Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc. {Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.} - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục Lục:
Chúng ta vừa được nghe một dụ ngôn nữa của Chúa Giêsu. Thử hỏi Chúa muốn nói gì với người TN 28-A151
Chúng ta vừa được nghe một dụ ngôn nữa của Chúa Giêsu.
Thử hỏi Chúa muốn nói gì với người nghe Chúa lúc đó và chúng ta hôm nay?
I. Đây là dụ ngôn có tính cách đặc biệt. Ý nghĩa của nó tương đối cũng dễ hiểu.
– Vua ở đây là Thiên Chúa
– Tiệc cưới là Nước Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước các ngôn sứ thường diễn tả giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do thái như một cuộc hôn nhân mầu nhiệm. Tân Ước cũng lấy lại ý tưởng này và áp dụng vào sự liên kết giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài.
– Đầy tớ là các sứ giả của Chúa. Trong Cựu Ước là các ngôn sứ. Trong Tân Ước là các tông đồ.
– Khách được ưu tiên mời gọi trước hết là dân tộc Do Thái.
– Những người đến sau là mọi dân tộc.
– Áo cưới chỉ ơn thánh được coi như trang sức cho tâm hồn.
Theo câu truyện trong bài dụ ngôn thì chúng ta thấy có 3 lần mời…ba lần mời hay ba lần đi mời cũng vậy.
* Lần mời thứ 1 dành cho những người được tuyển chọn nhưng họ đã không tới.
* Lần mời thứ hai lặp lại lời mời lần thứ nhất và đối tượng được mời cũng y hệt như lần thứ nhất. Và những người được mời vẫn từ chối. Lần từ chối này có tính cách quyết liệt hơn.
* Lần mời thứ ba là một lần mời đặc biệt. Thông thường thì chúng ta thấy trong thực tế khó mà có truyện như vậy. Thế nhưng chúng ta phải nhớ đây là một dụ ngôn. Và trong dụ ngôn thì có thể có nhiều truyện kể cả những truyện mà thực tế không thể xẩy ra được. Ở đây chúng ta thấy nhà Vua đã làm một việc hơi khác thường. Sau khi những người được nhà vua mời để dự tiệc cưới của hoàng tử đã không ai tới mặc dầu nhà Vua đã kiên trì nhẫn nại mời họ đến lần thứ hai.
Tới đây thì sự kiên nhẫn của nhà vua dường như đã đến cái giới hạn của nó. Nhà vua không thèm để ý đến những người đã dược mời trước nữa. Nhà Vua đã ban lệnh cho các thuộc hạ của mình để họ đi ra các ngã ba đường mời tất cả mọi người, phải…tất cả mọi người bất kể họ là hạng người như thế nào để họ vào cho đầy phòng tiệc. Phải nói là thái độ của nhà vua lúc này đã có một cái gì khác lạ…
II. Ý nghĩa câu truyện như thế nào?
Các nhà chú giải Kinh Thánh hầu như đã có một sự nhất trí rất cao về ý nghĩa của dụ ngôn này.
Ba lần này tương đương với ba giai đoạn trục trong lịch sử Cứu độ.
– Giai đoạn 1 bắt đầu từ khi Chúa chọn dân Do Thái cho tới cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
– Giai đoạn thứ 2 bắt đầu từ Ngày lễ Ngũ tuần cho tới cái chết của tông đồ cuối cùng.
– Và giai đoạn thứ ba tiếp liền sau đó. Đó là thời kỳ lương dân được kêu gọi.
* Ở giai đoạn thứ nhất chúng ta thấy dân Do Thái là một dân được tuyển chọn để chuẩn bị cho sự xuất hiện của Chúa Cứu thế. Việc Chúa Cứu thế đến với con nguời là một hồng ân. Lý ra thì những người Do Thái phải là những người đầu tiên được hạnh phúc đón nhận hồng ân đó. Thế nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy. Họ đã từ chối những ơn Chúa ban cho.
* Tới giai đoạn thứ hai chúng ta thấy, sau khi Chúa Giêsu về trời rồi thì đối tượng ưu tiên cho việc rao giảng Tin Mừng cũng vẫn là những người Do Thái, những người Do thái ở quê hương cũng như những người Do Thái hải ngoại. Thế nhưng lần này cũng như lần trước, những người Do Thái vẫn lãnh đạm với Tin Mừng. Thậm chí họ còn bắt các tông đồ mà giết đi.
Xin mở một dấu ngoặc ở chỗ này.
Rõ ràng ở đây chúng ta thấy: Những lý do khiến người ta khước từ lời mời gọi của Thiên Chúa không phải là những lý do xấu. Người thì ra ruộng, kẻ đi buôn, người thì làm nhưng công việc khác cần thiết cho đời sống của mình. Không ai khước từ để đi chơi bời, nhậu nhoẹt say sưa hay làm những việc vô đạo đức. Vậy phải chăng làm như thế là có lỗi? Ở dây chúng ta phải để ý đến điều này: Rất nhiều khi trong cuộc sống, con người thường hay để ý đến những điều tạm bợ và quên đi những giá trị cao hơn. Và thảm kịch của đời sống nhiều khi không phải là cái xấu nhưng nhiều lúc lại chính là cái tốt. Rất nhiều khi ta vì quá bận rộn mưu sinh mà quên lo cho chính cuộc sống, quá bận rộn vào việc tổ chúc đời sống mà quên đi chính đời sống của mình. Ngày xưa đã thế và ngày nay cũng vậy. Đức Thánh Cha Phanxicô gọi cuộc sống như vậy là cuộc sống nông cạn.
Ở đây Chúa đã không nhấn mạnh đến hình phạt. Ngoại trừ đối với những kẻ quá ác nhân ác đức: Bắt giết cả các đầy tớ của vua. Hình phạt thì ai cũng rõ: Thành Giêrusalem đã bị tàn phá vào năm 70.
* Và bây giờ xin được tiếp sang giai đoạn thứ ba. Đây là giai đoạn của lương dân nghĩa tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc được mời gọi….Trong số những người này có cả chúng ta nữa.
Tất cả được mời gọi do lòng quảng đại của vua.
Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta vào Hội thánh Ngài và chúng ta đã chấp nhận bằng cách lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Bí tích Rửa tội làm cho con người chúng ta thành Con Thiên Chúa.
Trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội Giáo Hội trao cho chúng ta một chiếc áo trắng với lời nhắn nhủ: Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận lấy chiếc áo trắng này và hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước tòa Đức Kitô Chúa chúng ta để được sống đời đời.
Bí tích Rửa tội là một hồng ân. Nhưng chỉ lãnh nhận mà thôi thì chưa đủ mà còn phải sống ơn Bí tích Rửa tội nữa. Nói thế có nghĩa là chúng ta phải thay đổi nếp sống cũ, thói quen xấu, tội lỗi trước đó, để sống đời sống mới theo gương của Chúa Giêsu như thánh Phaolô nói: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, (Rm 13,14) và trở nên đồng hình đồng dạng với Người (Phil 3,10). Nói khác đi, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa tội và Thêm sức là đương nhiên được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Cũng như khách được mời dự tiệc, tuy đã được vào phòng tiệc, không những không được ăn mà còn bị đuổi ra ngoài vì không mang lễ phục tiệc cưới thì những người đã được Rửa tội cũng tương tự như thế. Nếu không giữ được chiếc áo trắng tinh tuyền nghĩa là không có tâm hồn trong sạch thì họ không xứng đáng với những hồng ân Chúa ban.
Ơn Chúa ban là một hồng ân nhưng không, nhưng không phải là một hồng ân vô điều kiện. Muốn được hưởng hồng ân của Chúa con người tối thiểu phải có một số điều kiện nào đó.
Xin được kết thúc bằng một câu truyện nhỏ:
Alexandre đại đế lúc còn làm hoàng đế đã xây dựng đế quốc Hy lạp hùng mạnh vào thế kỷ IV trước Công Nguyên. Một ngày kia thấy một người lính lỗi bổn phận bị điệu đến trước mặt. Hoàng đế hỏi:
– Ngươi tên gì ?
– Thưa bệ hạ, thần tên là Alexandre.
– Như vậy là ngươi mang cùng một tên với ta!
Và Đại đế thịnh nộ nói lớn:
– Nhà ngươi hãy sống xứng đáng với tên của mình, nếu không thì hãy đổi tên đi!
Vâng hãy làm một cái gì đó cho xứng với hồng ân của Thiên Chúa. Tình thương của Chúa như giòng suối không bao giờ cạn. Cửa Trời chỉ rộng mở cho những ai vẫn luôn giữ được chiếc áo trắng tinh tuyền ngày họ được trở thành con Thiên Chúa. Amen.
Trong Thánh kinh, hình ảnh “bữa tiệc” ám chỉ hạnh phúc Nước Trời và hình ảnh “được dự tiệc TN 28-A152
Trong Thánh kinh, hình ảnh “bữa tiệc” ám chỉ hạnh phúc Nước Trời và hình ảnh “được dự tiệc” chỉ việc được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Qua dụ ngôn “tiệc cưới hoàng tử”, Đức Giêsu hướng chúng ta về bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa dọn sẵn và Ngài mời tất cả mọi người vào dự tiệc. Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời với Chúa. Thiên Chúa yêu thương hết mọi người “các đầy tớ ra các ngả đường, gặp ai bất luận tốt xấu mời vào dự tiệc”.
Những người đã được mời trước hết, nhưng họ không đáp lại lời mời của chủ tiệc, đó là những người Do Thái: những tư tế, luật sĩ, biệt phái… là những người được các tiên tri loan báo và chuẩn bị, họ được mời dự tiệc cưới Nước Trời là gia nhập vào Giáo hội của Chúa Kitô. Tin theo Chúa Kitô để được cứu độ, nhưng họ đã không chịu đến, không chấp thuận. Được mời dự tiệc là một ân huệ, vinh dự to lớn vì đây là tiệc cưới Hoàng tử, chính vua mời. Họ đã coi thường, khinh rẻ lời mời, xúc phạm đến nhà vua. Họ coi trọng công việc làm ăn, ham mê của cải vật chất: đi thăm trại, buôn bán, cưới vợ… Hơn nữa họ còn cả gan chống đối nhà vua bằng cách bắt các đầy tớ vua, nhục mạ và giết đi. Những hành vi từ chối này là trọng tội. họ phải chịu hậu quả khủng khiếp là bị tiêu diệt và thành phố của họ bị phá hủy. Việc cố chấp từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa thì không thể được ơn cứu độ.
Lòng yêu thương và sự kiên trì bao dung của Thiên Chúa vượt qua mọi sự thù nghịch ích kỷ ác tâm của con người. Thiên Chúa vẫn kêu mời con người đến dự tiệc cưới bất luận tốt xấu. Thế là phòng tiệc chật ních khác dự tiệc, đủ mọi hạng người. Đáp lại lời mời của chủ tiệc và đến tham dự. Đó là những người được mời sau. Còn những người trước không xứng đáng dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là người cha nhân từ, tình thương của Ngài thật bao la, những người tội lỗi là đối tượng của Lòng Chúa thương xót. “Những người từ phương đông phương tây dự tiệc Thiên Chúa với Abraham, Isaac và Giacob, còn con cái trong nhà bị loại ra ngoài” (Mt 8, 11).
Điều làm chúng ta ngạc nhiên là sự kiện nhà vua vào phòng tiệc quan sát thực khách và phát hiện một người không mặc y phục lễ cưới. Sự kiện này muốn nói đến sự phán xét cuối cùng mà Thiên Chúa nhận định người lành kẻ dữ và xét xử công minh. Người lành được hưởng hạnh phúc, kẻ dữ phải trừng phạt. Muốn được vào dự tiệc cưới Nước Trời, cần phải mặc áo cưới. Áo cưới ám chỉ những hoa quả Nước Trời, sự công chính, lương thiện, những hành vi bác ái yêu thương. Đó là những hành trang để được vào quê trời. Người thực khách không mặc áo cưới khi vua xét hỏi, anh ta im lặng vì không tìm được cớ để bào chữa cho mình, chính vì anh ta không làm việc lành phúc đức, không sống tốt.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc chúng ta tuy đã được gia nhập Giáo hội qua bí tích Rửa tội, nhưng chưa bảo đảm được ơn cứu độ, cần phải mặc áo cưới; nghĩa là phải sống đạo đức, lương thiện công chính… mới được chấp nhận vào dự tiệc Nước Trời ngày phán xét để được sống đời đời với Thiên Chúa.
Khát mong tha thiết nhất của Đức Giêsu là mọi người được cứu độ, được hạnh phúc đời đời: “Thầy đi dọn chỗ cho các con, Thầy ở đâu, các con ở đó với Thầy”. Chúa luôn mời gọi chúng ta dự tiệc Nước Trời. Điều quan trọng là chúng ta đáp lại lời mời gọi của Chúa vào dự tiệc để chia sẻ niềm vui cứu độ và hiệp thông với Ngài trong tình thương.
Nhìn vào cuộc sống người Kitô hôm nay, có rất nhiều người như những người Do Thái xưa thờ ơ lãnh đạm, coi thường lời kêu mời của Chúa, hơn nữa còn có thái độ chống đối, kiêu căng, bất công… bắt Thiên Chúa phục vụ mình thay vì phải yêu mến, tôn thờ và phục vụ Thiên Chúa. Địa vị, của cải trần gian đã cuốn hút họ, họ đi tìm thiên đàng trần gian mà quên đi hạnh phúc vĩnh cửu. Nhiều người luôn tự hào mình đạo gốc, đạo dòng, mà không sống đạo tốt, sống bất lương… Họ là những người đi dự tiệc mà không mặc áo cưới.
Hôm nay Đức Giêsu Kitô đến quan sát phòng tiệc, các thực khách, trong đó có cả chúng ta, tất cả mọi người vào ngày sau hết. Chúng ta có mặc áo cưới không? Có đủ hành trang vào dự tiệc Nước Trời để hưởng hạnh phúc đời đời không? Số phận mai sau của chúng ta tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay: phấn đấu mỗi ngày để trung thành với Thiên Chúa, vì như lời Chúa phán: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”.
Dụ ngôn tiệc cưới Nước Trời, Thành hôn hoàng tử, thiệp mời đã trao. Đức vua chuẩn bị khai mào, Gia nhân đón tiếp, mời vào tiệc vui. Khách mời xin khất rút lui, Lý do thăm trại, không lùi được đâu. Kẻ thì buôn bán hoa mầu, Anh kia cưới vợ, cau trầu phải lo. Dân làng bắt bớ giằng co, Khinh khi nhục mạ, giở trò xấu xa. Sẵn sàng tiệc rượu mở ra, Số người không xứng, tâm tà bỏ qua. Ra đường mời gọi người ta, Gặp ai bất luận, vào nhà chúc khen. Kẻ giầu, người khó, sang hèn, Phòng ăn chật ních, bon chen số người. Vua vào quan sát mọi nơi, Có người khách lạ, không lời trình thưa. Chẳng đồng y phục giả lừa Đức vua kết tội, kéo đưa ra ngoài.
Mọi người đều được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời. Tiệc đã sẵn sàng, thịt thì béo và rượu thì ngon. Ấy thế mà nhiều người đã từ chối dự tiệc.
Dụ ngôn trong bài Phúc âm rất hay. Vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Các thiệp đã được mời từ sớm, vậy mà đến ngày hôn lễ, nhiều người đã không đến tham dự. Mỗi người một lý do chối từ. Người thì đi buôn, kẻ thì mới cưới vợ và người thì mới tậu ruộng cần đi thăm. Họ có đủ lý do để từ chối không dự tiệc. Có nghĩa là họ không có thời giờ, bận quá mà.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng không tránh khỏi những lúc bận bịu lo công việc. Chúng ta không có thời giờ cho gia đình, cho con cái và cho các sinh họat cộng đoàn. Thậm chí không có giờ đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày 24 giờ, nhưng hình như qúa ít, không đủ để sống. Chúng ta muốn có nhiều giờ hơn cho chúng ta.
Chuyện kể: Một buổi sáng trời tuyết lạnh, có hai bà đứng nói truyện ngòai trời tuyết gần 2 tiếng đồng hồ. Khi bà xã vào nhà, chồng hỏi: Nãy giờ em nói truyện với ai thế. Vợ trả lời: Em nói truyện với bà hàng xóm. Chồng nói: Tại sao em không mời bà ấy vào nhà nói truyện cho khỏi lạnh. Chị ta trả lời: Không có thời giờ. Không có giờ là thế đấy!
Chúa mời gọi chúng ta vào dự tiệc cưới Nước Trời. Cũng như Chúa mời gọi chúng ta tham dự Bí Tích Thánh Thể. Chính Chúa hiến thân làm của lễ và của ăn nuôi dưỡng chúng ta.
Rước Mình và Máu Chúa là được thông hiệp vào màu nhiệm cứu độ. Thánh lễ là hình ảnh tiệc cưới Nước trời mai sau. Mỗi người chúng ta hãy cố gắng dành thời giờ tham dự thường xuyên tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể.
Ngơ ngác như kẻ mất hồn, có thể hiểu kẻ đó đang yêu hoặc thất tình, người không có tâm hồn TN 28-A154
Ngơ ngác như kẻ mất hồn, có thể hiểu kẻ đó đang yêu hoặc thất tình, người không có tâm hồn ăn uống, hoặc là no bụng, hoặc là đau bệnh. Mức độ trầm trọng hơn, không tha thiết ăn uống, dư luận còn xem là bất thường, chán đời, đối với họ, hiện tại, tương lai, chỉ một mầu xám ! Đại đa số chúng ta đều thuộc câu thành ngữ: ăn có mời, làm có khiến, nói văn hoa một chút: lời chào cao hơn mâm cỗ, do đó nếu đã mời chào, mà họ không hưởng ứng, dửng dưng chuyện ăn uống, dù vô tâm, kiêu căng hay chảnh, đều bất lịch sự. Khi đứng ra tổ chức tiệc mừng, tiệc vui, nếu số khách mời và cỗ bàn tương ứng, thường được gọi là tài giỏi, biết tính toán, dù người chủ tiệc không thích khen.
Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái tên Mỵ Nương, xinh đẹp toàn diện. Nhà vua rất muốn kén chọn cho công chúa người chồng thật xứng đáng. Nhưng một hôm có hai chàng trai cùng xuất hiện, xin cưới Mỵ Nương, vì cả hai rất tài giỏi, nên vua cha đã ra điều kiện, sáng hôm sau ai mang lễ vật tới trước sẽ được cưới công chúa. Hôm sau, Sơn Tinh đã mang tới đủ lễ vật: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, và Sơn Tinh đã cưới được công chúa xinh đẹp. Cánh cửa nên vợ thành chồng của truyền thuyết quả là chật hẹp, Sơn Tinh được thì Thuỷ Tinh mất, hoặc cánh cửa “phu thê” không thể có ba người, nên đã có thắng có thua. Truyền thuyết chỉ muốn nói tới một thông điệp: trai tài gái sắc chính là cơ duyên, là động lực giúp họ nên mạnh mẽ và sẽ suốt đời sống bên nhau, dù phải vượt qua nhiều khó khăn thách thức.
Khác với dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho hoàng tử, trước hết nhà vua sai các sứ giả đi mời khách đến tham dự bàn tiệc. Sau đó nhà vua lại cho người đi loan tin: “này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng, xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Dụ ngôn cho thấy cánh cửa hạnh phúc luôn rộng mở chờ đón mọi thành phần, tiệc cưới của hoàng tử không giới hạn một số ít người tài sắc, hay xinh đẹp, có vị thế xã hội. Cửa phòng tiệc rộng mở không nhằm phô trương sự sang giầu của nhà vua, nhưng có ý giới thiệu về tấm lòng quảng đại với tất cả mọi người, bất luận giầu nghèo sang hèn. Vì tiệc cưới của hoàng tử chỉ là hình bóng của “tiệc nước trời”, do đó đã có sự thờ ơ, xem tiệc nước trời giống như bữa tiệc trần gian, coi cơm áo gạo tiền, của cải vật chất hơn tất cả !
Dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho hoàng tử, phản ánh một thực tại, con người thường có nhiều lý do đến độ vô tâm vô tình, từ chối vinh dự, dù là tiệc nhà vua mời. Người chủ tiệc có vị thế, có uy tín, cũng khó lòng thu hút được số khách mời như ý. Dụ ngôn không có ý giới thiệu nước trời chỉ là chuyện ăn uống, muốn hưởng ứng hoặc từ từ rảnh rỗi sẽ tham dự sau. Từ chối hay nhận lời hiện diện với chủ tiệc không phải là một ràng buộc, đúng hơn là một minh chứng ông chủ rất quảng đại, và luôn trân trọng tự do của người tham dự. Hạnh phúc nước trời hằng rộng mở cho mọi đối tượng, nhưng để đạt tới niềm vui hạnh phúc trọn vẹn, tất cả đều phải tuân thủ quy định, “mặc áo cưới”.
Cách sống thực dụng của người ta hôm nay là lo bồi bổ tri thức, mở rộng tầm nhìn, dao dịch làm ăn với đối tác, cùng nhiều những thoả thuận ngầm, hầu thu về lợi nhuận kinh tế tốt nhất, lúc nào cũng hấp dẫn. Thực ra thì cơ hội làm giầu vất chất, và thời gian để làm con cái nước trời hoàn toàn trái nghịch nhau, đi ăn tiệc rượu ở trần gian người ta cần phải có quà mừng, tiền mừng ; đi tham dự tiệc nước trời ai cũng cần phải hiểu, biết, và sống đức ái Kitô. Ngày hôm nay, nghe dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho hoàng tử, chúng ta vẫn nghe, còn việc tự do nhận lời đến tham dự bàn tiệc thiên quốc hàng ngày, hàng tuần, đó chính là cơ may Thiên Chúa hằng ưu ái rộng mở tình thương yêu cho từng người chúng ta.
Xã hội thời nào cũng có những người mua sắm, trưng diện, kiếm tiền, và cuộc sống không phải chỉ có ăn uống, tiệc rượu hoặc tìm kiếm cánh cửa hạnh phúc một vài năm hoặc vài chục năm. Cha ông chúng ta có câu: khôn đâu đến trẻ, khoẻ đâu đến già, các ngài hẳn có ý nhắc hậu thế, khôn ngoan và kinh nghiệm rất quý báu, sức khoẻ và thời gian sẽ có giá trị biết bao, cần phải biết tận dụng. Khi kể dụ ngôn mời dự tiệc cưới, Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu rằng, đừng bao giờ ỉ nại tôi là người công giáo, đương nhiên tôi sẽ phải có chỗ trong bàn tiệc nước trời. Chúa Giêsu xưa và nay Ngài vẫn sai các sứ giả đến trực tiếp thức tỉnh mỗi người, đừng quá bận rộn với nhu cầu vật chất để rồi quên lời mời của Chúa hoặc từ chối bàn tiệc nước trời.
Đến với bàn nhậu, người ta chỉ cần quý mến nhau một chút là đủ không say không về. Đến với bàn tiệc Thánh Thể, người kitô hữu phải mang “chiếc áo tâm hồn” thanh sạch ; để tham dự tiệc Thiên Quốc, mỗi người phải có sự chuẩn bị, và tuân thủ giáo huấn mà Chúa Giêsu đề nghị. Đi dự tiệc cưới của con cháu, bạn bè, chúng ta phải có thủ tục tặng quà…, đi dự tiệc cưới, tiệc sinh nhật, người ta có trang phục hợp thời để được kính trọng ; đi dự tiệc nước trời, Chúa Giêsu cho biết là phải mặc áo cưới, có tâm hồn sạch đẹp nghiêm túc. Cánh cửa nước trời lúc nào cũng rộng mở, dĩ nhiên, Chúa Giêsu không nói đến chiếc áo theo nghĩa thông thường, mà có ý nói tới thái độ và đức tính bên trong, đúng hơn là tinh thần yêu mến mà chúng ta phải thực hiện. Amen.
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có 3 người được diễm phúc gia nhập TN 28-A155
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có 3 người được diễm phúc gia nhập Hội thánh Công giáo. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có 7 người có cơ may gia nhập Hội thánh Công giáo. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây là hồng phúc lớn cho chúng ta. Qua dụ ngôn “Tiệc cưới” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta, với tư cách là những vị khách được mời dự tiệc, phải bận y phục lễ cưới.
Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà còn mặc nguyên bộ đồ ngủ thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.
Hội thánh của Chúa luôn mở rộng cửa tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp muôn phương bất kể sang hèn tốt xấu, nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin mừng.
Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo hội trở nên khó thương trước mặt người khác.
Vì thế, một khi đã gia nhập Hội thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó. “Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô
Trong cuốn “Tự thú”, Augustino thuật lại kinh nghiệm đáng nhớ sau đây: Hôm đó, Anh bị giằng co xâu xé mãnh liệt trong nội tâm giữa một bên là cải thiện đời sống để trở về với Chúa và một bên là đừng vội trở về với Chúa để hưởng thêm lạc thú trần gian. Sự xung đột nội tâm nầy gay gắt đến độ Augustino gào khóc cách cay đắng và nài xin Chúa ban ơn giải thoát.
Ngay lúc bấy giờ, Augustino nghe có tiếng như tiếng hát trẻ con từ nhà bên cạnh vọng lại: “Hãy cầm lấy mà đọc, hãy cầm lấy mà đọc…”
Nhận ra đó là tiếng Chúa nói với mình, Augustino vào phòng, chộp lấy Thánh thư của thánh Phao-lô và đọc ngay đoạn đang mở ra trước mắt: “Anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Augustino bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy đây quả là những lời Chúa nói riêng với mình. Thế là từ đây, Anh từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô. Anh được lãnh bí tích Thánh tẩy vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa để trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên giám mục và trở thành vị thánh chói ngời, đồng thời cũng là tiến sĩ Hội thánh.
Trong ngày chúng ta lãnh bí tích Thánh tẩy, ngày chính thức gia nhập Hội thánh, chúng ta cũng được mời gọi mặc lấy Chúa Ki-tô. Bấy giờ, linh mục chủ sự thay mặt Hội thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Ki-tô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời”.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Xin ban thêm sức mạnh để chúng con dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Ki-tô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa… Nhờ đó, chúng con sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.
Dụ ngôn về tiệc cưới được coi là những hình ảnh sống động nhất trong các dụ ngôn mà Chúa Giê-su TN 28-A156
Dụ ngôn về tiệc cưới được coi là những hình ảnh sống động nhất trong các dụ ngôn mà Chúa Giê-su nói về Nước Trời. Bởi tiệc cưới là sự vui mừng, thân thiện và nhất là đề cập tới hạnh phúc của gia đình. Tiệc cưới dân dã nơi một vùng quê, bình thường thì chủ hôn mời cả làng đến dự cho đông vui và cũng thể hiện tình làng nghĩa xóm vui buồn ấm lạnh có nhau. Tuy nhiên, tiệc cưới ở thành thị có khác hơn, khách mời được chọn lọc từ những mối dây thân tình, thân tộc; thậm chí nhiều khi ở liền vách với nhau cũng không được mời vì lý do này nọ. Đến như tiệc cưới cung đình thời phong kiến tuy cách tổ chức thật lộng lẫy xa hoa, nhưng khách được mời lại càng được chọn lọc kỹ càng, dân đen đừng hòng được tham dự. Như thế để thấy được cái lạ lùng nơi tiệc cưới trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVIII/TN-A – Mt 22,1-14).
Cái la lùng thứ nhất không phải ở chỗ nhà vua chọn lọc khách mời, nhưng ở chỗ khách được mời thay vì vui mừng hãnh diện, mau mắn áo quần bảnh bao tới dự, thì lại tỏ ra thờ ơ, lơ là chẳng thèm để ý. Đến khi được nhắc nhở, không những đã không nhìn thấy cái sai của mình, mà còn chống đối lại chủ tiệc bằng cách sỉ nhục và giết chết những đầy tớ được sai đi nhắc lại lời mời dự tịêc. Chính vì thế, nhà vua mới giận dữ tru diệt những khách mời hết sức lạ lùng ấy, và sau đó nhà vua hạ lệnh mời tất cả mọi người bất kể quan hay dân, nội hay ngoại. Đó chính là cái lạ lùng tiếp theo của tiệc cưới này. Những cái lạ lùng ấy cho thấy đây không phải là một tiệc cưới ở trần gian, dù cho đó có là một tiệc cưới đặc biệt nơi cung đình những triều đại phong kiến đầy xa hoa kiểu cách.
Khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su Ki-tô muốn nói đến tiệc cưới Nước Trời. Và cũng chính điều đó đã cho thấy cái ngụ ý trong dụ ngôn, Đức Giê-su Ki-tô muốn nói đến lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa đối với nhân loại, mà chính Người đóng vai trò chủ yếu. Có thể thấy được 2 giai đoạn lịch sử cứu độ qua dụ ngôn: Giai đoạn đầu là giai đoạn dân It-ra-en được chọn mời, nhưng họ không những đã khước từ, mà còn có thái độ chống đối thô bạo (giết hại những ngôn sứ, tiên tri là những người được sai đi loan truyền Ơn Cứu Rỗi). Tuy rất thịnh nộ vì kẻ được chọn mời đầu tiên, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa vẫn không vì thế mà suy giảm. Và nhờ thế, lịch sử cứu độ bước sang giai đoạn hai: Tất cả các dân nước trên thế giới đều được mời gọi và chỉ với một điều kiện duy nhất là phải mặc áo cưới khi dự tiệc.
Mới nghe qua, chắc có lẽ ai trong chúng ta cũng mỉm cười: “Tưởng gì chứ khi được mời dự tiệc cưới, vấn đề mặc áo cưới đương nhiên là “chuyện nhỏ”, có gì khó mà không thực hiện được.” Tuy nhiên, khi thành tâm “diện bích”, mới thấy không dễ thực hiện đâu, bởi bộ áo cưới ấy hoàn toàn không phải là những soirées, những complets loè loẹt kiểu cách, mà lại là tinh thần “canh tân và sám hối”. Nói đến canh tân và sám hối là nói đến chuyện vượt qua chính mình. Trèo đèo, lội suối, vượt qua sông này, biển nọ, có thể thực hiện được, chớ “vượt qua chính mình” mới là thiên nan vạn nan. Kẻ viết bài này cứ thích nhắc đi nhắc lại cho bản thân câu nói rất hay của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vâng, khi được mời gọi, hãy chân thành nhìn lại mình với cái quá khứ chắc chắn không ít thiếu sót sai lầm của bản thân, quyết tâm sửa chữa (sám hối) để đổi mới (canh tân) toàn bộ con người của mình. Chỉ có như thế mới tránh được “vết xe đổ It-ra-en”, hầu xứng đáng là thực khách diễm phúc trong tiệc cưới Nước Trời.
Là Ki-tô hữu, tức là những người “được mời gọi”, phải chân nhận đó là một hồng ân, một đặc sủng, phải quyết tâm cố gắng làm sao để có thể trở thành người “được chọn”, bởi vì “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 22, 14). Muốn được như vậy, thì đừng ỷ tài, cậy sức mình, mà phải biết cậy nhờ vào sức mạnh của Thần Khí Chúa, cũng bởi vì “Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ.” (Cv 2, 18). Mà muốn đến được với Chủ nhân Tiệc Cưới để Người “đổ Thần Khí” cho, thì đừng quên chạy đến với Đức Maria trong tiệc cưới Ca-na, xin Mẹ ban cho “Áo Đức Bà” (*) cùng với tràng chuỗi Mân Côi huyền nhiệm làm vũ khí lợi hại để hộ thân, trước khi tiến vào Tiệc Cưới Nước Trời. Hãy tuyệt đối tin tưởng và kiên trì vững bước theo hành trình ấy, chắc chắn sẽ đạt được ước nguyện.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN.XXVIII/TN-A).
————————
Chú thích: (*) xc “Áo Đức Bà Ca-mê-lô” trong “Tài liệu về Mẹ Maria” (Thanhlinh.net): KINH ÁO ĐỨC BÀ: Lạy Rất Thánh Đức Bà Maria là Quan Thầy họ Áo Đức Bà, chúng con dốc lòng vào họ Áo Đức Bà, cùng mặc Áo Đức Bà cho đến trọn đời. Khi chúng con chết, thì Đức Bà sẽ lấy Áo thánh ấy ở nơi mình chúng con mà nhận chúng con là con cái Đức Bà, và đưa chúng con về thiên đàng mà chầu chực Đức Giê-su cùng rất thánh Đức Bà đời đời chẳng cùng. Amen.
Dụ ngôn tiệc cưới tuần này (Mt 22:1-14) là cậu chuyện cuối cùng trong ba chuyện liên tiếp được TN 28-A157
Dụ ngôn tiệc cưới tuần này (Mt 22:1-14) là cậu chuyện cuối cùng trong ba chuyện liên tiếp được trình bày trong ba tuần nói về Chúa phán xét dân Israel, đặc biệt những người thủ lãnh (bắt đầu ở 21:28). Ba dụ ngôn này liên hệ với nhau khá rõ ràng. Mỗi chuyện đều đưa ra một “hình ảnh về uy quyền” (như người Cha, Chủ vườn nho và ông Vua). Hình ảnh “những người con” hay “một người con” đều có cả trong ba dụ ngôn. Riêng dụ ngôn 2 và 3 thì bàn về những người nô lệ cùng với những phán xét găy gắt đối với những kẻ chống đối người con.
Trong bài dụ ngôn hôm nay, Vua tượng trưng cho Thiên Chúa, người Con là đức Giesu. Tiệc cưới, là thời gian vui mừng giữa Thiên Chúa và Loài Người là biểu tượng của Vương Quốc Nước Trời. Hình ảnh vợ chồng tươi đẹp giữa Thiên Chúa (YHWH) và Israel (Hosea 2:19-20); Isaiah (54:4-8; 62:5) đưa ra một hậu cảnh kinh thánh khá phong phú. Câu chuyện là một phối hợp khá tài tình giữa cựu và tân ước tạo thành một dạ tiệc huy hoàng cho một hôn nhân.
Mathieu đã đưa vào câu chuyện nhiều nét đặc thù khá rõ ràng, như đốt cháy cả thị trấn của những khách được mời mà từ chối không đi (22:7). Hình ảnh này nói lên việc đền Jerusalem bị quân La Mã phá hủy năm 70AD. Cũng tương tự như dụ ngôn tuần trước về những tá điền sát nhân: Chủ vườn nho gửi hai toán đầy tớ đến để thu hoa lợi (22:3-4), đều bị kẻ sát nhân giết hết (22:6), những tên sát nhân bị hình phạt (22:7), và một nhóm mới vào thế chỗ của những kẻ được ưu tiên nhưng lại chứng tỏ là bất xứng (22:8-10). Câu chuyện kết thúc rất đặc thù kiểu Mathieu (22:11-14) .
Hình thức câu chuyện của Mathieu có vẻ khác với chuyện của Luca 14:16-24. Câu chuyện rất có thể lấy từ “Q”, một nguồn giả thuyết cho Phúc Âm của Mathieu và Luca. “Q” ( là viết tắt của chữ Quelle tiếng Đức, có nghĩa là nguồn) được coi là nguồn tài liệu “chung” của Mathieu và Luca, nhưng không thấy trong Marco. Bản cổ này đúng ra phải là bản trích dẫn / logia từ chúa Giesu.
TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Trong câu chuyện hôm nay, nhà vua đã chuẩn bị tiệc cưới cho hoàng tử rất linh đình, bò non bê béo đã giết, những món ăn tuyệt vời đã sẵn sàng cho hàng trăm thực khách. Thiệp mời được gửi đi bằng hai cách: Trước ngày cưới một thời gian dài, vào đúng ngày tiệc mừng hay trước đó một ngày; một loạt giấy mời khác cũng được gửi đi để nhắc nhở thực khách. Nhưng buồn thay, khách được mời không những từ chối không tham dự mà một số còn bắt sứ giả của vua mà giết. Tức giận, vua sai lính đốt hết cả thành, đoạn cho mời một loạt người khác, bất kể “xấu” “tốt” đều được vào dự tiệc cưới.
Hai đợt mời nói lên sự thật liên quan đến vương quốc Nước Trời và Con Một Thiên Chúa mà Người đã phán: trước nhất là cho dân Israel, sau là các quốc gia dân ngoại. Mathieu trình bày Vương Quốc dưới hai hình thức: Ngay lúc đó có những người được phép vào tham dự liền (22:1-10), và trong tương lai là những người hiện diện lúc đó có thể vượt qua được những phán xét gay gắt vào ngày luận tội chung (22:11-14).
Y PHỤC TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA
Mathieu thêm vấn đề thực khách phải mặc y phục tiệc cưới (22:11-14) làm cho người đọc thắc mắc. Riêng tôi cảm thấy tội nghiệp cho người không có y phục thích hợp với bàn tiệc, và ai là ông vua đã hạch hỏi con người tội nghiệp ấy: “Bạn ơi, sao bạn vào đây mà lai không mặc áo dự tiệc cưới?” Phải chăng nhà vua đã sai thần dân ra ngoài đường phố, xa lộ, hang cùng ngõ hẻm, gặp bất cứ ai cũng mời vào dự tiệc cưới? Rồi bất ngờ lại lạnh lùng, khó khăn với họ chỉ vì họ không có y phục đúng cách của tiệc cưới hoàng gia? Họ cũng đâu có đủ thời giờ để chuẩn bị y phục nhỉ?
Đây là câu chuyện dụ ngôn, có tính tượng trưng, không nên hiểu theo nghĩa đen. Một số học giả kinh viện tin rằng nhà vua đã cung cấp cho thực khách đầy đủ y phục thích hợp rồi. Cho nên chẳng ngạc nhiên gì nhà vua nổi sùng khi thấy có người không chịu mặc y phục đúng tiêu chuẩn. Họ đã từ chối không chấp nhận phong tục cung cách lễ nghi của hoàng gia.
Y PHỤC CÔNG CHÍNH VÀ Y PHỤC THÁNH
Câu chuyện dụ ngôn tiệc cưới không phải chỉ nói lên phán quyết của Thiên Chúa về dân Israel mà còn là một cảnh cáo đối với Giáo Hội của Mathieu. Vào đầu thế kỷ II, Irenaeus coi áo cưới là những việc làm, hoạt động công chính, là sự ăn năn thống hối và cải đổi tâm hồn. Đây là điều kiện để được vào Vương Quốc Nước Trời và phải được tiếp tục suốt đời.
Lời nói: “Người gọi thì nhiều, kẻ chọn thì ít” (22:14) không nên hiểu theo nghĩa đen, tỷ lệ giữa người được cứu rỗi và kẻ bị luận phạt, mà nên hiểu là một khuyến khích phải phấn đấu căm go, gian khổ và liên tục để sống một cuộc sống của người Kito hữu thực sự. Tiệc cưới không phải là Giáo Hội mà là thời đại sắp tới. Dụ ngôn của Mathieu cho chúng ta thấy cái nghịch lý giữa lời mời tham dự tiệc cưới miễn phí không một ràng buộc và đòi hỏi của Thiên Chúa là phải có một cái gì xứng hợp với lời mời gọi. Ai thuộc trong đám “nhiều người” và ai thuộc đám “ít người” liên quan tới áo cưới? Có những người mà Chúa không chọn? Người được chọn khác với người được gọi như thế nào?
ÁO CƯỚI TÌNH YÊU
Chúng ta thử áp dụng bài giảng của thánh Âu Tinh thành Hippo (#90) vào bài Phúc Âm hôm nay:
Áo cưới trong bài Tin Mừng hôm nay là gì? Là những gì mà chỉ những người tốt lành mới có, những người tham dự tiệc cưới? Nó có thể là những bí tích? Phép rửa chăng? Không phép rửa, không ai có thể đến được với Chúa, nhưng có những người đã nhận bí tích rửa tội mà không đến với Chúa… Có lẽ, đó là bàn thờ hay cái gì mà người đó nhận ở trên bàn thờ? Nhưng khi nhận mình thánh Chúa, có người đã ăn và uống chính án phạt của mình (1Cr 11:29). Vậy thì, đó là cái gì? Nhịn, không ăn không uống? Thiếu gì kẻ gian ác tội lỗi cũng nhịn. Đi nhà thờ thường xuyên chăng? Kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như nhiều người khác vậy…..
Vậy, áo cưới này là cái gì? Thánh Phaolo Tông đồ nói: “Điều mà ta đang nhắm tới…là tình yêu, nó nảy nở từ cõi lòng trinh nguyên, một lương tâm trong sáng và niềm tin chân thành” (1Tm 1:5). Cái đó chính là áo cưới. Phaolo không nói riêng về một loại tình yêu nào cả, cho bất cứ người nào thường xuyên thấy những kẻ bất lương yêu thương tha nhân…, nhưng cho những người không thấy giữa họ cái tình yêu thương đó “nó đang nảy nở từ cõi lòng trinh nguyên, một lương tâm trong sáng và một niềm tin chân thật.”Bây giờ, cái đó chính là tình yêu, là áo cưới.
Thánh Phaolo Tông đồ đã nói: “Nếu như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của cả các thiên thần nữa mà tôi không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng chũm chọe. Nếu tôi được ơn nói tiên tri và biết hết mọi điều huyền bí, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin có thể chuyển núi rời sông, mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng là gì cả (1Cr 13:1-2). Ngài nói: Ngay cả khi tôi có tất cả mọi sự đó mà không có Chúa Kito thì “Tôi cũng chẳng là gì cả”. Nó sẽ vô dụng, bởi vì tôi có thể hành động theo cách đó vì yêu danh vọng… “Nếu tôi không yêu, nó trở thành vô dụng.” Cái đó là áo cưới. Hãy tự xét mình: Nếu tôi có áo đó, tôi đi dự tiệc liên hoan của Chúa không ngần ngại gì cả.
XIN MỜI MỌI NGƯỜI NGỒI VÀO BÀN TIỆC
Truyền giáo cũng là một hình thức dự tiệc cưới hoàng gia. Chúng ta thử đọc lại đoạn #22 nói về “Những người truyền bá Tin Mừng và những nhà giáo dục” trong LINEAMENTA của Thượng Hội Đồng các Giám mục năm 2012 về Tân-Phúc-Âm-Hóa:
Huấn luyện và những ưu tư cần thiết để bảo toàn những cam kết trong việc phúc âm hóa và tuyển chọn những nguồn lực mới có lẽ không nên giới hạn trong việc chuẩn bị thi hành dù là cần thiết. Thay vào đó, huấn luyện và săn sóc mục vụ phải là ưu tiên về mặt thiêng liêng, nhất là vấn đề đức tin, được soi sáng bởi Tin Mừng Chúa Giesu Kito và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thầy dạy muôn dân về những cảm nghiệm liên hệ tình Cha của Thiên Chúa. Giáo dân thì có thể rao truyền Tin Mừng chỉ khi nào họ đã được truyền dạy và tự mình chấp nhận để được truyền dạy, nghĩa là, tinh thần được đổi mới qua cuộc gặp gỡ cá nhân và sống hiệp thông với Chúa Kito. Những người như vậy mới có sức mạnh chuyển hóa niềm tin, như thánh Phaolo tông đồ đã nói: “Tôi đã tin, nên tôi đã nói”(2Cr 4:13).
Lúc bấy giờ, Tân Phúc Âm Hóa -một công tác phải được hoàn thành- chính là trách nhiệm của tất cả mọi Kito hữu muốn theo đuổi việc thánh thiêng một cách đứng đắn. Trong khung cảnh này và với sự am hiểu về huấn luyện, cần phải có thời gian để xem xét những cơ sở và phương tiện hiện có ở các Giáo Hội địa phương để dạy cho các tín hữu (những người đã chịu phép Thánh Tẩy) ý thức hơn về sứ mạng truyền giáo và phúc âm hóa của họ. Để lời chứng của chúng ta có giá trị, khi chúng ta trả lời cho một trong những phạm vị đòi hỏi việc tân phúc âm hóa này, chúng ta phải biết nói làm sao cho dễ hiểu, thích hợp với thời đại của chúng ta và tuyên xưng, trong những phạm vi này, những lý do để chúng ta hy vọng hầu bảo vệ lời chứng của chúng ta (cf 1Pt 3:15). Một bổn phận như vậy không thể hoàn thành được nếu không cố gắng, nhưng đòi hỏi phải chăm chú, học hỏi và ưu tư.
SUY NIỆM TRONG TUẦN:
1- Cộng đồng Công giáo chúng ta có kế hoạch hoạt động mục vụ đặc biệt nào với chủ đích giảng dạy để thích ứng với Phúc Âm hầu mang người ngoại trở lại Công giáo không?
2- Mỗi cộng đồng hay toán nhỏ chọn ưu tiên nào trong những phương pháp mới về việc phúc âm hóa? Sáng kiến nào thành công nhất để cho cộng đồng dễ dàng chấp nhận công tác truyền giáo?
3- Các xứ đạo có coi bổn phận tuyên xưng niềm tin là cần thiết và quan trong để phát triển thêm niềm tin và chương trình Thánh Tẩy không?
4- Các cộng đồng Công Giáo chúng ta có nhận biết sự cần thiết và cấp bách phải chiêu mộ, huấn luyện và yểm trợ những người rao truyền Tin Mừng và huấn luyện viên qua chứng tá cuộc sống của họ không?
Qua dụ ngôn tiệc cưới, Chúa cho chúng thấy được rằng: Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa luôn TN 28-A158
Qua dụ ngôn tiệc cưới, Chúa cho chúng thấy được rằng: Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa luôn mở toang cửa để đón và nhận tất cả mọi người. Dẫu là người Công Giáo, Phật Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo, Hồi Giáo và cả người vô thần đều có thể bước vào Nước Thiên Chúa, nếu như nơi người đó thuận lời mời và mong được thừa hưởng, mong được nếm hương vị ngon ngọt từ bàn tiệc Nước Trời.
Nước Trời luôn rộng cửa để mọi người, từ quan, dân, từ kẻ sang lẫn người hèn, từ người thiện đến người ác đều có thể tiến vào. Thế nhưng, để được ở lại trong Nước Trời, được cùng tham dự tiệc vui nơi Nước Trời, người ấy phải tuân thủ những quy tắc, những đòi buộc cách sống của Nước Trời. Người khách bị tống cổ ra khỏi bàn tiệc vì không mặc y phục khi dự tiệc đã minh chứng điều ấy.
Khi được mời tham dự tiệc cưới, tiệc sinh nhật, tiệc thôi nôi, đầy tháng…của một ai đó. Nếu như, khi đến dự tiệc, ta không chuẩn bị chút quà bằng hiện kim hay hiện vật để chúc mừng, để đáp trả mối thân tình với người tổ chức. Trước tiên, ta cảm thấy ngượng ngùng với người cùng tham dự, ta cảm thấy xấu hổ với chính mình, với người cùng bàn và như điều thất lễ với chủ tiệc. Nếu như, ta thuộc típ người “mặt dày”, thuộc típ người bị khiếm khuyết “dây thần kinh xấu hổ”, thì việc ta đi dự tiệc mừng ai đó với đôi bàn tay trắng là điều bình thường.
Tình thương và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, Đấng là Vua Nước Trời, Đấng thiết lập tiệc vui. Qua tiệc vui, Thiên Chúa ban tặng sự bình an, Ngài cất đi vành khăn sô và đem lại cho con người nhân loại niềm vui miên viễn như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia mà bài đọc I đã trình thuật. Thánh Phao lô qua bài đọc II, thánh nhân đã minh định rằng:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi…”, thánh nhân cũng đã khẩn cầu Thiên Chúa ban sự sung túc, dư dật cho tất cả những ai đã thi ân cho ngài.
Là người Ki – tô hữu, bàn tiệc Nước Trời mà hôm nay Tin Mừng trình thuật, là bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Thể, các bí tích mà Giáo Hội cử hành hằng ngày. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta qua quý Mục Tử, qua cha mẹ, người thân và bè bạn. Với Chúa, chúng ta là khách quý. Thế nhưng, rất nhiều lần chúng ta thoái thác, khước từ vì nhiều lý do: Tham công tiếc việc, sợ bỏ lỡ cuộc hẹn vì giao thương, ký kết hợp đồng, vì bộ phim hay, niềm vui cùng bè bạn nơi quán cà phê, bar, bận đi soppinh…
Đôi khi, chúng ta cũng đến dự, nhưng không vì lòng yêu, mà là đến vì sợ lỗi luật, vì sợ người thân, người đời dị nghị; đến để phô diễn thời trang, tìm mối tương quan công việc, tình yêu, tình bạn… Cách đến tham dự bàn tiệc mà Chúa thiết lập và mời gọi như thế, chúng ta vô tình trở thành người khách không mặc y phục tiệc cưới mà Tin Mừng hôm nay trình thuật.
Tin chắc lòng từ nhân của Chúa sẽ không tống cổ chúng ta ra khỏi bàn tiệc, nhưng cách tham dự tiệc thánh của chúng ta như thế chỉ mất thời gian một cách vô ích. Tệ hơn nữa, chúng ta trở nên gương mù gương xấu cho anh em và là rào cản cho những ai đang chập chững trong hành trình tìm đến Chúa. Đặc biệt là những người chưa nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì Chúa đa yêu thương ban tặng cho chúng con bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Qua những bàn tiệc thánh, Chúa nâng đỡ, nuôi dưỡng và dạy dõi chúng. Xin giúp chúng con luôn biết trân quý và thường xuyên đến tham dự. Xin giúp chúng con khi tham dự bàn tiệc thánh bằng niềm tin, lòng yêu mến một cách chân thành. Nhờ đó, chúng con sẽ được thừa hưởng và vui say trong bàn tiệc nơi Nước Trời. Amen.
Từ ngữ “ y phục lễ cưới” trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 1-14) hôm nay, dường như “xa lạ” với người TN 28-A159
Từ ngữ “ y phục lễ cưới” trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 1-14) hôm nay, dường như “xa lạ” với người nghe mỗi khi được nghe, hay đọc.
Nhưng, kỳ thật nó là “cụm từ” quan trọng nhất trong Đoan Lời Chúa hôm nay. Tại sao vậy ? Thưa quý vị, thưa bởi vì là “yếu tố” chính trong điều “trọng đại” đó là “điều kiện “ để được vào Thiên Quốc, tức Nước Trời.
Vâng, theo đó , Đoạn Lời Chúa hôm nay có thể chia làm ba ý chính:
Nước Trời là ơn Cứu Độ cho dân tộc Israel. “Tiệc Cưới “ của nhà Vua dành cho dân tộc Israel
Nước Trời là ơn Cứu Độ phổ quát. “Tiệc Cưới “ ấy dành cho hết mọi dân tộc. Nước Trời là ơn Cứu Độ “có điều kiện”. “Tiệc Cưới” ấy phải có “ y phục lễ cưới”.
Đọc nội dung Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy phần đầu từ câu 2 đến 6 , Chúa Giêsu đã dùng Dụ Ngôn nói với họ về nước Trời. Theo đó, Nước Trời là “Tiệc Cưới” của nhà Vua tổ chức cho “Hoàng Tử” và Nhà Vua đã hai lần cho mời các qua cận thần và khách mới đến, nhưng họ đã khước từ, xem thường và lần thứ hai thì còn xúc phạm nặng nề là đánh đập các đầy tớ của Vua, những người đã đi mời khách dự tiệc. Còn những quan khách khác thì từ chối không đi, viện cớ công việc làm ăn.
Mặc nhiên, đây không phải “tiệc cưới” theo nghĩa đen, mà là “sự mời gọi” sống đời “công chính”, nhưng đã bị từ chối. mặc nhiên, Nhà Vua nổi cơn thịnh nộ, vì đây là một hành động bất lương, không có vị Vua nào nhân từ đến nỗi không nổi cơn thịnh nộ.
Nếu xét theo nghĩa đen, một Vị Vua trần thế tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử của mình, rồi mời tất cả các bá quan văn võ và quần thần đến chung vui, thử hỏi có ai mà “dám” không đến, hoặc từ khước không, lại còn dám bắt gia nhân của vua mà giết chết. Như vậy, nhà vua trần thế không nổi cơn lôi đình mới là lạ.
Như vậy, rõ ràng dân tộc Israel đã khước từ ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, đánh đập các tiên tri và ngôn sứ, vị Ngôn Sứ Tối Cao là Đức Kitô, đồng thời là Vị Hoàng Tử của Đức Vua cũng đã bị giết chết.
Theo đó, chúng ta thấy, Thiên Chúa vô cùng nhẫn nại và nhân hậu đối với dân của Ngài, nhưng một dân tộc thật bất trung, ngỗ nghịch, cứng đầu không hoán cải. Như vậy, đây cũng là hình ảnh của chúng ta, những người có đức tin, hay là tín hữu, hoặc là đạo gốc, đạo dòng.
Bước kế tiếp, Nhà Vua cho mời tất cả các khác mời ở khắp nơi, đầu đường, xó chợ, thường dân, vô danh, tiểu tốt đều được mời vào dự tiệc cưới. Như vậy, bước thứ hai, Nước Trời là Ơn Cứu Độ phổ quát. Có nghĩa là tất cả mọi người, mọi dân, mọi nước đều được kêu mời đón nhận Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Đến thời viên mãn, nghĩa là ơn Cứu Độ không còn dành riêng cho dân tộc nào, mà là cho hết mọi phàm nhân. Cuối cùng, số người được đón nhận ơn Cứu Độ đã đông nghịt, không còn chổ. Nếu nói theo ngôn ngữ “ kinh doanh” thì không còn “ế`” nữa.
Ý nghĩa thứ ba: Y phục lễ cưới.
Y phục lễ cưới theo phong tục người Dothai là chiếc áo dành cho khách mời dự tiệc, để tránh sự nhầm lẫn, lộn xộn, trà trộn, để gia chủ dễ nhận ra từng “ loại khách”. Như linh mục phải mặc áo chùng thâm, giúp lễ phải mặc áo giúp lễ, áo Abba hay dây Stola chẳng hạn.. v.v…
Đây là phần quan trọng liên hệ đến câu số 14, nếu đọc đến đoạn nầy, chúng ta thấy có sự “đối lập” với đoạn ở trên, vì một “ Ông Vua” rộng lượng ,tại sao bây giờ lại “khắt khe” với thực khách ? Sai gia nhân đuổi những người không mặc “y phục lễ cưới”. Vậy “Y phục lễ cưới “ theo Tin Mừng là gì? Thưa, đó là “ các Bí Tích”, các Bí Tích là “dấu ấn” tình yêu của Thiên Chúa ban cho người được kêu mời, thứ đến là “tâm tình” của Thiên Chúa.Mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa là mặc lấy ân sủng và điều thiện, như ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy , linh mục trao chiếc áo trắng và đèn cháy sáng cho thụ nhân và đọc: “Con hãy nhận lấy chiếc áo trắng nầy và giữ mãi tinh tuyền cho đến ngày ra trước tòa Đức Kitô, Đấng thẩm phán chí công …”
Như vậy, mặc y phục lễ cưới là mặc “chính Đức Kitô – Giêsu”, Đấng Cứu Độ duy nhất. VẬY NẾU VÀO DỰ TIỆC CƯỚI, mà không mặc y phục lễ cưới như phong tục người Dothai, thì sẽ bị đuổi ra ngoài. Thì mặc nhiên, nếu được mời vào dự TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI mà không mặc lấy “tâm tình” của Thiên Chúa, mặc lấy nhân đức của Đức Kitô. Để dễ hiểu chúng ta hãy thử nghĩ xem, nếu vào Nước Trời mà mặc lấy” tâm tình của satan”, thì làm sao vào được Nước Trời.
Cụ thể, nếu muốn vào Nước Trời mà mặc lấy “tâm tình” của Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Đông, KarxMac, Lê-nin , Hồ Chí Minh , Hit-ler , và những người mang đầy tội ác thì làm sao vào được Nước Trời.
Nước Trời là Nước của Thiên Chúa, mặc nhiên phải mặc lấy Thiên Chúa, vâng, đó là “Y PHỤC LỄ CƯỚI NƯỚC TRỜI “ vậy. Như thánh Phaolo nói đó là:” Tâm tình từ bi nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, tha thứ…”
Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã dạy cho chúng con ý nghĩa dụ ngôn “ Y Phục Lễ Cưới Nước Trời:”, xin cho những ai đón nhận nghe theo và thực thi hầu mang lại cho họ phúc trường sinh ./. Amen
Mỗi lần tổ chức tiệc cưới, một trong những điều gia chủ lo lắng nhất là vấn đề cỗ bàn: Làm bao TN 28-A160
Mỗi lần tổ chức tiệc cưới, một trong những điều gia chủ lo lắng nhất là vấn đề cỗ bàn: Làm bao nhiêu cho vừa? Vì làm dư thì xấu hổ, làm thiếu thì ngại. Thật khó xử cho gia chủ khi một đám cưới mà khách mời không đến, cỗ bàn dư thừa. Ngày xưa, việc cưới hỏi là dịp vui cho gia đình, họ hàng và cho cả xóm. Đi đám cưới là dịp gặp gỡ trò chuyện, hỏi thăm, tâm sự. Ngày nay, đi đám cưới có quá nhiều âm thanh, đến nỗi không thể nói chuyện. Các thực khách ngày nay, có người đi dự đám cưới chỉ để trả nợ, để khoe quần áo, có người vì lý do sức khỏe, đến đám cưới chỉ ăn tượng trưng. Vì thế, thức ăn từ các bàn cỗ dọn xuống, có những món hầu như chưa đụng đũa, hoặc chi mới gắp một hai miếng, đành đổ bỏ gây phí phạm.
Hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn về Nước Trời giống như một vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử. Nhà vua sai người đi đón các quan khách đã được mời đến dự tiệc, nhưng họ không đến. Thông thường trong xã hội, người được mời rất vinh dự và không bao giờ vắng mặt khi chủ tiệc là quan chức cấp cao, là thủ trưởng cơ quan hoặc là thủ tướng. Những người được mời trong những bữa tiệc như thế thường đến sớm để gặp gỡ và kèm theo những món quà mừng đắt tiền. Nhưng trong câu chuyện dụ ngôn này, những người đã được mời hầu như không quan tâm đến lời mời, họ tỏ ra khinh thường lời mời của Đức vua, khinh thường những người được sai đi mời. Nhà vua trong câu chuyện đã phải hạ mình xuống một lần nữa, sai người đi năn nỉ khách đến dự tiệc. Nhà vua còn đưa ra lý do: Mọi thứ đã xong, bò tơ đã thịt, cỗ bàn đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới. Nếu như nhóm người được mời trước đây cố tình làm ngơ trước lời mời của nhà vua, thì nhóm người thứ hai đã có những phản ứng tiêu cực, khước từ, chống đối rõ ràng. Họ không đếm xỉa gì đến lời mời và lấy lý do kẻ đi thăm ruộng, người thì đi buôn. Chứng tỏ rằng, những người này xem những lợi lộc vật chất hơn lời mời và thế giá, địa vị của nhà vua. Những kẻ khác còn tỏ thái độ chống lại nhà vua, họ bắt bớ, nhục mạ và giết các đầy tớ nhà vua. Sự kiên nhẫn của nhà vua cũng đã tới hạn cuối cùng. Nhà vua thịnh nộ sai người đi tiêu diệt bọn sát nhân và tiêu hủy thành phố của chúng.
Đức vua không muốn để bữa tiệc cưới hoàng tử trở nên tẻ nhạt lạnh lẽo, ông đã mở cửa cung điện cho mời tất cả mọi người giàu nghèo, sang hèn vào dự tiệc cưới hoàng tử. Nhà vua còn hào phóng chuẩn bị áo đẹp cho mọi thực khách với điều kiện những ai vào dự tiệc cưới đều phải mặc bộ y phục xứng đáng này. Tuy nhiên đã có những người cố chấp, muốn thể hiện sự ngang bướng của mình, anh ta vào dự tiệc nhưng nhất định không mặc áo đẹp vua đã chuẩn bị. Khi vua đi thăm các thực khách, đã phát hiện một người không mặc áo cưới. Nhà vua đã trách anh ta: Này anh, sao anh vào đây mà không mặc áo cưới? Nhà vua trách anh vì anh cố chấp theo lối sống ngang tàng của mình, gia nhập bữa tiệc của hoàng cung nhưng lại từ chối phẩm giá và điều kiện quy định của hoàng cung. Thay vì được chung niềm vui với mọi người trong cung điện, anh bị ném ra ngoài; thay vì được đầy ắp niềm vui tiếng cười cùng với rượu mừng thì anh bị ném vào nơi khóc lóc nghiến răng.
Ngày xưa, Kinh Thánh thường dùng hình ảnh bữa tiệc hoặc tiệc cưới để diễn tả niềm vui hạnh phúc Nước Trời. Vì trong bữa tiệc, người ta không chỉ ăn no uống say, mà còn được sống trong bầu khí vui tươi, huynh đệ, gặp gỡ trò chuyện với nhau và nhất là được chiêm ngắm cô dâu và chú rể. Bài đọc một tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh một buổi đại tiệc để diễn tả niềm vui và hạnh phúc mà Thiên Chúa thiết đãi dân Người: Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc, tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon. Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang bao trùm muôn dân và vứt bỏ chiếc khăn liệm phủ trên mọi nước.
Hình ảnh tiệc cưới hoàng tử Chúa Giêsu nói đến chính là hình ảnh của hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa đã mở ra để mời gọi mọi người vào chung hưởng. Những luật sĩ, thượng tế và dân Do Thái là những người được ưu ái mời trước, nhưng họ đã làm ngơ trước lời mời gọi của Thiên Chúa, không muốn bước vào nhà của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nhiều lần sai các tổ phụ, các tiên tri đến để kêu gọi, năn nỉ dân Do Thái trở về chung hưởng niềm vui và hạnh phúc với Chúa, nhưng họ đã mải mê chạy theo lối sống dân ngoại, của cải vất chất và đã giết hại các ngôn sứ. Sau cùng, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã mở toang cánh cửa Nước Trời để mời gọi mọi người, mọi dân tộc không phân biệt giàu nghèo, sang hèn cùng vào dự tiệc Nước Trời.
Tiệc cưới hoàng tử còn là hình ảnh của Giáo Hội. Qua Giáo Hội, Thiên Chúa đang dọn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày và mời gọi mọi người gia nhập vào Giáo Hội để cùng dự tiệc với Hoàng Tử Giêsu. Chính trong Giáo Hội, chúng ta sẽ trở nên anh em với nhau, cùng chia sẻ cho nhau những ân phúc của Chúa và nâng đỡ nhau trong những khó khăn của cuộc sống. Cũng từ nơi bàn tiệc Thánh Lễ mỗi ngày, chúng ta được gặp chính chàng rể Giêsu, được nghe lời dạy bảo của Ngài, được nuôi dưỡng bằng lương thực thần linh là chính máu thịt của Ngài. Ai đến lãnh nhận sẽ thoát khỏi sự buồn chán, tìm lại được niềm vui và nhất là Ngài sẽ cất khỏi chúng ta sự đau khổ và chết chóc.
Trong cuộc sống, nhiều người hãnh diện khoe mình quen với quan chức này, với cán bộ kia, nhưng lại không bao giờ cảm thấy hãnh diện vì là người nhà của Vua Giêsu. Nhiều người hãnh diện vì được cùng đi ăn uống với người có quyền lực, dự đám cưới con quan chức, nhưng lại không cảm thấy vinh dự vì Thiên Chúa đang mời mỗi người vào dự tiệc cưới Nước Trời. Thánh lễ mỗi ngày, đặc biệt mỗi Chúa nhật là bữa tiệc được Giáo Hội dọn ra và Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến dự. Khi được mời đám cưới, người được mời không đến vì tình, thì cũng đến vì quan hệ xã hội, vậy mà khi được Chúa mời, nhiều người vì lý do vật chất, hoặc một lý do bận rộn nào đó, đã bỏ qua việc tham dự tiệc của Chúa.
Không ai đi dám cưới mà chỉ đứng nhìn, vậy mà có người đến dự tiệc Thánh Thể, dự Thánh lễ một cách hờ hững, đứng bên ngoài hoặc từ xa, như là người không có liên quan, không trách nhiệm. Nhiều người đi dự tiệc Thánh Thể mà không ăn uống, không lắng nghe, họ tham dự cách thụ động cho hết giờ rồi ra về. Cứ đặt mình vào tâm trạng của người chủ mời tiệc, chúng ta sẽ cảm thấy buồn thế nào khi người được mời đối xử với ta như thế.
Chúa vẫn ban ơn trợ giúp chúng ta từng giờ từng phút, một tuần chúng ta chỉ có một giờ đến với Chúa, như con cái về bên cha mẹ, như người đi xa trở về gia đình. Vì thế, hãy cố gắng làm cho việc trở về với Chúa mỗi ngày Chúa nhật thật sự trở thành ngày hân hoan, gặp gỡ với Thiên Chúa là Cha, kể cho Chúa nghe những ưu tư khắc khoải và biến cố đã xảy ra trong tuần sống. Đến với tiệc Thánh Thể mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta còn được nghe những lời an ủi chỉ bảo của Chúa, được cùng anh chị em xum họp chung quanh bàn tiệc của Chúa và sống tình gia đình trong nhà của Chúa.
Trong ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, chúng ta được Giáo Hội trao cho chiếc áo cưới. Mỗi người có quyền tự hào mình là người thân của Chúa, được Chúa mời gọi vào cung điện của Ngài là Nước Trời. Xin cho chúng ta luôn biết gìn giữ chiếc áo linh hồn luôn trong trắng sạch sẽ, tránh bị vấy bẩn bởi tội lỗi, dục vọng, đam mê và những hành động xấu. Nếu vì yếu đuối khiến cho chiếc áo linh hồn bị vấy bẩn, xin cho chúng ta mạnh dạn giặt và tẩy rửa vết nhơ qua Bí tích Giải Tội, chúng ta sẽ được tẩy sạch bởi lòng thương xót và tha thứ của Chúa. Amen.
Mấu chốt ảnh hưởng đến hiểu biết về đời sống gia đình chính là kinh nghiệm sống trong gia đình TN 28-A161
Mấu chốt ảnh hưởng đến hiểu biết về đời sống gia đình chính là kinh nghiệm sống trong gia đình và những ảnh hưởng xã hội quanh cuộc sống. Thành phần trẻ trong xã hội Tây Phương đang vận động để có một định nghĩa mở rộng truyền thống gia đình. Một số cho định nghĩa đời sống gia đình truyền thống vừa cổ hủ vừa khắt khe, cần thay đổi. Theo họ yêu nhau là đủ dù hai người đồng phái cũng được miễn là họ yêu nhau. Truyền thống gia đình có từ thời có con người trong đó một người nam kết hôn với một người nữ và chính cuộc sống gia đình này mang lại vô vàn hạnh phúc cho nhân loại. Đại đa số sống hạnh phúc trong gia đình truyền thống, tuy nhiên cũng có nhiều bà vợ bị hất hủi, kẻ khác phải đau khổ vì cha mẹ khắc nghiệt, kẻ khác chồng nghiện ngập và kẻ khác nữa chồng bạo động sống trong đau thương, sợ hãi. Thực tế truyền thống gia đình không phải là nguyên nhân gây nên những đổ vỡ và đau khổ mà chính là thành viên trong gia đình lạm dụng vai trò trong gia đình để làm khổ người khác. Như thế đau khổ trong gia đình gây nên không phải do cơ cấu truyền thống thành lập gia đình mà do các thành viên trong gia đình không làm đúng chức năng của mình. Điều cần thay đổi chính là con người chứ không phải cơ cấu, tổ chức hay truyền thống. Bất cứ thay đổi hình thức nào về gia đình đều không làm giảm đau khổ, bớt bạo động và ít xung khắc. Điều có thể làm cho gia đình trở thành nơi an toàn cho mọi người, tình yêu lan toả và tình thương chan hoà chính là tha đổi cách xử thế với nhau. Thay đổi bằng giáo huấn, giáo dục, học hỏi. Làm cách nào hướng dẫn các thành viên trong gia đình làm đúng chức năng của mình thì gia đình đó ổn thoả, lạm dụng chức năng trong gia đình là gây hoạ cho mọi người. Xã hội chúng ta đang sống đòi có bằng chuyên môn về mọi ngành nghề nhưng không đòi cách học làm cha mẹ. Giới trẻ Tây Phương dời nhà rất sớm, nhiều em không có cơ hội sống trong gia đình bởi họ sống nội trú xa nhà hoặc vừa học vừa làm và nhà trọ là chỗ ngủ qua đêm, không phải là mái ấm gia đình. Kinh nghiệm sống trong gia đình rất nghèo nàn, thời gian gần cha mẹ cũng hiếm. Khi họ trở thành cha mẹ họ thiếu kinh nghiệm sống trong gia đình.
Đau thương ở tuổi thơ trở thành mối sầu âm thầm gặm nhấm tâm trí người đó và điều này ảnh hướng lớn đến quan niệm đời sống gia đình. Một số may mắn cố gắng tránh làm thế nào cho con cái mình sanh ra sau này không bị đau khổ, thiệt thòi như chính mình đã trải qua. Họ tạo cho con cái họ cơ hội sống an vui trong gia đình. Số khác lại rập khuân giống hệt như chính họ đã trải qua và bây giờ đến lượt con cái họ. Chối bỏ truyền thống gia đình để thay vào một khuôn mẫu gia đình mới đang được bàn thảo sôi nổi nơi công chúng. Điều nguy hiểm là hầu như có rất ít tìm hiểu và dữ kiện cần thiết tin tưởng được cho việc chọn lựa khuôn mẫu gia đình mới đang được cổ võ. Khuôn mẫu gia đình mới tốt cho xã hội hay là một đại hoạ là điều ít được bàn tới. Bỏ qua kiến thức này là thiếu sót trọng đại trong việc chọn lựa hỗ trợ hay từ chối cho việc thay đổi.
Lịch sử cận đại cho biết có thời rất nhiều người cổ võ, ủng hộ cho phong trào cộng sản hoá thế giới bởi những lí luận nghe thuận tai, hợp lí. Thực tế cho thấy hình ảnh búa liềm đại diện cho giới công nông trở thành hình ảnh kinh hoàng biến nhiều triệu người thành nạn nhân. Cái búa kia hàng đêm vung lên làm nứt sọ hàng triệu người và cái liềm kia sau bức tường che phủ đã cứa cổ hàng triệu con người khác. Oan khiên, uất hận chỉ vì nghe lời cổ võ ngon ngọt của những miệng lưỡi tuyên truyền ngọt bùi, thuận tai, hợp lí của lời lẽ đanh thép nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược với lời đường mật. Ban bố chính sách xã hội dựa vào í kiến đa số, hợp yêu cầu của công chúng chắc chắn là thuận lợi nhưng rất có thể là thiếu khôn ngoan bởi công chúng thường hùa theo người khác. Như thế không phải là lãnh đạo mà là chiều theo đa số mong ủng hộ và kiếm thêm phiếu. Nguy hiểm hơn nữa nếu í kiến đó được thúc đẩy bởi những người có kinh nghiệm đau thương ở tuổi thơ bởi nó ảnh hưởng đến hiểu biết về đời sống gia đình.
Các bài đọc hôm nay cho thấy con người hưởng an bình, hoan lạc khi đời sống đó sống không chiều theo í mình nhưng sống theo í Chúa. Họ sẽ được hưởng an bình như tiên tri Isaiah 25,6-10 viết: ‘Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: thịt hảo hạng, rượu tinh tuyền. Người xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân, tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần và lau khô dòng lệ trên khuôn mặt con dân’.
Thánh vịnh 22 còn cho biết Thiên Chúa coi sóc dân Ngài với lòng thương yêu bởi: Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trong đồng cỏ xanh tươi Ngài cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường công chính.
Đức Kitô tham dự tiệc cưới truyền thống và Ngài lên tiếng hỗ trợ, bảo vệ gia đình truyền thống. Ngài dùng hình ảnh gia đình truyền thống để nói lên hình ảnh nước trời.
Khi được mời đến dự tiệc cưới của người thân, bạn bè và gia đình. Chúng ta thường mặc những trang TN 28-A162
Khi được mời đến dự tiệc cưới của người thân, bạn bè và gia đình. Chúng ta thường mặc những trang phục đẹp đẽ, chỉnh chu, lụa là, gấm vóc trước mặt quan khách dự tiệc. Đó là nhu cầu thiết yếu, để làm cho tiệc cưới trang trọng trong ngày vui của đôi tân lang và gia chủ. Hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa nói về tiệc cưới. Người Kitô hữu được mời tham dự tiệc cưới Nước Trời. Vậy, chúng ta phải làm gì tham dự vào tiệc cưới ấy?
Để tham dự vào tiệc cưới Nước Trời, chúng ta được mời gọi sửa đổi tâm hồn mình, và hân hoan vui mừng tham dự bữa tiệc cứu độ mà Thiên Chúa ban cho, những ai tin tưởng vào Thiên Chúa mà bài đọc I nói tiên tri Isaia đến viễn cảnh thời cánh chung, và thời đại về Đấng Méssia, Thiên Chúa ban cho dân tuyển chọn thoát khỏi lưu đày ở Babylon. Ngài sai các ngôn sứ đến để an ủi dân, và ban cho họ bữa tiệc đầy thịt béo, rượu ngon trên núi thánh ( Is 25, 6-9).
Thánh Phaolô trong bài đọc II, đã ngỏ lời cảm ơn mọi người trong giáo đoàn Philipphê, đã đón nhận nâng đỡ mình, cho dù đời sống còn vất vả, nhiều khó khăn, thiếu thốn (Pl 4, 12). Thánh Nhân hướng dẫn họ nhận ra ý nghĩa cuộc sống bên cạnh Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu Kitô, người tín hữu sẽ được thỏa mãn những nhu cầu sâu xa một cách tuyệt vời nhất (Pl 4,19), nhằm có được niềm vui tham dự bàn tiệc Nước Trời.
Thánh Mátthêu mở ngoặc việc Thiên Chúa mở đường cho tất cả mọi người, bất kể người tốt hay xầu, đều được mời vào tham dự bữa tiệc vui Nước Trời (Mt 22,4). Còn, việc chúng ta thể hiện sự lựa chọn niềm vui đó như thế nào là do tấm lòng thiện chí chúng ta? Vì thế, muốn có được niềm vui trọn vẹn trong bữa tiệc Nước Trời. Chúng ta được mời gọi, hãy chuẩn bị tâm hồn mình với lòng hoán cải, và thực hành các nhân đức với tấm lòng khiêm nhường, yêu thương tha nhân. Mỗi người hãy, biết sống, xả thân vì người khác, nhất là luôn quan tâm, nâng đỡ, sẻ chia với những anh chị em nghèo khổ, đói khát, bần cùng cố nông trong xã hội, xứ đạo, lối xóm trong môi trường xung quanh.
Đó là phương thế giúp chúng ta có được tâm hồn thanh sạch, để đáp ứng những đòi hỏi của vị chủ tiệc là Thiên Chúa (Mt 22,11-13).. Ngõ hầu, mỗi người được tham dự niềm vui bữa tiệc cứu độ, cùng với Hoàng Tử Giêsu trong Nước Trời vào ngày chung cuộc của đời mình.
Bài Tin Mừng tuần trước làm chúng ta sửng sốt. vì chẳng những các tá điền không nộp hoa lợi TN 28-A163
Bài Tin Mừng tuần trước làm chúng ta sửng sốt vì chẳng những các tá điền không nộp hoa lợi đúng thời, lại còn bắt giết các đầy tớ và cả con trai của chủ vườn nho. Bài Tin mừng hôm nay làm chúng ta kinh ngạc không kém. Chẳng có gì vui bằng tiệc cưới, hơn nữa lại là tiệc cưới được vua tổ chức cho hoàng tử. Nhà vua hẳn đã chuẩn bị chu đáo cho biến cố lớn lao này. Vua đã mời nhiều quan khách đến tham dự. Hân hạnh biết bao cho những ai được nhà vua mời ! Họ có mong ngày ấy mau đến không? Khi ngày ấy đến, nhà vua sai đầy tớ nhắc lại lời mời. Nhưng các quan khách ngoan cố không muốn đến. Một nhóm đầy tớ thứ hai được sai đi, lặp lại lời mời của nhà vua, cho biết cỗ bàn đã sẵn sàng, Nhưng các khách mời lại nhún vai bỏ đi, vì họ đang bận tâm làm một việc khác. Kẻ thì đi thăm nông trại, kẻ thì đi buôn. Có kẻ lại túm lấy các đầy tớ của vua mà hành hạ rồi giết đi. Chúng ta không hiểu tại sao đi thăm nông trại hay đi buôn lại cần gấp đến thế, và quan trọng hơn cả chuyện dự tiệc cưới của hoàng tử. Tại sao các khách mời lại có thể bỏ qua một vinh dự như vậy? Nhà vua và hoàng tử hẳn thấy mình bị coi thường, khi việc tổ chức tiệc cưới hoàng gia bị thất bại. Các vị khách không muốn chia sẻ niềm vui lớn của nhà vua. Họ không đáp lại sự trân trọng mà nhà vua dành cho họ, nên họ không xứng đáng được dự tiệc nữa. Và những kẻ giết đầy tớ của vua sẽ bị trừng phạt đích đáng. Tiệc cưới vui của hoàng tử hóa ra chuyện buồn, đầy chết chóc. Nhưng nhà vua không muốn tiệc cưới bị thất bại. Phải mời người khác đến dự thay cho các khách đã từ chối. Và một lần nữa, các đầy tớ lại đi khắp các ngả đường để mời. Gặp ai cũng mời, bất luận tốt xấu. Các người được mời lần này không phải là những vị khách quý, nhưng là những người tình cờ gặp ngoài đường. Và họ đã mau mắn đáp lại ngay, nên chẳng mấy chốc phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Thiên Chúa thích chia sẻ niềm vui với con người. Ngài mời con người đến dự tiệc hiệp thông để được cứu độ. Không phải chỉ mời một đôi lần, nhưng mãi mãi cho đến tận thế. Trong dụ ngôn này, nhà vua tượng trưng cho Thiên Chúa, Con của vua là Đức Giêsu, đầy tớ là các ngôn sứ và môn đệ Ngài sai trước và sau phục sinh, quan khách là dân Ítraen hay các nhà lãnh đạo Do-thái giáo. Thiên Chúa mời dân Ngài đến dự tiệc cưới của Người Con, nhưng họ đã đưa ra những lý do để từ chối. Hôm nay, các kitô hữu vẫn được mời đến dự tiệc vui, và chúng ta cũng có thể nại ra nhiều lý do để từ chối. chuyện làm ăn, chuyện gia đình gấp gáp hơn chuyện ăn cưới. Lời mời của Thiên Chúa bị coi nhẹ hơn bao mời mọc hàng ngày. Món ăn trần gian hấp dẫn hơn món ăn do trời thiết đãi. Các kitô hữu là những người từ mọi nẻo đường thế giới đã chấp nhận lời mời, đã được vào tận phòng tiệc cưới. Tiếc thay có người lại không mặc y phục lễ cưới cho đàng hoàng. Y phục này là việc sống công chính theo Bài Giảng trên núi. Chỉ mong chúng ta không chỉ được gọi, mà còn được chọn (Mt 22,14).
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Lắm khi con thấy mình thiếu lịch sự với Chúa, nhưng lại khá lịch sự với người đời. Con thường sợ làm người khác buồn, sợ mình cư xử thiếu tế nhị, nhưng con ít nghĩ đến chuyện làm vui lòng Chúa. Con thường làm những gì con thích, dù biết Chúa không ưa. Con hay bắt Chúa phải đợi con, vì con thường đặt Chúa sau nhiều thụ tạo khác. Xin cho con lịch sự hơn với Chúa, niềm nở đón Chúa vào nhà như ông Da-kêu, và chú tâm như chị Maria ngồi lắng nghe Lời Chúa. Để nếu con không thể tiếp Chúa như một vị khách quý, thì ước gì con biết đón Chúa như một người bạn thân.
Cuộc đời con người rồi sẽ kết thúc ra sao? Đâu là tương lai hậu vận của con người? Những người làm TN 28-A164
Cuộc đời con người rồi sẽ kết thúc ra sao? Đâu là tương lai hậu vận của con người? Những người làm việc lành và những kẻ ác nhân liệu sẽ có một kết thúc khác nhau? Đó là những vấn nạn được đặt ra ở mọi thời đại, mọi nền văn hoá và mọi giai tầng xã hội. Để trả lời, Kinh Thánh khẳng định với chúng ta: tương lai con người sẽ giống như một tiệc cưới. Ai cũng được mời, nhưng không phải ai cũng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong ngày vui đó.
Hình ảnh tiệc cưới được sử dụng nhiều lần trong giáo huấn của Đức Giêsu. Tiệc cưới diễn tả niềm vui của người tin Chúa ngay khi họ còn sống ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu mà sau này họ sẽ đạt được. Trong Cựu Ước, hình ảnh tiệc cưới hoặc bữa tiệc vui cũng diễn tả mối tương quan thân thiết giữa Thiên Chúa với con người, làm cho con người được hạnh phúc trọn vẹn và lâu dài. Đích điểm tối hậu của đời sống con người là được sống với Chúa. Khi ấy, niềm vui sẽ tràn đầy, như trong một bữa tiệc thịnh soạn, đầy đủ rượu ngon, thịt béo, không còn khóc lóc và tang chế nữa. Đó cũng là hình ảnh diễn tả sự can thiệp của Thiên Chúa để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi cảnh lưu đày (Bài đọc I). Khung cảnh bữa tiệc thịnh soạn và chan chứa niềm vui còn được nhắc tới trong Thánh vịnh 22 được hát lên trong Phụng vụ hôm nay (Đáp ca).
Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh bữa tiệc cưới để nói về Nước Trời với công thức quen thuộc: Nước Trời giống như… Ai ai cũng được mời dự bữa tiệc trọng đại này, dù họ thuộc về nền văn hóa hay ý thức hệ nào. Hình ảnh bữa tiệc cưới mà Chúa Giêsu nói đến là bữa tiệc cưới của một vị vua, tổ chức cưới cho hoàng tử là người sẽ kế vị mình. Vì là tiệc cưới của con vua, nên mọi sự chuẩn bị rất cẩn trọng và chu đáo. Những thực khách đã được ông chủ trân trọng mời trước, nay đến ngày tổ chức tiệc, họ được mời lại lần nữa. Một điều thật trớ trêu, đó là sự chu đáo và trân trọng của chủ được đáp lại bằng thái độ coi thường, thậm chí bằng bạo lực. Nhiều thực khách viện đủ cớ để vắng mặt trong bữa tiệc, có những lý do lãng xẹt, chứng tỏ sự coi thường trước thịnh tình của chủ tiệc. Sự vô ơn của họ còn được thể hiện qua hành động côn đồ và dã man, đến mức bắt các đầy tớ của vua để hành hạ và giết chết. Điều này đã khiến nhà vua nổi cơn thịnh nộ. Những kẻ ngang ngược đã bị tru diệt. “Rượu mời không muốn, lại muốn rượu phạt”, khiến ông chủ nổi giận. Tấm thịnh tình của ông biến thành cơn giận. Đám cưới đã được chuẩn bị chu đáo từ lâu, biến thành đẫm máu do sự gian trá và độc ác của một số thực khách vô luân.
Đọc lịch sử Cứu độ, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa dùng nhiều cách thế để kêu gọi con người sống thánh thiện. Lời mời gọi của Chúa được nhiều người đón nhận, nhưng cũng có nhiều người khước từ. Họ yêu vật chất và vinh hoa trần thế hơn là đời sống thánh thiện mà Thiên Chúa đề nghị. Họ ngại phải từ bỏ. Họ sợ phải hy sinh. Họ không muốn bước ra khỏi vỏ bọc của sự ích kỷ và tham lam của mình. Họ giống như những thực khách được mời, kiếm cớ để từ chối lời mời rất trân trọng của ông chủ tiệc. Việc đi tham dự tiệc cưới là một vinh dự, mà bị họ coi như gánh nặng và nô dịch. Việc sống đạo đức là một niềm vui, mà bị họ coi như những hủ tục nhàm chán lỗi thời. Trải qua mọi thời đại, vẫn còn đó những người khước từ lời mời gọi nên thánh để được hưởng Nước Trời.
Nơi người Do Thái vào thời Chúa Giêsu, vẫn tồn tại một não trạng “tự tôn”, cho rằng Thiên Chúa là của riêng họ và chỉ có họ mới được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Qua dụ ngôn tiệc cưới, Chúa Giêsu muốn khẳng định: Người Do Thái hay dân ngoại, bất kỳ ai tin vào Chúa và thực thi Lời Ngài thì sẽ được vào dự “tiệc cưới”, tức là được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Như thế, là người Do Thái không có nghĩa đương nhiên được một “tấm vé” để vào Nước Trời, nhưng hạnh phúc Nước Trời là kết quả của một cuộc đời cố gắng không ngừng để diệt trừ tội lỗi, gia tăng nhân đức.
Giáo huấn của Chúa Giêsu, Nước Trời được gửi đến cho toàn thể nhân loại. Chính Người là Tin Mừng cho muôn dân. Tất cả mọi người đang sống dưới gầm trời này, dù muốn dù không, họ cũng thuộc về Thiên Chúa. Ai ai cũng được mời gọi gia nhập Dân Chúa là Giáo Hội, để đón nhận giáo huấn của Chúa và làm cho sinh hoa kết trái trong cuộc đời, tức là được dự tiệc cưới Thiên Chúa sẽ tổ chức vào lúc tận cùng thời gian. Có nhiều người dù chưa được rửa tội, nhưng họ cũng thuộc về Chúa khi họ sống theo tiếng nói của lương tâm và sống công bằng ngay thẳng trong cách đối xử với anh chị em. Họ là những người đang kiếm tìm Thiên Chúa qua việc kiếm tìm Chân Lý và những giá trị vĩnh cửu làm tâm điểm cho cuộc đời mình. Thánh Phaolô là một mẫu gương cho chúng ta trong đời sống Đức tin. Người đã khẳng định: Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Quả vậy, nhờ cậy trông vào Chúa, chúng ta sẽ vượt thắng mọi gian nan, chấp nhận mọi hoàn cảnh và kiên trì trong mọi quẫn bách (Bài đọc II).
Được đọc dưới ánh sáng Phục Sinh, dụ ngôn tiệc cưới còn giúp cho các độc giả liên tưởng đến hình ảnh Chúa Giêsu là vị Hoàng Tử của Thiên Chúa Cha. Ngày hôm nay, Chúa Cha vẫn đang tổ chức tiệc cưới cho Con Một mình. Ai trong chúng ta cũng được mời. Tuy vậy, một điều kiện không thể thiếu khi dự tiệc cưới là chúng ta phải có y phục lễ cưới. Y phục lễ cưới mà Chúa Giêsu muốn nói tới, đó là tâm tình yêu mến, sự tuân phục Thánh ý Chúa và tình huynh đệ đối với anh chị em mình. Y phục lễ cưới được nhắc tới trong bài Tin Mừng như một điều kiện và một kiến thức căn bản, không ai có thể biện minh rằng mình không biết. Điều đó cho thấy, mỗi chúng ta đang sống trong Giáo Hội, “y phục lễ cưới” chính là tình trạng thường xuyên của một tâm hồn thánh thiện, mến Chúa yêu người và mong muốn những điều tốt đẹp cho anh chị em đang sống xung quanh mình. Ngày lãnh nhận phép Thanh Tẩy, chúng ta được vị linh mục chủ sự mặc cho một chiếc áo trắng với lời nhắn nhủ hãy “mặc lấy Chúa Kitô – Mặc lấy con người mới” (x. Ep 4,24). Như thế, chiếc áo cưới chúng ta mặc hằng ngày là chính Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương ta và chịu chết vì ta. Nhờ tấm áo cưới này mà chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Người.
Trở lại với những vấn nạn được đặt ra ở trên, chúng ta tìm thấy câu trả lời: tương lai của chúng ta là hạnh phúc Nước Trời. Số phận kẻ dữ và người lành không giống nhau. Tiệc cưới chính là hình ảnh để diễn tả cùng đích cuộc đời. Ông chủ là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên chúng ta và mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
Dụ ngôn nhà vua mở tiệc đãi khách được trích đọc hôm nay gợi lại cho chúng ta một bữa tiệc TN 28-A165
Dụ ngôn nhà vua mở tiệc đãi khách được trích đọc hôm nay gợi lại cho chúng ta một bữa tiệc khác trọng đại hơn rất nhiều. Đó là tiệc Thánh thể.
Thánh lễ là một bữa tiệc thật nhiệm mầu. Bữa tiệc này vô cùng cao quý vì cung cấp cho khách mời thực phẩm đem lại sự sống đời đời, chứ không như tiệc trần gian, dù có ăn bao nhiêu rồi cũng phải chết.
Bữa tiệc này có hai món đặc biệt: thứ nhất là Lời Chúa và thứ hai là Mình Máu thánh Chúa.
Món thứ nhất: Lời Chúa. Có thể gọi đây là đặc sản của thiên đàng.
Đây là kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa, được Chúa Giê-su mang từ trời xuống ban phát cho thế gian. Đây là Lời hằng sống, là lương thực thiêng liêng mang lại an vui đời này và hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Không có thứ lương thực nào trên thế gian có thể sánh ví được.
Nhờ hấp thụ lương thực thiêng liêng này, nhiều người trên thế giới trải qua các thời đại được trở nên tốt lành, thánh thiện, đạo đức, nhân hậu, bao dung, quảng đại, sẵn sàng hiến dâng thân mình phục sự Thiên Chúa và phục vụ mọi người, điển hình là các thánh nam nữ đang được Giáo hội tôn vinh.
Món thứ hai là lương thực nhiệm mầu mà ngay cả các thiên thần cũng không được thưởng thức, đó là Mình Máu thánh Chúa Giê-su. Nhờ lương thực thiêng liêng và thần diệu này, các tín hữu được lãnh nhận nhiều hồng phúc vô cùng cao quý. Cụ thể là khi rước Chúa vào lòng, chúng ta nhận được hai hồng ân vô giá:
- Một là được kết hợp nên một với Chúa Giê-su, tan hòa vào Chúa Giê-su như ao nước nhỏ hòa chung với đại dương bao la. Nhờ đó, Chúa với ta không còn là hai nhưng chỉ là một, như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở trong tôi và tôi ở trong người ấy” (Ga 6, 56).
Người phàm hèn mọn mà được nên một với Chúa, ở trong Chúa, cùng chung huyết nhục với Chúa Giê-su thì thật là nhiệm mầu và vô cùng diễm phúc!
- Hai là được sống đời đời với Chúa Giê-su.
Một khi đã được hòa chung nên một với Chúa Giê-su, thì sự sống thần linh, sự sống tuyệt vời, sự sống muôn đời của Chúa Giê-su sẽ được thông truyền qua cho chúng ta, y như sự sống toàn thân chuyển qua cho từng chi thể nhỏ. Thế là ta được mang sự sống đời đời của Chúa Giê-su trong thân xác mình; thế là ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa trên thiên quốc, như lời Ngài phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54).
Thế rồi, Chúa Giê-su tha thiết kêu mời mọi người từ muôn phương đến dự bàn tiệc cao quý Ngài thiết đãi.
Tiếc thay,
Nhiều người thích nghe những chuyện tào lao mà không muốn nghe những điều khôn ngoan đích thực.
Người ta khao khát của cải vật chất mà không quan tâm đến những giá trị tinh thần.
Người ta tìm kiếm lương thực giúp sống qua ngày mà chẳng thiết gì lương thực mang lại sự sống vĩnh hằng mai sau.
Vì thế, họ không màng gì đến tiệc thánh của Chúa Giê-su!
Thế là Chúa Giê-su, Người chủ tiệc, bị bẽ mặt, buồn phiền và cảm thấy bị xúc phạm.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu Chúa khoản đãi những bữa ăn chỉ giúp người ta sống qua ngày và kêu mời khách tứ phương đến tham dự thì phòng tiệc sẽ chật ních người và ngày nào thiên hạ cũng chen chúc tìm đến.
Tuy nhiên, khi Chúa dọn tiệc thánh, tiệc thần linh để cho những ai hưởng dùng thì được hấp thụ sự khôn ngoan đích thực bởi trời và được sống đời đời hạnh phúc với Chúa thì chỉ có ít người tham gia.
Xin cho chúng con biết quý trọng lương thực trường sinh hơn là thức ăn hư nát đời này, đừng viện đủ lý do để từ chối bữa tiệc của Chúa, nhưng thường xuyên đến tham dự tiệc thánh để được hưởng muôn vàn phúc lộc. Amen.
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người gia nhập Hội Thánh Chúa. Hạnh TN 28-A166
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người gia nhập Hội Thánh Chúa. Hạnh phúc cho ai được liệt vào số ít những người may mắn nầy. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có bảy người có diễm phúc tham dự tiệc cưới vua trời, tức được gia nhập vào Hội Thánh Chúa. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây quả là một hồng phúc lớn lao cho chúng ta.
Để xứng hợp với tư cách của vị khách được Thiên Chúa ưu ái mời vào dự tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải vứt bỏ tấm áo dơ bẩn đang mặc để khoác vào mình y phục xứng đáng.
Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng nặng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà trang phục lôi thôi lếch thếch, nói năng hồ đồ lỗ mãng thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào đời quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.
Hội Thánh của Chúa luôn mở rộng cửa để tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ bất kể sang hèn tốt xấu. Nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin Mừng.
Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo Hội trở nên khó thương trước mặt người khác.
Vì thế nên một khi đã gia nhập Hội Thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì đương sự sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin Mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.
"Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng."
Là người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xem lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.
Xưa kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian, nhưng đến năm 33 tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh thánh và đoạn văn đầu tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong thư Rô-ma như sau: "Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt." (Rm 13, 13-14).
Nhờ ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy những câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ đây, Augustinô từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí tích rửa tội vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh.
Trong ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: "Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời".
Xin cùng khẩn cầu Thiên Chúa giúp chúng ta đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Hãy dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Kitô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giêsu, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giêsu, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu; Nhờ đó, chúng ta sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.
Nếu chúng ta được vua mời dự tiệc cưới, chúng ta sẽ từ chối không? Hay chúng ta sẽ lấy làm TN 28-A167
Nếu chúng ta được vua mời dự tiệc cưới, chúng ta sẽ từ chối không? Hay chúng ta sẽ lấy làm vinh dự được vua chiếu cố? Nhưng trong dụ ngôn, những người được vua mời lại từ chối, lấy những lý do này khác để xin kiếu.
Dụ ngôn này, cũng như nhiều dụ ngôn khác mang màu sắc tranh luận. Chúa Giêsu nhắm thẳng vào nhóm Pharisêu và cả dân Do Thái. Chúng ta biết rằng mối căng thẳng giữa Chúa Giêsu và nhóm Pharisêu càng ngày càng tăng và Chúa Giêsu cũng không ngại nói lên cho họ biết những sai lầm của họ. Ngài dùng nhiều dụ ngôn để giúp họ suy nghĩ, nhưng hình như lòng dạ của họ, vì quá kiêu căng và tự mãn, vẫn không thể nhìn thấy; và ngược lại, thay vì hồi tâm suy nghĩ, họ lại tìm cách tiêu diệt Chúa như một đối thủ hiểm nghèo, một cái gai trong mắt họ.
Bàn tiệc của vua chính là bàn tiệc cứu độ của Chúa. Chúa chọn dân Do Thái để mạc khải ơn cứu độ của Ngài, dân này từ xa xưa đã là một dân cứng cổ, luôn làm theo sở thích của mình, chạy theo các thần ngoại và bỏ Chúa. Chúa đã nói qua miệng tiên tri Isaia: “Suốt ngày, Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời và ngỗ nghịch”. Nhưng Chúa vẫn kiên nhẫn không thôi kêu gọi họ trở về. Vua sai các đầy tớ đến mời khách nhưng họ chẳng những không đến mà lại bắt các đầy tớ của vua giết đi. Đó là một xúc phạm không thể tha thứ. Vua sai quân tiêu diệt thành phố của họ. Chúa Giêsu nhắc đến lịch sử dân Do Thái, một dân cứng cổ. Chúa nhắc lại việc xưa kia, cha ông của họ giết các tiên tri Chúa sai đến giúp họ tuân giữ Giao Ước. Tiên tri Êlia đã nói: “Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài chúng đã giết chết… Còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con”. Chúa cũng tiên báo việc Giêrusalem sẽ bị tàn phá vì dân Chúa đã không đón nhận tin mừng cứu độ Chúa mang đến. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói lên đau khổ của ngài, vì thấy dân Do Thái từ chối tình yêu của Chúa: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” vì sao? Vì Chúa đã thương họ nhưng họ không đáp lại tình thương đó, Ngài phải nói lên rằng: “giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng”.
Tiệc đã sẵn sàng, nhưng những khách mời không đến dự. Vua sai gia nhân đi ra khắp các ngã đường mời hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo. Chúa mở rộng cửa phòng tiệc cho mọi người mọi thời, không giới hạn. Mọi người trở thành khách mời của Chúa. Nhà tiệc đầy người. Phải chăng đây là hình ảnh của Giáo hội được quy tụ vào bàn tiệc cứu độ? Trong đó gồm đủ mọi hạng người. Chúng ta không thể tưởng tượng niềm vui của những khách mời bất ngờ này!
Mọi người vui mừng được vào bàn tiệc sang trọng của vua. Và vua đến để thăm các thực khách. Bàn tiệc đang vui, vua nhìn thấy một người dự tiệc mà không mặc phục lễ cưới. Vua hỏi: “Sao ngươi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy im lặng. Vua truyền: “Hãy trói chân tay nó lại quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài…” Chúng ta ngạc nhiên chăng? Mời người ta từ ngoài đường vào mà lại đòi phải mặc y phục lễ cưới là thế nào? Có nhiều cách giải thích nhưng chúng ta không cần phải đi vào chi tiết. Đây chỉ là một dụ ngôn, tức là những hình ảnh ghép lại từ nhiều câu chuyện khác nhau để nêu lên một bài học. Bài học ở đây là không mặc lễ phục như qui định. Không mặc lễ phục là gì? Phải chăng là không đủ điều kiện. Điều kiện gì? Là không hoán cải, không khiêm tốn. Vào tiệc cưới của vua mà mang theo hận thù ghen ghét thì làm sao xứng đáng?
Đối với các ông nhóm Pharisêu và những người Do Thái, nếu họ hiểu, họ sẽ nghiến răng tức tối. Nhưng đối với chúng ta, những người đã được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời, chúng ta có từ chối lời mời của vua không? Chúng ta không đến nỗi bắt gia nhân của vua làm nhục và giết chết, nhưng chúng ta khinh thường những gì Giáo hội dạy, chúng ta chỉ làm theo sở thích của chúng ta, chúng ta dùng những ơn lành của Chúa để phạm tội. Chúng ta đã làm gì với trí khôn và những năng khiếu Chúa ban? Chúng ta sử dụng tiền bạc của cải như thế nào? Để yêu thương hay chỉ để xài phí một cách vô lý, để chà đạp anh em chúng ta, để thỏa mãn những dục vọng đê hèn, hay để phô trương? Làm sao chúng ta vào được Nước Trời là Nước Tình Yêu với những điều kiện như thế?
Dụ ngôn hôm này là một cảnh báo rất gắt gao cho mỗi người chúng ta. Giữ đạo không phải chỉ là nói “lạy Chúa, lạy Chúa”, mà làm theo ý Chúa. N ước Trời không dành cho những hạng người chỉ biết sống cho mình mà cho những người biết dùng mọi hồng ân để tạo hạnh phúc cho anh em, xả thân phục vụ anh em, những người biết yêu thương.
Vua trên trời đã yêu trần gian đến nỗi đi tìm một người yêu cho con mình nơi trần gian này. Tiệc cưới này, chàng rể chính là Chúa Giêsu, Con Một của Cha trên trời, và cô dâu là chính chúng ta. Tình yêu đã khiến cho chàng phải rời bỏ mọi vinh quang đi tìm người yêu tận trần gian này, chết cho người mình yêu. Nhưng người yêu không xứng đáng. Chúng ta không tha thiết gì với người đã yêu chúng ta và đã liều mạng cho chúngta. Chúng ta chạy theo tiền bạc, của cải, những gì làm thỏa mãn xác thịt hơn là hạnh phúc Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phanxicô Assisi đã đau lòng nhìn thấy sự hờ hững của con người và ngài đã chạy khắp thành phố vừa khóc vừa la lên: “Tình yêu không được yêu thương, Tình Yêu không được yêu thương!”. Chúa Giêsu đã làm hết mọi cách để tỏ tình với chúng ta, nhưng hình như chúng ta vẫn không để ý gì đến Ngài, không thấy tình yêu của Ngài. Chúng ta dửng dưng khi nhìn cây thập giá là dấu hiệu mạnh mẽ nhất của tình yêu. Chúng ta không thấy người đã dám chết cho chúng ta. Lắm lúc, chính chúng ta cầm giáo đâm vào trái tim của Ngài.
Nước Trời là Nước Tình Yêu. Nước đó đang ở đây, trong thế giới chúng ta đang sống. Nước Trời không phải là mộng mơ của một số người khùng điên mà là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho con người. Tiệc cưới chính là cuộc sống yêu thương mà chúng ta được mời tham dự. Phải mang áo tiệc cưới như vua đòi buộc. Lễ phục tiệc cưới chính là chiếc áo choàng tình yêu cần mặc để tham dự bữa tiệc của vua. Yêu thương nhau chúng ta mới vui mừng dự vào bàn tiệc cưới, vì đó cũng là tiệc cưới của chúng ta. Con Thiên Chúa đã đến cưới cô gái nhân loại này, thì đó là một hạnh phúc lớn. Hãy vui mừng vì chúng ta được yêu đến tuyệt vời.
Và bàn tiệc cưới hằng ngày vẫn mời gọi đó là bàn tiệc Thánh Thể. Nơi đây chúng ta được mời gọi ăn lấy người yêu thần linh của chúng ta và sống với Ngài liên lỉ cho đến ngày chúng ta dùng tiệc Con Chiên trên thiên quốc. Nơi đó chúng ta sẽ nếm được hạnh phúc tràn đầy mà hôm nay chúng ta đang khao khát và đang chuẩn bị tham dự.
Chủ đề: Phúc cho những ai được mời dự tiệc trong Nước Chúa.
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Mời khách dự tiệc là chia sẻ niềm vui, hạnh phúc, là cách giãi bày lòng biết ơn, sưởi ấm tình TN 28-A168
Mời khách dự tiệc là chia sẻ niềm vui, hạnh phúc, là cách giãi bày lòng biết ơn, sưởi ấm tình liên đới, hiệp thông ngày càng thắm thiết, đậm đà.
Có những bữa tiệc gây ấn tượng ít, có những buổi chiêu đãi tạo âm hưởng lâu dài, tùy địa vị và cung cách của người thiết tiệc.
Trên tất cả, bữa “Tiệc ly” của Chúa Giê-su, ngày thứ năm Tuần Thánh để lại dấu ấn muôn đời, vì đó là Giao Ước cứu độ, truyền chúng ta cử hành mà tưởng nhớ đến Người. Khi rước Mình Thánh Người được hiến tế, chúng ta được mạnh sức và khi rước Máu Thánh Người, chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi.
Bàn tiệc Thánh Thể là nguồn cơn niềm vui, hạnh phúc viên mãn cho cả Thiên Chúa và thế gian. Bởi vậy, cộng đoàn dân Chúa luôn hằng khao khát cử hành bữa tiệc của Chúa khi đủ điều kiện và luật định.
Tác giả Đường Hy Vọng, số 359, ĐHY. Thuận dạy: “Con muốn tôn vinh Chúa? Con muốn cảm tạ Chúa? Con muốn cầu xin Chúa? Con muốn yêu mến Chúa? Con muốn cứu nhân loại? Hãy dâng thánh lễ! Chúa Giê-su đã làm như vậy!”.
Chính cảm thức đức tin của dân Chúa về bí tích Thánh Thể, bữa ăn của Chúa, mà bao nhiêu chứng nhân nam/nữ đã vượt qua những thời điểm thử thách, tù tội, bị bách hại vì Chúa Kitô, cách anh hùng, dẫy tràn niềm hy vọng, trở nên chứng nhân cho Chúa ngay đối với những kẻ bách hại mình.
Thật, đúng như lời tuyên xưng trong thánh lễ: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” (cf. Sách lễ quy Rô-ma, Kinh nguyện Thánh Thể).
Từ cảm thức đức tin về bữa “Tiệc của Chúa”, chúng ta được mời gọi suy gẫm Lời Chúa chúa nhật hôm nay.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, là lời loan báo niềm vui và hy vọng dẫy tràn cho dân Chúa đang trong tình cảnh bi đát nhất của mình.
Hồi ấy, Israel đang bị nô lệ, đọa đày bên Babylon. Và vì quá khổ cực, nhiều người đã ngã lòng trông cậy tự hỏi phải chăng Chúa ruồng bỏ dân Người?
Isaia được sai đến an ủi, khích lệ dân vững niềm trông cậy, hoán cải, canh tân, chờ ngày Chúa viếng thăm, đưa về lại quê hương.
Mọi phúc lành lai thời được diễn tả bằng hình ảnh đại tiệc mừng, chính Chúa thiết đãi dân trên núi thánh của Người.
Bàn tiệc được bày biện đủ thứ cao lương, mỹ vị. Thực khách tràn ngập niềm vui mùa lễ hội: không còn tang chế, khóc lóc than van, không còn đau khổ, sự chết.
Trên núi này, dân Chúa sẽ được nghỉ ngơi an bình, miệng không ngớt vang lời tạ ơn: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta đã chờ đợi Người và Người đã cứu chúng ta” (Is 25, 9).
Thật và rất thật, lời mời dự tiệc của Chúa tiếp thêm sức mạnh cho quyết tâm hồi hương của dân Chúa. Nhất là khi được an cư lạc nghiệp trong miền đất hứa, nhìn lại chặng đường đã qua, họ thấy như trong mơ:
“Khi tù nhân Si-on được Chúa thương đưa về, Ta tưởng mình đi trong một giấc mơ, Vang vang câu cười nói trên môi, rộn rã khúc nhạc mừng. Thiên hạ kháo với nhau việc Chúa làm lạ lùng. Lạ lùng thay, việc Chúa làm cho ta, Ra đi trong sầu khổ đau thương mừng hát mùa gặt về...” (Tv 125).
Niềm vui ngày trở về cứ dạt dào như triền sóng dâng cao, tràn trào vào lịch sử dân Chúa mọi nơi mọi thời.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc diễn tả niềm vui vô đối của đại tiệc Chúa Cha đã chuẩn bị và mời mọc chúng ta, nhân dịp cưới của “Hoàng Thái Tử”. Thiệp hồng vô số được gởi đi, cỗ bàn thịnh soạn đã bày biện, mọi sự đã sẵn sàng, nhưng kết quả không như mong ước! Có nhiều người từ chối với những lý do, tựu trung là danh, lợi, thú.
Bài Tin Mừng dạy chúng ta bài học: đừng vô tâm từ chối lời mời gọi của Chúa. Chớ cứng lòng như tổ tiên xưa đã thử thách Chúa, vì những yêu sách phàm nhân.
Từ chối lời mời gọi của Chúa, đồng nghĩa với tự tách mình khỏi nguồn mạch tình yêu và sự sống, rõ thật nghịch lý, con người chống lại chính mình!
Ai sẽ cứu chúng ta khỏi tình trạng sống dở, chết dở này?
Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại, đang biện hộ cho chúng ta trước tòa án công thẳng của Chúa Cha. Người đang chuyển cầu cho ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời. Ngài mặc cho ta áo hồng ân cứu rỗi, choàng đức chính trực công minh, khiến chúng ta không còn thiếu ơn nào khác nữa, trong khi mong chờ Đức Kitô ngự đến.
Đó là y phục lễ cưới, hãy mang luôn trên mình để khi duyệt thực khách, không ai phải bị trói chân tay, quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyên dạy chúng ta tập nhân đức bằng cách chấp nhận mọi hoàn cảnh xẩy đến cho mình, vì thâm tín rằng, luôn có Đấng ban sức mạnh, để người của Thiên Chúa đủ sức thực thi điều lành góp phần làm cho Danh Cha vinh hiển, Nước Cha trị đến.
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:
Một là: Luôn vui mừng, dâng lời cảm tạ, vì hồng ân đức tin Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần, qua các nhiệm tích cứu độ. Hãy cố gắng tham dự thánh lễ và sống mầu nhiệm Thánh Thể. Đó là hạnh phúc cho những ai được mời dự tiệc Chiên Thiên Chúa.
Hai là: Luôn giữ gìn tấm áo ngày chịu phép rửa tội, với những cam kết: từ bỏ ma quỷ, tội lỗi. Quyết tâm sống ơn gọi làm con Chúa bằng cách lắng nghe, thực thi Lời Chúa, chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình, xây dựng tình liên đới, hiệp thông, quảng đại sẻ chia tùy khả năng cho những người đói khổ. Thực thi điều đó, chúng ta làm phải!
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
Tin mừng Matthêu 21,23-27, kể chuyện Chúa Giêsu tranh luận với giới lãnh đạo Do thái: “Đức TN 28-A169
Tin mừng Matthêu 21,23-27, kể chuyện Chúa Giêsu tranh luận với giới lãnh đạo Do thái: “Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi ‘Ông lấy quyền nào mà làm các việc ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?”.
Sau cuộc đối thoại với những kẻ tự bưng tai, che mắt, bịt miệng, Chúa lay tỉnh họ bằng ba dụ ngôn để vạch trần tâm địa của họ và cho họ biết cái gì chờ họ ở cuối con đường họ đang đi.
Dụ ngôn thứ nhất (Mt 21,28-32): suy niệm Chúa Nhật 26. Dụ ngôn thứ hai (Mt 21,33-46): suy niệm Chúa Nhật 27. Dụ ngôn thứ ba (Mt 22,1-14): suy niệm Chúa Nhật 28. Dụ ngôn tiệc cưới.
Dụ ngôn này có hai mũi dùi: mũi dùi thứ nhất tiếp tục chĩa vào những kẻ được mời trước mà không thèm đến dự (cùng họ với người con thứ hai trong dụ ngôn thứ nhất và bọn tá điền coi vườn nho trong dụ ngôn thứ hai). Mũi dùi thứ hai, một trong những kẻ đầu đường xó chợ đã được vào thế chỗ dự tiệc nhưng lại không mặc áo cưới, chĩa vào những người đã tin, đã gia nhập Hội Thánh nhưng lại không sống đời sống mới. Đó là lời cảnh báo: Hội Thánh không phải là hãng bảo hiểm sinh mạng vô điều kiện, phép rửa không phải bùa hộ mệnh nhưng là khởi đầu một cuộc sống mới, và Hội Thánh là bàn tiệc Nước Trời ngay bây giờ cho những ai muốn thật sự theo Chúa Giêsu, mặc lấy Chúa Kitô nên đồng hình đồng dạng với Người (x.Cl 2-3; Pl 3; Ep 3-6), nhờ Lời Chúa và các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể nuôi dưỡng.(x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan. SJ).
1. Tiệc cưới
Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh tiệc cưới, vị vua tổ chức cho hoàng tử. Đây là một đại yến tiệc hoàng gia. Khách được mời là cấp hoàng tộc, giới thượng lưu và có địa vị cao trong xã hội. Tuy nhiên, những vị khách quý này đã tỏ ra khinh thường và hung bạo đối với các sứ giả nhà vua. Không những họ từ chối lời mời, mà còn nhục mạ và sát hại những người được vua phái đến. Vua tức giận trừng phạt những con người hung ác kia và cho gia nhân ra các ngả đường mời bất cứ ai, bất luận tốt xấu, đến dự tiệc và phòng tiệc chật ních khách mời. Qua dụ ngôn Tiệc Cưới, Chúa Giêsu tỏ rõ cho người Do thái biết rằng, họ chính là dân tộc được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, là khách mời đặc biệt của bữa tiệc Nước Trời. Nhưng khi Chúa Giêsu đến, loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ, thì họ lại khước từ. Vì thế, Israel đã được thay thế bằng các dân tộc khác, kể cả những người ngoại giáo và tội lỗi. Bữa tiệc được mở rộng đến mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia trên thế giới.
Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Thời nay, những người tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Thiên Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật. Có người nhân danh đạo tại tâm để từ chối dự lễ Chúa nhật. Có người viện lý do ghét người này người nọ để từ chối việc đến nhà thờ. Bên cạnh những người bỏ đạo còn có những người lấp lửng nửa vời. Họ nại vào lý do “có thực mới vực được đạo”. Họ không đi lễ vì phải lo kế sinh nhai, cơm áo gạo tiền. Khi rãnh mới đi lễ… Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh hoạt xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự thánh lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.
Thánh lễ chính là Tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa thết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Mọi sinh hoạt Kitô giáo đều bắt nguồn và đặt nền nơi Thánh lễ ngày Chúa Nhật.Tham dự Thánh lễ Chúa Nhật là một bằng chứng trung thành với Chúa Kitô và với Hội Thánh, đồng thời các tín hữu hiệp thông với nhau trong tin yêu, nâng đỡ và khuyến khích nhau. Thu xếp công việc, dành ưu tiên cho Chúa, hân hoan dự bàn tiệc Thánh Thể. Khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.
Tham dự Thánh lễ là bổn phận trước tiên và chủ yếu để thánh hóa ngày của Chúa, người tín hữu dành Chúa nhật cho những việc hữu ích và cần thiết khác theo ý muốn của Chúa. “Chúa Nhật và các lễ buộc khác, tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ; lại nữa, phải kiêng những việc làm, và những hoạt động làm cản trở việc thờ phượng Thiên Chúa, niềm vui riêng trong ngày của Chúa, hoặc việc nghỉ ngơi tinh thần và thể xác cần phải có” (GL 1247). Thời giờ ngày Chúa Nhật cũng có mục đích dành để sống với gia đình, trau đổi văn hóa nghệ thuật cũng như đạo đức, và để thăm viếng bạn bè, nhất là đến với những bệnh nhân, tàn tật, già yếu, cô đơn. “Mỗi người cần được hưởng đầy đủ sự nghỉ ngơi và thời giờ nhàn rỗi, để sống đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo” (MV 67).
2. Áo cưới
Đỉnh cao của dụ ngôn chính là vấn đề “y phục lễ cưới”. Ý nghĩa đạo đức hay luân lý của hình ảnh “y phục lễ cưới”: trách nhiệm luân lý, lương tâm ngay thẳng, những việc đạo đức và bác ái… Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo, trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.
Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh Tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”
Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, các Kitô hữu mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ lòng kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng với bản thân mình. Mỗi lần tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi, đó là y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin cậy mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.
Từ Bàn Tiệc Thánh Thể hàng ngày, chúng ta sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Trước khi được dự tiệc cánh chung, bữa tiệc Thiên quốc, mỗi ngày Chúa cho chúng ta được hưởng nếm tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể. Nơi đó, không những Chúa trao ban Lời Ngài, mà còn ban chính Thịt Máu Ngài để nuôi sống chúng ta. Qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta được qui tụ lại trong tình hiệp nhất yêu thương. Hãy đến với Chúa Thánh Thể để được lãnh nhận lương thực thiêng liêng cho tâm hồn mỗi ngày, miễn là chúng ta biết cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới trong Đức Kitô. Hãy gìn giữ chiếc áo trắng tinh tuyền ngày chịu phép Thánh Tẩy, “chiếc áo cưới” tượng trưng cho tâm hồn trong sạch giúp chúng ta xứng đáng được Thiên Chúa đón nhận vào dự tiệc Nước Trời mai sau.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói về dụ ngôn tiệc cưới “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những TN 28-A170
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói về dụ ngôn tiệc cưới “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Có bao giờ anh chị em khi tổ chức tiệc mừng, mà lo sợ rằng khách mời sẽ không đến? Hay là ACE đã gặp phải trường hợp giống như ông chủ trong dụ ngôn chăng? Nếu có lo lắng hay gặp điều không may như vậy, thì ACE đã ứng xử thế nào với các vị khách mời và các vật phẩm mà mình đã chuẩn bị? Trong những ngày vừa qua, khi tổ chức cho Đại lễ mừng Bổn mạng của Giáo xứ, điều mà làm cho tôi băn khoăn, lo lắng là: không biết khi gởi thiệp mời dự tiệc mừng Bổn mạng, ACE có đến dự hay là không? Nếu ACE đến ít, dư nhiều bàn thì mình phải làm sao đây? Cảm tạ Chúa, cám ơn mọi người. ACE đã đến rất đông không những trong các Thánh lễ, các nghi thức tôn vinh Mẹ Mân Côi, mà còn đi đông đủ trong tiệc mừng nữa. Qua cử chỉ và hành động này, ACE đã đáp lại lời mời gọi của tôi và Giáo xứ để chúng ta đến với Chúa và đến với nhau trong tâm tình cảm tạ và tri ân.
Thiên Chúa trong muôn vàn cách thế, cũng đã quan phòng và yêu thương chúng ta hết mực, Ngài đã chuẩn bị, lo liệu tất cả mọi sự cho chúng ta không những có những của ăn để nuôi sống phần xác, mà còn những của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta. Thánh vịnh 22 trong Đáp ca nhắc nhở cho chúng ta điều này, mỗi khi chúng ta để cho Chúa lo liệu, thì chẳng có gì chúng ta phải lo sợ “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”. Thế thì giờ đây được mời gọi để nhìn lại, trước muôn vàn ân ban là tình yêu quan phòng của Chúa, chúng ta đã sống đáp trả thế nào? Thánh Phaolô trong bài đọc hai, đã chia sẻ lại kinh nghiệm sống này cho chúng ta, vì Ngài đã cảm nếm và trải nghiệm, cho dù phải sống trong hoàn cảnh nào, dẫu phải thiếu thốn hay được hưởng sung túc, dẫu được no đủ hay phải đói khát, Ngài vẫn luôn tin tưởng, tín thác và cố gắng để nhận ra thánh ý yêu thương mà Chúa dành cho Ngài. Tại sao Phaolô có thể làm được như vậy: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi”. Đồng thời, Phaolô cũng nhận ra ơn Chúa ban cho Ngài cách cụ thể hơn qua lòng quảng đại, sự chia sẻ của các tín hữu Philipphê nơi mà Ngài được sai đến để phục vụ.
Còn với chúng ta, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta có cảm nhận được và tin rằng Chúa đang chăm lo và tạo những cơ hội khác nhau để ban ơn cho chúng ta? Cách cụ thể và đặc biệt hơn hết, mỗi ngày qua bàn tiệc Thánh Thể, Chúa luôn chuẩn bị và mời gọi chúng ta đến để thiết đãi cho chúng ta được hưởng dùng những thực phẩm cao quý. Thực phẩm này không chỉ là cơm bánh, thịt cá bình thường, nhưng nơi bàn tiệc đặc biệt này, đây là bàn tiệc của tình yêu, bàn tiệc của lòng thương xót, bàn tiệc của sự tha thứ và biến đổi; Chúa luôn thiết đãi chúng lương thực đặc biệt đó chính là Mình Máu Thánh Chúa. Thật vậy, không còn gì cao quý hơn và bổ dưỡng hơn cho cuộc sống chúng ta khi được Chúa yêu thương và thiết đãi món ăn từ trời như vậy. Vậy thì, chúng ta phải cần xem lại mình đã có thái độ và cung cách nào khi chúng ta đến và lãnh nhận những lương thực hồng phúc ấy.
Dụ ngôn trong Tin mừng đã thuật lại câu chuyện, những vị khách được chủ trân quý mời dự tiệc cưới, nhưng họ đã nại đến nhiều lý do để từ chối và không muốn tham dự. Thái độ này của những khách được mời nói lên mối tương quan xa lạ với ông chủ. Họ không những không trân quý tình thương và lòng quý mến mà chủ đã dành cho họ, mà họ còn chối bỏ chính phẩm giá của mình và cơ hội tốt để họ được chủ thiết đãi những vật phẩm cao quý nữa. Dụ ngôn này, chắc cũng còn lập lại và thường tái diễn nơi một số Kitô hữu. Mỗi Chúa Nhật, vì lý do nào đó mà họ đi trể - về sớm, họ phải đứng từ xa xa ngoài sân - ngoài cổng, họ không thể tham dự lễ sốt sắng và không thể rước lấy Mình Thánh Chúa…Cũng có thể vì thời tiết, vì sức khỏe, vì công việc, hay vì ham muốn sự đời, mà nhiều người vẫn không thể dành cho Chúa ít nhất một giờ trong tuần… Nếu những hoàn cảnh như vậy vẫn đang xảy ra trong cộng đoàn của chúng ta, thì thử hỏi Thiên Chúa sẽ đối xử với chúng ta thế nào?
Thưa ACE, dẫu chúng ta vì yếu đối hay vì tội lỗi mà đối xử với Chúa thế nào đi nữa, Ngài vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi và tạo những cơ hội tiếp theo tốt hơn để thiết đãi cho chúng ta được hưởng dùng chính ơn sủng của Chúa. Xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng ta khiêm tốn tin nhận ra được chính ơn ban tình yêu mà Chúa dành cách đặc biệt cho chúng ta qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Để với ơn ban này, chúng ta luôn hăng say, mở lòng chuẩn bị và mau mắn đến với Chúa để được Ngài thiết đãi chúng con với thần lương từ trời. Lạy Mẹ Maria Mân côi, khi xưa Mẹ đã mau mắn thưa xin vâng với ơn Thánh Chúa, xin Mẹ cũng dạy chúng con luôn biết mở lòng và chuẩn bị tâm hồn sốt sắng để đón rước Chúa vào lòng và cuộc sống của chúng con. Amen.
Trong những tiệc tùng, cách riêng đám cưới ngày nay, ai nấy đều diện lên những bộ áo quần lộng TN 28-A171
Trong những tiệc tùng, cách riêng đám cưới ngày nay, ai nấy đều diện lên những bộ áo quần lộng lẫy, rực rỡ, sang trọng khi được mời tham dự. Lẽ dĩ nhiên, mọi người tổ chức cũng như tham dự viên đều luôn vui tươi, hớn hở, tay bắt mặt mừng, trao cho nhau những lời chúc đằm thắm, và đôi khi cũng ‘có cánh’ nữa!
Tiệc cưới trần gian hoành tráng, cao sang, trịnh trọng, rực rỡ thế nào, thì tiệc cưới Nước Trời vượt xa những sự chóng quá, phù phiếm và vô thường như vậy. Tuy nhiên, khách được mời dự tiệc Nước Trời đã không chịu đến, mặc dù tiệc mừng đã dọn sẵn, đã hạ bò, thịt bê béo, mọi sự đã tươm tất (x. Mt 22, 3. 4. 8). Chúng ta thấy rằng tất cả những lí do, lời biện giải mà khách mời đưa ra hoàn toàn không xứng tầm với ơn diễm phúc được dự tiệc Nước Trời; nào là “chẳng thèm đếm xỉa, lại bỏ đi: kẻ đi thăm trang trại, người thì đi buôn, có khi còn bắt các đầy tớ, nhục mạ và giết chết” (x. Mt 22, 5-6). Nhìn thật kỹ và gần, chúng ta sẽ nhận ra chi tiết đó phản phất hình dáng và cuộc sống của bản thân chúng ta. Với thái độ khước từ, lãnh đạm, dửng dưng trước lời mời gọi tha thiết, nhẫn nại của Thiên Chúa theo dòng thời gian; ngược lại, chúng ta lao vào thói đời, đam mê thú vui trần thế. Chúng ta nhanh nhẹn dang tay, đưa chân cho những thứ vật chất chóng qua, tàn lụi qua năm tháng, dẫn dắt đến mức biến chúng ta thành kẻ lệ thuộc vào nó. Thay vì làm chủ vật chất, giờ đây, chúng ta trở nên ‘tôi tớ’ của nó, tệ hơn, là ‘nộ lệ’ kiểu mới của thú vui, triết thuyết, ý thức hệ đượm tính ‘vô sinh’ như lời Đức Thánh Cha Phan-xi-cô giải thích trong Thông điệp mới nhất Fratelli Tutti (Tất cả là Anh chị em): “các ý thức hệ khác nhau chi phối, tạo ra nhiều hình thái của thói ích kỷ, và đánh mất cảm thức xã hội với chiêu bài đội lốt bảo vệ lợi ích quốc gia…Hơn nữa, ý thức hệ được truyền bá nhằm huỷ hoại hay phá hoại tất cả các đặc tính khác biệt đa dạng, để dễ dàng cai trị mà không lo bị chống đối hoặc phản kháng nào” (x. Thông điệp Fratelli Tutti số 11 và 13 [theo bản dịch của tác giả viết bài suy niệm này]).
Quả thật, tiệc cưới Nước Trời trước tiên được mở ra cho dân Do thái. Nhưng vì họ lòng chai dạ đá, khước từ, và chẳng đoái hoài, “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời lại không xứng đáng…”, nên Thiên Chúa đã thi ân, ban phát rộng rãi, kêu mời tất cả các dân nước cùng đến thông phần tiệc vui khôn tả này “vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới” (x. Mt 22, 8-9 theo thứ tự trích dẫn trên). Cảm tạ Chúa đã đoái thương, và trao ban ơn sủng dự phần vào sự hạnh phúc viên mãn của Ngài! Bất luận nam hay nữ, già hay trẻ, văn hoá, ngôn ngữ, màu da, tôn giáo khác nhau chăng nữa, tất cả được Chúa ưu ái gọi mời hết mọi người chia san đặc tính chân-thiện-mỹ, mà được nhận lãnh từ Ngài, là nguồn Chân-Thiện-Mỹ. Hơn nữa, là Ki-tô hữu, khi chịu Bí tích Thanh tẩy (Rửa tội), chúng ta cũng được khoác lên mình tấm áo trắng, dấu chỉ biểu trưng cho ‘tạo vật mới và mặc lấy Đức Ki-tô’ như lời trong nghi thức Rửa tội “…con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Ki-tô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh” (theo “Sách lễ nghi Giám mục”, cuốn De Benedictionibus được Thánh Bộ Phụng Tự ban hành 31/5/1984). Chiếc áo trắng này phản phất hình ảnh áo cưới dự tiệc Nước Trời. Lẽ dĩ nhiên, Chúa đã kêu mời tất cả vào Thiên quốc, và Ngài cũng trao cho chúng ta áo cưới để giúp chúng ta xứng đáng và hưởng trọn vẹn hạnh phúc tiệc mừng ấy. Áo cưới ấy không gì khác hơn chính là ân sủng cần thiết, là đặc sủng, ơn công chính hoá, ơn trở nên thụ tạo mới, ơn tha tội, ơn được làm con cái Chúa, và nhất là ơn ‘mặc lấy Đức Ki-tô’. Nghĩa là: bỏ con người cũ, bỏ những thói hư tật xấu của bản thân, mà mặc lấy lối sống, cách suy nghĩ, ánh nhìn, thái độ, tư tưởng, hành vi, cung cách đối nhân xử thế của Đức Ki-tô. Ngài yêu thương mọi người, không loại trừ ai, không giản lược ai thành đồ vật hay phương tiện để đạt mục đích riêng; trong khi đó, chúng ta thường mến mộ với kiểu thiên vị, bè phái, loại trừ tha nhân, và có thái độ rút gọn, giảm thiểu anh chị em dựa trên não trạng hẹp hòi, thiển cận của cá nhân. Đức Ki-tô hằng quan tâm, an ủi vỗ về những ai bé mọn, nghèo hèn, những ai bị bỏ rơi trong quên lãng do thái độ dửng dưng, phớt lờ của con người cũng như cộng đồng xã hội. Ngài luôn thương xót, tha thứ cho kẻ tội lỗi biết ăn năn trở về; Ngài đón nhận hết thảy những ai bị ‘nhốt trong tường luỹ ngăn cách của hận thù, mê muội, vô tri’, cũng như ôm trọn tất cả mọi người có lòng thiện chí, hy sinh, dấn thân cho công lý-hoà bình-công ích, v.v…Như vậy, khi tôi được trao áo cưới để tham dự tiệc Nước Trời, thì tôi phải mặc lấy Đức Ki-tô, mặc lấy con người của Ngài trong mọi phương diện.
Quả vậy, nhờ mặc lấy Đức Ki-tô, và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, mà Thánh Tông đồ Phao-lô dám quả quyết với giáo đoàn Phi-líp-phê: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi…” (x. Pl 4, 13), và đanh thét hơn “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (x. Gl 2, 20). Thánh nhân đã được nhận chiếc áo cưới, và khoác nó trên mình, đến độ chẳng rời xa bao giờ. Ngài giữ nó mãi tinh tuyền như con người Đức Ki-tô; ngài mặc nó trong mọi hoàn cảnh, mọi thời khắc; ngài chia sẻ Tin Mừng (chính Đức Ki-tô Giê-su) và tất cả những gì thuộc về Đức Ki-tô cho anh chị em khác, bất luận Do Thái hay Hy Lạp, tín hữu hay dân ngoại, tự do hay nô lệ, vượt xa hết thảy định kiến thấp hèn của con người về sắc tộc, ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo. Còn bạn và tôi, là Ki-tô hữu, chúng ta cũng đã được khoác trên mình chiếc áo cưới trắng ấy. Chúng ta sẽ mặc nó mãi, giữ cho nó tinh tuyền, và chia san mọi nét phú túc vinh sang của nó qua cuộc sống hằng ngày, qua môi trường làm việc, gặp gỡ mọi người, qua các lĩnh vực chuyên môn của chúng ta chứ? hay ngược lại, trở nên nhát đảm, cất giấu như hình ảnh người không mặc y phục lễ cưới trong dụ ngôn, hoặc phủ lên nó những gì trần tục, chóng qua của vật chất, danh vọng, thành đạt hão huyền, tệ hơn là đánh mất, vứt bỏ nó như thể nền văn hoá ‘vứt bỏ/bỏ đi/huỷ hoại’ ngày nay, thứ văn hoá mà Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô khuyến cáo nhiều lần (x. Thông điệp Fratelli Tutti số 18 và 19 [theo bản dịch của tác giả viết bài suy niệm này]).
Sau cùng, chúng ta cùng mượn lời của Thánh Tông đồ Phao-lô trong gửi cho giáo đoàn Ga-lát mà chung lời nguyện xin: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3, 27).
Chiếc áo cưới tinh tuyền Chẳng được mua bằng tiền Nhưng chính nhờ Bửu Huyết Rửa sạch hết tội nhơ. Bạn và tôi ghi nhớ: Khoác áo cưới mỗi ngày Mặc lấy con người Thầy Yêu thương và tha thứ Dự tiệc cưới Nước Trời. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Trong Tin mừng Chúa nhật 28 Thường niên năm A chúng ta được nghe một (hoặc hai) dụ ngôn TN 28-A172
Trong Tin mừng Chúa nhật 28 Thường niên năm A chúng ta được nghe một (hoặc hai) dụ ngôn về Nước Trời. Như câu chuyện về các tá điền sát nhân trước đó, dụ ngôn tiệc cưới đề cập và phê phán các nhà lãnh đạo Do Thái, đồng thời đưa ra những nhận định về cách thức để được vào và ở lại trong Nước Trời.
Sách Bài đọc có sự chọn lựa bài Tin mừng bản ngắn (22,1-11) và bản dài (22,1-14) vì phần kết thúc của dụ ngôn không rõ ràng. Bài Tin mừng bản ngắn là cấu trúc tiêu chuẩn của một dụ ngôn về Nước Trời. Nhà vua (Thiên Chúa Cha trên trời) tổ chức một bữa tiệc cho con trai mình (Chúa Giêsu). Những người đầy tớ (các ngôn sứ) mời nhiều khách dự tiệc (các nhà lãnh đạo Do Thái). Tuy nhiên các vị khách bỏ đi và một số khách mời này đã ngược đãi và giết hại các đầy tớ, đây là một ẩn dụ ám chỉ những ai chối bỏ các ngôn sứ.
Sau khi bữa tiệc bị gián đoạn, nhà vua “liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu hủy thành phố của chúng”. Điều này thường được giải thích là ám chỉ việc đế quốc La mã tàn phá Giêrusalem khoảng 40 năm sau khi Đức Giêsu qua đời. Thánh Matthêu sắp xếp việc tàn phá có tính lịch sử thành phố của những khách mời không dự tiệc cưới như sự trừng phạt của Thiên Chúa.
Sau khi tàn phá thành phố, vua nói với các đầy tớ rằng những khách được mời đã không xứng đáng, vậy nên mời những vị khách mới (có thể là những người lắng nghe Tin mừng) ở ngoài đường. Những vị khách mới, kẻ xấu cũng như người tốt, lấp đầy phòng tiệc. Nếu kết thúc ở chỗ này, dụ ngôn cho rằng tất cả mọi người, cả tốt lẫn xấu, đều được mời gọi lắng nghe sứ điệp Tin mừng. Dụ ngôn này trong Tin mừng Luca kết thúc ở đây (Lc 14,16-24) cho thấy các câu tiếp theo của Tin mừng Matthêu (22,11-14) có lẽ đã được tách rời ngay từ ban đầu.
Nơi những câu kết thúc (22,11-14) của bản dài trong Matthêu, vua gặp thấy một trong những khách mời không mặc trang phục tiệc cưới. Vua phê phán trang phục anh mặc và ra lệnh giam anh vào ngục tối, nơi phải khóc lóc và nghiến răng (hỏa ngục).
Rất khó để đọc những câu kết thúc của bản dài nơi Matthêu như một dụ ngôn liên tục vì phản ứng của vua đối với vị khách không mặc đúng trang phục có vẻ kỳ quặc và vô lý. Nếu vị khách mới này được gọi từ đường phố vào phòng tiệc, anh sẽ không ngờ mình dự tiệc cưới để ăn mặc cho chỉnh tề. Trong khi việc không mặc lễ phục cưới dường như là một phần của bối cảnh dụ ngôn, bản văn gây khó hiểu về việc anh thiếu lễ phục cưới dẫn đến phải chịu hình phạt. “Lễ phục cưới” của anh có thể ám chỉ sự cởi mở đón nhận Tin mừng hoặc sự sẵn lòng cho cuộc sống mới trong Đức Kitô. Bởi vì người đàn ông không thể nói gì khi được hỏi về trang phục của mình, điều này có thể cho thấy anh không chuẩn bị hoặc không sẵn sàng thích ứng bản thân và cuộc sống để vào Nước Trời.
Nếu các câu cuối cùng được tách rời như một dụ ngôn tương tự để giúp giải thích phản ứng của vị vua đối với khách mời này hơn là được xem như phần tiếp tục câu chuyện. Trong trường hợp như vậy anh đã thuộc thành phần khách được mời từ ban đầu và ăn mặc chỉnh tề cho tiệc cưới. Như thế, không làm rõ được những gì lễ phục cưới muốn chuyển tải, nhưng là giải thích sự trừng phạt của vị vua vào cuối câu chuyện.
Mặc dù hơi khó hiểu, dụ ngôn minh họa sự cởi mở của Thiên Chúa với tất cả mọi người, không chỉ với một số người được tuyển chọn. Tuy nhiên, mặc dù Chúa mời gọi tất cả mọi người, nhưng dụ ngôn cho thấy khách mời phải sẵn sàng và sẵn lòng làm những gì cần thiết để thưởng thức bữa tiệc. Chấp nhận lời mời là bước đầu tiên, nhưng những người được “chọn” là những ai không chỉ chấp nhận Tin mừng mà còn sống theo sứ điệp của Tin mừng. Nguồn tin: https://www.americamagazine.org/faith/2020/09/18/are-you-ready-gods-feast
Tin mừng Mt 22, 1-14: Dụ ngôn này thể hiện những lời Thiên Chúa mời gọi dân được tuyển chọn. Được tuyển chọn nhưng dân Do Thái lại không sẵn sàng đi vào Nước Trời hưởng vinh quang, hạnh phúc với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu. Chính vì thế Thiên Chúa đã thay đổi ý định: dành Nước Trời cho các dân tộc khác.
Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe dụ ngôn tiệc cưới. Tất cả nhân loại được mời tham dự TN 28-A173
Tin mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe dụ ngôn tiệc cưới. Tất cả nhân loại được mời tham dự tiệc cưới này, có nghĩa là vào Nước Trời mà chính Đức Kitô đã đến thiết lập trên trái đất. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của nỗi buồn, Ngài là Thiên Chúa của niềm vui và hạnh phúc. Ngài luôn âu yếm mời gọi con người chia sẻ niềm vui với Ngài, trao ban hạnh phúc của Ngài cho nhân loại. Thiên Chúa đã sẵn sàng ; còn bản thân con người thì sao? Có hân hoan, chân thành nhận lời Thiên Chúa hay không? Tất cả tùy thuộc vào thái độ đức tin của mỗi người. Mỗi người có biết bỏ qua những bận tâm, lo toan của cuộc sống, những đam mê dục vọng xác thịt, những quyến rũ của trần gian để tiến vào Nước Trời hay không?
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 25,6-9
Yến tiệc Đấng Messia
Để gợi lên và ca tụng hạnh phúc mà Thiên Chúa tuôn đổ trên các dân tộc vào ngày viên mãn, Tiên tri Isaia đã dùng những hình ảnh rất cụ thể của một bữa tiệc thịnh soạn Thiên Chúa thết đãi muôn dân.
a. Đại yến tiệc được thết đãi trên núi cao với rượu thịt thơm ngon là hình ảnh gợi đến các mối phúc mà những người bạn của Chúa sẽ đón nhận trong Vương quốc của Ngài.
b. Khăn tang, vải liệm bị xé đi, mọi khuôn mặt được Chúa lau sạch nước mắt, mọi tủi hổ sẽ bị cất đi… là những biểu trưng cho chiến thắng của Chúa trên đau khổ và sự chết. Chính Thiên Chúa là Đấng giải phóng muôn dân.
c. Âm hưởng và tâm tình của bản văn giàu chất thi ca mang lại cho người đọc một sự an ủi, một niềm hy vọng, một niềm tin trong đau khổ.
2. Bài đọc II: Pl 4,12-14.19-20
Những lời tạ ơn của Phaolô
Phaolô cảm ơn sự giúp đỡ của cộng đoàn Philipphê đã nâng đỡ ngài trong suốt thời gian bị cầm tù ở Rôma, mặc dầu nhờ sức mạnh của Chúa Giêsu, ngài vẫn có thể vượt qua được.
a. Với Phaolô, những tình cảnh khó khăn người Tông đồ gặp phải là những cơ hội giúp người Tông đồ học biết cuộc sống, học biết chịu đựng.
b. Có thể làm được mọi sự, chịu đựng được mọi hoàn cảnh là nhờ gắn bó với Chúa Giêsu. Trong Người là Đấng ban sức mạnh, chúng ta có thể làm được mọi sự.
c. Tuy dựa vào sức mạnh của Chúa Giêsu Kitô, nhưng Phaolô vẫn quí trọng và biết ơn anh chị em giáo đoàn Philipphê đã yêu thương chăm lo cho ngài. Họ đã hành động chí lý khi chia sẻ nỗi quẫn bách của ngài.
3. Tin mừng: Mt 22,1-14
Dụ ngôn tiệc cưới
Dụ ngôn này thể hiện những lời Thiên Chúa mời gọi dân được tuyển chọn. Được tuyển chọn nhưng dân Do Thái lại không sẵn sàng đi vào Nước Trời hưởng vinh quang, hạnh phúc với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu. Chính vì thế Thiên Chúa đã thay đổi ý định: dành Nước Trời cho các dân tộc khác.
a. Cùng với dụ ngôn tá điền sát nhân (Mt 21,33-43), dụ ngôn tiệc cưới trình bày những khía cạnh khác nhau về mầu nhiệm Nước Trời. Sự tương đồng giữa ông chủ vườn nho và nhà vua ; hình ảnh người con trong cả hai dụ ngôn ; chi tiết các gia nhân đều bị ngược đãi, sát hại cho thấy hướng đi rõ rệt của tác giả Tin mừng. Chủ vườn nho và ông vua là nói về Chúa Cha. Người Con là chính Chúa Giêsu và gia nhân là các Tiên tri. Còn những người được mời là dân bất trung.
b. Hình ảnh bữa tiệc cưới, chắc chắn được vay mượn từ Cựu ước nơi Is 25,6 ; 55,1-3, diễn tả tính cách ban không của ơn cứu độ. Thật là một hồng ân khi được Thiên Chúa mời gọi vào tham dự hạnh phúc, sự sống và tình yêu Nước Trời.
c. Hình ảnh tiệc cưới là hình ảnh của niềm vui, người được mời dự tiệc cưới hoàng tử là cả một vinh dự. Vậy mà những người được mời lại từ chối, thậm chí còn tệ hại hơn khi bách hại giết chết cả những gia nhân đi mời khách. Họ dứt khoát từ chối, theo Matthêu đó là một sự thờ ơ, một thái độ hờ hững xem thường Thiên Chúa, khiến Thiên Chúa phải nổi giận và làm cho người được mời trở nên không xứng đáng dự tiệc cưới, họ sẽ bị loại trừ. Và thay cho họ là tất cả mọi hạng người không phân biệt tốt xấu. Ơn cứu độ của Chúa sẽ cất khỏi dân Do Thái để ban cho mọi dân tộc khác.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Dụ ngôn tiệc cưới mạc khải tính phổ quát của ơn cứu độ:
Nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử ; theo lẽ thường tình, được mời quả là một vinh hạnh lớn lao, người ta chắc hẳn sẽ không thể bỏ qua cơ hội này để thăng tiến trên đường danh vọng. Nhưng trong dụ ngôn thì lại trái ngược hẳn, người được mời thờ ơ với lời mời, thậm chí còn khó chịu và bách hại hay giết chết những sứ giả vua sai đi mời. Phải chăng đây là ông vua bị thất sủng? Phải chăng khách được mời muốn làm một cuộc lật đổ? Những vấn đề đặt ra không có ý nghĩa gì vì khi trình bày dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn trình bày một mầu nhiệm tôn giáo, một vấn đề đức tin. Ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho mọi người, mọi dân tộc. Điểm trọng tâm của dụ ngôn chính là việc sau khi khách được mời từ chối dự tiệc, nhà vua liền sai người đi khắp mọi nẻo đường, mời bất cứ ai, bất luận tốt xấu. Cách diễn tả này chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi người, Ngài mời mà không lựa chọn, không đòi hỏi, để tất cả đều có cơ hội đi vào Nước Trời. Những người được mời gọi là những lớp người của mọi dân tộc qua mọi thời, ở khắp nơi trong cuộc sống trần gian này. Ngài mời gọi người lương thiện cũng như kẻ bất lương ; với người công chính cũng như người tội lỗi. Vào Nước Trời không tùy thuộc nòi giống hay văn hóa, nhưng căn cứ vào sự trở lại, hoán cải canh tân đời sống và biết vui vẻ đón nhận ý Chúa.
Giáo hội chính là nơi qui tụ mọi người đến dự bàn tiệc Thiên Quốc. Giáo hội nhất định không phải là nơi qui tụ những con người thập toàn, những con người ưu tú. Nhưng là nơi đón nhận mọi hạng người, để rồi nhờ ơn Chúa cứu độ sẽ biến đổi tất cả nên những con người xứng đáng đi vào hưởng hạnh phúc, vinh quang và sự sống của Thiên Chúa.
2. Từ việc được mời dự tiệc cưới đến việc tham dự, một biểu lộ của tình yêu:
Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, nhưng họ đã từ chối đặc ân dành cho họ. Hình ảnh những người được mời dự tiệc trong dụ ngôn ám chỉ trực tiếp đến họ, những người dân Israel. Vấn đề ở đây chính là sự thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới: người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi… Người ta có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu người ta cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, là một sự quí mến được đón nhận từ người mời, nhưng đáp lời mời tham dự là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là nói lên tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người dành cho Thiên Chúa.
Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người. Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận bịu với những sinh họat xã hội để từ chối cầu nguyện, từ chối tham dự thánh lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa. Kitô hữu cần phải xét mình lại thái độ của bản thân mình trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa.
Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thết đãi chúng ta, cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường, hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng tiệc Thánh của Chúa, chắc chắn mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu để gánh vác cuộc sống mình ngày càng tốt hơn.
Tin mừng Mt 22, 1-14: Ăn năn hoán cải, thực lòng sám hối trở về cùng Chúa, đó chính là chiếc áo cưới Thiên Chúa đòi chúng ta khi chúng ta bước vào Bàn Tiệc của Ngài.
Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Chúa Giêsu thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch TN 28-A174
Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Chúa Giêsu thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách. Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (21,23). Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu họ còn lẩn tránh câu hỏi của Người hỏi: "Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (21,24). Trong bối cảnh gay cấn như vậy, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để cảnh báo họ:
- Dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho (Phúc Âm Chúa nhật 26). - Dụ ngôn những tá điền sát nhân ( Phúc Âm Chúa nhật 27). - Dụ ngôn tiệc cưới (Phúc Âm Chúa nhật 28).
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
1. Đức vua ám chỉ Thiên Chúa; 2. Tiệc Cưới chỉ Nước Trời; 3. Các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc là các ngôn sứ, trong đó có Đức Giêsu; 4. Các quan khách ưu tiên được mời mà không thèm đến đó là Dân Do Thái; 5. Những người ở ngoài đường được mời dự tiệc đó là Dân Ngoại gồm các dân tộc của mọi thời.
Dụ ngôn Tiệc Cưới trong bài Tin Mừng hôm nay có hai chủ ý:
- Chủ ý thứ nhất: Ơn cứu độ hay Nước Trời ưu tiên dành cho người Do Thái, nhưng người Do Thái đã tỏ ra hờ hững, bất xứng với sự ưu tiên ấy, vì thế, sự ưu tiên ấy đã được trao cho các dân tộc khác.
- Chủ ý thứ hai là: để vào Nước Trời, cần phải có một nỗ lực cá nhân để trở nên xứng đáng với Nước Trời, tức là phải mang áo cưới.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài mở rộng cửa để đón tiếp mọi người vào dự bàn tiệc Nước Trời. Lời mời gọi có tính cách rộng rãi. Ngài mời gọi mọi người không trừ ai, dù tốt dù xấu, miễn là phòng tiệc phải đầy người. Nhưng một số người từ chối.
Thánh Matthêu ghi lại hai lý do: "người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán". Thánh Luca thì ghi rõ hơn, tới ba lý do: "Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được" (Lc 14,18-19)
Ba lý do trong Luca có thể gom thành hai loại
- Quá mê làm ăn có thể kéo ta xa Chúa. - Quá lo thụ hưởng cũng có thể kéo ta xa Chúa.
Thực ra hai điều ấy không cấp bách đến nỗi phải lập tức làm ngay để đành từ chối lời mời ưu ái của nhà vua. Tuy nhiên, đó là hai nguyên do khiến nhiều người chối từ lời mời của Thiên Chúa.
Trước sự từ chối của dân Do Thái, Thiên Chúa quay sang Dân Ngoại, mời họ vào Nước Trời cho thật đông để họ được thưởng thức những cao lương mỹ vị mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ. Tuy nhiên, muốn vào dự tiệc Nước Trời cũng phải có điều kiện đó là phải mặc áo cưới.
Chúng ta có thể coi chiếc áo cưới là phần nối tiếp của dụ ngôn khách mời dự tiệc, hoặc coi như là một dụ ngôn riêng. Tuy coi là dụ ngôn riêng nhưng cũng là câu chuyện nối tiếp và giải rộng ý nghĩa câu chuyện trước, trong câu truyện ở đây có một thực khách đến dự tiệc của nhà vua, nhưng không mặc lễ phục, nên đã bị tống giam.
Điều này chắc phải làm chúng ta thắc mắc: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo cưới mà mặc. Chúng ta nên nhớ đây là một dụ ngôn, nghĩa là các chi tiết ám chỉ đến một ý nghĩa nào đó. Nếu bữa tiệc cưới là hình ảnh của Nước Trời, thì chiếc áo cưới tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Tự nhiên được mời vào Nước Trời đã là một hồng phúc, cho nên để đáp lại thì phải có một nếp sống phù hợp với Nước Trời.
Chiếc áo cưới ở đây tượng trưng cho cách sống. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh Kinh thời nay, thì chiếc áo cưới chính là sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
Ăn năn hoán cải, thực lòng sám hối trở về cùng Chúa, đó chính là chiếc áo cưới Thiên Chúa đòi chúng ta khi chúng ta bước vào Bàn Tiệc của Ngài như người Hồi Giáo thường kể rằng:
Ngày kia Đức Allah truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đến ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng, sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Allah. Nhưng xem ra Đức Allah không bằng lòng mấy, Ngài bảo:
- Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quí giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời.
Lần này Đức Allah mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra vẫn chưa hài lòng, Ngài nói:
- Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần người đàn ông giải thích:
- Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hàng ngày của tôi.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Allah chăm chỉ nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói:
- Thế là người đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu.
Đức Allah của người Hồi Giáo mỉm cười trước những giọt nước mắt sám hối, còn Chúa Giêsu thì quả quyết: “Cả thiên đàng sẽ hân hoan vì một tội nhân hối cải”.
Mọi người chúng ta đều là tội nhân. Vì thế mà từng người chúng ta đều có vinh dự đem lại niềm vui cho Thiên Chúa và thần thánh trên trời.
Thiên đàng tuy đã tràn đầy hạnh phúc của Thiên Chúa, nhưng mỗi khi chúng ta ý thức được tội lỗi mình và thành tâm sấm hối là mỗi lần chúng ta hòa nhập vào niềm vui thiên quốc và làm cho niềm vui ấy như tràn đầy thêm lên.
Quả thực lòng sám hối chính là chiếc áo cưới Thiên Chúa đòi chúng ta khi bước vào Tiệc Cưới Nước Trời như bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
Tin mừng Mt 22, 1-14: Hình ảnh “bữa tiệc” trong Thánh Kinh nhằm nói đến hạnh phúc Thiên quốc, mà những người dự tiệc là những người được hưởng hạnh phúc ấy.
Suy niệm
Hình ảnh “bữa tiệc” trong Thánh Kinh nhằm nói đến hạnh phúc Thiên quốc, mà những người dự TN 28-A175
Hình ảnh “bữa tiệc” trong Thánh Kinh nhằm nói đến hạnh phúc Thiên quốc, mà những người dự tiệc là những người được hưởng hạnh phúc ấy.
Bài đọc thứ I trích sách Tiên tri Isaia với lời ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng trong thành thánh Giêrusalem Thiên quốc vào thời Cánh chung. Khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ ban ơn cứu độ cho mọi người. Nhờ Ngài mà mọi đau khổ và sự chết sẽ không còn chỗ tồn tại trong trong Thiên quốc.
Qui chiếu với đoạn Tin mừng kể về dụ ngôn Tiệc Cưới. Một người được mời đến dự tiệc cưới là một vinh dự được chia sẻ niềm vui với gia chủ, huống hồ đây lại là tiệc cưới của vị hoàng tử do chính nhà vua chuẩn bị để thết đãi cho các vị quan trong triều. Nhà vua trân trọng các quan khách tới nỗi sau khi gởi thiệp mời, tới ngày giờ còn ưu ái sai đầy tớ chạy tới nhắc. Nhưng ngặt một nỗi, những quan khách được mời lại chẳng nể mặt: “Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi.”
Cuộc sống của chúng ta có thể rơi vào một trong những lối sống sau đây đối với việc giữ đạo:
Lối sống thứ nhất là đi thăm trại: Nên nhớ đây là những ông chủ. Họ có các đầy tớ để giúp họ chăn nuôi, chăm sóc, cày cấy. Thế mà họ lấy lý do chẳng chính đáng, dám coi thường tiệc cưới hoàng tử trọng đại của nhà vua. Phải chăng khi nói đến hạng người này, Chúa Giêsu muốn nói về những người có trách nhiệm trên người khác. Những thành phần ưu tuyển lại bỏ bổn phận cao trọng đối với Thiên Chúa và những nhiệm vụ quan trọng đối với anh chị em mình. Họ chỉ lo tìm tư lợi mà thôi.
Lối sống thứ hai là đi buôn: Một công việc kiếm lời, mải mê kiếm tiền cạnh tranh từng đồng bạc, từng tấc đất… Họ chẳng cần tình nghĩa tương quan gì với nhà vua. Phải chăng đó là lối sống của một số người trong chúng ta quá cuốn hút theo đồng tiền để rồi không còn thời giờ cho Chúa. khiến chúng ta trở nên những kẻ hà tiện giờ giấc với Chúa từng chút một, đi lễ tới trễ, lúc về lại sớm nhất.
Lối sống thứ ba là bắt bớ, xỉ nhục và giết người vô tội. Có những người thật khinh thường tới nỗi sẵn sàng bách hại những người đầy tớ được vua sai đi mời. Ho sống bất chấp lương tâm, sẵn sàng bách hại đạo Chúa đến nỗi đã khiến cho những tiên tri được sai đến bị đổ máu, thậm chí những thánh nhân tử đạo do những người hẹp hòi, mù quáng, độc tài, loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình một cách thẳng thừng.
Còn với mỗi người chúng ta, vẫn luôn luôn có những lời từ chính Thiên Chúa mời gọi tôi đến giáo đường vào ngày Chúa nhật. Hơn nữa, Giáo hội đã nới rộng Thánh lễ Chúa nhật từ chiều ngày thứ bảy hôm trước. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật làm cho mình mất tự do. Xào qua tính lại, chúng ta dễ có nguy cơ để cho cuộc hẹn giữa mình với Chúa đứng ở chỗ cuối. Chẳng hạn với người lớn tuổi thì nào là “tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để tập dưỡng sinh đông đủ với nhau, để cà phê đánh cờ, có ngày Chúa nhật con cái cháu chắt tụ về nên tôi phải dành thời giờ đi chợ nấu nướng cho chúng trước đã”. Với người có gia đình thì nào là “ chỉ có ngày nghỉ cuối tuần để cả mà tôi di du lịch thư giản”, hay “tôi còn phải tập gym, yoga cho eo thon chắc khỏe, tôi có team bóng đá và quần vợt, hay sửa chữa máy móc trong nhà, dọn dẹp bếp núc, lau dọn nhà cửa hết ngày”. Với người độc thân vui tính thì tối thứ bảy máu chảy về tim nên ngày Chúa nhật thật uể oải. Và rồi, với học sinh sinh viên thì nào là bài tập phải làm và chuẩn bị ôn thi, và không thiếu các lớp nâng cao ở các trung tâm”…
Những điều được cho là quá tự nhiên và không kém phần quan trọng nên cũng dễ xếp đặt các giờ phút gặp gỡ với Chúa, các việc đạo đức của đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện… vào những giờ phút thừa thải, những ngày giờ chẳng còn công chuyện gì để làm. Dần dà mỗi ngày một chút, người ta không còn cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, đọc kinh, thánh ca… để rồi một ngày nọ tự thấy rằng “Tôi không còn thì giờ để cầu nguyện nữa…” Chúa không hề trách vì chúng ta lo cho cuộc sống vật chất. Nhưng lo đến nỗi quên hẳn cuộc sống mai sau thì thật đáng trách.
Ơn cứu độ của Chúa dành cho hết thảy mọi người. Vì thế nếu như những người trong chúng ta có Đạo mà sống bê tha thì xem ra chỗ của chúng ta được Chúa dành cho người khác, những người lương dân thành tâm tìm Chúa. ‘ “Hãy ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.’
Nhà chú giải Th. Matura nhận định: “Cách diễn tả này chứng tỏ rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, Người lựa chọn mà không đòi hỏi, nhưng chỉ vì lòng thương xót.” Tuy nhiên, có chi tiết hơi lạ là gia nhân ra các nẻo đường, gặp ai bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại vào phòng tiệc, thì những người ấy lấy đâu ra giờ mà thay đồ? Tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Đoan Tin mừng mang ý nghĩa mà theo Matura lý giải: “Họ phải cảnh giác đối với ý nghĩ cho rằng chỉ cần được gọi và đáp lại Tin Mừng là bảo đảm được rỗi linh hồn. Không cần phải tuyên xưng danh Đức Kitô. Thực ra, tham gia vào cộng đồng của người (tức là chịu phép Rửa dể được vào phòng tiệc), các tín hữu còn cầm phải chu toàn các công việc mà đức công chính mới đòi hỏi. Nếu không dù là đã được nhận vào phòng tiệc rồi, người ta vẫn có nguy cơ bị ném ra ngoài bị loại trừ vĩnh viễn khỏi Nước Trời” (O.C. trang 25).
Chúng ta hãy suy nghĩ về chiếc áo chính là cách sống hiện tại của chúng ta: Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo, cách sống của những người không được ở trong phòng tiệc không?
Dựa vào dàn bài tổng quát của các chương 21-22, hãy nêu lên đặc tính tranh luận của 3 dụ ngôn TN 28-A176
1. Dựa vào dàn bài tổng quát của các chương 21-22, hãy nêu lên đặc tính tranh luận của 3 dụ ngôn nhắm biện minh cho ý định Thiên Chúa:
– Dụ ngôn hai người con (21, 28-32) phân biệt các tội nhân bất tuân đích thực trong dân Israel.
– Dụ ngôn các tá điền sát nhân (21, 33-43) lật tẩy mưu đồ sát nhân của người Do thái và loan báo Thiên Chúa sắp có chương trình chuyển giao sứ mạng của người Do thái cho dân ngoại.
– Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia (22, 1-14) gom góp vào trong một bức tranh vĩ đại các dữ kiện của hai dụ ngôn trước (khước từ vâng phục, sát hại Người Con, tiêu diệt quân giết người, kêu gọi những kẻ khác).
Đọc lại cả ba dụ ngôn ấy và xác định độ cao dần của chúng… (làm việc, thu hoa trái, đến dự tiệc v.v…)
2. Trên phương diện nội dung thần học, có tiến triển từ dụ ngôn này qua dụ ngôn khác không?
3. So sánh dụ ngôn tiệc cưới với dụ ngôn song song trong Lc 14, 16-24. Có sự khác biệt nào? Dụ ngôn nào có hậu cảnh Cựu ước phong phú hơn?
4. Dụ ngôn của Mt có thể kết thúc dễ đàng ở c.10 không? Phải chăng ta có thể nói đến một dụ ngôn thứ hai với các câu 11-14? Với mục đích nào Mt đã chèn các câu ấy vào đây?
5. Phải chăng câu 14 muốn nói rằng phần lớn nhân loại sẽ bị án phạt?
6. Lấy tính cách có vẻ thực và các chủ (đề Cựu ước làm tiêu chuẩn nhận định, hãy phân biệt trong dụ ngôn này đâu là những nét có tính cách dụ ngôn và đâu là những nét có đặc tính ẩn dụ?
1. Ta thấy ngay dụ ngôn này có bà con với dụ ngôn trước. Vì bên kia là một chủ nhà có thửa vườn nho, bên này là một ông vua khoản đãi bữa tiệc. Gia chủ hai lần đã sai tôi tớ đi thâu hoạch hoa màu thuộc về ông, nhà vua cũng sai gia nhân hai lần đi mời khách dự tiệc đến. Trong cả hai trường hợp, các gia nhân không đạm được mục đích, lý do là vì lòng độc ác của những người mà họ được phái đến. Trong cả hai câu chuyện đâu có nói tới “người con”. Trường hợp đầu, đó là kẻ sau cùng được sai đến; trường hợp sau, đó là kẻ mà người ta chuẩn bị tiệc cưới cho; và trong cả hai, các gia nhân đều chịu ngược đãi và cuối cùng bị sát hại. Các điểm tương đồng đó giữa hai câu chuyện đã lôi kéo sự chú ý của chúng ta vào một đường hướng rõ rệt có chủ ý của tác giả Tin Mừng. Chủ vườn nho và ông vua cùng một nhân vật: Cha trên trời; người con thì rõ ràng là Đấng đã tự xưng mình là “Con” (11, 27) ; các gia nhân trong hai trường lợp làm ta nghĩ tới những kẻ được Thiên Chúa sai đi, nghĩa là các ngôn sứ ; còn những kẻ được mời là dân bất trung đã quản lý không tốt vườn nho.
Nhưng cách sắp đặt câu chuyện hàm chứa điều khác trong dụ ngôn các tá điền, đó là vấn đề một yêu sách công bằng thuần túy, còn ở đây là một lời mời, một vinh dự ban cho kẻ nào đó. Trên kia, người chủ kỹ lưỡng đòi phần hoa lợi của mình, còn ở đây thì ông vua đại lượng và hào phóng muốn cho con thật nhiều người chia sẻ niềm vui tiệc cưới của con ông. Màu sắc quả tươi sáng hơn trong dụ ngôn mới. Thái độ lãnh đạm – nếu không muốn dùng một từ ngữ mạnh hơn – do đó đắc tội hơn nhiều. Vì không còn phải là vấn đề vi phạm một quyền lợi nữa, nhưng là một sự xúc phạm danh dự nặng nề Người ta thích các công việc đồng áng hay bán buôn thường ngày hơn một lời mời dự bữa tiệc thịnh soạn. Nhưng thái độ thờ ơ lãnh đạm ấy đã biến sang thái độ đối nghịch hận thù mà không rõ tại sao. Phải chăng vì các kẻ được mời cho rằng mình bị gia nhân sách nhiễu nên đã ngược đãi và giết chết họ? Và người ta có thể tự đặt cho mình cái câu hỏi mà Chúa Giêsu vừa nêu lên trước đó cho các kẻ chống đối Người: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ xử với những tá điền ấy ra sao? (21, 40). Câu trả lời không còn đựơc đưa ra như một sự đe dọa bằng lời nói nữa, nhưng là một hành động trừng phạt. Có sự đi lên từ dụ ngôn này qua dụ ngôn kia vậy.
2. Ông vua phản ứng bằng một cuộc xuất chinh tàn phá. Ông huy động binh lính và sai họ đi. Họ có sứ mạng tru diệt lũ sát nhân và thiêu hủy thành của chúng. Một độc giả chăm chú sẽ khó chấp nhận sự gia trọng đột ngột tình thế này. Hình như các người được mời đều thuộc thành phố nơi đang xảy ra bữa tiệc. Vậy thì phải chăng tất cả thành sẽ bị tiêu diệt cùng với mọi kẻ vô tội đang ở bên trong, trong lúc thật ra chỉ có lũ sát nhân mới đáng bị sự báo thù cay nghiệt ấy? Phải chăng những kẻ sát nhân không chỉ là dăm ba người trong số các khách được mời? Phải chăng những kẻ chỉ cho biết rằng họ không quan tâm đến lời mời mà chỉ thích làm công việc riêng, cũng phải chịu một hình phạt như mấy kẻ sát nhân kia? Những câu hỏi vừa nêu cho thấy rằng có một sự gián đoạn bên trong câu chuyện ở câu 7. Hẳn là có một cái gì khác hơn cái mà dụ ngôn nói tới ban đầu. Vì nếu người ta tiếp tục câu chuyện một cách hợp lý, thì phải nhảy sang ngay việc mời những người khác, những tân thực khách. Thành thử cuộc xuất binh chinh phạt xuất hiện như một vật thể xa lạ trong câu chuyện.
Hình như ở đây thánh sử liên tường đến việc tiêu diệt thành Giêrusalem vốn đang xảy ra lúc ông soạn thảo bản văn. Chỉ có điều ấy mới có thể giải thích được tầm mức quan trọng của cuộc xuất binh chinh phạt và sự tiêu diệt toàn thành. Vào năm 70 sau Chúa Kitô, Giêrusalem bị đốt cháy cùng bị san bằng tận gốc. Và các kẻ sát nhân không phải chỉ là một vài người như bản văn đòi hỏi để có thể chấp nhận được, nhưng là tất cả mọi tá điền đã giết chết người con sau khi đã cùng nhau bàn tính (21, 38-39). Rõ ràng là một trình thuật do truyền thống truyền đạt đã được tác giả giải thích ở đây, một lối giải thích rút từ một biến cố thời sự. Mt nghĩ rằng phải giải thích lời Chúa Giêsu như thế và ông hoàn toàn ý thức việc ông làm. Cái ông cho chúng ta, không phải chỉ là chứng từ trung thực về những lời nói của Chúa Giêsu đã được chuyển cho ông, nhưng còn là cách giải thích các lời đó cho mọi phần tử trong các cộng đoàn đầu tiên của Giáo Hội. Hai khía cạnh ấy có liên quan mật thiết với nhau. Vì chỉ có lời được hiểu và được giải thích do Giáo Hội xuất phát từ các sứ đồ mới có thể xem như là Lời Chúa đối với chúng ta, lời được Thánh Thần linh ứng và liên hệ đến chúng ta tất cả.
Thành thử đối với Mt, việc Giêrusalem bị phá hủy điêu tàn là một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên tội Israel cứng lòng và giết chết Đấng Messia. Như ta đã biết, có nhiều cách giải thích các biến cố của lịch sử. Các ngôn sứ đã giải thích lịch sử dưới ánh sáng đức tin và các tác giả Kinh Thánh đã làm công việc của sử gia chính theo viễn tượng ấy, trong Cựu ước cũng như trong Tân ước. Trong Cựu ước, người ta gặp nhiều lối giải thích khác nhau về cùng một biến cố, tùy theo khả năng hiểu biết, quan niệm và bối cảnh lịch sử của soạn giả. Trong Tân ước cũng vậy, vì chân lý của lịch sử luôn luôn lớn hơn và đầy đủ hơn các cố gắng khác nhau để tường thuật lịch sử trong toàn bộ của nó. Thành thử ta có thể giải thích sự phá hủy thành Giêrusalem như là một hình phạt, nhưng đừng quên rằng đó chỉ là một trong số nhiều cách giải thích.
3. Các gia nhân có nhiệm vụ kêu mời những người khác mà không được chọn lựa. Họ được lệnh đem bào phòng tiệc những ai họ bắt gặp trên đường. Việc này đã thực hiện và phòng tiệc không mấy chốc tràn ngập đủ mọi hạng khách ăn cưới. Các người mới được mời thật hỗn tạp, nhưng sự hỗn tạp này chẳng phải do khác biệt về y phục, về địa vị xã hội hay do các yếu tố ngoại lai. Đó là một sự khác biệt nội tại, chủ yếu, những kẻ dữ và người lành (c.10). Và đấy là điểm kỳ dị! Sự việc chỉ có thể hiểu được từ thực thi mà tác giả của câu chuyện nghĩ đến. Lời mời đã được gởi tới cho Israel, nhưng dân này đã không muốn đón nhận, nên bây giờ nó được ngỏ cho một dân mới, không còn là một dân gồm những kẻ trong sạch và thánh thiện nữa, nhưng là một xã hội rất đa tạp gồm người dữ và người lành. Ta gặp họ, cả hai thứ trong Giáo Hội, như cỏ lùng giữa lúa. Phòng tiệc đã đầy, lời mời đã đạt được điều nó mong đợi. Tất cả mọi người đều có thể vào cách tự do. Nhưng rồi sẽ có sự phân biệt cuối cùng. Nói theo ngôn ngữ của dụ ngôn, thì lời mời tự nó không bảo rằng người ta sẽ tham dự thật sự vào hôn lễ. Trước tiên cần phải phán xét, phải phân tách cỏ lùng ra khỏi lúa đã. Đó chính là mục tiêu nhắm tới trong phần thứ hai của dụ ngôn.
Người ta thắc mắc tự hỏi làm thế nào mà một người bắt gặp giữa đường lại có thể có áo cưới được. Như thế chẳng phải là bất công lắm sao? Cái phía gây khó chịu mà ta gặp trong câu chuyện này cho thấy rõ đây muốn nói đến một cái gì khác hơn là y phục cụ thể. Chúng ta được chuẩn bị để giải thích như thế vì tác giả dụ ngôn đã ghi chú trước là trong phòng có người dữ kẻ lành. Hiển nhiên là kẻ không mặc áo cưới thuộc vào hạng người dữ. Chỉ có điểm này mới giải thích được cách đối xử mà y sắp chịu. Người ta không chỉ đuổi y ra ngoài mà còn nắm vào nơi tối tăm, chỗ khóc lóc và nghiến răng. Y bị lên án trầm luân vậy.
Vì cỏ lùng mọc bên cạnh lúa tốt trong Hội Thánh, nên có sự lựa chọn ngay trong hàng ngũ các kẻ tin. Họ đã được mời nghĩa là đã nghe tiếng gọi ngỏ với họ, nhưng không phải vì thế mà họ đương nhiên được vĩnh viễn cứu thoát. Số người được gọi rất đông, có nghĩa là người ta để cho nhiều kẻ đi vào mà không phân biệt một ai, không đặt một điều kiện nào cả. Họ chẳng cần giữ luật Môisen, chẳng cần phải cắt bì, vì lối vào: được mở rộng thênh thang. Nhưng việc tự do gia nhập này không làm nên một bảo đảm, vào trong cộng đoàn Giáo Hội chẳng có nghĩa là vào trong Nước Trời của thời thế mạt đâu. Phải phân biệt niềm trông cậy đầy tin tưởng và phó thác với tình tự phụ vô lý rằng mình sẽ nắm chắc phần rỗi. Hình như đó là sứ điệp thần học hàm chứa trong phần thứ hai này của dụ ngôn. Nó có giá trị cho mọi thời.
4. Câu kết của dụ ngôn đặt ra một vấn đề giải thích đặc biệt. Trong nhiều thế kỷ, phần lớn giáo phụ và thần học gia, dựa vào bản văn này, đã nói về số ít người được chọn như là một điều được chấp nhận cách chung chung. Nhưng dần dần, họ đã cảm thấy là cách giải thích đó khó phù hợp với cái tín điều luôn được công bố trong Thánh Kinh, là Thiên Chúa yêu thương con người với một lòng thương lạ lùng vô hạn (Ep 2, 4). Đàng khác, những tiến bộ của khoa chú giải đã cho thấy rằng rất nhiều khi, trong quá khứ, người ta đã dùng các bản văn Kinh Thánh mà không để ý cho đủ đến văn mạch, khiến đôi lúc phạm ít nhiều phản ngựa. Vì vậy người ta đã tìm cách đưa ra nhiều lối giải thích thỏa đáng hơn về câu kết luận nói trên.
Ngày nay người ta có thể thu gọn các lối giải thích được chấp nhận vào hai lối chính. Một cho rằng các “kẻ được chọn” của dụ ngôn là những người thụ hưởng một ơn đặc biệt giúp họ sống một cách thân tình với Chúa hơn những người khác và được nương dựa vào lòng thương xót dư đầy của Người đối với họ. Các kẻ được “chọn” như thế tất nhiên là số ít, trong lúc đại đa số các người “được gọi” chỉ nhận được một ơn chung mà thôi, nhưng không phải vì thế mà bị loại ra khỏi bàn tiệc Nước Trời.
Cách giải thích thứ hai, ngày nay phổ thông hơn, là cách giải thích giới hạn câu xác quyết của Chúa Giêsu vào trường hợp duy nhất của người Do thái thời Người. Trong câu nói ấy, cách giải thích bảo Chúa Giêsu chỉ nhắm các người Do thái đương thời, được gọi tất cả vào Nước Thiên Chúa biểu hiện trong bản thân Người, nhưng đại đa số đã chẳng chịu vào qua việc từ khước Đấng Messia.
Hai cách giải thích này không phải là vô giá trị, nhưng khó phù hợp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng thực khách bất xứng bị đuổi ra ngoài vì đã muốn gian lận nhập vào nhóm nhỏ người được ưu đãi; nhưng dụ ngôn quả quyết rõ ràng anh ta bị đuổi vì thiếu điều tối thiểu cần phải có để cho bữa tiệc được trang nghiêm chỉnh tề. Cách thứ hai lại càng khó thỏa mãn hơn. Thật vậy, thực khách bị đuổi đã vào với nhóm người được mời thứ hai, thành ra đó là một người ngoại chứ không phải là một người Do thái; thế nhưng chính vào lúc anh ta bị đuổi mà Chúa Giêsu mới thốt lên câu nói về số ít người được tuyển chọn. Đàng khác, dấu hiệu theo mặt chữ thì câu nói hình như bị các sự kiện làm cho mâu thuẫn, vì trong số đông thực khách, chỉ có một mình thực khách bất xứng bị đuổi ra ngoài, thì làm sao mà có thể nói đến số “ít” được tuyển chọn được?
Có một giải đáp đơn giản hơn xóa tan ngay lui khó khăn vừa nói. Nó thuộc lãnh vực ngữ học -và hệ tại chỗ giả thiết có một tỷ giảo cấp (comparatif) kiểu sêmita được dấu ẩn dưới công thức “gọi nhiều chọn ít” khiến cho ta được phép dịch là: Số người được mời gọi thì đông hơn, còn số được chọn lại ít hơn”.
Một nhận xét sơ đẳng về văn phạm hy bá cho thấy rằng hy bá không có những hình thức đặc biệt cho các tĩnh từ ở tỷ giảo cấp (comparatif) hoặc tối thượng cấp (superlatit), nên người ta phải nại đến những uyển từ (périphrase). Vì thế, trong tiếng Hy lạp của Tân ước các tĩnh từ (nguyên cấp (positif) đôi khi cũng có một nghĩa rõ rệt tỷ giảo cấp hay tối thượng cấp và chỉ có văn mạch mới giúp khám phá ý nghĩa hiểu ngầm ấy. Một ví dụ: tốt (kalon) cho nó nếu nó đã không sinh ra phải hiểu là: “Thà con người đó đã không sinh ra thì tốt hơn”. Những thí dụ về hiện trạng này ta ít năng gặp: Mc 5, 42; Mt 22, 36; Lc 10, 42; Lc 1, 42; Lc 18, 14…
Thành thử thật là chính đáng và tự nhiên khi hỏi phải chăng có một tỷ giảo cấp nào đó ẩn dấu dưới hai tĩnh từ “nhiều” và “ít” trong câu văn. Nếu có thì châm ngôn sẽ như thế nào. “Kẻ được gọi thì đông hơn, kẻ được chọn thì ít hơn”. Thế mà công thức này hoàn toàn phù hợp với văn mạch của dụ ngôn chúng ta. Thật vậy, dụ ngôn cho thấy các người được gọi có rất nhiều, vài kẻ lại từ chối và một người đã bị loại ra. Được gọi thì nhiều dĩ nhiên, nhưng người được chọn thì ít hơn kẻ được gọi; và vì thế cần phải lo làm sao cho có đủ những điều kiện cần thiết để ơn gọi của chúng ta đạt đến sự tuyển chọn cuối cùng.
Để chứng thực cho lối giải thích này, ta cần phải ghi nhận là đoạn văn của Mt được hiểu trong ý nghĩa vừa gợi hoàn toàn hòa vận với một sấm ngôn căn bản khác của Tin Mừng, sấm ngôn duy nhất trong đó Chúa Giêsu đã minh nhiên trả lời cho vấn đề số người được chọn. Đó là bản văn quen thuộc của Lc 13, 22-24: người rảo khắp các thành các làng mà giảng dạy và tiếp tục hành trình đi Giêrusalem. Có kẻ nói với Người: “Thưa Ngài, ít người được cứu thôi phải không? “. Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì Ta bảo các ngươi, có lắm kẻ sục tìm cách vào, nhưng không được”. Nếu thực sự Chúa Giêsu đã muốn để lại cho các sứ đồ, về vấn đề này, một giáo huấn chính xác, thì chắc chắn Người đã lợi dụng cơ hội đó để giải thích mà không cần phải nói quanh. Thế mà thay vì cho ta biết về số người được chọn, người lại khuyến giục ta hãy luôn cố gắng để qua cửa hẹp. Chớ gì câu trả lời này cho chúng ta. Những điều khác thuộc về Thiên Chúa!
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về nước Trời cũng giống như vua kia”. Nước Trời không giống như một ông vua; nhưng trong Nước Trời được Chúa Kitô khai mào, sẽ xảy ra điều mà dụ ngôn sắp kể lại (x. 13, 24; 18, 23; 25, 1). Cựu ước và Do thái giáo năng chỉ Thiên Chúa dưới những nét của một vì vua (Tl 8, 23; 1 Sm 8, 7; Xh 19, 6; Tv 11, 4; 47, 3; 93, 1- 2; 95, 3- 5; 103, 19; Gr 10, 7...).
“Làm tiệc cưới cho hoàng tử ". Hình ảnh bữa tiệc thiên sai chắc chắn được vay mượn từ Cựu ước (Is 25, 6; 55, 1 -3). Nó diễn tả tính cách nhưng không của ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho dân Ngài và được tiên trông qua bữa ăn của Môisen với 70 kỳ lão, trước sự hiện diện của Đấng Vmh cửu trên núi Sinai, sau hy tế đền tội (Xh 24, 11). Sách Khải huyền cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (Kh 19).
“Nhưng họ không muốn đến": Sự từ chối được diễn tả một cách rành rẽ qua động từ muốn động từ rất được Mt ưa thích (x. 11, 14; 16, 24; 18, 30; 19, 17; 23, 27b). Việc đáp lại lời mời không phải là chuyện khuynh hướng bẩm sinh hay chuyện tình cảm, nhưng là chuyện quyết định tự ý hoàn toàn. Xa hơn chút nữa (c. 5), Mt cho thấy các thực khách không nhèm đếm xỉa, đến lời mời không quan tâm rằng đó chính là thái độ hờ hững đáng tội, là sự thờ ơ hiểu theo nghĩa mạnh nhất.
“Khách mời đã không đáng dự ”. Sự bất xứng của các kẻ được mời không do tự nhưng khiếm khuyết hay vô tri tự nhiên, vì sau đó đủ mọi hạng người sẽ được triệu mời, lành cũng như dữ " (c. 10); họ bất xứng vì đã từ chối.
“Vậy các người hãy ra các ngã đường, hễ gặp ai thì mời vào tiệc cưới, Kiểu nói, vậy hãy đi" (poreuesthe oun) nhắc cho ta nhớ những tiếng mà Chúa Giêsu sẽ dùng để sai các môn đồ đến với dân ngoại: vậy các ngươi hãy đi thâu nạp các môn đồ khắp muôn dân " (28, 19). Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người Do thái khinh chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của các kẻ phục vụ Tin Mừng trong khắp nẻo đường thế giới: "Nhiều kẻ sẽ từ phương Đông, phương Tây mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước Trời " (8, 11). Sự cứng lòng và từ chối của Israel chỉ khai mào thời gian của Giáo Hội, thời gian mà một khi Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (24, 14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ hạng người. Thành t!lử việc sai các gia nhân lần thứ ba tương ứng với việc sai các sứ đồ đến với dân ngoại sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Ở đây, chúng ta gặp lại chiều hướng phổ quát và truyền giáo rất được Mt chú trọng (2, 1- 2; 3, 9; 8, 5-10; 8, 28- 34; 15, 21- 28; 13, 47; 21, 43...).
"Bất luận dữ hay lành”. Chi tiết này làm ta liên tưởng tới dụ ngôn lưới cá (13, 47- 50); “kẻ dữ " đây là những người có tội được mời cách nhưng không, sẽ cải thiện đời sống một khi đã vào trong Nước Trời hay Giáo Hội, hoặc là các kẻ dữ theo nghĩa tuyệt đối mà một ngày kia sẽ bị loại ra khỏi Nước Trời (hay khỏi Giáo Hội). Các câu 11- 14 tiếp theo sau xét đến hạng kẻ dữ này.
“Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc”. Đây là cuộc phán xét sau cùng; hãy so sánh với các dụ ngôn của ch. 13 (vd: cỏ lùng, lưới cá) và của ch. 25 (mười trinh nữ nén vàng, chiên và dê): trong các dụ ngôn ấy nói tới sự lựa chọn, phân tách kẻ dữ người lành. Những câu này, của riêng Mt, chắc chắn là để sửa lại một lối giải thích tự do quá trớn về các câu 1-10. Dĩ nhiên, việc gia nhập vào Giáo Hội là nhưng không thật đấy, song chớ quên rằng đó là Giáo Hội của Vua. Thiên Chúa "khám xét": Dân mới của Ngài kỹ lưỡng vô cùng vì ân sủng Ngài luôn luôn đòi hỏi.
"Sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới? ": Y phục lễ cưới này là cái gì vậy? Đó chỉ có thể là thực tại và được biểu hiệu trong dụ ngôn thợ vườn nho qua hình ảnh hoa quả Nước Trời. Đó là sự công chính luôn được Tin Mừng Mt đòi hỏi nơi tín hữu, sự công chính hay là sự trung thành mới mà các chương 5-7 đã cho một vài ví dụ (5, 20; 6, 33...). Để đi vào Nước Trời, cần phải mặc áo cứu độ" (Is 61, 10), "mặc lấy Chúa Kitô " (Ep 4, 24; Gl 3, 27). Vì thế, chỉ những ai đã "giặt áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7, 9-17) mới có thể đứng vững trước ngai Con Chiên trong ngày lễ cưới (x. Kh 19, 6- 8).
“Người ấy câm miệng": Người Do thái quan niệm rằng các việc lành phúc đức sẽ bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa. “Ai thực thi huấn lệnh thì người ấy sắm cho mình một kẻ chuyển cầu" (Châm ngôn tiên tổ 4, 13). Một ý tường tương tự cũng được tìm thấy trong Cv 10, 4. Người khách đã không thực thi việc phúc đức thành ra câm miệng lại: chẳng một ai chuyển cầu biện hộ cho y.
KẾT LUẬN
Dân Do thái, kẻ thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa, là những người đầu tiên được đón nghe Tin Mừng, do từ chính Chúa Giêsu (Người chỉ giảng dạy cho họ) cũng như do các sứ đồ (các vị luôn luôn bắt đầu từ nơi họ, ngay cả Phaolô, trong các thành ngài rao giảng), nhưng họ đã không sẵn sàng tiếp đón. Tuy nhiên, sự cứng lòng của họ, dầu bí nhiệm đến đâu (Ga12, 37- 43), cũng không thể làm cho ý định quan phòng của Thiên Chúa thất bại. Các dân ngoại, được rao giảng Tin Mừng muộn hơn, sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Và chính thánh Phaolô (Rm 11, 26) có hé mở cho thấy trong tương lai, Israel sẽ trở lại với Người cách ồ ạt, khiến sau cùng Do thái và dân ngoại, hiệp nhất trong một Giáo Hội, có thể cùng nhau tạo thành Israel của Thiên Chúa. trong lúc chờ đợi, mỗi người phải cố gắng mặc lấy Chúa Kitô bằng cách thực thi việc làm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bàn tiệc cưới của Giáo Hội là bàn tiệc Thánh Thể, được Chúa Kitô khai mạc với các sứ đồ trong bữa tiệc ly (Mt 26, 26- 29) và luôn được tái diễn từ ngày Hiện Xuống trong Giáo Hội sơ khai (Cv 2, 42) cũng như trong các cộng đoàn Kitô hữu mới (1Cr 11, 23- 29). Để xứng đáng tham dự bàn tiệc Thánh Thể này, phải mặc áo cưới, nghĩa là sống một đời phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Và từ bàn tiệc Thánh Thể này đến bàn tiệc Thánh Thể khác, chúng ta sẽ càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc thiên quốc trong tình thân mật với Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa sẽ là tất cả niềm vui của chúng ta.
2) Khi lãnh nhận phép Thánh tẩy, chúng ta đã được mặc một chiếc áo trắng và linh mục đã chúc chúng ta gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày phán xét trước tòa án của Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã làm bẩn chiếc áo rửa tội này, chúng ta luôn có thể trình diện nơi tòa án của lòng thương xót là Bí tích Giải tội. Ở đó Chúa Kitô, qua lời Bí tích của vị đại diện Người, sẽ tẩy sạch áo cưới của chúng ta và lại kêu mời chúng ta dự tiệc cưới của Vua, trong niềm vui của tình thân được tái lập. Đừng có làm như những người được mời đầu tiên của dụ ngôn mà từ chối hồng ân lớn như thế.
3) Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta vào trong tình thân mật của Ngài, mời ta hưởng niềm vui được phục vụ Ngài (phục vụ là thống trị vì Chúa). Người ta có thể phản đối lời mời ấy bằng một thái độ thù nghịch công khai, điều này rất may là họa hiếm. Thường thường người ta phản đối bằng thái độ lãnh đạm tôn giáo, được che dấu dưới nhiều cớ dễ dãi: không có thì giờ, nhiều việc khác cấp bách hơn..v.v... Như những kẻ đầu tiên được mời của dụ ngôn, ta không thèm đếm xỉa đến lời mời đã nhận được. Trong phương diện này, trách nhiệm Kitô hữu nặng nề hơn trách nhiệm của người ngoại, vì Kitô hữu biết rằng mình được mời đự tiệc, trong khi lương dân chỉ có thể trực giác cách mơ hồ thôi, trong đáy sâu thẳm của lòng họ.
4) Chúa nói dụ ngôn cho chúng ta, là Người đang sống trong Giáo Hội. Người cảnh giác chúng ta: đừng tưởng rằng các ngươi đã đến đích, đã an vị; giữa các ngươi có đủ loại, kẻ dữ người lành, cỏ lùng lúa tốt. Các gia nhân của Ta dã quy tụ các ngươi, họ đã lấy tất cả những gì họ gặt: tốt cũng như xấu. Chẳng phải vì các ngươi ở trong mà các ngươi được xét đoán kẻ ở ngoài, những kẻ đã từ chối không chịu đến. Vì có một cách khác làm sỉ nhục cho Đấng mời gọi chúng ta là định cư trong nhà Người như thể trong nhà của chúng ta, quên rằng Người đã mời gọi chúng ta, quên rằng chúng ta ở trong Giáo Hội là nhờ ân sủng thuần túy, quên rằng chỉ c.ó cách sống đạo của chúng ta mời định đoạt về số phận được tuyển chọn cuối cùng.
5) Mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy các tâm tình: lân tuất, nhân hậu, khiêm nhu, nhẫn nại, hiền từ (Cl 3, 9- 13), là tha thứ như Người đã tha thứ cho ta, là yêu mến như Người đã mến yêu ta, là trở nên một Kitô khác, là được biến đổi trong Người, là chân thật trong các cuộc giao tiếp với anh em, là đừng để cho cơn giận có thời giờ ra chai cứng lại thành hiểu lầm nhau, là nỗ lực làm việc để có thể chia sẻ cho những người túng thiếu.
6) Thiên Chúa mời chúng ta dự tiệc của Ngài không những là qua tiếng nói của Giáo Hội hay các linh mục, nhưng còn qua bất cứ một người vô danh nào mà chúng ta biết lắng nghe, qua một biến cố lay động cuộc sống, qua một thử thách mà chúng ta trải vượt, qua một niềm vui mà chúng ta thường thức. Trong mức độ mà các con người và các biến cố ấy kêu gọi chúng ta, thúc bách chúng ta phản ứng, buộc chúng ta chọn lựa sống đạo, vì đó chính là các gia nhân đến nài xin tự do của ta, đến thông ban cho ta một Tin Mừng: "Tiệc cưới đã sẵn".
Bạn có nhận được thiệp mời dự đám cưới hoàng tử Charles và công nương Diana không? Hoặc bạn TN 28-A177
Bạn có nhận được thiệp mời dự đám cưới hoàng tử Charles và công nương Diana không? Hoặc bạn đã có lần nào được mời tham dự đám cưới của một minh tinh, tài tử Hollywood nào chưa? Nếu có, chắc là bạn hãnh diện và sung sướng lắm. Và trong niềm hãnh diện và sung sướng ấy, bạn đã phải để bao nhiêu ngày giờ suy nghĩ về y phục bạn sẽ mặc hôm đó. Không những áo quần, mà còn đầu tóc, và trang sức nữa. Bạn phải chạy đầu này, đầu nọ để sắm sửa và chuẩn bị. Và dĩ nhiên, bạn cũng phải chi ra một số tiền khá lớn cho những chuẩn bị đó.
Nếu không được vinh dự mời tham dự những đám cưới lịch sử như thế, hẳn là bạn cũng đã nhiều lần được mời tham dự những đám cưới của con cháu, họ hàng, hoặc bạn hữu xa gần. Cùng một thái độ hãnh diện, sung sướng ấy, bạn cũng đã phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Không chỉ để đáp lại sự quí mến của người mời, mà còn để khỏi phải mất mặt giữa các thực khách. Tóm lại, bạn không thể đến tham dự một tiệc cưới mà lại ăn mặc lôi thôi, lếch thếch. Đám cưới càng danh giá, địa vị, sự chuẩn bị càng công phu và tốn kém.
Thế nhưng đó lại không phải là thái độ của phần lớn các Kitô hữu. Những người mà khi tham dự đám cưới một người trần gian thì lại chuẩn bị kỹ càng, nhưng khi được mời tham dự một tiệc cưới vô cùng quan trọng và danh dự – tiệc cưới Nước Trời – Tiệc cưới của hoàng tử Nước Trời, thì lại rất lôi thôi, lếch thếch. Vì bàn tiệc Nước Trời là gì? Nếu không phải là ơn gọi sống đời Kitô hữu? Một lời mời gọi phát xuất từ lòng Chúa xót thương, mà chúng ta tất cả chỉ là những thực khách bơ vơ nơi đầu đường, xó chợ, không danh giá, không địa vị, và không được người đời biết đến: “Tiệc cưới đã dọn sẵn, nhưng những kẻ được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất kỳ bất cứ ai thì mời vào dự tiệc cưới” (Mt 22: 8-9).
Đặc biệt trong Năm Thánh Thể, chúng ta hãy nghĩ đến lời mời gọi này mỗi khi tham dự Thánh Lễ và mỗi lần rước Mình và Máu Thánh Chúa. Đây là một bàn tiệc đúng nghĩa hy tế, trong đó mọi Kitô hữu đều được tham dự và nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên lương thực cần thiết cho chúng ta trên hành trình cuộc sống, và trên con đường về quê hương vĩnh cửu. Tư tưởng này nhắc nhở chúng ta về vị trí của mình, và đồng thời biết chuẩn bị để mình không phải là những thực khách, những khách bị loại ra khỏi bàn tiệc mà mình đã được mời để tham dự. Đức Bênêđíctô XVI, trong bài giảng bế mạc Đại Hội Thánh Thể Nước Ý lần thứ 24 tại Bari đã nói: “Chúa Giêsu thực sự hiện diện giữa chúng ta. Sự hiện diện của Ngài không phải là tĩnh lặng. Đó là một sự hiện diện thực sự, làm cho chúng ta thành như Ngài, Ngài đã đồng hóa chúng ta với chính Ngài. Thánh Augustine đã hiểu rằng trọng tâm của Thánh Thể là Đức Kitô, Đấng đã thu hút chúng ta lại với chính Ngài; Đấng đem chúng ta ra khỏi chính mình để biến chúng ta nên một với Ngài. Trong cách này, Ngài giới thiệu chúng ta với cộng đồng anh chị em mình.”
Do nhận ra thân phận mình thấp hèn của mình, và vì thấy mình được mời tham dự một tiệc cưới cao trọng như thế, Kitô hữu chúng ta nhẽ ra phải coi làm trọng, phải hãnh diện và tham dự với tất cả lòng biết ơn. Nhưng thực tế lại khác, rất nhiều Kitô hữu đã “không mặc áo cưới”, đã khước từ, hoặc thậm chí đã coi lời mời đó như một cái gì đáng ghét cần phải loại bỏ. Bằng lối diễn tả của Thánh Kinh, đó là những Kitô hữu đã chối từ, đã coi thường lời mời tham dự bàn tiệc Nước Trời tức là tham dự vào việc thừa hưởng sức sống thần linh của Thiên Chúa, khước từ địa vị làm con Thiên Chúa, và cũng khước từ tham dự vào gia tài thiên quốc.
Người thực khách không mặc áo cưới trong bữa tiệc hôm đó, cũng như các thực khách đã khước từ lời mời tham dự bữa tiệc, là những hình ảnh để Kitô hữu chúng ta tự vấn về đời sống và ơn gọi của mình. Chúng ta có tham dự vào bàn tiệc do Thiên Chúa thỉnh mời với tấm lòng biết ơn, hay ngược lại, bằng với thái độ bất kính. Một thái độ đưa đến kết quả là bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa, và bị tước đoạt quyền làm con Ngài. Và đó chính là:
1. Những kẻ thuộc về thế gian: Thiên Chúa đã gửi thiệp mời đến tất cả mọi người chúng ta. Ngài đã mời gọi tất cả. Nhưng xem như thiệp hồi âm quá ít. Những người được mời tham dự đã không hồi báo. Lý do, người thì bận đi thăm trang trại, hoặc bận lo làm ăn buôn bán. Đối với thành phần thực khách này, lời mời gọi của Nước Trời. Hạnh phúc được tham dự tiệc cưới Nước Trời – tức sự sống đời đời - không quan trọng so với những của cải vật chất và thế gian. Và do đó, họ đã không thèm đếm xỉa tới.
2. Những kẻ thù ghét Thiên Chúa: Không những không coi việc được mời là quan trọng, danh dự và là niềm hãnh diện, một số khác còn tỏ ra đối nghịch và trở thành kẻ thù đối với lời mời tham dự. Những hình thức bách đạo, ngăn cấm, tra tấn, tù đầy và giết hại các Kitô hữu qua các thời đại đã cho biết là có những kẻ hết sức ác cảm và hận thù Thiên Chúa. Sự độc ác, dã tâm của họ đã được Thánh Ký phác họa như những kẻ “bắt bớ đầy tớ vua mà hạ nhục và giết đi”.
3. Những kẻ coi thường và khinh xuất: Họ là những thành phần đã nhận lời tham dự tiệc cưới, có hồi báo, nhưng lại tỏ ra khinh xuất và coi thường. Họ vào tiệc cưới mà “không mang y phục cưới”.
Trước lời mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Lễ, bàn tiệc Thánh Thể, và bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta phải có thái độ nào: Dửng dưng, khước từ, hay thù ghét? Và liệu chúng ta có bị loại ra ngoài vì thái độ bất xứng hoặc dửng dưng coi thường của chính mình? Xin Mẹ Maria, Mẹ của Thánh Thể, giúp chúng ta yêu mến và sốt sắng tham dự lời mời của Thiên Chúa bằng cuộc sống chứng nhân đích thực trong chính ơn gọi của mỗi người.
Bậc làm cha mẹ khi có con đến tuổi lập gia đình rất lo lắng về bữa tiệc cưới, vì đây là dịp vui TN 28-A178
Bậc làm cha mẹ khi có con đến tuổi lập gia đình rất lo lắng về bữa tiệc cưới, vì đây là dịp vui xum họp gia tộc, bạn bè của hai họ. Các món ăn được chọn lựa kỹ lưỡng sao cho hợp với khẩu vị của mọi người. Những người được mời là những thượng khách của gia đình, họ được mời đến không chỉ để chung vui cùng gia đình có con dâu hay con rể mới, nhưng họ còn là một vinh dự cho gia chủ.
Phúc Âm hôm nay sánh ví nước Trời giống như ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Nếu tiệc cưới của người dân thường còn bận rộn, lo lắng sửa soạn nhiều tháng trời thì tiệc cưới của con vua phải sửa soạn như thế nào! Nhưng ở đây Chúa muốn nói đến tiệc cưới Nước Trời và chúng ta là những người được mời tham dự.
Chúa đã chuẩn bị tiệc cưới cho chúng ta ngay từ khi chúng ta được tạo dựng. Khi lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa đã mặc cho mỗi người chiếc áo trắng dự tiệc cưới, và Chúa đã nói qua Thừa Tác Viên: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Chiếc áo trắng này chỉ tước vị của con... Con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh”. Mỗi người chúng ta đã mặc lấy Chúa Kitô, mặc lấy Đức tin Công Giáo. Nhưng điều quan trọng là chúng ta có đáp lại lời Chúa mời gọi vào tiệc cưới trên Thiên Đàng hay không?
Trong một lần hành hương nơi đất Thánh, khi đến bức tường than khóc, cũng là bức tường của Đền Thờ Giêrusalem xưa còn xót lại. Chúng tôi đã cùng nhau nghe Thánh Vịnh 122:
Tôi vui mừng khi người ta nói cùng tôi:
“Nào! Ta đi nhà Giavê!”
Chân ta dừng nơi cửa thành ngươi
Hỡi Giêrusalem!
Nhiều người đã sung sướng rơi lệ vì không thể tưởng tượng được mình đang đi đứng trên những nơi ngày xưa Chúa đã đi qua. Đúng như một giấc mơ, vì nhiều người mơ ước trong đời được viếng thăm Đất Thánh một lần. Chuyện mơ ước được viếng thăm Đất Thánh thật khó khăn đối với nhiều người vì không đủ phương tiện, hay hoàn cảnh không cho phép, phải cố gắng lắm mới có thể thực hiện được. Như thế chúng ta thấy rằng việc mơ ước về Thiên Đàng sẽ khó khăn gấp bội. Nhưng đây không phải là chuyện không làm được mà tùy thuộc vào chính bản thân ta có quyết chí làm hay không.
Chúng ta hãy tô diểm cho chiếc áo cưới mỗi ngày thêm đẹp hơn khi lãnh nhận các Bí Tích. Chúng ta làm cho chiếc áo trở nên sáng chói bằng cách tuyên xưng đức tin qua những việc thánh thiện, bác ái, những gương sáng, tránh xa các dịp tội, nhất là siêng năng cầu nguyện vì ma quỷ luôn rình rập để cám dỗ ta. Con người càng văn minh càng bận rộn kiếm tiền trả cho những tiện nghi được hưởng, do đó không có giờ với Chúa, có khi quên không còn nhớ Chúa là ai vì những của cải vật chất hữu hình xóa mờ trong tâm trí chúng ta những gì linh thiêng vô hình. Người được mời vào tiệc cưới mà không mặc áo cưới là làm nhục gia chủ. Cũng vậy, người Công Giáo không sống xứng đáng là người Công Giáo cũng làm sỉ nhục cho Chúa.
Giấc mơ về Thiên Đàng sẽ thành sự thật nếu chúng ta đáp lại lời mời gọi của Chúa là mỗi ngày hãy chuẩn bị cho bữa tiệc cưới trên Thiên Đàng, để khi sứ thần đến chúng ta sẽ sẵn sàng vào bàn tiệc trong vui mừng vì được Chúa đón tiếp.
Con người ngày nay thường rất bận. Càng giầu càng bận. Càng có chức quyền càng bận. Họ bận TN 28-A179
Con người ngày nay thường rất bận. Càng giầu càng bận. Càng có chức quyền càng bận. Họ bận đến nỗi chẳng có thời giờ cho riêng mình. Bận đến nỗi luôn lao vào công việc mà chẳng có thời gian thư giãn với đồng loại. Có khi bận quá mà quên chăm sóc cho bản thân. Chuyện kể rằng có một anh thợ rất khéo. Bao nhiêu quần áo đẹp trong làng đều do anh may. Tuy nhiên, bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo cũ rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của làng anh vẫn chiếc áo lôi thôi ấy đến dự. Có người bất bình hỏi anh: sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo sang trọng?
Anh trả lời: vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may cho chính mình.
Người bạn: vậy anh hãy cầm lấy số tiền này và may cho anh một chiếc áo mới, kể như tôi muốn anh may cho tôi vậy.
Anh thợ may cầm tiền về nhà, tới buổi tiệc tiếp theo anh vẫn mang bộ đồ cũ rách ấy. Anh bảo cũng chẳng có giờ may cho chính mình , vì hàng nhiều quá!
Chúa Giê-su hôm nay nói rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình… Nhà vua sai đầy tớ đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quí vị đến dự tiệc cưới!” (Mt 22:2,4)
Vậy mà nhiều người không đến ăn tiệc được vì không có giờ, vì bận quá: “kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn…” (Mt 22:5).
Và hôm nay vẫn còn đó nhiều người đã không có cơ hội để hưởng niềm vui hiện tại. Họ là những CEO đang bận bịu với các cuộc họp làm ra tiền. Họ là những chuyên viên kinh tế đang theo dõi thị trường chứng khoán. Họ là những người lao động đang phải làm thêm giờ phụ trội cho có đủ tiền trả góp chiếc xe láng mới tậu để “gáy” đua với mấy tên bạn. Giờ đâu mà ngó mây trời. Ăn còn chẳng kịp nữa là. Họ thật đáng thương!
Thế là hóa ra người nghèo lại có nhiều cơ may hưởng được niềm vui trong cuộc sống hơn. Lệnh của chủ tiệc là ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới. Và phòng tiệc đã đầy nhanh chóng. Ai nấy ăn uống vui vẻ.
Con người thường mâu thuẫn với chính mình. Người ở quê thì thích về thành phố để sống vinh quang dù vất vả khổ cực. Người thành phố lại chỉ ước mong về gìa sẽ về quê để vui thú điền viên.
Như vậy, hạnh phúc không phải là ở quê hay ở thành phố. Hạnh phúc cũng không phải ở công việc làm ăn lớn hay nhỏ. Hạnh phúc đơn giản được vui với niềm vui hiện tại. Được vui cùng nhau, chia sẻ cùng nhau mà không hề toan tính giầu nghèo. Và đối với lời Chúa hôm nay thì hạnh phúc là được tham dự yến tiệc Nước Trời hôm nay và mãi mãi.
Thánh lễ là bàn tiệc Nước Trời tại thế. Nơi đó Chúa cũng muốn mọi người có mặt. Chúa không muốn thiếu vắng ai. Vì thiếu vắng là thiệt thòi, vì người vắng sẽ thiếu niềm vui của cộng đoàn hiệp thông, vì người vắng sẽ thiếu ân sủng và sức mạnh của Thiên Chúa để nhờ ơn Chúa họ sẽ sống tốt hơn.
Đáng tiếc, nhiều người lại quá lo làm ăn, buôn bán, có khi vui chơi giải trí để từ chối tham dự tiệc thánh Chúa mời gọi. Họ ưu tiên cho cái bụng trước mắt mà không thèm đếm xỉa đến bàn tiệc Nước Trời.
Bàn tiệc Nước Trời cũng ám chỉ bàn tiệc cánh chung. Con người sinh ra rồi cũng chết, nhưng chết là là cuộc vượt qua vào cõi vĩnh hằng để tham dự bữa tiệc cánh chung. Nơi đó Thiên Chúa đã sắp sẵn một bàn tiệc viên mãn cho những ai được Ngài mời gọi. Nơi đó, Chúa cũng đòi hỏi người dự phải có tấm áo Tin mừng. Tấm áo của lòng thanh khiết luôn hướng về Chúa. Tấm áo của lòng bác ái luôn sống mến Chúa yêu người. Tấm áo của ân sủng để Chúa luôn đong đầy yêu thương đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta.
Vâng , Chúa luôn mời gọi tất cả mọi người, nhưng Chúa lại tôn trọng tự do để con người biết chọn cách sống cho phù hợp với tin mừng, và nhất là biết gìn giữ tấm áo rửa tội để mãi thuộc về Chúa hôm nay và mai sau. Xin cho chúng ta biết chọn lựa hạnh phúc Nước trời hơn là những vinh hoa phí quý trần gian mau qua. Xin cho chúng ta cũng biết nắm lấy niềm vui hiện tại mà vui sống với những gì Chúa ban. Amen.
Càng gần những ngày cuối của ba năm rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu càng cảm thấy TN 28-A180
Càng gần những ngày cuối của ba năm rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu càng cảm thấy áp lực nặng nề từ phía giáo quyền Do Thái, khi các thượng tế, ký lục và nhóm Pharisêu ngày càng công khai dồn sức tấn công và tìm mọi cách giăng bẫy Ngài với hy vọng giao nộp Ngài cho chính quyền đế quốc Rôma và ước mơ thấy Ngài lãnh án tử hình đóng đinh, hầu triệt tiêu một khuôn mặt gây nhiều phiền phức, có sức đảo lộn toàn bộ sinh hoạt xã hội, tôn giáo, và làm sụp đổ thành trì “cơ chế” vững chắc bảo đảm an toàn chỗ đứng của họ.
Ở thời điểm căng thẳng này, Đức Giêsu nhiều lần nói với những chức sắc tôn giáo ấy bằng một cung giọng ngày càng cứng rắn, và không ngại lột trần dã tâm đen tối, xấu xa của họ, như dụ ngôn “Tiệc Cưới Nước Trời” được ghi lại trong Tin Mừng Mátthêu.
Dụ ngôn được coi như bản cáo trạng thu gọn lên án thái độ khinh bạc và quyết định khước từ của Ítraen, dân Chúa trước lời mời vào dự tiệc Nước Trời của Thiên Chúa. Qua hình ảnh những khách được mời đã viện đủ lý do để từ chối, đã tìm mọi cách để không đến dự tiệc, dù “cỗ bàn đã dọn xong, bò tơ, thú béo đã hạ rồi, và mọi sự đã sẵn” (Mt 22,4). Không đếm xỉa và coi thường lời mời của Thiên Chúa đã đành, Ítraen còn bắt bớ, hành hạ và giết cả những người của Thiên Chúa sai đến để mời họ, và Đức Giêsu đóng lại bản cáo trạng bằng một kết luận đanh thép: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng” (Mt 22,8).
Trước lửa hận thù đang sôi sục trong tâm hồn những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ, lời tuyên bố không nể nang, nhân nhượng của Đức Giêsu về một dân riêng không còn xứng đáng với tình thương và lòng trân trọng của Thiên Chúa khác nào đổ thêm dầu để ngọn lửa bùng phát ngàn lần dữ dội, khủng khiếp. Bằng chứng là ngay sau đó “những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mt 22,15).
Khi nghe Đức Giêsu tố cáo như vậy, chắc chắn một số trong họ đã nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia, người mà cha ông họ đã bạc đãi, đối xử tồi tệ, bất công, đồng thời nhớ lại đội quân hùng mạnh của Nabucodonoso gần 6 thế kỷ trước (năm 587 trước công nguyên) đã tàn phá Đền Thờ và dẵm nát quê hương “Đất Hứa” của họ. Và nhiều người trong họ đã coi đó là hình phạt của Thiên Chúa Giavê đổ trên dân riêng “bất xứng, ngỗ nghịch”.
Riêng Đức Giêsu, hôm nay Ngài chính thức cho họ biết có một dân mới được mời gọi vào yến tiệc Nước Trời thay thế họ ; có những người khách mới được Thiên Chúa đích thân đón vào dự tiệc cưới ; có những con người mới xứng đáng hơn họ được Thiên Chúa yêu thương, trân trọng cho đồng bàn. Và những khách mới, người mời, dân mới ấy chính là “bất cứ ai gặp được ở các ngã đường”, bởi đã đến lúc Thiên Chúa “gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” trong Vương Quốc của Ngài (Mt 22,9).
Hình ảnh những người khách mới gặp được ở các ngã đường để thay thế những “khách mời bất xứng” chính là Giáo Hội của Đức Giêsu, một dân tộc mới “gồm muôn dân” được mời vào dự tiệc của Chiên Thiên Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6), vì Thiên Chúa, Đấng thiết đãi muôn dân yến tiệc Nước Trời là Mục Tử nhân lành, Đấng dẫn đoàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành ; Ngài dắt chiên đi trên đường ngay nẻo chính, và dọn sẵn cho chiên “bữa tiệc ngay trước mặt quân thù” (x. Tv 22,1-5).
Nhưng khi các khách mời đã vào bàn tiệc, thì một biến cố buồn bất chợt xẩy ra: “nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 22,13).
Biến cố thật bất ngờ và đáng buồn chắc chắn đã làm sững sờ nhiều người, nhất là thực khách bị nhà vua chiếu tướng, điểm mặt và ra lệnh bắt giam, đem đi hành hạ. Ngay cả chúng ta cũng chung một tâm trạng hụt hẫng ấy, bởi cứ sự thường những vị “khách mới” bất ngờ giờ chót được mời ở các ngã ba, ngã tư đường đã vào bàn tiệc với y phục thường ngày, vì không ai trong họ đã được biết trước mình sẽ được nhà vua mời dự tiệc cưới trong hoàng cung. Thái độ nổi giận và hình phạt nặng nề của nhà vua trên vị khách không mặc y phục lễ cưới qủa thật làm sốc không ít và chúng ta cảm thấy có chút gì bất công về phiá nhà vua.
Thực ra, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh y phục lễ cưới để nói lên một chân lý quan trọng đó là Nước Trời từ nay được mở ra cho tất cả mọi người, không trừ ai, không phân biệt sắc dân, chủng tộc, trình độ, hoàn cảnh, nhưng điều đó không có nghiã những người được nhận vào Nước Trời không còn phải đáp ứng bất cứ đòi hỏi nào. Trái lại, luật mới của Tin Mừng, luật của Giao Ước Mới, luật mới của Đức Giêsu, tuy khác Luật cũ Môsê, nhưng vẫn đòi hỏi không kém, vẫn có những điều kiện buộc người muốn vào dự tiệc Nước Trời phải tuân giữ, thực hiện. Và Luật đó chính là Luật Yêu Thương, y phục lễ cưới đó chính là Đức Ái, điều kiện để được Thiên Chúa yêu thương cho đồng bàn với Ngài trong Vương Quốc, như thánh Tông Đồ Gioan đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”, và “đây là điều răn mà chúng ta đã nhận từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,16.21).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ quên mang sẵn trên mình y phục lễ cưới là Đức Ái, để bất cứ giờ nào, ở đâu Thiên Chúa mời gọi vào dự Tiệc Cưới Nước Trời, chúng ta đều đến với Ngài trong y phục Tình Yêu lộng lẫy, xinh đẹp, để xứng đáng đồng bàn với chính Thiên Chúa và các thánh của Ngài trên Thiên Đàng.
Cuộc sống luôn luôn đòi hỏi ta phải sẵn sàng. Một tâm thế sẵn sàng sẽ giúp ta dễ dàng để tới TN 28-A181
Cuộc sống luôn luôn đòi hỏi ta phải sẵn sàng. Một tâm thế sẵn sàng sẽ giúp ta dễ dàng để tới đích, dễ dàng để hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc. Trong tình yêu, Thiên Chúa đã luôn luôn sẵn sàng: sẵn sàng để yêu thương ta, tha thứ cho ta, chữa lành ta, nâng đỡ và an ủi ta… Ta có sẵn sàng để đón nhận tình thương của Ngài không? Được Thiên Chúa yêu thương, ai mà không hạnh phúc. Niềm hạnh phúc lớn nhất của ta là được nhận biết Thiên Chúa, nhận biết mình được Người hết lòng yêu thương. Thế nhưng, đã bao lần ta đã tỏ ra không sẵn sàng để đón nhận tình yêu thương của Người. Điều gì đã khiến ta không sẵn sàng như thế?
Hôm nay, lắng nghe câu chuyện Thầy Giêsu kể, ta nhận thấy có mình trong đó. Thiên Chúa chính là ông vua đã tổ chức tiệc cưới cho con mình. Ông gửi thiệp, mời các quan khách đến dự. Tiệc cưới đã sẵn sàng mà khách được mời lại chưa tới. Ông sai các đầy tớ của mình đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến (x. Mt 22,3). Từ ngày ta được lãnh nhận Mình Thánh Chúa, Thánh lễ trở nên thật ý nghĩa đối với ta. Ta được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, được nên một với Người. Người làm cho ta lớn lên, được giống Người mỗi ngày một hơn. Ước chi, ta cứ mãi là trẻ thơ để không phải lo lắng, không phải bận bịu; chỉ hồn nhiên để chạy đến bên Người, yêu mến Người mãi mãi.
Nhưng kìa, từ khi bước chân vào đời, ta đã đổi khác. Nhịp sống vội vã đã cuốn ta vào vòng xoay của nó. Ta bận bịu với biết bao nhiêu công việc, rồi ta bỏ lễ một lần, hai lần rồi ba bốn lần. Cứ thế, ta cứ dần dần từ chối quyền được hưởng niềm hạnh phúc của người được Chúa thương. Thánh lễ chính là một tiệc cưới. Thiên Chúa đã kiên nhẫn chờ đợi ta đến với Người trong những Thánh lễ mỗi ngày. Thiên Chúa vẫn rất thương ta, Người đã gửi đến cho ta những “đầy tớ” để họ nhắn lại cho ta nhớ lời của Người: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” (Mt 22,4). Ta hãy tạm ngưng công việc đang dở dang, hãy lắng nghe các “đầy tớ” của Thiên Chúa nhắn lại lời của Người. Họ là những người bạn, là cha mẹ, là những người trong giáo xứ, là những tu sĩ, những linh mục đang cố gắng giúp ta. Đừng để cho những bận rộn của trần thế làm ta quên đi lời mời của Thiên Chúa. Hãy sẵn sàng để đó nhận tình yêu bao la của Người.
Chẳng phải những lần không thể tham dự Thánh lễ, ta đã thấy lòng mình hụt hẫng, thiếu vắng và nhớ Chúa quá chừng đó sao. Ta hãy tìm cách tham dự Thánh lễ. Thiên Chúa đã mở tiệc thết đãi muôn dân, ta đã được mời dự và không bao giờ bị từ chối. Dù ta có vấp ngã nhiều lần đi chăng nữa, dù trước đó ta đã từ chối tình thương của Chúa thì ngay bây giờ nếu ta sẵn sàng bước vào dự tiệc cưới, Người vẫn sẵn sàng đón nhận ta. Ta sẽ được Chúa Kitô kéo ra khỏi bóng đêm tội lỗi, được Người thanh tẩy bằng Máu Thánh của Người, bấy giờ ta sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao, niềm hạnh phúc mà ta đã từng được hưởng nếm. Y phục lễ cưới chính là lòng thống hối ăn năn của ta. Thiên Chúa đã mời tất cả mọi người dự tiệc, dù họ có một quá khứ lỗi lầm, là một người xấu đi chăng nữa, thì Thiên Chúa vẫn đón nhận họ. Thiên Chúa đã chờ đợi con người quá lâu, đến nỗi Người đã trực tiếp thân hành đến giữa họ. “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ta có nhận ra Người không? Đừng chần chừ nữa, hãy mang lấy tấm áo của lòng thống hối ăn năn, sẵn sàng mặc lấy tấm áo ấy là sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa để thay đổi chính mình. Đó cũng chính là lúc ta sẵn sàng đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời của Thiên Chúa vang lên trong lòng ta, hãy để Người biến đổi cuộc đời ta.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa vẫn chờ đợi con. Người không mỏi mệt để lên tiếng trong lòng con, không mỏi mệt khi tha thứ cho con. Xin giúp con đủ sức để chiến đấu trong cuộc chiến đấu với chính mình, để chọn lựa ưu tiên của con là chọn Chúa trên hết mọi sự. Xin làm cho con trở nên sẵn sàng trước tình yêu bao la của Chúa. Amen.
Dù sáng sớm hay chiều về, đường phố luôn tấp nập. Con đường ngập tràn tiếng xe, tiếng cười. Bao TN 28-A182
Dù sáng sớm hay chiều về, đường phố luôn tấp nập. Con đường ngập tràn tiếng xe, tiếng cười. Bao màu sắc phong phú của trang phục như những sắc hoa trải dài trên các nẻo đường. Những màu sắc này là vẻ đẹp riêng của các trường học, công ty, công sở và các công việc khác nhau, là dấu chỉ để cho biết nơi mà mỗi người hiện diện.
Cuộc sống ở trần gian có những quy định về sắc cờ mầu áo thì cuộc sống Nước Trời cũng vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã chuẩn bị và trao cho mỗi người những trang phục để vào dự tiệc cưới Nước Trời. Ai không có y phục lễ cưới, người đó sẽ không được dự tiệc cưới.
Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện một ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai các đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước đến dự tiệc, nhưng họ lấy lý do để từ chối khéo. Ông lại sai đầy tớ đi mời lần hai, họ vẫn không đến. Sau đó, nhà vua liền sai các đầy tớ ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào. Trong số người dự tiệc, có một người không mặc y phục lễ cưới. Nhà vua hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22,12). Người ấy câm miệng không nói được gì. Cuối cùng, anh ta đã bị quăng ra bên ngoài vì không mặc y phục lễ cưới.
Nhìn vào thực tế, mỗi khi đến với Chúa trong Thánh lễ, chúng ta đã mặc trang phục như thế nào? Trang phục trong Thánh lễ là một hành động nhỏ nói lên niềm tin và sự tôn kính của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Có thể nói, người không mặc đúng y phục đã được chuẩn bị là người không dám cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Anh muốn dự tiệc nhưng lại không muốn chung một niềm vui với chủ nhà, không muốn trở nên một với chủ nhà và không muốn thuộc về một nhà. Bởi đó, khi nhà vua hỏi, anh chỉ biết câm miệng, không nói được gì. Nếu ngay lúc đó, anh thật lòng muốn, anh có thể xin lỗi nhà vua và đi lấy y phục lễ cưới mặc vào, anh sẽ được ở lại. Nhưng, anh đã để cho mình mất cơ hội dự tiệc cưới. Còn những người không đến dự tiệc là những người đã bỏ mất cơ hội vào Nước Trời. Họ đã lấy những lý do riêng để từ chối. Những lý do đó có thật sự cần thiết không? Hay chúng ta chỉ muốn che dấu sự không muốn của mình. Như vậy, có nhiều lý do khiến chúng ta không được ở trong Nước Trời. Những lý do đó đều xuất phát từ chúng ta. Nhìn lại chính mình, tôi có đang từ chối bữa tiệc Nước Trời không?
Chúa Giêsu đã nói: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Vâng, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người hãy có thái độ sẵn sàng và mau mắn mặc y phục hòa giải, y phục sám hối, y phục khiêm tốn trước khi đến dự tiệc Thánh Thể . Nếu không, những thái độ trang nghiêm của chúng ta dù có thế nào cũng không trọn vẹn để vui hưởng niềm vui hạnh phúc của người biết mình được Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, xin dạy con luôn có thái độ sẵn sàng và biết mau mắn mặc y phục sám hối, y phục khiêm tốn, y phục hòa giải mỗi khi đến tham dự Thánh lễ và khi đến với tha nhân. Nhờ đó, con được hưởng trọn vẹn tiệc cưới Nước Trời ngay ở đời này và cả đời sau. Amen.
Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng tiệc cưới cho con, nhà vua nhiều lần đi thử các quan khách nhưng họ TN 28-A183
Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng tiệc cưới cho con, nhà vua nhiều lần đi thử các quan khách nhưng họ không những không chịu đến mà còn bắt các đầy tớ của vua mà giết chết. Cuối cùng nhà vua nổi cơn thịnh nộ sai quân đi tru diệt và thiêu hủy thành phố của bọn sát nhân. Rồi nhà vua sai người ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào dự tiệc cưới.
Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay như một hồi chuông cảnh tỉnh không chỉ cho những người trong giới lãnh đạo Do Thái mà còn cho cả mỗi người chúng ta. Thiên Chúa chính là vị vua trong câu chuyện, Người luôn hết lòng kiên nhẫn để kêu mời chúng ta vào dự “tiệc cưới Con Chiên”, là hạnh phúc Nước Trời. Trong câu chuyện trên, những kẻ được mời đã không lấy làm vinh dự khi được nhà vua mời nhưng đã tỏ ra hờ hững, “không thèm đếm xỉa” hay quan tâm đến lời mời đó. Tại sao vậy? Phải chăng họ chẳng xem vua ra gì? Hay vì họ quá bận rộn đến việc mình, và cũng chẳng sợ mất lòng vua? Cũng như các quan khách trong câu chuyện, chúng ta thường có vô vàn lý do để biện minh cho hành động của mình: bận đi thăm nông trại, đi buôn bán… (x.Mt 22,5). Phải chăng vì chúng ta quá “bận rộn” mà quên lời mời gọi của Thiên Chúa? Khi con người bận tâm với những sự chóng qua ở đời này, “cơm áo gạo tiền”, chúng ta sẽ chẳng còn thì giờ để nhớ đến lời mời của Thiên Chúa. Chẳng hạn, Chúa mời ta gặp gỡ Ngài cách đặc biệt vào các ngày lễ Chúa Nhật nhưng ta không thể đến vì còn bận đi shopping, đi nghỉ dưỡng, đi bán hàng… Lời mời gọi của Thiên Chúa là một lời mời gọi cao trọng. Có bao giờ ta có thể nghĩ được rằng Thiên Chúa Tối Cao lại cất công mời ta, để tâm đến ta?
Quả thực, lời mời gọi của “Nhà vua” thực sự rất cao quý nhưng không phải ai cũng nhận ra điều đó. Trong thánh vịnh số 8 có nói: “Ngắm tầng trời cao tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài. Mà con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm” (Tv 8,4-5). Thật vậy, ta chẳng là gì nhưng lại được Chúa đoái thương nhìn tới, dành cho ta một lời mời danh dự, cao quý là dự “tiệc cưới Con Chiên”. Mà Con Chiên ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã từng bày tỏ: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,13). Sở dĩ thánh Phaolô nói được như vậy là vì đối với ngài, Đức Giêsu Kitô chính là lẽ sống, là sức mạnh và là cùng đích. Ngài chỉ quan tâm một điều là đáp trả lời mời gọi Thiên Chúa dành cho Ngài ngang qua Đức Giêsu Kitô, vì thế mà Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả. Còn đối với chúng ta, Thiên Chúa ở vị trí nào trong cuộc sống của chúng ta? Nếu chúng ta xem Chúa là trên hết và trước hết và là vua cả trời đất thì chúng ta sẽ sẵn sàng đáp lại lời gọi yêu thương của Ngài và lấy làm vui thích vì được Chúa đoái thương, mời gọi. Khi ấy, ta sẽ thấy rằng, “cơm áo gạo tiền” quan trọng thật nhưng hạnh phúc đời sau mới là cốt yếu. Nhờ đó, ta sẽ bớt phải lo nghĩ đến chuyện “no” hay “đói” nhưng là làm sao để có được hạnh phúc đời đời; “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (x. Ga 17,3).
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha đã đoái nhìn, yêu thương và mời gọi chúng con vào “dự tiện cưới Con Chiên”. Xin Cha thương xót chúng con và giúp chúng con đừng quá bận tâm đến những sự chóng qua ở đời này, “no” hay “đói” nhưng là hạnh phúc đời đời là được dự tiệc cưới của Con Cha. Xin cũng giúp chúng con ngay ở đời này biết chuẩn bị cho mình y phục lễ cưới cho xứng hợp với lời mời gọi cao quý mà Cha dành cho chúng con. Amen.
Dụ ngôn vị vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nhà vua lần đầu gởi thiệp mời đến thân hữu TN 28-A184
Dụ ngôn vị vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nhà vua lần đầu gởi thiệp mời đến thân hữu nhưng họ không đáp trả. Lần thứ hai, thay vì gởi thiệp, sợ thất lạc chăng, nhà vua sai gia nhân đến tận nhà từng thân hữu mời. Kẻ viện lí do việc gia đình, kẻ khác bận lo việc thương mại, kẻ khác nữa xỉ nhục, xua đuổi và có kẻ giết chết gia nhân. Coi thường không tham dự tiệc cưới của bạn thân giết chết tình thân hữu. Không thèm tham dự tiệc cưới của hoàng tử là một xỉ nhục cho nhà vua, hành động coi thường hoàng gia. Nhà vua buồn vì cách đối xử không thân thiện của các bạn hữu thì ít, nhưng có lẽ buồn hơn cả là cách họ đối xử tàn tệ với gia nhân thân tín hoàng gia. Gieo gió ắt gặt bão. Tất cả đều khởi sự bởi khách được mời, nhà vua sai lính tru giệt kẻ sát nhân. Những người tàn ác với người khác giờ chính họ trở thành nạn nhân. Không gì ngăn cản được tiệc cưới nhà vua định tổ chức cho hoàng tử. Thay vì mời thân hữu, nhà vua ra lệnh cho gia nhân mời bất cứ ai họ gặp trên đường phố. Người ta vui mừng đón nhận và tiệc cưới đầy tràn thực khách. Niềm vui nhà vua chợt tắt khi nhận ra có thực khách không tuân thủ quy luật tiệc cưới hoàng gia. Anh ta không những bị đuổi ra và còn bị lưu đầy trong ngục thất.
Dụ ngôn tiệc cưới là một dụ ngôn bất thường ở nhiều điểm. Thứ nhất, thực khách không dự tiệc cưới thì thôi, sao lại hãm hại người đi mời, kẻ vô tội. Thứ hai, trước tiệc cưới nhà vua sai lính giết kẻ phản loạn; tang thương, chết chóc, nhà tan, cửa nát, hình ảnh thêm lương trước đám cưới có phải là việc nên làm chăng? Nhà vua có dư thời gian trị tội kẻ phản loạn sau khi tiệc cưới hoàn thành. Thứ ba, thực khách bị tống ngục cũng là điều hơi lạ. Đuổi khỏi bàn tiệc, không cho tham dự, đã là xỉ nhục lắm rồi. Thứ tư, câu ‘kẻ được gọi thì nhiều mà được chọn tì ít’ (c.14) dường như không ăn nhập gì với tiệc cưới. Thứ năm ngôn từ trong dụ ngôn cũng bất thường. Đây là ngôn ngữ dùng cho ngày phán xét ‘Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc và nghiến răng’ (c.13). Câu này ám chỉ dụ ngôn tiệc cưới không phải là đám cưới trần gian, nơi xã hội mà chính là ám chỉ hình ảnh tiệc cưới nước trời. ‘Vua’ chính là Thiên Chúa, Vua vũ trụ. Gia nhân sai mời chính là các tiên tri, sứ giả của Thiên Chúa. Người được chọn mời là dân Israel. Người đầu đường, góc phố là dân ngoại nay trở thành dân riêng của Chúa. Áo cưới đây không phải là lụa là, gấm vóc, cũng không phải là tư cách cá nhân, mà chính là các nhân đức, đức hạnh. Thực khách không mặc áo cưới chính là người không có nhân đức, đức hạnh. Nơi khóc lóc, nghiến răng chính là nơi thiếu tình thương, thiếu bác ái. Kẻ giết gia nhân không phải tất cả dân Israel mà chính là người lãnh đạo trong dân. Phúc âm tuần trước nhắc đến nhóm này, họ là lãnh tụ Đền Thờ, Giới Trưởng Lão, Pharasiêu và Biệt Phái. Câu ‘kẻ gọi thì nhiều mà được chọn thì ít’. Có lẽ nhà vua nói với chính mình. Không phải những người được mời tất cả đều từ chối dự tiệc cưới. Một số từ chối, một số tham dự. Tuy nhiên so sánh với số thực khách mời đầu đường, góc phố, thì số được chọn quả là quá ít người tham dự. Như thế câu trên nói riêng cho đám thực khách được mời đầu tiên. Nhiều người được mời nhưng ít người chọn tham dự. Dụ ngôn nói về ngày phán xét. Kẻ tốt được tham dự tiệc cưới thiên quốc, kẻ xấu bị loại ra ngoài nơi tràn đầy đau thương, khổ ải.
Chúng ta, Kitô hữu, đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi thành dân riêng Chúa, theo con đường vua tình thương hướng dẫn, bảo bọc. Chúng ta dâng lời cảm tạ vì Thiên Chúa kêu gọi chúng ta vào dự tiệc cưới Thiên quốc, nơi bình an thật, hạnh phúc tràn đầy, tình thương vô hạn.
Để mạc khải về Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã dùng nhiều TN 28-A185
Để mạc khải về Nước Trời là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn và nhiều hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống của người Do-thái. Hai dụ ngôn và hình ảnh được Chúa Giêsu ưa dùng nhất là Vườn Nho và Tiệc Cưới.
Trong dụ ngôn Tiệc Cưới của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày một khía cạnh quan trọng của Nước Thiên Chúa. Đó là Nước Thiên Chúa được dành cho hết mọi người nên cánh cửa Phòng Tiệc rộng mở để đón tiếp mọi khách mời. Nhưng không phải ai muốn vào dự tiệc là vào, mà ít nhất người đến dự tiệc phải mang trang phục thích hợp với tiệc cưới, vì được mời dự tiệc cưới của hoàng tử, con vua, là một vinh dự quá sức lớn lao nên khách mời phải tỏ lòng trân trọng tấm lòng và thiệp mời của đức vua.
II. LẮNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 25,6-10a): "Chúa mời đến dự tiệc của Người và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt" Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta. Đây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này.
2.2 Trong bài đọc 2 (Pl 4,12-14.19-20): "Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi" Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi. Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ nỗi quẫn bách của tôi. Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen!
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 22,1-14): Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới" Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đức Chúa các đạo binh, là Đấng quan tâm đến những nỗi buồn khổ của nhân loại nên sẽ đứng ra tổ chức một bữa tiệc linh đình, đầy thịt béo và rượu ngon cho muôn dân (bài đọc 1). Nói một cách khác, Thiên Chúa “sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Chúa Kitô Giêsu” (bải đọc 2).
- Là Nhà Vua trong dụ ngôn tiệc cưới, Đấng tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử là Chúa Giêsu. Dân Israel đã được Thiên Chúa ưu tiên mời tham dự tiệc cưới của Ngôi Lời nhập thể, nhưng họ đã coi thường lòng ưu ái và lời mời của Thiên Chúa nên Thiên Chúa trừng phạt họ và chuyển lời mời đến hết mọi người mọi dân vào dự tiệc cưới (bài Phúc âm).
- Là Chúa Giêsu, Đấng đã dùng dụ ngôn Tiệc Cưới để giúp những người đồng hương Israel (và nhiều người khác trong mọi thời đại) nhận ra tội lỗi của họ là đã xem thường lòng ưu ái và lời mời trân trọng của Thiên Chúa (bài Phúc âm).
- Là Chúa Thánh Thần, Đấng tác động và giúp đỡ mọi người, nhất là các Ki-tô hữu, nhận ra giá trị của Tiệc Cưới Nước Trời để mau mắn đáp lại tấm lòng ưu ái và lời mời trân trọng của Thiên Chúa mà đến tham dự tiệc cưới với y phục tương xứng.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “KHÁCH DỰ TIỆC CƯỚI PHẢI MANG TRANG PHỤC LỄ CƯỚI”
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, nhất là ơn được mời gọi dự tiệc Nước Trời là vương quốc Tình Yêu.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay,
- trước hết mỗi người chúng ta phải hiểu ý nghĩa của dụ ngôn Tiệc Cưới của Hoàng Tử là Nước Thiên Chúa, là Vương Quốc Tình Yêu mà Thiên Chúa muốn thiết lập giữa nhân loại và cho muôn dân, nhờ và nơi Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chí Ái của Người;
- kế đến phải biết trân trọng tấm lòng ưu ái và niềm vinh dự mà Thiên Chúa dành ưu tiên cho dân Ít-ra-en và các Ki-tô hữu chúng ta, và
- sau cùng là biết gác lại tất cả những mối bận tâm và công ăn việc làm mà đến tham dự Tiệc Cưới Nước Trời với y phục lễ cưới đàng hoàng.
Y phục lễ cưới đàng hoàng cụ thể là:
* lòng tin-cậy-mến mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa và chúng ta có trách nhiệm làm tăng triển từng ngày bằng những việc làm cụ thể;
* tâm hồn trong trắng, nhiệt thành và khiêm nhu; * những hy sinh, quên mình vì người khác nhất là người nghèo; * những đóng góp cho một xã hội công bằng và yêu thương; * những nỗ lực bênh vực công lý và sự thật; * những đóng góp cho các thành phần của Giáo hội sống mật thiết với Thiên Chúa và yêu thương anh em đồng loại.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế. » Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người và hết mọi dân tộc để ai nấy đều biết trân trọng tấm lòng của Thiên Chúa mà đến dự tiệc của Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Chúa Kitô Giêsu.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và cho toàn thể các tín hữu, để mọi Kitô hữu được tràn đầy ơn phúc của Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu trong giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người mau mắn đáp lại tấm lòng và lời mời trân trọng của Thiên Chúa mà hân hoan đến dự Tiệc Cưới Nước Trời.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?» Chúng ta hãy cầu nguyện cách riêng cho các Kitô hữu khô khan, nguội lạnh, thờ ơ với Đạo và chểnh mảng với việc đón nhận các Bí Tích, để họ nhận thức được sự cao trọng của Ơn Thánh Chúa mà sắm sửa cho mình y phục tiệc cưới mỗi khi đến gần Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigòn ngày 11 tháng 10 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Thiên Chúa yêu thương tìm ngỏ lời và kết ước với loài người, trong khi loài người lại phản bội TN 28-A186
Thiên Chúa yêu thương tìm ngỏ lời và kết ước với loài người, trong khi loài người lại phản bội lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa. Dụ ngôn diễn tả sự phản bội ấy: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.
Nhưng dù loài người có rắp tâm phản bội đến đâu, Thiên Chúa vẫn thủy chung trong tình yêu của mình. Chính trong tình yêu bền bỉ ấy, Thiên Chúa sai Con Một là Chúa Giêsu đến trần gian, đưa loài người vào dự tiệc tình yêu hạnh phúc với Người.
Đặc biệt, dụ ngôn làm nổi bật sự thủy chung bền bỉ ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa tiếp tục mời gọi hết lớp người này đến lớp người khác: “Những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Tuy nhiên, khách được mời phải mặc áo cưới. Dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới. Đó là lẽ tự nhiên và hợp lý. Kitô hữu cũng vậy, một khi đã cam kết bước theo lời mời gọi của Thiên Chúa, họ phải có đời sống phù hợp. Họ phải “mặc áo cưới” để theo Người. “Mặc áo cưới” nghĩa là gì? Đó là:
– Trung thành thờ phượng, tín thác vào Chúa. – Biết để Thiên Chúa làm chủ mọi năng lực sống trong đời mình. – Luôn vững tin, cậy và yêu mến Thiên Chúa là Cha tuyệt đối thánh thiện. Đồng thời tin tưởng, cậy trông và yêu mến Chúa Giêsu, Đấng hy sinh thân mình vì ơn phần rỗi của chúng ta. Hướng về Chúa Thánh Thần, ta cũng dâng lên Người lòng tin, cậy, mến như với Ngôi Cha và Ngôi Con. – Ăn năn sám hối chân thật vì sự kính trọng mà ta dành cho Thiên Chúa. Ngoài Người, không có ai đáng được kính trọng như thế. – Đào tạo bản thân có trái tim trong sạch và gột rửa thường xuyên trí lòng bằng việc lãnh bí tích hòa giải để làm hòa cùng Thiên Chúa. – Sẵng sàng hiệp thông và trao tặng lòng mến của mình đến mọi người. – Thay đổi đời sống, làm sao ngày mai phải tốt, phải thánh hơn hôm nay. – Xa tránh cám dỗ và tội lỗi, tập nhân đức, bỏ ý riêng sống theo ý Chúa. – Bỏ ích kỷ cá nhân, mặc lấy bác ái, vị tha. – Dẹp bỏ tham lam, ô uế, gian tà để xứng đáng đón tiếp tình yêu của Chúa. – Bỏ hiềm khích, vô ơn, bất chính, mặc lấy lòng xót thương, lòng biết ơn. – Bỏ sự hờ hững, vô tâm, mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông… – Có trái tim rung động trước tình yêu của Chúa, không chai đá chỉ biết chạy theo những gian dối của trần gian.
Tóm lại, “mặc áo cưới” là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới, cách sống mới.
Vậy để có thể giữ tình trạng “mặc áo cưới” của mình lâu bền, chúng ta hãy chuyên chăm cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trí lòng, để có thể tỉnh táo luôn mà tẩy rửa linh hồn. Xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh, giúp ta kiên quyết đến cùng trên con đường theo đuổi sự thánh thiện. Xin Chúa Thánh Thần nắm lấy tay ta, để không trượt ngã trên đường theo Chúa suốt đời ta.
Và bản thân, hãy cộng tác với ơn của Chúa Thánh Thần để trung thành giữ cho mình luôn trong tình trạng “mặc áo cưới”, đó là ra sức chống trả mọi tư tưởng gian tà, quyết thực hành lề luật của Chúa, của Hội Thánh, không sống theo xác thịt với những đam mê dục vọng của nó.
Lạy Chúa, xin ban sức mạnh cho chúng con, để chúng con luôn biết “mặc áo cưới” mà theo Chúa. Xin Chúa đừng loại bỏ chúng con, nhưng xin cho chúng con được ơn tha thứ. Mai đây, khi đi qua cõi đời này, Xin Chúa cho chúng con hưởng thánh nhan Chúa muôn đời. Amen.
Cuối tháng 09 năm 2020, khi Việt Nam bớt lo về dịch corona thì vẫn có những thứ đáng quan ngại TN 28-A187
Cuối tháng 09 năm 2020, khi Việt Nam bớt lo về dịch corona thì vẫn có những thứ đáng quan ngại khác. Một trong các mối quan ngại đó là cách cư xử ác ý của con người, cụ thể là cô gái trẻ Cà Thị Út (24 tuổi) đã nhẫn tâm “bom” 150 bàn tiệc cưới tại một nhà hàng ở P. Mường Thanh, TP. Điện Biên Phủ, mỗi bàn giá 1.350.000 đồng, hẹn tổ chức vào trưa ngày 30-09-2020. Nhưng rồi cô ta “biến mất” và không một thực khách nào tới. Đại tiệc hóa đại họa. Một cô gái trẻ người mà quá nhẫn tâm!
Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người Việt có câu: “Ăn có mời, làm có khiến.” Ở đây không có ý tiêu cực hoặc thụ động, mà có ý nói phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp thường nhật, và người ta cũng so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.” Ai cũng đã từng đi dự tiệc, dù là trẻ em, vì xã hội càng phát triển, người ta càng có nhiều loại tiệc: Cưới hỏi, tân gia, đầy tháng, thôi nôi,… Không mặn nhiều cũng mặn ít, đơn giản nhất cũng là tiệc trà. Phú quý sinh lễ nghĩa, trẻ em ngày nay cũng thích tổ chức sinh nhật để có dịp vui với bạn bè. Có lẽ tiệc cưới là loại tiệc phổ biến – từ thành thị tới thôn quê.
Đám tiệc thì phải có ăn uống. Đó cũng là cách người ta mặc nhiên cho rằng “chuyện ăn uống” là vấn đề quan trọng, “ăn uống” chứ không “ăn uổng.” Thành ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi tiên.” Ý nói nhân dân coi vấn đề ăn là vấn đề to lớn nhất, cơ bản nhất trong cuộc sống (tr. 123, “Từ điển Thành ngữ Điển cố Trung quốc,” GS Lê Huy Tiêu biên dịch, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993). Câu đó có nguồn gốc từ một câu trong Hán Thư: “Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên” – Vua chúa lấy dân làm trời, nhân dân lấy (cái) ăn làm trời. Quả thật, ăn là vấn đề cần thiết, vì liên quan vấn đề sinh tồn. Ăn uống thể hiện văn hóa, đó là bài học thứ nhất trong bốn thứ phải học đầu tiên: Học ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ. Có thể nói rằng miếng ăn cần thiết tương tự khí trời để hít thở, như điều kiện “ắt có và đủ” vậy. Tuy nhiên, miếng ăn có thể khiến người ta vinh dự hay nhục nhã.
Ai cũng phải cố gắng chịu đựng khi gặp đau khổ thì mới có thể hy vọng hạnh phúc sẽ đến sau. Các vị tử đạo đã không sợ đau khổ, dám thí mạng vì niềm tin vào Đức Kitô, và họ được Thiên Chúa thưởng công. Hai người yêu nhau, chung thủy và tin tưởng trong khoảng chờ đợi nhau, hạnh phúc sẽ mỉm cười với họ. Ai kiên trì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Khổ luyện là điều tất yếu.
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia cho biết: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.” (Is 25:6) Toàn là cao lương mỹ vị, rất ngon, đáng mơ ước lắm. Không chỉ vậy mà còn hơn thế nữa, niềm vui khả dĩ nhân đôi: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người.” (Is 25:7-8) Thiên Chúa hứa như vậy, và chắc chắn như thế: “Đường lối Thiên Chúa quả là toàn thiện, lời Đức Chúa hứa được chứng nghiệm tỏ tường.” (2 Sm 22:31a)
Thật vậy, ngày ấy người ta sẽ cùng nhau râm ran: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.” (Is 25:9) Tất cả rạch ròi, hai năm rõ mười: “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ. Còn Mô-áp sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân.” (Is 25:10)
Đức tin là một hồng ân, và cũng là một nhân đức. Tin Chúa là có Chúa trong lòng, có Chúa rồi thì chẳng còn gì phải bồi hồi, xao xuyến: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Thật vậy, một lần khác, Thánh Vịnh gia cũng đã xác định: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.” (Tv 37:5) Đó là hành động của đức tin, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng và tiền định. Những người thực sự tín thác vào Chúa thì chẳng có gì khiến họ lo lắng, sợ hãi, vì họ luôn hướng về Chúa, mọi nơi và mọi lúc, như Thánh Vịnh gia xác định: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23:4)
Kinh Thánh nói: “Như cột kèo chắc chắn trong toà nhà, dù động đất cũng chẳng lung lay; một tâm hồn cương quyết theo kế hoạch đã định, gặp thời vận hạn cũng không nao núng.” (Hc 22:16) Sau gian truân, thử thách, đau khổ, người trung tín sẽ được Thiên Chúa tuyên dương công trạng: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:5) Hạnh phúc biết bao, chắc hẳn không ai có thể hoãn lại cái sự sung sướng đó, mà phải bày tỏ cho người khác biết: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Sự thật không thể giấu giếm, niềm vui không thể đè nén.
Giống như Thánh Phaolô, các tín nhân sẵn sàng chấp nhận mọi thứ mà không đòi hỏi: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.” (Pl 4:12-14) Đối với những người có đức tin vững mạnh, chắc chắn không có gì có thể tách rời họ khỏi tình yêu của Đức Kitô, (x. Rm 8:35) bởi vì họ luôn tâm niệm lời Ngài nhắn nhủ và động viên: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16:33)
Có ý động viên người khác, Thánh Phaolô nói rõ ràng với niềm tín thác kiên định: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời! Amen.” (Pl 4:19-20) Và Thánh Vịnh gia cũng mời gọi mọi người: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9) Chắc chắn bất cứ ai đã ít nhiều cảm nghiệm sự ngọt ngào của Chúa thì cách sống của họ cũng hoàn toàn khác. Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người đến với Ngài, bất cứ lúc nào, càng sớm càng tốt.
Dụ ngôn “tiệc cưới” (Mt 22:1-14 ≈ Lc 14:15-24) là cách thể hiện lời mời gọi chân thành của Thiên Chúa dành cho mọi người – không trừ ai. Thực sự Ngài muốn con người hoàn thiện để xứng đáng hưởng phúc trường sinh mà Thiên Chúa dành cho những ai tin nhận và tôn thờ Ngài.
Kể dụ ngôn là đặc điểm mỗi khi Chúa Giêsu giảng thuyết. Chính Chúa Giêsu đã nói với dân chúng về dụ ngôn Tiệc Cưới. Ngài nói rằng Nước Trời giống như chuyện một ông vua mở tiệc cưới cho con mình. Ông sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, nhưng họ không chịu đến. Ông lại sai gia nhân đi mời quan khách đã được mời, nói rõ rằng cỗ bàn đã dọn xong, cao lương mỹ vị đã sẵn. Nhưng họ viện đủ cớ bận rộn để thoái thác: thăm trại, buôn bán,… thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, sỉ nhục và sát hại họ.
Nhà vua nổi cơn thịnh nộ khi nghe tâu lại, ông liền sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng, rồi ông nói với đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã ĐƯỢC MỜI lại KHÔNG xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, mời mọi người đến dự tiệc cưới, bất kể họ là ai.
Theo phong tục Do Thái, tiệc cưới thường đãi ban đêm, và có phòng cho mọi người thay lễ phục rồi mời vào phòng tiệc. Đến giờ cử hành hôn lễ, nhà vua tiến vào, quan sát và chợt thấy có một người KHÔNG mặc y phục lễ cưới, nhà vua hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy cúi đầu lặng thinh, không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” Thật đáng quan ngại!
Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó. Phải chăng chỉ ít người được vào Nước Trời? Rất có thể. Bởi vì người ta chỉ “giật mình” khi nghe lời Chúa “chạm” đến chính mình, nhưng rồi đâu lại vô đó. Con người vốn yếu đuối, dễ “lờn thuốc,” không cố gắng thì “ngựa quen đường cũ,” lại sa đà ngay thôi. Có phải chúng ta được “cài đặt” mặc định với cái tên “Nguyễn Y Vân” (vẫn y nguyên) hoặc “Vũ Như Cẩn” (vẫn như cũ) chăng? Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời.” Thực sự rất khó để “cởi bỏ” con-người-cũ để có thể “mặc lấy” con-người-mới. Xuống dốc “khỏe” hơn leo dốc. Vì thế mà phải tỉnh thức và nỗ lực rất nhiều, nỗ lực triền miên và không ngừng. Ước gì chúng ta được có tên trong danh sách “số ít được chọn” ấy. Đó mới là niềm vui đích thực của tín nhân.
Là tín hữu Công giáo, chúng ta luôn được mời gọi tham dự hai bữa tiệc: Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Thật vậy, trong mỗi Thánh Lễ, linh mục đại diện Chúa Giêsu vẫn tha thiết mời gọi: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.” Thật là diễm phúc nếu chúng ta đón nhận chính Đức Giêsu Kitô vào lòng để được hòa tan vào Ngài, tâm sự với Ngài. Sau rước lễ, nên dành những giây phút quý giá và hiếm hoi để “hòa tan” vào Đức Giêsu Kitô – hòa tan cả linh hồn và thể lý. Chúa Giêsu muốn ở gần chúng ta – không rời dù chỉ trong tích tắc – nên Ngài mới thiết lập Bí tích Thánh Thể, đúng như Ngài đã nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20)
Tình yêu của Chúa Giêsu quá lớn lao, chúng ta không đủ mức để hiểu thấu. Câu nói đó là lời hứa của Chúa Giêsu, cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, và cũng chỉ có Phúc Âm này ghi lại câu này. Mọi điều Chúa hứa đều ứng nghiệm chính xác: “Ai kính sợ Người, Người ban phát của ăn; giao ước đã lập ra, muôn đời Người nhớ mãi.” (Tv 111:5)
Lạy Thánh Phụ chí thánh, xin cảm tạ Ngài đã ban Thánh Tử Giêsu cho chúng con, xin giúp chúng con biết chuẩn bị “áo cưới” để xứng đáng tham dự Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể, nhất là Đại Tiệc Thiên Quốc vĩnh hằng. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết siêng năng kết hiệp với Ngài và được sống dồi dào, (Ga 10:10) xin giúp chúng con nhận thức rằng không có Ngài thì chúng con không thể làm được gì. (Ga 15:5) Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thánh Phụ với Thánh Thần muôn đời, và là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Với hình ảnh bữa tiệc, các ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng TN 28-A188
Với hình ảnh bữa tiệc, các ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc vào thời cánh chung, đồng thời ơn cứu độ được thực hiện cho muôn dân nước vào thời thiên sai. Bàn tiệc cánh chung và bàn tiệc thiên sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong đoạn trích “khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân là bàn tiệc cánh chung. Đây là niềm vui của những người được tuyển chọn, theo đó mọi đau khổ và sự chết hoàn toàn biến mất trong Thiên Quốc.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tâm tình tri ân đối với cộng đoàn Ki-tô hữu này. Trái với thông lệ của mình, ngài đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất của họ khi ngài gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng là dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử mà Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách của mình. Những quan khách được mời lại từ chối. Lời mời được gởi đến cho tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Bản văn này bao gồm các chương 24-27, đây là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại “sấm ngôn khải huyền”. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn này không phải là ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau này.
Viễn cảnh là thời cánh chung hòa lẫn với viễn cảnh thời thiên sai. Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân, diễn tả ơn cứu độ phổ quát cũng như niềm vui chan chứa của những người được tuyển chọn.
Viễn cảnh thời cánh chung “Ngày ấy, trên núi này,
Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc”.
“Trên núi này”, đó là núi Xi-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Xi-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2: 1-5).
Cũng được chính vị ngôn sứ này nhắc lại:
“Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ mày, vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem” (24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một viễn cảnh như thế (Dcr 8: 20-23). Thời cánh chung sẽ là thời điểm Đức Chúa ngự trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc hoàng gia. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề này trong dụ ngôn “tiệc cưới hoàng gia” (Mt 22: 1-14).
Trong bữa tiệc này, thức ăn và thức uống đều hảo hạng:
Phẩm chất hảo hạng của bữa tiệc thắp sáng tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với khách mời. Cho đến lúc đó, trong các hy lễ “thịt béo” luôn luôn được dành riêng dâng lên Thiên Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp này, “rượu ngon” là niềm vui vĩnh viễn:
“Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn liệm bao trùm muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần”
Sách Khải Huyền của thánh Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chan chứa hy vọng này: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
Viễn cảnh thời thiên sai Sấm ngôn hoàn tất với bài ca cảm tạ tri ân về những thiên ân chưa từng được ban cho và một niềm tin tưởng vô bờ:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa, chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ’”.
Niềm vui tròn đầy, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu thời thiên sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ của bữa tiệc thiên sai đích thật: bữa tiệc thánh thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20)
Đoạn trích thư hôm nay là phần kết thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê.
Chấp nhận sự trợ giúp của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê
Xin nhắc lại, thánh nhân viết bức thư này khi ngài đang sống trong cảnh giam cầm hoặc ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ thánh nhân trong hoàn cảnh bị giam cầm, vả lại đây không là lần đầu tiên (x. Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn duy nhất mà thánh nhân đã không từ chối giúp đỡ vật chất. Thánh nhân luôn bận lòng là không bao giờ trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không, như “đầy tớ” của Đức Ki-tô, Đấng không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính đôi tay của mình để cung cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12).
Tuy nhiên, do mối thân tình và niềm tin tưởng của thánh nhân đối với các tín hữu Phi-líp-phê, ngài chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành của họ đối với ngài.
Hài lòng trong mọi hoàn cảnh
Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Épictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết này múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Ki-tô, Đấng sống trong thánh nhân.
Vị sứ đồ muốn các tín hữu hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai, ngài quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1Cr 9: 12).
Cám ơn tấm lòng của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê
Thánh Phao-lô bày tỏ lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời này: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ (các tín hữu Phi-líp-phê) vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3).
Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ từ bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói về các tín hữu Phi-líp-phê như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối thư, thánh nhân ngỏ lời trước hết với “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó với “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14)
Dụ ngôn này cùng với hai dụ ngôn đi trước: dụ ngôn hai người con và dụ ngôn những tá điền gian ác, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: lương dân thay thế dân tuyển chọn, dân bất trung với sứ mạng của mình. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: trong dụ ngôn tiệc cưới, dấu nhấn được đặt trên ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn này chứa đựng hai bài học: bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung, cả hai viễn cảnh này rất thường được đặt chồng lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
Bàn tiệc thời thiên sai (22: 1-7)
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, “Đức Vua” đại diện Thiên Chúa, “Người Con” đại diện Đấng Cứu Thế, và “tiệc cưới hoàng gia” là giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Các quan khách được đức vua ưu ái gởi thiệp mời trước, sau đó sai đầy tớ đến nhắc lại, không thèm đếm xỉa tới giao ước mới này, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Vài quan khách còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và giết chết các gia nhân của vua.
Họ chẳng những không đáp trả lời mời dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội, nhưng còn bách hại các gia nhân mà vua sai đến với họ, vì thế “nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Trong bối cảnh Kinh Thánh, cách hành xử của nhà vua như thế là những án phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ gian ác này, nhưng ở đây dường như là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 Công Nguyên bởi đạo quân Rô-ma.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc màu da, tốt xấu, được mời gọi thay thế dân Ít-ra-en bất trung: “Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Sự chọn lựa giữa người tốt kẻ xấu sẽ xảy ra sau này vào thời cánh chung như trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng hay trong dụ ngôn chiếc lưới.
Trong cùng một câu chuyện của mình, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Đức Giê-su ưu ái đặc biệt, họ đã hoan hỷ tiếp đón Tin Mừng và đã dự phần vào niềm vui thiên sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người này.
Bàn tiệc thời cánh chung (22: 8-14)
Từ bàn tiệc thời thiên sai, dụ ngôn chuyển sang bàn tiệc thời cánh chung. Có sự khác biệt đáng kể giữa bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung. Trong bàn tiệc thời thiên sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi (không phải lời mời gọi của Đức Giê-su đặc biệt ngỏ lời với những người tội lỗi sao?). Trái lại, trong bàn tiệc thời cánh chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép tham dự khi mặc y phục của những người công chính.
Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn của đức vua: “Này bạn”, luôn hàm chứa sắc thái khiển trách như chủ vườn nho nói với tá điền của giờ thứ nhất: “Này bạn”, hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa đến bắt Ngài: Này bạn”.
Làm thế nào có thể trách cứ người khách này không mặc y phục lễ cưới khi mà anh được mời vào dự tiệc cưới bất ngờ từ ngoài đường? Tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Một tập tục như vậy không được chứng nhận ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thật sự rõ ràng: không ai được phép dự phần vào bàn tiệc Nước Trời, nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi Tin Mừng như lời dạy của thánh Phao-lô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27). Mặc lấy Đức Ki-tô, chính là: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4: 22-24).
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, rõ ràng không ăn khớp với phần thứ hai của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời cánh chung, trong đó một số lượng lớn khách được mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn câu cuối này liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời thiên sai, trong đó một ít người dân Ít-ra-en, dân tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thiên sai, khi so sánh với muôn dân nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng, tham dự bàn tiệc thiên sai, gia nhập Giáo Hội.
Cuộc sống mỗi người được ví như cuốn sách: kẻ không bình thường ngáo ngán muốn lật giở TN 28-A189
Cuộc sống mỗi người được ví như cuốn sách: kẻ không bình thường ngáo ngán muốn lật giở sang trang cho mau lẹ, các vị khôn ngoan vừa đọc vừa suy gẫm, người tài cao đức rộng không những nghiền ngẫm, mà còn sớm đem cái biết của mình ra thực hành. Người nói hay gặp kẻ nghe giỏi thì quả là hết ý, hiểu biết rồi sống tốt, sống đẹp, đời này còn gì hạnh phúc hơn. Đến, đi, ki cóp và thụ hưởng, có phải đó là bức tranh cuộc sống quá phức tạp: thiên hạ ồn ào vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi. Người ta không nghe, không hiểu, dửng dưng với lời hay ý đẹp, chưa chắc đã phải vì trầm cảm, đúng hơn vì họ bận tâm đến nhu cầu khác.
Xã hội từ xa xưa vẫn hiểu rằng, đi ăn tiệc cưới là cùng chia sẻ hạnh phúc với gia chủ, gọi là nợ đồng lần, nay người mai ta ; đồ ăn thức uống của chúa hay của chùa, luôn được coi là dồi dào vô tư, ai nhanh kẻ ấy có. Được mời gọi đến dự tiệc cưới “hoàng tử”, mấy ai không hiểu đó là vinh dự. Im lặng không đáp lời các đấng bậc sinh thành đã là xúc phạm, từ chối không hưởng ứng lời kêu gọi của vua chúa quan quyền là trọng tội, đáng chết. Cuộc sống trớ trêu: người khôn cho rằng đời là một giấc mơ, kẻ dại quan niệm đời là cuộc vui chơi, người nghèo hiểu cuộc đời là một bi kịch, kẻ giầu sang cho rằng sống là phải ăn, phải hưởng thụ. Tuỳ tự do mỗi người, nghe lời yêu thương, sống lời yêu thương, chính là đáp lại lời mời dự tiệc Nước-trời cách hữu hiệu nhất.
Dẫn lời yêu thương bằng dụ ngôn nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử, Chúa Giêsu diễn tả Nước-trời thật “tưng bừng” như đại tiệc: thịt béo rượu ngon luôn sẵn sàng. Nước-trời rộng mở cho mọi đối tượng, ai cũng vinh dự được mời tiến vào, dù đến hưởng phúc phải tuân thủ qui định: “mặc áo cưới”. Lời yêu thương rất cụ thể của người đói khát cơm bánh, là cần được no bụng, lời yêu thương đối với học sinh, sinh viên, là kiến thức, là bằng cấp, với người đau bệnh, lời yêu thương nhất là gặp được thầy được thuốc. Lời yêu thương mà Chúa Giêsu muốn chúng ta nghe, hiểu: “này cỗ bàn đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng, mời quý vị đến dự tiệc”.
Hạnh phúc Nước-trời sẽ gần sát và thực tế hơn, khi ta nghe được lời yêu thương, ta biết buông bỏ những ham hố sự đời, bỏ cái tôi ích kỷ, hầu minh chứng một niềm tin Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương. Cũng vì đeo đuổi thứ hạnh phúc chóng qua, bỏ mồi bắt bóng, người ta đánh mất mình, mất cả vinh dự được hưởng nếm bàn tiệc với triều thần. Vì cường độ tin yêu chưa đủ mạnh, nguy cơ ngã gục bởi tiền tài danh vọng cuốn hút, rồi lỡ hẹn với các đấng bậc, không thể nói lời yêu thương, dù là lời yêu nhỏ, tình thương bé. Vấn nạn mà bậc sinh thành từ xa xưa hằng “lăn tăn”, thế nào là yêu con yêu cháu, đâu là phương pháp giáo dục đúng, chuẩn ? Con đường đi đến thành công, chỉ cần tự tin, đầu tư đúng chỗ, đúng thời điểm. Thành quả của việc giáo dục con cháu, không phải là tài giỏi, mà hệ tại gương sáng, lời nói, việc làm.
Dụ ngôn nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử, sẽ là câu trả lời cho muôn thế hệ: “hiểu và sống lời yêu thương”, nhất thiết phải được minh chứng bằng hành động . “Tiệc cưới đã sẵn sàng, mà những kẻ được mời không đến, vậy các ngươi hãy ra các nẻo đường gặp ai cũng mời vào hết. Đầy tớ theo ý chủ liền ra đi, gặp ai bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”. Thực ra, lo lắng cơm áo gạo tiền là trách nhiệm, là bổn phận, nghỉ ngơi, mua sắm, là nhu cầu riêng tư, không ai bắt tội. Bỏ qua lời yêu thương của Thiên Chúa, từ chối không đáp lại lời mời tham dự bàn tiệc Nước-trời, là dại dột, là đáng chết. Đặt mình vào hoàn cảnh của dụ ngôn, liệu ta có đủ khôn, đủ ý chí, phân biệt thật giả, chiến thắng bản thân, thắng những vinh hoa phú quý ở đời không ?
Nếu có, nghe, hiểu, và sống lời yêu thương của Chúa, chắc chắn tiệc Nước-trời sẽ là phần thưởng. Chúng ta sẽ nghĩ gì, khi người trẻ hôm nay quả quyết rằng: dù nhiều bận rộn, nhưng “tớ” vẫn thích, vẫn đủ thời gian đọc tin nhắn, nhất là tin từ một người “tớ” thương mến. Dù khổ đau, hay hạnh phúc, dù non trẻ hay lão làng, dù địa vị cao hay thấp, bậc sinh thành, hẳn vẫn muốn chúng ta mang tinh thần người quân tử: vững như kiềng ba chân, nghe được, hiểu được, và sống được, khi gặp khó khăn, khi gặp thuận lợi. Nhất định người tài cao đức dày, không phải là họ mình đồng da sắt, người thông thái không phải là họ biết mọi điều tốt xấu, đúng, hơn họ là người biết nghe, biết mình cần được nâng đỡ bổ sức. Xin Đấng là Thầy là Chúa, giúp chúng con biết nghe, biết nói và biết sống lời yêu thương cách trọn vẹn nhất. Amen.
Một người khách ngoài đường phố, bất ngờ được mời vào bàn tiệc cưới và chủ tiệc cưới lại bắt TN 28-A190
Một người khách ngoài đường phố, bất ngờ được mời vào bàn tiệc cưới và chủ tiệc cưới lại bắt lại anh ta không mặc y phục cưới, là sao? Và tại sao nhiều người được mời vào từ các ngã đường cũng được mời vào, chỉ có một người không mặc y phục lễ cưới? Dụ ngôn được hiểu tiệc cưới đã được báo trước và cần sẵn sàng.
Tiệc cưới là gì để sẵn sàng?
Tiệc thường đi đôi với lễ, thường người Việt dùng từ “lễ lạc”. Khi bữa tiệc sau lễ không chỉ là chung vui với nhau, nhưng đặt lễ lên hàng đầu, tiệc còn mang ý nghĩa thừa hưởng niềm vui cùng với Thiên Chúa và các thần thánh trên trời.
Tiệc còn là chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, cùng chia sẻ sự sống muôn đời thần thánh trên trời đã được hưởng phúc, qua bàn tiệc trần gian. Một sự sống thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn trong khi dùng của ăn nuôi sống thể xác trên hành trình dương thế. Lý do đó, người Công Giáo còn mời chủ tế, chủ tiệc, ban phép lành bữa tiệc, hay đọc kinh, trước khi mọi người dùng bữa.
Như vậy, tiệc mang một ý nghĩa trang trọng chứ không thể hạ thấp như là bữa cỗ liên hoan, bàn nhậu… Tục hóa bàn ăn, bàn tiệc, là một điều nên tránh, để của ăn thân xác không dẫn vào đường tội lỗi.
Tiệc cưới trong Thánh Kinh còn là bàn tiệc trong Nước Thiên Chúa. Mọi người đều được mời vào dự. Khi được mời vào dự bàn tiệc, khách mời có thể từ chối hay đón nhận lời mời. Việc đáp trả lời mời cũng tùy theo cách thức thể hiện tấm lòng với chủ tiệc. Không cần quà cưới, nhưng là tấm lòng thực thi. Không cần khách sáo nhưng cần thành tâm. Không cần trang sức nhưng cần đức hạnh…
Để dự tiệc cưới chiên con trong sách Khải Huyền, còn là được thanh tẩy mọi lỗi lầm trong Máu Chiên Con, nghĩa là trong hy tế thập giá của Chúa Kitô: “Ðó là những người từ cuộc quẫn bách lớn lao đã đến; họ đã giặt áo họ và phiếu trắng tinh trong máu Chiên Con.” (Kh 7, 14).
Y phục lễ cưới.
Y phục là đặc thù của con người, dù con người có mặc cho chó mèo, hay vật nuôi nhưng quần áo cũng chỉ gọi là trang phục. Y phục thường biểu lộ một sứ mệnh được giao phó: tu sỹ, linh mục, binh lính, cảnh sát, y tá, bác sỹ… của con người mang nó. Y phục lễ cưới là những cách biểu lộ phẩm tính, phẩm hạnh hoặc là cách trẻ trung theo thời trang, thời thượng nào đó. Quan trọng vẫn là tấm lòng chứ không phải là y phục, “Chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”.
Vào tiệc cưới không mặc y phục lễ cưới. Chủ tiệc trong dụ ngôn không nói đến y phục ở bên ngoài thể hiện mà thực trạng của tấm lòng. Chuẩn bị tâm hồn dự tiệc cưới muôn đời, vào giờ không hay, vào ngày không biết, khi Chúa đến. Đó là cách mang y phục lễ cưới bằng tỉnh thức và cầu nguyện.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết sẵn sàng trong tư thế y phục: “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh lôi kéo sự chú ý của chúng ta TN 28-A191
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta hai hình ảnh lôi kéo sự chú ý của chúng ta, đó là tiệc cưới và áo cưới. Chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của những hình ảnh này.
1. Tiệc cưới
Trong các nền văn hóa, tiệc tùng, ăn uống đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân sinh.
Người Pháp có câu: “On s’attache par le repas,” nghĩa là người ta gắn bó với nhau qua bữa ăn. Người Việt thì nói: “Khách đến nhà không gà thì vịt.” Quả thế, bữa ăn là nơi gặp gỡ, chia sẻ và sống thân tình với nhau. Bữa ăn cũng nơi bày tỏ quý mến với nhau chứ không phải là nơi tranh cãi và chửi bới nhau, như cha ông ta đã khôn ngoan dặn dò: “Trời đánh tránh bữa ăn.”
Hình ảnh bữa ăn hay bữa tiệc cũng được Kinh Thánh nhiều lần nói tới. Cựu Ước nói tới bữa ăn mà tổ phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải ở Mamrê (x. St 18,1-8), hay như hình ảnh bữa tiệc được tiên tri Isaia loan báo trong bài đọc I (x. Is 25,6-10). Tân Ước cũng nói nhiều đến bữa tiệc như bữa tiệc người cha già tổ chức mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Những biến cố lớn liên quan đến Chúa Kitô đều gắn liền với bữa tiệc như Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai với việc đến dự tiệc cưới ở Cana (Ga 2,1-10); Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để thiết đãi dân chúng ăn no nê từ 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,5-15). Trước khi đi chịu tử nạn, Chúa Giêsu đã dự Tiệc Ly với các môn độ (Ga 13,1-15). Sau khi phục sinh, Người dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14). Như thế, bữa ăn và bữa tiệc là “môi trường” Kinh Thánh.
Trở lại với bài đọc I, với ngôn ngữ khải huyền hướng về tương lai, tiên tri Isaia nói tới việc Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thì béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (x. Is 25,6-10). Trong một bối cảnh mà dân Do Thái đang lưa đày ở Babilon, vua Ba Tư là Cyrus đã ký sắc lệnh cho họ trở để tái thiết cuộc sống mới ở Giêrusalem. Viễn tượng mới mà Isaia mô tả chan chứ niềm vui, hy vọng và hạnh phúc mà Thiên Chúa sẽ ban cho dân Người, trong đó, mọi người sẽ được ăn uống no nê, có một cuộc sống bình an, ổn định, Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ và xóa tan mọi nỗi ô nhục của họ.
Đó là hình ảnh tiên báo về Nước Trời được Đức Giêsu rao giảng và thực hiện với sự xuất hiện của Người như được nói trong bài Tin Mừng.
Trước hết, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để diễn tả chân lý này: Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do Thái, dân riêng, nhưng tiếc rằng họ là những người khách được mời đã từ chối lời mời gọi của Chúa và viện cớ vì nhiều lý do khác nhau như “kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết” (Mt 22,5-6). Họ là đại diện cho tất cả những ai đã ưa chuộng và chạy theo những giá trị trần gian mà khước từ những giá trị đạo đức và vĩnh cửu của Nước Trời. Trước sự từ chối đó, ông chủ đã sai các đầy tớ ra các ngã đường, gặp ai cũng mời vào tiệc cưới, bất luận tốt xấu, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách (x. Mt 22,5-10).
Qua đó, dụ ngôn muốn nói rằng: Bữa tiệc nói lên tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho dân Người. Bữa tiệc cũng là hình ảnh để diễn tả ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người. Đây cũng là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể, là bữa tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi dân Người trong giao ước mới. Thiên Chúa đã kết giao ước hôn phối với loài người qua Con Một chí ái của Người. Qua giao ước này, Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người vào dự tiệc cưới đó. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang lại là phổ quát, chứ không chỉ dành cho một số người được ưu tiên và xứng đáng. Như thế, Thiên Chúa không chỉ mời gọi mọi người vào làm việc trong vườn nho của Chúa, nhưng còn mời gọi họ vào tận hưởng niềm vui cứu độ trong tiệc cưới với Chúa Con. Hạnh phúc cho những ai được mời vào dự tiệc cưới của Chúa!
2. Áo cưới
Như thế cho thấy Thiên Chúa quảng đại mời hết mọi người vào tham dự tiệc cưới. Tuy nhiên, ở phần cuối bài Tin Mừng, có một chi tiết cần phải dừng lại để suy nghĩ, đó là chi tiết: “Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới,” ông thắc mắc và lệnh bắt người đó và quăng vào chổ khóc lóc nghiến răng (x. Mt 22,11-14). Chi tiết này làm chúng ta phải ngạc nhiên và xem ra bất công, bởi lẽ, ban đầu nhà vua bắt các đầy tớ ra đường đột xuất mời người ta vào dự tiệc, giờ sao lại bắt nạt người này không có áo cưới. Nhưng cần lưu ý rằng đây là chi tiết mang tính dụ ngôn và biểu tưởng. Theo đó, áo cưới đây muốn ám chỉ đến những điều kiện tối thiểu mà người dự tiệc phải có khi vào dự tiệc theo phong tục Do Thái. Điều đó muốn nói rằng, một đàng, Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, nhưng đàng khác, những ai được mời vào dự tiệc phải có sự đáp trả, chuẩn bị chiếc áo cưới của mình, để xứng đáng dự tiệc cưới.
Chiếc áo cưới ở đây là biểu tượng của sự đáp trả cách tự do của mỗi người trước phần rổi mình. Đây là điều kiện cần thiết để được cứu độ và để dự tiệc cưới Nước Trời. Như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa sáng tạo nên con, không cần có con, nhưng để cứu độ con, thì cần có con cộng tác.”
Theo chiều hướng đó, thánh Phaolô nói đến một chiếc áo mà mỗi người Kitô phải mặc, đó chính là Đức Kitô. Ngài mời gọi: “Anh em hãy mới lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14). Mặc áo xanh hay mặc áo đỏ, mặc áo nọ mặc áo kia, nhưng ta tin rằng ta đẹp nhất khi ta mặc áo Chúa Kitô. Nơi khác, thánh Phaolô khích lệ: “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,5). Nghĩa là phải từ bỏ những thói quen của con người củ, canh tân và mặc lấy con người mới là Chúa Kitô (Ep 4,22-24). Chính ngài đã để cho Chúa Kitô sống và hướng dẫn ngài, nên ngài chia sẻ nơi bài đọc II: “Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng thiếu, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu đựng được hết” (Pl 4,12-13).
Thánh Grêgiôriô Cả giải thích theo một chiều hướng khác: “Áo cưới đây chính là lòng bác ái. Bởi vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã mặc áo đó khi Người đến để kết hợp với Giáo Hội như là hiền thê của mình.” Theo ý nghĩa này, áo cưới chính là lòng bác ái và những việc lành mà chúng ta thực hiện đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ. Vì ngày phán xét, Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta dựa trên tình yêu và lòng bác ái đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46). Đó là áo cưới mà mỗi người cần có để mặc trong tiệc cưới cánh chung. Nếu không có bác ái là không visa, không có áo cưới để dự tiệc cưới, chúng ta sẽ bị đuổi ra ngoài, phải chịu cảnh khóc lóc và nghiến răng.
Như thế, Lời Chúa hôm nay một đàng mời gọi chúng ta xác tín vào ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người, và đàng khác, nhắc nhở chúng ta ý thức bổn phận của mình để cộng tác với ơn Chúa, biết chuẩn bị cho mình chiếc áo cưới đẹp nhất, bằng những việc bác ái để xứng đáng dự tiệc cưới Nước Trời mai sau. Amen!
Tại Việt Nam, những buổi tiệc mừng đã trở thành nếp sinh hoạt không thể thiếu trong xã hội TN 28-A192
Tại Việt Nam, những buổi tiệc mừng đã trở thành nếp sinh hoạt không thể thiếu trong xã hội. Nó thể hiện tính cộng đồng, sự chia sẻ, hiệp thông giữa người với người. Tuy nhiên, người ta đã lạm dụng để biến nó thành cơ hội để vui chơi giải trí, nhậu nhẹt say sưa, kể cả những dịp tang ma…. Bữa tiệc mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là bữa tiệc cao trọng hơn nhiều, bữa tiệc thiên thu, bữa tiệc Nước Trời.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I:
Tiên tri Isaia cho chúng ta thấy một bữa tiệc với những nét sau đây: Người dọn tiệc là “Chúa các đạo binh”, khách mời là “muôn dân”, nơi dọn tiệc là “trên núi”. Bữa tiệc có thịt, rượu đầy đủ, mà không phải thịt, rượu bình thường đâu, nhưng rượu ngon, thịt béo đàng hoàng. Trong bữa tiệc này có một chuyện rất đặc biệt, đó là chủ tiệc sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trãi trên mọi nước, Người sẽ lau khô mọi dòng lệ, sẽ cất đi sự tủi nhục của dân. Qua đó tiên tri Isaia muốn cho chúng ta thấy hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa sẽ ban như một bữa tiệc, bữa tiệc dành cho tất cả mọi người chứ không phân biệt một ai.
Tin Mừng:
Bài Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh CG tiến vào thành Giêrusalem với tư cách Đấng Messia của Thiên Chúa. Thế nhưng những người biệt phái và Pharisêu thì phủ nhận uy quyền của Ngài, nên khi thấy Ngài giảng dạy và làm những dấu lạ, họ đã chất vấn Ngài: “Ông lấy quyền gì mà làm những điều đó?”Trong bối cảnh gay cấn như vậy, CG kể cho họ nghe một loạt 3 dụ ngôn như một lời cảnh báo cho họ. Dụ ngôn thứ nhất vào Chúa nhật 26 TN là dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, một đứa nói không nhưng sau lại đi; một đứa nói đi nhưng sau lại không. Dụ ngôn thứ hai vào Chúa Nhật 27 TN kể về việc có những người được ông chủ thương cho làm vườn nho, nhưng khi ông chủ cho người đến lấy hoa lợi thì họ đã đánh đập, đuổi đi. Ông chủ sai cả đứa con trai của ông đến, nhưng không ngờ chúng còn hung bạo hơn, giết cả đứa con độc nhất của ông chủ nữa. Dụ ngôn thứ 3 mà chúng ta vừa nghe đọc kể về việc nhà vua làm tiệc đãi khách nhưng không thấy ai đến. Nhà vua sai người đi mời một lần nữa, họ cũng từ chối. Cuối cùng vì tiệc đã dọn sẵn sàng nên nhà vua kêu gia nhân đi mời tất cả mọi người ngoài đường vào dự tiệc. Cả 3 dụ ngôn đều nói về thái độ từ chối hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa ngay từ đầu đã có ý định ban cách riêng cho dân Do Thái. Nhưng chính vì họ khước từ nên họ đã không được hưởng hạnh phúc đó. Thiên Chúa đã mời gọi tất cả mọi người, trong đó có chúng ta đến hưởng hạnh phúc Nước Trời với Ngài, hạnh phúc mà những người biệt phái và Pharisêu đã khước từ.
Qua dụ ngôn này cho chúng ta thấy được tình yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu thương nhưng không dành cho mọi người. Nhưng đặc biệt hơn là cách Người cư xử với những người tội lỗi và lên án thói kiêu ngạo của giới lãnh đạo Do Thái. Chúa Giêsu của chúng ta đã biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, đồng thời Người cũng tố cáo những kẻ từ chối lời mời gọi của Tin Mừng, và như thế họ bị loại khỏi bữa tiệc Nước Trời mà CG đã đến khai trương.
II. TỪ CHỐI THIÊN THÚA
Lý do:
Chúng ta để ý đến lý do khách mời từ chối bữa tiệc của nhà vua. Thánh Matthêu trong bài Tin Mừng hôm nay ghi lại 2 lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Cả hai lý do đều quy về việc người ta quá lo đời sống vật chất mà từ chối lời mời đi dự tiệc. Trong đoạn Tin Mừng song song của thánh Luca thì ghi có tới 3 lý do: “Người thứ nhất nói tôi mới mua một thửa đất, phải đi thăm. Người thứ hai nói tôi mới tậu bò, phải đi thử. Người thứ ba nói tôi mới cưới vợ nên không thể đến được”. Ba lý do trên có thể gom thành 2 loại, đó là bận rộn với đời sống vật chất (mua đất, mua bò), và lo hưởng thụ (cưới vợ). Tự bản chất những việc trên không phải là xấu, nó chỉ xấu khi con người ta vì nó mà sẵn sàng từ chối ơn thánh của Chúa.
Nền tảng Thánh Kinh
Về đời sống vật chất, trong Kinh Thánh cựu ước, ngay từ khi sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật cho con người hưởng dùng. Thời các tổ phụ, gia tài của họ được thể hiện qua những đàn xúc vật đông đảo. Và giàu sang là dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành. Đến thời tân ước, CG không đả phá những người giàu sang, có của, nhưng ngược lại, Ngài đề cao những người giàu sang mà biết từ bỏ vì Nước Trời. Đó là những phụ nữ đã dùng tài sản mình mà giúp đỡ CG và các môn đệ, đó là ông Giakêu đã dùng một nửa tài sản mình mà bố thí cho người nghèo. Nhưng nhất là CG đã đưa ra một mối phúc: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Chính bản thân Ngài đã làm gương cho tinh thần nghèo khó đó một cách tuyệt đối: Sinh nghèo, sống nghèo, yêu thương người nghèo và chết nghèo.
Về việc tận hưởng cuộc sống cũng vậy, ngay khi mới tạo dựng con nguời, Thiên Chuá thấy ông Ađam một mình có vẻ buồn, nên Ngài đã dựng nên cho ông bà Eva để cuộc sống của ông thêm phần vui tươi, hạnh phúc. Đến thời CG, ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai Ngài đã đi dự tiệc cưới tại Cana, và nâng hôn nhân lên hàng Bí tích. Điều đó cho thấy Ngài không phủ nhận việc hưởng thụ cuộc sống, nhưng Ngài còn cho nó là tốt đẹp nếu qua đó con người biết làm vinh danh Chúa
III. CON NGƯỜI TỪ CHỐI THIÊN CHÚA
Trong cuộc sống ngày hôm nay, có lẽ chúng ta không đến nỗi giống như người Do Thái ngày xưa từ chối Chúa một cách thẳng thừng. Thế nhưng là những người Kitô hữu, khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta đã được mời đến dự bữa tiệc Nước Trời, chung ta vẫn có nhiều hình thức từ chối Chúa.
Hình thức từ chối Chúa
Hình thức thứ nhất là gia đình tôi có thờ hình Chúa, tượng Chúa, nhiều khi còn nhiều hơn những gia đình khác nữa, nhưng tôi không hề giữ luật Chúa, không hề đến nhà thờ dự lễ, không hề tham gia các sinh hoạt của họ đạo. Đến khi dựng vợ gả chồng thì cũng ráng đến nhà thờ học giáo lý, cũng làm phép cho có với người ta, nhưng sau đó lại trở về nếp sống cũ, nếp sống không biết gì đến Chúa. Đến khi qua đời, cũng báo cho nhà thờ biết để giật chuông; cũng nhờ cha và cộng đoàn đến đọc kinh cầu nguyện, cử hành các nghi thức…, nhưng phải theo giờ thầy đã coi; cũng đem vào nhà thờ làm lễ, nhưng chỉ có quan tài với vài người quen, phần đông ngồi đâu đó đợi giờ chôn; đến đất thánh đọc kinh xong hỏi sao chưa hạ huyệt? Nói chưa tới giờ… Rồi cũng xong một kiếp người, nhưng thử hỏi cách sống đạo như vậy thì sự sống đời sau của chúng ta như thế nào? Hạnh phúc hay đau khổ đây?
Hình thức thứ hai phổ biến hơn, tôi có giữ đạo, nhưng theo hứng, theo thời, nói tôi bỏ đạo là không được. Một năm tôi đến nhà thờ được vài lần: Giáng Sinh, Tết, Phục Sinh, và những lần con cái tôi lãnh bí tích… Hoặc tôi có giữ đạo nhưng theo cái nhìn sai lầm của tôi chứ không theo Chúa dạy và hướng dẫn của Hội Thánh. Tôi nghe một người nói rõ ràng, mẹ chị ta hỏi sao lâu quá không thấy mày đi lễ? Chị ta nói: “Bà đi lễ, tôi đi làm để kiếm tiền làm việc bác ái. Chứ tôi với bà đi lễ hết thì lấy tiền đâu làm việc bác ái!?”. Và đối với chị ta giữ đạo là làm 3 việc này: thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống, thứ 3 cho khách đổ nhà, như vậy là quá đủ rồi. Một cách ngụy biện mà chúng ta nghe nhiều nhất đó là “đạo tại tâm”. Tôi thờ Chúa trong tâm của tôi. Hay có những người đi lễ thì không đi, nhưng nghe nói nơi nào Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ khóc là có mặt ngay. Ngày nào cũng lại đốt nhang cho cha Diệp, nhiều khi quỳ nửa tiếng đồng hồ để cầu nguyện, nhưng chẳng thấy đi lễ bao giờ… Những cách sống như vậy là những cách sống đạo sai lầm, sống đạo theo ý của tôi chứ không theo ý Chúa và sự hướng dẫn của Hội Thánh.
Lý do
Cũng như những vị khách được mời đến dự tiệc ngày xưa, họ đều có lý do để từ chối. Tất cả lý do của họ đều vì quá bận rộn với đời sống vật chất và lo hưởng thụ. Lý do để dẫn đến những hình thức từ chối Chúa mà tôi vừa gợi ý ở trên cũng vì con người ta quá bận rộn với đời sống vật chất và lo sống hưởng thụ mà thôi.
Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa của việc người ta quá bận rộn với đời sống vật chất và lo hưởng thụ mà quên đi đời sống đạo là bởi vì người ta chỉ nhìn thấy những giá trị trước mắt mà không nhìn thấy được giá trị sâu xa của cuộc đời. Thử hỏi đối với những người có đạo mà chỉ lo làm ăn kiếm tiền hoặc lo ăn chơi trác táng, mà biết được rằng ngày mai mình sẽ chết thì họ có còn dám tiếp tục sống như vậy hay họ sẽ lo đi xưng tội, đọc kinh, dự lễ cho đàng hoàng? Vì vậy, chỉ tại những cái giàu có, những cái sung sướng trước mắt làm che mờ đi những giá trị vững bền mà người ta đã từ chối Chúa bằng nhiều cách.
Vì vậy, khi suy niệm lời Chúa hôm nay, chúng ta xin Chúa cho mình biết được đâu là giá trị thật để chúng ta đeo đuổi trong cách sống của mình. Đồng thời chúng ta cũng hãy biết cầu nguyện cho những người từ chối Chúa cách này hay cách khác, nhất là những người trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta được sớm quay trở lại cùng Chúa. Một cách đặc biệt trong tháng 10 này với sức mạnh của kinh Mân Côi, mỗi ngày chúng hãy dành một kinh kính mừng để nhờ Mẹ Maria cầu nguyện cho những người từ chối Chúa biết quay trở lại để dự bữa tiệc Chúa đã dọn sẵn, dù có muộn màng nhưng không bao giờ trễ, vì Chúa luôn mời gọi và chờ đón mọi người chúng ta.
“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,12).
Cuộc sống nhân sinh, con người phải làm lụng vất vả, khi đói, khi no; khi thì dư giả, khi thì TN 28-A193
Cuộc sống nhân sinh, con người phải làm lụng vất vả, khi đói, khi no; khi thì dư giả, khi thì thiếu thốn. Người mà “trong mọi hoàn cảnh no hay đói; dư dật hay túng bấn; sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được (x.Pl 4,12), không có nhiều. Điều này không phải ai ai cũng có thể sống được. Ta chỉ có thể sống được như thế khi nhờ ơn sức mạnh Chúa ban và ta phải luyện tập. Phải luyện tập từ nhỏ, luyện tập hàng ngày và luyện tập mãi mới được. Tập làm sao cho mình có thói quen, thành một nhân đức. Nhân đức chịu đựng.
Ta chịu đựng cảnh no đủ, cảnh dư dật thì được chứ chịu đựng cảnh đói nghèo, cảnh thiếu thốn thì hơi khó. Thế nhưng trong cảnh đói nghèo; trong cảnh thiếu thốn mà mà chịu đựng được mới là giỏi, mới có ích lợi. Vì khi ĐÓI ta mới biết NO là gì. Khi NGHÈO ta mới biết GIÀU là gì. Khi THIẾU THỐN ta mới biết quí từng đồng tiền, từng hạt gạo; để khi no đủ ta không tự mãn; khi dư dật ta không phung phí.
Có nghĩa là ta sống thiếu thốn cũng được mà ta sống dư dật cũng được. Ta biết cách sống; biết tiên liệu và biết phòng thân; biết tấn công mà cũng biết phòng thủ. Người chỉ biết tấn công mà không biết phòng thủ thì thua là cái chắc, vì người ta đâu dễ để cho mình thắng. Người không biết tiên liệu sẽ sài xả láng, có lúc sẽ cháy túi. Người không biết phòng thân, có ngày sẽ đi ăn mày. Do đó ta phải tập làm sao để có ít không thiếu, có nhiều cũng không dư. Muốn vậy ta phải: có ít xài ít, có nhiều xài nhiều, không có khỏi xài.
Có ít mà ta xài nhiều thì của đâu cho ta xài; có nhiều ta xài nhiều chứ không phải xài hết; không có khỏi xài, không phải đi vay, đi mượn. Vì đi vay, đi mượn thì cũng phải trả cho người ta chứ. Ông bà ta nói: “Liệu cơm gắp mắm” mà. Đó không chỉ là sự khôn ngoan của con người mà còn là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Không chỉ có sức riêng của ta, mà còn có sự trợ giúp của Chúa nữa.
Sống được như thế là ta chẳng nghèo, mà cũng chẳng có giàu, hằng ngày dùng đủ; lúc nào cũng đủ, cũng vừa; không thiếu, không dư. Tại sao ta phải tập sống như vậy ? Vì ta không sống mãi ở đời này.
Ta còn hy vọng sống sự sống đời đời ở trên thiên đàng nữa. Ta hy vọng sẽ dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa trên thiên đàng nữa. Thế nhưng ai sẽ là người vào Nước Trời để dự tiệc cưới đây?
Những người lo đi thăm trại, lo đi buôn bán, lo làm giàu; lại vì tiền, vì của mà hiếp đáp người này; làm hại người kia, chắc chắn sẽ không được vào Nước Trời dự yến tiệc rồi. Trong dụ ngôn “Một Vua kia mở tiệc cưới cho con mình”, sau khi những người kia đã không thèm tham dự, Nhà Vua đã ra lệnh cho các đầy tớ: “Các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”(x.Mt 22,9). Điều đó có nghĩa là bất luận tốt xấu, ai cũng “BỊ” ép vào dự tiệc cưới.
Đó là ý của Chúa, Ngài muốn cho mọi người được vào Thiên Đàng dự tiệc cưới, dù tốt hay xấu. Như thế nghĩa là gì ? Người tốt thì OK; còn người xấu thì sao? Đã có một người Nhà Vua thấy không mặc áo cưới. Anh ta bị “trói chân trói tay và bị quăng ra bên ngoài, ở đó phải khóc lóc và nghiến răng”(x.Mt 22,12).
Người xấu là người không mặc áo cưới, nghĩa là chưa ăn năn hối cải, chưa đền bù những gì mình đã gây và làm thiệt hại cho người khác. Có cố gắng tìm cách vào, cũng bị ném ra ngoài thôi. “Kẻ được mời thì nhiều, kẻ được chọn thì ít”(x.Mt 22,14). Nghĩa là Chúa mới tất cả, mời nhiều, nhưng không có mấy ai được vào. Lên thì nhiều nhưng vào thì ít. Vì không đủ tiêu chuẩn.
Điều đó được ví như “Lên núi”. Chúa thiết đãi một bữa tiệc trên núi”(x.Is25,6). Lên núi dự tiệc, nhưng trên núi có nhà, có phòng ăn để đãi tiệc chứ không ăn ngoài trời. Lên núi thì được nhưng có vào được trong phòng để ăn tiệc không mới là quan trọng. Cũng vậy, lên trời nhưng có vào được thiên đàng không lại là chuyện khác. Giống như đi thi thì nhiều, nhưng đậu đâu được bao nhiêu.
Ai là người có đủ tư cách để vào thiên đàng ? Đó là người như thánh Phao-lô nói, “Với sức mạnh Chúa ban, biết chịu đựng được hết”, dù dư hay thiếu; dù đói hay no. Đó là người nghèo mà không than; giàu mà không lên mặt. Đó là người thiếu thốn không kêu; dư dật không phung phí. Đó là người đói không làm càn, làm bậy; no không “rửng mỡ”, ta đây. Họ luôn sống theo lời Chúa dạy, không bám víu vào tiền của đời này, nhưng biết dùng đời này để lên trời và vào thiên đàng.Vậy ta hãy cố gắng tập sống cho quen trong mọi hoàn cảnh nhờ sức mạnh Chúa ban. Vì người lên trời thì nhiều nhưng vào thiên đàng thì ít. A-men.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để ám chỉ Nước Trời. Và qua TN 28-A194
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để ám chỉ Nước Trời. Và qua dụ ngôn này, Chúa cũng muốn cho chúng ta biết tình yêu thương cao cả của Thiên Chúa, và dạy chúng ta hãy thành tâm tiếp nhận lời mời của Chúa.
Chúng ta biết dụ ngôn thường có ít nhất 3 lớp ý nghĩa. Dụ ngôn tiệc cưới trong bài Tin mừng hôm nay cũng vậy. Lớp nghĩa thứ nhất là nghĩa đen. Đơn giản là câu chuyện Chúa kể. Một vị vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Khi những người khách được mời không đến dự, vị vua đã sai đầy tớ ra ngoài đường mời tất cả mọi người, không trừ một ai.
Lớp nghĩa thứ 2 của dụ ngôn còn được gọi là nghĩa bóng, đó là Chúa Giêsu muốn dạy điều gì cho con người nhân loại. Thí dụ hình ảnh tiệc cưới để ám chỉ điều gì? Vị vua biểu hiệu cho ai? Ai là những khách được mời mà không đến? Ai là những khách thay thế họ? Chúng ta biết tiệc cưới ám chỉ Nước Trời. Vị vua ám chỉ Thiên Chúa. Hoàng tử là Chúa Giê-su. Những khách được mời là “Dân riêng” hay dân Do thái, được Thiên Chúa chọn. Khách thay thế là những người tội lỗi và ngoại giáo thời đó. Bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy là: Nước Trời được mở ra cho mọi người, không phải chỉ cho Dân riêng mà thôi.
Đến đây chúng ta chú ý đến lớp nghĩa thứ ba của dụ ngôn, và đó cũng là bài học quan trọng có tính cách cá nhân và thực tế cho mỗi một người chúng ta đang sống trong thế giới và xã hội hôm nay. Hay nói một cách khác, chúng ta phải áp dụng bài dụ ngôn này vào đời sống Ki-tô hữu của chúng ta hôm nay như thế nào?
Tôi phải thú nhận, khi đọc bài dụ ngôn này tôi rất ngỡ ngàng trước tình yêu cao cả của Thiên Chúa. Thiên Chúa là vị vua cao sang, quyền quí, cho nên, những khách được mời dự tiệc cưới của hoàng tử thì chắc chắn phải là những người trong hoàng tộc, những người giàu sang, quyền quí hay có danh vọng. Còn chúng ta chỉ là những người dân không những hèn hạ, đầu đường xó chợ, mà còn què quặt, đui mù và hôi hám nữa, thế mà Chúa lại mời chúng ta. Chúa có được lợi gì đâu khi mời chúng ta. Chúng ta có gì để đền đáp lại cho chủ nhân.
Chúng ta thấy ngày nay, khi đi dự đám cưới thì phải mang theo một phong bì tiền tương xứng và trội hơn phần ăn cho chủ mời, để tỏ tình thân hữu. Chúng ta chẳng có gì để đền đáp đủ lại cho Chúa và cũng chẳng đem lại vinh dự gì cho Chúa, mà Chúa lại mời chúng ta. Rõ ràng là do tình yêu cao quí của Chúa, và đó cũng là tình yêu nhưng không. Vì tình yêu, Chúa muốn nâng loài người hèn mọn chúng ta lên bậc thượng khách đồng bàn cùng với các thánh và thiên thần. Chúa muốn chia sẻ niềm vui mừng và hạnh phúc Nước Trời với chúng ta khi sai Con Thiên Chúa xuống trần mặc lấy bản tính loài người chúng ta. Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ và hành động của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào hiểu thấu được thánh ý Chúa. Tất cả chỉ vì tình yêu vô cùng cao quí và hoàn toàn vô vị lợi, nhưng không của Chúa.
Đến đây chúng ta trở về câu hỏi, chúng ta phải áp dụng ý nghĩa dụ ngôn vào đời sống Ki-tô hữu như thế nào? Hay áo cưới ám chỉ điều gì? Thứ nhất, chúng ta là những người khách thay thế được Thiên Chúa mời vào dự tiệc cưới Nước Trời, ngồi đồng bàn với các thiên thần, các thánh, với Đức Maria và Chúa Giêsu. Nhưng Chúa muốn chúng ta hiểu rõ là nếu chúng ta muốn dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới, đó là phải sống đời sống Ki-tô chính đáng. Phải sống đúng với nhân phẩm của 1 Ki-tô hữu chân chính. Phải thay đổi cuộc sống, cởi bỏ chiếc áo bẩn thỉu tội lỗi và xấu xa của xã hội, để sống theo thánh ý Chúa, không phải theo ý chúng ta. Chúng ta phải mặc cho mình một chiếc áo cưới là chính Chúa Giê-su Ki-tô, bằng cách sống lời Chúa dạy để trở nên đồng hình đồng dạng với Người.
Chúng ta còn tìm được ý nghĩa của chiếc áo cưới trong dụ ngôn Ngày Tận Thế mà tất cả chúng ta đều quen thuộc. Trong ngày tận thế phán xét chung, tất cả mọi người nhân loại được chia làm hai nhóm bên hữu và bên tả trước mặt đức vua là Thiên Chúa. Đức vua nói với những người đứng bên hữu: “Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta không chỗ ở, các người đã cho ở, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta bị tù đày các ngươi đã thăm viếng.” Và đức vua nói với những người bên tả: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỉ. Vì xưa Ta đói, các người không cho ăn, Ta khát, các người không cho uống, ta khách lạ, các người chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các người không cho đồ mặc, Ta đau yếu và ở tù, các người đâu có viếng thăm Ta.” Như vậy chúng ta thấy áo cưới ám chỉ những việc bác ái, yêu thương đối với tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ và sống trong sự khó khăn. Hay nói một cách khác, chúng ta phải sống yêu thương, bác ái, biết hy sinh phục vụ, và có lòng quảng đại để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su Ki-tô, trở thành những chứng nhân cho Chúa, làm sáng danh Chúa và xây dựng Nước Chúa trần gian.
Hôm nay, chúng ta được Chúa mời đến dự bàn tiệc Thánh Thể trong ngôi thánh đường này. Và trong giây phút nữa chúng ta sẽ lãnh nhận chính Chúa Giêsu Thánh Thể vào trong tâm hồn. Xin Chúa giúp chúng ta can đảm lột bỏ chiếc áo nhơ bẩn tội lỗi, tánh hư nết xấu, để can đảm sống thánh ý Chúa dạy, mặc vào một chiếc áo cưới Chúa đòi hỏi. Và ngày nào đó khi đứng trước mặt Đức Vua, chúng ta được nghe Người nói: “Hãy vào hưởng bàn tiệc Nước Trời đã dành sẵn cho ngươi.”
Trong Thánh Kinh nói chung và trong Phúc Âm nói riêng vườn nho được các tác giả Thánh Kinh TN 28-A195
Trong Thánh Kinh nói chung và trong Phúc Âm nói riêng vườn nho được các tác giả Thánh Kinh và Chúa Giêsu nhắc đến rất nhiều lần là vì vườn nho là môt thực thể rất thân thương và gần gũi với người Do thái là dân tộc sống bằng nghề nông, trồng tỉa và chăn nuôi. Trong Thánh Kinh nói chung và trong Phúc Âm nói riêng các tác giả Thánh Kinh và Chúa Giêsu còn dùng Tiêc Cưới để nói về Nước Trời vì Tiệc Cưới diển tả được tính lễ hội và hạnh phúc tràn đầy của Nước Trời.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII thường niên hôm nay (Mt 22,1-14) trình bày hai khía cạnh của Nước Trời; một là Nước Trời không dành riêng cho một lớp người nào mà dành cho tất cà mọi người. Hai là các khách được mời dụ tiệc Nước Trời phải ăn mặc cho lịch lãm và tương xứng; nếu không thì sẽ bị chủ Tiệc đuổi cổ ra khỏi phòng Tiệc. Đó cũng là sứ điệp chính của bai Phúc Âm hôm nay.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 22,1-14: Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
3.1 Tiệc Cưới của hoàng từ, con vua: thì hiển nhiên là cỗ bàn phải là của ngon vật lạ, rượu ngon thịt béo; khách mời phải là những người giầu sang quyền quý Nhưng Tiệc Cưới của Con Thiên Chúa hay Tiệc Cưới Nước Trời có một điều khác lạ rất lớn: đó là khách mời là đủ mọi hạng người giầu nghèo sang hèn! Vì nhà vua là Thiên Chùa là Đấng quảng đai từ bi bao la muốn mọi người được hưởng niềm vui và hạnh phúc của Tiệc Cưới Hòang Tử là Con của Người.
3.2 Dự Tiệc Cưới của hoàng từ thì khách mời phải ăn bận tươm tất lịch sự: Đó là điểu hiển nhiên và dễ hiểu. Ăn bận tươm tất lịch sự hay mặc y phục Lễ Cưới là khách thể hiện sự tôn trọng đối với Đấng có lời mời. Ăn bận tươm tất lịch sự hay mặc y phục Lễ Cưới là khách mời thể hiện sự tự trọng của những người được mời.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 20,28-32:
4.1 Chúng ta hãy cảm tạ lòng quảng đại của Thiêu Chúa là Đấng mở Tiệc Cưới cho con của Người là Hoàng Tử Giêsu Kitô: Thiên Chúa là Đấng quảng đại và từ bi. Người muốn hết mọi người đến dự Tiệc Cưới Con của Người để chung vui với Người và hưởng trọn Niềm Vui của Cuộc Hôn Nhân thần thánh của Chúa Giêsu Con Thiên Chùa làm người!. Mỗi người chúng ta hay dâng lời cảm ta, ngợi khen và yêu mến lên Thiên Chúa!
4.2 Chúng ta hãy vui mừng đáp lại lời mời dự Tiệc Cưới của Con Thiêu Chúa và hãy mặc y phục Lễ Cưới khi vào Phòng Tiệc: Đó là điều Thiên Chúa mong đợi và cũng là điều chúng ta phải làm để thể hiện sự tôn trọng Thiên Chúa của chúng ta. Măc y phục Lễ Cưới cũng là cách chúng tạ thể hiện lòng tự trọng đối với chính mình. Y phục Lễ Cưới ám chỉ sự đạo đức thánh thiện của chúng ta.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, và Cha đã mời chúng con đến dự Tiệc Cưới của Con Cha. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin
1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả những ai đã được Thiên Chúa mời đến dự Tiệc Cưới của Hòang Tử thì đến đến dự.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới"» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi Kitô hữu trân trọng tấm lòng và lời mời của Thiên Chúa và vui vẻ đáp lại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để không người giáo dân nào dám coi thường tấm lòng và lời mời của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xsin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả chúng ta là những người đã được mời vào dự Tiệc Cưới Con của Người biết thể hiện sự tôn trọng đối với Thiên Chúa mà mặc y phục Lễ Cưới cho trang trọng..
Xướng: Chúng ta cùng cầu xsin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con và Cha đã mời chúng con đến dự Tiệc Cưới của Hoàng Tử là Con của Cha.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con biết trân trọng tấm lòng và lời mời của Cha để chúng con mặc y phục Lễ Cưới cho tương xứng khi vào Phòng Tiệc . Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 14 tháng 10 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Sau khi đã dùng ba chuyện dụ ngôn đều xoay quanh hình ảnh vườn nho để giáo huấn về Nước TN 28-A196
Sau khi đã dùng ba chuyện dụ ngôn đều xoay quanh hình ảnh vườn nho để giáo huấn về Nước Trời, Chúa Giê-su tiếp tục nói với chúng ta về Nước Trời với một lối so sánh khác, đó là tiệc cưới. Trong bất kỳ nền văn hóa nào, tiệc cưới là một biến cố hân hoan vui mừng, không chỉ cho đôi tân hôn, mà còn cho cả họ hàng đôi bên và cả dân làng. Tin Mừng hôm nay không phải là lần duy nhất Chúa Giê-su nói về tiệc cưới. Chúng ta có thể thấy hình ảnh này trong Mt 9,15 (nói về khách dự tiệc cưới không thể buồn sầu và ăn chay), rồi trong Mt 25,1 (dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể). Trong Tân ước, chúng ta còn thấy hình ảnh tiệc cưới trong Ga 3,29; Kh 21,2; Ep 5,22. Một cách tổng quát, hình ảnh chàng rể được hiểu là chính Chúa Giê-su. Người là tân lang của Giáo Hội.
Nếu Chúa Giê-su là chú rể, thì chủ tiệc là Chúa Cha. Chúa Cha luôn quảng đại rộng rãi. Ngài mời gọi con người đón nhận Đức Giê-su là Con Một Ngài nhập thể làm người. Có những người được mời trân trọng từ ban đầu, nhưng lại coi nhẹ lời mời này, và kiếm cớ khước từ. Những lý do khước từ là mới mua nông trại, mới cưới vợ, đang mải buôn bán. Những người được mời đầu tiên có thể được hiểu là người Do Thái. Họ là dân của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với ông Áp-ra-ham Tổ phụ. Họ là những người được ưu tiên lắng nghe Lời Thiên Chúa. Tuy vậy, nhiều người trong họ đã khước từ lời mời gọi của Chúa Giê-su. Đương nhiên, có nhiều người Do Thái tin vào Chúa Giê-su và đi theo Người. Hình ảnh những người được mời trước hết, cũng có thể hiểu là con người của mọi thời đại và có thể là chính chúng ta. Bởi lẽ lời mời gọi của Chúa Giê-su trong Phúc âm luôn mang tính hiện tại. Có những khi chúng ta khước từ lời mời gọi của Chúa vì những lý do nhỏ nhặt và trần tục, giống như những người được mời trong Phúc âm.
Dù có nhận lời mời hay không. Dù được mời sớm hay mời muộn, tất cả cuối cùng cũng phải có mặt trong phòng tiệc. Đó là ngày cánh chung. Ngày Đức Giê-su sẽ đến một cách hữu hình lần thứ hai để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Mọi người sẽ phải trình diện trước Thánh Nhan, để chịu phán xét. Người lành được ban thưởng, kẻ dữ phải trầm luân. Đức Giê-su dùng nhiều hình ảnh để diễn tả ngày phán xét: đó là chiếc lưới thả xuống biển thu được cả cá xấu và cá tốt, hay mùa gặt lượm về cả lúa và cỏ lùng. Nếu được thu hoạch cùng lúc, thì định mệnh và tương lai của cá xấu và cỏ lùng lại hoàn toàn khác biệt với cá tốt và thóc lúa.
Ngày cánh chung ấy được ngôn sứ Isaia diễn tả trong Bài đọc I: “Ngày ấy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc”. Lại là bữa tiệc, nhưng đây là bữa tiệc vĩnh cửu. Đó là ngày Thiên Chúa can thiệp, vào lúc tận cùng thời gian. Thiên Chúa sẽ cất đi chiếc khăn tang, nghĩa là không còn chết chóc đau thương, nhưng là niềm vui bất tận.
Dù mọi người qua đường đều được mời vào phòng tiệc, nhưng không phải ai cũng được dự tiệc. Ông chủ trong dụ ngôn xem ra có vẻ kỳ lạ: ông sai người ra đường ép người ta vào cho đầy nhà, rồi lại hạch sách là sao không mặc áo cưới. Người không mặc áo cưới đã phải chịu số phận thảm khốc, đó là bị trói chân tay và ném ra chỗ tối tăm. Những gì được chính Chúa Giê-su diễn tả cho thấy hình ảnh của hoả ngục: nơi tối tăm và đầy tiếng khóc lóc nghiến răng. Để giải thích thái độ của ông chủ, một số nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng theo phong tục tập quán thời bấy giờ, ở cửa phòng tiệc thường có ban lễ tân phân phát miễn phí áo cưới cho khách dự tiệc. Có thể vị khách này đã coi thường tập tục, hoặc bất cẩn mà nên như vậy.
Thiên Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta đến dự tiệc cưới, mà chàng rể chính là Chúa Giê-su. Sống trong Giáo Hội, chúng ta được hưởng niềm vui, vì được gặp gỡ Chúa Giê-su, được kết hợp với Người, mật thiết như bạn bè, thậm chí như tình nhân. Quả vậy, Chúa Giêsu là Bạn tâm phúc của tâm hồn chúng ta. Lòng yêu mến sẽ gắn bó cá nhân mỗi chúng ta với Người.
“Nước Trời giống như…”. Khi nói về Nước Trời, Chúa Giê-su luôn dùng lối so sánh. Vì Nước Trời là một thực tại cao siêu, một phạm trù vô hình, chúng ta không thể hiểu nổi. Tin theo Chúa Giê-su là gia nhập Nước Trời. Nước Trời đã khai mở ở trần gian nhưng chưa đạt tới mức hoàn thành. Chúng ta cần phải cầu nguyện hằng ngày: xin cho Nước Cha trị đến, đồng thời nỗ lực cố gắng làm cho Vương quốc bình an của Đức Giê-su hiện hữu nơi cuộc đời. Có thể chúng ta lập luận: “Khó quá! Làm sao tôi có thể cộng tác mở rộng Nước Trời”. Thánh Phao-lô khích lệ chúng ta trong Bài đọc II: Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết những gian nan khốn khó. Thánh nhân khuyên chúng ta hãy tín thác vào quyền năng Thiên Chúa, nơi Ngài, điều không thể sẽ trở thành điều có thể. Như thế, sống tốt lành và ngay thẳng như Chúa Giê-su dạy, đó là đón nhận Nước Trời; loan báo và làm lan toả tình thương, đó là rao giảng Nước Trời.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta hãy đáp lời. Đừng do dự, vì có Chúa là Mục tử dẫn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Đáp Ca). Chiếc “áo cưới” mà chúng ta mặc để đi dự tiệc, chính là Chúa Giê-su. Lời nhắn nhủ của Linh mục chủ sự Bí tích Thanh Tẩy nói với chúng ta: Hãy mặc lấy Chúa Ki-tô – Mặc lấy con người mới” (x. Ep 4,24).
Lời Chúa qua miệng tiên tri I-sai-a vang lên thật là vui đối với dân Do Thái khi họ đang sống trong TN 28-A197
Lời Chúa qua miệng tiên tri I-sai-a vang lên thật là vui đối với dân Do Thái khi họ đang sống trong một hoàn cảnh thật đen tối. Chưa bao giờ họ cảm thấy tuyệt vọng như thế. Họ buồn sầu, ứa lệ và thất vọng vì họ không còn đền thờ, không còn quê hương xứ sở, lễ tiến lễ hương cũng chẳng còn. Cảnh lưu đày đã kéo dài bao năm tháng, họ không còn nghĩ đến Giê-ru-sa-lem nữa, mà có nghĩ đến thì cũng chỉ nghĩ để mà than mà khóc: “Bờ sống Ba-by-lon ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhở Si-on” (Tv 136,1).
I-sai-a loan báo: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người” (Is 25,6-9).
Cảnh hạnh phúc Nước Trời viên mãn tràn đầy trong thời sau hết I-sai-a đã mô tả là một bữa tiệc có những món ăn cao lương mỹ vị, bê béo, rượu ngon Thiên Chúa chuẩn bị cho hết thảy mọi người không phân biệt ai. Tiệc Nước Trời. Người đến dự chẳng những được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế. Những lời trên thức tỉnh lòng dân.
Kẻ thù lớn nhất của con người là sự chết vì nó lấy đi tất cả những gì con người có. Đối diện với cái chết, con người không thể làm gì khác là đành chấp nhận. Nhưng khi Đấng Thiên Sai tới, Người sẽ đánh bại thần chết, và đem lại sự sống muôn đời cho con người. Lời sấm của I-sai-a đã bắt đầu được thực hiện khi Chúa cứu dân lưu lạc trở về. Nó được thực hiện thật sự với thời Ðấng Thiên Sai, khi Chúa Cứu Thế đến, và chỉ rõ ràng vào thời sau hết, thời cánh chung.
Thiên Chúa dọn, mời
Thiên Chúa đã mở tiệc khoản đãi mọi dân tộc khi ban ơn cứu độ cho loài người trên mặt đất này. Trước tiên dân Do-thái qua việc sai các tiên tri đến mời, nhưng họ từ chối không đến. Ngài lại sai tiếp các tiên tri nữa đến với lời mời trang trọng và tha thiết: “Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới” (Mt 22,4). Nghĩa là ơn cứu độ đã hoàn thành. Chúa có ý nói đến công cuộc cứu thế của Ðức Ki-tô đã làm xong trên thập giá. Và như vậy chúng ta phải hiểu lớp tiên tri thứ hai được sai đi đây là chính các Tông đồ của thời Tân Ước, những người được sai đi trước là các Tiên tri Cựu Ước. Nhưng như họ đã không nghe Mô-sê và các tiên tri, thì bây giờ người Do Thái cũng từ chối luôn lời mời của các Tông đồ. Họ viện những lý do thông thường của những kẻ quen sống ích kỷ, không biết tạm hoãn những công việc riêng để đến chia sẻ niềm vui “cả đời mới có một lần” của một gia đình có tiệc cưới. Họ chẳng những không đến, họ còn đập đánh và giết chết nhiều sứ giả Tin Mừng của Ðức Ki-tô. Và điều này có ý nói rằng: người Do Thái đã bắt bớ và giết hại nhiều Tông đồ của Hội Thánh. Họ tệ hơn cả cha ông họ. Thế nên Thiên Chúa đã phải thịnh nộ cho quân xâm lăng tới, giày xéo thành trì của họ vào năm 70. Chắc chắn thánh Mát-thêu đã muốn ám chỉ biến cố này khi viết những lời trên. Và rõ ràng người muốn khẳng định rằng: Tin Mừng từ nay sẽ được đem đến rao giảng cho các dân ngoại. Hết mọi dân đều được đưa vào Hội Thánh; và như vậy, lời tiên tri I-sai-a đã thực sự được thực hiện.
Y phục phải xứng đáng
Có một điều khiến người ta không khỏi thắc mắc và tìm lời giải đáp cho người được mời không mặc y phục lễ cưới, họ vào và bị đức vua ra lệnh: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! ” (Mt 22, 13). Họ đang ở ngã ba đường, đầy tớ đức vua tình cờ gặp họ, mời họ vào bất luận họ là ai, sao lại đòi họ phải có y phục lễ cưới?
Áo cưới mà Tin Mừng nói tới ở đây là áo nào? Có phải các bí tích không? Hay là Phép Rửa tội? Vì không chịu phép Rửa tội, không ai có thể đạt tới Thiên Chúa được, nhưng có một số người lãnh nhận phép Rửa tội, không đến cùng Thiên Chúa… Có thể là bàn thờ hay điều người ta lãnh nhận từ bàn thờ không? “Vì kẻ ăn và uống, mà không phân biệt được Thân mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1 Cr 11,29). Vậy thì là cái gì? Ăn chay ư? Những kẻ gian ác cũng làm thế. Đi nhà thờ ư? Những kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như bao người khác … Vậy áo cưới này là áo nào?
Ở đây, người vào dự tiệc cưới không thụ động, chấp nhận vào thì phải tìm cách thể hiện mình xứng đáng, và đó là áo cưới. Ơn cứu độ là phổ quát, đồng ý để được cứu độ là chấp nhận sống theo những đòi hỏi của Nước Trời, áo cưới vừa thể hiện sự đồng ý, vừa chứng tỏ trách nhiệm của chúng ta.
Đời sống luân lý không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ, Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, Gia-kêu và nhiều người khác được mời, họ đã hoán cải để trở nên xứng đáng với Chúa hơn. Áo cưới là những điều tốt, người dự tiệc phải có. Người được mời đến dự tiệc cưới không đơn giản chỉ ăn, nhưng chia sẻ niềm vui với họ hàng hai bên, mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ, nên phải có y phục xứng đáng.
Áo cưới được hiểu là biểu tượng của sự hoán cải. Sách Khải Huyền nói đến sự thánh và việc lành là chiếc áo bao phủ chúng ta (Kh 19,8). Thánh Giê-rô-ni-mô thì nói: “Áo cưới, là những thánh chỉ của Chúa, và việc làm được thực hiện theo luật của Tin Mừng là chiếc áo cưới mới”. Áo cưới chính là “Đức Ki-tô Vị Hôn Phu” thánh Phaolô khuyên: “anh em hãy mặc lấy Ðức Ki-tô” (Gl 3, 27).
Lạy Chúa, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.
Trong dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu nói về một ông vua mời nhiều người đến dự tiệc cưới của TN 28-A198
Trong dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu nói về một ông vua mời nhiều người đến dự tiệc cưới của con trai mình, nhưng đáng ngạc nhiên là không ai trong số những người đã được mời trước đến dự tiệc: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến” (Mt 22: 3-3). Họ đưa ra nhiều lý do khác nhau để khước từ lời mời của Vị Vua, thậm chí còn cả gan hành hung những người được vua sai đi: “Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết” (Mt 22: 5-6). Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Thiên Chúa thật tốt lành đối với chúng ta, Ngài sẵn lòng ban cho chúng ta tình bạn của Ngài, Ngài ban cho chúng ta niềm vui và sự cứu rỗi của Ngài. Nhưng chúng ta thường không nhận ân huệ của Ngài; chúng ta đặt mối quan tâm thực tế, lợi ích của mình lên hàng đầu. Và khi Chúa kêu gọi chúng ta, dường như chúng ta thường khó chịu” (Kinh Truyền tin, 12 tháng Mười 2014).
1. Tôi lại dám không nhận lời mời của Thiên Chúa sao?
Thiên Chúa thường bị khước từ bởi những người Ngài muốn ban quà tặng cho. Họ là các thầy thượng tế và kỳ mục Do thái, những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu. Nhưng Thiên Chúa không hề chán nản trong việc Ngài yêu thương con người. Đó là lý do vì sao Ngài sai đầy tớ đi khắp mọi nẻo đường và mời tất cả những người họ gặp, không phân biệt. Đó là tất cả những dân tộc mà người Do thái coi là “dân ngoại”. Điều đáng chú ý là những người xấu cũng được mời: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22: 8-9). Thiên Chúa của chúng ta không loại trừ ai khỏi lời mời gọi của Ngài. Lời mời mà nhiều người từ chối bây giờ được trao cho những người trước đây không nằm trong danh sách mời của Ngài, những người này không có mối liên hệ gì với Ngài. Những người nam nữ thuộc mọi thành phần và hoàn cảnh xã hội, ngay cả những người không cầu nguyện hoặc thậm chí không biết nhiều về Thiên Chúa – tất cả đều được mời gọi nên thánh, để chia sẻ vinh quang thiên đàng. Không ai bị loại trừ. Thiên Chúa quảng đại mời gọi mọi người dự phần vào vinh quang trên trời với Ngài. Đó là lời mời “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55: 1) hoặc như trong bài đọc thứ nhất: “Ngày ấy, trên núi này, Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25: 6).
Thiên Chúa mời gọi chúng ta tự do đón nhận hồng ân dự tiệc chung vui với Ngài, Ngài mời gọi nhưng không ép buộc chúng ta. Nhưng, lạ thay, chúng ta có khi sử dụng quyền tự do của mình một cách tồi tệ và không nhận ra và đón nhận điều duy nhất thực sự khiến chúng ta hạnh phúc. Điều này xảy ra khi chúng ta quên mất Thiên Chúa, không còn dành cho Ngài sự tôn thờ và lòng mến yêu mà Ngài xứng đáng được nhận với tư cách là Đấng Tạo Hóa và là Abba - Cha của chúng ta: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4: 6). Chúng ta luôn đặt mình lên hàng đầu và biến mình trở thành tiêu chuẩn duy nhất cho các quyết định và hành động của chúng ta. Đoạn văn này giúp chúng ta nhớ lại loại tự do mà chúng ta có. Chúng ta không có quyền tự do tuyệt đối, tự do vô biên, để tự cho mình cái quyền làm bất cứ điều gì mình muốn. Sự tự do của chúng ta là một thứ tự do có giới hạn, vốn là tất định của một thụ tạo được Thiên Chúa tạo dựng. Vì thế, chúng ta không thể chọn chính mình làm tiêu chuẩn đạo đức và cứu cánh cho chính mình. Con người chúng ta luôn bị cám dỗ coi mình là Chúa của chính mình: “Rắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (Stk 3: 4-6). Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa và là cùng đích của chúng ta. Nhưng chúng ta được tự do lựa chọn những phương tiện giúp chúng ta đạt được cùng đích đó một cách hiệu quả nhất.
2. Một lời mời chúng ta không đáng được.
Việc chúng ta được mời gọi dự tiệc thiên đàng thực sự là một ân huệ từ Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta dù chúng ta là tội nhân: “Thế mà Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5: 8). Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma, đã nói rằng thật khó biết bao để một người hiến mạng sống mình cho người khác: “Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng” (Rm 5:7). Nhưng Chúa Kitô đã không chỉ hiến mạng sống mình cho người tốt lành - trước mặt Thiên Chúa mấy ai đáng được coi là người tốt lành? Ngài ban sự sống đó cho những kẻ tội lỗi: “Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách” (Mt 22: 10). Chúng ta không bao giờ xứng đáng hoặc tự cho mình cái quyền đòi hỏi ân huệ này từ Thiên Chúa. Được Thiên Chúa ban cho sự sống của Ngài là được một kho báu - kho báu đó hoàn toàn miễn phí. Kho báu đó, tức là tình bạn trọn vẹn và mãi mãi với Thiên Chúa trong Chúa Kitô, hoàn toàn miễn phí, vì được mua cho chúng ta bằng máu của Chúa Kitô. Không ai có thể mua được Thần khí của Thiên Chúa, không ai có thể mua được một trái tim mới vốn dĩ có khả năng làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi…Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Êdêkiel 36: 26).
Điều này đơn giản có nghĩa là để được vui hưởng bữa tiệc mà Thiên Chúa khoản đãi qua Chúa Kitô, nghĩa là được cứu độ, tôi phải để Thiên Chúa thay tim mới cho tôi bằng Thần khí của Ngài: buông bỏ tất cả mọi thứ trần gian, hơn cả “đi thăm trại, đi buôn” (Mt 22: 5), buông bỏ ngay cả chính cái tôi quá lớn của mình, gia đình hay danh tiếng. Không gì có thể so sánh với Tiệc cưới của Con Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng người kia gặp được” (Mt 13: 44). Một kho báu khiến người ấy mãn nguyện, chôn giấu lại, và “Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” (Mt 22: 44).
Bữa Tiệc Nước Trời quý giá hơn mọi thứ trên thế gian này, vì đó chính là sự sống chan chứa, là tình yêu bao la mà Thiên Chúa, qua cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, đã chuộc lại cho chúng ta. Bây giờ chúng ta vui hưởng Bữa Tiệc Nước Trời, là điều làm thỏa mãn mọi khao khát của chúng ta mãi mãi. Chỉ có một cách duy nhất để đáp lại tình yêu cao vời mà Thiên Chúa dành cho chúng ta: đó là khiêm hạ, hân hoan đón nhận và thực hiện Ý Muốn của Thiên Chúa, hoàn toàn gắn bó với Ngài.
3. Trang phục phù hợp
Nhưng Tin Mừng tiếp tục: “Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới” (Mt 22: 11). Mọi người ở đó đều đã được mời, giống như tất cả chúng ta đều được mời, đến với ơn cứu độ. Cửa mở cho bất cứ ai muốn vào, nhưng trước khi tận hưởng vinh quang, mỗi người tự xét xử chính mình trước Vị thẩm phán tối cao, Đấng soi rọi những ngóc ngách sâu thẳm nhất trong cõi lòng vốn bị che dấu lâu nay của chúng ta. Khi đó chính chúng ta sẽ tự thấy mình có xứng đáng hoặc xứng đáng bao nhiêu với bàn tiệc vinh quang Thiên Chúa.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta: “Chúa Giêsu, sau các Tiên tri và ông Gioan Tẩy Giả, trong lời rao giảng của mình, đã loan báo cuộc Phán Xét vào ngày tận thế. Lúc đó những cách sống của mỗi người và sự kín nhiệm trong các tâm hồn được đưa ra ánh sáng. Lúc đó tội cứng lòng tin, tức là tội coi thường ân sủng do Thiên Chúa ban, sẽ bị kết án. Cách đối xử với đồng loại sẽ biểu lộ là người ta đã đón nhận hay đã từ chối ân sủng và tình yêu Thiên Chúa… Nhưng Chúa Con không đến để xét xử, mà để cứu độ, và để ban sự sống Ngài có nơi chính mình. Qua việc từ chối ân sủng khi còn sống ở đời này, mỗi người tự xét xử chính mình, lãnh nhận tuỳ theo các công việc của mình, và cũng có thể tự kết án mình muôn đời khi từ chối Thần Khí tình yêu” (GLGHCG, số 678-679).
Dụ ngôn của Chúa Giêsu cho thấy rõ rằng, để xứng đáng dự Tiệc cưới Thiên đàng, điều kiện không thể thiếu là mặc áo cưới, nghĩa là có tâm hồn sám hối, hoán cải và trong sạch, chấp nhận lối sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người, chia sẻ sự giàu sang mà Thiên Chúa đã ban dư tràn cho chúng ta với những ai gặp cơn quẫn bách, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải… Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Ngài trong Chúa Kitô Giêsu” (Pl 4: 14, 19).
4. Quyết định là của chúng ta
Mỗi ngày đều là một ngày tốt lành, chúng ta có đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và vui hưởng lời mời của Chúa Giêsu đến dự bữa tiệc thiên quốc không? Thiên Chúa tốt lành nhưng chúng ta không thể hiệp thông trọn vẹn với Ngài nếu chúng ta để chiếc áo linh hồn mình bị vấy bẩn, tức là không trân trọng lời mời của Chúa Giêsu một cách đúng đắn. Tâm hồn đầy ắp “cái tôi” ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ đồng nghĩa với trang phục không đúng mực. Chúng ta có khi nào coi thường Tiệc cưới Thiên đàng không? Linh hồn mặc áo cưới là linh hồn luôn hoán cải đón nhận Lời Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, qua Giáo hội của Ngài, và sẵn sàng đem ra thực hành.
Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su có lối kể truyện thật đặc biệt. Các câu chuyện Người kể TN 28-A199
Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su có lối kể truyện thật đặc biệt. Các câu chuyện Người kể làm chúng ta phải suy nghĩ, chấp nhận thách đố và thay đổi. Như trong câu chuyện ‘hai người con’. Sau khi nghe xong, chúng ta khám phá ý định của Chúa là muốn chúng ta thưa xin vâng và sống điều xin vâng đó trong suốt cuộc đời. Với dụ ngôn ‘những người làm công sát nhân’, Đức Giê-su nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại bổn phận của mình, luôn là những người làm công trong vườn nho, còn Thiên Chúa mới là chủ nhân, chúng ta không được phép tiếm quyền. Hôm nay, trong dụ ngôn tiệc cưới, Đức Giê-su mời gọi chúng ta thay đổi lối sống.
Vì thế, chúng ta đừng tìm hiểu và đọc các câu chuyện trong các dụ ngôn theo nghĩa đen mà phải tìm ra chân lý mà dụ ngôn ẩn chứa để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với sự mới mẻ mà Đức Giê-su muốn dậy bảo.
Trước tiên chúng ta hãy tưởng tượng.
Anh hay chị đã bao giờ nhận được lời mời đến tham dự một bữa tiệc mà bạn thực sự không muốn tham dự? Bạn đã làm gì về điều đó? Tôi cá là bạn đã không ngược đãi, lạm dụng và giết người báo tin hay nhân viên đưa thư. Thế mà, đó là những gì đã xảy ra trong câu chuyện hôm nay.
Anh hay chị đã bao giờ hết lòng hết dạ khoản đãi những khách mời, cuối cùng họ lại không đến chưa? Các việc chuẩn bị như dọp dẹp nhà cửa, nấu ăn, trang trí phòng ăn thật ấm cúng. Mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng, gia nhân đã được chỉ bảo trong việc tiếp đón khách. Nhưng đến giờ khai tiệc vẫn còn một số khách không đến tham dự. Trong hoàn cảnh đó anh hay chị sẽ làm gì? Tức giận rồi cho gia nhân đi đốt nhà họ hay sao? Có lẽ bạn sẽ không làm điều đó. Thế mà, đó là những gì đã xẩy ra trong câu chuyện hôm nay.
Câu chuyện mà Đức Giê-su kể hôm nay tạo một cú sốc cho người nghe. Tuy nhiên chúng ta không nên hình dung và đi đến một kết luận cho rằng Thiên Chúa là một vị vua giận dữ, đã đối xử với những người không theo ý Ngài bằng cách sai quân binh đến hủy diệt dân tộc mình và đốt cháy thành phố của họ như đã được trình bầy trong dụ ngôn. Tất cả không phải sự thật mà Tin Mừng loan báo.
Dụ ngôn ‘tiệc cuới’ hôm nay ám chỉ đến bữa tiệc ‘cánh chung’, bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó chúng ta thấy dung mạo của một vị Thiên Chúa rất nhân từ, kiên tâm trong công việc. Bữa Tiệc do Ngài làm chủ. Ngài tự ý mở tiệc và cho gia nhân đi mời mọi người. Cho dù, khi gặp phản ứng khước từ của nhóm khách đầu tiên, nhà vua đã có nhận định là họ không xứng đáng. Lối nói này dẫn chúng ta thấy hành động sau đó của nhà vua cho gia nhân đi mời mọi người. Qua đó, chúng ta mới thấy tư cách được mời không phải vì họ xứng đáng, nhưng đây chính là tâm huyết và niềm vui của Ngài. Điều đặc biệt ở đây là Thiên Chúa không giữ ‘niềm vui’ cho riêng mình, nhưng Ngài đã tự ý chia sẻ niềm vui đó qua việc sai các sứ giả, hết nhóm này đến nhóm khác, mời tất cả mọi người, ở tất cả mọi nơi - từ các nẻo đuờng và trong các hang cùng ngõ hẻm - đến tham dự tiệc cuới.
Nhưng giữa hai nhóm được mời tham dự tiệc cưới có điểm khác biệt.
Sự khác biệt không phải là những người thuộc nhóm thứ nhất xứng đáng hơn những người thuộc nhóm sau. Những vị khách được mời đầu tiên là những người nhận được lời mời và sự ưu ái của nhà vua. Nhưng những vị khách được mời thứ hai cũng vậy. Và người đàn ông xuất hiện không mặc áo cưới cũng vậy. Họ đều được mời. Họ đều được ưu ái. Không ai trong số họ đã làm bất cứ điều gì để có thể cho rằng mình xứng đáng được mời. Chúng ta cũng thế.
Sự khác biệt không phải là nhà vua thích nhóm này hơn nhóm khác. Động lực duy nhất của nhà vua là muốn chia sẻ niềm vui, san sẻ trong bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Điều này nói lên lòng đại lượng và tâm tình san sẻ của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa muốn mọi người tham gia vào niềm vui và những sinh hoạt trong gia đình của Ngài. Những người được mời đều có cơ hội như nhau. Chúng ta cũng thế. Cơ hội luôn chờ đợi sự cộng tác và đón nhận của chúng ta.
Sự khác biệt không phải là một số khách tốt và những người khác xấu. Không có sự phân biệt hoặc đánh giá nào được thực hiện dựa trên hành vi, niềm tin, thái độ sống hay lối hành xử đạo đức. Ngược lại, với lần mời thứ hai, nhà vua cử người hầu của mình ra các đường phố chính với chỉ thị “gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Và gia nhân đã làm như chỉ thị: đi ra các nẻo đường, gặp ai, không phân biệt tốt xấu, sang hèn, giầu nghèo, có địa vị hay không, mời hết khiến cho phòng tiệc cưới đã đầy khách dự tiệc. Chúng ta cũng thế, không phân biệt tốt xấu, ai ai cũng được mời.
Có sự khác biệt giữa hai nhóm. Đó là cách thức hiện diện. Những vị khách được mời lần thứ hai đã hiện diện. Họ vào chật kín phòng tiệc. Trái lại, những người được mời đầu tiên lại không có mặt. Họ có lý do chính đáng, như đến các trang trại, tham quan các cơ sở kinh doanh hay đi buôn. Điều mà họ thiếu sót là sự sống đích thực chỉ có thể tìm thấy được trong Nước Thiên Chúa, trong các bữa tiệc do Thiên Chúa khoản đãi mà thôi. Chúng ta được mời và chấp nhận lời mời bằng sự có mặt mật thiết bên nhau trong Nước của Ngài. Từ đó, chúng ta nhận ra mình thật xứng đáng. Xứng đáng không phải vì mình nhưng vì Chúa nhận ra mình thật xứng đáng được yêu thương, xứng đáng được đồng bàn. Đó là lúc Chúa thay đổi chúng ta.
Còn về người khách không mặc y phục lễ cưới trong nhóm thứ hai, chúng ta sẽ nói thế nào đây? Người ta có thể xếp anh vào loại người có niềm tin mà không có việc làm như được mô tả ở đoạn 2 trong thư của Thánh Gia-cô bê, Ngài nói “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”, giống như đi vào phòng tham dự tiệc cưới mà không có y phục lễ cưới thì đáng bị ném ra ngoài.
Nhưng hôm nay, tôi nhận ra một điều khác ở người khách này. Khi bị hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có ý phục lễ cưới?” thì anh ta ngậm tăm, miệng câm và không nói được gì. Có một cái gì thiếu nơi anh. Anh không nói được điều nào hết! Anh tuy có mặt nhưng thật ra đã không hiện diện. Thân xác anh bất động ở đó, nhưng tâm hồn và các sự khác của anh đã thoát khỏi phòng tiệc. Anh có mặt như không có mặt. Cứ như thể anh không thực sự hiện diện nơi đó.
Sự thật này đã xẩy ra trong kinh nghiệm sống của chúng ta. Đã bao lần thân xác ta ở đó, nhưng lòng của mình đã bay tận chốn nào rồi! Tình trạng ‘đồng sàng dị mộng’ hay ‘lãnh cảm’ là thế đó. Sự thật này cũng đã xẩy ra trong cuộc sống của chúng ta với Chúa. Đã bao nhiêu lần, thân xác chúng ta trong nhà thờ mà lòng trí lại ở tận nơi đâu.
Giống như thế, trong các mối tương quan, đã bao nhiêu lần chúng ta có mặt như không có mặt. Sống chung một nhà mà không muốn nhìn mặt nhau thì coi như người đó đâu còn hiện diện nữa.
Sau cùng, chúng ta hãy nhớ rằng: tiêu chuẩn mà chúng ta được mời tham dự tiệc cưới hoàn toàn không dưạ trên lòng đạo đức, thánh thiện hay là phẩm chất tốt lành của chúng ta. Lời mời được phát sinh bởi Thiên Chúa, từ lòng quảng đại của Người, Đấng tha thiết mời gọi chúng ta trước là hiện diện rồi mới chia sẻ niềm vui với Người. Nhưng lòng quảng đại, nhân từ và kiên tâm chờ đợi của Thiên Chúa không bao giờ là một cái cớ khiến chúng ta tự mãn và coi thuờng rồi không hợp tác với Ngài. Chính việc chọn lựa không hợp tác của chúng ta giống như người không có y phục lễ cưới đã được mô tả trong dụ ngôn. Đó có thể là nguyên nhân khiến chúng ta tuy có mặt nhưng không hiện diện. Tự mình loại mình ra khỏi bữa tiệc của niềm vui.
Vậy, mỗi khi gặp nhau trong các lần gặp mặt, các bữa ăn, nhất là qua các bữa tiệc lòng mến hay còn gọi là Thánh Lễ, chúng ta sẽ mang đến bữa tiệc một sự hiện diện đích thật, không giả dối; đong đầy yêu thương và tha thứ cho nhau; chấp nhận con người với những yếu đuối của nhau; luôn mở ra để đón tiếp và chấp nhận nhau; tay bắt, mặt mừng và với niềm hân hoan để cùng có mặt, cùng nhau chia sẻ niềm vui mọi ngày cho đến tận thế. Amen!
Thiên Chúa Mời Chung Vui Tiệc Cưới. Tín Nhân Đến Tận Hưởng Thiên Đàng. Tiệc cưới là TN 28-A200
Thiên Chúa Mời Chung Vui Tiệc Cưới Tín Nhân Đến Tận Hưởng Thiên Đàng.
Tiệc cưới là tiệc mừng, nhưng chủ tiệc chỉ mời người thân quen và có thế giá. Người ta vui khi được mời dự tiệc này. Nhưng Tiệc Cưới Nước Trời khoản đãi mọi người, bất cứ ai cũng được mời, không phân biệt gì. Lời mời gọi chân thành của Thiên Chúa dành cho mọi người là dụ ngôn Tiệc Cưới vì Ngài không muốn ai phải hư mất, (Mt 18:14) Ngài rất muốn tất cả chúng ta trở nên hoàn thiện để xứng đáng được phúc trường sinh.
Dụ ngôn là đặc điểm Chúa Giêsu dùng khi giáo huấn hoặc loan báo Nước Trời. Một hôm, qua trình thuật Mt 22:1-14, Ngài nói rằng Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Ông sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Ông lại sai gia nhân đi mời quan khách đã được mời, nói rõ rằng cỗ bàn đã dọn xong, cao lương mỹ vị đã sẵn sàng. Nhưng rồi họ cũng không đến – kẻ đi thăm trại, người đi buôn bán, kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và sát hại.
Nghe gia nhân tâu lại, nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng. Rồi nhà vua bảo đầy tớ đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới, vì những kẻ đã ĐƯỢC MỜI lại KHÔNG XỨNG ĐÁNG. Tuân lệnh vua, các đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp bất kỳ ai cũng mời cả vào phòng tiệc cưới, không phân biệt họ là người xấu hay người tốt.
Đến thời điểm quan trọng: cử hành hôn lễ. Khi nhà vua tiến vào và quan sát các thực khách trong phòng tiệc, ông chợt thấy ở đó có người KHÔNG mặc y phục lễ cưới nên hỏi tại sao không có y phục lễ cưới. Người ấy nín thinh. Nhà vua bảo những người phục vụ: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được GỌI thì nhiều, mà người được CHỌN thì ít.” Thật đáng buồn và sợ hãi!
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Gọi nhiều, chọn ít.” Phải chăng có ít người được vào Nước Trời? Rất có thể. Bởi vì người ta chỉ “giật mình” khi nghe lời Chúa “chạm” đến mình, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Con người vốn yếu đuối, dễ “lờn thuốc,” không cố gắng thì lại “ngựa quen đường cũ,” lại sa đà ngay. Có phải chúng ta đã được “cài đặt” mặc định với cái tên “Nguyễn Y Vân” (vẫn y nguyên) hoặc “Vũ Như Cẩn” (vẫn như cũ) chăng? Người ta cũng thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời.” Thực sự rất khó để “cởi bỏ” con-người-cũ để có thể “mặc lấy” con-người-mới. Vì thế, phải tỉnh thức, phải nỗ lực rất nhiều, nỗ lực không ngừng, nỗ lực triền miên. Ước gì chúng ta được là người có tên trong danh sách “số ít” được bước vào Thiên Quốc!
Hằng ngày chúng ta được mời gọi tham dự hai bàn tiệc: Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Thật vậy, trong mỗi Thánh Lễ, linh mục đại diện Chúa Giêsu vẫn tha thiết mời gọi: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.” Thật là diễm phúc nếu chúng ta đón nhận chính Đức Giêsu Kitô vào lòng để được hòa tan vào Ngài, tâm sự với Ngài. Sau khi rước lễ, hãy dành những giây phút ngắn ngủi vô giá đó để “hòa tan” vào Đức Giêsu Kitô – hòa tan cả linh hồn và thể lý.
Chúa Giêsu luôn muốn ở trong chúng ta, Ngài không muốn chúng ta xa rời Ngài dù chỉ thoáng chốc, nên Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để được ở trong chúng ta, đúng như lời hứa của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Tình yêu của Chúa Giêsu quá lớn, chúng ta không thể hiểu thấu. Kinh Thánh nói: “Người no, tảng mật cũng coi thường, kẻ đói thấy đắng cay cũng ngọt.” (Cn 27:7) Người ta phải nhận biết mình “đói khát” thì mới mau mắn chấp nhận lời mời dự tiệc của Lòng Chúa Thương Xót, Tiệc Cưới Nước Trời vĩnh hằng, nếu không thì không muốn đi dự tiệc mặc dù đã được mời rất sớm.
Lòng thương xót của Thiên Chúa vô hạn, Chúa Giêsu xác định: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, KHÔNG MUỐN cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18:14) Thật vậy, qua ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề, Ta CHẲNG VUI gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng VUI khi nó thay đổi đường lối để được sống.” (Ed 33:11) Đến thời chúng ta, Chúa Giêsu lại xác định qua Thánh Faustina: “Ta KHÔNG MUỐN PHẠT nhân loại, mà chỉ MUỐN CHỮA LÀNH, muốn đưa nhân loại vào TRÁI TIM THƯƠNG XÓT của Ta.” (Nhật Ký, 1588) Đó là cách Chúa động viên đừng thất vọng, nhưng phải tín thác và tu thân. Thất vọng về mình cũng là một dạng kiêu ngạo!
Ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi để chúng ta biết đi theo con đường nào và phương hướng nào: “Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 60:19) Tất cả chúng ta đều nhận được Thiệp Mời tham dự Thánh Tiệc Thiên Quốc, nhưng đi hay không tùy mỗi chúng ta, Ngài không ép buộc. Người Việt chúng ta thường nói: “Ăn có mời, làm có khiến.” Ở đây không có ý tiêu cực hoặc thụ động, nhưng có ý nói phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp. Người ta cũng so sánh: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.” Chắc hẳn ai cũng đã hơn một lần đi dự tiệc: Cưới hỏi, tân gia, đầy tháng, thôi nôi, khai trương,... Không mặn nhiều cũng mặn ít, đơn giản nhất là tiệc trà. Trẻ em ngày nay cũng “luân phiên” mời nhau dự tiệc sinh nhật. Phú quý sinh lễ nghĩa, nhưng đôi khi cha mẹ đã lợi dụng dịp vui của con cái vì “mục đích” riêng của mình!
Cổ nhân có câu: “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên.” – Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Thật thấm thía ý tứ sâu sắc của tiền nhân. Câu này có nguồn gốc trong Hán Thư: “Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên” – Vua chúa lấy dân làm trời, nhân dân lấy (cái) ăn làm trời.” Quả thật, ăn là vấn đề cần thiết, vì liên quan vấn đề sinh tồn: “Có thực mới vực được đạo.” Chuyện ăn uống bình thường mà khác thường, cần có văn hóa, và là bài học thứ nhất trong bốn thứ phải học đầu tiên trong đời người: Học ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ. Có thể nói rằng thực phẩm cần như khí trời để hít thở, như điều kiện “ắt có và đủ” vậy. Nhưng phải lưu ý, bởi vì miếng ăn có thể là vinh dự hay nhục nhã.
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia thông báo: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ ĐÃI muôn dân MỘT BỮA TIỆC: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.” (Is 25:6) Toàn là cao lương mỹ vị, rất ngon lành, đáng mơ ước lắm. Không chỉ vậy mà còn hơn thế nữa, niềm vui tăng gấp bội: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người.” (Is 25:7-8) Vì thế, thiên hạ sẽ cùng nhau râm ran vào ngày trọng đại ấy: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.” (Is 25:9) Rạch ròi hai năm rõ mười: “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ. Còn Môáp sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân.” (Is 25:10) Điều Chúa hứa chắc chắn xảy ra vào thời điểm thích hợp.
Luôn cần có Đức Tin, vì đó không chỉ là một nhân đức mà còn là một hồng ân. Tin có Chúa thì có Chúa trong lòng, có Chúa rồi thì chẳng gì khiến người ta xao xuyến: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Sự thật minh nhiên, đúng như Thánh Vịnh gia đã từng xác định: “Hãy KÝ THÁC đường đời cho Chúa, TIN TƯỞNG vào Người, Người sẽ RA TAY.” (Tv 37:5) Đó là hành động của Đức Tin, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, Đấng quan phòng và tiền định. Những người thực sự tín thác vào Chúa thì chẳng gì làm họ sợ hãi, họ luôn hướng về Chúa mọi nơi và mọi lúc: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23:4) Vả lại, chúng ta có lo cũng chẳng được, sợ cũng chẳng thoát. Tín thác là tốt nhất.
Kinh nghiệm cho thấy rằng cuộc sống luôn biến động. Nếu cuộc đời bình lặng sẽ gây nhàm chán. Chính gian khổ khiến người ta nên khôn, và là tiêu chí để biết mức độ hơn – kém. Sau gian truân, thử thách, đau khổ,… ai trung tín sẽ được Thiên Chúa tuyên dương công trạng: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:5) Thật hạnh phúc, chắc hẳn người ta không thể trì hoãn niềm vui đó, phải chia sẻ với người khác: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6)
Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.” (Pl 4:12-14) Tín nhân khả dĩ chấp nhận mọi thứ mà không than thân trách phận khi họ có Chúa trong lòng, với đức tin sâu sắc và mạnh mẽ, chắc chắn không gì có thể tách rời họ khỏi tình yêu của Đức Kitô, (x. Rm 8:35) vì họ luôn tâm niệm lời Ngài nhắn nhủ và động viên: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16:33)
Ai cũng sợ đau khổ, nhưng được Thiên Chúa báo trước và quyết tâm theo Ngài, người ta sẽ có thêm can đảm. Đã trải nghiệm với niềm tín thác kiên vững, Thánh Phaolô xác định để động viên các tín nhân: “Thiên Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Pl 4:19-20) Mọi lời Chúa hứa đều được hoàn tất, vì Ngài là Đấng tín thành.
Với kinh nghiệm tâm linh, Thánh Vịnh gia khuyến khích bằng lời mời gọi: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9) Ai đã cảm nghiệm sự ngọt ngào của Thiên Chúa thì hoàn toàn thay đổi lối sống, khác hẳn trước đó. Nhiều vị thánh đã chứng tỏ điều đó, chẳng hạn CP Bartolo Longo (1841-1926, lễ ngày 5-10) đã từng theo giáo phái Satanist (tôn thờ ma quỷ) và tự phong mình là linh mục của Satan, nhưng ngài đã trở lại nhờ cảm nghiệm sự ngọt ngào của Thiên Chúa, hoặc như Thánh Augustinô đã nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng.”
Thiên Chúa luôn mời gọi và chờ đợi mọi người đến với Ngài – bất cứ lúc nào, càng sớm càng tốt. Lòng Thương Xót của Ngài bất biến, nhưng chúng ta có được thương xót hay không là tùy thuộc chính mình. Chúa Giêsu đã nói với Thánh Faustina: “Con hãy chuẩn bị thế giới cho cuộc giáng lâm chung tận của Ta. Con hãy nói cho thế giới biết về lòng thương xót của ta. Đó là dấu hiệu cho thời kỳ chung tận, sau đó sẽ phải đến ngày của công lý. Hãy nói cho các linh hồn về lòng thương xót lớn lao của Ta, bởi vì ngày kinh hoàng, ngày công lý của Ta đã gần kề.” (Nhật Ký 429, 848, 965)
Điều đó đang dần dần ứng nghiệm, càng lúc càng gần hơn: “Cuộc trở lại của Đức Kitô không còn xa.” (Đức Piô XII, triều đại 1939-1958), “Cuộc trở lại của Đức Kitô đã gần.” (Đức Gioan XXIII, triều đại 1958-1963) “Cuộc trở lại của Đức Kitô đã kề cận.” (Đức Phaolô VI (triều đại 1963-1978) “Hãy mở cửa đón Chúa Kitô.” (Đức Gioan Phaolô II, triều đại 1978-2005) Một “quy trình” tiệm tiến nhưng rất đáng lưu tâm!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con có “áo cưới” xứng đáng khi tham dự Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Xin đốt lửa mến để chúng con say yêu Thánh Thể và được hưởng Nguồn Sống dồi dào. Xin tạ ơn Ngài luôn cho chúng con tham dự Yến Tiệc Lòng Thương Xót, và xin cho chúng con được dự phần Thánh Tiệc Thiên Quốc mai sau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.