Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 18 TN–A Bài 51-100: Mọi người đều ăn no ------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 14, 13-21: “Mọi người đều ăn no”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ. Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”. Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. - Ðó là lời Chúa.
"Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá" (Mt 14, 13-21).
Chúa yêu tất cả con cái của Chúa từ muôn thuở đến muôn đời, chẳng cần phải tìm hiểu cho sâu cho tận:TN18-A51
Chúa yêu tất cả con cái của Chúa từ muôn thuở đến muôn đời, chẳng cần phải tìm hiểu cho sâu cho tận, vì chúng con đây hầu hết đều có gia đình, có con cái, cháu, chắt, và cả chít nữa! Tình yêu thương chúng con dành cho gia đình như thế nào, thì quả thật so với tình yêu của Ngài đối với chúng con có phải được nhân lên gấp bội??
Chúng con yêu con cái của chúng con thế nào thì ắt phải hiểu Chúa yêu chúng con vô bến vô bờ. Có ai trong chúng con mà muốn cắt tình hay từ bỏ đứa con mà mình đã cưu mang 9 tháng 10 ngày mà sinh ra nó, nuôi nấng dậy dỗ nó, và thương yêu chìu chuộng nó hết mực? Từng đứa con một, phải không thưa Chúa? Con trai cũng như con gái. Con mạnh khoẻ cũng như con ốm yếu. Con lành mạnh cũng như con khuyết tật. Tất cả đều từ trong bụng mẹ mà ra. Tất cả cùng một giống mà ra. Do tình yêu thương của cha mẹ kết hợp trong yêu thương mới có chúng nó.
Có phải Chúa yêu chúng con tất cả đều như nhau, không thiên vị gái hay trai, không thiên vị mạnh khoẻ hay tật nguyền, không thiên vị đứa giầu với đứa nghèo, mà có phải Chúa yêu thương tất cả những đứa con bất hạnh và nghèo khổ nhất? Đứa nào giầu có rồi thì mừng cho đứa đó? Đứa nào nghèo khổ Chúa luôn tìm cách giúp đỡ và ủi an? Đứa nào bất hạnh trong tật nguyền thì có phải chúng luôn được ở gần bên Chúa suốt cuộc đời của nó hay không? Và có phải Chúa luôn trông đợi từ những đứa con giầu có, luôn có tấm lòng bác ái để giúp đỡ Chúa một tay mà lo cho hay chia sẻ cho anh em nghèo khổ hơn nó!??
Tình yêu từ nơi cha mẹ quả chẳng phân biệt đứa nào với đứa nào! Chỉ cầu nguyện cho chúng đêm ngày được tràn đầy ơn Chúa. Nhỏ thì luôn cầu nguyện cho chúng được mạnh khoẻ, ăn no chóng lớn. Hôm nào chúng bị nóng đầu thì có phải cả cha lẫn mẹ xúm vào mà lo cho chúng cả đêm lẫn ngày? Khi lớn lên thì dậy và dỗ chúng biết vâng lời và đừng làm điều gì xấu mà mất lòng Thiên Chúa và cha mẹ? Lớn nữa thì lo lắng chúng đi theo bạn bè mà trở thành hư hỏng? Nhưng có phải Chúa cũng đi sát vào cuộc đời của chúng con hơn nữa hay không? Vì có phải cha mẹ trần gian thì có giới hạn, nhưng đối với Thiên Chúa tối cao thì tình yêu có phải không có ranh giới? Ngài chỉ luôn muốn ban phát cho chúng con thật nhiều nếu chúng con luôn luôn muốn là đứa con thảo?
Cha mẹ trần gian thì có thể có nhiều lý do để từ bỏ con của mình. Như trai trẻ của thời đại ngày nay vậy! Sống một cuộc sống rất buông thả. Sống một cuộc sống bê tha. Sống một cuộc sống mà không cần gìn giữ. Sống một cuộc sống mà không cần biết ngày mai của mình sẽ đi về đâu? Thì hà huống gì còn biết linh hồn của mình sẽ đi về đâu? Những đứa trẻ có cuộc sống này thì ai là người có trách nhiệm trên chúng? Cha mẹ chúng đã bỏ chúng ngay từ khi vừa lọt lòng? Cha mẹ chúng đã từ bỏ chúng từ khi chúng chưa được hình thành trọn vẹn trong lòng của người mẹ? Những đứa bé vô tội tình này ai là người có trách nhiệm trên chúng và trả lời ra sao với Chúa?
Cuộc đời thật sẽ còn nhiều phức tạp nếu tất cả chúng con không cố gắng có một chút xíu trách nhiệm trên con cái của mình? Cuộc đời thật còn có rất nhiều phức tạp và hỗn loạn nếu chúng con không sửa đổi và muốn trở nên tốt trước tôn nhan Thiên Chúa. Cuộc đời thật sẽ còn nhiều những vấn nạn nếu chúng con vẫn tiếp tục không biết thương yêu, chia sẻ, còn biết chạnh lòng thương, và cho nhau một bàn tay thương yêu giúp đỡ.
Giúp đỡ nhau trong nhiều hình thức. Có phải ai cũng nghĩ rằng nếu mình giúp đỡ anh chị em mình thì mình sẽ không còn gì mà sinh sống? Nào là sợ tốn kém? Nào là sợ sau đó sẽ bị làm phiền? Nào là sợ không có thời giờ? Nào là sợ nhà mình trở thành nơi hội họp? Sợ đủ thứ sợ, cho nên cái sự giúp đỡ thật nhỏ nhoi ngay từ ban đầu đã không có, thì hà huống gì ta cho ai mượn đôi bàn tay? Chứ nếu tính ra một cách trung bình thì thế giới sẽ không có tệ nạn đói nghèo nếu mọi người biết cho nhau đôi bàn tay. Một người giúp cho một người. Một gia đình giúp cho một gia đình. Một xóm giúp cho một xóm. Một cộng đoàn giúp cho một cộng đoàn. Một giáo xứ giúp cho một giáo xứ. Một quốc gia giúp cho một quốc gia. Được thế thì cả thế giới sẽ được sống trong no ấm, trong an bình, trong hạnh phúc, và trong Chúa.
Thế mới biết đôi bàn tay yêu thương quan trọng đến mức độ như thế nào!? Mà từ cái chờ đợi đôi bàn tay của người không biết chạnh lòng thương thì sẽ ngăn cản biết bao nhiêu đôi bàn tay khác giống như họ vậy! Vì người giầu họ có tầng lớp riêng của họ. Họ sống giống nhau. Bắt chước nhau. Băng đảng với nhau. Y như nhau. Còn chờ đợi đôi bàn tay từ con người biết chạnh lòng thương thì thường chỉ đủ ăn đủ dùng nên không đủ để phân phát cho toàn nhân loại. Và đếm trên đầu ngón tay mà thôi! Thế cho nên nghèo thì vẫn hoàn nghèo mà không kể đã nghèo còn bị bóc lột từ những con người không có trái tim biết thổn thức, biết chạnh lòng.
Cho nên quan trọng và thấm thía thay Lời của Chúa tuần này là Ngài nhắn nhủ dậy dỗ con cái của Ngài phải biết chạnh lòng thương như Ngài vậy! Biết chia sẻ và góp đôi bàn tay dù thật ít ỏi. Không ít ỏi sao được vì trên 5000 người mà chỉ có 2 con cá và 5 tấm bánh. Không làm sao no nê được nếu đứa bé ích kỷ không muốn chia sẻ cá và bánh của mình? Chúa không làm nên được điều kỳ diệu nuôi con cái của Ngài nếu không dâng cho Ngài cá và bánh. Nếu không cho Chúa mượn đôi bàn tay?
Có phải trong cuộc sống đời thường, Chúa đã giúp đỡ con cái của Ngài thật nhiều. Lẽ đương nhiên không được trực tiếp nhưng luôn gián tiếp là bằng cách nào đó phải qua đôi bàn tay bác ái của anh chị em mình. Trông chờ Chúa hiện ra ư!? Thưa, Chúa không bao giờ làm vậy đâu! Giả dụ nếu bạn đi kiếm việc thì bạn phải tự đi nộp đơn rồi sau đó Chúa nhờ người giúp bạn có việc làm ngay, không cách này thì cũng cách khác, bạn cứ tin như vậy đi thì ắt bạn sẽ được, đó là điều chắc chắn mà Chúa hứa nếu các con tin thì ắt các con sẽ được.
Lậy Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!
Xin cho tất cả chúng con biết góp đôi bàn tay để giúp đỡ anh chị em khó nghèo của chúng con. Xin cho chúng con biết luôn chạnh lòng và thương cảm đối với anh chị em của mình, nếu không chúng con sẽ không có đời sau hạnh phúc như chúng con ao ước va mong muốn. Chúng con không muốn bắt chước như ông nhà giầu phú hộ kia đã vì lơ là và không biết chạnh lòng thương cảm cho ông Lazaro ghẻ chốc đói nghèo sống trước cửa nhà ông mà phải xuống hoả ngục đời đời kiếp kiếp. Một nơi thật đáng sợ. Một nơi sẽ muôn đời phải khóc lóc và nghiến răng. Còn tất cả những anh chị em nghèo đói, bất hạnh, tật nguyền sẽ được lên Thiên Đàng Sáng Láng vui vẻ hạnh phúc vô cùng. Được bên cạnh Ba Ngôi Thiên Chúa, Đức Mẹ, Thiên Thần, Các Thánh, và cùng cả Triều Thần Thiên Quốc, được hưởng phước hạnh muôn muôn đời, Amen.
Phải hết lòng quan tâm đến những người bên cạnh mình. Bất luận là cha mẹ, vợ con, anh chị em:TN18-A52
Phải hết lòng quan tâm đến những người bên cạnh mình. Bất luận là cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn hữu, đồng nghiệp.v.v...: một nụ cười tươi, một lời chào hỏi, đều có thể thay đổi một bi kịch sẽ phát sinh.
Ông ta là một vị giáo sư về hưu đang sống với bà vợ già qua những ngày ưu tư, buổi sáng cùng nhau leo lên ngọn đồi nhỏ để giản xương cốt, buổi chiều thì tưới hoa trên sân thượng, lại còn đọc báo, còn vợ thì cùng với bạn bè uống café ở quán và trò chuyện vui vẻ. Họ chỉ có một con gái duy nhất đang ở bên Mỹ.
Tháng trước vào một đêm, giữa mông lung đêm tối, ông cảm thấy trên giường nệm bị ướt, đó là bà vợ già đái dầm, ông lay lay vợ dậy, thì phát hiện bà không còn phản ứng gì nữa, bà đã chết. Không ít bạn bè thường nói với ông: “kiềm chế đau thương”. “Cám ơn sự quan tâm của bạn, tôi sẽ làm như thế”, ông ta rất lịch sự trả lời như thế, không đánh mất tinh thần của một học giả có phong cách.
Ông ta ngấm ngầm chuẩn bị tất cả: hoa thì đem tặng cho người hàng xóm; sách mượn của thư viện thì gởi trả lại, sau đó, đi đến luật sư làm di chúc. Tất cả đều đã chuẩn bị xong.
Một đêm trăng tròn, ánh trăng bàng bạc chiếu sáng căn phòng, ông ta mở đèn sáng và viết một vài lời cuối cùng. Trước mặt ông là một bình thuốc ngủ, trên bình thuốc ông nhìn thấy vợ cười tươi. Đang khi ông ta mở nắp bình thuốc ra thì chuông điện thoại reo lên, ông cầm ống nghe, và một giọng nói quen thuộc truyền đến: “Ba, con đang ở phi trường, con rất muốn ở bên ba.”
Ông ta bổng nhiên chợt tỉnh.
Vị giáo sư già kể xong câu chuyện của ông cho tôi nghe, uống một ngụm trà thơm, từ từ nói: “Để đề phòng tự sát hữu hiệu nhất không phải là nhờ học thuật tu dưỡng, không phải là nhờ bác sĩ tâm lý, cũng không phải là giàu có vật chất, nhưng là một loại cảm giác đơn giản: đó là được yêu thương.”
Bởi vì nó rất quan trọng, cho nên xin mời bạn chuyển cho người khác biết mà quan tâm:
1. Xã hội này bệnh trạng đươc báo cáo nhiều, nhưng khích lệ tâm hồn người khác thì rất ít.
2. Thật ra chúng ta là một bộ phận giàu có vật chất của tha nhân, nên tích trữ nhiều chút xíu.
-----------------------------
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. Sưu tầm từ tiếng Hoa. http://www.vietcatholic.net/nhantai http://360.yahoo.com/jmtaiby jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
“Thưa Thầy, nơi đây hoang vắng, và đã quá chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua lấy thức ăn”(Mt 14,15).
Biện pháp thật đơn giản. Giải tán – Khỏe. Luận lý có vẻ khoa học và hợp lý: Đừng có bao: TN18-A53
Biện pháp thật đơn giản. Giải tán – Khỏe. Luận lý có vẻ khoa học và hợp lý: Đừng có bao cấp. Hãy thực thi tiến trình xã hội hóa. Việc ai nấy lo. Thân ai nấy giữ. Mỗi người một tay thì việc gì cũng chạy thông suốt. Tuy nhiên, đằng sau cái lý luận mang tính thực tiển ấy thì có ẩn giấu sự chút gì vị kỷ không thể chối cãi.
Tưởng rằng sáng kiến hữu lý của mình sẽ được chấp nhận, thế nhưng các tông đồ đã phải chưng hửng trước mệnh lệnh của Thầy chí thánh: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn.”(Mt 14,16). Lo liệu cho đám đông gần cả vạn người này ăn ư? Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá. Mười hai thanh niên trai tráng chúng con, cộng với Thầy thì chắc gì đủ lót dạ qua đêm. Vẫn biết Thầy thường dạy chúng con sống yêu thương. Nhưng nhiều lúc đành phải chấp nhận cảnh tình “lực bất tòng tâm”.
Lực bất tòng tâm. Một chiêu thức, đúng hơn, đó là một kiểu cách biện luận để thoái thác trách nhiệm sống yêu thương. Chúa ơi, lòng con cũng muốn sống quảng đại, nhưng điều kiện vật chất còn quá hạn chế. Chúng con rất muốn nhiệt thành dấn thân phục vụ, nhưng hoàn cảnh kinh tế lại đầy khó khăn. Xin Chúa thông cảm. Những luận điệu không khác gì các tông đồ xưa vẫn có đó giữa chúng ta đó là những luận điệu của những con tim cằn khô, không vắt được một giọt ân tình nhân ái, xót thương.
May mắn thay, dù cho đầy sự hẹp hòi và vị kỷ, thì lòng các môn đệ năm xưa vẫn còn chút nể vì, vâng phục Thầy chí thánh. Khi được lệnh mang bánh, cá đến, các ngài đã vâng lệnh. Hôm ấy các tông đồ hẳn bất ngờ trước một dấu lạ vĩ đại đã xảy ra. Với cử chỉ chiếu lệ, nể vì cho qua chuyện khi đem bánh, cá đến cho Thầy thì Thầy đã hết tình đón nhận, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông đem phân phát cho dân chúng. Quyền năng từ trái tim đầy tràn tình yêu đã tỏ hiện. Tình yêu quyền năng của Thiên Chúa đã biến đổi hành vi bình thường, nhỏ bé của con người nên điều diệu kỳ. Với Thiên Chúa, không có sự gì là không thể. Tất cả đều ăn no và còn dư những mười hai thúng đầy bánh vụn.
Thiên Chúa là thế. Người chẳng hề câu nệ chuyện lớn bé. Miễn có cơ hội là Người chộp lấy để rộng tay ban phát ân tình, một sự thi ân không hề tính toán. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn sàng. Dù không có tiền bạc,cứ đến mà mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào… Hãy chăm chú nghe Ta, rồi các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai, và đến với Ta thì các ngươi sẽ được sống”(Is 55,1-3). Những lời Tiên tri Isaia nói thay Thiên Chúa thật đáng phấn khởi và tràn trề hy vọng cho chúng ta.
Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Người rộng tay ban phát ân huệ cho muôn người thỏa thuê. Một chân lý xem ra khá dễ tin nhận. Tuy nhiên, bên cạnh hồng ân luôn kèm theo sứ mệnh. “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Mệnh lệnh này ban ra cho hàng giáo sĩ hay cho hàng tín hữu giáo dân? Chắc hẳn là cho tất cả những ai đã đón nhận hồng ân. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không” (Mt 10,8). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần cho tha nhân ăn những gì?
Có thể có người viện cớ là tôi chỉ lo mặt tinh thần nên chỉ có bổn phận lo cho người ta ăn Lời Chúa. Lại có người chủ trương là cần phải lo cho tha nhân đủ đầy lương thực đời này trước đã vì “có thực mới vực được đạo”. Đã có chút lương tri và niềm tin, hẳn không một ai cạn tình, vô tâm, hành xử kiểu “giải tán – khỏe”. Tuy nhiên vẫn có đó sự né tránh hoặc thoái thác trách nhiệm khi ta chưa chu toàn mệnh lệnh của Thầy năm xưa. “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra” ( Mt 4,11 ). Và ta cũng có thể nói ngược lại rằng người ta sống không nguyên bởi các món ăn tinh thần mà còn cần đến cả cơm bánh.
Cần phải biết chuyên biệt hóa, cần có sự phân công, phân nhiệm. Kẻ lo tinh thần, người lo vật chất. Một kiểu lý luận rất khoa học, nhưng dường như vẫn thiếu tình người cách nào đó. Khi sai các tông đồ, các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu thường truyền dạy các ngài thực hiện các công việc là rao giảng tin mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ (x.Mt 10,1; Mc 6,13; Lc 10,1-11).
Hết lý do bào chữa thì ta cũng có thể nại đến sự hạn chế của khả năng. Nếu lo cho người ta ăn cả lương thực tinh thần lẫn vật chất thì làm sao lo cho xuể. Và vấn đề lại trở về với tâm trạng các tông đồ năm xưa. Vấn đề ấy không hệ tại ở khả năng nhưng là ở tấm lòng của ta. Lòng ta có băn khoăn, có thao thức trước cảnh tình đói khổ, nghèo túng, bị áp bức, bị lầm lạc hay đang đói khát chân lý không? Con tim của ta có cùng nhịp đập với các Nghị Phụ Công đồng Vatican II chăng? Đó là: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (MV số 1). Hơn nữa, lòng chúng ta có được chút niềm tin nào vào quyền năng của Đấng đầy lòng thương xót?
Trên mặt báo cũng như trên làn sóng phát thanh và truyền hình, mọi nhu cầu vật chất của con: TN18-A54
Trên mặt báo cũng như trên làn sóng phát thanh và truyền hình, mọi nhu cầu vật chất của con người được nêu lên càng ngày càng nhiều hơn. Thế còn nhu cầu tâm linh của con người ngày nay thì sao? Vì có xác và có hồn nên chúng ta có nhu cầu cho thân xác cũng như cho tâm linh thì mới là cân bằng và hợp lẽ. Nhu cầu cho thân xác thì mỗi người biết tìm ở đâu, còn nhu cầu tâm linh thì chúng ta phải biết chạy đến với Thiên Chúa là Đấng có thể thỏa mãn mọi khát vọng thâm sâu của chúng ta.
Đó chính là ý nghĩa của các bài Sách Thánh hôm nay: Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Người để tâm hồn chúng ta được thỏa thuê. Thiên Chúa đáp ứng cách “miễn phí” hoàn toàn. Vậy thì dại gì mà chúng ta không đến với Người!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 55,1-3): Hãy đến mà ăn.
1 Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào. 2 Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. 3 Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít.
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,35.37-39): Không một loài thọ tạo nào có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô.
35 Thưa anh em, ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. 38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 14,13-21): Ai nấy đều ăn và được no nê.
13 Khi được tin ông Gio-an Tẩy Giả chết, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. 14 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn." 16 Đức Giê-su bảo: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn." 17 Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá! "18 Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy!" 19 Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. 20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. 21 Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha, Đấng đã mời gọi hết mọi người đến uống nước, sữa, rượu cho khỏi khát, cho mạnh sức mà không phải trả tiền. Nước đây là nước giếng, nước suối, nước sông mà cũng là Lời, là Giáo Huấn xuất phát (chẩy ra) từ miệng Thiên Chúa. Tương tự như thế, sữa đây là sữa dê, sữa bò mà cũng là vi-ta-min thần linh. Còn rượu đây là rượu nho, rượu gạo mà cũng là sức mạnh vô song của Thiên Chúa. Lương thực hay Lời Thiên Chúa ban cho là cao lương mỹ vị đem lại sự sống đích thực cho những ai mở lòng đón nhận.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã vì chạnh lòng thương đám đông dân chúng đi theo Người để nghe Người giảng dậy, mà thực hiện một phép lạ ngoạn mục, giúp họ qua cơn đói. Phép lạ thể lý (hóa bánh và cá ra nhiều) chỉ là hình bóng của một phép lạ thiêng liêng mà Chúa Giê-su sẵn sàng thực hiện cho nhũng ai đi theo Người, tìm kiếm và đón nhận Lời rao giảng của Người. Chúa Giê-su sẽ liên kết chặt chẽ những kẻ tin vào với Người khiến không gì có thể tách rời họ ra khỏi tình yêu thương của Người.
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa ban nước, sữa và rượu cho con dân của Người. Thánh Thần cũng hiện diện và cùng hành động với Chúa Giê-su khi Người giảng dậy về Nuớc Trời và làm phép lạ cho dân chúng ăn uống no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của các Tông đồ.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
Những ai đói khát về vật chất và nhất là về tâm linh hãy tìm đến với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô vì chẳng những Người có quyền năng mà còn có lòng thương yêu và cảm thông trước nhu cầu thiết yếu và chính đáng của con người. Thiên Chúa sẽ ban nước, bánh, sữa và rượu cho những ai cần những thứ ấy để sống. Nước, bánh, sữa và rượu là lương thực vật chất và là hình bóng của những ân huệ thiêng liêng mà con người cần đến để có sự sống đích thực và trường cửu. Thiên Chúa sẵn sàng ban những ơn huệ ấy một cách nhưng không, miễn phí. Thiên Chúa của Ki-tô giáo là Đấng hào phóng!
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuyệt đối tin cậy !
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay: Một ngày tôi cần ba bữa ăn để sống và có sức làm việc. Đó là đời sống thể lý. Để đời sống tâm linh của tôi được duy trì và phát triển, tôi cần ơn thánh Chúa. Tôi cần tìm đến Chúa trong các giờ đọc kinh cầu nguyện, khi tham dự thánh lễ và trong/qua mọi việc tôi làm trong ngày để được Người ban cho những ơn cần thiết.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, nhất là cho những người nghèo khổ, túng thiếu và bị tước mất quyền tự do độc lập để họ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là Cha nơi Chúa Giê-su Ki-tô. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô - nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và mọi giáo dân -, để mọi Ki-tô hữu được vui sống trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người trong gia đình và giáo xứ/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết lắng nghe tiếng/lời Chúa trong Sách Thánh và trong cuộc đời, ngõ hầu tìm được hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây!” Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho những người khao khát Thiên Chúa, để họ gặp được Nguồn Nước Hằng Sống mà no thỏa tâm hồn.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2: TN18-A55
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Theo thánh Gioan, thì số thực phẩm ít ỏi này là của một em bé. Em bé này đã trao cho Chúa tất cả và rồi hàng ngàn người đã được ăn uống no nê. Giá như em bé này đã không trao cho Chúa, thì có lẽ đám đông đã không được nuôi ăn giữa nơi hoang vắng khi trời đã về chiều. Từ hành động của em bé, chúng ta đi tới một kết luận, đó là hãy cộng tác với Chúa để xoa dịu nỗi đớn đau của người khác, cũng như để đem lại cho họ niềm vui mừng và hy vọng.
Có một hành khách vừa mới bước lên chiếc xe taxi, anh liền nói với bác tài xế: Bác lái giỏi quá. Bác tài nhìn anh và hỏi: Bộ anh định xỏ xiên tôi hả. Anh trả lời: Không phải vậy đâu, tôi khen bác thực mà. Bác tài mỉm cười, lát sau bác nói: Anh làm vậy với mục đích gì? Anh trả lời: Tôi muốn, đem lại tình yêu, niềm vui mừng và hy vọng cho những người sống quanh tôi. Tôi nghĩ rằng một khi bác cảm thấy vui, bác sẽ niềm nở với những khách hàng của bác. Rồi những người này cũng sẽ niềm nở với những người mà họ gặp. Như vậy, sự niềm nở và tử tế sẽ được trải rộng đến hàng trăm, hàng ngàng người. Lời nói của anh làm chúng ta nghĩ tới một câu danh ngôn: Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Trở lại với đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy em bé đã trao cho Chúa tất cả những gì mình có. Và Chúa đã chia sẻ quà tặng ấy cho hàng ngàn người. Như thế, mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở thành dụng cụ cho Chúa thực hiện những phép lạ. Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở trở thành phương tiện cứu giúp cho hàng ngàn người.
Có một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh quốc đã trở lại Công giáo. Anh cho biết: Sở dĩ có cuộc đổi đời này là do ảnh hưởng của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh nói: Làm sao tôi có thể diễn tả được tôi đã mang ơm Mẹ như thế nào. Mẹ đã chỉ cho tôi thấy một Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã dạy cho tôi biết quyền năng của tình thương. Mẹ đã làm cho tôi xác tín: Một cá nhân giàu lòng khoan dung từ ái có thể khơi dậy cả một ngọn sóng thương yêu, để rồi ngọn sóng này sẽ ùa tràn vào thế giới.
Đó cũng là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay: dù chỉ là một cá nhân, nhưng hành động của chúng ta vẫn có một tầm mức quan trọng và đáng kể, nếu chúng ta biết chia sẻ những gì mình có với Chúa, thì Ngài sẽ làm phần còn lại, là biến cái ít ỏi, nhỏ nhoi ấy trở thành hữu ích, đem lại hoa trái vượt quá điều chúng ta mong ước. Chúng ta hãy dâng cho Chúa mọi khả năng, vật chất cũng như tinh thần để tuỳ Ngài sử dụng. Và rồi Ngài có thể dùng chúng để làm những phép lạ.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thơ của một thi sĩ: Lạy Chúa, con chỉ là một sợi dây, xin hãy biến con trở thành chiếc đàn. Con chỉ là một giọt nước, xin hãy biến con trở thành một dòng suối. Con chỉ là một tia lửa, xin hãy biến con trở thành một ngọn đuốc bùng cháy.
Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui. Ngài rút lui vì chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15): TN18-A56
Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui. Ngài rút lui vì chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15). Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp cập bến. Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương và chữa những người bệnh.
Nơi thì hoang vắng, trời đã ngả về chiều, các môn đệ xin Ngài cho đám đông đi mua đồ ăn. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói: "Chính anh em hãy cho họ ăn."
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, làm sao họ có thể cho đám đông này ăn được?
Các môn đệ thú nhận giới hạn của mình. Họ chỉ có thế, nên không làm được điều Thầy muốn.
"Hãy đem lại đây cho Thầy."
Ngài cần đến phần đóng góp nhỏ nhoi của chúng ta, Ngài cần chúng ta trao cho Ngài tất cả những gì mình có,tất cả những gì chính chúng ta đang cần: năm cái bánh và hai con cá.
Chúng ta nên nhìn lại đường đi của những tấm bánh: từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu, từ tay Đức Giêsu nâng cao dâng lên Cha, rồi trở lại tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay của từng người trong đám đông. Chúng ta tự hỏi phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai.
Tin Mừng không nói Đức Giêsu đã làm phép lạ để có một đống bánh và cá thật to, rồi các môn đệ cứ đến lấy mà phân phát. Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ bánh trao cho họ, rồi chắc họ phải bẻ ra để chia cho đám đông, và có lẽ những người trong đám đông cũng đã bẻ tấm bánh của mình để chia cho người khác. Chẳng mấy chốc, ai cũng có bánh ăn.
Như thế, những tấm bánh từ tay Đức Giêsu đã được bẻ ra, trao đi và hoá nhiều. Đó là cốt lõi của phép lạ.
Có thể các môn đệ và dân chúng đã góp phần của họ: bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Đây là phép lạ quan trọng vì có đông người chứng kiến, vì được cả bốn sách Tin Mừng kể lại, và vì Chúa muốn nó được kéo dài đến tận thế: bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời chúng ta tham dự để biết phép lạ không phải là chuyện viển vông.
Đừng sợ bẻ ra và trao đi sẽ làm hao hụt. Nếu giữ lại, 5 chiếc bánh vẫn chỉ là 5 chiếc bánh.
Hãy nhìn đến biết bao người đang cần bánh: bánh mì, bánh sự thật, bánh tự do, bánh công bằng, bánh yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Đừng lo vì bạn không có chi nhiều.
Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn đang có thì thế giới sẽ được no nê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiến trao chẳng những không làm mình nghèo đi, mà còn làm mình được thêm giàu có, phong phú, trưởng thành. Bạn có kinh nghiệm trên đây không?
Đứng trước cơn đói của con người hôm nay, bạn có thấy mình bó tay không? Họ đang đói điều gì hơn cả? Bạn có thể làm gì để giúp họ một cách cụ thể?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin. Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi."
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
Trại Trung tâm tiếp nhận người sắp chết ở Calcutta, Ấn Độ, một người nằm dài trên giường, xem ra: TN18-A57
Trại Trung tâm tiếp nhận người sắp chết ở Calcutta, Ấn Độ, một người nằm dài trên giường, xem ra không thể cử động được cánh tay. Người ta hỏi ông:
- Ông muốn ăn không? Vâng, muốn. - Tên ông là gì? -Dinenraj (Đinh Văn Rao) - Ông bao nhiêu tuổi? -Tôi chẳng biết. - Tên ở đây bao lâu rồi?- Bốn hôm. - Ông từ đâu đến? – Tôi ở ngoài đường phố. - Ông mắc bệnh gì? – Bao tử tôi hoàn toàn thất bại, vì hoàn toàn trống không.
Người ta đem đến cho ông phần ăn của ngày lễ kỷ niệm 25 năm thành lập trung tâm, gồm có: cơm gà giò hầm với càri, khoai tây, sữa đặc, chuối và cam. Ông ăn một cách thèm khát và nhai rất kỹ từng muỗng đồ ăn.Ông mở miệng to để người ta cho ông ăn từng muỗng một. Khi ăn hết dĩa phần ăn, ông nằm duỗi tay chân như một đứa bé chuẩn bị ngủ.
Kể từ ngày được thiết lập (22/8/1952) trong 25 năm trung tâm đã tiếp nhận 36.000 người, trong đó 16.000 người “đã chết trong tay Chúa”. Trung tâm của những người hấp hối này điển bình cho nhiều ngôi nhà tương tự được các nữ tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa thành Calcutta điều khiển trên khắp thế giới. Các soeurs từng nghiêng mình với lòng kính trọng và yêu thương trên những thân xác gầy gò của những người đàn ông và đàn bà được lượm nhặt ngoài đường phố đưa về. Các soeurs từng mang lại cho những con người bị bỏ rơi này một ý thức nào đó về nhân phẩm, đồng thời truyền đạt cho họ về một thế giới bên kia khả dĩ lau sạch mọi nước mắt, xoa dịu mọi cơn đói, chữa lành những tâm hồn mang nặng nhiều thương tích. Lễ Ngân khánh của Trung tâm này tại Calcutta được tổ chức vào ngày lễ Các Thánh(1/11), là để nhắc nhớ con người về giá trị đời mình là biết qui về Thiên Chúa Tình Yêu.
Mẹ Têrêsa đã mời các bà đích thân đến, mang theo đồ ăn họ đã dọn sẵn ở nhà và tự tay phân phát cho các bệnh nhân nghèo. Mẹ có tài thu hút người thuộc đới trung lưu và thượng lưu không phân biệt tôn giáo tới tham gia công việc mà các nữ tu Thừa Sai Bác Ái vẫn làm hằng ngày là nghiêng mình săn sóc những con người bị xã hội bỏ rơi một cách đáng thương.
Anh chị em thân mến,
Phải chăng việc Mẹ Têrêsa thành Calcutta làm trên đây là việc áp dụng Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay một cách sống động? Nhưng thử hỏi còn biết bao cách áp dụng khác nữa mà bài Tin Mừng này có thể gợi lên cho chúng ta? Các môn đệ xin Chúa giải tán đám đông dân chúng để họ đi mua thức ăn. Nhưng Chúa lại bảo các ông: “Chính anh em phải cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với 5 cái bánh và 2 con cá, còn dư lại 12 thúng bánh vụn. Ngoài con số 5000 người đàn ông, thánh Matthêu con thêm “không kể đàn bà và trẻ em”. Vậy tổng số có thể lên tới hàng chục ngàn người. Như vậy Chúa Giêsu, với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đã nuôi một đám đông rất lớn đi theo Chúa Giêsu vào nơi hoang địa. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có của ăn nuôi sống mình.
Ngày nay đám đông dân chúng đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói: 100 ngàn người mỗi ngày và 450 triệu người tối đến đi ngủ bụng đói (theo một bản thống kê quốc tế). Ngay ở đất nước chúng ta đây, còn biết bao người thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ em thiếu dinh dưỡng. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, nhiều người đã ủng hộ nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn đối với con người, chắc chắn chúng ta phải làm hết sức, hết khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp của Chúa mới làm được. Nếu để cho các môn đệ, các ông chỉ biết giải tán để dân chúng đi về bụng đói và có khi phải chết đói dọc đường. Nhưng với sự đóng góp của con người, Chúa đã làm nên phép lạ. Nếu cậu bé không trao cho Chúa khẩu phần bánh và cá của cậu đem theo, thì đám đông dân chúng sẽ về bụng đói. Nhưng với 5 cái bánh và 2 con cá của cậu bé, Chúa Giêsu đã nuôi được hàng ngàn người ăn no vả còn dư thừa.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu không đi quyên góp bánh để phát cho người nghèo. Ngài cũng không khiến bánh tự nhiên từ trời xuống cho họ ăn, nhưng Ngài đã chia sẻ mấy cái bánh mà môn đệ có sẵn trong tay cho tất cả mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chỗ đó: Chúa dạy chúng ta là hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ. Khi chúng ta chia sẻ chính là làm cho tình yêu được nhân lên. Tấm bánh đáng lẽ chỉ nuôi được một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được chuyện mà đống tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ phải có nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư mới cho, nhưng còn sẵn sàng cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì, vẫn có thể cho, đó là chính mình: công sức, tài năng, thời giờ… bởi vì tình yêu cao cả nhất, trọn vẹn nhất, là dâng hiến chính mình cho người mình yêu (Ga 15,13) và đó là tình yêu của Chúa Giêsu. Chính tình yêu này mới khiến Ngài chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ, bệnh tật của dân nghèo và ra tay cứu giúp.
Điều nguy hiểm nhất cho con người là không còn biết chạnh lòng thương xót trước những nỗi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm cho chúng ta “thành người”mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Ông Malcolm Muggeridge, một nhân vật nổi tiếng trên đài TV Anh Quốc, đã trở lại đạo Công giáo, điều mà trước đây ông đã thề sẽ không bao giờ làm. Ông nói, ông đã bị cảm kích bởi những việc Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm: “Không thể diễn tả bằng lời, tôi đã mắc nợ Mẹ Têrêsa thế nào. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy Kitô giáo trong hành động. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy sức mạnh của tình yêu có thể làm nổi dậy một ngọn thủy triều tình yêu lan tràn khắp thế giới…”
Trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều được lặp lại trong Tiệc Thánh Thể: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Chúa vẫn tái diễn phép lạ ấy hằng ngày để nuôi dưỡng chúng ta và cả thế giới. Tại sao từ bàn Tiệc Thánh này chúng ta lại không biết chia sẻ với người nghèo đói? Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói, vì có những cái bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, khi đã lãnh nhận Bánh của chúa thì cũng biết cạnh lòng thương và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi sống tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới.
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác: TN18-A58
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14,13-21 và 15,32-38) và Mác cô (6,35-44 và 8,1-10) Luca (9,12-17) và Gioan (6,1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng "người thì ăn không hết, người thì làm không ra".
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, ngày mốt và cho con cháu... thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên mặt đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu mọi người biết chia sớt cho nhau, thì chắc chắn không có ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những phương tiện sản xuất hiện đại, nắm bắt những công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người sa cơ thất thế phải lâm cảnh thiếu đói triền miên.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Người giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các môn đệ đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?"
Thế rồi "Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông."
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sarépta: Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Êlia truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (1V 17, 7-16)
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: "Các con hãy cho họ ăn" để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn".
Mẹ Têrêxa kết luận: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
Đã có một thời, bà con ta xếp hàng trước cửa hàng Nhà Nước để mua từng ký gạo thường xuyên: TN18-A59
Đã có một thời, bà con ta xếp hàng trước cửa hàng Nhà Nước để mua từng ký gạo thường xuyên ẩm mốc, từng ký cá nhiều lúc đã ươn thối, mua cả chút dầu, chút muối, tiêu, bột ngọt… Tất cả phải mua bằng tiền.
Lúc ấy, không thiếu những người không có gạo ăn vì không có tiền để mua, và có khi cả nhà năm bảy con người ta phải sống qua ngày bằng những củ nần luộc đến năm bảy nước rồi, mà khi ăn vào vẫn bị rối loạn tiêu hóa hay bị phù bị ngứa, đôi ba ngày không khỏi.
Ngay hôm nay, cuộc sống có khá hơn một chút, thì bức tranh tương phản giàu nghèo còn rõ nét hơn: vẫn còn bao nhiêu người quanh ta đang đói ăn đói mặc, hoặc ăn bữa nay lo bữa mai, và ngược lại, có khối người phung phí tiêu xài bỏ cả bạc triệu, bạc tỷ mua những cuộc vui chơi vô độ nếu không nói là mua lấy cho mình cái tàn lụi nhân phẩm và sự chết ngàn thu. Họ là những con người duy vật, chỉ biết có cuộc sống phàm trần này, và chỉ biết lo sao cho cuộc sống phàm trần này sung túc để hưởng thụ. Họ không bận tâm đến những người thiếu đói, hoặc nếu có thì cũng chỉ là quăng xuống chút bố thí của ăn cắp để cho thiên hạ biết ta đây cũng có nghĩa có nghì !
Trong số những con người duy vật đó, có thể có tôi, có bạn, có cả những người Công Giáo bị tiêm nhiễm lối sống rất thực dụng của xã hội trần tục.
Bài đọc 1, Is 55, 1 – 3 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia không chỉ cho ta xem bức tranh tương phản của xã hội thời ấy mà còn gửi đến cho mọi người một thông điệp vui mừng của Thiên Chúa: "Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân ? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị.”
Như vậy, Ngôn Sứ Isaia, cho biết Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người: Thiên Chúa hiểu thấu cuộc sống của con người: luôn đói, khát, luôn cần của ăn, thức uống, Thiên Chúa trách cứ những người không biết dùng tiền của mà lo cho sự sống mình, Thiên Chúa mời con người đến với cuộc sống vĩnh cửu: Nghe lời Chúa, ăn của ăn của Chúa.
Thánh Vịnh 144 nối tiếp trình bày sự quan tâm ấy: “Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê” ( Tv 144, 16 ).
Bài Tin Mừng, Mt 14, 13 – 21, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã cụ thể chứng minh lòng Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người: Ngài “chạnh lòng thương” đoàn dân theo Ngài, Ngài chữa bệnh cho họ và bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Nếu theo cách xử trí của các môn đệ là “giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn", nghĩa là, để ai nấy tự lo tự liệu cho cuộc sống của mình, thì cả thầy cả trò đều khỏe khoắn hơn. Nhưng, Chúa Giêsu không đồng ý cách giải quyết vô cảm, thiếu tình thương, thiếu trách nhiệm như thế. Ngài nhận lấy trách nhiệm phát sinh do lòng thương và Ngài muốn các môn đệ Ngài học bài tình thương và trách nhiệm ngay trong tình huống khó khăn nhất: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi”… “Có mua hết 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ”… “Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu !” ( x. Ga 6, 1 – 13 ).
Nếu em bé kia khư khư giữ lại “năm chiếc bánh và hai con cá” cho phần sống của mình và không bằng lòng giao cho các môn đệ và Chúa Giêsu, thì điều gì sẽ xảy ra ? Gần 10 ngàn người chết đói chăng ? Thiết tưởng không phải vậy. Nhưng bài học của phép lạ bánh hóa ra nhiều ở chỗ: lòng bác ái đơn sơ của em bé là khởi điểm của phép lạ. Có thể nói Chúa Giêsu “chạnh lòng thương” dân chúng và càng “chạnh lòng thương hơn” khi thấy một em bé biết “chạnh lòng thương”, sẵn sàng nhường phần ăn của mình để không phải là“chia năm sẻ bảy” mà là “chia năm ngàn, sẻ bảy ngàn”.
Nếu chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá” của em bé “chạnh lòng thương” kia được quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu can thiệp vào có thể nuôi hàng vạn người, thì cũng vậy, dù là chút cố gắng đơn sơ nhỏ bé vì tình thương và trách nhiệm của chúng ta khi được Chúa Giêsu chạm đến, chắc hẳn, chúng ta cũng nuôi sống được mình và nhiều người khác.
Đoàn dân đông đảo đang theo Chúa, không ở xa chúng ta, nhưng rất gần chúng ta, ngay trong gia đình ta: con cái , ngay trong những người chung quanh ta: tha nhân.
Việc có con cái và lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái học trở thành gánh nặng cho các gia đình thời nay, không phải vì thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém, và lý do nhân mãn cách nào đó cũng chỉ là một ngụy biện cho việc con người thời nay muốn cho mình có một cuộc sống thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, ích kỷ hơn. Tồi tệ hơn nữa khi xã hội nhân danh chủ trương giảm sinh tránh nhân mãn để phồn vinh hạnh phúc mà tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trẻ già cứ an tâm sống thử, an tâm hưởng lạc trong, ngoài hôn nhân mà không chút tình thương, không chút trách nhiệm.
Sao không giữ được truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông bà ta xưa rằng “mỗi đứa con là một lộc Trời”, con cháu đầy đàn mà vẫn nuôi dạy tốt, và nhất là, hạnh phúc các gia đình bền vững nhờ tình thương và chu toàn trách nhiệm với con cái.
Không lẽ, con người thời nay không còn biết “chạnh lòng thương” là gì nữa sao ? Không đến nỗi bi đát vậy. Trong chúng ta, thiết tưởng còn nhiều trái tim biết chạnh lòng thương trước những đau khổ của nhân loại. Và chúng ta tin tưởng rằng nhờ những trái tim biết chạnh lòng thương ấy mà hằng ngày vẫn thấy những phép lạ bánh hóa ra nhiều ngay trong cuộc sống chúng ta.
Có gia đình gần nhà tôi, suốt 22 năm trời, vợ chồng và tám đứa con chui rúc trong căn nhà lá không có cửa, không có phòng riêng, nắng mưa dọi dột… Vợ chồng làm đủ mọi nghề để nuôi con ăn học. Nay đã có 7 em đại học, 4 ra trường, 3 còn đang đại học. Tất cả ngoan ngoãn và sống tốt. Cách đây 10 năm, anh chị mới có được một căn nhà xây nho nhỏ, ấm cúng, chan hòa tình thương. Chị vẫn thường nói: “Nhà em có phép lạ”. Những người từng sống ở đây vài chục năm đều có thể nhận ra việc Chúa đã làm cách kỳ diệu cho vợ chồng anh chị, những người có lòng thương và trách nhiệm.
Cô VBH, Việt kiều Virgina, tâm sự: “Thấy mấy chị mua một bức màn cửa vài ngàn, em cũng muốn mua lắm, nhưng nghĩ lại, có làng dân tộc ở quê em đang đói, em gửi mấy ngàn ấy về cho Giáo Họ gần Giáo Xứ em. Nghe nói Cha sở đã mua gạo thơm tặng cho họ, cứ mỗi người mười ký, có nhà 30, có nhà 50, có nhà đến 120 ký đấy anh ạ. Con họ đông ghê. Em nhẹ lòng hơn và vui hơn là mua bức màn cửa”. Hỏi thêm mới biết, lần về dự Bế Mạc Năm Thánh tại La vang, cô về thăm quê nhà ở Di Linh và có đi thăm làng dân tộc nghèo khổ ấy. “Chạnh lòng thương” từ ấy đã ủ ấp sâu kín thành một ước vọng bác ái để có một ngày cô đã thực hiện bằng cách “hy sinh phần nhỏ của mình, để Thiên Chúa thực hiện công trình lớn lao”, bằng cách mở bàn tay của Chúa” ra cho những người đói khổ.
Nghĩ vậy, là vì, chúng ta không thấy “bàn tay của Chúa mở ra cho chúng con được no nê”, nhưng Chúa đang dùng bàn tay quảng đại của bao người có trái tim biết chạnh lòng thương của Chúa, mà làm phép lạ sẻ chia cho con người “sự sống đời nầy để ca tụng và tôn vinh Chúa”.
Có người làm việc bác ái vì tình thương, vì “chạnh lòng thương” nhưng cũng có người làm việc bác ái vì ngộ ra việc bác ái có giá trị đền bù tội lỗi.
Có một bà chừng ngoài 50, rất trẻ đẹp sang trọng, hình như ở Sàigòn. Tôi không biết nhiều về cuộc đời của bà, chỉ gặp bà một lần ở Bệnh Viện Phan Thiết, thấy bà ta giúp đỡ nhiều người bệnh và nghe bà ta nói chuyện với một em gái định phá thai: “Tôi muốn giúp đỡ và cứu sống nhiều người để xin đền vì cái tội tày trời của tôi: đã giết chết năm bảy mạng người con ruột của tôi. Xin trời thương lấy tôi và tha thứ cho tôi. Xin linh hồn các con tôi thương lấy tôi và tha thứ cho tôi”
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã thương yêu chúng con. Xin cho chúng con biết chạnh lòng thương trước những khổ đau của tha nhân và biết quảng đại cho đi phần nhỏ bé của mình để Chúa thực hiện công trình lớn lao của Chúa. Amen.
Có lẽ không tín hữu Kitô nào không biết đến những câu chuyện phép lạ của Đức Giêsu. Ngoài: TN18-A60
Có lẽ không tín hữu Kitô nào không biết đến những câu chuyện phép lạ của Đức Giêsu. Ngoài ý định mặc khải mầu nhiệm Thánh Thể – Bí Tích Tình Yêu, phép lạ còn là một thông điệp sâu xa Thiên Chúa muốn gửi đến nhân loại.
Không phép lạ nào được làm nên mà không phát xuất từ tình yêu thương. Bản chất của phép lạ chính là sự biểu lộ quyền năng, sức mạnh của tình yêu thương nhiệm mầu. Thật ra, từ khi tạo dựng thế giới, phép lạ đã bắt đầu xuất hiện và luôn luôn tồn tại. Những phép lạ nhỏ nhoi chân thường đến nỗi trong nhãn quan nhân loại đã trở thành mặc nhiên. Giả như không có bàn tay điều hành của Thiên Chúa, thì trật tự vũ trụ lạ lùng này có còn tồn tại ?
Sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu không gì khác hơn mặc khải tình yêu vĩ đại Thiên Chúa ban cho nhân loại. Mầu nhiệm yêu thương ấy được biểu lộ cách tiệm tiến trong dòng lịch sử. Mà đỉnh cao là cái chết tự hiến trên thập tự giá và sự hiến thân trọn vẹn trong Bí Tích Thánh Thể, nơi ấy Con Thiên Chúa đã tự hủy chính mình, trở nên tấm bánh bẻ ra cho muôn người được ơn cứu độ.
Ở với con người, sống trong con người, nên một với con người, không gì khác hơn ngoài ý định cho con người được sống, sống dồi dào, sung mãn và hạnh phúc. Thiên Chúa yêu thương nhân loại không hết, vậy mà thế giới ngày ngày có biết bao lời oán trách, kêu than thậm chí còn nguyền rủa Đấng Tạo Thành mình.
Đối diện với khổ đau, đói nghèo, bệnh tật… con người không biết bám víu vào đâu. Nhiều lúc kêu trời nhưng trời câm nín, hỏi người, người lại quay lưng. Những vòng xoáy của sóng gió sự dữ vẫn cứ gào thét, vật vã nhân loại, để rồi… nhân loại quay ra khước từ yêu thương.
Như bao đời, nhân loại cứ lầm lũi bước đi trên con đường truy tìm ánh sáng chân lý. Bắt gặp Thiên Chúa, Chủ Tể đời mình, nhưng con người khó vượt qua cạm bẫy danh vọng bạc tiền để mà trung thành bước đi trong niềm tin và ánh sáng cứu độ.
Lật lại từng trang Kinh Thánh, có nơi nào không viết lời yêu, những ngôn từ, hành động yêu thương Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con cái loài người. Vậy mà chẳng hiểu sao, người ta vẫn khó tin đến thế. Nếu nói Thiên Chúa tàn nhẫn, thì Ngài dựng nên thế giới làm gì, lại còn hi sinh mạng sống để cho họ khỏi chết. Nếu nói Thiên Chúa không biết yêu thương thì cần gì Ngài động lòng trắc ẩn trước những khổ đau của đồng loại. Làm thế nào để có thể tìm được tình yêu nơi một con tim không có chân lý ? Trái tim bị bóng ma vật chất che phủ làm gì biết cảm thông trước những nỗi khổ đau, bất hạnh của đồng lại ? Con tim chai cứng làm gì biết khóc với những giọt nước mắt của kẻ nghèo hèn, bé mọn ?
Không, tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết, nói thế nào cũng không trọn vẹn. Chỉ trong thinh lặng, chiêm niệm và cầu nguyện người ta mới có thể hiểu thấu chân lý vĩ đại ấy mà thôi.
Thiên Chúa chạnh lòng thương ( x. Mt 14, 14 ), tự nhiên mấy người trong nhân loại làm được như vậy. Những biểu hiện yêu thương hiển hiện Ngài dành cho trần thế không chỉ để cho con người thấy để tin nhưng còn muốn họ bắt chước mà học đòi: “Chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). Hỏi xem, mệnh lệnh ấy được bao người đón nhận ?
Cái trách nhiệm biểu hiện tình yêu nghe dường mông lung quá, hình như của ai kìa, của Giáo Hội, xã hội chứ không phải của riêng ai. Nhưng Giáo Hội hay xã hội là ai kia chứ, chả phải là từng cá vị ? Chính vì cách sống vô tâm, thờ ơ, lãnh đạm khiến con người càng trở nên tham lam, ích kỉ. Chẳng vậy mà chủ nghĩa cá nhân ngày càng bành trướng, cái tôi giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động gia đình, xã hội. Tai nạn, thảm họa, sự dữ xuất hiện với tần số ngày càng cao, mật độ ngày càng dày… đến nỗi sự ác trở nên bão hòa trong mọi sinh hoạt xã hội.
Lạy Chúa, cảm ơn Ngài đã yêu thương con đến tận cùng, trao ban chính Thịt Máu mình cho con được sống. Mỗi ngày rước Thánh Thể Chúa, là một ngày con tiếp rước của nuôi tinh thần, cho con sự sống Thần Linh, được kết hiệp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa trong cung lòng yêu thương của Ngài. Cảm ơn Chúa đã ở lại với con trong phép Thánh Thể, con không chỉ kín mức được nguồn lương thực thiêng liêng mà còn sở hữu được niềm tin vững mạnh, giúp con can đảm tiến bước trên đường đời đầy nghịch cảnh.
Đón nhận yêu thương, con phải có bổn phận thương yêu, nhưng không thiếu khi con khép chặt đôi tay nắm giữ, ngại khó, ngại khổ, ngại hy sinh, sợ bỏ mình, con chỉ biết sống thu vén trong vỏ ốc ích kỉ riêng mình, bỏ qua biết bao mảnh đời bất hạnh đói kém, lầm than.
Xin mở tim con, cho con biết động lòng trắc ẩn trước đồng loại, dám rộng tay cho đi, cùng với Ngài… làm nên phép lạ.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quan tâm đến cái đói cái khát: TN18-A61
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quan tâm đến cái đói cái khát, cũng như đến những khổ đau, bệnh tật là những sự kiện rất bình thường của thân phận con người. Từ đó chúng ta ghi nhận được những khác biệt cần suy nghĩ.
Trước hết là các tông đồ, những người đã từng chứng kiến cách cư xử của Chúa Giêsu, thế mà các ông cũng chưa có được cái nhạy cảm của Ngài. Các ông đã đề nghị Ngài giải tán đám đông khi trời đã xế chiều, để mỗi người tự giải quyết lấy vấn đề cơm ăn thức uống của riêng mình. Bởi vì đâu có gì bắt buộc các ông phải giải quyết cho họ. Hơn nữa các ông là những người cộng tác với Chúa, có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, một nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả, chứ đâu có phải là ba cái chuyện tẹp nhẹp, vụn vặt là ăn và uống.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã phản ứng như thế nào? Tin Mừng cho chúng ta thấy giữa Chúa Giêsu và đám đông có một sự gắn bó mật thiết: Đám đông đói khát giáo huấn của Ngài. Họ đã đi theo Ngài ngay cả khi Ngài muốn lẩn tránh họ. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ thấy được cái đói khát lời đem lại chân lý và sự giải phóng cho họ. Mà hơn thế nữa, Ngài còn thấy cả cái đói đang giày vò thân xác họ. Ngài không chỉ thấy suông, như một con người bàng quan. Trái lại, Tin Mừng đã ghi lại một chi tiết đầy ý nghĩa: Thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương xót và chữa lành những kẻ đau yếu. Ngài đã làm phép lạ cho 5 chiếc bánh và hai con cá hoá ra nhiều đến độ tới 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em, có thể ăn no mà còn dư tới 12 thúng bánh vụn.
Chúa đã chẳng làm phép lạ từ con số không, nhưng từ những chiếc bánh và những con cá, đang có sẵn là khẩu phần của một người nào đó đã biết tiên liệu mang theo mình. Dĩ nhiên lương thực ấy phải là kết quả của mồ hôi nước mắt, của lao công khó nhọc. Khẩu phần ấy giờ đây được bẻ ra và phân phát cho mọi người.
Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói bởi vì có những chiếc bánh được giữ riêng cho những cá nhân, và không hề được bẻ ra để chia sẻ, để giúp đỡ. Chúng ta không có khả năng thực hiện được một việc làm ngoạn mục như Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta luôn được mời gọi để chạnh lòng thương xót, để chia sẻ và quan tâm tới người khác, nhất là những kẻ nghèo đói. Chính mối quan tâm này sẽ giúp chúng ta dần dần tìm thấy cách thức giải quyết, bởi vì có rất nhiều cái đói chồng chất trong xã hội này: đói của ăn thiêng liêng, đói của ăn vật chất, đói tình thương, đói văn hoá, đói giáo dục, đói sự thật, đói chân lý, đói những quyền căn bản để làm người. Thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để giải quyết phần nào những cái đói ấy cho bản thân cũng như cho những người chung quanh.
Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế giới hiện nay. Trung Hoa nhờ: TN18-A62
Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế giới hiện nay. Trung Hoa nhờ áp dụng chính sách kinh tế hợp lý, đang triển vọng vươn lên thành một nước giàu có; trong khi đó, Ấn Độ do tài nguyên thiên nhiên không dồi dào, đường lối kinh tế chưa ổn định, xã hội quá phân biệt nhiều giai cấp khác nhau, nên quốc gia còn đang phát triển, đời sống dân chúng vẫn vất vả lầm than.
Cách đây vài thập niên, Calcutta khi ấy là một thành phố đông dân: ban ngày, người nghèo ngồi la liệt khắp phố, mong chờ lòng rộng rãi giúp đỡ của khách thập phương; ban đêm, họ không nơi cư trú phải nghỉ đêm trên các vỉa hè, hẻm cụt của thành phố. Một nữ tu trung niên người Albanie vốn đang phục vụ truyền giáo tại Ấn Độ, đã động lòng xót thương họ. Đêm ngày đối diện những cảnh nghèo hèn đau khổ của cư dân thành phố Calcutta, Chị đã tự hỏi: “Ta phải làm gì cho đám đông những người đáng thương này?”. Trở lại nhà dòng, Chị gom hết số tiền mình có, mua một căn nhà rẻ mạt và sửa chửa nó thành nơi cư trú qua đêm cho những kẻ không nhà. Bằng khả năng nhỏ bé nhưng với tấm lòng quảng đại to lớn, Chị muốn ra tay làm một cái gì đó giúp người khốn cùng không còn phải bơ vơ hiu quạnh nữa.
Không những lo cho họ có chỗ định cư, lại còn phải tìm nguồn cung cấp lương thực giúp họ sống qua ngày. Làm thế nào Chị nữ tu ấy- mà sau này người ta quen gọi là Mẹ Têrêsa- có thể nuôi đủ 9000 miệng ăn mỗi ngày? Chúa đã không chịu thua lòng bác ái của Mẹ. Nhiều bàn tay yêu thương sẵn sàng liên đới công việc từ thiện của Mẹ: một đôi bạn trẻ sắp lập gia đình, hy sinh không tổ chức tiệc cưới dành toàn bộ chi phí giúp người nghèo; Ủy Ban Nobel trao tặng Mẹ giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 1979; nhiều phụ nữ thiện chí dâng hiến cuộc đời trong hội dòng Thừa Sai Bác Ái nối dài việc cứu tế.
Biết nhận ra những người nghèo đói quanh mình, sẵn sàng giúp đỡ tình trạng đau khổ của họ là phương thế đáp ứng lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
A. Tình trạng đói khát trong cuộc sống.
1. Sách Các Vua quyển thứ II thuật lại: tiên tri Êlisa, môn đệ thân tín của Êlia, đến vùng Baal- Salisa rao giảng. Dân chúng hàng trăm người khát Lời Chúa tuôn đến nghe Êlisa nói đến nỗi không mang lương thực đi đường (2V. 4,42-44). Với 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa của một người dâng cúng, Êlisa đã xin Chúa giúp dân no nê cơm bánh đường dài.
2. Tin Mừng hôm nay (Mt 14,13-21) cũng cho thấy: đám đông dân chúng từ các thành thị đến nghe Chúa giảng. Nơi hoang địa xa nhà, họ không đủ thuận lợi để mua thức ăn dọc đường. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé mang theo (Ga. 6,9), Chúa đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn dư dả.
3. Cha Mark Linh, SJ. cho biết: Báo Chicago Sun Times có thực hiện một nghiên cứu thì biết rằng thế giới hiện nay trên 6 tỉ người, trong đó hàng đêm khoảng 450 triệu người đi ngủ (13%) mà bụng vẫn đói cồn cào. Họ không đủ điều kiện để có cơm bánh qua ngày, suy dinh dưỡng trầm trọng.
4. Phi Châu xưa nay vốn là một lục địa có nhiều quốc gia nghèo đói trong vùng. Thập niên 1990, nước Rwanda xảy ra tình trạng tranh chấp giữa 2 sắc tộc: Tutsi và Hutu. Đất đai kém cỏi, hạn hán thường xuyên, lại thêm cuộc nội chiến phe phái, đời sống dân Rwanda mỗi ngày một cùng cực hơn. Liên Hiệp Quốc phải kêu gọi Quốc Tế cứu đói Rwanda.
B. Giúp đỡ kẻ khốn cùng: hãy cho họ ăn.
1. Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Ngài không ngừng thi ân cứu giúp khi con người lâm cơn đói khát.
* Nơi sa mạc nắng cháy da người, dân Do Thái lo sợ đói ăn, khát uống. Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và chim cút, Ngài lại còn cho Maisen cầm gậy gõ vào đá khiến nước vọt ra tràn trề dân uống thoả thuê (Xh. 16-17,1-6).
* Tiên tri Êlia bị hoàng hậu I-de-ven truy nã vì đã ra lệnh sát hại các sư sãi thần Ba-al. Trên đường tránh nạn, Êlia khiếp sợ và lo lắng cho mạng sống mình. Suốt bốn mươi ngày đi đến núi Khô-rếp, Chúa đã nuôi Êlia bằng bánh và nước, giúp ông an tâm ẩn mình, tiếp tục phục vụ Thiên Chúa (1V. 19,1-8).
* Sách tiên tri Isaia còn cho thấy: Thiên Chúa dọn sẵn cho dân Người một bữa tiệc miễn phí đầy cao lương mỹ vị, người nghèo khổ đói khát không có gì để trả cũng được mời tham dự (Is 55,1-3). Bữa tiệc ấy chính là hình ảnh Nước Trời, nơi con người được no nê sung mãn mọi sự.
2. Chúa Giêsu cũng thúc giục các Tông Đồ: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Ngài mời gọi con người hãy quan tâm đến nhu cầu thiếu thốn của tha nhân.
* Thánh Martin de Porrès: “đứa con bị từ chối” bởi người cha là một hiệp sĩ Tây Ban Nha. Tuy gia đình nghèo khổ, mẹ Ngài vẫn kiên tâm giáo dục 2 chị em Martin nên người tốt lành, hữu ích cho xã hội. Một ngày nọ đi chợ, Martin gặp người nghèo túng bên đường, Martin đã bớt xén tiền chợ, bố thí giúp kẻ khốn cùng. Cậu biết mình cơ cực nhưng nghĩ đến còn nhiều người khác neo đơn hơn: Martin đã rộng tay san sẻ cái mình có.
* Cơn bão Katrina 2005 làm nhiều cư dân VN vùng New Orleans và Bilosi gặp khó khăn. Ngày ngày, họ nhận hàng viện trợ Red Cross cung ứng, tháng tháng lãnh phiếu Food Stamps chi tiêu cho qua ngày đoạn tháng. Bất ngờ vài tháng sau đó, quê nhà Việt Nam bị cơn bão số 9 tàn phá miền Trung dấu yêu: đồng hương đất Mẹ không nhà cửa trú thân, mỗi bữa ăn chỉ được giúp tiêu chuẩn một gói mì tôm, cơn đói hành hạ thê thảm. Kiều bào VN hải ngoại đã không ngại đóng góp tiền của, nhanh tay cứu giúp anh chị em quê nhà còn khốn khổ hơn nỗi xót xa Katrina của mình.
* Mahatma Gandhi đã nói: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì: ta có quá nhiều cái dư thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật ấy chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.
C. Thiên Chúa cần những bàn tay cộng tác của con người.
Tiên tri Êlisa không thể giúp dân chúng vùng Baal-Salisa thoát khỏi cơn đói lả, nếu không có người dâng cúng cho tiên tri 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Chúa Giêsu muốn giúp cho dân chúng đi nghe Ngài giảng được ăn no nê, Chúa mời gọi em bé dâng cúng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài đã thực hiện phép lạ hoá bánh ra nhiều vì yêu thương con người. Ngài sẵn sàng chúc phúc cho con người, khi con người biết cộng tác, đóng góp khả năng mình vào chương trình của Thiên Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi…Con hướng lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng” (Tv.118:111-112).
* Trong một lớp Kinh Thánh, khi học hỏi tìm hiểu về phép lạ hoá bánh ra nhiều, một học viên tân tòng đã hỏi Cha xứ rằng: “Thưa Cha! Ngày xưa Chúa đã làm phép lạ nuôi 5000 người ăn, tại sao thời nay Chúa không tiếp tục làm phép lạ thêm, để chúng ta khỏi phải đi làm đầu tắt mặt tối như thế này?”. Cha xứ đã khéo léo trả lời: “Chúa là Đấng quyền năng, Ngài vẫn thường xuyên làm phép lạ cho con người. Ngài vẫn nuôi dân Chúa mỗi ngày bằng lương thực Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhưng Chúa vẫn muốn chúng ta cộng tác với Ngài vì nếu Chúa cứ làm phép lạ hoài, con người sẽ lười biếng, cậy dựa vào Chúa hoàn toàn, không trưởng thành được”.
* Có một lần đi sang Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ sở để lập các chi nhánh dòng Thừa Sai Bác Ái tại quốc gia này, Mẹ Têrêsa Calcutta đã tâm sự: “Nhiều trẻ em sinh sống tại Mỹ không nghèo vật chất nhưng thật tội nghiệp, chúng lại nghèo tình thương”. Đời sống sung túc đưa con người đến tình trạng hưởng thụ quá đáng, quên cả sự hy sinh tiết kiệm để chia sẻ cho người nghèo,cộng tác với Thiên Chúa giúp thế giới này bớt đau khổ hơn.
D. Lời nguyện kết thúc:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình thương, Chúa yêu thương chúng con quá đỗi, khi tự hiến thân mình làm Bánh Thánh Thể, bẻ ra nuôi muôn người chúng con được no nê và được sống dồi dào. Xin giúp chúng con luôn liên kết cộng tác với Chúa biết dâng mọi sức lao công vui buồn cùng giọt mồ hôi nước mắt làm của lễ dâng tiến Chúa mỗi ngày. Amen.
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể: TN18-A63
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác... Hôm nay xin được chia sẻ về bài học tiết kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8). Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ,thời gian,tài năng,trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng”. (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ”.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới: Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc. Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin. Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em. Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ. Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của: TN18-A64
Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).
Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy"( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.
Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.
Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.
Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.
Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.
Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.
Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.
Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).
Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).
Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.
Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).
Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.
Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người. Tất cả là hồng ân! Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.
Chúa Giêsu trong ba năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ, Ngài đã đối diện với đám đông dân chúng.: TN18-A65
Chúa Giêsu trong ba năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ, Ngài đã đối diện với đám đông dân chúng. Ngài đã hiểu rõ dân cần gì, dân khao khát gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã không dạy giáo lý với những lý thuyết xa vời, khô khan. Ngài đã không cho dân chúng những lời nói cứng nhắc, hay những tư tưởng cao vời, những khái niệm trừu tượng, trên mây trên gió. Chúa luôn thực tế, Ngài chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền, xoa dịu những người đau khổ, khó khăn. Ngài thương dân chúng bơ vơ, lạc lõng không có người chăn dắt. Hôm nay, Chúa thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy, Ngài sợ họ đói, họ khát, nên "Ngài chạnh lòng thương" (Mt 14, 14).
Lịch sử dân Do Thái còn rõ rành rành cho nhân loại và bài học Thiên Chúa nuôi dân Do Thái đi trong sa mạc về đất hứa xưa luôn là bài học để đời. Môsê đã cầu khẩn Chúa khi dân chúng không có lương thực, không có nước uống trong sa mạc tiến về hứa địa. Lời khẩn cầu của Môsê luôn được Chúa chấp nhận. Ngài đã ban Manna cho họ. Hôm nay, trước một đám dân đông đúc, Chúa thương họ. Dù rằng các môn đệ cũng thương dân nhưng các Ngài vẫn chưa hiểu thấu nỗi lòng của những người dân trong hoang địa hiu quạnh, xa vắng, không có gì ăn. Nên, lòng thương xót của Chúa quả thực cao vời, Ngài đã làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng. Và chỉ với năm chiếc bánh, với hai con cá, Chúa đã làm phép lạ để nuôi "năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ con" (Mt 14, 21) được ăn no nê và còn dư dật. Chúa thực hiện phép lạ này để minh chứng lòng thương xót của Chúa đối với đám đông, đối với nhân loại, đối với mỗi người chúng ta. Nếu giải pháp các môn đệ đưa ra là " giải tán đám đông " được coi là ổn thì quả thực lòng thương xót chưa phải là thật vì đó mới chỉ là thương xót nói trên đầu môi, chóp lưỡi. Chúa thực hiện phép lạ ấy để dạy chúng ta hãy làm như Chúa, hãy sống và đối xử, có thái độ như Chúa trước nhu cầu thiết thực của con người.
Ngày nay, Chúa cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và hết sức âm thầm của mình cho anh em đồng loại, đặc biệt cho những người nghèo chung quanh chúng ta. Chúa đợi chờ chúng ta một chút tế nhị, một chút tình thương. Chắc chắn, qua cử chỉ bác ái, qua tình thương của chúng ta đối với những người nghèo, những người gặp khó khăn, nhiều người sẽ nhận ra bộ mặt đầy nhân từ và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Vâng, những người nghèo sẽ không đáng chết vì thế giới còn biết bao nước giầu, thế giới còn biết bao lương thực, tài nguyên chưa được phân phối đồng đều. Tin Mừng cho thấy, người phú hộ giầu có đâu có biết chạnh thương người nghèo Lazarô ăn xin.Thế giới còn nhan nhản những người giầu ăn không hết, của cải không biết bỏ đâu, nhưng họ không biết cho đi, chia sẻ và làm việc từ thiện. Nhiều nước giầu đã đem lương thực đổ ra biển vì sơ quá hạn xử dụng. Thế giới quả không thiếu lương thực nhưng chỉ thiếu những người biết chạnh lòng thương. Lương thực rất cần thiết để sống nhưng con người rất cần tình thương để tồn tại. Chúa Giêsu đã thấu hiểu điều đó, nên Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ: "Chính các con hãy cho họ ăn".
Biết bao nhiêu gương của những vị thánh, của những con người có lòng tốt, có lòng chạnh thương đã để lại cho nhân loại sự kính phục, trân trọng vì nhờ họ mà bao nhiêu người được chia sẻ, được cứu sống. Chân phước Têrêsa Calcutta đã làm say đắm và thán phục cả thế giới vì gương bác ái của Mẹ. Biết bao vị thánh đã trao ban chính bản thân của mình để cứu nhiều người. Bạc tiền, lương thực cần thật đó, nhưng lòng thương sâu xa sẽ giải thoát và cứu sống con người. Thánh Phaolô đã nói: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh".
Thế giới này, nhân loại này sẽ đẹp, sẽ tốt hơn, sẽ ấm áp hơn nếu con người có lòng chạnh thương và biết cho đi, biết trao ban. Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại khi Ngài trao ban chính Mình Máu của Người làm lương thực nuôi sống con người. Tình yêu vô vị lợi, tình yêu xả kỷ của Người được thể hiện nơi Thập Giá. Chính cái chết của Chúa Giêsu nơi Thập Giá là lời chứng hùng hồn nhất về tình yêu xả kỷ, tình yêu trao ban Chúa để lại cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Trao ban sẽ được lại và cho đi sẽ đem lại hạnh phúc cho con người. Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại tình yêu cao vời nhất, tình yêu hoàn hảo nhất: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13) và Ngài nói: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (Ga 6,35).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng ban ơn phù trợ và lấy bánh bởi trời bồi dưỡng chúng con; xin tiếp tục chở che nâng đỡ để chúng con xứng đáng hưởng nhờ ơn cứu chuộc muôn đời (Lời nguyện hiệp lễ, Chúa Nhật XVIII thường niên, năm A).
Các bài đọc trong Thánh lễ 18 thường niên hôm nay phảng phất lên những phép lạ, những dấu: TN18-A66
Các bài đọc trong Thánh lễ 18 thường niên hôm nay phảng phất lên những phép lạ, những dấu lạ mà Thiên Chúa vẫn làm chỗ này chỗ kia trong cuộc sống hiện tại. Những dấu lạ ấy thật ý nghĩa với con người thời hiện tại.
Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta là dân chúng vì đi theo Chúa Giêsu, vì nghe Chúa Giêsu giảng nhiều quá nên rồi họ đói và họ khát. Chúa thấy hiện trạng của họ để rồi Chúa chạnh lòng thương, Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Không chỉ hoá bánh ra nhiều mà thôi mà Chúa còn chữa lành nhiều bệnh nhân của họ nữa.
Thời đại ngày hôm nay, gần nhất là con người Việt Nam đây thật sự mà nói thì cuộc sống vẫn còn đó, vẫn còn ngổn ngang những mảnh đời khó khăn thiếu thốn nhưng thật ra thì đời sống vẫn ổn hơn thời bao cấp nhiều. Ngày hôm nay thật sự mà nói thì đói khát cơm bánh thì ít mà đói khát tâm linh thì nhiều.
Ai đã trải qua thời đó thì đều có cảm nghiệm, đều trải nghiệm được những khó khăn vất vả của thời ấy. Thế nhưng có điều lạ là chính trong những lúc thiếu thốn cơm bánh thể xác, cơm bánh vật chất ấy thì Thiên Chúa được con người đón nhận, tin nhận nhiều. Ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, đời sống vật chất, sự phát triển khoa học kỹ thuật nó tỷ lệ nghịch với niềm tin. Những ngày bao cấp, sống trong cái bấp bênh của cuộc sống, sống trong cái lo lắng thiếu ăn thiếu mặc nhưng mà tình thương, tình huynh đệ, lòng tin nó cứ rực lên như lửa, nồng nàn và ấm áp dường bao.
Và như vậy, cái trống vắng, cái thiếu vắng niềm tin, cái mất mát về tình huynh đệ, cái đói khát về tâm linh nó quan trọng hơn đói khát về vật chất nhiều. Đành biết rằng vật chất, của cải, bánh ăn, nước uống cần cho đời sống con người như thế nào nhưng nó vẫn chưa là điều căn cốt của con người. Con người còn cần hơn cái lương thực, cái bánh ăn hay hư nát đó chính là Lời Chúa như trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa được nghe:
"Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống". (Is 55,3).
Không chỉ trong đoạn sách Isaia này Chúa mới nói về chuyện lắng tai, nghe nhưng mà chúng ta thấy phảng phất đâu đó rất nhiều trong Thánh Kinh từ Cựu Ước đến Tân Ước Chúa vẫn nhắc với dân của Ngài về tầm quan trọng của Lời, tầm quan trọng của thức ăn thiêng liêng, thức ăn tâm linh. Phảng phất rất nhiều, rất nhiều trong áng văn Tân Ước Chúa gợi lên cho chúng ta về chuyện khát Lời, khát tâm linh.
Có lẽ chúng ta hoặc là vô tình hay cố ý nên không phân biệt được lương thực nào là cần hơn cho cuộc sống chúng ta. Chúa không phủ nhận nhu cầu của thân xác để rồi hôm nay Chúa làm dấu lạ để nuôi thân xác. Nhưng bên cạnh đó Chúa muốn gửi đến cho con người dấu lạ. Vấn đề ngày hôm nay là Chúa vẫn làm dấu lạ này dấu lạ khác cho con người thời đại nhưng chuyện quan trọng là con người có nhận ra dấu lạ của Chúa, có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này hay không mới là chuyện quan trọng.
Thời gian gần đây chúng ta thấy khá nhiều dấu lạ đấy chứ! Không phải là dấu lạ ban cho con người được nhiều bánh như trong tin mừng theo Thánh Matthêu nhưng dấu lạ cảnh báo cho con người biết rằng con người đang thiếu về tâm linh, đang thiếu về niềm tin.
Chuyện lạ ở La Vang, chuyện lạ ở Tapao, chuyện lạ ở nhà thờ Đức Bà, chuyện lạ ở giáo xứ Bạch Lâm (Gia Kiệm) không phải là chuyện lạ nói lên đời sống tâm linh của con người ngày nay xuống dốc đó sao? Tại sao Đức Mẹ khóc? Tại sao Đức Mẹ nhắn nhủ phải ăn năn lần hạt Mân Côi?
Tại vì con người ngày hôm nay đã quá tôn sùng của cải vật chất. Tại con người ngày hôm nay quá tôn sùng chủ nghĩa danh giá, chủ nghĩa bề ngoài, chủ nghĩa chức quyền, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ.
Đáng tiếc là ngày hôm nay con người cứ mãi miết sống trong lời trách than của Đức Chúa: "Sao lại phí tiền bạc...". Vâng! Đức Chúa đã phán đúng như vậy, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta đã quá phí sức vào để tìm cái ăn, cái mặc, cái vật chất nuôi thân mà chúng ta quên đi tình trạng thiêng liêng của mình.
Mới đây, một người chị họ đến với tôi nhờ tôi giúp cho con của chị vì con của chị đang bị "sơ cứng" về tâm linh. Chúng gần như bỏ đạo!
Nhìn lại gia đình chị, cuộc đời của chị hoá ra là gia đình chị may mắn hơn nhiều người là có của ăn của để và thậm chí dư ăn dư để nữa nhưng hiện tại đang phải đối đầu với sự đói khát tâm linh. Giàu có đó nhưng chắc gì là hạnh phúc? Nhà lầu xe hơi bạc tỷ đó nhưng lấy gì bình an? Hình như bên dưới sự dư dật về của cải vật chất thì gia đình chị vẫn đói, vẫn khát về tâm linh. Và chuyện đói khát tâm linh này chẳng ai có thể bù đắp cho chị, cho chồng, cho con ngoài Chúa. Linh mục, các soeurs, các giáo lý viên, các đoàn thể cũng chẳng có thể giúp gì được cho chị nếu như chị không "lắng tai và đến với Ta, hãy nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống". Thế thôi! Đứng trước sự lựa chọn là lắng nghe Chúa hay bôn ba vất vả đi tìm cái đời tạm này đó chính là lựa chọn không phải của riêng chị mà của mọi kitô hữu.
Lý do tại sao? Lý do chắc ai cũng biết rồi: đó chính là không kết hợp mật thiết với Chúa. Như Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta ai cũng biết, gần như cả đời Ngài đã không biết Chúa, Ngài đã bắt Chúa nhưng khi cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa dành cho mình Ngài đã hoán cải cuộc đời. Chính tình yêu sâu đậm giữa Ngài và Chúa thắm thiết để rồi Ngài gửi tấm chân tình của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta cũng vừa nghe: "Thưa anh em, ai có thê tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?" (Rm 8, 35)
Thế đấy! Ngài nói rằng dù khốn khó, dù có đói đi chăng nữa cũng không thể tách được ra tình yêu của Chúa trong khi đó nhân loại, con người ngày nay lại được dư đầy vật chất của cải nhưng lại đói, lại khát tâm linh!
Ngài còn khẳng định với chúng ta: "Nhưng trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta". (Rm 8,37).
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, Chúa yêu chúng ta lắm rồi, quá yêu, yêu cho đến chết nhưng chúng ta có tin vào tình yêu của Chúa hay không mà thôi.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta nhận ra cơn đói cơn khát tâm linh của mỗi người chúng ta để chúng ta chạy đến Chúa kín múc nguồn mạch tâm linh từ nơi Chúa để chúng ta được mạnh sức, được bình an trên con đường lữ thứ về nhà Cha trên trời.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tân linh đến và ở lại với mỗi người chúng ta để dẫu rằng trong cuộc sống chúng ta còn thiếu điều này khát điều kia nhưng chúng ta không khát về tâm linh, không khát về Chúa.
Các Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời. Ngài cho hay rằng Nước Trời bắt đầu rất: TN18-A67
Các Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời. Ngài cho hay rằng Nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé nhưng cứ từ lớn dần đến nỗi không ai có thể hiểu nổi tại sao Nước Thiên Chúa lại lớn mạnh đến thế! Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay nhờ các tông đồ cộng tác với Ngài để Ngài huấn luyện các ông tham gia vào việc thành lập Giáo Hội ở trần gian…
Tin Mừng diễn giải khi được tin ấy, nghĩa là khi nghe kẻ gian ác là Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả, nhắc tới tên của mình, Chúa Giêsu bỏ nơi đó, lánh đi nơi khác vì chưa tới giờ Ngài được tôn vinh. Chúa Giêsu thường đi vào nơi hoang vắng, yên tĩnh trước mỗi sự việc, biến cố xảy ra với dân chúng và đặc biệt khi người Pharisêu phản kháng lại lời rao giảng của Ngài hay sự cứng đầu cứng cổ, sự cứng tin của dân chúng, để cầu nguyện, tâm sự và lãnh ý Thiên Chúa Cha. Khi thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài, Chúa Giêsu thương họ, Ngài không nỡ lòng nào để họ ra đi bụng đói. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ tham gia vào việc lo cho dân, dù rằng các ông ngại vất vả, ngại không có giờ nghỉ ngơi, và nếu không có Chúa, các ông chẳng làm được gì cả… Chúa muốn các ông cộng tác, tham gia vào công việc của Chúa. Câu: “… trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân”, cho chúng ta hiểu rõ Chúa mời các môn đệ cộng tác vào phép lạ của Chúa. Cử chỉ của Chúa Giêsu giờ này, khiến chúng ta liên tưởng tới Bí tích Thánh Thể mà Chúa sẽ thiết lập trong Bữa Tiệc Ly chiều ngày thứ năm tuần thánh.Chúa Giêsu cho các môn đệ cộng tác vào việc Chúa làm là tìm bánh, và cá để Chúa làm phép lạ. Các môn đệ lãnh nhận trước, rồi trao lại cho dân, sau đó thu những thứ còn sót lại (Mt 14,20). Những điều các môn đệ làm lúc này, làm chúng ta liên tưởng đến các ngài là trung gian ban phát các bí tích trong Giáo Hội. Trong đoạn này, thánh Matthêu muốn ám chỉ Chúa Giêsu là Môsê mới, cho dân chúng ăn no nê (Xh 16).
Chúa Giêsu với tấm lòng thương xót bao la, tình thương vô biên, Ngài đã không để dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy bị đói, bị khát. Ngài đã làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều để nuôi dân chúng. Tình thương, lòng nhân từ của Chúa vẫn tồn tại tới ngày hôm nay và cho tới muôn thế hệ. Hôm nay, Ngài không làm phép lạ như xưa, nhưng Ngài đã dùng Lời của Ngài nuôi dưỡng Giáo Hội, dùng Giáo lý của Ngài hướng dẫn Dân Chúa để qua Giáo lý, qua Lời yêu thương, bác ái, qua sự soi trí lòng con người, qua tác động của Chúa Thánh Thần, con người sẽ làm ra lương thực, của cải, sẵn sàng chia sẻ với tha nhân, với người nghèo. Mười hai tông đồ của Chúa lúc xưa không làm phép lạ như Chúa để nuôi dân, nhưng lãnh nhận bánh, cá từ tay Chúa, phân phát cho dân, nuôi dân. Ngày nay, các môn đệ của Chúa không làm được phép lạ hóa bánh, cá ra nhiều để nuôi dân, nhưng bằng Lời Chúa, bằng Giáo lý, các môn đệ của Chúa loan truyền để người người cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, để người người được hạnh phúc vì có Thiên Chúa là Cha, là Đấng nhân từ giầu lòng thương xót v.v… Chúa luôn luôn mong muốn con người được hạnh phúc, được có cơm ăn, áo mặc. Chúa luôn soi sáng, nuôi dưỡng con người bằng Lời Chúa và bằng sự trợ giúp của ân sủng của Ngài.
Xin mượn lời của Henri Caro để kết luận bài chia sẻ này: “Đức Giêsu nghe tiếng kêu của đám đông. Khi họ xin bánh, Người biết họ đói một thứ khác, đói một tình yêu trung thành để cho và để nhận. Người cho một dấu hiệu khác: thứ bánh Người ban làm thỏa tất cả mọi cơn đói, và khi mọi người đã no nê thì còn dư lại mười hai thúng, đủ để nuôi cả dân Israel. Bánh này một ngày kia sẽ là Mình Người, sẽ vì yêu mà bị nộp vào tay loài người”.
“Anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Đây là lời kêu gọi cho ngày hôm nay. Giờ đây, đến phiên chúng ta phải nuôi sống các đám đông, bằng cách chia sẻ cơm bánh của chúng ta và làm chứng cho đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn quảng đại chia sẻ cơm bánh, và tình thương cho những người khác vì chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng. Khi chống lại : TN18-A68
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng.
Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ.
Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: "Hãy đổ nước đầy các chum!" (Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon "ra khơi mà thả lưới đánh cá" (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy: "Các anh có mấy chiếc bánh?" (Mc 6, 38). Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích đào tạo lòng tin của các môn đệ.
Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Ngài đối với dân chúng "vì họ như cừu chiên không người chăn giữ". Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Ngài là vị Mục tử mà ngôn sứ Êdêkien đã nói đến (x. Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Ngài là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được "tập sự" chia sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại.
- Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể "Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ" (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly "Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng" (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).
- Được bánh ăn, dân chúng muốn "bắt lấy Ngài tôn lên làm vua" (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh "Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi" (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ" (Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là "Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
"Bánh ta sẽ ban" hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
- Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
Các anh có mấy chiếc bánh? (Mc 6, 38), đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa:
"Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1, 14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ" (Dt1, 1).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay "Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân" (Lc 9, 2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ "Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn" (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên "khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng". Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao!
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng "do nhân" (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ. Đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bời Thừa tác viên chính thức.
Lời Bí Tích mang hiệu năng "do sự" (ex opere operato), qua các bí tích, Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm, nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: "Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần" (1 Cor 12, 3) và "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công" (Tv 127, 1).
Các Con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa, chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời, cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa, vừa là một hồng ân, vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người.
Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng, là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
Linh mục đọc Lời Truyền Phép là lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ, để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (Ga 6, 35). "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó, tham dự thánh lễ cách đầy đủ, tích cực, trọn vẹn với tất cả con người, là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaiviê Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).
Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra: TN18-A69
Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.
Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói "ăn sóng nói gió", phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro, không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực, đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất truyền thống tổ tiên. "Thương người như thể thương thân. Người trong một nước phải thương nhau cùng". Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại. "Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung". Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: "Tôi đã làm gì cho giáo xứ", hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.
Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau. Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thương. Amen.
Lòng quãng đại yêu thương của Thiên Chúa biểu hiện cụ thể, rõ ràng nơi Ngôi Hai là Đức Giêsu Kitô: TN18-A70
Lòng quãng đại yêu thương của Thiên Chúa biểu hiện cụ thể, rõ ràng nơi Ngôi Hai là Đức Giêsu Kitô. Ngài yêu thương loài người hơn cả mạng sống của mình và Ngài biểu lộ tình yêu ấy trong cuộc đời Ngài. Tấm lòng của Người đã được dân chúng hồ hởi đón nhận. Đám đông theo Chúa Giêsu như đàn chiên khao khát lương thực lời Chúa và được Chúa cho thoã lòng. Ngài đã chữa lành họ, cả bệnh thể xác và tinh thần, Ngài dạy dỗ họ cả ngày không kể mệt nhọc và họ ở đó nghe Ngài không biết đói.
Chúa Giêsu đến để cứu chữa không chỉ phần hồn mà cho cả phần xác nữa. Ngài cho linh hồn ăn no và không để xác phải đói khổ. Ngài đã hoá bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn sau khi giảng dạy lời Chúa cho họ. Ngài đã cứu giúp họ về cả hồn và xác nữa. Đối với Chúa không có chi là khó, chỉ cần con người thành tâm, phó thác thì Ngài sẽ lo cho, chỉ cần chúng ta quãng đại với Chúa thì lòng quãng đại của Chúa sẽ tỏ ra gấp bội phần, chỉ cần năm chiếc bánh nhỏ góp vào trong niềm tin có thể đủ cho bao nhiêu người ăn no nê mà còn dư dật. Tuy chúng ta tin tưởng và phó thác cho Chúa tất cả nhưng chúng ta không được tự miễn trừ những việc bổn phận trong cuộc sống hàng ngày như việc lao động kiếm sống, dưỡng nuôi con cái, cha mẹ…
Chúa có thể ban ơn trực tiếp cho chúng ta. Tuy nhiên, Chúa thường ban ơn dồi dào cho chúng ta trong các Bí tích nhờ qua thân thể Người là Hội thánh, có khi Chúa ban ơn huệ gián tiếp qua những người thân, ân nhân nào đó. Chúng ta hãy nhận ra tình thương của Chúa trong Hội thánh, qua tha nhân và những biến cố cuộc đời và cám ơn Người. Trong những lúc đói khát, chúng ta cũng hãy tin tưởng và kêu xin Chúa. Nếu chúng ta sống theo lệnh truyền của Chúa thì sẽ được Chúa ban ơn như Chúa đã hứa: hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (Lc 11, 9-10)
Chúa Giêsu có cái nhìn xa hơn một đám đông đói khát đáng thương này. Ngài còn thấy những đám đông khác ở những thời đại kế tiếp. Vì thế, Ngài đã thiếp lập Bí tích Thánh thể để trở nên Bánh cho chúng con trong Bí tích Thánh thể để nuôi dưỡng phần hồn, và ban ơn phần xác. Phép lạ hoá bánh hôm nay nhằm ám chỉ mà Ngài sẽ thiết lập để ở lại với loài người chúng con. Cái chết của Ngài mang lại sự sống Phục sinh cho những kẻ tin giữ lời Ngài.
Chúa thương chúng con và đã không bỏ chúng con, những người thuộc thế hệ mai sau nên đã thành lập Giáo hội, trao quyền cho các Tông đồ cử hành các Bí tích và rao giảng Tin mừng, lo cho sự sống của mỗi người trên thế giới. Không chỉ lo cho đời sống thiêng liêng nhưng phải quan tâm đến đời sống vật chất nữa: các con hãy cho họ ăn. Chúng con là những người thuộc thế hệ sau này đã được thừa hưởng trọn vẹn ơn chuá cứu chuộc. Chúng con có bổn phận tiếp tục truyền lại cho thế hệ mai sau những ơn chúng con đang được hưởng. Việc đóng góp cho Chúa 5 chiếc bánh trong Giáo hội là một trong những bổn phận căn bản của Kitô hữu. Mỗi người có quyền và bổn phận đóng góp phần mình cho Giáo hội và xã hội mình đang sống. Mỗi người có trách nhiệm với những người thuộc quyền cũng như phải bác ái với anh em xa gần với khả năng của mình. Nếu chúng ta biết san sẻ trong tinh thần đức tin, Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và ở trong chúng con cho chúng con được no đầy ơn lành của Chúa cả hồn lẫn xác để chúng con ca tụng Chúa và biết phục vụ cho Tin mừng để Nước Chúa mau trị đến.
Đức Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân: TN18-A71
“Đức Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ”. Không có gì có thể ngăn lại được tấm lòng chạnh thương của đức Giêsu dành cho con người, bởi vì Ngài là hiện thân của một Thiên Chúa tình yêu.
Bài Tin mừng mà chúng ta nghe hôm nay được đặt ngay sau hai đoạn Tin mừng thuật lại những câu chuyện buồn của Đức Giêsu. Đó là việc người đồng hương của Ngài đã không đón tiếp Ngài và không tin vào Ngài. Rồi Ngài lại nghe tin Gioan Tẩy Giả, người anh em họ của Ngài và đồng thời là người được Thiên Chúa sai đi dọn đường cho Ngài vừa bị hành quyết bởi sự ác độc của con người. Sau những biến cố ấy, Ngài cùng các môn đệ muốn tìm một nơi riêng biệt để cầu nguyện, để tìm biết thánh ý Chúa Cha và cũng để củng cố tinh thần cho các môn đệ, chuẩn bị cho các ông tinh thần để bước vào những giai đoạn khó khăn trong sứ mạng của loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, đặc biệt là việc Ngài phải trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh để cứu độ con người.
Nhưng Tin mừng thuật lại là ngay khi Ngài vừa đến nơi định tới thì đám đông đã chờ đón gặp Ngài trước ở đó. Ngài không tỏ ra khó chịu hay bực bội vì họ. Trái lại, Ngài lại chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục trao ban cho họ tất cả theo những nhu cầu của họ. Ngài không tiếc để trao ban chính mình Ngài cho họ, mang lại niềm vui cho họ. Đức Giêsu đã hành động theo đúng căn tính của Ngài “Thiên Chúa là Tình yêu”.
Bài hát “khi yêu”, dân ca Bình trị Thiên có một câu rất hay; “khi yêu thấy tiếc từng giờ, thấy không thể sống hững hờ vô tư’. Quả thật, tình yêu thôi thúc con người phải làm việc, phải hành động, phải ra đi để chia sẻ, để mang niềmvui và hạnh phúc đến cho người mình yêu. Trong con mắt của người đang yêu, không có ai là thù địch, không ai là người xấu, không có ai mà không đáng yêu cả. Ai cũng là đối tượng của Thiên Chúa tình yêu.
Mẹ Têrêsa lúc sinh thời đã từng phải cung cấp thức ăn cho 9000 người ở Calculta mỗi ngày. Chắc chắn mẹ đã không thể làm nổi việc đó nếu có sự quảng đại của nhiều người trên khắp thế giới cộng tác với Mẹ. Mẹ đã kể ra một điển hình về sự quảng đại khiến cho Mẹ có thể thực hiện “phép lạ” nuôi sống nhiều ngàn người mỗi ngày.
Một ngày nọ, có một đôi vợ chồng tìm đến ngôi nhà nơi Mẹ Têrêsa đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và trao cho Mẹ một số tiền khá lớn. Mẹ hỏi: “Ở đâu chúng con có số tiền lớn như vậy?” Họ trả lời: “chúng con mới lấy nhau cách đây 2 ngày. Chúng con quyết định không làm đám cưới và thay vào đó là tặng số tiền làm đám cưới để nuôi sống những ngươi nghèo”. Mẹ Têrêsa lại hỏi: “Tại sao chúng con hành động như vậy?” Họ trả lời: “Vì chúng con yêu nhau và chúng con muốn bắt đầu đời sống hôn nhân của chúng con bằng một cử chỉ hy sinh”. Điều đáng nói là hơn nữa là đôi vợ chồng này đều thuộc tầng lớp thượng cấp của đạo Hindus. Đó là hạng người mà theo lẽ thường là không bao giờ làm điều gì cho người nghèo cả. Đứng là “khi yêu nhau thấy tiếc từng giờ, thấy không thể sống hững hờ vô tư”.
Khi thấy đám đông dân chúng đi theo mình, Đức Giêsu động lòng thương xót họ.Và ngài đã biểu lộ tình yêu ấy bằng việc chữa lành bệnh tật cho họ và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ. Nói cách khác, Đức Giêsu đã mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người bằng việc trao ban chính bản thân Ngài cho họ. Ngài không hề nghĩ đến bản thân Ngài nhưng chỉ nghĩ đến người khác. Ngài không ngần ngại hy sinh thời giờ,sức lực . . . để tìm lo hạnh phúc cho người khác. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Thầy chí Thánh là mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác bằng việc trao ban chính mình chúng ta cho họ. Chúng ta phải chấp nhận trở thành tấm bánh bị bẻ ra cho người khác hưởng dùng. Nhưng đây là một việc làm không dễ chút nào.
Để tập sống thân phận của của tấm bánh bị bẻ ra và trao ban, chúng ta phải tập cho đi từ những chuyện nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày, biết quên đi những lời nói hơn thua, quên đi và tha thứ những lầm lỗi của anh em mình . . . có như thế, chúng ta mới có thể theo gương Chúa Giêsu trong việc trao ban chính mình cho người khác. Cho đi những gì mình có đã là một điều khó, nhưng cho đi chính mình thì càng khó khăn hơn rất nhiều. nhưng vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta hãy cố gắng sống và tập cho đi mỗi ngày. Đây quả là một thách đố, một trắc nghiệm về lòng mến cho những người môn đệ Chúa Giêsu. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn thuận đã nói: “Yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu mến Chúa của con”.
Chúa Giêsu ngày nay vẫn tiếp tục trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu, của lòng quảng đại bao la của Thiên Chúa dành cho con người. Chúa Giêsu trao ban chính mình cho chúng ta qua nhiều phướng cách khác nhau, nhưng Bí tích Thánh Thể là cách thế tuyệt đỉnh của việc trao ban đó. Phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống đám đông dân chúng ngày xưa là hình ảnh báo trước của Bí tích Thánh Thể ngay nay. Và đến lượt mình, Bí tích Thánh Thể là hình ảnh báo trước tiệc Nước trời mai sau.
Ước gì mỗi người chúng ta biết quí trọng và ý thức khi tiếp nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng. Xin cho chúng ta biết có tấm lòng chạnh thương trước những hoàn cảnh khốn khó của con người để không bao giờ từ chối chia sẻ với họ. Làm được như thế, chúng ta sẽ trở thành tấm bánh được bẻ ra để nuôi sống người khác, trở thành lương thực sống cho những người chung quanh chúng ta. Đó chính là tinh thần chính yếu nhất của phép lạ Hóa bánh ra nhiều mà Chúa Giêsu đã thực hiện ngày xưa.
Câu chuyện sau đây là của Đức Cha Phêrô Nguyễn văn Nhơn, Giám mục giáo phận Đà lạt, đã kể trong bài: TN18-A72
Câu chuyện sau đây là của Đức Cha Phêrô Nguyễn văn Nhơn, Giám mục giáo phận Đà lạt, đã kể trong bài giảng Tĩnh tâm cho các linh mục giáo phận TP. HCM, năm 2003, về công việc truyền giáo cho người Thượng. Đức Cha nói: Người Thượng ở đây, họ rất nghèo, lại không biết phòng xa, vì vậy một năm họ đói cả 3 tháng. Ngay lúc giáp hạt, giữa hai mùa lúa, họ nhịn đói, vì lúa cũ đã hết, lúa mới chưa có. Họ đói cả tháng...Vì vậy truyền giáo cho họ phải nhắm đến 3 điểm: phát triển – y tế – và giáo dục. Thứ nhất phát triển: là phải nói ngay đến chuyện ăn. Phải cho họ ăn. Khi họ đến nhà thờ đi lễ, phải cho họ ăn. Có những làng ở xa nhà thờ, nên khi đi lễ, họ phải đi từ chiều thứ bảy, vì vậy phải cho họ ăn bữa chiều đó; rồi sáng Chúa nhật lo cho ăn sáng; lễ xong phải cho họ ăn nữa, họ mới ra về. Nếu không cho ăn, có khi họ phải… đói xỉu dọc đuờng….Câu chuyện trên đây xem ra sao cũng giống câu chuyện Tin mừng của ngày Chúa nhật hôm nay. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu muốn nói gì?
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, bằng tấm lòng hết sức chân thành . Câu chuyện Phúc âm hôm nay là một bằng chứng. Chúa không chỉ yêu thương lo lắng cho linh hồn chúng ta mà thôi, Người còn lo lắng cho ta, ngay trong những chuyện hết sức tầm thường: lo cái ăn cái mặc, Chúa sợ dân chúng đói. Hóa ra Chúa không chỉ bận tâm lo cứu rỗi linh hồn, Người còn bận tâm lo chuyện ăn uống đói khát vật chất nữa. Lẽ ra Chúa có thể để dân chúng giải tán, tự mua thức ăn, tự lo cho mình như lời các môn đệ nói. Thực ra, chính Kinh Lạy Cha, cũng nhắc nhở cho ta điều đó: xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày…Rõ ràng ta thấy Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa Ngôi Hai, dù là Đấng Cứu thế, Người không “siêu” đến nỗi chỉ biết có linh hồn mà thôi. Cũng chính điều này cho ta thấy: Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa, nhưng trong bản tính nhân loại, người lại rất là người.Cũng chính vì đó, cái chết của người trên thập giá mới thực sự đem lại ơn cứu rỗi…..
Chúa muốn các tông đồ, là Hội thánh, cộng tác với Chúa, để lo cho dân chúng ăn: Chúa mời gọi các tông tham gia vào việc lo cho dân chúng. Dĩ nhiên không có Chúa, các ông chẳng làm nên việc gì; nhưng ở đây, Chúa muốn các ông cộng tác với Chúa…Ta thấy rõ điều đó ở câu: Chúa trao bánh cho các môn đệ, và họ phân phát cho dân chúng…
Trở lại câu chuyện truyền giáo cho người Thượng, Đức Cha Đà Lạt nói: Truyền giáo nhắm đến 3 điểm:phát triển – y tế - và giáo dục. Ba điểm này phải thực hành song song, cùng một lúc. Muốn cho đời sống họ phát triển, không phải chỉ cho họ ăn, xây nhà xây cửa cho họ là đủ, phải đi kèm với việc giáo dục. Vì họ kém văn hóa, nhưng lại cũng lười nữa nên cần phải lo giáo dục họ. Một buôn Thượng nọ cách xa nhà thờ chỉ 3 cây số. Đám thanh niên người Kinh muốn giúp họ nuôi tầm vì tầm đang có giá. Họ lựa con giống và chở lên tận nơi cho họ, chỉ sơ cách thức nuôi tầm. Hai tuần sau trở lên, đám tầm giống vẫn còn để y nguyên một chổ. Hỏi ra họ không biết phải làm sao, dù được chỉ dạy nhưng quên cả rồi. Vì sự việc trên, từ năm 1995, Đức Cha đưa ra “chương trình 25 đô la” = 400.000$, cho các trẻ em Thượng đi học, khởi đầu từ Mẫu giáo. Chương trình này phải được tiếp tục trong vòng 7 năm. Tiền thì Tòa Giám mục lo. Các họ đạo đăng ký, thực hiện và theo dõi…
Câu chuyện truyền giáo cho người Thượng trên đây cho ta thấy, yêu thương họ không phải chỉ cho họ ăn, cho nhà họ ở, mà còn chính là cộng tác với Thiên Chúa, làm sao giúp họ phát triển đời sống đi lên ngang với mọi người trong xã hội. Đó cũng chính là cộng tác với Chúa nuôi sống dân chúng và yêu thương họ bằng chính tình yêu Chúa Kitô.
Gợi ý sống và chia sẻ:
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật, Chúa thấy dân chúng đói, nên Người động lòng thương mà cho họ ăn. Dù vậy Chúa không chỉ chia sẻ cơm bánh, mà Chúa còn chia sẻ cả bản thân mình Chúa, sự sống của Chúa để cho nhân loại được sống nữa. Là người Kitô hữu, ta có sẵn sàng chia sẻ cơm bánh, cả khổ đau vất vả với anh em xung quanh ta không?
Vào buổi sáng sớm, khi mọi người còn yên giấc, nếu có dịp, anh chị em đi một vòng thành phố: TN18-A73
Vào buổi sáng sớm, khi mọi người còn yên giấc, nếu có dịp, anh chị em đi một vòng thành phố, anh chị em nhìn thấy những điều mà khi mặt trời lên thì không bao giờ nhìn thấy được: Những người không có nơi nương tựa, họ phải tá túc nhờ vào những mái hiên. Những ngôi nhà cao tầng, bên trong yên lặng với niệm ấm chăn êm, thì bên ngoài, ngay trước cửa nhà họ, có những con người nằm co ro chống chọi với cái lạnh thấu xương. Những dãy nhà đồ sộ nhưng yên lặng đến vô tình, đứng nhìn những con người lang thang không nơi nương tựa. Những thứ bỏ đi bên lề đường đang chờ người ta đến đem đi, vẫn là niềm hy vọng của bao nhiêu người đến tìm để sinh sống. Một xã hội văn minh, sao vẫn còn những con người khốn khổ đến như thế, sao có biết bao nhiêu nhà hảo tâm, biết bao những việc làm xoá đói giảm nghèo mà vẫn còn những cảnh thương tâm như thế? Thưa vì vẫn còn những người chưa nhìn thấy được những gì chung quanh mình, họ vẫn sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên vẫn còn nhiều người là nạn nhân của sự sợ hãi đến vô tâm đó.
Các môn đệ cũng tìm cách trốn chạy, khi nhìn thấy một đám đông quá sức mình, các ông muốn để cho mọi người tự lo, các ông cũng sợ trách nhiệm đến với mình, khi thấy công việc mà mình không thể làm gì được, chỉ còn cách trốn chạy. Nhưng Chúa Giêsu không chấp nhận thế, Ngài bảo các ông đối diện với thực tế và hành động: “Các con hãy cho họ ăn”. Một việc làm quá sức các ông, những gì các ông có trong tầm tay không thể làm gì được. Nhưng mọi việc đã trở nên có thể vì các ông biết vâng phục, các ông biết lắng nghe, các ông dám bỏ ra phần nhỏ bé của mình mà không ngần ngại. Cùng với Chúa Giêsu, mọi sự đều trở nên có thể; các ông cũng đi phân phát phần nhỏ bé của mình khi đã trao vào tay Chúa, các ông đã hành động vì biết lắng nghe lời Chúa, nên phép lạ đã được thực hiện. Nếu các môn đệ lo sợ mất đi những gì mình có, nếu các ông e ngại trước đám đông, nếu các ông không tin tưởng vào Chúa cho đủ, mà sợ mất uy tín khi không thực hiện được điều cần thiết thì làm sao phép lạ có thể thực hiện được?
Trong cuộc sống đời thường nếu chúng ta chịu nhìn thì không biết bao nhiêu phép lạ đã xảy ra hằng ngày, đồng thời cũng có rất nhiều phép lạ không thể thực hiện được vì rất nhiều lý do:
Những lúc chúng ta nói tiếng không với những người có nhu cầu khi họ chạy đến chúng ta, để họ phải thất vọng ra đi mà không nhận được gì. Những lúc chúng ta sợ mất đi những gì mình đang có, nên không dám cho đi, cho dù chúng ta thấy người khác đang cần. Những lúc chúng ta nhận lấy một cách bất công những điều không phải của mình, khi đó chúng ta làm cho người khác phải vất vả hơn. Những lúc chúng ta lười biếng không thể cho đôi chân mình chuyển động, cũng không thể cho đôi tay có cơ hội ban phát vì chúng ta lo sợ cho bản thân. Những lúc chúng ta để cho tính ích kỷ trong con người nổi dậy và điều khiển cuộc sống của mình, không còn biết nghĩ đến ai, chỉ còn nhìn thấy có chính mình và những lợi ích của bản thân. Những lúc chúng ta chỉ biết cho đi những cái khoát tay và những cử chỉ lắc đầu xua đuổi, nếu có mở miệng nói thì chỉ là tiếng “không” khô khan; những lúc đó, chúng ta làm cho phép lạ của Chúa không thể thực hiện được trong cuộc sống của mình.
Nếu có lần nào trong cuộc sống, con tim chúng ta thổn thức trước một lời kêu xin và sẵn sàng đáp ứng; nếu đôi mắt chúng ta nhìn thấy cảnh thương tâm và đôi tay chúng ta hành động theo con tim mách bảo, để cho người khác có được một chút gì no lòng. Cho dù chúng ta không xứng đáng gì, nhưng khi nhìn thấy những người đang thất vọng nản chí, chúng ta cũng cho họ những lời khuyên, những lời động viên an ủi để cho họ thêm sức sống. Chúng ta cũng không ngại giúp đỡ người khác khi cần thiết, cho dù tốn chút ít thời gian, sức lực hay cả tiền của. Những lúc đó, chúng ta dùng chút công sức của mình, giống như năm chiếc bánh được mang đến cho Chúa, để phép lạ được thực hiện. Nếu trong cuộc sống mà thực hiện được nhiều lần như thế thì thật là hạnh phúc cho chúng ta và cả cho những người chung quanh.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người được biết lắng nghe lời Chúa và thi hành những gì Chúa dạy bảo.
Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay cho thấy cái hình ảnh của việc Chúa quan phòng. Không những: TN18-A74
Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay cho thấy cái hình ảnh của việc Chúa quan phòng. Không những Chúa hướng dẫn loài người theo đường lối của Chúa, mà còn săn sóc đến nhu cầu vật chất của họ. Trong suốt 40 năm trường theo Chúa, dân Do Thái được giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai Cập, vượt qua Biển đỏ ráo chân. Họ làm cuộc hành trình theo Mai-Sen đi về đất hứa, dừng lại tại mỗi chặng đường để cắm trại, nghỉ ngơi, chăn nuôi, trồng cấy hầu tích trữ lương thực, rồi lại đi tiếp. Trong suốt thời gian lưu lạc nơi sa mạc, dân Chúa đã trải qua nhiều thăng trầm, họ đã nhiều lần bất trung phản nghịch cùng Chúa, bằng cách bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai. Tuy nhiên Chúa vẩn săn sóc họ, còn mưa manna từ trời xuống nuôi họ.
Bài Trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay chứng tỏ lòng ưu ái của Chúa đối với dân Người ghi lại: " Hỡi những ai khát nước, hãy đến mà uống, những ai không tiền bạc, cũng hãy đến mà ăn" (Is 55,1). Việc quan phòng của Chúa trong Cựu Ước chỉ là để sửa soạn cho chương trình quan phòng của Chúa cho toàn thể nhân loại chứ không riêng gì cho dân tộc nọ, dân tộc kia.
Đói khát lời Chúa đã khiến đám đông dân chúng trong Phúc âm hôm nay đi theo Chúa để lắng nghe lời Người giảng dạy. Và khi dân chúng cảm thấy đói bụng, thì Chúa lại làm phép lạ cho họ ăn no thỏa với năm chiếc bánh và hai con cá. Mỗi người đều nhận thức được cái tầm quan trọng của việc ăn uống để duy trì sự sống. Nếu thân xác đói khát, người ta sẽ cảm thấy khó lòng phụng sự Chúa. Đúng như cha ông ta thường nói: có thực, mới vực được đạo. Điều này được áp dụng cho cá nhân, gia đình cũng như xứ đạo. Nếu giáo xứ không đủ phương tiện vật chất, thì khó có thể xây dựng nơi thờ phượng, khó có thể bảo trì, và còn thiếu phương tiện hoạt động tông đồ nữa.
Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ trong những trường hợp khác là do người ta xin. Lần này, Chúa tự làm phép lạ mà không có người xin. Như vậy ta thấy việc quan phòng của Chúa được thể hiện qua lòng thương xót của Chúa, qua việc quan tâm đến nhu cầu vật chất của loài người. Việc quan phòng của Chúa còn được thể hiện trong thế gian qua việc quan tâm của người đối với người, bằng những hành động của người này đối với người khác, bằng việc quan tâm của các tông đồ khi thấy dân chúng đói lả. Hàng triệu người Việt Nam đã trải qua hai cuộc di cư vĩ đại, một lần từ Bắc vào Nam năm 1954, lần khác từ VN qua ngoại quốc năm 1975, hầu như với 2 bàn tay trắng. Thế mà qua sự quan phòng của Chúa, họ không phải chết đói, lại còn tạo dựng được nhà cửa và sự nghiệp.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy ta đừng phung phí đồ ăn. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh, Chúa bảo các tông đồ thu bánh còn dư lại kẻo phí phạm. Những người biết quan sát và so sánh đều thấy sống trong xã hội Mỹ có dư thừa đồ ăn thức uống. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta phung phí thức ăn uống, trong khi có cả hàng ngàn, hàng vạn người vẫn phải chết đói trên thế giới.
Đúng ra thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng về thể xác do lòng xót thương của Chúa. Tuy nhiên mối quan tâm của Chúa còn đi xa hơn nữa, vượt lên trên cái nhu cầu của ăn vật chất của dân chúng. Thiết tưởng ta phải suy luận qua cái mạch văn để tìm ra ý nghĩa của lời Chúa được thánh Matthê-ô ghi lại. Cái nghi thức Chúa dùng trong việc bẻ bánh cũng giống như trong bữa tiệc ly: Chúa cầm bánh... ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, và trao cho các môn đệ (Mt 14,19). Thánh sử Matthê-ô trình bày cái việc Chúa làm phép lạ nuôi năm ngàn người như là một dấu hiệu tiên báo Chúa muốn lập Bí tích Thánh Thể để nuôi nhân loại bằng của ăn thiêng liêng là Mình Máu Thánh Chúa.
Thi sĩ Tagore đã từng viết thế này: Tình Ngài yêu con không bơ, không bến nhưng có thấy bóng: TN18-A75
Thi sĩ Tagore đã từng viết thế này: Tình Ngài yêu con không bơ, không bến nhưng có thấy bóng Ngài đâu. Dù không thấy, nhưng bằng lòng yêu mến của mình, Tagore dám khẳng định: Tình Ngài yêu con không bờ, không bến. Yêu như thế nào mà Tagore lại bảo là không bờ, không bến? Quay về với nội dung Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, bạn và tôi có thể cảm nghiệm như Tagore: Tình Ngài yêu con
Một lần, Chúa Giêsu tìm vào hoang địa vắng vẻ. Nhưng dân chúng nghe biết thì đi theo Ngài. Họ theo đông lắm, có đến trên năm ngàn người! Đến chiều, dẫu đã đói, họ vẫn cứ theo. Vì thương họ, Chúa đã làm phép lạ để nuôi họ. Tin Mừng kể rằng, Chúa cầm bánh và cá mà các môn đệ mang đến, rồi đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân.
Một phép lạ phi thường: Chỉ một hành động bẻ ra đã trở nên lương thực nuôi một đám người không thể tưởng tượng: trên năm ngàn nugười mà vẫn dư! Nhưng phép lạ ấy không thuộc về quá khứ. Ngày hôm nay, để nuôi linh hồn, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của ta, Chúa đã bẻ chính cuộc đời Ngài, bẻ chính thân xác Ngài. Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu hạ mình làm người ngang hàng với ta, không là một sự bẻ ra hay sao? Bị thù nghịch, bị giết chết, chết ô nhục như một tên tử tội, chết tức tưởi trên cây gỗ giá, không là bẻ ra đó sao? Trong bí tích Thánh Thể, Chúa là tâm bánh nuôi hồn ta, cũng chính là sự tự bẻ ra. Mãi mãi Chúa Giêsu là Thiên Chúa tự bẻ chính mình, bẻ chính cuộc đời, bẻ chính sự sống của Ngài cho ta, vì ta, yêu ta.
Trong mỗi thánh lễ, linh mục chủ tế sẽ bẻ tấm bánh mà mọi tín hữu đều tin đó là Mình thánh Chúa. Chủ tế nâng cao Mình thánh và nói: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian. Dấu chỉ bẻ Mình Thánh từ tay linh mục là dấu chỉ Chúa Kitô tự bẻ chính mình trong bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là lời nói chung quyết, mạnh mẽ của tình yêu, là sự bẻ ra tuyệt đỉnh mà chỉ có một mình Chúa chúng ta mới làm thế. Ngài bẻ ra vì yêu ta không bờ, yêu không bến.
Tôn vinh Mình thánh trên tay, chủ tế còn mời gọi: Phúc cho ai được dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Bạn có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu yêu mến, ta hãy cung kính rước Ngài vào tâm hồn mình. Nếu lỡ biết mình bất xứng, lo xưng tội và rứơc Chúa. Khi đến nhà thờ, anh em chúng ta cùng vào trong nhà thờ dự lễ sốt sắng, dự lễ trọn vẹn từ đầu đến cuối, cũng là dấu chứng tỏ lòng mến của ta đối với Thánh Thể. Hay lễ xong, ngồi lại năm phút, ba phút để cầu nguyện cho nhau, cho gia đình, cho bản thân, hay để cảm tạ Chúa, đó cũng là dấu chứng tỏ lòng mến đối với Thánh Thể.
Chúa bẻ cuộc đời Ngài ra, đó là sự tự xóa mình, cho không từng người, vì sao ta không nhận? Ngài xóa mình để làm bằng chứng tình yêu, vì sao ta từ chối tình yêu đó?
Nhân đọc bài Tin Mừng về việc Chúa bẻ bánh và cá làm phép lạ nuôi dân, chúng ta suy nghĩ về Thánh thể để thêm yêu mến Ngài. Ước gì từ hôm nay, mỗi lần đến nhà thờ, ta bước vào trong nhà thờ dự lễ trang nghiêm, sốt sắng. Và ước gì trong từng thánh lễ, ta luôn luôn cảm nghiệm rằng: tình Chúa thương ta không bờ, không bến như Tagore đã từng cảm nghiệm.
Chúa Giêsu không nói suông, nhưng Ngài luôn hành động, kèm theo lời của Ngài.Những phép lạ: TN18-A76
Chúa Giêsu không nói suông, nhưng Ngài luôn hành động, kèm theo lời của Ngài.Những phép lạ Chúa Giêsu làm khi Ngài còn ở tại thế cùng với các tông đồ, luôn là lời chứng hùng hồn về quyền năng và uy quyền của Chúa. Đọc Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá của Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tôi vẫn cảm thấy như có một cái gì đó thực thúc bách và khơi dậy trong lòng tôi sự khát khao nóng bỏng: phép lạ và phép lạ. Chúa đã nhờ đến sự cộng tác của con người, của một đứa bé để làm cho bánh và cá hóa nên nhiều, nuôi sống hơn 5.000 người và còn dư lại 12 thúng đầy vụn bánh…
Đi theo Chúa, nghe Chúa dậy bảo, đoàn lũ dân chúng quên đi tất cả: họsay sưa lắng nghe Chúa giảng, họ trút tất cả nỗi buồn phiền, sự âu lo mệt mỏi. Chúa vẫn hiểu thấu họ…Từ sáng tới trưa, từ trưa tới tối, Chúa vẫn dậy dỗ và dân chúng vẫn hăng say nghe lời Chúa nói. Trời đã bắt đầu tối, Chúa muốn nuôi dân, Ngài muốn tỏ quyền năng của Ngài để làm vinh danh Chúa Cha. Một rừng người: số đàn bà, con trẻ và đàn ông rất nhiều có đến gần mười ngàn người hoặc hơn nữa. Đứng trước sự phức tạp của đám đông, các môn đệ muốn giải tán họ để họ phân tán đi nhiều làng mà mua thức ăn. Giải tán đám đông quả thật dễ dàng. Chúa truyền lệnh:” Các con hãy liệu cho họ ăn đi “. Các môn đệ thật ngại ngùng trước hàng hàng lớp lớp người. Các Ngài không hiểu ý Chúa, do đó, có môn đệ thưa với Chúa rằng:”Nơi đây hoang vu lấy gì để cho họ ăn, khi đám đông ngoài sức tưởng tượng của các ông”. Một môn đệ thưa:” Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”( Mt 13, 17 ). Giải pháp tốt nhất đối với các môn đệ vẫn là giải tán đám đông. Làm thế các môn đệ sẽ khỏe, họ sẽ phủi tay khỏi bị liên lụy, khỏi bị phức tạp. Chúa bảo:” Đem lại đây cho Thầy”( Mt 13, 18 ). Một lệnh truyền của Chúa làm đảo lộn tất cả ý nghĩ của các môn đệ. Chúa đã làm phép lạ làm cho bánh và cá hóa nên nhiều, nuôi sống trên 5.000 người ăn và số dư nhặt được 12 thúng vụn bánh đầy. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã làm phép lạ diệu kỳ trước mặt các môn đệ…Chúa chạnh thương đám đông, Chúa yêu thương họ và Chúa nuôi họ, Chúa muốn các môn đệ trao ban cho dân sau khi Chúa đã làm phép lạ…
Cử chỉ cầm bánh, cầm cá tạ ơn Thiên Chúa Cha ám chỉ Bí Tích Thánh Thể, Chúa sẽ làm trong nhà Tiệc Ly chiều thứ năm tuần thánh. Cái ăn, cái mặc về phần xác quả rất cần, nhưng:”…người ta sống không nguyên bởi bánh”, chỉ ra rằng còn một thứ lương thực quí giá hơn của ăn thường ngày gấp bội là Mình và Máu Chúa Giêsu. Xưa trong sa mạc, Chúa đã dùng Manna và chim cút để nuôi dân Israen, ngày nay, Ngài nuôi dân chúng đi theo Ngài bằng lương thực và lương thực ấy còn biểu lộ, loan báo bánh Thánh Thể mà Ngài sẽ trao ban cho các môn đệ, để rồi các môn đệ lại trao ban cho nhân loại…Giáo Hội được thành lập trên nền tảng các tông đồ luôn cử hành lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu.” Này là Mình Ta…Này là Máu Ta”…Lời ấy đã làm cho Bánh và Rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Giêsu…
Lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi xưa, vẫn luôn là lệnh truyền của Chúa đối với con người muôn thời. Nhân loại luôn có người đói, người khát. Cái đói của đám đông hơn gấp bội cái đói của vài chục ngàn người trong Tin Mừng vừa nghe đọc, Chúa vẫn nói và Chúa vẫn ra lệnh cho chúng ta cho người đói ăn. Đứng trước đám đông thật đông như thế chắc chắn chúng ta không thể nào giải quyết nổi cái đói, cái khát của nhân loại mà cần có sự trợ lực, sự hỗ trợ từ trên. “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết”, thánh Phaolô đã chẳng nói thế sao ? Chúng ta chỉ có thể mang lại cơm bánh cho người nghèo, khi chúng ta cũng đồng thời cầu nguyện cho họ. Với năm chiếc bánh và hai con cá, tự sức các môn đệ không thể nuôi sống đám đông như thế, nhưng xem ra không có sự cộng tác của con người với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu không thể làm phép lạ. Tôi còn nhớ khi phục vụ anh chị em Dân Tộc, tôi vẫn thấy nhu cầu lương thực thật là cần, nhưng trước sự bao la của vấn đề, tôi và mọi người cũng không thể nào giải quyết được, chỉ có một cách tốt nhất là cầu nguyện và tin tưởng. Chúa Giêsu đã chẳng dậy môn đệ và nhân loại:”…Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” đó sao ? Phép lạ vẫn có đó và phép lạ vẫn xẩy ra hằng giây, hằng phút, hằng giờ vv…
Xin cho đức tin và lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta cũng được thể hiện bằng những nghĩa cử bác ái, chia sẻ và yêu thương của chúng ta.
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay muốn trình bầy cho chúng ta một Nước Trời mai hậu, nên từ bài đọc I: TN18-A77
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay muốn trình bầy cho chúng ta một Nước Trời mai hậu, nên từ bài đọc I ( Is. 55,1-3). Tiên tri Isaia tha thiết mời gọi mọi người đến ăn đồ bổ mà không phải mất tiền, thứ món ăn mỹ vị, món ăn ấy chỉ có thể có ở một Vương Quốc bình an. Đến thư Thánh Phaolô Ngài nhấn mạnh đến tình trạng khi đã kết hợp với Đức Kitô thì không có sức mạnh nào có thể tách rời được, đó chính là tình trạng trong Nước Trời ( Rm. 8,35.37-39). Còn bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu nuôi dân một cách lạ lùng, trong lúc các môn đệ hòan tòan bó tay. Nhưng chỉ năm chiếc bánh và hai con cá với số lượng người “ năm ngàn đàn ông không kể đàn bà con nít” mà “ mọi người đã ăn no…còn thu được mười hai thúng đầy bánh vụn”( Mt. 14,13-21). Chúa Giêsu chính là Nước Trời mà họ đang được hạnh phúc tiếp cận.
Thật vậy, khi trời đã về chiều, Ngài muốn lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha, nhưng những người trong thành ùn ùn kéo đến. Nhìn thấy họ “Ngài chạnh lòng thương” (c.14), họ tín nhiệm Ngài nên đi tìm và Chúa Giêsu đã không tránh né sự tìm kiếm này: “Ngài dạy dỗ và chữa lành”(c.15) và Ngài cũng không muốn đám đông dân chúng phải đói và chết. Ngài nuôi dưỡng họ về phương diện vật chất, mà không cần xét đến các lí do khiến họ nghèo đói, cũng không có một lời trách móc hay một lời khuyên nhủ. Qua hành động ấy, Ngài muốn nêu bật sự kiện này : Việc Nước Thiên Chúa đến có nghĩa là tất cả mọi sự đều đổi mới, bởi ngài là Chúa trời đất. Việc can thiệp đầy uy quyền của Ngài cho thấy việc Nước Trời đến bao hàm từng chữ một.
Đây không phải là một phép lạ, nghĩa là một dấu chỉ lạ lùng để gây ngạc nhiên, để tạo áp lực đòi hỏi con người, nhưng là một dấu chỉ có tính cách tiên tri của Nước Trời, được hòan thành để xoa dịu cứu chữa tình cảnh khốn khổ của con người, những ai được cứu thóat khỏi nỗi nghèo hèn túng cực như thế cũng được hướng tới niềm hi vọng được giải thóat khỏi tội lỗi.
Cử chỉ của Chúa Giêsu cho thấy quyền năng của ngài trên các yếu tố vật chất là bánh và cá, quyền năng ấy ở nơi Ngài trong thế gian được tạo dựng bởi ngài và cho Ngài (Cl.1,16), cử chỉ ấy đúng là một cử chỉ sáng tạo như Thiên chúa Cha, mặc dù chúng ta thấy hình ảnh Môsê ẩn hiện khi đọc trình thuật hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu không chỉ là Đấng trung gian như Môsê tiếp nhận Manna của Đức Giavê, trái lại chính Ngài là Đấng phát sinh ra Manna mới qua lời uy quyền của Ngài, nên rõ ràng Chúa Giêsu là Nước Trời mà con người muốn sống phải tìm tới.
Qua trình thuật hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ : “ các con hãy cho họ ăn đi” (c.17), rõ ràng ngài coi trọng tình cảnh khốn khổ về vật chất của đám đông dân chúng, cũng như sự thiếu thốn về mặt tinh thần. Vì thế, Ngài không cho phép Hội Thánh của Ngài bỏ qua các vấn đề cụ thể với cuộc sống cũng như trốn tránh các vấn đề được đặt ra từ một hòan cảnh kinh tế nhất định nào đó. Ngài cũng không cho phép Giáo Hội biện minh việc khoanh tay ngồi không vì bất lực, hay bởi túng thiếu như nói : “ chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá”.
Người môn đệ Chúa Kitô phải để ý lo lắng cho nhu cầu vật chất của đòan chiên, phải làm hết sức mình để xoa dịu nỗi thống khổ vật chất của họ. Điều ấy trở thành bổn phận quan trọng nhất của người Kitô hữu : “ hãy đến đây hỡi những kẻ Cha Ta đã chúc phúc…”(Mt.25,34-35). Nghèo chăng ? Cần gì nếu chỉ 5 chiếc bánh và 2 con cá, ta hãy cứ ban phát đi Chúa sẽ làm phần còn lại. Cho dù chúng ta ít khả năng, văn hóa kém, sức khỏe yếu….nhưng chúng ta dâng chính mình cho ngài, Ngài sẽ làm được nhiều việc phi thường qua chúng ta, vấn đề là khiêm nhường dâng Ngài cái ta đang có.
Hôm nay Ngài vẫn tiếp tục hóa bánh ra nhiều nuôi sống dân chúng bằng chính thân xác của Ngài, ngài vẫn tiếp tục làm trung tâm của dân tộc mới, mà Ngài qui tụ lại trong chiếc tàu của Phêrô để ban phát Bí Tích Thánh Thể, sức mạnh niềm hi vọng và tình yêu Thánh Lễ mà chúng ta cử hành là thân mình của Chúa Giêsu, được chia sẻ cho nhiều người. Thánh Thể thúc đẩy chúng ta bẻ cuộc đời chúng ta thành từng miếng cho kẻ khác.
Lạy Chúa Giêsu, việc cứu độ của Chúa là để phục vụ con người, xin cho chúng con biết bắt chước Chúa mà phục vụ tha nhân, biết tìm kiếm Nước Trời ngay đời này qua việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể để chúng con được no thỏa, không bao giờ đói khát.
Tin Gioan Tẩy Giả bị tên bạo chúa Hêrôđê Antipa tống giam và giết chết không chỉ vì ông bảo vệ chân: TN18-A78
Tin Gioan Tẩy Giả bị tên bạo chúa Hêrôđê Antipa tống giam và giết chết không chỉ vì ông bảo vệ chân lý mà còn do một lời thề mê muội trong ngày sinh nhật của Hêrôđê, làm cho Chúa Giêsu tạm lánh vào nơi hoang vắng. Chính nơi đây, phép lạ về năm chiếc bánh và hai con cá nuôi sống trên năm ngàn dân mà Chúa Giêsu thực hiện như chứng thực chính Người là vị Mục tử đích thực nhằm quy tụ và dẫn đưa đoàn chiên đến nơi suối mát và đồng cỏ xanh tươi để tất cả được no thoả tràn đầy không còn thiếu thốn âu lo.
Giữa nơi hoang vắng, ngày lại sắp tàn và với một lượng người quá đông đã khiến các môn đệ lo lắng. Các ông lo lắng là phải. Bởi các ông biết rằng đối với đám đông, các ông cũng có một vai trò nhất định nào đấy. Một điều dễ hiểu là để lời Thầy được thính giả lãnh hội thì công việc của các môn đệ trong vấn đề tổ chức chẳng dễ dàng gì. Chính vì thế, giữa đồng không hiu quạnh, các ông lo cho số phận của năm ngàn con người sẽ ra sao khi đêm về mà không có gì lót dạ. Lương thực dự trữ bấy giờ chỉ vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá. Thật chẳng thấm vào đâu với số người quá đông như thế. Vì thế, theo các ông, cách tốt nhất là giải tán đám đông, cho họ về nhà, nhẹ gánh nặng, thầy trò còn có thời gian nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Hợp lý quá đi chứ. Nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như vậy. “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Tâm trạng của các ông có lẽ bực bội hơn là ngạc nhiên. Chúng con cho họ ăn ư? Ồ không đâu, thưa Thầy. Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá? Chỉ còn cách là chúng con đành phải lặn lội vào nơi gần nhất để mua lương thực cho ngần ấy người mà thôi. Chúa Giêsu không để các ông phải khổ sở với suy nghĩ rất ư bình thường như vậy. Điều Chúa muốn các ông là hãy bảo đám đông quy tụ từng nhóm năm mươi người, nằm ngã xuống và phân phát bánh cho họ.
Khi đám đông dân chúng đã ngã mình trên đồng vắng, nghĩa là như Israel xưa trong sa mạc, họ không còn lạc lõng, bơ vơ, tản mát nữa, tất cả đều được quy tụ trở thành cộng đoàn cùng nhau dự tiệc- một hình ảnh loan báo cho một dân tộc mới được mời gọi vào dự Tiệc cánh chung của Thiên Chúa, khi đó kẻ nghèo sẽ được ăn uống thoả thuê- Chúa Giêsu mở đầu bữa tiệc này theo đúng phong tục của người Dothái, nghĩa là bằng lời chúc tụng. Một điều thú vị là nếu đối chiếu với bản văn Tin mừng hôm nay với bản văn bữa Tiệc ly và bữa tiệc Emmau, chúng ta sẽ thấy 4 động từ sau đây như là nét đặc trưng của việc dâng lễ tạ ơn. Đó là việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Có khác chăng là ở đây là lời chúc tụng, còn trong bữa Tiệc ly là lời Tạ ơn (x. Lc 22, 19;24, 30). Như thế, phép lạ hoá bánh ra nhiều không chỉ cho thấy Chúa Giêsu chính là vị Ngôn sứ vượt trên mọi ngôn sứ của thời đại, như ngôn sứ Êlia xưa đã nuôi 100 người bằng 20 chiếc bánh lúa mạch (x. 2V 4, 42-44) mà còn có quyền năng trong việc quy tụ và nuôi sống dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy chính Người là hình ảnh của Thiên Chúa đến trần gian để yêu thương con người, săn sóc và nuôi dưỡng họ bằng phương cách họ không thể ngờ. Hôm nay chính Người đã ban tặng cho họ ân huệ cao vời, đã nuôi sống họ cách dư dật.
Như ngôn sứ Êlia xưa, Chúa Giêsu hôm nay cũng dựa trên năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá của đám dân nghèo hiến dâng để nuôi sống họ. Bí tích Thánh Thể mà chúng ta tham dự mỗi ngày cũng vậy. Chính chúng ta cũng phải tiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá, tức là những hy sinh, những đau khổ, bình an và hạnh phúc của cuộc đời lên cho Thiên Chúa.
Sẽ là khập khiễng khi sánh ví năm chiếc bánh và hai con cá với đám đông trên năm ngàn con người, nhưng với Thiên Chúa, đó lại là điều tối cần cho một phép lạ. Năm chiếc bánh và hai con cá thật chẳng đáng là gì trước một đám đông đang đói lả, nhưng đó lại chính là phương tiện cần thiết để Chúa thi ân giáng phúc. Chúng ta thấy phép lạ xảy ra khi con người quan tâm và lo lắng giúp đỡ lẫn nhau. Cũng vậy, với quyền năng, Chúa Kytô sẽ biến đổi, hiến thánh sự đói nghèo của chúng ta, Người sẽ tiến dâng lên Chúa Cha cuộc sống và những việc làm dù rất nhỏ bé của chúng ta trở nên điều thiện hảo mưu ích cho muôn người. --------------------------------
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi sung sướng và cảm động. Lời Chúa quả đem: TN18-A79
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta không khỏi sung sướng và cảm động. Lời Chúa quả đem lại muôn vàn an ủi và ân huệ cho con người. Mười người phong cùi được Chúa chữa lành không làm cho họ sướng ngất ngây và bỡ ngỡ ngạc nhiên như đang sống trong mơ sao ? Chúa làm cho anh mù Bactimê được sáng mắt phải chăng anh chẳng vui mừng như chết mới hồi sinh sao ? Tin Mừng của Chúa là như thế. Chúa luôn luôn can thiệp vào những trạng huống đời thường và làm cho đời sống con người thêm nhiều ý nghĩa. Chúa quan tâm lo lắng cho những người, cho đám đông theo Chúa để nghe Ngài giảng dạy. Chúa đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi sống họ. Đám đông thật hạnh phúc qui tụ xung quanh Chúa và được Chúa ban phát cho của ăn.
Được phục vụ công cuộc truyền giáo cho người Dân tộc Kơho, tôi đã gặp nhiều câu chuyện đời thường của những anh chị em Dân tộc vừa cảm động, vừa cảm phục, có khi lệ rơi, có khi buồn cười. Một hôm như thường lệ, tôi đi thăm một buôn Dân tộc ở cách nhà xứ 20 cây số. Tôi tới một gia đình tên Bàp Giang: Bàp có nghĩa là bố của con gái tên Giang. Họ thường lấy đứa con đầu lòng để gọi như Bàp Giang, Me Giang ( Mẹ của Giang). Gia đình này thuộc loại trung bình, nhưng năm nay được mùa lúa. Cả gia đình mẹ cha và bốn đứa con đều mừng rỡ vì có lúa ăn cả mùa cái bụng sẽ no và gia đình khỏi phải lo lắng. Nhưng trong buôn còn có nhiều gia đình thiếu ăn, thiếu lúa, cái bụng vẫn còn đói. Tôi vào thăm gia đình này, vợ chồng của con Giang nói với tôi :” Nè Bàp ( Cha ơi, năm nay gia đình con được mùa lúa, con sẽ cho năm gia đình trong buôn vay lúa vì gia đình họ không có đất ruộng, họ không có lúa, họ sẽ đói. Con nhất định bắt chước Chúa cho kẻ đói ăn vì Chúa đã nói :” Ai cho kẻ đói ăn là cho chính Ta ăn mà “. Tôi nói với vợ chồng con Giang, con không sợ hết lúa, con cái của chúng con sẽ đói cái bụng, chúng sẽ khóc sao ? Vợ chồng của con Giang cười và nói với tôi : “ Thưa Cha, con muốn bắt chước Chúa, con muốn cho Chúa ăn mà. Nếu năm gia đình không có lúa con cho mượn, họ sẽ đói, con họ sẽ khóc, chúng con muốn làm một cái gì cho Chúa …Nghe vợ chồng con Giang nói, tôi sung sướng và cảm động biết bao ! Ước gì có nhiều người sống như vợ chồng con Giang. Tôi nghĩ họ cho năm gia đình mượn không chỉ lúa mà thôi, nhưng họ còn trao cả tấm lòng, cả ruột gan của họ (ngôn ngữ của người Dân tộc ). Tôi nghĩ tới đọan Tin Mừng của thánh Matthêu 14, 13 – 21 hôm nay :” Chúa thấy đám đông dân chúng thì chạnh lòng thương” ( Mt 14, 14 ). Chữ chạnh thương nói lên tất cả con tim, tất cả tấm lòng nhân hậu của Chúa Giêsu :” Người đến cho chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ). Chính vì thương dân, thương những người bệnh hoạn tật nguyền, thương nỗi đau khổ thể xác của dân mà:” Chúa đã chữa lành những người bệnh họan tật nguyền “. Lòng nhân từ của Người đã không để dân chúng tự giải tán theo lời đề nghị của các tông đồ, nhưng Ngài đã ra lệnh cho các tông đồ :” Chính anh em hãy cho họ ăn “ ( Mt 14, 16 ). Phép lạ đã xẩy ra khi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá nhưng với sự cộng tác của con người, Chúa Giêsu đã cho “ năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em “ ( Mt 14, 21 ) được ăn no nê mà còn dư thừa.
Sống trong thế giới, nhiều nước quá giầu, lại có nhiều nước quá nghèo. Lương thực, vật chất không được phân bổ đồng đều. Có người đang đói lả, nhưng lại có người, có nước đem lương thực đổ xuống biển, xuống sông. Chúa đang mời gọi mọi người hãy có tấm lòng, hãy góp phần nhỏ bé, hy sinh, âm thầm của mỗi người. Chúa chờ đợi con người có chút lòng chạnh thương. Có lẽ nhiều người xung quanh ta hoặc ở xa ta, không chết vì thiếu lương thực nhưng đang chết vì thiếu những tâm hồn quảng đại, những tâm hồn biết chạnh lòng thương. Con người rất cần lương thực để sống nhưng cũng rất cần tình thương, sự chia sẻ, trái tim nhạy cảm, lòng quảng đại để tồn tại trong cuộc sống. Quanh chúng ta và trên thế giới có những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương. Chúa Giêsu bảo :” Anh em hãy cho họ ăn đi “. Đây không chỉ là lời nói qua loa của Chúa trên bờ môi chóp lưỡi nhưng là một lệnh truyền, một lệnh giống như :” Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con “. Bởi vì yêu thương mà Chúa đã chết trên thập giá để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Con người thực ra chỉ tìm được ý nghĩa khi biết trao ban, khi cho đi :” Cho thì có phúc hơn là lãnh nhận “( Cv 20, 35 ). Chúa đã làm gương khi để lại chính Thịt Máu cùa Ngài làm lương thực nuôi sống nhân loại. Chúa đã phán :” con người không chỉ sống bằng cơm gạo, nhưng còn sống bằng Lời Chúa. Con người không chỉ sống thể xác đời này, nhưng còn sống mãi đời sau bằng cuộc sống vĩnh cửu. Điều này chỉ có Chúa mới làm được, chỉ có Chúa mới ban Lời hằng sống, Bánh trường sinh và sự sống vĩnh cửu. Chúa đang mời gọi người môn đệ Chúa phải canh tân cuộc sống, đổi mới con người giống Chúa đến nỗi phải như thánh Phaolô thốt lên:” Tôi sống không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Con người đã sống sự sống của Chúa thì phải có lòng chạnh thương như Chúa Giêsu :” Thấy đám đông dân chúng thì Người chạnh lòng thương “.
Người môn đệ Chúa không thể dửng dưng trước những đau buồn, đói khổ của những người xung quanh. Mà muốn không dửng dưng thì người môn đệ phải biết vứt bỏ những gì là cồng kềnh, ngăn cản con người tới với anh em mình: từ bỏ con người ích kỷ, ghen tương, tham lam, tội lỗi để mặc lấy con người mới là Đức Kitô. Liệu có mấy người sống được như gia đình ông bà Giang trong câu chuyện trên kia ? Người môn đệ hãy bắt chước một Phanxicô khó khăn đã sống tận cùng cái nghèo nhưng lại là người sống giầu có nhất về tình yêu, về bác ái, chia sẻ. Một mẹ Têrêsa Calcutta đâu có đổ vàng đổ bạc cho nước Ấn Độ nhưng mẹ lại trao ban chính bản thân mình cho dân tộc, cho người nghèo, người đau khổ nưốc Ấn Độ. Biết bao gương của người khác mà chúng ta cần phải học đòi bắt chước.
Lạy Chúa, Chúa đã truyền cho các môn đệ :” Chính các anh hãy cho họ ăn”. Chúa đã nuôi chúng con không chỉ bằng lương thực thể xác mà đã nuôi chúng con, nuôi nhân loại bằng chính Mình Máu của Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của anh em chúng con. Amen.
Anh Chị Em có tin là chỉ “năm chiếc bánh và hai con cá” mà nuôi được 500 người ăn không? Năm: TN18-A80
Anh Chị Em có tin là chỉ “năm chiếc bánh và hai con cá” mà nuôi được 500 người ăn không? Năm chiếc bánh và hai con cá so với năm ngàn người, không kể đàn bà trẻ con, (nếu tính cả chắc phải lên đến 15 ngàn người), một con số người ăn thật quá lớn so với sự ít ỏi của thực phẩm. Các tông đồ cũng đã lo lắng và lúng túng mà nói với Chúa: «Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn».
Phép lạ là gì?
Để hiểu đúng ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải định nghĩa lại phép lạ là gì?
Theo nghĩa rộng, phép lạ là những gì được xảy ra từ cái không thể (impossible) trở thành cái có thể (possible) với sự cố gắng của con người, ví dụ như Người Do Thái vận dụng khoa học kỷ thuật đã trồng cam ngọt trên sa mạc vùng Giêricô. Hay Las Vegas là một sa mạc lại trở thành một thành phố xinh đẹp và hấp dẫn… Người ta có thể coi đó là những phép lạ.
Theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ những gì xảy ra cách lạ thường và khác với quy luật tự nhiên. Ví dụ: trong vật lý học, một vật có trọng lượng thì bị sức hút của trái đất. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng một em bé nhảy lầu giữa chừng em ngừng lại và cứ lơ lững vậy. Đây là điều ngoài quy luật tự nhiên.
Còn có một cách hiểu cao hơn theo Thánh Gioan, thì phép là những dấu chỉ (segni) để diễn tả những sự kỳ diệu của đức tin mà Thiên Chúa thực hiện qua những dấu chỉ đó.
Theo những nghĩa trên thì sự kiện chỉ 5 chiếc bánh và hai con cá hóa nhiều nuôi 5 ngàn người mà còn dư 12 thúng, là một phép lạ, điều không thể trở thành điều có thể, điều xảy ra cách lạ thường và ngoài quy luật tự nhiên.
Ý nghĩa phép lạ hóa bánh nhiều
Ngày nay có hai quan điểm giải thích phép lạ này: quan điểm thứ I là một số học giả Thánh Kinh không tin đây là một phép lạ và nghĩ rằng Chúa Giêsu không làm cho bánh hóa ra nhiều, mà Người chỉ là một nhà hùng biện có tài thuyết phục mọi người bỏ bánh mà họ mang theo trong mình ra để chia sẻ với nhau thôi, theo kiểu “góp gạo thổi nồi cơm chung” nên ai cũng có ăn dư dã. Cách hiểu này chắc chắn không được Giáo Hội công nhận. Nhưng nó nói lên được ý nghĩa của sự kiện là dạy người ta biết chia sẽ với nhau, và khi ta biết chia sẽ với người khác thì mọi sự trở nên dư dã và phong phú.
Cách hiểu thứ hai đó là đa số các nhà chú giải kinh thánh cho rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình ảnh, là dấu chỉ của bữa tiệc Thánh Thể và ơn cứu độ mà Đức Kitô sẽ ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của Người. Học giả kinh Thánh David Garland giải thích: «Việc cung cấp lương thực cho 5 ngàn người ăn mà còn thừa 12 thúng cho thấy rằng sự cung cấp dồi dào cho toàn thể Israel. Như thế Bí tích Thánh Thể sẽ ban lương thực dồi dào cho toàn thể nhân loại». Đây là cách hiểu truyền thống mà Giáo hội chấp nhận. Quả thế, “bữa tiệc bánh hóa nhiều” là hình ảnh về bữa tiệc mà Đức Kitô sẽ thực hiện trong Thánh Thể trong đó nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần bánh và rượu, tượng trưng cho lao công và đóng góp của con người, trở thành thực sự Mình và Máu Đức Giêsu, mà thần học gọi là “transubstantiation”: biến-thể. Đức Giêsu trở thành Bánh Sự Sống được bẽ ra cho mọi người qua mọi thế kỷ để tất cả được no thỏa và được sống dồi dào (Ga 10,10). Nếu hiểu như thế, mỗi Thánh lễ là một bữa tiệc, một phép lạ mà Thiên Chúa thực hiện cho chúng ta.
Bài học áp dụng
Một chi tiết rất đáng lưu ý trong tường thuật này là: “Chính anh em hãy cho họ ăn” và các môn đệ thưa: “Ở đây chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Điều này muốn nói rằng Đức Giêsu không muốn làm gì một mình. Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người, hay nói như Cha Nguyễn Tầm Thường: “Chúa thích làm phép lạ dang dở. Phép lạ dang dở để tôi được tham dự, cái dang dở của Chúa là chổ trống để cho tôi bước vào”. (NTT, Viết trong tâm hồn, tr. 7). Nhiều lúc trước những vấn đề lớn nhưng khả năng của chúng ta rất nhỏ nhoi, ít ỏi, nhưng Chúa lại cần đến chúng, Chúa cần đến chút tâm tình “chạnh lòng thương” của chúng ta, để Người thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời. Nếu không có chút tình thương của cô Tim, thì làm sao có ngôi làng tình thương cho biết bao nhiều người tàn tật ở Việt nam vv…
Mỗi lần chúng ta dự tiệc Thánh Thể, Chúa cũng mời gọi chúng ta biết chia sẽ và góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình vào xây dựng cuộc đời này đẹp hơn, nhân bản hơn và hạnh phúc hơn. Và như thế, “phép lạ hóa bánh ra nhiều” lại tiếp tục diễn ra trong cuộc sống của chúng ta. Amen!
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam: TN18-A81
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý mới được giải phóng khỏi bọn phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm ra các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm đẹp đẽ như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng, có lẽ đã bị bể tan do bom đạn chiến tranh. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc dựng lại bức tượng nói trên. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả để thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào tấm bảng nhỏ đặt trước bức tượng một hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm Chúa với hai cánh tay bằng gỗ của loài người.
Ngày nay khi chúng ta biết chạnh lòng xót thương những người đau khổ bệnh tật và đói khát rồi tìm cách đáp ứng nhu cầu của họ là chúng ta đang làm theo lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh tật của họ” (Mt 14,14). Người cũng muốn chúng ta cộng tác với Người để chăm lo phục vụ giúp đỡ những kẻ đau khổ nghèo đói, khi Người nói với các môn đệ rằng: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
3. SUY NIỆM:
- DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại câu chuyện nhân bánh ra nhiều với ba điểm nhấn như sau: + Đem lại đây cho Thầy !: Đức Giê-su không chê phần đóng góp nhỏ bé của các môn đệ để làm phép lạ nhân chúng ra nhiều. Người chỉ cần chúng ta trao cho người những gì chúng ta có là sự quảng đại và lòng nhiệt tình.
+ Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của năm chiếc bánh nhỏ là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, được Người dâng lên cho Chúa Cha, rồi trao lại cho các môn đệ, để cuối cùng đến tay từng người trong đám đông dân chúng.
+ và trở nên nhiều: Phép lạ nhân bánh ra nhiều đã xảy ra khi nó đang ở trong tay ai ? Bình thường chúng ta sẽ tưởng tượng Đức Giê-su nhân bánh và cá thành một đống bánh và cá lớn, rồi các môn đệ đến lấy mang đi phân phát cho dân chúng, nhưng ở đây thánh Mát-thêu viết tiến trình biến hóa bánh và cá ra nhiều như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng tiếp tục bẻ bánh ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình ra để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su đã được bẻ ra, trao đi và nhân ra nhiều khi nó di chuyển từ tay người này sang tay người khác. Đó là điều mấu chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
- ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19): + Phép lạ Bánh được nhân ra nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước khi chịu tử nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
+ Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc Thánh của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa ăn tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái với nhau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? ”(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
- PHÉP LẠ BẺ BÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
+ Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ phần bánh cho mình và người thân: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông chia cho dân chúng mà bánh đã được nhân ra nhiều.
+ Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, mà tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, niềm vui, hạnh phúc và hy vọng.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần nào nữa ? 2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần nào cho người sống bên cạnh như: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa không…?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sự đói khát đang giày vò bao người, để sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nhưng Lạy Chúa, bản thân con và gia đình con cũng đang gặp khó khăn, phải “ăn bữa nay lo bữa mai”, thì làm sao chúng con có thể chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác được? Khả năng của chúng con thì giới hạn và không thấm vào đâu so với nhu cầu to lớn của tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương quảng đại của các môn đệ Chúa xưa để dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, và Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho chúng con, rồi chúng con sẽ noi gương Chúa tiếp tục chia sẻ cơm bánh tiền của và tình thương cho những người nghèo khổ đang ở chung quanh chúng con.
- LẠY CHÚA. Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng những gì chúng con có cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao. Xin cho con luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của con cho Chúa để chu tòan sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em con.
Trên các trang mạng, khi vào google.com và đánh típ: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới”: TN18-A82
Trên các trang mạng, khi vào google.com và đánh típ: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới” chỉ trong 18 giây, chúng ta đã có ngay kết quả lên tới 1.210.000 chuyên mục liên quan đến vị tổng thống này. Ông là ai? Thưa ông là Mujica, Tổng thống Uruguay.
“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ. Ông là vị Tổng thống không thích sống trong nhung lụa.
Tuy nhiên, Mujica được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không hẳn vì ông sống giản dị và nghèo, nhưng vì đã dành 90% tiền lương của mình, cho công tác từ thiện.
Chúng ta không cần biết ông có theo đạo Công Giáo hay không! Nhưng chúng ta biết chắc rằng: “ông là người biết ‘thương xót’ người nghèo”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã “thương xót” dân chúng. Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Qua đó, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ và cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường “thương xót” của Ngài, để làm toát lên vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu nơi hành động của chúng ta.
1. Đức Giêsu là Đấng “thương xót”
Trong suốt hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn yêu thương, quan tâm đến con người, nhất là những người ốm đau, bệnh tật, những người thấp cổ bé họng và đói khát.
Khởi đi từ việc rời bỏ vinh quang Thiên Quốc để nhập thế và sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong sự thiếu thốn, hẳn Đức Giêsu hiểu rõ hơn ai hết nỗi bần cùng của con người. Vì thế, đã nhiều lần, Tin Mừng cho thấy: khi dân chúng đến với Ngài, mang theo những bệnh tật trên thân xác, Ngài đã “thương xót” và chữa lành họ.
Không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý, Ngài còn đi xa hơn để chữa trị tâm hồn cho những ai đang hoang mang, bất hạnh và thất vọng.
Vẫn tình thương đó, hôm nay, khi thấy dân theo mình nghe giảng, và khi trời đã xế bóng, Đức Giêsu không nỡ để dân chúng bụng đói ra về, nên Ngài đã ra tay để làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng.
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu đã làm, đã nói và hành động, Ngài không muốn để các môn đệ ngoài cuộc, bởi vì mai đây chính các ông là những người sẽ thay Ngài để thi hành lòng “thương xót” của Thiên Chúa cho dân. Vì thế, khi được hỏi: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Như thế, qua câu nói của Đức Giêsu, không phải vì vô lý, cũng chẳng phải Ngài thách thức các ông, nhưng:
Trước hết, Đức Giêsu muốn các ông hãy ra khỏi sự ích kỷ của bản thân, sự an phận của vật chất để biết chia sẻ với những ai bất hạnh, nghèo đói, vì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Gaudium et Spes, số 1).
Thứ đến, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông về sứ mạng của chính mình, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
Cuối cùng, Đức Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về sự tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Còn chúng ta, những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người cũng được mời gọi để thi hành công việc mà chính Đức Giêsu đã làm và muốn các môn đệ thi hành khi xưa. Vậy chúng ta phải làm gì?
2. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy vươn xa tầm nhìn để thấy được trong xã hội loài người gồm hơn 7 tỷ người, trong đó có hàng ngàn trẻ em mồ côi, bệnh tật, bị bóc lột sức lao động và buộc làm nô lệ cho tình dục...
Số người chết vì đói, vì thiếu thuốc chữa bệnh cũng lên cả triệu người trên năm. Hàng triệu người vô gia cư, thất nghiệp, mù chữ... Rồi những người mắc phải những căn bệnh thế kỷ, nạn buôn bán phụ nữ để làm gái bán dâm, buôn bán ma túy và tham nhũng cũng tăng lên từng ngày.
Tình trạng loạn luân, phi đạo đức nhan nhản trong xã hội hiện nay. Những chuyện như: cha giết con, con giết cha; vợ giết chồng và ngược lại. Nhiều nạn nhân chết oan uổng chỉ vì một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu”, hay chỉ là một câu nói vô tình nào đó...
Như vậy, ngày nay, người ta “bội thực” đủ thứ... nhưng lại “đói khát” đời sống đạo đức và tâm linh hơn bao giờ hết.
Sự thật thà dường như vắng bóng trong học đường, và ngoài xã hội. Niềm tin tưởng lẫn nhau có lẽ quá xa vời đối với thương trường. Sự tương thân tương ái có lẽ không còn mấy ý nghĩa, mà thực ra chỉ là lợi dụng. Đạo đức gia đình, nghề nghiệp là thứ gì đó xa xỉ phẩm đối với giới trẻ, các ông chủ và ngay cả những người được coi là mang danh đạo đức... Tình trạng thờ ơ, vô cảm và ngăn cấm tôn giáo là điểm “hot”; “nhạy cảm” tại nhiều nơi.
Tất cả những hiện tượng đó, Đức Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phóng tầm nhìn để có một tấm lòng biết “thương xót”. Đồng thời, hãy ra khỏi sự yên thân để cùng nhau lên đường nhằm góp chút men, chút muối và trở thành ánh sáng để ướp đời và soi sáng thế gian.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Thực ra, chúng ta không thể nào làm thay đổi nổi màu đen trên thế giới!!! Thế nhưng, ngay thời điểm hiện tại và nơi chúng ta sinh sống, không thiếu gì những con người tương tự.
Họ là những người đang đi lạc hướng trong niềm tin, lệch lạc trong lối sống, cách nhìn và suy nghĩ; những người sống trong tội; ham tiền, mê bạc và hám dục... sống dửng dưng, vô cảm với anh chị em đồng loại. Vì thế, không thiếu những Lazarô nghèo ngay bên cạnh người Phú hộ giàu có...
Những hình ảnh trên có thể là chính chúng ta. Nếu quả là vậy, thì chúng ta hãy hối cải và trở về với Chúa. Bằng không, đó là hình ảnh mà người anh chị em chúng ta đang mang trên mình, thì không phải ai, mà là chính chúng ta hãy bắt tay vào việc dù chỉ là một cái gì đó bé nhỏ như:
- Một cái nhìn thân thiện, cảm thông; - Một ly nước cho người đỡ khát, một chén cơm cho khách qua đường; - Một hành động khước từ sự bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái; - Một thái đội khẳng khái với sự bất công, tham nhũng; - Một lời cầu nguyện, hy sinh để xin Chúa “thương xót” và làm động lòng những người dư giả, để họ giúp cho những người đói khát, bần cùng, để kẻ giàu không no và người nghèo không đói.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có được “con mắt của Chúa” để chúng con có cái “nhìn giống Chúa”. Xin cho chúng con “con tim của Chúa” để chúng con cũng biết “chạnh lòng thương” như Chúa. Amen.
Một thế giới huynh đệ đại đồng là lý tưởng con người hằng mơ ước. Phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá (Mt 14, 17) cho năm ngàn người cùng ngồi trên một thảm cỏ ăn no hôm nay vẫn thật thức thời.
Những con số cụ thể như : năm chiếc bánh, hai con cá, năm ngàn người với mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14, 13-21) thật ấn tượng. Làm sao chúng ta không thể nghĩ đến những con số khác: có tới trăm ngàn người thiệt mạng trong các cuộc giao chiến, hàng trăm triệu euros cho việc chuyển giao một cầu thủ bóng đá, hàng tỷ người đói hiện nay trên thế giới. Những con số không biết nói nhưng đã trở thành lời. Một bên là tiếng hoan hô ngưỡng mộ trước phép lạ; bên kia là sự khiếp sợ.
Con số: " năm chiếc bánh và hai con cá với năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ " (Mt 14, 21), cho thấy sự mất cân bằng quá lớn giữa thực phẩm với nhu cầu của con người. Chúng ta cũng đang phải đối diện với những vấn nạn tương tự về các thảm họa chết người, chiến tranh và nạn đói, và cảm thấy bối rối, bất lực: chúng ta có thể làm gì?
Đoạn Tin Mừng này gửi đến chúng ta cách thời sự trong thế giới chúng ta đang sống. Làm sao không thể nghĩ tới nạn đói đang hoành hành một phần lớn nhân loại? Ngay cả ở các nước phương Tây, nhiều người vẫn không có cái tối thiểu để mà sống. Vì vậy, chúng ta cảm thấy nhu cầu rất lớn của nhân loại mà chúng ta bất lực. Nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa đang ở đâu ? Tại sao ngày nay Thiên Chúa không còn làm như vậy? Tại sao Người không hoá bánh ra nhiều cho triệu triệu người đang đói trên mặt đất này?
Một chi tiết trong bài Tin Mừng có thể giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những vấn nạn trên. Chúa Giêsu không búng ngón tay để rồi bánh và cá xuất hiện cách ma thuật theo ý muốn. Nhưng Người hỏi các môn đệ có gì và truyền : "các con hãy cho họ ăn" (Mt 14, 16); Người kêu gọi các ông chia sẻ điều các ông có : "năm cái bánh và hai con cá " (Mt 14, 17).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Người xin chúng ta chia sẻ những tài nguyên trái đất. Điều được biết rõ, ít nhất về thức ăn, là trái đất chúng ta có khả năng nâng đỡ hơn một tỷ người nữa đang ở trên mặt đất này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, " hãy cho họ ăn ". Chỉ cần ít mà có một chút tình yêu, tí chút vật chất để khắc phục nạn đói, thân xác và tâm hồn. Chút ít ấy, chúng ta đặt vào tay Chúa. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta nhìn lại phép lạ hóa bánh ra nhiều theo một cách khác. Trước hết, Người khiêm tốn bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy" (Mt 14, 18), và chấp nhận dùng bánh của các ông. Sẽ chẳng có gì, nếu các ông không đồng ý cho bánh. Thiên Chúa cần những cử chỉ chia sẻ của chúng ta để thực hiện những điều cao cả. Do đó, năm cái bánh và hai con cá đã được Chúa Giêsu dùng để nuôi ngần ấy ngàn người, tất cả đều no nê. Người hoàn toàn tin tưởng ở Chúa Cha. Người biết rằng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.
Một câu hỏi khác được đặt ra: Chúa Giêsu đã nuôi sống đám đông trong một ngày. Nhưng ngày hôm sau, họ tiếp tục bị đói. Họ tìm thấy mình ở trong một tình trạng khác của khổ đau. Vậy tại sao Chúa Giêsu không thay đổi tình trạng này?
Mục đích của Chúa Giêsu không phải là để thay đổi tình thế, cho bằng thay đổi lòng người. Khi con người thấm nhuần sứ điệp tình yêu Chúa, họ không còn như trước nữa. Điều quan trọng là con người cho đi những điều tốt nhất là hành vi yêu thương và chia sẻ làm cho cuộc sống có giá trị.
Bánh cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng ta không bị giới hạn vào thứ bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi xa hơn. Người muốn nói, Thiên Chúa hiện diện trong tất cả mọi thực tại và sự kiện trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta đang sống trong tình yêu của Chúa. Trước đây, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cử chỉ này là một dấu hiệu của sự gia tăng tình yêu Chúa vẫn tiếp tục thể hiện nơi nhân thế. Vì con người, ngoài nhu cầu vật chất, con người còn đói khát một cái gì hơn nữa, cần một cái gì hơn nữa. Bánh Giêsu, Bánh bởi Trời mang lại sự sống đời đời, biến con người thành các chứng nhân của tình yêu Thiên chúa đối với từng anh chị em một. Người trao cho chúng ta, để chúng ta phân phát cho những ai đói khát tình yêu. Như thế, tình yêu tùy thuộc vào chúng ta và phép lạ của tình yêu giữa con người với nhau sẽ không bao giờ dừng lại.
Làm sao con người có thể trách cứ Thiên Chúa không cung cấp thức ăn cho mọi người đang khi mỗi năm người ta tiêu hủy hàng triệu tấn thức ăn mà thông tin đại chúng nói là quá nhiều hầu phòng chống sự giảm giá thức ăn? Có giải pháp nào chăng ? Sự phân phối càng tốt thì tình liên đới càng lớn và sự chia sẻ càng nhiều.
Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bill Gates tỷ phú người Mỹ, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo ; Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng tỷ đô la. Chiến tranh tiêu huỷ biết bao tiền của, bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế. Sở dĩ như vậy chỉ tại chúng ta giữ chặt lấy bánh và cá và không muốn chia sẻ với mọi người đó thôi. Thay vì tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang, thì con người chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men để giúp cho đồng loại đỡ khổ thì tốt biết bao.
Lạy Mẹ Maria, xin mở rộng con tim chúng con, để chúng con biết sống yêu thương và chia sẻ với anh em đồng loại, hầu xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ đầy ắp tình yêu thương Chúa. Amen.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã hướng dẫn Dân Chúa đã chọn qua trung gian các tổ phụ: TN18-A84
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã hướng dẫn Dân Chúa đã chọn qua trung gian các tổ phụ, các tiên tri và các ngôn sứ. Trong thời điểm của lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ nhất định, sách Kinh Thánh đã ghi lại rất nhiều biến cố, sự việc và diễn tiến của cuộc lữ hành. Đôi khi chúng ta cảm thấy mỏi mệt với sự cứng đầu, bội ân và bội nghĩa của Dân Chúa chọn. Thiên Chúa càng chăm sóc thương yêu và bảo vệ, họ lại càng rời xa và ngoảnh mặt làm ngơ. Đúng là con người chứng nào vẫn tật đó. Biết rằng con người có linh hồn, ý chí yếu đuối và thân xác mỏng dòn. Con người có khuynh hướng đi tìm sự thỏa mãn mọi nhu cầu tinh thần lẫn thể xác. Nhiều người muốn được sống dễ dãi, hưởng thụ và tự do buông theo những ước muốn bản năng. Thiên Chúa không muốn con người bị tuột dốc, nên luôn có những lời cảnh báo qua các tiên tri: Hãy lắng tai và hãy đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Đavid (Is 55, 3). Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử ơn cứu độ, nhưng còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của con người đáp trả. Không ai có thể điều khiển được sự sống của mình, vì sự sống như hơi thở, nay còn mai mất.
Sống vào bất cứ thời đại nào, con người cũng cần có của ăn tinh thần và thể xác. Quan sát các loài động vật, Tạo hóa đã phú bẩm trong mỗi loài, mỗi loại một cách thức đáp ứng với các nhu cầu thiên nhiên. Chim trời, cá biển và thú vật đồng hoang đều được Thiên Chúa quan phòng nuôi dưỡng. Chúng ta có thể quan sát những đàn cò, đàn chim lớn cả mấy trăm ngàn con, mỗi năm đều có cuộc di tản tìm của ăn nuôi sống. Đàn chim bay từ Bắc xuống Nam cực của địa cầu để tìm lương thực nuôi thân. Tự bản năng, chim trời biết thời gian thuận lợi, nơi chỗ trạm dừng chân và địa điểm cần tới. Chúng không cần các dụng cụ khoa học để dò thám hay đặt chương trình, Tạo Hóa đã an bài cho mỗi loài một cách tuyệt vời. Đây là một thế giới của sự sống nhiệm mầu. Con người chỉ biết cúi đầu chiêm ngắm và kính phục.
Con người có nhiều nhu cầu hơn các loài động vật. Nhu cầu về tâm linh, trí tuệ và các nhu cầu vật chất, còn kèm theo các nhu cầu bản năng cần thỏa mãn. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng về Nước trời, có rất nhiều người đã bỏ công ăn việc làm mà đi theo Chúa nghe giảng dậy. Chúa Giêsu đáp ứng những khao khát tâm linh của họ. Chúa giảng dậy với uy quyền trong cả lời nói và việc làm. Chúa mở rộng cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào với nhiều cách thế. Chúa nhìn thấu tâm can và nhu cầu cuộc sống của họ. Thánh Matthêô diễn tả hình ảnh rất thân thương: Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì xót thương họ và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14, 14). Chúa xót thương dân chúng vì sự mong mỏi chờ đợi và sự đói khổ cả hồn lẫn xác. Chúa đã nuôi họ với của ăn tinh thần là lời Tin mừng và thể xác với của ăn vật chất.
Ân sủng của Chúa tuôn đổ vào những tâm hồn khao khát. Chúa nuôi dưỡng họ và họ mở lòng đón nhận. Không phải ai có cũng muốn cho đi. Chúng ta thấy nhiều người giầu có, tiền bạc đầy dư và của cải chất đống nhưng lòng họ bị khép kín. Họ muốn nhận, nhưng không muốn chia xẻ. Có đôi khi nhiều người chỉ nói xuông ngoài miệng mà không thực hành. Có những bài phát biểu về lòng thương xót được mọi người khâm phục và được vỗ tay liên hồi, nhưng lại không đáp ứng nhu cầu cụ thể của những người cần thiếu. Thùng rỗng kêu to. Chúa Giêsu muốn các tông đồ đáp ứng ngay những nhu cầu của con người hiện tại: Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn (Mt 14, 16). Các con hãy cho họ ăn. Lấy của đâu mà cho cả ngàn người ăn uống trong khu sa mạc hoang vắng. Các tông đồ ngỡ ngàng vì sự đề nghị của Thầy. Các ông không đòi hỏi Thầy làm phép lạ, nhưng các ông tin tưởng vào Thầy sẽ có cách giải quyết.
Các môn đệ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa Giêsu đã nhận bánh và cá, rồi dâng lời cầu nguyện và biến hóa bánh cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn no và còn dư: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (Mt 14, 20). Chúng ta thử tưởng tượng trong cảnh hoang địa vào lúc chiều tối, cả ngàn người nơi màn trời chiếu đất và vừa đói vừa khát. Họ biết nương tựa vào đâu bây giờ. Chúa Giêsu đã lo liệu đầy đủ cho họ trước khi ra về. Chúng ta biết sa mạc thì cằn cỗi, ngày nóng, sỏi đá hoang vu và đêm về gió lạnh. Sa mạc của hai ngàn năm về trước cũng giống như sa mạc ngày hôm nay. Đồi trọc hoang sơ lạnh vắng không có nhà ở hay mái che. Người ta mải mê đi theo Chúa quên về. Chúa cải hóa họ từng bước. Trong số những người đi theo Chúa đó, đã một số người đã nhận ra lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa. Số còn lại, chỉ trong chốc lát sau khi trở về nhà, đâu lại hoàn đó và mau quên mọi ân huệ Chúa ban.
Chúng ta là những người đã từng nhận lãnh tràn đầy các ân huệ của Chúa. Chúng ta được nuôi dưỡng bởi Lời và Bánh hằng sống hằng tuần. Ngày xưa, Trong vòng ba năm, Chúa rảo đi khắp các miền, các vùng và làng mạc từ Galilêa xuống Juđêa. Chúa giảng dậy dân chúng từng bài ngắn ngủi ở nhiều nơi khác nhau: Tại gia, trong Hội Đường, ngoài phố chợ, có lúc ở ngoài cánh đồng, bãi biển và có khi ở ngoài hoang địa. Con người ở mỗi miền chỉ được gặp gỡ và lắng nghe lời Chúa chút ít. Sau khi hoàn tất sứ mệnh dưới trần gian, Chúa Giêsu đã sai các tông đồ tiếp tục ra rao giảng Tin mừng cứu độ. Thánh Phaolô, tông đồ Dân Ngoại, đã nhiệt tâm say sưa rao giảng lời Chúa. Cuộc đời của Phaolô gắn chặt vào việc làm nhân chứng cho Chúa Kitô sống lại. Cho nên không sự gì có thể tách biệt ngài ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô: Ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? (Rm 8, 35). Thánh Phaolô đã chấp nhận mọi rủi ro trong đời sống để danh Chúa được rao truyền.
Ngày nay, Lời Chúa được hệ thống hóa qua sách vở và các kỹ thuật truyền thông. Ai cũng có thể đọc, nghe và suy gẫm lời Chúa. Thánh lễ cũng được dâng mỗi ngày trong các nhà thờ, nhưng chẳng mấy người muốn đọc và lắng nghe lời Chúa. Càng ít người muốn lãnh nhận của ăn nuôi hồn là Bí tích Thánh Thể. Hình như con người thời nay chỉ mau mắn đi tìm những món quà giá trị tạm thời mau qua chóng hết. Sách Lời Chúa được bao bọc đẹp đẽ và cất giấu trên kệ tủ. Sự hiện diện cô đơn của Chúa nơi nhà tạm vắng vẻ trong nhà thờ. Chẳng mấy ai muốn ngồi lặng bên Chúa để lắng nghe lòng mình và tâm sự với Chúa. Chúng ta cũng như phần đông trong nhóm người xưa, mong được Chúa làm phép lạ cho ăn uống no nê. Ngay cả các thành phần sống cận kề bên Chúa, họa hiếm mới đến viếng Mình Thánh Chúa. Có nghe Lời Chúa, chúng ta cũng chẳng muốn suy gẫm, áp dụng và thực hành. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm về cách sống và hành đạo của mình.
Trải qua biết bao thăng trầm trong cuộc sống, thánh Phaolô luôn kiên vững trong niềm tin: Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Đấng đã yêu thương chúng ta (Rm 8, 37). Không có gì có thể làm lay chuyển lòng tin của Phaolô vào Chúa Kitô. Lạy Chúa, chúng con đi theo Chúa, nhưng chúng con muốn tránh xa mọi sự phiền hà, khó khăn, khổ đau và bắt bớ. Chúng con chỉ muốn làm chứng nhân cho Chúa trong một hoàn cảnh an bình, vui vẻ, đầy đủ và êm ả. Xin cho chúng con biết tìm về nguồn sự sống chân thật là Chúa Kitô, Chúa chúng con.
(13) Nghe tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. (14) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ. (15) Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi. Vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. (16) Đức Giê-su bảo: “họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn”. (17) Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” (18) người bảo: “Đem lại đây cho Thầy !”. (19) Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông. (20) Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. (21) Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU NHÂN BÁNH RA NHIỀU LẦN THỨ NHẤT
Như ông Mô-sê trong thời Xuất Hành, Đức Giê-su cũng đưa dân chúng tin Người vào trong hoang địa: TN18-A85
Như ông Mô-sê trong thời Xuất Hành, Đức Giê-su cũng đưa dân chúng tin Người vào trong hoang địa. Tại đây Người đã thể hiện tinh thương bằng việc làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi “năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ” được ăn no, giống như Mô-sê đã cầu xin và được Đức Chúa ban man-na cho dân Ít-ra-en suốt thời gian bốn mươi năm trước khi về tới “Hứa Địa”. Phép lạ nhân bánh ra nhiều này tiên báo bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sẽ thiết lập trong bữa tiệc ly trước cuộc Tử nạn và Phục sinh.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-14: + Lánh khỏi nơi đó: Khi nghe biết Gio-an Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê bỏ tù thì Đức Giê-su đã lánh sang miền Ga-li-lê (x. Mt 4,12). Giờ đây, nghe tin Gio-an đã bị vua Hê-rô-đê chém đầu thì Đức Giê-su lại lánh vào nơi hoang vắng, vì chưa đến “giờ của Người” (x.Ga 8,59;11,53-54). Cái chết của Gio-an Tẩy Giả là điềm báo về cái chết của Người sắp xảy đến. + Đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt: Theo Mác-cô và Lu-ca, lý do chính rút lui của Đức Giê-su là để thầy trò có thời giờ ở riêng với nhau, tránh sự quấy rầy của đám đông dân chúng (x. Mc 6,31). Thuyền các ngài hướng về phía hoang địa gần thành Bét-sai-đa (x. Lc 9,10), về phía Đông Bắc và cách biển hồ Ga-li-lê khoảng một cây số. Đây là thời gian gần đến lễ Vượt qua của dân Do Thái (x. Ga 6,4). + Đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người: Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa đã theo Mô-sê vào trong sa mạc Xi-nai. + Chạnh lòng thương: Khi chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su chứng tỏ Người chính là mục tử lý tưởng mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm (x. Ed 34,11-16).
- C 15-18: + xin Thầy giải tán đám đông: Các môn đệ đã biết nghĩ đến nhu cầu của dân chúng đang cần được ăn uống, nhưng các ông lại bất lực trước nhu cầu to lớn ấy, nên đã đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông để ai nấy tự lo phần lương thực cho mình. + Chính anh em hãy cho họ ăn: Đức Giê-su biết rõ sự bất lực của các môn đệ, nhưng Người đã lệnh cho các ông phải lo cho đám đôngkia được ăn. Qua đó, Người muốn Hội Thánh không những phải lo chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời, mà còn có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vật chất cho họ với hết khả năng của mình nữa. + chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá ! : Số lượng quá nhỏ bé so với nhu cầu lớn lao của đám đông. Riêng Tin Mừng Gio-an còn cho biết năm chiếc bánh đó làm bằng lúa mạch, tức là loại bánh rẻ tiền của người nghèo. + Đem lại đây cho Thầy! : Với mấy chiếc bánh rẻ tiền như vậy, các môn đệ chắc sẽ không thể làm được gì lớn lao. Nhưng Đức Giê-su chỉ cần các ông tỏ thiện chí đóng góp hết khả năng là Người sẽ thực hiện phần việc còn lại là nhân ra nhiều.
- C 19: + Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ: Cỏ chỉ mọc vào mùa xuân, nghĩa là phép lạ nhân bánh xảy ra khoảng tháng ba dương lịch trước lễ Vượt Qua (x. Ga 6,4.10; Mc 6,39). Việc cho dân chúng ngồi trên cỏ nhằm mục đích duy trì trật tự thường bị mất mỗi khi có việc phân phát đồ ăn cho đám đông. + Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá: Trong các gia đình Do thái, vào trước bữa ăn, người cha thường đọc kinh tạ ơn Thiên Chúa về những ơn lành Người đã thương ban. Ở đây khi làm việc này, Đức Giê-su cho thấy Người chính là gia chủ của đại gia đình nhân loại mới được hứa ban ơn cứu độ. + Ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ: Các cử chỉ và hành động nói trên giống như các cử chỉ của Người trong bữa tiệc ly khi thiết lập bí tích Thánh Thể vào buổi tối ngày Thứ Năm trước cuộc khổ nạn (x. Mt 26, 26).
- C 20-21: + Ăn no và còn dư: “No và dư” là hai yếu tố nói lên sự dồi dào của bữa tiệc Thiên Sai mà ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm trước đó như sau: “ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thì béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6). + Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại đựơc mười hai giỏ đầy: Mười hai tông đồ đi thu được mười hai giỏ. Con số 12 tượng trưng cho 12 chi tộc dân Ít-ra-en. Qua đó cho thấy sự nghiệp của Đức Giê-su lan rộng đến toàn dân Do thái chứ không dừng lại ở con số người được ăn bánh hôm ấy. + Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con: Vì con đường theo Đức Giê-su vào hoang địa hơi xa nên có lẽ chỉ những người đàn ông mới quyết tâm và đi được đến nơi. Có thể đàn bà con nít cũng có mặt, nhưng không được tác giả Tin mừng nhắc đến theo quan niệm “trọng nam khinh nữ” của dân Do thái thời bấy giờ.
4. CÂU HỎI:
1)Tại sao Đức Giê-su phải lánh vào nơi hoang địa? Nơi đó nằm ở đâu? 2) Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh nào trong thời kỳ Xuất Hành? Thái độ chạnh lòng thương và chữa lành bệnh tật của Đức Giê-su cho thấy Người là ai? 3) Tại sao các môn đệ lại đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông? Khi đòi chính các ông phải lo cho dân chúng ăn, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì cho các mục tử của Hội Thánh? 4) Đức Giê-su đã làm gì trước khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng? Phép lạ nhân bánh ra nhiều tiên báo về bí tích nào sẽ được Đức Giê-su thiết lập sau này ? 5) Hai đặc tính của bữa tiệc là ăn no và ăn dư dật đã ứng nghiệm lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a? Ý nghĩa của con số 12 giỏ đầy những mẩu bánh thừa nói lên điều gì? 6) Phải chăng đàn bà và trẻ con không được ăn bánh nhân ra nhiều trong phép lạ này?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý mới được giải phóng khỏi bọn phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm ra các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm đẹp đẽ như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng, có lẽ đã bị bể tan do bom đạn chiến tranh. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc dựng lại bức tượng nói trên. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả để thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào tấm bảng nhỏ đặt trước bức tượng một hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm Chúa với hai cánh tay bằng gỗ của loài người.
Ngày nay khi chúng ta biết chạnh lòng xót thương những người đau khổ bệnh tật và đói khát rồi tìm cách đáp ứng nhu cầu của họ là chúng ta đang làm theo lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh tật của họ” (Mt 14,14). Người cũng muốn chúng ta cộng tác với Người để chăm lo phục vụ giúp đỡ những kẻ đau khổ nghèo đói, khi Người nói với các môn đệ rằng: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
3. SUY NIỆM:
- DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại câu chuyện nhân bánh ra nhiều với ba điểm nhấn như sau:
+ Đem lại đây cho Thầy !: Đức Giê-su không chê phần đóng góp nhỏ bé của các môn đệ để làm phép lạ nhân chúng ra nhiều. Người chỉ cần chúng ta trao cho người những gì chúng ta có là sự quảng đại và lòng nhiệt tình.
+ Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của năm chiếc bánh nhỏ là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, được Người dâng lên cho Chúa Cha, rồi trao lại cho các môn đệ, để cuối cùng đến tay từng người trong đám đông dân chúng.
+ và trở nên nhiều: Phép lạ nhân bánh ra nhiều đã xảy ra khi nó đang ở trong tay ai ? Bình thường chúng ta sẽ tưởng tượng Đức Giê-su nhân bánh và cá thành một đống bánh và cá lớn, rồi các môn đệ đến lấy mang đi phân phát cho dân chúng, nhưng ở đây thánh Mát-thêu viết tiến trình biến hóa bánh và cá ra nhiều như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng tiếp tục bẻ bánh ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình ra để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su đã được bẻ ra, trao đi và nhân ra nhiều khi nó di chuyển từ tay người này sang tay người khác. Đó là điều mấu chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
- ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19): + Phép lạ Bánh được nhân ra nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước khi chịu tử nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
+ Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc Thánh của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa ăn tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái với nhau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? ”(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
- PHÉP LẠ BẺ BÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
+ Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ phần bánh cho mình và người thân: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông chia cho dân chúng mà bánh đã được nhân ra nhiều.
+ Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, mà tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, niềm vui, hạnh phúc và hy vọng.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần nào nữa ? 2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần nào cho người sống bên cạnh như: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa không…?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sự đói khát đang giày vò bao người, để sẵn sàng làm theolời Chúa dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nhưng Lạy Chúa, bản thân con và gia đình con cũng đang gặp khó khăn, phải “ăn bữa nay lo bữa mai”, thì làm sao chúng con có thể chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác được? Khả năng của chúng con thì giới hạn và không thấm vào đâu so với nhu cầu to lớn của tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương quảng đại của các môn đệ Chúa xưa để dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, và Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho chúng con, rồi chúng con sẽ noi gương Chúa tiếp tục chia sẻ cơm bánh tiền của và tình thương cho những người nghèo khổ đang ở chung quanh chúng con.
- LẠY CHÚA. Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng những gì chúng con có cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao. Xin cho con luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của con cho Chúa để chu tòan sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em con.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 14:13-21)
Nghe thánh sử Mát-thêu kể lại phép lạ Chúa Giê-su làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi đám: TN18-A86
Nghe thánh sử Mát-thêu kể lại phép lạ Chúa Giê-su làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, chúng ta nhiều khi phân vân không biết phải chọn điều nào để suy niệm. Nhưng bài đọc trích sách I-sai-a và bài trích thư Rô-ma trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra vai trò của Chúa Giê-su là Đấng dưỡng nuôi tất cả những ai được mời gọi vào Nước Trời.
Chúa Giê-su đã dùng nhiều dụ ngôn để giúp chúng ta có những ý niệm căn bản về Nước Trời, một thực tại gồm những giá trị vô song được Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Nếu bài đọc Cựu Ước muốn ám chỉ Chúa Giê-su là nguồn sống và bài đọc Tân Ước diễn tả tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Ki-tô là bảo đảm cho mọi phần tử Nước Trời, thì phép lạ Chúa Giê-su nuôi dân chúng sẽ là thể hiện những gì được nói đến trong hai bài đọc ấy.
Trước hết, chúng ta tìm ý nghĩa của phép lạ bánh và cá hóa nhiều, dựa trên những lời mời gọi của Thiên Chúa qua ngôn sứ I-sai-a (55:1-3). Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Người. Giống như rượu và sữa, Lời Người chính là thức ăn ngon, là “cao lương mỹ vị” đem lại sự sống cho chúng ta. Người tha thiết mời hết thảy chúng ta hãy đến, “dầu không có tiền bạc, cứ đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào”. Lòng quảng đại vô bờ của Thiên Chúa được biểu lộ qua tâm tình của Chúa Giê-su khi Chúa “trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mát-thêu 14:14). Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su thực hiện lời Thiên Chúa hứa ban cao lương mỹ vị. Năm cái bánh và hai con cá chỉ đủ làm “chắc dạ no lòng” dân chúng nhất thời thôi, nhưng Chúa Giê-su còn cho họ được no nê tâm hồn bằng những lời ban sự sống đời đời (Gio-an 6:68). Thánh Mát-thêu ghi lại rằng: “Ai nấy đều ăn và được no nê”. Thì ra mọi người đều đáp lại lời mời “Hãy đến” của Chúa nên họ đã được no nê cả thể xác lẫn linh hồn! Có lẽ dừng lại ở đây, chúng ta sẽ hiểu thấm thía hơn ý nghĩa của dụ ngôn Nước Trời như Tiệc Cưới (Mát-thêu 22:1-14) Thiên Chúa mở để đãi tất cả chúng ta.
Tiếp đến, tất cả những cử chỉ ân cần và chăm sóc của Chúa Giê-su khi Người làm cho bánh và cá hóa ra nhiều đều là những cach biểu lộ một tình yêu vô cùng lớn lao, tình yêu của Thiên Chúa. Điều này khiến cho thánh Phao-lô có thể quả quyết với chúng ta chân lý sau đây, là “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rô-ma 8:39). Chúng ta thử nhìn đám đông dân chúng đi theo Chúa Giê-su mà xem. Họ “đi bộ” một quãng đường dài, băng qua những ngọn đồi cao, không quản mệt nhọc đi tìm Chúa Giê-su, vì họ biết Người yêu thương họ. Gặp được Chúa Giê-su là gặp được lòng thương xót và tình yêu của chính Thiên Chúa! Phải ở lại nơi hoang vắng, dù trời đã muộn, lương thực đem theo đã cạn… Nhưng tất cả những trở ngại này cũng không thể tách được họ khỏi tình yêu của Chúa Giê-su, bởi vì Người đã yêu thương đến với họ trước. Rồi khi gặp lại họ, Chúa Giê-su lập tức “chạnh lòng thương” và sẵn sàng chữa lành không những thân xác mà cả linh hồn họ nữa. Mệt nhọc không tách được Chúa ra khỏi họ. Lại nữa, sự chăm sóc của Chúa Giê-su cũng là sự chăm sóc của Thiên Chúa. Người bảo các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”. Người biết Người sẽ làm gì. Người là Thiên Chúa kiểm soát mọi sự. Người “chỉ huy” và sắp đặt tất cả. Các môn đệ chỉ thừa hành những chỉ thị của Người. Cho nên tình yêu của Chúa Giê-su ràng buộc chúng ta với Người, để dù gặp “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo”, không gì ngăn cản được Chúa yêu thương chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta tham dự Thánh lễ hằng ngày hoặc ít ra ngày Chúa Nhật. Chúng ta cứ tưởng tượng như mỗi Thánh lễ là một phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, nhờ đó, chúng ta có thể cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dễ dàng hơn và cảm động hơn. Nhất là trong khi “ai nấy đều ăn và được no nê”, thì chúng ta có “ăn” và có “no nê” hay không?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 14:13-21)
Thường chúng ta chỉ nghĩ đến lời giảng Chúa Giê-su đã dạy và những phép lạ Người đã làm, nhưng: TN18-A87
Thường chúng ta chỉ nghĩ đến lời giảng Chúa Giê-su đã dạy và những phép lạ Người đã làm, nhưng ít nghĩ tới những tâm tình hay cảm xúc của Người với tư cách là một Vị Mục Tử. Đoạn Tin Mừng ngắn hôm nay hé mở cho chúng ta thấy một chút về trái tim bằng thịt của Thiên Chúa nơi con người.
Trước hết thánh Mát-thêu nhắc tới một khung cảnh đặc biệt: Sau khi được tin ông Gio-an Tẩy Giả bị giết, Chúa Giê-su đã “xuống thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt”. Địa lý vùng quanh biển hồ Ga-li-lê tương đối nhỏ bé, nên khó mà tìm được nơi thanh vắng, tránh con mắt tò mò của dân chúng. Nhưng Chúa Giê-su vẫn tìm được, vì Người cần một không gian và thời gian tĩnh mịch để cầu nguyện và suy niệm. Cái chết của ông Gio-an Tẩy Giả chắc chắn là đề tài cầu nguyện của Chúa. Nhớ người lại nghĩ đến ta. Hôm nay là ông Gio-an. Ngày mai đến lượt mình! Cho nên mặc dù thánh sử Mát-thêu không nói Chúa Giê-su làm gì ở nơi hoang vắng ấy thì chúng ta cũng dư hiểu. Tóm lại chỉ là suy nghĩ và cầu nguyện, để được trung thành tiếp tục sứ mệnh và can đảm chấp nhận thánh ý Chúa Cha.
Tuy nhiên, thuyền vừa mới tới chỗ hoang vắng, Chúa Giê-su đã phải xếp chuyện của mình lại để lo phục vụ tha nhân. Người lại rao giảng và đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. Lòng nhiệt thành của Vị Mục Tử đã được đáp lại. Giảng dạy mà không có người nghe thì còn gì nản bằng! Lòng nhiệt thành vì công việc của Chúa Cha đã nung đốt tâm hồn Chúa Giê-su và “đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng” (I-sai-a 52:7). Nhìn đám dân chúng vất vả đi bộ theo mình, chắc chắn Chúa Giê-su cũng cảm thấy được an ủi, nhưng Người lại nghĩ đến họ hơn nghĩ đến mình. Người thấy rõ nhu cầu thực tiễn của họ: không chỉ đói khát lời Chúa, mà còn đói khát vì cái bụng rỗng nữa. Bình thường Người không muốn tỏ quyền năng Thiên Chúa của mình ra, cho nên sau khi chữa lành người bệnh Người vẫn ngăn cấm không cho họ nói ra. Nhưng bây giờ Người không thể không “chạnh lòng thương”, nên đành phải sử dụng quyền năng Thiên Chúa để lấy năm cái bánh và hai con cá mà nuôi đám đông “khoảng chừng năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con”!
Từ chuyện mình cho đến chuyện người, Chúa Giê-su đều có những tâm tình và cảm xúc bình thường như chúng ta. Nhưng khác biệt là ở điểm Người biết tìm đến với Thiên Chúa trong cầu nguyện và suy nghĩ ở “một chỗ hoang vắng riêng biệt”, rồi Người biết “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng”. Khác biệt ở điểm Người muốn giúp những người khác giải quyết khó khăn trước khi họ phải tự mình “vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Khác biệt ở điểm Người biết “bẻ ra và chia sẻ” chính mình với tha nhân, biểu lộ tâm tình “chạnh lòng thương” qua việc làm cụ thể. Như thế, nỗi lòng của Vị Mục Tử chẳng phải là một đề tài để chúng ta suy niệm và nhất là để hết lòng cảm tạ Người hay sao?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sống đời Ki-tô hữu, chúng ta cũng giống như bao người khác trên thế giới. Cũng lo lắng chăm sóc cho bản thân, gia đình, cộng đoàn và đất nước. Nhưng như Chúa Giê-su, chúng ta khác biệt với người đời là do sống đức tin và bác ái. Chúng ta có một “nơi hoang vắng riêng biệt” là khoảng thời gian và không gian mỗi ngày để một mình với Chúa trong thinh lặng cầu nguyện và kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể. Nhưng chúng ta cũng không quên sự hiện diện của anh chị em, nhất là những người đói khát và bệnh tật, không quên những nhu cầu thiết thực của họ, để chúng ta mở lòng ra bằng trái tim của Vị Mục Tử Nhân lành, chạnh lòng thương đối với mọi người. Đoạn Tin Mừng hôm nay không chỉ là những gì đã xảy ra hai ngàn năm trước tại Ga-li-lê. Nhưng nó cần phải được lập lại ở đây và lúc này do chính chúng ta, lập lại trong gia đình, giáo xứ, sở làm… với những người thân, bạn bè cùng sở, giáo dân cùng xứ đạo. Thánh Phao-lô dạy: “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su” (Phi-líp-phê 2:5).
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ai có thể tách chũng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô ( Rm 8,13)”.
Báo “Người Canh Phòng” số ra ngày 19/6 có tường thuật rằng, theo một báo cáo của liên hợp TN18-A88
Báo “Người Canh Phòng” số ra ngày 19/6 có tường thuật rằng, theo một báo cáo của liên hợp quốc, con số những người di dân phải rời bỏ quê hương hiện nay vượt quá 50 triệu người trên khắp thế giới. Đây là con số kỷ lục kể từ sau thế chiến lần thứ hai. Sự gia tăng số người di dân khiến các quốc gia tiếp nhận và các tổ chức trợ giúp cũng phải khựng lại. Phân nửa số dân tị nạn là trẻ em. Họ đi một mình hay từng đoàn, thất thểu tìm chốn nương thân, và thường bị rơi vào tay bọn buôn người.
Tôi chưa từng bị thiếu ăn một ngày nào, nhưng gia đình thân phụ tôi, khi phải di tản sau thế chiến lần thứ 2, đã có kinh nghiệm này. Họ lê lết đi qua nhiều quốc gia và sống nhiều năm trong các trại tị nạn. Một người bà con của bố tôi đã sống cảnh ly tán từ năm 16 tuổi và sống sót sau chiến tranh nhờ được tiếp tế thực phẩm từ những người Mỹ thiện nguyện. Câu chuyện bi thảm của người họ hàng đó mãi 30 năm sau mới kết thúc, khi ông ta được đoàn tụ với mẹ và những người thân ở Canada.
Kinh Thánh thuật lại khá nhiều câu truyện về những di dân và những người đang bị cơn đói hành hạ, giống như trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay. Thời Chúa Giêsu, nhiều người sống rất bấp bênh, thiếu cái để ăn, thiếu nơi để ở, luôn bị đe dọa phải sống lưu vong hay bị tống khứ ra ngoài xã hội. Nhiều người trong họ, nhất là phụ nữ và trẻ em, dễ rơi vào tình trạng như vậy. Matthêu nói về việc Đức Giêsu làm phép lạ nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn, khởi đầu bằng sự thương cảm của Ngài đối với đám đông, khi họ cần được chữa lành về thể lý cũng như tinh thần. Đoàn người đi theo Đức Giêsu tới một nơi hoang vắng. Các môn đệ Chúa đã không tỏ ra vô cảm. Khi các ông thấy họ đói, đã xin Đức Giêsu giải tán để họ vào các làng mua thức ăn.
Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu giảng dạy và chữa lành, thỏa mãn sự đói khát thiêng liêng của dân chúng, cũng chưa đủ nói lên việc thực hiện sứ mạng cứu thế của Ngài. Để trả lời các môn đệ, khi họ xin Chúa giải tán dân chúng, một đám đông khổng lồ gồm 5 ngàn người không kể phụ nữ và trẻ em, Ngài đã nói với các ông:” Họ không cần đi đâu cả, anh em hãy cho họ ăn”. Đây đích thực là một sự quan tâm rất cụ thể, khởi dẫn đến một phép lạ Đức Giêsu sẽ thực hiện. Nhưng về phía chúng ta thì sao ? Đức Giêsu nhắc đến trách nhiệm của các tông đồ cũng như của mọi người. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện chỉ có thể hiểu được khi gắn kết với sứ mạng cứu thế của Ngài. Phép lạ này không phải để phô diễn một kỳ tích trước quần chúng, nhưng nhằm biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, một tình yêu cụ thể mà chúng ta có thể sờ đến, chạm đến được. Khi chúng ta cho người nghèo túng được ăn , hay cho những người vô gia cư có nơi trú ngụ, cho dù đó có phải là phép lạ hay không, thì ít ra động thái ấy vẫn biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa một cách rất cụ thể. Và đây chính là bổn phận của mỗi người chúng ta, cũng như của cả Giáo hội.
Tình yêu có thể sờ thấy, chạm thấy, đáp ứng những nhu cầu rất cụ thể của con người. Đó cũng là lý do ngôn sứ Isaia đã phóng một tầm nhìn xa về Vương quốc của Thiên Chúa, và không phải chỉ mình Isaia có được viễn kiến đó. Cái nhìn về Vương quốc được biểu tỏ qua hình ảnh nước uống nhằm thỏa mãn cơn khát. Đồng thời, mọi người có thể thỏa thích mua rượu và sữa mà không phải trả đồng nào. Bản văn thực sự nói về cuộc lưu đày của dân Israel, hoài vọng về cố hướng và mơ ước dến một đời sống mới, một cuộc sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ. Đó không phải là một quê hương trần thế, nhưng là một vương quốc thiêng liêng sẽ được thiết lập.
Đối với những người sống lưu vong rời xa đất mẹ, phải chiến đấu chống lại cái đói và tình trạng vô gia cư, không gì đáng mơ tưởng cho bằng lời hứa về một quê hương thanh bình với lương thực dồi dào. Khi đáp ứng những nhu cầu thể lý của những con người đang sống cảnh cơ hàn, tình yêu và những lời hứa của Thiên Chúa trở nên thật kỳ diệu.
Tình yêu của Thiên Chúa là một thực tại linh thánh. Quả thật, Thánh Phaolô đã khẳng định rằng “ Cho dù hoạn nạn, cơ cực, bị sát hại, đói khát, trần trụi, tù đày, gươm đao,..vẫn không thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”. Đây là một lời hứa linh thiêng rất sâu sa, được gói ghém nơi một đoạn văn đẹp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên bố “ Dù sống hay chết, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, dù hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ một sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một thụ tạo nào khác, đều không thể tách lìa chúng tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đây là lời hứa của Thiên Chúa về một tình yêu vĩnh cửu dành trao cho con người. Điều này biểu tỏ một thực tại, cho thấy tình yêu chính là căn gốc thuộc bản tính Thiên Chúa và Thiên Chúa hứa sẽ chăm sóc, yêu thương chúng ta, cho dù hiện tại chúng ta có như thế nào đi nữa. Đây cũng là lời gọi mời được gửi trao cho các tông đồ của Đức Giêsu cũng như cho toàn thể Hội Thánh, một cộng đoàn được quy tụ nhân danh Ngài. Hội Thánh tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu và các môn đệ, để nuôi dưỡng những người đói khát, giúp đỡ những người trần trụi có áo mặc, những kẻ không nhà có nơi ăn chốn ở, và cho những kẻ bị hất ra khỏi xã hội có chỗ dung thân. Khi thực hiện điều này, ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa sẽ trở nên một thực tại hữu hình, đập tan bóng tối đè nặng nơi những trại tị nạn đang nhốt kín biết bao con người khổ đau, và tình yêu của Thiên Chúa sẽ thâm nhập vào tận đáy lòng của những con người mà trước đây họ vẫn tưởng rằng mình bị quên lãng.
Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. Suy Niệm:
Ys 55,1-3; Rm 8,35.37-39; Mt 14,13-21
Chúng ta hết thảy đều thuộc lòng câu truyện Chúa Yêsu hóa bánh ra nhiều. Câu truyện ấy hôm nay lại được: TN18-A89
Chúng ta hết thảy đều thuộc lòng câu truyện Chúa Yêsu hóa bánh ra nhiều. Câu truyện ấy hôm nay lại được bài sách Isaia báo trước, vì ngay từ thời bấy giờ khoảng 600 năm trước Chúa Yêsu giáng sinh nhà tiên tri đã thay mặt Chúa hứa cho người ta bánh rượu no đầy. Ðứng trước lòng rộng rãi bao la và quyền năng của Thiên Chúa, người ta có thể kêu lên như thánh Phaolô trong đoạn thư hôm nay: dù sự chết hay sự sống dù hiện tại hay tương lai... hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô.
Như vậy những bài Kinh Thánh hôm nay đã rõ nghĩa và chúng ta không thấy khó khăn gì khi muốn liên kết cả ba lại thành một để có một giáo huấn duy nhất. Chúng ta chỉ còn cần đọc lại để có một nhận thức sâu xa hơn về lòng tốt của Thiên Chúa đối với chúng ta, hầu chúng ta được khích lệ hơn muốn đáp trả và gắn bó với Người. A. Lòng Thương Cứu Ðộ Của Thiên Chúa
Bài sách Isaia rất đơn sơ. Nó ghi lại Lời sấm của Thiên Chúa nói với Dân vào khoảng cuối thời Lưu đày. Ðã sắp hết thời gian khổ sở. Dân Chúa sắp được đoái thương. Thiên Chúa sai ngôn sứ của Người đến báo tin vui mừng này. Chúng ta hãy tưởng tượng ông đang đi đến với đám dân trong giai đoạn cuối của cuộc Lưu đày. Ðó cũng là giai đoạn cực khổ, rã rời. Sức chịu đựng hầu như không còn nữa. Niềm hy vọng dường như cũng gần tắt. Thân phận của những con người khổ sở lúc ấy có khác gì cảnh tượng những con người đói khát trong sa mạc sau nhiều ngày không nước uống và cơm ăn. Tiếng kẻ bán nước rao lên lúc đó sẽ là tiếng cứu độ. Thế nên nhà tiên tri đã mượn giọng kẻ bán nước:
"Ai khát nước, hãy đến mà uống!"
Và ông làm cho mọi người phấn khởi hồi sinh, khi nói tiếp ông có cả bánh ăn và có rượu có sữa nữa. Nhất là ai đến lấy ăn cũng được, chẳng phải mua bán gì cả.
Ðó không phải là ơn cứu độ nhưng không sao? Ðó mới là tình yêu của Thiên Chúa hiểu rõ thân phận loài người. Bởi vì Dân Chúa hiện nay đã kiệt quệ. Không còn sức lực nào nữa. Không thể tự cứu ra khỏi cảnh lưu đày này. Chỉ còn biết trông cậy vào ơn Chúa mà thôi. Nhà tiên tri thay mặt Chúa phải bảo đảm sẽ có ơn cứu độ nhưng không như thế thì dân mới có thể tin. Và ông có dùng những hình ảnh về nước uống, bánh ăn với sữa rượu mới hợp với tâm lý những người đã từng kinh nghiệm thế nào là đói khát giữa sa mạc.
Nhưng đó chỉ là những hình ảnh thôi. Ơn cứu độ sẽ đến cho dân Lưu đày như nước đến trong sa mạc, như bánh rượu được phân phát trong thời kỳ đói kém. Tuy nhiên ơn cứu độ là gì? Những hình ảnh kia trình bày thời đại cứu độ như thời đại cứu sống và bổ dưỡng. Nhưng cái gì có thể cứu sống và bổ dưỡng Dân Chúa đang bị bỏ rơi?
Ðó chính là Giao ước, một giao ước mới và vĩnh cửu. Bởi vì Dân Chúa đã được hình thành từ Giao ước và định luật chi phối lịch sử thịnh suy của Dân này là câu: "Nếu các ngươi giữ giao ước của Ta thì các ngươi sẽ được chúc phúc; bằng không, các ngươi sẽ trở nên như đồ vứt bỏ". Và Dân đã xóa bỏ giao ước. Và họ đã đi đến tình trạng này. Giờ đây sẽ chỉ có ơn cứu độ đến, khi chính Chúa lại giao ước mới với Dân. Và ước gì, Giao ước ấy sẽ được như giao ước với nhà Ðavít, bởi vì Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với Ðavít một cách quá đặc biệt. Và Người đã thề hứa sẽ cho nhà Ðavít tồn tại muôn đời.
Hôm nay Chúa sai ngôn sứ của Người đến tuyên bố những điều ấy. Người sẽ ký kết với Dân một giao ước vĩnh cửu như đã hứa cho nhà Ðavít. Chắc chắn không lời nào làm phấn khởi Dân Lưu đày hơn những Lời sấm này. Và ở bất cứ thời đại nào, những lời ấy vẫn còn biểu lộ tình thương mênh mông của Thiên Chúa muốn cứu độ loài người. Có thể nói, Người không muốn cứu chúng ta ra khỏi cơn bĩ cực này hay hoàn cảnh bi đát khác. Như vậy còn là quá ít, chưa xứng đáng với tình yêu và quyền năng của Người. Người muốn ký kết với chúng ta một giao ước vĩnh cửu, một mối tình bất diệt, là căn bản duy nhất và sâu xa hơn cả xây lên hạnh phúc của loài người chúng ta.
Ước gì hôm nay chúng ta hiểu như vậy. Và chúng ta xin với Thiên Chúa một cơ sở hạnh phúc vững vàng như thế. Chúng ta liệu sao giữa Thiên Chúa và chúng ta có được mối quan hệ tình nghĩa mặn mà, thắm thiết. Chúng ta sẽ thấy đó là nguồn hạnh phúc bất diệt cho con người. Và cho được như vậy, chúng ta đã phải đọc bài sách Isaia từ bình diện khả giác sang bình diện tâm linh, từ hình thức bánh rượu sang thực tại giao ước. Chúng ta càng phải làm như vậy hơn nữa khi đọc bài Tin Mừng hôm nay vì muốn thấu đạt một bản văn Tân Ước, chúng ta phải giữ lấy tất cả những tinh hoa của Cựu Ước. Và bây giờ chúng ta đề cập đến bài Tin Mừng. B. Sứ Mạng Và Khả Năng Cứu Thế Của Hội Thánh
Câu truyện Chúa Yêsu hóa bánh ra nhiều lại càng quen thuộc. Câu truyện ấy xảy ra vào hồi Chúa còn tại thế, nhưng soạn giả các sách Tin Mừng đã thuật lại câu truyện cho con cái của mình nghe, không phải chỉ để họ biết truyện về Chúa, nhưng nhất là để câu truyện ấy hướng dẫn và thánh hóa cuộc đời của họ. Không phải Hội Thánh đã thêm thắt ý tưởng riêng của mình vào mạc khải của Chúa; nhưng nhờ ánh sáng Phục sinh và ơn Thánh Thần Hiện xuống, Hội Thánh đọc thấy trong câu truyện Chúa hóa bánh ra nhiều những chân lý phong phú có thể nuôi dưỡng đời sống đức tin của các tín hữu.
Dù sao, trước hết Hội Thánh vẫn nhìn thấy trong câu truyện này việc thực hiện Lời Hứa trong các sách Tiên tri. Isaia đã tuyên sấm sắp đến ngày Thiên Chúa ban bánh rượu nhưng không cho dân lưu lạc. Thì nay Chúa Yêsu đang hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn nhưng không. Và nếu bánh rượu trong Isaia đã được dùng để hướng về giao ước vĩnh cửu, thì bữa ăn trong sa mạc hôm nay cũng phải chiếu dẫn vào bàn tiệc Thánh Thể, nơi Chúa Yêsu sẽ dùng bánh rượu để đổi thành Thịt Máu hầu ký kết giao ước mới và vĩnh cửu. Thế nên chúng ta không lạ gì khi thấy tác giả bài Tin Mừng mô tả các cử chỉ của Chúa Yêsu khi hóa bánh ra nhiều y hệt cách thức Người sẽ làm trong bàn Tiệc ly là: Người cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ...
Như vậy điều Isaia đã tuyên sấm thì nay đang được thực hiện trong việc Chúa Yêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân một cách nhưng không. Và việc này lại báo trước việc Người sẽ làm trong bàn Tiệc ly để mỗi khi tham dự lễ nghi Thánh Thể, chúng ta phải ý thức tình thương cứu thế mênh mông của Thiên Chúa muốn cứu độ loài người. Tình thương này biểu lộ nơi Chúa Yêsu khi Người nhìn thấy quần chúng đông đảo; Người chữa những kẻ bệnh tật trong họ; Người cho họ ăn chứ không giải tán họ đi vào các làng mạc để tự mua thức ăn như các môn đệ muốn làm. Nhưng nhất là tình thương ấy tỏ ra vô tận khi Chúa Yêsu muốn dùng các môn đệ và Hội Thánh để mãi mãi chăm sóc loài người.
Quả thật, đây còn là một dụng ý của tác giả khi thuật lại việc hóa bánh ra nhiều. Các môn đệ của Chúa Yêsu bây giờ không phải là khách bàng quan, đứng ngoài nhìn vào đám đông với Chúa Yêsu mà không muốn can thiệp vào. Trái lại, thấy trời đã về chiều, các ông đến thưa Người: Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn. Các ông tỏ ra có lòng săn sóc đến quần chúng. Chỉ có điều các ông không ý thức đủ quyền năng của Chúa. Các ông có cái nhìn của những con người tổ chức. Nhiều khi những tông đồ ở trong Hội Thánh cũng làm y như vậy. Họ thương người nhưng mới chỉ có cái nhìn nhân loại. Tuy nhiên phải công nhận hôm ấy các môn đệ của Chúa có lòng thương dân thật sự. Không những thương dân nên có cái nhìn quán xuyến công việc, muốn để họ đi vào làng mạc mà mua thức ăn; mà còn tỏ ra hết lòng thương họ khi sẵn sàng trao tất cả 5 chiếc bánh và 2 con cá cho Chúa Yêsu lúc Người vừa ngỏ ý bảo chính các ông phải cho dân chúng ăn. Các ông không sợ mất hết phần của mình. Nhiều tông đồ trong Hội Thánh ngày nay phải học để có thêm tinh thần xả kỷ như các môn đệ đầu tiên của Chúa Yêsu. Chắc chắn Người đã thỏa mãn về thái độ của các ông. Người nhận lấy gia tài 5 cái bánh và 2 con cá của môn đệ. Qua bàn tay tạ ơn của Người, những của bé mọn này lại được trao lại cho các môn đệ để họ phân phát cho người ta. Lạ lùng thay, 5 cái bánh và 2 con cá đã nuôi no hơn 5,000 người, và còn lượm lại được 12 thúng đầy những mảnh vụn, chắc chắn là để trao lại cho 12 môn đệ, để trong tay những ông này luôn luôn còn có lương thực mà Thiên Chúa muốn dùng để dưỡng nuôi tinh thần của các xã hội loài người.
Như vậy rõ ràng thái độ của Chúa Yêsu đối với các môn đệ trong câu truyện này muốn gieo vào tâm hồn chúng ta lòng tín nhiệm vào các môn đệ và Hội Thánh. Ðó là những người có bản chất yêu thương quần chúng, sẵn sàng trao ban tất cả những gì mình có cho hạnh phúc của loài người. Nhưng điều quý hóa ở nơi họ và trong Hội Thánh bấy giờ, là khả năng mà Thiên Chúa ban để từ nay, Hội Thánh và các Tông đồ có thể nuôi dưỡng người ta bằng tình thương của Chúa. Chúa đã trao quyền biến đổi bánh rượu cho Hội Thánh, để Hội Thánh luôn luôn có thể trao ban chính tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho loài người. Chúng ta hãy tin tưởng vào Hội Thánh. Chúng ta hãy đến với Hội Thánh. Nơi Hội Thánh luôn luôn có Chúa đầy tình yêu thương cứu vớt mọi người. Hiểu về Thiên Chúa và Hội Thánh như vậy, chúng ta có thể coi những lời thơ Phaolô hôm nay như của mình. C. Một Niềm Tin Bất Khuất
Thật vậy, nếu chúng ta đã suy nghĩ về tình yêu của Thiên Chúa qua bài sách Isaia và bài Tin Mừng, chúng ta phải thấy Người yêu thương Dân Người và loài người chúng ta quá chừng! Người không bỏ rơi Dân trong cảnh lầm than tuyệt vọng. Ngược lại hoàn cảnh cơ cực của dân càng làm nổi bật tình yêu lớn lao của Thiên Chúa. Và tình yêu này thật sâu xa, vì ơn cứu độ Người gửi đến cho dân không phải chỉ là sự giải phóng dân khỏi cảnh lưu đày; nhưng còn ký kết với Dân một giao ước mới và vĩnh cửu như Người đã hứa với Ðavít. Người thể hiện việc này khi Ðức Yêsu Kitô ở bàn Tiệc ly đã cầm lấy bánh rượu và nói: Ðây là Chén Máu Ta, Máu Tân Ước vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta về bàn tiệc Thánh Thể ấy, để chúng ta thấy tình thương của Thiên Chúa không thể làm gì cho chúng ta hơn nữa khi Người đã sai Con của Người xuống thế và Chúa Con đã trao ban Thịt Máu Người để chịu chết xóa tội cho chúng ta. Chính vì nghĩ đến điều đó mà Thánh Phaolô hôm nay không thể cầm lòng được nữa. Người thốt ra những tâm tình chân thật này trong bài thư hôm nay: Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô Chúa chúng ta! Bởi vì Chúa đã yêu thương chúng ta đến như thế, thì dù gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy và cho đến gươm giáo cũng chẳng có thể lay chuyển lòng chúng ta tách khỏi Chúa. Thánh Tông đồ đã chịu tất cả những khổ sở trên, như người đã kể trong nhiều thư về cuộc đời của người. Có thể người đã kể ra hết những điều đó để gợi lên những thử thách lớn lao vào thời sau hết như các tác giả thường nói. Người nhắc lại cả một câu thánh vịnh thường được dùng để nhắc đến hoàn cảnh kinh khủng của thời Epiphane bắt đạo như sách Macabê kể. "Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta". Bởi vì chính tình yêu bất khuất của Người khiến chúng ta không chịu thua; và nhất là bởi vì chính trong những lúc chúng ta yếu đuối như thế, tình yêu của Người mới thi thố sức mạnh phi thường của bản tính Thiên Chúa. Như vậy điều cốt yếu là phải tin vào tình yêu của Thiên Chúa.
Bài sách Isaia và bài Tin Mừng hôm nay khuyến khích chúng ta suy nghĩ về tình yêu này. Và Thánh Thể mà chúng ta cử hành giờ đây là chứng từ hùng hồn. Chúng ta ý thức về ý nghĩa của Thánh Thể bao nhiêu, chúng ta càng thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta một cách chân thực và sâu xa bấy nhiêu. Lên rước lấy Mình Thánh Người, chúng ta sẽ đón nhận lấy tất cả tình yêu của Người đối với chúng ta. Chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô: Không có ai và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa nữa. Cho nên dù có gì xảy đến cho chúng ta trong những ngày này, vui hay buồn, cám dỗ hay thử thách, chúng ta nhớ đến tình yêu của Chúa và chúng ta cương quyết sẽ bất khuất sống xứng đáng với tình yêu của Người, để đời sống chúng ta không những không tội lỗi mà còn có nhiều đóng góp xây dựng hạnh phúc cho mọi người như các môn đệ, như Hội Thánh và như chính Thiên Chúa và Chúa Yêsu Kitô theo như chúng ta được biết qua các bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Bao nhiêu thách đố đã vùi dập con người. Nhưng cũng có bao nhiêu con người vượt qua thách đố: TN18-A90
Bao nhiêu thách đố đã vùi dập con người. Nhưng cũng có bao nhiêu con người vượt qua thách đố. Tại sao ? Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy trong tình yêu Thiên Chúa.
NỀN TẢNG CUỘC SỐNG
Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu đứng trước hai thách đố. Thách đố thứ nhất là “tin ông Gioan Tẩy Giả chết.” (Mt 14:13) Đây là một biến cố báo trước thân phận Đức Giêsu. Trước những đe dọa mạng sống ngôn sứ, Đức Giêsu “xuống thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt” (Mt 14:13) để củng cố niềm tin vào tình yêu Chúa Cha. Cái chết thật rùng rợn. Nhưng tình yêu Thiên Chúa còn mạnh hơn sự chết. Nhờ đó, Đức Giêsu đã vượt qua mọi thách đố và trở thành nền tảng vững chắc cho mọi Kitô hữu, đến nỗi thánh Phaolô dám quả quyết : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ?” (Rm 8:35) Từ nền tảng tình yêu vững chắc đó, thánh nhân đầy tin tưởng : “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8:37) Đức Giêsu đã trở thành sức mạnh áp đảo mọi kẻ thù.
Thách đố thứ hai chính là cảnh dân chúng say mê nghe lời Chúa, đến nỗi quên cả ăn uống. Thấy cảnh tượng ấy, “các môn đệ lại gần thưa với Người : ‘Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” (Mt 14:15) Các môn đệ muốn kéo Thầy trở về thực tế. Nếu không, chắc chắn sẽ chứng kiến một thách đố lớn lao. Thay vì tung hô, đám đông có thể quay ra đả đảo thày trò. Các môn đệ có vẻ nhìn xa trông rộng hơn Thày. Nhưng biết một mà không biết hai. Kiểu lo xa đó hướng cái nhìn của họ vào thực tế chung quanh, nhưng lại bỏ quên mất Thày là trung tâm cuộc sống. Thầy vội trấn an: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” (Mt 14:16) Thái độ thật bình tĩnh. Một nhà lãnh đạo không thể lo lắng thái quá trước cảnh tượng như vậy. Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ một đức tính cần thiết cho người lãnh đạo.
Tất cả việc Đức Giêsu làm cho dân chúng đều chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa lãnh đạo dân tộc trên đường về Nước Chúa. Đến lúc ngắm nhìn cảnh “năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14:21) “đều ăn và được no nê,” (Mt 14:20) các môn đệ mới kinh ngạc trước quyền năng vô biên của Thầy. Quyền năng đó phát xuất từ tấm lòng cảm thương trời bể, khi “Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo.” (Mt 14:15) Lòng cảm thông chan hòa khi Người “chữa lành các bệnh nhân của họ.” (Mt 14:14) Khác hẳn các nhà lãnh đạo trần gian, Đức Giêsu đã chăm sóc dân chúng đến nơi đến chốn. Cách Người lo lắng cho những kẻ theo Người cũng không giống với các môn đệ. Chỉ có một tấm lòng và một quyền năng như Thiên Chúa mới có thể chăm sóc dân chúng quá lòng họ mong đợi. Từ tình trạng đói lả đến cảnh ăn uống phủ phê, dân chúng mới thấy chỉ cần một chút hồng ân cũng làm cho người ta dư dật. Thực vậy, sau khi ăn no, “người ta thu lại được mười hai giỏ đầy những mẩu bánh còn thừa” (Mt 14:20)
Nếu tin tưởng tuyệt đối nơi Đức Giêsu, người ta còn chứng kiến một phép lạ lớn lao hơn. Không những có thể nuôi sống dân chúng về thể xác, Đức Giêsu còn có thể lấy chính thân mình làm cho muôn dân thỏa mãn khát vọng về mặt thiêng liêng. Thế nên, từ niềm tin sâu xa và sống động nơi Đức Giêsu, Kitô hữu sẽ đọc được nơi phép lạ hóa bánh một dấu chỉ về bí tích Thánh Thể. Quả thực, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới có thể biến đổi bánh rượu nên Mình Máu Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới có thể săn sóc toàn diện đời sống dân chúng, cả Do thái lẫn dân ngoại, cả đời này lẫn đời sau. “Nếu việc nuôi sống dân chúng báo truơcù tiệc Thánh Thể, thì tiệc Thánh Thể cũng tiên báo bữa tiệc thiên sai trong Nước Chúa.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:658) Trong đó, mọi người “sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị” (Is 55:2) vì Thiên Chúa hoàn thành “giao ước vĩnh cửu” (Is 55:3) với muôn dân qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
LỰA CHỌN DỨT KHOÁT Giống như đoàn người đông đảo theo Đức Giêsu ngày xưa, 800.000 bạn trẻ đã say mê nghe lời ĐGH Gioan Phaolô II. Họ thức suốt đêm tại Quảng trường Downsview, Canada. Mặc mưa to gió lớn, họ vẫn nhất quyết tham dự thánh lễ với ĐGH (Zenit 28/07/02) Nhìn thấy cả biển người trẻ trước mặt, ĐGH Gioan Phaolô đã nói : “Dù chỉ một đốm lửa cũng có thể làm cho cả đêm đen nặng nề bừng dậy. Bao nhiêu ngọn lửa sẽ cùng đốt lên, nếu các bạn liên kết trong tình hiệp thông với Giáo Hội ! Nếu các bạn yêu mến Đức Giêsu, yêu mến Giáo Hội ! Mặc dù đã sống qua những đêm tăm tối, dưới những chế độ độc tài khắc nghiệt, cha đã có đủ bằng chứng để xác tín mãnh liệt rằng không có một khó khăn nào, một sợ hãi lớn lao nào có thể dập tắt hoàn toàn niềm hi vọng đã bừng lên trong tâm hồn các bạn trẻ. Đừng để niềm hi vọng phải chết. Hãy liều mạng để đạt niềm hi vọng đó ! Chúng ta không phải là một tổng hợp những yếu đuối và thất bại; chúng ta là tổng hợp của tình yêu Chúa Cha đối với chúng ta và khả năng thực sự trở thành hình ảnh Con Chúa.” (Zenit 28/07/02)
Một cuộc sống mới cũng vừa bừng lên nơi tâm hồn các bạn trẻ Canada sau ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Toronto năm 2002. Khởi đầu với con số bạn trẻ trên dưới 200.000. Ngày bế mạc, đã lên tới 800.000. Sau một tuần lễ sinh hoạt với ĐGH, chính TGM Marcel André đã thú nhận Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là “một cuộc cách mạng thực sự” đối với mục vụ giơí trẻ tại Canada (Zenit 29/07/02). Không có một phép lạ hóa bánh nào. Nhưng phép lạ đó là từ tình trạng ù lì, “các bạn trẻ Canada giờ đây muốn tham dự vào việc phục vụ thực sự trong Giáo Hội.” (Zenit 29/07/02) TGM Gervais tiếp lời : “Bây giờ, các bạn trẻ biết rằng có thể phục vụï và các bạn muốn nhiệt tình tham gia. Họ đang có mặt tại đây và họ muốn làm những gì Đức Kitô đòi hỏi.” (Zenit 29/07/02)
Sức sống vẫn bừng lên trong Giáo Hội như đã bừng lên nơi đám đông theo Đức Giêsu. Muốn cho mọi người thấy sức sống đặc biệt của Giáo Hội, Đức Thánh Cha đã đối chọi hai biến cố chính mới xảy ra : Năm thánh 2000 đã giúp khám phá lòng đạo nhiệt thành, và biến cố khủng bố 11 tháng 9 lại là một việc thù hận. Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ rằng hai biến cố này làm thành hai thái cực của hành vi con người, và các bạn trẻ phải chọn giữa khuynh hướng sống tha hóa và cơ giới dẫn tới “văn hóa sự chết” và xác tín Kitô giáo sinh ra sự sống. Những người lãnh đạo thiên niên kỷ mới sẽ trực diện với việc lựa chọn đó. Đức Thánh Cha nhấn mạnh : “Vấn đề vẫn còn đó, chúng ta nên xây dựng sự sống và đời sống cộng đoàn chúng ta trên những nền tảng nào, những mấu cứ nào ?” (CWNews 29/07/2002)
Chắc chắn Kitô hữu đã có câu trả lời khi xác tín vào tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể trả lời hay hơn thánh Phaolô, đấng đã từng xác quyết : “Đối với tôi, sống là Đức Kitô.” (Pl 1:21) Lý do vì “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Nhưng hiện nay nhiều con đường đang bị tắc nghẽn vì không còn dẫn các tâm hồn đến với Đức Giêsu nữa. Chẳng hạn, nhiều nhóm Tin Lành và các giáo phái tôn giáo đã thu hút được 30 phần trăm dân sôá Guatelama trong suốt 30 năm qua. Guatelama đã trở thành thí điểm cho các nhóm quá khích xâm nhập Nam Mỹ. Tuy nhiên, khác với những tiên đoán quá lạc quan của các giáo phái Tin Lành, Guatelama hiện nay vẫn còn 70 phần trăm theo Công giáo. Nhưng “điều quan trọng nhất bây giờ là cần Công giáo có chất lượng.” (Zenit 30/07/2002) Đó là điều giám mục Fernando C. Gamalero địa phận Escuintla quả quyết. Có lẽ điều đó sẽ thực hiện được sau lễ ĐGH Gioan Phaolô II phong thánh cho Pedro de San José. Phép lạ không phải là bánh và cá cho trên dưới 20,000 người ăn no. Nhưng 700,000 người đầy hứng khởi khi nghe sứ điệp của ĐGH Gioan Phaolô II : “Gia sản của tu sĩ Pedro sẽ là nguồn động lực thúc đẩy các Kitô hữu và tất cả dân chúng muốn biến cải cộng đồng nhân loại thành một đại gia đình, trong đó các tương quan xã hội, chính trị và kinh tế xứng hợp với con người.” (Zenit 30/07/2002)
Nước Trời là đề tài rao giảng của Chúa Giê-su. Sử dụng các dụ ngôn, Người đã cho ta hiểu Nước: TN18-A91
Nước Trời là đề tài rao giảng của Chúa Giê-su. Sử dụng các dụ ngôn, Người đã cho ta hiểu Nước Trời là gì và phải có những điều kiện nào để đón nhận Nước Trời. Tuy nhiên cốt lõi của Nước Trời vẫn là Chúa Giê-su và giáo lý của Người. Giáo lý của Chúa Giê-su là lương thực giúp ta thay đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa”. Lương thực được ban phát nhưng không chứng tỏ tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho ta nơi Đức Ki-tô. Do đó, lãnh nhận lương thực Ki-tô là ta cảm nghiệm được mức độ tình yêu của Thiên Chúa.
1. Lương thực Thiên Chúa ban là hình ảnh báo trước lương thực Nước Trời (bài đọc Cựu Ước – Is 55:1-3)
Qua ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa gửi đến toàn thể nhân loại một lời mời gọi thật đặc biệt, từa tựa như quảng cáo thời nay! Người bảo: các ngươi hãy đến lãnh nhận của ăn của uống đích thực để được sống và sống muôn đời. Ở chợ đời khi quảng cáo, người ta cho không hàng mẫu một lần để ta dùng thử, sau đó nếu thích thì mua. Nhưng Chúa không làm thế. Người nói ta cứ việc đến, đừng lo tiền bạc, mọi sự đều sẵn sàng: nào nước uống, nào rượu, nào sữa. Cứ việc mua mà “không phải trả đồng nào”! Lại nữa, của ăn thức uống Thiên Chúa ban là những thứ thực sự “nuôi sống và làm cho chắc dạ no lòng”. Tóm lại, lương thực Chúa ban là những thứ “cao lương mỹ vị”.
Vậy tất cả những thứ cao lương mỹ vị đó là gì? Đó là: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống” (Is 55:3). Như thế, dân Chúa lãnh nhận lương thực Thiên Chúa ban là họ phải “ăn” bằng tai chứ không phải bằng miệng lưỡi. Hơn thế nữa, họ phải lắng nghe bằng đôi tai tâm hồn, mở lòng để lãnh nhận những điều Chúa nói với họ qua “giao ước vĩnh cửu” mà Người đã hứa ban qua dòng dõi Đa-vít. Giao ước vĩnh cửu này Thiên Chúa sẽ ký kết với nhân loại bằng máu của một người miêu duệ vua Đa-vít. Người miêu duệ ấy không là ai khác ngoài Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời xuống thế làm người và sinh ra từ dòng dõi vua Đa-vít.
Tới đây, ta hiểu rõ được ý của lời Thiên Chúa mời gọi rồi. Người khuyên nhủ ta hãy đến với Người qua Chúa Giê-su Ki-tô, hãy lắng nghe những lời Người dạy bảo qua Chúa Giê-su Ki-tô. Nhưng ta sẽ tìm gặp Chúa Giê-su Ki-tô ở đâu? Ta sẽ đến với Chúa Ki-tô ở trong Nước Trời, đi vào Triều Đại cứu độ của Người để lắng nghe và được sống. Thánh Phê-rô Tông đồ đã xác quyết điều này khi ngài nhân danh các bạn Tông đồ khác và nhân danh các Ki-tô hữu mọi thời mọi nơi để thưa với Chúa Ki-tô rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).
2. Chúa Giê-su Ki-tô là lương thực tình yêu của Thiên Chúa (bài Tin Mừng – Mt 14:13-21)
Nhiều khi ta quá chú tâm vào kết quả của phép lạ Chúa làm cho năm cái bánh và hai con cá hóa nhiều là dân chúng được một bữa ăn no nê, mà quên đi chính Đấng làm phép lạ là ai và động lực khiến Người thực hiện phép lạ ấy. Bánh và cá hóa nhiều là một sự kiện lạ lùng dân chúng đều thấy nên dễ gây chú ý và ngạc nhiên, hoặc khâm phục Chúa Giê-su như một “người làm phép lạ”. Nhưng bởi đâu Chúa đã làm phép lạ ấy, điều này khó nhìn thấy được, do đó thường ta ít để ý tới. Vì thế, trước khi kể lại phép lạ, thánh sử Mát-thêu đã cẩn thận ghi chú điều này: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14:14).
Ghi chú này muốn nhắc nhở ta phải biết Chúa Giê-su là Đấng nào và tại sao Người làm phép lạ. Trước hết cái thuyền đã trở thành “giảng đài” của Chúa Giê-su. Người ngồi dưới thuyền, dân chúng ở trên bờ và cao hơn mặt thuyền. Đây là “kỹ thuật âm thanh” tự nhiên khi loài người chưa phát minh ra máy phóng thanh, như ta thường thấy tại những kiến trúc hý trường thuở xưa. Chúa Giê-su không chỉ mải mê giảng thuyết, nhưng Người còn lưu ý tới những nhu cầu khác của con người. Người đã “trông thấy” những đau khổ vất vả của họ, Người cảm nhận cùng một cái đói khát, mệt nhọc và bệnh tật của họ. Cho nên Người đã “ra khỏi thuyền”, bước xuống “giảng đài” để đến với đồng bào của Người. Nhu cầu hiện tại của đám dân chúng đi theo Chúa Giê-su là đói khát. Các môn đệ Chúa đề nghị cách giải quyết khó khăn không tốn công tốn sức của Chúa và các ông, nghĩa là giải tán dân chúng và bảo họ tự lo liệu lấy. Cũng là một cách “chạnh lòng thương”, nhưng trong một giới hạn quá nhỏ bé! Chúa Giê-su lại giải quyết cách khác. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Đây mới là cách “chạnh lòng thương” đích thực. Mà vì là lòng thương đích thực có mãnh lực lan rộng nên chỉ năm cái bánh và hai con cá thôi cũng đủ để nuôi một đám đông “chừng năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em”. Hình ảnh bánh và cá hóa nhiều nói lên mức độ chạnh lòng thương của Chúa Giê-su. Hơn năm ngàn người, chứ tất cả nhân loại này cũng còn được dư đầy lòng thương của Người. Bởi thế, Người không chết để chuộc tội một số người như lạc thuyết Jansenius chủ trương, mà là toàn thể nhân loại. Bỗng chốc bãi cỏ bên bờ Biển Hồ đã trở thành một bữa tiệc, là hình ảnh nói lên bàn tiệc Nước Trời. Chủ đãi tiệc là Chúa Giê-su, Đấng có lời ban sự sống đời đời và Đấng “giàu lòng thương xót của Thiên Chúa”. Người biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa qua phép lạ bánh và cá hóa nhiều. Phép lạ là dấu chỉ, như thánh Gio-an thường sử dụng từ này. Quan trọng hơn, đó là điều phép lạ muốn nói lên. Vậy phép lạ này muốn nói với ta rằng tình yêu Thiên Chúa dành cho ta qua Chúa Ki-tô bao la phong phú vô cùng, tựa như bánh và cá hóa nhiều không bao giờ vơi. Kho tàng tình yêu Thiên Chúa được tích trữ nơi Chúa Ki-tô và hiện diện trong Nước Trời. Do đó, nếu ta muốn tìm kiếm lương thực thường tồn là tình yêu, thì ta “hãy đến và lắng tai nghe Người” và ta sẽ được sống.
3. Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Rm 8:35.37-39)
Chúa Giê-su là tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ. Suy niệm về tình yêu này, thánh Phao-lô có một lối hùng biện hết sức độc đáo. Trước hết ngài đặt vấn đề bằng những câu hỏi và đưa ra những thí dụ cụ thể. Câu hỏi là: Điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Thí dụ là: Gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Tiếp đến, câu trả lời là: Không, bởi vì “nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta”, chúng ta toàn thắng được tất cả những điều kể trên. Sau đó, ngài mới chia sẻ niềm tin vững chắc của chính ngài vào tình yêu của Đức Ki-tô.
Lý luận rõ ràng, vì đây không phải là lý luận bằng trí óc, nhưng lý luận của con tim xác tín. Thánh Phao-lô tin chắc rằng tình yêu Chúa Ki-tô yêu ngài là tình yêu vững bền, trung thành, vô biên và vĩnh cửu. Ngài hoàn toàn tín thác vào tình yêu ấy nên ngài cứ an nhiên tự tại, bất chấp mọi khó khăn, cứ rao giảng Tin Mừng và làm mọi sự có thể, “miễn là Đức Ki-tô được rao giảng là tôi mừng rồi” (Pl 1:18). Tình yêu của Chúa Ki-tô làm cho thánh Phao-lô điên lên được! Nó thôi thúc ngài, không để cho ngài được yên (2 Cr 5:14), mà phải lên đường rao giảng Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh thập giá. Đây là một chứng từ hùng hồn về tình yêu Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô đã hãnh diện tuyên xưng tình yêu Chúa Ki-tô đến nỗi sống hay chết đối với ngài chắng có ý nghĩa gì nếu không có tình yêu Chúa Ki-tô. Chính ngài đã cảm nghiệm được tình yêu Chúa Ki-tô yêu ngài như thế nào và ngài muốn chia sẻ cảm nghiệm ấy. Sau hết ngài còn cầu xin Chúa Cha giúp cho mọi người đều cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô. “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha…nguyện xin Chúa Cha cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộn cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3:14-19). Ước chi lời cầu nguyện này được thể hiện nơi mỗi người Ki-tô hữu chúng ta!
4. Sống Lời Chúa
Khi sinh ra làm người, Chúa Giê-su đã được đặt trong máng cỏ. Đó là hình ảnh Người trở nên lương thực cho các con chiên được dưỡng nuôi. Đức Ki-tô là lương thực đặt trong máng cỏ Nước Trời và Thiên Chúa mời gọi ta hãy đến mà lãnh nhận lương thực ấy. Ta được lớn lên nhờ tình yêu Chúa Ki-tô. Ăn thứ lương thực nào, ta sẽ trở nên giống như lương thực ấy. Lời giảng và gương sống của Chúa Ki-tô sẽ biến đổi ta mỗi ngày trở nên giống như Người. Hơn nữa, quá khứ, hiện tại và tương lai của ta hoàn toàn tùy thuộc vào tình yêu ấy và “không gì có thể tách ta ra khỏi tình yêu của Người.
Suy nghĩ: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Vậy nếu có, thì đó là những điều gì tôi đang làm khiến cho tôi tự tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Tôi phải làm gì để nối lại mối yêu thương với Người?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và cũng là tình yêu bất tận, xin dủ lòng thương xót chúng con là con cái Chúa mà giúp chúng con thoát cảnh ngặt nghèo. Xin củng cố lòng tin của chúng con để chúng con không bao giờ ngờ vực rằng Chúa thực là Cha nhân hiền luôn hết tình yêu mến đoàn con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ ngoại lịch Cầu cho mọi nhu cầu)
Hãy yêu thương và chủ động làm những gì tình yêu đòi hỏi
ĐỌC LỜI CHÚA
Is 55,1-3: (2) Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?
Rm 8,35-37: (37) Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
TIN MỪNG: Mt 14,13-21
Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất
(13) Nghe tin ấy, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. (14) Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
(15) Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: «Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn». (16) Đức Giêsu bảo: «Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn». (17) Các ông đáp: «Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!» (18) Người bảo: «Đem lại đây cho Thầy!» (19) Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. (20) Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. (21) Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Khi ta đang cần nghỉ ngơi, cần cầu nguyện, mà có ai đó cần đến ta, ta sẽ hành xử thế nào?: TN18-A92
1. Khi ta đang cần nghỉ ngơi, cần cầu nguyện, mà có ai đó cần đến ta, ta sẽ hành xử thế nào?
2. Đức Giêsu yêu cầu chính các tông đồ phải lo cho dân chúng ăn, điều đó có ý nghĩa gì?
3. Tại sao Ngài không làm phép lạ hóa bánh và cá từ không ra có, mà lại phải biến bánh và cá do các môn đệ kiếm được từ ít ra nhiều?
4. Trong công việc của Chúa, phần cộng tác của ta quả thật quá nhỏ bé, mọi việc chủ yếu là nhờ Chúa, do Chúa. Nhưng nếu không có phần cộng tác của ta, của con người, thì việc của Ngài ở trần gian có thành tựu không?
Suy tư gợi ý:
1. Dù mệt nhọc, cần nghỉ ngơi, Ngài vẫn đón tiếp dân chúng
Sau khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrốt chém đầu (x. Mt Mt 14,3-12), chắc chắn Đức Giêsu hết sức xúc động, ngậm ngùi thương tiếc người đã từng nhiệt thành làm tiền hô cho mình. Đoạn Tin Mừng Mt 14,13-21 cho biết lúc ấy Ngài «đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt», vì Ngài có nhu cầu ở một mình để tưởng niệm người quá cố, đồng thời để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nhưng không ngờ dân chúng lại tìm đến Ngài rất đông. Tin Mừng cho biết: «Trông thấy đoàn người đông đảo thì Ngài chạnh lòng thương». «Chạnh lòng thương» là phản ứng của người có lòng trắc ẩn, hay thương xót, thông cảm với những nhu cầu, với những hoàn cảnh éo le, đau khổ của tha nhân. Vì thế, mặc dù chính Ngài đang cần nghỉ ngơi, cần ở một mình, nhưng Ngài đã quên nhu cầu của mình mà chỉ nghĩ đến nhu cầu của dân chúng. Ngài đã đón tiếp họ và «chữa lành các bệnh nhân của họ».
Trong cuộc sống đời thường, ta cũng gặp rất nhiều trường hợp tương tự như Ngài: đang khi cần yên tĩnh nghỉ ngơi sau cả một ngày làm việc mệt nhọc, hoặc khi đang nghỉ ngơi thì có người gọi điện thoại hoặc đến tận nhà nhờ vả ta một điều gì cần thiết. Lúc đó ta phản ứng thế nào? Có thể ta nghĩ rằng: «Mình phải nghỉ ngơi cái đã, vì có nghỉ ngơi thì mới làm việc được. Vả lại mình còn biết bao việc khác phải làm nữa. Phải yêu cầu người ta chờ mình nghỉ ngơi đã!»? Hay ta nghĩ rằng: «Người ta cần mình ngay bây giờ nên mới đến vào giờ này. Nếu không giúp họ giờ này thì có thể không còn cơ hội nào giúp họ nữa và công việc của họ sẽ bị lỡ. Thôi mình ráng hy sinh cho họ một chút, mình có thể nghỉ ngơi bù vào lúc khác cũng được mà!»? Phải công nhận nghĩ và làm được như thế là việc rất khó, đòi hỏi nhiều tình yêu và lòng bao dung. Trong quá khứ, một vài lần vì mệt mỏi sau cả ngày làm việc, tôi đã từ chối giúp đỡ một vài người, nay tôi rất hối hận và tự hỏi: không biết người ta bị kẹt đến thế nào khi mình không giúp họ, và họ buồn thế nào vì việc ấy? Tôi thấy mình đã không giống Đức Giêsu Thầy của mình bao nhiêu, vì mình ít tình yêu quá! Tình yêu mình không đủ mạnh để có thể ráng hy sinh cho tha nhân khi họ cần, dẫu mình đã mệt!
2. Người tông đồ phải có tình thương trong lòng trước đã
Ở những vùng dân chúng rất nghèo – như những vùng truyền giáo cho các dân tộc thiểu số – giáo dân phải đi thật xa hàng mấy chục cây số mới đến được nhà thờ để dâng thánh lễ và học hỏi giáo lý. Nhiều vị chủ chăn đã lo cho họ ăn uống cả hàng trăm người trước khi họ ra về (khi thì cơm, khi bánh mì, khi thì mì ăn liền…). Để thực hiện việc này, tháng nào vị linh mục cũng phải đi hàng chục hay hàng trăm cây số đến gõ cửa những nhà hảo tâm quen biết hoặc được giới thiệu để «ăn mày» dùm cho họ. Thật là một hình ảnh rất đẹp về người chủ chăn! Các vị đã thực hiện lời Đức Giêsu: «Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn».
Khi nói câu ấy, Đức Giêsu muốn gây ý thức nơi các tông đồ về tình yêu thương, sự quan tâm mà một mục tử phải có đối với dân chúng. Mặc dù mục đích của người tông đồ là loan báo Tin Mừng chứ không phải là lo chuyện vật chất cho dân chúng. Nhưng khi ta biết dân chúng có nhu cầu nào đó, ta nên thể hiện tình yêu thương của ta đối với họ bằng cách giúp họ nhu cầu ấy. Dân chúng có yêu thương mình, lời mình rao giảng mới thấm vào lòng họ. Dân chúng có cảm thấy mình yêu thương họ, họ mới hứng khởi thực hiện những điều mình dạy dỗ. Dân chúng bị hấp dẫn đến với Đức Giêsu không chỉ vì Ngài dạy dỗ họ những điều hay lẽ phải cho bằng vì họ cảm thấy Ngài yêu thương họ, vì Ngài quan tâm săn sóc họ, vì Ngài chữa bệnh cho họ, giúp họ giải quyết những khó khăn trong đời sống họ…
Kitô giáo là đạo của tình thương, lấy tình yêu thương làm bản chất của đạo (x. Ga 13,34-35), nên những người rao giảng đạo này phải là người có dồi dào tình thương hơn mọi người, và tình yêu thương ấy phải được chứng tỏ bằng hành động. Truyền đạo không phải chỉ là cung cấp cho người ta có một số kiến thức về Thiên Chúa, về Đức Giêsu hay về Lời của Ngài, mà là làm cho họ trở thành môn đệ Ngài, theo Chúa, và sống giới luật yêu thương của Ngài. Chính mình không sống tinh thần yêu thương này, làm sao mình có thể truyền tinh thần yêu thương này cho người khác được?
3. Hãy chủ động phần việc của mình trước đã…
Khi yêu cầu các môn đệ hãy tự mình lo cho họ ăn, Đức Giêsu đã thừa biết khả năng hạn hẹp của các ông, và Ngài cũng đã biết mình phải làm gì. Với quyền năng của Ngài, Ngài có thể biến không khí thành bánh và cá nuôi đám dân chúng, không cần đến 5 chiếc bánh và 2 con cá mà các ông tìm được trong dân chúng. Nhưng Ngài không muốn đơn phương làm như vậy, Ngài muốn có sự góp phần của mọi người. Trước tiên, Ngài muốn chính các tông đồ phải có tình thương, có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng và thật sự muốn lo cho họ. Ngài nói: «Chính anh em hãy cho họ ăn».
Các tông đồ quả có nhận ra nhu cầu của dân chúng, nhưng tình yêu của các ông đối với dân chúng chưa mạnh đủ để có thể lóe lên sáng kiến hay thúc đẩy các ông tìm cách nào nuôi dân chúng. Vì thế, ngay từ đầu các ông đã nghĩ mình bất lực không thể giúp gì họ được, và các ông đề nghị giải tán dân chúng. Nếu các ông có nhiều tình yêu hơn, các ông sẽ nghĩ ra được mình nên làm gì. Chẳng hạn các ông có thể nói với Đức Giêsu: «Bây giờ chúng ta phải lo cho họ ăn, chúng con chưa biết làm cách nào, nhưng chúng con biết Thầy có cách». Nói như thế, các ông vừa tỏ ra tình yêu và ý thức trách nhiệm của mình, vừa tỏ ra tin tưởng vào quyền năng của Thầy mình.
Trong cuộc đời, rất nhiều khi có những việc nào đó ta nên làm hay phải làm nhưng không làm được chỉ vì ta không đủ tình yêu, không đủ nhiệt thành và lòng hăng say. Thiếu yếu tố quan trọng này, ta thường bi quan yếm thế cho rằng mình không thể thực hiện được. Trong một trận chiến, chưa xuất quân mà ta đã nghĩ rằng mình sẽ thua thì quả thật ta đã thua ngay từ đầu ngay trong tư tưởng của mình rồi. Nguyễn Bá học nói: «Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông». Nhiều việc tốt ta không làm được, không phải vì nó khó hay vì nó không thể làm được, mà vì ta không đủ tình yêu để làm, vì ta đã đầu hàng nó ngay từ trong tư tưởng của ta.
Người Kitô hữu không nên sợ mình không làm được, vì ta luôn luôn có một sức mạnh ở ngay trong bản thân mình, đó là quyền năng của Thiên Chúa. Nếu ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, ta sẽ làm được nhiều việc mà mọi người đều nghĩ rằng ta không thể. Vì «không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được» (Lc 1,37). Vì «tôi có thể làm được tất cả nhờ quyền năng của Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Vì «nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì (…) sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Tại sao có những vị thánh đã làm được rất nhiều phép lạ? Chính vì các ngài có rất nhiều tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, và vì các ngài tin tưởng vững chắc vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng luôn hỗ trợ cho mình. Tình yêu thúc đẩy các ngài hành động, và lòng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa khiến hành động của các ngài đi đến thành công.
Người đời vẫn nói: «Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên». Qua bài Tin Mừng về Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều này, ta thấy Ngài muốn các tông đồ, tức con người, phải mưu sự trước, và Ngài chỉ là người giúp cho mưu sự ấy thành công. Các nhà tu đức vẫn nói: «nỗ lực rồi cậy trông», nghĩa là chúng ta phải chủ động nỗ lực trước đã, dù nỗ lực ấy chỉ là yếu tố rất nhỏ (chỉ 1%) để thành tựu và phần chủ yếu (có đến 99%) là do Ngài, nhưng nếu không có phần nỗ lực rất nhỏ khởi đầu của ta thì không có sự việc gì thành tựu. Thánh ý Ngài là muốn có phần chủ động cộng tác của ta. Cho dù ngay cả việc chủ động của ta cũng do Thánh Thần Ngài thúc đẩy, vẫn phải luôn có phần của ta, vì nếu thiếu nó, Thiên Chúa cũng không còn muốn làm phần của Ngài nữa!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha luôn muốn phát triển tình yêu thương trong lòng con người. Cha muốn mọi điều tốt được thực hiện trên đời này là do sáng kiến của con người, bắt nguồn từ tình yêu thương của họ. Cha rất sung sướng được cộng tác với những công việc tốt đẹp mà chính họ sáng kiến và quyết tâm thực hiện, cho dù sự thành tựu là do Cha tới 99%. Nhưng Cha vẫn muốn phải có 1% công lao của con người, mà thiếu nó thì chính Cha cũng không muốn thực hiện 99% còn lại kia. Xin Cha giúp con ý thức điều đó, để con tập sáng kiến và chủ động trong những việc tốt lành mà với sự cộng tác của Cha, con có thể làm được cho tha nhân, cho thế giới. Joan Nguyễn Chính Kết
Câu truyện Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều trong Tin Mừng luôn được hiểu theo bối cảnh câu : TN18-A93
Câu truyện Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều trong Tin Mừng luôn được hiểu theo bối cảnh câu truyện Chúa ban man-na cho dân Do-thái trong hoang địa. Mỗi thánh sử trình bày câu truyện theo cái nhìn thần học của mình. Thánh sử Gio-an muốn diễn tả man-na là hình bóng chỉ Chúa Giê-su là Man-na Mới và là Thánh Thể nuôi dưỡng dân Chúa trong Giáo Hội. Còn thánh Mát-thêu thì trình bày Chúa Giê-su là Mô-sê Mới dẫn dắt đoàn chiên Giáo Hội đi qua hoang địa để tiến về quê hương đích thực. Ta có thể đọc một số chi tiết được thánh Mát-thêu kể ra trước khi thuật lại phép lạ này để cảm nghiệm được lòng yêu thương chăm sóc của vị Mục Tử nhân lành đối với đàn chiên của Người. a) “Đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người” Trong mấy Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng trích những dụ ngôn Chúa Giê-su giảng để trình bày Nước Trời là gì và phải đi tìm Nước Trời như thế nào. Nhưng câu truyện Tin Mừng hôm nay không phải là bài giảng nữa, mà là một thực tại cho ta thấy một đoàn người lũ lượt đi tìm kiếm Chúa Giê-su. Lòng khao khát tìm gặp Chúa nơi họ đã được diễn tả thật sống động bằng hình ảnh. Nào là đám đông “từ các thành” ra đi kiếm Chúa Giê-su. Lòng khao khát ấy cũng giúp họ có những sáng kiến để làm sao nhanh chóng tìm được Người. Chúa Giê-su và các môn đệ đi thuyền băng qua hồ mà sang bờ bên kia. Còn dân chúng thì kéo nhau “đi bộ” dọc theo bờ hồ để đến nơi Chúa sẽ tới. Mặt hồ quang đãng nên họ có thể nhìn thấy Chúa sẽ ghé nơi nào. Vì khao khát gặp Chúa, nên đường bộ tuy xa hơn nhưng cũng không làm cho họ ngại nhọc nhằn, miễn là đến được với Người. Nhưng tại sao dân chúng lại khao khát đi tìm Chúa như vậy?
Mô tả khung cảnh dân chúng đi tìm Chúa, thánh Mát-thêu muốn ta nhớ lại hình ảnh ông Mô-sê dẫn dân Do-thái đi trong hoang địa để tiến dần về Đất Hứa. Ông Mô-sê chỉ là người lãnh đạo, đưa dân chúng đến với Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su không những là vị lãnh đạo, mà đồng thời còn là chính Thiên Chúa, Đấng nhân loại khao khát mong tìm gặp cho được. Cuộc sống trong hoang địa đầy thử thách cho dân Do-thái; cũng thế, cuộc sống của Giáo Hội Chúa Ki-tô không tránh khỏi những gian nan bách hại, được ám chỉ qua câu truyện Chúa Giê-su bị bạc đãi tại quê nhà Na-da-rét và ông Gio-an Tẩy giả bị chém đầu (Mt 13:53-14:12). Trước hoàn cảnh khó khăn, ông Mô-sê phải chạy đến Thiên Chúa, xin Người cứu giúp dân tộc của ông. Còn tác phong của Chúa Giê-su thì khác hẳn. “Đức Giê-su trông thấy một đám người đông đúc thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ”. Đúng là trái tim bằng thịt của Thiên Chúa đầy tràn tình thương đối với con cái, như Mục Tử nhân lành đối với đàn chiên. b) “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” Dân chúng đến với Chúa Giê-su vì Người là nguồn sống của họ. Như thế, khẳng định của Chúa Giê-su khi Người nói với các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả” mang một ý nghĩa vô cùng cảm động và đầy ủi an. Ta còn nhớ có lần ông Phê-rô đã nói lên vai trò của Chúa đối với cuộc đời ông và các bạn: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Nhưng ở đây, khi quả quyết với các môn đệ rằng dân chúng không cần đi đâu cả, Chúa Giê-su muốn cho các ông thấy Người có những lời ban sự sống, không những sự sống đời đời mà cả sự sống thể xác nữa.
Đọc kỹ mấy câu đối đáp giữa Chúa Giê-su và môn đệ, ta còn rút được những bài học ý nghĩa hết sức phong phú. Đứng trước hoàn cảnh dân chúng mệt nhọc và đói lả, các môn đệ đã biết quan tâm lo lắng cho người khác. Chắc chắn sau một thời gian đi theo và quan sát lối sống của Chúa Giê-su, các ông đã thay đổi thật nhiều. Để biểu lộ mối quan tâm ấy, các ông đưa ra một đề nghị hữu lý và ít trách nhiệm: “Xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Nhưng Chúa Giê-su dạy họ phải vượt trên cả trách nhiệm nhân bản để tiến tới mức độ cao hơn, đó là trách nhiệm và lòng thương của một mục tử bước theo chân vị Mục Tử nhân lành. “Chính anh em hãy cho họ ăn” là những lời nêu lên trách nhiệm của mục tử. Chúa Giê-su là nguồn sự sống, còn các môn đệ có bổn phận phải đem sự sống ấy đến cho anh chị em. Chúa Giê-su không đòi hỏi họ phải làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Người đã làm, nhưng họ sẽ là những người đem “bánh hóa ra nhiều” hoặc bánh ban sự sống đến với dân chúng.
Những cử chỉ Chúa Giê-su làm trước khi trao bánh cho các môn đệ phân phát cho dân chúng là những cử chỉ sẽ được lập lại khi Người lập Bí tích Thánh Thể. Như thế, phép lạ bánh hóa nhiều sẽ báo hiệu cho việc lập Bí tích Thánh Thể sau này để làm lương thực nuôi dưỡng dân Chúa trong Giáo Hội lữ hành. c) “Chính anh em hãy cho họ ăn” cũng là bổn phận của mọi Ki-tô hữu Lệnh truyền “Chính anh em hãy cho họ ăn” không chỉ là những lời Chúa dạy các môn đệ hai ngàn năm trước đây, nhưng cũng là lệnh truyền cho Ki-tô hữu mọi thời mọi nơi. Nhìn vào thế giới hôm nay, ta luôn gặp thấy những anh chị em đói khát thiếu thốn tinh thần lẫn vật chất. Những hình ảnh mới nhất trên màn hình TV về những em bé tại Nigeria bên Phi-châu với hai con mắt to và bộ xương khẳng khiu sắp chết đói bắt buộc ta phải lắng nghe lệnh truyền của Chúa Giê-su: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Thật là buồn, vì trong khi bao người sắp chết đói, mà các trẻ em Hoa-kỳ thì phung phí đồ ăn thức uống không biết bao nhiêu mà kể. Một lon cô-ca chỉ hớp một hớp rồi liệng thùng rác. Trong nhà, chỗ nào có TV là thế nào trên ghế hoặc trên bàn bên cạnh cũng có những túi đồ ăn các em ăn giở và sẽ được cha mẹ lượm bỏ thùng rác. Rồi tiệc tùng cưới hỏi nữa! Mười mấy món ăn được từ từ đem ra. Nhưng những món sau cùng thường là để cho bồi bàn vơ bỏ vào thùng rác vì ai cũng no và ngán tận cổ rồi. Vì thế, nhưng lời của Chúa Giê-su không chỉ là lệnh truyền, mà còn là những lời lên án sự phung phí của ta trước những nhu cầu cấp bách của anh chị em khắp nơi trên thế giới nữa.
Ta có bổn phận phải xoa dịu sự đói khát của người khác. Họ khát một lời an ủi nâng đỡ. Họ đói một cử chỉ thân thiện, một nụ cười đón nhận. Ngồi vào bàn ăn và khi ăn, ta đừng quên những anh chị em đói khát thiếu thốn. Họ ở khắp nơi, bên Phi-châu, bên Á-châu và ở cả Hoa-kỳ nữa. Nhớ đến họ, ta sẽ không ăn uống phung phí và biết hy sinh dành dụm một chút để gửi đến những anh chị em thiếu thốn. d) Suy nghĩ và cầu nguyện Năm chiếc bánh lúa mạch là thứ bánh của người nghèo. Vậy tôi có thực sự là chiếc bánh của người nghèo và để cho Chúa sử dụng làm lợi ích cho anh chị em không? Tôi có tin rằng mình chẳng là gì cả, nhưng Chúa cần lòng quảng đại của tôi và tôi hãy để cho quyền năng của Người hành động?
Tôi học được gì về thái độ “chạnh lòng thương” của Chúa Giê-su? Những thí dụ cụ thể nào cho thấy tôi đã biết quan tâm lo lắng cho người khác? Làm sao diệt được tính ích kỷ? Xét lại việc phung phí của tôi: trong việc ăn uống, mua quần áo giầy dép, sắm những thứ thực sự không cần thiết... So với số tiền tôi bỏ ra để giúp đỡ người nghèo? Cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách: những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: “Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta.”
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Ki-tô
Câu chuyện trong Tin Mừng đã cho chúng ta cơ hội cảm nhận những nét cơ bản của Tình Yêu: TN18-A94
Câu chuyện trong Tin Mừng đã cho chúng ta cơ hội cảm nhận những nét cơ bản của Tình Yêu này :
Trước hết Tình Yêu của Ðức Kitô luôn quan tâm đến mọi nhu cầu của chúng ta. Tin Mừng viết "Ra khỏi thuyền, Ðức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ". Chính điều này đã lôi kéo đoàn lũ dân chúng đến với Ngài, đi theo Ngài bất chấp những tin tức ảm đạm và đầy đe dọa về cái chết bi thảm của Gioan Tiền Hô. Có thể mượn lời Thánh Vịnh đáp ca để khẳng định là "Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa."
Thánh Phaolô bằng kinh nghiệm bản thân cho thấy rằng, ngay trong "gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo" Người yêu thương chúng ta, và nhờ tình yêu này, chúng ta đã toàn thắng.Chúng ta có thể nói rằng đây chính là khía cạnh rực sáng trong cuộc sống của Ðức Giê-su. Tin Mừng đã tường thuật biết bao câu chuyện để nói về điều ấy. Có những con người tưởng như đã vĩnh viễn bị chôn vùi trong sự khinh bỉ của đồng loại : vì bệnh tật, như kẻ bại liệt ở bờ hồ Bết-da-tha, 38 năm chờ chực không một ai cứu giúp (Gioan 5); vì tội lỗi, như người phụ nữ ngoại tình (Gioan 8) bị lôi đi ném đá; vì những mâu thuẫn sắc tộc, mầu da, tiếng nói như người đàn bà xứ Samaria (Gioan 4); vì giai cấp, vì nghề nghiệp như Lêvi (Lc 5), hay như ông Gia-Kêu Lc 19; chúng ta cũng không thể không nhắc lại ở đây cái nhìn của Ðức Giê-su dành cho Phê-rô ở sân nhà thầy cả Thượng tế trong đêm Người bị nộp Lc 23,61. Chính sự quan tâm của Ðức Giê-su đã cho tất cả được chỗi dậy trong một cuộc sống chan hòa hạnh phúc và niềm vui. Và còn hơn thế nữa, chính vì họ, vì những con người bị loại trừ ấy, vì những kẻ tội lỗi... mà Người đã đến trong trần gian. "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc 6,32). Tình Yêu của Ðức Giê-su thực hiện điều Isaia đã loan báo từ 600 năm trước "Ðến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.". Và cũng vì họ, những con người bất hạnh, tội lỗi ấy, Người còn lôi kéo hết bạn hữu mình vào cuộc thương yêu này "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn."Theo lệnh Ngài, không phải chỉ trong câu chuyện Tin Mừng này, mà từ 2000 năm qua Giáo Hội của Người đã không ngừng quan tâm đến những phận người cùng khổ về tinh thần cũng như vật chất.
Nhưng có lẽ điều khiến thánh Phaolô phải viết rằng "cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Ðức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta." đó chính là biến cố xảy ra trên Ðồi Sọ "Ðến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta". Ở Ðồi Sọ, Ðức Giê-su không chỉ hiến mạng sống mình, không chỉ là lôi kéo bạn hữu của mình vào cuộc thương yêu, mà rõ ràng Người muốn Cha và Thánh Thần cùng vào cuộc tha thứ và thương yêu "để cho con người được sống và được sống dồi dào hơn": "lạy Cha, xin Cha tha cho chúng...". Vào chính thời điểm của cái chết, mà Thánh Phaolô đã được nghe lời kỳ diệu "Hôm nay, Cha sinh ra Con": con người được sinh vào sự sống vĩnh hằng.
Ngôn sứ Isaia vì nhìn thấy trước Tình Yêu mãnh liệt và quyền năng ấy đã mời gọi Dân Chúa "Hãy chăm chú nghe Ta, Hãy lắng tai và đến với Ta. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu," Sau này ở tiệc cưới Cana Người Mẹ dân mới cũng nói được là chia sẻ cùng một niềm tin và một ý chí của vị ngôn sứ đã nói với các gia nhân "Người bảo gì, anh em cứ làm theo". Vì Lời Người là Lời Yêu Thương, là Lời cho "ăn ngon, thưởng thức cao lương mỹ vị." và hơn thế còn cho "các ngươi được sống".
Chúng ta cũng cần phải nhắc lại ở đây là : Qúa trình yêu thương và ban bố Lời là quá trình của một sự cộng tác, một sự hiệp thông sâu xa, một sự lôi kéo tất cả vào cuộc. Chính sự hiệp thông này là bản chất sự sống phát xuất từ Thiên Chúa. Và do đó là quyền năng cho chúng ta được toàn thắng sự chết và mọi gian truân thử thách.
Bài đọc Tân Ước hôm nay là điểm thứ hai trong phần kết luận trình bày giáo lý về kế hoạch cứu độ: TN18-A95
Bài đọc Tân Ước hôm nay là điểm thứ hai trong phần kết luận trình bày giáo lý về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Khi suy niệm về kế hoạch cứu độ, chúng ta trước hết nhận biết được tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta qua Ðức Ki-tô. Ðiểm kết luận thứ hai áp dụng vào hoàn cảnh sống của tín hữu Rô-ma cũng như Ki-tô hữu mọi thời: nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì không có ai hoặc hoàn cảnh nào có thể tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Người. a) Tình yêu của Ðức Ki-tô hoặc tình yêu của Thiên Chúa trong Ðức Ki-tô Thánh Phao-lô nêu lên một câu hỏi giản dị: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Ki-tô?" Tình yêu của Ðức Ki-tô hoặc tình yêu của Thiên Chúa nơi Ðức Ki-tô được hiểu là tình yêu Ðức Ki-tô hoặc Thiên Chúa yêu chúng ta, tuy nhiên cũng có thể ngầm hiểu là tình yêu chúng ta đáp lại. Ðể hiểu cho đúng ý của thánh Phao-lô hơn, chúng ta có thể đặt lại câu hỏi của ngài như sau: Có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa có đối với chúng ta trong Ðức Ki-tô không?
Thánh Tông đồ đặt câu hỏi ấy, trước hết là muốn nhắc nhở chúng ta về những đặc tính của tình Chúa thương ta. Tình yêu của Chúa đã trở thành đề tài chính của các Thánh Vịnh. Ca tụng tình yêu vĩnh cửu, trung thành, lân tuất của Thiên Chúa là một điệp khúc lập đi lập lại của hầu hết các Thánh Vịnh. Nếu đọc lại Rm 8:31-33, chúng ta thấy thánh Phao-lô chỉ trưng dẫn một vài sự kiện ý nghĩa nhất để mô tả những đặc tính của tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ qua hành động như "bênh đỡ chúng ta, trao nộp Con Một cho chúng ta, rộng ban tất cả cho chúng ta, không buộc tội lên án chúng ta, và đặt Ðức Ki-tô chuyển cầu cho chúng ta." b) Tại sao thánh Phao-lô đặt câu hỏi này?
Những gì ngài nói trong chương 8 có thể trả lời tại sao ngài đặt câu hỏi câu hỏi này. Từ ngày Ðức Ki-tô đã đến với nhân loại cho đến ngày Người sẽ trở lại trong vinh quang là thời gian các tín hữu phải chịu đựng đau khổ và căng thẳng. Thánh Phao-lô diễn tả việc chờ đợi trong đau khổ và căng thẳng này bằng hình ảnh sống động "rên siết và quằn quại như sắp sinh nở" (8:22). Ki-tô hữu sống giữa thế gian, nhưng thế gian không nhìn nhận họ, và họ cũng không nhìn nhận thế gian. Cho nên họ phải bám chắc lấy niềm hy vọng duy nhất, niềm hy vọng vào ngày thế mạt, sẽ được chia sẻ vinh quang Chúa đã dành sẵn cho những ai Người đã tuyển chọn. Chính vì niềm hy vọng ấy, thánh Phao-lô bảo đảm với Ki-tô hữu rằng không có gì ở trần gian này, kể cả đau khổ, bách hại và cái chết, lại có thể tách họ ra khỏi tình yêu vững bền và trung thành của Thiên Chúa. c) Một câu hỏi có thể có hai câu trả lời khác nhau
Khi đặt câu hỏi "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Ki-tô?", thánh Phao-lô mong đợi câu trả lời của tín hữu: "Không có gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa." Ðó là câu trả lời làm cho tín hữu được an ủi, nâng đỡ và kiên tâm trong khi chịu đau khổ thử thách. Tuy nhiên câu trả lời cũng có thể làm cho nhiều người khó chịu khi họ không còn sợ mất Chúa nữa, bởi vì họ là những người "sống theo tính xác thịt" (8:5) nên cảm thấy thoải mái và yên ổn với hoàn cảnh sống hiện tại. Ðối với những người tin vào tình yêu của Thiên Chúa và tin vào Ðức Ki-tô, câu trả lời "Không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa" nói lên một thái độ tin tưởng vào tương lai tốt đẹp Thiên Chúa dành sẵn cho họ. Nhưng đối với những người đi theo "hướng đi của tính xác thịt" (8:6), thì đây quả thực là một đe dọa cho họ, vì nếu gắn bó với Chúa, họ sẽ phải mất đi những gì họ đang bám víu ở thế gian này.
Với đoạn thư hôm nay, chúng ta kết thúc phần suy niệm giáo lý về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Bài đọc của ba Chúa Nhật tới trích chương 9 và 11 sẽ giải đáp một vài thắc mắc liên hệ tới việc rao giảng của thánh Phao-lô. Sau hết, bài đọc của ba Chúa Nhật cuối cùng (22, 23 và 24 quanh năm) trích chương 12, 13 và 14 sẽ là những bài học luân lý áp dụng cho đời sống Ki-tô hữu trong phạm vi cộng đoàn. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Chia sẻ một kinh nghiệm tiêu cực: đau khổ đã khiến tôi kêu trách Chúa, bỏ bê bổn phận thiêng liêng... Và một kinh nghiệm tích cực: đau khổ, khó khăn đã giúp tôi vững tin vào Chúa, cảm nhận được tình Chúa yêu thương tôi rõ ràng hơn lúc nào hết.
Các triết gia hiện sinh, duy vật... thường mô tả đời sống chúng ta như không có lý tưởng, không có niềm hy vọng. Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II mời gọi chúng ta hãy "bước qua ngưỡng cửa hy vọng" để gặp được Thiên Chúa vĩnh cửu. Vậy tôi đã làm gì để củng cố niềm hy vọng vào vinh quang bất diệt Thiên Chúa hứa ban cho những ai tin kính Người?
Tôi suy niệm thế nào về "tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta"? Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài "Tôi thâm tín rằng" của Hoàng-Ðức, Ca nguyện Linh Thao, tr. 150.
Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang TN18-A96
Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt.
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa bị xua đuổi khỏi Nadarét (Mt 13,53-58) và vua Hêrôđê vừa mới giết chết Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Người (Mt 14, 1-12) Khi nghe tin cái chết thảm khốc ấy, Đức Giêsu "chạy trốn" vào một nơi hoang vắng. Trong năm Chúa nhật sắp đến, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu "chạy trốn", rút lui (Mt 14,13; 15,21; 16,13). Chúng ta thường quá tưởng tượng cho rằng Đức Giêsu như một người được thiên tính của Người để riêng ra. Thật ra Người chịu những cái đánh của số phận, bị liên hệ đến những biến cố mà Người đã không muốn. Phản ứng đầu tiên của Người là chạy trốn một mình.
"Người đến một chỗ hoang vắng riêng biệt..."
Sự ghi nhận này phải có một ý nghĩa cho chúng ta: các Kitô hữu - chẳng cần đôi lúc rút vào nơi riêng biệt đó sao? Phải chăng họ có thể sống đời sống Kitô hữu của họ mà thỉnh thoảng không gặp nhau ngày Chúa nhật? Phải chăng họ có thể không bị lây nhiễm bởi một thế giới ngoại đạo và vô thần nếu như họ không bao giờ biết rút lui ra chỗ riêng biệt, chỗ hoang vắng.
Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoạn người đông. đảo...
Thế là giờ đây Người đã bị đám đông đuổi kịp, Người chỉ ở riêng biệt khoảng thời gian đi thuyền qua họ, Người không làm cách nào để sống cô tịch được, Người bắt buộc phải gặp lại đám đông. Chắc chắn chúng ta phải suy niệm về đề tài những sự "bó buộc"? Thực hành đức vâng lời, trong những điều kiện sống thực của chúng ta, và cũng là vâng lời theo những ý định khôn dò của Chúa Cha, như thánh Phaolô có nói (Pl 2,8). Đó là điều mà chúng đã không tiên liệu. Điều xảy đến với chúng ta và làm đảo lộn những kế hoạch của chúng ta: Một cơn bệnh đến bất ngờ, một nỗi lo lắng mới, một trách nhiệm được đặt lên chúng ta, một cuộc thăm viếng, một cú điện thoai, một công việc được yêu câu, một sự hiện diện miễn cưỡng với những người khác, những đám đông mà chúng ta muốn chạy trốn.
Thì Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chúng ta đã gặp từ này: "chạnh lòng thương"; "xúc động trong lòng": phải cho từ ngữ này tất cả sự phong phú của nó. Lòng "nhân hậu" không chỉ là lòng nhân từ hay tha thứ nhưng cũng là lòng thương xót chia sẻ nỗi đau khổ của người khác. Đức Giêsu không thể nhìn một ai đau khổ mà Người lại không xúc động, giống như bản năng của một bà mẹ đối với đứa con của mình.
Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm (nguyện gẫm)
Đức Giêsu "chạnh lòng thương". Hãy tưởng tượng ánh mắt, khuôn mặt, giọng nói, những cử chỉ dịu dàng đối với các bệnh nhân. Ngày nay cũng thế, Đức Giêsu cũng có những tình cảm thương xót như thế đối với mọi người đang đau khổ.
Chiều đến...
Cũng chính những chữ này mà Matthêu sẽ dẫn nhập vào Bữa Tiệc Ly (Mt 26,20) và việc mai táng Đức Giêsu (Mt 27,57). Các Kitô hữu tiên khởi có thói quen cử hành Thánh Thể như một "bữa ăn chiều", một bữa tiệc ly. Ở bình diện tượng trưng, Thánh Thể xuất hiện với chúng ta như một "bí tích của sa mạc" trong đó chúng ta được ban cho một của ăn đi đường (Thánh Gioan sẽ nói đó là manna xuống từ trời để chú giải cùng một biến cố).
Đó cũng là bí tích của những đêm tối của chúng ta ở đó ánh sáng mầu nhiệm sẽ chiếu rọi đêm đen...
...Các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn!"
Đây là một giải pháp hoàn toàn "nhân bản" và "khôn ngoan". Theo gương Thầy mình, các môn đệ của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ có thói quen tìm kiếm lương thực khi chiều xuống. Một cách tự phát các môn đệ đề nghị giải pháp giải tán đám đông. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu nhìn xa hơn. Đàng sau "bữa ăn trong sa mạc", có một mầu nhiệm nuôi đám đông bằng của ăn vật chất trong khi vẫn để họ đói một cách sâu xa; bởi lẽ con người không chỉ sống bởi bánh! Khi chạy theo sau Đức Giêsu, những đám đông ấy trước tiên không đến để ăn, nhưng bởi vì họ cảm thấy trong Người có một "sức mạnh" siêu nhiên: các đám đông ấy đói Thiên Chúa, họ đói Đức Giêsu? Và không bao giờ một cái bánh mà họ mua ở chỗ này hay chỗ khác trong các làng mạc có thể làm cho họ no thỏa.
Nhưng Đức Giêsu bảo: "Họ không cần phải đi đâu cả chính anh em hãy cho họ ăn".
Không! Không có Đức Giêsu, không thể có giải pháp. Không phải bỏ đi mà đám đông sẽ tìm được sự no thỏa.
Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!"
Các môn đệ cũng rất tử tế. Họ thấy việc họ phải làm nhưng họ không có những phương tiện để thực hiện. Hầu hết thời gian, chúng ta cũng giống y như họ. Cái mà các môn đệ có sẵn thật nực cười: năm cái bánh và hai con cá.
Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy!"
Thiên Chúa cần có những con người góp một tay. Biết rõ điều mình sẽ làm, hẳn Đức Giêsu có thể hoàn toàn không cần đến những cái bánh đáng thương và vô nghĩa ấy. Thiên Chúa cần đến tôi... Hãy đặt những phương tiện nghèo nàn của con người trong tay Chúa! Và lạy Chúa? Con đang hình dung trong sự nguyện gẫm của con năm cái bánh nhỏ tội nghiệp ấy và hai con cá nhỏ đơn sơ ấy, trong đôi bàn tay của Chúa!
Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ.
Rõ ràng đây cũng là những động tác, cử điệu dùng để mô tả lại bữa Tiệc Ly trong ngày thứ Năm Tuần Thánh (Mt 26,26). Không một tình tiết nào trong đời sống của Đức Giêsu lại có tính chất xác quyết như thế: các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Khi người ta biết được vị trí của Thánh Thể trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu.
Khi thực hiện những động tác này, Đức Giêsu có thái độ của người cha trong gia đình đang chủ tọa một bữa ăn. Không có bữa ăn của người Do Thái nào mà không có "sự chúc lành" bánh ... mà không có hành động tạ ơn Thiên Chúa (chữ "hành động tạ ơn" dịch ra tiếng Hy Lạp là "eucharistia").
Sau đây là lời "chúc lành" mà các người Do Thái sùng đạo hôm nay vẫn luôn luôn đọc: "Chúng con chúc tụng Đấng ban cho chúng con lương thực nuôi sống chúng con vì lòng nhân từ của Ngài. Lạy Chúa, Đấng Hằng Hữu, chúng con cảm tạ Ngài đã nuôi sống mọi tạo vật". Lương thực mà chúng ta ăn là một "hoa quả của đất đai và của lao công con người ". Nhưng trước hết nó là "một ơn của Thiên Chúa".
Hạt lúa mì trong đất sẽ không bao giờ cho ra một bông lúa nếu Thiên Chúa không cho nó lớn lên. Nền văn minh kỹ thuật của chúng ta sau cùng đã quên đi chân lý sơ đẳng ấy. Vả lại, không có gì tự nhiên cho bằng cầm một mẩu bánh mì trong đôi tay, hoặc một bát cơm, một củ khoai mì để làm dịu cơn đói của mình? Thế mà hỡi ôi, chúng ta biết rằng "lao động con người" không đủ để nuôi sống mọi người, và nền kỹ thuật công nghiệp của chúng ta có thể trở thành một công cụ của tính ích kỷ và sự nô dịch con người: Những chủ nghĩa duy vật không có Thiên Chúa, từ Đông sang Tây đã quên mất "lời chúc tụng" cũng đã trở thành những kẻ phá hủy nhân phẩm con người.
Đức Giêsu còn có nhiều điều để nói với chúng ta, khi chính Người chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban lương thực hàng ngày, và đã bảo chúng ta cầu xin "lương thực hàng ngày".
Người trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.
Tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh ở đây vai trò của các tông đồ: chúng ta đã có một phục vụ đích thực.
Ở đó các tông đồ đóng vai trò nhiều hơn công việc của một người phân phát. Họ tham dự vào chính công việc của Đức Giêsu và làm như Người. Họ là những người làm trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng.
Đức Giáo Hoàng trong thông điệp tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Lộ Đức nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục: "Các linh mục đã nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa gồm những người đã chịu phép Thánh tẩy vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Người: tác vụ thiêng liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc "bẻ bánh" được họ thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hoàn toàn vượt qua quyền lực của cộng đoàn".
Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêsia trong Kinh Thánh (Đệ nhị luật 6,11; Thánh Vịnh 132,15; Is 65,10).
Trang Tin Mừng này đang tra hỏi chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng Đức Giêsu qua cử chỉ quảng đại ngày hôm đó, đã không loại trừ được cái khốn cùng to lớn của nạn đói trên thế giới. Ở đây giá trị nổi bật không phải là khía cạnh mầu nhiệm, phi thường mà là 'dấu chỉ' Đức Giêsu đã làm. Vả lại, điều được biểu thị qua dấu chỉ này chính là sự ân cần đầy lòng yêu thương của Đức Giêsu, Người đã chạnh lòng thương đám đông. Như thế mỗi bữa tiệc Thánh Thể phải trả chúng ta về những bổn phận chia sẻ trong tình huynh đệ: Đức Giêsu Kitô là tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ cho một thế giới mới!
Con người ta sống ở đời là sống thực tế. Sống cái đời thường. Không có ai dám quả quyết, tôi sống: TN18-A97
Con người ta sống ở đời là sống thực tế. Sống cái đời thường. Không có ai dám quả quyết, tôi sống không cần ăn, không cần uống . Nếu có ai dám quả quyết những điều vừa nói, chắc chắn họ phải thuộc về cõi khác với kiếp sống đời thường .Chúa Giêsu khi mặc lấy kiếp sống làm người, đã không ở ngoài định luật tất yếu của con người.Nghĩa là Ngài cũng đã phải dùng lương thực để nuôi thân, dùng nước uống để củng cố thể xác, Ngài cũng sống hoàn toàn thân phận làm người,ngoại trừ tội lỗi .Vì thế, Chúa Giêsu đã nói nhiều tới bữa ăn để chỉ về nước trời, dù rằng ngài đã thường nói:"Lương thực của Ta là làm theo ý của cha Ta " ( Ga 4, 32 ).Chúa Giêsu khi khẳng định điều đó, Ngài muốn cho nhân loại hay của ăn trần thế cần để nuôi sống, nhưng còn có điều tối cần hơn là làm theo ý Chúa để có sự sống đời đời .Phép lạ, Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dậy, nói lên lòng chạnh thương và sự lưu tâm đặc biệt của Chúa đối với nhu cầu đói và khát của dân chúng .
I. NHỮNG PHÉP LẠ CỦA CHÚA GIÊSU :
Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu bao giờ cũng làm phép lạ kèm theo lời nói của Ngài. Lời rao giảng của Chúa Giêsu không bao giờ trở thành lời nói suông, nhưng nó luôn có một sức sống mãnh liệt, sức sống vươn cao như hạt lúa mì rơi xuống đất thối rữa đi, mọc lên và sinh hoa kết quả .Các môn đệ đi theo Chúa Giêsu không những được nghe giáo huấn của Ngài, được Ngài dậy bảo những điều hay lẽ phải, được Ngài hun đúc, uấn nắn, rèn luyện,nhưng được chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, quả thực đã nung nấu tâm can của các môn đệ nhiều vì rằng những phép lạ chứng minh quyền năng vô biên của Chúa,qua đó củng cố đức tin của các môn đệ .Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ trong cuộc hành trình truyền giáo của Ngài như Chúa làm cho nước hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới Cana ( Ga 2, 1-11 ) , hoá bánh ra nhiều ( Mt 14, 13- 21 ). Chữa các bệnh hoạn tật nguyền: mù được thấy, điếc được nghe, câm nói được, què đi lại, người nghèo được nghe rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu trừ quỉ ra khỏi nhiều người và rất nhiều phép lạ khác Ngài đã thực hiện trong cuộc đời tại thế của Ngài .Tuy nhiên,phép lạ lớn nhất, cao cả nhất vẫn là phép lạ Chúa Giêsu đã làm nơi chính bản thân Ngài: Chúa chết, đã được an táng trong mồ , sau ba ngày, chính Ngài đã sống lại theo như lời Ngài đã báo trước với các môn đệ theo như thánh Gioan đã nói :" Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người "( Ga 20, 31 ).Chúa Giêsu khi làm những phép lạ luôn nhắm đến những nhu cầu thiết thực của con người. Vì thế, Tin Mừng Chúa nhật 18 trích Mt 14, 13-21 nói đến phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh và cá hóa ra nhiều để giải quyết nhu cầu thực tế của đám đông dân chúng theo Ngài,lắng nghe Chúa giảng dậy,nhưng đói, khát vì dân chúng không có lương thực để ăn lúc đói bụng . II. PHÉP LẠ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT :
Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành,nhân hậu đến cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Ngài không những giữ vai trò huấn luyện dân chúng tìm kiếm nước trời,nhưng trong cuộc hành trình tiến về quê trời. Con người đầu đội trời, chân đạp đất,thực tế vẫn là sự sống đời thường,trước khi được Chúa gọi về . Vây, cái thực tế , nhu cầu trước mắt lúc này , vẫn là giải quết cái đói cho dân chúng. Nếu giải tán dân, cho dân trở về , chắc chắn Chúa Giêsu sẽ đỡ vất vả.Các môn đệ nghĩ giản đơn như thế :" Xin Thầy cho dân chúng ra về để họ vào làng xung quanh mà mua thức ăn "( Mt 14, 15 ).Cách suy nghĩ và giải quyết như các môn đệ quả thực là cách dễ dàng, không trách nhiệm, khỏe, không bận rộn cho chính bản thân mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu với tấm lòng nhân hậu, chứng tỏ một tình thương sâu xa , vô biên, tuyệt đối :" .Ðức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ " ( Mt 14, 14 ).Chúa Giêsu đã quặn đau, se thắt con tim khi gặp con trai bà góa Naim, đang được khiêng đi chôn, khi đối diện với Matta, Maria đang thương khóc em trai của mình là Lazarô đã được chôn trong mồ và đã nặng mùi hôi; Ngài đã đau lòng khi gặp người mù ở Giêricô , khi thấy đám đông không người chăm sóc, bơ vơ, vất vưởng .Chúa Giêsu chính là mục tử tốt lành đến qui tụ và dẫn
đưa chiên đến những cánh đồng cỏ xanh tươi ( Tv 23 ). Chúa Giêsu đã quan tâm đến nhu cầu thực tế , giải quyết điều cần thiết trước mắt cho dân chúng:" Cho họ ăn và cho ăn no nê, dư thừa " . Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ:".Chính anh em hãy cho họ ăn ". Với năm chiếc bánh và hai con cá ( Mt 14, 17 ). Chúa Giêsu đã làm phép lạ để nuôi 5.000 ngươi đàn ông , không kể đàn bà, trẻ con ( Mt 14,21 ).Chúa giêsu đã thực hiện phép lạ này với sự cộng tác của con người: 5 cái bánh và 2 con cá.Lẽ dĩ nhiên, Chúa Giêsu có thể làm không ra có, nhưng Ngài đã không làm thế và kêu gọi sự cộng tác tích cực của con người.Qua phép lạ này, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Môsê mới,quitụ dân, giải thoát dân, đưa dân đi vào đất hứa, nơi đó dân sẽ được nuôi sống đầy dư vì Chúa là chủ , là Ðấng dọn cho dân mâm cỗ khiến dân có dư thừa lương thực để ăn và nuôi thân. III. CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI TIẾP TỤC SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI:
Bánh và cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng, đồng thời phép lạ diễn ra vào buổi chiều làm cho ta liên tưởng đến bữa tiệc ly khi Chúa Giêsu và các môn đệ ăn lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và rượu , tạ ơn Thiên Chúa cha,rồi phân phát cho các môn đệ.Ở đây, Chúa Giêsu đã xin các môn đệ làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu để tưởng nhớ đến Ngài. Ðộng từ "trao cho", được Chúa dùng để nói đến sứ vụ của Ngài là trao ban, rồi qua tay các môn đệ , các tông đồ, các linh mục động từ trao ban cũng được các Ngài dùng để phân phát cho những người khác và do đó lịnh truyền của Chúa cho các môn đệ :" Các con hãy cho họ ăn "luôn là sứ mạng thôi thúc các sứ giả của Chúa . Chúa luôn mời gọi con người chiasẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn chia sẻ cho nhau bằng chính lời cầu nguyện .Hình ảnh manna, chim cút trong sa mạc luôn gợi lại cả một giai đoạn dài lịch sử mà chính Thiên Chúa đã dùng tình thương của mình để nuôi sống dân chúng.Manna,bánh, cá , chim cút chỉ là lương thực nuôi sống con người nhất thời,nhưng thịt và máu của Chúa Giêsu mới đem lại sự sống vĩnh cửu .Tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Giêsu .
Xin Chúa giúp chúng con biết chia sẻ và trao ban với tất cả niềm tin, với tất cả tình thương của mình.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh, chủ yếu là Hoa: TN18-A98
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh, chủ yếu là Hoa Kỳ thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công quân Nhật Bản. Kết quả là hệ thống giao thông ở Đông Dương bị hư hại nặng. Tính vào thời điểm năm 1945 thì đường sắt Xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa, và đường Bắc Nam cũng bị phá hoại liên tục. Đường biển thì quân Đồng Minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không thông thương được nữa.
Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng Minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn, rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Cùng lúc đó thì lượng gạo tồn kho ở Sàigòn lên cao vì không xuất cảng sang Nhật được, khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo cho các xưởng nấu rượu vì gạo ứ đọng sẽ mốc, trong khi đó, nạn đói lại bắt đầu hoành hành ở ngoài Bắc.
Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục tiêu khác cho nhu cầu chiến tranh của họ. Toàn quyền Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang Nhật theo thỏa thuận với Nhật Bản. Bản thân lực lượng quân quản Nhật cũng thi hành chính sách "Nhổ lúa trồng đay", do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất quân nhu.
Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước thảm họa chết đói hàng loạt của dân bản địa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng không được cứu đói, đã nằm chết la liệt quanh đó. Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng đã góp phần cho những động lực tạo ra nạn đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán từ 1 đến 2 triệu người đã chết vì đói năm 1945 ( Wikipedia ).
Con người trở nên vô cảm, vô nhân, vô đạo, cư xử dã man như loài cầm thú khi bùng nổ chiến tranh. Những hình ảnh kinh hoàng về nạn đói 1945 tại Bắc Việt còn được trung thực lưu lại qua ống kính của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, như một chứng cứ diệt chủng… Ngày nay, tuy phần nào không còn đói khát lương thực, nhưng dân Việt vẫn đang đói khát chân lý, công bằng, đạo lý, tình người.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật Đức Giêsu chạnh lòng thương dân chúng đi theo Người, đang đói khát, bệnh hoạn, tật nguyền. Người không ngừng giảng dạy, chữa lành, và nuôi dưỡng, biến hóa năm cái bánh và hai con cá cho hơn năm ngàn người no nê dư thừa. Điều này phản ảnh những khía cạnh Tình Yêu của Thiên Chúa, lẫn của con người đối với Ngài và tha nhân.
Tình yêu phó thác
“Đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người” ( Mt 14, 13 ). Những tín hữu Kitô đầu tiên nồng nàn lửa mến, khao khát tìm thức ăn thiêng liêng là Lời Chúa, chẳng màng đem theo lương thực, hay hành trang, khiến Chúa cảm động đoái thương, cứu chữa. “Ra khỏi thuyền Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ” ( Mt 14, 14 ).
Kitô hữu yêu mến và tin cậy Chúa là luôn biết phó thác sinh mạng, bệnh tật, đói khát vào cánh tay Chúa Quan Phòng che chở, chữa trị và dưỡng nuôi, để sống đời đời.“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" ( Mt 6, 33 – 34 ).
Cậu bé có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá làm của ăn đi đàng, nhưng phó dâng hết cho Đức Giêsu. Tấm gương sáng ngời cho Kitô hữu hoàn toàn trông cậy vào Chúa Quan Phòng.
Tin Mừng hôm nay, còn phác họa Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm dạy dỗ, chăm sóc, chỉ đường, chữa bệnh và nuôi dưỡng đàn chiên sống viên mãn.
Tình yêu hỗ tương
Tình yêu tha nhân là tình hỗ tương, liên đới chia sẻ, hiện thực hóa bằng hành động trao tặng, cho đi, tương thân tương ái, giúp đỡ và phục vụ. “Chính anh em hãy cho họ ăn !” Mệnh lệnh của Đức Giêsu rõ ràng, đích xác và cụ thể về trách nhiệm chung sống, giúp đỡ nhau, tương trợ, liên kết trong tình yêu. Không thể đơn giản và lạnh lùng, vô cảm, mạnh ai nấy lo, như“giải tán đám đông, để họ vào làng mạc mua lấy thức ăn.” Không thế trốn trách trách nhiệm liên đới trong gia đình, Giáo Xứ và xã hội. Nếu không thì chỉ là tình yêu xảo ngôn, như phường tà đạo vẫn huênh hoang lừa đảo.
Đức Giêsu không một lúc hóa bánh và cá ê hề đầy giỏ, đầy mâm, để mọi người kinh ngạc, thán phục, tôn vinh. Mà trái lại, phép lạ hóa bánh ra nhiều chỉ xảy ra, khi bánh được trao tận tay nhau. Khi Đức Giêsu trao các nôn đệ và khi các môn đệ trao lại cho dân chúng. Đó là hình ảnh liên đới, chia sẻ và yêu thương chân tình, tương tự như xưa, Ngôn Sứ Êlisa đã biến hóa 20 tấm bánh trao tay cho hơn 100 người no nê, dư thừa. ( x. 2V 4, 42 – 44 ).
Hơn nữa, đó cũng là ngụ ý Chúa muốn dạy mọi người: "Anh em đã được cho không, thì hãy cho không như vậy" ( Mt 10, 8 ). Bởi chưng tất cả mọi sự đều là hồng ân Chúa thương ban.
Tình yêu bội tăng
Trong tin nhắn ngày 10.7.2014, gửi qua Twitter đến mọi người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhủ: “Đừng ngại nương tựa vào vòng tay che chở của Thiên Chúa; bất cứ điều gì Ngài yêu cầu bạn cũng sẽ được trả gấp trăm lần.”
Năm tấm bánh và hai con cá của chú bé vô danh kia dâng hiến, đã hóa ra hàng vạn bánh và cá, cung cấp dư giả cho năm ngàn người đàn ông, không kể phụ nữ và nhi đồng. Tình yêu đã bội tăng gấp vạn lần. Cho đi một, nhận lại gấp vạn. "Chẳng ai bỏ tất cả vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm, và đời sau được sự sống vĩnh cửu" ( Mc 10, 29 – 30 ).
Tình yêu hiệp nhất
“Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông” ( Mt 14, 19 ). Với của ăn nuôi thân xác, Đức Giêsu đã thánh hóa, biến thành mối liên kết từ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Tông Đồ, Giáo Hội, đến toàn thể Dân Chúa.
Tất cả hiệp nhất trong Nước Chúa, mà cụ thể sau này qua Nhiệm tích Thánh Thể dưỡng nuôi nhân loại. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy" ( Ga 6, 56 – 57 ).
“Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai cũng quý yêu thèm muốn” ( Đường Hy Vọng, số 768 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã nhận năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé kia, đó là tất cả lương thực của cậu, nay kính xin Chúa nhận lấy tất cả vốn liếng, khả năng, kiến thức hạn hẹp của chúng con, để Chúa nhân lên, phân phát lại cho tha nhân chung hưởng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa độc nhất là Đức Chúa Con, để Ngài ban lại cho nhân loại hồng ân cứu độ. Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết dâng hiến cả cuộc đời cho Thiên Chúa, để Ngài tùy nghi sử dụng hữu hiệu. Amen.
Không biết từ bao giờ, có lẽ ngay khi mới lọt lòng mẹ, con người đã có nhu cầu sinh tồn, phải ăn phải uống: TN18-A99
Không biết từ bao giờ, có lẽ ngay khi mới lọt lòng mẹ, con người đã có nhu cầu sinh tồn, phải ăn phải uống để mà sống. Cũng vì nhu cầu này, mà nhân loại sa vào vòng tội lỗi. Người ta chém giết nhau chỉ vì miếng ăn, cái mặc. Và bất hạnh cũng từ đó phát sinh.
Nghèo đói là căn nguyên sinh muôn vàn tội lỗi. Trong những cơn túng quẫn của cuộc đời, lúc ấy con người mới khao khát có được phép lạ – làm sao cho có được của ăn và không phải đói nghèo, khổ cực, thiếu thốn.
Của ăn phần xác quan trọng như vậy. Nếu không có nó, con người và vạn vật sao có thể tồn tại. Nhưng của ăn nuôi linh hồn còn quan trọng hơn. Người ta cần của ăn để sống, nhưng của ăn không là yếu tố quyết định hạnh phúc. Ngược lại, của ăn tinh thần chính là liều thuốc trường sinh cho họ hạnh phúc bất diệt.
Của cải vật chất không làm người ta sống mãi, vậy mà ngày ngày có hàng trăm vạn người trên thế giới qua đi cũng chỉ vì của ăn. Chả được mấy ai vì của ăn tinh thần mà hy sinh chính mạng sống mình cả. Của cải vật chất chỉ làm cho người ta tồn tại và phát triển nhưng không thể khiến con người sống mãi. Chính của ăn tinh thần mới cho họ hạnh phúc bất diệt. Đó chính là Lời Chúa, là Tình Yêu của Ngài.
Thấu cảm nỗi khó nghèo vất vả, lầm than của nhân loại, Đức Giêsu kêu gọi các Tông Đồ phải chăm lo cho dân chúng. Ngài yêu cầu đồ đệ đưa đến phần thức ăn bé mọn để làm phép lạ nuôi đám đông. Hành động ấy không chỉ cứu vớt dân tình khỏi đói, nhưng còn báo hiệu mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể Ngài thiết lập sau này, hầu thế giới có thể nhờ đó mà được sống.
Là Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ thấu cảm sự đói nghèo của nhân loại, nhưng Ngài còn dẫn đưa họ đến tầm quan trọng của Của nuôi linh hồn. Chính Của nuôi ấy mới thực sự cần. Vậy mà chẳng hiểu sao nhân loại không hay biết hoặc đã biết mà vẫn cố tình từ khước.
Ngày nay người ta coi trọng của ăn lắm. Chính sự coi trọng của cải vật chất đã làm cho con người ngày càng dấn sâu vào vũng lầy đam mê và tội lỗi. Có ai bảo của ăn không cần thiết đâu, nhưng nó không là nhất. Điều quý trọng hơn cả chính là có được sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy chỉ có thể trổ sinh trong một tâm hồn ngoan ngùy biết lắng nghe và thực hành Lời của Ngài. Trên hết là sự sẻ chia, bác ái: “Chính anh em hãy lo cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ).
Từ “vỏn vẹn chỉ có năm cái bánh hai con cá” ( Mt 14, 17 ) mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho “năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” ( Mt 14, 21 ). Thiên Chúa muốn dạy chúng ta phải biết quan tâm, sẻ chia cho người thân cận đói nghèo chung quanh. Đó là trách vụ thiêng liêng mà không phải ai cũng có thể làm. Không cần gì nhiều, chỉ cần sự hiện diện, lòng đóng góp tuy nhỏ bé nhưng nếu có tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, ắt sẽ làm nên phép lạ khôn lường.
Thiên Chúa quyền phép như vậy nhưng không sai Con Một Ngài đến để giải quyết cơm áo gạo tiền cho nhân loại. Trái lại, Ngài dạy con người phương cách “kiếm gạo kiếm tiền” cho cuộc sống đời sau chỉ cần biết sẻ chia.
Lạy Chúa, trên con đường ngày ngày đi làm, có biết bao người nghèo khổ sống chung quanh cần con yêu thương, giúp đỡ. Nghèo vật chất không thiếu mà đói tinh thần cũng quá thừa, vậy mà con đã đang tâm giả điếc làm ngơ, khép chặt cửa lòng, khoanh tay lãnh đạm trước nhu cầu được sẻ chia của người khác, trong khi chính bản thân mình được cơm dư, gạo thừa.
Ước gì con có thể nghe được Lời Chúa mỗi ngày: “Chính con hãy lo cho họ ăn” thì diễm phúc biết chừng nào. Cũng tại người này ỷ nại vào kẻ khác, cho nên nhân loại ngàn năm vẫn khóc, đói và khát. Ai giàu vẫn phây phây sống, ai nghèo đói mặc ai.
Xin giúp con biết tỉnh ngộ khi thời hạn vẫn còn, mở lòng đón nhận nguồn sống của Thiên Chúa và rộng tay san sẻ với mọi người sống quanh con. Một khi đã ý thức miếng ăn hằng ngày con lao nhọc kiếm tìm chật vật vậy nhưng lại chẳng có giá trị thật thì tại sao con không dám bẻ ra, góp vào sự sống sinh tồn của anh em thân cận cơ chứ ?
Ăn uống là điều phải học đầu tiên trong đời của mỗi con người: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Thật: TN18-A100
Ăn uống là điều phải học đầu tiên trong đời của mỗi con người: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Thật lạ, ngay cả trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”, việc ăn uống cũng được coi là “mối thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống”. Điều đó cho thấy rằng việc ăn uống là nhu cầu cấp bách theo bản năng sinh tồn của con người. Trước tiên, người ta lo sao cho “ăn no, mặc ấm”, sau đó người ta cố gắng sao cho “ăn ngon, mặc đẹp”.
Có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi người ta mới lo những thứ khác. Quả thật, người ta vẫn thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Khi đói, Thằng Bờm không cần bất cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi”. Thế thôi. Người Anh diễn tả đơn giản: “That’s ALL”. Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của cái bụng lúc đó.
Vì biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người nghèo đói để bắt họ làm theo ý đồ xấu của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng, nhưng miếng ăn cũng có thể là VINH hoặc NHỤC.
Ở đời, chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Quyền lợi cơ bản là “miếng ăn”. Bất ngờ thấy ai cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình cái gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn không”. Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái gì thì người ta chỉ cho những gì thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa được là “công bằng”, đừng nói chi “bác ái”. Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa” ( Mc 10, 18; Lc 18, 19 ). Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy.
Thiên Chúa nhân lành mời gọi tất cả mọi người, không trừ ai: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” ( Is 55, 1 ). Cứ đến “mua” mà không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ, đó là “mua” bằng giá trị của niềm-tin-chân-thành.
Trong cuộc sống đời thường, người ta có thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ người ta ưa thích, dù ăn được hay không. Có những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh. Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406 USD/1,5 kg ( khoảng 3,4 tỷ đồng ), trứng cá muối Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp ( khoảng 530 triệu đồng ), hoặc dưa lưới Yabari có giá 22.872 USD/quả ( khoảng 486 triệu đồng ). Những món này chúng ta có mơ cũng chẳng thấy được. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi” cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt”. Dù gì thì cũng thật là lãng phí quá !
Vì thế, Thiên Chúa đặt vấn đề: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng ?” ( Is 55, 2a ). Lương thực chỉ nuôi sống phần xác chứ không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức cho khoái khẩu. Điều đó cho thấy ăn là điều thú vị lắm. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh thần, đặc biệt là đói linh hồn. Đúng là tự mâu thuẫn và... dại dột quá !
Với lòng nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị” ( Is 55, 2b ). Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đavít” ( Is 55, 3 ).
Thiên Chúa rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cho cả xác và hồn mà lại hoàn toàn miễn phí. Chúng ta lãnh không ngừng nhận và nhận nhiều mà vẫn vô ơn bội nghĩa, thế nhưng Ngài vẫn làm ngơ, không chấp. Tại sao? Bản chất Ngài là tốt lành, là yêu thương, là thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” ( Tv 145, 8 – 9 ). Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với “động vật cấp cao” là con người, là chúng ta, mà Ngài còn “nhân hậu với muôn loài” mà Ngài đã dựng nên.
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rõ. Có những lúc chúng ta chưa xin, hoặc xin được rồi mà lại “phủi tay”, kiểu “qua cầu rút ván”, như chuyện “mười người phong hủi được sạch, nhưng chỉ có một người Samari trở lại cảm ơn Chúa” ( Lc 17, 11 – 18 ), ấy thế mà Ngài vẫn không bỏ đói chúng ta bữa nào. Chúng ta có thấy mình quá tệ ? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” ( Tv 145, 15 – 16 ). Thiên Chúa toàn năng, không gì là không thể, Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” ( Tv 145, 17 – 18 ).
Cái NGHÈO luôn đi đôi với cái KHỔ, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những người giàu mà vẫn khổ. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều”, nhưng cũng có những kẻ “nhàn rỗi sinh nông nổi”. Người ta có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Phải thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ nào trong hành trình tâm linh, chúng ta hãy tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?” ( Rm 8, 35 ).
Chắc chắn không dễ trả lời. Và đây, Thánh Phaolô hiến kế cho chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” ( Rm 8, 37 – 39 ). Đó là biết lo cho cái đói của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc !
Chúa Giêsu lo chúng ta bị đói cả thể lý lẫn tinh thần. Trình thuật Tin Mừng hôm nay ( Mt 14, 13 – 21 ) kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất ( cũng được tường thuật ở Mc 6, 30 – 44; Lc 9, 10 – 17; và Ga 6, 1 – 14 ) mà Chúa Giêsu đã làm vì “chạnh lòng thương” dân chúng.
Nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê ra lệnh chém đầu vì vua lỡ hứa dại với con gái của bà Hêrôđia, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành vẫn nườm nượp đi bộ mà theo Ngài. Ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Hoàng hôn buông nhạt nắng, chiều gần chạm vào đêm, cái bụng ai cũng đang đánh lôtô, nghĩa là đến giờ ăn tối rồi. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, nên lại gần thưa với Sư Phụ Giêsu: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” ( Mt 14, 15 ). Nhưng Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 ). Ui da, “căng” thật đấy ! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” ( Mt 14, 17 ). Mèn ơi, đó là đồ ăn thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì nhằm nhò gì với đám đông như kiến thế kia chứ ?
Nhưng Sư Phụ Giêsu thản nhiên bảo họ: “Đem lại đây cho Thầy !” ( Mt 14, 18 ). Rồi Ngài truyền cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” ( Mc 6, 39 ). Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và Ngài bảo các môn đệ phân phát cho dân chúng cùng ăn.
Thánh Mátthêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” ( Mt 14, 20 – 21 ). Phép lạ này được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống thể xác dân chúng. Phép lạ vĩ đại nhất và quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống linh hồn chúng ta là Phép Lạ Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể vừa là thấn lương vừa là linh dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc nơi nọ. Thật là mâu thuẫn quá, thế mà vẫn nói rằng “tôi tin”. Đức Tin như vậy có lẽ rất cần “xét lại” lắm đấy !
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Chúa luôn ban cho lương thực nuôi xác dưỡng hồn để chúng con được sống dồi dào. Xin giúp chúng con sống Đức Tin cụ thể là biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, biết TẠ ƠN Ngài, rồi BẺ RA và TRAO CHO tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ và hèn mọn, vì nhu cầu của họ rất cấp bách. Như vậy thì chúng con mới sống Luật Chúa, biết chạnh lòng thương, biết sống yêu thương và thể hiện lòng thương xót theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.