Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-A: Bài 101-147 Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho
------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 21, 33-43: “Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: “Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?” Các ông trả lời, “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi”. Chúa Giêsu phán: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Ðó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!” Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục Lục:
Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN A hôm nay (Mt 21, 33-43) rất thú vị, dù nội dung dụ ngôn thật bất TN 27-A101
Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN A hôm nay (Mt 21, 33-43) rất thú vị, dù nội dung dụ ngôn thật bất nhân, mang tính bất lương, mất nhân tính. Nhưng câu kết của Đoạn Tin Mừng hôm nay là một đoạn kết có hậu, đầy tràn sự nhân đạo, ôn hòa. Vì sao, thưa quý vị? Thưa vì, “Chúa Giêsu- Đấng Cứu Thế, đứng trên mọi quyền lực”.
Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay, tuy có 11 câu, nhưng có thể chia làm 3 phần:
Phần 1: Nội dung dụ ngôn “ Dụ ngôn vườn nho và những tên tá điền ác nhân “ (Mt 21, 33- 39) Phần 2: Vấn đề Chúa Giêsu đặt ra và sự trả lời của người Do-thai. (Mt 21, 40 – 41) Phần 3: Sự trả lời của Chúa Giêsu và ý nghĩa nhân hậu của vấn đề. (Mt 21, 42 -43)
Như vậy, ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học vô cùng cao siêu từ Thiên Chúa là Cha nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng không nhu nhược. Bởi vì, Người đứng trên mọi quyền lực. Điều đó được biểu lộ tại câu 43 của Tin Mừng thánh Mat-thuê.
Qua đoạn nầy, chúng ta xem lại các đoạn (Mc 12, 1- 12); (Lc 20, 9-19), sẽ thấy điểm khác biệt của Tin Mừng Matthuê, thánh Mat-thuê thường sử dụng từ “Gia Chủ” để chỉ về Thiên Chúa. Đây là từ ngữ được đặc trưng cho Matthuê, hầu đề cập đến một Nước Thiên Chúa siêu nhiên.
Khởi đi từ bài đọc I (Is 5, 1- 7), chúng ta thấy Thiên Chúa nhân từ yêu thương dân tộc Israel, chi họ Giu-đa. Hình ảnh vườn nho là một sự thân thương, một hoạt cảnh thiết thực trong đời sống dân Do-thai, được Thiên Chúa yêu thương, săn sóc, vỗ về.
Bài đọc II thánh Phao-lô (Pl 4, 6 - 9) chỉ dạy cho chúng ta biết, chúng ta đừng lo lắng, nhưng hãy cậy trông tin tưởng vào Thiên Chúa, vì bình an của Thiên Chúa vượt lên trên tất cả, sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Đức Kitô – Giêsu. Vì những điều tốt là những điểm cần chú ý và đã được nhìn thấy từ thánh nhân thì nên thực thi.
Trở về Đoạn Tin Mừng hôm nay, tại câu 34, thánh Matthuê cho chúng ta thấy, Nước Thiên Chúa đang đến gần: “Gần đến mùa hái nho, ông cho đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi” (c34). Qua câu nầy, thánh Matthuê đã dùng một mệnh đề tạo hình dáng cho người đọc thấy được đặc tính Nước Thiên Chúa sắp đến gần. Điều nầy sẽ xuất hiện ở câu 43 là câu mấu chốt của vấn đề. Ở câu 35; Đánh đập các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, thật là sát nhân. Điều nầy theo nghĩa bóng là giết hại các tiên tri, bất chấp sự giáo huấn của họ. Nhưng theo nghĩa đen, thì cảnh tượng nầy chính là nằm ở lòng tham của phàm nhân. Chúng ta thấy, hình ảnh nầy, theo nghĩa đen thì không xa lạ gì với tâm trạng tội lỗi của nhân loại. Người làm công và tá điền cũng thường dấy lên để chống lại chủ. Tuy nhiên cũng có những chủ nhân bất công, hà khắc, nhưng cũng có những chủ nhân tốt. Dù sao, tâm lý tá điền và người làm công, nếu như không có nhân đức, thì lòng tham dễ nổi lên. Thánh Matthuê đã đưa thêm vào so với Mc và Lc, là giết người và ném đá điểm nầy. Câu 36 -37, chúng ta thấy thánh Matthuê đã tóm tắt cảu Mc, loại bỏ tính từ “được yêu thương” dành cho “Người Con” của ông chủ. “… Ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “chúng sẽ nể con ta”. (c 37). Nhưng khi bọn tá điền vừa trông thấy người con trai thì hè nhau nói: “Nào đây, là đứa thừa tự đây rồi!”. “Chúng ta giết quách cho xong, và chiếm đoạt gia tài nó.” (c 38). Và rồi chúng cũng giết luôn người con trai của ông chủ. (c 39). Như vậy, chúng ta thấy sự tàn ác theo nghĩa đen là do của cải vật chất, sự ganh tỵ, sự ích kỷ, sự tàn ác chính là hệ quả của lòng tham.
Ở câu 39 thánh Matthuê đã đưa vào một ngụ ý là Chúa Giêsu sẽ chịu “tử nạn” ở bên ngoài thành Giêrusalem “quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi”.
Câu 40-41, Matthuêu cho thấy cuộc đối thoại mà trong đó sự trả lời gay gắt, mạnh mẽ của các kinh sư, nhằm lên án sự ác nhân, thất đức của các tá điền bất lương. Chính là những hành động của dân Israel đã hành động đối với Thiên Chúa là Ông Chủ của họ. Về mặt nhân bản tự nhiên, khi nghe câu chuyện như vậy, con người vẫn tỏ thái độ phán xét vội vàng, tưởng chứng như một quan tòa chí công.Khi phàm nhân nghe thấy, hoặc chứng kiến một sự thiếu công bằng nào đó, họ dễ nổi giận ngay và đưa ra một “phán quyết”, nhưng Thiên Chúa thì không “trả đũa”.
Nhưng ở câu 42, được trích từ Thánh Vịnh 118, 22- 23, được Chúa Giêsu dùng để bảo họ. Các ông chưa từng bao giờ đọc câu nầy trong Kinh Thánh sao?: “Tảng đá bị thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Nhưng quan trọng là ở câu 43. “Bởi đó, Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (c 43).
Ý nầy chính là sự đóng góp quan trọng của thánh Matthue, làm cho phần giải thích của dụ ngôn “vườn nho và những tá điền bất nhân” nầy thêm phong phú, nhằm hé mở ra một ngụ ý về lịch sử cứu độ của Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Những người được sai đến là các tiên tri, ngôn sứ, nhưng đều bị người Israel giết hại, cuối cùng lên đến cực điểm là chính Chúa “GIÊSU”, với tư cách là “người con trai”.
“Nước Thiên Chúa” có thể được hiểu như là một điều gì đó như một sở hữu hiện tại của sự bảo bọc và ân sũng bởi Thiên Chúa, nhưng những động từ ở quá khứ và tương lai có thể làm cho câu nầy trở nên một ý nghĩa như một “Lời Hứa” ban phước vào ngày thế mạt hco mọi dân tộc. Theo đó, nơi Thiên Chúa không có sự trừng phạt nào, bởi đã có Chính Đấng Cứu Chuộc. Điều nầy có thể được minh định bởi câu nói của Chúa Giêsu: “Ta đến không phải để lên án thế gian. Nhưng để cứu chuộc thế gian. Hầu thế gian nhờ Ta mà được sống. Sống dồi dào và sung mãn” (Ga 3, 17); (Ga 12, 47); (Ga 10, 10).
Từ “dân” (c 43) ở đây chỉ Giáo Hội, được Mattheu đưa lên như là sự mở màn cho những người Israel có lòng tin và những người cải tà qui chánh, qui hồi về niềm tin, thức tỉnh, giác ngộ. Nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Những ai mà cùng nhau xây dựng dân tộc mới của Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội Công Gíao là một tiêu biểu, một sự cứu độ phổ quát cho hết mọi người, đó là dân Do-thái thực thụ.(không hiểu như nghĩa đen).
Theo đó, sự kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì ôn hòa hơn là nội dụng dụ ngôn. Nói cách khác là đoạn kết có hậu. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng “Lời Hứa” bị lấy đi ban cho người khác. Đó là cách xử lý của Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?
Lạy Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trần gian,là Đấng chính Chúa Cha sai đến, Chúa là Đấng đứng trên hết mọi quyền lực. Nơi Chúa không có sự thua cuộc, không có hận thù, chỉ có tha thứ và yêu thương, vì đó là NƯỚC THIÊN CHÚA, nhưng Chúa sẽ lấy lại, nếu như kẻ lãnh nhận bất xứng, chứ Chúa không tiêu diệt. Vì sự trừng phạt của Chúa, chính là thu hồi “ân sủng” là “Lời Hứa” yêu thương ngọt ngào như sữa và mật ong. Xin thương ban cho con người biết nhận ra chân lý ấy mà sám hối ăn năn, hầu đáng lãnh nhận ơn tha thứ./. Amen.
Năm 1965 trong chuyến bay từ Ý qua Mỹ, có một số Giám Mục trở về sau khi tham dự Công đồng TN 27-A102
Năm 1965 trong chuyến bay từ Ý qua Mỹ, có một số Giám Mục trở về sau khi tham dự Công đồng Vaticanô II. Có 1 nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp nhưng cô lại rất bực mình vì có một người cứ chăm chú nhìn cô, người đó là Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, vị giảng thuyết lừng danh của Hoa Kỳ. Khi hạ cánh, Đức Tổng nói với cô: “cô đẹp lắm, cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.” Mấy hôm sau cô chiêu đãi viên này tìm đến văn phòng Đức Tổng và hỏi con phải cám ơn Chúa thế nào? Đức Tổng trả lời: “Chúa đã lấy hết sắc đẹp của người cùi trong trại cùi Di linh bên VN mà ban cho cô, cô hãy qua đó an ủi họ.” Sau một thời gian, cô này đã nhập Dòng làm nữ tu và tình nguyện sang Việt Nam phục vụ tại trại cùi Di Linh.
Một tấm gương sáng và rất anh hùng.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm đều nói về vườn nho. Vườn nho đó chỉ về dân Do Thái là dân riêng Chúa và cũng chỉ về mỗi người Công giáo chúng ta, vì khi chịu phép Rửa tội chúng ta thuộc về Giáo hội, là dân riêng Chúa.
Có 3 điểm nói về Thiên Chúa.
a/ Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài là chủ vườn nho, nghĩa là chủ thân xác và linh hồn chúng ta, nhưng Ngài tin tưởng và giao cho chúng ta canh tác, ban cho chúng ta có tự do để làm ích lợi hay làm thất thoát vườn nho đó.
b/ Thiên Chúa kiên nhẫn với con người: Ngài ban ân huệ như rào dậu chung quanh, xây tháp canh, đào hầm ép rượu, cho người tới thăm hỏi, cho thời gian sinh lợi.
c/ Thiên Chúa phán xét con người: Sau cùng khi đến hạn là lúc chúng ta nằm xuống, Ngài phán xét tùy theo chúng ta sống: phục vụ hay ích kỷ, sinh lợi hay khô cằn, chuyên cần hay lười biếng…
Có 3 điểm nói về con người.
a/ Con người có ân huệ Chúa ban: tự do, thời giờ, khả năng, ơn thánh… Thiên Chúa đã ban đủ phương tiện để chúng ta đạt mục đích.
b/ Con người có nhiều cơ hội: Chúa đã sai nhiều người tới nhắc nhở, cho nhiều biến cố xẩy ra để cảnh báo, cho nhiều thời gian để lập công phúc…
c/ Con người phải trả lẽ trước toà Chúa: mẫu số chung của con người là cái chết. Chúa có dịp hái nho ngọt để thưởng thức hay nho dại để đốt đi. Hoa lợi sinh cho Chúa là những việc lành hay gai góc là những việc xấu.
Ai cũng có 1 kiếp sống và chỉ một kiếp sống mà thôi. Chúng ta không có 2 kiếp để đánh đổi hay thử nghiệm. Những việc chúng ta làm ở đời nàysẽ định đoạt cho chúng ta ở đời sau. Thiên Chúa muốn cuộc sống của chúng ta phải sinh lợi cho Chúa và tha nhân. Ngài ban đủ phương tiện, Ngài cho đủ thời gian, Ngài không đòi hỏi điều vô lý hay quá sức chúng ta. Những chùm nho chín ngọt mà Thiên Chúa mong muốn là những nhân đức, những việc lành, những hy sinh, những phút giây cầu nguyện, những hành vi bác ái…
Cầu chúc cho nhau, với Ơn Chúa giúp và sự cố gắng của mỗi người, cuộc đời mình là Vườn Nho xanh tươi và chùm nho chín ngọt.
Qua câu chuyện bọn tá điền giết hại các tôi tớ mà ông chủ vườn nho sai đến để thu hoa lợi, và TN 27-A103
Qua câu chuyện bọn tá điền giết hại các tôi tớ mà ông chủ vườn nho sai đến để thu hoa lợi, và giết luôn cả người con ông chủ, Chúa Giê-su phê phán những người Do-Thái đã ra tay giết hại các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến với họ và thậm chí, sau này họ cũng giết luôn chính Ngài là Con của Thiên Chúa Cha.
Tại sao người Do Thái giết hại các ngôn sứ và giết cả Chúa Giê-su?
Vì Chúa Giê-su cũng như các vị ngôn sứ này đã vạch trần tội lỗi của họ nhằm kêu gọi họ ăn năn hoán cải (Lc 11, 53).
Người đời thường oán ghét những ai chỉ lỗi cho mình
Liên quan đến vấn đề này, Tin mừng có thuật lại hai sự việc như sau:
Thứ nhất. Ông Gioan tẩy giả khuyên vua Hê-rô-đê đừng lấy người chị dâu là Hê-rô-đi-a làm vợ; đây là lời khuyên chính đáng, vậy mà vua không nghe lại còn tống giam Gioan vào ngục và sau đó, truyền cho lính chặt đầu Gioan (Mt 14, 3-12).
Thứ hai. Hôm ấy, Chúa Giê-su vào hội đường Na-da-rét vào ngày Sa-bát. Ngài đứng lên đọc sách và sau đó, Ngài nói cho dân thành Na-da-rét biết xưa kia vào thời ngôn sứ Ê-li-a, khi dân Do Thái bị hạn hán suốt 3 năm 6 tháng, Thiên Chúa sai ngôn sứ Ê-li-a đến cứu giúp bà góa thành Xa-rép-ta ngoại giáo mà không cứu giúp các bà góa Do Thái; cũng như thời ngôn sứ Ê-li-sa có nhiều người phong cùi trong dân Do Thái không được Thiên Chúa cứu chữa mà chỉ có ông Na-a-man người Sy-ri ngoại giáo được Thiên Chúa sai ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành.
Khi nghe những lời này, những người trong hội đường đầy phẫn nộ, nhất tề đứng dậy, xông tới túm lấy Chúa Giê-su, lôi Ngài ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn xô đẩy Ngài lên tận đỉnh núi, hòng xô Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài khỏi cuộc sống, vì Ngài đã nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng liên quan đến cha ông họ (Lc 4, 21-30).
Hôm nay cũng thế, nhiều người đang sống quanh ta cũng nổi trận lôi đình khi có ai đó chỉ cho thấy những lầm lỗi, những yếu kém của họ. Thế là thay vì nhận lỗi và sửa sai, người ta quay ra oán hận người chỉ lỗi cho mình. Đáng tiếc biết bao!
Còn chúng ta, chúng ta phản ứng thế nào khi người khác chỉ lỗi cho mình? Có bao giờ chúng ta oán ghét, giận hờn, không muốn nói chuyện, không muốn nhìn mặt người chỉ lỗi cho mình, không?
Nên nhớ rằng không có ai trên đời là người hoàn thiện. Bất cứ ai cũng mắc phải thiếu sót, lỗi lầm. Vì thế, nếu có người nhận xét rằng bản thân ta có lỗi lầm, có thiếu sót… thì đó là chuyện bình thường, đã là người thì phải như thế thôi; do đó, không đáng buồn, chẳng đáng giận, chẳng đáng trách.
Điều đáng tiếc là ta có lỗi mà lắm khi ta không nhận ra lầm lỗi của mình; ta khiếm khuyết mà không nhìn thấy khuyết điểm của ta, nên không thể cải thiện được bản thân mình.
Thế nên, nếu có người giúp ta thấy lầm lỗi, khiếm khuyết của mình để khắc phục, thì ích lợi cho ta biết bao. Vì thế, ta phải chân thành biết ơn người đó, thay vì oán ghét hay hận thù.
Lạy Chúa Giê-su, Ai trong chúng con cũng mắc phải lỗi lầm và thiếu sót mà lắm lúc không tự biết. Vì thế, mỗi người chúng con đều cần có người khác chỉ lỗi cho mình, nhờ đó, chúng con có thể sửa đổi cuộc đời, hoàn thiện cuộc sống.
Xin cho chúng con đừng oán ghét, giận hờn người chỉ lỗi cho, trái lại, luôn chân thành biết ơn những người ấy, vì nhờ họ mà đời sống chúng con có cơ may trở nên tốt đẹp hơn. Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Từ Bài Đọc I đến Tin Mừng cách nhau khoảng tám trăm năm, nhưng cả hai đối đáp với nhau qua TN 27-A104
Từ Bài Đọc I đến Tin Mừng cách nhau khoảng tám trăm năm, nhưng cả hai đối đáp với nhau qua dụ ngôn vườn nho với cung điệu bi thương.
Is 5: 1-7 Trong bài thi ca trữ tình theo thể hát đối, ngôn sứ I-sai-a ca ngợi vườn nho được người chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại ngược với lòng mong ước của ông. Lúc đó, lời oán trách của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bạc nghĩa, “chính là dân Ít-ra-en”.
Pl 4: 6-9 Những lời thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê thì ngược lại, đây là sứ điệp tràn ngập bình an, chan chứa tin tưởng và đầy nhân ái.
Mt 21: 33-43 Tin Mừng là dụ ngôn “các tá điền gian ác”: sau khi bách hại các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng giết cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.
BÀI ĐỌC I (Is 5: 1-7)
Bài thi ca của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng mô tả dân Ít-ra-en là vườn nho của Đức Chúa. Trước đây, hình ảnh dân Ít-ra-en là vườn nho của Chúa được ngôn sứ Hô-sê phác họa vài nét đơn sơ, nay được ngôn sứ I-sai-a lấy lại với một nguồn thi hứng phong phú. Vì thế, hình ảnh nầy được lập lại nhiều lần trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 32: 32), Thánh vịnh (Tv 80), bởi ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), ngôn sứ Êdê-ki-en (Ed 15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Dụ ngôn vườn nho của Đức Giê-su (Mt 21: 33-41) rõ ràng quy chiếu đến bài thi ca của I-sai-a.
1.Ngữ cảnh:
Khoa chú giải có thể định vị niên biểu của bài thi ca vườn nho nầy vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị vương quốc Sy-ri liên minh với vương quốc phương Bắc vây hãm.
Trước đó, ngôn sứ I-sai-a đã lên án tội thờ ngẫu tượng của vương quốc phương Bắc, vương quốc Ít-ra-en, mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc phương Nam, vương quốc Giu-đa, mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài thi ca vườn nho của ông là một lời cảnh báo.
Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài thi ca của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, Pa-lét-tin là miền đất trồng nho, vì thế, bài thi ca của ngôn sứ I-sai-a gây tác động mạnh độ nhạy cảm của một dân trồng nho.
2.Cấu trúc:
Bài thi ca được xây dựng theo hình thức một bài thi ca trữ tình, nhưng tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là cây nho hoặc vườn nho. Trong bài thi ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được lồng vào nhau một cách mật thiết. Sự ân cần chăm sóc của người chồng được đền đáp bởi sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Như trong các bài thi ca trữ tình, bài thi ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.
Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là người trồng nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, người chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời (5: 7), chính lúc đó mặc khải gây choáng váng: ông chủ vườn nho không ai khác chính là Đức Chúa; vườn nho không sinh trái tốt chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì phụ tình bạc nghĩa của nó.
3.Bạn của người chủ vườn nho (5: 1-2):
Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của người chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng bởi “bạn của chàng rể” trong những bài tình ca được hát trong đám cưới (tước hiệu này thánh Gioan Tẩy Giả sẽ áp dụng cho mình). Bài thi ca mô tả người chồng hết mực trìu mến chăm lo cho người vợ của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình, rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”.
Đức Giê-su sẽ trích dẫn đúng nguyên văn vài chi tiết của bài thơ trong dụ ngôn của mình về “bọn tá điền sát nhân”: “Có một gia chủ kia trồng được vườn nho; chung quanh vườn, ông rào dậu; ông khoét bồn đạp nho, và xây một vọng gác” (Mt 21: 33). Một vọng gác được xât trong vườn nho nói lên tấm lòng ân cần chăm sóc hết mức của người chủ đối với vườn nho của mình: canh giữ ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con thú phá hoại … Than ôi, cho dù được ông chủ vườn nho ân cần săn sóc đến như thế, vườn nho chỉ sinh trái nho dại! 4.Người chủ vườn nho (5: 3-6):
Đến phiên mình, người chủ vườn nho thổ lộ tâm can của mình. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng cho những công sức đổ ra vô ích của mình:
Vậy bây giờ,
dân Giê-ru-sa-lem, và người Giu-đa hỡi,
xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho” (5: 3).
Dụ ngôn trở nên rõ nét hơn. Theo hình ảnh nầy, độc giả nhận ra ông chủ vườn nho thật sự là ai. Vườn nho vô ơn bạc nghĩa sẽ đón nhận sự trừng phạt đích đáng:
“Tôi biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu,
không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm;
sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống” (5: 6).
Đây là lối nói ngoa dụ, nhưng cũng để cho thoáng thấy một ông chủ vườn nho quyền năng.
5.Ngôn sứ (5: 7):
Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài thú nhận mình là vườn nho được vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những trái nho dại.
Phương pháp tâm lý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than áp dụng cho vua Đa-vít, khi vua cướp đoạt vợ của tướng U-ri. Na-than xây dựng một dụ ngôn kể về người giàu cướp đoạt con chiên độc nhất của người nghèo. “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Na-than nói với vua: “Kẻ đó chính là Ngài” (2Sm 12: 1-7). Dụ ngôn của ngôn sứ I-sai-a cũng theo một cách như vậy:
“Vườn nho của Đức Chúa, các đạo binh, chính là nhà Ít-ra-en đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giu-đa” (5: 7).
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.
1.Di sản Do thái giáo:
“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Nét đặc trưng của lời cầu nguyện Do thái giáo là lập đi lập lại những lời ngợi ca cảm tạ tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, theo đó các tín đồ khẩn khoản nài xin Thiên Chúa luôn rủ lòng thương. Mặt khác, lời ngợi ca được xen kẻ với những lời thỉnh nguyện. Các Thánh Vịnh minh chứng rất rõ nét điều nầy. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Ki-tô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp-phê thực hành như thế.
2.Mặc Khải Ki-tô giáo:
“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô”: Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”, nhưng còn những ơn khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh Phao-lô đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu với nhau và giữa các Ki-tô hữu với muôn dân. Bình an là một khía cạnh của cuộc sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.
3.Lý tưởng Hy lạp:
Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Thánh nhân bảo họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.
Như vậy, thánh Phao-lô đã không dửng dưng trước lý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Ki-tô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào lời dạy tông đồ để không có bất kỳ kiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”.
TIN MỪNG (Mt 21: 33-43)
Tiếp theo dụ ngôn “hai người con” mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu tiếp tục kể dụ ngôn “những tá điền gian ác” trong cùng một chiều hướng và cùng nhắm đến một đối tượng: “Các thượng tế và các kỳ mục”.
1.Dụ ngôn:
Đức Giê-su mượn ở nơi bài thi ca của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh về một gia chủ “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại triển khai theo một chiều hướng khác với I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ rơi thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng được nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.
Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như đã giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”.
Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình: “Thế là chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.
2.Ý nghĩa của dụ ngôn đối với lịch sử cứu độ:
Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Vườn nho của Thiên Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ vun xới và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ phải trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ nầy đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn cư xử các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng sự nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính con một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy người Con Một của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài.
Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn “hai con trai” trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Một Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi sự gian ác của họ.
3.Ý nghĩa dụ ngôn đối với Giáo Hội.
Như vị ngôn sứ trong bài thi ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ trước cách hành xử gian ác của bọn tá điền, không ngờ chính họ lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn “hai người con” trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng. Đức Giê-su trích dẫn Tv 118: ‘Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh Vịnh nầy ca ngợi cuộc chấn hưng của dân Ít-ra-en trong tương lai và được giải thích như Thánh Vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở nơi Thánh Vịnh này lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Ki-tô (x. Cv 4: 11 và 1Pr 2: 7).
Con Thiên Chúa can thiệp và bị giết chết, xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người Con nầy, một dân mới chào đời, dân mới này được biểu thị không còn bởi hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy, Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường hay viên đá chóp đỉnh, sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt. 16: 18).
(Suy niệm Tin mừng Chúa nhật XXII, TN-A: Mt 16,21-27)
M. Lasan Châu Sơn.
Có thể nói đời người là một tiến trình từ bỏ liên tục. Hài nhi từ bỏ cung lòng êm ấm an tòan của TN 27-A105
người mẹ để cất tiếng khóc chào đời. Em bé phải từ bỏ bầu sữa ngọt ngào tươi mát của mẹ mới cỏ thể thưởng thức được nhiều hương vị trần gian. Người thanh niên nam nữ phải rời bỏ cha mẹ để xây dựng một tổ ấm cho riêng mình… có ai trong chúng ta đã không phải từ bỏ?
Từ bỏ trở thành quy luật để sống và lớn lên. Cuộc từ bỏ nào mà chẳng làm người ta không cảm thấy luyến tiếc xót xa. Phải từ bỏ những điều xấu, những tệ nạn trai gái, rượu chè, hút sách đã khó. Đằng này cần bỏ những điều tốt để chọn một điều tốt hơn, xem ra lại càng khó. Thế mà, Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta “Ai muốn đi theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Từ bỏ ở đây, chính mình là từ bỏ cái “tôi”, bỏ cái tự do của mình, chấp nhận vác lấy thánh giá bước theo Chúa, thật khó biết bao? Phải chăng đây là điều không thể?
Theo Kitô Giáo, bỏ cái tôi không phải là xóa ra không, không phải như giọt nước hòa vào đại dương. Bỏ không phải là mất nhưng là được: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (thánh Phanxicô). Cuộc đời của Chúa Giêsu minh chứng điều đó: chính khi ngài bỏ vinh quang của một Thiên Chúa, trở thành phàm nhân, nhận lấy thánh giá thì ngài lại trở nên nguồn ơn cứu độ cho mọi người.
Là người môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa đã đi qua; đó là con đường từ bỏ, hi sinh mạng sống. Bỏ cái tôi ích kỉ vì lợi ích của tha nhân. Bỏ những vinh danh bản thân, để danh Chúa được tôn vinh. Bỏ đời tạm đổi lấy đời đời.
Đồng thời, chúng ta vác lấy thánh giá đời mình là những trách nhiệm, là những đau khổ thử thách, hiểu lầm bệnh tật hằng ngày cùng với biết bao “âu lo cuộc sống, băn khoăn tương lai này”. Chắc chắn rồi, khi chúng ta chọn Thánh giá Chúa Kitô là mang vào thân sự hi sinh vì lòng mến Chúa và yêu người. Nhưng chứa chan hi vọng bởi chính những hi sinh đó có giá trị xây dựng bình an hạnh phúc ngay ở đời này và đời sau. Chúa Giêsu đã không cứu chuộc được ai nếu Ngài không tự nguyện hi sinh. Hi sinh không phải là chết mà là sống, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).
Thích sướng - ngại khổ, tham sống - sợ chết là lẽ thường tình của con người. Ai lại chẳng muốn đời mình xuôi chèo mát mái, khỏi phải đương đầu với gian nan trắc trở. Là Kitô hữu, chúng ta cũng không tránh khỏi tâm trạng đó. Nhiều khi chúng ta muốn sống đạo một cách tự do thoải mái, không phải nhọc công gắng sức, không phải hy sinh khổ chế. Nhưng lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bỏ mình: bỏ những suy tính theo kiểu con người để vác lấy thập giá đi theo Chúa: nguồn hạnh phúc viên mãn.
Khi trao thập giá cho chúng ta, Chúa luôn luôn ban các ơn cần thiết giúp chúng ta đủ sức vác theo Ngài. Nếu chúng ta thấy thập giá của mình quá nặng nề, ấy là vì chúng ta đang vác nó với sức riêng của chúng ta thôi. Chúa Giêsu biết rõ điều này nên Ngài dạy chúng ta phải từ bỏ chính mình trước đã, rồi mới có thể vác thập giá bước theo Chúa, bởi vì, khi từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ hoàn toàn cậy dựa vào Chúa, sẽ bước đi dưới sự nâng đỡ của Chúa.
Đời sống của các vị thánh cho ta thêm xác tín điều đó. Đối với thánh Phêrô có lẽ thánh giá lớn của ngài là sợ hãi. Dù thánh Phêrô đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, thế mà giữa cuộc bách hại các kitô hữu ngài sợ hãi trốn khỏi Rôma, đến cổng thành Phêrô đã gặp Chúa Giêsu đang vác thánh giá, ngài hỏi Chúa: "Quo vadis, Domine?" - "Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy?", Chúa Giêsu trả lời: "Eo Romam crucifigi iterum" - "Ta vào thành Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa" - ngụ ý nhắc nhở Phêrô phải can đảm tiếp tục gánh vác sứ vụ của mình. Nhờ đó, Phêrô thêm can đảm, ngài quay vào thành Rôma chịu tử đạo làm chứng cho Chúa.
Với thánh Phaolô, thánh giá của ngài có thể là sự yếu đuối chăng? Nhiều lần Phaolô đã phải kêu lên: điều tôi muốn thì tôi không làm, tôi cứ làm điều không muốn. Ai có thể cứu tôi khỏi cảnh khốn nạn này. Và Chúa hứa với ngài: “Ơn của Thầy đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ qua sự yếu đuối”. Thánh nhân đã cậy nhờ ơn Chúa để chiến thắng những yếu đuối của mình và nhiệt thành rao truyền tình thương của Chúa cho mọi người.
Chúng ta cũng biết đến thánh giá của thánh nữ Monica,với những lo toan, nhịn nhục, hi sinh trong đời sống gia đình... đau khổ vì chồng vì con, thánh nữ dâng lên Chúa tất cả. Và chính Chúa đã ban cho ngài được lại người chồng sùng đạo, người con làm giám mục và cả hai mẹ con đều làm thánh.
Như thế, phúc cho những ai biết bỏ mình vác thánh giá của mình hằng ngày mà theo Chúa vì họ sẽ được hưởng bình an, hạnh phúc ở đời này và chắc chắn sẽ được Thiên đàng làm gia nghiệp vậy. Amen.
Cha mẹ sinh con bao giờ cũng đặt niềm kỳ vọng nơi con cái, với ước mong chúng sẽ thành đạt TN 27-A106
Cha mẹ sinh con bao giờ cũng đặt niềm kỳ vọng nơi con cái, với ước mong chúng sẽ thành đạt và là người có ích cho xã hội. Có những người cha mẹ được toại nguyện và tự hào về con cái mình; nhưng cũng có những người cha mẹ đau khổ vì những đứa con bất hiếu, thậm chí còn là nỗi hổ nhục cho bậc sinh thành. Thiên Chúa là Cha của hết thảy mọi người. Cũng như những bậc cha mẹ ở trần gian, Ngài luôn muốn cho chúng ta được những điều tốt lành. Khi tạo dựng con người và vũ trụ, Thiên Chúa muốn san sẻ cho họ một phần vinh quang và sự tốt lành của Ngài cho mọi tạo vật. Có nhiều người đã cậy dựa vào ơn Chúa, cố gắng vượt qua những cám dỗ thử thách để nên thánh, như những đứa con sống đẹp lòng cha mẹ, hiếu thảo với đấng sinh thành; nhưng cũng có những người khước từ lời mời gọi của Ngài, cố tình sống trong ích kỷ và tội lỗi, giống như những người con bất hiếu phản nghịch. Tình trạng này được diễn tả trong đoạn trích sách ngôn sứ Isaia.
Israen là một đất nước nghề trồng nho phát triển, vì thế những chi tiết liên quan đến cây nho, cành nho, vườn nho, người trồng nho, việc cắt tỉa chăm sóc cây nho được nhắc tới nhiều lần trong Cựu Ước. Đây là Chúa nhật thứ ba liên tiếp, Phụng vụ dùng hình ảnh vườn nho để giáo huấn chúng ta về lòng thương xót của Chúa. Đặc biệt trong Chúa nhật XXVII này, Bài sách thánh thứ nhất và bài Tin Mừng cùng nói về vườn nho. Trước hết chúng ta thấy Lời Chúa trong sách ngôn sứ Isaia, vừa như một lời than vãn, vừa như một lời trách móc giận hờn. Quả vậy, Thiên Chúa giống như người trồng nho, thế gian này là một cánh đồng nho mênh mông rộng rãi. Người trồng nho chăm bẵm chuyên cần, mong thu được những hoa thơm trái ngọt. Tuy vậy, khi đến mùa hái nho, trái ngọt đâu chẳng thấy, chỉ thấy nho dại và trái đắng. Tâm huyết và kỳ vọng của chủ vườn nho đã trở nên vô nghĩa. Người trồng nho thất vọng và sẽ để cho vườn trở thành tan hoang tiêu điều. Ngôn sứ Isaia đã được sai đến để chuyển tải cho người Do Thái một thông điệp: họ là những kẻ bất trung. Họ không đền đáp cân xứng tình yêu thương và bao dung nhân hậu của Chúa. Họ sẽ phải lãnh lấy những án phạt xứng với tội ác họ đã phạm. Đất nước sẽ ra hoang vu, vì tội lỗi và bất trung của dân phản nghịch.
Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Đức Giêsu trong Tin Mừng Thánh Matthêu cũng dùng hình ảnh vườn nho. Dụ ngôn nhấn mạnh đến mối tương quan giữa ông chủ vườn và những người thợ làm vườn, cũng gọi là những tá điền. Trong câu chuyện này, những tá điền được diễn tả như những người bất lương, tham lam mưu mô chiếm đoạt tài sản của ông chủ, là người đã cưu mang và tạo việc làm cho mình. Từ thân phận người làm thuê, họ muốn thay ngôi đổi chủ để trở thành người giàu có. Họ cố tình chiếm hữu tài sản không phải là của mình. Họ vừa cướp của, vừa giết người. Mà người bị giết là con của ông chủ, tài sản bị cướp là tài sản của ông chủ, người rất tốt với họ, sẵn sàng đón nhận họ kể cả ở giờ thứ mười một và trả lương cho họ cách hào phóng (Tin Mừng chúa nhật trước). Những chi tiết này của câu chuyện đã nêu bật sự gian ác bất lương của họ.
Với một dụ ngôn ngắn, Chúa Giêsu đã phác họa toàn bộ lịch sử cứu chuộc với những can thiệp của Thiên Chúa, vào những giai đoạn khác nhau nhằm đem lại cho con người hạnh phúc. Tuy vậy, con người đã khước từ tình thương của Thiên Chúa. Đối lại với những lời giảng dạy nhằm thiết lập tình bác ái, những thượng tế, luật sĩ,biệt phái và một số người Do Thái đã lên án tử cho Chúa. Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa, đã bị kết án tử hình thập giá và đã chết ngoài thành Giêrusalem, như người con thừa kế bị giết bên ngoài vườn nho.
Nếu Thiên Chúa luôn luôn ban ơn và hướng dẫn hầu đem lại cho con người hạnh phúc, thì con người lại khước từ và phản bội Chúa. Thái độ của những người tá điền cũng là thái độ của con người nói chung, nhất là của những tội nhân. Nhiều lần chúng ta khước từ lời mời gọi của Chúa. Thay vì làm theo ý Chúa thì chúng ta lại làm theo ý mình, thậm chí làm những điều trái ngược với lời dạy của Người.
Như thế, hình ảnh vườn nho diễn tả cuộc sống trần gian của chúng ta. Thiên Chúa đã đặt chúng ta trong “vườn-cuộc-đời”. Ngài thường xuyên chăm sóc, tỉa cảnh để chúng ta đem lại những hoa thơm trái ngọt cho đời.. “Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại… Chúa chỉ mong con người sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (Bài đọc I).
Cả bài Sách Thánh trích ngôn sứ Isaia cũng như bài Tin Mừng của Chúa nhật này đều có phần kết không mấy sáng sủa: đó là những lời cảnh cáo và trừng phạt vì một lối sống bất nhân, thiếu đạo đức, lỗi công bằng. Phải chăng cả hai bài đọc Lời Chúa này đều diễn tả thực trạng của xã hội hôm nay: đó là sự bất trung và coi nhẹ Thượng đế cũng như các giá trị thần linh. Giống như những tá điền bất lương, con người hôm nay muốn thay thế vị trí của Thiên Chúa. Họ còn dám coi mình là thượng đế, có thể giải đáp được mọi vấn nạn và đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Những thông tin thời sự gần đây cho thấy nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tiếp tục thi hành chiến dịch đập phá nhà thờ, xúc phạm các nơi thiêng thánh của các tôn giáo, trong đó có những nơi thờ tự thiêng liêng của Phật giáo đã tồn tại trên ngàn năm. Theo một nguồn tin cho biết, trong năm 2019, chính quyền Trung Quốc đã triệt hạ khoảng 900 nhà thờ Kitô giáo. Họ còn báng bổ tôn giáo đến nỗi xây nhà vệ sinh trên những nền cũ của nhà thờ, nhà chùa, đốt sách vở tôn giáo và đập phá ảnh tượng. Những hành động phỉ báng thần linh chắc chắn sẽ phải lãnh nhận hậu quả.
Nếu cuộc đời này được sánh như một vườn nho, thì mỗi chúng ta, dù ở địa vị xã hội hay trình độ văn hoá nào, thì cũng đang là người tá điền trong vườn nho đó. Có những tá điền bất trung nhưng chắc chắn cũng có những tá điền tốt lành, nhân hậu, lắng nghe ý kiến và trung thành với chủ của mình. Quả vậy, Thiên Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta vào lúc cuối đời, để đón tiếp chúng ta như một người Cha. Tuy vậy, một người sống tội lỗi và đầy mưu mô phản loạn không thể xứng đáng ra trình diện trước nhan Chúa. Cũng như ông chủ vườn nho sai con mình đến thu hoa lợi, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến để phán xét chúng ta vào ngày tận thế. Chúa Giêsu đã nói về ngày phán xét chung ở tận cùng của lịch sử. Lúc đó, mọi người sẽ bị xét xử về những công việc họ đã làm cũng như về thái độ đối với anh chị em mình, khi họ còn sống trên dương gian.
Ngẫm chuyện xưa để học những bài học cho đời nay, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống tốt lành, năng cầu nguyện cùng Thiên Chúa và chuyên tâm thực hành lời Ngài dạy. Thánh nhân nêu cụ thể những thực hành đạo đức như sau: “Những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý thực hành”. Khi thực hành như thế, sự bình an của Chúa sẽ ở với chúng ta. Những thực hành đó sẽ giúp chúng ta kết hợp với Đức Giêsu và sẽ đạt được sự bình an đích thực là quà tặng của Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài (Bài đọc II).
Kính thưa anh chị em, chúng ta vừa bước vào tháng Mân Côi. Mỗi khi Đức Mẹ hiện ra tại một nơi nào, Mẹ thường gửi đến cho nhân loại thông điệp sám hối và lời mời gọi đọc kinh Mân Côi. Đó cũng chính là thông điệp của Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng lời mời gọi sám hối. Khi đọc kinh Mân Côi là chúng ta cùng với Đức Trinh nữ Maria suy niệm cuộc đời và giáo huấn của Chúa Cứu thế. Vì vậy, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi kinh Mân Côi là cuốn Tân Ước rút gọn. Vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quả quyết: Kinh Mân Côi là kinh cầu nguyện mà ngài ưa thích nhất. Vào thế kỷ 13, nhờ kinh Mân Côi, mà Giáo Hội được cứu khỏi cơn khủng hoảng và những mâu thuẫn. Trong tháng này, chúng ta hãy suy niệm kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, để qua Đức Mẹ, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Hai mươi mầu nhiệm Mân Côi giúp chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, đồng thời học hỏi nơi Người sự khiêm nhường, vâng lời và phó thác nơi Thánh ý Chúa Cha. Trong tất cả các mầu nhiệm ấy, Đức Trinh nữ luôn hiện diện để lắng nghe, suy niệm và thực thi Lời Chúa. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã thông phần đau khổ và đã đạt được ngành thiên tuế của phúc tử đạo. Ước chi mỗi chúng ta biết sống các mầu nhiệm Mân Côi như Đức Mẹ, để cùng với Mẹ hưởng vinh quang Thiên quốc.
Chủ đề: Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một, nhưng phó nộp vì chúng ta.
Kính thưa quý anh chị em,
Mạc khải “Thiên Chúa tình yêu và sự sống” vừa là chân lý, vừa là cảm thức đức tin. Là chân lý TN 27-A107
Mạc khải “Thiên Chúa tình yêu và sự sống” vừa là chân lý, vừa là cảm thức đức tin. Là chân lý, vì cớ hữu thể: bản thể Người là tình yêu. Là cảm thức đức tin, vì cảm nghiệm tình yêu tuôn đổ trong tâm hồn, ngập lút cả cuộc đời, khiến chúng ta trở thành con Chúa, nhờ Thánh Thần.
Là tình yêu và sự sống, Người không thể thí mặc hoặc bán đứng chúng ta cho sự dữ, cho quyền lực sự chết. “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez 33, 11).
Tình yêu hệ tại trong chính quyết định cội nguồn: ban Con Một giáng trần, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài, không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
Để chuộc lại sự hư mất, Chúa Cha đã hành động mạnh mẽ và quyết liệt: không buông tha người “Con” ấy, nhưng phó nộp, vì tất cả chúng ta.
Tuyên xưng Thiên Chúa “tình yêu và sự sống” là “đúng”, ngược lại, mô tả Người ưa giận dữ, trừng phạt, báo oán là “sai”.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả Thiên Chúa ban tặng ơn cứu độ, bất chấp tội lỗi và sự chết.
Phải nói ngay rằng: tình yêu cứu chuộc là một mầu nhiệm, trong đó ánh sáng/bóng tối, ân sủng/tội lỗi đan xen và Chúa sẽ rút tỉa ánh sáng giữa tối tăm, ân sủng cứu độ giữa tội lỗi và sự chết, theo một nguyên lý thần linh: “Những ai yêu mến Chúa, thì Người đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành” (Rm 8, 28).
Từ những nguyên lý vừa trình bày, chúng ta phân tích các bài sách thánh vừa tuyên đọc, để thêm xác tín: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến đỗi đã thí ban Người Con Một, để những ai tin vào Ngài, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Jn 3, 16).
Bài đọc I là bài ca và những ai oán về vườn nho. Nội dung là một bản cáo trạng đối với nhà Israel không đáp ứng được sự kỳ vọng của Chúa.
Ông chủ rất thật yêu quý vườn nho mình. Ông đã làm tất cả những gì cần thiết để có một vườn nho giá trị, một mùa nho bội thu, nhưng kết quả lại trái ngược. Nó sinh toan nho dại!
Phải tính sao đây? Công bằng mà nói, phải đập bỏ, phá hủy, thay bằng những cây khác.
Thiên Chúa không hành xử theo lẽ công bằng giao hoán, mà trên tất cả, Ngài hành xử bằng tình yêu nhân hậu, dẫy tràn lòng xót thương. Người không phá bỏ, mà chữa trị để nó có thể ra trái tốt hơn.
Hãy xem cách chữa trị kỳ diệu của tình yêu, mà thế gian cho là điên rồ: “phó nộp người Con vì sự sống trần gian”.
Chúa Cha, trong bài Phúc Âm, đã năm lần, bảy lượt gởi bầy tôi tới thu phần hoa lợi là đời sống công chính của dân, nhưng không có kết quả. Sau cùng, đã sai chính con một tới. Thay vì kiêng nể, bọn tá điền đã bắt cậu lôi ra khỏi vườn và giết chết.
Nếu dừng ngang tại đó, câu chuyện thật bi thảm: bi thảm cho bọn tá điền sát nhân, nhưng cũng bi thảm với cả ông chủ. Xem ra ông chủ mất nhiều, mất tất cả: mất con một yêu dấu, mất bao nhiêu tôi tớ làm việc trong nhà, và rồi mất luôn cả những kẻ thủ ác không còn cơ may hoán cải...
Vậy, phải hiểu sao đây?
Đọc tiếp đi, để mọi bế tắc được khai thông: “Tảng đá bị thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá tảng góc tường. Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21, 42).
Cho dù, có bị người đời loại bỏ, giết chết, Giê-su vẫn là căn nguyên phần rỗi đời đời, vẫn là đá tảng kiên cố chống đỡ tòa nhà nhân loại.
Dụ ngôn ông chủ và tá điền vườn nho chỉ muốn dạy bài học: đừng có ai cố chấp đến cùng trong tình trạng bất hảo. Hãy mau nhận ra tiếng Chúa mời gọi qua các dấu chỉ thời đại, qua các sứ giả Chúa gởi đến nhắc mình còn mắc nợ Ngài. Hãy lo trả nợ khi còn có thể, mới là những tá điền tốt trong vườn nho của Chúa.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, chỉ cách trả nợ cho Chúa. Đó là, cố sống thánh thiện, đạo đức, chính trực, yêu thương, hiệp thông. Như vậy, anh chị em luyện được lòng trí khôn ngoan và được bình an. Sự bình an của Chúa sẽ giữ gìn lòng trí anh em được luôn kết hợp với Đức Kitô. Khi Chúa đến sẽ thấy anh em đang tỉnh thức và hân hoan trông đợi Người. Anh em sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi.
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:
Một là: Tất cả chúng ta đều là những tá điền vườn nho. Chúa sắm cho ta mọi phương tiện: mạng sống, sức khỏe, khả năng, môi trường, cha mẹ, bạn bè... Vậy, chúng ta mắc nợ Ngài. Phải nhận ra điều đó, để sống lòng biết ơn và sống có ý nghĩa, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn (có thể minh họa bằng bài thơ mắc nợ, của t/g. Nguyễn Văn Thiên).
Ta mắc nợ mùa thu, Bài thơ lá rụng, sương mờ. Ta mắc nợ ai, bao năm rồi chưa trả nổi. Một nụ cười, má lúm đồng xu, Chúng mình mắc nợ mẹ hiền lời ru Mắc nợ thầy cô một dấu chấm câu đặt không đúng chỗ, Mắc nợ bạn bè một lần vẫy tay cuối phố, Mà một đời trả mãi chắc chi xong.
Ý thức mình đang mắc nợ Chúa, mắc nợ cuộc đời, cố gắng sống ơn gọi tình yêu với Chúa và với tha nhân là cách trả nợ, cách đền ơn đáp nghĩa hữu ích và sinh ơn cứu độ cho chúng ta.
Hai là: Đừng bao giờ tỏ ra chai đá, cứng lòng, sống lì trên nẻo đường bất hảo, để tự chuốc lấy bất hạnh. Đây là lúc thuận lợi, đây là giờ cứu độ. Chúa đang kiên nhẫn chờ đợi chúng ta trở về. Ngài mở tiệc mừng!
“Hãy trở về với Ta, nối kết tình cách xa bao năm qua. Hãy trở về với Ta, nối kết tình thiết tha thêm đậm đà”.
Thật hạnh phúc ngày trở về, mùa đón nhận hồng ân “Tình yêu và sự sống”, để được sống và sống muôn đời. Amen.
“Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa, chủ vườn nho là TN 27-A108
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa, chủ vườn nho là một Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Đó là một Thiên Chúa đã đầu tư thật nhiều cho vườn nho mình; thế nhưng, mùa nho về, đầy hy vọng, Người lại chẳng gặt hái được gì, những kẻ được sai đến đều bị giết đi, ngay cả Con Một Người. Vậy mà lạ lùng thay, tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa vẫn là tiếng nói của xót thương, của tha thứ, vì Người là Đấng không bao giờ bỏ cuộc.
Thánh Vịnh đáp ca xác định, “Vườn nho của Chúa là nhà Israel”; chúng ta còn có thể nói, vườn nho của Chúa là thế giới, là Giáo Hội và nhất là linh hồn mỗi người. Đó là những vườn nho mà Thiên Chúa đã bỏ công, nhặt đá, rào giậu, khoét bồn đạp, xây tháp canh, trồng giống nho quý… như những hình ảnh sống động đi kèm tiếng thở dài của chủ vườn từ bài đọc Isaia, “Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho Ta mà Ta đã không làm?”. Thiên Chúa chăm chút đến linh hồn mỗi người chúng ta bằng cách ban ân sủng và Thánh Thần của Người; Thiên Chúa rất kỳ vọng vào mùa nho như Tung Hô Tin Mừng hôm nay gợi nhớ, “Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại”. Vậy mà tưởng là bội thu, Thiên Chúa thất thu; mong nho tốt, Người chỉ thấy toàn nho dại; tệ hơn, cách cư xử độc ác của các tá điền cũng có thể là hành xử vô ơn của mỗi chúng ta. Thế nhưng, lạ lùng thay, tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa vẫn là tiếng nói của xót thương, của tha thứ, vì Người là Đấng không bao giờ bỏ cuộc.
Để chúng ta có thể hiểu được cách thức Thiên Chúa đáp lại việc từ chối tình yêu và những đề nghị nhân ái của Người, Chúa Giêsu đã đặt lên môi người chủ vườn một câu hỏi, “Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn tá điền thế nào?”. Câu hỏi này nhấn mạnh rằng, sự thất vọng của Thiên Chúa trước hành vi gian ác của con người không phải là lời cuối cùng. Đây là điều mới lạ tuyệt vời của Kitô giáo. Đó là một Thiên Chúa, dẫu thất vọng bởi những sai lầm và tội lỗi của con người, vẫn không quên lời đã hứa, Người không bỏ cuộc và trên hết, không tìm cách báo thù. Thiên Chúa không báo thù; muôn đời yêu thương, Người không báo thù. Người chờ đợi chúng ta để tha thứ, để ôm chúng ta vào lòng; Người không bao giờ bỏ cuộc.
Không bao giờ bỏ cuộc, chờ đợi để thứ tha; đó là sự công bằng của Thiên Chúa. Điều đầu tiên chúng ta cần nhìn lại là những tá điền ác tâm thoạt đầu đã thành công; ấy thế, họ quên mất một điều, Thiên Chúa là Đấng quyền năng, công bằng; Đấng có thể rút điều lành từ điều dữ; Đấng làm cho thập giá trổ hoa cứu độ, Đấng mà công lý của Người luôn luôn thắng. Người sẽ sắp xếp hết mọi sự, sẽ thực thi công lý và lòng thương xót của Người sao cho phù hợp với tâm hồn mỗi người; Người sẽ biến chết thành sống, ác thành thiện, ươn thối thành tươi mới, “Viên đá thợ xây nhà loại bỏ, đã trở nên đá tảng góc tường. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!”.
Điều này tiết lộ cho chúng ta một bài học quan trọng. Nó tiết lộ rằng, ngay hôm nay, cái ác xem ra đang chiến thắng dưới mọi hình thức; cũng như không ít lần, chúng ta cảm thấy thất vọng trước chiến thắng rành rành của sự dữ chung quanh mình và ngay trong chính linh hồn mình; điều này có thể dẫn chúng ta rơi vào tuyệt vọng. Tuy nhiên, vào những thời điểm đó, hơn bất cứ lúc nào, chúng ta hãy giữ vững niềm hy vọng về chiến thắng cuối cùng của công lý nơi Thiên Chúa, chiến thắng của thập giá; tiếng nói cuối cùng sẽ là tiếng nói của tình yêu, của sự sống. Và Thiên Chúa sẽ chiến thắng, tình yêu sẽ chiến thắng; điều quan trọng là kết quả cuối cùng; Người không bao giờ bỏ cuộc.
Vì thế, với một tầm nhìn có chiều kích đến tận vĩnh cửu, tất cả những gì quan trọng là chúng ta phải luôn trung thành và đặt hy vọng nơi Người; hãy luôn cố gắng để vượt qua mọi bất công chúng ta đang gặp phải cũng như cố chỗi dậy mỗi ngày để vượt qua tội lỗi đang thao túng linh hồn mình. Chính những lúc này, chúng ta hãy sống những gì Thánh Phaolô nhắc nhở hôm nay qua thư Philipphê, “Anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ; và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô”, vì Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc.
Đúng thế, trong sự khôn ngoan tuyệt vời của Người, Thiên Chúa có thể để mặc chúng ta đối đầu với sự ác, ‘ở đây, ngay lúc này’; vì đôi khi, Người thấy đó là điều tốt để thanh luyện chúng ta, buộc chúng ta chiến đấu. Điều này có thể khó hiểu và khó chấp nhận; nhưng chúng ta vẫn phải giữ vững niềm hy vọng vào sự trung tín của Người cũng như tin rằng, chiến thắng cuối cùng thuộc về Chân Lý mà duy chỉ một mình Người có. Thánh Phaolô nói tiếp, “Những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức” là điều chúng ta cố giữ lấy những lúc đó, chính chúng ta cũng đừng bao giờ bỏ cuộc. Những chùm nho chúng ta hái được từ trái tim và thập giá mình mỗi ngày sẽ là của lễ dâng trên bàn thờ, sẽ trở thành Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Một bác sĩ nọ tìm đến với một Giám mục cao niên và tuyên bố, “Con đến để thông báo cho Đức cha biết, con đang nghĩ đến chuyện rời khỏi Giáo Hội”. Vị Giám mục yêu cầu ông cho biết lý do. Nhìn Giám mục, bác sĩ nói, “Thưa Đức cha, Giáo Hội đã có mặt gần 2,000 năm; thế nhưng, con người đâu có gì khá hơn; con không chấp nhận những bất công trong Giáo Hội”. Giám mục bình tĩnh trả lời, “Bác sĩ nói chí lý, nhưng hãy thử nghĩ lại, nước đã xuất hiện trên mặt đất từ bao nhiêu triệu năm, vậy mà ngày nào, bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay; cũng thế, Thiên Chúa đang thanh luyện chúng ta; Thiên Chúa chờ đợi chúng ta; Người chờ đợi bác sĩ, Người chờ đợi tôi”. Nghe thế, viên bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội.
Anh Chị em,
Đừng sợ sự ác, cũng đừng sợ việc Thiên Chúa có thể thanh luyện linh hồn mình. Hoa trái Thiên Chúa chờ đợi nơi vị bác sĩ, nơi chúng ta sẽ là hoa trái mang lại ơn cứu độ trước hết cho linh hồn chúng ta; sau đó, cho tha nhân trên toàn thế giới. Đó cũng là giấc mơ muôn thuở của Thiên Chúa; vì thế, cho dù chúng ta là gì hôm nay đi nữa, thế giới chung quanh xấu xa tội lỗi đến mấy, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta trổ sinh hoa thơm trái ngọt vì Người là một Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin ban cho con đôi mắt có thể nhìn thấu vĩnh cửu, để con cũng không bao giờ bỏ cuộc khi con thấy ở đó, cuối cùng, lòng thương xót của Chúa sẽ chiến thắng; chiến thắng linh hồn con, chiến thắng sự ác, vì Chúa là Đấng không bao giờ bỏ cuộc”, Amen.
Mỗi khi chúng ta bắt đầu những đề án lớn nhỏ của bản thân, của giáo xứ, giáo phận, hay trong công TN 27-A109
Mỗi khi chúng ta bắt đầu những đề án lớn nhỏ của bản thân, của giáo xứ, giáo phận, hay trong công việc ngoài xã hội, việc trước tiên phải làm là ngồi xuống cân nhắc, suy nghĩ, đưa ra kế hoạch dự phóng. Cho dù dự án ngắn hạn hay dài hạn, theo định kỳ hay trường kỳ chăng nữa, chúng đều được dự tính kỹ lưỡng, xem xét về mọi mặt, cách riêng tính khả thi, và vô vàn yếu tố cần thiết khác.
Để thực hiện những kế hoạch ấy, con người chúng ta phải mất bao nhiêu công sức, thời gian, và toàn thể đội ngũ hoặc nhóm để cùng chung tay cộng tác lớn lao như vậy, thì huống chi cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người sa ngã. Tương tự trong truyền thuyết, thần thoại, hay phim ảnh, các vị thần chỉ cần hoá phép, hô biến thì giải cứu con người khốn cùng, v.v…Thiên Chúa còn quyền năng hơn mọi thần thánh ấy, nhưng cớ gì Ngài không làm như vậy để cứu rỗi loài người chúng ta! Ngài không cần phải trao ban chính Con Một mà vẫn có thể cứu độ con người; Ngài chẳng cần mất nhiều thời gian chuẩn bị cho kế hoạch giải thoát con người như vậy, bởi lẽ Ngài uy linh cao cả, vượt trên hết mọi sự mà! Tại sao Thiên Chúa không chọn cách dễ dàng ấy, mà lại chuẩn bị một cách công phu, hơn cả tính chỉn chu, chính xác, thập toàn của con người!?
Đơn giản vì Ngài là một vị Thiên Chúa nhân vị, gần gũi, hết mực yêu thương con người chúng ta. Ngài muốn dùng cách thức mà con người cho là nhục nhã, hèn kém, để biến nó thành vinh quang, cao trọng thông qua cuộc tử nạn và phục sinh của Con Một Ngài. Hơn nữa, Ngài không hề hối tiếc vì đã ban cho con người một trong những ơn cao quý, đó là tự do. Với sự tự do này, Chúa biết con người có thể dùng để chấp nhận hoặc khước từ, để thờ phượng, tôn kính hoặc phạm tội, phỉ báng Ngài. Giả như chúng ta là Thiên Chúa, thiết nghĩ chúng ta đã thu hồi, ra một án lệnh ‘chung thân’ cho những kẻ dùng tự do mà chống đối hay phạm đến chúng ta rồi! Nhưng tiếc rằng chúng ta không phải, và chẳng bao giờ là Thiên Chúa như vậy! Vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ là Đấng luôn tín trung, tôn trọng, và tin tưởng chúng ta sẽ biết sử dụng ơn tự do ấy mà nhận ra, yêu mến và tôn thờ Ngài. Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử cứu độ toàn cục từ thời Mô-sen, qua các đời thẩm phán, vua và các tiên tri lớn bé, dân Chúa tuyển chọn đã hành xử như dụ ngôn trong bài Phúc Âm minh hoạ “họ bắt các đầy tớ ông chủ: đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ…” (x. Mt 21, 35). Hơn nữa, qua lời ngôn sứ I-sai-ah, Thiên Chúa đã chăm sóc, vun trồng vườn nho của Ngài thế nào, nhưng thực tế thật đáng buồn: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Is-ra-el, và người Giu-đa là chồi cây Chúa vui thích. Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7).
Chẳng vui chút nào khi chứng kiến và nghe những điều ấy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không dễ dàng bỏ cuộc, Ngài “nhẫn nại, chậm bất bình và hết mực khoan nhân” (x. Tv 85 [86], 15). Ngài hằng kêu mời, chờ đợi chúng ta quay về, mở lòng nhận biết và đón nhận ơn cứu độ qua chính Đức Giê-su Ki-tô “sau cùng, ông chủ sai chính con trai mình đến, vì nghĩ rằng: Chúng sẽ nể con ta” (x. Mt 21, 37). Thế nhưng, họ vẫn đành tâm giết hại con trai ông chủ vườn nho. Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta, vì muốn cứu rỗi chúng ta, và giải thoát con người chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, mà Ngài đã khiêm hạ tột cùng, chịu chết một cách nhục nhã trên Thánh giá, thì cớ gì chúng ta lại dửng dưng, không biết nhanh nhẹn đón nhận Ngài? Thánh Âu-gus-ti-nô đã từng quả quyết: "Thiên Chúa không cần chúng ta khi Ngài tác tạo chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, thì Ngài cần đến sự cộng tác của chúng ta” (“God created us without us but he will not save us without us”). Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa muốn chúng ta biết dùng tự do để chọn lựa tin nhận Ngài, đón nhận chương trình cứu độ đầy yêu thương của Ngài, và cũng biết vui tươi đón nhận hết thảy mọi biến cố trong đời sống theo thánh ý Ngài. Nhưng giả như chúng ta khước từ, không hoán cải, chẳng muốn được giải thoát, thì Thiên Chúa sẽ không cứu chúng ta, bởi lẽ Ngài chẳng bao giờ ép buộc chúng ta!
Vườn nho Is-ra-el giờ đây đã được mở rộng cho toàn thể nhân loại, và “cho người khác thuê…” (x. Mt 21, 41) hay “trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (x. Mt 21, 43). Viên đá trong khối công trình cứu độ của Thiên Chúa đã bị “thợ xây loại ra”, đã bị chối từ, và bị vứt bỏ như vật vô dụng nằm trơ chọi, giờ đây trở nên “tảng đá góc tường”, tảng đá chính, tảng đá trụ cột của toàn bộ công trình kỳ diệu của Ngài (x. Mt 21, 42). Có lẽ với trí hiểu hữu hạn của con người, chúng ta không thể nào thấu hiểu tường tận chương trình cứu độ, kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, nhưng chúng ta có thể mạnh mẽ xác tín rằng: Thiên Chúa muốn mọi sự tốt đẹp đến với chúng ta, muốn cứu rỗi chúng ta, muốn chúng ta hạnh phúc thật sự viên mãn, chứ không chỉ vui tươi chóng qua theo năm tháng đời này. Và để cảm nghiệm, sống sâu sắc điều này, một lần nữa, chúng ta nên khắc ghi lời dạy của Thánh Tông Đồ Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Phi-líp-phê: “những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh (chị) em hãy để ý. Những điều anh (chị) em đã học biết, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh (chị) em (Pl 4, 8-9). Kể cả giữa sóng gió cuồng phong bão táp với nỗi bất an, sự vô định xen lẫn vô vàn chủ trương, triết thuyết xô đẩy chúng ta lìa xa đời sống đức tin, đức cậy, đức mến thì cũng đừng quên: “anh (chị) em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong khi cầu nguyện, anh (chị) em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh (chị) em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4, 6-7).
Giờ đây, chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên Chúa và dâng lời cảm tạ:
Công trình cứu độ của Người Vượt xa trí hiểu cuộc đời dương gian Chúa chẳng ước muốn suy tàn Nhưng luôn tuôn đổ bình an tâm hồn. Vườn nho Chúa vẫn chăm nom Tỉa trồng vui xới sớm hôm thương nhìn Phiến đá thợ xây hữu tình Bỏ xa ở góc một mình đơn côi Chúa khiến nó trở thành nơi Lạ lùng đá tảng như lời phán xưa Ôi thật diệu kỳ xin thưa: Tán tụng danh Chúa sớm trưa tháng ngày. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Các bài đọc hôm nay nói đến những chủ đề về sự từ chối và sự đón nhận. Trong bài Tin mừng, thánh TN 27-A110
Các bài đọc hôm nay nói đến những chủ đề về sự từ chối và sự đón nhận. Trong bài Tin mừng, thánh Mathêu sử dụng dụ ngôn những tá điền sát nhân để lên án những thượng tế và người Biệt phái đã chối từ Chúa Giêsu và sứ điệp Tin mừng. Dụ ngôn này dựa trên hình ảnh và ý tưởng chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Isaia, có thêm vào các yếu tố phúng dụ tượng trưng cho Nước trời. Trong bài đọc thứ hai trích thư gửi tín hữu Philípphê, thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy đón nhận sự an ủi và sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay dừng lại ở Mt 21,43, nhưng phần cuối chương đã làm sáng tỏ sự căng thẳng giữa Chúa Giêsu và cử tọa mà Người ngỏ lời qua dụ ngôn này: “Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ”(Mt 21,45-46).
Những người lãnh đạo này được ví như những tá điền trong dụ ngôn. Ông chủ vườn (Thiên Chúa) trao cho các tá điền (những người lãnh đạo) kiểm soát vườn nho (Israel). Khi ông chủ sai nhiều lớp đầy tớ (các tiên tri) đến để thu hoạch mùa vụ, các tá điền từ chối và giết các đầy tớ. Cuối cùng, ông chủ hy vọng những tá điền sẽ đón nhận con trai của ông (Chúa Giêsu), nhưng các tá điền vẫn từ chối và giết luôn con trai ông chủ.
Mathêu kết thúc dụ ngôn bằng việc Chúa Giêsu yêu cầu cử tọa nhớ lại thánh vịnh 118,22-23: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường; Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Thánh vịnh này được dẫn chứng nhằm khẳng định rằng mặc dù nhiều người từ chối Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn là nền tảng của Nước trời. Cv 4,11 và 1Pr 2,7 cũng trích dẫn Tv 118 và có sự so sánh tương tự, sử dụng hình ảnh hòn đá bị loại bỏ này để giải thích rằng ngay cả khi sứ điệp của Chúa Giêsu gặp chống đối, Người vẫn hoàn tất kế hoạch của Thiên Chúa. Những tuyên bố từ chối Chúa của nhiều người cần thôi thúc mọi người công khai chấp nhận Chúa Giêsu và Tin mừng.
Bài đọc thứ hai gửi tín hữu Philíphê hướng đến một cộng đoàn Kitô hữu sơ khai và nhắc nhở họ hãy nhìn vào Thiên Chúa để được ủi an, nhất là trong những lúc khó khăn. Thánh Phaolô còn khuyến khích cộng đoàn Philiphê cầu nguyện, dâng lời cầu xin và tạ ơn lên Thiên Chúa. Họ được hướng dẫn để tìm kiếm sự bình an của Thiên Chúa, là những gì “vượt trên mọi sự hiểu biết”. Thánh Phaolô còn nhắc nhở họ phải hòa hợp với thế giới, tìm kiếm những gì là chân thật, danh thơm tiếng tốt, công chính, trong sạch, đáng yêu chuộng, nhân đức và tuyệt hảo. Ngài nhấn mạnh rằng những phẩm chất này đáng được tìm kiếm và ca tụng.
Trong thời gian có nhiều bất đồng và bất an, các bài đọc hôm nay đưa ra một vài lời nhắc nhở. Giống như Chúa Giêsu phê phán các nhà lãnh đạo vào thời của Người và gặp phải sự chống đối, cũng vậy chúng ta nên sẵn sàng lên tiếng chống lại bất công, ngay cả khi bị những người có chức quyền kháng cự, từ chối hay bắt bớ vì chúng ta loan báo Nước trời. Hơn nữa, như thánh Phaolô đề nghị, chúng ta nên cầu nguyện để được Thiên Chúa hướng dẫn và an ủi, và kiên định tìm kiếm những phẩm chất và hành động phù hợp với Tin mừng.
Trong dụ ngôn trước, chỉ có vấn đề vâng lệnh Thiên Chúa đi ra làm vườn nho, nghĩa là tiếp TN 27-A111
1. Trong dụ ngôn trước, chỉ có vấn đề vâng lệnh Thiên Chúa đi ra làm vườn nho, nghĩa là tiếp nhận Gioan Tẩy giả và sau ông là Chúa Giêsu. Vậy dụ ngôn tá điền vườn nho sát nhân đến minh xác dụ ngôn hai người con ở điểm nào?
2. Trong dụ ngôn này, có những chi tiết gợi lên một lối giải thích ẩn dụ, do tính cách không có vẻ thực của chúng hay do việc chúng ám chỉ đến một hậu cảnh Cựu ước. Đó là những chi tiết nào?
3. Nhiều nhà chú giải (x.BJ, chú thích b chẳng hạn), dựa vào lời ám chỉ minh nhiên đến Is 5 nơi câu 33, đã xem vườn nho là hình ảnh của Israel. Trong giả thuyết ấy, thì phải giải thích câu 43 như thế nào? Phải chăng Israel lịch sử có thể bị lấy lại (từ ai) và ủy thác cho một dân tộc khác?
4. Hãy tìm xem câu 44 nằm ở đâu?
1. Mt đã đặt dụ ngôn này nằm giữa dụ ngôn hai người con (21, 28- 32) và dụ ngôn tiệc cưới (22, 1- 14), trong bối cảnh lịch sử và văn chương của các cuộc tranh chấp ngày càng trầm trọng hơn giữa Chúa Giêsu và các thủ lãnh của dân (chương 21- 22- 23). Sau khi nhấn mạnh rằng những người thu thuế và đàng điếm, như đứa con bướng bỉnh rồi ngoan ngùy của dụ ngôn, đã tiếp nhận thánh ý Chúa Cha biểu lộ qua lời rao giảng của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu (trong lúc Biệt phái và thủ lãnh dân đã từ chối), thì trong dụ ngôn thứ hai, Chúa Giêsu minh xác việc tiếp nhận Con hệ tại chỗ nào lấy lại chủ đề “nói” và “làm” (cc.28- 31) và chủ đề cây vả không sinh trái (cc. 19-20), Người kêu gọi các thủ lãnh của dân một lần nửa bằng cách làm cho họ hiểu rằng thời gian sinh hoa trái (cc.34 và 41), thời gian dứt khoát mà Thiên Chúa đòi tính sổ vườn nho của Ngài, đã đến rồi đây.
2. Dụ ngôn thứ hai này thật dữ dội chưa từng thấy. Nó không hoàn toàn theo phương pháp thông thường của các dụ ngôn. Câu kết luận, c.43, đưa ra lời áp dụng rõ ràng và thẳng thắn. Lời áp dụng này không chỉ muốn “tính sổ” với Do thái giáo cứng tin thời bấy giờ, mà còn cho thấy rồi đây sẽ có một dân mới của Thiên Chúa thay thế dân cũ của Ngài đã bất trung với sứ mệnh. Ngày xưa, trong một bài ca thật cảm động, ngôn sứ Isaia đã so sánh dân Israel như một vườn nho do Thiên Chúa trồng, săn sóc, gìn giữ, với hy vọng sẽ thu hoạch một mùa đầy trái thơm ngon. “Ngài trông nó sẽ sai trái, nhưng nó đã sinh nho dại. Bây giờ dân Giêrusalem và chư vị người Giuđa hỡi, in phân xử việc tôi và vườn nho tôi. Nào đối với vườn nho của tôi, có gì phải làm mà tôi đã không làm? … Vậy bây giờ, tôi cần tỏ cho các người biết tôi sắp làm gì cho vườn nho của tôi: cất đi rào giậu để lấy chỗ chăn nuôi, đập hổng tường đi để làm đồng cỏ” (Is 5, 2b. 3. 4a. 5). Các câu đầu tiên trong dụ ngôn của Chúa Giêsu trực tiếp mượn từ bản văn này của ngôn sứ. Nên những kẻ nghe nó lập tức thật ra bầu khí u ám từ đó phát xuất.
Nhưng bài ca của Isaia về vườn nho chỉ là một khởi điểm, câu chuyện kể trong dụ ngôn được khai triển theo một chiều hướng khác. Ý tưởng cơ bản vẫn là: vì không sinh trái nên đã đến lúc Israel phải bị phán xử. Nhưng rồi chiều hướng của dụ ngôn đi từ sự kiện vườn nho đã được cho các tá điền thuê mướn. Trong bài ca Isaia, chủ vườn nho (Thiên Chúa) và chính vườn nho (Israel) liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Thiên Chúa trồng vườn nho và thất vọng vì nó không sinh trái nên đe dọa phá đổ. Trong dụ ngôn, vườn nho không còn là Israel nữa, nhưng là Nước Thiên Chúa. Điều này được diễn tả rõ ràng nơi câu cuối cùng: “Bởi đó tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông và sẽ được ban cho một dân làm ra hoa quả” (21, 43). Nước Thiên Chúa đã được ủy thác cho những người quản lý, cho những kẻ làm thuê – đó là ý tưởng mà trong dụ ngôn Mt muốn làm nổi bật.
Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến việc tái định hướng Chúa Giêsu làm đây đối với dụ ngôn Isaia. Trong thực tế không có nhà chú giải nào đã nghĩ đến chuyện này (ngoại trừ Tnlling, Buzy và một vài người khác) nên thật là đáng tiếc, vì bấy giờ việc giải thích dụ ngôn sẽ gặp nhiều khó khăn không thể gỡ nổi. Quả thực, nếu vườn nho tượng trưng Israel lịch sử, ta không hiểu tại sao Chúa Giêsu lại gọi nó là “Nước Thiên Chúa”, một sự kiện mà toàn bộ Tân ước chưa hề gặp, và hơn nữa cũng chẳng thấy làm sao Israel lại có thể được ban cho một dân tộc khác. Để giải quyết khó khăn, vài tác giả nghĩ rằng “không nên gò ép hình ảnh vườn nho” (Bonnard). Dĩ nhiên, nhưng đây không phải là “gò ép hình ảnh” mà là tìm cách làm cho nó mạch lạc với chính nó. Một số tác giả khác (BJ) hình như chẳng thấy vấn đề và mạnh dạn đi từ Israel – vườn nho qua Nước Thiên Chúa, mà không thấy ở đó có một đứt đoạn, một rời rạc rõ ràng. Thành thử hình như cách duy nhất giải quyết vấn đề là đồng hóa ngay từ đầu vườn nho với Nước Thiên Chúa. Được ném vào trong quá khứ của Israel, hình ảnh vườn nho – nước Thiên Chúa có ý chỉ rằng Thiên Chúa đã muốn ủy thác Nước Trời cho Israel lịch sử, nghĩa là chương trình cứu rỗi và ân sủng của Ngài (tượng trưng bởi Giao ước), và Israel đã bất trung với chương trình cứu rỗi đó, khi vi phạm Giao ước mà các ngôn sứ đã nhắc nhở cho họ qua từng thời kỳ. Với việc chuyển đổi hình ảnh Isaia này, tất cả trở nên mạch lạc trong dụ ngôn Chúa Giêsu.
3. Dụ ngôn quá rõ ràng đến nỗi chỉ có thể hiểu là nói về dân Israel bất trung. Họ đã không chịu nghe các sứ giả của Thiên Chúa và để tâm hồn chai cứng lại. “Chúng đã không nghe, đã không ghé tai lại; chúng đã đi theo dự định, sự ngoan cố của lòng dạ xấu xa của chúng; chúng đã tháo lui chứ không tiến lên trước. Từ ngày cha ông các ngươi ra khỏi đất Ai cập cho đến ngày nay, ngay từ sớm, Ta đã sai đi sai lại, đến với các ngươi ngày ngày, tất cả các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ; nhưng chúng đã chẳng nghe Ta, chẳng ghé tai lại; chúng đã ra cứng cổ, chúng đã làm sự dữ hơn cha ông chúng”, đó là lời than vãn của Giavê trong bài ca của ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7, 24- 26). Chính Chúa Giêsu sẽ tiếp tục lời than về sự bất tuân này (23, 34- 36). Và nếu các ngôn sứ họ đã chẳng nghe, họ sẽ càng không nghe Con Thiên Chúa. Trái lại, lòng độc dữ của họ còn lớn hơn đối với Con của Ngài, vì họ sẽ không những bằng lòng với việc bắt bớ Ngài để giết chết như đã làm cho các tôi tớ, sống còn lôi Ngài ra ngoài vườn nho để giáng cho một đòn vô cùng ô nhục: đóng đinh thập giá. Đó là cách họ sẽ đối xử với “Người Con”. Nhưng việc phán xét mà họ tường mình có quyền thi hành sẽ đổ xuống trên đầu họ (27, 25).
Vườn nho đã được ủy thác cho các tá điền để họ thu hoạch trái trăng. Ở đãy hình ảnh chồng chất và lẫn lộn với nhau. “Thu hoạch” hay “giao nộp trái trăng” trở thành đồng nghĩa với “mang lại hoa trái” trong cuộc sống. Trái nho trong vườn nho của dụ ngôn là hoa trái của Nước Thiên Chúa trong thực tế. Các nông dân là “dân” được nói tới khi đến phần áp dụng dụ ngôn (21,43). Dân đầu tiên dã chẳng làm tròn bổn phận, đã không nộp trái, đã làm chủ vườn nho thất vọng hoàn toàn. Thành thử một dân khác sắp lãnh nhận vườn nho, nghĩa là Nước Thiên Chúa; chủ vườn nho sẽ không thất vọng vì họ, họ sẽ sinh trái Nước Trời và sẽ tiến dâng chúng lên Thiên Chúa. Các hoa trái đó chính là sự công chính mà so với sự công chính của các Ký lục và Biệt phái, thì phải trổi vượt hơn nhiều (5, 20).
Thành ra dụ ngôn chất chứa vừa lời phán xét vừa lời hứa hẹn. Các sở hữu chủ đầu tiên sẽ bị tống khỏi chức vụ và bị kẻ khác thay thế. Sự từ chối của dân xưa Giao ước sẽ đạt đến tột điểm khi người con bị án tử hình, nhưng dân mới của Giao ước sẽ được thiết lập trong máu Chúa Giêsu là máu Giao ước (26, 28). Chính lúc đó xảy ra việc diệu kỳ này là viên đá bị loại bỏ như vì mất hết giá trị lại trở nên viên đá giữ vững tòa nhà (Tv 118, 22tt). Giáo Hội đã luôn luôn lượng giá đặc biệt lời nói đó của Thánh Kinh. Giáo Hội xem đây là tiền ảnh của việc kỳ diệu vĩ đại sẽ biến Đấng Messia bị khai trừ thành Chúa hiển vinh nhờ việc Phục sinh từ cõi chết (Cv 4, 11 ; 1 Pr 2, 7). Trên bức tranh đen tối này lời hứa nổi bật lên một cách sáng lạn. Chương trình của Thiên Chúa, Đấng hằng muốn nhân loại mang lại hoa trái cho Ngài, không hoàn toàn và vĩnh viễn bị thất bại dơ sự vi ước của Israel. Một dân mới sẽ được hình thành, sẽ được ủy thác Nước Trời cho, và sẽ sinh nhiều hoa trái. Nhưng những hoa trái này sẽ chẳng phải là kết quả các nỗ lực nhân loại, song là “hoa trái của Thánh Thần” (Gl 5, 22).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Xung quanh ông rào giậu, bên trong ông khoét bồn đạp nho”: Ở đây cũng như trong Isaia, việc liệt kê các sự chăm sóc về kỹ thuật mà gia chủ làm cho vườn nho của ông, cố ý nhấn mạnh đến tình yêu cũng như quyền tuyệt đối của ông trên vật sở hữu; nó thuộc về ông vì ông đã gầy dựng nên nó hoàn toàn. Tháp canh dùng để canh phòng kiểm soát cho dễ, nhất là vào mùa hái nho; bồn đạp nho người ta phải khoét vì đấy là một cái hố trong đó trái nho được đạp và nước nho từ đó thoát ra bằng một đường rãnh thích hợp. Tất cả mọi chi tiết này là những nét có tính cách dụ ngôn: chúng có mục đích làm cho bài học của dụ ngôn thêm sống động ở đây, chúng làm nổi bật sự tương phản giữa tấm lòng của gia chủ đối với vườn nho và lòng độc ác của các tá điền không chịu giao nộp hoa quả của một công lao khó nhọc và chăm sóc ân cần như thế. Thành thử không nên biến các chi tiết này thành những nét có tính cách ẩn dụ, như lối chú giải của các giáo phu đã làm, và tìm cách gán cho mỗi chi tiết một ý nghĩa biểu trưng.
“Khi đã gần mùa trái”: Mùa hái nho này chắc hẳn ám chỉ tới thời chung cục lúc Thiên Chúa tính sổ với dân Ngài. Bản văn Mt nói theo mặt chữ: “Khi thời gian đã gần đến” (êggisen); động từ “gần đến” đây đã được Gioan Tẩy giả và sau đó Chúa Giêsu dùng để loan báo Nước trời sắp xuất hiện: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (êggisen: 3, 2 và 4, 17). Thành ra hình như chỗ này Matthêu muốn hiểu ngầm là lúc tính sổ trùng phùng, trong lịch sử cứu rỗi, với sự xuất hiện của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu. chính để đáp lại lời rao giảng của hai vị sứ giả ấy của Thiên Chúa mà Israel bây giờ phải “sinh hoa quả phúc đức, xứng vui lòng hối cải” (3, 8).
“Các tá điền túm lấy các tôi tớ của ông, đánh đập người này, giết chết người kia, ném đá người nọ”: Sự tiến triển từ đánh đập, giết chết đến ném đá (việc bạo hành số một thời Chúa Giêsu) không chỉ là một cách diễn tả cho linh động dễ nhớ, song còn ám chỉ đến sự đối nghịch ngày càng trầm trọng hơn giữa gia chủ và các tá điền; việc ném đá các ngôn sứ hình như đã là một chủ đề truyền thống trong Do thái giáo và Kitô giáo sơ khai (Dt 11, 37; nhưng nhất là 11, 37; Lc 13, 34).
“Ông lại sai thêm tôi tớ đông hơn trước”: Việc sai phái lần thứ nhì này hình như ám chỉ đến việc người Do thái xếp các ngôn sứ thành hai hạng đầu và cuối (hay trước và sau).
“Sau cùng”: Trạng từ này đánh dấu đây là cơ may cuối cùng để cho các tá điền thống hối ăn năn.
“Kẻ thừa tự đó, ta mau giết quách nó đi”: Theo 3 bản Nhất Lãm, các tá điền lập tức nhận ra kẻ thừa tự không chút ngập ngừng (Dt 1, 2; 11, 7; Rm 8, 17); tội ác của họ không phải là hậu quả của một sự lầm lẫn bi đát hay của lòng thiếu tin vào Đấng được sai; họ hành động với đầy đủ ý thức về sự trầm trọng của việc làm. Dụ ngôn chẳng mô tả điều xảy ra trong trí óc của các đối thủ Chúa Giêsu, những kẻ không thừa nhận Người như kẻ thừa tự; đúng hơn nó mặc khải sự nặng nề của việc họ từ chối Thiên Chúa trong bản thân của Đấng Ngài sai đến.
“Chúng túm lấy người con, lôi ra bên ngoài vườn nho và giết đi “: Cái chết ngoàì vườn nho” này chắc chắn ám chỉ đến việc Chúa Giêsu chết ngoài thành Giêrusalem. Đây là một nét ẩn dụ khác.
“Viên đá thợ xây đã thải”: Câu trích dẫn này xê dịch trọng tâm của dụ ngôn từ vườn nho hay các tá điền sang bản thân người con mà, cho đến phần cuối của câu trước, không có gì loan báo là sẽ tái xuất hiện một cách oai hùng cả. Câu ấy có thể hiểu như là một lời chú giải Giáo Hội sơ khai thêm vào dụ ngôn; tuy nhiên trong một dụ ngôn như thế này, toàn thể bản văn vừa truyền lại vừa chú giải các lời nói của Chúa Giêsu. Việc thợ xây thải viên đá được diễn tả bằng một từ chuyên môn (apodekimazein, x.Mc 8, 31; 17, 25; Dt 12, 17) chỉ việc thủ tiêu một đồng bạc bị một nhân vật có thẩm quyền xét là giả mạo. Viên đá góc có lẽ chẳng phải là viên đá góc tường của móng dưới, nhưng là viên đá đỉnh góc (clé de voute), viên đá hoàn tất và mặc cho công trình xây dựng ý nghĩa của nó. Viên đá bị thải, nghĩa là Người Con, không tự nâng mình lên vì động từ egenêthê (nghĩa sát chữ: đã được làm thành) ở thể thụ động (thụ động thần linh), nên đây là một hành động oai hùng và kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Một dân”: dịch sát chữ: “một dân nước”. Hạn từ “dân nước” này (ethnos), ở số ít: không thể chỉ “chư dân” theo nghĩa “lương dân” (luôn luôn ở số nhiều), nhưng chỉ một đoàn thể đang được cấu tạo và hình thành: người ta nghĩ đến dân thánh” (ethnos agion) của Xh 19, 6. Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của Nước Trời, nghĩa là những kẻ, khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên Dân mới của thiên Chúa (Rm 9,25; 1 Pr 2, 10).
Các nhà phê bình chia rẽ nhau về xác thực tính của câu 44. Đa số các đại thủ bản (Sinaiticus, Vaticanus, Ephlemi Rescriplus, K,L,W,X...) đều có ghi nó, nên đối với nhiều tác giả điều ấy đủ để đảm bảo rằng nó xác thực.. Tuy nhiên, nhiều bản dịch cổ xưa (thủ sao của bản Latinh cổ, bản Syri cổ ở Sinai, bản Diatesseron của Tatien) và một số giáo phụ (Irênê, Origène, Eusèbe) đã loại nó ra. Hơn nữa, vì câu này đã nằm trong Lc 20, 18 nên có thể là các sao lục viên đã chèn nó ở đây vì ưu tư hòa hợp hái bản văn. Cuối cùng, đáng ra nó phải được ghi ngay sau câu trích dẫn 21, 42 chứ chẳng phải sau 21, 43 là câu tự nhiên không đòi hỏi một trích dẫn Thánh Kinh nào. Các lý do khác nhau vừa nói làm ta nghĩ câu 44 này không xác thực, trặc dù tính cách rất cổ của nó đã làm cho nó thành một chứng nhân quý giá của tư tưởng thần học của các thế kỷ đầu Kitô giáo.
KẾT LUẬN
Chủ đề vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của cả Cựu ước. Nó thường được liên kết với chủ đề tình yêu đến độ biểu tượng về vườn nho thường hay hòa lẫn, hoán đổi với hình ảnh người đàn bà. Đàng khác, nó lại được khai thác trong một bối cảnh cánh chung, dưới hình thức mùa hái nho hay bồn đạp nho, cùng gợi lên trước trường hợp đó sự ghen tương và trả thù cuồng nhiệt của Thiên Chúa Giao ước, Đấng đổ rượu giận dữ của Ngài trên thù địch của dân Ngài yêu (Is 63). Diễn từ sau bữa Tiệc Ly (Ga 15, 1- 6), cũng như việc Phụng vụ dùng Is 63 trong bối cảnh Tuần thánh, gợi lên một tổng hợp sống động về hai cách sử dụng chủ đề đó: Chúa Giêsu vừa là người hái nho đơn độc làm cho mối tình tuyệt vọng được hả giận hay bớt đắng cay, bằng cách dùng máu mình làm nước nho chua ra dịu ngọt, vừa là vườn nho song động, hiền thê của Đấng Dấu ái duy nhất, chạp nhận vô điều kiện việc gọt tỉa cần thiết cho mình, và sau hết đời đời là gốc nho - là đầu - của một thân thể không ngừng phát triển tứ chi bằng việc chia sẻ giòng máu sống động của Ngài, để dẫn đến cho Thiên Chúa một dân thánh, được hiệp nhất bằng nhiệm cục khải hoàn vinh thắng của tình yêu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.”Người bạn yêu của tôi có một vườn nho…” Isaia mở đầu bài ca tuyệt diệu về tình yêu của Chúa đối với dân Ngài như thế. Chính với một tình âu yếm sâu xa mà Thiên Chúa đã tạo dựng con người đã chọn giữa nhân loại một nhóm người thụ thác các lời Ngài hứa và chịu trách nhiệm làm cho Ngài hiện diện với tất cả. Chính với sự ân cần mà Ngài đã nuôi nấng, cưng chiều, sai phái những kẻ được chọn đó ra đi làm sứ giả mang niềm vui và lòng yêu thương âu yếm của Ngài. Khổ nỗi, thay vì sinh trái ngon ngọt của lòng trung tín và sự bình an, họ đã tạo nên hận thù, ghen tương, bạo lực. Hy vọng hái được nho ngon, Thiên Chúa chỉ nhặt được những trái chua lòm.
Việc Chúa Giêsu biến đổi bài thơ của Isaia thật quan trọng; rõ ràng là Người nhấn mạnh đến các lần liên tiếp sai phái đầy tôi, sự ân cần sốt sắng và đồng thời đức kiên trì không tưởng tượng nổi của chủ. Dù các sứ giả mình đã bao lần từ chối, gặp thất bại và chịu ngược đãi, Chúa vẫn không ngừng gởi thêm sứ giả mà dân cần đến. Lời ám chỉ thật rõ ràng. Suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã cho chỗi dậy rất nhiều ngôn sứ, nhưng dân vẫn không đời nào nghe sứ điệp họ, lại còn khai trừ, ngược đãi và giết họ nữa. Cuối cùng, Ngài sai Con mình. Và Người Con đó đã bị đóng đinh ở ngoài cửa thành Giêrusalem.
2. Lòng kiên nhẫn và kiên trì của Thiên Chúa đã được bày tỏ chẳng những trong lịch sử Israel và Giáo Hội, mà còn trong lịch sử của nhiều quốc gia, tập thể (giáo xứ) và cá nhân (mỗi người chúng ta). Thiên Chúa hằng nài nỉ, gõ cửa tâm hồn (Kh 3, 20), trước khi từ bỏ việc ban phát các ơn huệ nhưng không. Thực ra, Ngài chỉ từ bỏ khi cái chết đến đóng ấn trên một sự chối từ dứt khoát tình yêu Ngài. Và đó là án phạt hỏa ngục. Nhưng để tránh tai họa khủng khiếp ấy, Thiên Chúa đã cố gắng lết sức để đánh động tâm hồn ta và làm ta sinh trái. Ta chớ cứng lòng như Israel mà từ chối các nỗ lực của Ngài.
3. Lỗi nặng nhất của các tá điền là từ chối việc tiếp nhận các ngôn sứ và Người Con mà Chúa Cha gởi đến cho họ. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo cho la biết tội đó phát xuất từ đâu từ chỗ họ muốn chiếm đoạt vườn nho cho kỳ được. Mỗi lần ta muốn biến Nước Trời thành một công chuyện riêng tư, mỗi khi ta mong sự thành công của một kế hoạch xem ra phục vụ Chúa và loài người, nhưng kỳ thực chỉ làm thỏa mãn thỏi tự kiêu tự đại của ta, và bấy giờ ta chiếm đoạt vườn nho Chúa để làm sở hữu riêng, vì thực sự ta phục vụ chính mình dưới bộ áo của lòng tận tâm và nhân đức v.v... Đó chẳng phải là óc Biệt phái mà Chúa Giêsu hằng kết án một cách chí lý sai.
4. Viên đá bị thợ xây thải bỏ đã trở thành viên đá đỉnh góc. Chúa Giêsu bị dân mình từ khước đã biến thành thủ lãnh của một dân mới là Giáo Hội. Như thế là hoàn tất chương trình của Thiên Chúa đối với nhân loại, xuyên qua các lần chối từ, thất bại và tội lỗi của con người. Không gì có thể ngăn chận hành động quyền năng của Thiên Chúa trong thế giới. Vì Ngài đủ quyền để bắt mọi sự (kể cả sự dữ) thực hiện các chương trình Ngài ra. Đối với đời ta cũng vậy, nếu ta muốn hiến dâng cho Thiên Chúa tất cả con người ta, kể cả tội lỗi đã phạm, Thiên Chúa có thể qua ta thực hiện nhiều việc diệu kỳ. Không gì có thể cần trở hành động của Ngài trong ta, dù là sức khỏe yếu kém, trí khôn tầm thường, bộ dạng xấu xa, dù là cô đơn, nghèo khổ. Trái lại, như lịch sử các thánh cho thấy Chúa luôn thích sử dụng các giới hạn của con người để hoàn tất các dự định lớn lao của Ngài trong Giáo Hội. Và như vậy nếu bằng lòng trở nên một nhành sống trong của Cây nho là Chúa Giêsu, thì người nhỏ bé nhất trong các Ki-tô hữu cũng sẽ sinh nhiều hoa trái tuyệt hảo làm thỏa lòng Thiên Chúa và nhân loại.
Có bao giờ bạn bị thất sủng chưa? Nhất là sự thất sủng ấy lấy đi danh giá, địa vị hay quyền lợi TN 27-A112
Có bao giờ bạn bị thất sủng chưa? Nhất là sự thất sủng ấy lấy đi danh giá, địa vị hay quyền lợi của bạn. Danh giá, chức vụ hay quyền lợi càng cao, càng sáng giá, càng nhiều thì sự mất mát và đau khổ càng lớn lao. Qua những biến cố ấy, đã có nhiều người mất ăn, mất ngủ, tự tử, hoặc có thể đem đến tâm bệnh. Nhưng đó chỉ là những giá trị, địa vị, và danh giá của thế giới vật chất. Còn nếu như thất sủng xẩy ra trong lãnh vực tâm linh, thí dụ, như bị mất ơn sủng, mất cơ hội tham dự Nước Trời thì đó là một mất mát lớn lao mà con người không thể lường được. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã nói: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì. Lấy gì mà đổ được linh hồn” (Mt 16:26).
Đọc lịch sử cứu độ, chúng ta đã thấy người Do Thái hay dân tộc Do Thái ngay từ đầu đã được Thiên Chúa Giavê tuyển chọn và rất mực cưng chiều. Để thiết lập nên đất nước Do Thái, miền đất chảy sữa và mật, Thiên Chúa đã thẳng tay tiêu diệt mọi kẻ thù của họ. Ngài đã giải thoát họ khỏi ách thống trị người Ai Cập. Đã đem họ về sau thời gian lưu đày tại Babilon. Ngài đã ký kết với các tổ phụ họ những giao ước mà ngàn đời vẫn còn đó. Một trong những giao ước quan trọng nhất, là Thiên Chúa đã tuyển chọn dân này để từ dòng giống Do Thái, Đức Kitô – Con Thiên Chúa – sẽ giáng trần. Vậy mà hôm nay, chính người con ấy – Đức Kitô – mà các tiên tri, tổ phụ của họ mong đợi đã đến, đã thiết lập nước Người ở giữa họ đã tuyên bố lấy đi cái vinh dự ấy, lấy đi niềm mong đợi ấy để trao vào tay người khác: “Vì lý do đó, ta nói thật với các ngươi, nước Thiên Chúa sẽ bị lấy mất khỏi các ngươi và trao cho dân tộc khác để làm cho phong phú” (Mt 21:43).
Tại sao Chúa Giêsu lại thẳng tay với bọn luật sỹ, Pharisiêu, Biệt Phái, kỳ lão và thượng tế như vậy? Tại sao Ngài nỡ cất khỏi họ Nước Thiên Chúa – ơn cứu độ – để trao cho dân tộc khác? Lý do giản dị, vì họ không hưởng dùng cái đặc ân mà chính cha ông, các tổ phụ họ đã mong đợi. Những giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với các tổ phụ họ, họ đã lạm dụng, và đã xử dụng như những phương tiện nhằm phổ bày quyền lực, danh giá, và thỏa mãn tính tự ái. Những gì Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ, đã thề hứa với cha ông họ không đem lại cho họ sự sống đời đời là điều mà Ngài cho là quan trọng, và chính lý do ấy, Ngài đã xuống trần. Họ có mắt mà như mù, có tai mà như điếc, vì họ đã không thấy và nghe những điều mà các tiên tri họ mong được thấy và được nghe như có lần Chúa Giêsu đã nói với họ.
Thiên Chúa đã lấy đi các đặc ân của họ, nhưng Ngài đã không hoàn toàn hỷ bỏ những giao ước mà Ngài đã ký kết với các tổ phụ họ. Và vì thế, Ngài chỉ tuyên bố lấy Nước Thiên Chúa đi khỏi những lòng trí kiêu căng, tự phụ và hẹp hòi mà đại diện cho nhóm người này là bọn Biệt Phái, Pharisiêu, luật sỹ, thượng tế và kỳ lão. Riêng với những ai thành tâm tìm kiếm chân lý, thì Ngài vẫn ở đó để tỏ mình ra cho họ. Và đó cũng là lý do mà Kitô hữu chúng ta hôm nay được ơn nhận biết Ngài. Được ơn đón nhận ơn cứu độ từ lòng thương xót của Ngài.
Nhưng trước những đặc ân nhưng không ấy, Kitô hữu chúng ta phải làm gì, và sẽ sinh lợi như thế nào. Hay cũng như những Biệt Phái, Pharisiêu, thượng tế, kỳ lão, và luật sỹ thời Ngài, chúng ta cũng làm ngơ trước tiếng mời gọi của Ngài, cũng coi thường và không đón nghe lời chân lý mà Ngài muốn nói với chúng ta.
Để được đón nhận và xứng đáng với hồng ân Nước Trời, điều mà Chúa đòi hỏi nơi mỗi Kitô hữu chúng ta, là phải biết làm phong phú, làm triển nở và dồi dào ơn ấy như những tá điền lương thiện, và cần cù chịu khó. Bằng cách nào? Bằng cách chúng ta phải sống mật thiết với ơn ấy. Phải biết đón nhận ơn ấy với lòng biết ơn. Và sau khi đã đón nhận với lòng biết ơn, thì phải làm cho ơn ấy được phát triển dồi dào trong chính cuộc sống mình, cũng như làm cho mọi người chung quanh biết và đón nhận ơn ấy nữa.
Tuy nhiên để sống mật thiết với ơn Cứu Chuộc, Kitô hữu chúng ta phải mật thiết với Đức Kitô. Hình ảnh của sự mật thiết này đã được Chúa Giêsu dùng trong ví dụ thân nho và cành nho. Cành phải dính liền với cây, và cây dính liền với cành. Cao hơn nữa, Ngài đã dùng hình ảnh chính Ngài ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Ngài. Một sự hiệp thông mở đường cho Chúa Giêsu được trưởng thành trong đời sống mỗi Kitô hữu. Mối giây mật thiết giữa người Kitô hữu và Chúa Giêsu ấy có thể tìm thấy và thực hiện được mỗi ngày khi chúng ta rước Thánh Thể. Năm Thánh Thể, theo Đức Gioan Phaolô II là một dịp để chúng ta tất cả tìm về nguồn sức sống thần linh, và để đào sâu, học hỏi và mật thiết với Chúa Giêsu. Và đây là một thực hành đúng nghĩa nhất cho sự mật thiết giữa người Kitô hữu và Chúa Giêsu. Còn hơn là cành nho và thân nho, nó giống như sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, nghĩa là, sau khi rước lễ, người Kitô hữu được tan nhập vào Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu cũng hòa tan trong người ấy.
Tiếp đến là sự biết ơn về ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho. Như Đức Maria đã cất tiếng ngợi khen khi được mời tham dự vào mầu nhiệm cứu độ: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, bởi vì “Chúa đã làm cho tôi những sự trọng đại”, mà sự trọng đại nhất là mạc khải tình thương và ơn cứu độ cho mỗi Kitô hữu chúng ta. Và để làm cho Chúa được nhận biết, cũng cùng một ý nghĩa của sự kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, người Kitô hữu mỗi lần rước Mình Máu Thánh Chúa là mỗi lần được nuôi dưỡng bằng sức sống Thánh Thể. Sức sống thần linh này sẽ tăng bổ và Giêsu-hóa sự trưởng thành của Người nơi mỗi Kitô hữu. Qua đó, những người chung quanh có thể nhận ra sự hiện diện của Ngài trong chính cuộc sống và con người mỗi Kitô hữu. Đây là một việc làm phong phú, sinh hoa trái thiêng liêng mà Chúa Giêsu đã nhắc tới khi Ngài tuyên bố cất Nước Trời khỏi tay những người Do Thái ương ngạnh, kiêu căng, tự phụ, và từ chối Ngài mà ban cho chúng ta.
Đời sống Kitô hữu, do đó, phải là một phản ảnh trung thực hình ảnh và ân sủng của Thiên Chúa trong mỗi người chúng ta. Cùng với lời chúc tụng, ngợi khen và biết ơn trong chính cuộc sống mình. Chỉ có thế, người Kitô hữu mới sinh hoa trái, mới làm phong phú những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta một cách nhưng không và rộng rãi. Và lúc đó, Nước Trời mới thật là của chúng ta.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXVII Thường Niên , Năm A này, các nhà phụng vụ muốn TN 27-A113
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXVII Thường Niên , Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Những ơn lành Chúa ban thật cao cả, vượt quá mọi công trạng và ước muốn của chúng ta. Ấy thế mà, chúng ta lại phạm tội, phản nghịch cùng Chúa, để rồi, đánh mất những ân huệ cao quý Chúa ban, vì thế, chúng ta hãy xin Chúa thứ tha những lầm lỗi và ban lại cho chúng ta những ơn cao trọng, mà chúng ta chẳng dám mơ tưởng tới bao giờ.
Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa (Rm 3,23), cho nên, trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô đã nói với ông Timôthê rằng: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời…
Bài đọc một và Thánh Vịnh 79 của bài Đáp Ca hôm nay cho thấy: Ítraen chính là vườn nho của Thiên Chúa: Gốc nho này, Chúa bứng từ Aicập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng. Thiên Chúa những mong nó sinh trái tốt, nhưng, nó lại sinh nho dại. Cho nên, vườn nho bị tan hoang, bị giày xéo, trở thành mảnh đất hoang, gai góc mọc um tùm. Đứng trước cảnh tang thương này, vịnh gia đã cầu xin: Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, xin phục hồi chúng con, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ.
Ơn cứu độ Chúa đã hứa ban, không bao giờ Người rút lại, cho dẫu, chúng ta có bội phản bất trung, bằng chứng là, Người luôn gửi các ngôn sứ, các Tông Đồ và các mục tử đến, để nhắc nhở, và dạy dỗ cho những người tội lỗi: biết quay về nẻo chính đường ngay. Các mục tử là những người mà Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.
Các mục tử là những người nhắc nhở và dạy dỗ Dân Chúa, cho nên, trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Cả đã khiển trách nặng nề các mục tử sợ không dám sửa lỗi, không mở mắt cho những người có tội nhìn thấy điều gian ác của họ, bởi vì, bổn phận của các mục tử là: Lạy Chúa, đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài. Bài đọc hai của Thánh Lễ cho thấy: thánh Phaolô quả thực là một mục tử chân chính, khi ngài đã mạnh dạn nói cho các tín hữu Philipphê biết: Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở giữa họ, nếu họ đem ra thực hành những gì thánh nhân khuyên bảo: những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến, đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã cảnh báo cho các thượng tế và kỳ mục trong dân biết rằng: Nếu họ không sinh lợi cho vườn nho của Thiên Chúa, thì: Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.
Ítraen là vườn nho của Thiên Chúa, Hội Thánh là vườn nho của Thiên Chúa, mỗi người trong chúng ta cũng chính là vườn nho của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, giữ gìn; bổn phận của chúng ta là: sinh lợi cho vườn nho của Chúa. Chúa ban cho chúng ta vườn nho, tức ơn cứu độ của Chúa, một ân huệ hoàn toàn nhưng không, vượt quá mọi công trạng và ước muốn của chúng ta. Chúa mới là chủ vườn, còn chúng ta chỉ là tá điền cộng tác với Chúa để chăm sóc vườn nho. Không ở đúng vị trí của mình, không ý thức được chỗ đứng của mình trong công trình cứu độ của Chúa, chúng ta sẽ tự đánh mất mình, bị loại ra khỏi vườn nho. Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa: nếu ví Thiên Chúa như một người đang soi gương, thì chúng ta chỉ là hình ảnh trong gương mà thôi, ấy thế mà, chúng ta lại muốn tiếm quyền, thủ tiêu người đang soi gương, thì hình ảnh trong gương làm sao có thể tồn tại được? Ước gì chúng ta biết ngoan ngùy, luôn trung thành sinh lợi cho vườn nho của Chúa, nếu lỡ, có lầm đường lạc lối, thì biết mau mắn quay về xin Chúa thứ tha, để được nhận lại những ân huệ cao trọng mà chúng ta chẳng dám mơ ước đến bao giờ.
Qủa thực, ông chủ vườn nho rất hạnh phúc với vườn nho của mình và hãnh diện nói với mọi người TN 27-A114
Qủa thực, ông chủ vườn nho rất hạnh phúc với vườn nho của mình và hãnh diện nói với mọi người: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4). Và tương quan gắn bó mật thiết giữa ông chủ và vườn nho chính là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Ngài, như ngôn sứ Isaia đã qủa quyết: “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là nhà Ítraen đó ; cây nho Chúa mến yêu qúy chuộng ấy chính là người xứ Giuđa” (Is 5,7). Nhưng rồi, chính “vườn nho – dân riêng” ấy đã làm thất vọng ông chủ của mình khi sinh ra “những trái nho dại” do làm những điều bất chính (x. Is 5,2.7).
Tin Mừng Mathêu cho chúng ta thấy: đứng trước những khước từ, tẩy chay, chống đối ngày càng dồn dập, và những âm mưu hãm hại, thủ đọan triệt hạ ngày càng bủa vây quyết liệt của người Do Thái được các Thượng tế, Kinh Sư và những người thuộc nhóm Pharisêu cực đoan dàn dựng, đạo diễn, Đức Giêsu đã không ngần ngại so sánh họ với bọn tá điền gian ác, bất trung đã bắt bớ, đánh đập, ném đá, giết chết những đầy tớ của chủ được sai đến gặp họ để thu hoa lợi trong vườn nho của ông, khi mùa hái nho đến. Sau nhiều lần hành hung, hãm hại một số rất đông đầy tớ của chủ được sai đến, chủ quyết định sai chính đứa con thừa tự vô vàn yêu qúy của mình đến gặp đám tá điền hung dữ, với hy vọng họ sẽ không làm gì cậu. Nhưng ông chủ đã lầm, vừa thấy người con, bọn chúng bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết qúach nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!. Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi” (Mt 21, 38-39).
Thẳng thừng so sánh họ với bọn tá điền ác ôn, vô ơn, phản bội, Đức Giêsu chẳng khác nào đổ dầu vào lửa. Ngài còn nghiêm khắc bảo: “Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” vì thế “họ tìm cách bắt Người” (Mt 21,43.46).
Thực vậy, chương trình của Thiên Chúa là Ítraen, dân Chúa sẽ đón nhận Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng mà các ngôn sứ đã loan báo từ bao đời trước, nhưng rất tiếc, Ítraen, dân riêng của Thiên Chúa đã không mở lòng đón nhận Ngài, bởi thế, Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, người con thừa kế được sai đến Vườn Nho – Dân Chúa đã bị hành hình, đóng đinh bởi chính dân Ngài. Và lời Kinh Thánh đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 117,22-23).
Công trình kỳ diệu ấy là Giáo Hội được khai sinh, khi Đức Giêsu xây Giáo Hội trên tảng đá Phêrô để làm thành một dân mới biết làm cho Vườn Nho đơm hoa kết trái, “biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43) ; là hạt cải vốn “là loại nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13,32) ; là “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời” ; là đại hội của những người “đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới” (Dt 12,22.24).
Là “Vườn Nho mới” được Thiên Chúa làm giậu, xây tường và tiả cành, nhổ cỏ cho tươi thắm, Giáo Hội mang sứ mệnh loan báo Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ đích thực và duy nhất của nhân loại được Chúa Cha sai đến, Đấng “đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Dầu vậy, Ngài vẫn yêu thương để “những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,11-12) trong Vườn Nho Giáo Hội của Ngài.
Khởi công xây dựng một công trình, ai cũng mong muốn cho công trình của mình được hoàn tất TN 27-A115
Khởi công xây dựng một công trình, ai cũng mong muốn cho công trình của mình được hoàn tất. Hạnh phúc biết bao khi công trình ấy trở thành một công trình vĩ đại mà ai cũng thán phục. Công trình nào cũng cần ta phải nỗ lực xây dựng. Vậy, đâu là công trình kỳ diệu nhất trong cuộc đời ta? Đó phải chăng là những hoa trái của thành công? Không phải chỉ có những thành công mới đem lại cho cuộc đời ta hạnh phúc, nhưng từ những thất bại hay những gì được coi là kém cỏi trong cuộc đời, ta sẽ khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm của một công trình rất kỳ diệu. Thiên Chúa là tác giả của công trình ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới mang đến cho ta niềm hạnh phúc thật sự. Ta có tin thế không?
“Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21, 42). Lặng nghe lời Chúa Giêsu, ta ngẫm lại cuộc đời của mình. Đã bao lần ta cảm thấy buồn rầu, chán nản và sợ hãi khi bị người khác loại ra ngoài: không cho chơi chung, không được tín nhiệm, bị chê trách vì không có khả năng, bị hiểu lầm, … Có biết bao đau khổ đã ập đến trong đời, ta đã chao đảo “giữa ba đào sóng gió bủa vây”. Nước mắt là liều thuốc giảm đau, để sau khi đã khóc cho những thất bại hay những tổn thương, nhờ ơn Chúa, ta lại đứng dậy để bước những bước đi mới. Ta đâu có ngờ được rằng, Thiên Chúa đã dùng cả những gì mà ta xem là hèn kém, thua thiệt ấy để làm cho cây đời ta trổ sinh hoa trái.
Hãy nhìn lại và ngẫm kỹ xem, vì đâu mà ta có được lòng cảm thông với người khác? Vì đâu mà ý chí của ta ngày một kiên cường và mạnh mẽ hơn? Vì đâu mà ta có được lòng kiên nhẫn, lòng yêu mến Chúa và tín thác vào Chúa hơn? Nhìn thấy những đứa trẻ chưa kịp lớn đã phải “bon chen” giữa chợ để bán vài mớ rau, ta cũng nhớ đến quãng thời gian ta cũng phải “bon chen” như thế. Ta thương các em. Nhìn những cô bác bán hàng rong, chiều chiều đẩy chiếc xe với những loại bánh trái khác nhau, họ phải vội vã tìm chỗ trú mưa khi trời Sài Gòn “trở chứng” đổ mưa, ta nhớ đến người mẹ của ta cũng đã vất vả cả đời để nuôi dạy ta khôn lớn… Khi một em học trò đến với ta, kể cho ta nghe về nỗi buồn của em, ta cũng đã ngậm ngùi và hiểu được phần nào nỗi buồn của em. Mỗi lần thất bại trong công việc, ta đã mạnh mẽ hơn để đón nhận thực tế, đã biết kiên nhẫn hơn để bắt đầu lại, kiên trì hơn để tìm kiếm một giải pháp mới. Nhờ thế, ta hiểu mình hơn và cũng hiểu người hơn, nhất là hiểu rằng Thiên Chúa rất yêu ta. Chính Thiên Chúa đã bày tỏ cho ta hiểu được kế hoạch yêu thương Ngài dành cho ta. Sau những vấp ngã đau thương, sau những thất bại trong học tập và trong công việc, ta đã luôn luôn tìm gặp Chúa để giãi bày tâm sự, để tìm kiếm ánh sáng cho tâm hồn, để tìm kiếm nguồn an ủi vô biên và tìm lại niềm tin yêu đã phai nhòa. Rồi một hôm, ta cảm nhận và thấu hiểu phần nào kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12:1-21). Không phải những gian khổ đem lại cho ta hạnh phúc nhưng vì tình yêu Đức Kitô hiện diện trong tâm hồn ta, Người làm cho bàn tay bủn rủn và đầu gối rã rời của ta nên mạnh mẽ (x. Dt 12,12).
Đã bao giờ ta tự hỏi lòng mình rằng, những hoa trái có được của ta là từ đâu và thuộc về ai không? Cố gắng học hành để thi đậu, ta là người đầu tiên đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy. Sau bao nỗ lực, vất vả và kiên trì trong những thử thách của cuộc đời, ta mới đạt được những hoa trái của thành công. “Trái ngọt nào cũng được sinh ra từ những cái rễ đắng cay”, những cái rễ đã miệt mài chắt chiu dưỡng chất trong suốt một hành trình gian khổ để mang lại vị ngọt lành. Dù thành công hay thất bại, ta hãy đón nhận như từ Thiên Chúa mà đến. Cuộc đời ta chính là công trình kỳ diệu của Thiên Chúa. Hãy sống hết mình và không ngừng để cho Thiên Chúa thi thố quyền năng và tình thương của Người trong cuộc đời ta.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa chính là “tảng đá bị thợ xây loại bỏ”. Xin Chúa dạy con biết bước đi theo thánh ý của Ngài. Mỗi ngày, mỗi phút giây trong cuộc đời con, xin Chúa hướng lòng con nghiêng về thánh ý Chúa (x. Tv 119, 36). Amen.
“Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Mt 21,42).
Vâng, tảng đá đã bị những chú thợ xây nhà loại bỏ vì có thể nó quá to, quá nặng hay vì nó TN 27-A116
Vâng, tảng đá đã bị những chú thợ xây nhà loại bỏ vì có thể nó quá to, quá nặng hay vì nó xấu. Nhìn vào bản thân mình, có bao giờ bạn thấy mình lạc lõng giữa đám đông, bị sỉ nhục trước lớp học, bị khinh chê trong buổi tiệc hay bị coi là kẻ yếu kém trong công việc…? Rơi vào các trường hợp đó, bạn đã làm gì để vượt qua?
Chúa Giêsu đã nói: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Mt 21,42). Ngài ví tảng đá là những yếu kém của con người và nơi con người. Những yếu kém đó sẽ là tảng đá trở nên viên đá trụ cột chính của ngôi nhà Nước Trời. Sâu xa hơn, Ngài muốn ám chỉ tảng đá sẽ bị người đời loại bỏ chính là Ngài (x. Ep 2,19-22). Khi sống ở trần gian, Ngài đã bị khinh chê là con nhà nghèo (x Lc 2,6); bị nhạo báng, sỉ nhục bởi các Kinh sư và các Thượng tế; bị bỏ rơi bởi các môn đệ; bị phản bội, bị bán đứng, bị khước từ bởi người môn đệ (x. Lc 22, 47-60) và bị kết án tử hình, chịu đóng đinh vào thập giá (x.Ga 19, 15-17). Ngài dùng những đau khổ, sự khinh chê đó để đem ơn cứu độ cho con người. Vì vậy, Ngài mời gọi những ai đang chịu những sự đau khổ, sự khinh chê và loại bỏ của thế gian hãy lấy làm vui mừng vì được nên giống Chúa, được thông dự vào công trình cứu chuộc của Ngài ở trần gian.
Mỗi người chúng ta sẽ trở nên viên đá góc khi biết hiến dâng, phó thác và cảm tạ Chúa vì những yếu kém bởi bẩn thân ta hay bởi người khác vì chính Ngài sẽ xoa dịu, sẽ bồi dưỡng cho những ai đang vất vả và sầu khổ (x. Mt 11,30). Các thánh tử đạo cũng đã phải sống dưới sự khinh chê và loại trừ của thế gian để đi theo Chúa đó sao. Bên cạnh đó, Ngài cũng kêu gọi những người có uy thế ở trần gian hãy đón nhận, tôn trọng những anh em yếu đuối như Đức Kitô đã đón nhận những lỗi lầm của con người (x. Rm 15,7). Mặt khác, chúng ta đều là thân phận con người, là bụi tro trong đám bụi tro. Trong ngày phán xét, Thiên Chúa không hỏi một điều gì ngoài tình yêu và sự bác ái chúng ta dành cho nhau (x. Mt 25, 31-46). Ai có tình yêu nơi Thiên Chúa và nơi tha nhân sẽ được hưởng sự sống ở trên Nước Trời. Vậy sao chúng ta còn kì thị và loại trừ nhau? Chúng ta được lời lãi ở thế gian nhưng lại mất cuộc sống trên Nước Trời nào được ích chi (x. Lc 9,25)
Là những người yếu kém và bị khinh chê, chúng ta hãy bắt chước Thánh Phaolô. Ngài nói: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Cuộc sống chúng ta rất ngắn, đừng lãng phí bởi những gì thuộc về thế gian, nhưng hãy là chính mình và vui vẻ bước đi theo Chúa, sống với Chúa bởi chính Ngài là Đấng dựng nên ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn như Chúa, nghĩ như Chúa và cảm nhận như Chúa để trong mọi người, mọi sự, con đều thấy giá trị, vẻ đẹp và sự tuyệt hảo của Chúa. Amen.
Thiên Chúa có một vườn nho. Sau khi đã rào dậu, khoét bồn đạp nho và xây một tháp canh, Người TN 27-A117
Thiên Chúa có một vườn nho. Sau khi đã rào dậu, khoét bồn đạp nho và xây một tháp canh, Người cho chúng ta là những tá điền vào canh tác vườn nho rồi trẩy đi xa. Trong thời gian ông chủ “trẩy đi xa”, chúng ta đã làm gì để sinh hoa trái? Hoa trái đó là gì? Khi ông chủ sai người đến thu hoa lợi, chúng ta có sẵn sàng đem nộp cho ông?
Mỗi người chúng ta là nhưng tá điền may mắn được Thiên Chúa – ông chủ vườn nho cho vào canh tác. Vườn nho ấy chính là Nước Thiên Chúa và là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúng ta có muôn vàn cách thức, phương thế để sinh hoa trái. Mỗi người tuy được sinh ra trong hoàn cảnh, gia đình khác nhau nhưng tất cả đều được mời gọi sinh hoa trái. Khi làm bất cứ việc gì, ai cũng mong đến ngày thu lượm thành quả. Thiên Chúa cũng vậy. Khi trao vườn nho cho mỗi người chúng ta, Ngài mong mỏi từng ngày, chờ đợi từng ngày cho cây đời ta sinh trái tốt. Chúng ta thật may mắn và hạnh phúc khi được Thiên Chúa tin tưởng, trao toàn quyền canh tác vườn nho: “Ông cho tá điền vào canh tác rồi trẩy đi xa” (Mt 21,33). Trong khoảng thời gian ông chủ “trẩy đi xa” chúng ta đã làm gì? Hẳn là ai cũng nỗ lực hết mình để canh tác sao cho vườn nho sinh trái tốt. Thiết nghĩ, khoảng thời gian ông chủ “trẩy đi xa” là cơ hội để mỗi người chúng ta phát huy khả năng, sự sáng tạo, bản lãnh của mình. Thật vậy, sống ở đời, ai cũng mong được thành công, được “nở mặt nở mày”. Khi còn là học sinh, chúng ta nỗ lực học tập để có được tấm bằng; khi ra đời, chúng ta lại nỗ lực để có được một công việc ổn định, đồng lương cân xứng. Tất cả những nỗ lực ấy đòi hỏi chúng ta phải trả giá, phải bỏ công sức. Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những nỗ lực, cố gắng của ta. Nhưng phải chăng những nỗ lực trong học tập, công việc, sự nghiệp là những hoa trái Thiên Chúa mong đợi?
“Người những mong họ sống công bình, đợi chờ họ làm điều chính trực” (x.Is 5,7). Nếu chỉ loay hoay trong những thành công theo cái nhìn của người đời, ta sẽ dễ bị thất vọng khi không đạt được điều ta mong muốn, và tệ hơn khi ta bất chấp mọi thủ đạt để đạt được nó. Nhưng nếu ta nỗ lực tìm kiếm và thực thi điều Thiên Chúa muốn, ta sẽ có được bình an, hy vọng. Bởi hoa trái mà Thiên Chúa chờ đợi chẳng phải là công bình và chính trực như sách Isaia nói tới sao? Hay như thánh Phaolô đã khẳng định: “Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22). Hoa quả đời ta phải là những gì thuộc về Nước Thiên Chúa, là những trái tốt được sinh ra trong Thần Khí. Khi ta sống theo các giáo huấn của Giáo hội, nhất là các giáo huấn của Đức Giêsu Kitô trong sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, chắc chắn ta sẽ sinh trái tốt. Nhưng một nghịch lý xảy ra đó là khi ta sinh được những trái tốt, ta lại lầm tưởng nó là của ta để rồi khi “Ông chủ” sai đầy tớ đến thu hoa lợi, ta không chịu “mang nộp”. Thánh Phaolô đã từng nói: “Tôi có là gì cũng là nhờ ơn Chúa” (1Cr 15,10). Sinh trái tốt là điều đẹp lòng Chúa nhưng để đẹp hơn, ta cần sẵn sàng giao nộp hoa lợi trong mọi lúc, chỉ cần “Ông chủ” yêu cầu. Ý thức được mình chỉ là những tá điền chứ không phải “Ông chủ”, ta sẽ không vênh vang, không tự đắc nhưng luôn khiêm tốn và sẵn lòng giao nộp những gì ông chủ cần.
Lạy Chúa! Chúng con tạ ơn Chúa đã cho chúng con cơ hội cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo khi giao cho chúng con vào canh tác trong vườn nho của Chúa. Xin cho mỗi người chúng con luôn ý thức được rằng tất cả những gì chúng con có đều là của Chúa, chúng con chỉ là người canh tác. Nhờ đó, chúng con sẽ biết nỗ lực mỗi ngày để làm cho vườn nho của Chúa sinh nhiều trái tốt và sẵn lòng dâng lại cho Chúa những gì thuộc về Ngài. Amen.
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa nói với loài người qua các tổ phụ và ngôn sứ. Chúa sai các TN 27-A118
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa nói với loài người qua các tổ phụ và ngôn sứ. Chúa sai các ngôn sứ loan báo sứ điệp của Người cho dân tộc mà Chúa tuyển chọn. Dân tộc của Chúa thường được ví như vườn nho mà Chúa vun trồng. Vào thời Chúa Giêsu, những người giàu có thường đầu tư vào vườn nho. Họ không phải đích thân canh tác vườn nho mà chỉ cần thuê người làm quản lí vườn nho cho họ. Theo luật lệ Do thái thời bấy giờ thì nếu ông chủ vườn nho chết đi mà không có con thừa tự, thì vườn nho sẽ thuộc về người nào chiếm được trước tiên.
Phúc âm hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh vườn nho để dạy loài người bài học luân lí. Theo cốt chuyện dụ ngôn, thì vườn nho được coi là dân tộc của Chúa. Thiên Chúa là chủ vườn nho và cũng là người trồng nho; tá điền là những thượng tế, kì lão và những nhà lãnh đạo dân; đầy tớ của chủ được hiểu là các ngôn sứ; Con một ông chủ là Ðấng Cứu thế. Tá điền khác là dân ngoại đến sau này, là dân tộc biết làm trổ sinh hoa trái. Như vậy mỗi nhân vật trong ngụ ngôn đều có vai trò để đóng với ý nghĩa riêng.
Những tá điền làm vườn nho đã hành hạ hoặc giết hại các đầy tớ của ông chủ. Họ còn căn cứ vào luật thừa tự để âm mưu chiếm đoạt vườn nho của chủ mà nói với nhau: Ðây là đứa con thừa tự, chúng ta hãy giết hắn đi để chiếm đoạt vườn nho này (Mt 21:38). Rồi họ giết chết con ông chủ. Họ hiểu rằng họ là những tá điền làm vườn nho của chủ. Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi họ xem ông chủ vườn nho sẽ xử tội thế nào với bọn tá điền? Họ đành lòng trả lời: Ông sẽ tru diệt chúng và trao cho các tá điền khác canh tác vườn nho (Mt 21:41). Cuối Phúc âm Chúa áp dụng sách lược gậy ông đập lưng ông đối với họ khi Chúa nói vườn nho sẽ được trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa trái.
Ðọc lịch sử cứu độ, Thánh kinh chỉ cho thấy Thiên Chúa mong mỏi được thông đạt với dân Người. Chúa sai các ngôn sứ đến để làm việc thông đạt. Ngôn sứ là người có thể nói tiên tri, nghĩa là tiên báo những biến cố xẩy ra trong tương lai. Tuy nhiên ngôn sứ không nhất thiết phải nói tiên tri. Ðúng hơn, ngôn sứ là người phát ngôn viên của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của ngôn sứ là nhắc nhở cho dân chúng biết họ là ai, họ phải sống như thế nào và phải làm gì cho xứng đáng là dân được chọn. Khi vị ngôn sứ nhắc nhở cho dân chúng như vậy, thường mang một sứ điệp, không làm dân chúng hài lòng. Khi vị ngôn sứ phải cảnh giác dân chúng về tội như gian tham, không sống theo đường lối của Chúa, lại còn thờ tà thần, ngẫu tượng, thì không được dân chúng đón tiếp và chấp nhận, bởi vì sứ điệp mà người ngôn sứ loan báo, là sứ điệp cảnh giác và kết án.
Các thượng tế và kì mục là những người lãnh đạo tôn giáo, chính trị và dân sự trong dân. Thay vì hướng dẫn dân chúng sống theo đường lối của Chúa, họ lại đưa dân đi lạc đường của Chúa. Họ hành hạ, đánh đập hoặc sát hại các ngôn sứ mà Chúa sai đến. Khi Chúa Cứu thế đến giảng dạy đường lối của Chúa, họ không chấp nhận Người. Những thiên kiến và ước vọng sai lầm của họ về Ðấng Cứu thế làm cản trở bước đường của họ đến với Chúa. Vì thế họ từ khước sứ điệp của Người. Cuối cùng họ lên án tử hình Con Một Chúa.
Mỗi người tín hữu được gọi để làm tá điền trong vườn nho của Chúa. Mỗi người đều có phận vụ khác nhau trong việc làm vườn nho của Chúa hoặc là xếp, cai hay thợ vườn nho. Mỗi người cũng có thể được trao cho vườn nho hoặc lớn hay nhỏ để canh tác. Vườn nho đó là Giáo hội, giáo xứ, cộng đồng, trường học, gia đình, hoặc tổ chức công giáo tiến hành. Vườn nho đó còn là những tài năng vật chất, trí tuệ và tinh thần Chúa ban. Vườn nho đó cũng chính là nhà linh hồn của ta. Thánh Phaolô dạy ta canh tác vườn nho bằng cách thực hành những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen (Pl 4:8).
Vườn nho mà ta được trao phó để canh tác có sinh hoa trái tốt hay không thường tuỳ thuộc vào cách thế ta canh tác. Chủ vườn nho trong sách ngôn sứ Isaia phải cho cuốc đất nhặt đá, trồng giống nho qúi, xây vọng gác giữa vườn, rồi khoét bồn đạp nho (Is 5:2). Ðể canh tác vườn nho của Chúa, ta phải làm gì? Vườn nho là linh hồn ta có được nuôi dưỡng bằng của ăn thiêng liêng hay đã bị đói lả? Nếu như vậy thì hôm nay ta cần lắng nghe lời Chúa cảnh giác: Nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ông, để trao cho dân tộc khác, biết làm trổ sinh hoa trái (Mt 21:43). Ðó cũng là ý nghĩa của lời ngôn sứ Isaia tiên báo là vườn nho nhà Ít-ra-en (Is 5:7a) sẽ bị biến thành mảnh đất hoang vu (Is 5:6). Vườn nho của nước Chúa được trao cho Giáo hội của Chúa mà chính Chúa Giêsu là tảng đá góc tường của Giáo hội (Mt 21:42). Là những tá điền canh tác vườn nho của Chúa, ta phải làm gì và làm sao cho vườn nho của Chúa được trổ sinh hoa trái?
Lời nguyện xin cho được trung thành canh tác vườn nho của Chúa:
Lạy Chúa, Chúa là chủ vườn nho bao la bát ngát. Vườn nho của nước Chúa là Giáo hội rộng mêng mông với những thửa vườn và luống nho đủ cỡ. Chúa gọi mỗi người canh tác những khu vườn khác nhau, người làm việc này, người làm việc nọ: nhổ cỏ, quốc đất, bón phân, tưới cây, làm dàn, rào dậu… trong tinh thần cộng tác và liên đới trách nhiệm. Xin dạy con phải canh tác vườn nho thế nào cho vườn nho của nước Chúa được sinh hoa kết quả. Amen.
Khó có thể xác định chính xác tâm tính con người bằng nhận xét bề ngoài. Qua cộng tác, nhất TN 27-A119
Khó có thể xác định chính xác tâm tính con người bằng nhận xét bề ngoài. Qua cộng tác, nhất là về thương mại, kinh doanh liên quan đến tiền, tài, lợi lộc, người ta hiểu rõ hơn bản chất thật của người đó. Bởi bản tính thật từ trong tâm khảm được lộ ra. Ba dụ ngôn về vườn nho trong ba tuần qua cho thấy mỗi dụ ngôn đều nói lên một tính xấu tiềm ẩn trong con người. Dụ ngôn vườn nho thứ nhất Mt 20:1-16, nói lên tính ghen tị. Nhóm thợ thuê sáng sớm đồng í tiền công một ngày một đồng, đến khi nhận đủ một đồng họ phàn nàn nhóm thợ thuê gần tối làm có một giờ mà cũng nhận công như họ, như thế là thiếu công bằng. Chủ đáp, đã đồng í một đồng, nhận đủ, còn phàn nàn gì nữa. Tại sao lại ghen tị vì tôi nhân lành. Dụ ngôn vườn nho thứ hai Mt 21:28-32, người cha sai hai con đi làm vườn nho. Người con đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng anh ta thưa cho vui lòng cha mình mà không thực hành điều anh hứa. Như thế không những anh vừa thất hứa với cha anh, vừa tự dối lòng mình. Dụ ngôn vườn nho thứ ba Mt 21:33-43 cho thấy nhóm người thuê đất, chủ trương cướp đất của chủ. Họ không muốn trả tiền thuê đất, còn bàn nhau giết chết con của chủ hy vọng hưởng gia tài cha anh để lại cho anh. Như thế họ chủ trương giết người, cướp của. Tiên tri Isaiah 5,7 cho biết vườn nho là nhà Israel and Juda. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Công việc xảy ra tốt đẹp, mọi sự coi như yên ổn cho đến khi mùa thu hoạch đến lúc đó vấn đề mới phát sinh. Vườn nho mọc tươi tốt, hoa trái rũ cành là nguyên nhân gây nên lòng tham cướp của. Theo luật thuê vườn thời đó thì đến mùa thu hoạch, chủ vườn có quyền hưởng một phần hoa trái thu hoạch. Người thuê vườn không làm tròn bổn phận người thuê mà còn muốn cướp vườn của chủ. Cho đến lúc này nhóm lãnh đạo Đền Thờ và Trưởng Lão không biết dụ ngôn Đức Kitô nói ám chỉ về cách hành xử xấu xa, tồi tệ của họ. Khi Đức Kitô hỏi í kiến họ nên đối xử thế nào với người thuê vườn bất lương đó. Họ đáp, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông. Mt 21,41. Câu kết luận của bài đọc cho biết Đức Kitô đối xử với nhóm lãnh đạo Đền Thờ và Trưởng Lão đúng hệt như họ đề nghị. Như thế chính họ tự kết án hành động của họ. Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông và trao cho dân biết làm cho nước ấy sinh hoa trái Mt 21,43
Tự cao, tự ngạo khiến nhóm lãnh đạo Đền Thờ và Trưởng Lão che mất cái khôn ngoan của họ, khiến họ không nhận ra sự khác biệt giữa chức vụ và bản tính. Chức vụ con người luôn thay đổi; nay chức này, mai tước nọ. Bản tính cá nhân thì không. Chức vụ của nhóm lãnh đạo ĐềnThờ và Trưởng lão là đại diện dân chúng. Đúng ra họ có trách nhiệm phục vụ vườn nho, có nghĩa là phục vụ dân chúng. Họ đã không phục dân chúng mà còn bắt dân chúng phụng sự họ. Nhóm này đưa ra rất nhiều luật lệ đến độ luật họ đưa ra trở thành gánh nặng cho cuộc sống hàng ngày của người dân. Thay vì đón nhận Đức Kitô, Con Thiên Chúa, họ không làm điều đó còn tìm cách xua Ngài ra khỏi Đền Thờ và lập mưu giết chết, treo Ngài trên thập tự. Như thế rõ ràng Đức Kitô tiên đoán cái chết của Ngài, đồng thời cũng nói cho lãnh tụ Đền Thờ biết tâm tính ác độc của họ. Họ không tôn thờ Thiên Chúa còn cấm người khác thi hành í Chúa, giết chết nhóm tá điền đến thực hành điều ông chủ mong đợi. Chối bỏ Đức Kitô chính là chối bỏ nững gì Ngài ban phát, đó là sống trong bình an, ơn làm con Thiên Chúa và sự sống trường sinh. Con người dù tài giỏi đến đâu cũng không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện. Bởi nhóm lãnh đạo Đền Thờ không đón nhận nước Thiên Chúa nên nước đó được trao ban cho mọi dân, mọi nước. Bất cứ ai mở lòng đón nhận nước Thiên Chúa người đó sẽ được Chúa đón nhận, trở thành con Thiên Chúa, thành dân riêng của Chúa. Chúng ta chung lời cảm tạ Chúa đã cho phép chúng ta trở thành môn đệ, dân riêng Ngài.
Ghen Ăn Tức Ở Mang Thêm Khổ Sở. Nhịn Nhục Yêu Thương Nhận Lấy An Vui. Đó là lẽ tất TN 27-A120
Ghen Ăn Tức Ở Mang Thêm Khổ Sở Nhịn Nhục Yêu Thương Nhận Lấy An Vui
Đó là lẽ tất nhiên, không chỉ trong đạo mà ngoài xã hội cũng vậy. Nhưng đâu dễ mấy ai thanh thản sống được như vậy, bởi vì cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê, luôn phải cố gắng không ngừng để chiến thắng chính mình.
Thật hay khi Việt ngữ nói Ghen Tức – vì GHEN và phát TỨC. Thật vậy, ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét; nịnh hót thì đắc thắng, nói thẳng thì thua oan. Vấn đề “ghen ăn, tức ở” là chuyện thường thấy trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống đời thường – kể cả trong tôn giáo. Ghen tương (ghen tuông) là trạng thái cảm xúc bình thường. Nó chỉ bất thường khi người ta không kiểm soát được sự bùng phát dữ dội của nó, khiến bản thân và đối tác kiệt sức.
Tacitus (56–117 TCN), nhà sử học lỗ lạc của đế quốc Rôma cổ đại, nói: “Khi đầy lòng ghen tị, người ta chê bai mọi thứ, dù tốt hay xấu.” Thật vậy, “béo chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn giơ ra.” (ca dao) Thế thì cỡ nào cũng… “chết.” Nếu người ta không ghen ghét ai, không cầu cạnh ai, không chờ đợi sự khen ngợi, không cho “cái tôi” vùng lên, chắc chắn làm gì cũng tốt lành.
Một số người cho rằng ghen tuông là cách thể hiện để người khác biết rằng họ muốn được yêu thương, được chăm sóc – giống như đứa trẻ hờn dỗi hoặc tức giận. Tuy nhiên, có mặt tiêu cực của ghen tuông: nó cho thấy sự kém tự tin, tự đánh giá thấp giá trị bản thân, hoặc các vấn đề tiềm ẩn trong mối quan hệ giữa đôi bên.
Trong cuộc sống, chúng ta thường nghe nói tới luật “Nhân – Quả.” Luật gì? Nhân Quả là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ nguồn gốc tất yếu của các hiện tượng, trong đó hiện tượng này (nguyên nhân) sản sinh ra hiện tượng khác (kết quả). Người Việt cũng có khái niệm Nhân Quả khi nói: “Ở hiền gặp lành” (tích cực), “Gieo gió gặt bão” (tiêu cực), hoặc “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.” Người Anh cũng có cách nói tương tự: “You reap what you sow.” (Bạn gặt những gì bạn gieo.) Có lẽ cũng có thể so sánh luật Nhân Quả tương tự loại vũ khí Boomerang của thổ dân Úc, ném đi rồi nó lại quay về mình. Người Việt gọi là “gậy ông đập lưng ông.”
Trong đời sống, nguyên lý Nhân Quả diễn ra theo quá trình mà “phần biết” và “phần được biết” chỉ là sự phân lập từ một tổng thể là “cái biết,” vì thế hiện tượng mà nó tạo ra được gọi là “hiện tượng nội sinh” – loại hiện tượng gọi là “karma” (nghiệp, nghiệp chướng – theo Phật học). Phật giáo quan niệm rằng hiện tượng này không do đấng quyền năng tối cao hoặc thế lực siêu nhiên chi phối, cho nên “nhân quả” được xem là nguyên lý quan trọng nhất của đời sống, khi các vấn đề trong đời sống được tìm hiểu từ bản chất của nó. Tất nhiên không phù hợp với Công giáo.
Theo hướng đó, chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo.” Câu này được rút gọn từ câu ngạn ngữ Trung Hoa: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai.” Trong đó, “ác giả” là người xấu, sự dữ; “ác báo” là sự xấu đáp lại; “thiện giả” là người tốt, việc tốt; “thiện lai” là điều lành đáp lại. “Ác giả ác báo” nghĩa là người làm việc ác thì gặp điều ác báo lại, hoặc việc ác này sẽ bị việc ác khác báo lại – thường gọi là “quả báo.” Câu này nêu lên sự ảnh hưởng tương tác của hành động, ngụ ý khuyên người ta chớ làm việc ác để tránh sự dữ, và nên ăn ở hiền từ để gặp sự lành: “Ở hiền gặp lành.” Người Tây phương cũng có một câu theo tinh thần Kinh Thánh: “Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ rơi xuống hố.” Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Rõ ràng thực chất con người rất tâm linh.
Trình thuật Is 5:1-7 là “Bài Ca Vườn Nho,” với ca từ giản dị: “Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, Giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, Xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho. Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại? Vậy bây giờ, tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: Hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.”
Đời nông dân vất vả khổ cực nên luôn muốn điều tốt, thế mà điều xấu lại xảy ra với họ. Họ luôn muốn lúa và hoa màu tốt tươi để có vụ bội thu, thế mà có khi mùa màng lại thất bát, thậm chí có khi bị trắng tay vì bão lụt hoặc bị kẻ xấu chặt phá. Thật oan ức khi phải chịu bất công, cứ phải cắn răng sống chung với “cỏ lùng.” (Mt 13:24-30) Tác giả “Bài Ca Vườn Nho” kể cho người bạn thân nghe biết về vườn nho của mình, muốn có nho tốt mà lại chỉ thấy nho dại. Thất vọng ê chề, nhưng đành phải chặt phá hàng giậu cho “vườn bị tan hoang” và đập đổ tường cho “vườn bị giày xéo.” Khổ tâm lắm!
Kinh Thánh ví Nước Trời với nhiều thứ, “vườn nho” là một trong các thứ đó. Thánh Vịnh gia cho biết: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng.” (Tv 80:9) Vì là giống tốt nên “bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả.” (Tv 80:12) Thế nhưng bất ngờ xảy ra điều khác thường: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang.” (Tv 80:13-14)
Thế là vườn hoang, nhà trống, nhưng không phải bởi chủ nhân bất cẩn hoặc bỏ mặc, mà vì kẻ xấu. Ai vậy? Chẳng còn ai trồng khoai đất này nữa, chính các tội nhân chúng ta đã làm hư hại Vườn Nho của Thiên Chúa. Với tâm tình yêu thương của Đấng giàu lòng thương xót, Thánh Vịnh gia vẫn chân thành cầu xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ, bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh.” (Tv 80:15-16) Lời trần tình tha thiết và da diết lắm!
Và không chỉ cầu nguyện với tư cách cá nhân, Thánh Vịnh gia còn đại diện cho cả nhân loại mà thề hứa trước Tôn Nhan Thiên Chúa: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài. Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.” (Tv 80:19-20) Thiên Chúa đã thương xót mà bỏ qua tất cả, chúng ta lại diễm phúc được làm con cái Ngài và được thừa kế gia nghiệp của Ngài. Chúng ta không thể không tạ ơn Ngài, đó cũng là trách nhiệm của mỗi chúng ta.
Thiên Chúa uy quyền, thẳng thắn và không thiên vị, nhưng Ngài rất nhân hiền, không chấp lách, chỉ cần chúng ta biết chân thành nhận lỗi là Ngài tha thứ ngay. Thật vậy, Thánh Phaolô động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu.” (Pl 4:6-7) Ôi, thế thì còn gì bằng, không lo chẳng sợ chi nữa. Noi gương Thiên Chúa, Thánh nữ Clara cũng đã từng nói với các nữ tu: “Đừng sợ! Hãy tín thác vào Chúa Giêsu!” Tuy nhiên, chớ thấy vậy mà ỷ lại hoặc ảo tưởng, vì đó là kiêu ngạo. Thiên Chúa không muốn ở gần kẻ kiêu ngạo.
Ngoài ra, Thánh Phaolô còn căn dặn: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” (Pl 4:8-9) Hai mệnh lệnh cách “hãy để ý” và “hãy đem ra thực hành” rất quan trọng. Đó là điều chúng ta phải cố gắng ý thức và ghi nhớ. Ngắn gọn và đơn giản nhưng không dễ thực thi chút nào!
Trình thuật Mt 21:33-43 (≈ Mc 12:1-12 và Lc 20:9-19) là dụ ngôn “Những Tá Điền Sát Nhân.” Đó là câu chuyện rất thực tế. Trong đó cũng có vấn đề liên quan lòng đố kỵ và ghen tức. Con gà còn tức nhau tiếng gáy huống chi con người – sinh vật cao cấp có lý trí và tự do. Cái “ghen tức” của con người rất đáng sợ, bất chấp và dám làm mọi việc ác – kể cả sát hại – để cái tôi của mình lấn át người khác.
Chúa Giêsu kể một dụ ngôn liên quan sự ác độc của con người: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền lần lượt bắt các đầy tớ của ông: Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể người con đó. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Đúng là “trẻ không tha, già không thương, thấy ai cũng xốn con mắt.”
Khi đó, Chúa Giêsu thản nhiên hỏi họ: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Họ đồng thanh: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” Có lẽ lúc đó Đức Giêsu vừa cười vừa gật đầu vì thấy họ nói đúng, rồi Ngài đặt vấn đề: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Ngài biết họ là những kinh sư và thầy thông luật, thuộc Cựu Ước làu làu, dẫn chứng câu nào đoạn nấy rất rạch ròi, thế nên Ngài “nhắc khéo” họ về Thánh Vịnh: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường.” (Tv 118:22) Họ có tiếng là “có cả bụng chữ” nhưng họ chỉ thuộc mặt chữ chứ chẳng hiểu ý nghĩa thâm sâu.
Cuối cùng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, KHÔNG cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” (Mt 21:43) Đó cũng là lời Đức Giêsu Kitô đang “nhắc khéo” mỗi chúng ta về cách hành xử với Thiên Chúa và với tha nhân, đặc biệt là những người “yếu kém” hơn mình, về cả vật chất lẫn tinh thần. “Đá Tảng” đó là gì hoặc là ai? Không còn ai trồng khoai đất này, đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết để cứu độ chúng ta, mà chính tay chúng ta cũng nhúng chàm, mỗi chúng ta cũng là thủ phạm đã giết Con Thiên Chúa. Chúng ta không trực tiếp đóng đinh Ngài, nhưng chúng ta trực tiếp sát hại Ngài khi chúng ta “giết” tha nhân bằng nhiều loại đinh nhọn và sắc bén: Lời nói, ánh mắt, cử chỉ, thái độ, mưu mô,… thậm chí là hành động.
Ngày nay, chính Chúa Giêsu lại một lần nữa cảnh báo mỗi chúng ta: “Ai ngã xuống ĐÁ này, kẻ ấy sẽ tan xương; ĐÁ này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt.” (Mt 21:44) Thật đáng sợ, không là lời ngăm đe hoặc hù dọa. Đúng là đáng sợ thật, bởi vì Chúa Giêsu đã có lần cảnh cáo: “Nếu không sám hối thì sẽ chết hết.” (Lc 13:3) Ai cũng là tội nhân, vấn đề hơn thua nhau chỉ là biết nhận lỗi và có sám hối hay không. Chỉ có cách là xì hơi “bong bóng cái tôi” để có thể không Ghen và không Tức.
Các hiền triết cũng có quan niệm giống nhau về khái niệm “ác giả, ác báo.” Đó là một dạng ý thức hệ. Khổng Tử nói: “Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa.” (Người làm điều tốt lành thì trời lấy phúc báo đáp lại người đó, kẻ làm điều không tốt lành thì trời lấy họa báo đáp lại kẻ đó.) Còn Trang Tử nhận định: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác tự giai khởi.” (Nếu một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điều ác sẽ tự dấy lên.) Và sách “Minh Tâm Bửu Giám” ghi: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.” (Làm việc thiện sẽ được điều tốt, làm việc ác sẽ gặp điều xấu.) Các hiền triết cũng chỉ là phàm nhân mà họ vẫn có thể nhận biết như vậy, tư tưởng gần gũi với Đức Kitô, họ đúng là thánh nhân rồi, thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương. Các tư tưởng lớn sẽ “gặp nhau” vào một lúc nào đó.
Sự ghen tức liên quan cơn nóng giận. Kinh Thánh nói: “Người chậm giận thì đầy sáng suốt, kẻ nóng tính để lộ cái dại khờ. Áp bức người yếu thế là sỉ nhục Đấng tạo thành nên họ, thương xót kẻ khó nghèo là tôn kính Đấng dựng nên người đó.” (Cn 14:30 và 31)
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận ra con bất trác và bất túc để không ảo tưởng, Xin giúp con biết khiêm hạ và sẵn sàng hành động theo Ý Ngài. “Xin giúp con đơn giản hóa cuộc sống bằng cách nhân biết Ngài muốn con là gì và trở thành con người đó.” (Thánh Teresa Hài Đồng) Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Có rất nhiều bạn trẻ khởi nghiệp từ những thứ bỏ đi, thu gom đồ cũ, chế tác lại hoặc theo cách người TN 27-A121
Có rất nhiều bạn trẻ khởi nghiệp từ những thứ bỏ đi, thu gom đồ cũ, chế tác lại hoặc theo cách người thừa bù cho người thiếu. Những nơi công tác Caritas một số giáo xứ có kế hoạch thu gom ve chai về bán lại giúp người nghèo… Chúa dùng người cũng theo cách tảng đá bỏ đi để trở nên tảng đá trọng dụng trong công trình của Người.
Năng lực từ khiếm khuyết.
Mỗi người đều không hoàn hảo, cái không hoàn hảo thường là cái không được ưa thích. Thế nhưng, chấp nhận cái không hoàn hảo như thế nào mới là cách mà mỗi người cần xử lý.
Chấp nhận không hoàn hảo để nên hoàn hảo hơn, kinh nghiệm của Steve Jobs khi chọn logo quả táo bị cắn một miếng cho hãng Apple, thúc đẩy hãng ra sản phẩm mỗi lần tốt hơn.
Luôn có sức mạnh từ những khiếm khuyết nếu biết dùng nó.
Démosthène là một nhà hùng biện nổi danh cổ xưa. Ông là đứa trẻ ốm yếu, nói lắp. Ông đã cố gắng ngậm sỏi để tập diễn thuyết trước sóng biển.
Beethoven, nhà soạn nhạc vĩ đại, thưở nhỏ bị khiếm thính và sau bị điếc hoàn toàn.
Hiệp sĩ công nghệ thông tin, Nguyễn Công Hùng, bị bại liệt tòan thân từ năm lên 2. Anh đã nỗ lực vướt qua những khó khăn của mình và thành lập trung tâm “Nghị lực sống” để giúp cho nhiều người khuyết tật có khả năng làm việc và thu nhập ổn định.
Còn nhiều và rất nhiều những gương nghị lực vươn lên từ trong những khiếm khuyết để học hỏi và cố gắng hoàn thiện chính mình.
Chúa dùng người.
Chúa đã dùng ông bà Abraham son sẻ trong tuổi già để gầy dựng nên đoàn con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biể, nên tổ phụ dân tộc trong đức tin
Moise, một người khá nóng nảy, ông đã từng giết chết một người Ai Cập, đập vỡ bia đá khi thấy dân chúng thờ bò vàng dưới chân núi, ăn nói ngọng nghịu, để trở thành con người biết chịu đựng những phàn nàn của dân Israel khi ra khỏi Ai cập, biết dùng lời lẽ khôn ngoan để dẫn đưa dân Chúa.
Chúa dùng Đavid một đứa trẻ để giết chết tướng binh hùng mãnh Goliat bằng cái trò chơi của con nít.
Chúa dùng người phụ nữ mọn hèn, chẳng bao giờ được tính vào số người theo cách tính của người Do Thái là Mẹ của Thiên Chúa làm người.
Chúa dùng Phêrô, một con người bộc trực, để trở nên người lãnh đạo.
Một người từng đi bắt Chúa để làm tông đồ dân ngoại là Phaolô.
Tảng đá bị loại bỏ xem chừng vẫn có nhiều khía cạnh tích cực trong cuộc đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”, để nói TN 27-A122
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”, để nói lên lòng thương yêu bao bọc và chăm sóc của người cha dành cho con cái mình. Đáp lại tình yêu ấy, những người con đã làm gì với người cha của mình?
Vâng, một vườn nho được tươi tốt đã thẫm đẫm bao mồ hôi, bao sự vất vả, lo âu của con người. Ông chủ vườn nho không muốn vườn nho ấy lọt vào tay người khác và bị tàn phá, nên ông đã rào giậu xung quanh. Ông xây một tháp canh đặt ở giữa. Đến mùa thu hoạch, ông sai các đầy tớ đến gặp những tá điền để xem xét, thu lợi. Nhưng bọn tá điền đã trở nên ngạo mạn, giết các đầy tớ và ném đi. Ngay cả người con một của ông, chúng cũng chẳng tha (Mt 21, 33-39). Ông chủ sẽ làm gì với họ? Nếu trong cuộc sống hiện nay, chúng ta sẽ rất tức giận và trả thù những kẻ hại chúng ta và bắt chúng phải trả lẽ việc chúng làm. Nhưng với dụ ngôn này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu của Chúa Cha dành cho dân Ngài. Chúa Cha đã cứu thoát họ khỏi ách nô lệ, chăm sóc họ mỗi ngày. Ngài sợ quân địch, sự dữ tấn công nên đã rào giậu xung quanh bằng những lề luật, giao ước của Ngài. Ngài xây tháp canh cho họ là Lời Chúa để giúp họ có một cuộc sống hạnh phúc. Các đầy tớ được sai đến là các tiên tri, các ngôn sứ để giúp họ. Nhưng họ lại không đón nhận, còn có thái độ kêu căng, tìm cách xua đuổi và giết các ngôn sứ. Biết làm sao với những đứa con cứng lòng như vậy, Chúa Cha đã sai Con Một của mình đến để giúp họ trở lại. Nào ngờ, họ chẳng trở lại, mà còn ra tay muốn giết Người Con của Ngài. Họ không còn muốn Thiên Chúa làm chủ, làm người bảo vệ hướng dẫn chăm sóc họ. Họ muốn làm chủ và có quyền trên tất cả những gì họ đang hưởng dùng, đúng như câu ông bà ta nói “Ăn cháo đá bát”. Họ quên rằng những gì của Thiên Chúa thì sẽ thuộc về Thiên Chúa.
Không chỉ riêng gì dân Do thái xưa kia, ngày nay Lời Chúa cũng muốn nhắc nhở thái độ của chúng ta với Thiên Chúa. Bởi vì, vườn nho của Chúa chính là Giáo Hội, là gia đình, các dòng tu và trường học. Đó là những môi trường cho chúng ta được sống và sống hạnh phúc. Nơi đó, Ngài bảo vệ chúng ta qua những nội quy và lề luật. Ngài ban ân sủng cho chúng ta qua các Bí tích, Lời Chúa và hiện diện với chúng ta trong Thánh lễ mỗi ngày. Có lẽ, mỗi người chúng ta đã cảm nhận được tình yêu và đang cố gắng xây dựng đất nước, xây dựng Hội Thánh và mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng những việc ấy có đúng với chân lý, đúng sự thật và đúng ý Thiên Chúa không, hay như Kinh Thánh đã viết “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Mt 21, 42). Tảng đá chính là Chúa Giêsu, còn thợ xây là chúng ta. Và tảng đá ấy đang hiện diện với chúng ta trong và nơi những người nghèo, trẻ em bị bỏ rơi, người cô đơn hay những người sống lang thang trên đường phố… Và khi gặp họ, chúng ta sẽ làm gì?
Không ít lần chúng ta đã nghe “Đạo Thiên Chúa khó lắm, phải giữ điều này, điều kia”. Vâng, điều đó là đúng, không sai. Và đạo nào cũng có cái khó riêng. Vậy, chúng ta hãy nhìn lại mình xem, hiện nay bạn đang yêu ai? Bạn làm gì để giữ người yêu của bạn? Có lẽ, bạn đã suy nghĩ và đưa ra những điều kiện với người ấy như phải yêu chỉ mình bạn, phải thường xuyên gọi điện thoại cho bạn, không được nhìn ngó xung quanh… Và khi ai nói xấu về người yêu bạn, bạn có dễ dàng bỏ qua? Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài yêu chúng ta nên Ngài cũng tìm cách gìn giữ, bảo vệ chúng ta. Chúng ta còn nhận được nhiều sự bất ngờ hơn thế nữa. Mặt khác, Ngài cho chúng ta tự do chọn lựa mọi việc. Ngài chỉ đau khổ khi mất một người con mà Ngài yêu thương thôi. Và đó cũng là lúc Ngài thực hiện lời nói “Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21,43).
Lạy Chúa, vì yêu thương chúng con, Ngài tìm mọi cách để bảo vệ chúng con. Nhưng chúng con muốn tung tăng, muốn thoát khỏi bàn tay yêu thương của Chúa, muốn làm chủ tất cả những gì nơi thế gian này cho riêng mình. Xưa kia Chúa đã cứu dân Do thái thế nào, thì nay xin Chúa cũng cứu chúng con thoát khỏi lối sống này. Vì lạy Chúa, chỉ mình Chúa mới cứu chúng con được thôi. Amen.
Khi có tình yêu, ta luôn tìm được ý nghĩa của cuộc đời mình. Có một cái gì đó cho ta muốn sống TN 27-A123
Khi có tình yêu, ta luôn tìm được ý nghĩa của cuộc đời mình. Có một cái gì đó cho ta muốn sống, muốn cống hiến và muốn cho đi. “Hương hoa hồng còn lưu lại trên bàn tay người trao ban”, câu ngạn ngữ của người Bungari cũng nói về một tình yêu cho đi thật đẹp. Có một món quà rất đẹp, một bông hoa đẹp nhất mà Thiên Chúa đã hái và tặng cho nhân loại đó chính là bông hoa Giêsu.
Hôm nay, Chúa Giêsu lại dùng một dụ ngôn khác để diễn tả về Nước Trời: dụ ngôn những tá điền sát nhân. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Ngài sáng tạo thế giới xinh đẹp và trù phú, cho con người hưởng dùng và truyền cho họ “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1, 28). Đến mùa hái nho, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi nhưng những tá điền lại “đánh người này, giết người kia và ném đá người nọ.” Những đầy tớ ấy chính là những ngôn sứ là “những người nói thay Thiên Chúa”, nhưng họ không thèm nghe mà lại giết đi. Rồi Thiên Chúa đã sai Con Một đến nhưng rồi họ cũng giết luôn hòng đoạt lấy tài sản. Chúa Giêsu hỏi những người Biệt phái và các nhà Thông luật về cái giá mà những người tá điền phải trả và họ trả lời “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và giao cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21, 41). Đó là cái nhìn hạn hẹp, ích kỷ của con người nhưng Thiên Chúa không hành xử giống con người. Người thực hiện công trình kỳ diệu bằng tình yêu. Những gì thế gian cho là đồ bỏ, không giá trị gì, thì Ngài lại đặt để nơi đó một công trình kỳ diệu. Thiên Chúa không tru diệt con người nhưng lại cứu chuộc con người bằng giá máu của Người Con Một yêu dấu. Chúa Giêsu chính là “Đá tảng góc tường”, viên đá mà những người Biệt phái và các nhà Thông luật muốn loại bỏ. Thiên Chúa đã thứ tha cho muôn vàn tội lỗi của nhân loại và cứu chuộc họ khỏi ách tội lỗi nặng nề. Chính trên thập giá, Đức Giêsu đã thốt lên trong hơi thở yếu ớt “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23, 34). Không những thế, Chúa Giêsu còn hiến trao chính Máu Thịt của mình làm của ăn dưỡng nuôi nhân loại và ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế. Được Chúa Giêsu Thánh Thể ở bên, ta có cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài trong cuộc sống của mình không?
Quả thật, giữa những bất trắc và những khó khăn của cuộc sống, để nhận ra được hồng ân của Chúa là điều rất khó. Ta vẫn thường than thân trách phận, trách cứ ông trời sao quá bất công, ban cho người này người kia có quá nhiều thứ mà trong khi tôi chẳng có gì. Có nhiều khi, ta để mình chết khát ngay bên cạnh dòng suối mát chỉ vì ta nghĩ mình không có lấy một cái xô để múc nước. Nhận ra hồng ân của Chúa trên chính cuộc đời mình đòi hỏi mỗi chúng ta bỏ đi lối nhìn hạn hẹp của mình để phóng tầm mắt ra xa hơn, đến những người xung quanh mình, nhìn cuộc đời với ánh nhìn của Chúa, ta sẽ thấy được nhiều điều tốt đẹp mà cuộc đời mang lại cho ta. Có khi nào ta để ý đến bầu không khí ta đang hít thở? Điều tưởng chừng như rất bình thường và là lẽ đương nhiên ấy lại chính là một hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban tặng. Những người bị ngạt mũi chắc chắn họ sẽ biết giá trị của cái mũi của mình. Những người bị hỏng mất đôi mắt sẽ biết được giá trị của ánh sáng. Hãy sinh hoa lợi bằng chính cuộc sống của mình. Khi về với Chúa, Ngài không hỏi những thành tích ta đạt được trên đời nhưng chỉ hỏi tình yêu ta đã có và cho đi. Thời gian không dừng lại để đợi ai, hãy biết trân quý thời giờ mà Thiên Chúa ban tặng cho ta và hãy học mãi bài học yêu thương. Chính Chúa Giêsu khi nhập thể cũng đã sống và hát mãi một bài ca về tình yêu tự hiến. Ngài cũng dạy ta hát mãi và sống mãi một bài ca “Mến Chúa yêu người”. Sẽ đến ngày Thiên Chúa hỏi về hoa lợi ta đã thu hoạch được sau một kiếp sống miệt mài. Ta có gì để dâng Chúa trong ngày ấy? Ta có trở thành công dân Nước Trời, những người biết sinh hoa lợi không?
Lạy Chúa! Mỗi khi nghĩ mình trở nên như đồ bỏ đi, xin Chúa hãy cho con nhớ rằng Công trình của Chúa xiết bao kỳ diệu. Xin cho con biết quý trọng thời gian Chúa ban và không ngừng trổ sinh hoa trái của tình yêu, và lưu lại hương hoa yêu thương trên chính những nơi con đặt chân đến. Để khi về trời, hương hoa ấy vẫn mãi mưa xuống cho nhân loại như gương sống của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. “Khi lên trời con sẽ làm mưa hoa hồng cho trần thế.” Xin Chúa cho con nhớ rằng:
“Muốn biết giá trị thật sự của 1 năm, hãy hỏi 1 học sinh thi rớt Đại học.
Muốn biết giá trị thật sự của 1 tháng, hãy hỏi người mẹ đã sanh con non.
Muốn biết giá trị thật sự của 1 tuần, hãy hỏi biên tập viên của 1 tạp chí ra hàng tuần.
Muốn biết giá trị thật sự của 1 giờ, hãy hỏi những người đang yêu chờ đợi để được gặp nhau.
Muốn biết giá trị thật sự của 1 phút, hãy hỏi người vừa lỡ chuyến tàu.
Muốn biết giá trị thật sự của 1 giây, hãy hỏi người vừa thoát khỏi 1 tai nạn hiểm nghèo.
Muốn biết giá trị thật sự của 1/100 giây, hãy hỏi vận động viên điền kinh vừa đoạt huy chương bạc tại Olympics.”
Và muốn biết giá trị của yêu thương, xin cho con biết ngắm nhìn Đấng Chịu Đóng Đinh. Amen.
Tin Mừng Matthêu chương 21 kể: sau cuộc đối thoại với những kẻ tự bưng tai, che mắt, bịt miệng TN 27-A124
Tin Mừng Matthêu chương 21 kể: sau cuộc đối thoại với những kẻ tự bưng tai, che mắt, bịt miệng, Chúa Giêsu lay tỉnh họ bằng ba dụ ngôn: “Hai người con”, “Những tá điền sát nhân” và “Dụ ngôn tiệc cưới” để vạch trần tâm địa của họ và cho họ biết cái gì chờ họ ở cuối con đường họ đang đi.
Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con” (Chúa Nhật 26), Chúa Giêsu kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”. Chúa vẫn dùng phương pháp kể chuyện rồi đặt câu hỏi, bắt họ rút ra kết luận, sau đó Chúa dùng chính kết luận ấy áp dụng vào bản thân họ. Chúa nói về những tá điền làm vườn nho, tức là những thành phần lãnh đạo trong lịch sử đã hành hạ, bắt bớ, giết chết các ngôn sứ và giết chính con ông chủ, quăng ra ngoài vườn nho. Chúa hỏi họ xem họ nghĩ ông chủ sẽ xử thế nào với bọn tá điền. Họ trả lời rất thỏa đáng. Chúa quay sang áp dụng vào bản thân họ, đồng thời trích lời TV 118,22-23, vạch cho họ thấy rằng người con ông chủ sai đến chính là Đấng mà họ sắp giết.
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri.
Ông chủ vừa trồng xong vườn nho. Ông rất yêu qúy vườn nho của mình. Chung quanh vườn, ông rào cẩn thận. Ở giữa vườn, ông cho đào một bồn ép làm rượu. Ông còn cho xây một cây tháp cao để canh giữ kẻ gian. Ông chăm sóc vườn nho thật chu đáo.
Ông chủ có lòng nhân ái với các tá điền. Họ vốn là những người nghèo khổ, không “một tấc đất cắm dùi” nên ông thương tình và muốn giúp họ sinh sống. Ông chủ thật quảng đại, thay vì chỉ thuê và trả theo lương công nhật, ông lại tin tưởng và giao toàn quyền vườn nho cho họ chăm sóc và trẩy đi phương xa. Các tá điền vui mừng được canh tác theo ý mình. Đến mùa, họ chỉ cần nộp một phần nhỏ hoa lợi cho chủ là xong trách nhiệm. Nhưng con người có lòng tham không đáy “được voi đòi tiên”. Dù đã được hưởng phần lớn hoa lợi nhưng họ còn muốn sở hữu luôn cả vườn nho để khỏi phải nộp một phần hoa lợi nào cả! Do đó, khi thấy các đầy tớ ông chủ sai đến để thu hoa lợi như đã hợp đồng, chẳng những họ đã không nộp mà còn hành hạ đánh đập, thậm chí ném đá để giết hại các người đầy tớ đó. Thấy vậy, ông chủ vẫn kiên nhẫn sai thêm một số đầy tớ khác đông hơn trước đến, nhưng số phận của những người này cũng không khá hơn những đầy tớ đến trước. Cuối cùng, ông chủ còn sai người con trai duy nhất đến, với hy vọng bọn tá điền sẽ tôn trọng con trai mình. Nhưng bọn tá điền thấy con trai ông chủ liền bàn nhau giết luôn người thừa tự kia để chiếm đoạt vườn nho cho mình.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi về thái độ của ông chủ vườn đối với bọn tá điền bất nhân ác đức kia là gì? Các thính giả nghe dụ ngôn đã đồng thanh trả lời : “Ác giả ác báo, ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, nộp phần hoa lợi cho ông”. Chúa Giêsu kết luận bằng cách áp dụng vào chính họ : “Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
Dụ ngôn này diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa và dân Ngài. Dụ ngôn là tóm lược toàn bộ Thánh Kinh về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vườn nho ám chỉ nước Thiên Chúa được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Thiên Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công Giáo, sẽ lan rộng đến tất cả mọi quốc gia. Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi lòng dạ gian ác của họ.
Dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Dụ ngôn diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng như Êlia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha.
Dụ ngôn nói tiên tri về Đạo Chúa sẽ lan rộng khắp các dân tộc. Chúa Giêsu giải thích khi trích dẫn Tv 118: “Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh vịnh này ca ngợi việc chấn hưng dân Ítraen tương lai và được giải thích như Thánh vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (x. Cv 4, 11 và 1Pr 2, 7). Con Thiên Chúa bị giết chết xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con ấy, một dân mới, được biểu thị không còn qua hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà này Chúa Giêsu sẽ là viên đá góc tường sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18).
Mỗi người chúng ta là một tá điền, Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho. Đó là những ơn phúc. Mỗi người có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Mỗi người hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc mình làm.
Những ơn phúc Chúa ban như sự sống, tài năng, sức khỏe, của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng đó.
Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài. Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả đến để nhắc nhở hãy tích cực chăm sóc vườn nho. Vì thế mỗi người có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Xin Chúa giúp chúng con luôn biết siêng năng làm việc, chu toàn bổn phận hàng ngày. Xin cho chúng con biết sử dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời. Amen.
Câu chuyện suy gẫm.
Khi giảng về việc giữ ngày Chúa Nhật, một linh mục Trung hoa đã minh họa bằng câu chuyện sau đây : “Một bà kia đi chợ mang theo 7 quan tiền trong túi áo. Khi tới chợ, bà trông thấy một người đàn ông bị què, áo quần rách nát, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Bà thấy tội nghiệp nên đã móc túi ra cho hắn 6 quan tiền và chỉ giữ lại duy một quan đi chợ. Nhưng tên ăn mày này vốn tham lam, thấy bà ân nhân vẫn còn một quan tiền ở trong túi, hắn ta liền bám sát theo và nhân cơ hội bà sơ ý, hắn ta đã ăn cắp nốt quan tiền còn lại. Khi nghe câu chuyện về tên ăn mày tham lam này, có lẽ ai trong chúng ta cũng nghĩ hắn ta đúng là một tên mạt rệp đáng khinh bỉ và trừng phạt !”.
Rồi vị linh mục đặt vấn đề với cộng đoàn : Còn chúng ta thì sao ? Trong một tuần lễ, Chúa đã ban cho chúng ta 6 ngày lao động kiếm ăn, thế mà còn duy một ngày Chúa Nhật để ta dành ra mà nhớ đến Chúa, làm các việc thờ phượng kính mến Chúa và các việc bác ái phục vụ tha nhân, nhưng nhiều khi chúng ta đã tiếc xót, vẫn làm việc thêm mong kiếm nhiều tiền cho đầy túi tham ! Như vậy, chúng ta sẽ là hạng người nào ?
Vườn nho ông chủ mới trồng, Chung quanh rào dậu, ra công xây tường. Đào hầm ép rượu đo TN 27-A125
Vườn nho ông chủ mới trồng, Chung quanh rào dậu, ra công xây tường. Đào hầm ép rượu đo lường, Tháp canh kiểm soát, ngõ đường lối đi. Tá điền thuê mướn lo chi, Tới mùa thu lợi, thực thi công bình. Chủ sai đầy tớ về trình, Thu phần lợi tức, phân minh rõ ràng. Lòng tham dạ ác bẽ bàng, Bắt giam đánh đập, chẳng màng quản cai. Số đông thân cận được sai, Tệ hơn ứng xử, họa tai từng người. Con trai yêu quí trong đời, Cha sai con đến, gọi mời nghĩ suy. Tá điền lòng dạ vong suy, Đứa con thừa tự, gây nguy gia tài. Lôi ra giết bỏ bên ngoài, Vườn nho chiếm lấy, lỗi sai phạt bù. Chủ nhà tru diệt bỏ tù, Tìm người công chính, trùng tu xóm làng.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao sứ vụ và quyền năng cho các tông đồ, để các ngài tiếp tục mở mang Giáo Hội. Chúa dùng dụ ngôn để nói lên hiện trạng của Nước Chúa ở trần gian.
Để chuẩn bị thiết lập Giáo Hội, Chúa đã chọn một dân tộc và đã chuẩn bị họ để đón nhận Đấng Cứu Thế. Trải qua lịch sử Cứu Độ, dân tộc được Chúa chọn làm dân riêng đã quay lưng lại với Chúa. Họ từ khước các tiên tri và chối bỏ chính người con yêu được sai đến với họ. Họ muốn được tự lập và muốn chiếm đoạt gia sản của Chủ.
Xã hội nơi chúng ta đang sinh sống cũng có những chiếm đoạt như thế. Nhiều người muốn loại trừ Chúa ra khỏi xã hội và cuộc sống. Họ tìm mọi cách để thoát ra khỏi ràng buộc của các luật lệ và giới răn. Con người muốn làm chủ sự sống và muốn được quyết định cho sự sống mình. Họ coi mạng sống con người chỉ là những con số. Hàng năm, với mức độ phá thai trên khắp thế giới đã đến mức kỷ lục.
Truyền thông lên tiếng bảo vệ con người, nhưng cùng lúc tìm cách hạn chế và giết chết thai nhi khi còn trong cung lòng người mẹ. Họ không muốn chia xẻ niềm vui với người khác để được làm con người và con Chúa. Họ muốn ôm đồm mọi cái là của riêng. Họ muốn tẩy chay các huấn lệnh của Chúa và Giáo Hội, rồi hủy bỏ niềm hy vọng của tin mừng sự sống.
Qua các thời đại, Chúa vẫn tiếp tục gởi các ngôn sứ để mời gọi con người ý thức sứ mệnh của mình. Mỗi người chúng ta có bổn phận bảo vệ sự sống và xây dựng một xã hội tốt đẹp, một Giáo Hội thánh thiện và mong ngày sau cùng chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Xây dựng nhà cửa thì nền móng đóng một vai trò tối ư quan trọng bởi nền móng vững chắc mới TN 27-A126
Xây dựng nhà cửa thì nền móng đóng một vai trò tối ư quan trọng bởi nền móng vững chắc mới bảo đảm căn nhà được an toàn. Nền móng không vững chắc nhà sẽ bị nứt chỗ này, rẽ chỗ nọ, hình ảnh cụ thể báo trước tai nạn đang âm thầm tiến đến. Không có nềm móng vững chắc, mưa to, gió lớn căn nhà đó sẽ xụp đổ gây tai nạn cho người cư ngụ trong nhà và rất có thể làm sụp đổ nhà hàng xóm. Đức Kitô ví mình như đá góc bị thợ xây loại bỏ. Người thợ thiếu kinh nghiệm căn bản cần thiết trong vấn đề xây cất coi thường nền móng. Đá tảng Đức Kitô muốn nói đây chính là nền móng đức tin cần thiết của các Kitô hữu. Nhận mình là Kitô hữu mà không có Đức Kitô làm chủ cuộc đời, giáo huấn của Ngài không tỏa lan qua hành động yêu thương thì người đó chỉ là Kitô hữu trên văn bản. Kitô hữu thực thụ là người đời sống của họ được chính tình yêu Chúa hướng dẫn, lời nói và việc làm của họ đi chung như bóng với hình và điều đó làm sáng danh Chúa, làm cho tình yêu Chúa lan toả qua cuộc sống thường ngày của họ. Đá góc thường ẩn mình dưới đất nhưng lại quan trọng trong việc xây dựng từ lúc khởi sự cho đến khi hoàn thành và còn cần thiết lâu dài, giữ vững căn nhà trong nhiều năm trong tương lai.
Để trở thành Kitô hữu thực thụ người đó cần có đức tin vững chắc, có chiều sâu trong Đức Kitô làm nền tảng cho hành trình rao giảng Tin Mừng. Không có đức tin sâu đặm trong Chúa người đó sẽ dễ bị ngoại cảnh chi phối, lung lạc trước lí luận nghe có vẻ hợp lí của loài người và đức tin từ đó bị lung lay tận gốc rễ bởi gốc rễ đó không được bám chặt vào Đức Kitô. Bởi bị lung lay như thế nên lời rao giảng của họ có thể bị lạc đường, thuộc về cách suy nghĩ của loài người nhiều hơn là thuộc về Chúa. Rao giảng điều tự mình hiểu là thiếu linh ứng và hướng dẫn của Thánh Thần Chúa và như thế có ngầm chứa sai lầm, lệch lạc. Rao giảng có uy quyền khi lời đó do chính Thánh Thần Chúa hướng dẫn và là bảo chứng cho điều rao giảng, để làm được điều này cần có nền tảng đức tin mạnh mẽ, sống động trong Đức Kitô. Người ta lí luận dựa vào lương tâm để phán đoán. Điều này chỉ đúng trong trường hợp lương tâm đó được giáo huấn theo đường lối Chúa. Phán đoán của một lương tâm không nhận lời Chúa làm căn ản thì phán đoán đó thuộc về cá nhân ảnh hưởng bởi xu hướng xã hội và chính trị như thế phán đoán đó dù thành thật đến đâu cũng chỉ là phán đoán thuộc về đường lối xã hội nhiều hơn là thuộc về đường lối Chúa. Đường lối xã hội thường bị ảnh hưởng, lung lạc bởi những bộ óc có tài thuyết pháp. Họ lí luận hợp lí và căn bản nên ảnh hưởng đến người nghe và như thế í kiến cá nhân cách nào đó bị lung lạc bởi khối óc thông minh. Chính vì thế mà ngoài xã hội thấy cổ võ nhiều loại tình yêu khác nhau. Chỉ có một tình yêu chân chính là tình yêu Đức Kitô rao giảng bởi chính Ngài hy sinh chết và sống lại cho tình yêu đó. Tất cả các loại tình yêu được xã hội cổ võ đều mang tính cách con người mà con người thường lệ thuộc vào cảm xúc thể lí và ước muốn. Chính những điều này khiến nhiều người rất sốt sắng và mạnh dạn cổ võ cho tình yêu do con người tạo ra với chiêu bài ‘tận hưởng thời gian tuyệt vời’. Chính điều quảng bá đó tự xác nhận loại tình yêu họ cổ võ vừa mang lại lợi ích cá nhân kèm thêm ích kỉ cho bản thân.
Đức Kitô cổ võ tình yêu tha thứ, vị tha và phục vụ không đòi lợi ích cá nhân. Khi đức tin hướng dẫn tư tưởng và hành động của ta thì chính những hành động đó làm cho đức tin của ta sáng chói và do đó làm Sáng Danh Chúa. Đá góc tường không những giữ cho căn nhà được vững vàng trước bão tố nó còn là trung tâm điểm giúp xây căn nhà hài hoà. Nó cũng giới hạn về chiều cao được phép xây và chiều rộng có thể xây. Tình yêu Chúa trong ta cũng giúp ta biết giới hạn đâu là thuộc về Chúa và đâu là thuộc về thế gian. Bởi thiếu tình yêu Chúa hướng dẫn, tác động mà người ta lầm tưởng hễ yêu là làm theo í Chúa. Không phải thế. Tình yêu chân chính cần được đặt nền móng trên tình yêu Chúa. Tình yêu con người thường mang tính cách địa phương bởi do khuynh hướng địa phương đòi hỏi, ước muốn. Tình yêu Chúa là tình yêu hoàn vũ, không giới hạn về thời gian và không gian. Tình yêu Chúa đến từ trời cao nên sống theo tình yêu Chúa chúng ta được hướng dẫn vượt lên trên ảnh hưởng vật chất trần thế và không bị lệ thuộc vào điều kiện xã hội. Sống theo tình yêu Chúa là sống phục vụ tha nhân không vụ lợi và không tìm thoả mãn ước muốn cá nhân.
Ngụ ý của câu chuyện dụ ngôn xem ra không có gì khó hiểu cho lắm! Đức Giê-su kể nó cho TN 27-A127
Ngụ ý của câu chuyện dụ ngôn xem ra không có gì khó hiểu cho lắm! Đức Giê-su kể nó cho đối tượng thính giả là các thượng tế và kỳ mục trong dân nói riêng, và cho toàn dân Do Thái nói chung, vì thái độ của họ thờ ơ khước từ các ân huệ mà Đức Chúa ban cho, hầu giúp họ chu toàn sứ mạng được trao phó trong tư cách là dân riêng. Sự chối từ đạt tới đỉnh điểm trong việc chối bỏ chính đầng Thiên Sai là Con Thiên Chúa được gởi đến với họ; “Đứa con thừa tự đây rồi, nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài nó!” Đó là lý do để dân riêng sẽ bị loại trừ và tiêu diệt trong đại họa lịch sử năm 70, và vườn nho sẽ được trao phó cho một dân khác. Dụ ngôn hàm ý như sau: một tập thể mới là Hội Thánh Chúa Ki-tô được hình thành để thay thế tập thể cũ là dân riêng Do Thái. Người đưa ra lý do để phế trừ là, họ đã không ‘nộp hoa lợi cho ông’, đồng thời cũng xác định lý do thành lập đoàn dân mới; ‘ông cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông’. Tư tưởng chung chung là như thế, nhưng ý nghĩ lởn vởn trong đầu tôi mấy ngày này lại là: ‘thu hoa lợi và nộp hoa lợi’có nghĩa là gì, và có gì khác nhau giữa hai việc này? Chính dựa vào lời giải đáp vấn nạn trên mà tôi mới xác định được lý do của việc phế bỏ dân cũ và thiết lập dân mới, cũng có nghĩa là xác định được mục đích cũng như sứ mạng đích thực mà Hội Thánh (trong đó có tôi) phải chu toàn.
Để có hoa lợi, gia chủ đã ‘trồng một vườn nho: chung quanh vườn ông rào giậu; trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và ông xây tháp canh…’ tức là ông đã làm mọi việc cần thiết để bảo đảm có được hoa lợi là sản xuất ra rượu nho thơm ngon. Khi phải ‘trảy đi xa’, ông chủ trao công việc chăm sóc cho tá điền, để chắc chắn vườn nho ông sinh hoa lợi; điều này đã được nhóm tá điền chu toàn, và có lẽ còn rất xuất sắc nữa là đàng khác. Họ thu được hoa lợi, rất nhiều hoa lợi là đàng khác, nhờ vào việc canh tác vườn nho của ông chủ. Vấn đề chính là ở chỗ: thu được nhiều hoa lợi như thế, nhưng các tá điền lại công khai từ chối ‘nộp hoa lợi’ lại cho ông chủ thứ mà ông chờ đợi. Họ chỉ muốn chiếm đoạt cho mình. Đây chính là sai lầm lớn cần bị trừng trị, thế nhưng ông chủ đã kiên nhẫn…. làm hết cách để thuyết phục họ không nên mắc phải sai lầm chết người đó. Đỉnh điểm của quá trình chống đối dai dẳng là khi, ‘ông sai chính con trai mình đến gặp chúng vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con trai ta”, nhưng họ đã ra tay hạ sát cậu con. Như vậy đã rõ ràng: không nộp hoa lợi là lý do chính để ông chủ buộc phải phế bỏ bọn tá điền bất lương, và trao vườn nho cho nhóm tá điều khác “để cứ đúng mùa họ nộp hoa lợi cho ông”.
Khi học bộ môn Kinh Thánh, giáo sư đã cho sinh viên chúng tôi biết: mọi biến cố lịch sử của dân Do Thái nói riêng và của toàn nhân loại nói chung đều hướng về mục tiêu duy nhất là làm cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ lộ và nhận biết (thứ rượu nho thơm ngon). Trong lối nhìn này ta hiểu ngay: Đức Chúa đã chọn một dân riêng (trồng vườn nho), bảo vệ dân đó (rào giậu), thử thách và tôi luyện họ (khoét bồn đạp nho), ra lề luật để canh giữ họ (xây tháp canh)…,rồi Ngài trao cho các thượng tế và kỳ mục trách nhiệm thi hành các điều trên (công việc chăm sóc vườn) chỉ là để tình yêu Người được nhận biết. Cho tới thời Đức Gê-su, các vị lãnh đạo dân ch8án chắn đã duy trì được tất cả các điều đó, có nghĩa là, họ đã làm cho vườn nho dân riêng được bảo vệ, được phát triển và củng cố nhờ lề luật; chỉ có điều là…, chính khi Người muốn họ giao nộp lại cho Người thứ tình yêu nhân ái mà Người đã thực hiện – là điều mà Đức Chúa trong suốt lịch sử, đã luôn chờ đợi dân nhận biết và duy trì, thì…, họ lại từ chối. Các tiên tri hết đợt này tới đợt khác, được gởi tới để kêu gọi dân đón nhận Thiên Chúa thương xót cứu độ, thì thay thảy đều bị họ xử tệ; ‘Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ’. Hoa lợi gia chủ yêu cầu và mong đợi đã không được họ giao nộp sòng phẳng. Sau hết Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô đã được sai đến với sứ mạng rõ rệt là kêu mời họ nhận ra và đón lấylòngthương xót Chúa, thìhọ đã ‘bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi’. Chính vì hành động khước từ dã man và độc ác này, mà gia chủ, ‘chu diệt bọn chúng, và chocác tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa họ nộp hoa lợi cho ông’. Như vậy mục tiêu để Thiên Chúa phế bỏ Dân Cũ và thiết lập Dân Riêng Mới chính là để được ‘nộp hoa lợi’. Hội Thánh nếu là Dân Riêng mới, sẽ có bổn phận chính là, hoàn lại cho Thiên Chúa tình yêu mà Người muốn bày tỏ và đã thi thố nơi trần gian, qua việc… Hội Thánh chứng tỏ mình là một tập thể tin vào Đức Ki-tô Giê-su, là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, và đón nhận Người.
Nếu quả là như thế thì Hội Thánh được Đức Ki-tô thiết lập, nhất là các ‘thượng tế và kỳ mụcmới’ của Hội Thánh này, sẽ không được coi việc xây dựng một nền luân lý cao đẹp vững chắc, hay một sự thánh thiện nào đó như là mục tiêu tối thượng của mình. Làm như thế họ mới chỉ đang chu toàn công việc canh tác vườn nho và làm nó sinh hoa lợi, là điều họ đương nhiên phải làm. Hội Thánh này không được phép đi vào vết xe đổ của Dân Cũ là cứ khư khư lo canh tác và thu hoa lợi vườn nho, qua việc làm cho giáo dân nắm giữ cặn kẽ các lề luật. Trên hết, các thượng tế và kỳ mục mới phải coi việc tin nhận Đức Ki-tô cứu độ và đón lấy lòng nhân ái xót thương của Người như hoa lợi mà mình phải giao nộp, đó mới là trách nhiệm chính mà các ngài phải chu toàn sau tất cả các công việc quản trị chăm sóc. Nếu không giao nộp thứ hoa lợi này lại cho Chủ, thì Hội Thánh, cho dầu có chăm sóc vườn nho tươm tất và trù phú tới mấy, cũng vẫn bị coi là bọn tá điền bất lương mà thôi.
Với chức linh mục được trao cho trong suốt hơn 40 năm qua, chính tôi là một ‘thượng tế và kỳ mục’trong Dân Riêng Mới của Chúa Ki-tô. Tôi cũng đã từng đổ mồ hôi, sôi nước mắt làm việc trong vườn nho Hội Thánh của Chúa suốt nhiều năm tháng…, tôi đã nỗ lực giúp các giáo hữu ăn ngay ở lành, giữ đạo đầy đủ…, nhưng thử hỏi, tôi đã thực sự trao nộp lại cho Chủ phần hoa lợi đích thực mà Người hằng mong đợi hay chưa? Nói cách khác: tôi có thật sự cùng với giáo dân đón nhận và ca ngợi lòng thương xót Chúa hay không? “Nghe những dụ ngôn Người kể. các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là: Người nói về họ”, vậy thì hôm nay, tôi có nhận ra là Chúa cũng đang nói cho chính tôi hay không?
Lạy Chúa là Gia Chủ đầy lòng nhân ái và xót thương, xin hãy soi sáng cho con biết rõ thứ hoa lợi mà Gia Chủ đang thực sự mong đợi con giao nộp lại cho Người là cái gì. Xin cho toàn thể Hội Thánh, nhất là các vị chủ chăn, hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua dụ ngôn hôm nay, hầu xác định được rõ sứ mạng và mục tiêu tối hậu của việc mục vụ họ phải chu toàn. Xin đừng để con chỉ biết chăm sóc vườn nho cho thật tốt tươi, nhưng lại khước từ nộp cho Chúa phần hoa lợi mà chính Người Con chí ái đã đến để trần gian để nhắc nhở và thu gom, đó là Tin Mừng nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ nhân loại tội lỗi. A-men.
Trong một lần được mời giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Đức Thánh Cha và giáo triều Roma, Đức TN 27-A128
Trong một lần được mời giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Đức Thánh Cha và giáo triều Roma, Đức Tôi Tớ Chúa- Hồng Y PhanxicôX. Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ: Chúa Giêsu không biết làm kinh tế, không biết tính toán, vì không ai lại để chín mươi chín con chiên lại trong hoang địa để đi tìm một con chiên lạc. Chúa Giêsu có trí nhớ rất kém, vì tên trộm trên thập giá đã phạm tội trộm cướp giết người, vậy mà chỉ một lời cầu xin: Thưa Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi, Chúa Giêsu đã quên hết quá khứ của anh và tha thứ cho anh. Chúa Giêsu cũng không làm ruộng được, vì không ai lại để cỏ lùng và lúa cùng mọc lên cho đến mùa gặt… Hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn các tá điền độc ác, lại cho thấy Thiên Chúa có cách phán đoán và hành xử “không bình thường”.
Một ông chủ có một vườn nho, ông rào giậu chung quanh, làm bồn ép nho, xây tháp canh, ông giao cho tá điền canh tác rồi trẩy đi phương xa. Lời giới thiệu vắn gọn như thế cũng đủ cho thấy ông chủ này đã dồn hết công sức, ưu tư, tiền của cho vườn nho. Vườn nho là tài sản, là hy vọng của ông. Đối với người Do Thái, vườn nho không chỉ là mảnh vườn trồng cây, mà nó còn biết bao tình yêu thương người chủ đặt vào đó: Bạn tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ, anh cuốc đất, nhặt đá, đem giống nho quý trồng vào trong vườn. Anh mong nó sinh trái tốt, nhưng trớ trêu thay, nó lại sinh ra nho dại, nho chua.
Vườn nho trong bài ca của Isaia và vườn nho trong dụ ngôn của Chúa Giêsu trước hết muốn ám chỉ đến dân Israel. Israel là vườn nho của Chúa, Thiên Chúa đã hết lòng yêu thương chăm sóc, đầu tư cho Israel. Ngài đã dùng cánh tay quyền năng để bênh vực, bảo vệ Israel. Từ Aicâp, Thiên Chúa đã đưa Israel trở về, đuổi chư dân và ban đất hứa cho họ làm sản nghiệp. Thiên Chúa đã trồng Israel vào đất ấy và không ngừng vun tưới chăm sóc. Tuy nhiên, Israel đã không sinh trái ngon, quả ngọt, mà lại sinh nho dại trái chua. Thiên Chúa mong vườn nho Israel sẽ trổ sinh hoa trái công bình chính trực, mà chỉ toàn thấy điều tội lỗi bất công. Vị tiên tri tiên báo: Sẽ đến lúc Thiên Chúa sẽ bỏ mặc vườn nho cho cỏ rậm, gai góc, cho heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang, tường rào bị xụp đổ, người qua kẻ lại giày xéo và trở nên vùng đất hoang tàn.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cho thấy cách hành xử hết sức bất thường của ông chủ. Ông đã kiên nhẫn đến đến mức cuối cùng và cũng đã quá tin vào những tá điền. Câu chuyện nhắm đến các tá điền, là những người được trao trực tiếp chăm sóc vườn nho. Thiên Chúa là ông chủ đã hoàn toàn tin tưởng trao phó tài sản, cơ nghiệp của mình cho bọn tá điền là các lãnh đạo Do Thái, đến mùa, ông sai đầy tớ đến để thu hoa lợi. Bọn tá điền đã tráo trở không những không nộp hoa lợi, chúng còn đánh đập, nhục mạ các đầy tớ do chủ sai đến.
Không những ông chủ không phản ứng, không trừng phạt tá điền, mà còn sai các nhóm đầy tớ khác đến với chúng, vì hy vọng chúng còn một chút lương tâm chân chính. Nhưng kết cục không như ông hy vọng, họ không thay đổi suy nghĩ và hành động. Họ đối xử với những người được ông sai đến còn tồi tệ hơn trước. Đến lần thứ ba, ông vẫn còn hy vọng vào sự thay đổi của những tá điền. Ông sai chính con trai của mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể con ông. Nhưng bọn tá điền không kiêng nể ông chủ và cũng chẳng kiêng nể con trai ông, chúng nổi lòng tham và sự thù hận đối với ông. Khi thấy con ông từ xa, chúng đã có ý định giết nó và đoạt lấy gia tài của nó. Chúng đã bắt con trai ông, tống ra khỏi vườn và giết chết.
Hình ảnh ông chủ trong câu chuyện chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trao vườn nho Israel của Ngài cho các tư tế và kỳ lão trong dân, họ là những người có trách nhiệm hướng dẫn dân Chúa đi theo giới răn lề luật của Chúa. Tuy nhiên, những người này đã không chu toàn nhiệm vụ, đã để cho vườn nho Isarel của Chúa bị cỏ dại là những lối sống của dân ngoại bao phủ, để cho cây nho sinh ra nho chua là sự gian ác bất công. Chính các tư tế và luật sĩ lại trở nên gương xấu cho dân, họ trở thành những con người sống hình thức, tìm kiếm tiền bạc, bổng lộc hơn là phục vụ dân Chúa. Thiên Chúa đã nhiều lần sai các tổ phụ, các tiên tri đến để cảnh báo, chấn chỉnh lại đời sống của họ. Không những các người này không nghe, mà họ còn ra tay hãm hại các người được sai đến. Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của Ngài đến, với hy vọng họ nể Con của Ngài. Tuy nhiên, những luật sĩ, biệt phái và thượng tế lại tỏ ra ghen tức với Người Con của Chúa và đã thể hiện sự gian ác đến tột cùng khi tống cậu con trai là chính Chúa Giêsu ra ngoài và giết chết Ngài bằng cái chết đau đớn trên thập giá.
Khi Chúa Giêsu hỏi họ: Theo các ông, ông chủ sẽ làm gì bọn tá điền khi ông đến? Họ trả lời: Ông sẽ tru diệt bọn chúng và cho các tá điền khác canh tác vườn nho. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa sẽ cư xử cách khác, Thiên Chúa có thể biến điều xấu thành điều tốt, biến điều dữ nên điều lành, biến những hành động xấu xa của con người nên những cơ hội mới cho con người. Các luật sĩ, thượng tế và và biệt phái đã để lòng thù ghét dâng lên cao độ, đã tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu và cuối cùng, họ đã thực hiện được âm mưu đen tối đó khi mượn tay người Roma để giết Chúa Giêsu bằng cái chết thập giá. Thiên Chúa quyền năng vô biên, lại dùng chính cây thập giá để biến nó thành dụng cụ đem lại ơn cứu độ, biến cái chết của Chúa Giêsu trở thành khởi đầu cho sự sống lại của nhân loại, biến sự gian ác của con người thành tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa, biến cái chết treo ghê sợ trên thập giá trở thành biểu tượng của tình yêu thương tha thứ đến tận cùng.
Thiên Chúa không bao giờ mất kiên nhẫn trong việc chờ đợi con người hoán cải, Ngài cũng không bao giờ chịu thua trước tội lỗi và sự ác của con người. Cho dù tội con người có chất cao như núi, thì tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa còn cao hơn trời mây. Ngài sẵn sàng tha thứ khi con người hối hận và quyết tâm sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, Ngài luôn tạo điều kiện và cho chúng ta cơ hội để trổ sinh hoa thơm trái ngọt trong đời sống của mình. Vì thế, hãy tận dụng tất cả thời gian và điều kiện hiện tại để làm nhiều việc lành việc tốt, việc phúc đức, đó chính là hoa trái Thiên Chúa mong đợi nơi mỗi chúng ta.
Các bậc cha mẹ chính là những tá điền được Chúa trao cho chăm sóc vườn nho gia đình. Thiên Chúa cũng sẽ đòi các cha mẹ phải làm cho gia đình mình trổ sinh hoa thơm trái ngọt nơi con cái. Vì thế, đừng bao giờ để cho vườn nho gia đình mình bị cỏ dại là những đam mê tật xấu bao phủ, cũng đừng để những con thú nóng nảy rượu chè, cờ bạc, cá độ, đề đóm vào phá hoại vườn nho gia đình. Hãy biết xây rào bảo vệ con cái mình bằng các việc đạo đức, bằng giờ kinh sớm tối, bằng việc chuyên chăm học giáo lý và gẫm suy Lời Chúa. Hãy bảo vệ và vun tưới cho gia đình bằng sự yêu thương và hy sinh. Có chuyên chăm hy sinh miệt mài như thế, vườn nho gia đình mới có thể sinh trái tốt cho Chúa được.
Xin Chúa cho mỗi người luôn tin vào sự kiên nhẫn quảng đại và hay tha thứ của Chúa, để biết chỉnh sửa lại bản thân và trổ sinh hoa trái thiêng liêng tốt lành trong đời sống hằng ngày. Amen.
Bất nhân” là hành động không còn nhân tính, có thể nói : “Dụ ngôn những tên tá điền sát nhân” TN 27-A129
“Bất nhân” là hành động không còn nhân tính, có thể nói : “Dụ ngôn những tên tá điền sát nhân” hôm nay (Mt 21, 33-43 ) dường như là Đoạn Tin Mừng mang “hình ảnh” rõ nét nhất về nhân tính của con người. Dù vậy, Đoạn Lời Chúa hôm nay chính là một Đoạn mang ý nghĩa “tiên trưng” nhất về “cuộc Khổ Nạn” của Chúa Giêsu.
Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay có thể chia làm ba phần rõ ràng:
Phần thứ nhất : Hình ảnh trần gian (Từ câu 33 đến 36 ) nói lên tính nhân trần cảu nhân thế. Phần thứ hai : Hình ảnh Đấng Cứu Thế (từ câu 38 – 39) , nói lên Cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Phần thứ ba : Hình ảnh cuộc phán xét ( Từ câu 40 -43), nói lên sự chung thẩm công minh của Thiên Chúa. Thưa quý vị, ngôn ngữ Tiếng Việt xưa có câu : “ Thiện Ác đáo đầu chung hữu báo “, hay là ” Ác giả, ác báo “ cũng thế. Vâng, thiện và ác luôn “song hành”, chung đôi, nhưng không “chung đường”, bởi vì, cũng dễ làm thiện, mà cũng dễ làm ác, “chung đôi” có nghĩa là “kề bên”, ngay bên cạnh nhau, gần gũi với chính chúng ta. Trong một phút thiếu suy nghĩ, có thể chúng ta làm điều ác, nhưng , nếu biết suy nghĩ, “kiềm chế”, chúng ta sẽ làm điều thiện. Ngay như các bậc thánh nhân cũng phải thừa nhận rằng : “ Khốn thân tôi, điều thiện tôi muốn làm, nhưng tôi lại không làm, trái lại điều ác tôi muốn tránh nhưng tôi lại làm”. (thánh Phaolo)
Vâng, chúng ta thấy “thiện và ác” rất gần chúng ta, vì chúng rất gần nhau , mà người ta gọi là “song hành”, nhưng, không “ chung đường”, bởi vì, “gieo gì , gặt nấy”, quy luật tự nhiên, cũng như quy luật siêu nhiên, “có gieo, có gặt”. Gieo điều lành, thì mặc nhiên gặt quả phúc, gieo điều dữ, tất nhiện gặt tai họa. Vâng, tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay là thế. Nhưng, xin phân tích ba đọạn, đồng thời là ba “Hình ảnh” rõ nét nhất về Đoạn Lời Chúa hôm nay.
Hình ảnh thứ nhất : Về Trần gian rõ nét nhất, một cảnh tượng vườn nho và những tá điền, tức người làm công, mặc nhiên hình ảnh nầy là “ trần gian “ nói chung, nhưng cụ thể là “thời Cựu Ứơc”, dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa, vì Ngài kêu gọi họ vào làm vườn nho cho Ngài trước các dân tộc khác. Đồng thời, cũng là hình ảnh Hội Thánh hữu hình trần gian.
Chúng ta không “bới móc” những điều “bất nhân”, nhưng trong “vườn nho” trần gian, không thể tránh khỏi những điều ghi trong Tin Mừng hôm nay.
Như vậy, tuy là Dụ ngôn, nhưng mang ý nghĩa tiên trưng về ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa, vì vậy, tuy một hình ảnh “bất nhân “ từ “vườn nho trần gian”, nhưng, Thiên Chúa vẫn sai Con của Ngài là Đức Giêsu – Kitô đến trần gian để mang ơn Cứu Độ cho loài người.
Hình ảnh Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô, Con Một Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ được sai đến, khi Người được Thiên Chúa là Cha sai đến trần gian là để “kiện toàn vườn nho“, tức xây dựng “Nước Chúa” giữa trần gian, nhưng những “kẻ bất nhân” cũng không nể mặt, vẫn xúc phạm Người rồi giết đi.
Từ đó suy ra, Cuộc Khổ Hình sinh ơn Cứu Độ được Thiên Chúa biết trước và báo trước qua Dụ Ngôn hôm nay, nhưng, dù vậy vẫn nói lên sự “ bất nhân “ của nhân loại qua dân tộc Israel là dân riêng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu biết trước điều đó, và tiên báo cuộc “ khổ hình” của Người và sự luận phạt chắc chắn của Thiên Chúa. Chúng ta thấy, hình ảnh quá đau khổ và thiệt thòi của “Ông Chủ vườn nho”, nói lên “Lòng Thương Xót” và nhẫn nại của Thiên Chúa, nhưng, nếu là một hình ảnh thật của nhân thế, chúng ta thấy sự nổi loạn vì tội lỗi chúng ta dẫn đến một điều “bất nhân”, mà luật “ nhân quả” không thể tha thứ.
Chúng ta thấy, Thiên Chúa nhẫn nại trao ban chính Con Một của Ngài, nhưng “kẻ ác tâm” không khoan nhượng, như vậy, ơn Cứu Độ sẽ “đòi nợ” những kẻ gây ra cuộc khổ hình của Đấng Cứu Thế.
Hình ảnh thứ ba : Hình phạt cánh chung của Thiên Chúa.
Như vậy, “Gieo gì, gặt đó”, trong Đoan Tin Mừng (Mt 21, 33- 43) hôm nay là điều hiển nhiên không thể phủ nhận. Mặc nhiên, ơn Cứu Độ là “cán cân công lý” của Thiên Chúa. Thiên Chúa không “bỏ qua” nghĩa nộ của Người sau khi đã hết thời giờ “đã định”, giống như sự chết của thân xác vậy. Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, nhưng sự bất nhân theo nghĩa đen vẫn phải chịu sự trừng phạt cuối cùng.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng giàu lòng thương xót, Cha đã kiên nhẫn vì yêu thương kẻ “bất nhân”, và đã ban Thánh Tử Giêsu cho nhân thế, nhưng thế nhân vẫn thờ ơ lãnh đạm, còn hạ sát Người. Vì thế, Cha đã đoán phạt thế gian. Xin thương ban cho những ai biết hồi tâm, cải tà quy chánh, thì cũng được hưởng nhờ ơn Cứu Độ muôn đời bởi Đức Kitô – Giêsu ./. Amen
Vào lúc 10 giờ 20 ngày 04/10/2017, một tai nạn giao thong đã xảy ra tại một giao lộ tại Giáo Phận Vinh, một chiếc xe bồn đã tránh hai học sinh đi học về bằng xe đạp điện, đã đánh tay lái sang trái quá mạnh, khiến một nữ tu đi đúng phần đường tử vong,( Soeur Anna đang trên đường mua bánh trung thu để về tổ chức tết trung thu cho trẻ em nghèo tại nhà dòng) sau khi được đưa đi cấp cứu, nhưng soeur không qua khỏi. Soeur là ANNA TRẦN THỊ PHƯỢNG, dòng Mến Thánh Gía Vinh. Theo đó, có thế nói Soeur Anna đã “thế mạng” cho hai em học sinh nói trên.
Xin cầu cho LH ANNA , nữ tu TRẦN THỊ PHƯỢNG chóng được hưởng phúc vinh quang muôn đời trong Nước Hằng Sống./. Amen.
Trước khi câu chuyện trong bài Phúc Âm hôm nay xẩy ra, đức Giesu đã trở lại đền thờ (Mt 21:23a) TN 27-A130
Trước khi câu chuyện trong bài Phúc Âm hôm nay xẩy ra, đức Giesu đã trở lại đền thờ (Mt 21:23a) và tuyên bố đền thờ là đất thánh dùng để cầu nguyện và làm mục vụ chữa lành (Mt 21:14). Lới Chúa Giesu như thách thức những kẻ đối kháng Chúa. Họ là các thượng tế và kỳ mục trong dân luôn luôn tạo áp lực để bắt bí Người:“ Ông lấy quyền gì mà làm những điều đó, và ai ban cho ông quyền ấy?”(21:23b). Chính Thiên Chúa là nguồn mạch quyền uy của đức Giesu, nhưng nếu nói ra thì chẳng ích lợi gì mà còn là cớ cho họ xúc phạm Người. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi, đức Giesu hỏi ngược lại họ về phép rửa của ông Gioan Tiền Hô. Vì không tin Chúa qua hành động mục vụ của Gioan nên họ không trả lời Chúa. Niềm tin vào Thiên Chúa và đức Giesu của những kẻ đối kháng Chúa đã thể hiện qua phản ứng của họ về ông Gioan Tiền Hô.
Ý NGHĨA BÀI PHÚC ÂM HÔM NAY
Câu chuyện người cha sai hai người con đi làm vườn nho trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 21:28-32) thì đối với những người Do Thái biết chuyện kinh thánh của họ thì câu chuyện này đã có giải đáp rồi. Chuyện nói về những người anh em, trong Kinh Thánh thường là những chuyện gây cấn, xung đột, bán mua, hiểu lầm, tranh đua như chuyện hai anh em Jacob và Esau, Isaac và Ishmael hay Joseph và các anh em ông. Tài kể chuyện của Đức Giesu đã thu hút người nghe và buộc họ phải suy nghĩ về hành động của hai người con.
Sau khi ra lệnh, người cha kỳ vọng vào việc trả lời của các con, không phải chỉ tiếng “vâng”, mà là một cam kết hành động thực sự. Người con đầu trả lời “không” nhưng nghĩ lại, hối hận đã đổi ý và đi làm. Người con thứ hai nói “vâng” cho xong chuyện nhưng không giữ lời.
MÙ QUÁNG TRƯỚC HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚA
Hai người con tượng trưng cho các vị lãnh đạo tôn giáo và những người theo lời kêu gọi thống hối của Gioan. Qua câu họ trả lời chúa Giesu (Mt 21:31), họ đã tự kết án mình. Là những người lãnh đạo tôn giáo, họ tuyên bố trung thành và vâng lời Thiên Chúa, nhưng lại mù quáng, không hiểu rằng vâng lời thực sự là phải tin những điều mới lạ mà Thiên Chúa đang làm. Cuối cùng, những kẻ tội lỗi như những người thu thuế và gái làng chơi là những kẻ chẳng biết những đòi hỏi của đạo giáo lại được nhận vào nước trời, còn những kẻ chống đối đức Giesu lại bị loại. Ngoài ra, những kẻ chỉ tìm kiếm ơn cứu chuộc ở đâu đó vì họ không chấp nhận những hình thức đạo giáo bề ngoài lại là những kẻ rất nhậy cảm với hồng ân Thiên Chúa, do đó họ đã ăn năn thống hối và phục vụ Thiên Chúa một cách rất chân tình. Cũng bất ngờ như vậy, ta thấy cách thức của Thiên Chúa và của người dân hoàn toàn trái ngược nhau như nói trong bài đọc 1 (Ed18:25-28).
SUY NIỆM VỀ NƯỚC TRỜI
Bài dụ ngôn hôm nay mới chỉ là khái niệm về đặc tính của vương quốc Thiên Chúa. Dù bài dụ ngôn đưa ra một phán xét về những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, nhưng sứ điệp này cũng áp dụng cho cả chúng ta. Đã có lúc chúng ta cũng mù quáng,không muốn nhận biết những việc Chúa làm ở chung quanh ta. Bài dụ ngôn này phải chăng nói về những kẻ đạo đức giả, bề ngoài xem có vẻ khiêm nhường và khúm núm biểu lộ vâng phục ngay từ đầu, nhưng thực tế họ chẳng nghĩ tới Chúa, chẳng thèm nhận biết lòng Chúa thương sót họ bao la thế nào! Đây là hình ảnh những kẻ xưng mình là người Công giáo, nhưng không sống với niềm tin, không thờ phượng Chúa, không đi nhà thờ đọc kinh xem lễ. Trái ngược với những người trở lại với Chúa họ chẳng bao giờ nói mình là người công chính.
Thực ra nói minh là gì không quan trọng, quan trọng là cách mình nghĩ và sống có phù hợp với lòng mình không. Nói lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi ơi ở đầu môi chóp lưỡi để ngoại giao, làm đẹp lòng người đối diện hoặc tỏ ra mình đạo đức mà lòng trí trống rỗng, không nhận biết và thực hành sứ điệp Chúa, tỏ lòng ăn năn thống hối thì chẳng có giá trị gì. Điều Chúa muốn chính là cuộc sống của chúng ta. Thiên Chúa nhẫn nại vô cùng, chắc chắn sẽ tha thứ cho tiếng “Không” lúc ban đầu, nhưng trên bước đường dài, kết thúc phải là tiếng “Vâng”.bằng hành động.
PHÚC ÂM HÓA VÀ HĂNG SAY ĐỔI MỚI
Cố gắng để đạt kết quả tốt dù chỉ chút xíu cũng còn hơn là chỉ giữ cái tên xứ này, cộng đồng nọ, hội đoàn kia cho có vẻ hoặc chỉ lo rước sách um sùm bề ngoài nhưng lại không dùng ân sủng Chúa ban để đổi mới và rao truyền Tin Mừng, tuyên xưng niềm tin trong đời sống xã hội. Hứa sẽ làm việc trong vườn nho, nhưng không làm cỏ, hái nho mà đi chọi đá dọc đường, chẳng thèm để ý đến những thành quả dồi dào Chúa ban ở quanh ta mà vui mừng tung hô Chúa.
LÒNG TRÍ VÀ CÁI NHÌN CỦA ĐỨC GIESU KITO
Thư thánh Phaolo gửi tín hữu Philiphe trong bài đọc 2 (Pl 2:1-11) là một trong những bài thánh ca tuyệt đẹp trong Tân Ước. Bài được chia làm 2 phần: Ở các câu 6-8 đức Giesu là chủ thể của mỗi động từ; các câu 9-11 đức Giesu là túc từ. Nhìn tổng quát cho thấy đức Kito hạ mình/khiêm nhường để rồi được tôn vinh.
Dù Phaolo đang bị giam trong tù, không được thăm viếng và giảng phúc cho cộng động Philiphe yêu quí của ngài, nhưng không vì vậy mà cộng đồng không thể hiệp thông và giúp đỡ ngài. Từ trong tù, Phaolo xin họ cầu nguyện cho niềm vui của ngài được trọn vẹn bằng cách có “cùng một cảm nghĩ”, “cùng một tinh yêu mến” (2:2). Đừng để bị lôi kéo, tâng bốc lên tận mây xanh theo trào lưu kiểu thế tục, chúng ta hãy làm theo khuynh hướng “đi xuống” của đức Giesu Kito tự làm cho mình trở nên hèn mọn với tâm hồn khiêm cung để rồi có được tràn đầy hống ân Thiên Chúa.
SÁCH GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VÀ CHÚA GIESU
Giáo Lý đã nêu lên những liên hệ giữa đức Kito và lề luật qua những câu sau đây:
#580- Chu toàn lề luật không phải là ai khác ngoài đấng làm ra luật là Thiên Chúa, đấng sinh ra vì luật trong con người của Chúa Con. Nơi Chúa Giesu, luật không còn ghi trên bảng đá nhưng tận “đáy lòng” của người đầy tớ đã trở thành “giao ước của dân”, bởi vì Người “trung thành theo luật pháp /công lý”. Chúa Giesu chu toàn lề luật đến độ đã lãnh lấy cho mình “sự chúc dữ của lề luật” mà những kẻ không thi hành giới răn luật phải gánh chịu. Cái chết của Chúa Giesu là để cứu chuộc họ vì đã “vi phạm giao ước thứ nhất”.
#581-Dưới mắt dân Do Thái, chúa Giesu là một rabbi. Người thường tranh luận về cách giải thích luật của các rabbi, nhưng Người không thể chấp nhận nên đã phải đụng chạm đến các tiến sĩ/thầy dạy luật, bởi vì Người không chỉ đề ra những cách giải thích như họ, mà “Người còn giảng dạy như một người có uy quyền, chứ không như các luật sĩ của họ”. Nơi chúa Giesu, cũng vẫn Lời Thiên Chúa xưa đã từng vang dội trên núi Sinai để viết ra thành luật Maisen, nay lại được nghe lại tại núi Tám Mối Phúc Thật. Chúa Giesu không dẹp bỏ lề luật, nhưng kiện toàn bằng cách đưa ra những giải thích tối hậu theo đường hướng của Thiên Chúa: “Các ngươi đã nghe có lời dạy người xưa rằng…., còn ta, ta bảo các ngươi rằng…”(Mt 5:33-34) Với uy quyền Thiên Chúa như thế, Người không chấp nhận một số truyền thống loài người của những người biệt phái vì chúng “phá bỏ Lời Thiên Chúa”.
SUY NIỆM TRONG TUẦN:
1- Thế giới quanh ta đang khao khát Tin Mừng thực sự từ những người thợ làm việc trong vườn nho của Chúa là những người rao truyền Tin Mừng không mệt mỏi, không buồn nản, nhưng là những thừa tác viên / mục tử của Phúc Âm mà cuộc sống sáng ngời đầy nhiệt khí, là những người đã nhận niềm vui chúa Thánh Thần trước tiên, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để cho nước Trời được tuyên xưng, Giáo Hội được thiết lập giữa lòng thế giới. Chúng ta phải rao truyền Phúc âm như thế nào? Chúng ta có vui mừng tiếp nhận việc Tân Phúc Âm hóa không?
2- Cái gì ngăn cản chúng ta trở thành những cộng đồng thực sự, tình nghĩa huynh đệ thực sự và một hội đoàn sống động hơn là một cơ chế tổ chức máy móc, nặng phần trình diễn?
3- Nhờ một số biến cố xẩy ra trên thế giới và trong Giáo Hội, chúng ta gạn lọc và xét lại lời tuyên xưng của chúng ta thế nào? Chúa Thánh Thần đã nói gì với Giáo Hội qua những biến cố ấy? Những hình thức mới nào vể việc phúc âm hóa mà Chúa Thánh Thần dạy bảo và đòi hỏi chúng ta phải theo ?
4- Chúng ta có phải là những người thợ làm việc trong vườn nho của Chúa, đầy niềm tin, quảng đai, nhiệt tình và tràn trề hy vọng không? Tại sao?
Triết lý ở đời cho rằng: nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng, nếu tư TN 27-A131
Triết lý ở đời cho rằng: nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng, nếu tư tưởng ban đầu đã có ý phản loạn, làm sao trong hành xử kẻ đó lại không gian ác ? Kinh nghiệm dân gian chẳng hề vô tình khi nói: trời cao có mắt, gieo nhân nào sẽ gặt được quả ấy ; vì thế người xưa vẫn có ý đặt chữ tâm, chữ đức, làm tiêu chuẩn soi dẫn con cháu: hữu tâm, tất thành tựu ; vô đức, bất thành nhân. Mang trọng trách làm cha mẹ ở gia đình, hay có chức vị trong xã hội, người ta được quyền mơ ước tài năng đức độ, thành toàn một cách xuất sắc cho vị trí hiện tại của mình. Nguồn gốc gia đình, điều kiện kinh tế, chưa phải là yếu tố quyết định đem lại danh thơm tiếng tốt, đúng hơn, người đủ tâm đủ tầm, có thực thi đức ái, có sống đạo làm người, mới đáng được con cháu hậu duệ nể phục lưu danh.
Đức Giêsu hôm xưa không ngần ngại trưng dẫn dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhằm cảnh tỉnh một số bậc kỳ lão trong dân sai lạc, đang sống thất đức, vô tâm, vô tình. Đức Kitô hôm nay, bằng nhiều phương thế, bằng hành động yêu thương, Ngài vẫn đang thức tỉnh, lưu ý, đến từng tâm hồn, đừng phản loạn, đừng làm hư hỏng hồng ân làm con cái Nước Trời. Ngày hôm nay, chủ ý giết hại các ngôn sứ để chiếm đoạt vườn nho như những tá điền thì không, nhưng ích kỷ, mưu mẹo, chèn ép người anh chị em mình nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất không phải là không có ! Được sinh ra rồi trưởng thành, tiếng dịu ngọt rất cụ thể hằng nhắc nhớ: bản chất yêu thương của cha mẹ đối với con cháu không bao giờ thay đổi. Như lá rụng về cội, nước chảy về nguồn, đó là chân lý, mỗi người không thể không nghe, không biết, không hiểu, hoặc chỉ lơ mơ về lòng bao dung của Thiên Chúa.
Sống trên đời, kẻ có tình, rình người vô ý, thật nguy hiểm biết bao, nếu không mặc lấy tâm tình khiêm tốn, khó mà chúng ta thấy được bổn phận phải trung thành với Thiên Chúa, phải sống mẫu mực yêu thương đối với đồng loại. Áp lực công việc, khả năng hiểu biết có chừng mực, nếu không có giây phút để tâm trí nghỉ ngơi, làm sao chúng ta nghe được lời nhắn nhủ của Đấng yêu thương ? Tính hung ác tàn bạo của những tá điền xưa kia, họ không nương tay với người con duy nhất của ông chủ, Đức Giêsu gợi lên sự bất trung là đầu mối làm sai lạc, dẫn tới bất hạnh mà thôi. Tình tiết câu truyện dụ ngôn không mới đối với bậc kỳ lão trong dân, nhưng do người kể và hoàn cảnh, không thể không mang tính “thời sự”, thôi thúc tâm tư vốn nhạy bén của từng cá nhân, tập thể, trước ơn gọi làm công dân của “vườn nho” mai sau.
Người xưa có câu: sấm bên đông, động bên tây, thực tế thì vì yêu, vì muốn con cái nên người hữu ích, bậc cha mẹ phải sửa dạy con cháu, hoặc cho roi cho vọt. Đức Giêsu là cội nguồn yêu thương, Ngài không đến để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi kẻ tội lỗi bất trung. Dụ ngôn tố cáo tội ác của các tá điền, lên án những người quản lý bất nhân, thất đức ; ray rứt đó, giống như câu tục ngữ: thuốc đắng giã tật. Các thượng tế và kỳ lão trong dân, họ không thể ngây thơ đến độ không biết cha ông họ đã từng cư xử bất nhân bất nghĩa, đã giết các ngôn sứ, bởi họ cũng đang đi theo lối mòn đó. Làm người ai cũng thế thôi, có thành công, được bình an, hạnh phúc, tất phải đối diện với sự thật, phải nếm mùi đau khổ, mấy ai trên đời không hiểu, có dại mới nên khôn.
Xã hội thời nào cũng thế, không ít người rất bén nhạy, họ có tai thính, mắt tinh thông, đầu óc bác học, do đó, chỉ một gợi ý nhỏ, họ dám buông bỏ tất cả để tu thân, tích đức. Đức Giêsu không “dương đông, kích tây”, nhưng Ngài đã nói sự thật, các thượng tế và kỳ lão trong dân họ phải hiểu hành động đúng, sai, của tiền nhân, vấn đề là thời gian họ đón nhận tiếng yêu thương của Thiên Chúa ? Hôm nay, khi nghe đọc dụ ngôn những tá điền sát nhân, liệu tâm hồn chúng ta có còn rung động gì nữa không ? Hoặc vì câu truyện tá điền hay người quản lý xưa quá rồi ? Ca dao có câu: trăm năm tóc cũng đổi mầu, chữ tâm sáng mãi giữa mầu thời gian; hy vọng chữ tâm và thời gian, sẽ giúp chúng ta tạo nên chữ đức.
Ngày hôm nay, ai cũng hiểu cội nguồn là tổ tiên ông bà, là Thiên Chúa làm người, vậy chúng ta có nghe được vang vọng tiếng yêu thương của các ngài không ? Cho dù tâm hồn cứng cỏi, đôi mắt tâm trí, mỗi người không tinh thông vì ảnh hưởng môi trường “ô nhiễm”, nhưng lời ru à ơi: con khôn đẹp mặt mẹ cha, con hư con dại nhuốc nha trăm đàng, vẫn là cơ hội giúp chúng ta nhớ đến cội nguồn. Con người thời đại rất tinh thông đủ điều, ai cũng biết cần phải sử dụng cái đầu thông thái để tâm để đức cho hậu thế, nên sử dụng tấm lòng quảng đại mà chia sẻ bình an, niềm vui cho anh chị em mình. Đức Giêsu rất trân trọng tự do của mỗi người, nhưng Ngài luôn thao thức trí lòng chúng ta nghe được tiếng vang vọng của tình yêu ơn Chúa cứu độ. Ngài rất cần chúng ta tin và sống niềm tin như người quản lý biết trung thành và quán xuyến công việc, phát sinh đức ái như lòng Chúa chờ mong. Amen.
Người kinh doanh bỏ vốn, bỏ công, ai cũng muốn thu lời. Trong “dụ ngôn những người tá điền TN 27-A132
Người kinh doanh bỏ vốn, bỏ công, ai cũng muốn thu lời. Trong “dụ ngôn những người tá điền sát nhân” (Mt 21, 33-43) thì sao ? Ông chủ vườn nho giao cho các tá điền canh tác vườn nho, nhưng khi đến mùa thu hoạch, họ không nộp hoa lợi lại còn giết đầy tớ và cả con trai của ông. Ông đã làm gì : “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).
Ông chủ vườn nho đã làm tất cả những gì tốt nhất cho việc canh tác, đảm bảo sự an toàn, thuận lợi trong việc chăm sóc cây. Nào là ông rào giậu, khoét bồn đạp nho, xây một tháp canh. Những công việc ấy đáng ra phải là những công việc của các tá điền, nhưng ông đã chuẩn bị sẵn. Điều lạ hơn, ông giao vườn nho cho các tá điền chăm sóc, rồi trẩy đi phương xa. Thật khó hiểu, ông chủ phải là người giám sát công việc, nhưng ông đã để các tá điền tự do chăm sóc vườn nho tùy theo khả năng mỗi người. Như vậy, ông chẳng coi họ như những người làm, nhưng là những người bạn. Thật đúng khi nói rằng chẳng có ông chủ nào tốt bụng bằng. Hình ảnh ông chủ trong vườn nho là Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành sẵn những gì tốt đẹp nhất cho từng người.
Thật vậy, Thiên Chúa mời gọi mỗi người vào canh tác vườn nho cho Chúa khi Người sinh chúng ta vào thế giới này. Người đã chuẩn bị tất cả cho chúng ta. Người ban cho chúng ta sức khỏe, thời gian, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp, mỗi người sẽ có những tài năng riêng, những người dẫn dắt giúp đỡ, và những hồng ân của Người tuôn xuống cho ta trong từng giây phút. Đặc biệt, Người để ta tự do sử dụng những gì ta có, tùy theo mỗi người. Như thế, ta chẳng còn là đầy tớ, nhưng là con cái của Thiên Chúa. Vấn đề đặt ra rằng : con người có những điều kiện tốt như thế, tại sao lại không sinh hoa lợi?
Phải chăng con người luôn đặt mình làm trung tâm, chỉ nhìn vào chính mình, luôn muốn tốt cho mình trong sự hưởng thụ, ích kỷ. Trong xã hội đã có rất nhiều vụ án gây bao nhiêu nỗi đau, xót xa. Trên báo Tiền Phong, ngày 04/05/2012 đã đăng tin, cháu trai giết bà nội chỉ vì 20.000 đi chơi game. Tại sao, bà đã nuôi nấng, chăm sóc bao lâu nhưng chỉ vì phút túng bách mà lại dám giết chính người thân nhất, thương nhất. Chúng ta có khi nào giống những người tá điền sát nhân kia, giống người cháu kia không? Đã bao lần chúng ta nghi ngờ, phản bội lại chính Thiên Chúa, chẳng sinh lời những khả năng Chúa ban, luôn đòi hỏi Thiên Chúa chiều theo ý muốn của bản thân ? Đã có lúc chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta điều này điều kia, Người không làm cho sự việc xảy ra như ý chúng ta muốn, chúng ta quên Chúa. Con người yếu đuối là thế. Có thể do chúng ta chưa nhận ra bàn tay của Chúa dẫn dắt, hoặc do hoàn cảnh, mất định hướng mà chúng ta chưa sinh lời những gì Chúa ban. Nhưng từ tận sâu trong đáy lòng mỗi người luôn khao khát được nên tốt hơn, hoàn hảo hơn như Chúa muốn.
Lạy Chúa, mỗi người có thể sinh lời khi chúng con gắn bó với Chúa như thân nho gắn liền với cành nho. Xin cho chúng con đừng trì hoãn thêm phút giây nào nữa, nhưng biết nhanh nhẹn nỗ lực hằng ngày làm trổ sinh hoa trái trong tình yêu Chúa. Xin Chúa cho chúng con thêm cơ hội và thời gian. Lạy Chúa, Người sẽ luôn kiên nhẫn, chờ đợi chúng con làm nên những hoa trái đẹp nhất. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVII/TN-A – Mt 21, 33-43) trình thuật dụ ngôn “Những tá điền TN 27-A133
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVII/TN-A – Mt 21, 33-43) trình thuật dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” cũng liên quan đến vườn nho như bài Tin Mừng tuần trước (CN XXVI/TN-A) trình thuật dụ ngôn “Hai người con” (Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho của ông – Mt 21, 28-32). Ngoài ra, Đức Giê-su còn kể dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” (Mt 20, 1-16), và Người còn tự xưng “Thầy là cây nho và anh em là cành” (“Cây nho thật” – Ga 15, 1-9). Vì sao lại có nhiều sự kiện liên quan đến vườn nho như vậy? Cũng bởi vì dân It-ra-en được Thiên Chúa tuyển chọn và coi như một vườn nho được Người chăm sóc, bảo vệ. Bài đọc 1 hôm nay (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một ví dụ. Không phải chỉ một mình ngôn sứ Isaia ví Dân Chúa là vườn nho, mà ngôn sứ Hô-sê cũng gọi Ít-ra-en là cây nho um tùm, trổ ra hoa trái (Hs 10, 1); đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn sử dụng hình ảnh này nhiều hơn (Gr 2, 21; 5, 10; 6, 9; 12, 10); và Ê-dê-ki-en cũng không tiếc lời (Ed 15, 1-8; 17, 3-10; 19, 10-14).
Trong “Bài ca vườn nho”, ngôn sứ Isaia khẳng định: “Vườn nho của ĐỨC CHÚA các đạo binh, chính là nhà Ít-ra-en đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giu-đa.” (Is 5, 7). Điều đó cho thấy vườn nho It-ra-en là Dân Giao Ước, Dân của mối tình thắm thiết mà Thiên Chúa đã dành cho dòng dõi Ap-ra-ham. Như người trồng nho cần cù, Người đã không tiếc công vỡ đất, nhặt đá trước khi đem trồng một thân nho đan tử, rồi còn cất tháp canh và khoét sẵn một bồn đạp nho. Người đã làm tất cả mọi việc với chan chứa hy vọng vườn nho sẽ sinh hoa kết quả tốt tươi. Thật vậy, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã muốn cho dòng dõi Ap-ra-ham “nhiều như sao trên bầu trời và như cát ngoài bãi biển” (St 22, 17), Người mong muốn mọi dân nước nhờ đấy mà được hưởng phúc.
Thật đáng tiếc, vườn nho It-ra-en lại trổ sinh toàn một thứ “nho dại”. Điều tất yếu xảy ra là ông chủ sẽ “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo. Tôi sẽ biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống.” (Is 5, 5-6). Ngụ ý của tác giả thật rõ ràng: Thiên Chúa “những mong họ (dân It-ra-en) sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than.” (Is 5, 7). Nhìn theo nhãn quan trần thế thì tất nhiên cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống It-ra-en, vì quả thật thời Lưu Đày ở Ba-by-lon đã xảy ra (vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên). Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9), bởi “Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống.” (Ed 18, 32). Và vì thế, Người mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc. Tới đây thì lại bước vào thời điểm của dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (Mt 21, 33-43) ứng nghiệm.
Để vườn nho tự phát triển thì vườn nho sinh toàn nho dại. Tức giận và triệt phá vườn nho thành đất hoang vu, ông chủ cũng chẳng vui thích gì. Cuối cùng, vườn nho được giao cho tá điền canh tác với hy vọng sẽ bội thu hoa lợi. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai đầy tớ đến để thu hoa lợi. Bọn tá điền không thèm đếm xỉa đến các đầy tớ, đánh người này, giết người kia. Sau cùng ông chủ sai con trai mình đến, hy vọng chúng sẽ nể con ông. Thế nhưng, các tá điền giết luôn cả người con, nghĩ rằng giờ đây chúng sẽ có thể chiếm đoạt được vườn nho. Kể tới đây, Đức Giê-su bất ngờ đặt câu hỏi: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Đám thượng tế với tâm địa chẳng tốt lành gì, đồng thời lại được giáo dục bởi một lề luật “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân…” (Xh 21, 23-25), nên ngay lập tức họ trả lời: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.”
Đám người Do Thái trả lời mà không ý thức được “mình đang phán xét, đang kết án chính mình”, bởi đám tá điền sát nhân đó không ai khác hơn là chính đám người đang nghe dụ ngôn và trả lời câu hỏi của Đức Giê-su; họ sẽ nhận được bản án mà chính họ đã đưa ra. Vì đám người này chuyên vỗ ngực xưng mình là người thông thạo lề luật, nắm vững Kinh Thánh trong lòng bàn tay, nên Đức Giê-su đã đặt một câu hỏi khác (“Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao?”) để lái câu chuyện theo ý của Người là dẫn lời Thánh vịnh 118 (câu 22-23), nhằm xác định chính Người là con trai ông chủ: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của CHÚA, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Mt 21, 42). Như vậy thì Vườn nho ấy chính là “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt.” (Mt 21, 43-44).
Rõ ràng đây là một cơ hội tốt để các nhà lãnh đạo tinh thần Do Thái giáo thức tỉnh và hối cải (“trở lại và hãy sống” – Ed 18, 32), nhưng vì họ không tin vào ngụ ý trong dụ ngôn thức tỉnh họ, nên đã từ chối và tiếp tục theo con đường mù quáng, đi tới chỗ thực hiện đúng như lời dụ ngôn tiên báo: Không chỉ tàn sát các tôi tớ của ông chủ (những ngôn sứ Thiên sai), mà còn giết luôn cả con ông chủ (Đức Giê-su Con Thiên Chúa). Con ông chủ vườn nho – “Tảng đá” bị thợ xây (là những tá điền sát nhân) loại bỏ; không ngờ “lại trở nên đá tảng góc tường” làm nền móng cho Vườn Nho Giao Ước Mới, và “Đó chính là công trình của CHÚA, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118, 23). Đâu ai có thể ngờ được con ông chủ bị giết chết lại trở thành ơn cứu rỗi cho vườn nho, viên đá tảng bị loại bỏ lại trở thành Nền Móng kiên cố xây dựng Vườn Nho Nước Chúa vĩnh hằng.
Thật là mầu nhiệm, thật là kỳ diệu, ngay cả những hành động gian ác của con người lên đến đỉnh điểm cũng không ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa – Người cho phép có sự ác nhưng cuối cùng Người xoay chiều cái ác thành cái thiện (“Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt” – St 50, 20). Giáo Lý HTCG (số 312) đã lý giải rõ ràng: “Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu qủa của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lưu do thụ tạo gây nên: “Giu-se nói với anh em: không phải các anh đã đưa đẩy tôi đến đây nhưng là Thiên Chúa, … sự dữ mà các anh đã định làm cho tôi, ý định của Thiên Chúa đã chuyển thành sự lành… để cứu sống một dân đông đảo.” (St 45, 8; 50,20). Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của con người gây nên, Thiên Chúa đă rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng (x. Rm 5, 20): Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên, không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được.”
Đức Giê-su kể dụ ngôn này để cảnh cáo các nhà lãnh đạo tinh thần Do Thái giáo, đồng thời cũng để nhắc nhở tất cả mọi tín hữu: Tội nặng nhất của các tá điền không những là từ chối đón tiếp, mà còn giết hại những người được ông chủ sai đến. Trước những tá điền bất trung và sát nhân, ông chủ vẫn cứ kiên nhẫn, sai hết người này đến người nọ, ngày càng nhiều hơn và cuối cùng sai chính con của mình đến với họ. Chung quy thì tội ấy bắt nguồn từ chỗ họ muốn chiếm lấy vườn nho. Nói cách khác, các tá điền (những thượng tế, kinh sư, kỳ mục Do Thái) đã “dĩ công vi tư” (lấy chuyện công làm chuyện riêng) muốn chiếm hữu cả vườn nho để tỏ ra là mình quan trọng, là tạo một ảnh hưởng có lợi cho bản thân. Đó phải chăng là họ đang phục vụ chính mình dưới cái vỏ bề ngoài là sự tận tụy và đạo đức phục vụ công ích?
Bài học rút ra được cho người tín hữu ngày hôm nay là tùy theo phận vụ của mình trong Giáo hội, mỗi Ki-tô hữu là những tá điền được Chúa ủy thác làm vườn nho Giao Ước Mới của Chúa là xây dựng Nước Trời, xây dựng Giáo hội thành cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Hãy thẳng thắn nhìn lại bản thân xem mình có làm vì lợi ích Nước Trời, vì lợi ích cho anh em hay chỉ vì quyền lợi của cá nhân mình? Làm công tác Tông đồ bác ái có thật lòng hay chỉ thích đứng ở ngã ba ngã tư, súng sính trong trang phục lộng lẫy, khua chiêng gõ mõ ồn ào (Mt 6, 1-6) cốt cho thiên hạ thấy mình là nhân vật quan trọng? Yêu cầu tất yếu dành cho tất cả mọi thành phần tá điền (lớn nhỏ tuỳ từng nhiệm vụ) là phải biết luôn luôn nhìn lại mình xem có thực sự xứng đáng với trách vụ của mình được Chủ vườn nho uỷ thác, hay không.
Vì Tình Yêu, Ông Chủ vườn nho luôn đối xử rất công bằng với tất cả, vậy không còn lý do nào để biện mình cho những cá tính kiêu ngạo, đố kỵ, ghen tức, hận thù; mà phải là “sống hiền hoà rộng rãi… và trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” (Pl 4, 5-9).
Tóm lại, dụ ngôn nói về dân Do Thái và những hệ luỵ do con người tự gây ra cho mình và cho đồng loại, nhưng ngoài ý nghĩa cụ thể ấy, còn hàm chứa một ý nghĩa chung cho tất cả mọi Ki-tô hữu. Vườn nho ấy chính là Giáo hội và cộng đồng dân Chúa là những tá điền được Chúa trao cho trách vụ chăm bón, vun sới cho vườn nho phát triển và sinh nhiều hoa trái. Những tá điền làm việc luôn có người con của chủ vườn nho (là chính Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa) sát cánh, đồng hành trong mọi tình huống (”Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” – Mt 21, 42). Yêu cầu tất yếu dành cho tất cả mọi thành phần tá điền (lớn nhỏ tuỳ từng nhiệm vụ) là phải biết luôn luôn nhìn lại mình xem có thực sự xứng đáng với trách vụ của mình được chủ vườn nho uỷ thác, hay không. Vì Tình Yêu, Chủ vườn nho (là Thiên Chúa) luôn đối xử rất công bằng với tất cả, vậy không còn lý do nào để biện mình cho những cá tính kiêu ngạo, đố kỵ, ghen tức, hận thù; mà phải là sống và thực hành đều răn trọng nhất: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực; và yêu người thân cận như chính mình.” (Mc 12, 30-31).
Cuối cùng thì xin hãy “Sống khiêm nhường và bác ái trong cộng đoàn” (Rm 12, 3-13), “Bác ái đối với mọi người, kể cả thù địch” (Rm 12, 14-21). Ấy cũng bởi vì và trên tất cả “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình. Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng. Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu. Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15, 1-4). Ước được như vậy. Amen.
Tin Mừng Chúa nhật thứ XXVII Thường niên, Thánh Matthêu thuật lại một dụ ngôn người chủ TN 27-A134
Tin Mừng Chúa nhật thứ XXVII Thường niên, Thánh Matthêu thuật lại một dụ ngôn người chủ vườn nho ra công gầy dựng cơ sở của mình, tạo công ăn việc làm cho các tá điền, mang cho họ cơm ăn áo mặc. Những tưởng khi đến mùa thu hoạch, những người làm cho ông sẽ thu lại sản phẩm huê lợi của chủ, sau khi đã trừ công cho người làm thỏa đáng. Thế nhưng, trớ trêu thay, những người hàm ơn lại phản lại ông chủ, thậm chí còn hành hung, xua đuổi những người đấy tớ chỉ làm theo lời chủ, đến thu huê lợi chính đáng, do người chủ vườn nho đã đầu tư vốn liếng, cơ sở vật chất, một sự công bằng phải lẽ. Sau nhiều lần nghe tin các đầy tớ bị đối xử oan nghiệt, ông chủ sai chính con mình đến, mong rằng các tá điền sẽ nể vì người con của ông mà đáp đền cho xứng hợp. Bọn tá điền không hề coi trọng con ông, lại đuổi khỏi vườn nho và giết đi.
Câu chuyện dụ ngôn trong tin mừng không phải hiếm gặp trong thế giới ngày nay. Người hàm ơn không đền đáp công ơn của ân nhân mà trái lại, tìm mọi cách chiếm đoạt, thậm chí phủ nhận mọi công lao của người đã ra tay cứu mình trong cơn hoạn nạn. Những chuyện thường nghe hôm nay như người cho ở nhờ nhà, cho mượn đất đai canh tác rồi giả mạo giấy tờ chiếm đoạt tài sản của chủ nhà, chủ đất đang diễn ra nhan nhản. Thậm chí con cái về ở lại nhà cha mẹ sau khi đã trưởng thành ra riêng, đánh đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, hay đầu độc cho cha mẹ chết rồi chiếm đoạt nhà cửa, đất đai không còn là chuyện lạ trong xã hội.
Đức Giêsu muốn nói gì khi đề cập đến dụ ngôn này? Người muốn cho chúng con biết về chính Người là người con của ông chủ vườn nho. Người đã phải chết vì tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian, khiến con người không nhận ra tình yêu thương, lòng thương xót của người chủ vườn nho là Cha nhân từ, đấng ngự trên trời. Đức Giêsu đã bị giết đi nhưng Người đã được phục sinh để mở ra một trang sử mới của lịch sử nhân loại. Từ đây một Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những con người biết sống yêu thương, chân thành, tín trung. “Tảng đá người xây nhà loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường. Đó chính là công trình của Thiên Chúa, công trình kì diệu trước mặt chúng ta”.Tảng đá ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Xin cho chúng con trở thành những công dân củaNước Thiên Chúa, biết bảo nhau chăm lo vun giữ vườn nho yêu thương, bác ái. Sống tình yêu thương, huynh đệ, đáp đền lòng thương xót của người chủ vườn nho, để trổ sinh hoa lợi một cách xứng đáng ở trần gian này, biết tránh xa thái độ vô ơn, vướng vào tội ác của những tá điền bất xứng hầu sẵn sàng đón tiếp Thánh Tử Giêsu, Người sẽ đón chúng con vào vương quốc vĩnh cửu nước Trời. Amen.
“Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”(Pl 4,6).
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy lo âu và sợ sệt. Nào là động đất, mưa bão; nào là TN 27-A135
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy lo âu và sợ sệt. Nào là động đất, mưa bão; nào là nào là lụt lội, hạn hán; nào là kinh tế bấp bênh, nào là biết bao những khó khăn trong cuộc sống. Nói tóm là nào là thiên tai, nào là nhân tai, không biết lúc nào xảy ra, không biết lúc nào tới,làm cho cuộc sống của ta bất an, lo sợ. Thế thì ta phải làm sao?
Quả thật, con người chúng ta như những tá điền làm vườn nho vậy. Vườn nho là thế gian này. Chủ vườn nho, chủ thế gian này là Thiên Chúa. Quả vậy, Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài, muôn vật, trong đó có cả con người. Thiên Chúa dựng nên mọi sự cho con người chúng ta hưởng dùng. Mọi sự đều là của Chúa và Chúa cho con người làm thuê. Vậy thì con người chúng ta sẽ trả lại gì cho Thiên Chúa đây ? Tiền hay vàng bạc ? Những thứ này Chúa không cần. Đối với Chúa, tiền cũng như giấy thôi; vàng hay bạc thì cũng như sắt hay đất thôi. Vậy Chúa muốn gì?
Chúa chỉ mong con người chúng ta sống công bình và đợi chờ chúng ta làm điều chính trực thôi.(x.Is 5,7). Thế nhưng, Chúa những mong muốn con người chúng ta sống công bình nhưng chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ chúng ta làm điều chính trực, nhưng chỉ nghe văng vẳng tiếng khóc than. Tại sao vậy? Vì con người chúng ta làm toàn là vì ganh tị và hư danh và coi mình hơn người khác. (x.Pl 2,3)
Vì luôn ganh tị nhau và ham danh, ham lợi nên có chiến tranh, nên chém giết lẫn nhau, dù là cha mẹ hay là anh chị em với nhau. Vì luôn luôn coi mình hơn người khác nên có sự tranh cãi, hơn thua, gây bao đau khổ. Vậy ta phải làm gì ? Ta phải cầu nguyện, van xin và tạ ơn.
Cầu nguyện để ta nhớ đến Chúa là Đấng đã ban cho chúng ta mọi sự. Van xin những khi ta cần, những khi ta thiếu. Tạ ơn vì những ơn lành Chúa luôn ban cho ta: khi ta vui, ta thành công, ta hạnh phúc. Nghĩa là, trong cuộc sống hằng ngày, “Những gì là chân thật, cao quí; những gì là chính trực, tinh tuyền; những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt; những gì là đức hạnh, đáng khen”, ta hãy để ý học hỏi và thực hành.(x.Pl 4,8-9)
Những điều chân thật chính là những bổn phận của ta. Ta có nhiều bổn phận lắm, nào là bổn phận đối với Chúa, bổn phận đối với gia đình, bổn phận đối với xã hội, Giáo Hội và nhất là bổn phận với chính mình. Ta phải sắp xếp cho hợp lý và lo chu toàn.
Những gì là cao quí. Việc cao quí của chúng ta là cầu nguyện. Ta cầu nguyện cho gia đình, cho xã hội, cho Giáo Hội, cho người còn sống cũng như đã qua đời. Nhất là ta cầu nguyện cho chính ta, ta nói với Chúa tất cả những gì ta muốn nói; những lúc ta gặp những khó khăn, gian truân trong cuộc sống; những lúc thất bại, những lúc bị chê bai; những lúc bị nói hành, nói xấu; những lúc ta bệnh tật, cô đơn, buồn sầu.
Những gì là chính trực, tức là những việc ta làm hay đối xử phải làm sao cho công bằng. Công bằng trong phân phối, cũng như công bằng trong hưởng lợi. Nghĩa là ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Người mạnh thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ. Mỗi người sẽ được hưởng phù hợp với công sức mình đã bỏ ra.
Những gì là tinh tuyền, tức là những gì ta làm, nó xuất phát từ con tim, từ cõi lòng của ta và ta làm những việc tốt lành cho mình và cho người khác. Không có mưu đồ đen tối, cũng không mưu mô xảo quyệt.
Những gì là đáng mến, tức là những gì ta làm vì mến Chúa yêu người. Ta giúp đỡ người nghèo, ta giúp đỡ người bệnh, người già; ta giúp đỡ người đang gặp những khó khăn, bằng tiền, bằng của, bằng lời khuyên, bằng lời góp ý, bằng sức lực, bằng thì giờ.
Những gì đem lại danh thơm tiếng tốt, không chỉ trước mặt người đời mà nhất là trước mặt Chúa. Đó là việc ta có ý đại diện cho mọi người khi thờ lạy Chúa. Vì có biết bao người trong sự sô bồ của cuộc sống, họ không có thì giờ nhớ đến Chúa và thờ lạy Chúa đâu. Ta hãy thay mặt họ mà thờ lạy Chúa. Làm người đại điện như thế cũng oách lắm chứ bộ; nhưng điều này chỉ có Chúa biết thôi.
Những gì là đức hạnh, đáng khen, đó là những đức tính quí báu của con người như là khiêm nhường, chịu khó, chăm chỉ, chuyên cần, tiết độ; đơn sơ, giản dị; chân thành, chân tình, thật thà, ngay thẳng,….Những việc này chẳng cần nói nhiều, chẳng cần nổ, ai cũng thích, ai cũng thương hết.
Có làm được như thế thì bình an của Chúa sẽ đến trong ta và Thiên Chúa bình an sẽ ở với ta. Có Chúa ở với ta, thì ta còn sợ gì nữa. Trời có sập xuống ngay trên đầu ta cũng chẳng sợ. Đất có thụt xuống chân, ta cũng không nao núng. Ta sẽ là người tá điền tốt lành và trung tín của Chúa.
Tôi đang đi trong vườn cà phê. Cây cà phê được mưa thuận gió hòa, được chăm bón kỹ lưỡng TN 27-A136
Tôi đang đi trong vườn cà phê. Cây cà phê được mưa thuận gió hòa, được chăm bón kỹ lưỡng, cắt tỉa kỹ thuật, rất sai trái. Ngắm nhìn vườn cà phê đỏ rực, tôi thầm ca ngợi Thượng Đế đã ban cho nhân loại một loại thức uống rất đặc biệt. Nó làm cho đầu óc con người tỉnh táo, sáng suốt. Gợi hứng cho các văn nghệ sĩ hoàn thành nhiều tác phẩm để đời.
Lặng lẽ bên ly cà phê nóng, nhìn từng giọt nhỏ xuống với mùi hương thơm ngát hoang sơ núi rừng, tôi thầm suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, về thăng trầm thế sự: Phải làm gì cho xã hội, cho đồng loại, cho Giáo-hội-được-ví-như-vườn-nho trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thuộc loại tá điền nào
Mỗi người chúng ta là tá điền được Chúa gởi đến vườn nho, hay là được trao cho một vườn nho để canh tác, thu hoạch những sản phẩm nặng trĩu chất lượng. Những sản phẩm này ông chủ không lấy hết, chỉ lấy một phần theo giao kèo. Tá điền càng lao động hết mình, càng thu hoạch lớn. Điều này chứng tỏ chủ vườn rất hào phóng, thương lớp người nghèo vô sản, muốn họ đổi đời. Ông còn trao cho họ hy vọng khai thác vườn nho vô thời hạn, hoặc một thời gian lâu dài. Thế nhưng, lòng tham con người vô đáy, mau quên và vô ơn. Lợi dụng lòng tốt, tá điền muốn chiếm đoạt, lại còn tàn ác đánh đập, giết người nhà của chủ. Ta nhận thấy sự hiền từ nhẫn nhục của ông chủ, không ra tay trừng phạt ngay, mà còn lạc quan đợi chờ sự hồi tâm, sự nể trọng của bọn tá điền khi “liều lĩnh” sai con của mình vào “hang sư tử”. Lòng bao dung tuy vô bờ vô bến, nhưng đức công chính của ông không thể biến thành nhu nhược. Những tá điền vô ơn vô phước đã bị trừng phạt đích đáng theo công lý.
Dụ ngôn này cho thấy công chính là phẩm tính của Thiên Chúa (x. Is 5, 16) biểu hiện qua việc Ngài chống lại sự ác (x. Kb 1, 13). Điều này chính người Pharisiêu cũng công nhận khi họ nói “Ác giả ác báo” (Mt 21, 41).
Chúng ta là những tá điền bị loại bỏ ?
Nước Thiên Chúa là “vườn nho sẽ được lấy đi không trao cho các ông nữa, mà trao cho một dân (cá nhân, tập thể, tổ chức, dân tộc, quốc gia…) biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43). Chúng ta đừng lầm tưởng Lời của Chúa chỉ liên quan đến dân Do Thái đương thời. Đức Giêsu còn lập lại với chúng ta những lời ấy khi chính chúng ta đang bị lão hóa và cằn cỗi về phương diện đức tin, khi chấp nhận cho đủ thứ dâm loạn và lòng mê hám tiền bạc, giết chết định chế gia đình, và bóp nghẹt mọi lẽ sống. Và chúng ta nghĩ sao, nếu trong kế hoạch của Thiên Chúa, Người phải ban Nước Trời – Vườn Nho cho những dân tộc khác, vì chúng ta đã không xả thân phục vụ cho vương quốc ấy.
Lịch sử cho thấy rằng, ngày nay Giáo hội vắng mặt tại nhiều nơi, hay nhiều môi trường xã hội mà trong quá khứ, đã có nhiều cộng đoàn Kitô hữu nổi tiếng (như tình trạng tôn giáo ảm đạm tại nhiều nước châu Âu…). Trước hoàn cảnh như vậy, người ta hay tìm những “nguyên nhân lịch sử” để lý giải. Điều này dễ làm hơn là tự tra vấn mình về sự sa sút tinh thần Phúc Âm của cộng đoàn.
Khủng bố, bạo lực trong thời đại chúng ta
Bài Tin Mừng hôm nay còn nói đến bạo lực, bắt bớ, ném đá, giết người… Những tá điền là những kẻ ích kỷ và bạo lực. Họ giết các sứ giả của Thiên Chúa là các tiên tri được Thiên Chúa sai đến để xây dựng một thế giới công bình, yêu thương. Họ là ai trong thời đại chúng ta? Họ là những chủ nhân làm giàu qua việc sản xuất vũ khí, thay vì giúp đỡ những quốc gia kém phát triển, chống lại nghèo đói, bệnh tật, bất công. Họ ngầm ủng hộ những chế độ độc tài khai thác tàn bạo tài nguyên thiên nhiên, bóc lột dân chúng vì quyền lợi riêng tư. Họ là những giám đốc xí nghiệp, công ty khai thác sức lao động của công nhân với tiền lương rẻ mạt. Quả đúng như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Thế kỷ XX được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người” (Tiến về ngàn năm thứ 3, chương 9, trang 236).
Cùng nhau xây dựng vườn nho thế giới
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên những tá điền trung tín của Thiên Chúa. Xây dựng Vườn Nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh của chính bản thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy” (Mc 14, 22).
Để xây dựng trật tự xã hội, phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh Thiên Chúa” làm trọng tâm, như Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Chính tự giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị xã hội mà có giá trị con người” ( sđd, x. chương 9, 76).
Lời Chúa Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm A hôm nay vang lên trong bối cảnh thế giới có quá TN 27-A137
1. Lời Chúa Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm A hôm nay vang lên trong bối cảnh thế giới có quá nhiều sự dữ. Nào là tình hình chiến sự căng thẳng với sự đe dọa vũ khí hạt nhân của Triều Tiên làm cho thế giới phải lo sợ. Nào là động đất ở Mêxicô khiến hàng trăm người thiệt mạng. Và mới đây nhất, chắc hẳn người dân nước Mỹ vẫn còn kinh hoàng trong vụ xả súng tồi tề nhất lịch sử nước Mỹ hôm Chúa Nhật ngày 01/10/2017 vừa qua ở một sân khấu lớn tại thành phố Las Vegas khi hàng chục ngàn người đang thưởng thức đêm nhạc đồng quê, làm cho 59 người thiệt mạng và 527 người khác bị thương…
Tại Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư chung gởi cộng đồng dân Chúa vào tháng 10 năm 2016 cũng đã nói lên những lo âu cho xã hội Việt Nam: “Làm sao không lo âu trước tình hình đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tội ác gia tang không những về số lượng mà cả về mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan, nhất là nơi giới trẻ! Làm sao vui được trước sự hoành hành của tệ nạn tham nhũng. Làm sao không lo lắng trước tình trạng ngập ngặn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, hạn hán ở các tỉnh Tây Nguyên, thảm họa môi trường biển tại miền Trung! Đó là chưa kể đến mối đe dọa hằng ngày từ các thực phẩm bẩn và độc hại, có thể ngay trong các quầy hàng và trên các bàn ăn của mỗi gia đình.”
2. Tất cả những điều đó gọi là sự dữ. Thực ra sự dữ đã có từ thời Adam và Eva, nó làm khuấy động cuộc sống vốn bình yên hạnh phúc của con người. Sự dữ đã làm cho ông bà nguyên tổ mất đi hạnh phúc khi dám làm điều trái nghịch với ý Chúa; cũng chính nó gây nên thảm kịch trong gia đình của hai ông bà khi Cain đã giết chết chính đứa em ruột của mình là Aben vì sự ganh tị. Sự dữ đã làm cho giới lãnh Do Thái khước từ ơn cứu độ và giết chết Đức Giêsu, vì ảnh hưởng của Ngài làm họ mất đi những quyền lợi cá nhân… Sự dữ thể hiện rõ ràng trong sự gian ác của những tá điền trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã được ông chủ giao cho vườn nho để canh tác, lẽ ra họ phải biết ơn để gìn giữ vườn nho và nộp hoa lợi cho ông chủ. Nhưng không, họ đã chiếm đoạt vườn nho và còn đối xử thậm tệ với ông chủ.
Qua đó chúng ta thấy được sự dữ xuất phát từ việc con người bị cám dỗ để chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của mình mà quên đi Thiên Chúa, Đấng đã ban phát một cách nhưng không tất cả mọi sự cho con người; quên đi những người đang sống chung quanh để sẵn sàng hạ bệ tất cả những ai dám cản trở hoặc làm mất đi quyền lợi của họ.
3. Tuy nhiên, phát biểu ngay sau vụ xả súng kinh hoàng tại Mỹ hôm Chúa Nhật 01/10/2017, Tổng Thống Mỹ Donald Trump đã nói: “Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa rất gần với những tâm hồn tan nát và những người đau khổ. Chúng ta tìm an ủi nơi những Lời này vì chúng ta biết Thiên Chúa cùng đồng hành với những người khốn khổ… Trong những giây phút đau buồn này, tôi biết chúng ta đang cố tìm xem sự hỗn loạn này có ý nghĩa gì, một chút ánh sáng trong đêm tối. Câu trả lời không dễ dàng chút nào, nhưng chúng ta cần an ủi. Chúng ta cũng biết rằng ngay cả những lúc đen tối nhất vẫn còn tia sáng nhỏ để thắp sáng đêm đen và ngay cả những lúc thất vọng nhất vẫn còn tia hy vọng để thắp lên niềm tin.”
4. Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã không bỏ con người, mà đã ban Con Một của Ngài để chuộc lấy lỗi lầm của nhân loại, đó là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Điều đó chứng minh rằng: Tình yêu đã chiến thắng sự dữ.
Sau khi kể dụ ngôn những tá điền sát nhân, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi để chính“các thượng tế và kỳ mục trong dân” trả lời. Chính họ đã tự lên án cho hành động gian ác: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21, 41). Còn Đức Giêsu thì cho họ thấy hành động của Thiên Chúa khác hẳn với con người, Ngài không tiêu diệt, nhưng: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”. Con người hành xử gian ác với Thiên Chúa, họ đã khước từ tình yêu thương của Ngài, nên Ngài đã lấy tình yêu thương đó để trao cho những người biết đón nhận: “Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43). Trong những người biết đón nhận đó, Thiên Chúa hy vọng có những người đã từng sống gian ác với Chúa, đã khước từ tình yêu Chúa, biết ăn năn hối lỗi quay trở về để được sống.
5. Phát biểu trong buổi gặp gỡ Hội đồng Tòa thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng ngày 29/09/2017, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người tiếp tục loan báo lòng thương xót Chúa cho thế giới hôm nay: “Việc loan báo lòng thương xót trở nên cụ thể và hữu hình qua lối sống của các tín hữu, sống dưới ánh sáng của nhiều công việc từ bi bác ái; việc loan báo ấy là điều nòng cốt thuộc về sự dấn thân của mỗi người loan báo Tin Mừng: họ đích thân khám phá ơn gọi làm tông đồ do lòng thương xót đã dành cho họ”.
Tình yêu sẽ chiến thắng sự dữ. Trong khi có nhiều người tham nhũng, hối lộ, chỉ lo cho đầy túi tham của mình, thì vẫn còn nhiều người tích cực trong các công tác từ thiện, bác ái. Trong khi có những người cha, người mẹ nhẫn tâm bỏ đứa con của mình, để nhân viên y tế sau khi “giải quyết hậu quả” đã vứt bỏ những hài nhi vào thùng rác như là rác thải, thì vẫn còn nhiều người tìm kiếm những hài nhi đó để các em có một nơi an nghỉ xứng đáng hoặc ít ra là ấm áp hơn ở trong những bãi rác. Trong khi nhiều bạn trẻ tìm kiếm thỏa mãn những đam mê của thân xác trong những chất gây nghiện hay thú vui nhục dục, thì vẫn còn nhiều những thanh niên thiếu nữ tận hiến cuộc đời mình để sẵn sàng ra đi phục vụ bất cứ nơi nào Giáo hội cần đến…
Lời Chúa hôm nay cho thấy sự gian ác của con người, nhưng cũng cho thấy tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu đó đã chiến thắng qua sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Từ đó nhắc nhở con người chúng ta bỏ đi những hành động gian ác, nghĩa là những ích kỷ của bản thân để trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Ngài; mà những giá trị của Thiên Chúa là những điều tốt đẹp được thực hiện trong cuộc sống.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết ăn năn đền tội, cải thiện cuộc sống, siêng năng lần hạt Mân Côi để được Mẹ đưa đến gần Đức Giêsu, Con Mẹ, để được sống trong vương quốc tình yêu của Ngài.
Nước trời không phải là dành riêng cho một số người được đặc tuyển, cho riêng những người kitô TN 27-A138
Nước trời không phải là dành riêng cho một số người được đặc tuyển, cho riêng những người kitô chúng ta. Nước trời là cho tất cả những ai trở nên người phục vụ công trình của Chúa Kitô, chứ không phải là những ông chủ.
Isaia, vị tiên tri sống vào thế kỷ VIII trước Chúa Giêsu. Ông là một nhân vật quan trọng của triều đình. Khi thấy dân tộc ông suy đồi, ông tiên báo dân tộc ông sẽ bị tiêu diệt bằng cách so sánh dân tộc ông như một vườn nho không sinh hoa trái. Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài thực hành điều chính trực, nhưng chỉ thấy toàn sự gian ác. Thiên Chúa chờ đợi dân thực hiện đức công bình, nhưng chỉ thấy toàn là tiếng kêu oan.
Tác giả Thánh Vịnh đáp ca kêu cầu Thiên Chúa đừng phá hủy vườn nho. Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và viếng thăm khóm nho này..
Thánh Phaolo mô tả điều mà cộng đoàn kito hữu phải trả lời cho lòng mong đời của Thiên Chúa là: Hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, và sống trong hoạt động của ơn thánh và sự bình an của Người. Hãy tìm kiếm những gì là danh thơm tiếng tốt. Như thế là mang lại hoa trái như lòng Chúa mong ước.
Tại quê hương Chúa Giêsu, người ta rất thạo việc trồng nho. Vì thế Chúa dùng hình ảnh này để làm sáng tỏ một số chân lý mà Ngài muốn đề cập đến.
Vườn nho trong dụ ngôn hôm nay buộc phải sinh hoa trái, ám chỉ tất cả những gì mà Thiên Chúa đã đặt vào trong chúng ta, để cuộc sống chúng ta đừng trở nên vô ích trên trái đất này. Chúng ta sẽ mang lại hoa trái mà Thiên Chúa đã chờ đợi trong môi trường sống của chúng ta. Người đã gieo trồng biết bao điều tốt đẹp vào trong chúng ta để chúng ta sinh lời gấp trăm.
Ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã gieo Đức Tin vào trong chúng ta như một món quà quý giá mà chúng ta phải phát triển trong suốt cuộc đời. Người ban cho chúng ta tài năng và đặc sủng để chúng ta phải làm giàu cho người khác nữa.
Cụ thể như lời chủ chăn của Giáo phận Hưng Hóa trong tháng 10 này, là: “Nhiều giáo xứ vững mạnh do biết bao công lao của các vị thừa sai truyền giáo tiền bối gầy dựng nên, nay trở thành ‘vùng đất tiện nghi’, trên có cha xứ, dưới có ban hành giáo, giáo lý viên, các hội đoàn, cộng tác viên đề huề; có đủ cơ sở vật chất: nhà thờ hoành tráng, nhà xứ, nhà giáo lý khang trang. Đã đến lúc phải lên đường đến với những giáo xứ đàn em ở các vùng ngoại vi xa xôi miền Tây-Bắc, yểm trợ nâng đỡ cho những giáo họ, giáo điểm mới gầy dựng còn yếu kém thiếu thốn nhiều mặt. Chúng tôi thiết nghĩ ngay trong tháng 10 này Giáo phận ta nên bắt đầu tiến trình kết nghĩa chị em cụ thể giữa một giáo xứ giáo họ miền xuôi với một giáo họ giáo điểm miền rừng núi, như Hội nghị Mục vụ toàn Giáo phận cuối năm 2016 đã nêu lên. Với con số 116 giáo xứ và gần 500 giáo họ giáo điểm trong toàn Giáo phận, ta được thách thức đạt tới chỉ tiêu bước đầu là 20% số giáo xứ kết nghĩa chị em, tức là 120 cặp đôi giáo xứ giáo họ tiến tới ký kết vào dịp Hội nghị Mục vụ toàn Giáo phận cuối năm 2017 này. Mỗi giáo xứ giáo họ nề nếp ngày nay, nhớ lại xưa kia mình cũng chỉ bắt đầu là một giáo điểm èo ọt dăm ba gia đình đạo mới, được các giáo xứ vững mạnh nâng đỡ vun đắp mới nên trưởng thành. Do đó lòng biết ơn tiền nhân thúc đẩy họ đến lượt mình tiếp nối linh đạo lên đường như lời Đức Phanxicô chỉ dạy (x. số 6, SĐ 2017).”
Thiên Chúa yêu chúng ta trước. Dụ ngôn vườn nho hôm nay có thể được gọi là “Dụ ngôn về Tình yêu bị trao nộp” được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời chúng ta, nếu chúng ta muốn cùng làm việc với chương trình của Thiên Chúa trên mỗi người chúng ta.
Tin mừng hôm nay muốn chúng ta nhận ra những quà tặng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là để chúng ta phân tán những quà tặng đó mà không sinh hiệu quả gì, nhưng là để sinh lời gấp trăm. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ chúng ta.
Đối với mỗi người chúng ta, Thiên Chúa phó thác cho một sứ mệnh trên trái đất để vườn nho rộng lớn trái đất này sinh nhiều hoa trái theo kế hoạch của Ngài.
Cần phải thường xuyên xin Ngài cho chúng ta biết trung thành với lời mời gọi của Ngài, ngay tại gia đình chúng ta hoặc trong môi trường làm việc cũng như trong học tập của chúng ta.
Ngài gửi đến cho chúng ta những người giúp việc hoặc để giúp chúng ta hoặc cho chúng ta biết ý muốn của Ngài. Chúng ta sẽ tiếp nhận họ thế nào? Hạt giống mà họ gieo trên mảnh đất nào có sinh sôi nảy nở không?
Mỗi người kitô đích thực phải là một nhà truyền giáo và gánh vác một trách nhiệm bên cạnh người anh em nhân loại của mình. Người kitô sẽ chu toàn sứ mệnh này bằng sự khéo léo, hoặc bằng sự phục vụ nhiệt tình, hoặc bằng sự cởi mở của con tim. Chúng ta đã làm được gì và sẽ làm gì?
Tất cả những quà tặng mà chúng ta đã lãnh nhận từ lúc sinh ra có thể được phát triển, nếu chúng ta đặt những quà tặng đó vào khí hậu thuận tiện…
Hãy tạ ơn Chúa vì những gì Người đã ban cho chúng ta!
Chúa Giêsu tóm tắt toàn bộ lịch sự cứu độ dưới cái nhìn của Thiên Chúa qua một số hình ảnh. Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại bằng mọi giá và Ngài sẵn sàng trả giá đó bằng cả cái chết của con Ngài trên Thập giá.
Nhưng Thiên Chúa cũng không làm được gì trước sự tự do mà Ngài đã ban cho con người. Tình yêu bị sai khiến hoặc để sai khiến thì không còn gọi là tình yêu nữa. Nhiều cha mẹ rất có kinh nghiệm này vì có khi con cái sử dụng tự do của nó mà chối bỏ tình yêu cha mẹ.
Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Tình yêu thì luôn luôn sáng tạo. Khi không sử dụng sức mạnh, thì Thiên Chúa lại chọn trở nên người nhẫn nại.
Thế nhưng, lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con quá nhiều rồi! Giờ đây, chúng con chỉ xin Chúa một điều nữa là: đừng bao giờ chúng con lạm dụng sự nhẫn nại của Chúa. Amen!
Tháng Mười trong lịch Phụng vụ có 2 chủ đề quan trọng. Thứ nhất là tháng kính Đức Mẹ Mân TN 27-A139
Tháng Mười trong lịch Phụng vụ có 2 chủ đề quan trọng. Thứ nhất là tháng kính Đức Mẹ Mân Côi và thứ nhì chú trọng tới việc truyền giáo hay rao giảng Tin mừng. Chúng ta thấy ý nghĩa của lời kinh Mân côi liên quan và kết hợp với sự việc truyền giáo cũng như với đời sống tông đồ phục vụ. Đức Maria mà chúng ta sùng kính trong tháng Mân côi này là một mẫu gương sáng cho chúng ta về truyền giáo và phục vụ. Đức Maria đã can đảm sống hai tiếng “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời. Mẹ cũng đã hoàn toàn phó thác và trung thành theo chân Chúa Giê-su trong suốt cuộc hành trình rao giảng Tin mừng Nước Trời, cho đến khi đứng dưới chân Thánh giá trên ngọn đồi Can vê, nơi mà Con của Mẹ đã giang 2 tay để cứu chuộc loài người chúng ta. Mẹ vẫn còn tiếp tục phục vụ Chúa và thi hành sứ mệnh truyền giáo cho đến hôm nay và mãi mãi bằng cách giúp đỡ và hướng dẫn chúng ta là con Mẹ, sống đời sống tốt lành, thánh thiện, bác ái, quảng đại và luôn trung thành với con Mẹ là Chúa Giêsu.
Qua những lần hiện ở Fatima cách đây 100 năm, Mẹ đã ban cho nhân loại chúng ta 3 sứ điệp: Cải thiện đời sống; tôn sùng Mẫu Tâm và lần hạt Mân côi. Đây là 1 chủ đề cần thiết mà Giáo hội kêu gọi chúng ta cố gắng thi hành trong tháng 10 này, để đời sống của chúng ta sinh hoa trái tốt cho Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa hơn. Do đó một lần nữa, tôi kêu gọi mọi người hy sinh thời giờ và siêng năng lần hạt Mân Côi, nhất là trong gia đình để xin Đức Mẹ ban yêu thương và hòa thuận cho gia đình, cũng như cầu nguyện cho tinh thần hiệp nhất trong giáo xứ chúng ta, để mọi người có lòng quảng đại trong công việc xây dựng ngôi thánh đường mới. Và sau đó là thành tâm lắng nghe và sống lời Chúa dạy, cầu nguyện cho công việc rao giảng Tin mừng của Giáo hội, và cho hoà bình trên thế giới. Chúng ta thấy thế giới, quốc gia và xã hội chúng ta đang sống, đang ở một khúc quanh khó khăn và nguy hiểm, những cuộc bạo động, tranh chấp, khủng bố, cướp của giết người xảy ra hằng ngày, như cuộc tàn sát giã man mới xảy ra ở Las Vegas. Xin Đức Mẹ thương che chở phù hộ cho mọi người chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay rất đặc biệt vì cho chúng ta thấy được 2 đặc tính rõ ràng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha yêu thương và nhân từ, nhưng Thiên Chúa cũng là một vị thẩm phán công minh chính trực. Một ngày nào đó, tất cả chúng ta sẽ phải đứng trứơc mặt Chúa, trả lời về những hành động, việc làm của chúng ta ngày hôm nay.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho chúng ta biết chính Thiên Chúa là người chủ, còn mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý hay tá điền của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa ban cho cơ hội vào làm việc trong vườn của Chúa, ám chỉ trần gian, Giáo hội và giáo xứ, để chúng ta canh tác có công ăn việc làm, có cuộc sống, để sở hữu những gì chúng ta đang có, cũng như chăm sóc vườn cho chủ. Đến mùa gặt, ngày ông chủ trở về hay ngày chết của chúng ta, chúng ta phải tính sổ, chúng ta phải báo cáo công việc và nộp hoa lợi cho Chúa. Chúa còn ban cho chúng ta Lời Chúa để chỉ dẫn chúng ta sống chăm chỉ, sốt sắng và biết hy sinh, hướng dẫn chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính, sống công chính, ngay thẳng, bác ái và quảng đại. Nhưng trong thực tế có những người sống ích kỷ, lười biếng và theo đường lối xấu và gian dối. Vì yêu thương không muốn họ hư mất và để cứu giúp họ, Chúa đã sai nhiều người đến để cảnh tỉnh và khuyên bảo. Nhưng nếu họ từ chối không muốn nghe Lời Chúa ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, thì khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ xử lý như thế nào? Tin mừng cho chúng ta câu trả lời: “Ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.”
Ông bà anh chị em thân mến. Thiên Chúa không những thương yêu, giàu lòng nhân từ và nhẫn nại đối với chúng ta hôm nay. Chúa ban cho chúng ta nhiều cơ hội và dùng nhiều phương cách để chúng ta sống trong an bình, ơn sủng và hạnh phúc của Chúa. Nhưng chúng ta cũng biết Chúa còn là một thẩm phán công minh, chính trực. Người sẽ phán xét theo thái độ, hành động và việc làm của chúng ta trước những ơn sủng của Người. Chúng ta nhận ra 2 chiều kích đặc biệt này của Thiên Chúa nơi con người của Chúa Giê-su. Cùng một Chúa Giêsu nhân từ, đầy lòng thương xót, nói với dân chúng: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức” cũng là Người nói với những người đã nguảnh mặt đi, từ chối không sống lời Người dạy bảo: “Hỡi những phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào ngọn lửa muôn đời.” Thêm vào đó, chúng ta thấy cùng một Chúa Giêsu hiền lành nói với dân chúng: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, cũng là Người ‘’chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò lừa ra khỏi đền thờ.” Và cũng là một Chúa Giêsu thương yêu đã phán rằng: “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ trối nó trước mặt Cha Thầy.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa ban cho chúng ta cơ hội này qua cơ hội khác, ban cho chúng ta cách này hay cách khác để chúng ta nhận ra lòng nhân từ, yêu thương và quảng đại của Chúa. Chúa đã dùng nhiều phương cách để tưới đổ ơn lành là Lời Chúa và Thánh Thể xuống cho chúng ta, để đời sống chúng ta sinh hoa trái tốt cho Chúa. Nếu như hôm nay, Chúa đến để thu hoạch hoa lợi thì chúng ta phải trả lời với Chúa như thế nào? Chúng ta hãy tự nghĩ Chúa sẽ xử trí với chúng ta làm sao?
Xin Chúa giúp chúng ta dùng thời điểm này để lắng nghe và chân thành sống những mệnh lệnh của Mẹ Maria là người Mẹ luôn yêu thương và chú ý đến đời sống của mỗi người chúng ta, Xin Mẹ cầu bầu và giúp mỗi người chúng ta có đời sống tốt lành thánh thiện và bác ái và quảng đại để một ngày kia, chúng ta được chủ vườn nho đón chào vào vườn nho Thiên Quốc.
Trong Thánh Kinh nói cnung và trong Phúc Âm nói riêng vườn nho được các tác giả Thành Kinh TN 27-A140
Trong Thánh Kinh nói cnung và trong Phúc Âm nói riêng vườn nho được các tác giả Thành Kinh và Chúa Giêsu nhắc đến rất nhiều lần là vì vườn nho là môt thực thể rất thân thương và gần gũi với người Do thái là dân tộc sống bàng nghề nông, trồng tỉa và chăn nuôi. Trong Thánh Kinh nói chung và trong Phúc Âm nói riêng vườn nho được dùng để nói về Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật XXVII thường niên hôm nay (Mt 21,33-43) trình bày một khía cạnh khác của vườn nho là Thiên Chúa đã giao vườn nho cho dân ngoại vì dân Israel đã không biết trân quý và không chăm sóc vườn nho theo Ý Thiên Chúa để vườn nho sinh trái ngọt như Chúa Thiên mong đợi. Liệu dụ ngôn này có gợi ý gì cho chúng ta là các Ktô hữu của thế kỷ XXI không?
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 21,33-43: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: 'Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó'. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời, "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi".
Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: 'Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!' Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái"..
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
3.1 Ông chủ là Thiên Chúa yêu quí và chăm lo cho vườn nho: Giống như các nông dân Israel chăm lo cho vườn nho của họ, Thiên Chúa cũng chăm lo cho vườn nho của Người, vì vườn nho là tài sản, là sở hữu quý giá của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không làm hết mọi công việc của vuờn nho mà Người thuê các tá điền và giao cho họ công việc chăm sóc vườn nho và nộp hoa lợi của vườn nho cho Thiên Chúa ở cuối mùa.
3.2 Những tá điền bất lương muốn cướp vườn nho: Trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể, các tá điền chẳng không chịu nộp hoa lợi cho chủ của vườn nho mà chúng còn tìm cách chiếm đoạt vườn nho của chù, khi chúng ra tay giết hại các sứ giả, thâm chí cả con trai mà ông chủ gửi tới để nhận hoa lợi của vườn nho. Chúa Giêsu ám chỉ người Do thái là những người đã muốn chiếm đọat vườn nho sau khi đã giết các ngôn sứ và Chúa Giêsu là ConThiên Chúa nên Thiên Chúa đã giao vườn nho cho người khác thuê. Họ là dân ngoại đối với dân Israel nhưng lại là những người được thụ hưởng vườn nho của Thiên Chúa. Họ là những tá điền lương thiện biết chăm lo cho vườn nho để vườn nho sinh trái. Họ sẽ nộp hoa lợi của vườn nho cho ông chủ là Thiên Chúa.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
4.1 Chúng ta hãy yêu quí và chăm lo cho vườn nho của Thiên Chúa: Vườn nho của Thiên Chúa là Nước Trời; nhưng vườn nho của Thiên Chúa cũng là dân Israel, cũng là cộng đoàn kẻ tin là Hội Thánh, cũng là mỗi một người chúng ta. Chúng ta hãy yêu quí và chăm lo cho vườn nho của Thiên Chúa là gia đình, giáo họ, giáo xứ của chúng ta, thậm chí là mỗi người Kitô hữu chúng ta.
4.2 Chúng ta hãy làm cho vườn nho trổ sinh hoa trái: Chúng ta yêu quí và chăm lo cho vườn nho. Yêu quí vườn nho thì chúng ta bảo vệ nó khỏi mọi kẻ (là người hay con vật) phá phách. Chăm lo cho vườn nho để vườn nho là mỗi người, mỗi cộng đoàn trổ sinh hoa trái ngon ngọt là bác ái, yêu thương, tha thứ.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã mời chúng con làm vườn nho của Chúa. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người đón nhận mặc khải của Thiên Chúa về vườn nho.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi Kitô hữu nhiệt tình làm cho vườn nho của Thiên Chúa sinh hoa lợi.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: 'Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó' Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để không người giáo dân nào trở thành những người làm vườn nho bất lương.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xsin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời, "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi"» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả chúng ta là những người đã được Thiên Chúa giao vườn nho của Người cho chúng ta đẻ chúng ta sinh hoa lợi.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xsin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con và Người đã mời chúng con làm vườn nho của Người là cải tạo bản thân chúng con và những người xung quanh..
Chúng con xin Cha ban cho chúng con sức mạnh thần linh để chúng con thánh hóa chính mình và môi trường xã hội . Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Trong Tin Mừng của ba Chúa nhật liên tiếp, Chúa Giê-su đều dùng hình ảnh của vườn nho để TN 27-A141
Trong Tin Mừng của ba Chúa nhật liên tiếp, Chúa Giê-su đều dùng hình ảnh của vườn nho để giáo huấn chúng ta. Trồng nho là một nghề phổ biến tại Do Thái, thời xưa cũng như thời nay. Vì thế, Chúa Giê-su dùng hình ảnh rất gần gũi này để ai cũng có thể hiểu lời Người dạy. Vườn nho là hình ảnh cuộc đời. Vườn nho cũng là biểu tượng dân Israel, tức là dân riêng Thiên Chúa đã chọn từ thời ông Abraham. Vườn nho cũng là hình ảnh của Giáo Hội, nơi mọi người đều được mời gọi góp phần. Sống trong vườn nho cuộc đời, mỗi chúng ta được trao một sứ mạng phải hoàn thành. Nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được gia nhập vào đội thợ làm vườn nho của Chúa. Dù ở mức độ nào, mỗi chúng ta đều phải trung thành với Thiên Chúa. Ngài chính là Chủ Vườn Nho.
Trong giáo huấn của các ngôn sứ, tình thương của Thiên Chúa đối với dân riêng của Ngài, được so sánh như một cuộc hôn nhân. Thiên Chúa là người tình của Israel. Tội phản bội Chúa được coi như ngoại tình. Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay giống như một trải lòng của chính Thiên Chúa. Ngài than phiền, vì Israel được ưu đãi chiều chuộng, nhưng đã phản bội Ngài. Như ông chủ vườn nho chăm sóc cẩn thận, đầu tư tiền bạc, chỉ mong vườn nho đó sinh hoa kết trái ngọt ngào, Thiên Chúa cũng chăm sóc Israel và mong cho dân ấy sống ngay thẳng chính trực. Cũng như vườn nho chỉ sinh nho dại, dân Israel đã nhiều bất trung với Chúa. Vị ngôn sứ đã viết: “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là nhà Israel đó. Cây nho Chúa quý chuộng, ấy chính là dân xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà toàn thấy đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than”. Những lời này đã chứng minh, dân riêng của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng thực hiện điều Ngài truyền dạy.
Đọc lại lịch sử dân tộc Do Thái, chúng ta thấy đan xen giữa quyền năng yêu thương của Thiên Chúa và yếu đuối tội lỗi của con người. Đã nhiều lần, dân Do Thái phản bội Chúa. Họ đã bị cám dỗ gạt bỏ Chúa để thờ con bò vàng. Họ đã du nhập những thần ngoại bang tạo nên một thứ tôn giáo hỗn tạp. Các ngôn sứ đã nhiều lần khiển trách và lên án gay gắt, vì đó là bất trung.
Lịch sử dân Israel phác họa lịch sử cá nhân cuộc đời chúng ta. Khi nghiêm túc xét mình và kiểm điểm bản thân, chúng ta cảm nhận mình đã nhiều lần phản bội Chúa, khi không trung thành với lời tuyên thệ khi lĩnh phép Thanh Tẩy. Đó là lời tuyên thệ từ bỏ tội lỗi, từ bỏ ma quỷ, từ bỏ những hành vi ám muội để trở nên con cái ánh sáng. Đã nhiều lần chúng ta hứa với Chúa sẽ cố gắng sống tốt hơn, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng giữ lời hứa ấy.
Nhưng nếu chúng ta là những tội nhân yếu đuối, thì Thiên Chúa lại là Cha giàu lòng nhân hậu. Ngài kiên nhẫn trước những xúc phạm của con người. Tin Mừng nói về những người tá điền gian ác. Họ chỉ là người làm thuê ăn lương, nhưng lại muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Họ đã giết các người được ông sai đến để thu lợi, và cuối cùng họ giết luôn con ông chủ, là người thừa tự. Dưới ánh sáng phục sinh, các Ki-tô hữu nhận ra người con bị sát hại chính là Đức Giê-su Ki-tô. Người đã bị kết án, bị giết “ngoài thành Giê-ru-sa-lem”, như người con thừa tự bị giết ngoài vườn nho. Một số người Do Thái, trong số đó có các thượng tế, kỳ mục và tiến sĩ luật, đã hùa nhau giết Chúa Giê-su, với tội danh mà họ tố cáo, chỉ là dám gọi Thiên Chúa là Cha. Con Thiên Chúa đã đến trần gian để kêu gọi mọi người sống công chính, nhưng con người đã khước từ. Không những thế, họ còn giết chết Người. Tuy vậy, mưu mô của con người không thể thắng được Thiên Chúa. Đấng bị ghét bỏ và giết chết đã trở nên nền tảng đức tin cho chúng ta. Đây đó trên thế gian hôm nay, vẫn đang có những cuộc tàn sát dã man, mà nạn nhân là những người vô tội. Giết người vô tội là giết hại chính Chúa Giê-su, vì Người tự đồng hóa với những người bé mọn cô thế cô thân không cửa không nhà.
Trong Tin Mừng theo thánh Gio-an, Chúa Giê-su tuyên bố: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho… Thày là cây nho, các con là cành” (x. Ga 15,1-8). Tin vào Chúa Giê-su, chúng ta phải gắn bó với Người để được Người thông chuyển nhựa sống siêu nhiên. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Phi-lip-phê trong Bài đọc II: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý thực hành”. Khi làm những điều ấy là chúng ta gắn bó với Chúa Giê-su như cành nho với thân nho. Như thế chúng ta sẽ là những người trung thành với Đấng đã hết mình yêu thương chúng ta.
Tiên tri Isaia mượn hình ảnh người trồng nho - không chỉ đổ hết mọi công sức, mọi nhọc nhằn, mọi TN 27-A142
Tiên tri Isaia mượn hình ảnh người trồng nho - không chỉ đổ hết mọi công sức, mọi nhọc nhằn, mọi tiền của, mọi lo toan, mà ông còn đổ hết mọi mong đợi, đổ hết mọi trông ngóng và hy vọng về một kết quả tốt - để diễn tả tình yêu vô cùng của Thiên Chúa dành cho dân Israel.
Nhưng càng dồn tình thương bao nhiêu, ông chủ như càng thất bại bấy nhiêu. Mọi Tâm huyết, mọi kỳ vọng của ông trở nên vô nghĩa. Trái ngọt đâu không thấy, chỉ thấy toàn trái dại, trái đắng.
Vườn nho ấy chính là dân Israel. Với hình ảnh vườn nho sinh kết quả tồi, tiên tri Isaia chuyển tải một thông điệp lớn: Israel bất trung. Họ không nỗ lực đền đáp tình yêu thương vừa mang đày sức sống, đỡ nâng, che chở; vừa vô cùng đại lượng, vô cùng bao dung, vô cùng xây dựng của Chúa.
Đối diện sự thất bại não nề, ông chủ đã phải thốt lên trong ngậm ngùi: "Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm? Sao ta trông mong nó sinh quả nho, mà nó lại sinh quả nho dại!".
Cũng vậy, dân mới của Thiên Chúa là các Kitô hữu hôm nay. Như Israel, chúng ta được Chúa trao quản lý vườn nho là chính đời mình. Vườn nho - cuộc đời mỗi chúng ta cũng đầy dấu ấn tâm huyết của "ông chủ".
Ông hết sức yêu vườn nho. Ông nhọc công rào giậu, đào hầm ép nho, xây tháp canh, cho tá điền canh tác... Ông quan tâm đến độ, trước khi đi xa, sắp xếp mọi việc đâu vào đấy, cẩn thận giao cho tá điền để vườn nho luôn có người chăm sóc. Lẽ công bằng, tá điền buộc phải nộp hoa lợi cho ông.
Không ngờ các tá điền lại là những kẻ bất nhẫn, quỹ quyệt, tham lam, thâm độc và thủ ác. Họ mưu mô tranh đoạt tài sản của chủ, người đã cưu mang, tạo việc làm và trao cho họ cơ may sống.
Từ phận làm thuê, tá điền muốn thay ngôi đổi chủ. Họ chiếm tài sản. Họ cướp của, giết người. Bởi khi chủ "sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi" của ông, thì "những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác".
Thật lạ, ông chủ không nổi giận, không trách cứ, không nản lòng, lại vẫn tin tưởng tá điền và sai đầy tớ đến. Càng ngày ông càng sai nhiều nhóm đầy tớ, nhưng kết quả: ông không được gì, đầy tớ lại cứ bị đánh, bị giết.
Ông vẫn một lòng kiên nhẫn, yêu thương tá điền đến nỗi chẳng những không tố cáo, không sửa phạt, mà còn sai con trai duy nhất của ông đến. Ông mong đợi họ kính nể con ông.
Nhưng không. Tá điền đáp trả tình yêu bằng thù hận. Ông chủ càng thương, càng nhẫn nhịn, càng dung thứ tội ác, càng cố thuyết phục, càng muốn kéo họ về phía ông, họ càng ganh ghét, càng muốn chiếm đoạt bằng được. Giờ đây, không chỉ đầy tớ, mà cả người con yêu dấu của ông cũng bị thủ tiêu: "Đứa thừa tự đây rồi, nào ta giết nó đi và gia tài sẽ về tay ta".
Không thể kể hết tình yêu của ông chủ. Đó là thứ tình yêu lên đến tận đỉnh. Ông tin vào tình yêu, ông tin vào con người. Lòng nhân hậu khiến ông mù quáng đến độ sai con mình đi gặp kẻ ác. Niềm tin của ông đã thất bại.
Thái độ nhúng nhường và chịu đựng của ông chủ là phản ánh tình yêu khôn cùng, tình yêu không có gì có thể sánh ví, tình yêu mà trời không thể dò, đất không thể đo của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Đứng trước tình yêu ngút ngàn ấy, lẽ ra ta phải cộng tác với ơn Chúa, cộng tác với tình thương chưa từng có mà Thiên Chúa dành cho, đó là sống trong Chúa Kitô, gắn bó với Chúa Kitô, từng ngày tập đi trên con đường mà Chúa Kitô vạch ra, lắng nghe và trung thành sống giáo lý cứu độ của Chúa Kitô..., thì chúng ta đã liên tục phản bội Thiên Chúa, không ngừng xúc phạm và bội bạc với tình yêu của Người.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhận ra chính mình, nhận ra tình trạng của mình để quyết sống với Chúa, với lòng khoan hậu của Chúa cho đúng mực. Hãy nhớ, tình yêu của Chúa luôn đợi chờ để trao tặng. Nhưng nếu chúng ta ở lỳ trong tội, cứng đầu không để tình yêu của Chúa thấm nhập và sửa đổi, thì dù tình yêu ấy có lớn đến đâu, chắc chắn không thể làm gì hơn để có thể cứu chúng ta. Bởi khi cứng đầu và ở lỳ trong tội, đồng nghĩa với việc ta tự chọn con đường đối lập với Chúa, với lòng yêu thương của Chúa.
Do chính sự hư đốn của mình, Israel sẽ phải lãnh lấy án xứng với tội ác đã phạm: "Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó" (Is 5, 5 - bài đọc I).
Thì nay, nếu chúng ta không thay đổi lối sống, không lo chỉnh đốn đời mình để trở về với Chúa, hậu quả tồi tệ cũng sẽ đợi chờ chúng ta: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi" (Mt 21, 41 - bài Tin Mừng).
Câu chuyện dụ ngôn quan trọng này hoàn thành câu chuyện dụ ngôn tuần trước. Dụ ngôn về hai TN 27-A143
Câu chuyện dụ ngôn quan trọng này hoàn thành câu chuyện dụ ngôn tuần trước. Dụ ngôn về hai người con cho thấy sự ngoan cố của dân Israel; còn câu chuyện dụ ngôn tuần này, nói về những tá điền độc ác, tập trung vào hình phạt sắp xảy ra.
Chúa Giêsu so sánh dân Israel với một vườn nho được tuyển chọn, có hàng rào đặc biệt, có tháp canh, có người canh gác để trông chừng bọn trộm và lũ thú hoang: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh” (Mt 21: 33). Thiên Chúa đã không tiếc công sức để trồng trọt và tô điểm vườn nho của Ngài. Vườn nho do các tá điền quản lý; chủ nhà là Thiên Chúa, và vườn nho là dân Israel như tiên tri Isaia kể: “Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt,… Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (5:1-2, 4) hoặc như tiên tri Giêrêmia khẳng định: “Còn Ta, Ta đã trồng ngươi như cây nho hảo hạng, cây nho thuần chủng” (2:21).
Những người tá điền được Thiên Chúa giao cho việc chăm sóc dân Ngài là các thượng tế, kinh sư và kỳ lão. Sự vắng mặt của người chủ cho thấy rõ ràng rằng Thiên Chúa thực sự đã giao phó Israel cho những người lãnh đạo của họ; do đó Ngài yêu cầu họ phải chịu trách nhiệm và trả lẽ về vườn nho mầu mỡ, tươi tốt mà họ đã được giao cho.
Người chủ thỉnh thoảng sai đầy tớ đi thu hoa lợi: đây là sứ mệnh của các nhà tiên tri, nhưng số phận của các tiên tri đầy những hy sinh đau khổ, những trái ý, những thập giá trong cuộc đời thi hành sứ vụ của mình. Giêrêmia là một nhân chứng: “Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con… Con nghe biết bao người vu cáo: Kìa, lão 'Tứ phía kinh hoàng!', hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!" Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói : "Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!” (Gr 20, 7-18). Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Hípri cũng cho thấy: “Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ” (Hípri 11: 36-37). Lần thứ hai người chủ sai một số đầy tớ đến thu hoa lợi thì họ cũng chịu chung số phận như người trước. Chúa Giêsu ám chỉ cách các tiên tri của Thiên Chúa bị các vua và tư tế Israel đối xử tệ bạc: “Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy” (Mt 21: 34-36).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến với họ vì nghĩ rằng họ sẽ kính trọng Con của Ngài hơn: “Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: Chúng sẽ nể con ta” (Mt 21: 37). Ở đây có sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các tiên tri, vốn chỉ là những người là tôi tớ, chứ không phải “Người Con”. Dụ ngôn cho thấy quyền làm con duy nhất, siêu việt, diễn tả thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Mục đích thâm độc của bọn tá điền là giết chết Người Con, cũng là người thừa kế, để đoạt lấy gia tài: “Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt 21:38). Đây là sự điên rồ của những người lãnh đạo vì họ mong muốn trở thành chủ nhân độc tôn của Israel, dân của Chúa, bằng cách giết chết Chúa Giêsu: “Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi” (Mt 21:39). 12:14; 26:4). Điều này ám chỉ việc Chúa Giêsu bị đóng đinh, bên ngoài tường thành Giêrusalem.
Tham vọng của họ khiến họ mù quáng trước sự trừng phạt đang chờ đợi họ. Chúa Giêsu tiên tri về hình phạt mà Thiên Chúa sẽ giáng xuống những kẻ làm ác: Ngài sẽ xử tử chúng và cho người khác thuê vườn nho: “Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?" Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21: 40-41). Đây là một lời tiên tri rất có ý nghĩa: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Mt 21: 42). Sau này Thánh Phêrô nhắc lại điều này trước Tòa Công Luận: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4:11) và: “Anh em hãy tiến lại gần Chúa Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá” (1 Pr 2:4).
Viên đá sống động ấy là Chúa Giêsu, nhưng các kiến trúc sư của dân Israel, những người lãnh đạo và cai trị người dân, đã chọn cách không sử dụng viên đá đó trong công trình. Vì sự bất trung của họ, Vương quốc của Thiên Chúa sẽ được trao vào tay một dân tộc khác, Dân Thánh – Hội Thánh, những người sẽ dâng cho Thiên Chúa hoa trái Nước Trời, nghĩa là đón nhận và kết hợp với Người Con và tạo thành một dân mới chung quanh Người Con ấy là Chúa Kitô Giêsu, như Thánh Phaolô nói với tín hữu Philíphê trong bài đọc thứ hai: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Chúa Kitô Giêsu” (4:6-7).
Để xây dựng tòa nhà được vững chắc, cần phải dựa vào Viên Đá - Kitô Giêsu này, đừng bao giờ vất bỏ viên đá đó kẻo rồi: “Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Mt 21: 44). Những kẻ này là những người lãnh đạo và cai trị dân Do Thái thời Chúa Giêsu và tiếp đó là những kẻ coi Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài như thù địch; rồi ra họ sẽ cay đắng ngộ ra rằng: “Ngài sẽ là nơi thánh; đối với cả Israel và Giuđa, Ngài sẽ là hòn đá gây vấp ngã và là tảng đá khiến họ sa ngã” (Is 8:14-15).
Có lẽ đây là một trong những dụ ngôn có lời lẽ cứng cỏi nhất của Chúa Giêsu. Đây không phải là dụ ngôn về sự tha thứ và tình yêu mà là về thực trạng đức tin của chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta sinh hoa trái cho vương quốc của Thiên Chúa nếu không vương quốc đó sẽ bị lấy đi khỏi chúng ta, giống như bị lấy đi khỏi những người tá điền vườn nho. Tôi có thực sự sợ hãi khi nghĩ đến điều này không? Kitô hữu mọi thời đại nên xem dụ ngôn này như lời cảnh báo và khích lệ họ trung thành xây dựng cuộc sống của mình trên “đá tảng góc tường” là Chúa Kitô và đảm bảo rằng họ không rơi vào sự vô tín như các thượng tế, kinh sư và kỳ lão Do Thái thời Chúa Giêsu.
Chúng ta được mời gọi trung thành và làm việc cần mẫn trong vườn nho của Thiên Chúa. Dụ ngôn này là lời nhắc nhở đừng bao giờ trở thành một người Công giáo hữu danh vô thực. Có lẽ tất cả chúng ta đều đã từng nghĩ rằng mình không cần phải đến nhà thờ, không cần phải tìm hiểu Lời Chúa, không cần phải hồi tâm cầu nguyện, hoán cải, không cần phải thực thi tình thương đối với những người chung quanh hoặc không nhất thiết phải khoan dung những kẻ đã làm hại mình... Suy nghĩ như vậy có thể khiến chúng ta lạc xa khỏi Thiên Chúa và xa cách anh chị em nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Đôi khi chúng ta cần được nhắc nhở về những nguy cơ sẽ xảy ra khi chúng ta không cảnh giác, không xét mình, không tự vấn lương tâm, cứ mải sống trong lợi lộc, danh tiếng, thú vui mà quên mất rằng trong trần thế này tôi chỉ là tá điền có trách nhiệm làm cho gia sản của Thiên Chúa sinh hoa mầu tốt tươi. Hãy để Tin mừng này thắp lên ngọn lửa chiếu sáng vào những vô minh trong tâm trí thực dụng và có khuynh hướng duy vật của chúng ta, nhiều khi đến độ bất chấp mọi chuẩn mực đạo lý, như những tá điền trong dụ ngôn sẵn sàng giết chết Người Con của Ông Chủ để chiếm đoạt của cải về tay mình. Chúng ta chẳng bao giờ dám giết Chúa Giêsu công khai như các thượng tế, kinh sư, kỳ lão của dân Do thái thuở xưa, nhưng chúng ta, bằng cách sống vụ lợi, ích kỷ cá nhân, có lẽ không ít lần đã bóp nghẹt Lời Chúa, chối từ và không để cho Lời ấy vang lên và chất vấn lòng dạ mờ tối đầy toan tính, tranh giành mọi thứ cho cái tôi riêng mình?
Tôi có coi dụ ngôn này như lời cảnh báo và nhắc nhở tôi như tiên tri Isaia nói trong bài đọc thứ nhất không: “Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại? Vậy bây giờ tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo. Tôi sẽ biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống” (Is 5: 4-6)? Đây là điều đã xảy ra: thành phố Giêrusalem bị người La Mã phá hủy hoàn toàn vào năm 70 sau Công Nguyên, đúng như Chúa Giêsu đã cảnh báo trước: “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 24: 2).
Để tránh được thảm trạng này, nghe và làm theo lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô dành cho tín hữu Philíphê là việc cần thiết: “Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em” (Pl 4:8-9).
Tại Hebron miền nam Palestina có loại nho quả to và rất ngọt. Vào thế kỷ XIII trước Chúa Giáng TN 27-A144
Tại Hebron miền nam Palestina có loại nho quả to và rất ngọt. Vào thế kỷ XIII trước Chúa Giáng sinh, ông Giôshua cho người vào thám thính Đất Hứa, khi trở về, họ đã đem theo các chùm nho to và nặng đến độ hai người phải xỏ đòn gánh đi. Đây không phải là hình ảnh văn chương, mà là sự thật.
Cựu Ước nhiều lần mô tả dân Israel như một gốc nho quý hay vườn nho ưu tuyển của Thiên Chúa : “Vườn nho của Đức Chúa là nhà Israel”(x. Is 5,1-7). Tiên tri Ôsê nói : “Israel là cây nho tươi tốt”(Os 10,1).
Cây nho, biểu tượng nhà Israel
Cây nho quý được Thiên Chúa trồng chính là Israel, thuộc sở hữu của Chúa, được Chúa yêu thương tuyển lựa, chăm sóc, vun trồng, và những mong nó sinh trái ngọt. Nhưng cây nho hảo hạng Israel ấy đã sinh nho chua, khiến Chúa thất vọng, giận dữ bỏ vườn, heo rừng vào phá phách, giã thú gặm tan hoang.
Đau khổ nhất của người trồng nho là vất vả ngày đêm chăm sóc, đến mùa hái quả lại chỉ thấy nho dại : “Ta đã trồng ngươi như nho đan tử, nhất nhất đều là giống nho chính cống. Nhưng làm sao ngươi đã đổi thành nho dại, một thứ giống lai?” (Gr 2,21).
Nho hảo hạng nay sinh quả chua
Trong cái luận lý của nhà nông, cây nào trái ấy theo lẽ tự nhiên. Nhưng trong cuộc sống con người, là sinh vật có lý trí và sự tự do, thì kết quả không như vậy. Vì thế, việc Thiên Chúa vun trồng, nhặt cỏ, bỏ phân là một chuyện, cần có sự cộng tác của con người nữa. Ở đây, dân Israel không cộng với Chúa, nên giống nho quý đã sinh nho dại, không dùng được vào việc gì cả. Trái nho chua đầu tiên dân Do thái sinh ra là tội bất trung bỏ Thiên Chúa chạy theo các thần ngoại.
Vừa được Thiên Chúa bứng ra khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, dân đã đúc bò vàng, quỳ thờ lạy và tuyên xưng nó là Chúa của mình. Chưa dừng lại, dân Do thái đã tiếp tục sinh nho chua là tôn thờ thần ngoại. Salomon, vị vua nổi tiếng là khôn ngoan, nhưng do ảnh hưởng của 1.000 thê thiếp, đã chiều theo ý họ mà đi thờ lạy các thần của họ. Đó là trái nho chua chát.
Thứ nho chua thứ hai mà dân Do thái sinh ra trong thời xuất hành là tội lẩm bẩm kêu ca chống lại Thiên Chúa, lãng quên ơn Chúa, đem thần ngoại vào Đền Thờ Giêrusalem, xông hương, bái lạy chúng, khiến cho Thiên Chúa phải bỏ Đền Thờ mà đi”(x.Gr 19,4-5).
Trái chua tiếp theo là phạm đủ mọi thứ tội: tà dâm cả cha và con cùng một gái điếm, nhất là sống bất công, tàn ác, ức hiếp bóc lột dân nghèo, người góa bụa, trẻ mồ côi, người ngoại kiều.
Nhưng ”trái nho chua nhất” mà dân Do thái đã sinh ra là tội khước từ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Con độc nhất của Chúa Cha mà họ hằng trông đợi. Chẳng những thế, họ lại còn dùng tay đế quốc Roma để giết chết Người nữa.
Và vườn nho Israel đã bị tan hoang, lần đầu tiên với biến cố vua Nabuchodonosor tàn phá thành thánh và đền thờ Giêrusalem bình địa năm 587 trước công nguyên. Lần thứ hai vào năm 70 sau công nguyên, do Titô, con của hoàng đế Vespasianô. Thế là lời tiên tri của Chúa Giêsu đã được thực hiện: ”Sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”. Sau mấy ngàn năm cảnh hoang tàn đó vẫn tiếp tục.
Cây nho là chính chúng ta
Chúa Giê-su cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo không chỉ lơ là việc phụng sự Thiên Chúa, nhưng họ còn là những kẻ gian ác (x. Mt 21, 33-43). Isai viết : “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích. Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác” (Is 5,7).
Minh họa của Chúa Giê-su cũng tương tự như thế. Chủ tá điền là Thiên Chúa, còn vườn nho là dân Israel, những người được rào và bảo vệ bởi Lề Luật Chúa. Thiên Chúa đã phái các nhà tiên tri đến để hướng dẫn và giúp dân Israel sinh trái tốt là những việc lành. Tuy nhiên “những người làm vườn nho” bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác” (Mt 21,35). Chúa Giê-su nói thêm: “[Chủ tá điền] chỉ còn lại một người, là con trai yêu dấu của mình. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: 'Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó'. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết” (Mt 21,37-39).
Giờ đây Chúa Giê-su hỏi: “Vậy chủ vườn nho sẽ làm gì?” (Mt 21,40). Các thượng tế và kỳ lão trả lời: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi" (Mt 21,41).
Như vậy, họ đã vô tình tự tuyên án chính mình, vì họ cũng ở trong số “những người trồng nho” của “vườn nho” Thiên Chúa, tức là dân Israel. Trái mà Thiên Chúa mong muốn thu được từ những người trồng nho này bao gồm đức tin vào Con Thiên Chúa, tức Đấng Mêsia. Chúa Giê-su nhìn thẳng vào các nhà lãnh đạo tôn giáo và nói: “"Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: 'Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!'?” (Mt 21,42). Rồi Chúa Giê-su nói rõ : Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái" (Mt 21,43).
Là Kitô hữu, chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô, là thành phần dân riêng mới của Thiên Chúa, giống nho được tuyển chọn do chính Chúa Giê-su vun trồng, chúng ta cũng có nguy cơ sinh ra các trái nho dại, chua lè đắng ngắt, nếu chúng ta không sống Tin Mừng và không thực thi các giáo huấn của Chúa, nhất là giới răn yêu thương; nếu chúng ta chạy theo thần tiền, thần quyền, thần mê say nhục dục, lơ là với các bổn phận đối với Chúa, đối với tha nhân, đối với Giáo Hội và xã hội.
Sách “Minh Tâm Bửu Giám” có câu: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.” (Làm việc thiện TN 27-A145
Sách “Minh Tâm Bửu Giám” có câu: “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.” (Làm việc thiện sẽ được điều tốt, làm việc ác sẽ gặp điều xấu.) Khổng Tử nói: “Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa.” (Người làm điều tốt thì trời lấy phúc đáp lại người đó, kẻ làm điều không tốt thì trời lấy họa đáp lại kẻ đó.) Trang Tử nhận định: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác tự giai khởi.” (Một ngày không nghĩ đến điều thiện thì mọi điều ác sẽ tự dấy lên.)
Họ chỉ là phàm nhân mà có thể nhận thức được như vậy, họ như thánh nhân, thật đáng khâm phục và đáng để chúng ta noi gương. Tư tưởng của họ rất gần gũi với giáo huấn của Đức Kitô – Chúa chúng ta. Thông thường, các tư tưởng lớn sẽ có lúc “gặp nhau.” Các hiền triết cũng có quan niệm giống nhau về khái niệm “ác giả, ác báo.” Đó là một dạng ý thức hệ.
Trình thuật Mt 21:33-43 (≈ Mc 12:1-12; Lc 20:9-19) nói về việc làm vườn nho, với những tá điền độc ác. Một câu chuyện rất thực tế, đồng thời cũng liên quan lòng đố kỵ, ganh tị và ghen ghét. Người Việt nói về tính đố kỵ và ghen ghét qua câu tục ngữ: “Con gà tức nhau tiếng gáy.”
Chúa Giêsu kể dụ ngôn về những ác nhân, những kẻ lòng lang dạ thú: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng chúng sẽ nể người con đó. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: ‘Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!’ Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.”
Rồi Ngài chất vấn họ về phản ứng của chủ vườn nho đối với bọn tá điền kia. Họ đồng thanh: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” Chắc hẳn ai cũng sẽ phản ứng như họ vậy. Ngài tiếp tục nói: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.”
Ngài biết họ là những kinh sư và thầy thông luật, thuộc Cựu Ước vanh vách, dẫn chứng rạch ròi, thế nên Ngài “nhắc khéo” họ về Thánh Vịnh: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường.” (Tv 118:22) Họ bị “cà khịa” thế mà vẫn tỉnh bơ. Ác nhân vẫn thường “ta đây” như thế. Chúa Giêsu kết luận: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” (Mt 21:43)
Đó cũng là lời Chúa Giêsu “nhắc khéo” chúng ta về cách hành xử với Thiên Chúa và với tha nhân, đặc biệt là những người “yếu thế” hơn mình, cả về vật chất lẫn tinh thần. “Đá Tảng” đó là chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết để cứu độ chúng ta, mà chính tay chúng ta đã nhúng chàm, mỗi chúng ta cũng là thủ phạm đã giết Con Chúa. Chúng ta không trực tiếp đóng đinh Ngài, nhưng chúng ta vẫn “trực tiếp” sát hại Ngài khi chúng ta “giết” tha nhân bằng nhiều loại đinh sắc bén: Lời nói, ánh mắt, cử chỉ, thái độ, hành động,... Sát nhân không vũ khí.
Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục cảnh báo: “Ai ngã xuống ĐÁ này, kẻ ấy sẽ tan xương; ĐÁ này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt.” (Mt 21:44) Thực sự rất đáng sợ và đáng lưu ý, bởi vì Ngài đã cảnh cáo: “Nếu KHÔNG sám hối thì sẽ CHẾT hết.” (Lc 13:3) Tất cả chúng ta đều là tội nhân, hơn nhau là biết nhận lỗi và thành tâm sám hối.
Lương tâm ai cũng có – giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về nội dung, tức là về chất lượng TỐT hay XẤU. Để phân biệt, người ta gọi là Thiện Tâm và Tà Tâm. Lương tâm là khả năng tự giác của con người, có thể tự giám sát mọi động thái, luôn ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm với chính mình, với xã hội, Giáo Hội và tha nhân. Thánh nữ TS Têrêsa Avila nhắn nhủ: “Hãy hiền từ với mọi người, nhưng nghiêm khắc với chính mình.”
Cổ nhân có câu: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính.” Sự tức giận khiến người ta làm điều xấu, thế nên phải biết “tu thân” trước. Tu thân là sửa mình, trước tiên là làm cho lòng mình ngay thẳng: “Sở vị tu thân tại chính kỳ tâm giả.” Nếu mình giận dữ thì lòng mình không ngay thẳng. Thánh Phaolô nói: “Anh em nổi nóng ư? ĐỪNG PHẠM TỘI: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.” (Ep 4:26)
Cần phải có lương tâm ngay chính và trong sạch. Kinh Thánh cho biết: “Phúc thay kẻ KHÔNG ăn nói lỡ lầm, và KHÔNG phải khổ vì hối hận. Phúc thay ai KHÔNG bị lương tâm cắn rứt, và kẻ KHÔNG rơi vào thất vọng.” (Hc 14:1-2) Đó là người có lương tâm tốt, còn người có lương tâm không tốt thì tự đày đọa mình, như sách Khôn Ngoan nói: “Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng để lên án chính mình là hèn hạ: bị LƯƠNG TÂM DÀY VÒ, nó luôn cảm thấy mình khổ sở.” (Kn 17:11)
Người ta có kiểu nói “chí công vô tư.” Câu nói rất hay nhưng lại hóa dở, bởi vì đó chỉ là “khẩu hiệu” chứ không được thực hành đúng mức. Bác học Albert Einstein khuyên: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.” Lý do đơn giản: “Bạn không chỉ phải chịu trách nhiệm với NHỮNG GÌ MÌNH NÓI và cả NHỮNG GÌ MÌNH KHÔNG NÓI.” (Martin Luther) Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12:37)
Người ta thường nói về luật Nhân Quả – một phạm trù đề cập mối liên hệ nguồn gốc tất yếu của các hiện tượng, trong đó hiện tượng này (nguyên nhân) sản sinh ra hiện tượng khác (hệ quả). Người Việt cũng có khái niệm Nhân Quả khi nói “ở hiền gặp lành” (tích cực), và “gieo gió gặt bão” (tiêu cực) hoặc “đời cha ăn mặn, đời con khát nước.” Người Anh cũng có cách nói tương tự: “You reap what you sow – Người ta gặt những gì mình gieo.” Có lẽ cũng có thể so sánh luật Nhân Quả tương tự loại vũ khí Boomerang của thổ dân Úc – loại vũ khí này cứ được ném đi rồi nó lại quay về nơi xuất phát. Người Việt “gậy ông đập lưng ông” cũng với nghĩa đó.
Nguyên lý Nhân Quả diễn ra theo quá trình mà “phần biết” và “phần được biết” chỉ là sự phân lập từ một tổng thể là “cái biết,” cho nên hiện tượng nó tạo ra sẽ được gọi là “hiện tượng nội sinh” – một hiện tượng mà Phật học gọi là “nghiệp” hoặc “nghiệp chướng” (karma). Theo Phật giáo, hiện tượng này không do một đấng quyền năng tối cao hay một thế lực siêu nhiên nào chi phối, nên “nhân quả” được xem là “nguyên lý quan trọng nhất” của đời sống, khi các vấn đề của đời sống được tìm hiểu từ bản chất của nó.
Chẳng ai lạ gì với câu: “Ác giả ác báo.” Đó là cách nói rút gọn của câu ngạn ngữ Trung Hoa: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai.” “Ác giả” là người xấu, việc ác; “ác báo” là điều ác đáp lại. “Thiện giả” là người tốt, việc tốt; “thiện lai” là điều lành đáp lại. Người làm việc ác thì gặp điều ác báo lại, hoặc việc ác này sẽ bị việc ác khác báo lại, người ta nói là “quả báo.” Câu này nêu lên sự ảnh hưởng tương tác của hành động, ngụ ý khuyên người ta chớ làm việc ác để tránh điều ác, và nên ăn ở hiền lành để gặp sự lành: “Ở hiền gặp lành.” Người Tây phương có câu: “Kẻ nào đào hố bẫy ai thì kẻ đó sẽ rơi xuống hố.” Cách nói theo tinh thần của Kinh Thánh.
Trong đời thường, đôi khi thấy có những trường hợp có vẻ nghịch lý, như sách Giảng Viên nói: “Người công chính thì gặp phải những chuyện như thể họ đã làm điều gian ác, trong khi người gian ác lại gặp được những chuyện như thể họ đã làm điều ngay chính. Đó cũng là một chuyện phù vân!” (Gv 8:14) Thực tế chúng ta cũng đã và vẫn thấy vậy. Chẳng cần đâu xa, cụ thể và rõ ràng nhất là Đức Kitô Giêsu. Ngài là Đấng Thánh thế mà lại bị coi như phường trộm cướp để rồi bị giết chết thê thảm. Nhưng Ngài vẫn tha thứ, khuyên chúng ta phải sống “nhân từ” (Lc 6:36) và cố gắng “hoàn thiện,” (Mt 5:48) dù xảy ra bất cứ chuyện gì. Đó là hai điều nhưng cũng chỉ là một: NÊN THÁNH. Thương thì Tha Thứ, Tha Thứ thì Thành Thánh. Có thể coi đó là “luật nhân quả” theo tâm linh vậy.
Vườn nho được mô tả qua “Bài Ca Vườn Nho” (Is 5:1-7) với những từ ngữ súc tích: “Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, Giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, Xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho. Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại? Vậy bây giờ, tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: Hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.”
Trong nông nghiệp, nông dân phải cẩn thận chọn giống để có thể hy vọng có cây lành, trái ngọt, để có thể bội thu. Người gieo trồng luôn mong muốn điều tốt, thế mà điều xấu lại xảy ra với họ. Người Việt không xa lạ gì với nông nghiệp, nông dân luôn muốn lúa và hoa màu tốt tươi đạt năng suất, hy vọng một vụ mùa thu hoạch cao, thế mà có khi mùa màng lại thất bát, thậm chí có khi bị trắng tay. Tương tự, có lần Chúa Giêsu cũng đã kể dụ ngôn “lúa và cỏ lùng.” (Mt 13:24-30) Tác giả “Bài Ca Vườn Nho” kể cho người bạn thân nghe biết về vườn nho của mình. Chủ nhân muốn có nho tốt mà lại chỉ thấy nho dại. Thất vọng ê chề, chủ nhân đành phải chặt phá hàng giậu cho “vườn bị tan hoang” và đập đổ tường cho “vườn bị giày xéo.”
Nước Trời được Chúa Giêsu ví bằng nhiều thứ, một trong những cách ví von Ngài đưa ra là hình ảnh “vườn nho.” Thánh Vịnh gia cho biết: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng.” (Tv 80:9) Vì là giống tốt nên “bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả.” (Tv 80:12) Nhưng rồi có điều khác thường bất ngờ xảy ra nên Thánh Vịnh gia thắc mắc: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang.” (Tv 80:13-14)
Nhìn cảnh vườn hoang, nhà trống, thật thê thảm. Buồn lắm. Càng buồn hơn vì đó không là lỗi của mình, không là lỗi của chủ nhân bất cẩn hoặc bỏ mặc, chắc chắn là do kẻ xấu bụng, ác ý. Những kẻ xấu xa đó lại chính là chúng ta, những tội nhân đã làm hư hại Vườn Nho của Thiên Chúa. Nhưng mặc lấy tâm tình yêu thương của Đấng giàu lòng thương xót, Thánh Vịnh gia vẫn chân thành và tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin TRỞ LẠI, tự cõi trời, xin NGÓ XUỐNG mà xem, xin Ngài THĂM NOM vườn nho cũ, BẢO VỆ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh.” (Tv 80:15-16)
Thánh Vịnh gia đại diện cả nhân loại mà thề hứa với Thiên Chúa: “Chúng con nguyền CHẲNG xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài BAN cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài. Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin PHỤC HỒI chúng con, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.” (Tv 80:19-20) Thiên Chúa đã thương xót và bỏ qua tất cả, để chúng ta lại được làm con cái Ngài và được thừa kế gia nghiệp của Ngài. Tội nhân chúng ta còn diễm phúc lắm! Phải làm gì để tạ ơn Ngài? Mỗi tín nhân phải tự trả lời rõ ràng và dứt khoát.
Phàm nhân vì ngang ngược mà hóa NÔNG NỔI, vì nông nổi mà ra NÔNG NỖI. Đọc câu này thật đáng sợ: “Tai họa thảm hại nhất trong tất cả những gì xảy ra dưới ánh mặt trời là hết mọi người đều chịu chung một SỐ PHẬN NHƯ NHAU. Cũng vì thế mà lòng dạ con cái loài người ĐẦY những điều gian ác, tâm địa luôn ẤP Ủ chuyện điên rồ bao lâu còn sống trên trần gian, để rốt cuộc rơi vào CÕI CHẾT. Thế nhưng chỉ những ai còn sống trong cõi dương gian mới có hy vọng mà thôi, vì CON CHÓ SỐNG thì hơn CON SƯ TỬ CHẾT.” (Gv 9:3-4) Nhưng đừng run sợ mà bạt vía kinh hồn, vì Thiên Chúa nhân hiền, không chấp lách chi đâu, chỉ cần chúng ta biết CHÂN THÀNH NHẬN LỖI thì Ngài sẵn sàng rộng lượng thứ tha ngay.
Thật vậy, Thánh Phaolô cũng chân thành động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu.” (Pl 4:6-7) Thế thì còn gì bằng, thật tuyệt vời! Thiên Chúa là tình yêu mà. Thánh Clara cũng đã từng nhắn nhủ các nữ tu của bà điều này: “Đừng sợ! Hãy tín thác vào Chúa Giêsu!” Tuy nhiên, đừng vội thấy vậy mà ỷ lại kẻo khốn hơn trước, không nghe lời Chúa sẽ bị phạt “gấp bảy lần vì tội lỗi.” (Lv 26:18, 21, 24, 28)
Có lẽ chưa an tâm nên Thánh Phaolô dặn dò thêm: “Ngoài ra, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” (Pl 4:8-9) Hai cụm từ “hãy để ý” và “hãy đem ra thực hành” là hai mệnh lệnh quan trọng, phải được nhận thức và ghi nhớ. Ngắn gọn và đơn giản nhưng không dễ thực hiện đâu!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con phân định phải – trái một cách rõ ràng, đồng thời chân nhận mình là kẻ xấu để tránh ảo tưởng, nhờ đó mà biết mở to con mắt đức tin để thấy cái-xà-tội-lỗi của mình chứ không thấy cái rác nơi tha nhân. Xin giúp chúng con tích đức tùng thiện để hoàn thiện theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bên nước Soudan (Bắc Phi), có một bộ lạc tên A-giăng-ti sống theo tôn giáo tự nhiên. Họ thờ TN 27-A146
Bên nước Soudan (Bắc Phi), có một bộ lạc tên A-giăng-ti sống theo tôn giáo tự nhiên. Họ thờ vong linh ông bà với nhiều nghi lễ đặc sắc. Nhưng chỗ nhất trong niềm tin của họ, dân A-giăng-ti dành cho Thần Tối Cao, Đấng đã tạo thành mọi sự. Các thành phần trong bộ lạc thường cầu nguyện với Thần Tối Cao đó bằng lời kinh sau đây: “Mặt trời chiếu sáng và tỏa nắng ấm xuống trái đất. Mặt trăng mọc ban đêm êm đềm và rạng rỡ. Mưa đổ xuống nhưng rồi mặt trời lại ló ra. Đôi mắt Thiên Chúa canh chừng tất cả mọi biến cố này, không gì có thể trốn thoát được. Dầu con đang ở trong nhà hay ngâm mình ngoài sông, hoặc đang ngồi nghỉ dưới bóng cây rừng, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện trên con. Con tưởng có thể lấn át người cô thế, mồ côi, nghèo hèn, hay tưởng có thể gạt gẫm dân làng, tham lam của cải kẻ khác, vì nghĩ rằng không ai nhìn thấy được. Nhưng con lầm. Hãy nghĩ lại đi. Con đang hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Người sẽ bắt con phải trả, phải trả, phải trả. Không phải hôm nay, nhưng ngày mai, ngày mai, ngày mai”. Dù chẳng biết Kinh Thánh, nhưng lời kinh của bộ lạc hoang sơ đã này phản ảnh phần nào niềm tin và giáo huấn chất chứa trong dụ ngôn Tin Mừng ta đang đọc.
1. “Vị gia chủ” tôn trọng các tá điền
Nhờ quen thuộc Kinh Thánh, mọi thính giả của Đức Giê-su hiểu ngay gia chủ yêu mến vườn nho trong dụ ngôn hôm nay là ai: Thiên Chúa (x. Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; 19,10…). Người đã chẳng tiếc công săn sóc vườn nho: “lật đất… nhặt đá… chọn giống tốt… rào giậu bảo vệ… khoét bồn đạp nho…xây một ngọn tháp canh giữ”. “Bài ca của Bạn Yêu về vườn nho của mình” trong I-sa-i-a hiện diện nơi tâm trí Đức Giê-su và các thính giả. Nhưng ở đây, Đức Giê-su thêm một nét chấm phá riêng vào truyền thống Kinh Thánh : không chỉ có chuyện “vườn nho” nhưng còn có vấn đề “tá điền vườn nho” và “chuyến đi xa” của ông chủ. Xin nhớ kỹ điều đó. Đức Giê-su quả quyết qua đoạn Tin Mừng này rằng Thiên Chúa tin tưởng giao trách nhiệm cho con người. Việc ông chủ đi xa nhấn mạnh rõ ràng Thiên Chúa muốn chúng ta tự do và có trách nhiệm: “Hãy bá chủ mặt đất” (St 1,28). Thông điệp của Đức Gio-an Phao-lô II về lao động đã nhắc ta nhớ phẩm giá bao la ấy của con người. Đôi lúc chúng ta phàn nàn Thiên Chúa “vắng mặt”. Đức Giê-su, rất hiện đại trong chuyện này, gợi ý rằng sự “kín đáo” ấy của Thiên Chúa là có chủ đích: Người xem chúng ta như những đứa con trưởng thành lớn tuổi, nên đã giao phó cho vườn nho “của Người”, vũ trụ của Người. Phàm nhân là quản lý của công trình Thiên Chúa! Tôi quản lý một phần “cơ nghiệp” đó; nó đã được Người đã trao phó cho tôi nhưng vẫn tiếp tục thuộc về Người. Người đã cho tôi thuê một phần của cải Người, một mảnh Vương quốc Người. Người đã ban cho tôi nhiều trách nhiệm. Những trách nhiệm nào? Tôi phải làm gì, sinh lợi cái gì đây? Tôi phải trả lẽ trước mặt Người về những gì, về những ai vậy?
Vì sẽ có ngày Chủ sẽ cho “thu hoa lợi”, hoa lợi của ông. Thế mà chúng ta vẫn tưởng mình là chủ các hoa lợi đó. Như thế, Thiên Chúa “vắng mặt” đâu phải vì Người không can thiệp! Việc kín đáo đi xa của Người chẳng phải là do dửng dưng hay do trung lập, như thể phàm nhân có thể làm bất cứ chuyện gì… và nắm lấy “chủ quyền” như trong cám dỗ của A-đam thời nguyên thủy (x. St 3,5). Không, Thiên Chúa đâu có trung lập, nhu nhược, để phàm nhân mặc sức: Người yêu ta đến độ đòi ta tính sổ. Người đối xử với ta như kẻ có “trách nhiệm” thực sự: sẽ có một ngày “thu hoạch vườn nho”.
“Thời điểm hái nho” đó là một giây phút quyết định: “trước” thì quá sớm, vì chưa đủ chín!... nhưng “sau” thì quá trễ, vì sẽ hư thối không cứu vãn được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế, có những thời điểm không được để hụt chuyện thu hoạch. Trong lúc này, Thiên Chúa chờ đợi gì nơi tôi? Cái gì có thể làm hôm nay chứ không thể hôm qua và sẽ không thể ngày mai trong chương trình của Chúa, mà tôi có một phần trách nhiệm? Tôi bị cám dỗ để cho hư thối những gì?
2. Các “tá điền” tự coi mình là gia chủ.
Nhưng mùa hái nho đó, theo dụ ngôn, là mùa hái nho đẫm máu! Biểu trưng thái độ từ chối Thiên Chúa. Thái độ ấy còn tiếp tục mãi đến hôm nay. Thiên Chúa nên một kẻ quấy rầy dễ ghét khi kêu gọi chúng ta trả lại hoa quả “của Người”. Vâng, hết thảy chúng ta đều bị cám dỗ bất cần Thiên Chúa, muốn quản lý vườn nho Người vì lợi ích riêng tư. Trong cuộc sống tôi, đâu là những hoa trái của Thiên Chúa bị tôi từ chối trả lại cho Người? Đâu là những đòi hỏi, kêu gọi của Người bị tôi miễn cưỡng chấp nhận?
Nhưng dẫu các tá điền từ chối và đối nghịch, gia chủ vẫn liên tiếp gởi tới các sứ giả của mình. “Lạy Chúa, Chúa đã gia tăng các giao ước với họ, và đã dùng các ngôn sứ đào tạo họ trong niềm hy vọng ơn cứu rỗi…” Ôi! Thiên Chúa kiên nhẫn và thương xót biết chừng nào! Đây đúng là toàn bộ lịch sử It-ra-en được Đức Giê-su tóm tắt. Và cũng là lịch sử của chúng ta nữa.
“Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng : Chúng sẽ nể con ta”. Như trong hầu hết mọi dụ ngôn, câu chuyện kiểu phàm nhân bị vỡ tan tành, vì xảy ra điều không thể tin được: có “người cha” nào trên hành tinh nhân loại này lại hành động như thế? Không! Chẳng ai lại nảy ra ý kiến sai con (x. Mt 21,37; Mc 12,6; Lc 20,13) đến với những kẻ đã giết chết “khối” tôi tớ của mình rồi. Nhưng đây đâu còn là câu chuyện của con người nữa. Thiên Chúa là tay “đại liều”! Người triệt để chơi trò “được ăn cả ngã về không”. Người “liều mạng” đứa con của mình, hoa quả của tình âu yếm Ba Ngôi… để cố gắng làm cho nhân loại mang hoa quả. Vì Thiên Chúa đã yêu ta đến độ ban cho ta Con Một Người, ai sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu xuất phát từ Người được? Lạy Chúa, xin cảm tạ ơn Ngài.
Nhưng xin lưu ý: tội các tá điền không phải là đã chẳng làm cho vườn nho sinh quả… nhưng là đã muốn chiếm lấy hoa quả không thuộc về họ, theo kiểu biểu tượng của dụ ngôn. Đây chính là tội của chủ nghĩa duy vật vô thần: quản lý trái đất chỉ vì lợi ích cho con người (đúng ra cho một số người) thôi. Chẳng để ý rằng đó là sở hữu và hồng ân của Thiên Chúa, chẳng để ý đến “chương trình” của Thiên Chúa như hạnh phúc chung quyết của mình, sự thiện tuyệt đối của mình, ý nghĩa tối hậu của cuộc sống mình… thì nó sẽ tìm “trong chính mình” hạnh phúc ấy, sự thiện ấy, ý nghĩa ấy. Và đó là một ảo tưởng. Tất cả triết thuyết hiện đại đều chứng minh cho thấy việc “giết chết” Thiên Chúa trong tâm tưởng và xã hội cũng là cái chết của con người: không Thiên Chúa, hiển nhiên và rõ ràng là cái chết chiến thắng mãi, sự dữ chiến thắng mãi, và “phi lý vô nghĩa” sẽ là tiếng nói cuối cùng (Jean-Paul Sartre).
“Thế là chúng bắt lấy cậu, tống ra khỏi vườn nho, và giết đi”. Đây quả là một vụ “xử tử đúng lễ nghi”, được tiến hành theo quy định, một tội ác có ý thức và suy tính trước, được hoàn tất theo trật tự các cuộc xử tử hình (x. Lv 24,14-16): người ta bắt đầu bằng cách “lôi” kẻ bị “trục xuất” ra bên ngoài vườn nho (x. Cv 7,58; Lc 4,29). Đức Giê-su, Tê-pha-nô sẽ bị xử “ngoài thành” như thế. Nhưng lưu ý, chớ đọc các trang này với một thái độ bài Do-thái cách ý thức hoặc vô thức, mà chất lên đầu dân Do-thái tội chối bỏ Đức Giê-su và Thiên Chúa như vậy. Chúng ta cũng chẳng vô tội đâu!
Vấn đề “chối bỏ Thiên Chúa” luôn luôn có tính chất thời sự. Vấn đề này được đặt ra cho tôi. Và không thể trả lời một cách lý thuyết. Chính cuộc sống tôi đáp trả lời hay chối từ. Đón nhận hay từ chối Đức Giê-su… nghe Tin Mừng hay làm như nó đã chẳng hề hiện hữu… sống theo tình yêu tuyệt đối hay theo lòng thù ghét… trả hoa quả cho Thiên Chúa hay giữ lại cho mình đâu có như nhau được!
3. Tái lập tình thế.
“Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia? Họ đáp: Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho chủ”. Đây đúng là một cuộc Phán xét… một cảnh cáo dưới hình thức răn đe. Không phải để “dọa dẫm” nhưng để lôi kéo người ta hoán cải nếu có thể được: phải chi họ nắm lấy cơ may cuối cùng… phải chi cả sau khi đã từ chối và giết chết các tôi tớ, cuối cùng họ đón tiếp Người Con!
Thông qua dụ ngôn, chúng ta khám phá ra ý thức Đức Giê-su đã có về vai trò mình. Người ý thức mình là “Con”, khi hoàn toàn tách mình khỏi loạt các ngôn sứ đến trước. Người ý thức mình đang đi tới cái chết, vì trung thành với “sứ mệnh”: được Thiên Chúa sai. Người cũng ý thức rằng công trình của mình không thể thất bại: dẫu người con chết, vườn nho rốt cục cũng sẽ đem lại hoa quả cho Thiên Chúa.
Nhưng tại sao con Thiên Chúa đã bị giết chết? Tại sao toàn thể Ít-ra-en chính thức đã loại trừ Người? Đây là câu hỏi nhức nhối mà các Ki-tô hữu tiên khởi đã phải tự đặt. Chính trong Kinh Thánh, thành thử trong đức tin, mà họ đã tìm ra chìa khóa cho bí ẩn kép ấy. Thánh vịnh 118 đã loan báo: tảng đá đáng thương dị hình, bị thợ nề loại bỏ bởi cho rằng vô ích, chỉ đáng ném vào hố rác… thì trong kế hoạch của Thiên Chúa, đã trở thành khối đá tốt xinh quan trọng, khối đá mà người ta đặt ở chỗ chủ yếu nhất của công trình, chỗ nối hai bức vách, ở đỉnh một khung vòm! Đá góc hay đá đỉnh! Tất cả sự vững chắc của tòa nhà tùy thuộc vào khối đá ấy. Đức Giê-su đã dám quả quyết mình là yếu tố chủ chốt trong kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa vậy.
Trong phần kết luận của bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giê-su đã nói rõ cho mấy ông lãnh đạo TN 27-A147
Trong phần kết luận của bài Tin Mừng tuần trước, Đức Giê-su đã nói rõ cho mấy ông lãnh đạo của dân Do Thái biết rằng những người thu thuế và các cô gái điếm là những người con ngoan ngoãn, vâng lời Thiên Chúa. Họ đã được mô tả như người con bướng bỉnh ngoài miệng nhưng sau đó lại ngoan ngoãn đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu và vâng theo ý muốn của Thiên Chúa. Trong khi đó, người con thứ hai là hình ảnh của các thủ lãnh, ngoài miệng thơn thớt ‘dạ thưa, con vâng’ nhưng cuộc sống lại bộc lộ sự chống đối, và đôi khi biến thành các hành vi tàn ác như được mô tả qua câu chuyện tá điền sát nhân trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu chuyện như sau:
Có một ông chủ kia trồng được vườn nho. Ông rào giậu chung quanh. Trong vườn ông khoét bồn đạp nho và một tháp canh. Các chi tiết này ám chỉ cho chúng ta biết vườn nho thuộc về ông. Nhưng ông không tự mình trồng nho mà lại cho các tá điền thuê để canh tác. Sau đó, ông trẩy đi phương xa cho đến mùa thu hoạch mới sai sứ giả của ông đến để thu hoa lợi. Đến lúc này thì công việc kinh doanh vẫn hoạt động bình thường, cho đến khi sự cố xẩy ra.
Trước khi tìm hiểu xem điều gì đã xẩy ra, xin mời anh chị em thử tưởng tượng xem có người làm thuê nào dám hành hạ và đánh đập những sứ giả mà ông chủ phái tới để thu hoa lợi hay không? Giả như những người đại diện của chủ bị hành hạ thì ông chủ sẽ có thái độ như thế nào? Hơn thế nữa, với tình hình của một quốc gia đang bị đô hộ thì người dân có quyền thế gì. Mọi thứ quyền lực thường nằm trong tay đế quốc, qua trung gian của mấy ông chủ, những người có mối quan hệ với đế quốc đang thống trị họ. Trong tình hình đó, ông chủ vườn nho (như mấy ông chủ đồn điền) sẽ sai quân binh đến để dẹp bọn tá điền phản loạn, làm gì có việc sai thêm nhóm khác và sau cùng lại gửi con ông đến để chịu chết như dụ ngôn kể lại. Và, thật nực cười khi chúng ta nghe lý do mà họ giết cậu con trai, đó là để đoạt gia tài mà cậu được thừa kế. Dù cậu có bị giết thì gia tài vẫn thuộc quyền ông chủ, cho đến khi nào mới về tay những kẻ làm thuê.
Trong câu chuyện, chúng ta biết rằng: vườn nho thuộc về Thiên Chúa. Người vẫn kiên tâm chờ đợi, không thu động nhưng rất tích cực, bằng cách tiếp tục sai hết lớp thợ này đến lớp thợ khác đến để canh tác trong vườn nho của Người. Sau cùng Người sai người con thừa tự, hy vọng rằng họ sẽ nể Người mà cộng tác với người con đó. Nhưng than ôi! Họ đã nhẫn tâm giết luôn người con. Tuy nhiên, việc con người nhẫn tâm và tàn ác cũng không thắng nổi sức mạnh và công trình của Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Giê-su đã nói: “…Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Tảng đá mà Đức Giêsu nói ở đây là chính bản thân Người, là thân thể của Đức Ki-tô.
Sau khi kể xong câu chuyện, Đức Giê-su mới bộc lộ ý của Người qua câu hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn đã giết các sứ giả và người con thừa tự của ông? Câu trả lời của họ thật rõ ràng: Ông sẽ tru diệt bọn ác nhân và trao cho nhóm tá điền khác canh tác, để cứ khi mùa gặt đến, họ sẽ nộp hoa lợi cho ông.
Sau câu trả lời thật rõ ràng, họ thấy chính họ trong câu chuyện. Họ hiểu ý mà Đức Giê-su kể trong câu chuyện hôm nay. Người có ý mời gọi các vị lãnh đạo, các chức sắc hãy nhận ra sứ điệp của Người mà thay đổi cách sống. Nhưng họ không động lòng để hối cải. Than ôi, họ ngoan cố tiếp tục tìm cách bắt Đức Giê-su!
Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở hành động khuớc từ của họ. Thiên Chúa, Đấng làm chủ vườn nho tiếp tục mời gọi và sai các nhóm tá điền khác đến để canh tác. Nói cách khác thì vườn nho không bao giờ bị bỏ hoang! Một ngôi nhà mới sẽ được cất lên, một triều đại mới sẽ được khai sinh trên hòn đá tảng là chính Đức Kitô. Đây chính là công trình của Thiên Chúa, Đấng làm chủ vườn nho của Người.
Theo thiển ý của tôi, khi nhắc lại công trình của Thiên Chúa, Thánh sử muốn đề cao quyền làm chủ vườn nho thuộc về Thiên Chúa. Người nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa có dự án của Người. Cho dù con người có bất trung hay hành xử bất kính và bạo lực cũng không phá hủy được chương trình yêu thương của Người.
Họ nghĩ là họ đã thành công trong ý đồ xấu xa của họ là loại bỏ Tảng đá. Nhưng, với bàn tay của Thiên Chúa, do công trình của Người, tảng đá đó trở nên tảng đá góc tường.
Họ nghĩ rằng họ đã giết được Con Thiên Chúa. Nhưng, Đức Giê-su qua sự chết, Người đã chiến thắng thần chết. Qua việc chết đi cho ý riêng, Người đã biểu lộ lòng vâng phục ý của Thiên Chúa. Sau cùng, Thiên Chúa đã siêu tôn Người Con và tiếp tục làm chủ công trình của Người.
Thưa anh chị em,
Đối với các thành viên trong cộng đoàn của Thánh Mát-Thêu thì câu chuyện này có thể được giải thích đó là việc dân Do Thái đã lạm dụng vai trò canh tác vườn nho của Thiên Chúa. Họ được mô tả như những người làm thuê, nhưng lại không chấp nhận thân phận của mình, trái lại họ đã cư xử như một ông chủ; không có lòng nhân từ và kiên nhẫn. Với cách hành xử rất thô bạo, bằng bạo lực họ đã cuớp quyền sở hữu, giết các sứ giả do chủ sai đến. Họ, từ vị trí của những người làm công, đã thiết lập các qui tắc, rồi cuớp đoạt và tự hành xử như một ông chủ. Họ tìm cách loại bỏ Người. Vì quyền lợi riêng tư nên họ đã từ chối đón nhận Đức Giêsu và nguồn ơn cứu độ của Người.
Còn chúng ta, việc canh tác làm cho vũ trụ, vườn nho Hội Thánh, vườn nho gia đình, cộng đoàn hay xã hội được đổi mới và phát triển là trách nhiệm và phần vụ của mọi người. Phần vụ này không thuộc về riêng ai: Do Thái hay dân ngoại, ai ai cũng được mời gọi. Chúng ta hãy hỏi mình rằng chúng ta đã sống như thế nào để xứng đáng với vai trò mà Chúa đã trao phó trong công việc canh tác vườn nho của Người? Nếu không tự xét mình và thay đổi thì chúng ta có thể giống như hàng ngũ lãnh đạo mà Đức Giêsu đã nhắm đến trong bài Tin Mừng hôm nay!
Vẫn biết, cuối cùng thì Nước Thiên Chúa sẽ hiển thắng. Chúng ta không đuợc phép thất vọng. Tuy nhiên, việc sinh hoa lợi là phần phúc mà Chúa đang chờ đợi bàn tay con người. Hãy làm tất cả để vườn nho của Thiên Chúa, thân thể của Đức Ki-tô được sinh hoa kết trái dồi dào và phong phú hơn!
Hãy nhớ rằng vườn nho thuộc về Thiên Chúa, vườn nho là của Người. Chúng ta chỉ là những người cộng tác, hết nhóm này đến nhóm khác, hết thời này đến thời kia, Thiên Chúa vẫn làm chủ. Và, cho dù chúng ta bất xứng, nhưng Thiên Chúa luôn thành tín với dự án của Người.
Đừng bao giờ có ý nghĩ chiếm hữu vườn nho cho riêng mình. Đừng bao giờ để cho thành quả của công việc làm thay đổi căn tính phục vụ của mình. Hãy sống trọn vẹn vai trò thừa tác, chu toàn bổn phận của người cộng sự mà làm cho Danh Chúa được cả sáng và Vườn nho của Chúa, là Thân Thể của Đức Ki-tô, được sinh hoa kết trái theo ý Người. Amen!