Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 26 TN-A: Bài 151-194 Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.
------------------------------------------ Tin mừng: Mt 21, 28-32
28 Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” 29 Nó đáp: “Con không muốn đâu !” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời: “Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” – Đó là Lời Chúa. ------------------------------------------ Mục lục
Trong cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta, lời nói và việc làm thường có những khoảng cách xa TN 26-A151
Trong cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta, lời nói và việc làm thường có những khoảng cách xa vời, thậm chí có lúc hoàn toàn trái ngược nhau. Những bài diễn thuyết hùng hồn với những mỹ tự bóng bảy nhiều khi chỉ là đồ trang trí cho những tư tưởng rỗng tuếch, nhất là với thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Với công nghệ quảng cáo tiếp thị, cái gì cũng nhất thế giới, đồ gì cũng là chất lượng hàng đầu…suy cho cùng, chỉ là sự dối trá. Để chứng minh lời nói của một người có thật hay không, người ta phải kiểm chứng việc làm của người đó. Thiếu việc làm, tình yêu chỉ là chót lưỡi đầu môi và giả tạo.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nói đến một người cha và hai người con. Người cha sai hai con đi làm vườn nho. Hình ảnh vườn nho một lần nữa lại được Đức Giêsu dùng để so sánh với cuộc đời. Chúng ta dễ nhận ra, nơi hình ảnh người cha này là chính Thiên Chúa. Người cha này có hai người con. Một người, khi được cha trao việc thì chối từ, nhưng sau hối hận; người thứ hai mau mắn nhận lời, rồi lại không làm. Kết luận Chúa Giêsu đưa ra là: việc làm và đời sống của một người là tiêu chuẩn lượng giá về nhân cách của người ấy chứ không phải lời nói. Người con thứ nhất tuy từ chối lời đề nghị của cha mình, những đã sớm hối hận và đã đi làm vườn nho cho cha. Người con này được kể là người con hiếu thảo và được cha yêu mến. Trái lại, người con thứ hai khi được trao việc thì nhanh nhảu nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không làm gì. Đây là người con chỉ vâng lời và hiếu thảo bằng môi mép, còn trong thực tế thì lười biếng và dối trá.
Hai người con tượng trưng cho hai lối sống, hai trào lưu, hai quan niệm và cũng là hai cách thực hành đời sống Đức Tin của chúng ta. Có thể hai nhân vật ấy đồng thời hiện hữu trong chính con người của mỗi chúng ta, khi chúng ta bị cám dỗ sống giả hình hoặc bất tuân. Thiên Chúa là Cha vẫn luôn mời gọi chúng ta làm điều thiện. Trước lời mời gọi ấy, có những người “miệng nói hay, mà tay không làm”. Trái lại, có những người khước từ rồi sau đó nhận ra lẽ phải và gắng công thực hiện ý Chúa.
Trong bối cảnh xã hội hôm nay, cách thức thực hành Đạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại nhiều nơi và đối với nhiều người, đời sống Đức tin chỉ dừng lại ở những nghi lễ bề ngoài mà ít để ý đến chiều sâu và đời sống nội tâm. Theo lẽ thường tình, một khi hình thức tăng thì nội dung giảm. Khi người ta quá chú trọng đến bề ngoài thì dễ quên bề trong. Tại nhiều nơi, lời kêu gọi học hỏi giáo lý để giúp sống Đạo bị bỏ ngoài tai, thậm chí giáo dân còn “tìm cách bỏ trốn” mỗi khi đến giờ học giáo lý. Hậu quả của việc không học giáo lý là một Đức tin mờ nhạt, một lối giữ đạo nửa vời. Nhiều bạn trẻ đã mất Đức tin khi tiếp cận với nền văn minh và lối sống đô thị.
Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cần thận trọng khi nhận định về tư cách của một người. Chắc hẳn những người có mặt lúc Chúa Giêsu tuyên bố những lời này cảm thấy “sốc”: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời tuyên bố của Chúa đảo ngược bậc thang giá trị mà người Do Thái thường dựa vào để nhận định một con người. Thì ra, những người mũ cao áo dài chưa chắc đã là những người thánh thiện. Những người biệt phái và luật sĩ dù khôn ngoan chưa hẳn đã là những người ngay chính. Để nhận định tư cách của họ, còn phải xem đời sống hằng ngày của họ ra sao, họ có thực hành đức công bình mà họ vẫn rao giảng hay không, đó mới là điều quan trọng. Một người có quá khứ tội lỗi, nhưng thành tâm thiện chí ăn năn hối cải, thì họ được Chúa tha thứ. Trong cuộc sống, vì có một quá khứ nghiện ngập, tù đầy khi muốn hoàn lương vẫn gặp phải những thành kiến của những người xung quanh, để rồi những người muốn làm một con người bình thường mà cũng không được. Ngôn sứ Edêkien đã truyền lại lời của Chúa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu thoát mạng sống mình!”. Vâng, trong cuộc đời, chúng ta còn khắt khe hơn Thiên Chúa trong việc xét đoán anh chị em mình. Những người thu thuế và những cô gái điếm được vào Nước Trời, vì họ đã để cho Lời Chúa thấm nhập và thay đổi cuộc đời tội lỗi của họ. Họ đã can đảm đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa, để mặc lấy Đức Giêsu phục sinh, trở nên con người mới, thánh thiện tinh tuyền. Như thế, đối với Chúa, không thể vin vào một quá khứ xa xưa – dù tốt lành – để biện minh cho những lỗi lầm mình đang phạm. Thiên Chúa công minh vô cùng trong xét xử. Ngài vừa công bằng vừa giàu lòng thương xót.
“Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chỉ vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi tới cộng đoàn tín hữu Philiphê. Khi nhấn mạnh đến đức khiêm nhường, vị Tông đồ dân ngoại trình bày Đức Giêsu như mẫu mực và lý tưởng của mọi Kitô hữu: Người là Thiên Chúa đã tự huỷ, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế vì yêu thương chúng ta (Bài đọc II). Những ai tiến bước theo Chúa Giêsu sẽ đẹp lòng Thiên Chúa Cha
Hãy bớt những lời nói và hãy gia tăng việc làm. Hãy nói ít và nghe nhiều. Hãy học sống thinh lặng để cảm nhận sự hiện diện của Chúa và những điều kỳ diệu Chúa làm quanh ta. Những điều kỳ diệu ấy, ta chỉ có thể cảm nhận bằng Đức tin và tình mến Chúa yêu người.
Ngày 07/09/2020 trên mạng phát tán đoạn clip bạo hành. Trớ trêu thay là con bạo hành mẹ tại TN 26-A152
Ngày 07/09/2020 trên mạng phát tán đoạn clip bạo hành. Trớ trêu thay là con bạo hành mẹ tại Long An. Người con bất hiếu này lấy cây chổi đánh liên tiếp vào mẹ, đổ rác lên đầu bà cụ và kêu la lớn tiếng: “Mày đừng hành hạ tao. Ăn đi, mày ăn đi, hả họng ăn vô, biến đi, đừng thấy mặt tao”...
Dân mạng xót xa khi hình ảnh cụ bà trong clip chỉ biết ngồi co ro trên giường chịu trận, rồi khóc. Thấy cụ khóc, người phụ nữ xô té ngã xuống giường và chửi lớn: “Mày đừng hành hạ tao, nghe chưa, nghe chưa”...
Đoạn clip được đứa con gái thay vì can ngăn mẹ đừng hành hạ bà, nó lại quay clip và lưu giữ từ 11/2019, để rồi trong ngày ngoại mất ngày 02/09 đem cung cấp clip cho anh họ đăng và từ đó lan tràn trên facebook.
Thật bất hạnh.
Ba thế hệ ruột thịt cùng chung sống dưới một mái nhà, ai cũng tự vận vào mình một nỗi bất hạnh riêng.
Câu chuyện đau lòng trên như muốn gióng lên một hồi chuông báo động về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ mình. Phải chăng ngày hôm nay, chữ hiếu đang dần bị khô héo? Phải chăng câu ca dao “con cãi cha mẹ trăm đường con hư” đã và đang diễn ra ngày càng nhiều? Phải chăng muốn con có hiếu phải có tiền thì nó mới nhận được sự cưng phụng của chúng?
Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non - Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.
Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.
Người con đầu là hình ảnh của người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.
Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.
Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con cái Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo. . .
Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen
Tại một giáo xứ nọ, cha sở muốn mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa Nhật. Thánh lễ TN 26-A153
Tại một giáo xứ nọ, cha sở muốn mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa Nhật. Thánh lễ sáng hôm đó, sau khi cắt nghĩa về lợi ích của Thánh Kinh, Người hỏi giáo dân cho ý kiến, thì có hơn một nửa số người tham dự Thánh Lễ giơ tay đồng ý và tán thành ý tưởng đạo đức này, nhưng cũng trong Thánh Lễ tối hôm đó, cha xứ hỏi xem có bao người sẽ tham dự buổi học Thánh Kinh thì số người giơ tay đăng ký học chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Câu chuyện trên phản ảnh thái độ “ngôn hành bất nhất” mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su dạy mọi người qua dụ ngôn “người cha mời gọi hai đứa con đi làm vườn nho”. Cả hai người con đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha nhưng sau hối hận lại đi làm; còn người con thứ hai dạ vâng rồi lại không làm.
Cũng cần phải nói ngay từ đầu là ở đây Chúa Giê-su không cổ võ sự cứng lòng từ chối rồi sau đó mới chịu hoán cải, nhưng Chúa trân trọng những ai lỡ lầm biết hối hận trở về. Mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta “đông cứng” nhưng nhìn chúng ta “đang trở thành”.
Yếu tố cốt yếu chính là sự hoán cải của con người: nghĩa là hối hận về một thái độ sai lạc và sau khi đã ý thức, con người ước muốn thay đổi. Đây là điều thấy hiện rõ trong lời Chúa: “Rồi sau anh hối hận và đi làm”.
Dụ ngôn “hai người con” này còn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói” và ‘làm’ ‘giữa nói “có” trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.
Dựa theo thái độ của hai người con trong dụ ngôn, chúng ta cùng suy tư về hai điểm:
“Ngôn hành bất nhất”
“Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”.
1. Ngôn hành bất nhất.
Dụ ngôn trước hết nhắm tới các từng lớp lãnh đạo là các thượng tế và kỳ mục Do-thái, khi Chúa Giê-su mở đầu bằng câu: “Các ông nghĩ sao?” và kết thúc: “Tôi bảo thật các ông…”
Chúa Giê-su muốn nói về những điểm khác nhau giữa những người Biệt phái và luật sĩ với những người thu thuế và những kẻ khác. Những người lãnh đạo tinh thần của Israel sống mãi trong một thái độ vị kỷ, làm họ xa Thiên Chúa. Những người này được ví như người con thứ hai, nói làm nhưng lại không làm:
Trong xã hội thời Chúa Giê-su, hàng tư tế, đầu mục, nhóm Biệt phái và thông luật tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vị phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Người.
Như các Biệt phái, có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức; lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy. Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ. Chúa Giê-su thấu suốt thâm tâm nhân loại. Một tội nhân ý thức về tội tính của mình và hối cải khi được ơn sủng đánh động, còn giá trị hơn một người mộ đạo chỉ muốn sống trong vẻ đạo đức của mình, và vì kiêu ngạo không nghe thấy tiếng gọi siêu nhiên. Hiểu như thế, dụ ngôn bày tỏ sự nghiêm trọng và thái độ cứng rắn đặc biệt đối với những ai ở bên trong…
Khi nói về các luật sĩ Do-thái, chúng ta thử nhìn lại chính mình, lắm khi chúng ta cũng chính là đứa con thứ hai trong dụ ngôn. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Có thể chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động: Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè, sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo…
Tục ngữ có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Chúa Giê-su nhấn mạnh đến đời sống đạo đức thực sự, lòng đạo đức được thể hiện qua việc làm cụ thể chứ không do lời nói suông, không qua hình thức bên ngoài. “Không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời”.
Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chứ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giê-su rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tín nhiệm. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.
2. Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại…
Ông bà ta thường nói: “Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”, nghĩa là con người có lầm lỗi to lớn thế nào đi nữa, nếu biết ăn năn hối hận thì được mọi người thương và tha thứ. Hơn nữa, ăn năn hối hận còn được có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Hình ảnh người con thứ nhất nhằm đề phòng chống lại thái độ cứng lòng trong tâm hồn, sự kiêu hãnh tôn giáo, sự an bình giả tạo bên trong và đòi hỏi chúng ta phải nghe Thiên Chúa để theo tiếng gọi của Người.
Tiên tri Ê-dê-ki-en (trong bài đọc I) cũng cảnh báo những ai cho rằng mình đã đạo đức, đã tốt rồi không cố gắng sống tốt hơn, coi chừng ngày nào họ phạm tội thì họ cũng phải chết.
Sứ điệp của Chúa Giê-su là đi tìm con chiên lạc trước chứ không phải tìm con chiên tuy không lạc nhưng lại không ở với chủ. Chúa Giê-su ưa thích hiện diện giữa người tội lỗi để tha thứ và chữa lành hơn là những người tự cho mình đạo đức không cần thống hối. Chúa Giê-su nên Ánh Sáng cho những dân đang ngồi trong bóng tối nhưng qua ánh sao lạ đã tìm đến với Người, hơn là những kẻ tưởng là đang ngồi trong ánh sáng nhưng lại thờ ơ hoặc từ chối Người. Người đến với những nơi mà người ta đem đến cho Người đủ thứ bệnh tật để được Người chữa lành, hơn là đến với những kẻ tìm đến với Người để tìm cách bắt bẻ, gài bẫy và ganh tị…
Chúa Giê-su mạnh mẽ mời gọi những ai nghe theo tiếng Người phải thống hối, biến đổi, sẵn sàng thay đổi hay hoán cải cuộc sống theo lệnh Thiên Chúa. Chỉ có sám hối nhìn nhận mình tội lỗi thì mới được hưởng ơn tha thứ; khiêm tốn nhìn nhận mình bất toàn mới được đổ đầy ân sủng. Sám hối là điều kiện đầu tiên phải có để đón nhận Tin Mừng. Cái quan trọng không phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng “không” của mình để đổi thành tiếng “vâng”. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa.
Như vậy, Chúa Giê-su đưa chúng ta về trách nhiệm của mình: Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Chúa Giê-su là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất. Bởi “không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, và không có tội nhân nào lại không có tương lai…” Con người có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Giá trị của lời nói “không” hay “vâng” không tùy vào lúc vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm. Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
Lạy Chúa Giê-su, cả hai người con trong dụ ngôn Tin Mừng hôm nay đều có thể là bài học cho chúng con: nếu chúng con giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ xin giúp chúng con nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng con giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không” với Chúa nữa. Amen.
Nói lộn làm sai, quên trước quên sau, đâu phải chỉ xảy ra nơi các cụ cao niên, chắc chắn tuổi tý TN 26-A154
Nói lộn làm sai, quên trước quên sau, đâu phải chỉ xảy ra nơi các cụ cao niên, chắc chắn tuổi tý, tuổi hợi, minh mẫn thế nào, cũng khó tránh khỏi thiếu sót, sai lầm, nếu gia đình, xã hội, không cảm thông, ở đời này, tìm đâu ra người hạnh phúc ? Biết sai để sửa, có vụng dại mới thấy cần phải rút kinh nghiệm, có thực lòng quyết tâm sống nghiêm túc, không hứa cuội, bình an và tình yêu thật mới không dừng lại ở giấc mơ. Đấng bậc khôn ngoan không thể vô tình mà nói: có thật trong lòng mới quí, nếu giả dối trong tim thì quả là đáng sợ. Cuộc sống trớ trêu, khi không đạt được hạnh phúc như ý, người ta dễ khùng dễ điên bất cứ lúc nào: không được ăn thì đạp đổ, hoặc giận cá chém thớt !
Để cho thấy trò giỏi con ngoan là ai, mỗi người phải chứng minh được thế nào là năng lực, là vâng lời trọng hơn của lễ. Để tình yêu sống động, có tính thuyết phục, giữa việc làm và lời nói của ta không thể dừng lại trên đầu môi trót lưỡi. Câu truyện 2 người con mà Đức Giêsu nói đến hôm nay, phản ánh nỗi trống vắng giữa tình cha con: từ chối rồi lại vâng, gật đầu rồi để đó, rồi lại quên ! Trong tình yêu, 2 từ vâng, dạ, không thể thiếu, trong hành động, lời hứa không thể thay cho việc làm. Sống vu vơ để cha mẹ cười hay khóc, không khó, làm cho cha mẹ hạnh phúc mới là khó, tương tự như trong chuyện tình: mê say một người thì dễ, yêu người đó thật lòng mới khó.
Thực ra thì thật lòng, thật tình, cũng là cách diễn tả hạnh phúc thật mỗi người đang tìm kiếm, mong chờ, khi đã nỗ lực cậy trông, đã gắn bó hết sức với những điều kiện ta đang có. Sống thật lòng, thật tình, nhất định sẽ xoá được những nghi ngờ không đáng xảy ra mà thế gian hay nói tới: nỗi khổ của người vợ là có chồng lười biếng, nỗi khổ của người chồng là có vợ đua đòi. Kinh nghiệm trường đời cho thấy: người chăm chỉ là người có phong cách sống giản dị, luôn nhiệt tâm nhiệt với việc được giao, người có niềm tin vào Đấng họ tin thờ, họ sẽ cảm nhận rõ hơn về sức mạnh và tinh thần lạc quan phục vụ. Người cha sẽ vui biết bao, khi 2 con trai của ông thật lòng, thật tình với việc được giao, gia đình sẽ hạnh phúc, tương quan xã hội sẽ phồn vinh, khi không có cảnh nói trước quên sau, mà mỗi người sẽ biết sống có trách nhiệm.
Người cha thật lòng thật tình với con cháu, đâu phải là điều khó hiểu, người con có nghe, có nhận ra, đi làm, đi lao động, là được chung tay xây dựng một gia đình hạnh phúc có nền tảng, phận làm con phải ý thức được điều đó. Người con thứ nhất, thưa không rồi lại có, người con thứ hai, vâng dạ rồi quên, rồi không làm ! Cơ hội để sửa sai, điều kiện để nhận biết tình yêu thương của cha, 2 người con, và tất cả những ai đang sống vô tâm, vô tình, đều có thể suy xét trở về với tình thương cha mẹ, với Thiên Chúa Đấng ta tin thờ. Việc tin Chúa, sống đạo, sống đức tin hôm nay, đâu còn ai nghĩ là để lấy tiếng khen, sợ cha mẹ buồn, sợ cha xứ và giáo hội không vui, vì vậy, ý thức sống thật với lòng mình, sống thật với lời nói việc làm, quả là cần thiết.
Không cần phải có đầu óc “bác học”, người bình thường thôi cũng đủ hiểu: miệng nói hay mà tay không làm, gật đầu thật nhiều mà tay không lay thử, thì có khác gì nước đổ đầu vịt ? Hứa cho nhiều rồi lại quên, biết nói cao siêu thâm thuý, biết cả tâm tính xấu xa của mình, thế mà không quyết tâm sửa, cuộc đời sẽ ra sao, gia đình, xã hội, rồi sẽ đi về đâu ? Đầu to mà óc như quả nho, hay nhỏ mà có võ, vẫn là những từ ngữ người trẻ hôm nay thích dùng, dù lời không tuỳ mị, cũng có ý nhắc nhớ chăm học, chăm làm, sống thật tình, sống thật lòng, để không ai bị tiếng là đạo hình thức. Nói mà không làm, nói nhiều làm ít, xưa hay nay, xã hội vẫn hiểu đó là căn bệnh: nói một đàng, làm một nẻo, chỉ là phô trương, cưa bom, đốt pháo, … nếu tự mỗi người không quyết tâm sửa, mức độ lây lan sẽ nguy hiểm không phải chỉ nơi gia đình.
Đồng ý rằng: khéo mồm miệng đỡ chân tay, hay làm trời cho, hay lo khó ngủ, tuy nhiên, khôn khéo là cách thế gian diễn tả, sự thật, sống thật, lúc nào, cũng phải được quan tâm, nếu theo Chúa. Thật đáng tiếc, nếu có tật mà không biết, có lỗi mà không sửa, được nhắc bảo vấn đề thiếu sót, mà cố chấp, tuỳ theo mức độ, nguy cơ mất mạng không phải là không xảy ra. Có vâng dạ đấng bậc sinh thành, có kiểm soát được lời ăn tiếng nói, mới hy vọng nhận biết con người thật của mình. Người môn đệ, người tín hữu theo Đức Kitô trọn vẹn nhất, trước hết phải là người không mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, biết thưa vâng, cũng phải biết thực hành ý Chúa. Chỉ dạy con cháu gọi dạ bảo vâng là cần thiết trong các tương quan, thì cũng phải lưu ý ta nên sống thật lòng, thật tình, như là một phần quan trọng của gương sáng cho thế gian, dù là bề trên bề dưới đều phải tuân thủ. Amen.
Cuộc sống vàng thau lẫn lộn, rất khó mà phân định đúng đắn nếu dựa vào những tiêu chuẩn và TN 26-A155
Cuộc sống vàng thau lẫn lộn, rất khó mà phân định đúng đắn nếu dựa vào những tiêu chuẩn và hình thức bên ngoài. Thấy vậy mà không phải vậy. Để phân biệt hai hạng người tốt – xấu; thật – giả, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn: “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi. Người con thứ hai nhận lời ngay nhưng rồi lại không đi.
Ðứa con thứ nhất tượng trưng cho những người thu thuế và tội lỗi, những người xa lạc và ngoại giáo, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Ðời sống của họ không đẹp đẽ gì mà còn gây nên một thực trạng đáng buồn cho đời sống xã hội. Thế nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ ý thức để sống khiêm tốn, và thực tâm hoán cải trước lời mời gọi sám hối của Gioan. Họ là những người thiếu nhiều hiểu biết về đời sống tôn giáo, nhưng điều Chúa cần nhất là sự mềm mại của con tim để được biến đổi. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Ðức Giêsu và đón nhận được ơn cứu độ trước nhiều người khác.
Đứa con thứ hai tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo, những người tự cho mình là đạo đức, và sống công chính theo Lề Luật. Sự chủ quan và ảo tưởng đó đã làm cho họ tự mãn và khép kín, thấy mình không cần sám hối, nhất là việc sám hối đòi phải tin vào Ðức Giêsu. Điều đó làm cho họ sợ phải mất đi địa vị và quyền lợi, sợ phải thay đổi lối sống đạo. Vì thế, họ chỉ thưa “vâng” bằng lời nói, chứ không muốn “vâng” bằng việc làm. Nhưng tiếc thay, “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” (Gc 2, 17). Giá trị đích thực của một con người không phải ở lời nói mà ở việc làm; không phải là lý thuyết mà là hành động; không phải nói cho thật hay mà làm cho thật tốt.
Kể dụ ngôn xong, Chúa Giêsu kết luận:“Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời của Ðức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, và nhóm pharisêu. Phải chăng Chúa muốn lời cảnh cáo đó để may ra cảnh tỉnh được những tâm hồn đã khô cứng, vì tự ái và kiêu căng mà không muốn đón nhận chân lý. Dựa vào Lời Chúa, Đức Gioan Phaolô I cũng nói lên rằng:“Trên thiên đàng không thiếu những người thu thuế và gái điếm, nhưng chắc chắn không có kẻ kiêu ngạo”. Phải chăng kẻ kiêu ngạo không còn khả năng sám hối để sống theo Lời Chúa, không còn khả năng để cảm nhận và đón nhận tình yêu?
Dụ ngôn tuy đơn giản và vắn gọn, nhưng cho thấy điều cốt yếu trong việc sống đạo hay sống đức tin: là thực hành Lời Chúa dạy. Vì không phải nói “Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời” (Mt 7,21). Không thể dựa vào việc chu toàn những nghi lễ bên ngoài hay một số hình thức luật lệ nào đó là xong. Điều quan trọng không phải là có đạo nhưng là có Chúa; không phải giữ đạo mà là sống đạo, không chỉ là tuyên xưng đức tin mà là sống đức tin.
Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Con đường của Kitô hữu ở chỗ hành động chứ không phải hứa hẹn; ở chỗ thực hiện chứ không phải nói hay. Tuy nhiên, Chúa vẫn muốn chúng ta có một sự vâng phục trọn vẹn từ lời nói đến việc làm, “ngôn hành như nhất” như tiếng “xin vâng” của Đức Maria, với cả đức tin và lòng mến.
Đời sống chúng ta vẫn có sự giằng co giữa “vâng” và “không”, giữa ý mình và ý Chúa, giữa sự vươn lên của tinh thần và ghì xuống của thân xác. Sự giằng co nói lên thân phận yếu đuối của con người, đã từng ngã nghiêng trong cuộc sống, nhưng cũng là một thao thức muốn vượt qua tình trạng của bản thân. Tuổi trẻ là như thế, nhưng luôn có thể hơn thế, bằng sự quảng đại và nhiệt tình dấn thân cho Nước Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Trước một thế giới bạo lực và ích kỷ, nhiều khi chúng con cũng thất chí, vì thấy cuộc đời sao vô lý, nên khép kín và tìm chỗ cách ly.
Chúng con có vẻ như đang kết nối, nhưng thực sự là củng cố “cái tôi”, cho dù đang phục vụ trong Giáo hội, nhưng bó hẹp trong nội bộ mà thôi.
Chúng con quên ơn gọi của chính mình, là đức ái trong gia đình trước hết, nhưng đồng thời giữa cảnh đời xã hội, phải dấn thân cho cuộc trần đang trôi nổi, dám thay đổi theo đường lối của Tin Mừng.
Chúng con cần ra ngoài nhóm bạn thân, để xây dựng tình bạn hữu với mọi người, tránh mọi hình thức phân biệt và kỳ thị, để tìm kiếm công ích và cổ võ công lý, làm nên những điều cao quí cho nhau.
Xin cho chúng con có tinh thần tham gia, từ công việc nhà đến công việc giáo xứ, từ việc cá nhân đến việc của cộng đoàn, đừng coi mình như người ngoài cuộc, nhưng thấy mình luôn có trách nhiệm, sống tình liên đới với tất cả trái tim, luôn tích cực góp phần trong mọi việc, từ vấn đề sinh thái đến bảo vệ thiên nhiên, từ gìn giữ tài nguyên đến môi trường sạch đẹp.
Xin cho chúng con hòa mình vào xã hội, với sự nhiệt tình, sáng kiến và tự nguyện, để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, thế giới văn minh, công bình và huynh đệ, chứ không sống theo chủ nghĩa “mặc kệ”, kẻo trở nên nô lệ cho chính mình.
Xin cho con thấy Đức Kitô đang sống, đang hoạt động nơi mọi người thiện chí, để con đem tâm trí mà sáng tạo cho đời, làm đẹp mới cho bầu trời nhân loại.
Đừng để con bàng quan nhìn cuộc sống, mà hãy nhập cuộc với tâm thế hiệp thông, dám sống như Đức Kitô đã từng sống, trở nên con người như Chúa vẫn ước mong. Amen.
Tin Mừng Chúa Nhật này tuy tiếp tục nói về vườn nho, nhưng không đặt vấn đề thời gian làm TN 26-A156
Tin Mừng Chúa Nhật này tuy tiếp tục nói về vườn nho, nhưng không đặt vấn đề thời gian làm việc, lương bổng, và đặc biệt không gọi “người làm vườn nho” là “công nhân, người làm” nữa, nhưng gọi là “Con”, và trọng tâm của dụ ngôn chính là hai người con được mời gọi đi làm vườn nho của Cha mình.
Chúng ta thấy cung giọng của Tin Mừng hôm nay hoàn toàn thay đổi khi tương quan Cha – Con, liên đới gia đình thay thế “thứ bậc” ông chủ – người làm công, lời mời thay cho lệnh, tự do thay “giao kèo, hợp đồng”, nên không còn cảnh kèo nhèo, phân bì, khiếu nại tiền công cuối ngày của đám thợ nghĩ mình bị chủ bóc lột, ăn chặn, xử ép bất công.
Hai người con được cha mời gọi đi làm vườn nho, và cả hai hoàn toàn tự do chấp thuận hay từ chối, toàn quyền quyết định đi hay không đi, và việc vào làm vườn nho không mang tính cách của một hình phạt, án khổ sai, hay công việc dành cho tôi tớ, nhưng là vinh dự chỉ dành cho con cái, và trách nhiệm đương nhiên của người thừa kế gia nghiệp.
Người con thứ nhất ban đầu không muốn đi đã thẳng thắn trả lời Cha: “Con không muốn”. Nhưng anh suy nghĩ lại và hối hận, nên lại đi theo như ý muốn của Cha. Trái ngược với người thứ nhất, con thứ hai đã năng nổ ban đầu, nhưng rồi lại không đi.
Hình ảnh này ngôn sứ Êdêkien đã loan báo khi nói về người công chính và không công chính trong dân Ítraen: Các ngươi lại nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng”. Vậy hỡi nhà Ítraen hãy nghe đây: Phải chăng đưòng lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,25-27).
Ngôn sứ nhấn mạnh: đường lối của Thiên Chúa không sai, nhưng sai là do con người có tự do đã từ chối thực hiện đường lối thánh thiện, tốt đẹp của Thiên Chúa, như người Cha đã mời gọi cả hai con cùng vào vườn nho, nhưng quyết định vào hay không tùy thuộc lựa chọn và quyết định tự do của mỗi người.
Đức Giêsu, trong Tin Mừng Mátthêu, khi đưa ra dụ ngôn “hai người con” đã không chỉ nói chung chung, nhưng trực diện và trực tiếp nói với những kinh sư, Pharisêu, và toàn thể giai cấp lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ cái sai của họ, vì họ không tin Ngài. Sở dĩ không tin Ngài, vì họ không thể dứt ra khỏi cơ cấu của truyền thống, không thể gỡ mình khỏi ràng buộc của cơ chế lề luật để tâm hồn mở rộng đón nhận Tin Mừng, trái tim mở cửa đón tiếp Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Họ là những người “vị Lề Luật”, sùng bái, tôn thờ Lề Luật nên không ra khỏi não trạng vâng phục Lề Luật cách mù quáng, mà chỉ muốn ở lỳ trong “vòng chi ly, tỉ mỉ của Lề Luật”, nên đã không để Đức Giêsu dẫn vào con đường đức tin, khi từ chối tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Chính vì khép kín, lại kiêu căng, ương ngạnh, họ vô tình đánh mất chỗ tốt nhất mang lại nhiều lợi nhuận nhất là chỗ của người có tội, chỗ của những người thu thuế gian tham, chỗ của những cô gái điếm buông thả, lăng loàn, chỗ của phường lưu manh, trộm cướp, nhưng tất cả những người tưởng bị loại bỏ này đã không từ chối con đường Cứu Độ Thiên Chúa mở ra mời gọi, khi họ đặt niềm tin vào Đức Giêsu, như Đức Giêsu đã qủa quyết: “Tôi bảo thật các ông: những ngưòi thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin” (Mt 21,31-32).
Như thế, then chốt của vấn đề, đáp án của nan đề là tin vào Đức Giêsu, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã trân trọng loan báo và giới thiệu với đám đông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Và đó là ý muốn của Thiên Chúa, nên tin Đức Giêsu là Đấng xóa tội, tội lỗi của tội nhân sẽ được Máu Ngài tẩy xóa, rửa sạch ; tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ nhân hậu, giầu lòng thương xót, thân phận yếu đuối, tội lụy, bất xứng của người có tội sẽ được thương xót, chữa lành. Cũng vậy, Nước Trời sẽ chỉ dành cho những ai đặt niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, nên bất cứ ai, dù tội lỗi nhưng tin vào Ngài chắc chắn sẽ được Ngài cứu độ, và ban phần thưởng thiên đàng.
Vâng, Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta noi gương Ngài vâng phục trong Tình Yêu “cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cậy thập tự” để từ vâng phục, chúng ta đi đến đức tin, khi tin “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,8.11), bởi vâng phục mà thiếu tình yêu, dù là vâng phục Lề Luật, chúng ta sẽ như người con thứ hai nhanh nhẩu trả lời Cha “Con đi ngay”, nhưng lại không đi, vì chỉ vâng phục trong Tình Yêu và với Tình Yêu, chúng ta mới đi đến cùng con đường Thiên Chúa muốn chúng ta đi, mới có thể thực hiện Ý Muốn của Thiên Chúa khi tin vào Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Mỗi ngày, khi ngồi nhìn lại chính mình, ta phải đấm ngực vì bao lẫm lỗi. Ta đã hứa hẹn và rồi TN 26-A157
Mỗi ngày, khi ngồi nhìn lại chính mình, ta phải đấm ngực vì bao lẫm lỗi. Ta đã hứa hẹn và rồi cũng có khi ta thất hứa. “Thất hứa” là một hòn đá cản lối trong tương quan, ta chẳng muốn bị nó ngáng chân nhưng đã bao lần vì nó mà ta vấp ngã, mất chữ tín với người anh em và với chính Chúa. Hôm nay, Thầy Giêsu mời gọi ta nhìn lại đời sống của chính mình. Ta là ai trong hai người con được cha sai đi làm vườn nho? Làm sao để ta có thể giữ lời hứa?
Lời hứa chỉ thật sự có giá trị khi nó được biến thành hành động cụ thể. Mau mắn đáp lời xin vâng là điều rất tốt nhưng chưa đủ, ta phải sẵn sàng để thi hành bổn phận đến cùng, không lùi bước khi gặp những trở ngại. Cũng có những khi ta lỡ từ chối một công việc nào đó nhưng khi nhìn lại và thấy hối hận, ta hãy can đảm để sửa sai. Có lẽ chẳng có ai muốn mình bị khiển trách như người con thứ: hứa mà không làm, vâng dạ rồi để đó. Người con đầu được cha sai đi làm vườn nho, anh từ chối ngay: “Con không muốn đâu!” (Mt 21, 29). Cuộc sống của ta cũng thế, có rất nhiều điều ta không muốn làm, có khi ta dám từ chối ngay nhưng cũng có khi vì nể nang mà ta hứa hẹn. Có nhiều công việc đòi hỏi ta phải hy sinh nhiều hơn, chịu vất vả hơn, những việc không phù hợp với sở thích của ta, những việc nằm ngoài khả năng của ta, và những khi ta mắc phải “bệnh lười”, vì thế ta từ chối thực hiện những việc được mời gọi. Có khi, ta lỡ từ chối một cơ hội làm việc tốt và có ích cho ta, điều ấy làm ta tiếc nuối. Những giây phút nhìn lại là những giây phút rất quan trọng, bởi nó giúp ta có thể suy nghĩ về những quyết định và hành động của bản thân. Khi nhìn lại, ta sẽ thấy cả những sai lầm của chính mình, nhìn lại để cho tiếng lương tâm lên tiếng. Lắng nghe tiếng lương tâm, ta sẽ tìm lại được điều đã mất bằng cách sám hối và sửa đổi lỗi lầm. Như người con đầu, ta hãy đi làm việc cha mời gọi, đừng ngại ngần vì trước đó ta đã lỡ từ chối. Nếu ta đã hứa mà không thể thực hiện vì một khó khăn nào đó ta gặp phải, yếu tố ấy nằm ngoài dự đoán của ta, hãy trình bày thật rõ sự việc với người có trách nhiệm để được giúp đỡ. Hứa với ai điều gì ta hãy cố gắng giữ lời hứa. Đừng biến mình thành kẻ hay thất hứa, vì nếu ta thất hứa nhiều lần thì làm sao người khác có thể tín nhiệm ta nữa.
Việc sống Lời Chúa không chỉ dựa trên lời nói nhưng phải đẩy đến chỗ hành động. Sống Lời Chúa không hề dễ dàng vì nó đòi hỏi ta phải dâng hiến tự do của bản thân ta. Thiên Chúa cho ta có quyền tự do chọn lựa: tuân phục hay từ chối tuân phục. Những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được liệt vào hàng tội lỗi nhưng khi được ông Gioan Tẩy Giả chỉ đường, họ đã sám hối và tin. Họ đã thay đổi đời sống của mình. Chúa Giêsu đã nói với các thượng tế và kỳ mục rằng: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” ( Mt 21,31b-32). Khi nghe những lời ấy, ta cảm nhận được nỗi buồn của Thầy Giêsu trước thái độ cứng lòng của các thượng tế và kỳ mục. Thiên Chúa là Đấng hằng xót thương ta, Người biết rõ ta vốn yếu đuối và lầm lỗi, Người đang chờ đợi ta sám hối từng ngày. Hãy có lòng khiêm tốn để đến với lòng thương xót của Thiên Chúa, để được Người biến đổi lòng ta.
Lạy Chúa Giêsu! Khi con cứ mãi yếu đuối và lầm lỗi, Người có buồn con không? Mỗi lần con bất lực không thể đứng dậy sau khi vấp ngã, con cứ mãi thất hứa với Người, Người có còn thương con không? Chúa biết con cần Chúa mãi mãi, mãi mãi con cần Chúa. Xin ban ơn cho con biết khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của chính mình, biết sám hối sau mỗi lần vấp ngã và biết đặt trọn niềm tin yêu phó thác vào Chúa. Chúa vẫn dành cho con một con đường để trở về, xin Người dẫn con đi trên con đường ấy. Amen.
Khi yêu nhau, người con gái thường nói ngược lại điều họ mong muốn. Vì thế, có một kết luận TN 26-A158
Khi yêu nhau, người con gái thường nói ngược lại điều họ mong muốn. Vì thế, có một kết luận rằng: “Con gái nói không là có, con gái nói có là không”. Và rồi trong cuộc sống thường ngày, đâu đó, bản thân chúng ta vẫn có những lời nói như vậy. Chúng ta không muốn làm hay cũng chẳng muốn ăn, nhưng sau đó chúng ta lại đi làm hay đi ăn. Cũng có người miệng luôn một dạ hai vâng khi được trao việc, nhưng sau đó lại không làm hoặc nhờ người khác làm giúp. Bên cạnh đó, có không ít người sống và làm đúng với những gì mình đã nói ra và đã hứa với người khác. Vậy giữa những người này, bạn thuộc tốp người nào?
Hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các Thượng tế và Kỳ mục trong dân dụ ngôn “hai người con”. Cả hai người đều được cha sai đi làm vườn nho. Người hỏi họ: “Trong hai người đó, ai là người thi hành ý muốn của cha?” (x. Mt 21, 31). Khi được cha mời gọi: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (Mt 21, 28), người con đầu vì không muốn làm nên anh trả lời thật với cha: “Con không muốn” (Mt 21, 29). Sau đó, anh lại hối hận vì lời mình đã nói với cha nên đã đi làm. Thái độ hối hận rồi đi làm của anh cho thấy anh là một người biết suy nghĩ phản tỉnh, biết khiêm tốn nhận ra lỗi và can đảm sửa lỗi. Anh là người có khả năng làm việc cha giao và hoàn thành tốt. Hơn hết, anh nhận ra bổn phận, trách nhiệm của mình trong gia đình. Còn người con thứ hai, anh nhanh nhẹn đáp lời: “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21,30). Nhưng, anh lại không đi làm. Phải chăng, đây là câu cửa miệng hằng ngày của anh nên anh không ý thức đủ khi được cha mời gọi. Anh nhận ra mình không đủ sức để làm hoặc đang vướng vào việc khác chăng? Có thể, anh thấy cha đang cần người làm mà người anh trai đã từ chối nên anh lên tiếng xin vâng. Dầu vậy, anh vẫn bị coi là người con không vâng lời cha. Vì thật sự, anh không đi làm việc đã nhận từ cha. Nếu anh biết đến xin lỗi với cha là anh không thể làm việc cha trao thì anh sẽ không bị cha khiển trách.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người hãy luôn thi hành ý Chúa hơn là chỉ nghe suông, nói suông. Ngài cũng để tâm đến những ai biết nhận lỗi và sửa lỗi. Ngài nói rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Trời trước những người chỉ nói mà không làm (Mt 21,31) vì những người thu thuế và gái điếm có thái độ sám hối và tin vào lời mời gọi của Chúa. Họ biết từ bỏ con đường tội lỗi và bắt đầu lại từ đầu trong tình yêu Chúa. Trong tình yêu Chúa, họ thật sự được trở về vị trí của một người con và được hưởng những gì họ được hưởng (x. Lc 15, 11-32). Thánh Phaolô – người môn đệ theo Chúa cũng đã nói: “Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp người ta, nhưng như nô lệ của Đức Kitô, đem cả tâm hồn thi hành ý Chúa” (Ep 6,6).
Lời Chúa hôm nay giúp cho bạn nhận ra điều gì nơi mình? Bạn sẽ thực hiện như thế nào cho chính bản thân mình?
Lạy Chúa! Chúa thấu rõ tâm can con. Xin Chúa cho con biết ý thức trong lời nói của mình và biết thống nhất lời nói và hành động, cùng có tinh thần sám hối trong mọi lỗi lầm. Nhờ đó, con luôn sống theo thánh ý Chúa và xứng đáng là người con hiếu thảo. Amen.
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Có những chọn lựa đưa ta đến bình an, vui mừng, hy vọng TN 26-A159
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Có những chọn lựa đưa ta đến bình an, vui mừng, hy vọng; nhưng cũng có những lựa chọn khiến ta mất bình an, gây xáo trộn, đổ vỡ ngay trong tâm hồn, trong tương quan. Tại sao vậy? Đó là một cuộc chiến đấu trong ta. Khi chọn lựa theo sự dễ dãi của bản năng, ta khó có thể gặp được an vui, hạnh phúc. Nếu có thì cũng chỉ là giả tạo, mau qua! Ngược lại, khi ta chọn nghe theo tiếng lương tâm, sự thúc đẩy của Thiên Chúa, ta sẽ có được bình an thật, mặc dù ngay khi chọn lựa, ta sẽ gặp phải sự chống đối, mất lòng… Hạnh phúc Nước Trời được xây dựng dựa trên những chọn lựa của lương tâm. Đó là tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý. Thiên Chúa mời gọi ta đáp lời Ngài qua những chọn lựa như vậy.
Thiên Chúa là người cha yêu thương, nhân từ và luôn muốn điều tốt nhất cho ta. Mỗi ngày, Ngài vẫn đến bên và thầm thĩ mời gọi ta: “Này con, hôm nay, con hãy làm vườn nho” (Mt 21,28). Ta tự hỏi, làm việc trong vườn nho là làm những gì? Phải chăng là chu toàn tốt những công việc ta được trao phó? Còn hơn thế nữa! Đó là lời mời gọi ta hãy không ngừng sống yêu thương trong môi trường chúng ta đang hiện diện. Nơi ấy chính là vườn nho và công việc của ta là làm cho tình yêu của Cha được lan tỏa đến với hết mọi người. Đó là một thách đố đòi buộc ta sống “ăn ngay ở lành”, nghe theo tiếng lương tâm, làm ơn cho kẻ ghét ta, đi bước trước đến với tha nhân để gửi trao yêu thương… Thiên Chúa mời gọi ta làm việc trong vườn nho của Ngài với tư cách là một người con. Người con có đủ tự do để nói “có” hoặc “không” trước lời mời gọi của cha mình. Bởi vậy, ta thường nhân danh “tự do” mà không ít lần làm trái ý Cha. Đó là những lần ta chọn làm theo bản năng, ham muốn tự nhiên, lợi ích trước mắt cho bản thân, chạy theo những thú vui giả tạo.
Dân gian có câu: “Thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt”. Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống theo các giáo huấn của Giáo hội, đặc biệt là qua lời dạy của Đức Giêsu Kitô – Con Một Thiên Chúa. Nhiều lúc, ta bị giằng co giữa hai đàng: một là tiếng nói của bản năng, lợi ích thế gian, hai là tiếng nói của Thiên Chúa qua lương tâm. Có lúc, tiếng nói của bản năng rất mạnh mẽ, cuốn hút còn tiếng nói của lương tâm thì nhẹ nhàng, khó hiểu. Có lúc, cả hai đều mạnh mẽ khiến ta phân vân, và trong ta là “một cuộc chiến đấu cam go”. Như thánh Phaolô từng nói: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,19). Chẳng hạn, trong thi cử, nếu xem tài liệu, điểm ta sẽ cao; còn nếu không xem, ta có thể sẽ bị rớt môn. Hay khi sống giữa một nhóm người chủ trương “lợi nhuận”, bất chấp thủ đoạn, không cần quan tâm đến sức khỏe của người khác, ta có dám đi ngược lại chủ trương đó? Nghĩa là ta chấp nhận mức lợi nhuận thấp, sản xuất hàng hóa sạch, chất lượng, tuân thủ các quy tắc an toàn sức khỏe của mọi người. Khi sống sự công chính, thanh liêm, có thể ta sẽ bị thua thiệt, không giàu có như người khác nhưng đổi lại ta sẽ có được sự bình an đích thực, hạnh phúc Nước Trời đang chờ đợi chúng ta. Và khi sống được như vậy, ta đang xây dựng hạnh phúc cả đời này và đời sau. Đó cũng là một trong những công việc ta cần làm trong vườn nho của Chúa. Lời mời gọi Thiên Chúa dành cho chúng ta là “hôm nay”. Nếu ta đã lỡ từ chối Ngài một điều gì đó, ta hãy hối hận như người con thứ nhất và hãy quay lại thực thi điều Cha muốn. Hơn nữa, “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27).
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha đã luôn yêu thương, tin tưởng và mời gọi chúng con làm việc trong vườn nho của Cha. Xin Cha ban ơn giúp sức để chúng con biết sử dụng tự do Cha ban mà mau mắn đáp lại lời mời gọi của Cha trong từng biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Đồng thời, xin cho chúng con luôn biết ăn năn sám hối trở về cùng Cha sau những lần vấp ngã. Vì chúng con tin rằng Cha luôn chờ đợi để ôm chúng con vào tình yêu của Cha.Amen.
Trong mỗi người, ai cũng có kinh nghiệm khi sai lỗi, chúng ta thường cảm thấy áy náy, bứt rứt TN 26-A160
Trong mỗi người, ai cũng có kinh nghiệm khi sai lỗi, chúng ta thường cảm thấy áy náy, bứt rứt. Có một tiếng nói luôn vang lên trong ta, nó hối thúc ta suy nghĩ về những lời nới, hành động ta đã làm.Tuy tiếng nói ấy nhẹ nhàng nhưng âm đi âm lại, dù đã qua một thời gian dài nhưng vẫn tồn tại trong ta cho đến khi ta thực sự suy nghĩ và nhận biết về hành động của mình và lựa chọn lại để nên tốt hơn. Đó là tiếng nói của lương tâm.Thật kỳ diệu! Đó là một hồng ân lớn lao, tuyệt diệu mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận đáy lòng mỗi người. Nhưng làm sao để nghe được tiếng nói ấy? Khi nghe được, ta sẽ hành động như thế nào?
Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa dành cho con người-tiếng nói của thần linh. Để nghe được tiếng nói ấy, ta cần phải thinh lặng, bỏ qua những ồn ào, những bận rộn và những toan tính khác nhau trong con người mình. Trong cuốn sách “Sức mạnh của sự thinh lặng” tác giả có khẳng định: “Thiên Chúa là sự thinh lặng, Ngài nói trong thinh lặng và thinh lặng là điều cần để gặp Ngài”. Nhìn lại trong thinh lặng, chúng ta có thể nhận định rõ điều chúng ta đang chọn, đang làm và điều phải hướng tới với trách nhiệm, bổn phận trong tình yêu. Với kinh nghiệm của người con thứ nhất, ban đầu anh từ chối không đi “nhưng sau đó, anh hối hận nên lại đi” (x. Mt 21, 29). Qua một khoảng thời gian “sau đó” anh đã chọn làm điều tốt hơn. Thời gian “sau đó” là một khoảng lặng. Sau khi trả lời cha, anh đã để cho tâm hồn mình lặng lại và anh đã đáp lại tình yêu của cha qua việc anh đã đi làm vườn nho. Thinh lặng sẽ giúp chúng ta nghe rõ hơn tiếng nói của Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta qua từng lời nói, từng công việc. Chúng ta hãy sống chậm lại, dành thời gian thinh lặng, hít một hơi thật sâu để cảm nhận tiếng nói thần linh đang thầm thĩ với ta.
Khi nghe được tiếng nói ấy, chúng ta hãy mau mắn làm theo. Người con thứ nhất sau khi đã hối hận, anh “lại đi”. Phải chăng anh đã nghe được tiếng nói của tình yêu vang lên trong anh? Tình yêu ấy là tình yêu của người cha dành cho anh. Thiên Chúa cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta: “Hãy đi làm vườn nho cho Ta”. Làm vườn nho chẳng gì khác hơn là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa – làm chứng cho Tin Mừng ngay giữa trần gian này. Với sức riêng của ta, điều ấy thật khó! Bởi trong chúng ta sẽ luôn xảy ra sự mâu thuẫn, chọn để được lợi ích cá nhân hay hướng đến Thiên Chúa và tha nhân? Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4). Mỗi khi thực hiện như vậy, chúng ta sẽ trở nên giống Chúa Kitô hơn và được trở nên người con quý mến của Chúa Cha. Vậy chúng ta đừng chần chừ nữa nhưng hay bắt đầu làm vườn nho cho Chúa ngay từ giờ phút này, tại nơi chúng ta đang hiện diện bằng những lời nói, suy nghĩ, những cử chỉ yêu thương.
Lạy Cha! Chúng con đã nhiều lần từ chối lời mời gọi Cha dành cho chúng con. Xin Cha tỏ lòng thương xót cùng giúp chúng con biết hoán cải mỗi ngày. Nhờ việc, chúng con đi vào sự thinh lặng để nghe thấy lời mời gọi của Cha ngay trong tâm hồn, để mỗi ngày chúng con biết sống tâm tình con thảo đối với Cha khi mau mắn vâng nghe và thực thi điều Cha mời gọi. Amen.
Chàng thanh niên bước vào siêu thị tìm mua mấy thứ cần dùng, vài phút sau anh nhận ra một TN 26-A161
Chàng thanh niên bước vào siêu thị tìm mua mấy thứ cần dùng, vài phút sau anh nhận ra một phụ nữ lớn tuổi đang chăm chú nhìn mình. Không để tâm nhiều đến ánh mắt ấy, vì anh còn nhiều việc phải làm. Khi đến quầy tính tiền, thấy người đàn bà lúc nãy đang đứng đợi, anh lịch sự nhường cho bà xếp hàng trước. Người phụ nữ cười buồn:
– Xin cảm ơn. Tôi thành thật xin lỗi vì đã làm cho cậu khó chịu. Thú thực, trông cậu rất giống con trai tôi, nó mới qua đời cách đây vài tháng.
Động lòng trắc ẩn trước người phụ nữ đáng thương, chàng trai đáp:
– Cho con chia buồn, con có thể làm gì để giúp má?
Người đàn bà vui hẳn lên:
-Khi còn sống, con trai thường đi sắm đồ chung với má, nếu phải chia tay, bao giờ nó cũng nói: “tạm biệt má.” Con có thể nói như thế để ta vơi nỗi buồn không?
Không cần suy nghĩ, chàng thanh niên trả lời:
– Ồ! Con sẵn sàng làm tất cả để má vui.
Chàng trai giúp người phụ nữ bỏ các món hàng vào túi, trước khi bà bước ra cửa, anh đưa tay chào:
– Tạm biệt má!
Người phụ nữ quay lại cười thật tươi và gật đầu. Khi nhận hóa đơn, anh vô cùng ngạc nhiên vì thấy số tiền phải trả là 1.500.000đ, nên hỏi:
-Xin lỗi, cô có tính nhầm không? Những món hàng tôi mua chỉ đáng giá khoảng 400.000đ.
Nhân viên thâu ngân trả lời:
– Người phụ nữ hồi nãy nói anh là con và sẽ trả tiền cho bà.
Câu chuyện nghe thật buồn! Người đàn bà bịa ra chuyện thương tâm và dùng lời ngon ngọt để lừa dối chàng trai tốt bụng. Những chuyện tương tự như thế vẫn xảy ra hàng ngày trong mọi ngõ ngách cuộc sống hôm nay.
Giữa đời thường, có hai hạng người: nói nhiều hơn làm, hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả; làm nhiều hơn nói, không hứa hẹn, không ba hoa khoác lác, nhưng làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Ai cũng thích hạng người thứ hai vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
***
Trang Tin Mừng hôm nay kể dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha và đáp trả với hai thái độ khác nhau.
– Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và người tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm và tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
– Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha, nhưng sau đó nó lại không đi làm vườn theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư và Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Nó có thái độ “ngôn hành bất nhất“, “nói mà không làm“, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một lối sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống. Kể dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
Nói ít làm nhiều. Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
Nói nhiều làm ít. Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).
Nói và làm, hai thái độ sống Sau câu hỏi, Chúa Giêsu tuyên bố một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Các Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe Lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối ăn năn.
Có hạng người nói mà không làm và hạng người làm mà không nói.
Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Những bài học Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.
Việc làm quan trọng hơn lời nói. Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Hãy làm một cách khiêm tốn. Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy“.
Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. . . Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. . . Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. . . Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen
Dụ ngôn người cha nói với hai người con đi làm vườn nho là dụ ngôn nói về Thiên Chúa sai Kitô TN 26-A162
Dụ ngôn người cha nói với hai người con đi làm vườn nho là dụ ngôn nói về Thiên Chúa sai Kitô hữu đi làm nhân chứng Tin Mừng. Trong dụ ngôn này nhắc đến hồi tâm, thống hối trở về củng Chúa là điều cần thiết. Hồi tâm bắt đầu bằng việc lắng nghe lời Chúa, từ đó dẫn đến hồi tâm thống hối, ăn năn. Thống hối ăn năn bằng cách từ bỏ nếp sống cũ, bắt đầu nếp sống mới, đặt căn bản trên lời Chúa, yêu thương, tha thứ, giao hoà. Đức Kitô nói với lãnh tụ Đền Thờ vào giới Trưởng Lão về dụ ngôn hai người con. Theo truyền thống chuyện hai người con trong Cựu Ước luôn là những chuyện bi thương, đau khổ. Thí dụ như hai anh em Cain và Abel là chuyện anh em giết nhau. Chuyện Giacóp và Esau là chuyện tranh giành vật chất, thế lực.
Chuyện Giuse và các anh ông là chuyện ghen tị. Đức Kitô hỏi các vị lãnh đạo Đền Thờ và giới Trưởng Lão, người con nào làm theo lời cha mình. Trong dụ ngôn này không thấy phân biệt con trưởng hay con thứ mà chỉ nói đến hai con. Cũng không thấy nhắc đến người con thưa không nghe lời cha nên người cha mới sai người con khác. Cả hai đều được sai đi làm vườn nho. Người cha nói với hai con đi làm vườn nho cho ông. Người thứ nhất đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng anh ta không đi. Người con kia đáp ‘Con không đi’ nhưng sau đó anh ta hồi tâm và đi làm theo í cha. Vậy người con nào làm theo í cha. Tất cả đều đồng í người con hồi tâm đi làm vườn nho là người con làm theo í cha. Về ngôn từ thì người con đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ là người con vâng lời cha. Người con đáp ‘con không đi’ là trái í cha. Về hành động thì người con vâng lời cha là người con hồi tâm thống hối, đi làm vườn nho. Như thế cả hai đều vâng lời: một người vâng lời trên lí thuyết, một người vâng lời trên hành động, thực hành. Hay ngược lại cả hai đều trái í cha. Một trái trên lí thuyết, một trái trên hành động.
Theo tinh thần dụ ngôn trên thì vâng lời trên lí thuyết chính là không vâng lời, không có giá trị. Vâng lời trên hành động mới là thực tế, mới chính thực là vâng lời. Chính câu Đức Kitô hỏi nói rõ điều này. Người con nào làm theo í cha? Không phải là nghe mà hành động, thực hành í cha chính là điều Đức Kitô chú trọng đến. Câu trả lời đúng là người con hồi tâm, đi làm vườn nho. Để làm cho rõ nghĩa hơn, Đức Kitô nhắc đến thành quả rao giảng của Gioan Tiền Hô, để rõ người con nào làm theo í cha, người con nào không. Gioan Tiền Hô đi trước mở đường cho Đấng Cứu Thế. Đám đông tin là ông được Thiên Chúa sai đi làm công việc mở đường. Đức Kitô hỏi lãnh tụ Đền Thờ và giới Trưởng Lão: Phép rửa của Gioan đến từ trời hay do loài người? Nếu trả lời đến từ trời, nhóm lãnh tụ Đền Thờ và Trưởng Lão sẽ không thể giải thích tại sao họ không tin lời Gioan rao giảng để thống hối. Nếu trả lời Gioan rao giảng là do con người trần thế, họ sẽ bị đám đông phản đối, và mất sự hỗ trợ từ đám đông. Đức Kitô tiến thêm một bước nữa Ngài nói với họ. Nhóm thu thế, và nhóm mà các ông gọi họ là kẻ tội lỗi, là những người ăn chơi đến nghe Gioan rao giảng và thống hối. Lúc đầu nhóm này lắng nghe lời Chúa nhưng từ chối sống yêu thương, tha thứ. Khi nghe Gioan rao giảng họ ăn năn, thống hối, hồi tâm, xin nhận phép rửa từ Gioan là dấu chỉ của thành tâm thống hối. Lãnh đạo Đền Thờ và giới Trưởng lão, các vị tự nhận là người công chính, là môn đệ của Môisen (Gioan 9,29).
Không những các vị từ chối làm theo lời Gioan hướng dẫn, các vị còn hạch sách Đức Kitô. Chất vấn Ngài ai cho phép ông làm như thế? Bởi đâu mà ông dám xử dụng quyền hành như vậy? Mat 21,23. Đức Kitô dùng dụ ngôn hai người con nói cho lãnh tụ Đền Thờ và giới Trưởng Lão biết là quí vị vâng lời Thiên Chúa trên lí thuyết. Quí vị rao giảng lời Chúa cho người khác thực hiện, còn chính quí vị không thực hành điều Thiên Chúa truyền dậy. Quí vị không phục vụ trong khiêm nhường. Quí vị không yêu thương đồng loại. Như thế qúi vị có lối sống của người con thưa với cha mình ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng trong tâm thì không đi. Nhóm thu thuế và kẻ ăn chơi không vâng lời Thiên Chúa qua lí thuyết, nhưng họ khiêm nhường nhận tội, nhận mình sai và thống hối, trở về cùng Thiên Chúa. Nhóm này đại diện cho người con thưa với cha mình ‘Con không đi’ nhưng sau đó hồi tâm, thành tâm đi làm vườn nho. Thiếu yêu thương đồng loại và thiếu thực thi công bằng, bác ái thì không thể nào biện minh là quí vị làm theo í Thiên Chúa là chủ vườn nho. Chúng ta xin ơn biết sống làm theo í Chúa, yêu Chúa, pục vụ tha nhân.
Có rất nhiều loại cặp đối, gọi là “đối” thì phải có ít nhất hai vế – có thể là cụ thể hoặc trừu tượng TN 26-A163
Có rất nhiều loại cặp đối, gọi là “đối” thì phải có ít nhất hai vế – có thể là cụ thể hoặc trừu tượng. Có cái này để biết cái kia, có kẻ dữ để nhận biết người lành – như lúa và cỏ lùng; có màu này để phân biệt màu khác; có người nói nhiều để nhận ra người điềm tĩnh. Người thế này, người thế khác, ngay cả chiếc lá cũng có hai mặt. Mỗi người mỗi vẻ, chúng ta gọi đó là phong cách.
Có những điều tưởng là trái ngược nhau mà lại không đối lập, gọi là “nghịch lý thuận.” Có những trường hợp có vẻ xuôi thuận mà lại đối nghịch, gọi là “thuận lý nghịch.” Cuộc đời phức tạp và có nhiều loại triết lý, biết được điều này lại thấy mình ngu dốt cái khác, thảo nào người ta cứ phải học mãi mà chẳng biết hết.
Nhờ cha mẹ cho đi học mà chúng ta biết trong toán học có tỷ lệ thuận và nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này thì có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn – thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B tăng N lần (nhân với N). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B giảm N lần (chia cho N).
Chúa Giêsu cũng đề cập tình trạng thuận – nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Mt 12:30; Lc 11:23) Dạng đối nghịch tuyệt đối là “tội phạm tới Chúa Thánh Thần,” không được tha cả đời này và đời sau.
Phong cách liên quan tính cách, kể cả phong tục tập quán của vùng miền hoặc dân tộc, thế nên có sự thuận và nghịch giữa những con người với nhau. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và bình thường. Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ, ngay cả anh chị em trong gia đình cũng vậy. Hai người hợp nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì; ngược lại, hai người không hợp nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng nặng nề. Nếu đối nghịch nhau thì rất dễ xung đột.
Ngày xưa, dân chúng to gan lớn mật, ăn ngang nói ngược với cả Đấng tạo dựng nên mình: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” (Ed 18:25) Liều lĩnh thật, chẳng kém gì Ông Bà Nguyên Tổ. Đúng là di truyền gen kiêu ngạo. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là điếc không sợ súng, dốt mà kiêu, ngu mà chảnh. Hết nước nói!
Vì thế, Thiên Chúa thẳng thắn đặt vấn đề với họ: “Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.” (Ed 18:26-28) Chắc hẳn Ngài cũng đang chất vấn chúng ta như vậy, và dĩ nhiên chúng ta cũng chẳng biện minh được gì. Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất, chính tội lỗi khiến con người phải chết, (Rm 5:12; Rm 5:21) chứ Thiên Chúa không bắt chúng ta chết – vì Ngài cực tốt cực lành.
Phàm nhân chẳng đáng chi, bởi vì chỉ là bụi đất, (St 3:19) vậy mà vẫn thách thức Thiên Chúa, thậm chí còn dám nổi loạn, phản động, chống lại Ngài – cụ thể là phạm tội như cơm bữa. Tuy nhiên, Ngài không chấp lũ “đầu đất” như chúng ta, do đó Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm, (Tv 8:5) đồng thời còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế.” (2 Mcb 6:14) Quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta cố chấp thì cùng đường: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi.” (Lv 26:18) Thật đáng sợ, vì như vậy là hết lối thoát.
Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5) Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì phải biết chân thành sám hối. Đó là điều kiện hoàn toàn có lợi cho chúng ta. Thật vậy, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta thú nhận tội lỗi và van xin chân thành: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người.” (Tv 25:9)
Lời hứa là lời đẹp, nhưng phải thật lòng, phải cố gắng chấn chỉnh cách sống, chứ không chỉ hứa suông. Thiên Chúa biết rõ chúng ta có họ hàng với chú Cuội nên dễ hứa lèo. Thế nhưng Ngài không chấp, mà Ngài xem chúng ta có rán sức hết mình hay không. Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được.” (Tv 130:3) Tuy nhiên, đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới, “được đằng chân lân đằng đầu,” kẻo mà lợi dụng lòng thương xót của Ngài.
Biết mình để khiêm tốn, biết Chúa để yêu mến. Biết sám hối là biết kết nối với Ngài, như cành nho dính vào thân nho. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau.” (Pl 2:1-2) Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô. (x. Ga 17:21-23) Và đó là điều tất cả chúng ta phải phấn đấu không ngừng.
Một thế giới đại đồng không có trong xã hội ngày nay, vì thế mà chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn. Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công giáo (TGP Saigon) rủ tôi ăn uống chung, chỉ là để “cho vui” thôi. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu,” người thì “bới bèo ra bọ,” họ “căng thẳng” với nhau, tôi thấy bất lợi nên xin ra về. Thật đáng buồn! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi,” vì thế mà rất nguy hiểm, cần phải luôn cố gắng “đè nén” nó. Ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa,” thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, chẳng biết Chúa có vinh danh chút nào hay không. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.” (Pl 2:3-5) Khó lắm, vì thế luôn phải cố diệt “cái tôi” đáng ghét.
Cố gắng dứt khoát thì làm được. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2:6-9) Điều này được nghe đi nghe lại nhiều lần rồi, nhưng có mấy lần chúng ta “giật mình,” hay chỉ nghe tai này rồi qua tai kia? Quả thật, chúng ta tội lỗi lắm, tội với Chúa và cả với tha nhân nữa.
Đức Giêsu Kitô có tất cả mọi sự, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:10-11) Cứ xét theo lẽ thường của loài người thì cũng thấy hoàn toàn hợp lý.
Qua trình thuậtMt 21:28-32 , Chúa Giêsu đề cập hai con người với hai phong cách trái ngược nhau qua dụ ngôn Hai Người Con. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta. Hôm đó, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về quyền hành. Ngài thản nhiên nói: Một người cha nọ có hai con trai, ông sai người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó nói thẳng là “không đi.” Có thể nó không rảnh hoặc không vâng lời, cãi ngay. Nhưng rồi nó hối hận và đi làm. Ông cũng sai người con thứ hai đi làm, nó chấp nhận ngay, nhưng rồi nó lại không đi. Bằng mặt mà không bằng lòng, bên ngoài tỏ vẻ ngoan hiền nhưng bên trong lại phản động.
Chúa Giêsu hỏi họ rằng đứa nào đã thi hành ý muốn của người cha. Họ trả lời ngay là đứa thứ nhất. Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta thì hẳn là ai cũng có thể trả lời được, không gì khó. Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Ôi chao, nghe “sốc” quá chừng! Thế nhưng đó là thực tế, là sự thật. Ngài biết họ “ngứa óc” nên Ngài nói thẳng: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Trúng tim đen rồi!
Có lần Chúa Giêsu xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy.” (Ga 14:23-24) Rất rõ ràng và mạch lạc, không khó hiểu, thế nên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do gì. Chữ YÊU ngắn gọn mà hàm súc. Có khi chúng ta là đứa con thứ nhất, có khi chúng ta lại là đứa con thứ hai. Mưa nắng thất thường. Chính “cái tôi” to lớn và dữ dằn lắm, cần phải luôn cảnh giác với nó. Thánh Phaolô cũng đã từng lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.” (1 Cr 9:27) Nói hay mà làm dở thì thật là khốn!
Ước gì chúng ta luôn biết đè bẹp “cái tôi” và tâm niệm như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi.” (Ga 3:30) Đó là phong cách tuyệt vời của mỗi tín nhân. Có vậy thì Thiên Chúa mới thực sự vinh danh, và chỉ có Ngài xứng đáng như thế. Tất cả vì danh Ngài, thụ tạo chúng ta không đáng là gì cả, giả sử có làm được gì cho Ngài thì cũng là trách nhiệm và bổn phận mà thôi.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho con được hưởng ân xá của Ngài. “Con đã phạm bao nhiêu tội lỗi? Bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết.” (G 23:13) Xin giúp con ý thức để biết mình, biết Ngài và biết tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tin Mừng của Chúa Nhật này một lần nữa tiếp tục nói với chúng ta qua dụ ngôn. Chúa Giêsu nói TN 26-A164
Tin Mừng của Chúa Nhật này một lần nữa tiếp tục nói với chúng ta qua dụ ngôn. Chúa Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.’ Nó đáp: ‘Con không muốn đâu!’ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: ‘Thưa ngài, con đây!’ Nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?’ Họ trả lời: ‘Người thứ nhất.” (Mt 21,28-31)
1- Giữa nói và làm là một biển cả
Người con nói “có làm” nhưng lại “không làm” đại diện cho những ai đã nhận biết Thiên Chúa và tuân giữ luật Người trong một số phạm vi, nhưng lại không chấp nhận Chúa Kitô, Đấng là “sự viên mãn của lề luật.”
Còn người con nói “không làm” nhưng lại “đi làm” đại diện cho những ai đã sống ngoài lề luật và thánh ý Thiên Chúa, nhưng sau đó, nhờ Chúa Kitô, họ đã hoán cải và trở lại đón nhận Tin Mừng.
Từ đó, Chúa Giêsu đưa ra kết luận này trước các kỳ mục và thượng tế: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Như thế, trang Tin Mừng này nói gì với chúng ta hôm nay? Đối với Thiên Chúa, những lời nói suông hay những lời hứa hoa mỹ không có giá trị đáng kể, nếu không đi kèm với những việc làm cụ thể. Người ta thường nói rằng: “Giữa nói và làm là cả một biển cả.” Chúa Giêsu cũng có lần nhắc nhở: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Dụ ngôn của Chúa Giêsu rất gần gũi với cuộc sống như chúng ta thấy hôm nay. Điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta chính là điều mà cả chúng ta cũng chờ đợi nơi những người khác trong cuộc sống. Chẳng hạn, điều mà mỗi cha mẹ chờ đợi từ con cái mình là một sự vâng lời đích thực, chứ không phải chỉ là lời nói suông, hay hứa hảo; một lời nói hay một tình cảm phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể và cả sự hy sinh, nếu không sẽ không có giá trị hay hiệu quả gì mấy.
Sự bất nhất giữa “nói và làm” tạo cho người ta cảm giác người Kitô hữu rất đáng ghét, đó là khoảng cách giữa điều chúng ta tuyên xưng trong nhà thờ và điều chúng ta hành xử, khi sống ở ngoài đời, nơi gia đình, công sở, hay nơi chợ búa… Nghĩa là giữa đời sống đạo đức trong nhà thờ và đời sống thường nhật không có một sự ăn nhập gì nhau, nếu không muốn nói là hoàn toàn khác biệt. Vào nhà thờ thì “đọc hết kinh này sang kinh khác,” chắp tay bái lạy “khu cao hơn trốc,” nhưng bước ra ngoài nhà thờ thì mặt hằm hằm sát khí, muốn ăn tươi nuốt sống người khác hay nhìn họ với những “ánh mắt dao găm!” Vào nhà thờ thì nói “có,” nhưng ra khỏi nhà thờ thì nói “không.” Người ta bảo: “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo.” Hay ngạn ngữ có câu: “Những hành động thì có âm vang hơn là những lời nói.” Người ta đánh giá chúng ta một cách chính xác dựa trên những gì chúng ta làm hơn là những gì chúng ta nói. Về điểm này, thánh tử đạo Ignatiô thành Antiochia cho rằng: “Những người Kitô hữu không nói thì tốt hơn những Kitô hữu nói mà không làm.”
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cẩn thận bởi những lý luận trên có thể bị hiểu lầm hay bị lạm dụng. Đã có những người vì lười biếng không muốn đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nên cứ ngụy biện cho rằng: “Đạo tại tâm.” Cũng có những người lý luận rằng: “Ồ, những người hay đi nhà thờ, chăm đọc kinh cầu nguyện đâu có phải là những người tốt trong cộng đoàn đó sao?” Với những ý tưởng cố hữu như thế, họ biện hộ cho việc bỏ lễ và bỏ cầu nguyện. Nếu trong gia đình, người vợ tiếp tục đi nhà thờ, thì phải chịu đựng và im lặng vì những lời mỉa mai như thế. Họ không biết rằng những người cầu nguyện và cố gắng sống Tin Mừng cũng là những con người bất toàn, luôn có những giới hạn và thiếu sót. Điều chắc chắn là mỗi người phải trả lẽ với Thiên Chúa và với lương tâm của mình về điều họ phải làm và không làm cho người khác.
2- Tránh những hiểu lầm
Nhưng để giải thích nội dung chính của dụ ngôn, chúng ta cần quay lại với câu kết luận lạ lùng này của Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Có thể nói đây là một trong những lời của Chúa gây hiểu lầm hơn cả. Trong lịch sử đã có những con người dùng câu nói này để lý tưởng hóa hay “hợp thức hóa” nghề mãi dâm và biện hộ cho những cô gái điếm. Văn chương cũng có đầy những “cô gái điếm thánh thiện.” Đơn giản chỉ cần nghĩ tới tác phẩm La Traviata (Người Đàn bà sa ngã) của Giuseppe Verdi hoặc cô điếm Sonya hiền như ma xơ của Dostoevsky trong tác phẩm “Tội ác và Hình phạt.”
Đây là một sự hiểu lầm kinh khủng! Cần phân biệt rằng Chúa Giêsu đang nói về một trường hợp cụ thể, như đã xảy ra. Người quả quyết: “Những cô gái điếm vào Nước Trời trước các ông.” Chúa nói tới những “cô gái điếm” như một sự so sánh để nhấn mạnh đến sự nghiêm trọng của những ai cứng lòng từ chối chân lý. Ngoài ra, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu còn nói đến trường hợp “những người thu thuế.” Họ là những người làm việc cho các trạm thu thuế của đế quốc La Mã và được coi là những người tham dự vào những bất công xã hội. Đó là hai tội công khai mà thời đó người Do Thái xếp ngang hàng với nhau và cần loại trừ. Nếu Chúa Giêsu xếp những cô gái điếm với những người thu thuế lại với nhau, Người có lý khi làm như thế. Vì cả hai loại người này đã kiếm tiền bằng việc làm bất lương, nhưng điều Chúa muốn nói ở đây là dầu họ xấu xa như thế nào, nhưng khi gặp gỡ Đức Giêsu, họ đã thay đổi đời sống của mình; Chúa muốn đề cao thái độ đón nhận sự thật và khả năng hoán cải, như một Maria Mađalêna, một Mátthêu, hay một Giakêu… Khác với những người cứ nghĩ mình thánh thiện và đạo đức, những đầu óc đầy thành kiến và bảo thủ, nên cứ ở lì trong lập luận riêng và chính kiến của mình. Những người này luôn có áo giáp tự vệ quá lớn, nên rất khó thay đổi như các Luật Sỹ và Biệt Phái.
Cũng cần thêm rằng, thế giới hôm nay mà chúng ta đang sống là thế giới bị thống trị bởi nền văn hóa tính dục. Trong đó, hiện tượng mãi dâm đang phổ biến dưới nhiều hình thức tinh vi, lan tràn và nguy hiểm. Có rất nhiều người phụ nữ và trẻ em bị bán làm nô lệ cho tình dục một cách có hệ thống và tinh vi hơn bao giờ hết. Sẽ là sai lầm khi cho rằng câu nói trên của Chúa Giêsu cổ xúy cho hiện tượng mãi dâm này. Quả vậy, nghề mãi dâm luôn được coi là nghề xấu xa, bất xứng trong xã hội dù thời nào. Nhưng Đức Giêsu luôn trung thành với nguyên tắc đạo đức: luôn nói “không” với tội lỗi, nhưng nói “có” với tội nhân. Theo đó, Người không chấp nhận hiện tượng mãi dâm và mời gọi người phụ nữ ngoại tình hoán cải: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Người Kitô hữu phải là người giống Chúa Kitô về điểm này.
3- Luôn hy vọng để hoán cải
Như thế, khi kể dụ ngôn hai người con để ám chỉ về những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ hoán cải nhờ lời giảng của Gioan Tẩy Giả; còn những kỳ mục và thượng tế thì không hoán cải, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều này: Một đàng, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cứng đầu, bảo thủ, không chịu thay đổi của những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời đó, họ là những người đại diện cho người con nói “có” nhưng lại “không chịu làm.” Họ là những người đại diện cho tất cả những ai hôm nay, dầu mang danh là Kitô hữu, nhưng chỉ ở trên danh nghĩa, không thực hành niềm tin, không sống niềm tin của mình.
Đàng khác, Lời Chúa hôm nay muốn đề cao những ai dầu trước đó lầm lỡ, yếu đuối, như người con đã “nói không” với Thiên Chúa, nhưng sau đó, họ đã hối hận, trở về và thay đổi cuộc sống.
Cả hai trường hợp là tấm gương để chúng ta soi bóng mình. Bởi lẽ, một cách chân thành và khiêm tốn, đã nhiều lần, chúng ta là người con “nói làm, nhưng không làm,” cho Chúa những gì Chúa muốn, trong đời sống chúng ta. Chúng ta hứa với Chúa nhưng không giữ lời, nói nhiều nhưng làm ít, nghe nhiều, nhưng không áp dụng vào cuộc sống. Có lẽ, cũng vì sự cứng lòng, bảo thủ và thành kiến làm tổ trong chúng ta, nên chúng ta đánh mất khả năng đón nhận điều mới mẻ, và khả năng thay đổi.
Và vì thế, chúng ta cần học nơi người con thứ hai ở chỗ biết hối hận, tiếp nhận và thay đổi đời sống, bằng việc làm theo những gì Chúa muốn, sống theo những gì Chúa dạy, đồng nhất giữa nói và làm là một.
Tin Mừng là tin vui, tin hy vọng, tin cứu độ cho tất cả mọi người, nhất là cho các tội nhân, kể cả những cô gái điếm. Chúng ta phải luôn biết hy vọng ơn cứu độ cho tất cả. Amen!
Đâu đó, chúng ta vẫn thường được nghe hoặc được gieo vào tâm trí câu nói (chắc không có chủ TN 26-A165
Đâu đó, chúng ta vẫn thường được nghe hoặc được gieo vào tâm trí câu nói (chắc không có chủ ý!): “nếu không đọc kinh, cầu nguyện…Chúa phạt!”. Từ thuở nhỏ, con trẻ mà hư, trái quấy, mẹ/bố thường nói câu này để con biết vâng lời! Bước vào nhà trẻ, mẫu giáo, con trẻ chơi với nhau có khi xô xát đánh nhau, bố/mẹ cũng dùng câu nói này để con đừng đánh bạn bè! Và cứ lớn dần, được học giáo lý, được học chữ ngoài trường lớp, ra đời, có sự nghiệp, lập gia đình, có con, trong lúc vô tình hay cố ý cũng có lúc dùng câu nói được nghe từ xưa “nếu không…, Chúa sẽ phạt!” cho chính con cái mình!
Đối với những ai có tính gia trưởng (luôn cho suy nghĩ, cách nhìn của bản thân đúng đắn và một cách nào đó áp đặt lên người khác) thì ‘đường lối của người khác’ dường như chỉ là thứ yếu, luôn đứng sau ‘đường lối của chính mình”. Tương tự như dân Is-ra-en thời tiên tri Ê-zê-ki-en, cũng luôn cho rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Và Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri này mà đối chất, răn dạy, chỉ ra lối suy nghĩ, cách sống không đúng đắn của họ: “Hỡi nhà Is-ra-en, hãy nghe đây: phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng, hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?” (x. Ez 18, 25). Cách thức Chúa làm, con đường Chúa đi, kế hoạch Chúa vạch ra chắc chắn khác biệt với chúng ta; nhưng nếu chúng ta không tin nhận những gì khởi sự từ Chúa và kết thúc nơi Người luôn chính trực, đúng đắn, và ích lợi cho chúng ta, thì vô hình chung tư tưởng ngàn xưa của dân Is-ra-en cũng đang tồn tại trong chúng ta vậy!
Hơn nữa, khi mắc sai lầm mà không kịp thời dừng lại, xem xét, sửa đổi thì ‘sai lầm này kéo theo lỗi lầm kia’ như cách lập luận thường thấy nơi chúng ta ‘Thiên Chúa xử phạt’. Ở đây, chúng ta sẽ biết được một lời giải đáp rõ ràng, không chút mơ hồ hay mông lung, qua lời quả quyết của ngôn sứ Ê-zê-ki-en “khi người công chính từ bỏ công chính mà làm điều bất chính, thì nó phải chết vì điều bất chính nó làm” (x. Ez 18, 26). Đúng thật, Thiên Chúa không sát phạt hay xử phạt! Những ai sống chính trực mà bỏ đàng công chính, làm điều ác, việc xấu xa, thì họ phải chết không phải vì Chúa trừng phạt hoặc ra án xử, mà vì điều bất chính họ làm mà thôi. Chúng ta phải chịu trách nhiệm, chịu hậu quả do hành động, hành xử, hành vi, đường lối, cách sống của chúng ta.
Lẽ dĩ nhiên, lỡ may chúng ta là những kẻ gian ác, xấu xa (trong tư tưởng, lời nói, cũng như hành động) từ bỏ điều dữ, bỏ đàng tội lỗi, bỏ thói ngạo mạn kiêu căng, mà thi hành điều chính trực công minh, theo đường lối của Chúa thì “sẽ cứu được mạng sống mình” (x. Ez 18, 27). Hơn nữa, một khi nhận ra, nhìn thấy và từ bỏ mọi điều phản nghịch đã phạm, thì “chắc chắn sẽ được sống, chứ không phải chết” (x. Ez 18, 28).
Theo đường lối của Chúa, điều này đúng đắn cho hết thảy địa vị, nghề nghiệp, ngôn ngữ, văn hoá. Nó sẽ không nghiêng về người có thẩm quyền, có học thức, có chức tước, vị vọng…mà lại rời xa những kẻ thấp hèn, vô học, dân thường cùng đinh, thấp cổ bé miệng và bị loại ra ngoài xã hội (như người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm…) như lời Đức Giê-su khẳng định với các thượng tế và kỳ lão trong dân, cũng như mỗi người chúng ta ngày nay rằng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Nếu xét theo cách thức của con người, thì sự việc này không thể nào, đúng hơn là không bao giờ xảy ra được. Tuy nhiên, nếu nhìn theo đường lối của Thiên Chúa, thì điều chúng ta tưởng không, lại thành hiện thực một cách không tưởng! Vì sao như vậy? Câu trả lời ngay sau khi lời tuyên bố trên của Đức Giê-su: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21, 32). Sự hoán cải liên lỉ, hành vì xét mình hằng ngày giúp chúng ta tin tưởng đón nhận đường lối của Chúa. Ngược lại, khi tin tưởng chấp nhận đường lối của Chúa, thì chính Chúa hoán cải con người chúng ta, biến đổi con đường dị biệt của ta, dẫn ta vào quỹ đạo tình thương, nói như Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Phi-líp-phê “…liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, tình bác ái khích lệ chúng ta hiệp thông trong Thần Khí, và sống thân tình, biết cảm thương nhau” (x. Pl 2, 1).
Một khi nhận biết, đón nhận, tin tưởng và bước theo đường lối của Chúa, thì những gì Thánh Phao-lô nhắc nhở, nhắn gửi, răn dạy trong bài đọc II phải được suy tư một cách nghiêm túc, rồi thực hành với cả con tim và khắc ghi suốt cuộc hành trình đức tin trên dương thế này: “đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2, 3-5). Giữa chúng ta với nhau, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình như chính Đức Giê-su Ki-tô, cụ thể: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người đã tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6-8)
Đường lối Chúa chính lộ ngàn đời Đường lối con chơi vơi khắp chốn. Đường lối Ngài mãi vuôn tròn Suốt cuộc đời này bước trọn tin yêu. Amen!
Ý muốn của Thiên Chúa rất cao siêu huyền nhiệm và thường được gọi là “Thánh ý”. Thiên Chúa TN 26-A166
Ý muốn của Thiên Chúa rất cao siêu huyền nhiệm và thường được gọi là “Thánh ý”. Thiên Chúa chỉ muốn những điều tốt lành cho con người, như bản chất của Ngài là tốt lành. Vì ý muốn của Chúa là muốn cho con người làm điều thiện để họ được hạnh phúc, nên mỗi khi chúng ta làm những điều tốt lành là chúng ta thực thi ý Chúa.
Ngôn sứ Êdêkien (khoảng thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên) đã diễn tả ý Chúa qua lời giảng dạy của ông. Qua đó, Thiên Chúa kêu gọi người tội lỗi hãy từ bỏ con đường bất chính mà trở về phục thiện. Ngài cũng khẳng định: mỗi người phải gánh trách nhiệm về lối sống của mình, đừng nương nhờ vào công phúc của người khác, cũng đừng ỷ thế mà đổ lỗi cho các thế hệ tiền nhân. Thực thi những giáo huấn của Chúa là thi hành Thánh ý của Ngài. Ai thi hành ý Chúa sẽ được hạnh phúc lâu bền. Ai làm điều gian ác, tức là đi ngược lại ý Chúa, sẽ bất hạnh ngàn thu. Tác giả Thánh vịnh đã diễn tả niềm vui của những ai tuân hành Thánh ý Chúa: “Tuân theo Thánh ý Ngài, con vui sướng hơn được tiền rừng bạc bể”. (Tv 119,14).
Làm thế nào để nhận ra Thánh ý Chúa trong đời sống chúng ta: trong câu chuyện về hai người con, Đức Giêsu đã chứng minh cho thấy thực thi ý Chúa phải thể hiện qua việc làm cụ thể, chứ không bằng lời nói suông. Hai người con tượng trưng cho hai lối sống khác nhau: người con thứ hai ngoài miệng nói sẵn sàng, nhưng lại không làm điều cha mình chỉ dạy; người con thứ nhất ban đầu từ chối, nhưng sau đó lại đi làm theo ý cha. Xem ra cả hai cách xử sự của hai người con đều cần phải điều chỉnh: người con lớn từ chối lời đề nghị của cha mình cho thấy thiếu thiện chí đón nhận lời dạy bảo của cha. Mặc dù sau đó anh có đi làm, nhưng việc khước từ lời cha chắc chắn làm cha anh buồn. Người con thứ hai lại càng đáng trách hơn nữa, bởi vì anh chỉ nói cho cha vui lòng, mà thực tâm thì không thực hành ý cha. Chúng ta dễ dàng nhận ra người cha là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài luôn muốn chúng ta làm những việc tốt lành, để đem lại ích lợi cho bản thân và cho cộng đoàn xã hội. Tuy vậy, trước ý muốn của Ngài, chúng ta thường xử sự theo sự ích kỷ hẹp hòi, tính toán thiệt hơn để né tránh những gì Ngài muốn. Qua hình ảnh hai người con, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta thận trọng trong cách nhận định về một con người hay một sự việc. Dưới cái nhìn của xã hội, những người thu thuế và những cô gái điếm luôn bị khinh bỉ, xa lánh và lên án. Tuy vậy Chúa Giêsu lại khẳng định: có thể những người này lại được vào Nước Trời trước những người tự coi là công chính. Bởi lẽ họ chỉ nói mà không thực hiện Thánh Ý của Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta có cái nhìn thông cảm, bao dung và thận trọng hơn đối với anh chị em xung quanh. Bởi lẽ có những lúc cái nhìn bề ngoài và nhận định khái quát dễ làm cho chúng ta sai lầm. Những người biệt phái và luật sĩ dù khôn ngoan giỏi giang, nhưng chưa hẳn đã là những người ngay chính. Để nhận định tư cách của họ, còn phải xem đời sống hằng ngày của họ ra sao, họ có thực hành đức công bình mà họ vẫn rao giảng hay không, đó mới là điều quan trọng. Một người có quá khứ tội lỗi, nhưng thành tâm thiện chí ăn năn hối cải, thì họ được Chúa tha thứ. Trong cuộc sống, vì có một quá khứ nghiện ngập, tù đầy khi muốn hoàn lương vẫn gặp phải những thành kiến của những người xung quanh, để rồi những người muốn làm một con người bình thường mà cũng không được. Ngôn sứ Edêkien đã truyền lại lời của Chúa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu thoát mạng sống mình!”. Vâng, trong cuộc đời, chúng ta còn khắt khe hơn Thiên Chúa trong việc xét đoán anh chị em mình. Đối với Chúa, không thể vin vào một quá khứ xa xưa – dù tốt lành – để biện minh cho những lỗi lầm mình đang phạm. Thiên Chúa công minh vô cùng trong xét xử. Cũng cần tỉnh táo trước một lối suy nghĩ ỷ nại vào lòng thương xót của Chúa để sống tự do bừa bãi, dựa vào lập luận Chúa tha thứ hết. Quả vậy, Chúa tha thứ hết, nhưng phía chúng ta phải sám hối ăn năn và sửa lại đời sống của mình. Trong việc thực hành Thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có một mẫu gương hoàn hảo: đó là Đức Giêsu. Tác giả thư gửi tín hữu Philipphê đã giúp chúng ta chiêm ngắn dung mạo của Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể: Người tuy là thân phận Thiên Chúa mà chấp nhận mọi thiệt thòi, tự hủy mình ra không, mang lấy thân phận nô lệ và chết trên thập giá. Đức Giêsu hạ mình giống như con người phàm trần để sống gần gũi thân thiện với chúng ta, cảm thông và chia sẻ với chúng ta những buồn vui của kiếp người. Khi mời gọi chúng ta cùng nhìn lên Đức Giêsu như mẫu mực hoàn hảo, tác giả mong ước chúng ta hãy “sống thân tình và biết cảm thương nhau… Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Bài đọc II). Những lời khuyên trên đây rất cụ thể và rất sâu sắc. Thực hiện được những điều đó là chúng ta nên giống Đức Giêsu, thi hành Thánh ý Chúa Cha. Chúa nhật hôm nay trùng hợp với ngày 1-10 dương lịch, lễ kính Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu và ngày đầu tháng Mân Côi. Đức Trinh nữ Maria và Thánh Têrêsa là những gương mẫu cho chúng ta về việc lắng nghe và thực thi ý Chúa. Xin các ngài cầu bầu cho chúng ta. “Lạy Chúa, xin dạy con biết Thánh ý Chúa!”. Đó là một trong những lời cầu nguyện đơn sơ và ý nghĩa nhất. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Kinh Lạy Cha). Khi chuyên tâm làm việc thiện là chúng ta góp phần làm cho ý Chúa được thể hiện, nhờ đó, vinh quang Chúa được chiếu tỏa trong cuộc đời và hạnh phúc được lan rộng giữa thế gian.
Ngày hôm nay sự vâng lời được thực hiện trong lời nói hay trong hành động, không ai biết rõ TN 26-A167
Ngày hôm nay sự vâng lời được thực hiện trong lời nói hay trong hành động, không ai biết rõ. Để hiểu về điều này, Chúa Giêsu đã kể cho các thượng tế và kỳ mục nghe dụ ngôn “Hai người con”.
Một người kia có hai người con, một hôm ông gọi người con thứ nhất đi làm vườn nho, nó trả lời “Con không muốn!” nhưng sau đó nó lại đi làm. Còn người con thứ hai trả lời “Thưa ngài, con đi!” Và nó lại không chịu làm (Mt 20, 28-31). Câu chuyện này cho chúng ta thấy rõ sự vâng lời được thể hiện ngay trong hành động. Người con thứ nhất trả lời “không muốn”, sau đó nó suy nghĩ lại và đi làm. Nó làm vì cái gì? Có lẽ nó làm vì thương cha hay vì một lý do nào khác. Còn người con thứ hai trả lời rất to, nhưng chẳng thực hiện chút nào. Cuối cùng người con thứ nhất đi làm.
Chúng ta cũng thường nghe câu “Con gái nói không là có”, đó là câu nói vui với nhau trong tình yêu đôi lứa. Đối với câu chuyện hôm nay, người con thứ cho chúng ta thấy rõ những người trả lời “không làm” nhưng sau đó đi làm là người biết suy nghĩ lại lời nói và hành động của mình. Là người biết phân định trong mọi việc và nhận ra lỗi lầm của mình. Nơi họ còn có một trái tim dễ rung động và xót thương người khác. Còn những người trên môi miệng luôn dạ dạ, vâng vâng thì đằng sau lại không động tay động chân gì, đó là kiểu giả hình giả tạo. Họ dùng lời nói để trả lời với người khác cho xong, thực tế thì họ không làm. Chẳng phải xưa kia các thượng tế và kỳ mục luôn nói trên môi miệng luật này luật kia, nhưng lại không làm. Họ chỉ áp đặt lên người khác điều họ nói, và tự biến mình thành con người đạo đức giả (Mt 23, 3). Chúng ta cũng hãy cẩn thận với lời nói “thưa vâng”. Thưa mà không làm là chúng ta tự tạo cho lời nói của mình vô dụng không đáng tin tưởng. Chúng ta hay nói với nhau rằng “A, chỉ có cái miệng thôi, chẳng làm gì cả”. Điều đó cho chúng ta biết giá trị đích thực cuối cùng là những gì chúng ta làm, chứ không phải là lời nói của chúng ta. Tấm gương cho chúng ta sống thực thi với lời thưa “con đây” chính là Mẹ Maria. Mẹ đã đáp lại lời sứ thần bằng cách để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời mình. Và chúng ta đã thấy rõ, những việc Mẹ làm rất đẹp ý Thiên Chúa và đã đem lại hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, sự vâng lời cũng cần có sự phân định nên làm hay không trong từng trường hợp và trong hoàn cảnh nào. Như những người Pharisêu, họ vâng lời giữ luật ngày sabat một cách nghiêm ngặt, không làm bất cứ việc gì trong ngày sa bát mặc dù luật ấy liên quan đến mạng sống con người. Sự vâng lời của họ là sự vâng lời mù quáng, máy móc, bảo sao làm vậy. Trong khi đó, Chúa Giêsu hỏi “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” (Lc 6, 9). Ngày hôm nay, đâu đó vẫn có hình ảnh như vậy trong cuộc sống hằng ngày mà chúng ta không biết. Chẳng hạn, có một ông bố dặn con mình rằng: “Mấy đứa bay đi lễ đừng có mà la cà nha, nếu không trật lễ nha”. Vâng lời bố, mấy đứa con cứ thẳng đường mà đi mặc cho ai đang bị té xe hay làm sao thì cứ mặc kệ. Còn những người sống đời thánh hiến đáp lại tiếng Chúa “Thưa ngài, con đây!”. Khi đáp, chúng ta đã biết rõ Chúa mời gọi chúng ta làm gì, nên chúng ta mới đáp lại tiếng xin vâng như vậy. Nghĩ lại, chúng ta cũng thật can đảm đứng lên và thưa như vậy trước mặt mọi người. Còn đằng sau đó, chúng ta có thực hiện hay không thì chỉ có Chúa và ta biết rõ. Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống vâng lời trong hành động hơn là trong lời nói. Ngài muốn chúng ta luôn là những người biết ăn năn trở lại và sám hối, chứ đừng như người con thứ hai. Và để cho sự vâng lời không làm cho chúng ta mắc sai lầm, chúng ta hãy đem Lời Chúa ra thực hành. Vì Lời Chúa là lời chân lý.
Lạy Chúa, chúng con phận yếu đuối và thường dùng lời nói để che đậy hành động của mình. Vì thế, xin Chúa hãy thương giúp chúng con biết sống chân thật trong lời nói và hành động của chúng con. Và xin cho chúng con luôn biết đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày của con. Amen!
Hùng ơi! Dậy rửa mặt rồi ăn sáng đi con. Sáng nay còn sang đồng sớm. – Thôi mẹ ăn một mình TN 26-A168
– Hùng ơi! Dậy rửa mặt rồi ăn sáng đi con. Sáng nay còn sang đồng sớm.
– Thôi mẹ ăn một mình đi. Con mệt lắm! Con không muốn đi đâu cả.
– Tối lại xem đá bóng cho khuya vào. Con với chả cái.
Nói rồi, mẹ Hùng đi xuống bếp sửa soạn. Mẹ để cơm cho cậu con trai, lấy lồng bàn đậy lại rồi vác cuốc ra đồng sớm kẻo nắng.
Vừa cuốc được hai luống cỏ ngô bà đã thấy cậu con trai đạp xe đạp qua.
Nhà chỉ có hai mẹ con, Hùng thương mẹ lắm. Sáng nay, Hùng vật vã mãi rồi cũng lồm cồm bò dậy khỏi giường, rửa mặt, ăn vội bát cơm rồi đạp xe sang đồng cuốc cỏ với mẹ. Tình thương mẹ đã giúp Hùng chiến thắng được sự mệt mỏi sau một đêm hào hứng với đám bạn bên cái ti vi. Cậu hối hận vì đã để mẹ cuốc bộ một mình đang khi đường xa mà mẹ lại không khỏe.
Hôm nay, Thầy Giêsu cũng kể một dụ ngôn về hai người con. Người con thứ nhất từ chối cha nhưng sau đó lại hối hận nên đã đi làm vườn nho. Người con thứ hai làm cha vui lòng khi mau mắn đáp lời, nhưng cuối cùng anh lại không đi. Quả thật, chính người con thứ nhất mới là người thi hành ý cha.
Cuộc sống luôn đòi hỏi chúng ta “hãy quyết định đi!”. Chọn lựa nào cũng đòi hỏi sự trả giá và một khi đã chọn lựa ta quyết tâm thực hiện. Có những người từng được xem là công chính nhưng sau đó lại bỏ đường công chính để làm điều bất chính, họ đánh mất chính mình và dẫn mình tiến vào cái chết. Nhưng cũng có những người gian ác, ai gặp cũng phải tránh xa. Khi những người gian ác bỏ đường gian ác thì sẽ tìm được sự sống. Thầy Giêsu đề cao tinh thần của những người thu thuế và cô gái điếm đã ăn năn sám hối và tin vào lời ông Gioan chỉ dẫn. Những người thu thuế và những cô gái điếm bị liệt vào hàng tội lỗi, bị loại trừ. Khi được nghe ông Gioan chỉ đường công chính cho, họ đã sám hối và tin. Bởi thế, họ được vào Nước Trời. Những người tự cho mình là công chính không cần phải sám hối ăn năn lại không tin. Bởi thế Thầy Giêsu đã khẳng định “Những người thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31b). Có những chọn lựa làm cho chúng ta hối hận cả đời nhưng một khi đã nhìn ra sai lầm thì ta hãy mau mắn chọn lại. Đứng lên từ chỗ vấp ngã để làm lại từ đầu luôn là một thái độ đúng đắn của những người khôn ngoan.
Hằng ngày, ta vẫn đến với Chúa trong thánh lễ, trong các giờ kinh và giữa những nhịp sống thường ngày của công việc và học tập. Đọc dụ ngôn hai người con, ta thầm trách người con thứ hai không biết giữa lời hứa và cũng mừng vì ít ra người con thứ nhất đã hối hận và thi hành ý cha. Nhìn vào lòng mình, ta thấy mình sao cũng đáng trách quá. Đã bao lần ta mau mắn thưa lên “Lạy Chúa! Này con đây!” Ấy thế mà vừa khi bắt đầu thực hiện điều Chúa mời gọi “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em!” (Ga 15, 12), ta đã nhanh chóng bỏ cuộc vì “Sao mà nhìn cái mặt không ưa được. Ai cho nó cái quyền nhục mạ mình. Sao nó không thay đổi chút nào cả.” Ở trong nhà thờ ta thấy mình sao thánh thiện quá, muốn tha thứ cho người đã xúc phạm đến ta nhưng vừa ra ngoài khỏi nhà thờ, ta thấy người ấy từ xa, tự nhiên ta không chịu nổi, rẽ sang đường khác để đi. Thế rồi, ta sắm cho mình những lý lẽ phản công và rốt cuộc Lời Thầy ta khen hay quá mà cuối cùng ta chẳng sống được. Điều quan trọng là sống điều Thầy Giêsu dạy.
Chọn lựa nào mà không có sự giằng co. Chính người con cả đã trải qua một sự giằng co khi phải chọn lựa giữa điều mình muốn và ý cha mời gọi. Ban đầu anh trả lời không nhưng sau đó anh đã hối hận và quyết định đi làm vườn nho. Anh quên đi cái ý riêng để thực hiện công việc vì ích chung của gia đình. Người con thứ mau mắn hứa hẹn khiến cha vui lòng nhưng cuối cùng anh chỉ hứa suông. Ta là ai trong hai người con ấy? Ta có thống nhất trong lời nói và việc làm của mình không?
Lạy Chúa! Chọn lựa chân thực nào đã dẫn con đi trên đường ngay nẻo chính? Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói: “Người là vẻ đẹp làm cho các con bị cuốn hút; chính Người khơi lên trong lòng các con niềm khao khát hướng về sự viên mãn mà không phải đạt được nhờ thỏa hiệp; chính Người thôi thúc các con cởi bỏ những mặt nạ của một cuộc sống giả dối; chính Người đọc thấy trong tâm hồn các con những chọn lựa chân thực nhất, những chọn lựa mà người khác đang cố bóp nghẹt. Chính Chúa Giêsu khơi lên trong các con mong muốn làm điều gì đó lớn lao bằng cuộc sống của các con.” Lạy Chúa! Xin cho con nhận ra vẻ đẹp của Chúa và quảng đại đón nhận Lời và sống Lời trong những biến cố mỗi ngày. Xin cho con biết chọn ý Chúa trước khi con chọn ý con. Amen.
Hai con phụng dưỡng cha già, Giúp cha chăm sóc, cửa nhà ruộng nương. Dụ ngôn câu truyện dễ TN 26-A169
Hai con phụng dưỡng cha già, Giúp cha chăm sóc, cửa nhà ruộng nương. Dụ ngôn câu truyện dễ thương, Nhờ con phụ giúp, đêm trường lắng lo Sai con thứ nhất hẹn hò, Chối từ không chịu, lo cho việc đồng. Chiều về hối hận nghĩ thông, Vào vườn lao động, ra công thi hành. Ngỏ lời con thứ cầm canh, Giúp cha công tác, tập tành thâu gom. Xin vâng, con sẽ trông nom, Nhưng vì lười biếng, không dòm ngó chi. Hứa lèo lại chẳng muốn đi, Nên đành thất hứa, lắm khi muộn phiền. Cha già đáng kính dịu hiền, Mong con hối hận, tội khiên xóa nhòa. Tội nhân thu thuế mù lòa, Những người gái điếm, trước tòa Chúa thương. Ăn năn hối cải mở đường, Trở về bên Chúa, tựa nương tháng ngày.
Chúa Giêsu đem Tin Mừng Cứu Độ đến trần gian. Chúa không đến để kết án hay luận phạt, nhưng mở đường đón nhận những người tội lỗi trở về. Ai trong chúng ta cũng cần trở về, trở về với lòng mình, trở về với gia đình, với cộng đòan và trở về với tình yêu của Chúa.
Người cha nhân từ trong bài Phúc Âm hôm nay, đã đến với từng đứa con xin giúp đỡ. Ông nói,”Con hãy đi làm vườn nho cho cha.” Con thứ nhất trả lời, “Con không muốn đi” nhưng hối hận, sau lại đi. Còn con thứ hai tỏ vẻ sẵn sàng đi làm cho cha, nhưng rồi lại không đi. Dĩ nhiên người con thứ nhất làm cha vui lòng hơn.
Thử suy nghĩ, chúng ta là người con thứ nhất hay con thứ hai? Có lẽ cả hai. Cuộc sống với biết bao thăng trầm đổi thay. Hoàn cảnh thay đổi. Cuộc sống thay đổi. Tính tình con người cũng đổi thay. Lời xin vâng hôm nào trở thành lời chối từ hôm nay. Kẻ yêu thương trở thành địch thù. Người ta nói, “Phú quý sinh lễ nghĩa” nhưng ngược lại phú qúy sinh đạo tặc. Cuộc đời thay trắng đổi đen là thế.
Có anh chị vào xin rửa tội cho con. Trong cuộc truyện trò, tôi hỏi: Anh chị có phải là người công giáo không? Họ trả lời: Dạ phải. Nhà chúng con theo đạo công giáo mấy đời. Đạo gốc từ cha ông mà cha. Thế anh chị có đi tham dự lễ Chúa Nhật thường không? Anh chị thưa: Thỉnh thoảng chúng con đi, vào các dịp lễ lớn thôi. Tôi hỏi tiếp: Anh chị có lãnh nhận bí tích hòa giải thường xuyên không? Anh chị trả lời rằng: Chúng con có tội gì đâu mà xưng. Tiếp nữa, tôi hỏi: Anh chị có cử hành lễ cưới trong nhà thờ không? Anh chị cười và nói: Chúng con cũng chưa lãnh nhận Bí tích hôn phối. Một cách sống đạo bên ngoài rất hời hợt. Chỉ mang danh là Kitô Hữu. Nói một đàng, làm một nẻo.
Là Kitô Hữu, rất nhiều lần chúng ta đã nói lời “xin vâng”. Xin vâng khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, xin vâng khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Hôn Phối, Bí Tích Truyền Chức Thánh… Chúng ta đã hứa là sẽ đi làm vườn nho cho Chúa. Lời Xin Vâng hôm đó đã bị lãng quên. Chúng ta bận bịu với cuộc sống và chạy đua với thời gian thế là công việc bị bỏ lửng.
Giây phút thinh lặng nguyện cầu giúp chúng ta trở về. Trở về với Cha Nhân Hiền. Hãy thưa với Cha rằng con đã lầm đường, nay con trở về. Xin Cha thứ lỗi.
Nhà văn Aesop của Hy Lạp đã viết một câu truyện ngụ ngôn khá ý nghĩa. Một bữa kia, có một TN 26-A170
Nhà văn Aesop của Hy Lạp đã viết một câu truyện ngụ ngôn khá ý nghĩa. Một bữa kia, có một chú ếch gặp một con ốc sên và than thở: “Này anh bạn, tôi có một đôi chân rất khỏe. Chỉ cần nhảy một bước, tôi có thể đi được khá xa. Còn bạn, bạn bò rất chậm, lúc nào cũng ì à ì ạch chẳng đi được đến đâu. Nhưng không hiểu tại sao, bạn có thể trèo lên tận ngọn cây cao, còn tôi vẫn cứ lẹt đẹt mãi ở dưới đất thấp”. Nghe vậy, con ốc sên trả lời: “Lý do rất đơn giản. Bởi vì bạn nhảy bằng sức khỏe nơi đôi chân bạn, còn tôi thì trèo lên cao bằng cái miệng của tôi”. Câu truyện ngụ ngôn lột tả hiện trạng rất thực tế của xã hội ngày hôm nay. Nhiều người khá thành đạt, trèo lên được những vị trí cao trong xã hội không phải bằng tài cán hay nỗ lực của họ, nhưng chỉ bằng cái miệng khéo luồn lách và biết nịnh hót. Họ làm thì ít, nhưng nói thì nhiều. Sự gian manh qua miệng lưỡi vẫn thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay.
Tuy nhiên, chúng ta không thể gian dối và đánh lừa nổi Thiên Chúa. Ngài thấu suốt tâm can mỗi người. Dụ ngôn về hai đứa con được sai đi làm vườn nho cho cha mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay hàm ngậm sứ điệp này. Chúa muốn chúng ta phải sống trung thực, và lời nói luôn phải đi đôi với hành động.
Gian dối, một căn bệnh trầm kha
Dân gian vẫn thường nói cách mỉa mai: “Thẳng thắn thật thà thành thua thiệt, luồn lẹo lém lỉnh lẹ lên lon”. Trong một xã hội đầy những bon chen và lọc lừa, người ta sẵn sàng gian dối và dẫm đạp lên nhau để sống. Sự gian dối xảy ra ở khắp nơi, ở mọi ngõ ngách, mọi lãnh vực và nó có thể xuất hiện ngay cả trong những cơ cấu tổ chức trần thế của Giáo hội. Ngoài đời, chúng ta thấy tràn lan nạn mua bán bằng cấp giả để tiến thân, hay đút lót để được thăng quan tiến chức. Đây quả là một căn bệnh nan y mà trong bất cứ một xã hội duy vật nào chúng ta cũng thấy nhan nhản. Khi người ta chối từ Thiên Chúa, là ‘Sự thật, là Đường đi và là Sự sống’, thì không có gì mà họ lại không dám làm. Nhà văn Lưu Quang Vũ trong vở kịch ‘Tôi và chúng ta’ đã mỉa mai nói rằng: “Con người đã trải qua 3 thời kỳ, thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng và ngày nay là thời kỳ đồ đểu”. Sự đểu cáng dường như đang lên ngôi, kéo theo biết bao gian dối và lọc lừa.
Đây quả là một thách đố đối với tất cả chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu. Câu truyện dụ ngôn về hai người con mà Chúa nêu ra hôm nay, nói đến một quy chuẩn quan trọng để giúp ta luôn biết sống trung thực với Chúa, chứ không phải cứ nói một đàng lại đi làm một nẻo. Thiên Chúa không thẩm định giá trị chúng ta theo dáng vẻ bề ngoài, nhưng Ngài thấu tỏ tâm can từng người. Người con thứ ngày đêm quấn quít bên cha với những lời tâng bốc và xua nịnh, chắc chắn không phải là mẫu người mà Thiên Chúa ưa thích. Ngược lại, người con cả cho dầu tỏ ra cọc cằn, lúc đầu từ khước lời của cha nó, nhưng đã hối hận và đi làm theo ý cha. Câu hỏi Chúa nêu ra trong phần kết luận ‘Ai trong hai người con đã thi hành ý muốn của Cha?’, cũng là câu hỏi Chúa nói với mỗi người hôm nay để chúng ta xem xét lại cuộc sống nơi chính mình.
Sự chân thật của cõi lòng
Con người có thể lừa dối nhau rất dễ, nhưng chúng ta không thể nào lừa dối nổi Thiên Chúa là Đấng thấu biết mọi sự. Trong phương pháp giáo dục của Cha Thánh Gioan Bosco, Ngài luôn nhắc nhở các em học sinh: ‘Videt te Deus’, tức là ‘Chúa đang nhìn con’. Chúng ta cần luôn đặt mình trước mặt Chúa, sống trong sự hiện diện của Ngài để đừng bao giờ sống gian dối. Một văn sĩ nọ đã viết: “Một người thợ đập đá chân chất với một tâm hồn trong sáng vẫn đáng quý hơn những vĩ nhân với bao thành đạt, nhưng trong tâm hồn lại chất đầy những tư tưởng độc ác và bẩn thỉu”.
Câu truyện dụ ngôn Chúa nêu ra, trước hết nhằm kết án sự giả dối nơi những biệt phái và các đầu mục Do Thái giáo thời xưa. Có lần, Chúa còn trích dẫn lời của tiên tri Isaia để ám chỉ thái độ giả dối nơi họ: “Dân này thờ kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa ta’. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói thẳng vào mặt các Thượng Tế và các kỳ mục trong dân: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông (c. 31).
Khi suy niệm về dụ ngôn người Samaritanô nhân hâu, Đức Cha Bùi Tuần đã viết những dòng chia sẻ như sau: “Sau khi đọc đoạn phúc âm này, tôi cảm thấy rất xấu hổ, xấu hổ cho chính bản thân và xấu hổ cho cả Giáo hội. Để nêu ra một mẫu gương đức ái, Chúa không chọn một linh mục này hay một tu sĩ nọ, nhưng Chúa lại nêu bật mẫu gương của một người Samari, tức là một người ngoại giáo” (trích trong tập sách ‘Nói với chính mình’). Qủa đúng như thế. Nhiều khi chúng ta ăn nói rất giỏi, giảng dạy rất hay, chiêu mộ người khác theo đạo rất hiệu quả, nhưng có thể cuộc sống đạo của chúng ta cũng giống hệt những người biệt phái xưa kia, ‘Họ bó những gánh nặng để chất lên vai người ta, còn họ thì không buồn đụng ngón tay vào’ (Mt 23,4). Giữa lời nói và hành động của chúng ta, có khi là cả một khoảng cách xa vời vợi.
Tại một tu viện nọ, có một đan sĩ trẻ bị Bề Trên khiển trách vì có vài lần, người ta thấy vị tu sĩ này đứng tiếp chuyện những cô gái đẹp. Khi bị chất vấn, vị tu sĩ thánh thiện đó trả lời như sau: “Thưa Bề trên, theo con nghĩ, một tu sĩ đứng nói chuyện với những cô gái đẹp mà tâm hồn vẫn nghĩ về Chúa, còn tốt hơn là một tu sĩ vào nhà thờ để nói chuyện với Chúa, mà tâm hồn lại mơ tưởng đến những cô gái đẹp”. Nhà văn Bernerd Shaw cũng nói một câu tương tự: “Tâm hồn con người cũng giống như một cái cối xay. Bỏ vào đó thóc tốt, nó sẽ cho ra gạo ngon. Bỏ vào đó sỏi đá, nó sẽ chỉ cho ra cát sạn”. Chúa thấu rõ tâm hồn mỗi người và chắc chắn chúng ta không thể nào đánh lừa được Ngài.
Kết luận
Có lần ông Mahatma Gandhi vạch cái sẹo nơi bàn tay của mình cho các bạn trẻ thấy. Ông kể lại rằng lúc còn nhỏ, có lần ông đã nói dối mẹ để trốn học đi chơi. Bà mẹ khi biết ông nói dối, đã rất buồn và bỏ ăn. Bà còn nói thẳng với đứa con: “Thà mẹ thấy con ra đường bị xe cán chết, còn hơn thấy con nói dối”. Qúa xấu hổ, ông lấy một cục than hồng trong bếp nắm chặt vào bàn tay và đến xin lỗi mẹ. Ông hứa: “Con thề từ nay sẽ không bao giờ nói dối mẹ nữa”. Vết sẹo trong lòng bàn tay gợi nhắc lại lỗi lầm ngày xưa cũng như lời mà ông đã hứa với mẹ. Nhờ sống thẳng thắn và trung thực, ông đã trở thành một lãnh tụ vĩ đại của người dân Ấn Độ. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng bao giờ dối gian, nói một đàng nhưng lại làm một nẻo. Người ta vẫn thường nói rằng, con đường dài nhất trong cuộc sống không phải là con đường từ nam đến bắc, hoặc từ đông sang tây, nhưng chính là con đường từ cái miệng đến đôi tay. Xin Chúa giúp chúng ta biết rút ngắn con đường này lại bằng những việc làm cụ thể mỗi ngày.
Có vẻ như thời đại chúng ta ăn bánh vẽ khá nhiều, người ta thích nói và nhất là nói về những tầm TN 26-A171
Có vẻ như thời đại chúng ta ăn bánh vẽ khá nhiều, người ta thích nói và nhất là nói về những tầm nhìn đến năm này, năm kia. Cái gì cũng í ạch thêm thiền, thêm chi phí và cả thời gian đắp chiếu. Nói thôi thì có vẻ như cái gì cũng dễ, tưởng như nắm ngay trong tầm tay; nhưng người ta thường bảo: “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”. Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con, để chúng ta cùng suy nghĩ, lựa chọn điều nào tốt hơn để sống.
Nói đi mà không đi.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể gặp nhiều người thích nói hơn thích làm. Chúa Giêsu gặp nhiều hạng người này nên Chúa cũng bảo họ: “Đứng xét đoán” (Mt 7, 1). Trong cộng đoàn tiên khởi Thessalonica, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Th 3,10-12).
Bệnh khoe khoang. Căn bệnh bằng cấp đang là vấn đề nổi cộm, người ta dựa vào bằng cấp để có chỗ đứng, địa vị trong xã hội, nhưng họ đã cống hiến được gì? Càng ngày người ta càng thấy món nợ trên đầu dân mỗi ngày tăng thêm, và các thứ thuế siết vào cổ dân nghèo… Thời Chúa Giêsu, Ngài đã từng lên tiếng với những quan chức: ““Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ…Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23, 23; 28)
Nói không khi cần thiết
Câu trả lời không, một tiền đề cho một suy nghĩ về một lời đề nghị. Đôi lần trong cuộc sống cũng cần dừng lại để xem xét trước những lời mời hoặc những lời dụ dỗ, khiêu khích.
Theo nghĩa tích cực nào đó, thái độ này cần thiết. Có những hoàn cảnh không cần giải thích, vì cũng có những lúc chịu sự đánh giá của kẻ dưới tầm hoặc dã tâm gài bẫy, như Winston ChurChill nói: “Thanh minh là trao sức mạnh vào tay kẻ khác” và một câu nói nổi tiếng khác: “Bạn sẽ không bao giờ đạt đến đích, nếu bạn cứ dừng lại và ném đá vào mỗi con chó bên đường, chỉ vì tiếng sủa của chúng”..
Câu trả lời không trong hoàn cảnh bị chỉ trích hoặc bị lên án hay bị gài bẫy là điều Chúa Giêsu cũng đã trả lời bằng cách thinh lặng. Người ta đem đến Chúa để xử người phụ nữ ngoại tình, Chúa đã thinh lặng trước những lời cáo buộc và chỉ nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8, 2 – 11). Chúa Giê su trước tòa Philatô cũng đã im lặng trước những câu hỏi (Xem 19, 8 – 11). Trên thập giá, Chúa Giêsu thinh lặng trước những kẻ qua, người lại nhục mạ (Xem Mt 27, 39 – 44).
Chúa nói không với ta. Đôi khi có thể thấy những câu trả lời không, mang tính thử thách niềm tin, lòng trông cậy. Chúa Giêsu đôi khi Người cũng thử thách bằng cách nói câu không, như trước lời van xin của bà góa nghèo và câu trả lời của bà “Chó con cũng được ăn những mụn bánh từ bàn chủ rơi xuống” (Xem Mt 15, 21 – 28).
Đôi khi Chúa nói không và không hoàn toàn trước những lời nguyện xin chân thành. Những khi ấy, Chúa muốn lái cuộc đời của người cầu xin sang hướng Chúa muốn, vì điều đó tốt đẹp hơn. Trong câu truyện với hai môn đệ xin chỗ ngồi bên phải và bên trái trong vương quốc của Ngài. (xem Mt 20, 20 – 23), Chúa muốn điều khác, không phải quyền để thống trị, mà dùng quyền để phục vụ người khác.
Hối hận và đi làm.
Trở lại với bản văn Thánh Kinh, chúng ta nhận ra dấu vết của người anh cả, chính là dân Israel. Một dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng họ vẫn không nhận ra chính Chúa là Đấng Kitô họ đang chờ đợi. Họ muốn một Thiên Chúa theo ý muốn của họ chứ không phải theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Thế nên họ vừa tiếp nhận Thiên Chúa, nhưng lại khước từ khi Chúa đến ở giữa họ.
Một người con khác, gồm những người chưa biết Chúa, chưa bao giờ biết lề luật, bị xem là người tội lỗi. Họ đã nhận ra Chúa Đấng giải thoát họ đang ở giữa họ. Họ trở lại, đón nhận Tin Mừng giải thoát và phó thác cuộc đời mình trong Chúa. “Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi chứ không phải là những người công chính” (Mc 2, 17).
Là một dụ ngôn, Chúa dạy cho chúng ta nhiều bài học trong cuộc sống. Biết nói không trước những cám dỗ, thinh lặng khi bị chỉ trích. Những khi Chúa nói không với chúng ta, để ý muốn của Chúa được thực hiện. Cuối cùng chúng ta nhận ra mình luôn cần hoán cải để được đổi mới trong Chúa.
Bình thường người ta có thể đoán biết tình cảm con người thể hiện qua khuôn mặt, tuy nhiên trong TN 26-A172
Bình thường người ta có thể đoán biết tình cảm con người thể hiện qua khuôn mặt, tuy nhiên trong nhiều trường hợp người ta có thể dấu tình cảm trong lòng và người ngoài không thể đoán biết. Đôi khi trong lòng nổi sóng nhưng người ta dấu làm như cuộc sống bình thường, phẳng lặng. Dụ ngôn người cha nói với hai con đi làm vườn nho cho ông. Một người đáp lại thưa Ngài tôi sẽ đi nhưng cuối cùng không đi; người con kia cãi lời không đi nhưng sau đó nghĩ lại anh ta đi làm theo í cha mình. Dụ ngôn đưa ra hai trường hợp, hai lối sống đối nghịch nhau của hai người con.
Trường hợp một: hứa làm nhưng không làm cho thấy rõ ràng anh ta không có í định thực hiện điều hứa với cha. Anh gọi cha mình là Ngài không biết với dụng í gì? Rất có thể cha anh thuộc hàng lớp danh vọng trong xã hội và được mọi người coi là Ngài. Cũng có thể khi đáp lại cha anh, anh đặt mình vào vị trí người làm công trong nhà đối đáp với ông chủ. Cũng có thể tình cảm anh dành cho cha không được đầm ấm, nguội lạnh nên anh đối xử với cha mình như người ngoài. Chúng ta chỉ có thể đoán biết qua cách đối đáp và lời hứa suông, hứa mà không có í thực hiện. Trường hợp thứ hai người con kia thẳng thắn trả lời cha ‘con không đi’. Khi nghe thế hẳn người cha rất buồn lòng vì con cãi cha. Sau đó anh bỏ đi và hồi tâm lại, anh âm thầm thực hiện điều cha anh yêu cầu.
Dụ ngôn thể hiện hai lối sống trái nghịch nhau: lối sống biết hồi tâm và lối sống buông thả. Sống buông thả nên coi lời hứa nhẹ như gió thoảng; coi thường lời hứa với cha mẹ. Hứa cho có, cho xong qua lúc đó rồi thôi, thể hiện lối sống nông nổi, lang bang, không có chiều sâu. Sống theo thời trang là lối sống bận rộn bởi phải chạy đua với thời trang mới nên không còn giờ cho cuộc sống tâm linh. Cái mới mẻ, bắt mắt và cảm thấy như thế là hãnh diện, tự hào về hiểu biết của mình. Giầu kinh nghiệm thương trường, cập nhật tin tức, nhiều kiến thức thích hợp cho thời buổi khoa học, kĩ thuật. Những kiến thức trên không phải là ơn khôn ngoan cần thiết cho cuộc sống. Thiếu ơn khôn ngoan cuộc sống tâm linh trống rỗng, nghèo nàn cuộc sống nội tâm và khi vấp ngã khó đứng dậy bởi thiếu chiều sâu nội tâm là sức mạnh tiềm ẩn nhưng rất quan trong cho cuộc sống. Lối sống biết hồi tâm là lối sống có chiều sâu, dùng ơn khôn ngoan để sống. Ơn này chỉ có thể tìm thấy qua biết hồi tâm, xét mình, tự kiểm điểm lối sống để học hỏi, tìm tòi mong tránh điều sai trái. Hồi tâm để tìm hiểu, học hỏi chân giá trị của những gì mắt thấy, tai nghe. Hồi tâm giúp ta nhìn thấy giá trị tâm linh mà mắt thường không thể nhìn thấy và điều này rất bổ ích cho đường tâm linh. Khi áp dụng hồi tâm vào việc cầu nguyện chúng ta sẽ nhận biết rất nhiều điều thú vị mà trước đây chỉ nghe đến hay đọc qua mà không bao giờ được nếm thử. Chỉ có hồi tâm mới giúp cảm nhận được những hương vị tuyệt diệu của cuộc sống tâm linh. Tâm hồn họ bình thản trước sóng gió và khi vấp ngã họ có sức mạnh, mau chóng đứng lên tiếp tục tiến bước.
Gia đình luôn muốn để lại gia tài cho các con tiếp quản. Để làm được, người cha phải chỉ dạy TN 26-A173
Gia đình luôn muốn để lại gia tài cho các con tiếp quản. Để làm được, người cha phải chỉ dạy cho con mình cách làm việc. Trong “dụ ngôn hai người con” (Mt 21, 28-32), người cha lần lượt gọi từng người con vào làm vườn nho: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (Mt 20, 28). Nhưng thái độ và câu trả lời của hai người con rất khác nhau. Vậy, “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” (Mt 21, 31)
Trong tình thương, con người có thể thay đổi. Trước lời mời gọi của người cha hãy đi làm vườn nho, người con thứ nhất trả lời: “Con không muốn đâu”. Tại sao anh lại trả lời như vậy ? Phải chăng còn rất nhiều thứ đang lôi kéo cuốn hút anh trong xã hội. Nào là những cuộc hẹn hò, ca hát cùng bạn bè, những chuyến phiêu lưu đây đó. Những cuộc tình làm anh thỏa mãn, thích thú. Những trò chơi cá cược làm anh khoái chí. Hay phải chăng trong anh đang có sự chần chừ, ngại ngùng, bởi khi làm vườn nho, anh sẽ phải chịu nắng nôi, khổ cực. Nhưng anh đã hối hận và đi làm. Anh hối hận bởi anh chẳng tìm đâu bằng tình thương của người cha dành cho anh. Người cha luôn yêu thương và tôn trọng anh. Người cha chẳng bắt ép anh phải làm cái này cái kia, chẳng ép anh phải làm theo lời cha, nhưng luôn để anh tự do chọn lựa, quyết định. Dù anh trả lời cha rằng anh không muốn, người cha vẫn tôn trọng và chờ đợi. Anh cảm nghiệm được tình yêu thương của cha, anh đã quay về và làm theo ý cha.
Thật vậy, Thiên Chúa mời gọi chúng ta thừa hưởng gia tài của người con, với biết bao hồng ân, được sống trong ơn nghĩa Chúa. Giống như người con thứ nhất, con người luôn bị chủ nghĩa cá nhân, hưởng thụ lôi cuốn, luôn muốn vun đắp cho bản thân, tự cho mình là hơn, từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn chờ đợi con người quay trở về, hưởng phần thưởng dành sẵn cho mỗi người, dù họ ở trong tình trạng nào: “Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31)
Ban đầu, người cha chắc sẽ rất vui mừng hạnh phúc vì tiếng thưa vâng của người con thứ hai. Nhưng người cha rất đau đớn và thất vọng khi người con nói mà không làm. Nói mà không làm là kẻ nói dối. Hành động của người con thứ hai làm cho mỗi người chúng ta phải tự hỏi lại chính mình. Hằng ngày, chúng ta vẫn hay tham dự Thánh lễ, đọc kinh rất sốt sắng. Chúng ta luôn được dạy rất nhiều về sống yêu thương,…, Nhưng mỗi người có làm được không ? Hay chưa hiểu chuyện chúng ta vội vàng đổ lỗi cho nhau. Thiệt thòi một chút, chúng ta đã so đo tính toán. Chúng ta có làm ăn lương thiện, chân chính không ? Gia đình có biết thông cảm và tha thứ cho nhau, hay luôn xảy ra mâu thuẫn ? Con cái có vâng lời cha mẹ không ?…. Nhiều lúc, chúng ta dễ dàng xét đoán người khác mà chẳng nhìn lại chính mình. Bề ngoài có vẻ rất ổn và tốt, nhưng bên trong đầy những sự dối trá.
Lạy Chúa, chúng con luôn muốn và đòi hỏi những gì chúng con cần nhưng chẳng biết điều gì là tốt. Nhưng Chúa thì khác, Chúa luôn dành sẵn những gì là tốt nhất cho chúng con. Xin cho chúng con luôn can đảm đáp lại tiếng Chúa mời gọi, và mau mắn thi hành những điều Chúa gửi đến cho chúng con. Xin cho chúng con không chỉ nói suông trên môi miệng, nhưng còn thực hành những gì Chúa dạy, Chúa muốn trong cuộc sống mỗi ngày của chúng con. Amen.
Cũng đã hơn một lần kẻ viết bài này nhắc tới những người hay đem thuyết định mệnh để bào TN 26-A174
Cũng đã hơn một lần kẻ viết bài này nhắc tới những người hay đem thuyết định mệnh để bào chữa cho lối sống của mình. Cái gì cũng do “Trời định”, “Chúa định” hết, con người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi bị trói chặt vào số mệnh, không còn một chút tự do. Họ cho rằng con người giàu hay nghèo, hạnh phúc hay đau khổ, nhàn rỗi hay vất vả, tất cả đều đã được ông Trời tiền định từ trước khi con người được sinh ra ở trần gian (“Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” – Truyện Kiều – Nguyễn Du). Theo triết học thì “Thuyết định mệnh” (determinism, providence) là một quan niệm cho rằng quá trình lịch sử thế giới, kể cả đời sống con người đều được quy định từ trước bởi một ý chí tối cao, bởi số kiếp, số phận. Con người dù muốn hay không cũng không thể tránh được. Do đó chỉ còn có thể có thái độ cam chịu. Trong thế giới cổ đại, quan niệm này được lưu hành rộng rãi và theo nó, số kiếp chẳng những thống trị con người, mà còn thống trị cả các thần linh.
Nói chung, trong lịch sử, “Thuyết định mệnh” đóng vai trò tiêu cực. Một mặt, quan niệm số kiếp quy định từ trước đã kích thích thái độ thụ động, sự phục tùng mù quáng vào hoàn cảnh. Mặt khác, lòng tin vào quyền lực vô hạn của ý chí tối cao, của Thượng đế, đã gây ra sự cuồng tín có tính chất tôn giáo. Quả thật, nhìn vào tôn giáo cũng thấy không ít luồng tư tưởng cho rằng tất cả mọi sự lớn nhỏ thuộc về con người đều được Thượng đế sắp đặt sẵn. Với Ki-tô giáo thì vì thấy những sự kiện, biến cố xảy ra trong Tân Ước đều đã được tiên báo từ Cựu Ước và chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nói những việc Người làm đều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh, lời các ngôn sứ từ Cựu Ước”, nên nhiều người cũng cho rằng tất cả cuộc sống con người ở trần gian đều đã được Thiên Chúa quan phòng “tiền định”. Từ đó nảy sinh quan niệm cho rằng cái gì cũng do Chúa định, Chúa an bài (giống như thuyết định mệnh cho rằng tất cả đều do Trời định). Thậm chí có những người sống cuộc đời không lương thiện, đến lúc nhà tan cửa nát, bị tù bị tội, thì lại đổ thừa “Chúa định cho tôi như vậy”. Để giải tỏa bớt những quan niệm yếm thế, tiêu cực đó, có lẽ cần phải hiểu vấn đề một cách thiết thực hơn:
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã giải thích về Thiên Chúa quan phòng: “Sự quan phòng chính là Thiên Chúa lo liệu với sự khôn ngoan và tình thương để dẫn đưa mọi thụ tạo tới cùng đích tối hậu của chúng.” (GL/HTCG, số 321); “Đức Ki-tô mời gọi chúng ta phó thác với tâm tình con thảo vào sự quan phòng của Cha trên trời (Mt 6, 26-34). Thánh Phê-rô cũng nhắc: “Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5, 7; Tv 55, 23)” (GL/HTCG, số 322); “Thiên Chúa quan phòng cũng hành động qua hành động của các thụ tạo. Thiên Chúa cho con người được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người.” (GL/HTCG, số 323). Điều đó cho thấy Thiên Chúa quan phòng sắp xếp cho con người có mặt ở trên đời, ban cho nhiều ơn lành để sống xứng đáng là con Thiên Chúa “được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người”, đồng thời Người còn ban Thần Khí soi sáng cho con người biết luôn can đảm để “làm lành lánh dữ”.
Thật là mầu nhiệm, ngay cả những hành động gian ác của con người cũng không ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Một cách nào đó, chỉ có mình Thiên Chúa biết, Người cho phép có sự ác nhưng cuối cùng Người xoay chiều cái ác thành cái thiện (St 50, 20). Mầu nhiệm này đạt đến đỉnh điểm trong cái ác lớn nhất mà con người đã làm: đó là giết Người Con chí ái của Thiên Chúa trên Thánh giá. Thiên Chúa đã biến đổi hành động này thành sự thiện. Sự kiện này đã được Giáo lý HTCG (số 312) xác nhận: “Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu qủa của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lưu do thụ tạo gây nên: “Giu-se nói với anh em: không phải các anh đă đưa đẩy tôi đến đây nhưng là Thiên Chúa, … sự dữ mà các anh đă định làm cho tôi, ý định của Thiên Chúa đă chuyển thành sự lành… để cứu sống một dân đông đảo.” (St 45, 8; 50, 20). Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của con người gây nên, Thiên Chúa đă rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng (Rm 5, 20): Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được.”
Còn vấn đề tiền định ở đây cũng không phải là định mệnh. Tiền định chỉ có nghĩa là Thiên Chúa biết trước (tiên liệu) và đưa ra quyết định ứng phó, hóa giải (Vd: Khi dựng nên loài người và ban cho sự tự do, Thiên Chúa đã tiên liệu con người sẽ phạm tội, nên Người hoạch định công trình cứu độ và cho con người được cộng tác vào công trình ấy, như trường hợp Đức Maria được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa và đồng công cứu chuộc nhân loại). Giáo lý HTCG (số 1037) dạy: “Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục. Ai tự ý lìa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai lì đến cùng, sẽ phải xuống hỏa ngục. Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của tín hữu, Hội Thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ bi, Ðấng “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải (2 Pr 3, 9)”. Con người là thụ tạo nhưng được hoàn toàn tự do sống theo ý mình, không hề bị ép buộc theo một khuôn khổ định sẵn.
Vấn đề con người được tư do đã được Công Đồng Va-ti-ca-nô II – thông qua Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” – khẳng định: “Chỉ trong tự do con người mới có thể hướng về sự thiện … nhân cách con người đòi con người phải hành động theo sự chọn lựa có ý thức và tự do …” (GS, số 17); “Vì nhờ những phẩm cách nội giới của mình, con người vượt trên toàn thể mọi thứ vật chất. Con người chỉ thấu triệt thực thể này khi nào con người đi vào trái tim mình, Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi con người nơi trái tim họ; tại đó chính con người tự định đoạt lấy vận mệnh mình dưới mắt Thiên Chúa” (GS 14); “Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất hình ảnh Thiên Chúa trong con người” (GS 17). Rõ ràng Thiên Chúa sáng tạo con người theo “hình ảnh Thiên Chúa.” (St 1,26) là đã cho con người được hoàn toàn tự do. Một bằng chứng hiển nhiên: Vì con người được hoàn toàn tự do nên mới làm theo sự cám dỗ của ma quỷ để sa vòng tội lỗi (St 3, 1-24).
Quả thực vấn đề số mệnh, định mệnh đã làm khổ con người không ít. Người Ki-tô hữu lại càng cần phải hiểu thấu đáo vấn đề. Không bao giờ có chuyện “Chúa định cho tôi phải thế này, phải thế kia, phải tán gia bại sản, phải vào tù, phải bán vợ đợ con v.v… và v.v…”. Con người được hoàn toàn tự do lựa chọn cho mình một con đường sống “hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của vật chất” (Mt 6, 24; Lc 16, 13). Đọc và suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN XXVI/TN-A – Ed 18, 25-28), vấn đề sẽ được khai thông. Vâng, nếu tất cả đều do “Trời định”, “Chúa định”, thì sao lại có vụ một người công chính đi làm điều gian ác để đến nỗi phải chết? Còn kẻ gian ác thì “từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh” để “chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết”? Cuối cùng thì chính Thiên Chúa lại nói: “Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống.” (Ed 18, 32).
Chúa có định cho một người công chính mà lại “theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm” hay không? Hoàn toàn không, trăm ngàn lần không. Hắn đã tự ý làm vì bị mê hoặc, cám dỗ mà hắn không tự biết. Khi hắn bị hình phat, Thiên Chúa cũng chẳng vui gì, mà trái lại nữa là khác. Còn đối với kẻ gian ác, Chúa cũng chỉ khuyên bảo răn đe, hoàn toàn không ép buộc phải thế này hay thế khác. Khi kẻ gian ác hiểu ra những sai phạm của mình, sẵn sàng từ bỏ điều dữ mà thi hành điều công minh chính trực; được như vậy, nó sẽ sống, tất nhiên. Chính vì thế, nên Thiên Chúa mới mời gọi và khuyên răn: “hãy trở lại và hãy sống”. Cho nên có thể nói, con người đã tự định đoạt số phận của mình. Chẳng ai bắt anh phải làm thế này, buộc anh phải sống thế kia, tất cả đều do anh tự chọn và quyết định cho cuộc đời của mình.
Tiếp tục suy niệm bài Tin Mừng hôm nay trình thuật dụ ngôn “Hai người con” (Mt 21, 28-32), thấy rõ hai người con này tự quyết định theo ý mình trước lời kêu gọi của người cha. Người con thứ nhất lúc đầu thì từ chối, nhưng sau đó lại vào làm, còn người thứ hai thì mau mắn nhận lời nhưng sau đó lại không đi. Đọc tới đây, ai cũng hiểu ngay con người sống trên đời luôn có tự do và Thiên Chúa tôn trọng sự tự do đó của con người. Chính người con thứ nhất, cứ tưởng anh ta sẽ không đi làm theo ý cha vì anh ta đã thẳng thắn từ chối, nhưng rồi anh lại đi. Còn người con thứ hai thì mau mắn đáp lời cha, ai chẳng cho rằng anh ta sẽ thi hành ý cha cách tốt đẹp, vậy mà rốt cuộc thì lại trốn tránh. Cá hai trường hợp đều rơi vào cảnh “ngôn hành bất nhất” (lời nói và việc làm không thống nhất với nhau), nhưng xét cho cùng, người con thứ nhất mới là người đáng để cho người khác học hỏi.
Sở dĩ Đức ki-tô kể dụ ngôn “Hai người con” cũng bởi vì đám thượng tế và kỳ mục Do Thái vặn hỏi Đức Giê-su về quyền bính của Người (Mt 21, 23-27). Kể dụ ngôn, nhưng Đức Giê-su không kết luận, mà đặt câu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21, 31) để người nghe tự đưa ra kết luận. Đáng lẽ Đức Giê-su căn cứ vào câu trả lời của nhóm người này, dạy bảo họ “hãy trở lại và hãy sống”, thì Người lại nói tới bọn gái điếm và thu thuế vốn bị coi là tội lỗi, là những người sẽ “vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” (Mt 21, 31-32).
Quả thật đây là một cái tát cực mạnh vào đám người huênh hoang tự phụ, hay đứng ở ngã ba ngã tư, khua chiêng đánh trống (Mt 6, 1-6); hoặc thích “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy… đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 2-7) Đó là những tên lẻo mép, chỉ biết nói mà không thèm làm, hệt như người con thứ hai trong dụ ngôn (“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu!” – Mt 7, 22; “Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” – Mt 23, 1-3).
Chung quy thì cũng chỉ vì anh nói thì hay lắm, rất hay; nhưng anh lại không làm được đúng như điều anh đã nói. Một cách cụ thể, anh không tin vào những điều anh nói – không tin cả chính mình – như vậy thì sao có thể gọi là những người đi nói cho kẻ khác tin? Còn người thu thuế và gái điếm, thì vì họ biết nhìn lại mình, biết mình là người tội lỗi và biết tin vào người chỉ dẫn cho mình đường ngay lẽ phải, chính nhờ vậy mà họ thành công. Thật rõ ràng như hai với hai là bốn: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình.” (Ed 18, 26-27).
Ôi, lạy Chúa! Chẳng phải nói ai khác, mà chính bản thân con, từ trong sâu thẳm lòng mình, cũng đã hơn một lần con thèm muốn được như đám thượng tế, kỳ mục, kinh sư Do Thái, cho dù sau đó có bị án phạt thì cũng cam lòng (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, Còn hơn buồn le lói suốt năm canh” – Xuân Diệu). Thế đấy! Con cũng chỉ là một con người tầm thường, bé nhỏ, mỏng giòn, chỉ biết suy tính theo cái tư tưởng bất toàn của loài người. Lời nói của con không đi đôi với việc làm, mà nhiều khi còn đối kháng với hành động của con. Điều đó lại càng chứng tỏ chúng con đã được Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, con đã lợi dụng sự tự do đó mà làm nô lệ cho tội lỗi mà không tự biết.
Quả thật “Khi còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết.” (Rm 6, 20-21). Chính vì thế, cúi xin Chúa soi lòng mở trí cho con, thêm sức cho con biết luôn luôn “nhìn lại mình” để chiến thắng chính mình trước đã, và biết luôn luôn đem Lời Chúa dạy ra thực hành với châm ngôn “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
Tóm kết nhân vật Emily Dickison do nữ diễn viên người AnhJulie Harris đóng trong vở kịch TN 26-A175
Tóm kết nhân vật Emily Dickison do nữ diễn viên người AnhJulie Harris đóng trong vở kịch ‘The Bell of Amerhahart’, Lm Jack Mc Ardle đã viết:Trong hồi thứ nhất, khán giả được biết về hoàn cảnh tôn giáo của Emily. Bà xuất thân từ một gia đình theo Thanh Giáo nghiêm khắc, cứng nhắc; thân phụ bà là một chức sắc trong đạo. Emily phải đi nhà thờ một cách miễn cưỡng, phải làm các việc đạo đức một cách bắt buộc, v.v…Do đó, não trạng phản kháng đã trỗi dậy trong cuộc sống của người phụ nữ này. Bà bắt đầu chất vấn về một số giáo huấn và tập tục mà bà đã được giáo dục. Tuy vậy, Emily vẫn là một con người đức độ. Thơ ca của bà biểu lộ một sự ý thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa thế gian này và về mầu nhiệm vĩ đại của sự sống và sự chết. Như chúng ta đã biết, thỉnh thoảng Emily đã phải chiến đấu với những hoài nghi và những nỗi sợ hãi về Thiên Chúa và về đạo giáo. Tuy nhiên, trong vở kịch ấy, đã có lúc Emily Dickison đã xác nhận rằng: “ Tôi biết chắc điều này là không ai có thể hạnh phúc thực sự cho đến khi nào họ nói thực sự rằng ‘ Tôi yêu mến Chúa Kitô’.
Các kỳ lão, biệt phái và thượng tế trong đền thờ là những người tự xưng mình là những người gương mẫu về đời sống tôn giáo. Họ giữ luật một cách nghiêm ngặt đến mức độ cực đoan. Họ xem những người bất hạnh hay lỗi luật là những người tội lỗi không còn xứng đáng với Nước Trời. Để phê phán lối sống hình thức hẹp hòi của họ, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn về hai người con như sau: “ Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “ Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “ Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “ Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi.” Đức Giêsu hỏi những người đang chất vấn Ngài: “ Trong hai người đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Người con thứ nhất, tuy không thuận với ý kiến của cha, nhưng vì hối hận, anh lại thi hành hành ý muốn của cha; ngược lại, người con thứ hai vâng ý cha, nhưng lại không làm. Ngôn hành bất nhất. Cả hai đều bị giằng co giữa đi và không đi.
Nhà có một vườn nho. Đó là vườn nho Nước Trời. Lẽ ra, chẳng cần người cha hỏi ý kiến, các con của ông cũng phải cảm thấy trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Vườn Nho ấy. Nhưng ông lại không mệnh lệnh độc đoán. Ông không ra lệnh, không ép buộc các con của ông phải làm theo ý của mình. Ông tôn trọng quyền tự do quyết định của các con ông.
Thiên Chúa cũng vậy. Ngài là Cha, là Thiên Chúa đầy lòng khoan dung. Ngài có quyền sai khiến cho con người phải hành động theo ý muốn của Ngài. Nhưng Ngài đã không làm như thế, vì Ngài tôn trọng quyền tự do của con người. Nếu là một Thiên Chúa chỉ dùng quyền lực để sai khiến con người thì Ngài chẳng cần gì phải hỏi ý kiến của các con của mình. Người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt mệnh lệnh độc đoán lên con người. Qua hình ảnh người cha nhân từ, tôn trọng ý kiến của những người con, Thiên Chúa cũng tôn trọng quyền tự do mà Ngài đã trao ban cho con người. Với sự tự do này, con người có thể bước theo thánh ý của Ngài hay khước từ quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý của Ngài, nhưng cũng có thể khước từ ý muốn, đường lối của Ngài. Điều quan trọng là Thiên Chúa sẽ xét xử con người tùy theo thái độ của chúng ta trong quyết định làm hay không làm theo thánh ý của Ngài chứ không phải theo lời nói suông.
Là người Kitô hữu, chúng ta vẫn luôn nghe lời mời gọi của Thiên Chúa: “ Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho.” Và chúng ta đã đáp lại lời gọi ấy như thế nào?Hãy cảnh tỉnh với lời cảnh cáo của Đức Giêsu nói với các thượng tế và kinh sư: “ Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Tất cả vì sự hối hận và lòng tin.
Các ngươi nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng”. (x. Ed 18,25)
Con người chúng ta cho rằng đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng. Vì sao ? Vì người xấu TN 26-A176
Con người chúng ta cho rằng đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng. Vì sao ? Vì người xấu ăn năn trở về thì Chúa vui mừng; còn người tốt, làm điều xấu thì nghiêm khắc xử phạt.
Ví dụ như, “Khi người công chính mà tử bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nói phải chết”(x.Ed 18,26). Có nghĩ là Chúa đã quên hết những việc tốt người đó đã làm.
“Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết”(x.Ed 18,27-28). Chúa đã quên hết những việc xấu xa họ đã làm.
Điều này con người chúng ta không đồng ý và cho đường lối của Chúa như vậy là không ngay thẳng, không đúng, không được. Đối với con người chúng ta, Chúa mà quên hết những lỗi lầm khi chúng ta phạm tội thì OK, nhưng quên luôn cả những việc tốt ta đã làm thì không được. Đó là Nhân Sinh Quan. Nghĩa là quan điểm sống của con người; chứ không phải “Thiên Sinh Quan”, nghĩa là Quan điểm sống của Thiên Chúa.
Quan điểm của con người không giống như quan điểm của Thiên Chúa. Như trong bài đọc 2, thánh Phao-lô khuyên: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”(x.Pl 2,3). Đây là Thiên Sinh quan. Kết quả là gì ? Là bác ái, là bình an.
Còn Nhân Sinh Quan là: con người làm phải ganh tị, làm vì hư danh; phải cao ngạo coi mình hơn người khác mới được. Kết quả là gì ? là cãi nhau, là chiến tranh; là bất bình và bất hòa.
Trong bài Phúc Âm thì Đức Giê-su nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”(x.Mt21,31).
Vậy đường lối của Chúa có chính trực không; Thiên sinh quan có đúng không? Ta cùng nhau suy ngẫm.
Bây giờ có ai trong chúng ta là người công chính và thánh thiện không?
Chắc là không. Chúng ta đang trên con đường nên thánh nên thiện thôi. Có thể nói chúng ta là những người xấu xa và gian ác, đang lột xác dần dần để nên người công chính và thánh thiện.
Vậy trong khi lột xác, nghĩa là ta đang cố gắng bước theo đường lối của Chúa; đang cố gắng từ bỏ những tính hư tật xấu, bằng cách ăn năn sám hối vì những việc xấu mình đã làm và quyết tình không làm điều xấu nữa, tập làm điều thiện. Như thế ta sẽ lãnh nhận đượcc phẩn thưởng Chúa hứa ban và quên hết những lầm lỗi của ta. Chắc là ta vui mừng và sung sướng lắm.
Nhưng ta có chắc là ta không làm điều xấu và điều ác cho đến khi nhắm mắt không? Được như vậy thì quá tốt. Nhưng không được như vậy thì sao? Nhỡ có khi nào ta lại bỏ đàng công chính mà đi làm những điều bất chính thì sao? Chúa sẽ nghiêm khắc phạt ta và quên hết những điều tốt ta đã làm. Điều này ta lấy làm tiếc và ái ngại lắm. Vì cố gắng bao nhiêu, nay “đổ xuống sống, xuống biển” hết. Bởi đó mà ta cho rằng đường lối của Chúa không chính trực.
Đường lối của Chúa không chính trực hay đường lối của ta không chính trực ? Con người chúng ta chỉ khôn lỏi thôi. Khi lầm lỗi thì xin Chúa nhân từ tỏ lòng từ bi, muốn tha và có làm được điều tốt gì thì xin Chúa trả lại cho con sự công bằng và không muốn quên điều tốt đã làm. Ta thử nghĩ xem, ta ở trong tình trạng xấu nhiều hay tốt nhiều ? Ở trong tình trạng thánh thiện, tốt lành nhiều hay ở trong tình trạng tội lỗi, xấu xa nhiều?
Đối với con người chúng ta, nếu có một thời ta hy sinh, ta cố gắng lập được những chiến công, những thành tích, thì khi có lỡ hay cố tình phạm một lỗi nặng nào thì muốn xí xóa, muốn du di. Có những cái du di hay xí xóa được, có cái không được. Chỉ có thể giảm khinh bớt đi mà thôi. Vậy thì ta đừng bao giờ phạm những lẫm lỗi nghiêm trọng và tàn ác để ta được xử khoan hồng. Phải chăng đây là thông điệp; là Tin Mừng mà Chúa muốn nói ?
Quả thực Thiên Chúa của chúng ta là Đấng nhân từ vô cùng mà cũng là Đấng công bằng vô cùng, ta đừng làm gì quá để Chúa khó xử. Nghĩa là ta đừng ỷ nại vào lòng nhân từ của Chúa mà làm bậy, mà lỗi nặng, mà phạm tội trọng bao giờ. Chúa có nghiêm khắc cũng là để giúp ta đừng để Chúa xử dụng tính công bằng, nhưng giúp ta làm sao để Chúa chỉ xử dụng tính nhân hậu, từ bi của Chúa thôi. Ta có lỡ phạm thì cũng phạm lỗi nhỏ, phạm điều nhẹ thôi, ta sẽ được Chúa khoan hồng và không cất hết những việc tốt ta đã làm. Đó là Thiên Sinh Quan đấy.
Một người nói: VÂNG, nhưng không làm và một người nói KHÔNG, nhưng lại làm, người nào tốt đây, người nào chính trực đây? Cả hai người đều nói dối cả. Thế nhưng người nói KHÔNG mà lại làm vẫn hơn người nói VÂNG mà lại không làm. Nếu có người nào đó nói VÂNG và lại làm nữa thì TUYỆT VỜI. Đó là Nhân sinh Quan của người con cái Chúa.
Vậy đường lối của Thiên Chúa thật chính trực; Thiên Sinh Quan thì tuyệt vời. Ta hãy theo đường lối của Chúa mà đi; hãy mang lấy Thiên Sinh Quan mà sống. Ta sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Ta sẽ được sống trong tình yêu và được trong bình an. A-men.
Hối hận là thái độ tiếc nuối vì một việc xấu mình đã làm, hay vì một việc tốt mình lẽ ra phải làm TN 26-A177
Hối hận là thái độ tiếc nuối vì một việc xấu mình đã làm hay vì một việc tốt mình lẽ ra phải làm mà đã không làm. Khi thật sự hối hận, người ta muốn làm điều gì đó để sửa sai. Giuđa hối hận vì đã nộp Thầy, khiến Thầy bị bắt (Mt 27,3). Anh ấy đã đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và nói: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội” (Mt 27,4). Tiếc thay Giuđa đã tìm đến cái chết cho mình. Khác với Phêrô, người đã chối Thầy ba lần, Giuđa đã để cho hối hận trở thành ân hận và tuyệt vọng. Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến hối hận. Người con thứ nhất đã hối hận sau khi anh từ chối vâng lệnh cha. Cha bảo anh đi làm vườn nho cho cha ngay hôm nay. Anh đã nói thẳng với cha: “Con không muốn!” Anh dám đặt ý muốn của mình trên ý muốn của cha, dù chống lại uy quyền của cha là điều không thể chấp nhận được. May thay “sau đó” anh đã hối hận, nên lại đi (Mt 21,29). Chúng ta không rõ “sau đó” là bao lâu, Và đâu là lý do khiến anh đổi ý. Chắc anh đã nghĩ lại về thái độ của mình đối với cha. Người con thứ hai cũng được cha anh mời đi làm vườn nho. Anh này mau mắn đáp lại: “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21,30). Rõ ràng anh sẵn sàng tuân lệnh cha với sự kính trọng. Anh đồng ý đi làm cho cha không một chút đắn đo. Tiếc thay, sau đó anh lại không đi. Chúng ta không rõ tại sao anh không đi sau khi đã nhận lời. Rốt cuộc, người con chối từ thì lại chấp nhận đi. Còn người con chấp nhận đi thì lại chối từ. Điều quan trọng đâu phải là nói tiếng xin vâng hay kêu “Lạy Chúa.” Điều đáng kể là “thi hành ý muốn của người cha” (Mt 21,31). Người con nói: “Con không muốn!” lại là người sau này đã làm ý muốn của cha (x. Mt 7,21; 12,50). Đức Giêsu đã kể dụ ngôn này cho các nhà lãnh đạo Do-thái giáo. Họ đã dễ dàng trả lời câu hỏi của Ngài về người con nào ngoan, nhưng họ không ngờ Ngài kể dụ ngôn này nhắm vào họ. Chính họ là người con thứ hai, kẻ đã không đi làm vườn nho cho cha. Các nhà lãnh đạo ở đây là các thượng tế và kỳ mục trong dân. Họ là những người thông thạo về Luật, dạy dân chúng về Luật, và được coi là những người giữ Luật nghiêm túc chi li. Đúng họ là người con đã nói “xin vâng” để đi làm vườn nho cho cha. Nhưng họ đã không tin ông Gioan là ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, không chấp nhận phép rửa của ông là phép rửa từ trời (Mt 21,25). Gioan làm chứng về Đức Giêsu, nên họ sợ lời chứng của Gioan. Chính vì thế họ cũng không chịu hoán cải như Gioan mời gọi (Mt 3,2). Khép lại trong sự tự mãn cứng cỏi của mình, họ lạc xa đường công chính mà chẳng biết đến hối hận. Ngược lại, những người thu thuế và gái điếm có đời sống tội lỗi, những kẻ đã nói như người con thứ nhất: “Con không muốn!” nhưng sau đó lại là những người đi làm vườn nho. Họ đã tin vào Gioan và lời mời gọi của ông, hối hận và muốn hoán cải để đón lấy Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói một câu không ngờ với giới lãnh đạo: “Các người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Quá khứ tội lỗi có thể bị xóa sạch bởi thái độ hối hận. Hối hận hay hoán cải làm người ta đổi quyết định trước đó. Ngày nào còn sống trên đời, ai cũng có thể quay đi với quá khứ và quay lại với chính lộ, để tìm ra cửa vào Nước Trời. Thiên Chúa vẫn chấp nhận câu từ chối: “Con không muốn!” của tôi, và nhiều câu từ chối khác trải dài suốt đời. Chỉ mong câu cuối cùng ở cuối đời tôi là: “Con muốn, Chúa ạ!” Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế, Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất lòng mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Quay đầu là bờ” là lời khuyên dành cho những ai đang làm việc sai trái hãy tỉnh ngộ trước khi TN 26-A178
“Quay đầu là bờ” là lời khuyên dành cho những ai đang làm việc sai trái hãy tỉnh ngộ trước khi mọi thứ trở nên quá muộn màng. Cụm từ này có nguồn gốc từ một thành ngữ trong tiếng Hán: “Khổ hải mang mang, Hồi đầu thị ngạn” (dịch là: Biển khổ mênh mang, Quay đầu là bờ). Trong cuộc sống, mỗi chúng ta đều có những sai lầm, có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Có người khi đã sa vào con đường tội lỗi, cứ nhắm mắt đưa chân, buông theo số phận và càng ngày càng trượt dốc. Biết tỉnh ngộ và nhận ra những lầm lỗi, đó chính là quay đầu. Như người đang bơi giữa đại dương, có quay về mới hy vọng gặp bờ. Cứ đi mãi ắt sẽ chết chìm giữa biển cả.
“Quay đầu là bờ”. Đây không chỉ là tiếng gọi của lương tâm hay tiếng gọi của bạn bè, mà chính là tiếng gọi của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta trở về, để hưởng tình thương của Ngài, như tình thương của người Cha. Suốt bề dày của lịch sử Cứu độ, bằng nhiều cách khác nhau, Thiên Chúa luôn kêu gọi tội nhân sám hối trở về để được ơn tha thứ. Bởi vì Chúa là Đấng từ bi, “Người có giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 29.6).
Lời Chúa của Chúa nhật 26 thường niên là lời mời gọi hãy sám hối và hãy nhận ra tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã ghi lại lời Chúa phán: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”. Thiên Chúa rất dễ “quên” quá khứ của những tội nhân. Ngài không muốn nhớ lại những sự dữ của con người. Những ai cố tình chối bỏ giáo huấn của Chúa mà chạy theo lối sống gian tà, sẽ phải trả giá cho những chọn lựa của mình. Chúa trao cho ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhiệm vụ cảnh báo dân chúng, để họ từ bỏ lối sống sa đoạ, sám hối trở về với Chúa để được Ngài thứ tha. Con người thường dựa vào lối suy nghĩ thiển cận và ích kỷ của mình để phê phán cả Thiên Chúa. Vì thế Đức Chúa đã phán: “Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?”. Chúa là Đấng công minh. Ai làm điều xấu sẽ phải trầm luân; ai làm điều lành sẽ được thưởng phúc. Trong đoạn văn liền trước Bài đọc này, Đức Chúa đã khẳng định: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết. Con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18,20). Người ta không được lấy công của quá khứ mà xoá đi tội của hiện tại. Cũng vậy, không thể căn cứ tội của ngày xưa để trừng phạt ngày nay. Trong xã hội ngày nay, nhiều người cậy thân nhân có chức quyền để làm những điều sai trái, rồi lại chạy án, tráo trở biến tội thành công hoặc biến đen thành trắng. Tiền bạc làm con người mờ con mắt và mất lương tâm là thế.
Con Thiên Chúa đến trần gian để kêu gọi những tội nhân trở về. Trong số những người nghe Chúa Giê-su giảng, có người giàu, người nghèo; có người trí thức, người bình dân. Có những người thu thuế và những cô gái làng chơi đã rộng mở tâm hồn để đón nhận lời giáo huấn của Người. Nhờ gặp gỡ Chúa Giê-su, cuộc đời của họ đã sang trang. Có những người, sau khi phục thiện, đã trở nên môn đệ của Chúa. Thiên Chúa đã quên quá khứ của họ. Ngài phục hồi phẩm giá của họ và trao cho họ sứ mạng cộng tác với Ngài.
Trước sự cứng lòng và vô tín của một số những người Do Thái, Chúa Giê-su đã kể một dụ ngôn. Một người cha có hai con trai. Ông bảo cả hai con đi làm vườn nho, và kết quả khác nhau. Đứa mau mắn đồng ý thì lại không làm; kẻ ban đầu từ chối sau đó lại chăm chỉ. Như thế, người từ chối lời mời gọi của cha chưa hẳn đã là người bất hiếu. Người mau miệng nói lời thưa vâng chưa chắc đã là người dễ bảo. Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn nhắc đến những thái độ khác nhau trong việc đón nhận giáo huấn của Người. Trong số những người đương thời lúc đó, có những người mau miệng tung hô Chúa, nhưng không thực tâm tuân giữ Lời Chúa. Ngược lại, có những người đã có thời lầm lỗi, nhưng khi được tiếp xúc với Chúa, họ thành tâm đổi đời và chấp nhận buông bỏ tất cả để trở nên môn đệ của vị Thày Giê-su. Đó là trường hợp ông Gia-kêu, đứng đầu sở thuế. Đó cũng là trường hợp bà Ma-đa-lê-na, người phụ nữ tội lỗi có tiếng trong vùng. Trong khi đó, một số người vốn cho mình là thánh thiện và uyên bác, lại tìm cách bắt bẻ Chúa và xuyên tạc giáo huấn của Người. Chúng ta thấy rõ điều đó trong vụ án mà Phi-la-tô là chánh án xét xử và Chúa Giê-su là bị cáo. Các thượng tế và luật sĩ, cùng với đám người pha-ri-siêu (còn gọi là biệt phái) đã vu khống Chúa là kẻ phá đền thờ, vi phạm Lề Luật, và nổi loạn chống lại hoàng đế. Lời tuyên bố của Chứa Giê-su tuy gay gắt nhưng phản ánh một sự thật: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông!”. Người ta thường nói: “Vị thánh nào cũng có một quá khứ; tội nhân nào cũng có một tương lai”. Dù tội lỗi đến đâu, nếu thành tâm sám hối, tội nhân vẫn được Chúa thứ tha và vẫn có thể trở nên người tốt.
Nếu Chúa Giê-su giảng dạy về sự vâng phục, thì chính Người đã nêu gương qua cuộc sống của Người. Bài đọc II trích thư thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Phi-li-phê trong Chúa nhật này là một đoạn văn rất quen thuộc, diễn tả sự khiêm tốn hạ mình và vâng phục của Chúa Giê-su. Người đã đón nhận tất cả về mình, huỷ mình đi để ý Chúa Cha được thực hiện. Người vâng lời một cách trọn vẹn, trong cuộc sống cũng như trong hoạt động loan báo Nước Trời. Người là mẫu gương cho sự tuân phục của người Ki-tô hữu. Đó là sống vì người khác chứ không vì mình. Cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá đã hoà giải Thiên Chúa với thế gian, xoá đi bản án nguyên tội, kết nối anh em đồng loại trong tình huynh đệ.
Sống giữa thế gian, tứ bề vây bọc bởi biết bao cám dỗ: danh vọng, quyền lực, tiền tài, thù hận… Chúa dạy chúng ta hãy sống thanh cao, như đoá sen giữa bùn lầy. Đôi khi buông bỏ chính là hạnh phúc – điều này con người sớm sẽ nhận ra bởi vì càng đòi hỏi và cầu toàn sẽ khiến cho bản thân thêm mệt mỏi, vì chính chúng ta đã hoàn mỹ bao giờ! “Quay đầu là bờ!”. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên con đường trở về.
Chúa nhật 26 thường niên năm nay cũng là ngày mồng một tháng mười, ngày đầu tháng Mân Côi. Cùng với Đức Trinh nữ Ma-ri-a, chúng ta suy niệm cuộc đời Chúa Cứu thế, chiêm ngắm những mầu nhiệm diễn tả bốn giai đoạn trong cuộc đời dương thế của Người: đó là Vui, Sáng, Thương, Mừng. Trong tất cả những biến cố này, Mẹ Ma-ri-a luôn hiện diện để hiệp thông với Con mình, góp phần thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ kinh Mân Côi, chúng ta qua Mẹ để đến với Chúa Giê-su, noi gương Mẹ để trở nên môn đệ trung thành của Chúa. Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương hoà bình. Xin Mẹ ban bình an cho thế giới, cho gia đình và cho mỗi chúng ta. Amen.
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho Cha” (Mt 21,28)
Sợi chỉ đỏ:
Bài đọc I: Đường lối của Thiên Chúa là đường hướng tới sự tốt. Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác TN 26-A179
- Bài đọc I: Đường lối của Thiên Chúa là đường hướng tới sự tốt. Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác mà theo đường công chính thì sẽ được thưởng, còn người công chính mà bỏ lẽ công chính để làm điều gian ác thì sẽ bị phạt.
- Đáp ca: “Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường lối Chúa”
- Tin Mừng: Dụ ngôn hai người con: người con thứ nhất ban đầu nói “không”, nhưng sau hối hận đi làm cho cha; người con thứ hai ban đầu nói “vâng”, nhưng sau đó lại không làm.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Chúng ta sống ở trần gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài đằng đẵng. Nếu không có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng dù có Chúa dẫn đường mà nếu chúng ta không theo Ngài thì chúng ta cũng vẫn lạc hướng.
Bởi vậy trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường lối của Chúa để chúng ta đi theo, ngõ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng đích hạnh phúc vĩnh viễn của đời mình.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta mải mê lo cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ đến cuộc sống đời đời mai sau.
- Nhiều lần chúng ta không đi đường công chính mà lại đi theo đường tội lỗi. - Chúng ta thường nói mình mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ý Ngài.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Ed 18, 25-28)
Trong đoạn này, ngôn sứ Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống “tự mãn” và “tự ti”:
- Tự mãn: có những người nghĩ rằng mình đã “công chính” rồi nên tự mãn không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh cáo: “Khi người công chính từ bỏ đường công chính và phạm tội ác, nó sẽ phải chết”.
- Tự ti: có những người khác thấy mình lỡ tội lỗi nên nản lòng ở lì mãi trong tội lỗi. Êdêkiên khuyến khích: “Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đã đi và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”.
Như vậy, đường lối của Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến khích cả người tốt lẫn kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.
2. Ðáp ca (Tv 24)
Ðây là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài xin Chúa mở lòng thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
3. Tin Mừng (Mt 21, 28-32)
Bài đọc I cho biết một nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến khích người ta hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài Tin Mừng cho biết nét thứ hai của đường lối Chúa: không chú trọng tới lời nói mà chú ý tới việc làm. Ðức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người con thứ nhất:
- Người con thứ nhất (đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói “không” nhưng sau đó hối hận và đi “làm” theo ý Thiên Chúa.
- Người con thứ hai (đại biểu cho dân Do Thái) ngoài miệng luôn nói “vâng” nhưng thực tế thì “không làm” theo ý Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 2, 1-11)
Thánh Phaolô dạy cho tín hữu Philipphê một phương hướng sống:
- Ðừng lấy nghĩ bản thân mình làm chuẩn để mà tự mãn.
- Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng so sánh để mà kiêu căng hoặc phân bì.
- Hãy nghĩ đến Ðức Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài: Ðức Giêsu Kitô chỉ biết vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ðường lối lạ lùng của Thiên Chúa
Những bài đọc hôm nay trình bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với suy nghĩ của loài người:
- Cảnh cáo phạt người công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I).
- Phê phán những người “đạo đức” như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).
Không phải vì Thiên Chúa muốn làm ngược với loài người mà vì Ngài quan tâm tới những giá trị thực:
- Giá trị thực của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ tại hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.
- Giá trị thực của con người không do những lời tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó.
Vì Thiên Chúa theo một đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành...
Phần chúng ta, đã biết đường lối của Chúa là như thế thì chúng ta phải làm sao?
- Ðừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
- Cũng đừng cho rằng mình thuộc hạng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
2. Thành kiến
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lý khi Ngài không có thành kiến đối với quá khứ của con người: người có quá khứ tội lỗi nhưng biết sửa đổi thì Ngài khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con đường tội lỗi thì Ngài vẫn trách mắng.
Thực ra, con người không phải là một món đồ một khi đã được đúc khuôn thế nào thì mãi mãi vẫn là thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện: hôm qua khác hôm nay, và ngày mai sẽ còn khác nữa.
Thiên Chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta không cho chính mình những cơ hội ấy? Tại sao chúng ta không cho người khác những cơ hội ấy?
3. Mảnh suy tư
- Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “vâng” và “không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.
- Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
- Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”. - Trong lịch sử Hội Thánh, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình. 4. Chuyện minh họa a/ Cha sở bảo ông chủ tịch Hội đồng Giáo xứ tìm cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên giường một người hấp hối.
Khi mọi người đã tụ họp đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai cha sở:
- Thưa cha, trong đám này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.
- Càng tốt chứ sao, bởi vì trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa thiên đường thì mình nhờ họ mở khóa dùm.
b/ Một người suốt đời hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên trình diện với Thánh Phêrô thì trùng hợp cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.
Thánh Phêrô hỏi các cô một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đường. Người này khó chịu quá, hỏi tại sao, thì thánh nhân đáp:
- Nếu ngươi không chấp nhận lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, thì hãy đi đi. Chỗ của ngươi không phải ở đây!
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Sám hối, canh tân đời sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong đời sống đức tin của người Kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1- Ðức Kitô đã thiết lập Hội Thánh để đem lại ơn cứu độ cho muôn dân./ Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban nhiều ân sủng/ cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu/ để Hội Thánh được mãi mãi là bạn tinh tuyền của Người.
2- Trong cuộc sống thường ngày/ tệ nạn xã hội làm điên đầu những người có trách nhiệm./ Không ít kẻ đã bán rẻ nhân phẩm/ và danh dự của mình/ vì nghèo đói cũng có/ mà vì đua đòi ăn chơi cũng có./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng cho giới trẻ/ biết tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người/ để khỏi phải chôn vùi cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.
3- Không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa./ Vì thế thái độ đúng đắn nhất là ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình/ và đừng xét đoán cũng như kết án người khác./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu/ biết luôn cố gắng sống những gì Chúa Giêsu đã dạy.
4- Ðức Giêsu nói/ “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy/ Lạy Chúa /lạy Chúa / là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ý muốn của Cha Thầy Ðấng ngự trên trời/ mới được vào mà thôi”./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta/ biết nỗ lực thực thi ý Chúa/ tức là làm trọn mọi bổn phận trong giây phút hiện tại.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm phần rỗi cho chúng con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ý Chúa mới giúp chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là con của Chúa Cha trên trời. Nhưng chúng ta đừng là người con thứ hai, miệng luôn nói “vâng vâng dạ dạ” nhưng lại không làm theo ý Cha. Chúng ta hãy làm người con thứ nhất, biết tìm ý muốn của Cha để làm theo. Trong tâm tình ấy, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người cha đã nói với hai đứa con “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”. Giờ đây Chúa cũng nói với chúng ta như thế. Chúng ta hãy ra đi và làm theo ý của Chúa Cha.
Đã làm con chắc ai cũng muốn là người con ngoan của cha mẹ mình. Đã là Kitô hữu chắc người TN 26-A180
Đã làm con chắc ai cũng muốn là người con ngoan của cha mẹ mình. Đã là Kitô hữu chắc người giáo dân nào cũng muốn là người con ngoan của Thiên Chúa là Cha trên trời của mình. Người con ngoan là người luôn nghe lời cha mẹ. Người con ngoan của Thiên Chúa là người luôn nghe lời Thiên Chúa và làm theo Ý của Chúa. Vậy mỗi người chúng ta phải tự hỏi: “Ngày hôm nay, trong tuần/tháng/năm nay tôi có làm theo ý Cha trên trời của tôi không? hay tôi chỉ là kẻ nói miệng mà không động chân động tay để thực hiện những điều Cha tôi mong ước?” Câu chuyện hai người con mà Chúa Giêsu nêu lên trong bài Tin Mừng Chúa Nhật XXVI thường niên hôm nay (Mt 20,28-32) phải khiến tôi suy nghĩ và nhìn lại mình.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
3.1 Ý của Cha là muốn người con đi làm vườn nho cho Cha: Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Vườn Nho để nói về Nước Trời là nước mà Người thiết lập khi xuống trần gian. Vườn Nho hay Nước Trời cần nhiểu bàn tay góp công góp sức để trở nên tốt tươi sinh nhiều trái ngọt. Mọi người sinh sống trên cõi đời này đều được Cha trên trời mời hay sai đi làm Vườn Nho của Người. Nhưng có nhiều người chỉ đáp lại gợi ý hay lời mời của Thiên Chúa bằng lời nói xuông mà không làm gì hết trong khi cũng có nhiều người lúc đầu từ chối gợi ý hay lời mời của Thiên Chúa nhưng sau lại đi làm Vườn Nho tức làm điều mà Thiên Chúa muốn họ làm. Những người này đếu là những người con ngoan của Thiên Chúa. Các thánh đếu là những người con ngoan của Thiên Chúa!
3.2 Làm Vườn Nho hay xây dựng Nước Trời không phải bằng lời nói mà bằng việc làm cụ thể: Làm Vừon Nho là lạo động vất vả, phải đổ mồ hôi và sức lực. Có khi phải đổ cả máu và mất cả mạng sống mình nữa. Muốn xây dững Nước Thiên Chúa thì người tín hữu phải có những hành động cụ thể và mang tính xây dựng. Muốn xây dựng Nước Thiên Chúa thì người tín hữu không chỉ lo cho bản thân mình mà phải lo cho tha nhân và xã hội. Bao lâu trong xã hội còn có nhiểu tội ác, còn có nhiều bất công thì trách nhiệm của người tín hữu vẫn chưa hoàn thành.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
4.1 Tôi có nghe thấy lời mời làm Vườn Nho của Thiên Chúa không? Đó là câu hỏi đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải trả lời một cách nghiêm túc? Điều gì cản trở tôi nghe thấy lời mời làm Vườn Nho của Thiên Chúa?. Điều gì giúp tôi nghe thấy lời mời làm Vườn Nho của Thiên Chúa?
4.2 Tôi có làm Vườn Nho của Thiên Chúa không? Tôi làm Vườn Nho của Thiên Chúa như thế nào? bằng những việc làm nào? Đó là câu hỏi thứ hai và thứ ba mà mỗi người chúng ta phải trả lời một cách nghiêm túc?
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã mời chúng con làm Vườn Nho của Chúa. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người nhận ra mình là con của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi Kitô hữu nhiệt tình đáp lại lời Thiên Chúa mời làm Vườn Nho của Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để không người giáo dân nói mà không làm khi được Thiên Chùa mời làm Vườn Nho củu Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xsin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «"Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất”» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho hết mọi người trong xã hội hôm nay biết nghe lời mời làm Vườn Nho của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xsin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con và Người đã mời chúng con làm Vườn Nho của Người là cải tạo xã hội và thay đổi thế giới ..
Chúng con xin Cha ban cho chúng con sức mạnh thần linh để chúng con vượt qua chính mình và chiến thắng các lực cản . Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 30 tháng 9 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Dụ ngôn Tin mừng Mát-thêu thuật lại rằng: Từ sáng sớm, người cha gọi đứa con thứ nhất đến TN 26-A181
Dụ ngôn Tin mừng Mát-thêu thuật lại rằng: Từ sáng sớm, người cha gọi đứa con thứ nhất đến và bảo: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha.”
Nó vốn ham chơi, lười lao động, nên trả lời ngay: “Con không đi đâu!”
Nhưng nó chợt hồi tâm, nhớ công lao cha mẹ: Cha mẹ lo cho mình từng miếng cơm manh áo. Khi đau ốm cha mẹ chạy chữa thuốc men, khi buồn phiền, cha mẹ ủi an nâng đỡ… Nếu để cha lao động vất vả một mình mà không giúp đỡ, mình là con bất hiếu. Thế là sau một lát hồi tâm, phản tỉnh, nó quyết định vác cuốc ra vườn cùng làm với cha.
Còn người con thứ hai, sau khi nghe cha gọi đi làm vườn, nó dạ dạ vâng vâng cho qua chuyện, rồi sau đó, bỏ mặc cha lao động một mình.
Thế là, nhờ biết hồi tâm, nhìn lại mình, người con thứ nhất trở thành đứa con ngoan; trái lại, vì thiếu hồi tâm, người con thứ hai trở thành đứa con hư hỏng.
Sống trên đời, ai cũng mắc phải lỗi lầm, không ai vô tội. Tuy nhiên, người ta có thể vượt qua lỗi lầm để trở nên người tốt.
Những ai biết phản tỉnh, nhìn lại mình, nhận ra lầm lỗi mình và quyết tâm sửa đổi thì sẽ trở nên người tốt. Ngược lại, nếu không nhìn lại mình để phát hiện lầm lỗi và không quyết tâm sửa đổi thì không thể nên tốt được.
Tiếc thay, mọi người đều có mắt nhìn ra ngoại giới để nhận biết sự vật chung quanh, nhận ra đủ thứ lỗi lầm của người khác… trong khi đó, ít người có khả năng nhìn vào nội tâm để thấy những sai trái của bản thân; vì thế, không thể cải thiện đời sống được.
Cần soi gương
Tấm gương soi tuy đơn sơ nhưng vô cùng hữu dụng. Nhờ soi gương, ta có thể nhận ra đầu tóc rối bù của mình để chải vuốt lại, nhận ra những vết dơ trên khuôn mặt để lau chùi sạch sẽ, nhận ra bộ râu tua tủa để tỉa xén cho gọn gàng… Nếu suốt cả chục năm trời không một lần soi gương, chắc là khuôn mặt ta trông “ghê” lắm!
Biết thế, nên nhà nào cũng sắm gương, người nào cũng soi gương để trang điểm khuôn mặt mình.
Tuy nhiên, việc soi tâm hồn, soi nhân cách để thấy được điều xấu trong đời mình quan trọng hơn soi mặt rất nhiều.
Ta có thể soi tâm hồn, soi hành vi của ta bằng cách phản tỉnh, tức là tự nhìn mình, tự xem xét phê phán mình.
Hãy nhìn lại mình như nhìn một đứa bé đang chơi, một con kiến đang bò… Hãy soi xét chính mình như ta đang xét xem người khác.
Soi thái độ của ta: có trịch thượng, cha chú… hay lịch sự, khiêm nhường?
Soi cung cách ứng xử của ta: có gần gũi hay xa cách người khác?
Soi hành vi của ta, xem có văn hóa hay thiếu chuẩn mực?
Soi lời ăn tiếng nói xem có ôn tồn, nhã nhặn hay cộc cằn, thô lỗ…? Vân vân…
Khi soi mặt, thấy có vết dơ, người ta rửa sạch liền không trì hoãn.
Tương tự như thế, khi tự soi mình, phát hiện nhân cách mình xấu xa, đáng trách… người ta sẽ quyết tâm cải thiện không chậm trễ.
Nhưng nếu không chịu soi nhân cách, ta không thể thấy những nết xấu của mình và hậu quả là sống chung với tật xấu suốt đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Không gì làm Chúa vui lòng cho bằng thấy đoàn con biết chừa bỏ thói xấu, cải thiện cuộc đời, trau dồi nhân đức.
Xin giúp chúng con luôn soi mình mỗi ngày, để thấy được những hành vi sai trái mà chừa bỏ; nhờ đó, chúng con sẽ sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
Dụ ngôn Chúa Nhật tuần này là một trong những dụ ngôn có tính tranh luận với phái Pharisêu. Chúa TN 26-A182
Dụ ngôn Chúa Nhật tuần này là một trong những dụ ngôn có tính tranh luận với phái Pharisêu. Chúa Giêsu luôn tìm cách ý thức những ông Pharisêu kiêu căng và tự mãn, cho họ thấy rằng giữ đạo không chỉ là làm một vài việc bên ngoài mà phải yêu mến Chúa tận tâm hồn. Họ cứ nghĩ rằng họ đã giữ Luật, đã đọc kinh nhiều, đã ăn chay bố thí như Luật dạy, tức là họ công chính, không cần ai chỉ dẫn điều gì. Và như thế, họ chỉ giữ một thứ đạo bên ngoài và dần dần biến thành một lối sống giả hình mà Chúa Giêsu mạnh mẽ tố cáo. Họ là những người biết luật, những thầy dạy, những nhà lãnh đạo tôn giáo, nhưng họ lại là những người sống trái với những gì họ dạy. Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ nhiều lần và chính Ngài đã bảo dân chúng: “Những gì những người Pharisêu đứng trên tòa Môsê dạy, các ngươi hãy tuân giữ nhưng đừng làm theo những gì họ làm, vì họ nói mà không làm”. Nơi khác Ngài nặng lời tố cáo họ: “Khốn cho các ngươi hỡi những kinh sư, Pharisêu giả hình…, các ngươi như những mả tô vôi…”. Tại sao Chúa phải nặng lời đến như thế? Vì lòng họ đã ra chai lì không thể cải hóa được.
Tuy nhiên chúng ta cũng công nhận rằng, tất cả những người thuộc phái này không phải là xấu cả. Nhiều người cũng tin Chúa như ông Nicôđêmô và một số người khác, nhưng đó là thiểu số.
Trong dụ ngôn hai đứa con trai này, Chúa Giêsu cũng ám chỉ họ là đứa con thứ hai. Khi nghe lệnh người cha đã thưa vâng, nhưng rồi lại bỏ qua. Đứa con này xem ra như rất ngoan nhưng kỳ thực chỉ là giả dối. Thái độ như thế thật đáng trách vì đã chấp nhận theo lời cha sau đó lại bỏ qua một bên. Đó là thái độ Pharisêu mà Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án. Đang lúc đó, đứa con thứ nhất thì lúc đầu sỗ sàng không vâng lời, nhưng suy nghĩ lại nó đã hối tiếc và vâng phục.
Chúa Giêsu hỏi các ông: “Vậy trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Các ông trả lời: “Người thứ nhất”. Đúng như Chúa muốn và điều này Ngài muốn nói trực tiếp với họ. Ngài kết luận với một giọng điệu hết sức trang trọng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông…” Tại sao? Vì họ tin vào lời rao giảng của Gioan và ăn năn thống hối, còn các ông khinh thị ông Gioan và không tin ông, các ông sẽ chết trong tội của các ông”. Đó là một gáo nước lạnh tạt vào mặt các ông , nhưng họ vẫn không hiểu, hay họ đã hiểu và vì thế sau này họ sẽ đóng đinh Ngài vào thập giá.
Dụ ngôn cũng là một lời cảnh báo thật mạnh mẽ đối với chúng ta. Chúng ta muốn là đứa con nào? Đứa con xem ra rất ngoan nhưng lại không vâng lời hay đứa con thứ nhất xem ra ngỗ nghịch nhưng lại biết suy nghĩ, và hối hận?
Chúa Cha có hai người con, người con thứ hai chính là chúng ta, vâng vâng dạ dạ, nhưng không làm. Ông Ađam là đứa con phản bội đầu tiên đã mang sự chết đến cho con cháu. Dân Do Thái, dân được chọn là một dân cứng cổ. Trong Kinh Thánh, qua các tiên tri, biết bao nhiêu lần Chúa nói đến sự cứng lòng của dân Do Thái.
Trong Kinh Thánh, chúng ta cũng thấy có biết bao nhiêu gương lành những đứa con ngoan như Abraham. Ông đã vâng nghe triệt để. Ông đã ra đi, bỏ quê hương, người thân, và ruộng đất, để vâng theo lệnh Chúa. Ông đã tế hiến cả con trai duy nhất của mình cho Chúa… Đó là gương lành sáng chói cho chúng ta. Chúng ta đã vâng phục như thế nào? Tối đa hay chỉ có lệ, cho xong?
Các tiên tri cũng là những con người yếu đuối, như Giêrêmia đã la lối cưỡng lại nhưng sau cùng đã khuất phục, đã chấp nhận bao nhiêu gian lao khó nhọc để vâng theo ý Chúa. Và gương mẫu tuyệt đối của chúng ta là Chúa Giêsu, Người Con Một tự cung lòng Chúa Cha đã vâng phục nhập thể và vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Người con đó đã vâng lời trọn hảo. Sống ở trần gian, việc chính yếu của Ngài không là làm theo ý riêng mà luôn làm theo ý Cha. Sự vâng phục đó không dễ dàng như chúng ta tưởng. Ngài phải sống một cuộc sống nhọc nhằn, nghèo khổ, lam lũ, vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria. Ngài phải mướt mồ hôi máu trong vườn Giếtsêmani… Ngài là người như chúng ta, Ngài mang cái xác nặng nề như chúng ta với tất cả những nhọc nhằn của nó. Điều đó chúng ta đã quá biết, nhưng chúng tôi muốn nhắc lại để thấy rằng cần phải nhìn Ngài chăm chú hơn, để thấy rõ những gì cần nhìn. Nhìn thoáng qua, chúng ta sẽ không thể thấy được những gì đáng chú ý. Ngài phải bỏ mình đến tột độ, đã rên siết, mướt mồ hôi máu để vâng phục: “Không theo ý con mà theo ý Cha”. Nhìn Ngài đau thương trên thập giá mới biết sự vâng phục của Ngài đi đến đâu: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con?”
Chúng ta có mướt mồ hôi máu để vâng phục chưa? Chúng ta đã vâng theo ý Cha đến mức độ nào? Chắc chắn chúng ta phải rên siết thôi, nhất là trong những lúc bệnh hoạn đau đớn, thất bại, chúng ta không còn thấy được ý Chúa ở đâu. Chúa không cấm chúng ta rên siết, nhưng vâng phục vẫn là điều kiện cuối cùng.
Vâng theo ý Chúa không chỉ là trong một vài lúc nào đó mà là liên lỉ, mỗi ngày, và vâng theo ý Chúa mới là bình an và không bao giờ sai lầm. Nhờ vâng phục Chúa Giêsu đã mang lại ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự vâng phục của chúng ta cũng không bao giờ vô ích. Nếu chúng ta có lỗi phạm, bất tuân, Chúa cũng dễ dàng tha thứ, vì Chúa biết chúng ta yếu đuối, nhưng phải hồi tâm và trở về.
Sự vâng phục của Chúa Giêsu là tình yêu. Ngài vâng phục Chúa Cha vì Ngài yêu Chúa Cha. Ngài thể hiện tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để. Vâng phục như một nô lệ không phải là sự vâng phục đích thực. “Một ngàn người nô lệ quì gối không bằng một người tự do vâng phục”. Chúng ta hãy vâng phục như Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy cuộc sống chúng ta quí báu như thế nào.
Trong các gia đình hôm nay, vấn đề vâng phục đang gặp những trở ngại hết sức cam go. Thanh thiếu niên hôm nay tỏ ra bướng bỉnh, và các phụ huynh càng lúng túng không biết làm sao dạy con. Cuộc sống tự do buông thả của xã hội hôm nay ảnh hưởng rất nặng nề trên tâm lý thanh thiếu niên. Chúng nó chịu ảnh hưởng của một xã hội nhàu nát, vô trật tự. Những phương tiện truyền thông với những gương mù gương xấu đầy dẫy ảnh hưởng không nhỏ trên giới trẻ. Các cha mẹ mất phương hướng không biết phải làm sao để giúp con cái đi vào con đường đức hạnh để xây dựng tương lai cho con. Đây là một thách thức lớn cho những bậc làm cha mẹ. Chúng ta sẽ tạo ra một thế hệ nào đây?
May thay, những Hội Đoàn trong giáo xứ cũng giúp một phần, nhưng cha mẹ vẫn đóng vai chính trong việc dạy dỗ con cái, làm sao cho chúng biết vâng lời. Vấn đề này là cả một chương trình lớn và dài hạn. Tùy hoàn cảnh, tùy cách sống gia đình. Nhưng nếu cha mẹ biết vâng lời Chúa thì con cái sẽ dễ dàng vâng lời cha mẹ hơn. Chúng ta không thể tìm một giải pháp cho mỗi vần đề, dù các nhà tâm lý vẫn luôn chỉ dẫn những phương pháp, nhưng cũng không có phương pháp nào hữu hiệu lâu dài. Chỉ có lời cầu nguyện và lòng tin mới giúp chúng ta trong công việc khó khăn này.
Chúa Giêsu lại nói với mấy ông Pharisêu một câu xem ra nặng nề: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Tại sao? Vì họ biết suy nghĩ và nhìn nhận sự yếu hèn của họ và vâng phục, còn các ông, với những kiến thức của các ông, các ông sẽ không bao giờ biết vâng phục. Ơn cứu độ không phải do kiến thức mà do lòng tin chân thành, do tình yêu không dối trá và đơn thật.
Xin cho chúng ta biết khiêm nhường nhìn nhận sự yếu kém của chúng ta để đón nhận lời Chúa, yêu mến luật Chúa và luôn cố gắng thi hành, và thi hành với tất cả tình yêu.
Chúa Giêsu nơi bàn thờ hiến tế đang mời gọi. Ngài tha thiết mong ước chúng ta cùng với Ngài làm sáng danh Cha bằng một sự vâng phục hết tình như Ngài. Và cũng vì muốn giúp chúng ta trong việc khó khăn này, Ngài vẫn đến ban cho chúng ta thứ của ăn bổ dưỡng là Mình Thánh Ngài để chúng ta luôn đủ sức phấn đáu để đạt đến đỉnh cao của tình yêu là vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá cuộc đời như Ngài.
“Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”.
Kính thưa Anh Chị em,
Một câu hỏi rất thú vị đặt ra cho chúng ta hôm nay là, Thiên Chúa tạo thành, Thiên Chúa cứu chuộc TN 26-A183
Một câu hỏi rất thú vị đặt ra cho chúng ta hôm nay là, Thiên Chúa tạo thành, Thiên Chúa cứu chuộc, Thiên Chúa yêu thương con người và mọi loài… vậy thì còn gì hơn nữa để Thiên Chúa phải làm, phải bận tâm? Tắt một lời, giờ này, Thiên Chúa đang làm gì? Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta câu trả lời đầy bất ngờ. Thiên Chúa đang thở dài, Người đang thở dài.
Thiên Chúa đang thở dài trước sự cứng lòng của Israel, dân Người. Êzêkiel trong bài đọc thứ nhất cho thấy đó là một dân bất tuân, cứng đầu cứng cổ đến nỗi Thiên Chúa phải hạ mình thanh minh, đôi co, cãi cối cãi chày với họ, “Các ngươi nói rằng, ‘Đường lối của Chúa không chính trực’; vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây. Có phải đường lối của Ta không chính trực? Hay trái lại, đường lối của các ngươi không chính trực?”; Người đang thở dài.
Trước sự chia rẽ và phân hoá giữa cộng đoàn Philipphê, một giáo đoàn đang bị xáo trộn bởi những con người chỉ tìm hư danh, Thiên Chúa cũng đang thở dài; Người thở dài qua những khắc khoải của Thánh Phaolô, “Anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan”; “Chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh”.
Đặc biệt, với bài Tin Mừng, trước sự cố chấp của các thượng tế và kỳ lão là những lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Thiên Chúa đang thở dài, Người ngao ngán họ đến tận cổ. Chúa Giêsu không còn lời nào nữa để đánh thức lương tâm họ, những con người đầy kiêu căng, tự mãn; những con người tự cho mình là công chính. Sau khi kể cho họ dụ ngôn hai đứa con ngủng nghỉnh được cha sai đi làm vườn nho, Ngài buộc phải thốt lên một kết luận rất nặng, “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Qua đó, Ngài muốn nói với họ rằng, những người thu thuế và gái điếm đang trên đường nên thánh; còn họ, thì không. Ngài là Thiên Chúa xót thương, đó là một sự thật đơn giản mà những người tội lỗi đã khám phá được; họ đã không khám phá được điều đó.
Cả hai đứa con trong Tin Mừng hôm nay đều có những giây phút làm cho cha mình thở dài; đứa thì bảo không làm, rồi lại làm; đứa thì nói làm, rồi lại không làm. Qua bao đời, con người vẫn là thế; xưa cũng như nay, nó luôn khiến cho Thiên Chúa phải thở dài. Đang khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa thì khác, từ trời xuống thế, Ngài luôn luôn làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Qua đó, Ngài chỉ cho những người con của đất cách sống với Chúa Cha như Đứa Con Của Trời; Ngài phận là phận của một vị Thiên Chúa, lại hoàn toàn hạ mình vâng phục Cha, hằng làm vui lòng Cha trong mọi sự. Đó là cái “hơn” của người ‘anh trưởng Giêsu giữa một đàn em đông đúc’ đã nêu gương. Vì thế, trong thư Philipphê hôm nay, Phaolô còn khuyên rằng, “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”; “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Để Thiên Chúa thôi thở dài, chúng ta cũng hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu; hãy bắt đầu hành trình nên thánh với việc nhìn nhận con người yếu hèn tội lỗi của mình trong khiêm nhượng, trong cởi mở và chân thật như những người thu thuế và gái điếm; sống trong tâm tình thống hối của đứa con vốn chối từ đi làm vườn nho cho Cha, nhưng sau đó, hối hận mà đi. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay là một lời cầu nguyện của những hối nhân, cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta, “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu của Ngài”; “Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm và tội ác khi con còn trẻ, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa!”.
Chuyện kể rằng, ngày xưa, nữ hoàng Saba nghe biết sự khôn ngoan của Salomon; bà yết kiến vua, mang theo hai bó hoa, cốt để thử xem vua khôn ngoan làm sao; đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Salomon lặng lẽ đặt hai bó hoa lên bàn và đi mở những cánh cửa. Nữ hoàng Saba đầy kinh ngạc, khiếp sợ… vì ngay lúc ấy, không biết từ đâu, ong bướm sà xuống ngay trên những bông hoa thật vì những bông hoa giả có sắc mà không có hương, có hình hài mà không có sự sống.
Anh Chị em,
Chúng ta là hoa thật hay hoa giả; là hoa thật khi chúng ta nhìn nhận mình là tội nhân, chắc chắn lòng thương xót của Thiên Chúa cũng sẽ sà xuống trên chúng ta. Chúng ta sẽ không sợ khi phải hạ mình trước mặt Chúa để thừa nhận tội lỗi và thất bại của mình. Càng khiêm tốn chấp nhận con người xấu xa của mình, chúng ta càng có cơ may mở ra cánh cửa lòng thương xót Chúa; vì lẽ, khi không sẵn lòng nhìn ra tội lỗi mình, ân sủng của Thiên Chúa sẽ không thể đi vào và chữa lành chúng ta; và rồi, Thiên Chúa vẫn phải tiếp tục thở dài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con là một cánh hoa rất thật, một tội nhân, xin giũ lòng thương xót trên con; hôm nay, con thật lòng ăn năn, chỗi dậy, ‘đi làm vườn nho’ Chúa; Chúa sẽ không còn phải thở dài”, Amen.
Nếu được lựa chọn để sống hay thiên về thì ACE chọn cách sống, đường lối “bảo thủ hay cấp TN 26-A184
Nếu được lựa chọn để sống hay thiên về thì ACE chọn cách sống, đường lối “bảo thủ hay cấp tiến”? Và tại sao mình lại thích và lựa chọn để sống và hành động như vậy? Không những có trong xã hội mà thôi, ngay cả trong Giáo hội, mỗi khi có vị Giáo hoàng mới, Giám mục mới hay Cha Quản xứ mới, người ta đều có nghi vấn này: “Vị này sẽ là người có đường hướng bảo thủ hay cấp tiến đây?” Còn đối với Chúa Giêsu, theo ACE, Ngài đã chọn cách sống, đường lối nào “bảo thủ hay cấp tiến”? Vậy thì, cách sống, đường lối của chúng ta hiện nay có phù hợp với cách sống, đường lối của Chúa hay không? Qua Lời Chúa hôm nay chúng ta sẽ nhận ra rằng với Thiên Chúa, qua cách sống và đường lối của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ là bảo thủ hay cấp tiến gì cả mà hoàn toàn là đường lối chính trực, công minh, đầy lòng thương xót, tha thứ và ban ơn.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ dạy một cách rất mạnh mẽ cho các thượng tế và các kỳ lão “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài.” Có phải khi tuyên bố như vậy, Chúa Giêsu đang muốn làm một cuộc “cách mạng” sao? Hay Chúa có cấp tiến trong cung cách đối xử và hành động của Ngài không? Thật vậy, khi nghe những lời tuyên bố, chỉ dạy và hành động của Chúa Giêsu, nhiều người Do Thái và những người không tin vào Chúa Giêsu là con Thiên Chúa đã bị sốc, vì họ cho rằng Chúa Giêsu hành rao giảng và động như vậy là phá bỏ kỷ cương lề luật của tiền nhân, vì Chúa giao du với phường tội lỗi. Thực ra, con đường và sứ vụ của Chúa Giêsu là Đấng được sai đến với những con người tội lỗi, những người bị bỏ rơi. Cho dù tình trạng của chúng ta trước đây như thế nào, miễn sao ai tin vào Chúa, tin vào những người mà Chúa sai đến nhân danh Ngài thì được Thiên Chúa yêu thương đón nhận và cho gia nhập vào mối tương quan thân mật với Chúa. “Mẹ và anh em Ta là những người nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”.
Đối với Chúa Giêsu, ai yêu nhiều, thì được tha nhiều, ai tin mà ăn năn hối lỗi quay trở về với lòng khiêm tốn thì được ơn cứu độ. Đây chính là thái độ mà Chúa nêu lên trong ví dụ về hai người con khi họ đáp trả lại lời mời gọi của người cha: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Đứa con đầu, mặc dầu ban đầu hỗn xược, bất hiếu, nhưng sau nó đã ăn năn hối lỗi về thái độ và cung cách sống của mình mà đi; vì hối hận, vì thương cha mà đi làm theo lời mời của cha. Còn đứa thứ hai, ban đầu khi nhận lời mời thì vui vẻ đáp lại rất mau lẹ, nhưng lại không chịu đi làm. Có lẽ vì anh ta sống không thật lòng, hay vì anh ta không tin vào người cha, hay chẳng có mối tương quan tốt với người cha và hoàn toàn không biết ý muốn tốt lành của người cha dành cho nó.
Còn với chúng ta, hôm nay, khi Chúa mời gọi, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào? đi hay không? Mỗi khi chúng ta không biết thánh ý của Chúa, hay biết mà không muốn đáp trả thì chúng ta phần nào cũng giống như dân chúng thời tiên tri Êdêkiel, họ than rằng: “Ðường lối của Chúa không chính trực” nên họ cứ làm theo những ý riêng mình là gian ác, bất chính và phạm tội. Thật vậy, chỉ có con người mới không sống chính trực, công minh. Chính vì vậy, mà tiên tri đã mời gọi: hãy tin vào Chúa, hãy quyết tâm dứt bỏ những cung cách gian ác, bất chính để được Chúa yêu thương tha thứ và cứu sống.
Yêu thương, tha thứ và cứu sống chính là căn tính của Thiên Chúa. Thánh vịnh 24 giúp cho chúng ta ý thức hơn khi mời gọi chúng ta đến với Chúa trong khiêm tốn và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Chúa.” “Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài.” Chỉ có con người chúng ta mới hẹp hòi ích kỷ và tệ hơn là sống báo thù báo oán, khó để tha thứ cho nhau. Nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung tín và thứ tha.
Chính vì lẽ đó mà Phaolô trong bài đọc hai mời gọi chúng ta hãy cảm nếm chính tình thương và mối tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Vì yêu thương, mà Chúa Giêsu đã tự hạ và chết thay cho chúng ta. Đây là niềm an ủi, khích lệ lớn lao nhất dành cho những ai tin và chấp nhận chính tình thương, sự hy sinh tha thứ của Chúa dành cho mình. Do đó, cung cách sống của chúng ta không phải là sống theo cung cách hay đường lối bảo thủ hoặc cấp tiến, nhưng phải là cách sống đồng tâm nhất trí với nhau trong khiêm tốn, bác ái để tìm kiếm ý Chúa và thực thi, chứ không phải vì tìm hư danh mà sống cạnh tranh bất chấp ngay cả với những mưu đồ gian ác.
Lạy Chúa, hôm nay chính Chúa cũng đang kêu mời chúng con là những con người yếu đuối tội lỗi, và Chúa đang tạo cho chúng con một cơ hội tuyệt vời để đáp trả qua cách sống, hành động bác ái và vị tha dành cho Chúa qua tha nhân. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta luôn tin nhận chính ơn thánh này, nhờ đó mà có thể sống theo như lòng Chúa mong muốn. Amen.
Chủ đề: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, ai kính sợ Người và thực hành đức công chính đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Thiên tư tây vị là một ý niệm thuộc phạm trù tình cảm diễn tả yêu/ghét trong mối tương quan giữa TN 26-A185
Thiên tư tây vị là một ý niệm thuộc phạm trù tình cảm diễn tả yêu/ghét trong mối tương quan giữa con người với nhau. Từ đối tượng được yêu/ghét, chủ thể có hành động tương ứng với ý chí của mình. Yêu ai thì dành nhiều đặc ân cho người đó, ngược lại ghét ai thì tìm cách hạ bệ: “yêu nên tốt, ghét nên xấu” (tục ngữ Việt Nam).
Tự bản chất: thiên tư tây vị là bất công, vì lẽ, người xứng đáng, có tài bị gạt ra, còn kẻ xấu, bất tài lại được ân huệ, trọng dụng.
Đời sống gia đình, xã hội mọi nơi, mọi thời là một bức tranh đậm mầu thiên tư tây vị. Nó là mảnh đất tiềm năng cho “cỏ dại tiêu cực” mọc lên, lấn át công bằng trong cuộc sống nhân sinh.
Kinh Thánh ghi nhận thái độ thiên tư tây vị của dân Chúa là trầm trọng. Họ quan niệm sự báo oán của Chúa có tính nhân quả, dây chuyền: “cha ăn nho xanh, con ghê răng” (Ez 18, 2). Gán ghép cho Chúa thiên tư tây vị là phạm thượng, vì họ cào bằng tư tưởng của Chúa, vốn cao vời thánh thiện, với lòng dạ phàm nhân.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày dung mạo về một Thiên Chúa công bình, rất mực nhân hậu, từ bi: không thiên tư tây vị, bất cứ ở đâu, thời nào, ai kính sợ Chúa và thực hành đức công chính, đều được Người vui lòng đón nhận (cf. Cv 10, 34).
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Ézékiel, hướng dân Chúa tới một tầm nhìn mới, thay đổi não trạng cổ xưa về sự báo oán của Chúa trên nhà Israel.
Quan niệm xưa kia cho rằng con cái phải mang tội của cha mẹ “quýt làm, cam chịu”, “cha ăn nho xanh, con ghê răng” trở thành tiêu chuẩn để phán xét người khác. Hãy xem tranh cãi trường hợp người mù bẩm sinh trong Tin Mừng Gio-an. Nhìn thấy anh mù, các tông đồ hỏi Chúa Giê-su: “Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?” (Jn 9, 1).
Một sự phán xét vô trách nhiệm, bất công, cần phải được loại trừ. Thiên Chúa, Đấng nhân hậu, giầu lòng xót thương, rất mực công bằng, không thể đoán xét và trừng phạt kẻ vô tội.
Nội dung bài sách thánh là cách sửa sai quan niệm cổ hủ, lỗi thời. Chúa bày tỏ đường lối công minh, chính trực trong việc xét xử thế nhân. Trách nhiệm cá nhân là tiêu chí xét đoán. Tất cả tùy thuộc thời điểm hiện tại trước lời mời gọi của Chúa: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều bất chính, nó sẽ phải chết. Còn kẻ gian ác bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, nó sẽ được sống” (Ez 18, 26 – 27).
Thật và rất thật, mạc khải Thiên Chúa không thiên tư tây vị là tin mừng cho muôn dân, cho con người mọi nơi, mọi thời. Tất cả đều là tội nhân, là những kẻ gian ác, có cơ may nhờ lời Chúa mà hoán cải, canh tân nên công chính để được sống, vì lẽ, nếu Chúa chấp tội, không ai đứng vững và được cứu rỗi.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, coi việc sống đạo thực thi Lời Chúa vượt trội môi mép giả hình. Dụ ngôn hai người con được đề nghị đi làm vườn nho. Người con cả nói “không”, nhưng sau hối hận lại đi làm. Người con thứ thưa “vâng”, rồi lại không đi. Chúa hỏi ai trong họ thực hiện ý muốn của Cha. Họ trả lời: “người con thứ nhất”.
Thái độ của hai người con bày tỏ tình trạng chung của mỗi người chúng ta. Bao lần nói “vâng”, rồi lại bỏ qua không làm và cũng bao lần nói “không”, rồi lại hối hận trở về.
Thế mới rõ: không có thánh nhân nào mà không có một quá khứ, cũng chẳng có tội nhân nào mà không có một tương lai. Vấn đề then chốt là lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của chúa. Bởi biết rằng: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, bất cứ ở đâu, ai kính sợ và thực hành đức công chính, đều được Người vui lòng đón nhận” (Cv 10, 34).
Qua dụ ngôn, Chúa dạy chúng ta về chân lý cứu rỗi. Đó là, đáp trả lời mời gọi của Chúa, thực hành liên lỉ hoán cải, canh tân, mới được kể là kẻ thực hiện ý muốn Chúa Cha, mới xứng đáng tiếp nhận tình yêu và sự sống muôn đời.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyên nhủ cộng đoàn liên kết mật thiết với Chúa Giê-su trong mọi sự, để kiến tạo sự hiệp thông, tình bác ái trong Thánh Thần.
Chính Giê-su, trong tình yêu tự hủy đến cùng kiệt, đã thực hiện sự hiệp thông, liên đới với gia đình nhân loại bằng sự khiêm hạ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Giê-su là khuôn mẫu cho tất cả những ai muốn nên hoàn thiện, nên công chính. Sống như Giê-su trong mọi sự, người môn đệ được Cha tôn vinh như con yêu dấu của Ngài.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta:
• Một là: Thiên Chúa tình yêu và sự sống luôn dành sẵn cho mỗi người một tương lai. Ở đó, Ngài vẫy gọi tội nhân hoán cải, canh tân để được tha thứ và được sống. Cho dù tội lỗi có nặng nề cách mấy, cũng đừng bao giờ thất vọng, vì Giê-su đã sẵn lòng chết, để đền thay tội lỗi chúng ta.
• Hai là: Hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Siêng năng lãnh nhận các bí tích cứu độ, nhất là bí tích hòa giải và Thánh Thể. Bí tích giải tội ban ơn tha thứ, giao hòa tội nhân với Chúa và với nhau. Bí tích Thánh Thể làm vững mạnh đức tin, gia tăng đức cậy và củng cố đức mến, nhờ đó, người của Thiên Chúa đủ sức làm các việc lành, xứng với ơn cứu độ Chúa ban.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Trong Tin mừng Chúa nhật XXVI Thường niên năm A hôm nay, chúng ta đọc dụ ngôn hai người TN 26-A186
Trong Tin mừng Chúa nhật XXVI Thường niên năm A hôm nay, chúng ta đọc dụ ngôn hai người con. Chúa Giêsu dùng câu chuyện ngắn này để so sánh những nhà lãnh đạo Do Thái, những người thu thuế và gái điếm, với hy vọng họ thay đổi quan điểm và được thôi thúc sống công chính.
Trong dụ ngôn, người cha có hai người con. Ông sai người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng anh từ chối. Sau đó, anh đổi ý và đi làm. Khi cùng được sai như vậy người con thứ hai nói anh sẽ đi làm nhưng lại không đi như đã hứa. Chúa Giêsu khẳng định dù lúc đầu người con thứ nhất từ chối, nhưng cuối cùng anh đã làm theo ý muốn của người cha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của sự biến đổi. Người con thứ nhất giống như những người thu thuế và gái điếm, là hiện thân của những hành vi tội lỗi. Trong suốt sứ vụ của Chúa Giêsu, nhóm người này đã đón nhận sứ điệp của Chúa và đã biến đổi từ cách suy nghĩ cho đến lối sống. Chúa Giêsu còn xác nhận sự biến đổi đã dẫn đưa họ đến Nước Thiên Chúa. Mặt khác, các thượng tế và kỳ lão được so sánh với người con thứ hai, có vẻ sống công chính nhưng thực ra lại không phải vậy. Họ đã từ chối sự hướng dẫn của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả và đã không thay đổi cách suy nghĩ và lối sống của mình.
Dụ ngôn này minh chứng rằng hành động bộc lộ tính cách và ý hướng nhiều hơn là lời nói, là một suy gẫm thích hợp cho ngày lễ thánh Vinh Sơn. Thánh nhân đã hiến dâng cuộc đời để phục vụ người khác, đặc biệt là những người nghèo khó và bị tước đoạt quyền lợi. Công việc của ngài được hình thành trên sứ điệp Tin mừng nhằm tôn vinh phẩm giá con người và chăm sóc những ai cần sự giúp đỡ nhiều nhất. Thánh Vinh Sơn đã thành lập Tu đoàn Truyền giáo và cùng với thánh nữ Louise Marilac, đồng sáng lập Tu đoàn Nữ tử Bác ái hầu nhiều người có thể hành động theo lời kêu gọi phục vụ của Tin mừng. Di sản của thánh Vinh Sơn vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay nơi các giáo xứ, trường học và tổ chức Vinh Sơn trên toàn thế giới, chẳng hạn như Hội thánh Vinh Sơn Phaolô do một giáo dân theo linh đạo Vinh Sơn là chân phước Frédéric Ozanam thành lập. Các cộng đoàn này tiếp tục trả lời câu hỏi của linh đạo Vinh Sơn: Phải làm gì?
Tin mừng hôm nay là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của hành động. Bài Tin mừng cho thấy rằng sự biến đổi và hoán cải có thể xảy ra khi mọi người cởi mở đón nhận và hành động theo sứ điệp của Tin mừng. Thánh Vinh Sơn Phaolô là một mẫu gương xuất sắc của hành động theo sứ điệp Tin mừng.
Chủ đề: "Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ".
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa TN 26-A187
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa". Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề "Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh" (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng -- tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
"Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
Tin Mừng Mt 21, 28-32: Lời hứa không bao giơ có thể thay thế việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử.
Trong thực tế, đời sống Kitô hữu tồn tại một mối nguy hiểm cho đức tin đó là sự tự kiêu tôn giáo TN 26-A188
Trong thực tế, đời sống Kitô hữu tồn tại một mối nguy hiểm cho đức tin đó là sự tự kiêu tôn giáo, lấy làm yên chí về những việc tốt của mình. Giáo hội qua các bản văn Kinh thánh được tuyên đọc hôm nay, lưu ý mọi người chống lại mối nguy hiểm đó. Hành động của mỗi người phải thể hiện niềm tin của mình, làm vì tin chứ không dùng môi miệng để minh chứng niềm tin của mình. Nói hay mà không làm thì không có ích gì. Người tội lỗi, người không biết vâng lời Chúa nhưng ăn năn hối cải tin theo Chúa, thực thi Lời Chúa thì có phúc hơn bội phần những người vâng lời Chúa dễ dàng nhưng không thực hành.
Trong Phụng vụ, rất thường khi chúng ta nói lên lời Amen, có nghĩa là xin vâng, là tin theo. Thế nhưng, lời thưa Amen có thực là lời thưa thực hiện trong cuộc đời hay chỉ là lời thưa đầu môi chót lưỡi?
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Ed 18,25-28
Con người chịu trách nhiệm về vận mạng của mình
Con người được Thiên Chúa tạo dựng và trao cho quyền tự do; vì thế, có trách nhiệm về những hành vi của mình. Sẽ phải chịu số phận đau khổ nếu làm điều xấu; ngược lại, nếu biết làm điều tốt, biết thực tâm đứng lên từ bỏ điều sai trái thì sẽ được hạnh phúc.
a. Không chối bỏ trách nhiệm tập thể được xây dựng trên nền tảng đời sống cộng đoàn, tiên tri Êgiêkiel vẫn khẳng định trách nhiệm cá nhân của mỗi người; chính tự thân mỗi người sẽ trở nên công chính hay tội lỗi trước mặt Chúa.
b. Cũng vậy, Tiên tri Êgiêkiel nhấn mạnh, trên trái đất này không có gì thực sự có được hay bị mất đi mãi mãi: người công chính có thể bị sai đường và hư mất; người tội lỗi biết thay đổi cuộc sống sẽ được cứu.
c. Chúng ta hãy sống trong tình thân thiết với Thiên Chúa; hãy nắm giữ đừng đánh mất lòng trung tín của mình. Chúng ta là những tội nhân, hãy từ bỏ tội lỗi quay trở về trong tự do để đi vào khung trời tình yêu của Thiên Chúa.
2. Bài đọc II: Pl 2,1-11
Lời kêu gọi nên một trong khiêm nhường và yêu thương
Muốn mang lại giá trị hiệp nhất huynh đệ hoàn toàn cho các thành viên trong cộng đoàn Kitô hữu, Thánh Phaolô giáo huấn mọi người khiêm nhường trong tinh thần phục vụ nhau, sống vì mọi người như Chúa Giêsu Kitô đã tự hủy vì nhân loại.
a. Trong cộng đoàn Philipphê có thể tồn tại những sự phân hóa. Thánh Phaolô khuyên nhủ các thành viên cố gắng sống tâm tình của chính Chúa Giêsu nhằm mang lại cho cộng đoàn sự hiệp nhất sống động và đích thực.
b. Để làm được điều đó cần phải làm theo cách Chúa Giêsu đã làm: Thánh Phaolô đã viết lên bài ca, lấy ý từ những thánh thi phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu, ca ngợi sự tự hạ và vâng lời cách anh hùng của Đấng Cứu Thế.
c. Cộng đoàn sẽ trở nên sống động, phát triển, an vui và năng động nếu như các thành viên biết sống vì nhau; biết đặt trọng tâm cuộc sống của mình trong bác ái, khiêm nhu, cảm thông lẫn nhau, chính mỗi người là quà tặng, là hồng ân cho nhau.
3. Tin mừng: Mt 21,28-32
Dụ ngôn hai người con
Dụ ngôn giới thiệu hình ảnh hai người con, một người nói vâng với người cha nhưng cuối cùng không làm gì; một người đã thực hiện điều mà trước đó đã từ chối. Dụ ngôn như lời giải thích cho sự khác biệt giữa việc đi theo cái đúng và cái sai.
a. Hai người con tượng trưng cho hai hạng người Do Thái thời Chúa Giêsu: những người tội lỗi hay dửng dưng không giữ lề luật và qui định của tiền nhân; và những người công chính luôn tuân giữ lề luật tiêu biểu là các luật sĩ và biệt phái. Cả hai hạng người này đều là con cái Chúa.
b. Hạng người nói không nhưng thực sự lại vâng lời. Hạng người biết vâng nhưng thực sự lại không vâng. Vâng ở đây là vâng lời Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Những người mau mắn vâng nhưng sau lại không làm gì là người không tin vào Chúa Giêsu, từ chối hoán cải. Khiêm tốn hơn, những người tội lỗi, ý thức tình trạng khốn khổ của họ, tin vào Chúa Giêsu và thay đổi cuộc sống.
c. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta thấy rằng không thể đánh giá con người qua thái độ bên ngoài, qua thiên kiến, nhưng cần nhìn vào chính thực tế đời sống và hơn nữa đời sống tôn giáo để biết rõ tâm hồn con người. Chính bản thân mỗi người cũng vậy phải biết hoán cải cuộc sống tin theo Chúa, thực thi ý Chúa mới là con cái Chúa đích thực.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Cách sống, biểu lộ thâm tâm con người:
Qua dụ ngôn hai người con, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng xét đoán giá trị đạo đức của một con người theo lời nói, theo các cam kết lý thuyết hay nguyên tắc. Người con đầu từ chối lời cha, sau đó hối hạn và đi làm; còn người con thứ hai mau mắn vâng lời, nhưng lại chẳng làm gì. Trong hai người, người con đầu là người mới thực sự biết vâng lời. Trong thực tế cuộc sống tôn giáo, người ta thường có thái độ dễ vâng lời Chúa, mau mắn vâng lời nhưng thực hành thì lại không có. Gọi dạ bảo vâng nhưng không làm là cách sống của nhiều Kitô hữu. Cho nên, muốn đánh giá môt con người không phải là điều dễ dàng. Chính cuộc sống, cách sống của mỗi người sẽ biểu lộ thâm tâm họ. Chính Thiên Chúa cũng đã khẳng định Ta cần tấm lòng chứ không cần hy lễ. Thiên Chúa nhìn thấu tâm can mỗi con người.
Mỗi Kitô hữu hôm nay cần phải nhìn nhận lại thái độ sống của mình có thực tâm sống theo Chúa hay không? Con người dễ bị cám dỗ chạy theo những giá trị hời hợt bên ngoài, bằng lòng với một vài việc đạo đức nào đó hay với vài lời kinh nguyện rồi yên chí là đã sống vâng lời Chúa. Cần phải có thái độ và cách sống thực tâm đối với Chúa.
2. Hoán cải, cơ hội cho con người:
Người con đầu từ chối lời cha, sau đó hối hận và đi làm theo ý cha mình. Thái độ hoán cải đó thật cần thiết, nhờ đó, mọi lỗi lầm trước đây đã được xóa bỏ, giá trị cuộc sống của anh được nâng lên. Biết nhận ra lỗi lầm, hối hạn hoán cải và làm theo ý Chúa là điều quan trọng đối với Chúa. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào vào Nước Trời. Tội làm cho con người xa Chúa, nhưng một khi biết ăn năn thì vẫn được thứ tha. Và nhiều khi chính tội lỗi cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn mở cửa lòng thương xót để chờ đón tội nhân hoán cải. Ngài đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Hoán cải luôn là cơ hội để làm lại cuộc đời, là cơ hội cho mỗi người vươn lên trên đường nên thánh.
Với Thiên Chúa điều quan trọng không phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội chồng chất, quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng vâng; nhìn lại những lỗi lầm đã qua để từ bỏ biến đổi cuộc sống nên công chính hơn. Điều này luôn làm được với ân sủng của Thiên Chúa.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục mời gọi chúng ta đến cộng tác trong công cuộc loan báo Tin mừng giữa vườn nho thế giới. Chúng ta cùng đến với Ngài để nói lên tiếng đáp trả và những trăn trở trong sứ vụ của chúng ta.
1. Sự tín trung là một trong những điều cần thiết trong cuộc đời Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các bậc tu trì luôn biết trung tín mãi với lời đáp trả của các ngài trong đời sống dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ mọi người.
2. Hiện nay, có không ít người Công giáo đang quên sứ vụ mình đã lãnh nhận khi lãnh các bí tích khai tâm. Xin cho những người lầm đường lạc lối, những người đã không ít một lần nổi loạn, khước từ thánh ý Chúa biết can đảm đứng lên để sống cuộc đời mới theo cung cách của Tin mừng.
3. Nền "văn hóa báo công" đã và đang làm cho không ít người trở nên gian dối trong lời nói và việc làm. Chúng ta cùng hiệp lời cầu xin cho đời sống của mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn là một sự hòa điệu giữa lời nói và việc làm như dấu chứng của Tin mừng sự thật giữa thế giới hôm nay.
Lời kết: Lạy Chúa, Chúa biết rõ sự yếu đuối và mỏng dòn của mỗi chúng con. Xin ban ơn trợ lực để mỗi người Kitô hữu chúng con luôn nhận ra sự thật này để thường xuyên hoán cải và làm mới lại đời sống của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Tin Mừng Mt 21, 28-32: Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng chỉ cần sám hối một lần là đủ. Không, muôn đời chúng ta luôn là những con người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi được thứ tha, đang sám hối.
Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong bài Tin Mừng hôm nay: "Tôi bảo thật các ông TN 26-A189
Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong bài Tin Mừng hôm nay: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu sám hối mà tin ông ấy."
Vậy sám hối là gì? Sám hối trong Kitô giáo gồm bởi hai từ: ăn năn và thống hối
- Ăn năn là nghiền nát, chà đạp, tan thành miếng nhỏ. - Thống hối là châm, đâm.
Vào một lúc nào đó, con tim chúng ta bị tổn thương, bị đâm thủng, một cõi lòng tan nát.
Và Sám Hối được chia làm ba giai đoạn.
- Giai đoạn thứ nhất: biết mình sa ngã phạm tội - kế đó là quyết tâm trở lại với Chúa. - sau cùng là tiến lên đi tìm sự trọn lành.
Thực tế thì không đơn giản cũng không phức tạp như vậy vì ân sủng là chính sự đơn giản. Khó khăn ở chỗ là đời sống trong Chúa Thánh Thần đâu dễ gì nhìn thấy, chúng đan chéo vào nhau không ngừng, đến nỗi không phải lúc nào cũng dễ phân biệt được những con đường đó. Quả vậy, tội lỗi, sám hối, và ân sủng đâu phải chỉ là ba giai đoạn nối đuôi nhau. Trong cuộc sống thường nhật, chúng rối rắm, đôi khi khó gỡ. Chúng lớn lên chung với nhau. Tôi không bao giờ hoàn toàn ở bên này hay bên kia. Tôi không ngừng ở trong cả ba.
Tội lỗi, sám hối và ân sủng là cơm gạo và thân phận hằng ngày của tôi. Thậm chí cả trong Nước Trời, như chính Đức Giêsu đã nói, nơi đó những người tội lỗi cũng không thiếu vắng và có khi những người thu thuế và gái điếm lại vào trước và dẫn đầu những người khác (Mt 21,28-32).
Ba giai đoạn này không phải là ba bậc thang giá trị, chúng ta không bước từ bậc này lên bậc kia như thể bước lên bậc tam cấp. Cũng không phải là ba quân hàm chúng ta gắn trên vai áo.
Không, trước giờ chết, chúng ta sẽ không bao giờ vĩnh biệt hẳn trạng thái này hay trạng thái kia trong ba trang thái đó.
Chúng ta luôn luôn là những người tội lỗi không ngừng đang sám hối, và trong sự sám hối đó chúng ta đang không ngừng được Thần Khí của Thiên Chúa thánh hoá. Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng chỉ cần sám hối một lần là đủ. Không, muôn đời chúng ta luôn là những con người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi được thứ tha, đang sám hối.
Thật vậy, sám hối luôn là vấn đề thời gian, con người cần thời gian và Thiên Chúa cũng cần thời gian với chúng ta. Thật là sai lầm nếu chúng ta nghĩ rằng, những chuyện đại sự trong cuộc sống con người có thể thực hiện ngay và một lần là đủ. Không, con người chúng ta là như thế đó, phải có thời gian để lớn lên, để chín mùi và để triển khai tất cả những khả năng của mình.
Ngày hôm nay, thời gian được ban cho chúng ta để mỗi ngày biết Thiên Chúa hơn, đó luôn là thời gian sám hối và ân sủng, quà tặng của lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi và lúc nào cũng chờ đợi, nhưng chúng ta nên nhớ: cái gì cũng có những giới hạn của nó như câu chuyện “Mãi Mãi Tuổi 17” như sau:
Cái ngày tôi từ giã cõi đời là một ngày đi học bình thường như bao ngày khác. Chao ôi, ước gì lúc ấy tôi đã chịu đi xe buýt! Tôi nhớ là mình đã làm mình làm mẩy với mẹ để lấy xe hơi đi cho bằng được.
- Cho con lái đi mà mẹ - tôi nài nỉ - Bạn con đứa nào cũng đi xe hơi cả mà có sao đâu.
Khi chuông reng lúc 2 giờ 30 phút chiều, tôi quẳng vội sách vào ngăn tủ và tự nhủ: “mình được tự do đến sáng mai!"
Rồi tôi ngồi lên xe, phóng như bay và chẳng bao lâu sau đó, tôi nghe một tiếng va chạm thật lớn, người tôi bị chao đảo khủng khiếp. Kiếng và sắt thép văng ra khắp nơi. Toàn thân tôi như bị lộn nhào cả lên. Tôi nghe một tiếng thét kinh hoàng từ chính miệng tôi và rồi tôi không còn biết gì nữa.
Bỗng nhiên tôi tỉnh dậy, chung quanh hoàn toàn im lặng. Một nhân viên cảnh sát đang đứng bên cạnh một bác sĩ. Toàn thân tôi đầy thương tích. Cả người tôi đẫm máu. Những mảnh kiếng vụn nhọn hoắt găm khắp toàn thân tôi. Điều lạ lùng là tôi không cảm thấy đau đớn gì cả.
Này, đừng kéo tấm vải phú kín mặt tôi như vậy chứ! Tôi không thể chết. Tôi chỉ mới 17 tuổi.
Rồi người ta đặt tôi vào trong một chiếc quan tài. Gia đình đến nhận dạng tôi. Tại sao người thân phải chứng kiến tình trạng thê thảm như thế này? Tại sao tôi phải nhìn vào mắt của mẹ khi mẹ đang phải đương đầu với nỗi đau khủng khiếp nhất trong cuộc đời mình?
Cha tôi trông già sọm hẳn đi. Cha tôi nói với người đàn ông trực ở đấy:
- Vâng! Đó chính là con trai chúng tôi.
Rồi đám tang cũng thật kỳ lạ. Tôi thấy tất cả họ hàng và bạn bè đi về phía quan tài. Họ nhìn tôi bằng đôi mắt buồn bã nhất mà tôi từng thấy. Một vài đứa bạn khóc sụt sùi. Vài cô gái sờ vào tay tôi và nức nở quay đi. Ai đó làm ơn hãy đánh thức tôi dậy! Tôi xin các người. Hãy đem tôi ra khỏi chỗ này. Tôi không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy cha và mẹ đau khổ như thế.
Ông bà tôi suy sụp, bước đi không vững. Anh chị em tôi thơ thẩn như những bóng ma và cử động như những cỗ người máy. Mọi người đều bàng hoàng. Không ai tin được chuyện này. Chính tôi cũng không tin. Làm ơn đừng chôn tôi! Tôi không chết! Tôi có nhiều chuyện phải làm! Tôi muốn cười đùa và chạy nhảy trở lại. Tôi muốn ca hát và nhảy múa. Làm ơn đừng chôn tôi dưới lớp đất kia!
“Con hứa nếu Thượng Đế cho con thêm một cơ hội nữa, con sẽ là người lái xe cẩn thận nhất trên trần gian này." Tất cả những điều tôi muốn là hãy cho tôi thêm một cơ hội nữa.
"Làm ơn đi Thượng Đế, con chỉ mới 17 tuổi thôi."
Tất cả đều không thể, vì em bé 17 tuổi đã chết bất ngờ trong một vụ tai nạn giao thông và em bé đã không kịp ăn năn sám hối.
Tin Mừng hôn nay trình bày dụ ngôn hai người con được Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và TN 26-A190
Tin Mừng hôn nay trình bày dụ ngôn hai người con được Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ lão trong dân nghe, đồng thời mời các ông suy nghĩ xem sao và đưa ra nhận định vấn đề. Chúa nói : “Các ông nghĩ sao: "Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho". Nó đáp: "Con không muốn đâu!". Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?". Họ trả lời: "Người thứ nhất" (Mt 21,28-31).
Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, sau khi nghe họ trả lời, Chúa Giêsu tuyên bố một câu thật sốc để đời với họ : "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31-32).
Sao không phải các ông mà là các cô gái điếm?
Khi Chúa Giêsu đề cao những người đĩ điếm và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: "Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước" (Mt 21,31). Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.
Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện như Maria Madalêna (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).
Chúa Giêsu nói rõ lý do tại sao họ sẽ vào nước Thiên Chúa trước : "Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài" (Mt 21,32).
Hoán cải và tin
Lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người được thêu dệt bằng tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán : "Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống" (Ez 33,11). Lời mời gọi hoán cải, thay đổi cách sống, nói và làm phải đi đôi với nhau, tin vào Chúa thật cấp bách gửi đến chúng ta.
Lời Chúa qua miệng tiên tri Ezekiel nói : " Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết " (Ed 18, 28). Nghe có vẻ nhẹ nhàng, dễ hiểu. Thế nhưng, đặt vào bối cảnh tôn giáo Do thái lúc bầy giờ, khi mà câu : “Đời cha ăn nho xanh, con ghê răng” (Ed 18,2) ở trên cửa miệng của từng người, nghĩa là tội lỗi của cha mẹ sẽ để hậu quả lại cho con cái, thì nó không còn nhẹ nhàng nữa. Êzêkiel kêu gọi : kẻ công chính hãy cố gắng tiếp tục thi hành công chính, kẻ gian ác phải mau từ bỏ tội lỗi, trở về đường ngay, nghĩa là hoán cải và sống thánh thiện.
Dụ ngôn hai người con có cách đối xử khác nhau với cha mình minh họa cho hai hạng người có tính cách đối nghịch nhau luôn cận kề nhau trong Hội Thánh. Khi người cha yêu cầu hai con đi làm vườn nho, phản ứng tức thì của hai người con hoàn toàn trái ngịch nhau : Người con thứ nhất ban đầu phản kháng, bất tuân, vô lễ, sau nó hối cải ăn năn tội và thực thi bổn phận làm con với cha mình. Người con thứ hai thưa vâng nhưng lại không đi.
Phản ứng tự nhiên của người sống trong tội lỗi là thù nghịch với giáo huấn của Chúa, không muốn tuân phục và kính sợ Chúa, chỉ muốn khước từ Ngài. Nhưng sau khi phạm tội, họ ăn năn, quay trở lại và thể hiện lòng hối cải bằng hành động tuân phục thánh ý Chúa.
Sự mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm bộc lộ tính cách thật của người ấy: đạo đức giả. Người con thứ không chịu ra vườn làm việc là vì đối với người ấy sự vâng phục bằng lời nói là đủ rồi, anh không hề quan tâm đến tình cảm, lợi ích, cùng sự kỳ vọng của cha mình.
Khi giải thích dụ ngôn, Chúa Giêsu bảo cho các thầy tư tế và các trưởng lão trong dân là những người luôn tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu rằng, chính những kẻ tội lỗi, bị khinh miệt trong xã hội như quân thu thuế và gái điếm là những người sẽ đáp ứng với đòi hỏi của Tin Mừng, còn họ "dẫu thấy vậy cũng không chịu ăn năn." Sự cứng lòng cũng là một đặc tính cố hữu của những người đạo đức giả.
Bài học cho chúng ta
Sám hối và thay đổi
Người con thứ nhất đã thay đổi. Chúng ta cũng thế, chính Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta khiến chúng ta suy nghĩ lại và phải thay đổi, không thể cứ ở lì trong tình trạng tội lỗi mãi được.
Nói và làm phải đi đôi với nhau
Người con thứ hai nói mà không làm đã khiến người cha hụt hẫng. Thiên Chúa cũng có lúc bị hụt hẫng trước lối sống của chúng ta, bởi chúng ta hứa mà không làm, chứng nào tật ấy.
Lời Chúa Giêsu văng vẳng bên tai chúng ta trong bối cảnh xã hội hôm nay: “Tôi bảo thật, những quan chức thuế vụ, những cảnh sát giao thông ăn hối lộ, những quan chức tham những bạc tỷ, những cô gái đứng đường, những má mì, bọn đầu trộm đuôi cướp, xì ke ma túy, ngáo đá… sẽ vào Nước Thiên Chúa trước”
Tai sao vậy?
Thưa: Vì họ đã biết thống hối và từ bỏ những việc làm bất chính, áp bức bất công. Nay họ sống công bằng, tuân theo tiếng lương tâm và vui sống trong sự thật dù thiếu thốn tiền của hơn. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta cải đổi đời sống cho xứng danh là Kitô hữu.
Câu chuyện dụ ngôn kể về một người đàn ông và hai đứa con trai của ông. Người đàn ông đó TN 26-A191
Câu chuyện dụ ngôn kể về một người đàn ông và hai đứa con trai của ông. Người đàn ông đó là chủ một vườn nho. Trong nền văn minh nông nghiệp của Israel, các vườn nho thường là hoạt động kinh doanh của gia đình. Và trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, gia đình này đang làm vườn nho. Hai người con trai làm việc cho cha nhưng cũng làm việc cho chính mình, vì họ là người thừa kế vườn nho.
Người đàn ông đến gặp con trai đầu lòng và nói: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (Mt 21: 28). Nhưng đứa con trai của ông trả lời: “Con không muốn đâu!” (Mt 21: 29). Chính sự phản đối của người con trai đã phá vỡ mối tương quan hòa hợp giữa anh ta và cha mình. Nhưng sau đó, khi người con cân nhắc lại những gì mình đã làm, anh ấy hối hận vì đã nói những gì không nên nói vốn gây ra căng thẳng. Anh ấy ăn năn và đi làm ngay vào ngày hôm đó trong vườn nho (câu 29).
Người đàn ông đến người con thứ hai và nói điều tương tự. Người con thứ hai có phản ứng xem ra “đúng chuẩn” hơn anh mình. Anh ta nói với cha mình “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21: 30). Câu trả lời của anh ta không chỉ là câu trả lời đúng đắn và ngoan ngoãn mà còn tỏ ra kính trọng rõ ràng. Tuy nhiên, anh ta đã che giấu sự bất kính và bất tuân của mình, đã gian dối bằng những lời nói giả vờ kính trọng, vì khi nói xong, anh ta không đi làm vườn nho như cha anh yêu cầu (ibid). Anh ta chỉ là một kẻ “đạo đức giả”.
Không có đứa con trai nào là trọn hảo. Cả hai đều tỏ ra thiếu kính trọng người cha của họ. Nhưng hành vi phạm tội của họ đã được thể hiện theo những cung cách khác nhau. Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn ngắn này bằng cách hỏi các thượng tế và kỳ mục: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21: 31). Họ trả lời đơn giản rằng: “Người thứ nhất” (câu 31). Họ đã trả lời đúng. Không ai trong chúng ta là trọn hảo. Mọi người đều có tội lỗi của riêng mình, ở những mức độ khác nhau, theo những cách khác nhau. Điều quan trọng là cuối cùng mỗi người có thú nhận tội lỗi của mình và sửa chữa hay không.
Chúa Giêsu dựa trên câu trả lời đúng của các thầy thượng tế và kỳ mục để nói với họ một sự thật khiến họ choáng váng: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21: 31). Cái gì? Những người thu thuế và những cô gái điếm lại vào Nước Thiên Chúa trước những thượng tế và kỳ mục, những vị lãnh đạo dân Chúa sao? Điều này cực kỳ xúc phạm đến các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ là tầng lớp tinh hoa về mặt tinh thần. Họ là những học giả Do Thái. Họ là những người biết mọi khía cạnh của Lời Chúa. Mặt khác, gái mại dâm và người thu thuế là tội nhân. Họ là những kẻ vô lại và cặn bã. Họ không biết Lời Chúa. Họ không thực hiện bất cứ nghi lễ tôn giáo hay hiến tế nào.
Những người thu thuế và gái điếm giống như người con trai thứ nhất trong dụ ngôn. Những người thu thuế làm việc cho Rôma được hưởng lợi từ sự bóc lột chính dân tộc mình. Họ là những kẻ phản bội Thiên Chúa và dân của Chúa. Họ là “quân tội lỗi” (Mt 9: 11). Gái mại dâm cũng bị các thượng tế và kỳ mục khinh thường vì cách kiếm sống bằng tội lỗi của mình với người khác. Cả người thu thuế và gái mại dâm đều vi phạm Lời của Thiên Chúa: “Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng” (Lêvi 19:13) và: “Gái điếm là hố sâu và phụ nữ ngoại tình là giếng hẹp. Nó khác nào kẻ cướp rình chờ hòng tăng số những kẻ bất trung trong nhân loại” (Cn 23: 27-28). Tuy nhiên, chính những người thu thuế, gái mại dâm và những người tội lỗi khác đã ăn năn khi họ nghe sứ điệp Tin mừng từ Gioan và sau đó là Chúa Giêsu. Trong đó có cả Mátthêu, tác giả câu chuyện Tin Mừng này (Mt 9:9), một người thu thuế đã ăn năn và đi theo Chúa Giêsu.
Trong khi đó các thầy thượng tế và kỳ mục, những nhà lãnh đạo tôn giáo, giống người con thứ hai, như những gì Chúa đã phán với Isaia: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng, tôn vinh Ta bằng môi, còn lòng chúng thì xa Ta lắm; chúng chỉ kính sợ Ta theo lệnh của người phàm, nhưng đó chỉ là sáo ngữ” (Isaia 29:13).
Chúa Giêsu làm rõ thêm khi nêu ra những sự thật về Gioan Tẩy giả và sứ vụ của ông khi Ngài hỏi các thượng tế và kỳ mục về thẩm quyền của Gioan: “Phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” (Mt 21: 25). Chúa Giêsu nói với những người lãnh đạo Do Thái rằng: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt 21: 32), nhưng “Những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin” (Mt 21: 32). Dù họ là những tội nhân công khai nhưng vì đã ăn năn giống như đứa con trai thứ nhất trong dụ ngôn, nên họ được vào vườn nho vương quốc của Thiên Chúa. Còn những thượng tế và kỳ mục, những người Sađốc và người Pharisêu lại không tin và không ăn năn, chỉ theo Chúa bằng đầu môi chót lưỡi, nghi lễ hình thức bên ngoài, chứ không phải bằng tấm lòng hay hành động của mình. Đó là một sự thật đáng buồn cho những nhà lãnh đạo tôn giáo không ăn năn này, ngay cả bây giờ họ vẫn không chịu ăn năn: “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (ibid). Họ vẫn ở ngoài Nước trời.
Những nhà lãnh đạo tôn giáo này đã hành xử giống như cây vả mà Chúa Giêsu đã nguyền rủa trên đường vào thành, và nếu họ không ăn năn, họ cũng sẽ khô héo, không bao giờ sinh trái nữa: “Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa!” (Mt 21:19 ). Chúa Giêsu muốn cho giới tinh hoa tôn giáo biết rằng họ được lên thiên đàng không phải nhờ nỗ lực tự hãnh của họ mà là nhờ vào sự vâng phục thực sự ý muốn của Chúa Cha, và ý muốn đó đã được mạc khải và hoàn thành nơi sứ vụ của Chúa Giêsu, Đấng mà họ đang thẩm vấn về việc giảng dạy dân Chúa. Ân sủng của Thiên Chúa vẫn được mở rộng cho bất cứ ai quay về với Chúa Giêsu, như tiên tri Êdêkiel nói trong bài đọc thứ nhất: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết” (Ed 18: 26-28).
Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã gián tiếp nhưng rõ ràng trả lời câu hỏi của các thượng lễ và kỳ mục về nguồn gốc thẩm quyền của Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt 21: 23). Thẩm quyền “làm các điều ấy” của Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa là Cha, cũng như thẩm quyền “làm phép rửa” của Gioan phát xuất từ sứ vụ của ông là “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3:2).
Như thế, Chúa Giêsu nói rõ: lời nói, nghi lễ, kinh kệ, lề luật là chưa đủ. Những việc này sẽ không có giá trị gì nếu chúng không nhằm để thực hiện Ý Chúa “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” với tất cả tấm lòng chân thành của mỗi người. Thiên Chúa muốn chúng ta hoán cải tận cõi lòng và vâng theo Thánh Ý của Ngài, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đừng bao giờ khoe khoang về việc tuân giữ lề luật, lễ nghi, kinh sách sáng tối, bố thí…nhưng hãy đặt niềm tin vào Chúa Giêsu và thưa với Ngài như người thu thuế rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18: 13). Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta kho tàng lớn nhất có thể có - bình an, niềm vui, hạnh phúc và cuộc sống vĩnh cửu với Thiên Chúa trong vương quốc của Ngài. Chúng ta có thể đánh mất kho báu đó khi chúng ta không đi theo con đường sự thật và công chính của Thiên chúa và từ chối ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Đứng trước Thiên Chúa, có ai không là tội nhân? Chỉ là hoặc công khai trước mắt mọi người hoặc kín ẩn chỉ một mình mình biết. Không tự nhận mình là tội nhân, trái lại vênh váo coi mình là công chính, thì thà là kẻ tội lỗi công khai mang tiếng xấu, kể cả nhục nhã, nhưng biết từ bỏ đàng tội lỗi, trở lại đường công chính của Chúa Giêsu, còn hơn che giấu và thậm chí chối bỏ tội lỗi của mình để rồi rơi vào sự mù lòa tâm linh, không còn nhận ra sự thật về bản thân và về Thiên Chúa. Sự thật về bản thân: tôi là một kiểu người thu thuế hoặc gái điếm. Sự thật về Thiên Chúa: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9: 13). Một người đủ trung thực để thừa nhận những thất bại và sai lầm của mình sẽ không bị mù quáng bởi bất cứ ảo tưởng nào về sự giỏi giang và đạo hạnh của mình. Do vậy, ai cũng cần ăn năn sám hối tội lỗi của mình và cần chạy đến lòng nhân từ luôn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chống lại chúng ta vì tội lỗi của chúng ta; Ngài là Đấng chữa trị những nỗi đau của con người. Đây là một Tin Mừng tuyệt vời: Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người Cha, mong tất cả chúng ta, người ít tội cũng như kẻ lắm tội, trở về nhà, nhận được tình yêu của Ngài và tham gia bữa tiệc. Đó là Thánh Ý của Thiên Chúa: “Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18: 12-14) và: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15: 32).
Trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu trình bầy hai hình ảnh tương phản của hai người con. Cả hai TN 26-A192
Trong bài Tin Mừng, Ðức Giêsu trình bầy hai hình ảnh tương phản của hai người con. Cả hai người con đều được người cha đối xử thật thân tình. Ông cha đã cho cả hai cậu con một cơ hội tham gia vào sứ mạng làm cho vườn nho được phát triển. Tuy nhiên, đáp trả của hai người con lại không giống nhau. Người con thứ nhất, miệng thơn thớt thưa vâng nhưng lại không làm, còn người thứ hai, tuy đã nói không nhưng sau đó anh ta nghĩ lại và đã hồi tâm, thay đổi cách sống mà ra làm việc cho cha.
Đối với Thánh Matthew, sự tuơng phản trong lối sống của hai người đuợc thể hiện trong cộng đoàn của Ngài: Một bên là quí vị có chức tước, miệng nói có nhưng tâm hồn lại đóng kín với những giáo huấn mới của Chúa Giê-su. Còn người con thứ hai là hình ảnh của những người bị xếp vào hạng tội lỗi, đã nói không nhưng nay được thay đổi và xin vâng theo lời dậy bảo của Chúa. Họ là những người tuy miệng nói không nhưng lòng vẫn tìm kiếm để vâng nghe tiếng Chúa.
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu hỏi các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao?” Lối đặt vấn đề của Chúa nhằm nhắc nhở họ phải thay đổi cách sống. Họ hãnh diện về lối sống mẫu mực của họ. Họ chủ truơng rằng những gì mà họ đang có như tiền tài, danh vọng, vị trí trong cộng đoàn là phần thuởng và dấu chỉ mà Thiên Chúa phải trao ban để tưởng thưởng cho các việc lành phúc đức và lối sống chu tòan lề luật của họ. Và, với lối sống tuân phục mọi điều khoản trong lề luật dậy bảo thì họ đã trở thành guơng sáng cho nguời khác. Cuộc sống của họ đã đạt đến mức hòan hảo, đâu còn khiếm khuyết mà cần phải thay đổi.
Theo quan niệm và mẫu mực sống đạo của họ thì người cần đuợc thay đổi trước tiên là chính Đức Giê-su. Người xưng mình là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa mà chẳng hề tuân theo luật lệ và các tập tục của cha ông dậy bảo thì nói ai tin; do đó theo quan niệm của họ thì Chúa cần sửa đổi và noi guơng họ!
Nhưng Chúa đã phản đối lối sống vụ luật, dựa vào hình thức của họ và xác định rằng: Trong Nước Thiên Chúa, những ngươì thu thuế, hạng tội lỗi mà họ đã khai trừ ra khỏi cộng đoàn lại là những người chọn lựa đúng. Đám dân đen ít học này đã mở lòng ra để đón nhận lời rao giảng của Thánh Gioan Tẩy Giả và của Chúa, hối cải và trở về đường ngay nẻo chính. Còn họ thì không, cố giữ và ôm chặt lấy truyền thống để bảo đảm cho ngai vàng và nguồn lợi của họ.
Thay đổi lối sống để trở về nẻo chính đường ngay không phải là việc dễ dàng! Nếu có cơ hội, anh hay chị hãy nghiệm lại trong cách sống, chúng ta đã thay đổi đuợc gì! Giả như, nếu có thì cũng chỉ là các thay đổi đem lại lợi ích riêng cho bản thân và gia đình mình. Sau đây là một kinh nghiệm.
Cách đây mấy năm, trong chuyến về thăm thân nhân bên Việt Nam, tôi đã gặp lại gia đình người bạn, sau bao năm xa cách, đời sống của anh chị khá giả và sung túc hơn xưa. Tuy nhiên, cuộc sống mà họ đang thụ huởng cũng phải trả một giá rất đắt và thật chua xót. Anh chị biết điều đó và thản nhiên chia sẻ rằng: Xin cha thông cảm cho cuộc sống của gia đình tôi. Sống đạo trong hoàn cảnh của chúng tôi là điều một điều thật khó khăn; vì nếu phải thay đổi lối sống sao cho phù hợp với niềm tin thì cuộc sống của chúng tôi sẽ khó khăn hơn, sẽ nghèo lắm. Tiêu chuẩn và nếp sống của thế gian thì khác xa đòi hỏi của Nước Thiên Chúa.
Nghe xong tâm sự và trăn trở của người bạn, tôi nhận ra mình cũng như thế. Anh bạn đã nói ra tâm tư của cõi lòng, khó khăn trong việc sống đạo, những điều anh nói thật đáng quí, đáng trân trọng vì anh dám nói thật. Cho dù cuộc sống chưa kiện toàn, nhưng nhìn nhận vị trí của chính mình là bước đầu của sự thay đổi rồi, còn khi nào anh mới đổi thay là việc của Chúa. Anh chị biết điều cần làm. Anh chị còn biết nỗi yếu đuối của bản thân. Hy vọng, một ngày nào đó, với ơn Chúa, anh chị can đảm thực hiện điều mà anh chị xác tín. Ước nguyện của tôi chỉ có thế!
Anh chị em thân mến,
Thái độ của hai người con trong câu chuyện hôm nay nhắc nhở thêm cho tôi một hiện tuợng đang xẩy ra cho các gia đình công giáo. Tôi được nghe kể lại rằng: các bậc phụ huynh thuờng than phiền về việc các cháu bê trễ trong việc phụng tự. Các cháu ít hay hầu như không đọc kinh sáng tối! Các cháu cũng ít tham dự các Thánh Lễ Chúa nhật; may ra một năm được l hay 2 lần. Nói đến ‘lễ buộc’ thì các cháu phản ứng khá gay gắt như ‘xã hội hôm nay, làm gì còn việc ép buộc. Tự nguyện mới có giá trị, tham dự chỉ vì bị bắt buộc thì còn có ích lợi gì!’
Tôi thông cảm cho các nỗi lo âu của quí phụ huynh. Tôi cũng không bàn bạc về những suy nghĩ của các cháu là đúng hay sai? Vẫn biết lo lắng cho tương lai của con cái là bổn phận và ước mơ của cha mẹ. Nhưng, điều chúng ta lo có thay đổi gì trong cuộc sống của các cháu! Nhiều khi, chúng ta lo quá, lo đến mức làm mất đi niềm tin nơi các cháu. Điều đó có ích lợi cho các cháu hay không?
Ngoài các mặt tiêu cực mà các cháu đang làm cho bố mẹ phải đau đầu nhức óc nói trên, tôi lại đuợc nghe quí phụ huynh kể lại việc các cháu tham gia các đoàn bác ái, các nhóm y tế … đi đến các nuớc nghèo thăm hỏi, cứu trợ và làm các việc thiện nguyện hầu giúp đỡ và xoa dịu các vết thuơng của những nguời thiếu may mắn hơn con cái của quí vị. Một điều đáng quí và đáng ngưỡng mộ là tiền vé máy bay và những khoản chi tiêu cần thiết cho chuyến đi thiện nguyện cũng do bàn tay của các cháu làm và để dành.
Tham gia vào các công tác xã hội, quan tâm và giúp đỡ người nghèo của các cháu thật đáng khích lệ và tán thuởng. Phải chăng các cháu là những người con đã trả lời không với kiểu sống nhàm chán của lề luật, những nghi thức máy móc của các nghi lễ và lối sống đạo hoành tráng và phô truơng thanh thế của chúng ta. Việc làm của các cháu thực tế và phù hợp với tấm lòng của các cháu: lo và quan tâm cho kẻ khác. Các cháu có thể là hạng người, tuy miệng nói KHÔNG, cuối cùng lại làm CÓ; từ bỏ để bước ra ‘ngoài đồng’ làm các việc tông đồ giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Lắng nghe, đón nhận Tin Mừng rồi hối cải ra ngoài đồng thực hiện ý Chúa là tiến trình cần theo. Còn nếu chỉ biết dựa vào công nghiệp, hệ thống lề luật mà đòi thuởng công thì quả giống như người con chỉ biết nói vâng vâng dạ dạ, còn lòng đã bị đóng kín. Lòng đã đầy ‘CÁI TÔI’ thì còn chỗ nào trống để mở ra cho tha nhân và làm thế nào đón nhận đuợc Tin Mừng. Trong khi đó, bọn dân đen ít học, có thể là nạn nhân của hệ thống giáo điều mà hàng ngũ lãnh đạo đặt ra, tuy nghèo nàn và thiếu thốn tất cả; nhưng lại dễ mở lòng ra để đón nhận CHÚA VÀ TIN VUI CỨU ĐỘ CỦA NGUỜI.
Ðức Giêsu không có cái nhìn như chúng ta. Người yêu thương những người tội lỗi biết sám hối trở về. Người thường nói: "Ta không đến để kêu gọi những người công chính mà là người tội lỗi. Và “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” Người kiên tâm chờ đợi và hy vọng chúng ta hối cải. Dù đã nói KHÔNG nhiều lần, nhưng chỉ cần một lần thưa CÓ và cố gắng thể hiện trong cuộc sống thì cũng thật xứng đáng để được Cứu độ.
Như vậy, việc sống đạo và chu toàn Thánh ý của Thiên Chúa không chỉ dựa vào lời nói; nhưng bằng hành động. Một trong những việc làm quan trọng mà chúng ta cần thực hiện là nhận biết chính mình, sửa đổi để lệ thuộc vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây chính là hồng ân. Chỉ có hồng ân và tình thương của Chúa mới giúp con người thay đổi, nên hoàn thiện và sống đúng giáo huấn của Chúa mà thôi. Amen!
Kẻ Này Vâng Lời Nhưng Phản Đối. Người Nọ Phản Đối Lại Vâng Lời. Sai lầm là bản chất phàm TN 26-A193
Kẻ Này Vâng Lời Nhưng Phản Đối Người Nọ Phản Đối Lại Vâng Lời.
Sai lầm là bản chất phàm nhân vì mang gen tội lỗi, đôi khi thích làm ngược lại để chứng tỏ “bản lĩnh” của mình. Có những điều tưởng xuôi mà ngược, tưởng ngược mà xuôi. Người ta thường nói: “Thấy vậy mà không phải vậy.” Quả thật, có những điều tận mắt chứng kiến mà lại không như mình đoán định.
Một lần nọ, Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử. Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải đói khát, nhưng không ai kêu than, thoái chí, vẫn quyết tâm theo thầy.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi lo thổi cơm. Nhan Hồi là đệ đạo cao đức trọng được Khổng Tử đặt nhiều kỳ vọng nhất, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.
Khi Nhan Hồi thổi cơm, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe tiếng “cộp” từ bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ, rồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh và từ từ đưa cơm lên miệng. Thấy vậy, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên than: “Ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế ư? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”
Rồi Tử Lộ mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im. Khi rau chín, Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm, các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm. Ông ngồi dậy và nói: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ, thế mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, một dạ theo thầy. Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ, nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?”
Nhan Hồi đứng im. Các môn sinh cùng thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!” Khổng Tử nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?” Tất cả học trò không hiểu ý thầy nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc này Nhan Hồi chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.” Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”
Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi, nhưng con nghĩ: cơm ít, anh em đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít đi. Vì thế, con đã mạn phép thầy và anh em để ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em. Như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ con xin phép không ăn nữa, con chỉ ăn phần rau. Thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!”
Nghe xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời nói: “Ôi, thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”
Thánh Mátthêu cho biết qua trình thuật Mt 21:28-32 rằng, các thượng tế và kỳ mục hỏi Chúa Giêsu về “quyền bính.” Ngài thản nhiên kể chuyện một người cha có hai con trai, ông bảo người con thứ nhất đi làm vườn nho, nó cãi ngay và nói thẳng là “không đi,” nhưng sau đó nó hối hận nên lặng lẽ đi làm. Ông cũng đi bảo người con thứ hai đi làm, nó ngoan ngoãn vâng lời ngay nhưng rồi nó lại không đi. Hai động thái trái ngược.
Chúa Giêsu hỏi ai đã thi hành ý muốn của người cha trong hai người con đó. Họ trả lời là người thứ nhất. Câu trả lời không khó. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Nghe “sốc” quá, nhưng đó là sự thật. Biết họ không hiểu nên Ngài giải thích: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông KHÔNG TIN ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại TIN. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn KHÔNG CHỊU HỐI HẬN mà tin ông ấy.” Lòng họ cứng như sáp nguội!
Chính Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy.” (Ga 14:23-24) Rất rõ ràng, mạch lạc. Chữ YÊU viết ngắn gọn mà ý nghĩa bao la. Có khi chúng ta là người con thứ nhất, có khi chúng ta lại là người con thứ hai. Lúc thuận, lúc nghịch. Biến hóa thất thường. “Cái tôi” to lớn và hung dữ lắm, ai cũng phải luôn cảnh giác cao độ. Thánh Phaolô lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.” (1 Cr 9:27) Ước gì chúng ta biết tâm niệm như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi.” (Ga 3:30) Làm vậy để Danh Chúa tỏa sáng, để Nước Chúa hiển trị, để Ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Tất cả chúng ta đều là những tội nhân, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta tỉnh thức, nhận ra sai lầm mà hoán cải và trở nên ngoan ngoãn. Và rồi Ngài lại phục hồi cương vị làm con cho chúng ta. Tội nhân thành thiện nhân thì thật tuyệt vời! Về tình trạng thuận – nghịch, Chúa Giêsu nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Mt 12:30; Lc 11:23) Và Ngài xác định: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9:40; Lc 9:50)
Trong hai người con, một người “bằng mặt mà không bằng lòng,” một người “không bằng mặt mà bằng lòng.” Phàm nhân với nhau mà đối nghịch đã là nguy rồi, càng nguy hơn khi đối nghịch với Thiên Chúa. Vậy mà ngày xưa, dân chúng đã dám lộng ngôn và phạm thượng: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” (Ed 18:25) Có lẽ họ chẳng kém gì Ông Bà Nguyên Tổ ngày xưa khi dám liều lĩnh như vậy.
Thiên Chúa thẳng thắn đặt vấn đề với họ: “Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay ĐƯỜNG LỐI CỦA CÁC NGƯƠI mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.” (Ed 18:26-28) Chính Thiên Chúa cũng đang chất vấn chúng ta y như vậy.
Dù phàm nhân chẳng đáng gì vì chỉ là bụi đất, (St 3:19) vậy mà “hạt bụi” lại dám “chọc giận” Thiên Chúa, thậm chí là phản nghịch Ngài, nhưng Ngài không chấp “lũ con nít” chúng ta, mà Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm, (Tv 8:5) đồng thời Ngài còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người KHÔNG xử như thế.” (2 Mcb 6:14) Ôi, quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, bởi vì chúng ta chẳng khác gì có cái đầu to mà não bã đậu, chỉ “nổ” thôi. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn cứng đầu thì tự đâm vào ngõ cụt: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN vì tội lỗi của các ngươi.” (Lv 26:18) Thật đáng sợ!
Khôn sống, mống chết, biết mới sống. Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5) Muốn được Thiên Chúa nhậm lời cầu xin, con người phải chân thành sám hối. Thật thấm thía với lời nhận định của Thánh Padre Piô Năm Dấu: “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm thì gần Chúa hơn người tốt mà không dám làm việc lành.” Đó là điều kiện thực sự ích lợi cho chính chúng ta. Thiên Chúa luôn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ nếu con người biết nhận lỗi: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người.” (Tv 25:9)
Thiên Chúa cảnh báo: “Nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN vì tội lỗi của các ngươi. Nếu các ngươi chống Ta và không muốn nghe Ta thì Ta sẽ còn đánh phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN tội lỗi các ngươi. Nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta thì Ta sẽ nổi cơn lôi đình chống các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN vì tội lỗi các ngươi.” (Lv 26:18, 21, 27-28) Nhận ra lỗi lầm và biết sám hối chân thành là biết liên kết với Thiên Chúa. Đó là diễm phúc.
Biết mình “nghịch” thì cần chỉnh sao cho “thuận” với Ngài, càng sớm càng tốt. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau.” (Pl 2:1-2) Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô. (x. Ga 17:21-23)
Thực tế thì chúng ta chưa được như vậy, vì thế phải luôn nỗ lực nhiều hơn. Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi,” vì thế mà rất nguy hiểm, và phải luôn cố gắng “đè nén” nó xuống càng nhiều càng tốt. Có thể ngay khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa” thì thật ra vẫn “vì mình” nhiều lắm, chứ Chúa chẳng lợi gì. Thánh Phaolô cũng đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì GANH TỊ hay vì HƯ DANH, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người ĐỪNG tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình NHƯ chính Đức Kitô Giêsu.” (Pl 2:3-5) Khó lắm, thế nên phải cố gắng “chết” triền miên suốt đời.
Thánh Phaolô dẫn chứng rất cụ thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2:6-9) Ai cũng đã nghe đi nghe lại điều này nhiều lần rồi, nhưng cảm thấy “giật mình” được mấy lần?
Chúa Giêsu có tất cả mọi sự, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế mà Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:10-11) Ngài là Cố Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh Dũng Mãnh, Người Cha Muôn Thuở, Thủ Lãnh Hòa Bình, (Is 9:5) và là Bình An của chúng ta. (Ep 2:14) Tắt một lời, Thiên Chúa là tất cả của chúng ta.
Chúa Giêsu đưa ra hai con người với cách xử sự trái ngược nhau qua dụ ngôn “Hai Người Con” – một đứa thuận, một đứa nghịch. Đó cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta vậy.
Lạy Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi sự, (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) xin giúp chúng con biết sống đúng Thánh Ý Ngài, vừa bằng mặt vừa bằng lòng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Một lời mời gọi rất nhẹ nhàng và rất thân tình, không TN 26-A194
Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Một lời mời gọi rất nhẹ nhàng và rất thân tình, không có dấu hiệu gì của sự ép buộc hay hằn học ghét rơ cả, nhưng tại sao cậu con trai cả lại từ chối không đi làm, nhưng rồi sau đó nó lại
hối hận và đi làm vườn nho? Theo tôi nghĩ, cậu con cả đã nhận ra là nó đã hiểu sai về ông bố của mình. Khi từ chối không đi làm vườn nho, cậu ta nghĩ rằng ông bố đày đọa cậu, bắt cậu phải dầm mưa dãi nắng, phải chân lấm tay bùn… Nhưng sau một lúc hồi tâm suy nghĩ, cậu ta đã nhận ra rằng:
• Không phải vì ghét bỏ, nhưng vì thương yêu cho nên bố của cậu mới sai cậu ra làm vườn nho. Ông muốn huấn luyện tay nghề cho cậu, để cậu có kinh nghiệm và có khả năng tiếp tục cai quản vườn nho, sau khi ông khuất bóng.
• Khi sai cậu đi làm việc, bố cậu muốn cậu quý trọng sức lao động, để cậu không hoang phí của cải vật chất, để cậu biết sống tiết kiệm, và biết quý đồng tiền đẵm mồ hôi nước mắt do công sức của mình làm nên.
• Khi sai cậu đi làm vườn nho, bố của cậu muốn cậu có cơ hội hòa đồng với những người làm công, có thể đồng cảm với những thợ thuyền và đối xử một cách công bằng và nhân ái với họ.
Bạn thân mến, ngày hôm nay, có nhiều người đã hành xử giống như người con cả trong dụ ngôn mà Chúa kể trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người, trong đó có thể có bạn và có tôi trong đó nữa, đã hiểu sai, hay không hiểu nhiều về lòng tốt của Thiên Chúa, cho nên chúng mình mới vâng lời Chúa truyền với thái độ miễn cưỡng, hay tệ hơn nữa, bực bội, khó chịu và bất bình.
Khi vâng lời Chúa kiêng việc xác ngày Chúa Nhật, và tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc thì Chúa chẳng được lợi gì cả, mà chỉ có tôi được hưởng mà thôi.
Thật vậy, khi tuân giữ luật kiêng việc xác và giữ ngày Chúa Nhật thì:
• Tôi có cơ hội để suy tư, tĩnh lặng, rèn luyện và suy niệm để đời sống nội tâm của tôi được phát triển, thể xác cũng như tinh thần của tôi được tịnh dưỡng và đượcbồi bổ qua Bí Tích Thánh Thể và Lời Chúa.
• Tôi có cơ hội làm việc lành và phục vụ cho giáo xứ, thăm viếng bệnh nhân, kẻ tàn tật và già lão…
• Tôi có thời giờ để chú tâm đến gia đình và thân hữu, những người mà thường nhật tôi khó có cơ hội chú tâm tới.
Khi vâng nghe theo mệnh lệnh của Chúa có thì phải nói có không thì phải nói không (Mt 5:37) không gian dối trong việc khai thuế, không lươn lẹo khi xin trợ cấp xã hội… thì tôi được hưởng nhiều lợi ích, ví dụ như:
• Tâm hồn tôi được bình an, tôi được thoát khỏi những nỗi sợ hãi và lo âu bị sở thuế phát hiện, bị FBI theo dõi, bị bắt, bị phạt, bị tù…
• Tôi đóng thuế tức là tôi đang thực thi đức công bằng, vì tôi để dành tiền cho quỹ hưu dưỡng của tôi, và giúp cho con cháu của tôi có trường học, có thư viện, có công viên, có cảnh sát gìn giữ an ninh …
Khi vâng lời Chúa phán yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét tôi (Lc 6:27), thì khi tôi lầm lỗi, tôi sẽ được người khác tha thứ khi tôi lỗi phạm đến Chúa, thì Ngài sẽ tha thứ cho tôi. Khi bỏ qua lỗi lầm và tha thứ cho người khác, thì tôi cũng như những người thân của tôi sẽ được yên ổn và bằng an, cho nên ông bà ta mới nói một sự nhịn bằng chín sự lành – better a lean peace than a fat victory.
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, và cho những ai chưa vâng lời của Chúa, chưa nhận ra tình yêu và lòng nhân từ của Chúa, chưa thấy những lợi ích của việc vâng lời Chúa truyền; xin Chúa soi sáng, hướng dẫn, ban ơn khôn ngoan, và soi sáng mở lòng mở trí, để chúng ta hiểu ra rằng:
• Những giới răn, những luật lệ mà Thiên Chúa đưa ra và muốn con người đi theo và tuân giữ, là vì Ngài yêu thương, chứ không phải là ghét bỏ hay đày đọa con người.
• Khi tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa thì lúc đó tôi sẽ nhận được rất nhiều ích lợi, cho tôi, cho gia đình tôi, cả đời này và lẫn đời sau.
Tuân theo mệnh lệnh của Thiên Chúa thì chỉ có lợi chứ không có hại đâu! Cố lên nha bạn!