith bị thương nặng vì một tai nạn xe hơi. Cậu nằm sõng soài bên vệ đường suốt một tiếng rưỡi chờ xe cứu thương. Khi tâm trí hoàn toàn tỉnh táo, cậu bắt đầu cầu nguyện. Đang khi nằm đó cầu nguyện trong bóng đêm, một cảm giác an bình xâm chiếm con người cậu. Keith viết: Tôi nghĩ thật xấu hổ biết bao khi khám phá ra quá trễ trong cuộc đời có loại an bình thực sự như thế. Lần đầu tiên, tôi không biết sợ chết. Keith kể rằng lúc đó cậu nhận thức được rằng dầu có chết cậu cũng sẽ chết trong khi biết mình đã được tiếp xúc với một điều gì đó thân mật và có thực. Dẫu điều ấy là gì đi nữa, thì quan trọng là mãi đến bây giờ cậu mới khám phá ra điều ấy trong cuộc sống của mình.
Thế rồi Keith đã thoát được tai nạn đó và bình phục trở lại. Cậu trở lại đại học và được bầu làm chủ tịch hội huynh đệ của lớp đại học năm thứ hai. Chẳng bao lâu cậu lại bị kích động bởi đời sống hào nhoáng ở đại học. Nghĩa là, Keith đã quay mặt khỏi Chúa Giêsu, Đấng mà cậu đã từng gặp bên vệ đường.
Sau khi tốt nghiệp, Keith lập gia đình và làm việc cho một hãng xăng dầu ở Texas. Nhưng cậu đã không được hạnh phúc như cậu từng mơ ước. Một hôm, Keith buồn quá, cậu chui vào chiếc xe hơi của công ty rồi vọt đi. Chạy, được một lúc cậu cho xe lên vệ đường, tắt máy rồi ngồi thừ ra đó. Trước đây, Keith luôn luôn tin tưởng rằng luôn luôn có lối thoát cho buồn sầu, chẳng hạn uống vài ly Martini và ngủ một giấc thật say là có thể khởi sự lại vào sáng sớm hôm sau. Thế nhưng hiện giờ không còn có sáng hôm sau nữa. Cậu ta đã đến bên bờ vực thẳm rồi. Cậu nhìn lên trời cao và la to lên với Chúa: Nếu Chúa muốn điều gì nơi con thì Ngài hãy lấy đi, con thực tình muốn như thế!.
Câu chuyện trên xảy ra cách đây đã nhiều năm. Tuy nhiên điều xảy ra trong đời Keith vào ngày đó đã không bao giờ rời cậu ta nữa. Hôm đó, không có những tiếng nói mầu nhiệm. Hôm đó Keith chỉ nhận ra những điều Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chúa không cần tiền bạc, thời giờ của chúng ta. Ngài chỉ cần ý muốn của chúng ta và nếu chúng ta dâng cho Ngài ý muốn này, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta cuộc sống mà từ trước đến giờ chưa bao giờ chúng ta thấy, và có thể nói đây là một cuộc tái sinh thực sự.
Một lần nữa, Keith lại hướng đôi mắt nhìn vào Chúa Giêsu, và ngay lúc đó, cậu lại tìm được sự bình an thâm sâu mà nhiều năm trước đây cậu đã khám phá ra trong lúc nằm sõng soài bên vệ đường.
Tất cả chúng ta đều đã từng có những cảm nghiệm giống như Keith. Nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta đã cảm nghiệm sự hiện diện quyền năng của Chúa Giêsu. Tuy nhiên giống như Keith chúng ta đã rời mắt mình khỏi Chúa Giêsu, đã bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác. Và cũng như Keith chúng ta đã bị mất thăng bằng.
Bài phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta thẳng thắn nhìn vào cuộc sống của mình. Nếu chúng ta không cảm nhận được sự bình an là niềm vui thiêng liêng mà ta đã từng cảm nhận, thì chắc hẳn là vì chúng ta đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đang sắp bị bão tố cuộc đời nuốt trửng, thì có lẽ là vì chúng ta đã rời mắt đi xa Chúa Giêsu. Bài phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta quay mắt trở lại nhìn vào Chúa Giêsu. Bài Phúc Am hôm nay mời gọi chúng ta cùng nói với thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con!. Nếu chúng ta chấp nhận lời mời gọi của Phúc Am thì tôi có thể dám chắc với các bạn chúng ta sẽ cảm nghiệm được giống như thánh Phêrô, chúng ta sẽ cảm nhận được bàn tay Chúa Giêsu giơ ra biểu lộ tình yêu đối với chúng ta.
Chúng ta không thể cảm nhận điều ấy ngay lập tức và một cách nhiệm mầu, tuy nhiên chúng ta cứ tiếp tục kêu cầu chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm điều ấy, để rồi chúng ta sẽ nói như thánh Phêrô: Lạy Ngài, Ngài thực sự là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, Keith Miller đã gặp được Chúa lúc nằm sõng soài bên vệ đường trong một tai nạn xe hơi.
Tiên tri Elia đã gặp được Ngài trong tiếng thầm thì nơi cửa hang.
Thánh Phaolô đã gặp được Ngài trong chớp sáng trên đường đi Đamas.
Và Thánh Phêrô đã gặp được Ngài giữa cơn bão biển.
Xin hãy giúp chúng con gặp lại Ngài,
Xin hãy giúp chúng con biết chạy đến với Ngài.
Xin hãy giúp chúng con lại cảm nghiệm được sự hiện diện cứu độ của Ngài trong cuộc sống chúng con.
--------------------------------------
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Thiên Chúa hiện ra cách uy nghiêm cho ngôn sứ Êlia trên núi Horeb.
- Tin Mừng: Các môn đệ đang sợ hãi vì gặp bão. Đức Giêsu hiện ra ban cho các ông bình an.
Minh họa
- Mille images 66 C
- "Chính Thầy đây. Đừng sợ" (Mt 14,27)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta rất tất bật, bon chen, cực nhọc Chúng ta cảm thấy mình như bị cuốn hút vào: TN 19-A22
Cuộc sống của chúng ta rất tất bật, bon chen, cực nhọc Chúng ta cảm thấy mình như bị cuốn hút vào một dòng chảy liên tục, không ngơi nghỉ Vì thế, có một khoảng thời gian bình lặng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhựt như thế này thì thật là bổ ích: chúng ta vừa có dịp bình tâm lại, vừa được nghe Lời giáo huấn của Chúa, lại vừa được múc lấy nghị lực từ nơi Chúa, như lời Ngài đã nói "Hỡi những ai lao nhọc, hãy đến với Ta, các ngươi sẽ tìm được sự ngơi nghỉ".
Chúng ta đã đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.
II. Gợi ý sám hối
- Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng rất ít khi chúng ta nhớ tới Ngài.
- Chúa sẵn sàng giúp đỡ ta, nhưng ít khi chúng ta xin Ngài giúp.
- Nhiều lần chúng ta làm những điều xấu ngay trước mặt Chúa khiến Chúa phải buồn.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19,9.11-13)
Thời vua Acáp đang trị vì vương quốc Israel, hoàng hậu Giêsaben một mặt đem việc thờ phượng các thần Baal vào nước, mặt khác tích cực bách hại các ngôn sứ của Yavê. Ngôn sứ Elia vì dám đương đầu với Bà cho nên bị bà truy nã ráo riết. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Ở đó Thiên Chúa đã hiện ra với Ông và thêm sức cho ông.
Đoạn trích này mô tả Thiên Chúa như là Đấng vô hình nhưng rất gần gũi và hùng mạnh: Elia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.
2. Đáp ca (Tv 84)
Thiên Chúa hiện diện gần gũi con người qua Lời giáo huấn, qua ơn cứu độ, qua lòng từ bi của Ngài.
3. Tin Mừng (Mt 14,22-33)
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều (Tin Mừng Chúa nhựt tuần trước), Đức Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia Biển Hồ. Còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện một mình.
Đến chiều, thuyền các môn đệ gặp bão lớn, các ông vô cùng sợ hãi.
Chính lúc đó Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các ông. Ban đầu các ông tưởng là ma nên càng sợ hơn nữa. Nhưng khi đã nhận biết đó là Thầy mình thì các ông bình an trở lại và tuyên xưng "Thật Thầy là Con Thiên Chúa".
4. Bài đọc II (Rm 9,1-5) (Chủ đề phụ)
Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành. Tuy nhiên ông cảm thấy hầu như bất lực trong việc làm cho những đồng bào do thái của ông tin vào Đức Giêsu Kitô: "Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn".
Vì yêu thương đồng bào và tha thiết với sự cứu rỗi của đồng bào, ông dám hy sinh tất cả: "Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích của anh em tôi".
Nhưng dù sao ông vẫn hy vọng rằng cuối cùng dân do thái sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng "được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa".
IV. Gợi ý giảng
1. Tin lúc an bình và khi gặp sóng gió
Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Mátthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của "Thiên Chúa ở cùng" luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa, cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xao động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.
Nhìn lại những thăng trầm cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những khó khăn thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh như các môn đệ xưa giữa cơn sóng gió chúng ta cũng dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng "Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin" (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh một khi chúng ta không biết tín thác vào Đức Kitô để có sự bình an, không cùng chia xẻ con đường thập giá, như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đón nhận thử thách như những cơ hội để trưởng thành lòng tin. Và xin cho chúng con luôn suy gẫm lời dạy của Thánh Bênađô: "Khi bạn được tràn đầy ơn phúc thì chớ có nói Không gì làm tôi nao núng. Như thế bạn sẽ không phải rên siết: Chúa vừa dấu tôn nhan, lòng tôi đã bàng hoàng" (Mai Chi, báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh 95, trang 228-229)
2. Sợ và Tin
Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin:
- Ban đầu khi thuyền gặp bão và không có Đức Giêsu trong thuyền thì Phêrô và tất cả các môn đệ khác đều sợ.
- Đến khi nhận ra cái bóng kia đang đi trên mặt nước là Đức Giêsu thì Phêrô tin, dám xin Thầy cho mình cũng bước trên mặt nước được như Thầy.
- Nhưng khi thấy sóng to gió lớn, đức tin của ông suy giảm, ông liền sợ và bắt đầu chìm.
- Lúc đó ông nhớ tới Chúa, giục lòng tin lại và kêu xin "Lạy Thầy, xin cứu con". Đức Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Ông không còn sợ nữa.
- Cuối cùng khi Thầy trò đã ở trên thuyền, Phêrô và các môn đệ không sợ nữa, họ tuyên xưng đức tin "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Bài học ở đây là: Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém ; nhưng khi tin thì không còn sợ nữa.
3. Những người đi trên mặt nước
Đức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió, nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời.
Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước:
- A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
- B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì ôi thôi, cô không dám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi Cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
- C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn ; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác, trong đó có thí dụ hợp với hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.
4. Chúa hiện diện trong làn gió hiu hiu
Cách viết của tác giả bài đọc I (1V 19,9a.11-13a) hàm chứa một bài học sâu sắc về sự hiện diện của Chúa: Khi ngôn sứ Elia đứng trong một hốc núi Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi xé non, nhưng Chúa không ở trong đó ; ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất bị động, nhưng Chúa không ở trong bão ; ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông thấy một làn gió hiu hiu, ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền cung kính lấy khăn che mặt lại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa.
Bài học là: Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời thường.
Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường.
5. Chuyện minh họa
a/ Nếu tin, hãy buông tay ra
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: "Lạy Chúa". Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: "Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: "Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." "Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất." Tiếng ấy trả lời: "Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất vọng thốt lên: "Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao !" (Trích "Món quà giáng sinh")
b/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha hay thương xót. Người luôn trợ giúp chúng ta dang lúc chúng ta cần. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Con thuyền Hội Thánh thường gặp nhiều phong ba bão táp / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho con thuyền Hội Thánh / luôn được an toàn giữa biển trần gian.
2- Hiện nay / có biết bao kẻ chịu thiệt thòi do nạn kỳ thị chủng tộc / màu da / ngôn ngữ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết tôn trọng quyền lợi / và phẩm giá của những anh chị em ấy.
3- Đời sống khó khăn / lại gặp nhiều thất bại hay đau khổ / khiến một số kitô hữu chán nản thất vọng / mất niềm tin vào Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những t1in hữu đang gặp thử thách luôn hiểu rằng / chỉ có Chúa mới giúp họ đạt được thành công và hạnh phúc.
4- Đức Giêsu đã nói / "Anh em đừng xao xuyến / nhưng hãy tin vào Thầy" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa / giữa muôn vàn thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày.
CT: Lạy Chúa, cuộc sống chúng con thường ngày có quá nhiều buồn phiền và đau khổ, khiến lắm khi chúng con ngã lòng trông cậy. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để dù gặp nghịch cảnh đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn gắn bó và tin yêu Chúa. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha luôn hiện diện bên cạnh ta, lúc nào Ngài cũng thấy ta và nghe tiếng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được luôn bình an, thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Thực là sung sướng khi được biết Chúa yêu thương luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Chúng ta hãy sống với Ngài, làm việc với Ngài và kết hợp tâm tình cùng Ngài trong mọi việc, mọi lúc và mọi nơi.
Nhóm GNCD
-------------------------------
- ĐC Giuse Ngô Quang Kiệt
(Mt 14, 22-33)
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Đức Giêsu truyền cho: TN 19-A23
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Đức Giêsu có thái độ kỳ lạ như thế ? Tại sao Đức Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi ? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi ?
Trong Phúc âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc âm thánh Gioan thì nói rõ: "Đức Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua" (Ga 6, 14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của ta. Đường lối của ta là đường lối kiêu ngạo, trong khi đường lối của Thiên Chúa là đường lối khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa.
Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống, để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Đức Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Trong các trường học, người ta quảng cáo: “Ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương”. Còn Đức Giêsu lại dạy các môn đệ: "Trong anh em, ai muốn lên làm lớn thì phải trở nên bé nhỏ, khiêm nhường, phải phục vụ anh em mình".
Chính Đức Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn.
Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói khoe khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Đức Giêsu gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô, khi ông ngăn cản Thày ra đi chịu chết. Cơn cám dỗ khốc liệt tiếp tục trong vườn Giệtsimani, khiến Đức Giêsu nao núng hầu như muốn tháo lui. Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của quân lính: Nếu Ông là Con Thiên chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng tất cả những cơn cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Giáo hội, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Khi Giáo hội giàu sang, quyền thế, thì Giáo hội sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Giáo hội lại phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, vì Giáo hội đang đi vào con đường của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không ?
2- Tôi mong muốn Giáo hội có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó khiêm nhường ?
3- Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không ?
Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt
------------------------------
(07.08.2005)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Sau ngày 30.4.1975 rất nhiều người công giáo Miền Nam Việt Nam hoang mang, lo sợ, tưởng đâu thế: TN 19-A24
Sau ngày 30.4.1975 rất nhiều người công giáo Miền Nam Việt Nam hoang mang, lo sợ, tưởng đâu thế là hết tất cả. Ngày hôm nay, sau hơn 30 năm nhìn lại, chắc hẳn mọi người đều nhận ra rằng: dù gặp đủ mọi thứ khó khăn, giới hạn, cấm cản và thậm chí cả bách hại, Giáo hội Công giáo Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển trên mảnh đất hình chữ S thân thương do cha ông ta để lại. Nhờ đâu, do đâu? Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta câu trả lời.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 14, 22-33: Đức Giêsu đi trên mặt nư ớc
“Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Ong Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!“ Ong Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !”aiHai
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 14, 22-33 trên, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Ai?
Cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung đích thực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã long trọng tuyên xưng. Nhưng chúng ta còn khám phá ra nhiều nét đặc biệt khác nơi Đức Giêsu, như sau:
(1o) Trước hết, chúng ta thấy Đức Giêsu rất khôn ngoan, sáng suốt mà cụ thể là trong việc bảo vệ sự tinh tuyền của tính chất Mêsia của Người. Theo não trạng thời bấy giờ, dân chúng Do Thái và kể các môn đệ vẫn mong đợi -một cách công khai hay âm thầm- một Vị Mêsia mang tính giải phóng chính trị, vì đất nước Paléttin đang bị cai trị và bóc lột bởi đế quốc Roma là thế lực ngoại đạo. Dân Do Thái rất khó chấp nhận một Mêsia đau khổ, theo nghĩa Người Tôi Trung của Thiên Chúa mà Đức Giêsu tìm mọi cách để làm cho họ hiểu. Vì thế mà sau khi Đức Giêsu làm phép lạ cho hơn mười ngàn người ăn no nê thì nhiều người đã tưởng rằng đây là lúc “tập hợp lực lượng” dưới lá cờ khởi nghĩa của “Vua Giêsu”, chống lại quân ngoại bang xâm lược. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rõ tại sao Mátthêu đã viết: “Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng.” (lưu ý chữ bắt và giải tán).
(2o) Kế đến chúng ta thấy Đức Giêsu là Đấng rất coi trọng những giây phút tĩnh lặng sống một mình với Thiên Chúa. Có thể nói khi nào có thể là Đức Giêsu rút vào cô tịnh sống một mình với Cha. Những giây phút cô tịnh ấy càng cần thiết hơn khi Đức Giêsu đứng trước một chọn lựa quan trọng cho đời mình và cho chương trình của Cha hay khi Người bị cám dỗ đi ra ngoài kế hoạch của Cha. Không chỉ trong hoang địa mà trong cả cuộc đời, Đức Giêsu bị cám dỗ về quyền lực. Thế nên những khoảnh khắc sôi động giữa đám đông phải được quân bình bằng những khoảnh khắc thinh lặng một mình với Chúa Cha. Nếu câu nói “Thiên Chúa chỉ nói trong thinh lặng” của Mẹ Têrêxa Calcutta là đúng, thì chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu chỉ tìm được tiếng nói của Cha trong thinh lặng, chứ không thể tìm được tiếng nói ấy trong cảnh ồn ào, phấn khích của đám đông muốn tôn Người lên làm vua sau khi chứng kiến cảnh oai hùng của phép lạ.
(3o) Hơn nữa chúng ta còn thấy Đức Giêsu là Đấng có quyền năng lạ thường mà không một người nào – từ cổ chí kim- có được. Đó là khả năng đi trên mặt nước y như đi trên mặt đất. Người còn khiến cho môn đệ Phêrô đi trên mặt nước như Người. Theo quan niệm phổ biến của người Do Thái thời Đức Giêsu thì nước/biển là giang san, là thế giới của Satan. Còn núi cao là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chúng ta thấy Phúc âm nhắc đến núi là nơi Đức Giêsu đến để cầu nguyện, hiển dung và chịu chết (tức tế lễ) là vì thế. Vậy qua sự kiên Đức Giêsu đi trên mặt nước và khiến sóng gió yên lặng, Thánh Mátthêu có ý nói với các tín hữu rằng: Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỉ và làm chủ giang san của chúng.
(4o) Chúng ta còn thấy Đức Giêsu là Đấng che chở và bảo vệ Giáo hội. Hình ảnh con thuyền lênh đênh trên mặt biển, bị sóng gió làm nghiêng ngả, trong đó các môn đệ vừa run sợ vừa hoài nghi, chính là hình ảnh của Giáo hội Công giáo toàn cầu và của mỗi Giáo hội địa phương, trước các cuộc tấn công của Kẻ Thù là Satan. Nhưng Giáo hội của Chúa Kitô luôn được bình yên trong các cơn bách hại, vì luôn có Chúa Giêsu Kitô ở cùng.
(5o) Sau cùng và cao điểm của bài Phúc Am là chúng ta thấy Đức Giêsu chính là “Con Thiên Chúa”. Các môn đệ nhận ra và bái lạy mà tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, sau khi chứng kiến nhiều chuyện tầy trời mà ngay trước đó là chuyện Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và đi trên mặt nước như đi trên đất. Đức Tin Kitô giáo là Đức Tin Tông Truyền, có nghĩa là được truyền lại từ các Tông Đồ là những người sống kề cận với Chúa Giêsu và chia sẻ sứ mạng của Người. “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !” còn là lời tuyên xưng của cộng đoàn Mátthêu trong cơn bách hại của người Do Thái thời sơ khai.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 14, 22-33 dạy chúng ta điều gì?
(1o) Trước hết Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta về bản chất, quyền năng và vai trò của Chúa Giêsu Kitô đối với Giáo hội và các tín hữu: Người là Con Thiên Chúa, là Mêsia chân chính theo ý định và kế hoạch của Thiên Chúa Cha, là Vua quyền năng đã chiến thắng Sa tan và là Đấng bảo vệ Giáo hội và các tín hữu trước sự tấn công của mọi kẻ thù.
(2o) Kế đến Lời Chúa hôm nay dậy chúng ta biết con đường mà Chúa Giêsu đã chọn để cứu thế là con đường đau khổ, là con đường thập giá: Người đã chịu bị bắt, bị kết án và bị treo trên thập giá.
(3o) Sau cùng Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta hãy vững tin vào Chúa Giêsu nhất là trong cơn sóng gió, thử thách của riêng cá nhân mình cũng như của chung Giáo hội, vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Mêsia, là Vua quyền năng đã chiến thắng Sa tan và là Đấng bảo vệ Giáo hội và các tín hữu và vì Người hằng ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận cùng thời gian.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
(1o) Lời Chúa hôm nay cho tôi thấy rõ bản chất, quyền năng và vai trò của Chúa Giêsu đối với Giáo hội và các tín hữu. Có nghĩa là Lời Chúa mời gọi tôi nhìn nhận, tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và tin cậy phó thác cuộc đời tôi và Giáo hội cho Người. Tôi đáp lại như thế nào?
(2o) Lời Chúa hôm nay dạy cho tôi biết con đường thập gía là con đường Thiên Chúa đã chọn để cứu nhân độ thế. Có nghĩa là Lời Chúa mời gọi tôi chọn (hay chấp nhận) con đường hy sinh, từ bỏ, hiến dâng, vác thập giá để nên giống Chúa Giêsu Kitô và cộng tác với Người để cứu độ chúng sinh. Tôi có dám chọn, hay ít ra là chấp nhận, con đường ấy không? Tôi sẽ làm gì cụ thể trong tuần lễ này?
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Con xin thờ lạy và tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa và là Chúa của con. Con xin dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban Đức Tin cho con và cho các tín hữu. Xin cho chúng con mỗi ngày mỗi vững tin hơn vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mêsia của Thiên Chúa, Đấng đã chọn con đường thập giá làm con đường cứu độ. Con xin dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã cứu độ con và nhân loại bằng con đường thập giá. Xin cho con và các Kitô hữu biết sống hy sinh, từ bỏ để chúng con được nên giống Chúa mỗi ngày một hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng bảo vệ Giáo hội và các tín hữu trước sự tấn công của mọi kẻ thù. Con xin dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã giữ gìn, che chở và bênh vực Giáo hội Việt Nam nói chung và bản thân và gia đình con nói riêng trong hơn 30 năm qua. Xin Chúa tiếp tục bảo vệ, che chở và bênh vực Giáo hội Việt Nam và gia đình con trong những năm tháng còn lại để chúng con luôn vững Niềm Tin, luôn khao khát tìm kiếm Chúa và luôn cố gắng làm cho Chúa được hiểu biết, mến yêu và noi theo. Amen.
Gs. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Kansas City, MO ngày 21 tháng 07 năm 2005.
------------------------------
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
(Mt 14,22-33)
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn: TN 19-A25
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết điều trên: Chúa đi trên biển nổi sóng và sóng gió yên lặng ngay khi có lệnh của Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài.
Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn suy tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài giải tán dân chúng rồi một mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được khoảng vài cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi mạnh dữ dội, thánh Mát-thêu cho biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống.
Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học:
Bài học thứ nhất ,
việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa, việc này không có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Ngài là Thiên Chúa, là đứng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng. Chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước không có gì phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ tường Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: Chúng ta phải tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống theo những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Bài học thứ hai,
đang khi các môn đệ gặp bão táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để cứu giúp họ. Trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi vì có Chúa. Điều này cho chúng ta biết: ở đâu có Chúa là có bình an. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng chúng ta đừng bao giờ thất vọng nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng ta hay không để ý gì đến chúng ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể nói: trong những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau, chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba ,
Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa bằng lòng ngay, nhưng vì yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ong lại vội vàng kêu xin Chúa và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: một quyết định hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp khó khăn. Vì thế, cần suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay làm một việc gì, cần phải xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc nào. Đó là hai vấn đề: chúng ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã làm thì làm cho đến nơi đến chốn, nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại, đừng chán nản thất vọng. Thánh Phêrô đã làm như thế đã tin cậy Chúa, rồi càng yêu mến Chúa hơn trước và được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.
Trích Chia Sẻ Tin Mừng Chúa Nhật năm A
------------------------------
- Lm Bùi Quang Tuấn CSsR
1 V 19,9a.11-13; Rm 9,1-5; Mt 14,22-23
Vào khoảng năm 860 trước Chúa Giêsu sinh ra, vương quốc Israel bị ảnh hưởng bởi tà giáo. Vua: TN 19-A26
Vào khoảng năm 860 trước Chúa Giêsu sinh ra, vương quốc Israel bị ảnh hưởng bởi tà giáo. Vua Ahab và hoàng hậu Izabel nuôi dưỡng hàng ngàn tiên tri Baal. Nhiều đền thờ thần ngoại được xây lên. Dân chúng cũng hùa theo việc cúng bái Baal. Nhưng tiên tri của Giavê Thiên Chúa là Êlia vẫn can đảm đương đầu với đám đông phản trắc để bênh vực chính giáo.
Một mình ông dám thách thức 450 tiên tri Baal hãy chứng minh cho toàn dân biết đâu là Chúa thật. Êlia bảo người ta bắt hai bò tơ để đôi bên cùng xẻ thịt, đặt lên củi, và khẩn cầu. Thần linh nào đáp lời nguyện xin, cho lửa xuống thiêu cháy đống củi cùng của lễ, thì đó chính là Đấng mọi người phải tôn thờ.
Sau khi giết bò và chất lên bàn thờ, 450 tiên tri và tư tế Baal bắt đầu kêu khấn: "Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi." Nhưng không một tiếng trả lờ! Họ bắt đầu nhảy nhót như kiểu lên đồng. Nhưng cũng chẳng thấy ai đáp lại! Êlia mới chế nhạo: "Các ngươi phải kêu lớn hơn nữa. Không chừng thần linh đang suy tính hay bận rộn chuyện gì; cũng có thể Ngài đi vắng hoặc đang ngủ. Đánh thức ngài dậy đi!" Các môn đệ thần Baal ra sức kêu gào, lại còn rạch mình cho máu chảy lai láng như kích động lòng trắc ẩn của thần linh. Nhưng vẫn không thấy gì.
Lúc này Êlia mới giơ tay cầu nguyện: "Lạy Giavê Thiên Chúa của Abrahan, Isaac và Israel, ước gì hôm nay người ta nhận biết chính Người... xin nhậm lời tôi" (1 V18, 36-37), và lập tức Giavê cho lửa từ trời thiêu cháy hết mọi của lễ của Êlia. Thấy vậy, toàn dân tung hô Thiên Chúa. Thế rồi, khi được lệnh của Êlia, họ đem các tiên tri và tư tế Baal xuống núi giết sạch.
Chuyện xảy ra quá bất ngờ khiến hoàng hậu Izabel bàng hoàng căm tức. Bà thề sẽ lấy mạng Êlia bằng mọi giá. Khi biết thế, vị tiên tri tức tốc lên đường lánh nạn. Sau một ngày trốn chạy vất vả trong vùng sa mạc khô khan, ông cảm thấy mệt mỏi chán chường. Con người can đảm và nhiệt thành hôm nao bây giờ lại rơi vào tình trạng hoang mang cực độ đến nỗi muốn chết cho yên. Ông thốt lên:"Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì các bậc tổ tiên."
Người hùng của Thiên Chúa mà cũng có lúc đảo điên như thế thì huống chi là tôi! Thế nhưng câu chuyện không chỉ dùng lại ở đó. Kinh thánh kể tiếp:
Chính trong giây phút giao động và chán nản đó của người hùng, sứ thần Thiên Chúa đã đến nâng đở ông bằng bánh và nước. Êlia đã ăn và uống. Sau đó tiếp tục hành trình 40 ngày đêm đến núi Sinai. Tại đây ông đi vào cuộc gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ xảy ra không phải trong bão tố, đất động hay lửa chớp, nhưng trong làn gió thoảng đưa.
Từ trong làn gió thoang thoảng ấy, Thiên Chúa cất lời nâng đỡ và chỉ dẫn Êlia. Cuộc gặp gỡ thân tình với Giavê đã kéo ông khỏi hố sâu của lao đao thất vọng. Kết quả, Êlia tìm lại được bình an và sức mạnh nội tâm, tiếp tục ra đi chu toàn sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa.
Thiết tưởng hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những lúc khốn khó lao đao như Êlia vậy. Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe dọa, và bao chước cám dỗ tấn công. Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ, đam mê. Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng ngũ các tông đồ Đức Giêsu, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi "sắp chìm xuống" (Mt 14,30). Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, "Lạy Thầy, xin cứu con", thì bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.
Cho đến hôm nay, những người theo Đức Kitô vẫn chưa hết bị sóng gió trần gian bủa vây, không chỉ là những truân chuyên trong cuộc sống, nhưng còn là những cám dỗ tinh vi của quỉ ma. Nhưng liệu trước các phong ba dữ dằn đó, tôi có nghe được tiếng nói đỡ nâng và nhắc nhở của Thiên Chúa chăng? Lắm khi tiếng nói của Ngài rất nhẹ nhàng như "gió hiu hiu thổi" chứ không phải như tiếng đất động, bão tố hay hỏa hào.
Thử hỏi: nếu là một thanh niên hay thiếu nữ đang tuổi lớn lên, trước những lời réo gọi của đam mê xác thịt, liệu tôi có nghe được tiếng nhắc nhở "phúc cho ai có lòng trong sạch" nơi lương tâm để vượt thoát cảm bẩy dục tình và tiến lên núi cao với Chúa không?
Nếu vì nhẹ dạ mà sa ngã hay mang thai, trước những sóng gió của từ khước khinh bỉ, hay giòng xoáy phá thai của thời đại muốn nhận chìm sự sống, liệu tôi có nghe được tiếng bảo thì thầm trong lương tâm rằng "phá thai là giết người", và rồi hướng nhìn lên Chúa, kêu nài một sự đỡ nâng an ủi không?
Nếu là người mẹ có đứa con hư dại hay người vợ có ông chồng hủ bại, liệu tôi có nghe được lời nhắc nhở "Hãy vững tin" của Đức Giêsu để tiếp tục hành trình làm nhân chứng cho đạo Chúa không?
Nếu là người cha phải lao đao vì trách nhiệm gia đình, bị giông tố của xã hội tấn công, bị chèn ép, hiểu lầm, khích bác..., liệu tôi có nghe được tiếng nói "Đừng sợ, có Ta đây," và rồi đưa tay cho Đức Giêsu để Ngài kéo lên không?
Cuộc đời người Kitô hữu được ví như hành trình tiến lên núi Thánh giữa sa mạc nắng cháy, hay như chiếc thuyền đang tìm về bến bờ giữa bao sóng ta và gió ngược. Không có ơn Chúa đỡ nâng, chắc chắn con người sẽ ngã gục. Cũng như nếu không có những chiếc bánh và ấm nước Thiên Chúa trao cho, Êlia đã bỏ cuộc giữa đường; hay nếu không có bàn tay Đức Giêsu giơ ra kéo lên, Phêrô đã chìm sâu trong sợ hãi và hoang mang.
Song khi có Chúa, bình an và sức mạnh sẽ đến. Dù giông tố và thách đố trần gian cứ xảy ra, con thuyền đời tôi vẫn thẳng tiến, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Nhưng để được như thế, có lẽ tôi phải không ngừng kêu lên: "Lạy Chúa, xin cứu con "(Mt 14,30).
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
------------------------------
- Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân
Mt 14, 22-33
Việc Chúa Giêsu đi trên biển trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc ta nhớ lại những lời Thánh Giob: TN 19-A27
Việc Chúa Giêsu đi trên biển trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc ta nhớ lại những lời Thánh Giob: "Một mình Người, Người trải các tầng trời và Người đi trên đầu sóng biển" (G 9,8) và lời Thánh vịnh: "Trong biển có đường Người đi, lối Người tắt qua cơn nước lớn, vết chân của Người ai nào nhận ra? "(Tv 77,20). Cái sự phi thường này đã làm cho các môn đệ hoảng hốt sợ hãi và cuống cuồng la lên đó là ma (Mt 14,26). Đúng vậy, người thường đâu ai có thể làm như thế được! Chúa Giêsu phải vộ vã lên tiếng trấn an: "Hãy vững lòng, Ta đây, đừng sợ" (c.27). Lời trấn an của Người hiệu lực đến nỗi không những làm cho các môn đệ hết sợ mà còn làm cho thánh Phêrô phấn khởi cũng muốn được xuống đi trên nước như Người. (c.28). Điều đó đâu có khó gì đối với Người: "Thì hãy đến đi" (c.29). Nhưng đối với Phêrô vì ngài thấy sóng gió lớn liền sợ và đâm ra hoài nghi nên chìm, khiến Chúa than phiền: "Đồ yếu tin, sao lại hoài nghi!" (c.31). Và để thêm đức Tin cho họ thì khi cả hai đã lên thuyền "sóng gió lập tức yên lặng" (c.32). Đã có một lần cũng trên mặt biển hồ này, thuyền các Môn đệ bị sóng gió tràn vào gần đắm. Họ đã kêu cứu Người và cũng đã bị Người than phiền: "Sao các ngươi nhát đảm vậy, quân yếu tin?". Và cũng để trợ giúp lòng tin của họ, Người "đã quát bảo gió và biển, và biển đã lặng như tờ" (Mt 8,23-27). So sánh hai lần đó, chúng ta thấy có 4 điểm khác nhau:
1. Lúc sóng gió nổi lên thì lần 1 Người đag ngủ và các môn đệ thì thức: "Người vẫn ngủ, họ tiến lại đánh thức Người". Lần 2 ngược lại: Người thức và các môn đệ có lẽ đang ngủ: "Canh tư (gần sáng) đêm tối, Người đến cùng họ".
2. Lần 1 Chúa than phiền vì tất cả các Môn đệ đều yếu tin: "Sao các ngươi nhát đảm vậy, quân yếu tin!" Lần 2 Chúa chỉ nói với mình Phêrô: "Người hèn tin, tại sao nghi ngờ?"
3. Lần 1 Chúa lớn tiếng quát bảo sóng gió, nhưng lần 2 Người chỉ yên lặng không nói gì mà sóng gió cũng lập tức yên lặng.
4. Lần 1 các Môn đệ mới chỉ kinh ngạc và đặt vấn đề: không biết " Ông này là người thế nào mà cả sóng gió cũng phải vâng phục?" (Mt 8,27). Nhưng lần 2 thì họ "Bái lạy Người mà rằng: Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14,33). Lòng tin Chúa Giêsu nơi các Môn đệ đã tiến triển rất nhiều.
Trong thư Đức Thánh Cha Grêgoriô 16 gởi ngày 4/8/1839 an ủi giáo dân Việt Nam bị bách hại, có đoạn như sau: Ngày gian khổ thì vắn vỏi, nhưng theo sau đó là ơn an ủi dồi dào và hạnh phúc trường sinh đang chờ đợi chúng con. Chúng con sẽ chẳng phải bị bắt bớ tàn nhẫn mãi đâu. Sẽ có một ngày, chúng con được lau sạch nước mắt, được thoát cơn bão táp khủng khiếp và được ơn an bình phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật. (Dòng Máu Anh Hùng).
Những gian nan thử thách và bách hại của ba thù trong cuộc đời chúng ta đâu sánh bằng những bách hại của các Thánh tử đạo Việt Nam. Chúng ta hãy vững tâm tin cậy và phó thác vào Chúa như các ngài để chiến thắng: Có Chúa, sóng gió bão táp không làm gì được chúng ta đâu.
Lạy Chúa, "Dầu có phải bước đi trong thung lũng tối đen hiểm nguy, con cũng không lo sợ gì, vì có Chúa ở cùng con." (Tv 22,4): Đó là câu khẩu hiệu sống của con quyết thực hiện trong tuần nầy.
------------------------------
- Lm Trần Bình Trọng USA
Mt 14, 22-36
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay ghi lại những cảnh tượng sợ hãi mà dân Chúa phải đương đầu chứng: TN 19-A28
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay ghi lại những cảnh tượng sợ hãi mà dân Chúa phải đương đầu chứng kiến.
Bài sách Các Vua cho thấy tiên tri Êlia bỏ chạy trốn trong hang khi bà hoàng hậu Isabel cho truy nã giết ông vì ông quả quyết chỉ có mình Thiên Chúa là Đấng đáng tôn thờ và là Đằng điều hành vũ trụ.
Bài Phúc âm ghi lại các Tông đồ trở nên khiếp sợ khi gặp sóng to bão lớn. Thường thì biển hồ Galiêa rất phẳng lặng. Nếu bạn có dịp du lịch với nhóm qua Đất Thánh, quê hương Chúa Giêsu, nhóm bạn có thể thuê tàu ra giữa biển hồ Tiberia vào lúc nhá nhem tối. Rồi một người trong nhóm đọc bài Phúa Âm hôm nay. Bạn sẽ thấy cảm động thế nào khi suy niện cảnh Chúa đi trên mặt nước, việc Chúa làm phép lạ cho sóng gió yên lặng, việc Chúa cứu Phêrô khỏi chìm và lời Chúa trấn an các tông đồ: Thầy đây, đừng sợ (Mt 14,22). Trong một bầu khí linh thiêng trên mặt hồ phẳng lặng, lời Chúa sẽ trở nên sống động thế nào trong tâm hồn bạn.
Hôm nay khi các tông đồ vừa chèo thuyền ra khơi thì mặt hồ nổi sóng dữ dội. Rồi có người đi trên mặt nước tiến về phía các tông đồ làm các ông sợ hú vía, tưởng ma quái hiện hình trêu chọc. Chúa Giêsu liền lên tiếng trấn an các ông. Thánh Phêrô là loại người nóng tính, hăng say. Khi vừa nghe tiếng Chúa, ông đòi được đến gần. Lúc này ông cảm thấy sóng gió thổi mạnh. Sợ chìm, ông kêu lên: "Xin Thầy cứ con với" (Mt 14,30). Chúa Giêsu dang tay cứu ông với giọng trách móc: "Hỡi người hèn tin! Sao lại nghi ngờ" (Mt 14, 31). Đến đây bạn có thể nhớ lại bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng trong cuộc chiến tại quê nhà vào thập niên 60 và đầu thập niên 70. Rồi trong cuộc hành trình đi tìm tự do ngoài biển khơi, nhìn thấy người thân nhân chết đói, chết khát, chết chìm mà lòng xót xa nghẹn ngào. Trong chuyến đi tìm tự do, bạn còn ôm ấp nhiều mối lo sợ: sợ thuyền bị hết nhiên liệu, sợ sóng to bão lớn, sợ thiếu thực phẩm, nước uống, sợ bị hải tặc rượt bắt hãm hại. Bạn đã tựa vào niềm tin nào để bám víu?
Đứng trước những khổ trạng đó, bạn tự hỏi tại sao Chúa lại để những gian nguy khốn khó xẩy đến cho bạn và gia đình bạn? Và đâu là quyền phép của Chúa? Bạn có thể mất đức tin nếu bạn không tìm được câu trả lời thỏa đáng. Không ai có thể trả lời được tại sao, không ai biết được đường lối của Chúa, mà chỉ có thể chấp nhận bằng đức tin. Nếu nhìn kỹ vào đời sống, bạn sẽ thấy rằng những hoàn cảnh trắc trở có thể trở thành những cơ hội được chúc phúc, những cơ hội Chúa dùng để dẫn đưa bạn tiến lại gần Chúa, những cơ hội giúp bạn tìm đến và trở về với Chúa. Bạn sẽ thấy lòng từ bi và nhân hậu của Chúa đến với bạn sau những khủng hoảng của tâm hồn, và bạn sẽ tìm lại được sự bình an.
Nếu gặp sóng gió ngoài biển cả, bạn cũng có thể gặp sóng gió trong tâm hồn. Sóng gió trong tâm hồn có thể xẩy đến cho bất cứ ai, người lành cũng như người dữ. Người có đức tin sắt đá cũng có thể gặp sóng gió trong tâm hồn: những cơn cám dỗ nặng nề, những giằn vặt trong lương tâm, những nghi ngờ về sự hiện diện của Chúa. Để đối phó với những sóng gió trên biển cả, các tông đồ kêu cầu đến Chúa, một việc xem ra là cần thiết phải làm. Tuy nhiên Chúa lại trách móc họ, vì họ thiếu lòng tin. Điều Chúa muốn nói ở đây là các ông phải có lòng tin vào Chúa một cách liên tục trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chứ không phải chỉ kêu cầu đến Chúa khi gặp nguy hiểm, thất bại, bệnh tật mà thôi.
Hôm nay Chúa dạy bạn bài học là lời cầu nguyện tín thác của bạn vào Chúa phải là lời cầu xin, một tâm trạng phải có thường trực trong đời sống, trong tất cảmọi hoàn cảnh của cuộc đồi, chứ không phải chỉ khi gặp khó khăn trắc trở, khi bị dồn thế bí mới kêu cầu Chúa.
NS Dân Chúa Mỹ Châu
------------------------------
Chúa Nật 19 Thường Niên
19th Sunday in Ordinary Time
Lời Chúa cho hôm nay: NGƯỜI ĐÂU MÀ KÉM TIN VẬY !.
* HOW LITTLE FAITH YOU HAVE *
Bài đọc 1: 1 Vua 19, 9; 11- 13= Chúa đến gặp gỡ / Coming of the Lord.
Bài đọc 2: Rom. 9, 1- 5= Được Thiên Chúa chúc phúc/ Blessed Be God.
Tin Mừng: Mat.14, 22- 33= Đức Giêsu đi trên mặt nước / Jesus walks on water.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Đức Giêsu thấy các môn đệ la hoảng hốt, liền nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Trong: TN 19-A29
1/ Đức Giêsu thấy các môn đệ la hoảng hốt, liền nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Trong cuộc sống tôi có nhiều thứ lo lắng, sợ sệt làm thiếu niềm tin; nhưng lúc này Chúa ở gần tôi nhất để nghe tiếng tôi kêu cầu. Tôi có cảm nhận được Chúa ở bên không? Tại sao tôi chưa đặt hết tin tưởng vào Ngài?
Jesus hastened to reassure them: "Get hold of yourselves! It is I". ( Mat. 14, 26- 27 )
2/ Ông Phêro sợ và la lên, Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói:"Người đâu mà kém tin vậy! sao lại hoài nghi?" Vì hoài nghi mà có nhiều thất bại cho đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trên đường tìm và theo Chúa. Bạn đã có bao nhiêu lần hồ nghi? Những gì bạn đã thành công khi theo Chúa?
"How little faith you have!" He exclaimed. "Why did you falter?" ( Mat. 14, 30- 31 )
3/ Chúa nói với tiên tri Ê-li-a: "Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua." Ông chỉ thấy bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng... Vâng chính là những biến cố lớn nhỏ đang xảy ra trên thế giới hàng ngày. Tôi có nhận ra Chúa nói không? Thái độ tôi trước các biến cố hôm nay?
"Go outside and stand on the mountains before the Lord; the Lord will be passing by." ( 1Vua 19, 11 )
4/ Thánh Phaolô đã diễn đạt tình yêu của Ngài cho dân chúng với những lời lẽ thật mạnh mẽ: "Giả như anh em đồng bào của tôi theo huyết thống mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng," Một bài học của yêu thương và kính trọng. Tôi đã có phản ứng nào khi phục vụ bị chỉ trích?
Indeed, I could even wish to be separated from Christ for the sake of my brothers... ( Rom. 9, 3 )
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God' Word )
NGƯỜI ĐÂU MÀ KÉM TIN VẬY ! SAO LẠI HOÀI NGHI ? ( Mat. 14, 31 )
How little faith you have ! Why did you falter ?
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa dạy: ( So what am I doing / For action )
- Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thi hành.
- Bạn can đảm làm một việc rao giảng Tin mừng trong Giáo xứ hay Xã hội bằng hành động.
D. Tôi cầu nguyện không ngừng và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice/ Pray in action)
- Lạy Chúa, Đức Giêsu đã bảo các môn đệ: Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! Thế nhưng trong cuộc sống hàng ngày con đã quá yếu đuối. Xin cho con biết Chúa vẫn hiện diện, ra tay giúp đỡ và an ủi.
- Đức Kitô đã nắm lấy tay ông Phêrô và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi? Đứng trước cảnh đầy gian dối và lộng hành làm con sợ sệt. Xin dạy con có một niềm tin sắt đá trước xã hội hôm nay.
Lời hay ý đẹp: NHỮNG AI PHỤC VỤ CHÚA CHỈ VÌ TIỀN, ĐỀU BỊ PHÁ SẢN TÂM LINH
Those who serve God only for money are spiritually bankrupt
( Those who serve God only for money are spiritually bankrupt)
------------------------------------------
Mt 14,22-23
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊSU KHỐNG CHẾ BIỂN CẢ ĐỂ BÀY TỎ THIÊN TÍNH NGƯỜI
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,13-21) phép lạ đi trên mặt nước hôm nay nhằm biểu lộ "Đức: TN 19-A30
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,13-21) phép lạ đi trên mặt nước hôm nay nhằm biểu lộ "Đức Giêsu thực là Con Thiên Chúa" (c 33). Bài tin mừng có thể được chia làm ba phần:
Phần 1 (c 22-24): Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia trước, còn Người thì ở lại giải tán đám đông và sau đó lên núi cầu nguyện một mình với Thiên Chúa Cha. còn thuyền các môn đệ thì đã ra khơi và đang gặp khó khăn vì ngược gió.
Phần 2 (c 25-31): Dù đang cầu nguyện trên núi, nhưng Đức Giêsu vẫn để mắt theo dõi và biết các môn đệ gặp khó khăn. Vào khoảng 3 giờ sáng, Người đã đi trên mặt biển mà đến với thuyền các ông. Môn đệ sợ hãi la lớn khi thấy bóng Người xuất hiện. Nhưng Người đã trấn an các ông rằng: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!". Phêrô xin Thầy cho mình đi trên mặt nước mà đến với Thầy. Nhưng khi gặp cơn gió to, ông sợ hãi và bắt đầu chìm xuống. Nhờ mau mắn cầu cứu Chúa, ông đã được Người đưa tay ra nâng đỡ và cho lên thuyền bình an.
Phần 3 (c 33): Khi chứng kiến phép lạ này, các môn đệ đã tin vào Người và tuyên xưng đức tin: "Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa !".
CHÚ THÍCH
(c 22) Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông: Sau phép lạ hóa bánh, dân chúng phấn khởi đòi tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng sứ mạng của Người lại khác hẳn Vua Thiên Sai trần tục theo quan niệm của dân Do thái, giống như vua Đa-vít thời xưa. Vì thế Người đã giục các môn đệ mau lên thuyền sang bờ bên kia, vì sợ các ông có thể bị nhiễm lây sự phấn khởi nhất thời của dân chúng đang muốn tôn Người làm vua (x Ga 6,1-15). Còn Người thì ở lại mà giải tán đám đông.
(c 23) Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình:
+ Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện: Đức Giêsu thích có những giờ yên tĩnh vào ban đêm để cầu nguyện kết hiệp với Thiên Chúa Cha (x Lc 6,12). Người thường hay cầu nguyện, nhất là trước khi phải quyết định những việc trọng đại (x Mt 26,36; Lc 9,27).
+ Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình: Ở một mình là không có người khác ở chung, ngoại trừ Thiên Chúa Cha là Đấng luôn ở với Người (x Ga 8,29).
(c 24) Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược gió: Biển hồ Giê-nê-sa-rét hay còn có tên là Biển Hồ Ti-bê-ri-a hay Ga-li-lê (x Ga 6,1). Biển Hồ này có hình bầu dục: dài 21 km, rộng 12 km, mực nước thấp hơn Địa Trung Hải 208 mét. Vì quá lớn, nên Biển Hồ thường có sóng to gió lớn (x Mt 8,23). Bấy giờ thuyền các môn đệ đã ra giữa biển và đang bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Con thuyền tượng trưng cho Hội Thánh ở trần gian đang phải đối diện với nhiều trở ngại.
(c 25) Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ:
+ Khoảng canh tư: Vào thời Đức Giêsu, dân Do thái theo người Rô-ma để chia ngày thành 12 giờ, từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều. Họ cũng chia đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Canh tư tức là vào khoảng từ 3 đến 6 giờ sáng.
+ Người đi trên mặt biển: Cựu Ước nhiều lần nói tới Thiên Chúa đi trên biển (x G 9,8; Tv 77,20). Người đã từng tỏ uy quyền trên sự hỗn mang khi tạo dựng trời đất, và khống chế Biển Đỏ để giải thoát dân Người. Ơ đây Đức Giê-su muốn ám chỉ Thiên Chúa có quyền trên biển cả.
(c 26) Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hốt hoảng bảo nhau: "Ma đấy !" và sợ hãi la lên: Các môn đệ thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông thì tưởng là ma, vì việc làm này vượt quá sức tự nhiên của con người. Nên các ông sợ hãi la lên: "Ma đấy !".
(c 27) Đức Giê-su liền bảo các ông:"Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !":
+ Cứ yên tâm
đừng sợ!: Đức Giê-su đã cải chính sự hiểu lầm của các môn đệ rằng Người là ma. Người đã trấn an các ông, vì ngay lúc đó các ông vẫn chưa nhận ra Người.
+ Chính Thầy đây: Trong Cựu Ước Thiên Chúa hay tự xưng "Ta là" với các tổ phụ Do thái. Chẳng hạn: "Chính là Ta"; "Ta là Gia-vê"; "Ta là Đấng Hiện Hữu" (x St 46,3; Xh 3,14). Ơ đây, khi tự xưng: "Chính Thầy đây", Đức Giê-su ám chỉ Người giống như Thiên Chúa vậy.
(c 28) Ông Phê-rô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài":
+ "Nếu quả là Ngài": Phê-rô vẫn còn nghi ngờ không biết có phải là Thầy hay không.
+ "thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài": Câu này cho thấy cá tính của Phê-rô là một người bốc đồng và thiếu chín chắn: "Mau nói mau lỗi".
(c 29) Đức Giê-su bảo ông: "Cứ đến!" Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giê-su:
Phê-rô được chia sẻ quyền năng siêu nhiên giống như Thầy. Tuy nhiên ông đi trên biển được là nhờ đã đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su.
(c 30) Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt dầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!":
+ Thấy gió thổi thì ông đâm sợ: Đức Giê-su có lần đã ban quyền chiến thắng sự dữ cho Phê-rô (x Mt 16,18b). nhưng ông có nhận được ơn ấy hay không là tùy vào lòng tin mạnh hay yếu. Bao lâu Phê-rô tập trung vào Đức Giê-su, thì ông còn khống chế được sức mạnh của biển cả. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi, thì ông sợ hãi và bắt đầu chìm xuống.
+ "Thưa Ngài, xin cứu con với!":Câu này tương tự như lời cầu xin của các tông đồ khi thuyền của các ông bị gió bão sắp nhấn chìm (x Mt 8,25). Trong Thánh Vịnh cũng có nhiều lời cầu nguyện của dân Chúa, xin Người giúp họ vượt qua làn nước đe dọa (Tv 69,15-16; 144,7).
(c 31) Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi?": Trước lời cầu xin thiết tha của Phê-rô, Đức Giê-su đã lập tức đáp lại:Người đưa tay nắm lấy ông. Lời Người vừa trách yêu vì đức tin ông còn yếu kém, lại vừa khích lệ ông kiên trì giữ vững đức tin vào Người.
(c 32) Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. (c 33) Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là con Thiên Chúa!"
+ Gió lặng ngay: Chính sự hiện diện của Đức Giê-su cũng đủ xua tan sóng gió và đem lại bình an cho con thuyền của các môn đệ.
+ Quả thật Ngài là con Thiên Chúa!: Lời tuyên xưng này mới chỉ nhìn nhận Đức Giê-su là con Thiên Chúa, đồng nghĩa với Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, Tin Mừng Mát-thêu lại muốn mượn lời tuyên xưng này để trình bày đức tin của Hội Thánh thời sơ khai: "Đức Giê-su Ki-tô chính là con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha".
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14,27).
Phê-rô thất gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" (Mt 14,30).
CÂU CHUYỆN:
HÃY NHÌN LÊN BẦU TRỜI !
Vào thời kỳ mới có thuyền buồm, một thiếu niên kia được vị thuyền trưởng cho đi thuyền vượt biển để học tập làm thủy thủ. Một hôm gió bão nổi lên làm mặt biển dậy sóng. Viên thuyền trưởng ra lệnh cho cậu ta phải leo lên cột buồm để tháo các cánh buồm ra, tránh cho con thuyền khỏi bị gió bão vùi dập. Khi cậu ta vừa leo vừa ngước mặt lên trời thì mọi sự đều suông sẻ. Chỉ thoắt cái là cậu đã leo đến lưng chừng cột buồm. Nhưng khi cậu bắt đầu nhìn xuống mặt biển đang nổi sóng trong cơn gió bão, thì cậu lập tức bị chóng mặt như sắp bị té xuống đến nơi. Bấy giờ một thủy thủ gìa nhiều kinh nghiệm đã la to lên rằng:"Này chú bé, mau ngước mặt lên trời đi chứ đừng nhìn xuống! Hãy tiếp tục nhìn lên trời đi!" Cậu bé làm theo lời chỉ dẫn đó và đã leo lên tới đỉnh cột buồm và cậu đã hoàn thành nhiệm vụ là tháo được sợi dây để thả cánh buồm xuống.
Lỗi của cậu thiếu niên cũng giống như lỗi của Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: Cậu ta đã bỏ đích nhắm là bầu trời để nhìn xuống mặt biển nổi sóng, giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Đức Giê-su để nhìn vào mặt biển đầy giông tố. Vì thế ông đã bị chao đảo và bắt đầu chìm xuống. Cuộc đời các tín hữu chúng ta cũng vậy: Bao lâu chúng ta còn nhìn vào chúa Giê-su thể hiện qua việc siêng năng dự lễ và rước lễ. Bao lâu chúng ta còn năng nhớ đến Chúa, thì ta còn sống đạo tốt. Nhưng ngày nào chúng ta bỏ những việc đạo đức kia, thì tâm hồn chúng ta bắt đầu chìm đắm dưới quyền lực của ma quỷ, sa đà vào các thói hư tật xấu và các đam mê bất chính khác.
ĐỨC TIN CON NGƯỜI THƯỜNG MỎNG DÒN YẾU ĐUỐI:
Một chàng thanh niên nọ có sở thích chơi những trò mạo hiểm. Một hôm anh ta mang theo một chiếc dù màu vàng hình chữ nhật leo lên một mỏm núi khá cao, định sẽ từ đó nhảy xuống dưới, rồi khi đang rơi sẽ cho dù bung ra và anh ta sẽ được hưởng cảm giác bay đi trong gió trước khi đáp xuống an toàn dưới mặt đất. Nhưng đang lúc chạy lấy đà để nhảy thì chẳng may anh bị trượt chân và té xuống bên dưới mà chưa kịp bung chiếc dù ra. May thay anh ta đã kịp thời bám được vào một cành cây mọc nhô ra bên sườnnúi. Khi đó, anh cố gắng ôm chặt lấy cành cây kia. Nhìn lên mỏm núi không một bóng người. Nhìn xuống đất thì anh lại cảm thấy choáng váng vì chỉ thấy một vực sâu thăm thẳm ở bên dưới. Bấy giờ theo thói quen, anh chợt nghĩ đến Chúa và thầm thĩ cầu xin rằng: "Lạy Chúa, xin mau cứu giúp con. Con xin thề sẽ làm tất cả những gì Chúa muốn, miễn là con xuống tới mặt đất an toàn". Bỗng anh nghe thấy một tiếng nói từ trời vọng xuống: "Được, Ta sẽ cứu con, với điều kiện con phải tin vào Ta". Anh ta liền đáp: "Lạy Chúa, con xin vững tin và cậy trông vào Chúa! Xin hãy mau cứu con vì tay con đã mỏi lắm rồi!". Bấy giờ Chúa lại phán: "Tốt lắm ! Ta sẽ đưa tay đỡ con, nếu con chịu buông cành cây ra để rơi xuống !". Nhưng thay vì buông tay khỏi cành cây, anh ta lại càng bám chặt hơn nữa. Rồi anh quay lên mỏm núi cao và cố la lớn: " Có ai ở trên đó không? Mau cứu tôi với! Cứu tôi với !".
Quả thật đức tin của chàng thanh niên trong câu chuyện trên cũng thật yếu kém chẳng khác gì Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay. Ong Phê-rô đã dược Chúa cho phép đi trên mặt biển mà đến cùng Người. Nhưng đức tin của ông không đủ mạnh để tin cậy phó thác trọn vẹn cho Chúa. Khi thấy gió thổi, ông sợ hãi và bắt đầu chìm đắm. Bấy giờ ông vội la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với !", Chúa đã đưa tay nắm lấy ông mà trách: "Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?". Còn đức tin của chúng ta thì sao? Giả như chúng ta ở trong hoàn cảnh của anh thanh niên thì chúng ta có dám buông tay ra để được Chúa cứu hay không ? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để phó thác trọn vẹn cho Chúa khi ta gặp tai ương và những sự rủi ro trái ý không ?
CẦU NGUYỆN ĐEM LẠI BÌNH AN CHO TÂM HỒN.
KÉT MIU-LƠ (Keith Miller) tác giả cuốn sách tựa đề là "Hương rượu mới" (The taste of new wine). Trong sách, ông đã thuật lại một biến cố xảy ra làm thay đổi cả cuộc đời của ông như sau:
Vào một đêm nọ, trên đường về nhà, Kết bị một chiếc xe từ sau tông làm anh té nằm bất tỉnh bên lề đường suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, trong khi chờ xe cứu thương đến mang đi. Khi tỉnh dậy và ý thức tình trạng của mình, anh bắt đầu cầu nguyện với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong,tự nhiên anh cảm thấy tâm hồn mình được bình an lạ lùng. Kết viết: "Tôi nghĩ thật đáng là đáng xấu hổ biết bao khi mà mãi cho đến bây giờ tôi mới khám phá ra giá trị của lời cầu nguyện. Từ khi ấy, dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không thấy sợ hãi chút nào. Tôi có cảm giác Chúa luôn hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi". Sau đó, Kết đã được các bác sĩ kịp thời cứu sống và dần dần bình phục hoàn toàn. Anh quay trở lại đại học và được bầu làm chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai. Nhưng rồi về sau, bị các hoạt động xã hội lôi cuốn, anh đã thôi không đến nhà thờ nữa và bắt đầu lún sâu vào các đam mê tội lỗi.
Sau khi tốt nghiệp dại học, anh lập gia đình và vào làm việc cho một hãng xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Nhưng cuộc sống gia đình và công việc đã không suông sẻ như anh mong ước. Một hôm chơi bài và bị thua một số tiền lớn, bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu giờ đây hết sạch ! Anh bị vợ nặng lời mạt sát và đòi ly hôn. Anh buồn chán đánh xe chạy vọt đi mà không biết phải đi dâu. Sau khi chạy được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng hút thuốc. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần quay về nhà uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng hôm sau là hết. Thế nhưng bây giờ sự thể lại không còn đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực phá sản vì một phút lỡ lầm! Anh nhìn lên trời và la to lên rằng: "Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực sự muốn như vậy đó!" Ngay lúc ấy, anh cảm thấy tâm hồn bình an, một cảm giác mà cách đây mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị thương nằm bất tỉnh bên đường. Ngay lúc đó, anh đã có một quyết tâm là phải thay đổi cuộc sống. Dù không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của Thiên Chúa, nhưng Kết đã nhận biết rõ điều Chúa muốn nơi anh. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực của anh. Có thể nói: Kết đã thực sự tái sinh để trở nên một con người mới hoàn toàn.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào mình. Khi chúng ta cảm thấy tâm hồn bất an, chính là lúc chúng ta đã bỏ không nhìn vào Chúa nữa. Chính khi bị chìm sâu trong các đam mê tội lỗi, là lúc chúng ta đã hoài nghi tình thương của Chúa, đã bỏ các việc đạo đức. Bấy giờ chúng ta hãy noi gương Thánh Phê-rô xưa để cầu xin với Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu con với!". Chắc chắn Người sẽ đưa tay ra nắm lấy chúng ta và dẫn ta lên thuyền bình an.
SUY NIỆM:
CỨ YÊN TÂM. CHÍNH THẦY ĐÂY. ĐỪNG SỢ !:
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giê-su lên làm vua. Nhưng Người đã giục các môn đệ lập tức lên thuyền qua bờ bên kia trước, còn Người thì ở lại mà giải tán đám đông. Sau đó, Người lên núi cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Cha.
Nhưng Đức Giê-su vẫn không quên các môn đệ của Người. Người nhìn ra biển để dõi theo con thuyền của các ông. Người biết các ông đang vất vả đương đầu với sóng gió. Nhưng đây cũng là điều cần để thử thách đức tin của các ông và làm cho đức tin ấy trưởng thành. Đến gần sáng, Người đã đi trên mặt biển mà đến với các ông. Khi thấy người đi trên biển, các ông tưởng mình thấy ma và kêu la sợ hãi. Nhưng Người đã trấn an họrằng: Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng sợ!
Biển tượng trưng cho sức mạnh của ma quỷ, có thể nuốt chửng con người. Do đó, đi trên mặt biển là Đức Giê-su biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trấn áp quyền lực của ma quỷ. Khi để chúng ta gặp phải những tai ương, bệnh tật và đau khổ là Người muốn huấn luyện đức tin của chúng ta. Đức Giê-su luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta và sẵn sàng giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ và sự dữ. Nếu thực sự tin vào Người thì chúng ta sẽ không sợ hãi khi gặp bất cứ thử thách nào, nhưng luôn tin cậy Chúa sẽ rút từ sự dữ ra sự lành để chúng ta được ơn cứu độ.
"THƯA NGÀI, XIN CỨU CON VỚI".
Thấy Đức Giê-su đi trên biển, Phê-rô bán tín bán nghi và muốn kiểm chứng có phải là Thầy hay không, nên ông đề nghị cho mình được đi trên biển mà đến cùng Thầy. Tin tưởng và luôn nhìn vào Thầy, Phê-rô đã có thể vượt trên biển cả giống như Thầy mình. Nhưng khi gió mạnh ào đến xua tan đức tin, thì ông bắt đầu chìm xuống. Ong vội kêu lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!".
Bàn tay Đức Giê-su đã kịp đưa ra nắm lấy ông và đưa ông lên thuyền bình an với lời trách nhẹ: "Người đâu mà kém tin như vậy ! Sao lại hoài nghi ?"
LUÔN TIN TƯỞNG CẬY TRÔNG VÀO CHÚA:
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng đã bị Chúa bỏ rơi khi để chúng ta liên tiếp gặp phải tai nạn rủi ro. Nhưng thực ra đó lại là cách Chúa thương dùng để huấn luyện đức tin cho chúng ta. Người muốn thử thách đức tin của chúng ta: " Lửa thử vàng, gian nan thử sức !". Nếu gặp những tai ương hoạn nạn mà chúng ta lại sợ hãi, bỏ cầu nguyện dự lể, để tin theo bói toán, bùa ngải, thì đức tin nơi ta đã chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn trung thành với Chúa, vẫn chu toàn các việc đạo đức. Nhất là xin Chúa soi sáng để biết phải làm gì và làm như thế nào, luôn phó thác đời mình trong tay Chúa
thì mới chúng tỏ chúng ta có đức tin mạnh.
"Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện" (Mt 14,23), còn chúng ta thường hay chữa mình: Tôi bận quá không có giờ rảnh nào để vào sa mạc là nhà thờ mà cầu nguyện. Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên cạnh ta và ở trong lòng ta. Chỉ cần một chút cố gắng là ta có thể tạo ra sa mạc cho mình: Mỗi ngày chúng ta có biết bao giờ rảnh rỗi để đi chơi, uống cà-phê, tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ trước vô tuyến truyền hình
Tại sao ta lại không bớt ra một ít phút để vào sa mạc tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày có rất nhiều cơ hội gặp Chúa, mà vì không ý thức sự cần thiết hay do sự lười biếng mà chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội gặp Chúa. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi chờ đèn xanh đèn đỏ, khi đang đợi điện thoại, đang chờ đóng gói món hàng
Mỗi lần bị kẹt xe hay khi bất ngờ bị cúp điện không thể làm việc bình thường, thay vì bực bội khó chịu, chúng ta có thể nhớ Chúa đang hiện diện trong mình và thưa với Người về những điều làm ta lo lắng và đang phải đối phó.
THẢO LUẬN: Khi trẻ con tới tuổi biết bò biếi đi mà cha mẹ không tập cho con đứng trên đôi chân của mình vì sợ nó bị té đau, thì làm sao con ta có thể đi đứng bình thường được ? Trong Tin Mừng hôm nay, tại sao Đức Giê-su lại để cho Phê-rô gặp phải gió lớn khi đang đi trên biển ? Tại sao nhiều lúc Chúa để chúng ta vấp ngã hay gặp phải những điều rủi ro trái ý ?
III. HIỆP SỐNG CẦU NGUYỆN
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua câu chuyện con thuyền các môn đệ gặp sóng to gió lớn giữa biển khơi hôm nay, Chúa muốn ám chỉ con thuyền Hội Thánh chúng con. Hội Thánh ngày nay cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trở lực nhiều khi không thể tiến triển được.
LẠY CHÚA. Xin cho các vị mục tử trong Hội Thánh luôn tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho mỗi tín hữu chúng con luôn biết chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng việc quên mình vị tha và yêu thương phục vụ. Xin cho chúng con sẵn sàng đóng góp công của để góp phần vào sứ mệnh loan Tin Mừng của Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LẠY MẸ MA-RI-A. Qua sự kiện Thánh Phê-rô hoài nghi và sợ hãi trước cơn gió mạnh nên bị chìm xuống, Chúa muốn con phải luôn vững tin vào Chúa mỗi khi gặp thửthách gian nan. Ngày nay vẫn có nhữngcơn sóng gió đang làm chúng con hoài nghi Chúa và suy giảm đức tin, khiến chúng con ngày một chìm sâu trong các đam mê tội lỗi.
LẠY MẸ. Mỗi khi con sắp chìm đắm, xin hãy giúp con nghe lời Chúa động viên: Cứ yên tâm. Chính Thầy đây, đừng sợ !. Xin Mẹ hãy nắm lấy tay con mỗi lần con sắp quỵ ngã. Xin hãy nâng đỡ đức tin yếu hèn của con, để con luôn đứng vững trước bao sóng gió cuộc đời. Nhất là xin cho con biết noi gương Mẹ: luôn ngước mắt lên Chúa Giê-su là nguồn hy vọng và là sự cậy trông độc nhất của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
------------------------------
Sự kiện xảy ra qua đoạn Tin Mừng vừa nghe không có chỉ là khó hiểu, thế nhưng đâu là mục: TN 19-A31
Sự kiện xảy ra qua đoạn Tin Mừng vừa nghe không có chỉ là khó hiểu, thế nhưng đâu là mục đích mà Chúa Giêsu định nhắm tới.
Đi trên mặt nước và làm cho sóng gió im lặng, mục đích của Chúa Giêsu là muốn làm cho các tông đồ vững tin và cậy trông ở Chúa. Thực vậy, sau phép lạ bánh hóa nhiều Ngài truyền cho các ông lên đường. Lúc bấy giờ trời đã về chiều mà nước thì lại ngược và gió đã nổi lên, các tông đồ cảm thấy nặng nề và không mấy hứng khởi. Vượt biển trong tình trạng đó sẽ không thể nào tránh khỏi vất vả và mệt nhọc. Đang lúc vật lộn với sóng gió, Chúa Giêsu thân hành hiện đến để an ủi và giúp đỡ. Trông thấy Chúa, lúc đầu các ông tưởng là ma. Nhưng Chúa đã lên tiếng để trấn an, rồi lại truyền cho sóng gió yên lặng và con thuyền yên hàn cặp bến.
Trước hết đối với Phêrô, phép lạ này có tính cách quan trọng, ông đã tỏ ra yêu mến và nhiệt thành đối với Chúa, nhưng việc xin phép lạ vô cớ đã tỏ ra ông là người hấp tấp thiếu suy xét, nhiệt thành không phải lúc khi xin phép lạ được đi trên mặt nước. Trong trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác, ông đã nói trước và làm trước các tông đồ. Để đem lại cho ông một bài học, Chúa đã để ông lảo đảo đến sắp chìm và sau này Chúa còn để ông sa ngã… song nhờ lòng tin mạnh mẽ, trong lúc nguy cơ ông đã kêu cầu Chúa và Chúa đã giơ tay cho ông nắm lấy, rồi đưa ông lên thuyền với Ngài. Như thế, Chúa muốn bảo ông hãy tin tưởng vào Chúa và chỉ nhờ một mình Ngài, ông mới được đứng vững. Ông chỉ được cứu thoát nếu biết nắm chặt vào bàn tay Chúa.
Tiếp đến là đối với Giáo Hội. Con thuyền của các tông đồ là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội, trong đó Phêrô là người đứng đầu, vì Chúa đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Phêrô… Đúng thế, Giáo Hội không khác gì một con thuyền của các tông đồ, vượt biển giữa cảnh bão táp. Có những khó khăn từ bên ngoài, khác nào những trận cuồng phong thổi ngược, đồng thời cũng có những khó khăn tự bên trong khác nào những ngọn sóng ngầm không kém phần nguy hiểm. Các tông đồ đã phải cực nhọc chèo chống, mà đôi khi còn có cảm giác chìm mất, đến nỗi phải thốt lên: Lạy Thầy, xin hãy cứu chúng con kẻo chúng con chết mất.
Tuyệt vọng mà không mất niềm tin, trong lúc không đợi chờ, thì Chúa Giêsu đã đến, Ngài khiến sóng gió phải yên lặng và đưa con thuyền tới bến bình an. Bao giờ Chúa cũng bảo vệ Giáo Hội Ngài khỏi đắm chìm cho dù cuồng phong và sóng gió có thổi mạnh.
Và sau cùng là đối với mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta là một phần tử của Giáo Hội, cũng thường gặp phải những khó khăn, những giông tố từ bên trong cũng như bên ngoài, làm cho chúng ta có cảm giác bị bỏ rơi và chìm mất. Tuy nhiên, cũng như Giáo Hội, Chúa luôn nâng đỡ và cứu giúp, miễn là chúng ta biết tin tưởng chạy đến với Ngài. Bão táp sẽ qua, cuồng phong sẽ dứt, trời quang mây tạnh sẽ trở lại và chúng ta sẽ được sống trong tình thương và sự an bình của Chúa. Trong những ngày hạnh phúc, chúng ta đã dễ dàng lãng quên Chúa và chỉ trong giờ phút đen tối, chúng ta mới nhớ đến Ngài, đó là dấu chỉ của một đức tin thiếu trưởng thành, mang nặng tính chất vị kỷ và cầu an. Chính vì thế mà hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ và đặt lại vấn đề niềm tin của chúng ta đối với Chúa hiện giờ như thế nào ? Đức tin chân chính sẽ giúp chúng ta nhận ra dấu chỉ của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, trong sáng cũng như đen tối, vui sướng cũng như đau khổ để rồi chúng ta sẽ xử sự đúng với tinh thần Phúc âm.
Bởi vì, trong giây phút này, chúng ta hãy thành tâm kêu lên: Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho chúng con…
------------------------------
Nhà văn Mark Twain cùng đi với vợ viếng thăm Đất Thánh. Họ đến Caphanaum, nơi Chúa Giêsu: TN 19-A32
Nhà văn Mark Twain cùng đi với vợ viếng thăm Đất Thánh. Họ đến Caphanaum, nơi Chúa Giêsu khởi sự đời sống mục vụ công khai và trải qua nhiều biến cố quan trọng ở đây. Thị trấn nằm trên bờ biển Galilêa. Vào một đêm trăng, hai vợ chồng bước đi dọc theo bờ biển và quyết định mướn một chiếc thuyền chèo ra biển hóng gió. Mark Twain hỏi một người đàn ông đang ngồi trên thuyền phải trả bao nhiêu tiền để đưa họ ra biển. Mark Twain thường mặc bộ Com-plê trắng, giầy trắng và đội mũ cao bồi rộng vành của người Texas. Với phong cách và kiểu ăn mặc như vậy, người chủ thuyền nghĩ Mark Twain phải là một người Mỹ giàu sang nên ra giá 25 đôla cho một chuyến du thuyền. Nghe vậy, Mark Twain đành cám ơn ông chủ thuyền rồi bỏ đi. Đi được vài bước ông quay sang nói với vợ: “Bây giờ tôi mới biết tại sao Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước !” Có phải ý ông muốn nói vì đi thuyền đắt quá, Chúa Giêsu không có tiền, nên phải bước đi trên mặt nước không ?
Mark Twain đã nghĩ ra một cách cắt nghĩa khôi hài về phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên biển trong bài Phúc âm hôm nay. Một sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của câu chuyện Chúa Giêsu bước đi trên biển, ắt phải nói về con người Chúa Giêsu là ai, về Giáo Hội và về đời sống đức tin của mỗi người Kitô hữu.
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước biển, kết hợp với câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong bài Phúc âm tuần trước, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài có quyền hành trên tất cả mọi sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên.
Người Do Thái tin tưởng rằng biển cả thuộc lãnh vực của các quyền lực ma quỉ siêu nhiên, chẳng hạn bọn quỉ nhập vào bầy heo, rồi lao xuống biển (Mt 8,32). Một trận cuồng phong bão tố ở biển khơi được coi là công việc của những thần thù nghịch. Bằng việc bước đi trên những ngọn sóng thần hung dữ và làm yên lặng biển động, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng có quyền lực và hoàn toàn làm chủ trên những sức mạnh thù nghịch này.
Rất nhiều người Kitô hữu thờ lạy Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần, ma quỉ, và có khi lại còn tin vào bùa ngải nữa. Phúc âm hôm nay mang lại cho chúng ta một niềm tin tưởng rằng những quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa Giêsu đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta.
Con tàu trên đại dương là một trong những biểu tượng của Giáo Hội mà những người Kitô hữu tiên khởi đã sử dụng để ám chỉ cuộc hành trình đức tin trên trần gian. Giống như con tàu nghiêng ngả trên sóng nước, Giáo Hội cũng bị tấn công từ mọi phía bởi những quyền lực trần gian như thánh Augustinô đã nói: “Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa”. Ở giữa những khủng hoảng, Chúa Giêsu đến mang lại sự bình an và hòa khí êm dịu trong Giáo Hội. Thế nhưng, Ngài lại đến dưới một hình thức và cách thế làm nhiều người Kitô hữu sợ hãi và la lên: “Ma kìa!” Họ muốn Ngài tránh xa khỏi họ. Nếu biết lắng nghe, trong bão tố chúng ta sẽ nhận ra tiếng Ngài thì thầm trong gió: “Hãy an tâm. Thầy đây, đừng sợ !” Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Ngài hứa, sự hiện diện của Ngài sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết.
------------------------------------------
Bài học của Phêrô bước đi trên biển đến với Chúa, và khi nghi ngờ sợ hãi ông đã bị chìm xuống: TN 19-A33
Bài học của Phêrô bước đi trên biển đến với Chúa, và khi nghi ngờ sợ hãi ông đã bị chìm xuống cũng là bài học đức tin cho tất cả mọi người Kitô hữu. Khi nào không tập trung nhìn thẳng vào Chúa Giêsu mà chỉ nhìn vào những đối tượng khác, chúng ta sẽ bị khủng hoảng.
Một nam tu sĩ trong tu hội của Mẹ Têrêsa Calcutta đã đến than phiền với mẹ về luật lệ của một vị bề trên đã ban ra, mà ông cảm thấy rằng nó đã cản trở việc mục vụ của ông. “Ơn gọi của tôi là làm việc cho những người cùi”, ông nói với Mẹ Têrêsa, “tôi muốn sống cho những người cùi”. Mẹ Têrêsa nhìn thẳng vào mắt vị tu sĩ một lúc rồi mỉm cười và nhẹ nhàng nói: “Thưa sư huynh, ơn gọi của sư huynh không phải là làm việc cho những người cùi, nhưng ơn gọi của sư huynh là thuộc về Chúa Kitô”.
Khi nào chúng ta không nhìn thẳng lên trời, không nhìn vào những điểm tích cực và lạc quan mà chỉ nhìn xuống, nhìn vào những hoàn cảnh đe dọa xung quanh, vào điều tiêu cực với lòng bi quan yếm thế, chúng ta sẽ bắt đầu chìm xuống.
Cha Mark Link đã dùng câu chuyện sau đây để minh họa cho điều này. Một con tàu đang gối sóng trên đại dương. Những cơn gió mạnh thổi ngược vào những cánh buồm làm chúng có thể bị rách bươm. Một chàng thủy thủ trẻ được lệnh phải trèo lên cột những cánh buồm lại. Anh chưa bao giờ trèo lên cột buồm chính vào thời tiết khắc nghiệt như vậy bao giờ. Anh bắt đầu trèo, và dường như muốn tụt xuống vì sự gầm thét của gió bão làm cho anh quá sợ hãi khi nhìn xuống. Trong kinh hoàng, anh tê cóng người lại, không thể leo lên hay tụt xuống được. Hoảng sợ anh la to: “Tôi sẽ ngã. Tôi sẽ ngã”. Viên chỉ huy hét lên thật lớn trong cơn gầm thét của bão tố: “Hãy nhìn lên ! Hãy nhìn lên sẽ không bị ngã !” “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?” (Mt 14,31)
Khi vượt biên đến trại tị nạn Thái Lan, tôi đã học thêm được hai từ Anh ngữ mới: “boat people and land people”, người đến bằng đường biển đã được Cao Uy Liên Hiệp Quốc áp dụng chính sách tị nạn cho đi định cư dễ dàng hơn. Sau khi vượt biên bằng đường bộ sang Campuchia, tôi đã xuống tàu vượt qua Vịnh Thái Lan. Con tàu chúng tôi sử dụng chỉ là chiếc tàu chở hàng nông sản trên dòng sông Cửu Long, chứ không phải chiếc tàu đánh cá ngoài biển khơi. Nó nhỏ bé và mong manh giống như chiếc lá trôi trên mặt đại dương bao la. Vào một đêm giông bão, trời tối đen như mực, ghé tai vào mạn thuyền có thể nghe tiếng gió kêu rít bên ngoài. Con thuyền cũ kỹ và bé nhỏ cố gắng trồi lên trên những ngọn sóng cao rồi lại lao đầu xuống vực thẳm đen tối. Sóng đập vào mạn thuyền kêu răng rắc. Mọi người trong thuyền chỉ còn nhắm mắt, bịt tai và cầu xin Thiên Chúa cùng Mẹ Maria cho qua được cơn khủng khiếp này. Bây giờ nghĩ lại kinh nghiệm này, tôi có cảm nghiệm giống như Phêrô. Ở trên một chiếc thuyền mỏng manh trôi trên biển cả, có khác nào Phêrô bước đi trên nước. Một kinh nghiệm vô cùng sợ hãi nhưng cũng tràn đầy ơn phúc ! Tôi đã được cứu thoát là nhờ niềm tin và ơn phúc. Nếu bây giờ lập lại biến cố này, tôi sợ rằng sẽ chìm, vì sợ hãi đã càng ngày càng lớn và niềm tin lại suy yếu dần. Tôi đã nghi ngờ giống như Phêrô. Và chắc chắn cũng sẽ chìm giống như Phêrô ! Trong lúc các môn đệ cần đến Chúa Giêsu, Ngài đã đến với họ. Khi có gió ngược và cuộc đời trở nên trắc trở khó khăn, Chúa Giêsu đã ở đó để giúp đỡ. Ngay khi chúng ta cần đến Ngài, Ngài đã ở ngay đó để giải cứu chúng ta.
William Barclay chia sẻ như sau: “Trong cuộc đời gió thường thổi ngược. Có những lần khi chúng ta đi ngược gió, và cuộc đời là một sự phấn đấu tuyệt vọng với chính mình, với những hoàn cảnh, những nỗi buồn và quyết định của mình. Những lúc đó, không ai phải phấn đấu một mình, bởi Chúa Giêsu đến với họ qua những sóng gió cuộc đời, với cánh tay đưa ra để cứu vớt và với giọng truyền êm ái ra lệnh cho chúng ta phải an tâm, đừng sợ hãi”. Thực ra câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước không phải là một biến cố tình cờ xảy ra cho các môn đệ. Đây là dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu và quyền năng của Chúa Giêsu đối với dân Ngài khi gặp bão tố gian nguy. Tất cả chúng ta sẽ cảm nghiệm điều này nếu chúng ta kêu cầu với Ngài như Phêrô khi xưa: “Lậy Thầy, xin cứu con!”.
------------------------------------------
- Nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
Thánh Matthêu chỉ kể hai lần về việc Chúa cầu nguyện, trong đoạn này và trong vườn cây dầu: TN 19-A34
Thánh Matthêu chỉ kể hai lần về việc Chúa cầu nguyện, trong đoạn này và trong vườn cây dầu (Mt 26:36ff). Đối với dân vùng Địa Trung Hải, cầu nguyện là "liên lạc với đấng nắm sự hiện hữu của mình. Cầu cho một kết quả nào đó" [Pilch]. Trong đoạn này, kết quả là Chúa Cha đáp ứng lời nguyện của Chúa Con là cho sóng lặng.
Đức tin còn có nghĩa là trung thành. Phêrô vì sợ hãi mà sao lãng việc trung thành với Chúa, nên bị chìm (c. 30). Lời khẩn cầu của ông: "Thưa Ngài, xin cứu con với" cũng là lời cầu trong Mt 8:25 và Thánh Vịnh 69.
"Kém tin" (c.31) là tình cảnh của Phêrô cũng như của đa số các tông đồ và tín hữu khác. Chúng ta tin Ngài là Chúa, nhưng đôi khi cũng hoài nghi. Có trung thành, nhưng không phải trong mọi lúc. Tuy nhiên những kẻ yếu tin vẫn còn hy vọng vì "Đức Giêsu đưa tay ra" cứu giúp.
Một Điểm Chính
Chúa Giêsu là Thiên Chúa
"Chính Thầy đây" (c. 27) có thể được dịch chính xác hơn thành "Ta đây", là cách mà Chúa tỏ thiên tính trong Cựu Ước (Is 41:4 và 43:10). Đi trên sóng biển cũng là dấu chỉ Thiên Chúa, như trong Job 9:8 có câu "Mình Ngài là đấng trải ra các tầng trời và đạp chân trên sóng biển". (Có thể xem thêm Ex 14:13-31, Ps 77:20, Is 43:16, Hab 3:15). Thấy quyền năng Ngài, dân chúng bái lạy và nói: "Ngài là Con Thiên Chúa" (c.33).
Suy Niệm
Đức tin của tôi lớn tới độ nào? Tôi có kinh nghiệm gì trong cuộc sống để tuyên xưng rằng "Ngài là con Thiên Chúa"?
Đời tôi đã gặp những sóng gió nào? Có làm tôi sao lãng việc trung thành với Chúa không? Hiện giờ tôi đang sợ những sóng gió nào?
Than thở cùng Chúa, "Thưa Ngài, xin cứu con với". Chúa trả lời ra sao?
------------------------------------------
TN 19-A35: Cam kết cho đến chết
Đấng Cứu Thế? - Ai Cần Đấng Cứu Thế?" chính là tựa đề của một chương trong cuốn "Những: TN 19-A35
"Đấng Cứu Thế? - Ai Cần Đấng Cứu Thế?" chính là tựa đề của một chương trong cuốn "Những Dụ Ngôn của Peanuts." Chương bao gồm những mảnh hoạt họa mà trong đó Linus và Lucy đang theo dõi một em bé đang bò trên sàn nhà. "Mày nghĩ coi còn bao lâu nữa thì Sally mới biết đi?" Linus hỏi. "Lạy Chúa tôi!" Lucy nói, "vội vàng làm gì? Cứ để nó bò vòng vòng một thời gian nữa! Đừng thúc nó làm gì! Nó còn có nhiều ngày giờ mà." Lucy ngừng để suy tư trong giây lát. Rồi cô nói: "Một khi mà mày đứng dậy, và khởi đầu bước đi, thì mày đã phải cam kết cho đến chết!"
Hành động trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay khởi đầu liền ngay sau khi Chúa Giêsu đã nuôi 5 ngàn ăn no nê qua phép lạ hóa mấy chiếc bánh và mấy con cá ra nhiều. Giờ đây, Chúa Giêsu nói các môn đệ hãy xuống thuyền trước Ngài sang bên kia bờ hồ Galilê. Thế nhưng sóng gió nổi lên trong khi họ vượt hồ. Rồi họ thấy một hình bóng đang đi trên mặt nước. Đấy chính là Chúa Giêsu, đang tiến đến để giúp họ. Các môn đệ thì đang khiếp sợ. Mặc dầu họ mới được chứng kiến "Phép Lạ của Bánh và Cá" của Chúa Giêsu, đức tin chưa hoàn toàn cam kết và ngay cả trí óc nhỏ nhen hẹp hòi sẽ không thừa nhận trình trạng có thể rằng Chúa Giêsu có thể làm được việc này. Đi trên mặt nước? Họ nói: "Ma đấy," và họ "hoảng hốt la lên." Ngay cả sau khi Chúa Giêsu trấn tĩnh sự sợ hãi của họ, thế mà đức tin của Phêrô vẫn còn quá nhỏ nhen. Chúa Giêsu ra lệnh cho ông đi trên mặt nước. "Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống đi trên mặt nước mà đến với Chúa Giêsu," Matthêu nói với chúng ta. Thế nhưng ngay khi ông cảm thấy sóng gió nổi lên, ông đã run sợ và cảm thấy mình bị chìm xuống. "Thầy ơi, xin hãy cứu con," ông la lên (Mt 14:30). Ông bị chìm xuống bởi vì ông từ chối tin rằng Chúa Giêsu có quyền tạo dựng các kinh nghiệm ngoại thường này trong cuộc sống của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô thôi "bò quanh" với đức tin của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô đứng dậy trong đức tin, và tập đi. Chúa Giêsu muốn Phêrô hoàn toàn cam kết với Ngài, trong đức tin, cho đến chết!
Có nhiều lúc khi mà nỗ lực của bạn để làm việc đúng, làm tốt bất kể việc gì mà bạn được kêu gọi để thi hành, dù khó khăn và thất vọng như là đi trên mặt nước: cố là người cha hay người mẹ tốt; cố làm cho cha mẹ hiểu mình; cố không giữ lòng thù hằn; cố loại trừ đi những tập tục xấu; cố không uống miếng rượu đầu tiên đấy hay hút điếu thuốc đầu tiên đấy; cố tiếp tục kiêng cữ ăn uống cần thiết; cố chấm dứt sự cô đơn và buồn rầu sau khi mất đi người thân yêu. Đấy giống như cố đi trên mặt nước vậy. Bạn cảm thấy không có gì vững chắc dưới chân cả. Bạn có cảm giác khủng khiếp như bị hút vào hố sâu đen tối.
Phêrô đã cảm nghiệm cảm giác này trong khi ông đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Phêrô đã để chính ông bị chìm vào vực sâu bởi vì ông đã mất lòng tin. Khi mọi sự dường như hợp với ý hướng của ta, và khi gánh nhẹ nhàng, thì Hành Vi Đức Tin chính là lúc dễ dàng nhất. Thế nhưng khi sự thể bắt đầu đi ngược ý ta, khi gánh trở nên nặng nề, và chúng ta cảm thấy tinh thần sa sút, thì Hành Vi Đức Tin đi đến chỗ khó khăn nhất. Các môn đệ đã học biết thực thi những công tác dường như bất khả mà Thiên Chúa trao cho họ để thực hành, dưới ánh sáng Đức Tin. Họ phải học biết rằng họ không bao giờ cô đơn lẻ loi, không bao giờ bị ruồng bỏ, dù tình thế khủng khiếp cảm thấy đến đâu, dù cái chết vì chính Chúa Giêsu đã chết cho ta.
Có những người nói với ta rằng thật vô ý nghĩa khi nói về cái chết của Chúa Giêsu. Có phải sự sống của Ngài mới là quan trọng đấy sao? Nó chả có nghĩa lý gì bao lâu chúng ta nhận thức rằng chính trong sự chết, trong Cuộc Đóng Đinh, tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta được tỏ rõ nhất, mạnh liệt nhất, nồng nhiệt nhất, và trực tiếp nhất. Đấy chính là vì sao Thập Giá trở nên trung tâm cho Đức Tin Kitô Giáo từ ngay lúc khởi đầu. Đấy chính là tột đỉnh của mọi sự mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm để mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Có một người đàn ông bị lôi cuốn bởi Phúc Âm Chúa Giêsu và ông đã đi Nhà Thờ trong vòng vài tháng nay. Khi ông được hỏi là tại sao ông chưa tiến bước nữa để chịu phép Rửa Tội, ông nói rằng toàn bộ kinh nghiệm đi Nhà Thờ cũng giống như lên tàu lửa và hỏi ông tài xế: "Bao nhiêu tiền?" Và ông tài xế trả lời: "Cuộc sống của ông." "Khi tôi nghe thấy điều đó, tôi cảm thấy run sợ và tôi đã trốn cho đến giờ." Chúa Giêsu kêu mời chúng ta lên xe và tiến vào sứ mệnh mục vụ của người Kitô hữu đã chịu phép Thánh Tẩy.
Trong đoạn kết bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu và Phêrô lên thuyền và gió bão liền ngừng. Chúa Giêsu làm lặng biển cả. Các môn đệ phủ phục trước Ngài, và tuyên xưng, "Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14:33).
------------------------------------------
Ngày nay, số người sợ ma theo kiểu “thần hồn nhát thần tình” như các môn đệ xem ra chẳng còn bao: TN 19-A36
Ngày nay, số người sợ ma theo kiểu “thần hồn nhát thần tình” như các môn đệ xem ra chẳng còn bao nhiêu. Nhưng “sợ” thì chẳng những không suy giảm mà còn trở thành một thứ “hội chứng” bao trùm lên toàn thế giới, gần như như trên hết mọi người, trở thành như một thứ “lưỡi gươm Démoclès” chẳng biết khi nào chụp xuống đầu người nào, đến nỗi nhiều người sống trong tâm trạng tự an ủi mình trong bi quan: “trời gọi ai, nấy chịu”.
Sợ và “hội chứng sợ” đã trở thành mẫu số chung của nhân loại. Và chính khi ấy, trong bóng tối canh tư, nghĩa là trời sắp sáng, được nghe tiếng Chúa nói: “Thầy đây, các con đừng sợ !” các môn đệ mới thấy lòng dạ nhẹ nhỏm, vui mừng và hy vọng,
Quả thật, không thể tìm đâu ra chút an toàn trên thế giới này nữa ! Thành trì kiên cố như hai toà tháp cao ngất ngưỡng đầy vững chắc đã sụp đổ trong giây lát chẳng khác gì món đồ chơi bằng đất bột. Âu Mỹ đâu đâu cũng nơm nớp bóng khủng bố: nhà tan cửa nát, người chết... Chết đang khi ăn, đang khi ngủ, đang khi làm việc, hay lúc cầu kinh, lúc sa đoạ ăn chơi ( có khi là phản ứng để bớt... sợ ! ). Không có quy ước cũng không báo trước ngoại trừ sự đe dọa ! Hơn cả kẻ trộm mà Chúa Giê-su thường nhắc đến trong Tin Mừng: trộm cướp ít ra vẫn còn dễ phòng ngừa ! Ngay cả đến các quốc gia Hồi giáo, đến nay vẫn nơm nớp sợ những người anh em đồng đạo quá khích điên rồ và mất nhân tính ! “Thầy đây, các con đừng sợ !”
Châu Phi dường như không còn gì để sợ, vì bao năm qua thường xuyên sống với “hội chứng sợ”. Mạng sống người dân nơi đây “đen” cả theo nghĩa bóng: Cường quyền độc tài bóc lột, mặc tình quyết định sinh mạng của người dân; kế đến là nghèo đói đeo đẳng từ thế hệ nầy sang thế hệ khác; cùng lúc là chiến tranh triền miên do một số người gây ra để bảo vệ quyền lợi cá nhân, mà người bảo vệ lại là những đứa trẻ miệng còn hôi sữa, nhưng đã biết sử dụng thành thạo các loại vũ khí để bóp cò giết người không chùn tay ! Cuối cùng, để làm cho bức tranh thêm u tối, dịch bệnh thế kỷ HIV/Aids hoành hành khắp lục địa đen này ngày càng thảm khốc. “Thầy đây, các con đừng sợ !”
Châu Á, nơi mà nạn khủng bố chưa nghiêm trọng, thì ngoài dịch bệnh HIV / AIDS không tha trừ lại nơm nớp lo sợ vì thiên tai và những dịch bệnh khác: chỉ một vài tiếng đồng hồ mà mấy trăm ngàn người đã bị sóng thần cướp mất. Rồi người ta lại mới khám phá ra một vành đai núi lửa mới, nghĩa là động đất và sóng thần có thể xảy đến bất cứ lúc nào.
Đó là cái lo xa, còn cái lo gần chính là nồi cơm, niêu thịt: Cúm gia cầm chưa dập tắt được khiến cả sinh mạng và thực phẩm bị đe dọa, thì nay cúm heo lại xuất hiện. Và không cần phải là tiên tri vẫn có thể khẳng định: Các loại dịch bệnh chưa hết lại càng ngày càng lan rộng và nguy hiểm hơn ! “Thầy đây, các con đừng sợ !”
Dĩ nhiên, bài học về Hiroshima và Nagasaki vẫn còn nguyên giá trị, và ai bảo đảm rằng một ngày không xa nào đó những tên điên rồ đã dám cột bom mìn vào thân chỉ để giết được nhiều người vô tội nhất lại có được vũ khí hạt nhân. Bọn chúng sẽ chẳng ngần ngại một giây nào cả ! “Thầy đây, các con đừng sợ !”
“Thầy đây, các con đừng sợ !” Câu này do chính Chúa nói chứ không phải do con người nói với nhau, muốn cho nhau, hay chúc cho nhau. Bởi vì, nếu chúng ta biết nói với nhau và thật tình ước ao cho nhau như thế, thì “hội chứng sợ” đã biến mất, và nếu còn ít nhiều nỗi “sợ“, thì nó chỉ giúp người ta thêm tin cậy, đoàn kết, nương tựa vào nhau. Cha ông chúng ta vẫn thường nói: Người nhát, hơn ma nhát ! Thay vì củng cố niềm tin cho anh em, chúng ta lại hù doạ, thêm mắm thêm muối và tạo ra sự bất an, những tưởng khi làm cho anh em bất an thì sẽ làm tăng giá trị của chúng ta nhưng rồi chính chúng ta cũng lọt vào cái bẫy do mình giăng ra. Làm cho nhau sợ chưa đủ, chúng ta còn làm cho sợ nhau bằng sự nghi kỵ, bằng những lời chỉ trích cay độc, bằng cả sự ơ hờ khi anh em cần đến chúng ta và nhất là bằng những lời gây chia rẽ, hận thù.
Người ta kể rằng: Khi lâm trận, các võ sĩ “say máu” không còn biết sợ hãi gì nữa mà chỉ biết dốc sức để hạ thủ đối phương. Cũng thế, binh sĩ trước lúc lâm chiến có thể còn ít nhiều sợ hãi, nhát đảm, nhưng khi mũi đã ngửi mùi súng đạn, thì chẳng còn kiêng dè, sợ hãi chết chóc nữa. Đường đi khó vì lòng người ngại núi e sông và “ngại núi e sông” vì đắn đo, tính toán cái hơn cái thiệt một cách nhỏ nhen, ích kỷ. Chính những lúc ấy, ”sợ” len lỏi vào và dần dần chế ngự.
Giáo Hội luôn được ví như con thuyền. To thuyền ắt lớn sóng. Nhưng Chúa Giê-su đã chứng tỏ cho các môn đệ – và cho chúng ta – thấy rằng: Hễ khi tất cả ở chung thuyền, thì có Chúa hiện diện hoặc Chúa sẽ đến. Nhiều khi Chúa để cho chúng ta chèo chống vật lộn với sóng cả ba đào hoặc vất vả suốt đêm mà chẳng có kết quả gì, thì chính lúc ấy, Chúa mới xuất hiện để củng cố niềm tin cho chúng ta. Sau đêm tối mây mù, sau nhọc nhằn hy sinh, Chúa sẽ đến, đem bình minh tươi sáng và vui mừng hy vọng. “Thầy đây, các con đừng sợ !”
Sợ là tâm lý của những người chưa trưởng thành. Sợ là dấu hiệu của những kẻ kém Đức Tin ! Chúng ta là những người tin vào Chúa bằng niềm tin, bằng an bình, nhất là bằng Đức Ai, phải xóa tan đi sự sợ hãi bằng chiến thắng các nguyên nhân gây “hội chứng sợ” nơi chính chúng ta trước hết. Đó là điều khác biệt giữa con cái Chúa và những kẻ không tin: Sự khác biệt hết sức rõ nét, nỗi bật !
Và sứ mệnh Chúa Giê-su trao phó cho mỗi môn đệ là củng cố niềm tin của các anh em !
CVK62 NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 112
CÂU TRUYỆN: ĐỨC TIN LÀ MỘT SỰ TÍN THÁC
Có một gia đình nọ sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lừa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ. Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy với mọi người, nhưng chưa ra tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi nên lại chạy trở lên lầu.
Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa cao ngút tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói: “Con nhảy xuống đây ?” Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa, nhưng nghe tiếng cha kêu mình, liền trả lời: “Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết !” Người cha trả lời giọng cương quyết: “Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi ?” Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn...
Cuộc thử thách của Lòng Tin là thử thách của tình yêu thương tín thác, trông thấy đường thẳng mà Chúa đã vẽ qua những đường cong của mọi biến cố trong cuộc sống. Lời Ngài kêu mời chính là một lệnh truyền, một lời hứa và đồng thời là tiếng nói đòi hỏi nơi người nghe một thái độ vâng phục và tin tưởng.
Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 8
------------------------------------------
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa ông bà anh chị em,
Chủ đề “Huyền nhiệm Nước trời” gần như đã được phụng vụ triển khai liên tiếp qua nhiều Chúa Nhật: TN 19-A37
Chủ đề “Huyền nhiệm Nước trời” gần như đã được phụng vụ triển khai liên tiếp qua nhiều Chúa Nhật như những bài học để hiểu và tin. Đã đến lúc, sứ điệp phụng vụ muốn chúng ta dấn thân thực hành “mầu nhiệm ấy” bằng những bước chân của nhịp sống đời thường. Đặc biệt, với hình ảnh “những bước chân trên sóng” đầy ấn tượng của Tông đồ Phêrô, sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay muốn gợi ý rằng: Hành trình đức tin của Giáo Hội hay của mỗi người luôn là “những bước chân trên sóng” đi về phía của Đức Kitô trong một thế giới mà muôn nơi và muôn thuở luôn hẹn chờ những phong ba và bảo táp.
Cảm nhận được đức tin là như thế, chúng ta sẽ bình thản và hân hoan đi tới, bởi vì cũng như ngày xưa, Đức Kitô hôm nay vẫn có ở đây và lên tiếng: “Thầy đây đừng sợ !”.
Giờ đây, chúng ta hãy thành tâm sám hối và khiêm hạ xin Chúa thứ tha lỗi lầm để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Ký ức của nhân loại về những câu chuyện bi thảm trên biển cả mênh mông thật nhiều không kể xiết ! Cho dù chính phủ In-đô-nê-si-a có phá đi tấm bia tưởng niệm “Vượt Biên” của người Việt tị nan, thì trong ký ức của những thuyền nhân Việt nam vượt biển năm xưa vẫn in đậm những kỷ niệm kinh hoàng trên biển cả. Và trong khi nhân loại chưa quên câu chuyện bi thảm của chiếc tàu định mệnh Titanic bị đắm giữa đêm đen giá lạnh trên biển Đại tây dương năm 1912, thì trong những ngày nầy, thế giới đang xôn xao lo lắng về một chiêc tàu ngầm của Nga đang nằm sâu dưới đáy Thái Bình Dương mà dưỡng khí cho thủy thủ đoàn chỉ còn võn vẹn vài tiếng đồng hồ. Nhưng, nổi kinh hoàng dữ dội và mang theo tai ương to lớn nhất mà biển cả đã thực hiện cho loài người, có lẽ là trận động đất kèm theo sóng thần vùng nam Á sau lễ Giáng Sinh vừa qua. Quả thật đứng trước biển cả mênh mông, con người thật nhỏ bé quá chứng ! Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ, khi truyền thống Kinh Thánh đã nhìn về Biển cả như là nơi ẩn tàng của những thế lực ác thần, là quê hương của quỷ ma, những lực lượng ma quái tối tăm luôn chực chờ vùng lên để phá hỏng công trình của Thiên Chúa.
1. Quyền năng Cứu Thế trước “biển cả nhân loại mênh mông”
Làm sao các tông đồ có thể thấy được “cái nhìn phiêu lưu của Thầy Giêsu” khi truyền lệnh cho các ông “hãy chèo ra chỗ nước sâu “…và sau đó ”Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những tay đánh cá người” ! Trong con mắt của Chúa Giêsu, quả thật biển cả chẳng qua cũng chỉ là một tạo vật tầm thường như bao tạo vật khác. Chúng ta không quên, chính Ngài đã từng ngủ say trên thuyền đang lúc cuồng phong nổi dậy; và cũng chính trong bối cảnh đó, chính Ngài đã thức dậy trấn áp cuồng phong bảo táp: “hãy im đi, hãy lặng đi”. Và tất cả đã vâng phục Ngài. Hình ảnh của Đức Kitô uy hùng đứng trên mặt biển trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, lại một lần nữa nhắc nhở chúng ta rằng: Đức Kitô đến để chế ngự mọi quyền lực của ác thần để đem về cho Thiên Chúa một thế giới bình an thánh thiện, một nhân loại được giải thoát khỏi quyền lực của sa tan.
Nhưng chúng ta cũng đừng quên, trước khi hoàn tất chương trình cứu thế, Đức Kitô đã phải bị vùi dập tan nát dưới sức mạnh tàn bạo của “sóng thần ma quĩ” và con thuyền Giáo Hội mà Ngài mới thiết kế vài đuờng căn bản khởi đầu, đã suýt nữa chìm sâu dưới đáy biển trần gian bằng những cuộc bách hại đẩm máu.
Chúng ta phải thông cảm với Phêrô, khi người dân chài Ga-li-lê nầy có lần đã muốn bỏ trốn khỏi Rôma khi bạo chúa Nêrô ra tay truy nã. Nhà văn Ba Lan, H. Sienkievich đã diễn tả tâm trạng của “người chài lưới Phêrô” khi một thân một mình với đàn chiên ốm đói, thương tích đầy mình…phải đối diện với một Rôma uy quyền đầy thế lực: Phêrô đã run rẩy ngẫng mái đầu bạc trắng của mình lên trời cao mà thầm thĩ; “Chúa ơi ! Con biết làm gì đây với thành phố mà Người sai con tới ? Của y cả biển cả và đất liền, của y cả muôn thú trên mặt đất và thủy tộc dưới nước, của y cả những vương quốc và thành quách, cả 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, chỉ là một tên ngư phủ ở ao hồ. Con biết làm gì đây ? Làm sao con thắng được sự dữ của y ? “
2. Niềm tin: những bước chân trên sóng lao về phía Đức Kitô
Nhưng điều quan trọng là Phêrô đã “có những bươc chân trên sóng” lao thẳng về phía đức Kitô. Điều đó không có nghĩa là Phêrô mạnh mẽ, vững vàng. Trái lại là khác. Vì chỉ mới mấy bước, vì yếu tin ông ta sắp chìm xuống. Tuy nhiên, lời cầu khẩn của Phêrô lúc nầy xem ra lại là bước quyết định: “Lạy Thầy, xin cứu con !”.
Câu chuyện của 2000 năm trước hình như luôn được lặp lại trên suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội như là kim chỉ nam để Giáo Hội kiên cường đi tới cho dù phải đối diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bảo táp bên trong cũng như bên ngoài con thuyền Giáo Hội. Mà không chỉ dành riêng cho Giáo Hội, dù Phêrô là người lãnh đạo cộng đoàn Dân Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể nhìn thấy đời mình nơi đó: “Với niềm tin bên cạnh những phút giây nghi nan và ngờ vực. Với mừng vui xen lẫn những âu lo và sợ hải. Với vững tâm rồi lại chao đảo ngả nghiêng…Chính những bước chân trên sóng của Phêrô ngày xưa ấy, mỗi người chúng ta có thể nhận ra thân phận mỏng manh yếu đuối của chính mình. Và cũng nơi Phêrô ấy, mỗi người cần hun đúc lại niềm cậy trông: “Lạy Thầy, xin cứu con !”
3. Niềm tin: đó là luôn nghe tiếng “Thầy đây, đừng sợ !”.
Cái khó vẫn là có được một chút niềm tin của Áp-ra-ham. Bởi vì Áp-ra-ham ra đi như “thấy Đấng vô hình”, còn chúng ta hôm nay cứ phải đòi dấu lạ. Nếu có nhiều lần Thiên Chúa đã dùng những dấu lạ quyền uy để hiển dung và biểu lộ sự hiện diện quyền năng của Ngài. Thì cũng có khi sự hiện diện của Ngài chỉ là “hiu hiu một cơn gió nhẹ thì thầm” như cuộc thần hiển cho Ê-li-a thuở nào trên núi Khô-rép. (BĐ 2). Trong khi đó, với thân phận “Người Con Một nhập thể vào đời”, Đức Kitô lại thích chọn con đường hiện diện âm thầm, khiêm hạ và ẩn khuất. Ba mươi năm âm thầm trong xưởng thợ mộc ở Na-da-rét hay những giây phút hấp hối đắng cay trần truồng trên cây thánh giá ở đồi Can-Vê, đó chính là sự hiện diện đích thực mà chỉ những con người có con mắt “của người trộm bị đóng đinh bên phải Chúa” mới nhận ra đó chính là Vua toàn năng; và vì thế cuộc hành trình vào Nước Chúa của anh ta lại là một chuyến “tốc hành” !
Phải chăng, đó chính là kết quả của tình yêu. Bởi vì, đặc tính muôn đời của tình yêu đó chính dễ đem lại gần nhau, và cho dù có xa xăm cách trở, vẫn có một thứ “thần giao cách cảm” nối liền những trái tim, nối kết những đôi bờ. Cứ yêu Chúa thật nhiều đi, cứ dựa đầu vào ngực Chúa như Thánh Gioan tông Đồ trong bữa Tiệc Ly, cứ quanh quẩn bên mộ trống như Maria Mađalêna, cứ tò mò xem mặt Chúa như Giakêu, cứ kêu cầu Chúa như Phêrô “Lạy Thầy, cứu con”…chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang có ở đây, đang đồng hành bên ta, đang mĩm cười dìu ta đi tới.
Và chút nữa đây, Chúa Kitô lại đến với ta trong tấm bảnh nhỏ giản đơn và khiêm tốn. Mang lấy “Luơng thực trường sinh” nầy gieo bước giữ dòng đời, chúng ta hãy xác tín rằng, mọi phong ba bảo táp, mọi bách hại hiểm nguy, mọi gian nan thử thách sẽ không làm cho chúng ta nao núng lùi bước. Bởi vì, trong yên lặng nội tâm, Chúa Giêsu Thánh Thể cũng sẽ nói với ta: “Thầy đây, đừng sợ” !
LM. Giuse Trương Đình Hiền
------------------------------------------
- Lm Trần Thanh Sơn
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN - NĂM A
Bài đọc 1: 1V 19, 9a. 11-13; Bài đọc 2: Rm 9, 1-5; Tin mừng: Mt 14, 22-36
ĐỨC KITÔ, ĐẤNG BAN BÌNH AN - Lm Trần Thanh Sơn
Hình ảnh một con thuyền bập bềnh trên mặt nước, trong đêm tối cùng với gió bão, có lẽ không lạ: TN 19-A38
Hình ảnh một con thuyền bập bềnh trên mặt nước, trong đêm tối cùng với gió bão, có lẽ không lạ gì với nhiều người trong chúng ta, nhất là đối với quý ông và các bạn thanh niên, những người làm nghề biển. Nhớ lại những lúc một mình lênh đênh trên biển, chắc quý vị cũng cảm nghiệm được sự bấp bênh của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Đứng trước sự bao la của biển cả và sức mạnh của thiên nhiên, tất cả chúng ta chắc đều thấy mình thật nhỏ bé và mong manh. Không chỉ là sức mạnh của thiên nhiên, trong cuộc sống, mỗi người chúng ta còn phải đương đầu với biết bao những thử thách, chống đối, hiểu lầm, và nhiều sóng gió của cuộc sống. Những khó khăn này, đôi lúc làm cho chúng ta phải ngã lòng như các tông đồ thấy Chúa đi trên biển đã sợ hãi mà la lên “Ma kìa”. Thế nhưng, ngay lúc đó, Đức Giêsu đã lên tiếng trấn an các ông: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”.
“Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” cũng là điều mà Đức Giêsu muốn nói với từng người chúng ta hôm nay. Tuy nhiên, nói như thế, không có nghĩa là cuộc sống của người môn đệ Đức Giêsu không còn gặp khó khăn, trở ngại, nhưng cho dù có khó khăn, trở ngại chúng ta hãy vững lòng vì đang có Chúa ở với chúng ta.
1. NHỮNG THỬ THÁCH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ:
Chống đối đầu tiên mà người của Thiên Chúa gặp phải là sự chống đối từ các thế lực của sự dữ. Sự chống đối đó, người môn đệ luôn phải đối mặt ở mọi thời và mọi nơi. Sỡ dĩ có sự chống đối này vì thế gian không chấp nhận sứ điệp của Thiên Chúa mà người môn đệ của Thiên Chúa loan báo. Ánh sáng không thể ở chung với bóng tối (x. Ga 1, 5. 9. 11); điều thiện không thể ở chung với điều ác. Đây cũng là điều mà ngôn sứ Êlia đã gặp trong khi thi hành sứ mạng của mình. Vâng lệnh Thiên Chúa, ông đã tố cáo đời sống bất công và thờ ngẫu tượng của vua Akhab và hoàng hậu Giêdaben. Do đó, hoàng hậu đã truy sát ông, khiến ông phải trốn lên núi Horeb.
Những thử thách, bách hại mà vị ngôn sứ đã chịu trong khi thi hành sứ mạng của mình, cũng là những sóng gió mà Giáo Hội của Đức Kitô phải đương đầu trong suốt hơn 2000 năm qua. Kể từ khi Đức Kitô, vị Hôn Phu của mình bị đóng đinh vào thập giá chỉ vì đã làm chứng cho chân lý (x. Ga 18, 37), con thuyền Giáo Hội tiếp tục gặp biết bao sóng gió cả bên trong lẫn bên ngoài. Từ bên ngoài, đó là các cuộc bách hại liên tục và đẫm máu; còn bên trong là các cuộc ly khai đầy đau buồn của các anh em Chính Thống giáo vào thế kỷ X, rồi các giáo phái của Thệ phản vào thế kỷ 16.
Ngay cả hiện nay, con thuyền Giáo Hội cũng đang phải đương đầu với biết bao sóng gió và đêm tối của thế lực tội lỗi. Hình ảnh con thuyền của các tông đồ đang bị “sóng đánh chập chờn vì ngược gió” (Mt 14, 24) là một diễn tả rất cụ thể của cuộc sống người môn đệ trong thế giới hôm nay. Là người môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cũng đang phải đi “ngược gió”, nghĩa là đi ngược với những gì mà bản năng và tính ích kỷ của chúng ta đòi hỏi. Những khi chúng ta sống công bằng và bác ái, hay sống trong sạch và trung tín trong đời hôn nhân là những lúc chúng ta đang đi ngược với tính tham lam, ưa thích được hưởng thụ của bản năng nơi con người tự nhiên. Và như thế, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhiều chống đối, trở ngại từ bên ngoài và cả từ bên trong con người chúng ta nữa (x. Rm 7, 14-24), nhưng chúng ta hãy an tâm vì Đức Giêsu đã nói: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”.
2. ĐỨC KITÔ, ĐẤNG BAN BÌNH AN:
Thật vậy, giữa cuộc bách hại của hoàng hậu Giêdaben, và trong hoàn cảnh như cùng quẫn nhất. Thiên Chúa vẫn ở bên ngôn sứ Êlia, âm thầm, nhưng hiệu quả. Ngài đến như một cơn gió nhẹ giúp ông xua tan nỗi nhọc mệt của cuộc trốn chạy, tìm lại được sự bình an và thanh thản cho tâm hồn. Thiên Chúa không hiện diện trong sự ầm ĩ của cơn gió mạnh xé núi non, gió bão hay cơn động đất, mà là trong làn gió hiu hiu (x. 1 V 19, 11-12). Điều này cho ta thấy cần phải tỉnh thức để nhận ra bàn tay nhẹ nhàng, nhưng rất hiệu quả của Chúa giữa bao nỗi khó khăn, vất vả trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Có Thiên Chúa, có Đức Kitô là chúng ta có được tất cả và tâm hồn chúng ta sẽ được bình an. Ý thức điều đó, thánh Phaolô đã rất đau buồn khi dân Do thái là những người đồng hương của ngài chối bỏ Đức Kitô, ngài tâm sự: “lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần: là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn.” (Rm 9, 1-2). Cũng chính vì muốn cho dân mình được hạnh phúc và bình an bằng cách đón nhận Đức Kitô, nên thánh nhân đã dùng một kiểu nói rất mạnh: “Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác” (Rm 9, 3). Thế đó, thánh nhân sẵn sàng hy sinh bản thân mình để cả dân tộc mình được đón nhận Đức Kitô.
Tuy nhiên, để có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, ngôn sứ Êlia đã vào một hang động. Còn các tông đồ, sau sự kiện hoá bánh ra nhiều đang được đám đông hoan hô, Chúa đã giục các ông trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước. Tất cả những điều này cho thấy để có thể nhận ra Chúa, mỗi người chúng ta cần có sự yên lặng. Không chỉ là sự yên lặng bên ngoài, nhưng quan trọng hơn là sự yên lặng bên trong, nghĩa là cần để cho tâm hồn chúng ta lắng đọng, không để tâm trí chúng ta quá lo lắng và nhất là phải chuyên cần cầu nguyện. Vì chính khi cầu nguyện, chúng ta sẽ gặp được Chúa.
Hiện diện nơi đây trong giờ phút này, có lẽ trong lòng mỗi người chúng ta cũng đang có nhiều nỗi lo lắng, băn khoăn. Chúng ta lo lắng cho tương lai của mình, không biết sẽ đi về đâu và sẽ như thế nào. Chúng ta lo lắng cho đời sống kinh tế, lo lắng cho hạnh phúc gia đình của chúng ta không biết có trọn vẹn không. Chúng ta băn khoăn vì nhiều nỗi niềm trong lòng không biết chia sẻ cùng ai. Hôm nay, lắng nghe lời Đức Kitô: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”, tất cả chúng ta hãy can đảm nhảy ra khỏi con thuyền của sợ hãi như Phêrô, mắt hướng thẳng về Đức Giêsu, vượt qua những sóng gió của lo lắng, và bất an để đến với Ngài. Chớ gì lát nữa đây, từng người chúng ta đều sẵn sàng để đón rước Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể lên con thuyền cuộc đời chúng ta. Có Ngài chúng ta sẽ được bình an như lời Tin mừng thuật lại: “Khi cả hai (Đức Giêsu và Phêrô) lên thuyền thì gió liền yên lặng”.
Giờ đây, trong niềm tin yêu và phó thác vào Đức Kitô, Đấng ban bình an, xin mời cộng đoàn cùng đứng lên tuyên xưng đức tin.
Lm Trần Thanh Sơn
------------------------------------------
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN A
(Mt 14, 22 - 33)
Thưa quí vị,
Thật hữu ích nếu chúng ta biết rõ văn mạch các câu truyện trong Phúc Âm. Thí dụ trình thuật Tin: TN 19-A39
Thật hữu ích nếu chúng ta biết rõ văn mạch các câu truyện trong Phúc Âm. Thí dụ trình thuật Tin mừng hôm nay về cơn cuồng phong trên biển cả Galilea (còn gọi là Tiberia) tiếp liền sau Tin mừng tuần trước, Chúa Giêsu cứu chữa các bệnh nhân và hoá bánh ra nhiều. Tôi mường tượng nếu mình là một trong các môn đệ được chứng kiến các phép lạ Chúa thực hiện, thì phải đi tới kết luận rằng: Ngài đích thực là người hùng luôn chiến thắng. Và không khi nào muốn rời bỏ Ngài. Xin tưởng tượng hạnh phúc biết bao được theo một thí chủ quyền năng, chữa bệnh, trừ quỉ, áp đảo sóng gió và nhân bánh lên nhiều! Còn có ai trên trái đất này từ cổ chí kim làm được những dấu lạ như Ngài? Đích thực nhân loại đã được Thượng Đế ban cho một nhân vật biết chăm lo cho mình: chữa lành các bệnh tật, nuôi nấng kẻ đói khát. Tại sao lại có ý tưởng phản bội, từ bỏ Ngài ? Các tôn giáo xưa nay đều có phong độ tương tự, cống hiến những lời hứa an toàn cho đời sống con người. Theo đạo là người ta được bảo đảm về phe với Thiên Chúa, được Ngài yêu thương, che chở, và nếu vướng mắc vào khó khăn thì Ngài nhanh tay cứu chữa. Bạn có đạo ư ? Hãy làm lành lánh dữ, thực hiện những hành động thích hợp, thi hành nghiêm chỉnh các bổn phận ! Chắc chắn bạn sẽ được Thượng Đế nâng đỡ! Tôn giáo nào cũng có tâm lý như vậy.
Tuy nhiên, thực tế, tôi thường qua lại thăm một người cha gia đình, độ tuổi ngoài 50, hành xử rất tốt, năng đi nhà thờ, giúp đỡ láng giềng, chăm sóc vợ con, nói tắt ông là người cha, người chồng tốt, người tín hữu nhiệt thành, người hàng xóm đáng yêu, kính phục. Ông sẵn sàng bỏ tiền của giúp đỡ những gia đình khó khăn. Đột nhiên, ông khám phá mình bị ung thư, chiến đấu can trường với bệnh tật và một năm sau ông qua đời! Phải chăng ông đã không cầu nguyện tốt, không kính sợ phải lẽ, không bác ái đủ ? Thế còn những lời cầu nguyện của thân nhân cho ông bình phục? Người ta phải làm gì hơn nữa? Đức Giêsu ở đâu khi ông gặp bão táp? Chúng ta biết chán vạn câu chuyện tương tự ! Chúa ở đâu trong những đau khổ của con người ? Chẳng lẽ Ngài vẫn dựa đầu ngủ ở phía lái thuyền? Nhiều khi chúng ta ngạc nhiên khi sự việc xảy ra bất lợi cho mình hay thân nhân của mình. Không kiên nhẫn thì có lẽ nổi sùng kiêu ngạo. Khiêm nhường thì đấm ngực ăn năn, mình có lỗi vì không cầu nguyện đủ, hoặc cầu không đúng cách ? Chúng ta đã không theo hướng dẫn của bề trên, của Giáo hội ? Đã không có thái độ xứng đáng như người Publicanô? Không yêu cầu nhiều linh hồn khẩn nài với mình ? Hàng trăm câu hỏi tương tự.
Nhưng xin nhìn vào câu truyện hôm nay để nghiệm ra câu trả lời, các tông đồ lắng nghe và theo đúng hướng dẫn của Chúa Giêsu. Chính Người bảo họ lên thuyền và chèo sang bên kia. Thánh Matheo ghi lại: “Sau khi dân chúng được ăn no nê. Đức Giêsu liền BẮT các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia trước”. Không hồ nghi chi nữa, họ đã làm theo lệnh Thầy mình. Còn nếu được tự ý có lẽ họ muốn ở lại trên bãi cỏ, nơi vừa xảy ra phép lạ nhân bánh ra nhiều, nuôi đám đông dân chúng, đắm mình trong vinh quang bất ngờ thầy vừa tỏ hiện! Phải chăng đấy chính là con đường họ sẽ đi với Chúa Giêsu? Nhưng theo lệnh Chúa, họ xuống thuyền chèo đi mà không có Ngài. Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng lâm vào hoàn cảnh như các tông đồ? Xuống thuyền đời mà không có Chúa Giêsu? Chúng ta đáp lời Chúa và cố gắng bước theo đến nơi Ngài dẫn dắt. Nhưng bão táp nổi lên làm như chúng ta xa lìa Chúa, một mình chống chọi với cuồng phong, ngả phía này, nghiêng chiều khác vì ngược gió và sóng đánh. Thánh Matheo ghi tiếp: “tối đến Ngài vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã xa bờ đến mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ”. Tất cả chúng ta đều được phép đồng hoá với hoàn cảnh này. Xin tưởng tượng đặt mình vào khoảng trống của dòng kể với những vật lộn hằng ngày mình phải gặp, để phụng sự Chúa. Nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta thực sự phải đối mặt với những cơn giận giữ của biển đời, cuồng phong với sóng lớn áp đảo thân phận mình. Đa phần do bàn tay những kẻ khoe mình hiểu biết tương lai luật lệ.
Chúng ta có thể kể tên và đếm ra những cơn sóng gió này, những giây phút trôi giạt trên biển đời. Nó trực tiếp ảnh hưởng vào cuộc sống chúng ta, nếu không lúc này thì ngày mai, nếu không ngày mai thì hôm qua. Chẳng biết làm sao mà chốn thoát! Chúng ta cảm thấy y hệt số phận của các tông đồ: Chúa Giêsu ở đâu tận trên đỉnh núi, cầu nguyện trong khi các môn đệ chìm ngập trong gió bão, sau thời gian dài vật lộn với khó khăn, cuối cùng Chúa Giêsu xuất hiện. Thánh Matheo viết là khoảng canh tư, tức là trời đã khởi sự hừng đông. Từ buổi chiều cho tới hừng đông ngày hôm sau, tức là gần trọn một đêm chịu đựng chèo chống, không phải là cuộc vật lộn ngắn ngủi và dễ dàng! Tôi muốn hỏi Chúa: “ Tại sao Ngài cần thời gian dài đền thế? “Ngài có thấu hiểu những khó khăn chúng con đang gặp sao?” Còn một câu truyện bão táp biển cả nữa mà Chúa Giêsu ngủ trên thuyền. Các môn đệ phải đánh thức Người dậy, nói rằng: “Thầy ơi, Thầy, chúng ta chết mất” (Lc 8, 24). Thế đấy tư tưởng sợ hãi nổi lên sau những vật lộn khó nhọc và lâu dài. Ngài ở đâu không quan tâm đến chúng con ư? Chúng con đang phải đối phó với cuồng phong bão táp? Nhiều lần cá nhân và toàn thể Giáo hội phải đặt ra những câu hỏi tương tự. Khi nào chúng con mới thấy Ngài xuất hiện trong những khó khăn của mình và giơ tay cứu giúp. Khi nào chúng con mới được vững bụng cảm thấy Ngài hiện diện trên thuyền để dẹp yên sóng cả mưa nguồn như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ? Bao lâu nữa cuồng phong biển đời này mới tan?
Xin đừng tưởng tượng Chúa Giêsu là ông thợ vạn năng. Ngài thực hiện theo sự khôn ngoan vô cùng của mình, chứ không phải để chúng ta sai khiến. Ngài biết lúc nào là tốt nhất để ban ơn, ban thế nào và cho ai, trong hoàn cảnh nào? Chắc chắn chúng ta không phải dạy khôn Ngài. Không phải Phêrô yêu cầu Ngài dẹp yên biển cả, mà chính Ngài đến cứu giúp ông ta và các bạn. Ngài khiển trách đức giáo hoàng tiên khởi, nhiên hậu toàn thể Giáo hội: “Hỡi kẻ kém lòng tin! Tại sao lại hoài nghi ?” và chỉ khi Ngài lên thuyền sóng gió mới được dẹp yên. Chỉ khi nào chúng ta kinh nghiệm Chúa Giêsu hiện diện trong linh hồn chúng ta mới hết lo sợ thế gian tấn công? Tại sao? Tại vì Ngài mong đợi các môn đệ tin cậy vào Ngài cả khi sóng gió nổi cơn thịnh nộ dữ dội nhất. Ngài mong đợi Phêrô đặt tin tưởng vững mạnh nơi Ngài khi bước đi trên mặt nước. Ông đã cố nghe theo bản năng thúc đẩy nhẩy xuống biển mà không nghĩ mình đòi hỏi một phép lạ để có thể bước đi, thì cũng phải theo đà tình yêu ấy mà kết hiệp với Ngài. Phêrô do dự, ngoảnh mặt nhìn sóng gió và thấy mình đang chìm xuống nên phải sợ hãi kêu cầu Chúa. Bài học sáng giá cho lòng tin cậy của chúng ta, trút bỏ mọi sự theo Chúa mà còn đòi hỏi sang giầu tiện nghi, bảo đảm vật chất thì đúng là nghịch lý không?
Thánh sử Matheo thuật lại rằng Chúa Giêsu cầu nguyện suốt đêm, đến mờ sáng Ngài mới bày tỏ quyền năng để cứu giúp các môn đệ. Ông ngầm ý nối kết việc cầu nguyện của Chúa Giêsu với quyền phép dẹp yên biển cả. Chúng ta nên lưu ý đến những lần và hoàn cảnh Chúa nguyện cầu trong Phúc Âm. Ngài làm việc này trước những quyết định lớn: chọn lựa các tông đồ, trước khi ra tay thực hiện quyền năng chữa bệnh, hoá bánh ra nhiều, dẹp yên sóng gió, và trước khi bước vào khổ nạn. Liệu những vật lộn của chúng ta có được cứu thoát nếu biết nguyện cầu trước khi bị nạn?
Tiên tri Êlia có kinh nghiệm về điều này (bài đọc 1). Ông chạy trốn hoàng hậu Jezabel để cứu lấy mạng sống. Trong lúc kiệt quệ vì đường xa, đói lả, ông đã tìm đến ẩn mình trong một cái hang ở Horeb, Chúa đã hiện ra an ủi ông trong cơn gió hiu hiu chứ không trong động đất, bão táp hay lửa cháy. Chúng là những sức mạnh tự nhiên, thực hiện theo ý mình. Elia sợ hãi, trốn vào trong hang để chờ đợi hội ngộ với Thiên Chúa. Chúa thì thầm với ông trong gió hiu hiu. Tại sao ông phải làm cuộc hành trình đến núi Sinai? Phải chăng ông tìm về quá khứ, tìm ẩn mình trong truyền thống cha ông, tìm nguồn sinh lực mới cho cuộc chiến đấu cam go của mình? Ở Sinai trong cô tịch và cầu nguyện, ông gặp Thiên Chúa. Liệu chúng ta trong thời buổi nhiễu nhương này còn cần đến cầu nguyện như nguồn sức mạnh lớn cho việc tông đồ hữu hiệu? Trở lại với bài Tin mừng, không phải là phí thời giờ khi chúng ta cầu nguyện, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng yên sóng gió. Ngoại cảnh sẽ chẳng bao giờ nguôi cơn sóng gió, bởi nó là chiến thuật của satan, thế gian và dục vọng. Chúng luôn luôn kêu gào quanh những tâm hồn lành thánh “Làm chuyện chi, đừng đứng đấy”. Nhưng lời “ thì thẩm” của Chúa trong Tin mừng hôm nay: “Đứng đấy, đừng làm gì cả”. Đứng đấy để mà cầu nguyện, đứng đấy để mà thanh lọc chờ đợi ơn Chúa.
Hiện giờ nước Mỹ đang mùa hè, chúng ta có nhiều không gian, thời gian. Ngày dài hơn, đêm ngắn hơn, nhiều cuộc du lịch sinh thái, cắm trại ngoài trời, trèo núi, tắm biển, nghĩa là thay đổi cảnh vật và chương trình. Dù có bão táp hay không thì chúng ta có nhiều khả năng cô tịch cầu nguyện. Mỗi ngày có thể tìm ra những giây phút đặt mình trước mặt Chúa, ý thức những biến có, những nhu cầu của linh hồn. Chúng ta không chỉ đến với Ngài ở Thánh đường mỗi Chúa nhật. Ngài không ở xa chúng ta, cầu nguyện tích tắc trên đỉnh núi. Ngài rất gần đồng hành với mọi linh hồn trong từng giây phút. Vậy xin hồi tâm vài lần mỗi tuần, vào lại trong tâm hồn câu truyện Tin mừng, nhất là trong những lúc gập sóng gió trong những sinh hoạt hằng ngày. Lý do nào khiến chúng ta lui tới thánh đường thường xuyên? Phải chăng hay vì giống như Phêrô chúng ta đến tìm gặp đấng bước đi trong bão táp mặt nước của người tín hữu không bao giờ phẳng lặng. Nó luôn xáo trộn do sức mạnh của hoả ngục gây nên do đó chúng ta lui tới nhà thờ để được ơn trợ giúp từ các tin hiệu khác, chúng ta không thấy mình đơn độc, nhưng có nhiều đồng đạo đồng cảnh ngộ xung quanh, họ cũng đang phải đối mặt với những khó khăn trong gia đình, ngoài xã hội, công việc làm ăn, con cái hư hỏng, bỏ học, lêu lổng, sì ke ma tuý, trộm cướp, đĩ điếm! Những linh hồn mạnh mẽ đức tin sẽ giúp chúng ta thêm can đảm, vượt qua thử thách mà sống trung thành với ta chưa? Hãy nghe thánh Phêrô than phiền về đồng bào của ngài ( bài đọc 2). “Thưa anh em có Đức Kitô chứng dám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối, và lương tâm tôi được Thánh Thần hướng dẫn và cũng làm chứng cho tôi rằng: Lòng tôi cũng rất ưu phiền và đau đớn mãi không ngơi. Quả vậy giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng”, nhưng thực sự thánh nhân cũng hy vọng sự trở lại của dân tộc mình, cho nên đã liệt kê ra 8 đặc ân của dân tộc Israel: “họ là người Israel được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa…” Tiếp theo thánh nhân tuyên bố, Thiên Chúa không thất tin bao giờ (Rm 9,6). Trái lại sẽ đưa con cháu Apraham về với Đức Kitô để dân ngoại và dân Do thái sẽ họp thành tuyển dân viên mãn của Thiên Chúa trong Đức Kitô và Hội thánh. Chúng ta còn lý do nào mà nghi ngờ chương trình của Thiên Chúa. Ngài sẽ ra tay cứu gíup những ai có nhu cầu qua trung gian của cộng đoàn hội thánh này. Mỗi Chúa nhật, chúng ta hội họp để nhắc nhớ mình có nhiều đồng đạo, bạn hữu, người cùng bẻ bánh và người uống chung chén rượu. Họ sẽ giúp đỡ chúng ta khi tình thế trở nên khó khăn. Đồng thời nhớ lại với lòng biết ơn anh chị em tín hữu đồng thuyền với chúng ta. Đã có nhiều lần chúng ta cần đến họ. Lần khác chính chúng ta cứu giúp họ. Và bao giờ tình thế cũng không đến nỗi tệ nhờ những bàn tay hỗ tương như vậy. Xin đừng ích kỷ nhưng mở lòng ra cho tha nhân, nhiên hậu chúng ta được thêm can đảm. Vậy hãy nhìn xem chung quanh trên chiếc thuyền dương thế này: ai là kẻ cần chúng ta giúp đỡ, lắng nghe, đồng hành? Câu truyện Phúc Âm hôm nay đã được các tổ tiên đức tin của chúng ta truyền lại cho hậu thế. Họ muốn bảo đảm rằng trong đức tin, chúng ta có đầy đủ khả năng bước đi trong gió bão. Amen.
Lm Jude Siciliano, OP
------------------------------------------
+ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
LỄ GIỚI TRẺ: CN XIX A
Các bạn trẻ thân mến,
Lời Chúa trong các bài đọc kinh thánh hôm nay nói về sự hiện diện của Chúa, đường lối và quyền: TN 19-A40
Lời Chúa trong các bài đọc kinh thánh hôm nay nói về sự hiện diện của Chúa, đường lối và quyền năng của Chúa. Thiên Chúa luôn hiện diện với chúng ta, cách này hay cách khác. Nhưng vì Người vô hình, nên chúng ta không nhìn thấy. Người muốn đến thăm, gặp gỡ chúng ta; Người cũng thúc giục chúng ta đi tìm Người; chúng ta hãy vươn lên, hãy cố gắng, phải hướng thượng, mới có thể gặp gỡ Người, như tiên tri Elia lên núi Horeb để tìm gặp Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ, mà ai sinh ra làm người đều hướng về Chân Thiện Mỹ, nên một cách nào đó, đều khao khát Thiên Chúa, dù nhiều khi chỉ trong tiềm thức hay vô thức: họ khao khát Thiên Chúa mà không biết. Thánh Phaolô, khi rao giảng cho dân thành Atêna, thủ đô Nước Hy Lạp, đã nói đến Vị Thần không có tên mà họ đi tìm, chính là Thiên Chúa. Nhưng để gặp được Thiên Chúa, phải ra khỏi con người ích kỷ, tội lỗi của mình như trong trường hợp ông Elia, Thiên Chúa yêu cầu ông đừng ở trong hang, mà phải ra khỏi hang, ở đó ông mới có thể đứng trước mặt Chúa.
Tiên tri Elia chờ đợi dấu hiệu của Chúa để ra khỏi hang. Nhiều hiện tượng đã xảy ra; gió bảo xé núi non, nhưng Thiên Chúa không hiện diện trong gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Thiên Chúa không ở trong trận động đất. Sau đó là lửa, nhưng Thiên Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu, bấy giờ Elia mới nhận ra dấu hiệu của Thiên Chúa, ông ra ngoài đứng ở cửa hang, và ông được gặp Chúa.
Bài Tin mừng Máthêu thì nhấn mạnh một khía cạnh khác của sự hiện diện của Thiên Chúa. Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đến gần với chúng ta, Ngài đã làm người ở giữa loài người, hiện diện giữa lòng đời, ở trong dòng lịch sử, vừa chia sẻ sự thăng trầm của loài người trong lịch sử, vừa điều khiển vận mạng của lịch sử. Câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt biển trong lúc bão to gió lớn, để đến với các môn đệ đang vất vã chèo chống thật là ý nghĩa đối với Giáo hội, và đối với từng người chúng ta.
Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã chiến thắng sự chết, hiện diện với chúng ta mọi nơi mọi lúc, ở giữa lòng đời, như Người đã nói Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế. Nhưng Người hiện diện cách đặc biệt hơn những lúc bão táp, lúc cuộc đời có sóng to gió lớn. Người hiện diện lúc con thuyền của Giáo hội, con thuyền của mỗi người phải đi ngược gió để qua bờ bên kia. Bờ bên kia là Bến của cuộc đời, là mục đích cuối cùng của con người, là lý tưởng của cuộc sống, là chính Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta. Mọi người chúng ta đều phải vượt qua biển trần gian, mới có thể đến cùng Thiên Chúa là Quê Hương đích thực của loài người, là Thiên Đàng của loài người.
Ở trong biển trần gian này, gió ngược là thường xuyên, Giáo hội rất vất vã, chúng ta phải vất vã lắm! Những cơn gió ngược ngày hôm nay là những khuynh hướng chiều theo sự dữ, bất chấp chúng phát xuất từ đâu, miễn là chúng chiều theo các dục vọng của con người, lòng tham lam, sự ích kỷ, tính hưởng thu của con người. Những cơn gió ngược ấy có khi mặc lấy chiêu bài tự do, nhân quyền; tự do luyến ái, tự do thoã mãn các đam mê xác thịt, quyền định đoạt về cái chết của mình, quyền định đoạt về sự sống của đứa con trong bụng mẹ.
Lội ngược dòng, chèo thuyền ngược gió rất là khó khăn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Chính vì thế mà tất cả chúng ta đều sợ hãi, như thánh Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay. Nhưng Chúa Giêsu đến với chúng ta. Chúa Giêsu đi trên biển đời đến với chúng ta, để đón chúng ta qua bờ bên kia cùng với Người. Người bảo ta đừng sợ, như đã nói với các môn đệ chính thầy đây đừng sợ! Hãy mạnh dạn, hãy can đảm sống đạo, dù cuộc đời có nhiều khó khăn và ngăn trở, nhiều điều làm cho ta phải sợ.
Trước hết, đừng sợ Chúa, vì Chúa đến cứu thoát chúng ta. Chúa yêu thương chúng ta, Chúa nhân từ và hay tha thứ! Đừng sợ tha nhân, vì tha nhân là những người anh em của ta, những người chúng ta sống với, những người chúng ta phải yêu thương và phục vụ. Đừng sợ dư luận và nô lệ dư luận. Đừng sợ thù địch, vì thù địch không giết được linh hồn ta! Bản năng tự nhiên làm cho chúng ta sợ hãi nhiều thứ: sợ chết, sợ bệnh, sợ thất bại, sợ đau khổ, sợ nghèo đói… Sợ hãi làm khổ chúng ta; Chúa yêu thương và muốn cho chúng ta hạnh phúc, nên Chúa dạy chúng ta là đừng sợ, để chúng ta được tự do thanh thoát. Chúa đến với ta trong Thánh lễ mà ta cùng nhau cử hành, Người ban sự sống, ban sức mạnh cho ta để ta không còn sợ hãi, nhưng mạnh dạn sống đúng đường lối của Chúa và loan báo tin mừng Chúa Phục Sinh.
+ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
------------------------------------------
Mt 14,22-33
A. Hạt giống...
Chuyện xảy ra sau phép lạ hóa bánh ra nhiều: 1. Chúa Giêsu "bắt buộc" các môn đệ phải xuống: TN 19-A41
Chuyện xảy ra sau phép lạ hóa bánh ra nhiều:
1. Chúa Giêsu "bắt buộc" các môn đệ phải xuống thuyền ngay, để sang bờ bên kia trước, còn Ngài thì ở lại cho dân chúng đi về. Một sự khẩn trương, vội vã, có vẻ như đang đứng trước một nguy hiểm. Tại sao ? Vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng đã quá hăng hái, một sự hăng hái trần tục vì thấy mình được hưởng thụ vật chất. Sự hăng hái này không hợp với sứ mạng Messia của Chúa Giêsu. Ngài không muốn cho sự hăng hái lệch lạc này tác động lên các môn đệ, và vội vả bảo các ông đi ngay sang nơi khác.
2. Chúa Giêsu đi trên mặt nước: Cựu Ước nhiều lần nói về việc đi trên mặt nước (G 9,8 38,16 Tv 77,20 Kb 3,15 Si 24,5) nhưng đều gán vào cho Thiên Chúa. Vậy với chi tiết Chúa Giêsu đi trên mặt nước, Mt ngụ ý so sánh Chúa Giêsu với Thiên Chúa.
3. Phêrô đi trên mặt nước: So sánh với 2V 2,1-55: Ngôn sứ Êlia dùng áo choàng đập xuống nước, nước rẻ làm hai cho ông đi qua. Về sau Êlisê dùng tấm áo choàng của Thầy Êlia của mình mà đập xuống nước, nước cũng rẻ làm hai cho Êlisê đi qua. Nghĩa là Êlisê đã nhận được thần lực của thầy mình. Trong chuyện này Phêrô cũng nhận được thần lực của Thầy mình, nhưng có điểm khác biệt là: Êlisê nhận thần lực của Thầy qua một vật dụng là tấm áo, còn Phêrô nhận thần lực của Thầy chỉ nhờ đức tin. Một trong những tư tưởng thần học quan trọng của Mt là người môn đệ được Thầy ban cho cùng một quyền lực như Thầy. Hãy xem 9,6 9,8 10,1 16,19 18,18. Nhưng điều đáng ta lưu ý là các môn đệ nhận được quyền lực của Thầy nhờ đức tin.
4. Phêrô sợ nên bị chìm. Ông xin Chúa Giêsu cứu thì được Ngài cầm tay nâng lên. Qua việc này Chúa Giêsu muốn huấn luyện các môn đệ (mà Phêrô là đại diện) để giúp họ tiến bước dần trên cuộc hành trình đến đức tin.
B.... nẩy mầm.
1. Tin Mừng Gioan cho biết thêm là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Chúa Giêsu không muốn các môn đệ mình bị lây nhiễm quan niệm Messia lệch lạc ấy nên buộc họ vội vàng rời khỏi nơi đó.
Chúa không muốn người ta coi Chúa như một Đấng ban cơm bánh. Chúa không muốn người ta đến với Ngài chỉ để xin những ơn vật chất.
2. “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”:
- Xin cho con luôn có Chúa ở bên con.
- Xin cho con vững tin vào Chúa.
- Xin cho con biết nương tựa vào Chúa trong những lúc khó khăn và nguy hiểm.
3. Chúng ta hãy coi cách Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Phêrô và các tông đồ: ban đầu Ngài để cho các tông đồ bị bão biển đe dọa (cũng như để Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sợ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp. Kết quả là các ông tin vào Ngài “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”.
Nhiều khi xem ra Chúa bỏ mặc chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn. Nhưng đó chính là cách Chúa giáo dục đức tin chúng ta. Do đó đừng hoảng sợ cũng đừng nản lòng. Hãy kêu lên Chúa như Phêrô xưa “Lạy Thầy xin cứu con”.
4. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao (Góp nhặt)
5. “Sau khi giải tán đám đông, Người lên núi mà cầu nguyện ; chiều đến, Người vẫn ở đó một mình” (Mt 14,23)
Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Chúa. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con, chỉ cần một chút cố gắng của Tình Yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày con có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất. Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ điện thoại trả lời, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi bị kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ, thay vì bực bội hay nóng ruột, con lại thấy mình sống bình an trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hàng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn, để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào. (Hosanna)
6. Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoàn nghi” (Mt 14,31)
Trong cuộc sống Kitô hữu, Đức Tin là điều quan trọng. Chúng ta vẫn tin có Chúa, vẫn đi lễ, rước lễ hằng ngày, làm việc thiện, việc bác ái giúp đỡ người khác ; nhưng đôi lúc, chúng ta đã làm những việc đó như một người máy hay theo một thói quen.
Do đó, thật là tồi tệ khi ta gặp phải rủi ro hay thất bại nào..., vì ta đã đối phó bằng cách để Chúa qua một bên, bỏ hết mọi việc từng làm. Dần dần, ta không còn giữ được đức tin và lúc này tâm trạng của ta rất giống tâm trạng của thánh Phêrô khi được Chúa cho đi trên mặt biển. Mỗi người chúng ta thử nhìn xem mình sống đạo ra sao, mình thực sự có đức tin chưa ? Hay chúng ta tin vì thấy bạn bè mình tin, không tin không được. Hay ta chỉ tin vì được sinh ra trong một gia đình công giáo v.v...
Lạy Chúa, con thật sự là kẻ yếu lòng tin, vì khi gặp thất bại, rủi ro, con dễ bị lung lạc. Xin Ngài hãy đến với con, khi con gặp thử thách. (Hosanna)
7. “Cầu nguyện nhiều, sức mạnh nhiều
Cầu nguyện ít, sức mạnh ít
Không cầu nguyện, không sức mạnh” (Vô danh)
8. Mầm khác:
-------------------------------
CHÚA NHẬT 19 A
Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai Cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó:TN 19-A42
Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai Cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do Thái rời bỏ Ai Cập đến Biển Đỏ thì quân Ai Cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai Cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai Cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển. Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê. Trong dịp hành hương Đất Thánh vào Mùa Chay vừa rồi, tôi có đi thuyền ngắm trời mây sông nước trên Biển hồ Galilê.
Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).
Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.
Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.
Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền. Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.
Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.
Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên. Tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài là chúng ta sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời.
Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.
1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an
Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.
Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết ( Pl 4, 13 ).
Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách. Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.
2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu
Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải: sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người: Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một Đức Tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.
Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong Đức Tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy sống Đức Tin
giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
-------------------------------
Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều: TN 19-A43
Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều ( x. Mt 14, 13-21 ), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi ( x. Mt 17, 1-9 ) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ ( x. Mt 14, 22-33 ).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình ( x.1 V 19, 9a. 11-13a ).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu "giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước" ( 14, 22 ), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là "những người ở bên này". Việc các môn đệ phải "sang bờ bên kia", nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền ? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn ? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua ! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao !
"Người lên núi cầu nguyện một mình" ( Mt 14, 23 ). Người cầu nguyện cho ai ? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm Đức Tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước ( x. Mt 14, 28 ). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, "xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước" ( Mt 14, 29 ), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là Đức Tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô: "Lạy Thầy, xin cứu con !" ( Mt 14, 30 ) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ ?" ( Mt 14, 31 ) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là Đức Tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. "Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" ( Mt 14, 32 – 33 ). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: "Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây", cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh "Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây". Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định "chính Thầy đây mà" ( x. Lc 24; Mt 14 ).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm Đức Tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ !" ( Mt 14, 27 ). Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
-------------------------------
VietCatholic News (Thứ Hai 04/08/2008 06:21)
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN, năm A
Mt 14, 23-36
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, mọi loài và dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Do đó, Thiên: TN 19-A44
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, mọi loài và dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Do đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên vũ trụ, vạn vật, con người, và mọi loài, mọi vật, thiên nhiên, con người đều phải vâng phục lệnh của Ngài. Quyền năng của Chúa được thi thố ngay trên biển cả, khi sóng to, gió lớn, bão táp xẩy đến, lúc các môn đệ đang run sợ…Chúa hướng về phía họ, đi trên mặt hồ, Ngài làm phép lạ khiến biển im, gió lặng. Ngài khiến Phêrô đi trên mặt biển đến với Ngài. Các môn đệ đã nhận ra quyền năng của Chúa, nên các Ngài đã xưng tụng Chúa: ” Thật là Con Thiên Chúa “. Cái trớ trêu là nhiều người chứng kiến phép lạ, nhưng đã không nhận ra Ngài. Chúa đến trần gian không phải để giương Đông kích Tây, không phải để thị oai, xưng hùng xưng bá, Ngài đến để ban bình an, ban ơn cứu độ, chạnh lòng thương xót và trung thành giữ trọn Giao ước mà Ngài đã ký kết với dân, Ngài sẽ ban cho nhân loại mọi điều thiện hảo, Ngài dùng quyền năng để thi thố ơn lành của Ngài cho nhân loại, cho con người…
PHÊRÔ VÀ CÁC MÔN ĐỆ TƯỞNG CHÚA GIÊSU LÀ MA:
Là những ngư phủ lành nghề, các tông đồ hiểu nước rất rõ. Nước mang lại nguồn sống cho các ông. Nước mênh mông của hồ, của biển, của đại dương mang nguồn sống cho các loài cá, loài tôm, loài ốc, loài vật và cả con người vv…Có nước nghĩa là có sự sống cho con người và cho các loài vật sống dưới nước. Nước là nguồn cung cấp sự sống cho con người, cho động vật, cho thảo mộc. Không có nước vũ trụ sẽ khô cằn và sẽ chết. Tuy nhiên, hôm nay trong một bối cảnh xem ra thật khác lạ. Các môn đệ đang ở dưới thuyền sau khi phép lạ Chúa Giêsu làm cho năm chiếc bánh và hai con cá nuôi sống nhiều ngàn người ăn. Chúa thi thố quyền năng của Ngài chế ngự thiên nhiên. Số là đang đêm thuyền của các môn đệ đã ra xa bờ khoảng mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió ( Mt 14, 24 ). Sóng gào, nước gầm rú dưới thuyền của các ông, nước giờ đây đồng nghĩa là chết. Tin Mừng viết:” Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: ” Ma đấy!”, và sợ hãi la lên “( Mt 14, 26 ). Đúng là các môn đệ chưa nhận ra Chúa vì trong bóng đêm họ lầm tưởng Chúa là ma. Chúa Giêsu trấn an các ông: ” Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ “ ( Mt 14, 27 ). Bây giờ họ mới hoàn hồn. Phêrô với tính bốc đồng muốn được Thầy ban đặc ân cho mình được tới với Thầy. Chúa nói với Phêrô:” Cứ đến !” ( Mt 14, 29 ). Chúa chiều lòng Phêrô nhưng ông không thành công vì thiếu lòng tin khi thấy gió thổi mạnh, ông bắt đầu chìm xuống nước. Phải chăng Chúa muốn dạy cho Phêrô và mọi người bài học hãy bằng lòng với cách Chúa thực hiện điều này điều nọ, chứ đừng đòi hỏi Người phải làm theo ý của con người ?. Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy Phêrô và nói: ” Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”( Mt 14, 31 ). Khi Thầy trò lên thuyền thì gió lặng ngay ( Mt 14, 32 ).
TIN MỪNG MUỐN NÓI GÌ ?:
Chúa có toàn quyền trên mọi loài, mọi vật, trên vũ trụ, thiên nhiên, con người. Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để quả quyết điều đó: Sóng to, gió lớn im lặng khi Chúa Giêsu có mặt. Thực ra, đối với Chúa Giêsu điều này chẳng có gì là khó khăn cả và về chúng ta, phần con người điều này cũng chẳng có gì là khó hiểu cả bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa và là Đấng sáng tạo, tạo dựng mọi loài, mọi vật. Chính Ngài cầm quyền trên mọi sự, mọi định luật khoa học, toán học, vật lý vv…Do đó, việc Ngài đi trên mặt nước chẳng có gì là phản khoa học, hoặc tỏ ra vô lý nhưng lại chứng tỏ uy quyền Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ đêm hôm ấy nhận ra uy quyền của Chúa và họ càng gia tăng lòng tin nơi Ngài. Đối với nhân loại, đối với con người, đức tin của chúng ta, của mỗi người hầu như còn non kém và hay thay đổi, nên chúng ta phải cầu xin Chúa tăng thêm lòng tin cho chúng ta. Phêrô là gương điển hình cho chúng ta. Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước, ông vui sướng và cầu xin cho mình cũng được phúc đi trên mặt nước, Chúa đã ban cho ông ơn ấy, nhưng vừa đi ông thấy gió to thổi mạnh, ông lại sợ và chìm mình xuống nước, khiến ông phải cầu cứu Chúa và Chúa đã cứu ông. Dù sao đây cũng là lời cầu nguyện chân thành của Phêrô. Ông ý thức sự yếu hèn của mình và xin Chúa nâng đỡ, cứu vớt. Con người chúng ta cũng vậy thôi, trong cuộc hành trình về Trời, chúng ta gặp không biết bao nhiêu khó khăn thử thách, chúng ta hãy thành thực cầu xin Chúa giúp chúng ta và khiêm tốn xin Chúa cứu vớt. Chúng ta hãy tin tưởng, Chúa luôn có mặt bên ta để cứu giúp chúng ta như đã cứu vớt Phêrô:” Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ “. Đây là lời trấn an của Chúa và Chúa đã thực hiện như lời Chúa nói. Chúng ta hãy tin tưởng thật sự và khiêm tốn phó thác cho Ngài cuộc đời với những thử thách, khó khăn vv…
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ CUỘC ĐỜI CỦA MỖI NGƯỜI:
Mỗi người chúng ta đều có chỗ trong trái tim Chúa, Ngài không gọi chúng ta cách chung chung. Ngài kêu tên từng người. Chúa dậy chúng ta, Ngài ở khắp mọi nơi, nhưng Ngài không ở trong gió bão, trong những đam mê, trong sự huyên náo ồn ào, trong những chia rẽ, hận thù, ghen ghét của con người. Chúa ở trong thinh lặng, thanh vắng, thanh bình, ở nơi những tâm hồn thanh sạch, đầy niềm tin như bài đọc thứ nhất diễn tả. Trong bài Tin Mừng Chúa dậy chúng ta phải hết lòng tin cậy vào Chúa. Chúa quở trách Phêrô vì ông tin vào Chúa nhưng lại nghi ngờ quyền năng của Ngài khi bị dao động, khi thấy gió thổi, sóng to. Chúa muốn chúng ta khiêm tốn vâng theo lời Chúa và sẵn sàng tin theo Chúa:” Chính Thầy đây, đừng sợ “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn vững vàng trước mọi thử thách của cuộc đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Chúa làm phép lạ cho sóng im biển lặng để cứu các tông đồ sau phép lạ nào ?
2. Phêrô có tin vào Chúa không ?
3. Tại sao Phêrô lại chìm xuống nước ?
4. Chúa dậy chúng ta những gì ?
5. Có khi nào gặp khó khăn thử thách ÔBACE phàn nàn Chúa không ? Tại sao ?
6. Chúa có ở bên chúng ta không ? Lúc nào và khi nào ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
------------------------------------------
Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta con nhớ những: TN 19-A45
Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta con nhớ những gì thánh Gioan tường thuật về các phản ứng của đám đông: họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. Có lẽ các môn đệ không phải là không đồng ý với phản ứng của dân chúng… Vì thế Chúa Giêsu, để kéo họ khỏi sự lôi cuốn ấy, buộc họ sang bên kia hồ. Về phần Ngài, Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Tàn đêm, giữa 3 giờ và 6 giờ, Ngài trở lại với các môn đệ trong những điều kiện lạ lùng, làm nổi bật một trong những ý tưởng chính của đoạn Phúc Âm này: các môn đệ còn lại một mình với những cơn gian nguy chỉ có một chỗ ẩn náu: Chúa Giêsu. Chúng ta ghi nhận vài trò nổi bật dành cho Phêrô. Ông nhảy xuống nước để đi đến Chúa Giêsu, nhưng đức tin của ông chưa được vững chắc như sau này khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho ông. Nó chưa đủ sức để ‘củng cố đức tin anh em’, nó vẫn còn yếu đuối, nhưng vừa đủ để Đức Kitô đưa tay nắm lấy ông. Chúng ta hãy để ý các điểm này:
1) Chúa Giêsu bày tỏ trước mắt các môn đệ một quyền phép dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền năng sai khiến thiên nhiên. Kinh Thánh thường nhắc nhở việc này, từ bài tường thuật việc tạo dựng cho đến nhiều đoạn Thánh Vịnh qua biến cố vượt Biển Đỏ. Tâm lý của các môn đệ được đào tạo bởi tinh thần Kinh Thánh, nên tự nhiên sau phép lạ có khuynh hướng nhìn nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng làm chủ thiên nhiên, một vị được nhuần thấm hoàn toàn sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực sự đức tin của họ vào Đức Giêsu – Thiên Chúa chỉ phát triển hoàn toàn nhờ tác động của Thánh Thần nơi họ. Nhưng ngay từ lúc này họ phục lạy và thưa: Ngài thực là con Thiên Chúa.
2) Phải lượng định làm sao cách hành động của các môn đệ và của Phê-rô? Trước hết người ta hiểu việc các ông hoảng sợ khi thấy hiện ra trong ánh sáng nhợt nhạt lúc trời mới rạng đông, điều mà các ông tưởng là ma. Từ lúc Chúa Giêsu nói với họ và trấn an họ, đức tin của các ông được khích động. Khi ấy người ta thấy Phêrô lẫn lộn vừa hăng hái vừa tin tưởng. Lòng hăng hái thúc đẩy ông nhảy xuống nước và lòng tin không giữ vững ông đủ; vì thế ông chìm xuống. Nhưng, với một phản ứng có tầm quan trọng tối cao, ông kêu cầu Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Việc này chẳng tiêu biểu cho một vài lúc trong cuộc sống Kitô hữu chúng ta sao? Bài học cần ghi nhớ: khi cuộc sống Kitô hữu chúng ta xem ra giống như đi trên mặt nước nổi giông bão, hãy kêu đến Đức Kitô. Đức tin là một ân sủng, một quà tặng. Vậy phải là điều chúng ta cầu xin. Bắt chước thánh Phêrô trong một trường hợp khác, chúng ta phải thưa nhiều lần: ‘Lạy Chúa con tin, nhưng xin tăng thêm đức tin cho con’ sao?
3) … tại sao lại ngờ vực? Câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô đáng cho chúng ta sy nghĩ. Tại sao có lúc chúng ta ngờ vực? Chúng ta có thể thưa với Chúa mọi khó khăn đang bủa vây đức tin chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải nói với Ngài sự yếu đuối và các đòi hỏi của tâm trí chúng ta, các xao động của lòng chúng ta, các nỗi đau khổ đầy ứ của chúng ta. Nhưng có một cách hỏi không có ý nghĩa, đó là cách hỏi mang ẩn ý rằng Chúa Kitô xa cách chúng ta hay Ngài không hiện diện. Chúa Giêsu nói với Phê-rô: Tại sao lại ngờ vực, nghĩa là tại sao có giây phút ngươi sinh lòng sợ hãi làm như thể Ta không có ở đó? Nếu có một nỗi ngờ vực trổi lên trong lòng chúng ta, chớ gì nó giống như bàn tay chúng ta đưa lên Chúa Kitô và đừng ngờ vực mà chắc chắn rằng Chúa Kitô có ở đó để nắm lấy.
------------------------------------------
Sau khi đương đầu và trừng phạt bọn tiên tri Baal tại núi Carmel, tiên tri Elia bị hoàng hậu: TN 19-A46
Sau khi đương đầu và trừng phạt bọn tiên tri Baal tại núi Carmel, tiên tri Elia bị hoàng hậu Giêxabel đòi mạng. Thất vọng, ông tìm đường trốn lên núi Horeb miền. Thiên Chúa hiện đến và Ngài đã mạc khải cho ông, như xưa Ngài đã mạc khải cho Maisen, nhưng không còn là trong bão táp sấm chớp, cũng không trong tiếng rung chuyển của trái đất, hay trong lửa hồng bừng cháy, nhưng trong cơn gió nhẹ hiu hiu thổi.
Qua biến cố này chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa vượt trên mọi sức mạnh thiên nhiên, nhất là sự hữu hiệu của lời Ngài rất đơn sơ và xem ra cũng rất nhẹ nhàng. Sự hữu hiệu ấy nói lên lòng thương xót và dịu hiền của Ngài vượt trên sự công bình và sợ hãi. Và giờ đây, những phép lạ của Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, còn kỳ diệu hơn cả thời Elia, đã làm rạng rỡ cho lòng thương xót và dịu hiền vô bờ của Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã phán:
- Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thì khác xa tư tưởng và đường lối của con người.
Vậy ai dám giới hạn Ngài trong một phạm trù, đặt để Ngài trong một hệ thống và hạn chế Ngài trong chính hành động của Ngài. Từ chối không chấp nhận phép lạ chính là từ chối tự do của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân hậu.
Thánh vịnh cũng nói: Mọi vật được tạo dựng nhờ Ngài… Đúng thế, khắp nơi các nhà bác học khám phá ra những định luật thiên nhiên. Những định luật này họ không hề sáng chế hay ẩn định, thế mà không lề luật nào mà lại không có người làm luật.
Vậy ở đây phải chấp nhận một Đấng làm luật toàn năng và vĩnh cửu. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi sự. Nếu có đấng nào ở trên mọi lề luật, thì đấng ấy chỉ có thể là Ngài. Ngài luôn có thể hành động không cần nhờ trung gian. Một sự can thiệp trực tiếp được gọi là phép lạ, hành động của Thiên Chúa.
Qua Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ, chúng ta thử đưa ra một vài trường hợp tiêu biểu để khám phá ra ý nghĩa và mục đích của sự can thiệp này, bởi vì Đức Kitô thường giảng dạy chúng ta qua những hành động và ngôn từ, qua việc làm và lời nói của Ngài.
Trước hết là tại tiệc cưới Cana. Bữa tiệc đang tiếp diễn thì Mẹ Maria đến nói nhỏ với Chúa: ‘Họ hết rượu rồi’. Chúa Giêsu sai đổ đầy nước vào các chum rửa tay chân và dạy múc đưa đến cho chủ nhà. Phép lạ được thực hiện. Chỉ với ý muốn, Chúa Giêsu thực hiện được một phép lạ, mà chẳng cần đến một phương tiện nào cả. Hành động của Ngài vượt quá mọi mơ tưởng của các nhà khoa học, không cần gì chất hóa học hay giòng điện để biến đổi.
Tiếp đến là nơi hoang địa, với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi sống năm ngàn người, không kể đàn bà và con nít. Và lần khác, với bảy chiếc bánh, Ngài đã cho bốn ngàn người được ăn no nê. Và hôm nay, Ngài đã vớt Phêrô lên thuyền và làm cho sóng yên biển lặng.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi hành động của Thiên Chúa đều mang tính cách phép lạ, nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta không nhận ra. Chẳng khác chi trước sự tận tâm của người mẹ, nào có mấy đứa con cảm nhận sâu xa được, cho dù thực tế đó là những hành động thật phi thường.
Tuy nhiên, đôi khi Thiên Chúa cũng làm những phép lạ như một phương tiện thay đổi tùy thời, tùy nơi, tùy nhu cầu và não trạng. Nhưng mục đích Ngài nhằm tới đó là củng cố niềm tin, giúp chúng ta thay đổi cuộc sống và con người của mình.
Gặp thời thuận tiện, cũng như không thuận tiện, chúng ta hãy tin tưởng cậy trông vào Chúa, Ngài sẽ đến cứu giúp và nâng đỡ chúng ta.
------------------------------------------
Nước bao phủ hai phần ba bề mặt trái đất. Chúng ta biết rằng chúng ta không thể sống nếu: TN 19-A47
Nước bao phủ hai phần ba bề mặt trái đất. Chúng ta biết rằng chúng ta không thể sống nếu không có nước, nhưng đôi khi chúng ta không thể sống với nước. Nước là một sức mạnh quyền năng và bí nhiệm mà có thể nói là sống hay chết.
Các tông đồ hiểu nước rất rõ. Họ là những người đánh cá, nên nước là chính cuộc sống của họ. Đối với họ, nước có nghĩa là sự sống. Nhưng rồi vào một đêm kia, với những ngọn gió gào thét trên họ và nước gầm rú dưới chiếc thuyền của họ, họ biết bây giờ nước có nghĩa là chết. Họ kinh ngạc xiết bao khi thấy Chúa Giêsu hướng về phía họ mà lại đi trên mặt hồ! Khi họ nhận biết rõ đó chính là Chúa Giêsu chứ không phải là ma, họ mới như trút được nỗi sợ hãi, nhưng sự bốc đồng của Phêrô chưa thoả mãn. Ông ước ao một điều gì đó hơn là những gì ông đã thấy nữa kia. Ông trông mong Chúa Giêsu hành động một cách kỳ lạ hơn nữa kia: “Ông thật sự muốn Chúa Giêsu ban quyền cho ông đi trên mặt nước”.
Phêrô cầu xin: “Xin cho con đi trên nước để đến với Thầy”. Ngạc nhiên Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến”. Những điều đó không thành công. Phêrô bắt đầu chìm xuống biển vì thiếu lòng tin. Có lẽ Chúa Giêsu không muốn đáp ứng đòi hỏi không đúng của Phêrô vì Người muốn dạy cho ông và cho tất cả chúng ta một bài học, hãy bằng lòng với cách thế mà Chúa đã thực hiện chứ đừng đòi hỏi Người làm theo cách của ta.
Đó là một bài học ngay với tiên tri cao cả là Êlia cũng phải học. Êlia đã làm chứng cho quyền năng tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng đã đáp lời cầu nguyện của ông, đã mang lửa từ trời xuống thiêu rụi con bò tơ như một của lễ hy sinh. Điều này đã xảy ra khi những lời cầu nguyện của các tiên tri, các thần ngoại giáo đã được minh chứng là vô dụng. Nữ hoàng Giêzebel, kẻ thù không đội trời chung với Êlia, đã giận dữ vì sự thành công của vị tiên tri. Bà đã thề là bà sẽ giết ông cho kỳ được. Êlia đã chạy trốn để cứu lấy mạng sống. Chúng ta thấy ông đang trốn trong một cái hang bài đọc hôm nay. Chắc chắn ông đã hy vọng một sự tỏ hiện kỳ diệu của Thiên Chúa qua một cơn gió lớn mạnh tiếp đó là trong cơn động đất, rồi là lửa, nhưng Chúa không ngự trị trong những hiện tượng này. Nhưng Êlia đã thấy Chúa ngự trong ngọn gió nhẹ rì rào. Êlia học biết rằng chúng ta phải bằng lòng với cách thế mà con Thiên Chúa chọn để hành động.
Chúng ta có thể muốn Thiên Chúa hành động nhân danh chúng ta bằng những phương cách bất thường, như cho phép chúng ta đi trên nước mà đến với Người. Nhưng chúng ta vẫn ở lại trên thuyền, thuyền đây biểu trưng là Giáo Hội. Giáo Hội sẽ không bị chìm cho dù sóng to gió lớn đến mức nào, đó là những gương mù gương xấu trong Giáo Hội đã làm chúng ta phải bực tức. Giáo Hội sẽ không bị lật úp bởi những ngọn cuồng phong, đã đe doạ dập tắt đức tin của chúng ta và làm cho chúng ta phải cực lòng. Dù cho bất cứ điều gì khác có xảy đến, chúng ta biết rằng ở nơi con thuyền Giáo Hội chúng ta sẽ luôn luôn tìm gặp Thiên Chúa.
Trong Giáo Hội, Thiên Chúa hành động theo cách riêng của Người. Chúng ta sẽ run sợ và không nghi ngờ gì khi chúng ta thấy Thiên Chúa hiện diện trong ngọn lửa hồng xuống thiêu rụi lễ vật hy sinh và tiên tri Êlia dâng tiến nhưng cung cách của Chúa Giêsu đơn giản hơn, giống như ngọn gió thổi hiu hiu. Người chọn cách nói với chúng ta, không hề ồn ào trong ngọn cuồng phong nhưng trong âm vang của con người qua những lời trong Thánh Kinh. Người chọn cách đến với chúng ta không phải trong cơn run rẩy lúc động đất, nhưng dưới những hình thức đơn giản của bánh và rượu.
Trong mọi trường hợp, qua mọi nhu cầu của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm thấy Thiên Chúa nhưng chúng ta phải ở lại trong con thuyền, để trở nên những môn đệ trung thành trong Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
------------------------------------------
Trong Giáo Hội cũng như trong mỗi một cuộc đời người Kitô hữu, tất cả mọi sự đều diễn ra: TN 19-A48
Trong Giáo Hội cũng như trong mỗi một cuộc đời người Kitô hữu, tất cả mọi sự đều diễn ra giữa niềm tin và sự sợ hãi. Đó là Tin Mừng của việc đi trên mặt nước.
Nỗi sợ hãi. Một chiếc thuyền ở xa bờ và lênh đênh giữa sóng gió. Đêm tối. Và có một con ma nữa chứ! Một nỗi sợ hãi làm cho những người mặc dầu ghê gớm cũng phải la lên.
Tin tưởng. Đêm dần tàn và người ta nhận ra Chúa Giêsu. Ngài bước đi trên biển! Ngài nói: “Thầy đây, các con đừng sợ”. Và nói với Phêrô: “ Cứ đến đây”.
Đây là ván bài của niềm tin và sự sợ hãi. Phêrô bắt đầu bước đi trên mặt nước. Nhưng ông sợ và chìm xuống: “Xin Thầy cứu con!” Chúa Giêsu nắm lấy tay ông và nói: “Tại sao ngươi lại hoài nghi?”. Đây là câu hỏi chính của bài suy niệm hôm nay. Câu trả lời sẽ là nhiệt tình tin tưởng hoàn toàn mà toàn bộ bài đọc hướng về đó: “Thầy là Con Thiên Chúa!”
Phép lạ này gây phiền nhiễu. Nó dường như vô ích (các phép lạ khác là để chữa bệnh) và theo kiểu khổ hạnh, nhưng trái lại phải thấy trong đó một bài học quan trọng đó là một phép-lạ–mạc-khải. Phép lạ này biểu thị những nỗi sợ hãi lớn lao của chúng ta và những đỉnh cao của niềm tin tưởng của chúng ta, khi chúng ta sống đức tin như là một kinh nghiệm “Thầy thật sự là Con Thiên Chúa!”
Tôi có nói về biểu tượng để ám chỉ rằng phép lạ đã không xảy ra và phép lạ chỉ là một điều giảng dạy hình tượng về niềm tin hay không? Không, những người này đã thấy rõ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước. Họ đã thấy gió lặng yên. Chúa Giêsu đã làm điều đó vì họ, để làm cho niềm tin của họ vững mạnh: “Thầy đây, các con đừng sợ!”
Giờ đây, được chúng ta đọc lại, cũng chính biến cố này làm cho chúng ta suy nghĩ về niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu. Trong cuộc sống yên ổn, tin vào Chúa Giêsu chính làTin Mừng hy vọng: chúng ta thích điều Ngài nói, chúng ta muốn làm điều Ngài yêu cầu, nhất là khi Ngài nói về yêu thương.
Bão tố, đêm đen của những đau khổ thể xác, đêm đen của những thất bại, của phản bội, của tuổi già đang đến. Tin rằng Chúa Giêsu sẽ kéo chúng ta ra khỏi những làn nước này như thế nào?
Phép lạ xưa kia có thể trở thành phép lạ cho chúng ta. Cũng chính Chúa Giêsu ở đó và nói: “Đừng sợ”. Và Ngài nói: “Hãy đến đây!”. Nghe và hiểu được tiếng hãy đến đây chính là cảm thấy trong ta một ngọn lửa tin tưởng giống như canxi trong các mạch máu của chúng ta. Chúng ta hỏi Ngài chúng ta có thể đi tới Ngài, đi tới sự vững vàng và an bình, và Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến đây!”. Nếu cuộc chiến chống lại sự sợ hãi rất gay go, chúng ta cảm thấy Ngài nhìn chúng ta với vẻ nghiêm khắc dịu dàng: “Kém tin thế, tại sao ngươi hoài nghi?”
Ngài nói với chúng ta và với Giáo Hội như thế. Con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội. Giáo Hội bị sóng gió vây bủa, nhưng Ngài hiện diện ở đó.
Khi chúng ta lắng nghe được tiếng nói này “đừng sợ”, sự việc có thay đổi hay không? Không hẳn, mặc dầu điều này vẫn có thể xảy ra. Nhưng chắc chắn chúng ta thay đổi, chúng ta mang cái dường như chúng ta không thể mang được. “Thầy là Con Thiên Chúa. Có Thầy con sẽ tiến bước trên các làn nước sợ hãi và đau khổ này”.
Tôi không thể đi xa hơn được, duy chỉ kẻ nào đã có kinh nghiệm về niềm tin mới biết câu “và gió trở nên lặng” có nghĩa là gì.
------------------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Người bắt buộc": Một thành ngữ dị thường! Tại sao Chúa Giêsu phải ép các môn đồ ra đi? Phải: TN 19-A49
"Người bắt buộc": Một thành ngữ dị thường! Tại sao Chúa Giêsu phải ép các môn đồ ra đi? Phải chăng vì họ không muốn để Người một mình trong đêm vắng? Hay vì Người sợ các môn đồ nhiễm lây sự kích thích muốn tôn Người làm vua của đám đông phấn khởi trước phép lạ hóa bánh ra chiều (x Ga 6,14-15).
"Còn đò thì ... lắc lư với sóng": Matthêu nói về con đò như nói về một thực thể cộng đồng mà ta có thể coi là biểu tượng của Giáo Hội ở câu 33 cũng thế, tác giả không bảo là các môn đồ mà là "những kẻ ở trong đò”.
"Canh tư' đêm tối, người đi trên biển đến cùng họ": Canh tư tương ứng với khoảng thời gian 3-6 giờ sáng. Phép lạ được kể ở đây gợi nhớ nhiều đoạn Cựu Ước cũng nói Thiên Chúa đi trên biển (G 9, 8; 38, 16; Tv 77, 20; Hb 3, 15; Hc 24, 5), nhưng theo một ngôn ngữ ẩn dụ. Thành ra có sự song song giữa Chúa Giêsu và Giavê vậy.
"Chính là Ta": Qua kiểu nói đây, chắc hẳn Chúa Giêsu trước tiên muốn sửa sai ngộ nhận của các môn đồ (Người không phải là ma) và đồng thời trấn an họ, vì họ chẳng nhận ra đó chính là Người. Nét này gặp lại trong các trình thuật diễn tả Đấng Phục sinh hiện ra dưới một hình dạng khác lạ(x. Lc 24, 36tt). Nhưng vì ở đây Chúa Giêsu tỏ mình qua việc thi thố một quyền năng siêu phàm trên vũ trụ, nên cần phải nối kết với các cuộc thần hiển của Cựu Ước, trong đó Giavê vẫn thường giới thiệu mình bằng một thành ngữ tương tự: ‘Chính là Ta’ hay ‘Ta là’ (St 17, 1; 26, 24; 28, 13; 35, 11; 46, 3; Xh 3, 6. 14). Một lần nữa, Matthêu kín đáo nhấn mạnh rằng có một tương hợp giữa Chúa Giêsu và Giavê.
"Và Phêrô bắt đầu đi trên nước": Người môn đồ được một quyền lực thần thông như Thầy, đó là chi tiết làm nổi bật hơn nữa ý nghĩa Giáo Hội học của đoạn văn. Đây là một đặc điểm của thần học Matthêu, theo đó Chúa Giêsu cũng san sẻ quyền tha tội (9, 6) cho các môn đồ Người (9, 8; 16, 19; 18, 18). Tuy nhiên Phêrô chỉ đi được trên nước nhờ niềm tin của ông. Thánh sử còn nhấn mạnh ở nhiều đoạn khác quyền năng ấy của đức tin cùng hiệu lực lạ lùng và tức khắc của nó. Như với viên sĩ quan đến xin người chữa bệnh cho tên đầy tớ, Chúa Giêsu đã trả lời rằng: "Ông hãy đi, ông đã tin sao, thì sẽ được như vậy". Và ngày giờ ấy tên đầy tớ đã được khỏi (8, 13). Vì đối với người có lòng tin thì "không có gì mà không làm được" (17, 20).
"Lạy Ngài, xin cứu tôi": Như tiếng kêu của những người đi đò gặp cơn bão tố ("Lạy Ngài, xin mau cứu, chúng tôi chết mất": 8, 24), tiếng kêu của Phêrô làm vang vọng nhiều lời cầu khẩn của nhiều Thánh Vịnh, trong đó người tín hữu xin Thiên Chúa đến giúp mình khỏi luồng nước đang dọa đe (Tv 69, 2 và 15; 144, 7; xem thêm Tv 18, 17; 32, 6; Is 43, 2- 3). Thành thử đây là một lời cầu nguyện nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu dù với chút ít nghi ngờ.
"Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa": Như các chỗ khác trong Tin Mừng, lời tuyên tín này chắc hẳn không có giá trị như việc các môn đồ nhìn nhận tử hệ tự bản tính của Chúa Giêsu; song là nhìn nhận tử hệ theo nghĩa rộng; đây chỉ là lời công bố về thiên sai tính của Người. Tuy nhiên, có thể cộng đoàn Kitô hữu hậu-phục-sinh sau đó dùng lại lời tuyên tín của Phêrô và thêm vào ý nghĩa đầy đủ là Thánh Thần soi sáng. “Những kẻ ở trong đò" nghĩa là ở trong Giáo Hội, theo gương Phêrô và các môn đồ, tuyên xưng Chúa Giêsu thực là Người Con duy nhất của Thiên Chúa tối cao.
KẾT LUẬN
Matthêu trình bày một cuộc thần hiện dành riêng cho "các kẻ ở trong đò", nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục Sinh: trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa Cứu Thế của thời Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện đáp cứu của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng: "Ngài thật là Con Thiên Chúa".
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Điều đã xảy đến cho Phêrô, thủ lãnh các sứ đồ, sẽ mãi là kiểu mẫu và gương soi cho mọi kẻ tin. Ở đây, Phêrô đại diện toàn thể Giáo Hội đang đứng trước mặt Thầy mình. Giáo Hội biết rằng mình được bảo đảm vượt thắng mọi thử thách nguy biến, rằng mình sẽ chẳng bao giờ đắm chìm, mất hút trong giòng lịch sử, với điều kiện cương quyết giữ vững đức tin. “Nếu không gắn bó với Ta, các ngươi sẽ chẳng đứng vững được" (Is 7, 9). Điều này có giá trị đối với dân Giao ước mới như đối với dân Giao ước cũ.
2) Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng lặng yên. Người không cần ra lệnh như đã làm trong cơn bão táp (8, 26). Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại yên tĩnh và chế ngự ngũ hành cuồng điên. Trong đời ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sinh động, ta sẽ được an bình nội tâm, dù bên ngoài phải tư bề sóng gió.
3) Chúa Giêsu ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện, một lối cầu nguyện thật đặc biệt như giòng sông êm ả giữa Chúa Cha và Người. Không phải Người chẳng thích lối cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện công khai đâu (ta đã thấy Người cầu nguyện trước đám đông lúc hóa bánh ra nhiều: 14,19), nhưng thỉnh thoảng Người cảm thấy cần có một lối cầu nguyện đơn sơ và cá nhân như thế. Trong việc này cũng như trong mọi chuyện khác của đời Người, Người là gương mẫu cho ta: không thể tưởng tượng ra một môn đồ Chúa Giêsu không biết bắt chước Người trong việc cầu nguyện.
4) Tin là nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Nếu lúc ấy ta sợ, thế của ta sẽ trở nên nguy hiểm hơn lúc ta bằng lòng ở lại trên đò với các kẻ khác. Một khi đã liều, thì phải liều cho đến cùng tận. Nếu không nỗi sợ hãi sẽ nhận chìm ta. Tuy nhiên, dù bấy giờ sợ hãi, dù không còn sức tin tưởng trước cơn bão hoài nghi và chướng ngại, ta vẫn còn có thể kêu lên: "Lạy Chúa, xin cứu con". Và Người sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nói với ta: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”.
5) Phêrô bắt đầu chìm xuống "lúc thấy gió mạnh" (c.30), ông đã chia trí không nhìn đến sự hiện diện trấn an của Chúa Giêsu. Nhưng ông lại được cứu một khi quay nhìn về Người.
6) Thử thách, khổ đau, thất bại không vùi dập nhận chìm Kitô hữu, nhưng cảnh tỉnh, thanh luyện niềm tin.
------------------------------------------
VietCatholic News (Thứ Năm 07/08/2008 16:49)
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật XIX Thường Niên – A (Mt 14:22-31)
Bài Tin Mừng tuần trước nói về việc Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi trên năm:TN 19-A50
Bài Tin Mừng tuần trước nói về việc Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi trên năm ngàn người. Tuần này Hội Thánh nhắc đến việc Chúa đi trên mặt biển và làm cho sóng gió in lặng để củng cố Đức Tin của các môn đệ vì các ông còn yếu tin. Chúa dạy bài học này cho các môn đệ khi các ông đang ở trên thuyền. Con thuyền của các ông tượng trưng cho Hội Thánh. Hội Thánh là gia đình những người tin vào Chúa và nâng đỡ Đức Tin của nhau. Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa nên Chúa luôn để tâm đến mọi hoạt động của Hội Thánh. Tuy Đức Tin là ân sủng nhưng không Thiên Chúa ban cho từng cá nhân, nhưng cần được nuôi dưỡng trong Hội Thánh qua lời giảng dạy và các Bí Tích, như các chi thể cần có máu luân chuyển từ tim và bộ não sống động. Không một chi thể nào có thể sống được mà không gắn liền với thân thể, cho nên không một ai có thể có Đức Tin độc lập với Đức Tin của Hội Thánh. Đức Tin cũng cần phải được thực hành trong đời sống hằng ngày thì mới có hiệu quả. Ngày nay có nhiều Giáo Phái nhận mình là Giáo Hội thật của Chúa. Nhưng chỉ có một Hội Thánh Công Giáo là Giáo Hội còn đứng vững trước các tấn công của thế gian mà không nhượng bộ, không để mình chìm theo những làn sóng thế tục, vô luân, vì luôn luôn kiên trì tin tưởng vào Chúa và trung thành làm theo Ý Người.
Nhiều khi chúng ta cũng hỏi Chúa như Thánh Phêrô, “Lạy Chúa nếu thật sự là Chúa thì cho con trúng số, làm cho con cái của con ngoan ngoãn, cho giáo xứ con đoàn kết, cho học trò con biết vâng lời, thì đóng cửa các nhà thương phá thai, thì bịt miệng các chính trị gia đang loan truyền sự dữ,….” Chúng ta sẽ phản ứng ra sao nếu Chúa không ban cho chúng ta những điều ấy? Chúng ta còn tin Chúa không hay nghi ngờ để bị chìm theo các làn sóng dồn dập của thế gian, của vật chất, của thuyết tương đối, của thuyết duy vật vô thần…?
Mt 14:22 - Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng.
Dịch là Chúa Giêsu giục các môn đệ trở xuống thuyền thực ra chưa lột được ý của câu này. Nếu dịch sát theo bản Hy Lạp, thì phải là Chúa lập tức bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước. Lý do mà Chúa bắt các môn đệ xuống thuyền và qua bờ bên kia, tức là về Capernaum, trước, vì Người không muốn các ông chứng kiến cảnh dân chúng bắt Người lên làm vua (x Ga 6:14-15). Vào thời ấy người Do Thái đang nóng lòng mong đợi một vị Mêsia đến giải phóng họ khỏi ách nô lệ Rôma và tái lập vương quyền của Vua Đavid như Thiên Chúa đã hứa. Thấy Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, họ bảo nhau: “Đây thật sự là vị ngôn sứ, đấng phải đến trong thế gian” (Ga 6:14). Chính các môn đệ khi theo Chúa cũng hy vọng được quyền thế, vì các ông thật sự chưa hiểu rõ về Chúa và các giáo huấn của Người (x. Mt 20:21-24; Mc 25:35-41). Cho nên Người đã lập tức bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia, vì sợ các ông cũng sẽ đồng tình với dân chúng mà tôn Người lên làm vua.
Ngày nay chúng ta cũng chẳng khác gì dân Do Thái và các môn đệ bao nhiêu. Mặc dù đã biết là Vương Quyền của Chúa không phải là vương quyền trần thế, nhưng hầu hết những điều chúng ta cầu nguyện là xin Chúa cho những gì là vật chất nhiều hơn tinh thần như: làm ăn phát đạt, thi đỗ, khẻo mạnh, …. Có người còn cầu xin cho được trúng số…. Các môn đệ ngày nay cũng thế. Nhiều người đi tu làm linh mục để được “lên hàng khanh tướng.” Nhiều người ra làm việc tông đồ để mưu cầu danh tiếng hay để được mang ơn. Có những Giáo Lý viên chỉ muốn dạy lớp Xưng Tội Rước Lễ Lần Đầu hoặc Thêm Xức vì sau hai lớp này họ được cám ơn trên nhà thờ còn dạy các lớp khác thì không ai biết đến….
Khi bắt các môn đệ lập tức xuống thuyền qua bờ bên kia, Chúa cũng muốn dạy tôi rằng khi làm được việc gì tốt tôi cũng phải lập tức xuống thuyền về Capernaum, tức là hạ mình xuống nhớ lại nguồn gốc thấp hàn của mình, và nếu có thể được thì lánh đi ngay, đừng chần chờ kẻo bị người ta cám ơn hoặc khen thưởng mà thành ra kiêu ngạo, tự mãn, mà quên rằng mình từ Capernaum, là nơi đánh cá quê mùa.
Mt 14:23 - Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình.
Sau khi làm cho bánh hóa ra nhiều nuôi năm ngàn người chắc Chúa Giêsu rất cảm động khi nghĩ đến một ngày không xa, chính Người sẽ trở nên của ăn cho chúng ta cho đến tận thế. Nên Chúa cần phải tâm sự riêng với Cha Người. Cầu nguyện với Ñức Chúa Cha là một đặc điểm của Chúa Giêsu (x Lc 6:12). Tuy Người lúc nào cũng kết hợp với Ñức Chúa Cha, nhưng Người vẫn dành những thời giờ riêng biệt để cầu nguyện riêng, đặc biệt là trước khi quyết định những việc trọng đại (x Mt 26:36; Lc 9:27). Một trong những mục đích của Người là để dạy cho chúng ta tầm quan trọng của việc cầu nguyện riêng bằng chính việc làm của Người. Ở đây chúng ta học được của Chúa bốn đặc tính của cầu nguyện riêng:
Rút lui khỏi đám đông tức là hồi tâm, không để cho những việc thế trần chi phối
Lên núi tức là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa
Một mình tức là dành tất cả thời gian đó cho Thiên Chúa để kết hợp với Ngài mà thôi
Trong đêm
trường tịch mịch.
Mt 14:24 - Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Dịch sát nghĩa là: Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. Biển đây là Biển hồ, tức là hồ Giênêsarét, hồ Tibêria hay là hồ Galilê (x Ga 6:1). Hồ này hình bầu dục, dài khoảng 21 km, rộng khoảng 12 km. Vì hồ quá lớn, lại có núi bao quanh nên thường có nhiều sóng gió (x Mt 8:23). Các môn đệ chắc chắn là đã quen với sóng gió của Biển Hồ. Tuy nhiên các ông vẫn sợ hãi.
Biển Hồ tượng trưng cho trần gian, mà cũng có thể tượng trưng cho đời sống thường nhật của mỗi người chúng ta. Sau khi được ăn Bánh Trường Sinh Chúa cũng sai chúng ta trở về đời sống thường nhật. Cũng như các môn đệ, chúng ta trở về, không phải như những cá nhân riêng rẽ, mà như chi thể của Nhiệm Thể Chúa là Hội Thánh. Chúng ta cùng Hội Thánh đi vào thế gian. Con thuyền tượng trưng cho Hội Thánh ở trần gian đang phải đương đầu với nhiều trở ngại. Sóng gió là những trở ngại ấy. Cũng vậy, đời sống của mỗi người chúng ta cũng phải đương đầu với nhiều sóng gió trong gia đình, ở sở làm, và nhiều khi cả ở trong giáo xứ của chúng ta.
Mt 14:25 - Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông.
Canh tư đêm tối hay vào khoảng canh tư - Trong thời Cựu Ước, người Do Thái chia đêm ra làm ba canh, mỗi canh 4 giờ. Vào thời Chúa Giêsu, họ theo người Rôma chia ngày thành 12 giờ, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều, và chia đêm thành 4 canh, mỗi canh 3 giờ. Canh tư từ 3 giờ đến 6 giờ sáng. Có lẽ sự phân chia này là theo giờ đổi lính canh của người Rôma.
Chúa Giêsu ở trên núi, nhưng luôn quan tâm đến các môn đệ. Khi thấy các ông bị sóng gió nguy ngập, Người liền đi trên mặt biển mà đến cứu các ông. Cũng thế, lúc nào Chúa cũng quan tâm đến chúng ta trong cuộc chiến đấu vật lộn với phong ba nơi trần thế.
Người đi trên mặt biển. - Đối với người Do Thái, biển tượng trưng cho sự hỗn độn dưới quyền năng của tối tăm. Cựu Ước nhiều lần nói tới việc Thiên Chúa chế ngự biển cả khi tạo dựng, cho Dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, và Ngài đi trên biển (x G 9:8; Tv 77,20). Việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển không phải để biểu diễn, nhưng để chứng tỏ rằng Người có quyền trên biển, ngõ hầu củng cố đức tin của các môn đệ. Ñây là những phép lạ riêng để cho các môn đệ nhận ra và vững tin rằng Người là Thiên Chúa (Mc 6:45-52; Ga 6:14-21).
Mt 14:26 - Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng.
Các môn đệ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến gần thì tưởng là ma. Điều này không có gì là ngạc nhiên cả vì người thời đó tin rằng ma quỷ làm chủ biển cả. Biển là một con quái vật hỗn độn trong huyền thoại về tạo dựng của người Trung Đông. Biển bị Thiên Chúa chế ngự trong phạm vi của nó (G 38:8-11), nhưng khi chèo thuyền vào biển là trong phạm vi của biển, nên nó có quyền trên tàu bè. Nhưng lý do chính là đức tin của các ông còn yếu. Lần trước khi các ông kêu la trên biển cả (Mt 8:23-27), Chúa đã khiển trách các ông, “Tại sao các con sợ hãi, hỡi những kẻ yếu tin!” và các ông đã tự hỏi, “Người này là người nào mà cả gió và biển cũng vâng phục Người.” Đức tin này vẫn còn yếu kém sau khi Chúa sống lại đến nỗi khi Người hiện ra với các ông, các ông cũng tưởng là ma (Lc 24:37). Đức tin ấy chỉ được mạnh mẽ sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống với các ông vào Lễ Ngũ Tuần.
Mt 14:27 - Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!"
Hãy yên tâm – Chúa trấn an các môn đệ bằng lời nói quen thuộc của Người, “Hãy yên tâm” (Mt 9:2; 9:22; Mk 10:49). Hội Thánh và cuộc đời của mỗi người chúng ta nhiều khi cũng có những sóng gió mà chúng ta không chống cự nổi, nhưng Chúa luôn bảo vệ Hội Thánh và bảo vệ mỗi người chúng ta nếu chúng ta tin vào Người. Khi gặp sóng gió hãy vững tay chèo lái, tức là vẫn trung thành tuân giữ giới luật Chúa, sống theo giáo huấn của Người cùng tin cậy vào Người và hãy yên tâm, đừng sợ vì Chúa luôn ở bên.
Thầy đây, đừng sợ! – Khi dịch ra tiếng Việt Nam, “Thầy đây” không còn lột được ý nghĩa siêu nhiên của câu trả lời. Trong Cựu Ước Thiên Chúa hay tự xưng "Ta là", "Ta là Đấng Hiện Hữu" (x St 46,3; Xh 3,14). Khi xưng, "Thầy đây", Chúa Giêsu ám chỉ Người là Thiên Chúa. Vì là Thiên Chúa, Người có quyền năng trên biển cả, Người có thể đi trên nước, nên Người bảo các ông “Đừng sợ”.
Mt 14:28 -29 - Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". 29 Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu.
Thánh Phêrô quả thật là một con người chất phác, thành thật và mau tin hơn các môn đệ khác. Một khi đã tin là đem ra thực hành liền, nên khi Chúa phán “Hãy đến!” thì ngài lập tức ra khỏi thuyền và đi bộ trên nước đến cùng Chúa mà chẳng hoài nghi chút nào. Không một hãng xưởng nào thời nay có thể thuê một người bộp chộp và nông cạn dễ tin như thế làm giám đốc điều hành công ty của mình. Thế mà Chúa lại chọn Thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh hữu hình của Người. Sở dĩ Thánh Phêrô dám liều mình bước xuống nước giữa con giông bão vì ngài tin vào lời Chúa, và có can đảm thực hành lời ấy bất chấp mọi nguy hiểm. Chúa đã cho Thánh Phêrô chia sẻ quyền năng của Người. Ngày hay các Đức Thánh Cha cũng thế. Bốn mươi năm về trước, khi cuộc cách mạng tính dục bắt đầu, sau khi tất cả các giáo phái Tin Lành đều nhượng bộ dư luận quần chúng mà cho tín hữu của họ dùng thuốc ngừa thai. Nhiều giám mục và các nhà thần học Hoa Kỳ cũng tin rằng Hội Thánh Công Giáo cũng sẽ cho phép như thế. Còn Đức Thánh Cha Phaolô VI thì đã bác bỏ những đề nghị của đa số thành viên trong ủy ban chuyên môn về ngừa thai mà ra Thông Điệp Humanae Vitae. Ngài gọi nó là “dấu chỉ mâu thuẫn của thời đại.” Khi ra thông điệp ấy, Đức Thánh Cha đã can đảm chịu mọi chống đối sẽ xảy đến cho ngài trong Hội Thánh. Nhưng ngài nhất định vững tai lèo lái con thuyền Hội Thánh giữa cuộc phong ba vũ bão vô tiền khoáng hậu ấy. Ngài bị tấn công đủ mọi phiá, không những ở ngoài Hội Thánh mà ngay trong lòng Hội Thánh. Linh Mục Charles E. Curran, giáo sư về Thần Học Luân lý tại Catholic University of America đã dẫn đầu cuộc vận động phản đối Đức Thánh Cha với sự ủng hộ ngầm của nhiều giám mục cấp tiến. Cuộc vận động này đã gây ra nhiều sóng gió trong Hội Thánh mà đến bây giờ vẫn chưa yên. Tuy nhiên ngày nay nhiều người đã phải nhìn nhận rằng Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói tiên tri trong Thông Điệp Humanae Vitae về những hậu quả mà thuốc ngừa thai đem đến cho nhân loại.
Mt 14:30-31 - Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" 31 Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?"
Thấy gió mạnh, ông sợ hãi - Bao lâu Thánh Phêrô đẩ ý đến Chúa Giêsu, thì ông có thể đi trên mặt nước mà không sợ gì cả. Nhưng khi thay vì để tâm vào Chúa, ông để tâm vào sóng gió, và quên rằng Chúa ban quyền cho ngài để thắng vượt ba đào thì ngài đâm ra sợ hãi, hoài nghi, và bắt đầu chìm xuống.
Lạy Thầy, xin cứu con với! – Có bản dịch là “Thưa Ngài, xin cứu con” - Thật ra chữ κυριε là thể vocative của κυριος của Hy Lạp, có ba nghĩa là ông chủ, để xưng hô với một người trên như Sir của tiếng Anh hay ngài của tiếng Việt, nhưng cũng dùng để xưng hô với Thiên Chúa. Vì thế dịch là “Thưa Thầy” thì không chỉnh lắm. Có lẽ dịch “Lạy Chúa” là đúng nhất.
Tại sao lại mà nghi ngờ? – Đây là một lời trách yêu của Chúa vì Người thừa biết rằng đức tin ngài còn yếu. Chúng ta nhiều khi cũng như Thánh Phêrô, tin vào Chúa đấy, nhưng vẫn còn nghi ngờ. Ñó là chuyện bình thường.
Ở đây Chúa muốn dạy Thánh Phêrô và tất cả chúng ta một bài học là đừng cậy sức mình, vì con người vừa yếu đuối vừa hèn nhát. Đôi khi lòng mình không muốn để bị chìm vào trong biển cả tội lỗi, nhưng vì yếu đuối mà sa ngã, vì hèn nhát nên nhượng bộ làm theo bạn bè hay dư luận quần chúng. Muốn không bị chìm thì phải dựa vào ơn Chúa. Và một khi đang chìm thì phải bắt chước Thánh Phêrô kêu cầu cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con!” Mỗi khi bị cám dỗ, mỗi khi gặp hiểm nghèo, cũng xin cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cứu con!”
Mt 14:32-33 - Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. 33 Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Gió liền yên lặng - Ở đâu có Chúa thì ở đấy có bình an.
Thật Thầy là Con Thiên Chúa - Lần trước khi Chúa Giêsu truyền cho sóng gió yên lặng, các môn đệ hỏi nhau, "Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8:37). Lần này các ngài thật sự tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nghĩa là Đấng Mêsia.
Câu Hỏi để Thảo Luận
1. Tại sao Chúa Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước trong khi Người giải tán đám đông? Ñiều gì làm Chúa e ngại khi danh tiếng của Người được đồn ra khắp trong dân chúng (xem Jn 6:15)?
2. Tại sao Chúa Giêsu lại muốn cầu nguyện một mình?
3. Dư luận quần chúng và phản ứng của Chúa Giêsu ở đây tương tự như cám dỗ ở các câu Matthêu 4:3-10 thế nào?
4. Chuyện gì xảy ra ở giữa Biển Hồ làm lắc lư con thuyền của các môn đệ? Làm cho các ông sợ hãi? Làm cho đức tin của các ông thêm mạnh?
5. Hội Thánh cũng như chiếc thuyền trên biển cả. Hãy kể ra những trận phong ba mà Hội Thánh đã phải chịu trong quá khứ? Biến cố nào gần đây mà bạn cho là một trận cuồng phong đang lắc lư tầu Hội Thánh? So với các biến cố trong quá khứ thì biến cố này có phải là biến cố trầm trọng nhất không?
6. Ñời bạn cũng có rất nhiều sóng gió, bạn làm gì để sống sót đến hôm nay? Có khi nào bạn cầu nguyện cùng Chúa trong các phong ba đó không? Nếu có thì bạn thấy hiệu quả ra sao?
7. Tại sao Thánh Phêrô lại xin Chúa truyền cho ngài đi trên nước mà đến với Người? Khi nào thì ông bắt đầu chìm? Tại sao sao ngài không chìm ngay khi mới bước xuống nước?
8. Nếu bạn là Thánh Phêrô bạn có dám ra khỏi thuyền hay cứ ngồi lỳ trong thuyền?
9. Trong đời bạn có chuyện gì xảy ra hay việc gì bạn làm tương tự như việc Thánh Phêrô đi trên nước không?
10. Các môn đệ kết luận gì về Chúa sau phép lạ này?
Phaolô Phạm Xuân Khôi
------------------------------------------