Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 301-350 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Thời đại văn minh, thể chế dân chủ được nhiều quốc gia lựa chọn làm hệ thống chính trị điều hành đất nước. Trong xã hội này người ta chỉ nói đến tổng thống, quốc hội, bộ ngành, cho nên ý niệm về vua chúa và quyền bính tuyệt đối của ông không còn phổ thông nữa, mà đang bị lu mờ, mai một dần, ngoại trừ ở vài quốc gia kì cựu như Anh quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Thụy Điển... Tuy nhiên ở những nước này quyền nhà vua đã bị Quốc hội hạn chế tối đa, chỉ còn tính cách tượng trưng cho nền quân chủ và ý chí thống nhất của nước đó. Thỉnh thoảng xem ti vi chúng ta thấy các buổi đăng quang, đám rước, đám cưới hoàng gia với những lễ nghi, xe thổ mộ do ngựa kéo, màu sắc rực rỡ, chúng ta không khiếp sợ như thời phong kiến nữa mà chỉ còn hiếu kỳ, lạ lẫm. Thời phong kiến dân chúng sợ hãi quyền bính nhà vua. Vì nó là thứ quyền lực tuyệt đối của kẻ thống trị, ai chống đối phải lãnh hậu quả thảm khốc, thường là tử hình và chu di tam tộc (giết tới ba đời con cháu). Đất nước Hoa Kỳ được khai sinh từ một cuộc nổi loạn chống lại quyền bính vua nước Anh trên 13 thuộc địa ở Châu Mỹ. Ngày nay tuy còn ngưỡng mộ vẻ đẹp của triều đình ngoại quốc, nhưng chúng ta rất sợ quyền bính phong kiến, cha truyền con nối, kìm kẹp và thống trị nhân dân. Chúng ta ưa thích nền chính trị dân chủ hơn. Tuy nhiên những cuộc tranh cử, bầu cử, thăm dò ý kiến, gian lận kết quả của mấy tháng vừa qua cho hay dân chủ cũng chưa phải là hoàn toàn lý tưởng.
Hôm nay là chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ C. Ba tuần qua Giáo hội đã cho chúng ta suy gẫm về thời kỳ cuối cùng của mỗi người, của thế giới, với động đất, đói kém, ôn dịch, bách hại và mọi loại khốn khổ. Tin Mừng tuần này về cái chết thê thảm của Chúa Giêsu trên thập tự sau khi bị xỉ nhục, chế giễu. Đây là một biến cố trớ trêu, soi sáng cho các linh hồn tôn phong Chúa là “vua” và chấp nhận quyền tối thượng của Ngài trên cuộc sống mình. Nếu so sánh với vua chúa thế gian thì quyền bính của Đức Giêsu khác hẳn. Nó là một trò cười để thiên hạ tiêu khiển, nếu nhìn theo quan điểm thường tình thế gian và chúng ta chẳng thể gán tội “phạm thượng” cho những kẻ không tin chế giễu tước hiệu “Vua Thượng Vị” của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính. Nếu hiểu hết ý nghĩa của ba bài đọc thì họ hẳn phải ôm bụng cười. Bởi vì họ không thể liên kết được những sang trọng thế gian với vị vua của người có đạo! Một vị vua người ta đem bêu diếu, trói chân tay, đánh nhừ đòn, rồi giết chết trên thập giá. Từ đó, ông làm vua những kẻ bé mọn của xã hội, những kẻ bị loại trừ, khinh bỉ, những tội nhân khốn kiếp, những đĩ điếm, xì ke, những phường lường gạt, buôn gian bán lận biết ăn năn sám hối... Đúng vậy, cả bốn phúc âm đều mô tả cái chết của Chúa Giêsu trong chiều hướng đó và mạc khải căn cước thật của Ngài là Vua Công Chính, là con Đức Chúa Trời, được tôn vinh trên vạn vật ở đúng thời điểm Ngài gục đầu trút hơi thở cuối cùng trên thập tự! Nói cho ngay, dù mỗi Phúc âm trình bày cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu một cách khác, với những chi tiết gần như cách biệt nhau khá xa, mang màu sắc của cộng đoàn địa phương, mang cả tính tình của người viết, nhưng khi đến mạc khải Ngài là vua, thì họ đều hợp nhất về quyền bính và chức vị của Ngài trên những kẻ tin kính.
Chúng ta có thể giải thích quan điểm đó như sau: Đối với người Do thái, chỉ Thiên Chúa là “vua” duy nhất của dân tộc và tôn giáo. Ngoài ra không có vua nào khác. Khi ra khỏi Ai Cập, dân Israel chỉ có quan án ngồi xét xử cho dân. Đến thời tiên tri Samuel dân muốn bắt chước các nước xung quanh, xin một vị vua, thì tiên tri bực mình đi cầu nguyện cùng Đức Chúa. Đức Chúa phán bảo ông: “Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng” (1Samuel 8,5). Người đầu tiên được xức dầu làm vua Israel là Sa-un. Ông được chọn không phải vì tài cao, sức mạnh, nhưng vì ông phản ảnh hình ảnh Thiên Chúa là vua. Ông đại diện Đức Chúa cai trị dân chúng. Ông lãnh trách nhiệm trước mặt Đức Chúa, cầm cân nẩy mực công lý trong dân. Vua Sa-un đã thất bại trong nhiệm vụ của mình, bị Đức Chúa loại bỏ, chọn Đa-vid lên thay thế. Đavid được sức dầu cũng không phải vì địa vị của mình trong nhà cha mình, mà vì ông có phẩm chất của người thay thế Đức Chúa lãnh đạo dân Do thái. Ông là một vị vua mục tử thay thế Thiên Chúa chăn dắt Israel: “Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt dân Ta là Israel. Ngươi sẽ chăn dắt chúng như người mục tử chăn dắt chiên cừu”. Như vậy bài đọc 1 cho ta hiểu ý nghĩa của ngày lễ hôm nay. Đavid, người mục tử dẫn dắt tuyển dân Thiên Chúa, hợp nhất các bộ lạc còn đang tản mác, chọn Giêrusalem làm thủ đô và trị vì trong suốt 40 năm. Tuy có nhiều nhược điểm, nhưng đức tính nổi bật nhất của ông là tài dẫn dắt dân tộc Israel đạt tới nền thịnh vượng chưa từng có. Phụng vụ nhớ đến ông vì ông là hình ảnh của Đức Kitô dẫn dắt Hội thánh. Có điều khác biệt: Ông cai trị trên ngai vàng cung điện nguy nga ở giữa Giêrusalem. Còn Chúa Giêsu trên cây thập giá bên ngoài thành thánh. Ngài chịu đóng đinh ở đấy, cai trị và được tôn vinh ở đấy, bởi vì đó là nơi người mục tử chăn dắt đoàn chiên, những kẻ tội lỗi, sa đoạ bị loại trừ...
Người trộm thứ hai theo tiêu chuẩn của xã hội và tôn giáo lúc ấy đúng là một kẻ bị loại trừ. Nhưng ông đã nhìn thấy triều đại Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô tan nát và giẫy chết. Chẳng có chi sang trọng và vương giả nơi con người khốn khổ ấy. Bề ngoài chỉ là một tội nhân khác bị nhà nước thần quyền kết án. Tuy nhiên người trộm lành đã được ơn soi sáng công nhận Đức Giêsu đích thật là vua, oai phong và vinh hiển hơn các vua trần thế, nên đã khiêm tốn tùng phục Ngài, xin Ngài một đặc ân mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền ban: “Lạy ông Giêsu, khi nào về nước Ngài xin nhớ đến tôi cùng”. Bằng lời cầu xin ngắn gọn, người trộm lành đã tuyên xưng đức tin, ăn năn hối cải vì các lỗi lầm đã phạm, và công nhận uy quyền của Chúa Giêsu kéo dài ngay cả sau cái chết. Nói cách khác mọi sự không chấm dứt sau khi tắt thở. Trái lại, tồn tại vĩnh viễn: “Khi nào về nước Ngài xin nhớ đến tôi”. Ông đã nhận ra căn tính Thiên sai nơi Đức Kitô bên cạnh. Vì thế, vị vua mục tử mà Phúc âm luôn mô tả như tìm kiếm và cứu chữa những con chiên thất lạc, đã vội vã thâu nhận anh vào nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng”. Nghĩa là anh được sống ngay lập tức trong nước Đức Chúa Trời, không phải chờ đợi đến ngày tận thế, khi mọi người sống lại. “Anh được ở với Tôi” là lời hứa anh hoàn toàn được hạnh phúc trong tình thân thiết với Chúa Giêsu. Điều mà mỗi người chúng ta đều khát khao. Mặc dầu lúc ấy anh đang bị đóng đanh bên Chúa Giêsu, đau đớn và tủi nhục.
Vậy thì vương quyền của Chúa Giêsu là thế nào? Ngài làm vua ra sao? Lời đối đáp trên kia cho ta câu trả lời. Ngài hoàn toàn phản ánh hình ảnh Thiên Chúa- mục tử, mà dân Israel luôn tôn thờ. Ngài phân phát lòng thương xót và ơn tha thứ cho những ai kêu xin và người đầu tiên được hưởng ơn ấy là một kẻ trộm, cùng chịu án tử hình với Ngài. Cho nên bất cứ ai tìm kiếm ơn cứu độ đều được thỏa mãn nếu tin vào Ngài, không có chỗ cho thất vọng, đắng cay. Suy niệm đến đây hẳn chúng ta phải ngỡ ngàng về thượng trí khôn ngoan của Đức Chúa Trời, lo liệu cho loài người phương thế vô song để thoát khỏi bàn tay tội lỗi, được cứu độ tức thời và được sống thân thiết với Chúa Giêsu. Đồng thời phải trào dâng lòng cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa toàn năng, và vua Giêsu hiển trị muôn đời, không ngu xuẩn như những thủ lãnh Do thái chế nhạo Chúa. Họ hô lớn: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Thực tế, chẳng những Chúa đủ quyền năng cứu lấy mình mà còn cứu lấy người trộm lành và muôn vàn linh hồn khác nữa. Ngài không những là vua dân Israel mà còn là vua của toàn thể vũ trụ.
Cái chết trên thập tự của Chúa đã rõ ràng xác định ý nghĩa chức vụ làm vua của Ngài và vương quyền Ngài thực hiện trên thân phận nhân loại. Đó là sự thật hiển nhiên đối với ai có lòng tin. Quyền bính của Ngài không phải để ngự trị hống hách như kiểu thế gian, bóc lột và kìm kẹp. Nhưng là cứu giúp và giải thoát. Nó hiện diện trong những kẻ yếu đuối, tội lỗi, những kẻ thua thiệt trong xã hội, biết ngước trông lên Ngài. Suốt trong các sách Phúc âm người ta tìm ra Chúa Giêsu giữa những người tội lỗi, thu thuế, gái điếm, cùi hủi, mù loà, què quặt. Những người mà xã hội loại bỏ. Một số chấp nhận Ngài đồng thuyền đồng hội với họ, số khác từ chối. Những ai chấp nhận Ngài ban phát ơn tha thứ và hoà giải, họ được chữa lành phần xác và phần hồn. Dưới chân cây thập giá cũng vậy, không có người trung lập, hoặc là họ chế nhạo Chúa hoặc là họ tin kính Ngài. Thánh Luca kể: “Khi Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, dân chúng thì đứng nhìn còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo”. Những ai cười nhạo đều dùng từ “cứu”.
Dĩ nhiên họ muốn thấy hiệu quả tức thời, xuống khỏi thập giá và đi lại mạnh khoẻ như một phép lạ. Các binh lính, các thủ lãnh và một người trộm cùng chịu đóng đanh đều thách thức Chúa Giêsu tự cứu mình, tự giải thoát mình khỏi cây thập giá. Nhưng họ đã lầm, từ “cứu” trong Phúc âm có nghĩa rộng hơn nhiều. Nó bao gồm mọi khía cạnh của cuộc sống con người, ngay cả của toàn thể vũ trụ. Hẳn chúng ta còn nhớ câu văn nổi tiếng của thánh Phaolô: “Vạn vật quằn quại chờ ngày được cứu”. Đối với các tín hữu, từ “cứu” còn có nghĩa thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Cho nên họ nhìn thấy cái chết của Chúa Giêsu một ý nghĩa to lớn hơn, to lớn vô cùng. Nếu như Ngài muốn cứu chúng ta và thế giới, Ngài phải đi qua cái chết trên thánh giá, số phận đã được Thiên Chúa Cha quyết định từ khi sinh ra ở Bêlem. Vậy thì quyền cai trị của Chúa Giêsu không phải trong đường lối sang trọng thế gian. Trái lại, được biểu lộ qua cái chết khiêm nhường, hoàn toàn không vương giả. Điều trớ trêu là lời nhạo báng của các binh lính La-mã: “Nếu ông là vua Do thái thì ông hãy tự cứu mình đi”. Lại là sự thật rõ ràng đối với thế giới Công giáo.
Người trộm lành đã nhìn thấy ý nghĩa đó. Đức Kitô là vua, dáng vẻ bề ngoài là một tử tội đáng ghê tởm, hoàn toàn thất bại, hoàn toàn bị hạ nhục, không một chút uy thế nào. Nhưng lại là Cứu Chúa có quyền năng chiến thắng sự chết, ban cho ông ta sự sống và hạnh phúc đời đời: “Lạy ông Giêsu, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. người trộm lành không nghi ngờ chút nào về sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu, mặc dầu trước mặt chỉ là một tử tội đang chịu đóng đinh. Một đức tin, đúng hơn một sự soi sáng, dũng mạnh biết bao! Nếu chúng ta cũng được ơn như vậy trong cuộc sống hằng ngày, hẳn chúng ta đã không ăn ở lạnh nhạt như hiện trạng. Tuy nhiên, bài học quan trọng cho chúng ta là: Khi phải gánh chịu thiệt thòi trong cuộc sống. Khi các thế lực sự dữ bao vây chung quanh. Khi không còn một khả năng nào trong tay. Khi thất vọng về những cố gắng thay đổi nếp sống. Khi phải đối đầu với khó khăn kinh tế, luân lý, chính trị. Khi phải đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ, áp bức, bất công. Khi phải lo lắng về các cơ cấu thối nát trong Giáo hội, xã hội. Lúc than khóc thân nhân qua đời.
Khi tuyệt vọng về tình hình thế giới: Luân lý đồi bại, phá thai, xì ke, ma tuý, tội ác có tổ chức... Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và nhận ra có lẽ đấy là những dạng khác nhau của biến cố trên đồi Can-vê mà Phúc âm hôm nay ký thuật. Chúng cũng đang chế nhạo Chúa Giêsu. Nhưng kỳ thực Ngài vẫn là vua. Người trộm lành đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những chê cười đó và trong đau đớn ông kêu xin Chúa cứu chữa mình. Ông đã đặt niềm tin vào nơi xem ra chẳng có chút hy vọng gì. Chúng ta hãy noi gương ông. Điều mà ông đã được nghe thì chúng ta cũng sẽ được nghe. Điều mà lòng tin của ông đã đạt được chúng ta cũng sẽ đạt được: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Thiên Chúa hiện diện ở những nơi xem ra không thể được: ngục tù, tối tăm, hèn hạ... Trên thập tự ai có thể tưởng tượng Thiên Chúa có mặt? Đôi mắt người trộm lành ngắm nhìn Chúa Giêsu ai có thể nói rằng ông ta đang ngắm nhìn ơn cứu độ? Vua của những kẻ ngoài lề lại chết trên thập giá. Việc đó am hợp với Phúc âm. Bởi lẽ Ngài luôn tuyên bố: Thiên Chúa là mục tử tối cao của nhân loại và Đức Kitô có nhiệm vụ dẫn dắt đoàn chiên trở về ràn. Vậy trong thánh lễ hôm nay, chúng ta phải cúi đầu bái lạy Ngài, vì chỉ có Ngài mới là vua đích thực của mọi tâm hồn. Amen.
Đoạn Tin Mừng này mô tả cảnh Đức Giêsu trên thập giá: - Phía dưới thập giá, dân chúng “đứng nhìn” cách bàng quan như không liên can gì đến mình, các thủ lãnh do thái thì chế nhạo “Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô”, lính tráng cũng chế diễu “Nếu ông là vua dân do thái thì hãy cứu lấy mình đi”.
- Trên đầu Ngài có bảng viết “Đây là vua người do thái”
- Bên cạnh Ngài có hai tên gian phi: một tên hùa theo đám người phía dưới để chế diễu Ngài ; tên kia công nhận Ngài là vua nên nói với Ngài “Khi ngài vào Nước của Ngài thì xin nhớ đến tôi”.
Nghĩa là: thánh Luca đã cố ý trình bày Đức Giêsu trên thập giá như một vị vua đang ngự trên ngai của mình. Nhưng đa số những người ở dưới và bên cạnh, vì đã quá quen với hình ảnh một ông vua trần gian nên chẳng những không nhận ra Ngài mà còn chế nhạo Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. “Nếu ông thật là vua thì hãy tự cứu lấy mình đi”. Câu này được lặp đi lặp lại nhiều lần trên môi miệng của hầu hết những người chứng kiến cảnh Đức Giêsu trên thập giá. Câu này chứng tỏ một quan niệm rất ích kỷ và vụ lợi về tước hiệu làm vua: làm vua trước hết là để lo cho bản thân mình. Nhân loại đã đau khổ biết bao nhiêu vì đã có biết bao người làm vua theo kiểu đó.
Còn Đức Giêsu, Ngài làm vua không phải để hưởng thụ, không phải vì bản thân. Một vị minh quân thì trước tiên phải thương dân, nghĩ đến dân, lo cho dân.
2. Hàng ngày tôi cũng đứng dưới thập giá Chúa rất nhiều lần. Thái độ và tâm tình của tôi giống ai: như dân chúng “đứng nhìn” ? như những kẻ thù ghét “chế nhạo” ? hay như người trộm lành “Xin Ngài nhớ đến tôi” ?
3. Lời anh trộm lành rất đáng làm gương cho chúng ta. Lúc bị hành hạ đau đớn, anh nói “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm”. Trong những lúc bị khổ, nhiều người cứ làm như tên trộm dữ, đã không nghĩ đến tội mình mà còn bực tức với người khác. Làm như thế, chẳng những không hết khổ mà lại còn khổ thêm, nhất là những cái khổ ấy chẳng mang lại ích lợi gì cả.
4. Vào thời Nga hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ, quan tòa mới phát biểu như sau: “Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa đến”. Nghe thế người thanh niên dõng dạc trả lời: “Thưa ông tôi nhìn nhận là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù. (Góp nhặt)
Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !" Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi !" Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do-thái." Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Ki-tô sao ? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !" Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !" Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: "Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."
Người ta nói nhiều về người trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều nước đạo gốc có nơi còn thờ một vị thánh. Được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ Robin Hood của Do-thái, ăn trộm của người giàu để phân phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giê-su còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giê-su dễ thương quá nên hắn không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: "Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé !" Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giê-su khi còn nhỏ đã gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha, lần này thì Chúa Giê-su đã cứu anh ta.
Câu chuyện thực hư thế nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã thực hiện điều mà trước đây cả bảy trăm năm I-sai-a đã tuyên sấm: "Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân." (53,12). Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài được coi là phạm nhân hạng nặng, đứng đầu trong bọn đầu trộm đuôi cướp nữa, nếu hai tử tội đứng bên cạnh Ngài đúng là những tên trộm cướp. Không biết ai đã bày ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp. Nếu là Phi-la-tô thì quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên đầu "Vua Do-thái", cũng có thể do bọn đầu mục Do-thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để tăng sỉ nhục cho nạn nhân, hay có lẽ là chính bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử tội đáng chú ý hơn cả trong bọn. Sự thật ấy là có một cái gì hiểm độc trong hành động này về phía loài người. Thế nhưng, điều ti tiện trước mặt người đời, lại cao sang trước mặt Thiên Chúa. điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài, thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài. Từ lâu Ngài được gán cho danh hiệu "bạn của người thâu thuế và phường tội lỗi." (Mt 11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giê-su đã đến thế gian để tự hòa mình vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và thật là thích hợp Ngài đã chết giữa họ.
Cho đến lúc này, Ngài đang ở giữa họ. Và thái độ kỳ lạ của những người đã bị treo hai bên Ngài, là một thực hiện và và là một báo hiệu. Thực hiện điều cụ Si-mê-on nói về Chúa Giê-su trong Đền Thờ: "Con trẻ này có mệnh làm cho nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu." (Lc 2,34), và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài và được cứu, trong lúc một số khác không tin. Lịch sử loài người luôn luôn như thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ, kẻ ăn năn đứng một bên phải, bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn. Mát-thêu và Lu-ca đều ghi lại: Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục Ngài, Lu-ca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc, kẻ bên phải ăn năn. Có thể lúc đầu hắn cũng hùa theo tên bạn rồi sau mới tỉnh ngộ. Nếu thế, thì đây không phải lần đầu tiên, hắn ta bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi, có lẽ tên đồng bạn này từ lâu vốn là ác quỷ bên cạnh hắn, đã phá đổ cuộc đời hắn, và cuối cùng đưa hắn vào kết thúc nhục nhã này. Một con người, mà cuộc đời đã đến chỗ sắp tàn như thế, mà lại còn đi mắng nhiếc người đồng cảnh ngộ, thì hèn hạ không biết chừng nào ! Đau quá hóa điên, làm liều tất cả để tạm quên những đau đớn của mình, y như một con vật mắc bẫy cắn bất cứ cái gì nó gặp … Đó là tình trạng của tên cướp không chịu ăn năn ! Còn tên kia thì kinh hãi lùi xa bạn, chính tội ác ấy đến mức lằn tối đã khựng lại và quay ngược lại. Lần đầu tiên trong đời, hắn nhận thức được con người thực của hắn: hèn hạ xấu xa.
Ý thức ấy hắn có được, là nhờ nét tương phản với vẻ mặt bình tĩnh của Đức Giê-su. Đã từ lâu, tên bạn tàn bạo kia vẫn là lý tưởng của hắn, thế nhưng, giờ đây đối chiếu với thái độ bình tĩnh chịu đựng của Đức Giê-su, sự hung bạo kia chỉ là thấp hèn. Để giải thích sự ăn năn đột ngột này, có người cho rằng tên cướp này đã gặp Đức Giê-su rồi, chắc chắn là hắn đã nghe Ngài cầu xin tha thứ cho kẻ thù, đã thấy thái độ của Ngài trên đường dẫn tới Núi Sọ, được nghe lời Ngài nói với nhóm phụ nữ thương hại Ngài. Rồi, chính những tiếng nhục mạ của kẻ thù đứng dưới chân thập giá ném vào Ngài những danh hiệu mà Ngài tự xưng hay bị ghép cho, giúp hắn nhận ra Chúa Giê-su là ai ! Có thể, hắn còn được chứng kiến, hay nghe được vụ xử của Ngài trước tòa Phi-la-tô … Còn lùi xa hơn nữa thì quả chúng ta không có bằng chứng chắc chắn. Hắn được nghe Ngài giảng chưa, đã được thấy phép lạ nào của Ngài chưa ? Hắn đã biết được gì về vương quốc mà hắn đã cầu xin với Ngài không ? Dầu sao đi nữa, thì lúc này, lòng hắn cũng tràn ngập đau đớn hối hận vì tội lỗi, và tràn đầy tin yêu, nên chỉ cần một tàn lửa phát xuất từ thánh giá Chúa Cứu Thế, cũng đủ làm cho đức tin bùng lên. Lòng ăn năn được biểu lộ qua câu nói với đồng bạn: "Mày không sợ Thiên Chúa sao ?" Chắc hẳn, trước đây hắn đã quên Chúa, dẹp Ngài qua một bên trong suốt thời gian tội lỗi, nhưng giờ đây Chúa đang ở gần, và trong ánh sáng của Ngài, hắn đang nhìn ra tình trạng tội lỗi của mình. Hắn công khai thú nhận, chẳng những trong lòng, mà còn bằng lời nói. Như vậy là vứt bỏ dĩ vãng, quá khứ tội lỗi, mà còn cắt đứt liên hệ với tên cướp không chịu ăn năn. Lại nữa, nhìn lại cuộc đời đã qua, hắn thấy đã bị nhơ nhuốc vì những hành động mà hắn biết rằng chỉ có cái chết là hình phạt xứng đáng.
Kẻ thống hối sợ đến với Chúa là chuyện rất bình thường, vì nghĩ rằng tội họ quá lớn không thể tha thứ được. Thế nhưng, trường hợp của tên cướp ăn năn, là một bảo đảm rằng Chúa ban đầy đủ ơn tha thứ cho những người như thế. "Máu Chúa Giê-su Con Thiên Chúa, rửa sạch tất cả mọi tội lỗi chúng ta." (1 Ga 11,7) "Lạy Chúa, khi nào về nước Chúa, xin nhớ đến con." Câu nói thật đơn sơ và khiêm nhường, nhưng biểu lộ rõ ràng niềm tin nơi Chúa ; tất cả điều dám mơ ước là Chúa nhớ đến anh ta khi về nước Ngài. Chúa Cứu Thế được nhận biết giữa những tiếng kêu gào của đám quần chúng bị sách động, giữa những tiếng kêu than ai oán vì tội ác, giữa những tiếng cuồng loạn của đám người chống đối. Thiên Chúa chỉ nghe thấy có một tiếng vang lên để ca tụng Ngài, đó là tiếng kêu của một tên trộm bị đóng đinh. Giữa lúc, những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên trộm lên tiếng bênh vực Ngài. Nếu thiếu niên con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương, nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa biến hình trên núi, nếu anh mù thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài … chúng ta không ngạc nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ, bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo … Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần (ngoài ba người đứng dưới chân thập giá), chỉ có một người lên tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh. Anh thấy cây thập giá nhưng tôn thờ như ngai vua cả, thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như Chúa Tể, thấy sự sống trong cõi chết, vinh quang trong nhục nhã … "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi."
Có thể đây là lần đầu tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được tiên báo "Không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn khói" (Mt 12,20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao ? "Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi." (Ga 6,37). Chúa Giê-su đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta trông đợi. Minh chứng của tên trộm là một chiến thắng vĩ đại của Chúa Giê-su, và Ngài đã dùng nghị lực mạnh mẽ hơn khi chế ngự thiên nhiên, Ngài mất sự sống nhưng cứu một linh hồn, tay Ngài bị đóng chặt vào thập giá vẫn có thể mở được cửa trời. Trong khi nhà cầm quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá, trong lúc mọi tố cáo bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài, trong lúc những lời gào thét "Nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình" không làm Ngài hé môi … Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một tên trộm "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta." Trước đây không một ai được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, Mô-sê hay Gio-an, ngay cả Ma-da-lê-na hay chính Đức Ma-ri-a, Ngài hứa và nói về thế giới vô hình ấy như một nơi quê hương quen thuộc, nơi mà Ngài nắm quyền hành, Ngài ban cho ai tùy ý …
Trong lời Chúa hứa: "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta", từ thiên đàng dịch từ Paradi, và theo nguyên ngữ từ tiếng Ba-tư có nghĩa là "một khu vườn rào kín". Khi vị vua Ba-tư muốn đặc biệt tôn trọng một bày tôi nào của ngài, thì người ấy được cùng dạo mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giê-su đã hứa cho tên trộm ăn năn đó một sự gì quý báu hơn là sự bất tử, Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của Ngài trong vườn cực lạc trên trời.
Để được vinh dự như người trộm lành, thánh Phê-rô đã khuyên bảo các tín hữu đầu tiên cũng như tất cả chúng ta: "Anh em hãy nỗ lực chứng tỏ mình đã thật được Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn, anh em sẽ không còn vấp ngã nữa. Thiên Chúa sẽ mở rộng cửa tiếp đón anh em vào nước vĩnh cửu của Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng cứu rỗi anh em." (2 Pr 1,10.11). Và trước đó thánh Phê-rô đã khai triển việc nỗ lực chứng tỏ ơn gọi chọn đó bằng: "Không phải chỉ có tin là đủ, mà còn phải sống cuộc đời đạo đức. Lại phải học hỏi để biết rõ Chúa hơn và tìm hiểu Chúa muốn mình làm gì. Lại phải biết tự chủ và kiên tâm sống cuộc đời tin kính. Nhờ đó, anh em biết đối xử với người đồng loại trong tình huynh đệ và nhất là yêu thương họ cách chân thành" (2 Pr 1,5s).
Chúa Nhật 34 kết thúc năm phụng vụ, Hội Thánh tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của phụng vụ là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Chúa Kitô Giêsu Tình Yêu.
Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa vương quyền của Chúa Kitô Giêsu, Ngài nắm vương quyền bằng cách nào, để rồi Ngài chia cho chúng ta quyền vương quyền của Ngài ?
I/ VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA ĐỘC LẬP VÀ KHÁC ĐỜI:
Chúa Giêsu trả lời cho Philatô về vương quyền của Ngài: “Chính ông nói: Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36-37). Thế mà vào đầu thế kỷ 20 này, xã hội loài người lại chối bỏ vương quyền của Chúa Kitô. Thông điệp QUAS PRIMAS ngày 11/12/1925 của Đức Giáo Hoàng Piô XI đã lên án hai quan điểm sai lạc sau:
Đồng hoá Kitô Giáo với các tôn Giáo khác.
Phủ nhận quyền của Hội Thánh trong việc Giáo dục nhân loại, bởi vì Hội Thánh còn phải đặt dưới quyền bính chính phủ dân sự.
Từ lý do trên, Đức Giáo Hoàng long trọng thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, được cử hành vào Chúa Nhật cuối tháng 10, trước lễ các Thánh để mọi người phải lập lại xác tín:
Chỉ có đạo Chúa là “Đường, và là Sự Thật, Sự Sống” (Ga 14,6). Bởi thế ngoài Chúa Kitô không thể có ơn cứu độ. (Cv 4,12)
Quyền bính Chúa Kitô trao cho Hội Thánh khác với quyền bính nhân dân trao cho chính phủ. Do đó quyền của Hội Thánh phải là quyền độc lập với quyền bính đời.
Ngày nay sau cộng đồng Vat II, Hội Thánh lại đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, nhằm nêu rõ vương quyền của Chúa không chỉ nhằm bao trùm loài người mà còn trên vạn vật hữu hình và vô hình, như lời Thánh Phaolô nói: “Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả viên mãn đậu lại trong Ngài, và đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ bửu huyết đổ ra nơi Thập Giá của Ngài, cho mọi loài mọi vật, dù ở dưới đất hay ở trên trời (Col. 1, 12-20: Bài đọc II).
II. QUYỀN BÍnH CỦA CHÚA GIÊSU LÀ TẬP HỌP VÀ PHỤC VỤ QUÊN MÌNH:
Ngày đăng quang của các vua trần gian là cao điểm vinh quang của một triều đại: người ta dâng cho vua nào là vàng bạc, châu báu, nào danh hiệu mỹ từ chúc vinh không ngớt …!
Ngày đăng quang của vua Giêsu trên đồi sọ thì ngược hẳn lại: Ngài bị mọi giới bóc lột tán tận:
- Tài sản mất: thân hình trần trụi.
- Thân thiết mất: Cha thì im lặng, môn đệ bỏ trốn.
- Danh dự mất: nhất là người ta dựa vào Sách Thánh để thách thức Chúa xuống khỏi Thập Giá, hầu minh chứng mình vô tội? Vì theo sách luật có viết: “Kẻ nào bị trao trên cây gỗ là đứa bị Thiên Chúa chúc dữ” (Dnl. 21, 23)
- Quyền bính mất: Nơi Đức Giêsu cả ba bính quyền: Tư tế, Vương đế, Ngôn sứ đều được Thánh Thần tấn phong cho Ngài. Nhưng trên Thập Giá, nhất lọat ba người thách thức Đức Giêsu xuống khỏi Thập Giá, tiêu biểu cho ba cách chối từ Thiên chức của Đức Giêsu:
Chối từ vương quyền Chuá: Vua Hêrôđê và lính tráng chế nhạo vương quyền Ngài (Lc 23,11).
Chối từ chức tư tế của Chúa: Các tư tế và ký lục ra sức cáo gian tội Ngài (Lc 23,10).
Chối từ chức ngôn sứ của Ngài: Dân chúng gào thét đòi giết Ngài mà tha cho họ tên sát nhân (Lc 23, 18).
- Khả năng phục vụ của Ngài bị cướp đi:
Với cái đầu suy nghĩ, thì ngừơi ta đã kết một triều Thiên gai cắm sâu vào óc, liệu còn nghĩ được gì? Với đôi bàn tay để thi ơn, thì đinh gim chặt vào cây. Với đôi chân bước đi giảng dạy, thì bị đinh đóng chặt vào khúc gỗ. Với trái tim để yêu, thì bị lưỡi đồng ngoái nát .
Đấy là vinh quang của Vua Kitô Giêsu được biểu lộ trên ngai Thập Giá. Đúng là một ông vua hề, nên khi xét xử Ngài, họ đã mặc cho Ngài chiếc áo đỏ, và là vua cỏ nên vương trượng trao cho Ngài là cây sậy !
Dầu Vua Giêsu bi đát đến thế, Ngài vẫn còn cái miệng mở ra van xin Cha tha tội cho kẻ hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm!”. Vì Ngài muốn hết thảy chúng được vào vương quốc cứu độ của Ngài như tên trộm đã biết sám hối và trông cậy vào Ngài thương xót, thì Ngài đáp ngay: “Hôm nay Ta cho ngươi vào Thiên đàng với ta” (Lc 23, 43).
NGƯỜI KITÔ HỮU ĐƯỢC THAM DỰ VÀO VƯƠNG QUYỀN CỦA CHÚA GIÊSU
Trong bài đọc I, Phụng vụ Hội Thánh đã mượn ba điều dân Do Thái tôn vinh vua Đavít để ám chỉ ba điều người Kitô hữu qua bí tích Thánh tẩy đã được chia sẻ vương quyền của Vua Kitô Giêsu.
1/ “Này chúng tôi là cốt nhục của Ngài”: Quả thật, nhờ Bí Tích Thánh tẩy và Thánh Thể chúng ta được đồng hình đồng dạng trong Đấng đã toàn thắng sự dữ, nhất là toàn thắng thần chết (xem Ga 6,57 ; Dt 2, 11.14).
2/ “Chính Đavít đã điều khiển Israel ra vào”: Nhưng Israel thua xa chúng ta hôm nay, nhờ Chúa Giêsu Thánh Thể dẫn ta vượt qua sự chết mà vào cõi sống (Ga 6,35).
3/ “Chúa đã phán với Đavít: chính ngươi sẽ chăn dắt dân của ta là Israel, ngươi sẽ làm thủ lãnh trên Israel”: Chuá Giêsu Phục Sinh còn trao quyền cho Phêrô- cho Hội thánh cùng với Ngài Chăm sóc dân Israel mới được sinh qua bí tích Thánh tẩy (xem Ga 20.21).
Vậy vươnng quyền của Đức Giêsu tuy đã trổi vượt hơn mọi vương quyền, Ngài là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, nhưng sự viên mãn của vương quyền Ngài còn lệ thuộc vào tình yêu nơi con người đáp trả bằng sự nỗ lực tập họp mọi Giá trị để phục vụ đồng loạt dưới ánh sánh của Tin Mừng.
Mỗi Thánh Lễ chúng ta tham dự, ta lại được chia sẻ chiến thắng của Chúa: từ sự dữ biến ra sự lành, một khi ta được nên đồng tình đồng dạng với Chúa trong sự chết của Ngài, thì cũng được cùng chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Ngài.
Vua các Vua là tựa đề một cuốn phim của Cecil De Mille cách nay 50 năm. Cuốn phim kể lại câu chuyện cảm động về Chúa chúng ta, Đấng cứu thế, đức Giêsu Kitô. Cuốn phim được coi là nổi tiếng nhất vì có hàng tỷ khán giả trên khắp thế giới. Lý do chính khiến cuốn phim nổi tiếng có thể diễn qua lời của đạo diễn Will Roge: “Bạn không bao giờ có được một cuốn phim vĩ đại hơn vì bạn không bao giờ tìm được một nhân vật vĩ đại hơn đức Giêsu”.
Trong tất cả mọi lời khen thưởng De Mill nhận được vì sản xuất cuốn phim, ông quí trọng nhất bức thơ của một người đàn bà sắp chết, được y tá dùng xe đẩy, đưa bà tới hội trường để xem chiếu phim. Bà viết: “Cám ơn ông, cám ơn ông vì cuốn phim Vua các Vua. Nó đã thay đổi những gì sắp xảy đến cho tôi từ kinh hoàng tới chờ đợi vinh quang”.
Cảm nghĩ của người đàn bà này giống cảm nghĩ của người trộm lành khi nghe lời hứa của Chúa Giêsu: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”, mà chúng ta vừa nghe đọc. Người đàn bà và kẻ trộm, cả hai cùng đang đau đớn, cùng biết mình sắp chết tới, cả hai cùng nhận được hy vọng từ Chúa Giêsu.
Những câu chuyện này ích gì cho bạn và tôi ? Một lúc nào đó trong đời chúng ta sẽ phải đau khổ, có người trong chúng ta đang đau khổ lúc này trong thân xác, trong tâm hồn, có khi cả hai. Có một vì vua, người cũng đau khổ. Hãy đến với người trộm lành đã làm. Hãy cầu xin cùng vua đau khổ với những lời kinh trong thánh lễ hay phát xuất từ đáy lòng bạn.
Phần lớn chúng ta đang hưởng sức khỏe tốt đẹp. Nhưng sẽ tới lúc chúng ta phải đau đớn. Tại sao chúng ta không sẵn sàng ? Tại sao chúng ta không đến với đức Kitô trong ngày lễ Vua đau khổ, Đấng kêu gọi các môn đệ của người chịu đau khổ và giúp họ, trong khi đau khổ ? Hãy đến với Chúa Kitô khi chúng ta khỏe mạnh và chúng ta sẽ sẵn sàng hơn để đến với người khi chúng ta bệnh hoạn. Vì Người, bạn hãy giúp đỡ những ai đau khổ. Bạn sẽ là con dâu trung thành của vua đau khổ.
Chúng ta hãy vui mừng trong ngày lễ Chúa Kitô vua hôm nay. Vì trong các bài đáp ca chúng ta hát: “Chúng tôi sẽ về nhà Chúa”. Với thánh Phaolô chúng ta sẽ: “Cảm tạ Cha... Người đã cứu chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đem chúng ta tới vương quốc con chí ái của Người”. Đặc biệt chúng ta nhấn mạnh trong Kinh lạy Cha: “Nước Cha trị đến”.
Người đàn bà đau bệnh trong câu chuyện chi nhìn thấy hình ảnh những gì đã xảy ra, nhưng những hình ảnh ấy đem lại cho bà hy vọng và sự sống mới. Người trộm lành có mặt trong thánh lễ đầu tiên cái chết của Chúa Kitô. Chúng ta cũng thế. Thánh giá trên đồi Calvario là một bàn thờ. Bàn thờ này là một thánh giá, trên đó Vua đau khổ dâng hiến chính mình cho Cha trên trời vì chúng ta.
Chúng ta hãy cảm tạ Người. Biết ơn vị vua các Vua, Người đã chịu đau khổ cho chúng ta. Biết ơn Người vì Người ở nơi đây để giúp chúng ta chịu đau khổ.
Những ngày cuối năm 1000, đã có những người lo sợ rằng ngày tận thế sắp đến. Lo sợ ấy có thể giải thích, vì ở thời đại ấy, niềm tin tôn giáo rất mạnh, nên ai cũng băn khoăn về những vấn đề như linh hồn bất tử, sau giờ chết linh hồn sẽ phải phán xét về việc lành dữ mình đã làm, những người được giải thoát sẽ sống trong một thế giới mới... Nhưng những ngày cuối năm 2000, cũng lại có những người lo sợ, xôn xao. Trong những người ấy, không nguyên chỉ có người có niềm tin tôn giáo, mà còn rất đông người chỉ tin vào đời này mà thôi. Tại sao vậy?
I. Tận thế và thời đại chúng ta.
1. Ở thời đại nào, con người cũng chỉ sống trong hy vọng. Thời đại chúng ta vừa đầy dẫy hứa hẹn, vừa tràn ngập lo âu. Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật ở một số nước tiên tiến đã giúp cho con người đạt được mức độ đời sống sung túc, tiện nghi mà người các thế hệ trước còn coi là một giấc mơ. Ngoài ra những tiến bộ trong việc đào tạo và việc tổ chức xã hội, nhờ sự tiến bộ của các khoa học nhân văn, làm cho nhiều người có ý nghĩ rằng: “nước hòa bình, tự do và công chính” đã đến gần.
Nhưng mặt khác, thực tế phũ phàng cũng đã đem lại nhiều kinh nghiệm chua cay. Chưa đầy một nửa thế kỷ, hai trận thế giới đại chiến khốc liệt, những cuộc cách mạng đẫm máu, những vụ thanh trừng đảng phái tàn nhẫn, những trại tập trung khổng lồ, những lò sát sinh tập thể đã xảy đến cho loài người. Tiến bộ khoa học và kỹ thuật có thể đem lại phát triển cho đời sống vật chất, nhưng cũng có thể đẩy con người vào nô lệ cho sản xuất để mà sản xuất, khoa học về con người và xã hội có thể giúp con người có những quan hệ cá nhân và xã hội công bằng và bình đẳng hơn, nhưng cũng có thể giúp cho họ bóc lột lẫn nhau một cách tinh vi hơn. Viễn tượng một trận chiến điên rồ trong đó con người dùng khoa học và kỹ thuật tiến bộ để mà tự hủy đang ám ảnh nhiều tâm trí. Trận chiến của Nato ở Nam Tư mới đây cho thấy ám ảnh ấy không vô căn cứ.
2. Ngày nay, Thượng đế cai quản thế gian là con người. Các phong trào, từ nhóm Bách khoa tự điển (Encyclopedistes) ở Pháp, nhóm Ánh sáng (Aufklaerung) ở Đức cho đến L.Feuerbach, Proudhon, Freud và ngày nay Russel, Merleau Ponty đã đảo lộn tương quan của con người với Thượng đế. Với họ “Thượng đế đã chết”, con người không còn cứu cánh nào ở ngoài mình nữa. Họ đã trở nên Thượng đế cho chính mình. Vì thế: “Tôn giáo của Thiên Chúa làm người phải đối diện với con người làm Thiên Chúa” (Diễn văn của Đức Phaolô VI đọc ngày 7/12/1965).
Song song với triết học, theo cách nói của Max Weber, thì khoa học cũng đã “yểm bùa thế gian” làm cho “giả thuyết Thượng đế” không còn cần để giải thích sự hiện hữu của vũ trụ nữa. Nguồn gốc con người và sự sống trên thế gian đều được khoa học giải thích. Chắc rằng sự chết còn đó và vẫn là đe dọa hãi hùng cho con người, nhưng họ vẫn hy vọng một ngày kia họ sẽ loại trừ được nó.
Vì những lý do trên, những giá trị trước đây đã chi phối đời sống con người, ngày nay với đa số, đã biến đổi. Mọi sự đều tương đối và thay đổi; chẳng còn gì là bất biến và tuyệt đối nữa. Đời sau không còn nữa, chỉ có đời này. Thay vì tin vào một Đấng là “Đường, sự thật và sự sống”, con người từ chối mọi thực tại vô hình, và chỉ chấp nhận cái hợp lý, cái minh chứng được, và cái mà kinh nghiệm cho biết là có ích lợi.
Từ đó, xuất hiện một tận thế luận - mà trong thần học Kitô giáo, chúng ta gọi là cánh chung luận - trong đó con người ý thức về mình như tột đỉnh vũ trụ và về tự do hạnh phúc như mục đích duy nhất con người phải đoạt lấy. Còn ngoài ra, xa hơn thế gian, thì chẳng còn gì nữa.
3. Như trong cánh chung luận Kitô giáo, cánh chung trần tục cũng có các tiên tri của mình.
Đã đành có nhiều loại cánh chung trần tục. Trước hết phải nói đến các tác giả tiểu thuyết tình cảm uỷ mị và khiêu dâm, đưa ái tình lên bậc lẽ sống cho thanh niên nam nữ, những tạp chí đề cao các minh tinh màn bạc, và các lực sĩ như là các thần tượng của tuổi trẻ. Các tiên tri loại này thấy nhan nhãn trong các phương tiện thông tin đại chúng ngày nay.
Không phải chỉ có các tiên tri rẻ tiền nói trên, trong triết học, cũng có những tiên tri gây được những lý thuyết có tiếng tăm. Trước hết phải nói đến Hegel. Trong hệ thống tư tưởng của ông, sự tiến bộ được hiểu theo một quan niệm nhất nguyên trong vũ trụ. Lịch sử biến đổi qua chính đề, phản đề và tổng hợp một cách máy móc. Theo Hegel, cái tổng hợp cuối cùng sẽ thể hiện trong quốc gia Phổ là nơi “tinh thần tuyệt đối nhập thể”. Như vậy, với Hegel, cánh chung có tính quốc gia, chủng tộc.
Trái với Hegel đề cao tập thể, Nietzche đề cao cá nhân. “Siêu nhân” là mục đích của tiến hóa trong nhân loại. Nietzche nghĩ rằng loài người không có thể tin cậy vào các giả thuyết siêu hình cũ xưa là “Thượng đế” đời sau và linh hồn bất tử nữa, vì chẳng có gì chắc chắn, và ngày nay không còn hấp dẫn được ai. Vì thế, con người chỉ còn một cách để tự giải thoát, đó là trông cậy vào trần gian và đời sống mình. Ý tưởng mà con người có về sự trở lại muôn thuở của thiên nhiên chứng tỏ thiên nhiên không tàn lụi, đời sống không tiêu hủy, vì thế con người cần phải thắng gian lao, đau khổ, dập tắt lo ngại trước hư vô để hướng một đời sống dồi dào làm cho mình trở nên “siêu nhân” không bị khuất phục bởi một quyền lực nào.
Trong phạm vi triết lý khoa học, người phải kể đến đầu tiên là Auguste Comte. Tư tưởng nòng cốt của ông là trí tuệ con người, trong bước đường tiến triển đã trải qua ba giai đoàn. Ở giai đoạn đầu, con người nghĩ ra để giải thích các hiện tượng trong thiên nhiên như có những nguyên nhân siêu nhiên mà họ coi như thần thánh họ phải tôn thờ. Đó là giai đoạn Thần học. Ở giai đoạn 2, trí tuệ thay thế thần thánh của các tôn giáo bằng những thực tại trừu tượng của tư tưởng. Đó là giai đoạn Triết học. Ở giai đoạn 3, trí tuệ con người không còn bận tâm đến những thực tại siêu nhiêu và tuyệt đối nữa. Họ chỉ nghĩ đến nghiên cứu những vật tương đối mà mình có thể kinh nghiệm nhờ giác quan mà thôi. Nhờ có các thực tại họ có thể thử nghiệm, con người tìm ra các định luật khoa học nhờ đó họ có thể tiên đoán những gì sẽ xảy đến trong thiên nhiên, và nhờ đó, con người có thể tiên đoán để có thể điều hành thiên nhiên.
Charles Darwin áp dụng thuyết này vào sinh vật học và chủ trương thuyết tiến hóa từ các sinh vật thô sơ đến các sinh vật hoàn hảo, căn cứ vào sự lựa chọn tự nhiên và đấu tranh để tồn tại. Herbert Spencer áp dụng thuyết tiến hóa vào các lãnh vực tâm lý, xã hội và luân lý nữa.
Như trên, xu hướng duy khoa học trong triết học hiện đại đã có một quan niệm tất định máy móc về con người, gần với thuyết tất định (fatalisme) của một vài tôn giáo ngày xưa.
II. Trên đây là cánh chung luận trần tục ngày nay. Cánh chung luận trong Kitô giáo có những điểm tương đồng và dị biệt, chúng tôi sẽ trình bày sau đây:
1. Các triết gia cận đại đều chấp nhận con người sống trong thời gian và có sử tính, nghĩa là phải phát triển theo một giá trị và một cùng đích nào đó. Kitô giáo cũng có một cánh chung luận tượng tự. Vũ trụ và con người không những được Thiên Chúa dựng nên để tồn tại, mà còn phải tiến triển. Tiến triển này được Thiên Chúa an bài:có cứu cánh tự nhiên cho mỗi tạo vật theo những qui luật của bản tính chung trên bước đường tiến hóa, có cứu cánh siêu nhiên phải nhờ ở ân sủng của Thiên Chúa thì tạo vật mới đạt được. Nhưng vì Thiên Chúa sáng tạo và Thiên Chúa cứu độ vẫn là một, nên cứu cánh siêu nhiên không tách rời với cứu cánh tự nhiên, vì thế sự tiến hóa của vũ trụ và con người ở bên ngoài cũng có ý nghĩa siêu nhiên. Do đó Teilhard de Chardin đã nghĩ rằng có thể khám phá cứu cánh siêu nhiên trong tiến hóa tự nhiên.
2. Thực ra thì phải nhờ ở mặc khải thì mới biết được cứu cánh siêu nhiên. Ngôi Lời nhập thể để thần hóa con người và vũ trụ là một hành vị tự do của Thiên Chúa không lệ thuộc vào tiến hóa tự nhiên (cf. Rm 8,29, 2Cor 3,18). Nói khác đi, con người được ơn cứu rỗi là từ ngoài mà đến. Nhưng Thiên Chúa đã tự ban mình cho con người trong thời gian. Ngôi Lời đã “nhập thể”, con người có thể kinh nghiệm biến cố này như mọi biến cố khác. Chúa Giêsu đã có một đời sống lịch sử, và Giáo Hội tiếp nối công cuộc của Chúa cũng đã sống trong lịch sử. Thần học nói đến tính “thần nhân” của ơn cứu độ. J. Mouroux viết: “Thời gian trong thế giới trước hết có một ý nghĩa thiêng liêng, nó là lịch sử cứu độ: nó có đầu có đuôi, có Kitô tính (christique) vì nó do một quá trình hiện sinh Đức Kitô sáng lập, Người là trung tâm và cứu cánh” (Le Mystère du temps. p.36).
3. Thời gian theo Kitô giáo luôn chịu ảnh hưởng của Đức Kitô. Trước thời gian giáng sinh, các biến cố trong lịch sự là dấu chỉ tiên trưng về Người, sau ngày Chúa về trời, mọi biến cố trong lịch sử đưa dần dấn đến giờ Chúa quang lâm. Vì thế mà tận cùng lịch sử không chỉ là chấm dứt, nhưng còn là viên mãn thời gian nữa.
Trong Cựu Ước (Gen 1,2), Thiên Chúa dựng nên các vật theo thời gian, từ những vật thô sơ đến những vật phức tạp. Loài người chỉ xuất hiện sau hết để tiếp nhận và quản trị muôn loài muôn vật. Chúng phải thay đổi, có sinh có tử, và tiến triển trong thời gian.
Không những Thiên Chúa làm chủ lịch sử, sau khi dựng nên loài người, họ cũng được Người ban khả năng làm chủ lịch sử nữa. Người đặt định mệnh con người trong tay chính bản thân họ: nhân loại ban đầu là như mầm móng của xã hội về sau, họ có khả năng định hướng và tự do hành động. Vì thế mà tội ban đầu đã đưa con người vào một hướng đi thảm hại: tội sinh ra tội (Act 17,1-31; Rm 3,9-18).
4. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn để cho loài người đi đến luận phạt, nên song song với con đường tội ác, trong lịch sử, có một con đường hy vọng mà nguồn gốc là một lời hứa của Thiên Chúa với loài người sa ngã (Gen 3,15). Lúc ban đầu, lời hứa còn mờ tối trở nên rõ ràng hơn với Noe (Ghen 8,21), đến Abraham lời hứa ấy trở nên một mời gọi đòi phải có đáp trả bằng lòng tin (Ghen 12,2); đến dân Do thái thì lời hứa biến thành một giao ước: tương lai của dân này tùy thuộc ở họ trung thành hay không với giao ước. Nhưng tương lai ấy cũng biến đổi với thời gian. Từ hy vọng trần tục cho giống nòi, họ chuyển sang một hy vọng siêu nhiên và sau hết đến một ơn cứu độ giải thoát họ khỏi tội lỗi. Khi thời giờ đã thuận tiện, Thiên Chúa sai Con một Người xuống thế gian để lập một thời đại hồng ân (Gal 4,4; Mc 1,15; Lc 4,21). Lịch sử vẫn tiếp tục, nhưng Thiên Chúa đã làm người, nên thời gian có một kích thước mới, một hy vọng mới. Xưa người ta trông đợi Đấng Messia, Đấng ấy đã đến, và ngày nay, người ta trông đợi ngày quang lâm. Trong lúc chờ đợi ngày ấy, các Kitô hữu sống thời cuối cùng này dưới sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần (Act 3,20-21). Thời gian này là thời gian Giáo Hội lữ hành. Tuy Giáo Hội lữ hành, nhưng Đức Kitô đã chiến thắng, vì thế, trong lúc tiến bước trên con đường thánh hóa, Giáo Hội vững tin rằng mình sẽ tới đích, nhờ sự hộ vực của Chúa Thánh Thần.
Tuy Giáo Hội đã có ơn cứu chuộc, đã là con Thiên Chúa và có quyền thừa tự (Rm 8,17; Gal 4,7; Tit 2,7). Nhưng như kẻ thừa tự còn vị thành niên, các tín hữu vẫn chưa được hưởng gia tài (1Pet 3,9). Kinh Thánh luôn lưu ý ta đến lúc bây giờ. Lúc ấy ta đã có ơn cứu độ, nhưng ta như người đang tập dượt chạy đua để đoạt được giải, ta phải tuân theo kỷ luật và tập dượt mỗi ngày (1Cor 10,24-25). Nước Trời đã sẵn, nhưng chỉ những ai “bạo hành” (Mt 11,12) mới vào được.
Nhưng lúc nào mới tận thế, nghĩa là lúc nào Thiên Chúa mới xét xử thế gian? Trong Tân Ước, có nhiều nơi nói đến cuộc xét xử ấy đang diễn ra. Thái độ hiện tại của mỗi người trước lời Chúa truyền dạy sẽ thẩm định họ. “Án xử như sau: sự sáng đã đến trong thế gian, mà ta ưa thế gian hơn sự sáng” (Ga 3,19). “Ai không tin đã bị xét xử rồi” (Ga 3,18).
Vì thế mà khi có những dấu chỉ về ngày tận thế, người tín hữu trung thành không sợ sệt mà còn vui mừng thốt ra lời: Marathana! Lạy Chúa xin hãy đến! Năm 2000 cũng là một thời cơ thuận tiện để người tín hữu sửa soạn ngày Đức Kitô trở lại phán xét đời mình.
Hiện nay có rất nhiều người hãnh diện vì mình được mang quốc tịch Mỹ, đi đâu họ cũng khoe khoang thân phận công dân nước Mỹ của mình, và có lúc họ chê đất nước này lạc hậu, đất nước kia chậm tiến thua nước Mỹ…
Chúng ta mang danh công dân của Nước Trời, mà Chúa Giêsu -Đấng đã chết và sống lại vinh quang- chính là vị vua cao cả của chúng ta; được làm con dân của một vị vua trên các vua, hoàng tử trên các hoàng tử mà lại không lấy làm hãnh diện thì quả là chúng ta không hiểu được giá trị tuyệt vời của cuộc sống làm con Thiên Chúa.
Như những người tự hào mình là công dân của một cường quốc, nên chúng ta đã trở nên miếng mồi ngon cho ma quỷ cám dỗ bằng nhiều hình thức, nhất là sự ỷ lại vào tình thương và ân sủng của Thiên Chúa:
Chúa Giêsu Kitô là vua trên các vua- nhưng chúng ta chưa ca tụng tán dương Ngài với tất cả sự cao cả mà Ngài đã ban cho chúng ta, nhất là giới luật yêu thương mà chính` Ngài đã dạy, cho nên chúng ta coi thường những người khác tôn giáo với mình, rổi kiêu ngạo coi việc thờ phượng Thiên Chúa như là một bố thí cho Ngài: thích thì cầu nguyện đến tán dương ca tụng, không thích thì ở nhà nhậu nhẹt đàn đúm. Trái lại những người mà chúng ta khinh thường là tin những điều nhảm nhí thì lại rất thành kính trước bụt thần, ước gì chúng ta có một tâm hồn thành kính với Chúa Giêsu là vua và là chủ tể mọi loài…
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là vua, nhưng trong cuộc sống thực tế chúng ta đã không nhìn nhận Ngài là vua và là Đấng cứu chuộc của mình, chúng ta đã sống cuộc đời buông tuồng không phù hợp với Lời Chúa dạy, và, có thể nói chúng ta đã chọn ma quỷ làm vua chúng ta khi chúng ta trở thành kẻ hưởng thụ vật chất, trở thành kẻ coi trọng danh giá của thế gian mà coi thường nhân phẩm của người nghèo khó bất hạnh…
Chúng ta tin tưởng Chúa Giêsu là vua trong ngay phán xét, nhưng chúng ta vẫn sống như không có ngày phán xét, cho nên chúng ta vẫn cứ nói xấu người này đến người khác, chúng ta vẫn còn có những âm mưu hại người anh em, chúng ta vẫn lừa đảo người này đến người khác vì những tham lam của mình…
Anh chị em thân mến,
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ trong ngày chủ nhật cuối năm phụng vụ, là Giáo Hội nhắc nhở cho chúng ta biết rằng: thế gian này sẽ có một ngày bị hủy diệt, cuộc sống của con người cũng sẽ có ngày kết thúc, lúc đó Đấng quyết định số phận đời đời của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chứ không phải là ông tổng thống hoặc ông vua nào cả…
Gợi ý:
1. Trong cuộc sống có lúc nào chúng ta nhớ đến mình là một công dân Nước Trời, để sống đẹp lòng Thiên Chúa.
2. Chúng ta có tự hào mình là con dân của vua trên các vua, chúa trên các chúa, và có can đảm sống như danh phận ấy của mình ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng lễ Chúa Giêsu Kitô vua tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Năm Phụng Vụ kết thúc với một bước ngoặc thật lớn: Chúa Nhật hôm nay, một vị Vua được muôn dân thờ lạy.
Vị Vua đó là ai vậy? Hình ảnh vị Vua này có tỏa sáng vinh quang, phú quý, quyền lực... như mọi người thường nghĩ hay không? Chắc chắn là không rồi!
Vâng, trong ngày lễ đặc biệt này chúng ta sẽ gặp gỡ một vị Vua Kitô hoàn toàn khác, không giống như con người mong đợi, và tưởng như cũng trái ngược với những gì mà các Thiên Thần thuở ban đầu đã cao rao lời công bố: „Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." (Lk 1, 32-33) Thực vậy, hôm nay những tước vị cao sang giành cho Vua Kitô đã bị lấy đi, thay vào đó là những lời nhục mạ: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô, của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !" Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu lấy mình đi !" (Lk 23, 35-26)
Trước những lời nhục mạ này, Đức Giêsu đã phản ứng như thế nào? Thật là đặc biệt, có lẽ đúng theo tâm tình của một vị Vua. Với sự bình tâm và với phẩm giá cao quý của mình, Đức Kitô, trong thinh lặng, đã đứng vững vàng trước những lời chế diễu và nhục mạ, vì với Ngài thì những lời nhạo báng đó chẳng có ý nghĩa gì.
Phần chúng ta, trước phản ứng này của Đức Kitô, chúng ta có phản ứng gì?
Ở đây tôi xin mượn lời của Dostojewski trong cuốn sách „ Anh Em nhà Karamasoff“ để trả lời cho câu hỏi này: „Lạy Chúa, nếu Chúa đã lấy Vương Quyền và thanh gươm ra, thì mọi người đã tuân phục Chúa một cách vui vẻ. Và sự hiệp nhất của một Vương Triều và một đất nước hòa bình vĩnh cửu đã được tái lập. Chúa ơi, Chúa đã bỏ lỡ cơ hội rồi....
Chúa đã không xuống khỏi Thập Giá, khi mọi người chế diễu và thách thức Chúa: „Hãy xuống khỏi Thập Giá đi, thì chúng ta sẽ tin ông, Đấng là con Thiên Chúa.“ Chúa đã không xuống khỏi Thập Giá, vì Chúa đã không muốn qua một phép lạ nào đó, để rồi con người sẽ trở thành những kẻ nô lệ, và vì Chúa không muốn sống theo một tình yêu bị ép buộc và luôn đợi chờ ở một phép lạ, mà Chúa muốn sống theo một tình yêu hoàn toàn tự do.“
Trước những thắc mắc của mình Dostojewski đã không nhận được sự trả lời gì cả. Nhưng trong cuốn sách của mình, ông đã mường tượng tới hình ảnh: „Nếu hạt lúa mì không rơi vào lòng đất và chết đi, thì không mang lại hoa trái gì cả“
Ngoài ra, trong bài Phúc Âm ngày hôm nay, chúng ta còn thấy một hình ảnh độc đáo khác: Kế bên đám đông chế diễu Vua Kitô, còn có hai tên trộm cướp cùng bị đóng đinh kế bên Ngài.
Một tên lên tiếng hỏi: „"Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với !" Tên trộm này là đại diện cho những con người luôn hướng về bạo lực, hận thù và ghen tương.
Tên trộm khác thì ý thức thân phận và những việc tồi tệ mình làm, anh ta đã lên tiếng trách thằng bạn của mình:"Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái !"
Vâng, anh này đại diện cho những con người luôn ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, và hy vọng tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, họ cũng luôn cố gắng vươn lên và đi tìm những gì tốt hơn cho cuộc đời. "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !" Tên trộm cướp „lành“ này đã thốt lên như thế với Giêsu, sau khi đã trách thằng bạn vô tâm của mình.
Đức Kitô đã phản ứng ra sao trước thái độ của hai tên trộm cướp?
Với tên đầu tiên, Ngài đã im lặng, như Ngài đã phản ứng trước thái độ của đám đông diễu cợt Ngài.
Với tên trộm thứ Hai, thì Ngài đã đón nhận tấm lòng thành của anh và niềm tin của anh vào Ngài. Vì thế, thật nhẹ nhàng nhưng rất chắc chắn Ngài nói: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng". Vâng, Thập Giá và vòng gai nhọn không phải là chặng đường cuối cùng, mà chỉ là một bước đường chuyển tiếp qua một cuộc sống hoàn toàn mới.
Ngày hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta đứng thẳng, diện kiến Vua Kitô trên Thập Giá.
Chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Như đám đông dân chúng, như tên trộm thứ nhất hay như tên trộm „lành“?
Câu trả lời nằm ở mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, để giúp chúng ta dễ dàng tìm thấy câu trả lời này, Thánh I-Nhã mời gọi chúng ta nhìn lên Vua Kitô trên Thập Giá, và „suy xét xem Chúa chịu tất cả những sự đó như thế nào vì những tội của tôi, v.v.; phần tôi, tôi phải làm gì và chịu gì cho Chúa đây?.“ (Linh Thao số 197) LM Nguyễn ngọc Thế SJ
Ngoài Bộ Sách Kinh Thánh, có lẽ không có cuốn sách nào để lại dấu ấn mạnh mẽ và giúp ích cho tôi bằng cuốn THIÊN CHÚA BỊ ĐÓNG ĐINH THẬP GIÁ của nhà thần học Tin Lành người Đức tên là Moltmann. Tôi đã được đọc cuốn sách ấy vào những năm 1976-1978 khi tôi đang bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng vì rơi vào tình trạng bị cả ngoài xã hội lẫn trong Giáo Hội nghi ngờ, thậm chí theo dõi và canh chừng như một thành phần nguy hiểm. Cuốn sách trên đã giúp tôi hiểu thêm về ý nghĩa của Mầu Nhiệm “Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá” và đã giúp tôi chấp nhận thân phận của một Kitô hữu bị nghi ngờ và ruồng bỏ một cách oan ức và bất công.
Vì thế mà đại lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ bao giờ cũng đem lại cho tôi rất nhiều cảm xúc liêng liêng, vì khi cử hành lễ này Giáo Hội tuyên xưng và giới thiệu một Đức Giê-su Ki-tô bị đóng đinh thập giá, chứ không phải một vua vinh quang theo nghĩa trần thế. Lễ này lại kết thúc Năm Phụng Vụ tức chu kỳ Phụng Tự một năm của Hội Thánh Công Giáo, nên các Bài Sách Thánh hôm nay càng đáng được mọi Ki-tô hữu suy nghĩ thật sâu thật kỹ, để hiểu rõ và nhìn nhận Vương Quyền của Chúa Ki-tô trên chúng ta và trên toàn vũ trụ.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách 2 Sa-mu-en (2 Sm 5,1-3): 1 Toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: "Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. 2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. ĐỨC CHÚA đã phán với ngài: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en." 3 Toàn thể kỳ mục Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan ĐỨC CHÚA. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en.
(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê (Cl 1,12-20): 12 Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.
13 Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; 14 trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi. 15 Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, 16 vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. 17 Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. 18 Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. 19 Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, 20 cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.
(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 23,35-43): 35 Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! " 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi! " 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do Thái."
39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!" 40 Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! " 42 Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: "Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! " 43 Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (2 Sm 5,1-3): nói về việc vua Đa-vít lập giao ước với đại diện các chi tộc Ít-ra-en, để họ được ông cai trị và dẫn dắt theo đường lối của Thiên Chúa.
Qua đoạn Sách 2 Sm (5,1-3) chúng ta thấy Thiên Chúa đã dùng vua Đa-vít để cai trị và lãnh đạo dân Ít-ra-en là dân riêng của Thiên Chúa, cho hợp với Thánh Ý của Thiên Chúa. Vua Đa-vít là hình ảnh của Chúa Giê-su Ki-tô mà Thiên Chúa sẽ đặt làm người hướng dẫn và lãnh đạo Ít-ra-en mới là Hội Thánh Công Giáo toàn cầu trên con đường phụng thờ Thiên Chúa.
(2) Bài đọc (Cl 1,12-20) là những lời Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-lô-xê để giảng giải cho họ hiểu những ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa Cha đã ban cho họ trong/qua Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Thánh Phao-lô cũng dậy cho họ biết Con Thiên Chúa là Đấng nào? Người có quyền uy gì và Người đóng vai trò nào trong công cuộc Tạo Dựng và Cứu Chuộc nhân trần.
Trong trích đoạn của thư Thánh Phao-lô gửi các tín hữu Cô-lô-xê (Cl 1,12-20) chúng ta nhận ra chân dung, bản tính và sứ mạng của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu nạn chịu chết để cứu chuộc nhân loại và dẫn đưa mọi người về với Chúa Cha.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 23,35-43) là bài tường thuật về những giây phút cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá. Chúa Giê-su chẳng những bị người Do Thái đóng đinh treo trên Cây Gỗ như một tên tội phạm, mà Người còn bị họ chế diễu, nhạo báng, khiến phải nhuốc nha xấu hổ trước mặt bàn dân thiên hạ. Những sự việc ấy thật mâu thuẫn với chức danh mà họ phong cho Người: "Đây là vua người Do Thái."
Qua đoạn Phúc âm Lc 23,35-43 chúng ta khám ra Chúa Giê-su chính là Vua chẳng những của người Do Thái mà của cả nhân loại. Người làm vua không theo cách vua chúa trần gian, mà theo cách riêng của Đấng Mê-si-a đau khổ, của Người Tôi Trung của Gia-vê. Sự nhìn nhận và lời cầu xin của một trong hai tên gian phi (tức người trộm lành) tượng trưng cho sự nhìn nhận và lời cầu xin của cả nhân loại tội lỗi và gian ác, dâng lên “Đấng bị treo trên Cây Gỗ“ để được Người cho vào Vương Quốc của Người cũng là Vương Quốc của Chúa Cha.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay chính là lời cầu xin của một trong hai tên gian phi cùng bị treo trên cây gỗ với Đức Giê-su Na-da-rét:
"Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! "
Cầu xin như người trộm lành là chúng ta nhìn nhận “Đấng bị treo trên Cây Gỗ“ chính là Vua của tâm hồn mình và của cả vũ trụ. Người thiết lập Vương Quốc bằng chính cái chết hiến tế và máu cực thánh của Người trên Thập Gíá!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
“Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Nhìn nhận “Đấng bị treo trên Cây Gỗ“ có Vương Quốc Riêng là chúng ta nhìn nhận Người bị bắt, đánh đòn, tra tấn, hỏi cung, bị kết án, xỉ vả và bị giết chết một cách oan ức và bất công. Cũng có nghĩa là chúng ta nhìn nhận Người đã sống và đã chết cho chúng ta và mọi người, để chúng ta có thể gia nhập vào Vương Quốc của Người.
Vậy sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta nhin nhận Vương Quyền Tối Cao cùa Chúa Giê-su Ki-tô trên chúng ta và trên toàn thế giới và vũ trụ vạn vật. Cũng còn là làm cho Vương Quốc của Chúa mỗi ngày một mở rộng trong các tâm hồn và trong các cơ cấu xã hội, quốc gia và quốc tế.
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ) 4.1 Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội Thánh, nhất là cho các vị lãnh đạo là Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, các Giám Mục, các Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để các vị ấy tích cực hoạt động làm cho Vương Quyền của Chúa Giê-su Ki-tô được nhìn nhận trong các tâm hồn và trong thế giới loài người hôm nay.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia, dân tộc trên thế giới, để họ nhìn nhận quyền bính mà họ đang có là từ Đấng Tối Cao và họ có trách nhiệm phải hành xử quyền bính ấy theo ý của Đấng Tối Cao là Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các Ki-tô hữu Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống và Anh Giáo để mọi người suy phục Chúa Giê-su Ki-tô là Vua muôn vua, là Chúa muôn chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chưa nhận biết Đạo Chúa và Vương Quyền của Chúa Giê-su Ki-tô, để họ sớm được Chúa soi sáng hướng dẫn trên con đường tiến vào Vương Quốc của Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Seattle (WA/USA) ngày 13 tháng 11 năm 2007
1. Vị Vua nào và vương quốc nào đang hấp dẫn chúng ta ?
Cách đây 2000 năm, có biết bao người Do Thái khi nghe tin có chàng thợ mộc Giêsu đến từ Na-da-rét: TN 34-ABC310
Cách đây 2000 năm, có biết bao người Do Thái khi nghe tin có chàng thợ mộc Giêsu đến từ Na-da-rét vừa đi rao giảng một Tin Mừng đặc biệt vừa cho kẻ điếc nghe, kẻ què đi, kẻ phung cùi được sạch...đã ào ạt đổ xô đến với Ngài cùng với biết bao điều ươm mơ ước vọng: Đấng Messia đã đến rồi chăng ? Vua Kitô đã đến hồi đăng quang chấp chính ?. Rồi khi thấy Ngài làm cho cuồng phong bảo táp lặng yên, cho người chết sống lại, và nhất là khi thấy Ngài đã từng dùng mấy chiếc bánh và vài con cá nhỏ mà làm nên bữa tiệc nuôi cả đám dân mấy ngàn người …có nhiều kẻ đã muốn tôn Ngài làm Vua, muốn cuốn gói theo Ngài để may ra kiếm chác được một chức tước chốn cung đình khi thời của Ngài đã đến (như kiểu hai tông đồ Gioan và Giacôbê con của Giêbêđê đã nhờ mẹ thỉnh cầu Ngài cho một đứa ngồi bên tả, một đứa ngồi bên hữu !); và có lẻ phần đông đám dân đen muốn tôn Ngài làm vua chỉ với một lý do giản đơn: được no cơm ấm áo, khỏi thuế má ngục tù, khỏi bị bóc lột đọa đầy, khỏi cảnh nô lệ nhục nhằn của một dân mất nước…
Thế nhưng oái ăm thay, càng tiến gần về Giêrusalem, thủ đô của vương quyền, điểm đến của những ai mang mộng đế vương, thì Vị “Rabbi” đến từ Nadarét lại tung ra những lời rao giảng đã làm chưng hửng đoàn lũ đang nô nức tháp tùng và kỳ vọng nơi Ngài: Nào “Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ dữ, bị kết án chết và ngày thứ ba sẽ sống lại…”, nào “Ta là mục tử tốt lành sẽ chết cho đoàn chiên…”, nào “hạt lúa mì có chết thối đi mới sinh hoa kết trái…”. Và trong khi bàn dân thiên hạ đang nô nức đợi chờ một “Mô-sê mới” sẽ xuất hiện vào đúng dịp lễ Vượt Qua để chấp chánh đăng quang với quyền uy choáng ngợp đánh tan bè lũ đế quốc Rôma đang đè đầu cởi cổ “Dân ưu tuyển của Chúa”, thì đùng một cái, “bản tin của ngày Thứ Sáu trước lễ Vượt Qua” đã làm nổ tung tất cả ! Giêsu đã bị môn đồ phản bội, bị bắt trong vườn cây Dầu, bị Hội đồng cộng tọa kết án, bị trao cho tổng trấn Philatô tuyên án tử hình thập giá và bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp !
Cũng vì lý do ấy, mà đã có không ít người trước đó mấy hôm tay còn quay tít cành lá ô-liu miệng hô vang lời “vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Con vua Đa-vít”, trong khí thế của những thần dân tháp tùng một đấng Quân vương hiển hách, thì vào “ngày thứ Sáu định mệnh” nầy, đã hậm hực trở cờ: “đóng đinh nó di, đóng đinh nó vào thập giá” !
Cho dù “bản án trên thập giá có được viêt bằng 3 thứ tiếng Hy lạp, Do Thái, La Tinh với hàng chữ lớn “GIÊ-SU NA-DA-RÉT, VUA DÂN DO THÁI”, thì cũng chẳng thuyết phục được ai còn chút hy vọng cỏn con rằng đằng sau cái thân xác bê bết máu, cái thân hình tàn tạ rách nát bị treo trên thập giá kia là một Vua Giêsu uy quyền và chiến thắng ! Quả thật, với không gian thê thảm của Đồi Sọ chiều hôm ấy, không ai có đủ tầm nhìn xa hơn nữa để nhớ lại và hiểu chính lời của Đức Giêsu đã nói trước tòa Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian nầy…Chính Ngài nói rằng tôi là vua. Tôi sinh ra và đã đến thế gian nầy vì điều nầy: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía của sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 19,36-37).
2. Để nhận ra Vua Kitô và Vương quốc của Ngài
Nhưng lạ lùng thay ! Chính trong lúc tưởng như cả rừng người trên Đồi Sọ hôm ấy đã thất vọng hoàn toàn về “tên tử tội Giếu cứ lặng thinh trên thập giá”, mặc bao lời thách thức và sỉ nhục:”Nếu ông là vua dân Do thái, thì hãy cứu lấy mình đi”, thì vẫn còn có một người hướng về phía “Người tử tội đáng thương” kia để nhận ra “đó chính là Vị Vua đích thật và Vương Quôc của Ngài đang hiện hữu”. Vâng, người trộm bên hữu, sau khi trách mắng “tên đồng đảng xấc xược”, anh ta đã quay về phía Đức Giêsu và thưa lên những lời mà có lẽ đức tin của chúng ta hôm nay cũng chỉ là cuộc phấn đấu để được hiện thực chính lời thân thưa đó: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Và anh đã không thất vọng khi nhận được hồi đáp: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Nhận ra vương quyền của Chúa Giêsu như Phêrô trong biến cố “Biến hình trên núi Tabo” thì quá dễ; hay bị khuất phục bởi sức mạnh làm cho “ngã ngựa” như Phaolô trên đường Đa-mat thì còn nói làm gì ! Đằng nầy, dám liều mình để tin vào một “Vương Quốc” đến từ một con người sắp lìa đời trong cái chết thảm thương tủi nhục thì quả là một đức tin phi thường mà nếu không có ân sủng chắc chắn sức tự nhiên con người không thể vươn tới !
Cùng với hồng ân của Thiên Chúa, phải chăng chính lòng khiêm hạ của trái tim ăn năn sám hối đã làm cho đôi mắt tâm hồn của tên trộm mở ra để nhìn thấy một điều kỳ diệu mà biết bao người không thể thấy được, để tin vào một điều mà không ai có thể tin được ! Và đó chính là cách thế, là con đường Thiên Chúa dùng để mặc khải chân lý của Ngài, để biểu tỏ Vương quyền của Ngài, để bộc lộ Vương quốc của Ngài: phải ăn năn sám hối, phải khó nghèo khiêm hạ, phải trở nên bé nhỏ: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25).
Suốt 2000 năm nay có biêt bao “tên trộm” như Maria Mađalêna, như Giakê, như Matthêô, như Augustinô, như Charles de Foucaulh... đã quay về như thế để trao thân gởi phận cho Vị Mục Tử Nhân Lành sẵn sàng đi tìm con chiên lạc, cho Vị Tôn sư sẵn sàng cúi xuống để rửa chân học trò, cho người bạn sẵn sàng chết để yêu thương và tha thứ, và cho Vị Vua sẵn sàng đón nhận kẻ bạc phước cùng đường vào trong “Vương quốc của sự thật và sự sống, của thánh thiện và ân sủng, Vương quốc công chính, yêu thương và công bình”. (Kinh Tiền Tụng)
Và cũng chính vì thế mà chúng ta mới hiểu được những lời của Thánh Phaolô khi Ngài giới thiệu cái nội dung căn bản của Tin Mừng mà Ngài rao giảng cho muôn dân: “Trong khi Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi...Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1, 22-24).
3. Vua Kitô vẫn tiếp tục đăng quang trong thế giới hôm nay
Với Phụng vụ lễ Chúa Kitô làm Vua, Hội Thánh còn muốn nói với chúng ta điều gì ?
Nói rằng: Vua Kitô vẫn còn đang tiếp tục đăng quang trong thế giới và Vương Quốc của Ngài đang từng ngày mở rộng đến mọi biên cương.
Nếu ngày xưa, Đức Kitô đã lựa chọn
- khoảnh khắc của một “đêm đông Bê lem” với hình hài một bé thơ mỏng manh yếu đuối để nhận lãnh thái độ tôn thờ phủ phục của Ba Vua phương đông với vàng nhủ hương và mộc dược; thì hôm nay Ngài cũng đăng quang như thế trong bao thân phận của những bào thai bị giết chết, của những trẻ em mồ côi lây lất bên vệ đường, của những trẻ em khổ nghèo, khuyết tật và là nạn nhân của bao bất công, đối xứ tàn tệ đang cần được bảo vệ yêu thương và trân trọng.
Nếu ngày xưa, Đức Kitô đã lựa chọn
- khoảnh khắc của “buổi sáng bên dòng sông Giođan” để chen vai sát cánh với trăm vạn anh em để xin được Gioan làm phép rửa mà sau đó là lời tuyên bố chính thức của Chúa Cha để ấn chứng vương quyền: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy nghe lời Người”; thì hôm nay Ngài cũng đăng quang như thế giữa bao nhiêu thanh niên nam nữ vất vưởng nhọc mệt hay lạc lối lầm đường trên muôn vạn nẽo đường cuộc sống, nơi các trường học, các công xưởng... đang cần những chứng từ, những mẫu gương, những cơ hội để đưa họ trở về chân thiện mỹ.
Nếu ngày xưa, Đức Kitô đã lựa chọn
- khoảnh khắc của “cái giờ” bi đát trước tòa án Philatô để long trọng tuyên cáo “Ông nói đúng. Tôi là Vua” trong tấm thân thảm thương rách nát của một tên tội đồ bị xử án; thì hôm nay Ngài cũng đăng quang như thế trong thân phận của bao nhiêu “tù nhân lương tâm”, bao nhiêu những người công chính, bao nhiêu những ngôn sứ của tự do, dân chủ, công bằng xã hội... bị kết án bất công, bị đọa đầy bách hại đang cần sự liên đới, hỗ trợ, cảm thông để có thể đương đầu và trụ vững.
Và nếu ngày xưa, Đức Kitô đã lựa chọn
- khoảnh khắc cô đơn sầu thảm khi bị đóng đinh trên cây khổ giá đành để đón nhận niềm tin của tên tử tội khi ngước mắt van xin: “Khi Ngài vào Nước Ngài xin nhớ đến tôi”; thì hôm nay, Ngài cũng đăng quang như thế khi tái diễn Hy tế Thập Giá trên bàn thờ để những ai chấp nhận thuộc về Ngài dám hy sinh tất cả, dám chết đi cho chính mình để tháp tùng với Ngài tiến bước vào lộ trình phục sinh trong Vương Quốc của sự sống.
Và như Đức Kitô đã long trọng tuyên cáo trong “bản Hiến chương Nước Trời” vào lúc khai mạc hành trình loan báo Nước Thiên Chúa: “Phúc cho ai hiền lành, sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp,...phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa...”, cho nên, để nhận ra Vua Kitô giữa đời thường hôm nay, để dấn thân vào Vương quốc Kitô đang rộng mở, để thuộc về đoàn dân của Vua Kitô đang vãy gọi, chúng ta lại phải mang một “căn cước khác”, một hộ chiếu khác, không dựa trên tiền tài hay sắc đẹp, quyền lực hay ma mánh, dối trá hay thủ đoạn…nhưng với con mắt mới tinh trong sáng, với có cõi lòng thanh thản bao dung, với con tim hiền lành và khiêm hạ, và với cả hy sinh và sám hối…
Vâng, trong thế giới nầy đang hiện hữu một Vị Vua và Vương Quốc như thế. Cho dù có một đôi lúc, chúng ta tưởng rằng Thiên Chúa đã vắng bóng, đã thua cuộc. Cho dẫu hàng ngày khắp đó đây vẫn còn vang rền tiếng súng của hận thù chiến tranh, vẫn còn bao tai ương bất ngờ ập xuống: sóng thần, động đất, bảo lụt cuồng phong, như trận bảo lốc vùa qua ở Bangladesh làm chết mấy ngàn người chỉ trong khoảnh khắc, vẫn còn bao tật bệnh, đói nghèo, bất công bủa vây khắp chốn...thì ở ngoài kia nơi thảo nguyên xanh mát, vẫn có hạng vạn bông hoa đang rực rỡ khoe sắc, ngoài khung trời xanh bao la kia, có từng vạn cánh chim đang nhảy múa hát ca, và trên bao nhiêu dãy trường sơn bát ngát, hang triệu triệu mầm cây đang âm thầm vở đất đâm chồi vươn lên sức sống. .. và nhất là, trong hàng vạn mái nhà ấm cúng thân thương đang vang lên bao tiếng khóc oa oa chào đời của bao nhiêu em bé trong vòng tay yêu thương của những người cha, người mẹ đạo đức thánh thiện; ở giữa trăm ngàn công xưởng trên thế giới có hàng triệu bàn tay những người công nhân liêm chính, tốt lành, ở giữa hàng hàng lớp lớp thanh niên nam nữ vẫn còn có bao nhiêu tâm hồn quảng đại anh hùng hiến thân cho lý tưởng phục vụ anh chị em trong cuộc sống tu trì hay trong những tổ chức thiện nguyện… Vâng, vương quốc của tình yêu và sự sống, của ân sủng và bình an vẫn đang từng ngày lớn lên như “hạt cải”, như mầm non giữa lòng đất để chờ ngày kết trái đâm bông…
Tóm lại, lễ Chúa Ki-tô Vua hôm nay, vừa mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Ki-tô, Vua vũ trụ, là Đấng qui tụ chúng ta và đang dẫn chúng ta vào Vương quốc tình yêu và sự sống của Ngài. Đồng thời cũng gọi mời chúng ta kiểm tra cuộc sống theo Chúa Ki-tô mỗi ngày, biết nhìn thấy Chúa Kitô nơi những người khổ đau bất hạnh để yêu thương và phục vụ, biết không ngừng hoán cải để trở nên bé nhỏ khiêm nhu, biết ăn năn sám hối và vững lòng trông cậy hầu khi kết thúc thời gian, chúng ta sẽ được Vua Kitô nói với ta bằng chính lời khi xưa Ngài đã dành cho người kẻ trộm bên hữu: “Hôm nay con sẽ trên thiên đàng với Ta”. Amen..
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua. Giáo hội Công Giáo cũng như mọi giáo phái Thiên: TN 34-ABC311
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua. Giáo hội Công Giáo cũng như mọi giáo phái Thiên Chúa Giáo tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là vua. Bất cứ ai tin theo những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, tin theo Phúc Âm, đều xưng tụng Chúa Giêsu là vua của lòng mình bởi những lời giảng dạy của Ngài chỉ cho chúng ta con đường tâm linh nên theo để nhận biết Thiên Chúa, cội nguồn cũng như sự hiện diện của Ngài nơi tạo vật. Ngài nói lên Sự Thật giúp chúng ta nhận chân thực thể con người cũng như cuộc đời của mình đối với Thiên Chúa thế nào. Những lời giảng dạy của Ngài dẫn dắt chúng ta trên hành trình tâm linh, minh chứng sự sống vĩnh cửu của linh hồn và đó là sự hợp nhất tuyệt đối của con người với Thiên Chúa. Nói cách khác, qua lời giảng dạy của Ngài, qua Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ rõ cho chúng ta biết cuộc đời con người là phương tiện hay cơ hội học những bài học cần phải học để trở về với bản thể tuyệt đối hợp nhất nơi Thiên Chúa.
Ngài chỉ cho chúng ta con đường hẹp. Muốn nhận thức về Thiên Chúa, con người cần hồi tâm suy tưởng những sự việc diễn tiến nơi cuộc đời của mình, mở rộng lòng nhận chân và chấp nhận mình thế nào không bào chữa, không tránh né, và từ đó nhận biết sự huyền nhiệm cả thể đã và đang dẫn dắt cuộc đời của mình. Do lòng chân thành đối diện với chính mình, con người sẽ nhận biết chính những sai lầm, những trường hợp áp dụng không đúng đắn sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi cuộc đời, đã là phương tiện hay cơ hội dẫn dắt con người tới lòng thống hối chân chính hầu sống “Qua Ngài, với Ngài, và trong Ngài” thể hiện cũng như ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa đang hằng hiện diện, và hoạt động nơi cuộc đời của mình.
Nơi bài Phúc Âm, qua khổ hình thế tục, người gian phi đã hồi tâm nhận ra sự thể cuộc đời, “Mày không kính sợ Thiên Chúa sao, ngay lúc mày cũng mắc đồng một án? Phần ta, thực là phải lẽ, ta chuốc lấy đáng tội đã làm; nhưng ông này, ông không hề làm điều gì trái! Và hắn nói: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài đến trong Nước của Ngài!” (Lc. 23:40-42). Chúa Giêsu không đòi buộc bất cứ điều kiện gì, không răn đe chuyện chi đối với người gian phi biết hồi tâm nhận chân và chấp nhận sự thể xảy đến nơi cuộc đời. Ngài đơn thuần trả lời, “Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta!” (Lc. 23:43).
Cuộc đời của mỗi người biến chuyển, thay đổi tùy thuộc nhiều điều kiện nơi cuộc sống như thể lý, hoàn cảnh v. v…, và chúng ta luôn luôn phải phấn đấu. Nhiều khi hoàn cảnh xảy đến khiến một người cảm thấy bị dồn vô góc tường, không biết cách nào xoay xở. Tuy nhiên, nếu hồi tâm chân thành suy tưởng và mở rộng lòng chấp nhận những sự thể cũng như phản ứng của mình nơi những trường hợp đã qua, con người sẽ cảm nghiệm được sự huyền nhiệm đã đang xảy đến với mình.
Có câu cách ngôn, “Kẻ thù độc hại nhất của tôi là chính tôi.” Thường thì không mấy ai dám hồi tâm đối diện với chính lòng mình bởi không dám chấp nhận mình đã lầm lỗi như thế nào. Ngược lại, nếu để tâm suy tư, những lầm lỗi của mình chính là cơ may, nói cách khác, cơ hội hay phương tiện giúp mình nhận thực con người của mình ra sao. Chúng ta học bài học lễ độ cuộc đời qua những sai lầm, thiếu sót bởi, “Ai nên khôn không khốn một lần.” Nếu ai đó dám hồi tâm sẽ nghiệm thực được lời cầu nguyện, “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên con từ bùn đất nên xin Ngài chớ ngạc nhiên khi thấy con vương bùn bẩn thỉu.” Tội lỗi chính là sử dụng sai lầm sự thánh thiện của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình. Bởi đó, một khi nhận thực được cuộc đời của mình chính là diễn tiến của sự thánh thiện nơi Thiên Chúa, có thể nói, dẫu muốn phạm tội cũng không thể vì nơi tâm tình này, không ai dám cả gan biến sự thánh thiện thành lỗi lầm; không ai muốn ngâm sự thánh thiện cả sáng của Thiên Chúa nơi mình xuống bùn đen dơ bẩn.
Đã là người tất nhiên luôn luôn sai lầm. Có thể đây là lý do Phúc Âm được viết về lời cầu nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc. 23:34). Thử hỏi, Thiên Chúa chấp tội chúng ta phỏng được ơn ích gì hoặc có chứng tỏ quyền năng cao sang cả thể của Ngài chút nào không? Thiên Chúa chỉ có một sự lựa chọn độc nhất đó là yêu thương con người vì con người là hiện thể của Ngài nơi tạo vật.
Nếu ai thực tâm tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Vua của mình sẽ bình tâm nghiệm chứng Phúc Âm, những lời giảng dạy của Ngài để áp dụng nơi cuộc đời hầu vinh danh Thiên Chúa bằng chính cuộc đời của mình.
Chu kỳ năm phụng vụ kết thúc bằng việc Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô là vua vũ: TN 34-ABC312
Chu kỳ năm phụng vụ kết thúc bằng việc Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô là vua vũ trụ, với một ý nghĩa quan trọng: Chúa Giê-su là Đấng khởi đầu và chung kết, là An-pha và Ô-mê-ga, là hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Chúa Giê-su, vị vua hôm qua.
Vị vua hôm qua khi tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem đã cỡi trên con lừa giữa tiếng hoan hô vang trời của người Do Thái; vị vua hôm qua đã vì yêu thương nhân loại tội lỗi, nên đã tự nguyện gánh lấy tội trần gian và bị đóng đinh chết trên cây thập tự; vị vua hôm qua đã từ cõi chết sống lại để làm vua vũ trụ đến muôn đời.
Chúa Giê-su, vị vua hôm nay.
Vị vua hôm nay đang hằng ngày hiện diện trong bí tích Thánh Thể trên bàn thờ, đang từng giây phút thánh hóa cuộc sống của những kẻ tin vào Ngài; vị vua hôm nay hằng ngày vẫn còn chịu những đòn roi đánh vào mình vì những tội lỗi của nhân loại, của bạn và của tôi; vẫn bị đóng đinh vào thập giá vì những bất trung của các môn đệ mình, nhưng dù thế nào chăng nữa thì Ngài vẫn là vua muôn vua.
Chúa Giê-su, vị vua muôn đời.
Các quốc gia dân tộc trên thế giới rồi sẽ có một ngày chấm dứt, vũ trụ này cũng sẽ có một ngày kết thúc, nhưng Nước Thiên Chúa vẫn cứ tồn tại đến muôn đời, bởi vì vị quốc vương của nước ấy chính là Đấng hằng sống, là Đấng đã tiêu diệt sự chết và sẽ thống trị đến muôn ngàn đời.
Bạn thân mến,
Được làm công dân của một đất nước hùng cường thì ai cũng thích, nhưng được làm công dân của Nước Trời thì càng hãnh diện và hạnh phúc hơn. Người trộm lành đã nhìn thấy sự vô tội và uy quyền của người chịu đóng đinh với mình là Thiên Chúa, nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Giê-su: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi.”
Có lúc nào bạn cầu xin với Chúa Giê-su như thế chưa, dù rằng bạn đã là công dân Nước Trời từ khi lãnh bí tích Rửa Tội, dù rằng bạn vẫn thường xuyên tham dự thánh lễ ?
Trong tất cả những gì đã viết về Chúa Ki-tô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gio-an ở lời tựa: TN 34-ABC313
Trong tất cả những gì đã viết về Chúa Ki-tô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gio-an ở lời tựa sách Tin Mừng: "Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà Ngài đã không tiếp nhận" ( Ga 1, 11 ). Bê-lem không có chổ cho Ngài sinh hạ, Na-da-rét không có chỗ cho Ngài sinh sống, Giê-ru-sa-lem không có chỗ cho Ngài chết.
Bốn mươi ngày sau khi Ngài sinh hạ, cụ già Si-mê-on đã nói với Mẹ Ngài: "Ngài sẽ là dấu gợi lên chống đối" ( Lc 2, 34 ). Ðó là một kiểu nói khác chứng thực điều Thánh Gio-an đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hê-rô-đê lùng sục để sát hại. Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng Ngài cũng bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá. "Nếu thế gian ghét các con, hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước các con".
Chúa Ki-tô đã chọn Thập Giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu rỗi. Thập Giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự hận thù, ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự sống vươn cao, hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống - sự chết; giữa vui buồn; cười khóc; hận thù – thứ tha; ghen ghét yêu thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Ðặt thanh sự sống và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một thập giá.
Chúa Ki-tô lên Ngôi Vua Vũ Trụ trên thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Vì vậy Giáo hội đã chọn bài Tin Mừng Chúa Giê-su bị đóng đinh trên Thập giá giữa hai người trộm cướp cho Lễ Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ Năm C.
Nói đến vua, ta thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc cẩm bào, ngồi trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay,người ta còn nói đến vua xe hơi, vua bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính… Ðó là những thần tượng giàu có, sang trọng của con người thời đại. Chúa Giê-su là vua không phải theo kiểu trần thế. Vương quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Vương quyền Chúa Giê-su là vương quyền tình yêu.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ta về với Chúa Giê-su trên thập giá. Vị Vua bị lăng nhục, các thủ lãnh thế gian cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt.
Chẳng lúc nào Chúa làm Vua rõ bằng lúc này, tấm bảng trên thập giá ghi: "Ðây là Vua Do Thái". Kiểu làm Vua của Ngài thật khác thường: không có vương miện mà chỉ có vòng gai, không có cẩm bào mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Chúa Giê-su đăng quang ngôi vua trên thập giá: Người làm vua vũ trụ bằng chính con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha ( Pl 2, 6 – 8 ).
Bị treo trên Thập giá, Chúa Giê-su nghe những lời mời mọc rất ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Sa-tan buổi đầu "Nếu ông là Ðức Ki-tô thì hãy cứu lấy mình. Hãy xuống khỏi thập giá đi." ( Mt 27, 40 ). Chỉ cần xuống khỏi thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin. Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực rỡ. Nhưng Chúa Giê-su đã không xuống khỏi thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con thật của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Ðền Thờ.
Chúa Giê-su không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác. Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Ðóng Ðinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng :" Hôm nay,anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Ðàng" ( Lc 23, 43 ). Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được Ơn Cứu Ðộ nhờ cái chết thập giá của Chúa Giê-su.
Mừng Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, Vua Vũ Trụ, người Ki-tô hữu hãy biết khước từ những thần tượng trần thế, hãy để Ngài làm vua của lòng mình.Hãy đưa Vua Giê-su đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội để cùng nhau xây đắp hoà bình và chia sẽ tình thương cho trần thế.
Vương quốc Chúa Giê-su không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Lạy Chúa Giê-su là vua Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nổi đã ban chính sự sống mình, Xin Chúa chiếm hết tất cả con người chúng con từ tư tưởng, lời nói, việc làm, để chúng con không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và thánh thiện, của công lý và hoà bình. Amen.
Sống trên thế giới, ai cũng ước mong mình có địa vị, có chỗ đứng, có danh vọng. Càng làm lớn: TN 34-ABC314
Sống trên thế giới, ai cũng ước mong mình có địa vị, có chỗ đứng, có danh vọng. Càng làm lớn, càng có địa vị người ta càng hãnh diện và sung sướng. Ít ai muốn mình sống đơn sơ, sống không cần danh vọng, không có chỗ đứng. Thế mà, Chúa Giêsu tuy là Vua vũ trụ, lại chọn sống khiêm hạ và khó nghèo. Hội Thánh đặt lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ vào cuối năm phụng vụ để minh chứng Người là Vua : một vị Vua cao cả, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, Người đã chịu đau khổ nhưng Người đã toàn thắng trong vinh quang.
VUA HOÀN TOÀN KHÁC VỚI VUA CHÚA TRẦN GIAN :
Đọc thơ của thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê chúng ta hiểu rõ con người vua của Chúa Giêsu :” Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :” Đức Giêsu Kitô là Chúa “( Pl 2,6-11). Quả thực, Vua Chúa trần gian có lãnh thổ, có quân đội, có thần dân để tuân phục mình, có của cải, vật chất, có cung tằng mỹ nữ để hưởng thụ, để truy hoan. Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Người không làm Vua theo kiểu loài người. Người đã minh định rõ ràng:” Nước tôi không thuộc về thế gian này “( Ga 18, 36 ). Do đó, Chúa Giêsu làm Vua hoàn toàn mới lạ, hoàn toàn không giống Vua Chúa thế gian. Bản án treo trên thập giá cùng với những lời nhạo báng khinh khi của các lãnh tụ tôn giáo, của bọn lính, của những kẻ qua đường đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu :” Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn “( Lc 23, 35 ). Đức Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu, là tước hiệu của vua. Người Thiên Chúa tuyển chọn là Đấng Thiên sai, Đấng cứu thế. Lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu :” Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi “( Lc 23, 42 ). Rõ ràng vương quyền của Chúa Giêsu là vương quyền tình yêu và tước hiệu vua của Chúa Giêsu là vua khiêm nhượng, vua phục vụ.
CHỨC VỤ VƯƠNG GIẢ CỦA CHÚA GIÊSU :
Vương giả là vua, cai trị và phục vụ. Chúa Giêsu là vua khi vâng lời Thiên Chúa Cha chịu chết trên thập giá :” Khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta “ “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến”( Ga 15, 13 ). Nhờ sự vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu được tôn vinh trên muôn loài ( Pl 2, 9 ). Chính Chúa Giêsu chinh phục mọi tạo vật dưới quyền Người để dâng lại cho Chúa Cha ( 1 Co 15, 24 ). Chúa Giêsu thông chia chức vương giả của Ngườ i cho Giáo Hội để Giáo Hội cùng thống trị với Người. Tinh thần thống trị của Chúa Giêsu là phục vụ trong khiêm hạ. Đối với người Kitô hữu trong Hội Thánh, họ được tham dự chức vương giả của Chúa Giêsu khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và thi hành chức vụ vương giả bằng nhiều cách ( HT 36). Khi họ thống trị các nết xấu nơi bản thân của mình. Khi họ làm cho những người sống xung quanh được hưởng bầu khí thuần khiết, lành mạnh.Khi họ phục vụ mọi ngươi trong tinh thần khiêm tốn và vô vị lợi. Khi họ làm cho mọi công việc trần thế thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô.
NÀY LÀ NGƯỜI :
Philatô nói với dân Do Thái :” Ecce Homo “ : Đây là Người ( Ga 19, 5 ). Philatô liền hỏi :” Vậy Ông là Vua sao ?”. Đức Giêsu đáp :” Chính Ngài nói rằng tôi là vu a. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi “( Ga 18, 37 ). Philatô một cách nào đó và rất công khai xác nhận rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng vô tội, là người hoàn toàn không có tội. Đây là Người : một người mà Philatô xét thấy chẳng có tội gì nhưng chỉ vì ghen ghét mà dân đã trao nộp Người cho Philatô.
Chúa Giêsu chính là vua toàn thắng, hiển trị và thống trị :
Trước ngày đăng quang, nhậm chức của các Tổng thống, Thủ tướng vua chúa, nữ hoàng. Thường: TN 34-ABC315
Trước ngày đăng quang, nhậm chức của các Tổng thống, Thủ tướng vua chúa, nữ hoàng. Thường được tổ chức rất rầm rộ, quy mô, hoành tráng. Hoa giăng đầy lối, khách khứa đông nghẹt; và rồi kết thúc bằng 21 phát súng đại bác, rầm cả bầu trời. tối đến còn có pháo bông, xa hoa rực rỡ.
Nhưng ngày Đức Kitô lên ngôi, thì ngược hẳn lại. Vẫn đông nghẹt những người, nhưng không vỗ tay mà lại đả đảo.
Cũng thấy tiếng cười, nhưng không là những tiếng cười vui, mà là những tiếng cười mai mỉa.
Xin mời mọi người rời gót ngọc, trở lại địa điềm tổ chức, là đồi núi Sọ để nhìn cho rõ.
I. Khung cảnh lể đăng quang
Thánh giá được dựng nên lên. Hoàng tử Giêsu trần trụi quặn đau, treo cao trên ấy. Phía bên trên, một bảng gỗ mới làm, ghi đậm dòng chữ : Giêsu Nazareth vua dân Do thái.
Dưới chân thập giá : đông nghẹt những người mở mắt to, nhìn dửng dưng vô hồn, lạnh lùng.
- Những người thủ lãnh thì buông lời cười nhạo - Lính tráng thì chế giễu, rồi lấy giấm chua cho Người uống - Tên trộm đứng bên trái, thì buông lời trách cứ. Lờ mờ. sao không cứu hắn.
Chúa Giêsu thì lặng thinh.
Có vinh quang đâu, mà sao gọi là ngày lên ngôi ? Lên ngôi sao hai tay lại bị trăng trói.
Lên ngôi sao có tiếng khóc của một số người, trong đó có Đức Mẹ đang đứng dưới chân thập giá.Ai lên ngôi ?
Thưa TÌNH YÊU lên ngôi ấy.
Chữ tình yêu này, phải được viết bằng chữ hoa, in đậm, bởi đấy chính là cội nguồn tình yêu.
Thiên Chúa yêu con người, vô cùng và dữ dội. Vì yêu, Ngài bỏ tất cả những gì là cao sang, uy quyền. Ngài đã đến, làm người, và cắm lều ở chung với con người.
- Con người bạc bẽo, Ngài vẫn cứ yêu. - Con người phản bội, Ngài vẫn cứ yêu. - Con người đối xử bất công, ác độc, Ngài vẫn cứ yêu. - Con người hùa nhau giết chết Ngài.
Tòa đời, đại diện là Philatô, đọc bản án tử hình cho Ngài. Toà đạo, đại diện là Caipha, cũng phê bản án tử hình cho Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ yêu.
Ngài không chịu nghét con người. Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết, Ngài cứ yêu con người tha thiết.
Trái tim treo cao, đã bị đâm thủng, có thể đã héo nhưng tình yêu của Ngài dành cho con người, vẫn còn nóng chảy, nồng nàn.
Giây phút Ngài được treo cao, là lúc tình yêu được tôn vinh. Đến đây, vẫn như có một lời vang vọng. Vì yêu, Chúa chấp nhận tất cả, việc gì cũng làm, đắng cay cũng nuốt, miễn là, để cho nhân loại biết, Ngài yêu nhân loại vô cùng.
II. Có vua rồi, nhưng dân đâu ?
Và như thế, Ngài là vua của nước Tình yêu. Ngài ước mơ, mọi người ở trần gian này, hãy biết sống trong tình yêu. Người nào sống trong tình yêu đúng nghĩa, sẽ là thần dân của Ngài. Và những người ấy, sau khi rời bỏ cõi đời, sẽ được cùng Ngài, vào vui hưởng trong biển tình yêu vĩnh hằng.
Ngài lo lắng và ước mơ, tất cả mọi người đều sẽ được cứu rỗi.
Thần dân đầu tiên của Ngài, là tên trộm bên phải. Trước lúc nhắm mắt, Ngài đã quay sang và nói : “ Ngày hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Cánh cửa thiên đàng rộng mở.
Nhớ không, kể từ khi Adong phạm tội. Cánh cửa thiên đàng đã lạnh lùng đóng lại. Cho tới hôm nay, Chúa Giêsu là người duy nhất và tiên phong đã mở ra.
Một con đường mới, vừa mở ra, từ đất tới trời, để những ai tin vào Ngài và bước theo con đường Ngài đã đi, sẽ được vào cánh cửa cứu rỗi ấy.
Còn chúng tôi, những người tội lỗi, liệu có thể lọt vào được không ?
Nhìn thần dân thứ nhất là tên trộm. Chúng ta chợt khám phá ra rằng : Người tội lỗi không nên lấy làm lo lắng. Bởi tên trộm kia, thần dân thứ nhất kia, cả đời là tội lỗi, vậy mà hắn cũng đã được vào.
Hắn được vào, bởi hắn, dù vô tình, đã gặp được Chúa. Hắn đã nhận ra tội lỗi của mình. Hắn đã ăn năn. Hắn đã nhìn nhận ra, những việc làm của mình là tội tỗi. Và hắn xin Chúa thương tha cho hắn.
Hơn thế nữa, hắn cũng có một hành động đáng khen. Dù cũng đang bị đau đớn, vì bị đóng đinh thủng cả tay chân, đớn đau tột cùng sắp tới hồi chết, vậy mà hắn vẫn can đảm lên tiếng bênh vực công lý. Hắn bênh vực cho Chúa, vì thấy Chúa vô tội, bi oan ức. Hắn nói với tên trộm bên trái rằng : Tụi mình phạm tội, bị xử thế này là đúng lắm rồi. Còn ông này, có làm gì xấu đâu.
Hoan hô Chúa : Hắn đã tung hô Chúa, là Đấng thánh thiện tinh tuyền.
Chúa Giêsu đã lên ngôi. Làm vua của Tình Yêu và Sự Thánh Thiện
Trên đời này, người ta thích làm lớn để có điều kiện thực thi uy quyền của mình trên người: TN 34-ABC316
Trên đời này, người ta thích làm lớn để có điều kiện thực thi uy quyền của mình trên người khác, và cũng đồng thời có dịp tìm danh lợi cho mình. Vì thế, khi nói đến tước hiệu “Vua”, người ta liền nghĩ ngay đến một con người đầy uy quyền và giàu sang. Vì lẽ, có quá ít những vị vua tốt lành trên trần gain này, nên tước hiệu “vua” được gán cho những ý nghĩa tiêu cực, thiếu thiện cảm đối với đại đa số con người và trở thành xa lạ với họ.
1. Đức Giêsu, Vua của Tình Yêu:
Tước hiệu “Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ trụ” mà chúng ta mừng kính hôm nay hoàn toàn khác với những gì mà chúng ta đã nói ở trên. Bởi lẽ, Đức Giêsu là vị vua của tình yêu; vương quyền của Ngài là lòng thương xót, tha thứ và cứu độ mọi người. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình thương, bình an và hiệp nhất. Những công dân của nước Ngài là những người biết thực thi Giới răn yêu thương, những người biết tha thứ, thống hối, biết chia sẻ, biết cậy trông vào Ngài và mong đợi Ngài ngự đến.
Vương quốc của Đức Giêsu luôn mở rộng để đón tiếp hết mọi người có đủ điều kiện như thế. Còn những ai không có đủ điều kiện như thế thì tự rút lui khỏi vương quốc của Ngài, dù cho Ngài có xót xa nhìn họ ra đi vào nơi tối tăm, khóc lóc và nghiến răng. Chính họ đã dùng tự do của mình để chọn lựa như thế khi sống ở trần gian. Họ đã bám vào vật chất mà xa lánh Thiên Chúa. Tên trộm bị đóng đinh bền tả của Ngài là một điển hình cho những chọn lựa như thế. Không phải Ngài đã không cứu hắn, nhưng hắn đã chối từ tình yêu của Ngài, không nhận ra được tình yêu của Ngài. Thật là xót xa biết là ngần nào!
2. Cuộc “Đăng Quang” của Vị Vua Tình Yêu:
Bài đọc 1 hôm nay được trích trong sách tiên tri Samuel quyển thứ 2, nói về vương quyền vững chắc của vua Đavit. Đavit trở thành một vị của của một vương quốc thống nhất. Vương quyền của vua Đavit tiên báo cho vương quyền của Đức Giêsu Kitô sau này.
Điều làm cho con người không thể nào hiểu thấu được là cách thực thi vương quyền của Chúa Giêsu. Ngài “lên ngôi” vua trời đất khi bị treo trên thập giá. Ngài đã nói “khi nào tôi được đưa lên cao khỏi đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến cùng tôi”. Nhưng cũng chính trong giây phút “đăng quang” của Ngài.cũng chính là giây phút khốc liệt nhất đối với Ngài.Ngài “đăng quang” giữa bao tiếng nhạo cười, khinh bỉ, mỉa mai . . . Ngay cả tên trộm cướp bên tả của Ngài cũng nhạo cười và khinh thường Ngài. Một cuộc đăng quang lắm ưu phiền và tủi nhục của một vị vua tình yêu. Nhưng đó chính là đường lối của Thiên Chúa, một đường lối vượt trên sự hiểu biết thông thường của con người. Chúa phán “cũng như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”.
Đức Giêsu Kitô, Tôi trung của Thiên Chúa,đã thực thi đường lối và ý muốn của Thiên Chúa Cha cho đến cùng. Có thể nói, trên Thập giá, Đức Giêsu bị cám dỗ khủng khiếp hơn bao giờ hết. Đó là cơn cám dỗ về quyền lực, sự cô đơn, sự từ bỏ hay vắng bóng của Thiên Chúa và về sự hoành hành của sự dữ. . .
3. Vua Giêsu Tình yêu và cơn cám dỗ của Ma Quỷ :
Khi khởi đầu sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa để chịu cám dỗ. Cuối cùng, Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ cách vẻ vang. Nhưng Tin mừng chỉ cho chúng ta thấy rằng: “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Ngài, quỷ bỏ đi và chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13).
Và hôm nay,, lúc Đức Giêsu bị treo trên Thập giá chính là thời cơ tốt nhất cho ma quỷ quay trở lại để tiếp tục cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý định và chương trình cứu chuộc mà Ngài đang quyết tâm thực hiện theo Thánh ý của Chúa Cha. Ma quỷ rất xảo quyệt. Trước hết, chúng dùng hành thủ lãnh để cám dỗ Đức Giêsu “Các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu hắn thật sự là Đức Kitô của Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa tuyển chọn!” Kế đến, quỷ qua trung gian các lính tráng để cám dỗ Chúa “Lính tráng cũng chế giễu Người, chúng đến gần đưa giấm cho Người uống và nói: Nếu ông là Vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi”. Và sau cùng, Quỷ qua trung gian một tên gian phi để cám dỗ Đức Giêsu “Một trong 2 tên gian phi bị treo trên Thập giá cũng nhục mạ Người : Ông không phải là Đức Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Ma Quỷ rất gian xảo. Chúng luôn tìm những dịp thuận lợi để hãm hại người ngay chính. Nếu yếu lòng tin và lòng yêu mến Thiên Chúa, chúng ta sẽ sa ngã và sẽ thất bại thảm hại. Hãy noi gương Chúa Giêusu để chiến thắng!
4. Cuộc chiến thắng khải hoàn của Vua Giêsu Tình Yêu
Nhưng cuối cùng, với tâm tình yêu mến và phó thác vào Chúa Cha, Đức Giêsu đã chiến thắng Ma Quỷ. Ngài đã tuyên bố cách long trọng với tên trộm có lòng hối cải ăn năn “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Đó là hình ảnh chiến thắng và lời tuyên báo vinh quang của một Vị Vua tình yêu đã hiến mình cứu độ nhân loại.
Hãy đến với Vua Giêsu để được chữa lành, tha thứ và nhất là được Ngài cho vào hưởng vinh quang thiên quốc với Ngài. Hãy noi gương Vua Giêsu để sống hiền lành, tha thứ và yêu thương cho đến tận cùng. Tấm gương ăn năn hối cải và tin tưởng của tên trộm lành cũng là bài học quí báu cho chúng ta nữa.
Lạy Vua Giêsu, Vua tình yêu, làm sao con có thể suy thấu tình yêu của Ngài, một tình yêu trao ban trọn vẹn và tận cùng. Một vị Vua hiền hậu, khiêm nhường và nhẫn nhục để chu toàn Thánh ý của Chúa Cha cho đến tận cùng. Ngài cũng là một vị Vua tha thứ đến tận cùng, tha thứ ngay trong lúc cô đơn nhất, nhục nhã nhất . . . “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Chúa của chúng ta là thế đó! Vua Giêsu của chúng ta là thế đó!
Bài Phúc Âm nêu rõ ngộ nhận cơ bản ngăn cách kẻ thiển cận với Đức Giêsu. Một bên là: TN 34-ABC317
Bài Phúc Âm nêu rõ ngộ nhận cơ bản ngăn cách kẻ thiển cận với Đức Giêsu. Một bên là những kẻ luẩn quẩn trong cái nhìn thuần tuý trần tục về sự vật, bên kia là những tâm hồn được Đức Kitô tác động cho nên mở rộng đến cực độ. Địch thủ của Chúa đứng ở bình diện những viễn ảnh sơ đẳng mà tước hiệu ‘Vua’ gợi ra trong trí họ. Trái lại, Đức Giêsu mở ra cho kẻ tội lỗi những viễn ảnh vô tận về một Vương quốc của tha thứ và yêu thương. Hai bình diện hoàn toàn khác biệt. Con người bị ràng buộc nặng nề vào những chân trời hạ giới, cho nên thảm trạng của Đức Kitô (cũng là thảm trạng Giáo Hội) ở chỗ rất khó đưa con người lên tới tầm cao định mệnh toàn diện và siêu nhiên của nhân loại. Bản thân Đức Giêsu là một cơ may lịch sử tặng cho con người để gặp Thiên Chúa. Thế mà trong lịch sử thời Phúc Âm và trong Giáo Hội ngày nay, chúng ta thấy gì? Một số từ chối Đức Kitô vì mắt họ vấp phải cái khía cạnh trông thấy được của Đức Kitô làm người, của Giáo Hội gồm toàn những con người với bản chất rất nhân loại. Những kẻ khác thì thích ứng, đức tin họ chỗi dậy, và nhờ được tha thứ cho những giây phút yếu đuối, họ tiến vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta nhận xét thêm. Đứng trước nhân loại, Giáo Hội có trọng trách phải có bộ mặt giống tôn nhan Đức Kitô khiêm hạ, nghèo khổ, không vị lợi, quay về cả hai phía Thiên Chúa và con người, cho nên Giáo Hội thu hút những tâm hồn muốn tiến lên trong đức tin. Chúng ta nhấn thêm vào hai điểm trọng yếu trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Đức Kitô không thiết lập một triều đại thế gian có quyền năng kỳ diệu hoặc nhiều phép thần thông. Con người, nhất là kẻ không tin, rất háo hức muốn được chứng kiến những cuộc biểu diễn phép thần. Kẻ thù của Chúa đứng bên chân thập giá, tấn công về điểm tâm lý ấy. Họ nói: Chúa hãy làm cử chỉ phi thường xuống khỏi thập giá là người ta sẽ tin vào Chúa ngay. Chúa đáp lại bằng sự im lặng. Chúa sống trên một bình diện quá cao. Ở đây chúng ta có nên đặt ra một câu hỏi có tính chất thời sự không? Phải chăng một số nào đó, gồm cả Kitô hữu, đòi Đức Kitô dùng phép thần làm cho thế giới hết đau khổ, bất công, giặc giã, …? Có những kẻ dám nói, nếu Đức Kitô có quyền năng của một ông vua thì xin hãy cải thiện xã hội! Với những kẻ ấy, Đức Giêsu không đáp lời bằng phép lạ, bằng điều phi thường.
2) Đức Kitô thiết lập triều đại tha thứ yêu thương. Tha thứ yêu thương là những ân huệ nhận được từ Trên, như thể muốn biểu hiện luật nội tâm của Trái Tim Thiên Chúa. Kẻ nào lãnh nhận ân huệ đó cũng phải lấy tha thứ yêu thương làm luật nội tâm cho mình trong cách đối xử với anh em. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, mỗi người chúng ta có thể, trong sự thật, nói như kẻ trộm lành: Lạy Chúa, xin nhớ đến con khi vào Nước Trời. Thốt lên như thế là cầu xin cho định mệnh vĩnh cửu của chúng ta, nhưng cũng là xin được hưởng ngay bây giờ ơn yêu thương tha thứ của Chúa. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định: Trong cách đối xử với anh em, chúng ta không được chậm trễ, ngay hôm nay chúng ta phải sống ơn tha thứ, sống tình thương yêu. Đó là hai thực tại cực kỳ ý nghĩa của vương quốc Đức Kitô.
Vua, một tước vị đã bị dìm dưới bùn đen do những vua chúa, những hoàng đế độc tài, tham quyền: TN 34-ABC318
Vua, một tước vị đã bị dìm dưới bùn đen do những vua chúa, những hoàng đế độc tài, tham quyền cố vị, giết cả bạn cả anh em, kể cả cha mẹ như một Nêron bạo vương, dìm mình trong dâm ô với hàng ngàn cung phi. Tai chúng ta vừa nghe tiếng vua, trí chúng ta liên tưởng ngay đến cảnh tượng ghê tởm khủng khiếp đó.
Thế nhưng tại sao chúng ta lại mừng lễ Chúa Giêsu là Vua. Vua Giêsu của chúng ta có như thế không? Hay là cần phải thay đổi tiếng vua thành chủ tịch, tổng thống, quốc trưởng cho hợp thời? Nhưng có thay đổi danh xưng, thì bản chất của những kẻ tham quyền cố vị, háo danh háo sắc chẳng có gì thay đổi. Điều đó đang diễn ra trước mắt chúng ta, vì “ai lấy thúng úp được voi”? đổi danh xưng làm gì, đổi bản chất người mới đáng kể.
Bài đọc I cho thấy dân Do Thái truất phế vua Saolê, một vị vua bất xứng, để chọn Đavit lên thay thế. Hết vua nầy đến vua khác. Vua nào cũng thế thôi. Suốt đời Chúa Giêsu, Ngài chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Ngài không hề làm vua của một quốc gia hày trên một mảnh đất nào. Ngài đã không tỏ vẻ gì là một hoàng đế, là một ông vua. Ngài còn nhất quyết từ chối và lẫn trốn mỗi khi dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm vua. Cũng có lần người ta gọi Ngài là “Vua Dân Do Thái”, nhưng là để chế nhạo Ngài, như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Lúc đó Chúa Giêsu đang là một tên tử tội bị kết án đóng đinh thập giá giữa hai tên gian ác. Từ dưới chân thập giá, giới lạnh đạo cũng như quân lính và dân chúng đều chế giễu thách thức Ngài. Những lời giảng dạy và những việc Ngài làm để cứu chữa người khác được đưa ra để nhạo báng Ngài: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì ông hãy tự cứu mình đi!” Một trong hai tên gian ác bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu cũng lặp lại lời chế giễu thách thức đó: “Nếu ông là Đức Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu cả chúng tôi nữa!” Trên đầu thập giá của Chúa Giêsu, tấm bảng cáo trạng đã ghi rõ: “Giêsu – Nagiaret, Vua dân Do Thái”. Còn Chúa Giêsu thì vẫn im lặng trước những lời chế nhạo và thách thức của họ. Sự im lặng của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không phải là vua theo kiểu người dân Do Thái chờ đợi, một vị vua chính trị giải phóng dân tộc, cũng không phải là vua theo kiểu là người “cướp chính quyền”, tranh giành quyền thống trị của hoàng đế Xêda hay của bất cứ vị lãnh tụ nào trên trần gian nầy. Trước toà án của Tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là Vua, nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian nầy”.
Lúc nầy, đang khi người ta chế nhạo vương quyền của Chúa Giêsu, thì tên ác kia – mà người ta gọi là “tên trộm lành” đã nhận ra vương quyền đích thực của Chúa Giêsu. Anh nhìn nhận Chúa Giêsu là người vô tội, Ngài thạt là Đức Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến cứu độ nhân loại. Anh đã diễn tả lòng tin của anh bằng một lời cầu xin: “Lạy Ngài, khi nào về Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đã xác nhận vương quyền của Ngài bằng cách nhận lời cầu xin của anh: “Tôi nói thật với anh, ngay hôm nay, anh sẽ ở với Tôi trên Nước Trời”.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu là Vua. Vua là người dựng nước, Vua là người cứu nước, Vua là người của dân tộc. Thánh Phaolô đã triển khai ba điểm nầy trong Bài đọc II hôm nay. Chúa Giêsu là Vua, vì Ngài là Con Một của Thiên Chúa Cha. Vương quốc là của Con, là Trưởng Tử của mọi tạo vật, vì Ngài hiện hữu trước mọi tạo thành, mọi sự được dựng nên “nhờ Ngài và trong Ngài”. Như vậy Chúa Giêsu Kitô là đầu toàn thể vụ trụ: vật hữu hình và vô hình, trái đất chúng ta và không gian liên hành tinh, cả những tinh vân cực xa. Sau cùng, Hội Thánh là Thân Thể của Ngài và thế giới người chết cũng là nơi Ngài cai trị như là Trưởng Tử, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Lịch sử sẽ hoàn tất nơi Chúa Kitô, bởi vì toàn thể vũ trụ đang tiến tới chỗ hòa giải trọn vẹn “nhờ Ngài và trong Ngài” và chính máu Ngài đổ ra trên thập giá để thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu.
Chúa Giêsu là Vua, nghĩa là Ngài đã lãnh đạo, mở đường đưa cả loài người vào cõi sống vĩnh cửu, vào Nước Trời. Ngài đã giải thoát loài người khỏi mọi ách thống trị của sự ác và sự chết, để con người được gặp Thiên Chúa, được tham dự vào tình yêu, sự thật và sự sống của Thiên Chúa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Ngài đã chấp nhận bị liệt vào hàng gian ác và đã chết cùng với những kẻ gian ác để đem họ vào cõi sống với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ là Vua cả nhân loại, nhưng Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Chúa Giêsu Vua, ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai, thay cho tiếng hoan hô là những tiếng chữi rủa, thách thách, nhạo cười, đả đảo…
Chắc hẳn không ai thích làm vua kiểu đó. Nhưng thích hay không, chúng ta cũng phải làm vua, vì khi được rửa tội, chúng ta đã là dân tộc vương đế, vương đế theo kiểu Chúa Giêsu: Phải làm vua dục vọng của mình, phải dám lên tiếng bênh vực sự thật, phải dám hy sinh cho những người nghèo khổ. “Ai biết phục vụ anh em, người đó là người chỉ huy”: Phục vụ là cai trị.
Muốn được vào Nước của Thiên Chúa, được làm công dân Nước Chúa, không có con đường nào khác ngoài con đường của “người trộm lành”, đó là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ có tội “Phần chúng ta, thế này là phải lắm”. Tin tưởng: “Còn Ngài có làm gì xấu đâu”, và cầu xin: “Lạy Ngài, xin nhớ đến tôi’.
Nếu Chúa Giêsu thực sự là Vua của lòng chúng ta, là Vua của đời ta, thay cho các “thần tượng” vua chúa khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa đáp lại vào lúc cuối đời mình: “Ta bảo thật với con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Nước Trời”.
Lễ Đức Kitô Vua là một ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925. Những: TN 34-ABC319
Lễ Đức Kitô Vua là một ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925. Những canh tân phụng vụ thời nào cũng có. Thật vậy, việc cử hành thật sự vương quyền của Đức Giêsu là ngày lễ Thăng Thiên: Nhưng, trong Chúa nhật cuối cùng này của năm phụng vụ, chúng ta chiêm niệm "Triều đại của Thiên Chúa" đến từ từ xuyên qua, lịch sử và đạt đến sự thực hiện viên mãn vào thời cách chung.
Để mừng lễ Đức Kitô Vua chúng ta, một cách rất nghịch lý, Giáo Hội đưa ra cho chúng ta cảnh tượng mà Đức Giêsu khai mạc triều đại của Người: ngai vàng của Người là thập giá. Vương miện Người là một vòng gai làm đổ máu khuôn mặt Người... lễ phong vương của Người là một “danh hiệu" của việc kết án tử được đóng đinh bên trên đầu Người. “Đây là vua dân Do Thái! Hai chứng nhân, hai nam tước của Người, là hai tên gian phi bị kết án với Người.
Nghịch lý cao cả của Tin Mừng! Vua ư? Phải! Nhưng chắc chắn không như cách hiểu của những người hoặc muốn đứng về phe Người để hoan hô tôn phong Người hoặc là những đối thủ của Người để lên án Người. Vua "theo cách của Thiên Chúa"!
Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. Dân chúng đứng nhìn.
Vậy đây là đinh điểm!
Đó là "đỉnh núi" của Tin Mừng. Sau "Núi Bát Phúc" nơi Đức Giêsu lần đầu tiên công bố sứ điệp của Người... sau "Núi Ta-bo" nơi Đức Giêsu biến hình và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: "Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!". Đây là đỉnh điểm thứ ba và cao siêu của Tin Mừng. Ở cổng vào thành phố Giê-ru-sa-lem và gần cổng Ép-ra-im, trong một nơi khai thác đá cũ những thợ khai thác đá còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là "Golgotha", từ này có nghĩa là cái sọ (tiếng Hy-lạp là Kranion; tiếng La-tinh là Calvanô) vì hình dạng của tảng đá. Một truyền thuyết lâu đời cho rằng đó là cái sọ của A-đam được chôn cất mãi mãi ở đó! Đỉnh núi ấy của Tin Mừng là một ngọn "núi trọc", một ngọn núi “cô độc". Một nơi buồn thảm: một miếng đất nhỏ xíu, cao hơn mặt đất dùng để đặt giá treo cổ những tử tội, gần con đường có nhiều người đi qua, để mọi người có thể nhìn thấy các tội nhân bị hành hình và lấy đó mà làm gương!
Thật vậy đám đông đang ở đó... và nhìn... ao ước nhìn! Ở đây, Luca dùng một từ rất có ý nghĩa: Ngài không dùng từ "đám đông", nhưng dùng từ "dân chúng" (tiếng Hy-lạp là saos), một từ thường dùng để chỉ "dân Thiên Chúa". Cũng từ ấy dùng để nói "toàn dân say mê nghe Người giảng dạy trong Đền Thờ" (Lc 19,48) trong lúc mà các thượng tế và kinh sư cả các thân hào trong dân tìm cách giết Người (Lc 19,47). Luca thường ghi nhận rằng đối với Đức Giêsu, "dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1 -20,45 - 21,38)
“Và dân chúng đứng nhìn" như biến cố làm họ chán ngán. Sự im lặng của dân chúng rất ấn tượng. Dân chúng Israel hiền lành không còn hiểu gì cả. Họ đã chờ đợi Đấng Mêsia như một "ông vua", một vua Đavít mới. Trong lịch sử của họ, vương quyền không kéo dài được bao lâu và các ông vua của họ, không phải thiếu nhưng không có được tầm cỡ của vua Đavít và Salômôn; nhưng đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Mêsia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù làm vị thẩm phân của Thiên Chúa. Vâng họ cứ ngỡ rằng Đức Giêsu đến để "phục hưng vương quyền của Israel". Họ đã thử tôn Người lên làm vua": Người lại tránh né (Ga 6,15; Lc 19,38). Và giờ đây, Người kia kìa, bị kết án tử hình! Còn dân chúng đứng nhìn.
Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!"
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn, đã hẳn, ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh cười nhạo và buông lời thách thức. Thách đố của họ là Đức Giêsu hãy tỏ vương quyền của Người là Đấng Mêsia. Đấng được Thiên Chúa xức dầu là một danh hiệu vương đế bởi vì các vua Israel được gọi như thế, và quả thực đã “thánh hiến" bởi dầu thánh, (Chrême) làm họ trở thành những Đức Kitô (tiếng Hy-lạp Christos dịch từ tiếng Mêsia trong tiếng Do Thái). Nếu Đức Giêsu là Đức Kitô, Đấng được tuyển chọn (từ này lấy trong sách Isai-a 42,1) nếu Người là Cứu Chúa của thế gian trước tiên Người phải tự cứu lấy mình.
Những lời gào la chế nhạo ấy là tiếng vang của những lời ma quỷ cám dỗ trong sa mạc lúc Đức Giêsu bắt đầu đời sống công khai của Người (Lc 4,3); cũng là tiếng vang của những lời chê trách mà các người đồng hương Nagiarét đã nói với Người: "Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình" (Lc 4,23) Trong thế giới hiện đại của chúng ta, "những kẻ thế thạo Thiên Chúa" không còn lớn tiếng như thế, nhưng chẳng phải vẫn luôn có cùng một vấn đề, cùng một lời khinh chê: "Thiên Chúa phải tỏ mình ra đi, cho người ta thấy! Phải hiện ra đi, nếu Người hiện diện! Và câu trả lời của Thiên Chúa vẫn luôn là câu trả lời của Đức Giêsu: Người im lặng và không can thiệp vào bình diện các sự vật trần thế mà Người để chúng tồn tại hoàn toàn tự lập. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực và không hiện hữu. Đức Giêsu, cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ để "hành động vì mình", sử dụng sự Toàn Năng của mình chỉ vì chính mình.
Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!"
Đó là những binh sĩ La Mã, những dân ngoại trong đoàn quân xâm lăng; họ dùng từ “vua" mà họ nhìn thấy ghi phía trên đầu Người. Một sự chế giễu cao siêu lại một lần nữa nhắm vào kẻ bị loại trừ đó, bị treo trên thập giá... thở khò khè chờ tắt thở!
Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do thái”.
Nghi lễ lên ngôi của các ông vua bao gồm một bản phong vương: một Thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua "danh hiệu” của vua, như người ta thấy trong Thánh Vịnh 109: "Ngày đăng quang con nắm tuyển thủ lĩnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh con".
Ở đây bên trên "ngai vàng" ứng biến là thập giá, bản án dùng làm bản phong vương, giống như Lời của Chúa Cha tấn phong Con Người trên sông Giođan ngày Người chịu phép rửa: "Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con" (Lc 3,22). Trong Tin Mừng thánh Luca, bản án trên thập giá không được trình bày như một "lời lên án". Đức Giêsu đã được giới thiệu như một ông vua, nhưng "Nước Người không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Trong một sứ vụ của Người, Người đã hết sức cẩn thận không cho người ta giải thích sứ vụ của Người theo nghĩa chính trị. Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế nhưng không cạnh tranh với "các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế". Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của chủ nghĩa Đấng Mêsia vua dân Israel.
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Câu chuyện của Luca được xây dựng theo kiểu bi kịch, trong sự căng thẳng tăng lên dần: dân chúng đứng "nhìn", các thủ lãnh "cười nhạo”, lính tráng "chế giễu”, những tên gian phi "nhục mạ".
Luật của Môsê đòi phải có "hai chứng nhân" để mọi hành động trở thành hợp pháp. Như thế, các chứng nhân của việc tôn phong Chúa: Biến hình là hai nhân vật chính của Cựu ước. Môsê và Êlia (Lc 9, 28.36). Hai chứng nhân của sự sống lại sẽ là hai người lữ hành dễ thương và bí hiểm trên đường trở về Emmau (Lc 24,18), trước đó ít lâu là hai chứng nhân không kém huyền bí của Ngôi Mộ trống (Lc 24,4). Nhưng ở đây, hai chứng nhân cho sự lên ngôi ở Núi Sọ chỉ là hai tên cướp tầm thường. Đức Giêsu, vị vua bị nhạo báng đến cùng!
Đức Giêsu, vị vua của ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một vị vua bị bóp méo xuyên tạc mà người ta ngần ngại chỉ ra như một người bị nhạo báng, trần truồng, bị khạc nhổ và đầy những vết thương đẫm máu, hai bên có hai tên gian phi.
Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!"
Trong tiếng ồn ào của sự khinh bỉ chung, đây là một tiếng nói yếu ớt và nghèo nàn dám nói chen vào. Chính Đức Maria ở dưới chân thập giá đã nghe được và đã thuật lại cho Luca, là người duy nhất đã kể lại cho chúng ta. Luca vị thánh sử của lòng "nhân hậu” và của những "người nghèo hèn" đã phải vui mừng đặc biệt về việc này. Triều Đại của Đức Ki tô, Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho những người "hối cải". Đối với Đức Kitô, cách thực thi vương quyền của Người trên mọi người, kể cả những kẻ thù của Người, chính là ban cho họ ơn tha thứ (Lc 23, 34.43); một sự tha thứ không hạn chế? Để vào được Nước Chúa, không cần điều lớn lao là "công chính". Người tội lỗi cũng có chỗ trong Nước Chúa với một điều kiện duy nhất: đón nhận ơn tha thứ mà Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta. Người đầu tiên sống sự hòa giải hoàn vũ này là một "kẻ cắp", kẻ đã biết nhận ra tội lỗi của mình và đồng thời công bố sự vô tội của Đức Giêsu.
Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."
Đức Giêsu đúng là “Ađam mới", giúp nhân loại về lại địa đàng đã mất. Chia sẻ "cùng một nỗi khổ cực như Đức Giêsu, chết, đó là bắt đầu "sống với Đức Giêsu”.
Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức: TN 34-ABC320
Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: ‘Vua dân Do thái’ và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: ‘Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa’. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: ‘Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm’. Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ tha… Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. ‘Nemo contra Deum nini Deus solus”. (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch laị mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: ‘Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến trong nước của Ngài’. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: ‘Phần chúng ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm’. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, ‘nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái’.
Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: ‘Quả thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi’. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng ‘phản kháng’: Một lời Ngài ‘nài’ xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời ‘chấp nhận’ Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
TRÊN THẬP GIÁ, KHI BAN ƠN THA THỨ CHO MỘT NGƯỜI BẠN CÙNG CHỊU KHỔ HÌNH VỚI MÌNH, ĐỨC GIÊSU KHAI TRƯƠNG TRIỀU ĐẠI CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Những lời nhục mạ mang hình thức bộ ba cám dỗ:
Khi đến nơi gọi là "Đồi sọ", hay đồi Canvê, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, cùng lúc: TN 34-ABC321
Khi đến nơi gọi là "Đồi sọ", hay đồi Canvê, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, cùng lúc vởi hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái". Người vừa mới xin ơn tha thứ cho những tên lính có nhiệm vụ hành quyết Người, và họ cũng đã chia nhau xong những tấm áo của Người.
Đang lúc dân chúng đứng "nhìn" thì "những lời nhục mạ" hai chi tiết này cùng ứng nghiệm lời Thánh Vịnh 21 – được "xổ” ra từ phía các thủ lãnh Do Thái, binh lính và một tên gian phi. Những lời nhục mạ của họ mang hình thức một bộ ba cám dỗ như dư âm của những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã chiến thắng hồi Người mởi bắt đầu thi hành sứ vụ. Thời ‘Lc 4,13’ cho cuộc chiến đấu cuối cùng nay đã tới.
Các "thủ lãnh" Do Thái diễn đạt tư tưởng cùng một kiểu như quỷ sa tan đã dùng xưa khi cám dỗ Chúa ở trong hoang địa: "Hắn hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn"; hắn hãy dùng quyền mình có mà mưu ích cho mình đi!
"Lính tráng" cũng dựa vào bản án xử tội gắn trên đầu người mà chế giễu Người rằng: "Nếu ông, là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!".
Sau cùng, "một trong hai tên gian phi" lặp lại cùng một điệp khúc, tiếp thêm mấy lời là cứu cả chúng tôi với. Nếu Đức Giêsu yên lặng từ chối cho mình hưởng ơn cứu độ theo đúng nghĩa là ơn giải thoát, liệu người có thể từ chối cứu thoát kẻ khác chăng, bởi lẽ Người "chỉ có thể tỏ mình là Đức Kitô thực sự khi thực thi quyền năng của mình để cứu thoát người ta" (cf. Dupont).
2. Ơn tha thứ vương giả của một kẻ bị đóng đinh:
Thế rồi, xen giữa những lời phỉ báng nhạo cười, thì một tiếng nói khác cất lên, khác vởi các tiếng nói kia, tiếng nói của một tên gian phi khác.
Anh chính là điển hình cho con người hối cải, con người khốn khổ biết nhìn nhận mình có tội và chịu nhận hình phạt. Anh trả lời người bạn nhục mạ Chúa Giêsu: "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm". Cùng lúc ấy anh tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội: "Ông này đâu có làm điều gì trái". Hơn nữa, đang khi mọi người chế giễu tư cách là Đấng Mêsia và là Vua của Người, thì chính anh lại lên tiếng tuyên xưng niềm tin vào ông Giêsu này là Đấng Mêsia vua, mà vẫn nghĩ rằng quyền cứu thoát của Người sẽ chỉ được tỏ ra vào lúc tận cùng thời gian: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi".
Đáp lời anh thỉnh nguyện, Chúa Giêsu long trọng loan báo cho anh ơn giải thoát: "Tôi bảo thật anh...". Và ơn giải thoát Chúa báo cho anh đây, không phải chỉ xảy ra vào cuối thời gian, mà diễn ra ngay "hôm nay": "Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Thiên đàng theo truyền thống Do Thái là nơi tượng trưng bằng cây sự sống mà tất cả những ai sau khi chết được Chúa xét là công chính sẽ được hưởng.
Thiên đàng ấy anh sắp được biết nó rồi, và cốt lõi của nơi hạnh phúc và được sống mãi ấy, chính là được "ở với Người" là Đức Giêsu. J. Dupont kết luận: "Như thế, Đức Giêsu đã trả lời thách thức là coi khinh tất cả những gì mà người ta đã nhục mạ Người trước đó; Người đã cứu thoát một tên gian phi, một con người, không phải bằng cách cứu cho anh khỏi cái chết đời này, nhưng làm cho anh biết dùng cuộc sống này như bước vượt qua tiến đến sự sống thật và hạnh phúc thật ".
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Trên thập giá, tình thương mạnh hơn hận thù.
(“Missel Emmaus", trg 1l58).
Cuộc đời Đức Kitô được hoàn tất trên thập giá. Vì thế một vấn đề căn bản được đặt ra, vấn đề tách biệt ai là kẻ tin và ai là người không tin.
Cuộc đời Người là một thất bại ư? Ngay cả một số người vốn ngưỡng mộ Người cũng nghĩ như thế. Đối với họ, Đức Giêsu là một người có một nhân cách tuyệt vời đấy. Nhưng Người đã sống trên một giấc mơ đã sụp đổ. Bất công đã chiến thắng và vẫn tiếp tục chiến thăng trong thế giới của ta đây. Rất tiếc nhưng đó là một thực tế.
Cũng là thất bại, dưới con mắt của những kẻ chống đối Người. Nhung con người này tỏ ra vui mừng, nhân danh lạc thú của họ, hoặc nhân danh Lề Luật là cả chính tôn giáo nữa.
Thế mà kìa, anh chàng bị đóng đinh bên cạnh Đức Giêsu, một tên cướp, lại đang mở to mắt, ngỡ ngàng: ông này là ai vậy, mà phải chết như thế này? Nơi anh đang diễn ra cảnh đảo lộn cả một khung trời anh đang sống. Với con người như thế, Đức Giêsu, mặc dầu đang hấp hối lại dám hứa rằng: "Hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng". Ảo tưởng hết chỗ nói chăng? Hay là vén màn lên cho thấy một thực tại không thể ngờ được?
Đối với người có lòng tin, thì đây chính là thời điểm quang vinh. Tình thương đã chứng tỏ mạnh hơn hận thù. Triều đại của Đức Giêsu bắt đầu.
Phục vụ Đức Kitô-vua, chẳng có sức mạnh nào cưỡng ép được nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương. Quyền lực của Người tuy là vô biên, nhưng lây lan dần nhờ những đốm lửa nhỏ của Tình yêu.
2. "Một sự đảo ngược tình thế lạ thường"
Đức Giêsu bị ngay cả những người cùng chịu khổ hình với mình khinh chê, nhục mạ, sỉ nhục đến thế là cùng. Thế nhưng, giờ đây lại xảy ra một sự đảo ngược tình thế lạ lùng: một trong hai tên gian phi từ chối hùa theo những lời xúc phạm mà tên kia tuôn ra; anh thú nhận cả hai đều có tội, nhìn nhận Đức Giêsu vô tội, rồi diễn tả lòng tin của anh bằng lời thỉnh cầu khiêm tốn. Đức Giêsu đáp lại lòng tin này bằng cách báo cho anh biết anh sẽ được như lời thỉnh cầu ngay lúc ấy: "Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng" (23,43).
Chính bằng cách đó, Luca đã chứng thực hiệu quả hy lễ của Đức Giêsu: thập giá Đức Giêsu biến đổi thế giới, khi làm nẩy sinh ơn sám hối nơi các tâm hồn và mở cửa thiên đàng cho họ. Cùng vởi người trộm lành, chính mỗi người chúng ta phải coi mình như được mời gọi gẫm suy cho kỹ những đau khổ của Đức Giêsu và tự vấn lương tâm: "Chúng ta chịu như thế này là đích đáng... chứ ông này, đâu có làm điều gì trái" (23,41).
Vừa khơi dậy lòng sám hối thập giá Đức Kitô còn làm nẩy sinh sự đổi mới lạ lùng với lòng tin cậy của trẻ thơ: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi" (23,42). Và câu trả lời của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng lòng tin tưởng của trẻ thơ kia hoàn toàn có cơ sở Đấng Chịu-đóng-đinh đang mở toang mọi cánh cửa của lòng thương xót (cf. Lc 6,36; 18,9-14): Người thực hiện điều mà tên gian phi thứ nhất kia đã thách thức Người làm, nhưng ở một bình diện hoàn toàn khác, bình diện thiêng liêng, nơi tâm hồn: "Ông hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với" (23,39).
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Đôi khi chúng ta là những người Mỹ suy nghĩ vì sao người Anh lại chán chế độ quân chủ của: TN 34-ABC322
Đôi khi chúng ta là những người Mỹ suy nghĩ vì sao người Anh lại chán chế độ quân chủ của họ. Sự kiện thí dụ như là Nữ hoàng, điều đó đối với chúng ta có vẻ như là một người đại diện hầu như không có quyền lực. Và trong chúng ta cũng có một số người ước muốn có một người nào đó mà chúng ta có thể nhìn lên, một người nào đó hiện thân cho những giá trị và chinh phục sự kính trọng của chúng ta, một người làm cho chúng ta cảm thấy tốt hơn là chính chúng ta.
Nhiều người Mỹ một cách nào đó, đã tìm thấy môt con người như vậy trong cuộc bầu cử tổng thống, đó là tổng thống Kennedy, tổng thống của nước Mỹ. Ông còn trẻ, đẹp trai, thông minh, và ăn nói lưu loát. Ông kết hôn với một phụ nữ xinh đẹp và đối với chúng ta có thể trở thành nữ hoàng và người đó có thể giới thiệu với nước Mỹ những đưa con xinh đẹp, những công chúa và những hoàng tử. Nhà Trắng được biết đã trở thành giống như điện Camelot, nước Mỹ có một gia đình mà người Mỹ coi như là một vương triều.
Vào ngày thứ sáu 22-11-1963 giấc mơ đó bị tan vỡ. Trong suốt bốn ngày người Mỹ đã kinh ngạc trước máy truyền hình, họ xem đi xem lại những hình ảnh không thể tin được về cuộc ám sát và đám tang đau khổ, mà đám tang đó đã giúp thuyết phục chúng ta rằng, cái chết của vị tổng thống là thật sự. Từ đó những câu chuyện dần dần trở nên hé mở và tiết lộ mọi sự đều không hoàn hảo như chúng ta tưởng tượng. Giấc mơ về một Camelot đã bị tan vỡ, và những ảo tưởng về vương triều đã hoen úa.
Hầu hết tất cả chúng ta đã định hướng sai lầm khi hướng về nhà Trắng ở Washington D.C như là một hoàng cung. Chúng ta sẽ nhìn trở lại Calvariô bởi vì thánh giá thật sự là ngai của Đức Kitô Vua. Cái chết của Ngài không phải là một bi kịch, không phải là một cú sốc mau qua. Nó là một cuộc khải hoàn chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta, đó là tội lỗi và sự chết. Trên đầu của Chúa Giêsu trên thánh giá nhà cầm quyền Philatô đã đặt lên một bảng khắc: “Đây là Vua dân Do Thái”. Chúng ta đã thay thế bảng khắc đó bằng lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: “Đức Kitô là Vua của chúng tôi”. Với Người chúng ta cầu xin: “Xin hãy nhớ đến chúng con khi Ngài bước vào vương quốc của Ngài”.
Đó là lời cầu nguyện đã được đáp lời bởi vì qua Đức Kitô chúng ta đã được cứu chuộc. Chúng ta đã được cứu thoát khỏi vương quốc của tội lỗi, việc cử hành hy tế Thánh Thể của chúng ta vào ngày Chúa Nhật: “Là dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên giá trị, chia sẻ với các thánh trong ánh sáng. Ngài đã cứu thoát chúng ta khỏi quyền lực của tối tăm và đưa chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu Ngài”.
Thiên Chúa đã làm cho chúng ta trở nên những thần dân của Đức Kitô Vua. Ngài đã biến đổi chúng ta qua những đặc ân là ân sủng để chúng ta trở nên anh chị em của Người. Anh chị em của Vua là những hoàng thân và quận chúa. Chúng ta là thần dân của vương quốc, đã được sở hữu những giá trị và phẩm giá mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho.
Chúng ta không cần những quyền lực thuộc thế gian này làm cho chúng ta được kính trọng. Vua của chúng ta thật sự là thuộc vương triều. Nước của Ngài không phải là một Camelot tưởng tượng. Đó là vương quốc hoàn vũ và vững bền, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của công lý và công chính, của tình yêu và sự bình an. Vua của chúng tôi là Đức Kitô, là Chúa Kitô.
Lời nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày Chúa Nhật này là thời gian thích hợp để nài xin cho chúng ta sự trung thành với Đức Kitô Vua. Theo những hình thức đề nghị bài kinh làm nền tảng cho kinh tiền tụng của kinh nguyện Thánh Thể vào lễ trọng hôm nay, kinh này có thể dùng vào Thánh Lễ bởi những người lập lại những dòng nài xin theo sau linh mục hoặc vị thừa tác.
Chúng con nài xin được trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con âu yếm vương quốc vũ hoàn và đời đời của Ngài. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc của sự thật và sự sống, của sự thánh thiện và ân sủng. Chúng con ước ao làm một điều gì đó mà chúng con có thể, qua hành động và cầu nguyện.
Để mang thế giới đến với vương quốc của Ngài. Vương quốc công chính, tình yêu và sự bình an.
Thiên Chúa đã tuân giữ lời Ngài đã phán hứa, bằng cách sai phái vị cứu tinh đến, để thiết: TN 34-ABC323
Thiên Chúa đã tuân giữ lời Ngài đã phán hứa, bằng cách sai phái vị cứu tinh đến, để thiết lập một vương quốc, thế nhưng vương quốc của Ngài không giống như vương quốc con người đã mường tượng ra. Chính Ngài đã xác nhận cho Philatô biết được sự thật ấy.
Đúng thế, những vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Nhưng vương quốc của Đức Kitô thì không do trần gian và cũng không giống với trần gian.
Ngài từ chối loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Ngài thường lẩn trốn mỗi khi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua theo nhãn quan của họ. Ngài không dùng những phương tiện trần gian để bảo vệ nước của mình, cũng không tự biện hộ, để tránh né khỏi bản án tử hình. Nhưng cho dù phải chết, Ngài vẫn xác quyết mình là vua và nước Ngài đã thực sự bắt đầu nơi trần gian: Tôi sinh ra là để làm vua, và tôi đến để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi, và người ấy sẽ thuộc về nước của Tôi.
Đây chính là điểm then chốt của sứ điệp. Thế nhưng chân lý của Chúa là chân lý gì? Tôi xin thưa, chân lý Ngài mang đến là ý định cứu rỗi của Chúa Cha, muốn thu thập mọi người trở thành con dân Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho ý định của Chúa Cha, và chứng cớ của Ngài thì trung thực bởi vì Ngài bởi Chúa Cha mà ra, Ngài biết Chúa Cha yêu thương nhân loại và Ngài nhận lãnh sứ mạng nói cho nhân loại biết được sự thật ấy.
Không những Ngài chỉ nói mà hơn thế nữa, Ngài còn làm chứng bằng cả con người và cuộc đời của mình nữa. Ngài chính là tiếng nói yêu thương của Chúa Cha phán với nhân loại. Bằng việc làm vì Ngài đã trở nên một người ở giữa chúng ta, cùng đau khổ, và cùng chết với chúng ta. Nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại.
Từ đấy và trong Ngài, nhân loại múc lấy khả năng có thể sống lại, có thể trở về với Chúa Cha. Bởi đó, thánh Phaolô đã gọi Ngài là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại, đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Dân Do Thái chỉ dừng lại nơi của cải, giàu sang và uy quyền. Tất cả những cái đó sẽ tan biến theo dòng thời gian, vì thế họ không chấp nhận Ngài. Nhưng nước vĩnh cửu Chúa hứa ban còn vượt trội gấp bội những gì con người mong ước, Ngài hứa và sẽ trao ban vì Ngài đã chiến thắng sự chết và địa ngục. Điều gay go nhất, đó là chúng ta phải đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì với những kẻ tin thì lời Ngài hứa mới chính là điều đáp lại ước muốn căn bản nhất của con người, đó là ơn phúc và bình an.
Báo chí Saigon có một dạo đã xôn xao bàn tán: Ngày 15.11.1969, một cô bé da đen đang sống vất vưởng trong một cô nhi viện tại xóm Gà, lối đi Gò vấp, thì bỗng dưng có một người da đen sang trọng đến thăm, ông đem tới cho cô một sự thật làm đảo lộn đời cô: Cô chính là con của Bokassa, hoàng đế của nước Trung Phi. Từ một cô bé lọ lem, cô nghiễm nhiên trở thành một nàng công chúa.
Còn với chúng ta, thuộc về nước Chúa, trở nên con dân của Chúa, chân lý này có ảnh hưởng gì đến đời sống chúng ta hay không?
Ngày nay khi nói đến vua là cả một sự xa lạ, vì chế độ quân chủ hầu như không còn tồn tại trên: TN 34-ABC324
Ngày nay khi nói đến vua là cả một sự xa lạ, vì chế độ quân chủ hầu như không còn tồn tại trên thế giới này, nó không còn thích hợp cho não trạng ngày nay. Cho nên từ vua dần dần đi vào quá khứ và quên lãng. Nhưng mỗi năm đến Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, chúng ta lại càng long trọng mừng kính Chúa Kitô Vua, và Đức Kitô Vua cũng là vị Vua với vương triều đã tồn tại, đang tồn tại, và còn tồn tại đến muôn đời. Vì vị Vua mà chúng ta mừng kính không như các vua khác, không áp bức không cai trị theo kiểu các vua trần thế, mà là vị Vua “phục vụ và hiến dâng”, Ngài trị vì trên một cây Thánh Giá, vương miện của Ngài là vòng gai, thay vì huy chương là những sự khạc nhổ và những vết thương của một thân xác đẫm máu. Việc đăng quang của Ngài được thể hiện trước mặt dân chúng, giữa những lồi chế nhạo và sỉ vả, giữa hai kẻ bị đóng đinh thập giá. Đúng là một vị vua không hề giống với quan niệm của người thời nay. Đúng vậy, người ta khó mà chấp nhận một vị vua như thế vì đang sống trong nền kinh tế cạnh tranh, một xã hội thực dụng, đối với họ vị vua phải đứng trên một lãnh vực nào đó như: vua nhạc pop, vua bóng đá, vua dầu hoả... khi nói lên chúng ta thấy đượm mùi danh vọng, địa vị và vật chất.
Nhìn lại vị Vua Giêsu chúng ta thấy Ngài cũng đứng trên đỉnh, nhưng không phải giống như quan niệm của người thời nay mà theo ý Chúa Cha. Ngài chỉ chấp nhận làm Vua để cho người khác, nghĩa là một vị vua hiến dâng, xứng đáng được danh hiệu Vua trên các vua. Điều đó được thể hiện qua cuộc khổ nạn và cái chết, vì chính khi ở trên Thánh Giá Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy tất cả mọi điều Ngài có, Ngài đã cho chúng ta tình yêu mạng sống của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì mà một người có thể trao ban cho người khác, như Ngài đã nói: “Không tình yêu nào lơn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì nạn hữu mình” (Ga 15,13). Ngài đích thực là vị Vua Tình Yêu, Ngài đã sống cho nhân loại và đã chết cho nhân loại. Điều quan trọng không phải là Ngài chết cách nào, hay Ngài đã sống ra sao, mà chúng ta có nhận ra Ngài là Vua Tình Yêu đối với mỗi người và biết cách đáp trả lại tiếng gọi tình yêu ấy mà xin gia nhập Nước Ngài như người trộm lành hôm nay: “Ông Giêsu ơ!khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” và hắn đã trở thành công dân Nước Trời.
Hơn nữa Đưc Giêsu được gọi là vua tình yêu không phải chỉ vì bản tính Thiên Chúa của Ngài, mà còn vì tất cả mọi điều Ngài đã làm:
Ngài đã chết vì chúng ta Ngài đã cứu chuộc chúng ta Ngài đã nối kết chúng ta với Chúa
Và thánh Phaolô cũng diễn tả điều này trong bài đọc thứ hai như sau: “Thiên Chúa đã quyết định giao hoà lại với toàn thể vũ trụ qua cuộc tử nạn hy tế trên thập tự của Con Ngài”. Đó là tất cả ý nghĩa của ngày lễ Kitô Vua hôm nay, đó là điều chúng ta long trọng cử hành vào Chúa Nhật cuối năm phụng vụ này.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ nhìn Chúa vác thập giá và công bố Chúa là Vua chúng con thì chưa đủ; chỉ cuối đầu gọi Chúa là Chúa các Chúa cũng chưa đủ, chỉ ca ngợi Chúa trong ngày hôm nay cũng chưa đủ; chúng con còn phải vác thập giá của mình bước theo Chúa mỗi ngày trong cuộc đời, thậm chí cho dù phải chết trên thập giá nếu đó là ý Chúa muốn. Amen
Ngày xưa, Vua là người được chọn đứng đầu trong một bộ tộc, một đất nước, nhằm đem lại sự ổn: TN 34-ABC325
Ngày xưa, Vua là người được chọn đứng đầu trong một bộ tộc, một đất nước, nhằm đem lại sự ổn định về mọi mặt cho bộ tộc hay đất nước đó. Như vậy, khi đề cử ai làm vua, chắc chắn dân chúng tin rằng người đó sẽ phục vụ dân, bảo vệ thần dân được an cư lạc nghiệp, tránh khỏi những xâm lấn của các thế lực bất công. Vua sẽ giúp họ được tự do hơn. Chắc chắn dân chúng không có ý đưa lên một ông vua chỉ biết lo cho mình, ăn bám, làm bù nhìn và đàn áp dân chúng.
Thế nhưng, thực tế cho thấy, nhiều người lên làm vua để ăn trên ngồi trốc, ỷ quyền ỷ thế, hà hiếp bóc lột dân chúng.
Chúa Giêsu xưng mình là vua, một ông vua thương dân, hy sinh cho dân. Ngài làm vua không phải để cho mình được giàu có, quyền uy, bắt người khác phục dịch nhưng là để phục vụ và đem lại sự sống thật cho dân mình.
Tuy Chúa là Vua, nhưng để tránh sự hiểu lầm của dân Do Thái về một ông vua trần thế, khi đi rao giảng Chúa Giêsu không trực tiếp xưng mình là vua nhưng chỉ tỏ ra những dấu chỉ của một vị vua: là thiên sai, được Chúa sai đến lo cho dân, cứu giúp phần hồn và cả phần xác cho dân chúng như tha tội, chữa bệnh, hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không nhắm chữa bệnh phần xác cho bằng cứu vớt linh hồn bất tử của chúng ta. Người Do Thái có lần muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Ngài biết ý họ nên đã lánh đi nơi khác.
Điều có vẻ nghịch lý là khi ngài được người ta tung hô, ủng hộ làm vua thì lại từ chối xưng vương. Đến khi Ngài bị bắt trói, đưa đến trước mặt vua quan trần thế, lúc đó Ngài xưng cách công khai, rõ ràng mình là Vua. Trước mặt toàn dân, Quan Philatô hỏi Chúa Giêsu nhiều điều nhưng Ngài không đáp lại lời nào. Đến khi quan hỏi câu: “Vậy Ông là vua sao?” Ngài trả lời liền, không chần chừ: Quan nói đúng: Tôi là Vua. Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì những người của tôi đã không để tôi rơi vào tay người Do Thái. Nước tôi không thuộc chốn này. Tôi đến trần gian để làm chứng về chân lý, ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi.(x. Ga 18, 33-37) Vậy ra Chúa Giêsu đến trần gian xưng vương không phải để tranh quyền đoạt lợi của các vua trần gian mà để kêu gọi con người biết tìm kiếm sự thật. Sự thật căn bản và lớn nhất cho loài người là Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài tạo dựng, cho con người có linh hồn bất tử, và sẽ ban thưởng cho những ai biết sống yêu thương theo lời Ngài dạy.
Vua Giêsu của chúng ta tuy quyền phép vô cùng nhưng lại không dùng quyền lực để bắt chúng ta theo ý Ngài. Ngài dùng tình thương và sự hy sinh của Ngài để cứu chữa thế giới. Ngài đã chết cái chết đau thương giữa như người tử tội để chuộc tội cho nhân gian và đánh động lòng nhân thế cho họ nhận ra sự sai lầm của mình mà ăn năn sửa đổi.
Thế nhưng, loài người vì tính ích kỷ kiêu căng của mình đã từ chối nhìn ra chân lý, cố chấp trong thành kiến và tiếp tục dung túng cho tội lỗi. Thế gian tiếp tục ức hiếp hoặc có khi giết chết những người Chúa sai đến là các tông đồ và những người mang danh Chúa cách này cách khác. Thế gian là như vậy đó.
Còn chúng ta là người mang danh Đấng chịu đóng đinh, chúng ta đã tuyên xưng Chúa là Vua của chúng ta ở mức độ nào. Vẫn có những người mang danh Chúa nhưng coi tiền bạc, thời giờ, chức vị quan trọng hơn Chúa nên dễ dàng bỏ đi lễ Chúa Nhật, bỏ kinh sáng tối, chưa thực sự yêu thương anh em mình, chưa thi hành lời Chúa dạy.
Xin Chúa cho chúng con luôn tuyên xưng Chúa là Vua trong tư tưởng cũng như hành động. Nhờ đó, người xung quanh nhận ra Chúa qua mỗi người chúng con và được ơn cứu chuộc.
Vào những ngày mưa, nếu có dịp đứng trước cổng trường, mọi người sẽ được chứng kiến một: TN 34-ABC326
Vào những ngày mưa, nếu có dịp đứng trước cổng trường, mọi người sẽ được chứng kiến một việc làm rất hay. Các học sinh nhỏ tan trường, cho dù trời mưa, chúng cũng vẫn chảy như dòng nước, hướng về cổng trường. Chúng biết rằng: ở nơi đó chúng được bảo vệ và được đưa về nhà cách an toàn, cho dù mưa hay nắng.
Thật thế, những ông vua nhỏ này được đón rước hết sức chu đáo. Những chiếc áo mưa, những chiếc dù chờ sẵn, để bảo vệ những ông vua nhỏ. Còn những người bảo vệ, có người cũng có cái gì đó để bảo vệ mình không phải ướt cũng không phải lạnh, có người không được bảo vệ chút nào, họ đành dùng những giọt nước mưa để bao bọc lấy mình, mà dùng những phương tiện khác để bảo vệ cho ông vua nhỏ của mình khỏi ước. Họ làm như thế với một sự lo lắng trân trọng, không một chút phiền hà, miễn sao người mình bảo vệ được an toàn là họ vui rồi.
Những đứa con nhỏ như những ông vua, còn cha mẹ như những thần dân, sẵn sàng trung thành, cho dù phải hy sinh cả mạng sống.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu là Vua. Nhưng Ngài là vị vua như thế nào?
Nhìn qua bài phúc âm, chúng ta nhận thấy: các thủ lãnh và dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính cũng chế diễu Ngài và đưa dấm cho Ngài uống. Một người chuẩn bị từ giã cõi đời cũng không tha cho Ngài, hắn cũng có những lời chua cay, khiến cho người đồng cảnh với hắn phải thốt lên lời để ngăn hắn lại. Vâng, chỉ có người tử tội biết sám hối, nhận ra được uy quyền của Đấng mà bao nhiêu người mỉa mai khinh dể. Anh ta nhìn thấy những lỗi lầm của mình và anh van xin: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Vị vua không bị kích động bởi những lời khích bát, không bị tức giận bởi những lời xúc phạm, không liều lĩnh bởi những lời nói chẵng ra gì. Vị vua nhân hậu, sẵn sàng tha thứ và đáp ứng nhu cầu cho người cần thiết. Vị vua mà quyền lực trần thế này không thể lung lay được.
Mỗi người sống trên trần thế đều có một vị thủ lãnh của đất nước mình. Mỗi người cũng có một gia đình, có kỷ cương gia đình mà mọi người phải tuân phục. Mỗi người cũng có một vị vua của cuộc sống, mà suốt cả cuộc đời con người sẵn sàng hy sinh cho vị vua đó.
Chúa tể của đời sống chúng ta là gì? Vị vua cuộc đời của mỗi người là gì? Muốn tìm câu trả lời, mỗi người đừng tìm đâu xa, mà hãy nhắm mắt lại, nhìn lại những gì đã qua trong cuộc sống.
Có những lúc, chúa tể chúng ta là những đồng tiền. Nên chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nó. Hy sinh thời giờ, sức lực, những suy tư, cả những người thân, chúng ta cũng dám hy sinh để được những đồng tiền. Đôi khi cả mạng sống của mình, cũng dám đem đánh đỗi những đồng tiền vô nghĩa mà chúng ta đã tôn nó làm vua, làm chúa tể của cuộc sống.
Có những lúc, chúa tể chúng ta là chính bản thân mình, là con người, là cái tôi quá to lớn luôn hiện diện trước mắt chúng ta, để không còn nhìn thấy được gì nữa ngoài bản thân mình. Chính vì vậy mà chúng ta coi người khác không ra gì, chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ cái mà chúng ta gọi là danh dự bản thân.
Có khi nào, chúng ta nhận ra mình yếu đuối, tội lỗi. Nếu chúng ta nhận ra được mình yếu hèn, cần giúp đở, nếu chúng ta nhận ra mình thiếu thốn, nếu chúng ta biết kêu xin Chúa như người tử tội biết sám hối. Khi đó chúng ta mới nhận ra Chúa là vua trong tâm hồn, chúng mới dám để cho Chúa làm vua trong cuộc sống của mình. Khi đó chúng ta mới dám hy sinh tất cả cho vị vua mà chúng ta tôn thờ. Khi đó chúng ta mới dám dùng tình yêu để sẵn sàng bảo vệ vị Vua trong đời sống chúng ta, như người cha người mẹ sẳn sàng hy sinh tất cả vì vị vua bé nhỏ của mình .
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người, nhận ra Chúa trong đời sống, để biết tôn thờ Chúa như vị Vua tối cao và luôn vâng phục trong công việc hằng ngày.
Mỗi Chú Nhật, tôi thường đi mục vụ tham viếng nhà giáo dân, nhằm mục đích quan tâm chăm: TN 34-ABC327
Mỗi Chú Nhật, tôi thường đi mục vụ tham viếng nhà giáo dân, nhằm mục đích quan tâm chăm sóc, gần gũi động viên, chia sẻ để cùng hiểu nhau hơn và sống hiệp thông với nhau. Chúa Nhật vừa qua, đang khi đi thăm viếng thì gặp một đám trẻ chơi trước sân một nhà giáo dân. Có một em nói hư hét vào mặt một em khác: “Tao biết mày là vua bắn bi rồi đừng có dụ khỉ”. Rồi hai em cứ lời qua tiếng lại. Tôi thấy thế liền đến để giảng hòa thì được biết em được gọi là vua chơi môn gì cũng giỏi, cũng thắng., mà em đó cứ rủ hoài nên em kia không dám chơi nữa, mà em là vua cứ rủ hoài rồi có chuyện bực tức cãi nhau.
Qua câu chuyện trên, làm tôi liên tưởng đến suy nghĩ rất đời của con người. Vua thì phải chiến thắng mọi người, đứng lên trên và cai trị tất cả mọi người, nên người ta thường nói: “thắng làm vua, thua làm giặc”. Phải! Đó là một ông vua theo quan niệm trần gian.
Vậy, Chúa Giêsu có phải là Vua không ? Đúng ! Ngài là Vua, Nhưng không phải là một ông vua như thế gian nghĩ, không phải là vị vua làm chính trị, mà là vị Vua của chiến thắng, với “vũ khí” là sự vâng lời, và “binh lính” là tình yêu.
Điều đầu tiên của sự vâng lời là phải biết bỏ ý riêng để theo ý người khác, nhưng từ bỏ ý riêng là một điều rất khó khăn, không khéo nó sẽ làm cho con người rơi vào bực bội giận dữ. Vì vậy, để vâng lời được đòi hỏi ta phải là vua; vua bản thân, vì khi đó là ta đã chiến thắng được nó. Nhìn lại trong suốt cuộc đời Đức Giêsu cũng thế, Ngài là vị Vua tuyệt đối của sự vâng lời, Ngài luôn thi hành thánh ý Cha, có những lúc Ngài phải chiến đấu chính bản thân mình đến đổ mồ hôi, cô đơn tuyệt vọng. Nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả để thiết lập vương quốc theo ý Chúa Cha muốn.
Qua Kinh Thánh chúng ta có thể khẳng định, Đức Giêsu đến trần gian không phải để giải phóng nhân loại như dân Do Thái đã từng suy nghĩ, Ngài không đến để giải thoát họ bằng gươm giáo mà bằng tình yêu, không cứu họ khỏi nô lệ của đế quốc Rô ma, nhưng giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi. Vì thế, trong cuộc sống nếu chúng ta đến với Ngài chỉ vì lợi lộc bản thân, chỉ vì danh vọng ở đời này, thì chúng ta chưa phải là công dân của Đức Giêsu Kitô Vua. Nhưng trong thực tế, người ta hay lấy cái mác công dân nước trời để thức hiện những mưu đồ cá nhân. Tiêu biểu ngày nay đã xảy ra rất nhiều trường hợp lấy vợ gả chống việt kiều, người nước ngoài. Họ cũng học giáo lý đi lễ đầy đủ… nhưng cuối cùng thì sao? Sau khi đạt được mục đích thì thẳng thừng từ chối, nhiều khi còn phản bội, đi ngược lại với nguyên tắc mà công dân Đức Kitô phải giữ, vì lúc đó vị vua trong lòng họ không phải là Đức Kitô nữa mà là sự lừa lọc và mục đích xấu của mình. Do đó chúng ta hãy biết sống theo lời Chúa dạy, phải thật lòng từ bỏ vương quốc tội lỗi luôn cám dỗ mỗi ngày. Chúng ta sẽ trở thành công dân nước trời và được bảo vệ bởi Vua Kitô. Như công đồng Vaticanô II đã khẳng định cho tất cả mọi người “ Nước Chúa Kitô được bảo vệ không phải do bạo lực, nhưng được bền vững do việc lắng nghe và làm chứng cho chân lý, được mở rộng nhờ tình yêu, ai muốn thuộc dân của Ngài, ai muốn làm công dân nước Ngài, cần phải ăn năn hối lỗi tin tưởng vào Ngài, nhận phép Rửa Tội và làm theo những điều Ngài dạy.
Từ ban đầu, Chúa Giêsu đã khẳng định Ngài không là vị Vua làm chính trị nhưng Ngài là Vua trên các vua, điều đó đã được nhắc đến khi Ngài đồng ý với Philatô: “Đúng như ông nói”. Rồi Ngài cũng cho Philatô biết thêm: “Tôi là Vua nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian này”. Ngày đã đồng ý cho dân chúng tung hô, tiếp rước như một vị Vua trong ngày khải hoàn ngoài thành Giêrusalem trong dịp lễ lá. Là vị Vua của mọi người, nên công dân nước Ngài đủ mọi thành phần dân tộc; tội lỗi có, xấu xa có, thánh thiện có, gian ác có… Đất nước Ngài thì phổ quát không có ranh giới. Vì thế, qua bài Tin Mừng cho ta thấy, chỉ một lời nói thật lòng như tân trộm lành:” Ông Giêsu khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” Thì tên trộm liền được trở thành công dân nước trời “Hôm nay người sẽ ở trên Thiên đàng làm một với ta”.
Lạy Chúa, khi con biết từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng là con đang chiến thắng. Khi con biết vâng theo ý Chúa là con đang trở thành công dân nước Ngài. vậy xin cho con là người công dân tốt trong nước Chúa.
Nói đến danh từ vua thông thường chúng ta sẽ nghĩ ngay đến: “ Quân xử thần thử thần bất: TN 34-ABC328
Nói đến danh từ vua thông thường chúng ta sẽ nghĩ ngay đến: “ Quân xử thần thử thần bất tử bất trung ” . Oai quyền của vua thật là ghê sợ. Lệnh vua ban xuống mọi người nhất nhất phải thi hành. Nếu không tuân theo thì mạng sống khó được bảo đảm, thậm chí coi chừng bị “ tru di tam hay cửu tộc ” . Sống trong vương quốc như thế có thể nói thà chết còn hơn. Sống mà chẳng được chút tự do nào của một con người nữa. Có phải tất cả các vị vua đều như thế không? Chắc chắn cũng có nhiều vị vua biết thương và lo cho dân. Đặc biệt có một vị vua nhắc tới thì ai cũng phải kính phục và ham thích. Đó là Giêsu - Vua tình yêu.
Đoạn Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm trong ngày lễ hôm nay cho thấy vua Giêsu đến giờ đăng quang của mình. Ngai vàng của Người chính là cây thập giá. Trước mắt người đời đây là một sự thất bại hoàn toàn. Một vị Thầy đã từng có bao nhiêu người đi theo ngưỡng mộ nhưng giờ đây chẳng còn ai bênh vực. Một trong mười hai người thân cận nhất đã bán mình với giá tương đương với một tên nô lệ. Những Tông đồ thân tín còn lại cũng đã trốn mất. Có ông Phêrô đi theo xa xa và rồi cuối cũng đã chối Thầy đến ba lần. Ngay cả tên trộm cùng chịu đóng đinh cũng đã chế nhạo Người: “ Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!" (Lc 23, 39b)
Lúc bấy giờ chỉ có tên trộm kia đã nhận ra được vương quyền thật của Chúa Giêsu. Anh ta đã không ngần ngại mà thưa cùng Chúa Giêsu: “ Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! ” (Lc 23, 42b). Chúa Giêsu đã đáp lại lời ao ước của anh: “ Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43b)
Vương quốc của vua Giêsu không thuộc thế gian này và không sức mạnh nào có thể phá hủy được. Lề luật duy nhất trong vương quốc nay là luật yêu thương. Yêu thương hiến trọn thân mình vì và cho người khác. Nhất là cho những người bất hạnh và kém may mắn.
Một trong ba sứ mạng mà người tín hữu đã nhận khi chịu phép Rửa tội là sứ mạng làm vua. Làm vua không theo kiểu “ quân xử thần tử ” mà làm vua theo kiểu mẫu của vua Giêsu. Phục vụ tự hiến mạng sống mình cho người khác. Do đó, mỗi tín hữu được kêu gọi làm vua của nhau. Trong gia đình với tư cách làm ông làm bà, làm cha làm mẹ, làm anh làm chị hay là thành viên trong một tập thể nào đó. Hãy xin vua Giêsu cho chúng ta có tinh thần hy sinh, biết cho đi. Sống hết mình cho và vì người khác. Khi sống như vua Giêsu - Vua tình yêu chắc chắn chúng ta sẽ được cùng Người bước vào vương quốc vĩnh cửu.
Nếu bạn đã từng đọc những truyện ngắn của cố nhà văn Nam Cao, chắc bạn không quên câu nói: TN 34-ABC329
Nếu bạn đã từng đọc những truyện ngắn của cố nhà văn Nam Cao, chắc bạn không quên câu nói của một nhân vật: “Kẻ mạnh không phải là kẻ đạp lên vai người khác, nhưng kẻ mạnh là kẻ nâng người khác trên đôi vai của mình”. Đây quả thật là một câu nói rất gần tinh thần bác ái Kitô giáo, mà ngay cả những người Kitô hữu thực thụ có khi còn chưa nghĩ đến, nói gì là hành động.
Thói thường mạnh được yếu thua, khôn nhờ dại chịu. Người ta chà đạp và sẵn sàng loại trừ nhau để dành quyền lợi cho riêng mình chớ nào ai hy sinh để nhường chỗ cho người khác. Khi viết ra câu nói trên tức là Nam Cao đã vượt qua được cái tôi ích kỷ của riêng mình. Thay vào đó là một khát khao muốn sự lành cho tha nhân, cho kẻ yếu hơn mình. Nam Cao đã vọng lại chân lý: “Đến để phục vụ” của Vua Kitô.
Phúc Âm hôm nay thuật lại một chi tiết rất cảm động trong những hơi thở cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá. Người đã tha tội và hứa thiên đàng cho người trộm lành. Trong khi đó, những kẻ mạnh mẽ, uy quyền khác đang ra sức chế nhạo, giễu cợt Người: “Hắn đã cứu người khác thì hãy tụ cứu mình đi!”. Với năng quyền của mình, Chúa Giêsu hoàn toàn có thể bước xuống thập giá, hoàn toàn có thể thay đổi được tình hình mà không cần bất cứ sự trợ giúp nào. Nhưng Ngài không muốn dùng quyền năng của mình để tranh đấu cho bằng tình yêu và sự tha thứ để thu phục.
“Đây là Vua dân Do thái” (Lc 23,38). Đó là thông tin duy nhất người ta đóng vào thập giá của Chúa Kitô. Vâng, người ta không viết sai và chính Chúa Giêsu đã xác nhận điều nầy (x. Mc 15,2). Ngài không chỉ là Vua của dân Do thái mà Ngài còn là Vua của muôn vua, Vua của vũ trụ. Thế nhưng, ngai vàng và vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian nầy (x. Gn 18,36). Ngài không đến thế gian để huy động lực lượng xưng hùng xưng bá, để cai trị, nhưng Ngài đến để ủi an, chữa lành những tâm hồn đau thương (x. Mc 6,53-56). Ngài dùng quyền năng của mình để nâng đỡ và bênh vực. Ngài cũng không đến để kết án mà để tha thứ (Gn 8,2-11).
Ngài không giống bất cứ một vị vua trần thế nào. Ngài là Thiên Chúa nhưng không nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã vâng phục Thánh ý Chúa Cha cho đến chết để cứu con người. Ngài đã nhận lấy thân phận con người, sinh ra trong khó nghèo, ở một nơi chẳng có gì là cao sang quyền quý, dạy dỗ, chữa lành cho nhiều người…Nhưng cuối cùng con người trả ơn cho Người bằng cách đóng đinh Người ngang hàng với hàng trộm cướp! “Dân ta ơi, Ta đã làm gì cho ngươi, hay Ta đã làm phiền chi ngươi?...” Trách thì trách vậy, nhưng chính trên thập giá Người đã van xin Cha “tha tội cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Trong suốt 33 năm sống kiếp con người, chưa một lần Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho riêng mình. Ngay chính lúc nguy hiểm nhất Ngài cũng ra sức bảo vệ cho người khác (x. Gn 18,8). Vua Giêsu là thế đó! Vua thí mạng cho thần dân của mình!
Người Ki tô hữu không được xấu hổ vì hình ảnh ghê rợn của Vua mình trên thập giá mà phải tự hào và lấy đó làm đích điểm hướng tới. Vì đó là dấu chứng một tình yêu trọn vẹn nhất, hoàn hảo nhất.
“Đây là Vua dân Do thái”. Chúa Giêsu là Vua không sai, nhưng là vị vua không thích bạo động, không thích dùng vũ lực. Chính vì thế mà cái chết của vị Vua nầy mới có giá trị và trở nên đuốc sáng soi bước cho nhân loại. Một cái chết quá lạ thường đã làm đảo lộn mọi cái thường tình của con người.
Lãnh tụ Randhi đã cứu dân tộc Ấn độ cũng bằng con đường ấy, con đường bất bạo động. Thánh nữ Monica có bao giờ đánh đập Augustinô đâu! Không những bà đã dạy bảo được Augustinô mà còn giúp ngài nên thánh nữa! Mẹ Têrêsa Calcutta chẳng phải đã chiếm trọn trái tim của nhân loại bằng một tình yêu vô vị lợi đó sao? Đức cố Hồng y Fx. Phan văn Thuận có bao giờ nguyền rủa và tìm cách trả thù những người hãm hại mình bao giờ! “Người ta đâu có quyền diệt trừ một sự dữ trước mắt bằng một đường lối có thể đem đến một sự dữ tàn khốc lớn hơn” (Thông điệp “Phát triển các dân tộc”, số 31).
Thánh Mônica, Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Hồng y Fx. Thuận, lãnh tụ Gandhi đã trở thành anh hùng của mọi thời đại. Các vị ấy không lấy uy quyền để thu phục, không dùng sức mạnh để đấu tranh, không dùng tài năng để trục lợi cho mình mà dùng chính con tim biết yêu thương và trao ban của mình. Đó là quyền lợi của người mạnh, biết dùng chính sức mạnh của mình để nâng người khác lên, như chính Chúa Giêsu đã dùng sức mạnh của Thiên Chúa để cứu chuộc con người. Lạy Vua Giêsu, xin ban cho con một con tim biết yêu thương, một tinh thần phục vụ anh em mình.
Hôm nay là Chúa Nhật cuôi cùng của năm phụng vụ, Hội thánh dành để kính Chúa Giêsu, Vua: TN 34-ABC330
Hôm nay là Chúa Nhật cuôi cùng của năm phụng vụ, Hội thánh dành để kính Chúa Giêsu, Vua vũ trụ. Kinh thánh thì kể Ngài là dòng dỏi Vua David. Hội thánh thì tôn vinh Chúa Giêsu, Vua muôn loài, nhưng bài TM hôm nay lại cho thấy hình ảnh một vị Vua thua cuộc, thất thế, bị kết án như một tử tội, bị lăng mạ bởi thần dân của chính mình. Thực ra, Chúa Giêsu vẫn là Vua, còn là Vua độc nhất vô nhị, Vua cao cả nữa. Ngài mãi mãi muôn đời vượt trên các vua chúa trần gian… Đây chính là điều Hội thánh muốn chúng ta cùng suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay. Kính mời anh chị em….
a/. Kinh thánh nói thế nào? Do lời thiên thần Gabriel truyền tin cho Đứa Maria (Lc 1,32): Con Đấng Tối Cao ; – Ba nhà đạo sĩ tới triều bái Vua mới sinh (Mt 2, 1) ; – Hêrôđê lo sợ lùng tìm giết (Mt 2, 3+); – khi đi ra rao giảng, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua (Gn 6, 15) – dân Do thái tố cáo Ngài tự xưng là Vua (Gn 19, 19): - Chúa nhận mình là Vua trước Philatô (Mt 27, 11); - Chúa thực là Vua trên các vua trần thế (Kh 1, 15).
b/.Vương quyền của Vua Kitô là gì? Chúa khẳng định Nước Ngài không thuộc thế gian này (Gn 18,3); Chúa cũng không muốn làm Vua ở trần gian (trốn lên núi khi dân muốn tôn làm vua : Gn 6, 15); Chúa đến trần gian là để xóa bỏ tội lỗi, xua đuổi ma quỉ, giải thoát con người (Gn 3,17); Chúa có trước mọi loài … và mọi loài đều nhờ Chúa mà có (Col 1, 16); Chúa có quyền trên thiên thần, sóng biển, hóa bánh ra nhiều, hóa nước thành rượu, chữa mọi bệnh tật, cho cả kẻ chết sống lại; Chúa là Đấng lập Lề luật: 10 điều răn – 8 mối phúc – giới răn yêu thương – bất khả phân ly hôn nhân (Lc 16, 18); Chúa có quyền tha tội và phán xét mọi loài (Mt 25, 31).
c/. Nước của Chúa Kitô là gì? là Nước công bình – hạnh phúc – an vui – yêu thương, tha thứ (Rm 14, 17); là Nước của Sự thật trọn vẹn không giả dối (Gn 18, 38); Nước Chúa gồm những ai tin nơi Chúa (Gn 2,1), dĩ nhiên Nước Chúa không ở trong trần gian này; Chúa dùng nhiều hình ảnh chỉ về Nước Chúa (dụ ngôn): người gieo giống – hạt giống âm thầm mọc lên – hạt cải – men trong bột – người mua ngọc quí – cỏ lùng – tiệc cưới hoàng tử .
d/. Ai được vào Nước Chúa? Là người biết hi sinh từ bỏ - sẵn sàng đón rước Chúa như 5 cô khôn ngoan đi đón chàng rể - phải cố gắng xây nhà trên đá – phải có tâm hồn nghèo khó, đơn sơ, bác ái – phải mặc áo cưới – hoán cải và sinh hoa trái – tôn vinh Chúa và sống tâm tình người con, qua kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính.
c/. Suy niệm: Cha Teillard Chardin, một Lm dòng Tên, nhà khảo cổ, vừa là nhà nhân chủng học đáng kính của tk 20, với những công trình khám phá to lớn của ngài. Người ta kể: lúc ngài lên 5 tuổi, ngài lo âu đi tìm một thứ vật chất nào trong vũ trụ mà bền vững, không hư hoại…Cuối cùng ngài nói: có kim loại, có sắt là bền vững, nhưng khi ngài chạy vào cánh đồng, thấy một thanh sắt bị rỉ sét, ngài òa lên khóc: thực ra vật chất không có thứ nào là vĩnh cữu cả….
Đúng vậy, vũ trụ này, kể cả con người đều bất toàn và hữu hạn. chỉ có Nước Chúa mới vĩnh cữu và hoàn hảo; vậy mà con người và vũ trụ này lại là công trình của Thiên Chúa. Cho dù nó có sai lầm tội lỗi, bất toàn, nó đã được Thiên Chúa yêu thương, đã được Chúa mua chuộc bằng giá Máu của Con Chí Ái của Chúa. Con người không còn thuộc về chính mình, mà đã được mua, đã thuộc hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Vậy thì con người thần phục Thiên Chúa, gọi Chúa là Vua, là Cha tình thương, đều đó có gì là sai? Hay phải nói cái sai của con người chính là vì ngu xuẩn và kiêu căng, nên đã từ chối không gọi Chúa là Vua, không dám nhìn nhận Chúa là Cha mình, do tự ái hảo, và do lầm lạc, ngu muội ….
Chúa nhật hôm nay, Hội thánh muốn chúng ta nhìn lại rõ thân phận và mục đích đời người, nhất là muốn ta nhìn lại, mình đã cố gắng ra sao để trở nên tạo vật mới, để xứng đáng được vào Nước Trời hay chưa? Ta đã sẵn sàng nhìn nhận Chúa Kitô là Vua của chúng ta không?
Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo hội lại chọn đoạn: TN 34-ABC331
Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo hội lại chọn đoạn Tin Mừng thuật lại biến cố Chúa Giêsu chịu đóng đinh nhục nhã trên thập giá. Có thể nói, đây là đoạn Tin Mừng diễn tả sự kiện nhục nhã nhất trong cuộc đời Đức Giêsu ở trần gian. Và để có thể hiểu đưởc ẩn ý thâm sâu về ý nghĩa của việc tôn kính Đức Giêsu là vua được chứa đựng trong Tin mừng, chúng ta hãy tìm hiểu những đoạn sách thánh mà Giáo hội chọn đọc hôm nay.
Bài đọc i. 2 Sam 5,1-3 gợi lại hình ảnh Đavít, một vị vua anh inh lừng lẫy trong lịch sử Do thái. Đavit đã được tiên tri Samuel đến tận nhà ở Bêlem xức dầu phong vương khi ông ta còn đi chăn chiên. Sau khi vua Saolê chết, Đavit được chi họ Giuđa xức dầu phong làm vua của họ tại Hebron , miền nam xứ Do thái. Và hôm nay, chúng ta thấy một lần nữa ông lại được các kỳ lão của các chi họ miền Bắc (Israel), sau khi những người kế vị của Saolê chết hết và họ ngưỡng mộ tài đức của Đavit, đến xin ông làm vua của họ nữa, nghĩa là vua của toàn thể các chi họ Israel.
Nhưng nếu chúng ta nhìn lại lịch sử Do thái, thì không phải đương nhiên các chi họ miền bắc thuộc dòng dõi nhà Saolê chịu Đavit làm vua trên họ mà cà hai bên phải trải qua 7 năm chinh chiên khốc liệt.
Từ khi Saolê chết, thế lực trong nước Do thái chia đôi. Ở miền bắc xứ Do thái thuộc về quyền lãnh đạo của dònh dõi Saolê và con ông Ishabal làm vua, Abner làm đại tướng chỉ huy quân đội. Còn ở miền nam, Đavít làm vua trên chi tộc Giuđa bé nhỏ. Và hai thế lực này dằn co liên tiếp suốt 7 năm với nhiều cuộc chiến thảm khốc.
Nhưng thế lực của nhà Đavít có phần chiếm ưu thế hơn. Có thể nói trong đời Đavít, ông đã bỏ qua ít nhất 3 cơ hội làm vua thống nhất Israel . Lần thứ nhất, ông đã tha chết cho vua Saolê khi săn lùng giết ngài, lần tứ 2 khi tướng Abner chết và lần thứ 3 khi con của Saolê là Ishbaal vua miền bắc bị ám sát. Điều đó cho thấy Đavít không muốn làm vua bằng sự ap đặt của vũ lực. Cái mà ông muốn thống nhất Israel là chinh phục bằng tình thương, sự ngưỡng mộ thật sự của dân tộc. Ông không muốn người ta sợ ông qua uy quyền, và cacng2 không muốn bước lên ngai vàng bằng binh hùng tướng mạnh và tài trí kiệt xuất của mình. Rõ ràng Chúa đã xức dầu phong vương cho ông qua tiên tri Samuel nhưng không vì thế mà ông tìm dịp hay lợi dụng mọi cơ hội, thủ đoạn để chiếm ngai vàng. Ngưỡng mộ trước tài đức đó mà hôm nay chúng ta thấy trong bài đọc I, các chi tộc miền bắc đến xin ông laàm vua trên ọ nghĩa là vua thống nhất Israel . Và những lý do họ nêu ra để xin Đavit làm vua lãnh đạo họ: Đavit là anh em với họ, tuy là người đồng bào ruột thịt của họ cho dù khác chi tộc nhưng cùng là dân Israel . Ngay khi Saolê còn sống, chính Đavit từng là tướng lãnh đạo, là người đã vào sinh ra tử với họ và đặc biệt chính Chúa đã xức dầu chọn Đavit làm vua để chăn dắt Israel .
Chúng ta thấy Đavit có nhiều điểm có thể làm hình ảnh báo trước về vương quyền của Chúa Kitô hôm nay. Tin Mừng thuật lại thảm kịch của cuộc đời Chúa Giêsu qua cái chết trên thánh giá. Có thể nói, đây là những giây phút tủi nhục nhất trong cuộc đời dương thế nhưng đây cũng là sứ mạng quan trọng nhất mà Chúa đến thế gian. Trước nhục hình đau đớn nhục nhã trên thập giá và những lời nhạo báng của người qua lại, thậm chí kẻ cùng chiục kết an với Ngài cũng nhạo báng Ngài. Chắn chắn Chúa Giêsu cũng đau đớn lắm. Và theo bản năng tự nhiên, Ngài cũng sợ hãi và muốn trốn tránh những đau khổ này. Ngài có thừa khả năng xuống khỏi thận giá với con người sáng láng như trên núi Tabor để trừng trị cho đám người hổn láo một bài học thích đáng. Nhưng Chúa không muốn người ta khiếp sợ Ngài chỉ vì uy quyền. Như thế là trái với ý định cứu độ của Thiên Chúa Cha.
Cũng như rất nhiều lần ngưỡng một trước quyền năng của Ngài mà người ta muốn tôn Ngài làm vua. Nhưng Ngài không muốn người ta hiểu Ngài như một vị vua trần thế. Vương quyền của Ngài không giống với vương quyền của caác vua chúa trần gian khác. Ngài làm vua không nhằm vinh danh mình nhưng chỉ vì người khác. Ngài làm vua giữa chúng ta, nhưng không ngai vàng, cung điện, vương miện và vương trượng để biểu dương quyền lực. Nhưng có thể nói ngai vàng và cung điện của Ngài là cây thánh giá và tấm bánh nhỏ bé mà người ta có thể dùng như một món ăn, vương miện của Ngài là mão gai, vương trượng để biểu dương quyền lực chính là con tim bị đâm thủng để mọi người có thể thấy và hiểu được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Chúa Giêsu là vị vua nhưng không phải để người sống cho Ngài nhưng Ngài đã phải hy sinh mạng sống mình mà cứu chuộc dân Chúa, và phải qua cái chết nhục nhã vì nhân loại đã tôn vinh Ngài làm vua trên trời dưới đất. Khi Chúa Giêsu được đặt lên làm vua trên trời dưới đất chính là lúc Chúa quy tụ mọi loài trở về qui phục Đức Chúa Cha, lập thành dân Chúa thống nhất. Chúa Giêsu, Vua của chúng ta đã chết để cứu chúng ta khỏi tay ma quỉ và hằng ngày vẫn luôn hướng dẫn chúng ta bằng Lời Chúa, nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Mình Máu Ngài.
Vương quyền của Chúa là vương quyền để cứu vớt, để mang lại hạnh phúc. Như khi người trộm lành nhờ tới Chúa, Chúa liền lấy quyền ấy mà cứu vớt anh ta. Và cũng có thể nói, chính giờ phút trên thánh giá là giở vinh quang nhất, giờ chiến thắng nhất trong việc hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại.
Ngày nay, nhiều người, ngay cả trong chúng ta cũng có người đòi hỏi, thách thức Chúa: nếu Chúa thật là Vua của chúng ta, thì xin Chúa hãy phá tan đi những nỗi bất công, những thiệt thòi của dân Chúa, chiến tranh, đau khổ …. Nếu Chúa Kitô có quyền thật sự, xin Chúa làm cho chúng ta có một đời sống tốt đẹp hơn …. chúng ta sẽ tin theo Người.
Chúa không bao giờ làm phép lạ để đáp ứng những đòi hỏi đó. Điều mà Chúa đã làm và muốn chúng ta làm là hãy học gương Chúa bằng đời sống chứng ta cho một tình yêu quảng đại xả thân vì anh em. Vì tước hiệu vương giả của Đức Giêsu không nằm ở chỗ trỗi vượt các vua chúa trần gian khác về quyền bính thống trị. Nhưng Ngài trỗi vượt về phương diện tình yêu hiến tế, về việc tuân phục thánh ý Chúa Cha cách tuyệt đối. Ngài là vua đứng đầu về lòng vị tha, phúc vụ, hiến mạg sống vì tha nhân.
Vì thế được tham dự vào tước hiệu vương giả của Đức Kitô qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi sống trỗi vượt trong thế gian về lòng tin, lòng mến và sự vâng phúc Thiên Chúa, trỗi vượt người khác về tình yêu anh em đồng loại. Có như thế chúng ta mới xứng đáng bước vào vương quốc vĩnh cữu của Vua Giêsu, vương quốc chỉ dành những con người biết yêu thương, quên mình phục vụ nhân loại.
Dòng đời nhiều khi chỉ thấy như một dòng thác loạn, với những nhịp xung đột, làm thâm gan, tím: TN 34-ABC332
Dòng đời nhiều khi chỉ thấy như một dòng thác loạn, với những nhịp xung đột, làm thâm gan, tím mật, mờ mắt, nát óc, điên đầu, bạc tóc... và chảy thành những vết nhăn theo dòng lệ muộn phiền.
Tự nhiên cái bị xô xe gẫy chân. Tự nhiên cái bị mất việc do chèn cựa hất cẳng. Tự nhiên cái được tin bị bệnh đến hồi nguy kịch. Tự nhiên con cái sinh tật bất thường làm mất ăn mất ngủ. Tự nhiên cái bị ném vào cuộc chiến phi lý, tan cửa nát nhà, bỏ chạy lang thang ăn nhờ ở bám như những kẻ vô loài trên mặt đất. Tự nhiên cái bị ăn đòn, do vòng hệ lụy nghiệt ngã "cũng vì tan tác nên nhăng nhố", do phản ứng gỡ gạc chôm chỉa tí danh hão cho bớt tủi, chộp giật chút phù du bù trừ những thiếu hụt mất mát một cách tội nghiệp trước khi lăn ra giẫy chết. Nhiều chuyện trời ơi đất hỡi tương tự như vậy xẩy ra, vượt qua hết mọi tính toán, làm sao tìm được nhịp vũ an nhiên?
DÒNG AN GIANG TUNG TĂNG MÚA HÁT
Ấy vậy mà vẫn có những dòng sông êm đềm thanh lặng, phong lưu thanh thản, thành nhịp vũ Sông An, Sông Thanh, Sông Ngọc. Có thể là một dòng sông trong tâm tưởng, dòng sông trong tiềm thức Việt tộc từ khi hiện hữu. Có thể là dòng sông tuổi nhỏ, dòng sông chuyển chất sống nguyên sơ từ Nguồn Miên Viễn, nối lại cuống nhau đã một lần bị đứt, khi tìm về "tắm mát ngọn Sông Đào", trong những phút giây bồi hồi thấy mình hụt hẫng, như điệu Tống Biệt Hành của Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trong mắt mình, hình ảnh một dòng sông tuổi nhỏ đang hiện lên. Đó là dòng An Giang hồi còn thi tiểu học ở trường Thoại Ngọc Hầu miệt Long Xuyên. Từ công viên Nguyễn Du phố hiền, mình ngồi nhìn xuống dòng Sông An mà ngâm nga một bài hát quen thuộc:
Dòng An Giang sông xanh nước biếc, Dòng An Giang tung tăng múa hát, Lả lướt về qua Thất Sơn, Châu Đốc dòng sông uốn quanh, Đã mấy mùa xuân thái an.
NGHE ĐẦU NGUỒN THÁC DỘI
Nhưng rồi dòng đời vẫn tiếp tục chảy đi muôn nẻo, trườn qua không gian, xuyên thủng thời gian. Từ Sông Dương Tử cái nôi Việt tộc, xuống Sông Hồng, vượt Sông Hương, về Sông Chín Con Rồng, qua bắc Mỹ Thuận, Vàm Cống, vào kênh G "ăn cá nướng trui ngày mưa". Bây giờ thì dòng sông Việt đã vượt mũi Cà Mau chảy đi khắp thế giới. Có thể là dòng Mississippi uốn lượn vòng quanh thành phố "Vành Trăng Khuyết" (Crescent City) New Orleans. Có thể là dòng suối Adobe chảy róc rách dưới chân Đồi Cao Los Altos vùng vịnh San Francisco, hay dòng sông Từ Tâm (Merced River) rì rào rủ đi từ Mariposa theo đường 140 lên vùng núi rừng Yosemite với ngọn Nửa Vòm (Half Dome) đẹp sửng sốt ở Bắc Cali, để "nghe nặng từ tâm lượng đất trời."
Vẫn chỉ là một dòng sông thôi, qua nhiều nhịp múa. Sông sâu vốn là tổ của Rồng, nét văn hóa biểu tượng nội lực tiềm ẩn, tuôn chảy từ nguồn sinh lực đất trời. Cũng như núi là tổ của chim Tiên, biểu tượng của siêu thoát tinh thần. Hình ảnh chim trong "Vũ Khúc Thăng Ca" cần nhập thế với rồng theo "Nhịp Múa Sông Thanh" phát sinh lực tình, như truyện thiêng gốc rễ của Việt tộc qua lời Lạc Long Quân: "Ta đem năm mươi con về Thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi con theo mẹ ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau."
Có khi là nhịp êm ả của bài ca dao vùng quê mẹ ướp đượm tình yêu gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau. Có khi là điệu giật giật Rock N' Roll thời mới làm lỏng mạch máu, bong thần kinh, sập mái ấm. Có thể là điệu lên mặt của ông vua điện toán Bill Gates toan tính độc quyền mở "Cửa Sổ" (Windows) vào thế giới. Có thể là điệu Michael Jordan đi giầy Nike nhún nhảy tung banh vào rổ, để khiêu khích lũ trẻ thêm thèm khát ham hố thành mồi ngon cho đám lái buôn.
Vậy mà nhà thơ Du Tử Lê vẫn nghe ra được "Âm Thanh của Thinh Lặng" (The Sound of Silence) kiểu Paul Simon, qua lời tình thỏ thẻ của dòng Sông Ngọc diễn thành điệu vũ:
Cúi xuống một dòng sông nghe bước đời êm ả lắng xuống một mùa đông lá người bay lả tả... cúi xuống một dòng sông nghe chiều vàng khép cửa ghế đợi, hồn bao dung vỗ yên đời lang bạt. cúi xuống một dòng sông thì thào dòng tóc gọi giữ lấy những đời mưa cho mát đời khô, ải. cúi xuống một dòng sông nghe đầu nguồn thác dội giữ lấy một vầng trăng dành tặng chàng: sắp tối.
Forrest Gump trong một phim thành công vượt bậc, đã luôn tin lời mẹ, nhìn dòng đời với đủ nhịp màu sắc kết thành cầu vồng: "Chết cũng là một phần của đời sống." Họa sĩ Vincent van Gogh trong những lúc quằn quại tăm tối nhất bỗng dưng thấy được dòng sinh lực vẫn đang múa nhảy uốn lượn chảy tới, và ghi lại thành bức tranh Đêm Sao (Starry Night) nổi tiếng, trị giá cả mấy chục triệu Mỹ kim. Giữa bầu trời đen thăm thẳm kia, một dòng ánh sáng đang cựa mình tuôn chảy, không gì có thể cản trở được nữa.
Một hôm đang đi giúp người tỵ nạn với quá nhiều khổ đau đến chán chường vô vọng như kiệt sức, Karanzakis bỗng thấy phía trước tàu một con cá heo phóng mình thật cao lên khỏi mặt nước, nhẹ nhàng, uyển chuyển như một điệu vũ. Con mắt của Karanzakis chợt bừng mở: sinh lực đất trời đây rồi, những gì nhỏ hẹp kiệt quệ hốt nhiên được mở tung ra, không còn gì có thể ghì lại được nữa.
THỜI ĐIỂM GIỮ ĐỜI CHO NHAU
Những đợt sóng nhấp nhô lên xuống, xô tới đẩy lui, những bèo bọt cuộc sống cứ nối tiếp nổi trôi, nhưng dòng Sông Tình vẫn chảy. Đó là dòng Thần Lực từ Cội Nguồn Miên Viễn.
Thi sĩ Du Tử Lê đã từng tâm sự: "Càng ngày, tôi càng thấy rõ, mỗi chúng ta, hiện diện trên mặt đất này, để hoàn tất một công việc nào đó, mà Thượng Đế đã chọn sẵn cho từng cá nhân... Ngợi ca tình yêu, qua chiếc cầu văn học nghệ thuật, với tôi, là công việc của văn nghệ sĩ. Cá nhân nhỏ mọn của tôi, là giúp cho những người đọc tôi, qua thi ca, cảm nhận ra rằng khởi tự tình yêu mang tính cá nhân, gia đình, người ta sẽ có tình yêu tổ quốc, và rộng hơn nữa, tình nhân loại. Khi bước tới tình nhân loại, là bước gần tới ánh sáng của Thiên Chúa, của Thượng Đế vì, nhân loại, dù màu da, khu vực địa lý nào, cũng đều là con cái của Chúa cả. Tôi cảm nghiệm được điều đó khi đọc "Vũ Khúc Thăng Ca" của Lm. Trần Cao Tường: một người sẽ không yêu Chúa, nếu không biết yêu cha mẹ, dòng tộc của mình."
Đúng thế. Mọi đường hướng triết lý, văn hóa, văn học, nghệ thuật, mang tính đích thực, đều nhằm thăng hoa con người sống cho đúng cỡ người, biết hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Đạo Chúa cũng có nét giống như các tôn giáo, là những "ngón tay chỉ mặt trăng" hay những "cái bè chở qua sông", đi về Cõi Một, tìm lại Chân Ngã, Bến Đậu Vĩnh Hằng, Cội Nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Nhưng cái khác biệt căn bản của Đạo Chúa là cảm nhận Quê Hương Hằng Thể không như một khối lực vô vi tẻ lạnh đến rợn người, mà là một Ngôi Vị Thượng Đế Tình Yêu có sức làm ấm áp cõi lòng và rung động con tim. Như Thánh Kinh đã loan báo: Thiên Chúa là Tình Yêu.
Người nghệ sĩ đã từng "giảng Phúc Âm buồn", do chứng nghiệm "hoa nào tin quả đắng đến không ngờ", qua những nhịp tình hụt hẫng, thì cũng chính là lúc biết "giảng Kinh Tình Yêu", nếm được vị ngọt của chất Đạo. Điểm gặp gỡ đây rồi: Có nhiều nhịp tình, nhưng chỉ có một Dòng Tình, do một Nguồn Yêu. Chân, Thiện, Mỹ, là tâm hướng của con người, nhưng Tình Yêu là tất cả.
"Giữ Đời Cho Nhau" là bài thơ tuyệt vời ngợi ca tình yêu của Du Tử Lê, đã được hai nhạc sĩ tên tuổi là Phạm Duy và Từ Công Phụng phổ nhạc, và đã được xuất bản trong tập "k. khúc của lê", gồm gần 60 bài hát với 34 nhạc sĩ chắp thêm đôi cánh cho thơ Du Tử Lê "bay bổng được vào thế giới âm thanh", mà cảm ơn Thượng Đế là Người Tình, vẫn luôn khấp khởi đi xuống cuộc đời, diễn một vũ khúc qua mọi nẻo mọi nhịp trầm bổng, xuống lũng lên đồi, để biến tất cả thành Nhịp Vũ Sông Ngọc, Sông An, Sông Thanh.
Vậy xin được đổi một lời thành chữ ai trong bài thơ "Giữ Đời Cho Nhau" để mà ngợi ca Người Tình Muôn Thuở trào tuôn chất Đạo nhiệm mầu:
Ơn ai thơ dại từ trời Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi. Ơn ai dáng mỏng mưa vời Theo ta lên núi về đồi yêu thương.
Chẳng lạ gì mà Thánh Kinh trong Khúc Hát Dâng Tình đã từng rung lên lời yêu đương với con mắt thấy được dòng lực tình là chính Thiên Chúa mãnh liệt vô cùng, có sức vượt qua tất cả, biến đổi tất cả.
Người yêu tôi trông kìa đang tới Người vượt đèo, lội suối, băng ngàn. (Diệu Ca 2:8)
TIN VUI KHAI MỞ DÒNG SÔNG LỰC TÌNH
Trong đạo Chúa có một công án rất nghịch thường, nhưng cứ quan chiêm sẽ đạt giác ngộ: đó là Thập Giá. Chúa Giêsu là Đấng đến để giải thoát nhân loại, thì lại bị đóng đinh xử tử. Vậy thì còn cứu ai được?! Thật là mâu thuẫn. Kinh Thánh ghi lại rõ:
Nhiều người đứng gần đó mà quan sát. Riêng các vị thủ lãnh thì cười nhạo mà nói: "Hắn đã cứu kẻ khác, cứ để hắn tự cứu lấy mình, nếu quả hắn là Đức Kitô của Thiên Chúa, vị được chọn." Cả binh lính cũng chế diễu Người. Chúng tiến lại gần mà dâng rượu chua cho Người mà nói: "Nếu ông là vua Do Thái, hãy tự cứu lấy ông." Phía trên đầu Người có một tấm bảng đề rằng: 'Đây là Vua dân Do Thái.'
Một tên trong số phạm nhân bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người rằng: 'Ông là Đức Kitô hả! Hãy cứu lấy thân ông và bọn chúng tôi'". (Luca 23:35-39)
Chúa Giêsu xem ra là người thua cuộc, mất tất cả, bị lột trần tất cả: uy quyền, thể diện, thành công, và ngay cả mạng sống. Nhưng trên đầu Ngài vẫn có bảng đề rõ: Đây là Vua dân Do Thái. Tưởng rằng để chế nhạo, nhưng lại hóa ra là để tôn vinh. Vì Ngài đang trở thành một nhân loại mới: vua tình yêu vui chết cho nhau, từ nay không còn gì có thể chế ngự nổi nữa. Thập giá khai mở Dòng Lực Tình, như trầu cau trong nét văn hóa Việt chỉ khi bị nghiền nát mới trở thành màu đỏ thắm là màu tình sắt son.
PHÚT BẮT LẠI NHỊP
Mình cứ tưởng để sống hạnh phúc thì phải thành công, vơ được nhiều tiền, nắm thêm nhiều quyền thế, đạt nhiều uy tín. Nghĩa là phải có nhiều điều kiện, nhiều tiêu chuẩn, nhiều chữ Nếu áp đặt, xỏ mũi sai khiến. Mất tất cả, chết là cùng, mà vẫn sống, vẫn còn tất cả, vì còn tình yêu, từ nguồn Vua của Tình Yêu. Từ nay không còn phải làm nô lệ cho bất cứ ai và bất cứ gì. Mình làm chủ và làm vua được đời sống rồi, khi nếm và hòa nhập được vào Dòng Lực Tình, thì dù có "lên voi" hay "xuống chó", mình vẫn an nhiên thanh thản hòa theo Nhịp Vũ Sông Tình.
Bước theo đạo sống vuông tròn Mang gươm thập giá khơi dòng tình yêu Con đường nghiền nát trầu cau Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta có cảm tưởng Ngài là vua khác mọi vua chúa thế trần: TN 34-ABC333
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta có cảm tưởng Ngài là vua khác mọi vua chúa thế trần. Do đó, khi so sánh chức vị vua của Chúa Giêsu với các chức vị của các vị vua ở trên thế giới, có lẽ chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã trả lời với Ông :” Tôi là vua…nhưng Nước của tôi không thuộc thế gian này”. Câu trả lời của Chúa làm chúng ta có nhiều suy nghĩ bởi vì Nước của Ngài không phải là nước ở trần gian như chúng ta đang sống.
Philatô mới nói với Chúa Giêsu :” Vậy thì ông là Vua sao ? “. Đức Giêsu đáp : “ Ông nói đó : Tôi là Vua ! chính vì lẽ này mà tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian : ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe tiếng tôi “ ( Ga 18, 37 ). Trước vị Vua cao cả, Đấng đã dựng nên trời đất, vũ trụ và con người. Philatô không thể nào hiểu nổi. Vương Quyền của Chúa Giêsu luôn liên quan đến sự cứu rỗi. Chúng ta phải trở lại núi Canvê mới hiểu được Vương Quyền của Chúa Giêsu. Thập giá nơi Ngài bị treo lên là ngai của Đức Kitô Vua. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một bi kịch, không phải là ngõ cụt. Cái chết của Chúa Giêsu là một cuộc khải hoàn chiến thắng trên tội lỗi và sự chết. Trên đầu thập giá, Philatô đã cho viết một bảng khắc chữ như sau :” Đây là Vua dân Do Thái “. Đấng mà thánh Phaolô đã cảm nghiệm cách sâu sắc :” Đấng không hề biết tội, Thiên Chúa đã coi như Ngài là kẻ tội lỗi để mưu ích cho chúng ta “ ( 2 Co 5, 21 ). Đức Kitô Vua là Vua hiền lành, Vua ngồi trên lưng lừa để tiến vào Giêrusalem. Đức Kitô Vua như người trộm lành đã hoàn toàn bị khuất phục và thốt lên với tất cả cõi lòng tin yêu mến của mình :” Ông Giêsu ơi, khi Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi “. Chính câu thưa với Chúa một cách thành khẩn và chân thành ấy, người trộm lành đã được cứu rỗi. Chính vì thế, lời khẩn cầu của người trộm lành cũng phải là lời nguyện xin của mỗi Kitô hữu. Bởi vì qua Đức Kitô chúng ta được cứu chuộc, được cứu thoát khỏi vương quốc của tội lỗi. Việc cử hành hy tế Thánh Thể mỗi ngày là dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên vô giá, chia sẻ với các thánh trong ánh sáng. Chính Chúa Cha đã cứu thoát chúng ta khỏi quyền lực của tối tăm và đưa chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu Ngài.
Thiên Chúa đã biến đổi chúng ta thành những thần dân trong vương quốc của Đức Kitô Vua. Ngài đã làm cho chúng ta trở nên anh em với nhau trong cùng một Hội Thánh, có đầu là Đức Kitô Vua và mỗi người chúng ta là chi thể của thân xác của Chúa Kitô Vua. Vương Quốc của Chúa Kitô Vua không thuộc về thế gian như Ngài đã xác định trước mặt Philatô. Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc tình yêu, hiệp nhất và bác ái. Vương Quốc của Chúa Kitô Vua là Vương Quốc chỉ mình Ngài mới có quyền ban cho những thần dân của Ngài.
Chúa Kitô Vua như ca nhập lễ hôm nay đã hát vang lên : “Con chiên đã bị giết. Nay xứng đáng lãnh nhận Thần tính và uy quyền, Khôn ngoan cùng sức mạnh, Danh dự với vinh quang. Kính dâng Người vinh dự và quyền năng, đến muôn thuở muôn đời” ( Kh 5, 12; 1, 6 ).
Và như Kinh tiền tụng ca ngợi :” Cha đã xức dầu hoan lạc tấn phong con một Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, làm linh mục đời đời và làm Vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ thập giá làm lễ phẩm hòa giải tinh tuyền, Người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài quy phục quyền bính mình, Người trao lại cho Cha là Đấng uy linh cao cả, một vương quốc vĩnh cửu và vô biên : vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và an bình “.
Chúa Kitô Vua là Trung Gian và là Đấng Trung Gian duy nhất liên kết đất với trời. Trên thập giá Ngài đã quy tụ muôn dân, Ngài đã kéo mọi người lên cùng Người. Đó là Đấng chiến thắng tử thần, Đấng đã phục sinh từ cõi chết bằng tình yêu tự hiến của Ngài :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi, biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 23:35-43)
Sứ mệnh của ông vua thường được mô tả một cách trang trọng và chi tiết, giống như một chương: TN 34-ABC334
Sứ mệnh của ông vua thường được mô tả một cách trang trọng và chi tiết, giống như một chương trình hay kế hoạch to lớn. Nhưng đoạn Tin Mừng Lu-ca hôm nay giới thiệu sứ mệnh của Vua Ki-tô trong một lời thôi, đó là cứu, “cứu lấy mình, cứu người khác”.
Trước hết là hình ảnh Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một người chịu nhục hình đóng đinh thập giá thì làm gì có sứ mệnh nào. Đối với khách bàng quan, cái chết chưa chắc đã đền bù hết tội ác của hắn còn nói chi đến sứ mệnh cứu người! Tại Đồi Sọ, các thủ lãnh Do-thái, tên gian phi nhục mạ Chúa, cùng đám lính tráng dân ngoại chỉ thấy sứ mệnh “cứu độ” của Chúa Giê-su là điều mỉa mai thôi, cho nên họ thách thức Người rằng trước hết “hãy cứu lấy mình đi”.
Chúa Giê-su không trả lời. Người để cho Chúa Cha và Chúa Thánh Thần hành động và trả lời thay cho Người. Thực vậy, Chúa Giê-su đã thực hiện cả hai điều, cứu mình và cứu người khác. Quyền năng Thiên Chúa đã làm Chúa Giê-su sống lại ngày thứ ba. Đó là cách thức Người đã tự cứu mình. Khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su đã chiến thắng tử thần và tội lỗi, nhưng không phải cho riêng mình, mà còn cho tất cả những ai tin vào Người nữa. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su là nguồn ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại mọi thời mọi nơi.
Các thủ lãnh Do-thái hiểu rất rõ về sứ mệnh của “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Đấng Ki-tô nghĩa là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn, được xức dầu để làm vua, làm tư tế hoặc làm ngôn sứ. Chúa Giê-su được Thiên Chúa xức dầu để thi hành những chức năng trên (Lu-ca 4:16-21). Nhưng họ không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giê-su đã hết lời trình bày sứ mệnh của Người qua lời giảng và qua những phép lạ Người thực hiện, vậy mà kết quả vẫn luôn là “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Gio-an 1:11). Cuối cùng việc chối bỏ ấy đã khiến họ “nộp Người cho dân ngoại” để đóng đinh Người trên thập giá.
Tuy nhiên, giữa bóng tối chối bỏ Chúa Ki-tô Vua trên Đồi Sọ lại bừng sáng lên đức tin của “tên gian phi” hối cải! Anh đã nhận ra Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa khi anh mắng tên gian phi kia: “Vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!” Anh còn nhận ra Chúa Giê-su là Đấng cứu độ khi anh kêu lên “Ông Giê-su ơi!” (Giê-su nghĩa là Thiên Chúa cứu), và sau cùng nhận Chúa Giê-su là Vua khi anh xin Người cho anh được vào Nước của Người. Trả lời anh, Chúa Giê-su không chỉ cho anh được vào Nước của Người trên trần gian, tức là Triều Đại Thiên Chúa, mà còn cho anh vào Nước vĩnh cửu của Người là Thiên Đàng nữa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su là Vua của một Vương quốc tuyệt vời! Để thiết lập một “dân tộc” cho vương quốc ấy, Chúa Giê-su đã lấy cái chết để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và cho chúng ta được làm con cái Thiên Chúa. Để ban bố một hiến pháp cho vương quốc của Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã gồm tóm tất cả trong Tám Mối phúc. Để trình bày một lối sống cho đúng với tinh thần của “Quốc trưởng” là Thiên Chúa, Chúa Giê-su cô đọng luật lệ trong hai tiếng “yêu thương”, mến Chúa yêu người. Mục đích chung cho mọi người trong vương quốc là được cứu độ, được trở về kết hiệp đời đời với Cha trên trời. Chúa Giê-su đã chu toàn sứ mệnh mở đường cứu độ cho chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với Người và tiếp tục những gì Người đã khởi sự nơi chúng ta. Vậy để đạt mục đích cứu độ, chúng ta hãy hăng hái bước theo Vua Giê-su, sống như Người đã sống trên trần gian này và theo Người vào trong Nước vĩnh cửu.
(2 Samuel 5,1-3; Thư Colosê 1,12-30; Tin Mừng Luca 23,35-43)
Phúc Âm: Lc 23, 35-43
"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái".
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Đối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Suy Niệm: Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua
2 Samuel 5,1-3; Thư Colosê 1,12-30; Tin Mừng Luca 23,35-43
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Giáo: TN 34-ABC335
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Giáo hội muốn mừng trước lễ sẽ diễn ra và được cử hành cực kỳ long trọng vào lúc thời gian tận cùng khi mà Chúa Kitô sẽ trở lại trong vinh quang thâu hồi tất cả tạo vật được cứu độ đưa vào trong hạnh phúc trường sinh. Hơn nữa, Giáo hội muốn đặt ngày trọng đại ấy trở nên ngọn Hải đăng chói sáng hướng dẫn con thuyền Hội Thánh vượt biển trần gian mà không bao giờ lạc hướng... Nói cách khác Giáo hội ao ước càng tiến xa trên đường đời chúng ta càng nhìn thấy ảnh hưởng và uy quyền của Chúa Kitô càng ngày càng tỏ hiện cả chiều rộng và chiều sâu. Muốn như vậy chúng ta phải hiểu rõ tước hiệu làm Vua và thực quyền thống trị của Chúa Kitô là gì, để do đó chúng ta biết sống ở trong Nước Người và làm cho Nước Người luôn lan rộng thêm.
1. Đavít, Hình Ảnh Báo Trước Về Chúa Kitô Vua
Bài sách Samuel nhắc lại chuyện Đavít đã trở thành vua Israel như thế nào. Nó cho chúng ta biết nguồn gốc Vương Quyền của Chúa Kitô vì chính Người vẫn được dân Cựu ước chờ đợi như là Con Vua Đavít sẽ đến trị vì trên Dân Chúa.
Vậy Đavít bấy giờ mới chỉ là vua xứ Giuđa. Các chi tộc Israel ở phía Bắc vẫn chưa công nhận Vương Quyền của ông. Họ còn lưu luyến nhà Saulê. Nhưng hai cuộc ám sát xảy ra đã khiến họ đổi ý... Ishbaal con của Saulê bị sát hại sau khi vị tướng của Israel là Abner bị giết. Đầu mục các chi tộc kia liền đến Hêbron yết kiến Đavít và xin qui phục vương quyền của ông. Chúng ta hãy lưu ý những lý lẽ họ đã đưa ra:
+ Ngài (tức là Đavít) cũng là cốt nhục với chúng tôi. + Ngài đã từng là tướng triều Saulê, Vua nước chúng tôi. + Ngài đã được Thiên Chúa chọn để chăn dắt và lãnh đạo dân Người.
Đó không phải là lời lẽ của những người đầu hàng; nhưng là những lời có tính toán và đặt điều kiện. Nói đúng hơn, những lời này cho thấy các đòi hỏi tiên quyết nơi một vị Vua của Israel... Ông phải có cốt nhục với đồng bào của ông; ông đã phải vào sinh ra tử cho Đất nước của ông; và nhất là ông phải được Thiên Chúa chọn; vì làm vua nơi dân Chúa không phải như nơi các dân tộc của những quốc gia khác, nói đến Vua Chúa là phải nghĩ ngay đến cai trị và lãnh đạo. Còn nơi Israel, làm vua trước hết là chăn dắt dân như mục tử và phải hiểu việc lãnh đạo ở đây theo cung cách của kẻ chăn chiên.
Đavít hội đủ những điều kiện ấy. Ông là cốt nhục với Israel. Ông đã vào sinh ra tử khi còn ở triều đình Saulê để chống quân Philitinh. Và ông đã được xức dầu là chứng Thiên Chúa đã chọn ông và ông đã nhận được thần trí của Thiên Chúa... Người ta không sợ ông sẽ dùng quyền cai trị như các bạo chúa thời xưa. Bản thân ông đã là mục tử. Dáng điệu của ông hiền lành khiêm nhu. Mọi nơi đều ca ngợi lòng quảng đại của ông ngay đối với cả địch thù.
Đavít hiểu ý các đầu mục Israel. Ông chấp nhận ý kiến của họ và ông ký kết với họ một giao ước ở Hêbron, trước nhan Thiên Chúa. Và họ đã xức dầu tấn phong ông làm vua các chi tộc ở phía Nam.
Chúng ta có thể thắc mắc vì sao có thể xức dầu cho Vua mình được. Nhưng xức dầu ở đây chỉ là nghi thức công nhận quyền làm Vua của vị đã được xức dầu. Chính lần được xức dầu do "Người của Thiên Chúa", tức là do vị tiên tri của Người mới đáng kể. Và Đavít đã được Samuel xức dầu ân sủng đó khi Thiên Chúa đã quyết định từ bỏ Saulê. Kể từ ngày đó Đavít đã là Người Chúa chọn và đã mang thần trí của Người. Hôm nay các đầu mục Israel làm lại nghi thức xức dầu không phải để ban ân sủng cho Đavít nhưng để công nhận ân sủng đã có sẵn ở nơi ông. Và tất cả những điều này đều có ý nghĩa để nói về Chúa Kitô Vua. Người đã được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần... nhưng có thể nói, một cách mầu nhiệm quá như trường hợp của Đavít tại nhà ông, trong vòng thân mật và kín đáo, lúc ông còn nhỏ tuổi. Và cũng như Đavít phải vào sinh ra tử cho dân trước khi được dân công nhận, thì Đức Kitô cũng phải đi qua khổ nạn mới đạt tới vinh quang.
Ở đây chúng ta không thấy nói rõ Đavít đã kết ước với Israel như thế nào. Nhưng theo ý dân đã biểu lộ trong dịp xức dầu đặt Saulê làm Vua (1S. 8,10-17), các đầu mục Israel hẳn đã nhấn mạnh đến việc Đavít phải xuất chinh đi trước và giao chiến các cuộc chiến của họ. Cũng như theo những sự việc xảy ra sau này, dường như họ chỉ công nhận vương quyền của Đavít nhưng chưa muốn sát nhập với Giuđa và cũng chẳng hứa sẽ tùng phục người kế vị Đavít. Tức là họ chỉ công nhận Đavít là Vua của họ khi Đavít hứa luôn xuất chinh đi trước họ.
Những điều này cũng vậy sẽ cho chúng ta nhiều yếu tố để tìm hiểu vương quyền của Chúa Kitô. Có thể nói vương quốc của Người chỉ có ở nơi Người. Cũng như vương quốc của Đavít chỉ có ở nơi Đavít vì Israel và Giuđa một phần nào vẫn chưa muốn hoàn toàn là một Nước như ở nơi chúng ta còn quá nhiều yếu tố cách biệt và chia rẽ. Và vương quyền mà Israel công nhận nơi Đavít, họ không sẵn sàng công nhận nơi người kế vị thành ra đó là vương quyền không chia sẻ và truyền ngôi. Điều này cũng cho thấy trước tính cách bất khả chia sẻ của vương quyền nơi Chúa Kitô. Nhưng điều chú ý nhất trong giao ước ký kết giữa Đavít và Israel là buổi lễ được đặt trước nhan Thiên Chúa, để công nhận việc giữa loài người với nhau chỉ có giá trị nếu Thiên Chúa đảm bảo. Chính Người là cánh tay xây dựng mọi công trình tốt đẹp của loài người, và nếu Người không xây thì công việc của các tay thợ nề đều vô ích và luống công. Nước của Chúa Kitô Vua cũng vậy. Đó là công trình của Thiên Chúa và hoàn toàn lệ thuộc Người; nên không thể lấy các quan niệm về những vương quốc thế gian mà hiểu. Chúng ta phải có những quan niệm của Thiên Chúa để hiểu về Nước Chúa Kitô. Và vì thế chúng ta không sợ nói đến tước hiệu Vua Kitô ở bất cứ hoàn cảnh nào vì Nước của Người không thuộc về thế gian này nên không được hiểu theo lẽ thế gian.
Dù sao bài sách Samuel hôm nay cũng đã cho chúng ta thấy một trường hợp làm vua rất đặc biệt. Câu chuyện Đavít được công nhận làm Vua có nhiều yếu tố giúp chúng ta hiểu trường hợp làm Vua của Chúa Kitô. Ông Vua mục tử Đavít đầy nhân ái và đạo đức đã là hình ảnh báo trước về Vua Thiên Sai sẽ đến cứu dân và xây hạnh phúc cho dân Chúa. Cả hai đã được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng vương quyền của cả hai đều phải vào sinh ra tử cho dân mới được dân công nhận. Không phải rồi sau đó cả hai vương quyền đều đã trị vì trên dân theo kiểu các quyền bính thế gian, nhưng vai trò của các người là bảo hộ bênh vực để dân Chúa được bình an và hạnh phúc. Vương quyền ấy là quan hệ giữa người với người hơn là biểu thị thành thể chế có thể nhìn thấy được vì Nước của Đavít cũng chỉ rõ ràng ở nơi ông mà thôi.
Chúng ta ghi nhận những tư tưởng này để xem Đức Kitô đã thể hiện hình ảnh báo trước về vương quốc của Người như thế nào?
2. Đức Giêsu Làm Vua Trên Thánh Giá
Ai cũng biết suốt đời Đức Giêsu chẳng có vẻ gì là một ông Vua. Người còn nhất mực từ chối mỗi khi dân chúng có ý tưởng tôn Người làm Vua. Nhưng bỗng dưng Người có một thay đổi bất ngờ. Hôm vào Giêrusalem, Người muốn tỏ ra mình là một ông vua thái hòa. Người cỡi lừa, ung dung để cho người ta lấy lá, lấy áo lót đường cho Người đi, và Người chấp nhận để cho người ta tung hô mình là Con Vua Đavít, vua của Israel.
Nhưng trong cuộc rước ấy, Người vẫn âm thầm. Và Người cũng không có một cử chỉ hoàng đế nào trong dịp nô nức ấy. Thế rồi Người bị nộp, bị trói, bị đánh, bị điệu ra trước tòa. Chính ở đây và từ đây Người mới có thái độ làm vua.
Chúng ta hãy hạn chế tư tưởng trong khuôn khổ bài Tin Mừng hôm nay. Có quá nhiều yếu tố để chúng ta còn phải đi tham khảo ở những nơi khác trong Kinh Thánh.
Đức Giêsu bấy giờ đã bị đóng đinh trên thập giá ở giữa hai tên gian phi. Như để cho người ta thấy Người không phải như hai kẻ kia, tác giả Luca lập tức đã viết rằng: "Bấy giờ Đức Giêsu nói: Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Lời nói này khẳng định vị trí của Đức Giêsu không những ở giữa hai tên gian phi, mà còn ở giữa tất cả mọi người. Cả nhân loại là tội nhân, duy mình Người là Đấng Công Chính có khả năng cầu xin ơn tha tội cho mọi người hết thảy.
Xếp đặt vị trí xong, tác giả Luca lần lượt cho chúng ta thấy thái độ của mọi hạng người... Trước hết có dân. Họ đứng nhìn. Luca có cảm tình với họ. Ông không coi họ là đám dân chúng đã la ó xin đóng đinh Đức Giêsu. Ông gọi họ là dân để tỏ ý coi họ như dân Chúa, dân mà Chúa muốn cứu vớt và tha thứ tội. Họ đứng nhìn để xem công việc của Thiên Chúa. Họ thấy gì?
Các đầu mục thì nhạo báng mà rằng: nó đã cứu những ai khác, thì nó hãy cứu lấy mình nếu nó là Đức Kitô của Thiên Chúa, Đấng đã được chọn. Họ tỏ ra thông thái, nhưng thật ra sự thông thái này lại lên án họ vì đó là sự thông thái mù tối. Họ biết Đức Giêsu đã cứu chữa nhiều người.
Đó là dấu sức mạnh của Thiên Chúa đậu ở nơi Người. Người thật là Đấng Kitô, là vị được Thiên Chúa chọn. Lẽ ra họ phải bắt chước các đầu mục Israel ngày xưa khi biết Thiên Chúa đã chọn Đavít thì đến công nhận vương quyền của ông. Đàng này họ chưa coi việc Đức Giêsu cứu vớt những người khác là dấu hiệu chắc chắn. Họ muốn Người cứu chính mình nữa và coi hành vi này mới có giá trị quyết định. Họ đúng là kẻ thông thái mù quáng, khôn ngoan theo lẽ thế gian xét mọi việc không ở dưới khía cạnh bác ái và cứu thế nhưng theo mức độ ích kỷ và vinh thân. Vì hẹp hòi và xấu bụng, họ không ngờ đã muốn cho vị hoàng đế của dân Chúa cũng phải như họ là ích kỷ và trước hết phải lo cho bản thân mình. Họ không xứng đáng với Đức Giêsu.
Hạng người thứ ba cũng giống như họ. Đó là lính tráng, những người Rôma đến cai trị Do Thái. Họ tiêu biểu cho lương dân ở dưới chân thập giá Đức Giêsu. Họ không thể có suy nghĩ cao thượng hơn các đầu mục Do Thái. Họ muốn rằng: nếu là vua Do Thái, thì Người phải cứu lấy mình. Tâm tư của hai hạng người trên, của cả Do Thái lẫn lương dân, được phụ họa đúc kết và vọng lên một cách mãnh liệt trong lời mắng nhiếc của một trong hai kẻ gian phi: "Phải chăng mày là Kitô, hãy cứu lấy mình và chúng ta với".
Đó là lời thách thức ghê tởm. Nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu "mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên" còn ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: "Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất" bây giờ ở đâu? Người ta chưa hiểu Đức Giêsu. Người ta quên hình ảnh Vua Đavít chịu oan uổng trong đền vua Saulê. Người ta không nhớ các lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ đau khổ sẽ thống trị. Bao nhiêu lời Kinh Thánh báo trước về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế dường như đã vô ích hoàn toàn.
Không, tiếng nói của kẻ tội lỗi to thật, dữ thật, nhưng không phải là tiếng nói cuối cùng. Kẻ gian phi bị treo ở phía bên kia đã lên tiếng: "Mày không kính sợ Thiên Chúa sao, ngay lúc mày cũng mắc đồng một án?" Nghĩa là đây là lúc để nhớ đến Thiên Chúa và kính sợ Người, lúc người ta gặp hoạn nạn, đau thương và nhất là sắp chết. Không được lăng mạ, lộng ngôn hay nói lời nào hư hốt nữa. Phải có tình liên đới, phải biết nhận lỗi mình và cầu xin ơn tha thứ. Thế nên, người ấy đã nói tiếp: chúng ta đáng tội, nhưng, Người không hề làm điều gì trái.
Vì sau người ấy đã nói được như vậy? Vì đã có giờ quan sát Người trên đường thập giá hay vì từ nãy đến giờ đã nghe lời những hạng người kia. Họ trách mắng Người, nhưng bao giờ cũng để hở ra những tư tưởng thật đáng suy nghĩ. Tất cả đều đã mở miệng bằng những câu: nếu là Kitô, nếu là Đấng Thiên Chúa chọn, nếu là vua Do Thái..., vì sao lại nghi vấn như thế? Và hết thảy đều đã tha thiết muốn thấy ơn cứu độ, nên đã nói: hãy cứu lấy mình, hãy cứu lấy chúng ta nữa.
Chúng ta không dám quyết người kia đã có thể suy nghĩ như vậy để có thể làm một bước "liều" mà đa số những người kia chưa gần sự chết và chưa thấy khẩn trương cầu ơn cứu độ nên đã không làm được. Còn người này, giống như Pascal nói, có liều cũng chỉ có lợi chứ không thiệt gì. Nên y đã liều tin Đức Giêsu là công chính và đã diễn tả niềm tin dấn thân ấy trong câu: Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài đến trong Nước của Ngài: Y trông cậy sự bảo hộ, chiếu cố của Người một cách thật cảm động và thành khẩn. Và Đức Giêsu đã nói với người ấy: "Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta".
Đây không phải là lời lẽ của chính Thiên Chúa ư? Đã bao lần trong cuộc sống, khi lấy uy tín của Thiên Chúa để giảng dạy, Đức Giêsu đã bắt đầu tuyên bố bằng câu: "Quả thật, Ta bảo các ngươi". Người tuyên bố bình thản, chắc chắn. Người nói là làm, nên mới có chữ: "hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta". Người dùng kiểu nói: "ở trên thiên đàng làm một với Người" để đáp lại lời xin được Người nhớ đến khi Người đến trong Nước của Người, khiến chúng ta thấy lòng quảng đại của Người vượt quá lời xin của Người kia. Anh ta chỉ xin Người nhớ đến anh; nhưng Người đã cho anh ở làm một với Người. Anh chẳng hiểu rõ Nước của Người là gì; nhưng Người đã cho anh biết đó là thiên đàng nơi người công chính được hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa.
Vậy, Đức Giêsu thật là vua. Người làm vua trên thánh giá, tức là trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình mà tin Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa mà tin thì được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời tiên tri về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế quá sự chờ mong của mọi người, vì trên thánh giá, không những Người là Vua mục tử hơn Đavít mà còn là Người Tôi Tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
Tuy nhiên thành thật mà nói bài Tin Mừng của Luca chưa nói hết mọi khía cạnh về việc Chúa Kitô làm vua đâu. Còn một khía cạnh rất quan trọng phải đi đôi với khía cạnh cứu chuộc mà Luca chưa nói và không có điều kiện để nói ở đoạn văn này... Bài thư Phaolô hôm nay bổ khuyết cho chúng ta.
3. Đức Giêsu Là Đệ Nhất Vô Song
Phần lớn đây là một khúc trong ca vãn về Chúa Kitô. Phaolô viết gởi giáo dân Colôsê đang bị dao động về đức tin. Có nhiều người đến nói với họ rằng: Chúa Kitô không phải là đệ nhất vô song đâu? Còn có các thiên phủ, ông sao này, ông sao kia; và còn có nhiều bậc tiên tri và giáo chủ khác. Phaolô nói với giáo dân Colôsê, đừng tin những chuyện nhảm nhí ấy; và hãy tạ ơn Thiên Chúa đã kéo chúng ta ra khỏi quyền lực tối tăm và chuyển chúng ta vào Nước của Con chí ái Người. Rồi Phaolô làm chứng Đức Kitô là vua vì vừa sáng tạo vừa cứu chuộc.
Chúng ta không cần nhấn mạnh lý lẽ sau vì hai bài Kinh Thánh trên đã cho thấy Đức Giêsu là vua trong mầu nhiệm cứu thế, gỡ dân ra khỏi tội lỗi. Ở đây chúng ta chỉ cần nhớ: Phaolô chú ý đến việc phục sinh. Chính mầu nhiệm sống lại đã làm Đức Giêsu trở thành trưởng tử giữa các vong nhân để ai theo Người và nhận sự lãnh đạo của Người và sẽ được Người cho khỏi chết trong tội lỗi mà được sống lại trong ân sủng.
Nhưng ở đây chúng ta phải để ý nhất là đến địa vị của Đức Giêsu là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Thực tế Người đã không sinh ra trước hết mọi loài đâu. Người là con vua Đavít mà! Nhưng tuy đã không sinh ra trước hết, Người vẫn là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì mọi sự đều được tạo thành nhờ Người và cho Người. Không những Người là lý do để Thiên Chúa dựng nên tất cả, như Thiên Chúa đã dựng nên vạn vật vì con người, và con người Adong cũng chỉ là hình ảnh của con người Giêsu Kitô; nhưng hơn nữa chính trong Người mà vạn vật được tác thành, dù là thiên tòa, thiên phủ... Như vậy tất cả đều là của Người, Người là vua vũ trụ. Vạn vật là chiên của Người. Những chiên này vì tội lỗi đã xa lạc, Người đã thí mạng để chuộc chúng lại và làm vua chúng một lần nữa sau khi đã là vua chúng vì đã tạo dựng nên chúng.
Chúng ta và thụ tạo ngày nay chỉ có thể lại được sự sống của Người khi chấp nhận lễ hy sinh của Người là mục tử tốt ở nơi thập giá... Chính Người đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta nơi bàn tiệc thánh thể. Ở đây nếu chúng ta có lòng thống hối ăn năn và cầu xin tin tưởng như "người trộm lành", chúng ta sẽ được ân sủng của Người, được chính Người cho ta được làm một với Người, để Người là Đầu của thân thể ta, giúp ta thánh hóa thêm tâm hồn và đời sống, làm cho ảnh hưởng và Nước Người lan rộng thêm. Đó là mục tiêu chúng ta phải nhắm tới trong ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lc 23:35-43: 35 Dân thì đứng nhìn, còn các đầu mục thì nhạo báng mà rằng: "Nó đã cứu những ai khác, thì nó hãy cứu lấy mình! nếu nó là Đức Kitô của Thiên Chúa, Đấng đã được chọn!" 36 Cả lính tráng cũng chế diễu Ngài; xích lại bên, chúng dâng dấm cho Ngài, 37 mà rằng: "Nếu mày là vua dân Do Thái, thì hãy cứu lấy mình!" 38 Phía trên Ngài có tấm biển: Tên này là Vua dân Do Thái.
39 Một người trong các kẻ gian phi bị treo đó mắng nhiếc Ngài: "Phải chăng mày là Kitô? Hãy cứu lấy mình và chúng ta với!" 40 Nhưng tên kia lên tiếng mắng bảo nó: "Mày không kính sợ Thiên Chúa sao, ngay lúc mày cũng mắc đồng một án? 41 Phần ta, thực tế phải lẽ, ta chuốc lấy đáng tội đã làm; nhưng ông này, ông không hề làm điều gì trái!" 42 Và hắn nói: "Lạy Đức Yêsu, xin nhớ tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài!" 43 Và Ngài đã nói với hắn: "Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta!"
Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người: TN 34-ABC336
Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân. Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ khác nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: - Nhóm dân chúng, thủ lãnh và quân lính (23:35-38); - Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của cảnh chế giễu nầy.
Luca đã dùng phân từ “kai”, “và” để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng (c. 35) - và các thủ lãnh” - “và quân lính” - “và tấm bảng”. Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện “nếu”, trong đó họ có lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc. 35.37.39), và họ gọi Chúa Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô” (c. 35), “Vua dân Do thái” (c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu trả lời cho những thách thức và chế giễu nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c. 35)
Luca chỉ ghi nhận “dân chúng đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô) tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29, Luca cho thấy “cái nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô) (14:29). Chính dân chúng đã đứng chung với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu (động từ ở thể phân từ hiện tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những người lên tiếng chế giễu Người.
Các thủ lãnh (c. 35)
Ở đây Luca chỉ nói đến “các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”; chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ “Hãy cứu lấy chính mình” được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và phạm nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự chữa lành bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau. Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người (9:24). Tước hiệu “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đã được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương quan và sự thông hiệp của Người với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu “Kitô” đứng một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một đấng thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu “Người được tuyển chọn” cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).
Nhóm quân lính (c. 36)
Sau các thủ lãnh tôn giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ (22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái” nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos (x. 23:2).
Cho đến lúc nầy, cả các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai. Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì Người biết họ không tin vào Người ( 22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc. 23:38)
“Và” (xem trên) liên kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos” chỉ Đấng bị đóng đinh dưới tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh. Như thế, tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động từ blasphçmçô, “nói phạm thượng”, để chỉ thái độ của người nầy đối với Chúa Giêsu. Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa Giêsu (22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái chết gần kề.
Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ lời trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến việc nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi, người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.
Nói về Chúa Giêsu, ông bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34), với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con vua Đavít” (18:38), với “Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia, của Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30); “Nước Thiên Chúa” được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp cho những người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: - “Giêsu” là Con Thiên Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương xót ông như Thiên Chúa; - “Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới có “Nước của Người”; - Nước của Người là Nước của Thiên Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân Do thái”.
Chúa Giêsu trả lời với phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên đàng. Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là “trong tay” của Người (x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông được Người nhận biết và cho hưởng Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Như thế cái chết trên thập giá của Người có tính cách cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.
Tình yêu là mức đo giá trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả ! Đó là trung: TN 34-ABC337
Tình yêu là mức đo giá trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả ! Đó là trung tâm qui tụ toàn thể tiểu vũ trụ. Từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ, Đức Giêsu vẫn là vua, vì Người đã đã chiếm trọn con tim nhân loại. Khi nằm trên thập giá, Đức Giêsu thấy tất cả những giới hạn vô cùng hẹp hòi của người đời. Tất cả binh lính đều một giọng như nhau : “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi !” (Lc 23:37) Các thủ lãnh có vẻ thâm độc hơn : “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !” (Lc 23:35) Nhưng Đức Kitô vẫn im lặng. Tuy cười nhạo Chúa, bọn lý hình đã thâm gan tím ruột khi đọc bản án tổng trấn Philatô truyền viết phía trên đầu tử tội : “Đây là vua người Do thái.” (Lc 23:38) Không cưỡng nổi lệnh truyền đó, nên họ đã tìm cách trả thù. Bao nhiêu căm tức đã đổ dồn lên con người Đức Giêsu.
Nhưng chẳng có đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ Chúa : “Oâng không phải là Đấng Kitô sao ? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối với !” (Lc 23:39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23:17-25), lúc lại bàng quang : “Dân chúng thì đứng nhìn.” (Lc 23:35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23:26) Ngay trong hàng ngũ quân đội cũng có “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa : ‘Người này quả thật là công chính.’” (Lc 23:47) Nếu Người là công chính, tất nhiên bản án tử hình là một bất công lớn lao giáng xuống người vô tội. Như thế, Đức Giêsu đã chiếm trọn được lòng người, kể cả những tên lý hình và người gian phi. Một trong hai người gian phi đã thành tâm thưa với Chúa: “Oâng Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” (Lc 23:41) Giữa lúc cùng khốn đó, trí óc ông vẫn minh mẫn biện hộ cho Chúa, đối lại với đồng bọn : “Oâng này đâu có làm điều gì trái !” (Lc 23:42) Nghĩa là, chính những người đã từng chống cưỡng lệnh Thiên Chúa, giờ đây cũng phải tuyên xưng Người là Đấng Công Chính. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải cho ông tất cả sự thật về Nước Chúa : “Tôi bảo thật anh : hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Tin Mừng luôn mang tính “hôm nay” ngay cả khi gặp cảnh cùng khốn nhất. Khác hẳn với những kẻ lợi dụng tương lai để biện hộ cho những ý đồ thống trị hiện tại, Đức Giêsu luôn tìm thấy nét hiện thực trong Tin Mừng. Người không muốn trốn thoát hiện tại, dù hiện tại đau thương nhất, để ẩn mình trong cái vỏ tương lai.
Chính vì thế, Tin Mừng luôn mang tính hiện sinh, loan báo cho người hôm nay về một Vua Công Chính, Vua Hòa Bình. Mọi đối kháng đều bị hóa giải trong chính trái tim Người. Nói khác, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những tên lý hình (x. Lc 23:34) và người gian phi, như Người đã từng tha thứ cho Maria Mađalêna, phụ nữ Samaritana, Phêrô v.v. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:20) Là con dân trong Nước Chúa, Kitô hữu không thể không nhớ tới sứ mệnh hòa bình, hòa giải của mình trong gia đình cũng như xã hội. Sứ mệnh đó chúng ta đã đón nhận từ ngày tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô trong bí tích thánh tẩy. Quả thực, “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh.” (Cl 1:18) Trở thành chi thể Đức Kitô, chúng ta chia sẻ cùng sứ mệnh với Người. Chỉ khi nào thi hành sứ mệnh cao cả đó, chúng ta mới được vinh phúc trở thành con Thiên Chúa (x. Mt 5:9)
Chính khi thi hành sứ mệnh đó, chúng ta chia sẻ vương quyền Đức Giêsu. Trong bí tích thánh tẩy, chúng ta đã được chia sẻ quyền làm vua với Chúa. Sứ mệnh vương giả đó chỉ được thể hiện trong phục vụ. Phục vụ là đối thoại, lắng nghe, tôn trọng mọi người. Phục vụ là sẵn sàng coi người khác hơn mình. Người phục vụ không có gì để tự hào. Trái lại, họ biết mình phục vụ ai và tại sao phải phục vụ. Phục vụ cho một đối tượng duy nhất là Đức Kitô, hiện thân nơi nhiệm thể là Giáo hội, tức là dân Chúa. Họ noi gương Đức Giêsu, Đấng đã “sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22:27) Thầy phục vụ cho đến chết. Con đường phục vụ là con đường ngắn nhất dẫn đến vinh quang Nước Chúa. Mỗi khi phục vụ, họ thấy mình trở nên giống Chúa Kitô và thể hiện được tất cả nét dịu hiền và đầy lòng thương xót của Chúa. Phải có một tấm lòng bao dung như Chúa mới có thể phục vụ một cách vô tư mọi người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đây là nét đặc trưng cao đẹp nhất của Nước Chúa dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với những người Hồi giáo Algerie rằng : “Giáo hội Công giáo rất nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người Algeria và mọi nơi, bất kể họ có tin vào Đức Kitô hay không.” (VietCatholic 23/11/2001) Tính cách vô tư đó đã hấp dẫn mọi người tìm đến với Đức Kitô Vua Tình Yêu. Nhờ Người, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1:13)
Chính Người đang thúc đẩy “triều đại Cha mau đến.” (Mt 6:10) Hằng ngày chúng ta vẫn đọc lời kinh cao đẹp ấy. Nhưng hỏi mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời kinh đó ? Thú thật cho đến gần đây, mỗi khi đọc lời kinh đó, cá nhân kẻ viết bài này rất run sợ vì vẫn nghĩ rằng Nước Cha trị đến có nghĩa là Chúa sắp tái lâm để phán xét. Nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Như thế, càng lâm cảnh khổ đau, cô đơn, bị đàn áp bất công, càng cần phải xin cho “triều đại Cha mau đến.” Nghĩa là, Đức Giêsu luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha ban hòa bình và no ấm cho nhân loại. Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi ! Lý do “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình.” (Cl 1:19-20)
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Giêsu Kitô vua, một lễ đánh dấu giai đoạn cuối : TN 34-ABC338
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Giêsu Kitô vua, một lễ đánh dấu giai đoạn cuối của năm phụng vụ. Hội Thánh muốn công bố sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô trước thời cánh chung khi Chúa trở lại trong uy quyền tuyệt đối. Lễ Chúa Giêsu Kitô vua có ý nghĩa gì và chủ đích lễ Chúa Giêsu Kitô đối với mỗi người ?
ĐAVÍT, HÌNH ẢNH BÁO TRƯỚC VỀ CHÚA GIÊSU KITÔ VUA:
Bài sách cựu ước 2Sm 5, 1-3 cho ta biết về nguồn gốc của Đavít được chọn làm vua và hình ảnh của Đavít tiên báo về Chúa Giêsu Kitô mà dân cựu ước mong đợi. Đavít được Thiên Chúa tuyển chọn thay nhà Saulê. Ông được Thiên Chúa xức dầu, chọn lựa và tôn phong làm vua nhà Israen. Do đó, Đavít được toàn thể dân Israen công nhận là vua lãnh đạo họ vì ông hội đủ điều kiện như là cốt nhục với Israen. Đavít đã vào sinh ra tử để bảo vệ Israen khi ông còn ở triều đình vua Saulê chống quân Philitinh. Đavít đã được xức dầu làm chứng Thiên Chúa đã chọn ông và ông đã nhận được thần trí của Thiên Chúa. Đavít đã ký với các đầu mục, tức những nhà lãnh đạo dân Israen một giao ước trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, các đầu mục đã công nhận Đavít là vua, công nhận ân sủng đã có nơi Đavít. Hình ảnh này cũng là hình ảnh của Đức Kitô. Đức Giêsu cũng đã phải ngang qua khổ nạn mới tới được vinh quang của Cha Người. Đavít luôn bảo vệ, xuất chinh để bảo tồn dân tộc Israen. Nên, dân Israen đã nhìn nhận Đavít như là vua duy nhất của họ. Điều này cũng biểu lộ ý nghĩa quan trọng của vương quyền Chúa Kitô.
Bài sách Samuen cho ta thấy trường hợp làm vua đặc biệt của Đavít, nó cũng giúp ta nhiều yếu tố hiểu được việc làm vua của Chúa Kitô. Vị vua mục tử Đavít hiền lành, khiêm nhu là hình ảnh của Vua Kitô, Thiên sai sẽ đến trong Tân ước để giải thoát dân khỏi tội lỗi và xây dựng hạnh phúc cho dân Chúa. Cả hai vị vua đều phải vào sinh ra tử để cho dân được ấm no và an bình. Kiểu trị vì của vương quyền các Ngài không phải là kiểu ngự trị của uy danh trần thế, mà vương quyền ấy là làm cho dân được an bình và hạnh phúc. Vương quyền của các Ngài là sự liên hệ giữa người với người, một sự liên hệ mật thiết, chúng ta chỉ có thể hiểu được nơi tình cha con và mẹ con. Chính vì thế, uy quyền hay nói cách khác triều đại của Đavít hay của Chúa Giêsu chỉ là thể hiện tình thương hơn là thể chế cai trị như mọi vì vua chúa nơi trần gian.
ĐỨC GIÊSU KITÔ, VUA TRÊN THÁNH GIÁ:
Suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta không thấy Ngài tỏ mình là vua, là người cai trị, là người cầm đầu dân theo kiểu thế gian. Chúa Giêsu luôn từ chối mỗi khi có người muốn phong Ngài lên làm vua. Tuy nhiên, thái độ ấy thay đổi, lần Ngài vào Giêrusalem. Ngài ung dung cỡi trên lừa và để cho dân chúng trải lá, tung hô Ngài là vua( Mc 10, 9-10 ). Được tung hô là vua, Ngài cũng không tỏ vẻ gì là hoàng đế cả. Ngài âm thầm theo ý định của Cha Ngài. Thế rồi, biến cố cứu chuộc đến, Chúa Giêsu bị bắt, bị nộp và bị đóng đinh trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp(Mc 14, 46; 15, 24 và 27; Lc 23, 33 ). Thánh Luca ở đây cho chúng ta thấy rõ dụng ý của Ngài. Ý nghĩa là vua trong đoạn Tin Mừng này đối chọi với sự mù quáng của các đầu mục, của những người đi qua đường xỉ báng Chúa Giêsu rằng:” Ông đã cứu được người khác, sao không tự cứu lấy mình để họ tin”( Lc 23, 35 ). Những lời mai mỉa ấy có tính cách rất thâm độc và mù tối. Đức Giêsu không tỏ thái độ, nhưng khiêm tốn thưa với Chúa cha:” Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”( Lc 23, 34 ). Lời cầu nguyện ấy, nói lên sự công chính của Chúa Giêsu và chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền xin Cha tha thứ cho cả nhân loại, cho cả loài người tội lỗi, lầm lạc. Dân chúng, đầu mục, lính tráng và tên trộm dữ đã không hiểu được ơn cứu rỗi. Người trộm lành đã xin” Chúa tha thứ” và xin Ngài đưa anh vào Nước Trời( Lc 23, 42), nói lên tâm hồn của một con người biết phục thiện, cần ơn giải thoát. Đức Giêsu nói:” Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”( Lc 23, 43 ).
Đức Giêsu thật là vua, là vua theo nghĩa đích thực của danh từ vua. Ai tin sẽ được cứu độ. Người trộm lành như bao người thành tâm thiện chí khác đã nhìn Đức Giêsu là duy nhất, đệ nhất vô song như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côlôsê đã ca ngợi địa vị của Chúa, nên anh trộm lành và bao nhiêu linh hồn đã nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô là vua vũ trụ. Tất cả đều được viên thành, hoàn tất trong Ngài.
Chúng ta và mọi người thành tâm thiện chí sẽ được ơn cứu rỗi, khi chúng ta chấp nhận của lễ hy sinh trên thập giá nơi Đức Kitô và hy lễ này được tái diễn hằng ngày nơi bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta hãy có lòng ăn năn sám hối như người trộm lành để được Chúa thứ tha và ban ơn cứu độ. Xin Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria gìn giữ, bảo hộ ta để ta noi gương Giêsu Kitô vua luôn hiền từ, khiêm tốn và kiên trì.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Bạn hiểu thế nào về Chúa Giêsu Kitô vua vũ trụ ? Chúa Giêsu xưng vua khi nào ? Philatô có hiểu Chúa là vua không ?
Để diễn tả quyền bính cai trị của Chúa Giê-su Ki-tô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ: TN 34-ABC339
Để diễn tả quyền bính cai trị của Chúa Giê-su Ki-tô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Mát-thêu (25:31-46), đề cao Vua Giê-su như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (18:33-37) cho ta một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giê-su là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Lu-ca (23:35-43) trình bày Vua Giê-su hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Thánh danh Giê-su nghĩa là “Thiên Chúa cứu” đã nói lên uy quyền cứu độ của Thiên Chúa dành cho muôn dân qua sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su và tác động của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha.
a) Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giê-su
Vua Giê-su bị đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái chết đang đến gần Chúa Giê-su thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Trong giờ phút trọng đại ấy, thánh Lu-ca cho ta một hình ảnh tương phản giữa những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa và những kẻ tôn vinh Người. Một phía là các nhà lãnh đạo tôn giáo Ít-ra-en, đám lính tráng và một tên gian phi bị đóng đinh cùng nhau nhục mạ Người. Một phía là đám dân chúng kính cẩn đứng nhìn và tên gian phi hối cải đã can đảm bênh vực, tuyên xưng Chúa Giê-su vô tội và cầu xin Người cứu độ mình.
Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giê-su đã nhìn vương quyền ấy theo nhãn quan riêng của họ. Đối với đám lính tráng, vương quyền chỉ có nghĩa đơn giản là quyền hành của một ông vua trần gian, thí dụ như hoàng đế Rô-ma hoặc vua Hê-rốt chẳng hạn. Do đó họ không thể chấp nhận một người đã bị họ đóng đinh vào thập giá lại có thể xưng mình là “vua dân Do-thái” được. Nếu quả thực Chúa Giê-su là một tên tội phạm, thì chính dân Do-thái cũng chẳng muốn chấp nhận một người như vậy là vua của họ. Tên gian phi nhục mạ Chúa thì chỉ nhìn vương quyền của Chúa dựa trên nhu cầu riêng tư của hắn. Vì Chúa Giê-su không thể tự cứu mình và cứu được hắn, nên Chúa Giê-su cũng chẳng hơn gì hắn. Nhưng đối với những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái, cái nhìn của họ về vương quyền của Chúa Giê-su phức tạp hơn. Khi đặt câu hỏi giả dụ Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô”, chắc chắn họ đã hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu Ki-tô ấy. Là những người học biết và tin vào Kinh Thánh, họ hiểu Đấng Ki-tô là ai theo sấm ngôn của I-sai-a nói về Người Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6). Nhưng đối với họ, Chúa Giê-su chỉ là một anh thợ mộc đến từ Na-da-rét miền Ga-li-lê. Những người ở Giê-ru-sa-lem đặt câu hỏi Chúa Giê-su có đích thực là Đấng Ki-tô không và họ tự trả lời: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7:27). Tóm lại, họ không muốn nhìn nhận sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su, mặc dù Chúa Cha đã đích thân giới thiệu: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9:35), hoặc chính Chúa Giê-su đã nhiều lần khẳng định: “Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi đến là Đấng chân thật. Các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7:28-29).
Có lẽ mỗi cách phủ nhận vương quyền của Chúa Giê-su qua những hạng người ấy đều nói lên một cách nào đó của những con người hôm nay không muốn nhìn nhận quyền năng cứu độ của Chúa Giê-su. Những tham vọng, tự cao tự đại và lợi nhuận vật chất đã trở thành những trở ngại, che lấp con mắt đức tin của ta để ta không nhận ra được con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giê-su nữa.
b) Nhìn nhận Chúa Giê-su là Vua cứu độ
Trái ngược với những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giê-su là đám dân chúng “đứng nhìn” và nhất là người gian phi thống hối. Những kẻ phủ nhận thì ồn ào buông lời chế giễu Người. Còn những người nhận biết Chúa Giê-su thì giữ thái độ im lặng kính cẩn hoặc tha thiết cầu xin Người. Bởi đâu họ nhận biết Người? Hẳn phải là do cung cách của Chúa Giê-su ngay trong những giây phút trầm trọng cuối đời. Chính trên thập giá, Người đã biểu lộ tột đỉnh của tình yêu, và tình yêu đã nói lên cung cách của người “thí mạng sống mình vì bạn hữu” và sẵn sàng tha thứ tất cả. Tình yêu đã biến đổi lòng đám dân chúng. Họ không theo thói a dua của người đời mà khinh bỉ người tử tội Giê-su, giống như nhóm lãnh đạo tôn giáo, tên gian phi không hối cải và đám lính tráng đã làm. Nhưng họ đang “đứng nhìn”, một thái độ chiêm ngưỡng để cố gắng nhận ra chiều kích “dài, rộng, cao, sâu” của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu trên thập giá cũng biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giê-su. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giê-su: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giê-su là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia: “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra được Chúa Giê-su là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là “ông Giê-su”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giê-su được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh danh Người. “Giê-su” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Chiêm ngưỡng tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su, đồng thời kêu cầu với Người: “Xin nhớ đến con” chắc chắn sẽ là điều mọi Ki-tô hữu phải lập đi lập lại trong suốt cuộc sống mình.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi thuộc nhóm người phủ nhận vương quyền của Chúa Giê-su không? Nếu có thì điều gì đã làm cho tôi không muốn nhận Chúa làm vua tâm hồn tôi?
Tôi có chiêm ngưỡng Chúa Giê-su và tình yêu Thiên Chúa khi cầu nguyện trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá bao giờ không? Tôi thử tập thói quen cầu nguyện như vậy, bằng cách quỳ trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá và ngước nhìn lên Chúa, để cố gắng cảm nghiệm Chúa đã yêu thương tôi đến mức nào.
Những khi gặp đau khổ hay bất công, tôi có dùng dịp ấy để biểu lộ tình yêu đối với người khác không? Tôi có làm chứng cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá, bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khao khát nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen. Nhờ Cha, ước gì khổ đau của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng. Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
Cha Karl Rahner (Trích RABBOUNI, lời nguyện 63) Lm. Trần Đình Nhi
Đoạn Kinh Thánh này đã được suy niệm trong Chúa Nhật 15 quanh năm, chu kỳ Phụng vu: TN 34-ABC340
Đoạn Kinh Thánh này đã được suy niệm trong Chúa Nhật 15 quanh năm, chu kỳ Phụng vụ năm C. Do đó, chúng tôi xin lấy lại ở đây.
Trong những câu trước (1-14), thánh Phao-lô khen ngợi tín hữu Cô-lô-xê có đức tin mạnh mẽ từ khi họ được ơn trở lại. Ngài vẫn luôn cầu nguyện cho họ, xin Chúa ban cho họ được mỗi ngày nhận biết thánh ý Chúa hơn. Giờ đây ngài tiếp tục trình bày tương quan giữa Chúa Ki-tô với Chúa Cha, với công trình tạo dựng và với kế hoạch cứu chuộc, tức là phần giáo thuyết quan trọng nhất của thư Cô-lô-xê. Chính vì thế, đoạn thư này đã được sử dụng cho Chúa Nhật 15 quanh năm và được lập lại trong lễ Chúa Ki-tô Vua.
Nhiều học giả Kinh Thánh coi Cl 1:15-20 là một bài thánh ca phụng vụ được thánh Phao-lô đưa vào trong thư, nhằm nhắc nhở tín hữu Cô-lô-xê về thế giá siêu việt của Đức Ki-tô. Đoạn Kinh Thánh chia làm hai phần. Phần thứ nhất (1:15-18a) nói về vai trò của Đức Ki-tô trong công việc tạo dựng và phần thứ hai (1:18b-20) bàn đến công việc của Đức Ki-tô trong chương trình cứu chuộc.
Vai trò của Đức Ki-tô trong việc tạo dựng được diễn tả qua những giới từ trong Người, nhờ Người và cho Người. Muôn loài muôn vật, trên trời dưới đất, hữu hình vô hình, cả đến các thiên sứ mà tín hữu Cô-lô-xê bị cám dỗ thờ phượng, tất cả đều được tạo dựng trong, nhờ và cho một nguyên lý duy nhất là Đức Ki-tô. Tất cả đều có quan hệ với căn tính của Đức Ki-tô vì Người là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" và "trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo." Khi diễn tả Đức Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, thánh Phao-lô muốn nói nơi Đức Ki-tô "tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (2:9). Còn khi nói Đức Ki-tô là trưởng tử muôn loài thụ tạo, ngài khẳng định vị thế ưu việt của Đức Ki-tô trên mọi thụ tạo, nghĩa là sự hiện hữu của mọi thụ tạo đều hoàn toàn tùy thuộc Người. Thánh Phao-lô kết luận về vai trò của Đức Ki-tô trong việc tạo dựng bằng hình ảnh Người là "đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh." Ý niệm Hội Thánh là "nhiệm thể Chúa Ki-tô" trong thư Ê-phê-xô và Cô-lô-xê hơi khác với ý niệm trong thư Rô-ma 12:3-8 và thư 1 Cô-rin-tô 12:12-31. Hình ảnh nhiệm thể trong Rm và 1Cr nhấn mạnh đến vai trò chức năng, còn trong Ep và Cl chỉ là dùng hình ảnh để mô tả. Do đó, Ep và Cl muốn nói về Hội Thánh toàn cầu trong khi Rm và 1Cr nói đến hội thánh địa phương; như thế Ep và Cl đưa chúng ta tới cái nhìn Ki-tô học mang chiều kích vũ trụ quan.
Bắt đầu từ câu 18b, thánh Phao-lô chuyển sang vai trò của Đức Ki-tô trong công cuộc cứu chuộc. Cũng giống như phần thứ nhất khi gọi Đức Ki-tô là "trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo," thì trong phần thứ hai, ngài gọi Đức Ki-tô là "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại." Gọi Đức Ki-tô như thế, ngài muốn nói lên sự ưu việt của Đức Ki-tô trong chương trình cứu chuộc, nghĩa là việc mọi người được cứu chuộc đều hoàn toàn tùy thuộc vào Đức Ki-tô. Tiếp đến, khi giải thích sự viên mãn chỉ được thể hiện trong Đức Ki-tô (có lẽ là việc bản tính nhân loại của Đức Ki-tô đã thể hiện được hình ảnh Thiên Chúa vô hình cách đầy đủ nhất), thánh Phao-lô muốn nói rằng kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa là Người muốn muôn vật phải được hòa giải với Người nhơ# Đức Ki-tô và nhờ Máu Đức Ki-tô đổ ra trên thập giá.
Như thế chúng ta có thể nhận ra cách trình bày song song giữa vai trò của Đức Ki-tô trong việc tạo dựng với vai trò của Đức Ki-tô trong việc cứu chuộc. Muôn loài trên trời dưới đất được tạo dựng trong, nhờ và cho Đức Ki-tô, thì cũng thế, muôn loài trên trời dưới đất được hòa giải (nghĩa là được cứu chuộc) nhờ Đức Ki-tô và nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá.
Có một nguy hiểm là chúng ta thường tách rời hai việc tạo dựng và cứu chuộc như hai thời điểm riêng biệt. Nếu đọc những dòng trên của thánh Phao-lô, chúng ta sẽ nhận ra tạo dựng và cứu chuộc là hai chiều kích của cùng một tiến trình. Tôi được Thiên Chúa tạo dựng là để cho tôi được trở nên giống Người (St 1:26-27) và tôi được cứu chuộc nghĩa là hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện nơi tôi. Đối với tiến trình tạo-dựng-cứu-chuộc ấy, Đức Ki-tô là nguyên lý, tức là tiến trình ấy chỉ có thể được thực hiện trong Người, nhờ Người và cho Người.
Sử dụng đoạn thư Cô-lô-xê 1:12-20 cho chủ đề vương quyền của Chúa Ki-tô quả là một lựa chọn thích hợp. Đoạn Kinh Thánh không nói tới quyền bính, trật tự giữa vua tôi, nhưng nói tới quan hệ mật thiết, yêu thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa vị Mục tử và con chiên. Mật thiết và yêu thương đến nỗi tất cả con người của chúng ta (được tạo dựng và được cứu chuộc) hoàn toàn tùy thuộc nơi Đức Ki-tô. Trình bày mối tương quan ấy, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy để Chúa Ki-tô hoàn toàn chiếm hữu mình, hoặc nói khác đi, hãy để Chúa Ki-tô làm vua trọn vẹn tâm hồn chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Trong Thánh Lễ, tôi nhận ra thế nào về tầm quan trọng của những lời kết thúc phần kinh nguyện Thánh Thể: "Chính nhờ Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô..."?
Vai trò của Đức Ki-tô gắn liền với thân phận mỗi người chúng ta và đưa tới kết luận: chúng ta phải kết hiệp với Người (Cl 3:1-3). Vậy tôi có nhận thức vai trò ấy không? Và tôi kết hiệp với Đức Ki-tô như thế nào? Làm sao phát triển quan hệ với Chúa Ki-tô?
Nếu có dịp đọc hết thư Cô-lô-xê, tôi học hỏi được những gì về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và mầu nhiệm Hội Thánh?
Để hiểu thêm về giáo lý của thư Cô-lô-xê, tôi nên đọc thêm thư Ê-phê-xô là thư khai triển rộng hơn cùng một giáo lý này. Nhóm sẽ làm gì để giúp nhau học hỏi về giáo lý của hai thư quan trọng này?
Cầu nguyện kết thúc
Sau những lời nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Gặp gỡ Đức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình...", hoặc một bài hát thích hợp.
Người cũng là đầu một thân thể, thân thể đây, chính là Hội Thánh. Người khởi điểm cho đời sống mới: TN 34-ABC341
"Người cũng là đầu một thân thể, thân thể đây, chính là Hội Thánh. Người khởi điểm cho đời sống mới phát sinh...". Những lời của Thánh Phaolô trên đây thường không được đón nhận trong cụ thể một cách toàn vẹn. Người ta đã chia cắt lời ấy thành những mảnh vụn để thích ứng và biện minh cho một lối sống, một cách hành xử.
Đã có thời người ta chỉ dừng lại trong chữ "đầu" để biện minh cho một cơ chế quyền bính. Cũng có thời chữ "thân thể" được nhấn mạnh và triển khai để gióng lên những đòi hỏi dân chủ hóa. Và trong cái thực tế xã hội hôm nay: ở những thể chế chính trị khác nhau người ta thường vận dụng rất khác nhau nhiều khi đến mâu thuẫn những cách đọc và hiểu lời Thánh Kinh này.
Trong bối cảnh của ngày lễ hôm nay, và đứng trước những vấn đề của thời đại trong đó tôi không loại trừ những thách thức và chống đối trên những bình diện đa dạng và phức tạp nhằm vào các Giáo Hội địa phương, tôi muốn để tâm hồn mình lần theo "khởi điểm" của Người mà thánh Phaolô đã nói trên kia, và đi đến tận đồi Can vê để chiêm ngắm tấm bảng trên đầu Người mà thánh Luca ghi lại trong Tin Mừng:"Người này là vua dân Do Thái".
"Khởi diểm cho đời sống mới", trong điều kiện tôi có thể nắm bắt, đã hình thành trong lòng dạ một người nữ Nazareth, một thân phận nô lệ trong một quốc gia bị nô thuộc, một thân phận nhỏ bé và khiêm hạ. Nếu không nói tới ngay từ lúc sinh ra đời, đã hình thành cạnh nôi hèn của mình, những liên đới thật an bình và yêu thương với mọi người dù là những mục đồng, hay những kẻ quyền quý, với một sự trân trọng lạ thường, nếu cần thì trốn tránh và ẩn dấu mình trong cõi thinh lặng của quên lãng. 30/33 năm cuộc đời là thế, không phải không có một ý nghĩa tuyệt đối soi chiếu cái "khởi điểm" lạ lùng này. Chỉ cần nói tới suốt thời gian công khai cuộc sống từ giòng sông Giorđanô đến Núi Sọ, cuộc đời ấy có mặt ở mọi nơi trong cuộc sống đồng bào mình, nhưng đặc biệt dường như lại đan kết thành một hành trình không ngừng nghỉ. Tuy cũng có những lúc dừng chân nơi Đền Thánh rực rỡ, hoặc trong những bữa tiệc của lớp lãnh đạo, nhưng phần lớn là ở giữa những đám đông đói khát cả tinh thần lẫn vật chất, và rất nhiều lần đã gặp gỡ và tiếp đón những con người bạc phận, tội lỗi... Điều mà chúng ta phải đặc biệt nói tới như là một hình ảnh xuyên suốt hành trình : mọi người không ai có thể kết án Ngài về một tội nào; và chính điều ấy đánh thức lòng tin của mọi người vào cuộc sống mới có thật, cuộc sống trong ân sủng của Thiên Chúa, cuộc sống chỉ có Yêu Thương và Tha Thứ, cuộc sống của chính Thiên Chúa. Và như chính Ngài đã bộc lộ, hành trình tại thế của Ngài là Hành Trình của Thiên Chúa đến gặp gỡ và yêu thương nhân loại, thậm chí "Ai thấy Thầy là thấy Cha". Và đấy là sự thật sâu xa nhất của chính con người.
Nhìn "khởi điểm cho đời sống mới" như thế, mới hiểu được quả thật chỉ có Ngài là Thầy, là Chúa, là Vua. Nhân loại này, không ai có thể loại trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống, dù là cuộc sống bản thân mình. Người ta chỉ có thể diệt trừ tội lỗi khi chấp nhận để chính Ngài sống trong cuộc sống của họ, để Thánh Thần Ngài thấm nhuần, thánh hóa và thánh hiến họ. Đấy là mục đích của "khởi điểm". Và quả thật, các kẻ tin vào Ngài có một ưu tư duy nhất là nên một với Ngài. Giáo Hội kể từ Nhà Tiệc Ly khi đã nhận lãnh Thánh Thần đã bung ra tận cùng bờ cõi trái đất tiếp tục hành trình thiết lập Vương Quyền của Đức Kitô để loại trừ tội lỗi ra khỏi anh chị em mình bằng Tình Yêu và Tha Thứ của Quyền Năng Thánh Thần. Giáo Hội phải hiện diện một cách an bình và phục vụ như chính Đức Kitô ngay cả trong những tình huống xấu xa nhất : tình huống của thân phận một nô lệ trong một không gian bị nô thuộc.
Cũng đã có những con người trong và ngoài Giáo Hội đã đánh mất căn tính của ơn gọi và sứ mạng ấy dưới những lớp vỏ muôn màu sắc của nhân sinh, nhưng Giáo Hội đã được củng cố nhờ những con cái Thánh Thiện của mình trong mỗi thời đại, những người con nhiệt tình và trở lại với "Khởi điểm cho sự sống mới" này. Nhìn vào thế giới hôm nay, với việc tôn phong rất nhiều các Vị Thánh, khẳng định Vương Quyền của Đức Kitô vẫn là niềm hy vọng duy nhất cho mọi xung đột và bất ổn của nhân loại.
Ngày 16 tháng 09 năm 2007 vừa qua, kỷ niệm 5 năm ngày ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn: TN 34-ABC342
Ngày 16 tháng 09 năm 2007 vừa qua, kỷ niệm 5 năm ngày ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận qua đời, Tòa Thánh khởi sự án phong chân phước cho người. Hôm sau, khi tiếp kiến Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, ĐGH Bênêđictô XVI đã gọi ĐHY là “vị Ngôn Sứ đặc biệt của niềm hy vọng Kitô.”(1) Tại sao? Đây là câu trả lời của ĐHY: “Thánh giá và dây đeo này không những là kỷ niệm quý giá về những năm tù đầy, nhưng còn là một nhắc nhớ liên lỉ cho tôi biết rằng chỉ có đức ái Kitô mới có thể hoán cải tâm hồn, chứ không phải vũ khí, lời hăm dọa hay truyền thông. Những người canh gác tôi rất khó biết khi nào tôi nói về lòng yêu thương kẻ thù, sự hòa giải và ơn tha thứ."(2)
Khi còn sinh tiền, đi đâu ĐHY Nguyễn Văn Thuận cũng khoe cây Thánh giá Người đã dầy công tác tạc trong lao tù. Cây Thánh Giá đã khắc sâu trong tâm hồn người như một hồng ân và một dấu chỉ độc nhất giúp người nhận biết và đón nhận Vua Công Chính đang cai trị Nước Thiên Chúa bằng tình yêu bất bạo động.
ĐĂNG QUANG TRONG NƯỚC MẮT
Giây phút cuối cùng trên thánh giá thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ cho Chúa thực hiện những điều vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chưa bao giờ Chúa trải qua cơn đau khổ, nhục nhã cùng cực như vậy. Chỉ còn khoảnh khắc nữa, Chúa sẽ bị đẩy vào cõi thinh lặng ngàn thu. Nhưng chính lúc đó, Chúa đã hoàn thành sứ mạng cao cả nhất, sứ mạng công chính hóa nhân loại. Vua Công Chính đã đăng quang trong một khung cảnh ngược đời.
Khác hẳn mọi vua chúa trần gian, Chúa đã chọn giây phút nhục nhã nhất để tỏ ra tất cả vinh quang Thiên Chúa. Hậu cảnh càng đen tối càng làm nổi bật những nét công chính vĩ đại trong tình yêu Thiên Chúa. Trong khung cảnh tối tăm và giữa những tên đại gian ác, Con Chúa đã lên ngôi dẫn theo cả một đàn em đông đúc. Kể từ giờ phút đó, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:13-14)
Nhân loại đã xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng Công Chính. Đó là sự bất công vô cùng đối với Thiên Chúa. Đồng thời họ đánh mất sư công chính thuở ban đầu. Không ai có thể đền bù nổi sự mất mát lớn lao đó. Nếu Con Chúa không lấy cái chết nhục nhã để trả lẽ công bình cho Thiên Chúa, nhân loại muôn đời không bao giờ được công chính hóa. Hình ảnh Thiên Chúa vĩnh viễn xóa tan trong con người. May thay, Con Thiên Chúa đã đến gánh tội trần gian và chấp nhận mọi đau thương, nên con người mới lấy lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Chính lúc đòi Thánh Tử đền thay tội trần gian, Thiên Chúa đã mạc khải tất cả tình yêu vô cùng lớn lao cho nhân loại. “Để cứu đầy tớ, Chúa đã hy sinh chính Con yêu.” (Lễ Phục Sinh) Hai mặt công bình và tình yêu đã tìm được hòa điệu tuyệt vời nơi Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng và cứu vớt tất cả từ cây Thánh Giá.
Không có cái nhìn sâu xa đó, những người Do thái lại lên giọng thách thức Chúa: “Ông hãy cứu lấy mình!” (Lc 23:35) Câu nói được lặp lại ba lần, cho thấy công cuộc cứu độ là vấn đề chính mọi người đều quan tâm ở đây. Lần thứ nhất phát xuất từ miệng những người cầm quyền. Họ tưởng quyền bính là tuyệt đối. Họ đã không cứu, thì không ai có thể thoát khỏi tử thần. Trớ trêu thay, chính lúc họ thách thức, không những Chúa đã tự cứu chính mình, mà cả nhân loại. Thật là phi thường và bất ngờ!
Lần thứ hai những người lính cũng hò hét ngạo mạn Chúa. Theo họ, nếu thực sự là vua dân Do thái, Chúa Giêsu phải chiến đấu, như họ thường trực diện tiêu diệt quân thù. Họ muốn nhắc nhở Chúa phải triệt tiêu những điều bất chính trong trần gian. Càng gào to, họ càng không hiểu chút gì về vương quyền và vương quốc của Chúa Giêsu. Chúa không nghe theo luận điệu của họ để tiêu diệt kẻ thù trước mắt. Người không chống cự hay giận dữ. Nhưng Người phó thác số phận và cuộc đời trong tay Chúa Cha. \
Lần thứ ba tiếng nhục mạ vang lên từ miệng tên gian phi. Tuy cùng chung số phận, kẻ trộm bên tả lên tiếng nghi ngờ và thách thức Chúa. Chúa nhường lời cho người đồng phạm của y đáp trả hắn đích đáng. Chỉ cần một chút lương tri, người trộm lành lý luận với đồng phạm về bản chất công lý: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:41) Lẽ tự nhiên, có vay có trả. Tâm thức đó phản ảnh đức công chính nơi Thiên Chúa.
Người trộm lành đã tỏ ra hiểu biết Chúa chính xác. Không những thế, dù đang đau đớn cùng cực, anh vẫn tin tưởng kêu lên: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Lập tức Chúa nói với anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Như một ngôn sứ vĩ đại, Chúa đã nói lên một sự thật, sự thật về lòng thương xót vô điều kiện của Chúa. Không phải chỉ bằng lời nói, nhưng qua hành động, Người đã chu toàn sứ mệnh dù đang hấp hối: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2:17)
Thiên Chúa có cái nhìn khác hẳn con người. Ơn cứu độ không thực hiện theo bộ diện bên ngoài. Ơn cứu độ là sự công chính hóa toàn diện, phát xuất tư tình yêu Thiên Chúa. Người muốn cứu vớt tự bên trong và hướng con người đến hạnh phúc đích thực. Người không muốn biểu diễn những pha ngoạn mục trước mắt người đời. Nhưng Người thực hiện tức khắc những gì đã hứa cho những ai thuộc về Nước Thiên Chúa. Thiên Chúa mạc khải tình yêu vĩ đại và hoàn toàn nhưng không khi Chúa tỏ lòng thương xót đối với người trộm lành. Người trộm lành trở thành biểu tượng cho những muốn ai đón nhận ơn tha thứ sâu xa của Thiên Chúa.
Chính nhờ tình yêu, Chúa Kitô đã biến đổi con người hoàn toàn. Người đến để cải hóa chúng ta. Người đưa dẫn chúng ta qua nẻo đường mầu nhiệm tới cảnh trời mới đất mới. Đó là cách khiến Chúa Kitô trở thành vị vua rất phi thường. Ngày xưa, các ngôn sứ hay các nhân vật Cựu ước chỉ ảnh hưởng bên ngoài qua các lề luật. Khác với họ, Chúa Giêsu biến đổi tận nội tâm con người nhờ ân sủng. Chúa không nói nhiều. Nhưng Người biến chúng ta thành tạo vật mới và trở thành con Thiên Chúa, vì đã đươc công chính hóa. Từ đó, không những là Vua Công Chính, Người còn là Tạo Hóa. Thật vậy, “trong Người, muôn vật được tạo thành.” (Cl 1:15
Không có vị vua nào có thể sánh ví với Người. Lãnh thổ của Người bao trùm vạn vật, vì “tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người.” (Cl 1:16) Nói khác, Người là điểm quy tụ muôn loài. Dù sống giữa những đối kháng, Người vẫn có khả năng hòa giải, vì có thể làm cho mọi loài nên công chính. Người là Vua Hòa Bình. Thật vậy, “nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:20) Trên bàn thờ thập giá, Người đã trở thành vị Thượng Tế và Hi tế để hòa giải, nối kết và hoàn thành mọi việc trong đất trời (x. Cl 1:19).
CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH
Nhìn lên Thánh giá, nếu không có đức tin, sẽ không thể hiểu tại sao Vua Công Chính lại trở thành Vua Hòa Bình. Nhưng thực sự khi chết cực kỳ đau khổ trên Thánh giá, Người đã trả lại công lý, mạc khải tình yêu và đem lại ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại. Đó là những điều kiện cho một nền hòa bình đích thực, hòa bình không do bạo động.
Quả thế, “không thể có hòa bình, nếu không có công lý. Không có công lý nếu không tha thứ.”(3) Nhìn vào thực tế, ĐGH Gioan Phaolô II lý luận: “Trong tình thế hiện tại, làm sao chúng ta có thể nói về công lý và sự tha thứ như nguồn suối và điều kiện hòa bình? Chúng ta có thể và phải nói, dù khó khăn tới mấy. Khó khăn vì thường tưởng rằng công lý và sự tha thứ không thể dung hợp. Nhưng tha thứ đối nghịch với sự oán hận và trả thù, chứ không với công lý. Thực vậy, hòa bình đích thực là 'công trình của công lý.' (Is 32:17) Theo Công đồng Vatican II, ‘hòa bình là kết quả việc ổn định trật tự thiên nhiên do Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc vào xã hội loài người và phải được con người luôn khát vọng nền công lý hoàn hảo hơn thể hiện ra hành động.’ (Gaudium et Spes, 78) Bởi đó, hòa bình đích thực là kết quả công lý. Nhưng vì công lý nhân loại mong manh và bất toàn, lệ thuộc vào những giới hạn và tính ích kỷ của cá nhân và phe nhóm, nên nó phải được bổ túc bằng sự tha thứ, có sức chữa lành và tái thiết tận nền tảng những mối tương quan đang gặp trục trặc.”(4)
Vì thế, tuần cuối cùng năm phụng vụ là cơ hội thuận tiện nhất cho chúng ta đi tìm điểm tựa vững chắc cho công lý, hòa bình và ơn cứu độ nơi Thánh Giá. Chính nhờ Thánh Giá, Chúa Giêsu trở thành “hòa bình của chúng ta.” (Ep 2:14) Người đã phá vỡ bức tường thù hận ngăn cách dân chúng và hòa giải họ với Thiên Chúa (x. Ep 2:14-16). Như vậy, Người đã hóa giải mọi đối kháng và công chính hóa nhân loại theo đúng chương trình của Thiên Chúa. “Lời hứa hòa bình trong suốt Cựu ước đã thực hiện trọn vẹn nơi chính con người Chúa Giêsu. Thực vậy, hòa bình là phẩm tính tuyệt hảo của thời Thiên Sai, gồm mọi hiệu quả tốt đẹp khác của ơn cứu độ. Trong tiếng Do thái, nguyên nghĩa chữ ‘shalom’ là ‘sự hoàn thành. (x. Is 9:5 tt; Mk 5:1-4) Vương quốc Thiên Sai chính xác là vương quốc hòa bình (x. G 25:2; Tv 29:11; 37:11; 72:3, 7; 85:9, 1; 119:165; 125:5; 128:6; 147:14; Dc 8:10; Is 26:3,12; 32:17 tt.; 52:7; 54:10; 57:19; 60:17; 66:12; Hg 2:9; Dc 9:10; v.v.).”(5)
Như thế, Thánh giá đã có một chiều kích vũ trụ, bao trùm toàn thể nhân loại. Hơn lúc nào, con người cần sống chung hòa bình. Nhưng nếu không học nơi Thánh giá, họ không biết cách tha thứ, yêu thương và sống công chính. Bởi thế, chỉ Thánh Giá mới dạy chúng ta bài học sâu xa về hòa bình.
“Hòa bình là một giá trị và một bổn phận chung của mọi người. Nền tảng của nó thuộc lãnh vực lý trí và luân lý của xã hội, bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, ‘cội nguồn đầu tiên của vạn vật, chân lý cốt tử và là sự thiện tuyệt đối.’ Hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ là duy trì thế cân bằng lực lượng giữa những bên đối nghịch. Hơn nữa, muốn hòa bình, phải hiểu đúng về nhân vị và cần thiết lập trật tự dựa trên công lý và tình yêu. Hòa bình bị đe dọa khi con người không có tất cả những gì xứng với nhân vị của họ, khi phẩm giá họ không được tôn trọng và khi đời sống dân sự không hướng đến thiện ích chung. Muốn xây dựng một xã hội hòa bình và phát triển toàn thể cá nhân, các dân tộc, và các quốc gia, phải bảo vệ và cổ võ nhân quyền.”(6)
Khi bị treo trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã cho thấy tất cả giá trị lớn lao của hòa bình đều có nguồn gốc sâu xa nơi Thiên Chúa. Đồng thời, chính Chúa đã trả lại cho con người tất cả giá trị quý báu nhất là nhân phẩm. Chính Chúa đã làm cho con người đáng được Thiên Chúa tôn trọng. Quả thế, công lý và tình yêu đã trở lại với con người. Nhờ được công chính hóa, con người còn lên tới một địa vị cao hơn nhân phẩm. Con người trở thành con Thiên Chúa trong một gia đình có Chúa Giêsu “là trưởng tử,” (Cl 1:18) một Hội thánh có Chúa là đầu (x. Cl 1:18).
TÌNH YÊU BẤT BẠO ĐỘNG
Khi Vua Công Chính lên ngôi, con người tìm lại được tất cả những gì đã mất. Không những nhân phẩm được phục hồi, con người còn được sống và sống dồi dào trong tình yêu và ân sủng Thiên Chúa. Đúng như Chúa nói: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12:32) Chúa kéo mọi người lên không phải bằng bạo lực, nhưng bằng tình yêu tha thứ, bất bạo động và công chính hóa. Chính người trộm lành đã làm chứng: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:41) Hành động bạo lực đã đưa đến cái chết. Tình yêu bất bạo động đã được nêu cao như một bài học nhân ái và công chính. “Chúa đã dạy các môn đệ bản chất bất bạo động của tình yêu có tính thánh thiêng và sức mạnh cứu độ.”[7] Quả thực, bản chất bất bạo động lộ rõ trong lời cuối của Chúa: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23:34) Việc họ làm đầy bạo động, nhưng đã phải đầu hàng trước tình yêu bất bạo động của Chúa. Tất cả sức mạnh cứu độ nằm ở chỗ đó.
Thiên Chúa là một Thiên Chúa tình yêu bất bạo động. Đạo lý Thiên sai là Con đường tình yêu bất bạo động. Kitô hữu là một người có tình yêu bất bạo động. Giáo hội phải là Cộng đồng mới với tình yêu bất bạo động. Đường hướng bất bạo động trọn vẹn của Tin Mừng kêu gọi chúng ta thay đổi cách tư tưởng, nói năng, hành động và lối sống tình cảm nữa.
“Nhiệt lực cần cho việc điều hành các nước trên thế giới là bạo động. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu không chấp thuận cơn cám dỗ trong sa mạc khi ma quỷ dâng Chúa quyền thống trị các nước trên thế giới. Đó là lý do tại sao nhà nước không phải là đối tượng cứu độ trong Tin Mừng. Quyền lực có khả năng biến đổi. Chúa Giêsu thi hành nhiều thứ quyền lực khác. Quyền chữa lành, quyền tha tội, quyền yêu kẻ thù và quyền thương xót là tất cả mọi hình thức quyền lực và tất cả đã làm thay đổi hạnh phúc con người đời này cũng như đời sau. Thực vậy, thánh Phaolô gọi Chúa Giêsu và Thánh giá Chúa là ‘sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa’(1 C 1:24). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chú tâm tới quyền lực Satan trao tặng, vì quyền hành đó là bạo lực giết người. Chúa Giêsu không chấp nhận trở thành vua dân Do thái hay thủ tướng của một cơ chế chính trị.”(8)
Trong khi đó, để bảo vệ an ninh và hạnh phúc cho một số nhỏ, nhiều nhà nước trên thế giới đang chà đạp nhân phẩm. Mạng sống con người không còn được tôn trọng. Các quyền căn bản nhất cũng bị tước đoạt. Người ta dùng mọi hình thức khủng bố và bạo động để đàn áp con người. Xã hội sẽ đi về đâu khi tràn ngập những hình thức bạo động như thế?!
Nhạc sĩ Tuấn Khanh đau đớn nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay: “Rồi mai đây, chúng ta sẽ làm một tấm bia tưởng niệm cho lòng nhân ái của con người, lòng kính trọng cho nền giáo dục. Tấm bia có thể sẽ được dựng ở quảng trường thành phố, khắc ghi với dòng chữ 'ở đất nước này, nơi đây, đã từng có một giai đoạn, con người đối xử với nhau như dã thú.' Công an đã nhét súng vào họng thường dân để tra khảo. Thầy cô đã giao học trò mình cho những người có vũ trang đánh đập. Người cùng màu da đã nhục hình trẻ con 10 năm. Thế hệ trẻ đã hận thù nhà trường, căm hận xã hội và cười chê, phỉ nhổ vào nền đạo đức giáo khoa... và tất cả những điều đó, điều đã bị lãng quên trong sự vô và cố tình của của nhiều tầng lớp con người, kể cả quan chức có trách nhiệm.
"Những điều dị thường đó, xảy ra hàng ngày, khiến những giọt nước mắt khóc thương cho bé trai 13 tuổi tự tử vì danh dự 47,000 đồng đã rơi ít đi, niềm vui cho bé gái bị nhà trường tra khảo đến phát điên vì 47,800 đồng oan, nay đã nói lại được cũng lặng lẽ hơn. Xã hội đã chai lì, con người đã làm quen với những điều bất khả mà nay quá thường nhật: như con thú ăn cỏ sau khi làm quen uống máu đồng loại đã biến thái vô luân.”.(9)
Đàng khác, dưới sức ép của quyền lực bạo động nào, các tôn giáo phải chịu thiệt thòi về mọi mặt như hiện nay? Điển hình, Hòa thượng Quảng Độ nói trước tập thể Dân oan khiếu kiện tại Văn phòng 2 Quốc hội CS (ở Sài Gòn) ngày 17-7-2007: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng là nạn nhân của chế độ như đồng bào. Giáo hội chúng tôi cũng bị cướp đoạt tất cả mọi cơ sở, từ giáo dục, từ thiện cho đến chùa viện... Giáo hội chúng tôi cũng đã từng khiếu kiện suốt ba mươi năm qua. Cho đến nay đã có cả nghìn bức văn thư khiếu kiện, mà họ không hề phản hồi một văn thư nào, không giải quyết gì cả. Họ coi dân như cỏ rác. Riêng Công giáo, thì Nhà nước CS vẫn tiếp tục cưỡng chiếm 102/107 ha của đan viện Thiên An, Huế, cưỡng chiếm 17/23.5 ha của linh địa La Vang, Quảng Trị cùng hàng ngàn cơ sở (tu viện, trường học, bệnh viện, nhà trẻ, viện mồ côi…)”(10) Đó là những thiệt hại vật chất. Nhưng thiệt hại đó làm sao so sánh với những thiệt hại về tinh thần?! Thực vậy, “Các tôn giáo vẫn không có được báo chí, nhà xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình của riêng mình.”(11)
Đường lối khủng bố và bạo lực sẽ đưa xã hội Việt Nam về đâu?
Tự bản chất tôn giáo bất bạo động. Tôn giáo như nước. Ai có thể coi thường sức mạnh của nước? Hãy nhìn gương Miến Điện, Ba lan để học lấy bài học về sức mạnh của thế lực bất bạo động. “Nhu thắng cương. Nhược thắng cường.” Đông Tây Kim Cổ thời nào cũng thế thôi!
Tóm lại, chỉ có con đường bất bạo động của Vua Công Chính mới dẫn con người đến công lý, hòa bình và tiến bộ thực sự. Chúa là nạn nhân của bạo động, nhưng đã vượt thắng bằng chính tình yêu bất bạo động của mình.
Lạy Chúa, Chúa đã mạc khải bản chất tình yêu bất bạo động như một sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn lên Thánh Giá để học bài học tha thứ và thấy tất cả vinh quang của Vua Công Chính trong công cuộc cứu độ nhân loại. Amen.
đỗ lực 25.11.2007 --------------------------- [1] http://www.vietcatholic.net/News/Html/47319.htm [2] Nguyễn Văn Thuận, “Kinh Nghiệm về Quyền Lực Giải Thoát của Thiên Chúa,” Diễn Văn tại Hội Nghị về Giáo Dục Tôn Giáo tại Los Angeles, trước khi người qua đời năm 2002d. [3] Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002 http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/messages/peace/documents/hf_jp- ii_mes_20011211_xxxv-world-day-for-peace_en.html [4] ibid. [5] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 491. [6] ibid, 494. [7] McCarthy, E. C., http://centerforchristiannonviolence.org/downloads/WEB_2TeachWJT_04a.pdf [8] ibid. [9] http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=69514 [10] Phan Văn Lợi, http://tiengnoigiaodan.net/anews/0711_060.html [11] ibid.
Tôi còn nhớ vào lúc lên 12 tuổi, vừa bắt đầu vào lớp trung học, cái thú của tuổi trẻ là đấu kiếm: TN 34-ABC343
Tôi còn nhớ vào lúc lên 12 tuổi, vừa bắt đầu vào lớp trung học, cái thú của tuổi trẻ là đấu kiếm và mê "Thần tượng Đồ Long Đao, chém một nhát 7 đầu người khỏi cố". Trong lóp tôi có một người bạn giỏi đấu kiêm mà cả lớp không ai địch lại được những đường lả lướt của hắn. Ai cũng tôn hắn là "Đại Ca mắt lươn". Bao nhiêu trận đụng độ với các lớp, chúng tôi đều phải nhờ đại ca mắt lươn này dàn trận.
Thần tượng của giới học sinh là ông thầy giỏi, là bà cô giỏi.
Thần tượng của đám trẻ chơi là người bạn có mưu cao và có tài biến báo. Thần tượng của các tay anh chị Bến Nghé là Dũng Đakao hoặc Năm Mỏ Lét. Thần tượng của Tôn Giáo là đấng sáng lập nên tôn giáo đó (Như Thích Ca Mâu Ni, như Lão Tử, như Khổng Tử hay như Chúa Giêsu...) Các ngài đã tìm ta một con đường giúp người ta giải thoát khổ nạn và tìm được niềm hạnh phúc.
Đọc cuốn sách "Những bộ xương khô" của một nhà sưu tầm tôn giáp Pháp, kể lại chuyện của những nhà sư nổi tiếng trở lại Công Giáo, trong đó có một cầu chuyện rằng: Nhà sư T..... áo vàng Ấn Độ ngồi trên xe lửa bên vị Linh Mục. Dựa vào cảnh toa xe không có khách, hai vị tu hành ngồi nói chuyện tôn giáo với nhau. Vị khất tu T.... đặt câu thắc mắc:
- Tại sao nhân sinh lại theo nhiều tôn giáo khác nhau? Sao Cha lại theo Chúa Giêsu mà không thờ đức Thích Ca là người dẫn đường đi trước? Vị Linh Mục trả lời:
- Chuyện đó dễ thôi, thế giới ngay nay người nào giỏi thì được tôn làm đại ca. Nhưng những đại ca gở thì ai thèm ngó tới. Tôi rất kính phục các vị đại ca của các tôn giáo, vì các ngài đã tìm ra một lối giải thoát cho con người. Còn tôi, tôi không phục hết cả các ngài trừ ra đấng Đại Ca của tôi. Xưa kia tôi cũng là một nhà sư như đại đức đây. Cũng chính tại nghĩ đến lời đại đức vừa nói mà tôi tìm ra được vị đại ca tối cao này. Vị đại ca có quyền thế trên các vị đại ca khác là Đức Kitô. Tôi trà tầm hết cả các đường lối dẫn độ của các tôn giáo, nhưng tôi chỉ thấy có một vị dám xưng là "Chúa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao trên toàn cõi đất" Các vị khác không ai dám xưng như vậy.
Điều chứng minh Ngài chính là đại ca đã nhiều người được thấy tận mắt những việc Ngài làm mà chúng tôi gọi là phép lạ chứ không phải là phép phù thủy.
Ngày thứ 6 tuần thánh, Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo rằng Ngài tự xưng là vua. Do đó quan Philatô hỏi:
- Ông tự xưng là vua Do Thái ư? (Mt.27:11).
Philato đâu có ngờ đó là một sự thật, sự thật mà Chúa không thể nói cách nào khác để tránh né. Ngài phải nhận:
- Tôi là vua.
Ngài cũng đã dám tuyên xưng vương quyền của Ngài chẳng phải ở thế gian này và giáo lý của Ngài không ai áp đảo được như thánh Phaolô nói:
- Ngài là vua đứng đầu mọi thụ tạo. Ngài là vua vô hình và mọi loài trên trờ dưới đất đều phải thờ lạy. Ngài cai quản mọi loài, và Ngài có trước mọi loài.
Người trộm lành trong giây phút cuối cùng đã đặt hết hy vọng vào Ngài , nên Ngài đã hé môi "Hôm nay con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng" Chúng ta đang sống trong cảnh thiếu hạnh phúc cũng cần nhằm đến một thần tượng, một vua bất diệt.
Chuyện kể rằng: Trong lúc phong ba bão lớn, người nào cũng tin có Đấng Thượng Đế tối cao có quyền trên biển cả, nên họ kêu gào cầu cứu. Nhiều khi họ hứa sống hứa chết thay đổi cuộc đời xin Ngài cứu thoát. Tiếng lòng thành kêu xin được đáp lời ai nấy đều sửng sốt nói lên lời cảm tạ. Nhưng tháng ngày trôi qua, việc an lành đã đến, lúc đó họ chỉ còn nhìn thấy "thần Dolas" trước mắt. Họ cố gắng quên lời thể hứa đã qua.
Thần tượng của đời này được người ta tôn thờ là "Thần Tài, Thần Danh" Thực ra đó chỉ là phương tiện mà chúng ta đặt lên làm cứu cánh, còn chính Chúa Giêsu là cứu cánh, chúng ta hạ xuống làm phương tiện. Phương tiện cũ rồi không xài nữa, để cho màng nhện chăng. Chúa lúc nàu cầu không thiêng, thôi dẹp.
Nhân dịp cuối năm, Giáo Hội mừng kính Chúa Kitô là vua, nhắc nhở chúng ta xét lại quan niệm sống và cách xử đối với Đấng là Vua, là minh chủ, là đại ca mà chúng ta tôn thờ. Hãy tôn vinh Người là vua thực sự trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong gia đình và ngoài xã hội (21.11.2004).
“Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn” (Lc 23: 35).
“ Nếu ông là vua dân Do Thái, ông hãy tự cứu lấy mình đi” (Lc 23: 37). “ Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 25: 39).
Một lần nọ trong khi suy niệm Thánh Kinh về biến cố Tử Nạn, và việc Chúa bị đóng đinh trên Núi: TN 34-ABC344
Một lần nọ trong khi suy niệm Thánh Kinh về biến cố Tử Nạn, và việc Chúa bị đóng đinh trên Núi Sọ, một anh bạn tôi đã lên tiếng với quan điểm của riêng anh: “Phải là mình, mình sẽ xuống khỏi thập giá và đến thẳng mấy tên trưởng tế, kỳ mục đang to mồm chế nhạo tát cho mỗi đứa một cái, rồi lại lên nằm trên thập giá cho bọn nó thấy mà kinh hồn”.
Thật ra không phải chỉ anh bạn kia mới nghĩ như vậy, mà có lẽ nhiều người, và kể cả chúng ta đôi khi cũng nghĩ như thế. Phải mà là chúng ta, chúng ta chắc chắn không để bọn tư tế, kinh sư, đầu mục, và đám quan quân hỗn độn ấy coi thường như vậy. Điều này có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ai mà nói gì mình không làm hoặc không có thì bằng mọi giá phải cải chính, phải làm thế nào cho người nói ra câu nói ấy bẽ mặt. Nói cho ra nhẽ, nói để mà chừa lần sau đừng đụng chạm, xúc phạm đến ta nữa. Hoặc nếu mình có lỗi, có khuyết điểm thì lại tìm cách cắt nghĩa sao để người khác không nghĩ rằng mình tệ, mình dở, hoặc tầm thường như vậy. Và đó là tâm lý, là lối sống, và lối suy nghĩ thường tình của con người.
Chúa không xuống khỏi thập giá. Chúa Giêsu thì khác, Ngài không thể suy nghĩ và hành động theo lối thường tình. Ngài cũng không áp dụng lối sống thường tình được trong trường hợp này, vì đây là một việc làm đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Một việc làm liên quan đến vận mạng đời đời của nhân loại. Và vì thế, Ngài vẫn nhẫn nại ở trên thập giá để nghe những tiếng nhạo cười, thách thức. Để chứng kiến thái độ cao ngạo, tự mãn của những người ở dưới. Nhất là để câm nín và chết đớn đau trên thập giá.
Chúa không xuống khỏi thập giá. Mặc dù Ngài có thừa quyền năng như Ngài đã chứng tỏ trước đó: cho người mù được thấy, què được đi, khu trừ ma qủi ra khỏi nhiều người, chữa lành những kẻ phong cùi, khiến gió biển phải yên lặng, và nhất là cho kẻ chết sống lại. Những việc ấy Ngài đã làm được, thì việc xuống khỏi thập giá chắc chắn không phải là việc làm khó khăn đối với Ngài. Nhưng Ngài đã không xuống khỏi thập giá. Ngài đã chết thảm, chết trần truồng trên đó giữa tiếng chửi rủa, những cái nhìn khinh bỉ của ngay cả tên cướp cùng chịu hành hình bên cánh trái của mình.
Chúa không xuống khỏi thập giá. Chúng ta có lý để nghĩ rằng trước khi tắt thở, Chúa cũng nên cho bọn tư tế, kỳ mục, và quan quân kia một bài học về uy quyền của mình, biết đâu chúng thấy vậy mà ăn năn, xám hối?! Nhưng Chúa vẫn không xuống khỏi thập giá.
Ở một khía cạnh khác, một góc độ khác, và nhất là ở cái nhìn của ơn cứu chuộc, thì chúng ta phải suy nghĩ về hành động không xuống khỏi thập giá kia của Ngài. Mặc dù Ngài có quyền và có khả năng làm việc ấy, nhưng Ngài đã không làm, vì đối với những kẻ yêu mến Ngài, thì đây không phải là một hành động thách thức, mà là một lời mời gọi dấn thân. Do bởi tình mến, và vì yêu mến Con Thiên Chúa mặc xác phàm, đã chấp nhận chết đớn đau cho phần rỗi của nhân loại và của chính mình. Đó cũng là cuộc sống và cái chết mà Ngài đã tự nguyện. Một cái chết chứng tỏ tình yêu lớn lao mà Ngài dành cho mỗi người: “Không ai có tình yêu lớn lao hơn kẻ thí mạng sống vì người mình yêu” Gio 15:13). Ngài đã nói và đã thực hành điều ấy. Ngài muốn là một vị vua nhân ái. Ngài muốn xét xử thần dân mình trên ngai tòa thập giá, vì ở đó, Ngài đã chia sẻ đến tận cùng những đớn đau, yếu đuối, và mỏng dòn của thân phận con người.
Chúa không xuống khỏi thập giá. Vì Ngài muốn cho tất cả nhũng ai sẽ theo Ngài phải hiểu rằng, sẽ không có con đường nào, và không có phương pháp nào để chiếm hữu nước trời, để được vào vĩnh hằng, vào được vương quốc tình yêu, ngoại trừ con đường thập giá. Đối với những thử thách, đau đớn của cuộc đời, điều mà Đức Gioan Phaolô II gọi là “mầu nhiệm” của đau khổ hay mầu nhiệm thập giá. Con người không thể nào phân tích, hoặc cắt nghĩa được thập giá, ngoại trừ họ khiêm nhường ôm vác nó. Và như Chúa Giêsu, sẵn sàng chịu đóng đinh trên đó. Điều này cũng giải thích tại sao Chúa đã không xuống khỏi thập giá. Nó cũng nói lên một điều huyền bí này là tất cả các thánh nhân, những người thân thiết với Chúa Kitô đều là những người “mê” thập giá, và đã bị đóng đánh trên đó vì Ngài.
Khi Giáo Hội đề cao vương quyền của Chúa Giêsu mà lại dùng biểu tượng thập giá, cái chết nhục nhã của Ngài trên đó, hẳn là Giáo Hội có ý muốn nhấn mạnh đến một vương quốc tình yêu, một vương quyền tình yêu, một dân tộc tình yêu mà Chúa Giêsu đã lấy chính cái chết của mình để giải thoát, để qui tụ, và để đem về lại cho Thiên Chúa Cha. Việc Ngài chấp nhận nhực nhã, và chết đớn đau trên thập giá chính là bước đầu để dẫn tới vinh quang phục sinh, và mở màn cho một vương quốc tình yêu vĩnh viễn.
Chúa đã không xuống khỏi thập giá. Xin cho chúng con cũng được vững vàng, can trường và bền bỉ với thập giá của cuộc đời chúng con.
Một tu sĩ già ngôi bên gốc cây. Mắt ông nhắm lại, hai chân xếp bằng, hai tay để trên đầu gối: TN 34-ABC345
Một tu sĩ già ngôi bên gốc cây. Mắt ông nhắm lại, hai chân xếp bằng, hai tay để trên đầu gối. Ông đang chìm sâu vào sự thiền định. Thình lình một người lính Nhật đến phá tan sự chiêm ngắm của ông với thái độ châm biếm và bằng một giọng thô lỗ: "Này ông già! Hãy nói cho tôi nghe về thiên đàng và hỏa ngục!" Thoạt tiên vị tu sĩ không phản ứng gì. Sau ông từ từ mở mắt ra, mỉm cười trong khi tên lính tỏ vẻ mất kiên nhẫn. Ông đáp: "Anh bẩn thỉu. Tay chân anh đầy bụi đất, tóc rối bù, người anh hôi hám,... Anh xấu xí, trông dữ tợn và ăn mặc đáng tức cười. Anh muốn hỏi tôi về thiên đàng và hỏa ngục ư?" Người lính Nhật giận dữ, mặt đỏ gay, tuốt gươm ra, sẵn sàng chém đầu vị tu sĩ. Khi lưỡi gươm đang hạ xuống, người tu sĩ điềm nhiên nói: "Đó là hoả ngục". Lời nói xuyên thấu tận tim óc anh, anh giật mình, tỉnh ngộ, và chợt cảm thấy kính phục và yêu mến vị tu sĩ dịu dàng này, ông đã liều chết để dạy cho anh một bài học về hoả ngục. Anh bỏ gươm xuống, mắt ngấn lệ, nhìn vị tu sĩ với ánh mắt biết ơn. Vị tu sĩ lại nhẹ nhàng nói: "Đấy là thiên đàng" (Phỏng theo THE SECRETS OF HEAVEN AND HELL - Fr. John W. Groff Jr.)
Trên đồi Canve năm xưa, Chúa Giêsu cũng đã giải đáp câu hỏi của tên lính Nhật. Cả hai tên trộm đều đã phạm tội. Nhưng tên trộm dữ không biết hối lỗi, lại còn bất tín và bất kính với Thiên Chúa, anh đã không xin được cứu. Anh tự mình quyết định đi vào hoả ngục. Trong khi người trộm lành nhận lỗi mình: "Chúng ta nhận lãnh hình phạt đáng với tội mình..." và hướng lòng tin cậy vào Chúa Giêsu: "Khi về nước Ngài xin nhớ đến tôi!" Chúa Giêsu lập tức phán: "Ngay hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta!" Mỗi khi ta phạm tội ác, xúc phạm tình yêu và sự kính trọng đối với bản thân ta và người khác, và từ khước Thiên Chúa, là ta đã lạc xa thiên đàng. Mỗi khi ta hối hận, thay đổi thù thành yêu, và chạy đến với Thiên Chúa là ta đã quay về Thiên đàng.
Thiên đàng không chỉ gồm những người lành thánh suốt từ đầu đời đến khi nhắm mắt lâm chung, nhưng gồm đủ mọi hạng người. Đó là mục đích Chúa đến cứu độ trần gian, kêu gọi người tội lỗi hoán cải. Đó là sứ mạng của một Vị Vua trong tâm hồn con người. Chúa nói "Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này... Ta đến để làm chứng cho sự thật... Ai sống trong sự thật thì nghe tiếng Ta...". "Vua Chúa trần gian cai trị con người bằng bạo lực, nhưng Thiên Chúa cai trị bằng Tình yêu, ân sũng, và sự tha thứ". Một vị Vua chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá vì Tình Yêu và Chân lý.
Tất cả chúng ta là con cái Thiên Chúa. Chúng ta đều kinh nghiệm sự yếu đuối, bất toàn, ngay cả tội lỗi, nhưng chúng ta vẫn được mời gọi vào Nước Chúa bằng việc mở lòng ra, chấp nhận chính mình, chấp nhận lẫn nhau, tha thứ và cùng nhau đi đến với Thiên Chúa, để sống với nhau thân tình trong Đại Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi, ngang qua việc đón nhận Chúa Giêsu là Vua trong tâm hồn và trong cuộc sống tại thế của mình.
Nói đến "vua", chúng ta lập tức liên tưởng đến một nhân vật đầy uy quyền, với trăm ngàn người : TN 34-ABC346
Nói đến "vua", chúng ta lập tức liên tưởng đến một nhân vật đầy uy quyền, với trăm ngàn người hầu hạ, với cung điện nguy nga, y phục lộng lẫy, với cuộc sống vượt trên mọi người... Nhưng nếu đó là những hình ảnh và đặc điểm của bậc vua chúa, thì qủa thực, người thanh niên sinh quán tai Belem và lớn lên tại Nadarét có tên là Giêsu, nhất định không phải là vua, vì Anh xuất thân từ một gia đình nghèo, sinh ra tại một chuồng bò, sống bằng nghề thợ mộc, và sau cùng chấp nhận cái chết ô nhục, đau thương, phải chôn nhờ nơi phần mộ của người khác. Thế nhưng, trong cuộc sống của Anh thợ mộc này, có những điều làm chúng ta suy nghĩ:
- Dù Anh sinh ra tại một chuồng bò, nhưng các đạo sĩ ở Đông Phương lại nói: "Đó là Vua người Do Thái mới sinh ra, nên chúng tôi tới đây mang theo lễ vật để triều bái Ngài" (Mt 2,2).
- Khi dân chúng muốn tôn phong Anh làm vua, thì Anh lại trốn đi một nơi khác (Gio 6,15).
- Thấy Anh cỡi lừa vào Giêrusalem, dân chúng lớn tiếng tung hô Anh: "Hoan hô vua Israel" (Gio 12,13).
- Khi Anh bị dẫn đến trước tòa án, vấn đề "làm vua" lại được đặt ra. Thật vậy, khi Philatô hỏi: "Anh có phải là vua không?", Anh đã thẳng thắn và dõng dạc đáp: "Ông nói đúng..." (Mat 27,11; Lc 23,23).
- Chính lúc Anh bị đóng đinh trên thập giá, người ta lại nhìn thấy phía trên thập giá có hàng chữ "Giêsu Nadarét, Vua người Do Thái" (Gio 17,19; Mt 27,37).
- Sau cùng, trước giờ chết, khi một tử tội cùng bị đóng đinh với Anh nói với Anh: "Thưa Ngài, khi nào Ngài trở lại vương quốc của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi với", Anh hứa ngay: "Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta" (Lc 23,42-43).
Như vậy, Đức Kitô qủa thực là một vị vua, nhưng là một vị vua khác hẳn với các vua chúa trên trần gian; vương quốc của Ngài không thuộc về trần gian này, cũng không nằm trong những ý niệm mà người ta vẫn thường có, khi nghĩ về một vị vua chúa. Chính Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: "Tôi là vua... nhưng nước tôi không thuộc về trần gian này" (Gio 18,36). Tuyên bố như thế, Chúa Kitô cho chúng ta hiểu rằng: Ngài là một vị vua có những tâm tình và chủ trương khác hẳn với mọi vua chúa trần gian. Thay vì bắt người ta phục vụ mình thì Ngài hạ mình xuống, đích thân phục vu mọi người. Ngài nói: "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ mọi người" (Mc10,45). Đồng thời Ngài cũng kêu gọi con dân trong nước Ngài phải noi gương Ngài: "Anh em biết rằng, những người được coi là lãnh tụ trong các quốc gia thì cai trị dân chúng, còn anh em thì không được như thế. Ai làm lớn thì hãy trở thành đầy tớ cho anh em mình, ai muốn thành người thủ lãnh thì hãy trở thành nô lệ cho mọi người" (Mc 10,43-44). Về điểm này, đức Kitô đã đích thân làm gương khi Ngài qùy gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thay vì mọi người phải bảo vệ mạng sống cho vua thì Ngài lại liều chết để cứu sống con dân của mình. Thay vì dùng lãnh thổ, ngôn ngữ, màu da để xác định công dân của mình thì Ngài dùng giới luật yêu thương làm nguyên tắc nhập tịch cho những ai muốn trở thành công dân trong nước của Ngài; và đây cũng là điều luật căn bản trong quốc gia của Ngài. Ngài nói: "Người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thày, là anh anh em thương yêu nhau" (Gio 13,35b); "Yêu thương nhau chính là giới răn mới mà Thày truyền cho anh em" (Gio 15:12, 17).
Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta chính thức trở thành công dân trong vương quốc của Vua Giêsu. Xin cho ân sủng của bí tích giúp chúng luôn sống xứng đáng là những công dân tốt trong vưong quốc này, vương quốc của an bình, của yêu thương và phục vụ.
Bài đọc I: 2Sm. 5,1-3: Họ xức dầu tấn phong Davit làm vua Israel. Bài đọc II: Cl.1,12-20: Chúa cha đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử Chí Ái. Phúc Âm: Lc.23,35-43: Khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi!
Suy niệm:
Cách đây ít lâu, những người thợ lặn đã tìm thấy một chiếc tầu chìm ngoài khơi bắc Ái Nhĩ Lan: TN 34-ABC347
Cách đây ít lâu, những người thợ lặn đã tìm thấy một chiếc tầu chìm ngoài khơi bắc Ái Nhĩ Lan. Trong các báu vật thấy trên tầu có một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông, trong đó có bàn tay đưa ra một trái tim, dưới có hàng chữ:
“Anh không có gì để cho em hơn thế nữa”.
Ai trong chúng ta cũng có trái tim rung động muốn yêu và muốn được yêu. Khi tới tuổi lớn, trái tim khao khát đi tìm “ người yêu lý tưởng”. Người tình trong mộng phải đẹp người, đẹp nết và tài hoa. Xét dưới khía cạnh đó một cách tương đối, người ta có thể tìm kiếm đối tượng một cách dễ dàng. Nhưng cái khó là “mẫu người được chấm” có đáp lại con tim của ta không, đấy là chưa kể đến tình yêu chung thuỷ và nồng ấm mãi mãi. Đó là cuộc sống nhân loại, còn linh hồn ta có một đối tượng rất đáng yêu, bền vững, cao vượt, và luôn muốn chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Người ở đời này và cả đời sau nữa.
Người đó là ai? Chúng ta biết rằng Thiên Chúa thương yêu chúng ta từ trước muôn đời, ngay khi chúng ta còn là hư vô. Nói cho đúng ra, khi chúng ta còn là hư vô, còn là tiềm thể, thì chưa phải là đối tượng yêu thực sự, nhưng khởi đầu chúng ta là tác phẩm, là công trình của Thiên Chúa tạo dựng.
Chúng ta thấy có có ai yêu mình như Thiên Chúa yêu chúng ta không?. Từ hai bàn tay trắng, Chúa cho con người một hữu thể bao gồm thể xác và linh hồn. Ngay nói đến thân xác bề ngoài thôi, cũng đủ làm cho lòng người mê say chết ngất. Còn linh hồn thì dĩ nhiên rồi, với trí khôn và tình yêu, nhất là sự trường tồn vĩnh cửu thì quí giá biết chừng nào! Liệu chúng ta có tận dụng cơ hội ngàn vàng đó để nối kết tình yêu Chúa suốt cả cuộc đời không. Ngoài ra loài người còn được vinh dự làm chủ trái đất, thống trị địa cầu, tham dự vào Ngôi Vua của Chúa như danh hiệu Chúa Giêsu Kitô Vua mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Thế mà tình yêu của chúng ta có thêm gì cho Chúa? Chúa có sung sướng gì hơn? Ngược lại Ngài phải nức lòng khi nguyên tổ sa ngã, phải đau khổ khi con người lâm vào cảnh chết chóc do vấp phạm ăn quả cấm. Lúc đó chỉ có tình yêu say mê như điên như dại mới mở lối thoát cho cuộc tình duyên “trời cao đất thấp” này. Ngài sáng kiến ra việc cứu thế giới bằng Thập giá thật đau khổ và nhục nhã ê chề. Còn cuộc tình nào lớn lao hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga.15,13).
Sau đây chúng ta lần lượt chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thập giá Đức Kitô: Ngài đã bị đòn đánh thâu đêm, rồi bọn quân dữ còn bắt vác Thập giá nặng lên núi Canvê và đầu đội mũ gai đâm thấu xương đầu. Nhất là Ngài còn bị xúc phạm đến vương quyền cao cả bằng lời chế diễu: “Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi”. “Ông không phải là Đấng Kitô sao?”. Để tăng thêm sỉ nhục cho Chúa hơn nữa, họ xếp Thập giá Ngài ở giữa hai tên trộm cướp và trên đầu có hàng chữ: “Vua dân Do Thái”. Thật đúng như lời tiên tri Isaia loan báo trước đó 700 năm: “Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân” (53,12). Kẻ tử tội cùng bị đóng đinh cũng mắng nhiếc Ngài. Riêng người trộm thống hối, ông ta có nhiều tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Người ta kể chuyện hắn là một thứ Robin Hood của Do thái, ăn trộm của người giầu có để phân phát cho người nghèo. Chuyện kể về anh ta còn độc đáo hơn nữa:
Khi Chúa Giêsu còn nhỏ, được gia đình đưa sang Ai Cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương quá nên hắn không nỡ ra tay, hắn tha cho Ngài và nói: “Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé! Kẻ đã cứu Chúa Giêsu hồi còn nhỏ chính là tên cướp đã gặp Ngài trên Thập giá ở đồi Gôn-gô-tha, lần này thì Chúa Giêsu đã cứu anh ta. Lòng khoan dung của Chúa đúng như lời Ngài nói: “Người nào đến với Ta chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi” (Ga.6,37).
Chúng ta cùng nhau trở lại thảm cảnh đau thương của Thập tự giá: Trước lời mỉa mai sỉ nhục của bao con người, Chúa Giêsu không nói lời phân minh, nhưng Ngài bắt đầu thể hiện Vương Quyền của Ngài khi nghiêng đầu về tên trộm lành nói: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Câu nói này có ý nghĩa gián tiếp trả lời cho các kẻ nhục mạ Chúa rằng: Vương Quyền của Ngài không nhằm ích lợi cá nhân như người ta thách thức Ngài rằng hãy tự cứu lấy mình xuống khỏi Thập giá. Nhưng Ngài thiết lập Vương Quyền bằng sự chết trên Thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Cũng như Ngài không muốn cứu kẻ trộm lành thoát khỏi tử hình để trở về với cuộc sống bình thường, nhưng mà là được ở trên Thiên Đàng với Chúa.
Thế là hôm nay chúng ta đã tìm ra được chân dung của Người tình tuyệt vời, Người yêu lý tưởng: Người đẹp trai đến nỗi con của tướng cướp thấy thật dễ thương lúc gặp con trẻ Giêsu trên đường sang Ai Cập. Người đẹp nết đến nỗi lôi cuốn mọi tầng lớp nam phụ lão ấu, nhất là trong thời gian ba năm giảng đạo. Ngài tài hoa có khiếu giảng thuyết và chữa được mọi thứ bệnh nan y. Ngài quyền thế trên hết mọi Vua Chúa trong việc ban phát tất cả mọi thứ cho nhân loại. Cuối cùng Ngài “tình” hơn hết mọi người:
-Ngài yêu ta lúc ta còn là hư vô. -Ngài thương cứu ta lúc nhân loại sa ngã. -Ngài nên một với ta trong tâm hồn, đặc biệt trong phép Thánh thể.
Thánh Gioan Cantius, người Balan sinh năm 1390. Khi còn nhỏ, ngài là một cậu bé thông minh: TN 34-ABC348
Thánh Gioan Cantius, người Balan sinh năm 1390. Khi còn nhỏ, ngài là một cậu bé thông minh, tốt lành. Sau khi chịu chức Linh Mục, ngài làm giáo sư Kinh Thánh tại đại học Cracow, rồi làm Cha Sở nhiều năm, chuyên lo việc tông đồ phục vụ người nghèo. Ngài hành hương Rôma bốn lần, đi bộ, vai mang hành trang, một trong bốn cuộc hành hương này, ngài bị bọn cướp chặn lại và lấy hết tiền của, tra hỏi ngài còn tiền của gì nữa phải đưa hết. Ngài trả lời: Thưa đã hết cả rồi. Bọn chúng cho ngài ra đi. Đi được một quãng đường xa, ngài nhớ lại còn một số tiền nữa khâu ở dưới gấu áo, nên ngài vội vã trở lại và trao hết cho bọn cướp, xin lỗi họ vì đã quên lãng mất... Thấy lòng chân thật, nhân từ và thánh thiện của Thánh Nhân, bọn cướp bỡ ngỡ, cảm động nên đã bảo nhau trả lại cho ngài tất cả.
I. VUA TÌNH THƯƠNG VÀ CHÂN THẬT
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Chúa Kitô Vua. Chúa là Vua của chúng ta, chúng ta là thần dân của Người. Người là Vua trên muôn vua, là Chúa muôn loài, là Đấng mọi loài trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục đều phải tôn thờ, phụng sự, sùng bái, kính tôn và yêu mến.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Philatô đã hỏi Chúa: "Ông có phải là Vua không?" Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi là Vua, Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý đó. Ai thuộc vào chân lý thì nghe tiếng Tôi" (Jn 18:37).
Là thần dân của Vua Kitô; hơn nữa, còn là các Hoàng Tử và Công Chúa của Thượng Đế, Đấng Thiên Hoàng, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Chúa chúng ta là Vua thế nào? Vương Quyền Ngài ở đâu? Quyền năng Ngài ra sao?
Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trả lời cho chúng ta tất cả những câu vấn nạn trên: "Cha đã xức dầu hoan lạc tấn phong Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, làm Linh Mục đời đời và làm Vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ Thập Giá làm lễ phẩm giao hòa và tinh tuyền, Người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài qui phục quyền bính mình, Người trao lại cho Cha là Đấng uy linh cao cả, một Vương Quốc vĩnh cửu và vô biên: Vương Quốc đầy tràn sự thật và sự sống, Vương Quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, Vương Quốc đầy tràn tình thương, công lý và bình an".
II. CHÚA KITÔ THIẾT LẬP VƯƠNG QUỐC
Chúa Kitô là Thiên Chúa nhập thể làm người nơi trần gian để làm Vua, tự bản tính Ngài là Vua; không như các vua trần gian, được làm vua do dòng tộc loài người, do chiến đấu dành dân mà được tôn lên ngôi vị... Chúa chúng ta đã thiết lập Vương Quốc Ngài nơi trần gian bằng sự khiêm nhu, bằng tình thương yêu, lòng nhân từ tha thứ, bằng cái chết làm Hy Lễ Cứu Độ trên bàn thờ Thập Giá để qui phục mọi người về với Ngài.
Trước khi Ngài hoàn tất công nghiệp Ơn Cứu Độ, Ngài đã chọn mười hai Tông Đồ, bảy mươi hai Môn Đệ, đa số là những người dân chài, quê mùa dốt nát, thật thà lương thiện, để giữ những chức vụ, mà theo lối trần gian, chúng ta thường gọi là các tổng trưởng, bộ trưởng, dân biểu thượng viện, hạ viện... Ngài đặt Phêrô làm Quốc Vụ Khanh lập nội các và các nghành Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp, để phục vụ trong Vương Quốc Ngài đã thiết lập... Thánh luật của Vương Quốc Chúa là Bộ Thánh Kinh, bao gồm thánh ý Thiên Chúa được mạc khải qua lời các tiên tri, các tổ phụ, các thánh ký, nhất là bộ sách Tin Mừng do chính Chúa Kitô đã chỉ thị, giáo huấn, ban bố, đã sống và đã làm gương... Quốc sách cai trị trong Vương Quốc Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh xả kỷ vị tha, chân lý và an bình. Biên cương Vương Quốc của Chúa Kitô bao la vô tận vượt mọi không gian và thời gian, không chỉ hệ tại nơi vũ trụ vật chất hữu hình này, mà còn bao gồm mọi tâm hồn con người... Giáo Hội Công Giáo chính là Vương Quốc của Chúa Kitô.
III. GIÁO HỘI, VƯƠNG QUỐC CỦA VUA KITÔ
Giáo Hội là một Siêu Quốc Gia, không theo một chính thể nào trên trần gian, quân chủ hay dân chủ, nhưng là được tổ chức theo thần quyền do Chúa thông truyền theo phẩm trật, không làm chính trị, không có quân đội hay sức mạnh trần thế, không chiến đấu tranh dành với ai.
Quốc sách cai trị trong Vương Quốc của Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh, lòng xả kỷ vị tha, sự thánh thiện cao cả của Thiên Chúa.
Biên cương hữu hình theo pháp lý chỉ là mấy chục mẫu đất, xây dựng các cơ sở, đặt các cơ quan điều hành trung ương tại Rôma, nhưng được bao gồm mọi chủng tộc, mọi quốc gia trên khắp thế giới, vượt mọi không gian và thời gian, đến tận tầng thâm sâu linh thiêng của các tâm hồn, nơi Thiên Chúa hiển trị.
Thần dân của Vương Quốc Chúa Kitô là mọi Tín Hữu rải rắc trên khắp năm châu bốn bể, là tất cả mọi người chúng ta, gồm tất cả mọi người tin theo Chúa Kitô, làm nên một Đoàn Chiên duy nhất của Chúa nơi trần gian.
Đấng kế vị Thánh Phêrô, là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng thứ 264, đại diện Chúa Kitô phục vụ Giáo Hội, Vương Quốc hữu hình của Chúa nơi trần gian, Đấng mà chúng ta có thể mệnh danh là Chúa Kitô đang sống nơi trần gian. Đấng mà mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi sắc tộc dù theo chính thể nào, ngay cả những kẻ thù cũng phải kính nể, tôn trọng ngài như vị Đại Diện tối cao của Thiên Chúa, vị Lãnh Đạo tinh thần thế giới.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta tôn xưng Chúa là Vua chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua toàn thể vũ trụ và muôn loài thụ tạo trên trời dưới đất và trong hỏa ngục. Không gì làm Chúa hài lòng và chứng minh lòng chúng ta thần phục Vương Quyền Người, bằng cách chúng ta hãy mặc lấy tinh thần lòng chân thật, nhân từ tha thứ và thánh thiện của Chúa.
Thánh Gioan Cantius người Balan là một vị Thánh có lòng chân thật, khiêm nhu, nhân từ tha thứ, khiến cho kẻ trộm cướp, người tội lỗi cũng phải kính phục sám hối trở lại. Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta đã sống thế nào?
Đương kim Tổng Thống Uruguay, Jose Mujica Cordano được giới truyền thống Tây Ban Nha gọi : TN 34-ABC349
Đương kim Tổng Thống Uruguay, Jose Mujica Cordano được giới truyền thống Tây Ban Nha gọi là “Tổng Thống nghèo nhất thế giới.” Ông Cordano năm nay 76 tuổi, sinh ra trong một gia đình nông dân. Năm 2009, khi được cánh tả giới thiệu tham gia tranh cử Tổng Thống, ông từng từ chối khéo léo: “Muốn tôi làm Tổng Thống, khó chẳng khác gì dạy lợn huýt sáo.” Tuy vậy, cuối cùng “ứng viên của những người dân nghèo khổ” ấy vẫn đắc cử Tổng Thống với số phiếu quá bán.
Sau khi lên nắm quyền, ông Cordano từ chối dọn vào Dinh Tổng thống, bởi vì “Dinh Tổng Thống rộng hơn quá nhiều so với nhà tù từng giam giữ ông 14 năm”. Ông cũng từ chối bố trí nhân viên tháp tùng và xe ô tô chống đạn đưa đón, để hàng ngày tự lái chiếc xe Fuchs Beetle đã có tuổi thọ 20 năm đi làm. Cuối tuần ông còn tự chăm sóc vườn rau, dắt chó đi dạo, xem thi đấu bóng đá. Người vợ ( là Nghị sĩ Quốc Hội ) của ông thản nhiên mỉm cười trước sự thắc mắc của bên ngoài, và cho biết mình “đã quá quen với những chuyện lạ này rồi”.
Năm 2011, ông Cordano đã bán dinh Tổng Thống và 2 căn hộ ở Punta del Este của mình cho Ngân hàng Miền Đông Uruguay với giá 2,7 triệu USD. Ông dùng toàn bộ số tiền bán nhà vào việc thực thi chương trình nhà ở của Chính phủ. Vị Tổng Thống nghèo nhất thế giới ấy lại trở thành vị Tổng Thống được hoan nghênh nhất tại châu Mỹ Latinh bởi tấm lòng nhân ái của ông. Sau khi đắc cử Tổng Thống, ông Cordano đã tuyên bố: Quyên góp 90% tiền lương cho Quỹ Cứu trợ những người vô gia cư.
Khi được gọi là "Tổng Thống nghèo nhất thế giới", ông Cordano chỉ nói: "Tôi không nghèo chút nào cả, những người nói tôi nghèo mới thật sự nghèo. Nói tôi chỉ có một vài thứ quả là không sai, tằn tiện, chất phác khiến tôi cảm thấy đầy đủ và sung túc". ( Theo Dân Việt ).
Tuy Tổng Thống Jose Mujica Cordano sống đạm bạc, yêu dân, nhưng chưa thể nào sánh với Đức Vua Giêsu lừng lẫy. Trích thuật Tin Mừng hôm nay phác họa chân dung Vua Người Do Thái thật thảm hại. Tuy nhiên phản ảnh khá chính xác một vài đức tính nổi trội của Đức Vua Giêsu. Người chính là Đức Vua Quyền Lực nhất thế gian, chí ái, phục vụ và nghèo khó tột cùng.
Đức Vua uy quyền vô song
Chẳng bao giờ có vị vua thế gian nào có thể ban thưởng Thiên Đàng cho thần dân. Cũng chẳng có vua nào có thể xóa sạch hết các vết nhơ của tội nhân. Cùng lắm chỉ tha thứ một vài tội lỗi nào đó, chứ không thể nào thanh tẩy cả linh hồn thần dân, trở nên trong sạch.
Thế mà, Đức Vua Giêsu đã quả quyết với phạm nhân sám hối: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Thật lòng sám hối, bao nhiêu tội lỗi tôi vấp phạm, cũng được Người tẩy sạch qua bí tích Hòa Giải. Tuy nhiên, nhiều lúc tôi lại thường dại dột chạy đến các vua chúa thể gian, để xin khoan hồng dung tha, để khỏi bị tử hình. Tôi đâu nhớ đến Đức Vua Uy Quyền vô song, có thể cho tôi được sống đời đời. Tôi dửng dưng, vô ơn, bất kính với Người trong sinh hoạt thường ngày. Đâu cần biết tất cả hồng ân đều phát xuất từ Người.
Đức Vua Chí ái
Người không những uy quyền, mà còn chí ái nhất. Chẳng có vị vua nào toàn tâm, toàn ý, quan tâm, tận tụy chăm sóc những thần dân thấp cổ bé miệng, bé nhỏ, tật nguyền, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời. Người tìm đến, mời gọi không nguôi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng." ( Mt 11, 28 – 30 ).
Những khi sa cơ thất thế, khi thất bại trắng tay, khi hoạn nạn tai ương, khi bị hành hạ, ức hiếp vì Đức Tin, tôi có lắng tai nghe thấy tiếng nói an ủi của Người chăng ? Hay tôi lại ta thán, thất vọng, đâm ra chán nản, buông trôi theo dòng đời bon chen, lọc lừa, gian lận, tranh sống, thù hận, oán hờn ? Đâu cần biết Người đang lo lắng, đôn đáo đi tìm con chiên lạc, tìm đồng xu rơi mất, tìm đứa con đi hoang, đang tan nát cõi lòng vì thói đời đen bạc ?
Đức Vua thanh bần
Cũng chẳng có vị vua nào nghèo khó hơn Đức Vua Giêsu. Nghèo hèn ngay từ khi hạ thế làm người ở Bêlem, cho đến khi tử nạn nhục nhã trên thập giá ở Đồi Sọ. Một cuộc đời thanh bần, không tiển bạc, tiện nghi, không chốn nương thân, vô gia cư, vô tài sản đích thực: "Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu" ( Mt 8, 20 ).
Người chẳng hề tư hữu, tích lũy của cải, nhưng Người giàu lòng thương xót. Người chúc phúc cho người nghèo và cả những người có tinh thần khó nghèo: Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” ( Lc 6, 20 ) ”Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” ( Mt 5, 3 )”. Vì với tâm hồn nghèo khó, không vướng bận của cải giàu sang, mới có thể sống Lời Chúa tích cực.
Tôi lại cố gắng thoát cảnh nghèo, muốn tận hưởng tiện nghi vật chất, muốn vinh thân phì gia, để khỏi thua kém thiên hạ. Tôi không muốn những ánh mắt rẻ rúng vì nghèo túng. Tôi thích thú những tia mắt ngưỡng mộ sự thành đạt, giàu sang. Tham sân si quá độ, làm sao tôi được vào Nước Thiên Chúa ?
Đức Vua phục vụ
Chẳng có vị vua nào thương yêu, tận tụy phục vụ đệ tử, thần dân như Đức Vua Giêsu. Từ bỏ vương quyền cao sang, Người quên mình, khiêm tốn, quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Người tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” ( Mt 20, 28 ).
Người trở nên con chiên hiến tế, gánh tội trần gian, phục vụ cho sự cứu rổi nhân loại, chịu mọi khốn khó, bị khinh ghét, bị vu oan, chịu khổ nạn và chịu đóng đinh, hầu cứu chuộc loài người khỏi án phạt trầm luân. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ).
Tôi lại luôn muốn được phục vụ, kính nể, ngợi khen, thậm chí còn coi tha nhân như phương tiện cho tôi tiến thân. Tôi luôn tự ái, bất bình khi ai đó xúc phạm, nhận xét, phê bình, hay chỉ trích các thói hư tật xấu, dù rất chính xác, dù rất tích cực, thiện chí xây dựng, sửa chữa lỗi lầm của tôi. Thế mà tôi vẫn vênh váo, dám mạo nhận mình trung thành theo Đức Vua Phục Vụ.
Lạy Chúa, Đức Vua cao cả của thần dân chúng con, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau, biết sống tinh thần nghèo khó, biết phục vụ tha nhân, cũng như chính Chúa đang hiện diện, để chúng con được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là hiền mẫu của chúng con, xin luôn nhắc nhở chúng con là con cái thân thương của Thiên Chúa, luôn biết tuyên xưng danh Chúa, luôn biết khiêm nhường, yêu thương, giúp đỡ mọi người, mọi lúc, để chúng con luôn sống trong ân sủng Ngài. Amen.
Ngày nay, trên thế giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường : TN 34-ABC350
Ngày nay, trên thế giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường vận động cử chi bầu cho mình, và muốn được trúng cử thì đương sự phải đưa ra những kế hoạch mình sẽ làm trong nhiệm kỳ tới. Nếu lòng dân thấy thuận thì họ bầu cho. Rồi đến khi đắc cử, thường họ hay mở tiệc ăn mừng. Đến ngày ra mắt công chúng, đương sự phải có một bài diễn văn rất hay... như là một cách thức cám ơn dân chúng đã bầu cho mình. Và khi thi hành, người ta dùng quyền để cai trị con dân và giữ gìn an ninh quốc gia.
Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời, vị Vua ấy lại chọn cho mình một đời sống từ bỏ, khiêm hạ, yêu thương, khước từ vinh hoa phú quý, lợi lộc trần gian. Vị Vua ấy không cai quản và điều hành bằng quyền lực, mà bằng tình yêu. Rồi cuối cùng trở nên Đấng xóa tội trền gian qua cái chết ( x. Ga 1, 29 ). Vị Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu là vua cách lạ lùng
Nếu một vị vua theo kiểu trần gian, ngày đăng quang và xưng vương phải là một ngày trọng đại, có các lễ nghi trang trọng, có dân chúng reo hò chúc tụng, thì Đức Giêsu làm vua, lại là vị vua âm thầm, khiêm hạ, cả cuộc đời, không hề có kiểu “diễu võ dương oai” không kèn không trống.
Vương quyền của Ngài được tỏ lộ không phải qua một nghi thức trọng thể, mà lại qua một tấm bảng bêu xấu mà Philatô truyền lệnh đóng trên thập giá, phía đầu Ngài: "Ðây là Vua dân Do Thái". Ngai vàng không phải là một cái nghế được sơn son thiếp vàng lộng lẫy cao sang, mà là hai thanh gỗ được ghép lại với nhau thành hình thập tự để làm ngai cho Vua trời ngự giá. Đây là một hình khổ mà người Do Thái thời bấy giờ dành cho những kẻ bị kết án tử.
Vương niệm của Ngài không phải là mũ làm bằng kim loại quý ( thường là bằng vàng ) và được khảm những châu báu, ngọc ngà, đá quý, kim cương. Còn Đức Giêsu lại có một vương niệm đặc biệt, đó là một vòng gai được đội trên đầu. Vương trượng là cây sậy yếu ớt, được người ta đưa cho để nhằm chế giễu, chọc ghẹo. Các quan hầu cận là mười hai Tông Đồ, ít học, kém hiểu biết và hoàn toàn không mảy may am tường về chuyện binh đao, họ còn là kẻ bán Chúa, chối Thầy, những kẻ khác thì chạy trốn, ... Áo cẩm bào thì lại là thân hình ô nhục. Người thân dự lễ phong vương lại là kẻ thù, chỉ có một vài người vỏn vẹn là Mẹ Ngài, Gioan, mấy phụ nữ và hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài. Lẽ ra thần dân tung hô: “Chúc tụng vạn tuế đức vua” thì lại là: “đóng đinh nói đi”, “đóng đinh nó vào thập giá”, đến nỗi ngay cả kẻ cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng cất lên những lời nguyền rủa, nhục mạ, thách thức: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Khung cảnh phong vương thì lại ở trên núi sọ, thay vì ở trong thành phố... Diễn từ khai mạc là: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ” và sau cùng: “Mọi sự đã hoàn tất”.
Khi lập pháp thì lại hoàn toàn “Vâng theo ý Cha”. Khi truyền lệnh hành pháp thì lại chỉ có vỏn vẹn trong giới luật Yêu thương: "Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Và “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta” ( Is 53, 7 – 8 ). Suốt cả hành trình loan báo về Nước Trời, Ngài đã không ngồi yên, mà nay đây mai đó, miễn sao Tin Mừng cứu độ được loan báo và không hề có một dinh thự, lâu đài, mà là: “con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ dựa đầu”.
Như thế, triều đại của Đức Giêsu được kết thúc qua cái chết ô nhục trên thập giá.
Đức Giêsu là vua của Tình Yêu
Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa thì vượt xa trí hiểu của con người. Thật vậy, Người đã dùng hành động tưởng chừng như bêu xấu này để mặc khải một lần nữa về bản chất Tình Yêu của Thiên Chúa qua người Con Một của Người là Đức Giê su Kitô.
Ngài là Vua, nhưng lại là một vị vua khiêm nhường, nhân hậu, Ngài là Vua của Hoà bình, Vua Tình yêu. Một vị vua thiếu thốn đủ điều: "Con Người không có nơi tựa đầu", một vị Vua chết cho thần dân được sống. Ngài là một vị vua của lòng người, của nhân tâm. Ngài xử dụng quyền lực, nhưng là thứ quyền lực “mềm” chứ không phải là quyền lực “cứng” như các nhà lãnh đạo vẫn thường xử dụng.
Vị Vua ấy được ví như người mục tử nhân lành, biết và hiểu rõ từng con chiên trong đàn. Người Mục Tử ấy sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên khi gặp sói dữ và chấp nhận hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình ( x. Ed 34, 11 – 12.15 – 17 ). Thật vậy, người mực tử chân chính là người còn yêu thương cả những con chiên hư hỏng, đi lạc và tìm cách đưa nó về ràn: vị Vua ấy đến trần gian để cứu vớt những gì đã hư mất ( x. Lc 19, 1 – 10 ).
Và vì yêu, Ngài đã “đền bù tội lỗi cả thế gian” ( 1Ga 2, 2 ), cũng vì yêu mà: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” ( 2Cr 5, 21 ). Đức Vua ấy đã trở nên: “Người Tôi Tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa”, Đấng gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian, và dùng chính cái chết của mình để mưu cầu ơn tha tội cho nhân loại. Ngài “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” ( x. Is 53, 2 – 12 ). Vì yêu, Ngài đã chấp nhận làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi, thu thuế, gái điếm, những người ốm đau, bệnh tật, thấp cổ bé họng... Vì thế, Ngài đã lên tiếng bênh vực những người cô thế cô thân. Và mời gọi mọi người hãy Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" ( Ga 15, 13 ).
Và như một quy luật: sự sống, niềm vui và hạnh phúc nơi con người chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, mới nghe người trộm lành cất tiếng kêu xin: "Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi !" thì ngay lập tức, Ngài đã đưa anh ta vào vương quốc của mình qua lời tuyên bố: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng ".
Người Kitô hữu tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu đều được tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Kitô ngày ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Qua Bí tích này, chúng ta được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến, vâng phục Cha hết lòng và, cuối cùng đã chết vì yêu để làm vinh danh Đấng đã sai mình đến trần gian hầu biểu lộ tấm lòng từ ái của Thiên Chúa cho nhân loại.
Khi thông chia và được thừa tự sứ vụ đó của Đức Giêsu qua Giáo Hội, nơi Bí Tích Thánh Tẩy, mỗi chúng ta đều có bổn phận thi hành sứ vụ đó trong cuộc đời Kitô hữu của mình.
Là người kitô hữu, chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận này với một cách tốt đẹp khi noi gương và trở nên giống Đức Giêsu là dám chấp nhận khước từ những vinh hoa lợi lộc thuần túy trần thế. Ở điểm này, Thánh Phaolô đã diễn tả: “Đức Kitô, Đấng vốn dĩ giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Người ( x. 2Cr 8, 9 ).
Thật vậy, muốn được cứu độ, ta phải sống thực sự với tinh thần nghèo như Chúa, vì nghèo thì mới dễ yêu và khi yêu mới mong được trọn vẹn. Nếu chúng ta là con người đúng nghĩa thì phải có cả hồn và xác trong một thân thể, thì nghèo và yêu được ví như hai mặt của cùng một tấm mề đai.
Lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” ( Mt 11, 28 – 29 ). “Mang lấy ách” của Chúa là gì nếu không phải là: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em”. Ách này không thể mang vác được, nếu ta kiêu căng, ngạo mạn và tự mãn, nhưng chỉ với sự hiền lành, khiêm nhường và tình yêu phát xuất từ con tim chân thành.
Thật vậy, chúng ta không thể cùng lúc vừa là Kitô hữu vừa mang tinh thần thế tục. Nếu để hai yếu tố đó thường trực trong con người chúng ta cùng một thời điểm, thì mọi việc chúng ta làm và suy nghĩ sẽ rơi vào tình trạng hư ảo, ngạo mạn, tự đắc.
Ước gì sống tinh thần nghèo và đến với người nghèo bằng một trái tim yêu thương rộng mở sẽ là hướng đích của mỗi chúng ta khi noi gương của vị Vua tình yêu, đã sống và chết vì yêu.
Sống được như thế, chúng ta mới có hy vọng được hưởng lời chúc phúc của Chúa: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi” ( Mt 25, 34 ), nơi đó có Vua Tình Yêu ngự trị ( x. Pl 2, 6 – 11 ).
Lạy Đức Giêsu là Vua vũ trụ, xin cho danh Cha được cả sáng, Nước Cha được hiển trị đến tận cùng bờ cõi trái đất. Xin Chúa hãy thống trị lòng trí chúng con bằng tinh thần của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong quỹ đạo của tình yêu, để sau cuộc đời này, chúng con được vào Vương Quốc của Chúa trên trời là nơi dành cho những người yêu và được yêu. Amen.