Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 18 TN–A Bài 101-129: Mọi người đều ăn no ------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 14, 13-21: “Mọi người đều ăn no”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ. Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”. Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. - Ðó là lời Chúa.
Trong chuyến hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có ghé thăm miền đất Tabgha với nhiều địa danh quen thuộc được kể trong Phúc Âm. Vùng Tabgha màu mỡ trải dọc theo hướng Tây Bắc bờ Biển Hồ Galilê. Tên Tabgha bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Heptapegon” nghĩa là “7 con suối” và được thu gọn lại theo tiếng Ả Rập là Tabgha.
Theo truyền thống, tại miền đất này đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu: Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều; Chúa giảng Bài Giảng trên núi; sau khi phục sinh, Chúa đã hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ và trao quyền lãnh đạo cho Simon Phêrô…
Chúng tôi đến thăm “Nhà Thờ Bánh Hóa Nhiều”, giữa một khu vườn rất nhiều cây ôliu và hoa cỏ xanh tươi xinh đẹp. Ngôi Nhà Thờ nguyên thủy được xây dựng dưới thời Byzantine, trong nhiều giai đoạn khác nhau và được trùng tu vào các thế kỷ sau đó. Nhà Thờ vẫn còn lưu giữ một sàn nhà khảm đá ( mosaic ) đã được khám phá tại Thánh Địa. Có lẽ biểu tượng nổi bật nhất, nằm ngay trên đỉnh của bức tranh phía dưới bàn thờ chính là 5 chiếc bánh và 2 con cá, kính nhớ việc Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ tại đây.
Người Ba Tư xâm chiếm vùng này và phá hủy Nhà Thờ vào năm 614. Vương Cung Thánh Đường mới được xây dựng trên nền cổ của ngôi Nhà Thờ, vẫn còn giữ nguyên phong cách cũ đồng thời kết hợp hài hòa những nét cổ xưa và hiện đại. Ngày nay, các thầy Dòng Biển Đức chăm sóc ngôi Nhà Thờ này.
Chúng tôi đọc Phúc Âm câu chuyện phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều và thinh lặng suy niệm. Thánh Mátthêu ở chương 14 mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: bữa tiệc sang trọng với cái đầu của Gioan Tẩy Giả và bữa tiệc của dân nghèo với 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Mt 14, 1 – 12: Tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quý phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời: quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, thức ăn cao lương mỹ vị, rượu ngon thoả thích, vũ nữ duyên dáng chân dài chân ngắn… và có cả hận thù ích kỷ, máu đổ đầu rơi.
Mt 14, 13 – 21: Tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Đây là phép lạ của tình thương. Các môn đệ cũng đóng vai trò quan trọng là cộng tác với Chúa, đi phân phát thức ăn cho dân chúng. Mọi người chia sẻ cho nhau, bánh và cá cứ thế mà tiếp tục nhiều lên.
Chúa không làm phép lạ một núi bánh và cá cho mọi người đến lấy. Chúa làm phép lạ khi mọi người liên đới với nhau, cùng bẻ ra và trao cho nhau. Bữa ăn hôm đó là một biểu tượng của bữa tiệc Thánh Thể. Không còn ranh giới, không còn giai cấp, không còn kẻ trên người dưới. Một tinh thần hoà đồng, tất cả đều là anh chị em trong Chúa Giêsu.
Trong tiệc Thánh Thể, người ta tìm thấy bình an và nguồn hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn. Người ta tận hưởng hoa trái tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, người ta nhận biết giá trị của bình an nội tâm do ân sủng Chúa ban đến.
1. Bánh Trường Sinh
Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể: "Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ" ( Mt 14, 20 ). Trong Tiệc Ly "Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng" ( Mc 14, 22 ). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu ( Lc 24, 30 ) và của Giáo Hội ( Cv 2, 42).
Ðược bánh ăn, dân chúng muốn "bắt lấy Ngài tôn lên làm vua" ( Ga 6, 15 ). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh "Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi" ( Ga 6, 27 ).
Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ).
Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là "Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" ( Ga 6, 54 ). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
"Bánh Ta sẽ ban" hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập Giá. Giá trị cứu rỗi của cái chết trên Thập Giá được hiện tại hoá luôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo Hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo Hội, qua Giáo Hội và với Giáo Hội. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
2. Bánh Lời Chúa:
"Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta" ( Ga 1, 14 ). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn Sứ" ( Dt 1, 1 ).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo Hội hôm nay "Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân" ( Lc 9, 2 ). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ "Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn" ( Cv 6, 2 ) và chính Thánh Phaolô kêu lên "khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng". Thế là, con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá; con người yếu đuối công bố Lời quyền năng; con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao.
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng "do nhân" ( ex opere operantis ), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe.
Lời Chúa được công bố khi cử hành Phụng Vụ, đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo Hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo Hội bởi Thừa tác viên chính thức. Lời Bí Tích mang hiệu năng "do sự" ( ex opere operato ), qua các Bí Tích Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: "Không ai có thể tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần" ( 1Cr 12, 3 ) và "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công" ( Tv 127, 1 ).
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em ? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Chúa chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Ðồng thời cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm Ngôn Sứ. Là trách nhiệm vì phải nỗ lực để chu toàn sứ vụ.
3. Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Ðổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của mình.
Ðến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
Linh Mục đọc Lời Truyền Phép là Lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong Đức Tin, trong Lòng Mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô. "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35 ). "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" ( Ga 6, 51 ).
Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả ?’ Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. ( Đường Hy Vọng # 349 ). Bí Tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ ( GH 11 ), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ ( GLCG 1068 ).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” ( PV 2 ) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen !
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (X. Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (X. Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ.
Phản ứng các môn đệ là bế tắc được ghi lại trong 4 phúc âm như sau:
– Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.
– Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đồng bạc bánh mà cho họ ăn sao?
– Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.
– Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Thái độ của các môn đệ là muốn thoái thác: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn.
Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ đó. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm và cùng cộng tác với Ngài: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Chúa Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng, những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê đầy ứ và còn dư dả phủ phê.
Chúa Giêsu đã cho họ ăn một bữa đã đời và đó cũng là bữa để đời. Để đời vì là lời mời gọi cộng tác và hãy biết quý chuộng ân sủng Chúa ban.
“Anh em hãy cho họ ăn”. Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người.
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Chúa không làm phép lạ từ không ra có. Chúa làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Phần đóng góp nhỏ bé, nhưng lại cần thiết. Chúa cần sự cộng tác của con người cho dù sự cộng tác ấy là nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé thành lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại.
Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một kho thức ăn để người ta tự do đến lấy tùy thích.
Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, biết trao đi, thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Nghèo nàn hay thiếu khả năng, điều ấy không quan trọng. Chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa đã làm phép lạ ra nhiều. Hãy đóng góp hết khả năng nhỏ bé của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện.
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Đây còn là lời mời gọi lên đường thực thi đức ái. Giáo hội không bao giờ thờ ơ né tránh các vấn đề nhân sinh của nhân loại. Giáo hội quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và thế giới. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ thụ động, viện cớ này nọ để tự biện minh: “Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, như thế thấm đâu cho ngần ấy người”.
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Chúa nhắc nhở Giáo hội phải chủ động đi đến với người nghèo khổ, phải ở bên người nghèo đói và phải bênh vực chăm lo cho người nghèo nàn. Mọi Kitô hữu không thể thờ ơ trước những nỗi đau khổ, nghèo đói, thiếu thốn của anh chị em chung quanh. Nổ lực hết mình góp phần với Thiên Chúa để xoa dịu nỗi đau của tha nhân.
“Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”. Đoạn kết Phúc Âm cho biết: sau khi mọi người ăn no thỏa, người ta thu lượm được “mười hai thúng đầy vụn còn dư”. Hồng ân tràn đầy của tình thương Thiên Chúa. Phúc Âm luôn luôn nói về chân lý này: một khi Thiên Chúa ban ơn là Ngài ban dư dật. Người mù xin sáng mắt,Chúa Giêsu cho sáng cả linh hồn; người bất toại xin sức khỏe để vác chõng về nhà, Chúa Giêsu cho sức khỏe cả về phương diện tôn giáo để hội nhập vào nhịp sống cộng đoàn.
Với 5.000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều là vì “chạnh lòng thương”: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Ngài. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời, thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng.
Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.
Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ, tỏa sức sống cho nhân sinh.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Có một cụ bà đã 73 tuổi (có lẽ là một Kitô hữu {trong hình thấy đeo tràng chuỗi Mân Côi} đi nhặt những mãnh vụn thai nhi, sinh linh bị giết chết, đem về chôn cất. Chuyện rất cảm động và thật cảm phục “Mười năm nhặt xác ba ngàn hài nhi!”. (x. Người Lao Động Online, 26.6.2011).
Gần 10 năm nay, có một bà cụ đã bước sang tuổi 73, vẫn ngày ngày lặn lội khắp nơi để nhặt những thai nhi bị bỏ rơi, đem về chôn cất. Đó là bà Phạm Thị Cường, ngụ xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Bà bộc bạch: “Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi, kể cả khi chúng đã qua đời, bởi những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian”.
Ở làng quê nghèo ven biển xã Nghĩa Thắng, không ai còn lạ với hình ảnh một người đàn bà đã vào cái tuổi thất thập cổ lai hy, ngày ngày âm thầm đi gom nhặt thi hài những đứa trẻ khắp nơi về chôn cất. Trên đường về Nghĩa Thắng, khi hỏi thăm nhà bà Cường, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện về bà qua những nông dân ở vùng quê này. Ở nơi đây, mọi người vẫn trìu mến gọi bà là bà Cường “hài nhi’’, có lẽ một phần cũng do những công việc mà bà đã và đang làm.
Bà là một người hiền lành, phúc hậu. Đã gần 10 năm nay, không quản ngày nắng cháy da cháy thịt hay đêm đông lạnh giá, bà vẫn lặn lội khắp mọi ngả đường của huyện Nghĩa Hưng, đặc biệt là khu vực thị trấn Đông Bình, để nhặt các hài nhi xấu số bị phá bỏ, về chôn cất.
Cuộc sống của bà Cường chỉ trông vào gánh bán rau quả và những đồ tạp hóa ở khu chợ Đông Bình. Nơi đây, có một số cơ sở nạo phá, hút thai nhi. Mỗi ngày có hàng trăm ca nạo phá thai đã diễn ra, một phần công khai, còn chủ yếu là bí mật, cũng đồng nghĩa với việc hàng trăm hài nhi bị vứt bỏ.
“Mỗi lần nhìn thấy thi hài của các cháu bị vứt bỏ nơi đầu đường, xó chợ, tôi lại không thể kìm lòng, càng thương các sinh linh bé nhỏ bơ vơ chưa kịp cất tiếng khóc chào đời, đã phải chịu thay tội vạ mà cha mẹ chúng đã gây ra. Đáng trách quá!”…
Gần 10 năm nay, họ đã tìm nhặt và an táng hơn 3.000 sinh linh bé bỏng.
Bà Cường tâm sự về “cơ duyên” dẫn mình đến cái nghiệp làm phúc này. Bà cho biết vẫn nhớ như in ngày 8.3.2002. Trên đường đến chợ Đông Bình để bán rau, khi đi đến cầu Đông Bình, bà Cường thấy có một túi nilông màu đen, ruồi muỗi bám đen.
Bà Cường nhớ lại: “Lúc đầu tôi cứ nghĩ đây là túi rác của gia đình nào đó ném ra đây. Nhưng rồi đi được một đoạn, tự dưng trong người tôi như có lửa đốt, cứ bồn chồn chẳng yên, đặc biệt là hình ảnh chiếc túi màu đen cứ như ngay trước mắt mình. Đứng lại suy nghĩ một lúc, tôi quyết định quay lại xem bên trong túi bóng đó chứa thứ gì”.
Bà Cường bàng hoàng và đau xót khi chứng kiến một hài nhi đang thoi thóp thở, thân thể bị kiến bu đầy, nhưng đôi mắt bé mở to nhìn bà chằm chằm như muốn nài nỉ, van xin. “Tôi đem đứa bé về nhà, lau rửa sạch sẽ, rồi đi xin sữa cho cháu bú nhưng cũng chỉ được ít phút sau, cháu đã tắt thở. Tôi cứ bị ám ảnh mãi ánh mắt của cháu, cứ đau đáu nhìn tôi. Nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, tôi quyết định phải làm một việc gì đó, chứ không thể để những cảnh thai nhi bị người ta bỏ đi mà không hề được chôn cất”.
Nhiều lúc bà Cường cũng nản khi có quá nhiều đứa bé bị nạo hút như vậy. Nhiều lúc bà định dừng công việc này, nhưng lại nghĩ đến những đứa trẻ bơ vơ, sống không thấy mặt cha mẹ, chưa kịp chào đời đã bị bỏ rơi.
Bà lại thấy mình không thể đứng nhìn được, phải làm việc gì sao cho có ích. “Vì vậy, tôi không kể gì là gian khổ, mưa nắng hay ngày đêm, lúc nào nghe tin ở đâu đó có thi hài bị bỏ rơi, là lại tìm đến để xin về mai táng”.
Nghĩa trang Quần Vinh trong một chiều mùa hạ, bà Cường lặng lẽ thắp những nén nhang thơm lên phần mộ của những hài nhi xấu số. Rồi bà nói trong tiếng nấc: “Các con chưa kịp chào đời đã phải trả giá cho sai lầm của những kẻ sinh thành nên các con. Bà thắp nén nhang thơm, mong các con được an nghỉ”…
Tuy hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân lại già yếu, nhưng lúc nào bà Cường cũng hiển hiện niềm tin cuộc sống và tình thương yêu con người. Tâm sự với chúng tôi, bà Cường không mong ước điều gì ngoài việc mình được… thất nghiệp. Bà mong sẽ không còn phải ngày ngày đi làm công việc thu gom xác hài nhi đầy đau đớn này nữa. Tuy vậy, bà Cường vẫn khẳng định: “Tôi sẽ tiếp tục công việc này cho đến khi nào còn sức khỏe. Tôi sẽ tiếp tục đi thu gom những hài nhi xấu số về chôn cất, bởi theo tâm niệm của tôi, những đứa trẻ tội nghiệp đó đã quá bất hạnh. Tôi quyết không để các cháu cô đơn mặc dù đã rời trần thế”…
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
Suy niệm câu chuyện hóa bánh ra nhiều, nghe Chúa mời gọi chúng ta: hãy mở rộng trái tim để biết “chạnh lòng thương” anh em đồng loại. “Chạnh lòng thương” được thể hiện qua những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh chị em.
Chúa muốn trái tim chúng ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Kinh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Tình yêu Thiên Chúa bàng bạc trong Thánh Kinh, Thánh Giá và Thánh Thể. Một tình yêu tha thứ, phục vụ mạnh hơn hận thù. Một tình yêu phục sinh mạnh hơn sự chết. Một tình yêu khiêm tốn bao dung, mạnh hơn mọi kiêu căng và hẹp hòi.
Nước Trời: đó là tình trạng đảo ngược của một nhân lọai đang bị khống chế theo kiểu “mạnh được yếu thua, mạnh ai nấy sống”. Mời một người đến dùng bữa tại nhà là dấu chứng một tình bạn đặc biệt. Các tông đồ dường như không thích cho đám đông ăn. Họ tin rằng phải giữ lại cho mình cái ít ỏi mà mình đang có. Nhưng Chúa Giê su không hiểu như thế, với cái ít ỏi đó, Ngài có thể nuôi sống một đám đông và còn bảo họ thu luợm được nhiều miếng bánh vụn. Ai nấy đều trở về lòng tràn ngập bình an và tình yêu.
Sách Tiên tri Isaia 55, 1-3
Người Do thái bị lưu đày sang Babylon vật lộn với những khó khăn hằng ngày để kiếm cơm bánh. Tiên tri Isaia loan báo thời đại mà mọi thức ăn đều được biếu không. Tuy nhiên phải hiểu rằng điều thực sự làm cho con người sống, đó là giao ước với Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 144
Chúa là Đấng nưôi sống dân Người trong suốt dòng Lịch sử. Và thức ăn vật chất ấy là lời loan báo thứ lương thực thiêng liêng cho phép Ngài ở với chúng ta cho đến tận thế. Chúa là đấng chậm giận và đầy yêu thương, ban cho chúng ta Bánh bởi trời.
Thư Rm 8, 35.37-39
Thánh Phao lô vừa trình bày cho các độc giả của ngài biết thế nào là sự sống được đổi mới bởi sự khám phá Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Ngài hân hoan reo lên. Đối với người đã khám phá ra lòng nhân từ của Chúa, thì sự sống trở thành đà sống lạc quan ngay cả trong những khó khăn. Tình yêu sẽ là của ăn đích thực cho đời sống.
Mt 14: 13-21
NGỮ CẢNH
Dù đã khước từ Chúa Giê su ở Nagiarét (13,53-58) và nghe biết cái chết bi thảm của Gioan Tẩy giả (14,1-12), đám đông dân chúng vẫn tuôn đến cùng Ngài (c13). Thấy họ đói khát bơ vơ, Ngài chạnh lòng thương xót (x.14). Toàn bộ trình thuật đều qui hướng vào đám đông và thái độ của Chúa Giê su đối với họ: một dân tộc mới đang được qui tụ và hình thành. Toàn bộ trình thuật xoay chung quanh mệnh lệnh của Chúa Giê su: “Hãy cho.., hãy đem lại đây”. Đấng ra lệnh cũng là đấng thương xót đám đông (c.14) và cũng là Đấng khiêm tốn tạ ơn vì được ban lương thực ngày nầy (c.19).
Có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục sau đây:
1. Chúa Giê su chữa bệnh cho đám đông (14, 13-14)
2. Chúa Giê su hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông (14, 15-20)
3. Kết luận: ghi nhận về bánh hóa ra nhiều (21)
TÌM HIỂU
Chúa Giê su lánh khỏi nơi đó..đến một chỗ hoang vắng riêng biệt: Đây là kiểu nói mô tả phản ứng của Chúa Giê su khi thiên hạ không chịu tin ở Ngài. Trước tình cảnh đó, theo thường lệ, Ngài lánh vào nơi hoang vắng để suy nghĩ và cầu nguyện. Ngài rút lui trước sự cứng tin của quận vương Hêrôđê, kẻ vừa ra lệnh giết Gioan Tẩy giả. Chỗ hoang vắng gợi lại khung cảnh sa mạc, nơi mà qua sự khẩn cầu của Mô sê, Thiên Chúa đã ban manna cho đoàn dân đang đi trong sa mạc tiến về đất hứa (Xh 16; Ds 11).
Chạnh lòng thương: (splagkhna), dịch sát nghĩa là: đau đớn quặn thắt trong lòng. Nhiều lần Mt ghi nhận Chúa Giê su động lòng thương (esplanchnisthê) (9,36; 15,52). Lòng thương xót của Chúa Giê su là chính lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Người âu yếm yêu thương con cái bằng lòng yêu thương của người Mẹ.
Và chữa lành các bệnh nhân của họ: Đám đông vẫn kéo đến cùng Chúa Giê su. Nhưng Ngài không còn ngỏ lời với đám đông nữa, không còn giảng dạy về Nước Thiên Chúa nữa, mà chỉ làm phép lạ thôi. Số phận bi thảm của ngôn sứ Gioan Tẩy giả khiến Ngài quyết định như thế.
Ngả mình trên cỏ: Chi tiết nầy cho thấy đang vào mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt qua. Ngả mình: hình ảnh gợi ý bữa tiệc, các thực khác ngả mình trên những chiếc đi văn thấp.
Năm cái bánh và hai con cá: Bánh và cá là thức ăn căn bản của dân Galilê thời đó. Nhà nghèo ăn bánh lúa mạch, nhà giàu ăn bánh lúa mì.
Dâng lời chúc tụng: Trước mỗi bữa ăn trong các gia đình Do thái, người cha đọc một công thức ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa về các ơn lảnh Ngài đã thương ban. Thí dụ lời chúc tụng nầy: “Xin chúc tụng Ngài, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, là Vua vũ trụ, là Đấng làm cho đất nảy sinh cơm bánh”. Do vậy, Chúa Giê su là người chủ gia đình muôn dân. Các động từ: cầm lấy..dâng lời chúc tụng..bẻ ra…trao cho.. được dùng trong trình thuật về Bí tích Thánh thể (Mt 26, 26).
Trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng: Các môn đệ là trung gian giữa Chúa Giê su và đám đông. Mt dùng động từ duy nhất “trao cho” trong cả hai trường hợp (so sánh Mc 6, 42; Lc 9, 16). Trong Mt các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu câu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc của chính Chúa Giê su.
Ai nấy đều ăn và được no nê, những mẩu bánh thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy: Bửa ăn no nê nầy gợi lên bữa tiệc cánh chung mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo (Is 25, 6; 55, 1; 65, 13); 12 giỏ đầy mảnh bánh dư có lẽ ám chỉ đến 12 chi tộc Israel; sự nghiệp của Chúa Giê su lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở những kẻ thụ ân Ngài mà thôi. Biến cố nầy có thể được coi như nghi thức khai mạc thời đại mới.
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay đặt chúng ta đối diện với những người đói khát. Làm sao không nghĩ đến hằng triệu con người đói khát ở khắp nơi trên thế giới? Nhiều dân tộc đang chịu đựng cơn đói hành hạ vì hạn hán và những cuộc tranh chấp địa phương. Và ngay cả trong những nước giàu có cũng thế, thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp những người nhiều ngày không được ăn vì họ không có cái ăn. Và bên cạnh cơn đói bánh ăn, chúng ta cũng không quên cơn đói hành hạ con người trong tâm trí và tâm hồn họ. Chúng ta nghĩ đến tất cả những người không thể tìm ra cho đời mình một ý nghĩa và đang sống không có hi vọng.
Bài tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy những đám đông đói khát chạy theo Chúa Giê su. Ngài động lòng trước cảnh đói nghèo của những đám người nầy. Bấy giờ Ngài làm ba dấu chỉ để cho họ thấy rằng, ý nghĩa thực sự sứ mạng của Ngài là trao ban sự sống. Ngài sắp cứu chữa những người bệnh tật; Ngài sắp hóa bánh ra nhiều; và tuần tới chúng ta sẽ thấy dấu chỉ thứ ba mà Ngài sẽ thực hiện bằng cách đi trên biển. Đó là ba dấu chỉ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa đang hành động chống lại các mãnh lực sự chết.
Dấu chỉ hóa bánh ra nhiều là một hành vi nói nhiều điều với chúng ta. Nó đưa chúng ta về với quá khứ của dân tộc Israel. Bấy giờ họ đang lang thang trên sa mạc. Sa mạc là nơi đói khát, là nơi của thần chết, gợi nhớ bốn mươi năm người Híp pri đã lang thang dưới sự lãnh đạo của ông Mô sê trước khi đi vào đất Hứa. Trong suốt thời gian ấy, Thiên Chúa đã lấy manna nuôi sống họ. Ngày nay, Chúa Giêsu cho tất cả chúng ta thấy rằng Ngài tiếp nối công trình của Chúa Cha với một nỗi niềm y như thế. Điều quan trọng đó là không ai chết vì đói. Ý muốn của Đức Ki tô là làm cho dân Ngài được sống. “Ta đến để cho mọi người được sống và được sống dồi dào” (Ga 1, 10).
Thứ hai, dấu chỉ của Chúa Giêsu loan báo một tương lai rất gần. Tất cả các hành vi của Chúa Giêsu được Thánh Mát thêu ghi lại dẫn chúng ta đến bàn Tiệc li, đến Thánh Thể của ngày thứ năm tuần thánh. Như thế, Ngài loan báo rằng Ngài sẽ trao ban sự sống của Ngài vì tình yêu, rằng chính Ngài là lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Thật vậy, bánh và cá là những dấu chỉ Đức Ki tô, được ghi lại trong những bức vẽ cổ xưa ki tô giáo. Các tác giả tin mừng, nhất là thánh Gioan đã nhận ra phép lạ nầy là dấu chỉ Thánh Thể. Trong trình thuật bữa tiệc li trong các sách tin mừng, Chúa Giê su cũng hành động đúng y như thế: “Ngài cầm lấy năm chiếc bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Khi trao ban Mình và Máu Ngài làm lương thực, Chúa phục sinh nuôi sống dân Ngài. “Bánh ta sẽ ban chính là thịt ta để cho thế gian được sống”.
Sau cùng dấu chỉ hóa bánh ra nhiều có một giá trị khác: nó gợi lại sứ mạng của người ki tô hữu. Trong trình thuật nầy, tất cả mọi sự xảy ra đều ngang qua các môn đệ. Ngài đã ra lệnh cho họ: “Anh em hãy cho họ ăn đi; cho họ ngồi xuống”. Chính cho họ mà Ngài trao cho bánh và cá để họ phân phát cho dân. Chính nơi tay của họ thực hiện việc hóa bánh để rồi sau đó phân phát cho dân. Chính ngang qua bàn tay các môn đệ mà Chúa Giê su nuôi sống và cứu độ mọi người. Thế mà vẫn còn dư lại mười hai thúng. Vẫn còn lương thực để nuôi sống các đám đông khác trong tương lai. Đó chính là sứ mạng của chúng ta. Cũng như với các môn đệ ngày xưa, ngày nay Chúa Giê su nói với chúng ta: “Hãy cho họ ăn đi”.
Vì ngày hôm nay, cũng còn những người đàn ông, đàn bà và con nít bị hành hạ bởi những cơn đói khát. Họ đói bánh ăn, họ đói lương thực vật chất. Nhưng thê thảm hơn cả là họ đói lương thực thiêng liêng; họ đang tìm điều gì đó có thể đem lại một ý nghĩa cho đời sống của họ. Chúng ta phải có bổn phận đáp lại cơn đói chân lí của họ. Liệu chúng ta có thể cứ dửng dưng trước bao người trẻ và người lớn quay lưng lại với đức tin không?
“Chính chúng con hãy cho họ ăn đi!” Đó chính là tình yêu của Đức Ki tô mà chúng ta được mời gọi chuyển giao. Không gì sẽ có thể thực hiện nếu không có phần đóng góp của chúng ta. Chúa Giê su có thể dự liệu một hành động khác, nhưng rõ ràng, phép lạ chỉ có thể xảy ra nhờ một đứa bé đã đóng góp phần lương thực ít oi của nó, năm chíếc bánh và hai con cá; trước tiên đó là phép lạ chia sẻ. Năm cái bánh cho năm ngàn người, quả thật là ít. Nhưng đó là phần của con người vào công trình của Thiên Chúa. Phần đóng góp ấy nằm trong khả năng của chúng ta cả khi nó quá nhỏ bé.
Trong kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin bánh hằng ngày. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến việc cầu xin được đói Thiên Chúa, đói nghe lời Ngài và được nuôi sống bằng Thánh Thể của Ngài. Ước gì lương thực ấy thúc đẩy chúng ta trao ban điều tốt nhất của mình: đó là tình yêu mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa.
ĐÀO SÂU
1. HỎI: Sách Isaia thứ hai có nội dung như thế nào?
THƯA: Bài đọc một trích từ phần cuối sách Đệ nhị Isaia (40-55), nội dung hoàn toàn hướng về lúc cuối thời Lưu đày và cuộc trở về đất hứa. Phần nầy bắt đầu bằng các lời an ủi dân kiên trì tin tưởng vào lời hứa Thiên Chúa mang lại ơn cứu thoát, do đó mang tựa đề là “sách An ủi Ít ra ên”.
2. HỎI: Tiên tri nhắc lại cho dân điều gì?
THƯA:Tiên tri nhắc lại cho dân nhớ bốn điều quan trọng sau đây: Ơn ban nhưng không của Thiên Chúa, cuộc chiến đấu chống lại thờ bụt thần, lòng tin tưởng vào Thiên Chúa luôn tín trung với Giao ước của Người.
3. HỎI: Thế nào là ‘Ơn ban nhưng không’ của Chúa?
THƯA: Với những người dân Ít ra ên bị lưu đày đói khát khốn khổ bên đất khách, Isaia dùng hình ảnh những bữa ăn thịnh soạn để nói về ơn ban nhưng không của Thiên Chúa: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây... đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào”.
4. HỎI: Bài đọc nói về việc chống lại việc thờ bụt thần như thế nào?
THƯA: Cám dỗ thờ bụt thần nơi những người bị lưu đày không phải đã chấm dứt. Trái lại dường như thần linh của bên chiến thắng lại có vẻ mạnh hơn! Vì thế tiên tri khuyến dụ dân đừng tìm kiếm những hạnh phúc nào khác ngoài Thiên Chúa: “Tại sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?” Chỉ có Thiên Chúa mới nắm giữ chìa khóa hạnh phúc và tự do của chúng ta.
5. HỎI: Thiên Chúa muốn nói gì khi phán dạy: “Hãy lắng nghe Ta thì các người sẽ được sống”?
THƯA: Thiên Chúa muốn dân phải luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, luôn gắn bó với Người để được sống.
6. HỎI: Thiên Chúa nhắc đến điều gì khi nói: “Ta sẽ thiết lập với các người một giao ước vĩnh cửu?”
THƯA: Thiên Chúa nhắc lại những lời Người hứa với Vua Đa vít qua tiên tri Na than (2S 7). Ngay từ những ngày đầu tiên của vương quốc, Người hứa từ dòng dõi Đa vít sẽ xuất hiện một đấng Messia vĩnh viễn mang lại tự do và hòa bình cho dân Người.
7. HỎI. Ngữ cảnh đoạn tin mừng như thế nào?
THƯA. Trong đọan tin mừng hôm nay, thánh Mát thêu đề cập đến cái chết của Gioan Tẩy giả (Mt 14, 3-12). Sau khi biết được tin đó, Chúa Giê su lui vào nơi thanh vắng để ở riêng với Thiên Chúa Cha và các môn đệ (14, 13). Nhưng khi nhìn thấy đám đông chạy theo, Chúa Giê su chạnh lòng thương xót họ vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn nên Ngài ra tay chữa lành những người đau yếu và nuôi dưỡng đám đông.
8. HỎI. Tại sao Chúa Giê su muốn cho các tông đồ trở thành những người tham dự vào phép lạ Ngài sắp làm?
THƯA. Là Thiên Chúa làm người, Chúa Giê su biết rõ sự đói khát và làm than của đám đông. Còn các môn đệ thì khác, họ không quan tâm đến việc đó mà chỉ biết nhắc Chúa Giê su: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn" (Mt 14,18). Nhưng Chúa Giê su sẽ hành động để một cách gián tiếp họ trở thành những người tham dự vào phép lạ. Ngài muốn chuẩn bị các tông đồ để vào lúc mà Thiên Chúa muốn, họ sẵn sàng nối tiếp sứ mạng của Ngài.
9.HỎI: Khi kể lại phép lạ hóa bánh, thánh Mát thêu gợi nhớ vị tiên tri nào?
THƯA: Thánh Mát thêu gợi nhớ Tiên tri Ê li sê rao giảng ở Vương quốc phía Bắc 800 năm trước. Một ngày nọ trong cơn đói kém, có người dâng cho ông của đầu mùa là hai mươi chiếc bánh lúa mạch. Tiên tri đã không giữ riêng cho mình mà trái lại, chia sẻ cho những người đang đói. Tất cả đã ăn no, mà vẫn còn dư bánh (2V4, 42-44).
10. HỎI: Đâu là bí quyết làm phép lạ của Chúa Giê su và Ê li sê?
THƯA: Bí quyết của các Ngài thật đơn giản: các Ngài tin rằng dù bánh ít người đông nhưng vẫn có thể chia sẻ cho nhau nên đã phó thác cho Thiên Chúa. Vì thế, tiên tri Ê li sê tin tưởng: “Người ta ăn rồi sẽ còn dư”. Còn Chúa Giê su chúc phúc cho bánh vì coi đó là quà tặng của Thiên Chúa và xin được biết dùng để phục vụ những kẻ đói nghèo.
11. HỎI: ‘Chạnh lòng thương xót’ muốn nói lên điều gì?
THƯA: Chạnh lòng thương có nghĩa là đau đớn quặn thắt trong lòng. Nhiều lần thánh Mát thêu ghi nhận Chúa Giê su động lòng thương (9, 36; 15, 52). Lòng thương xót của Chúa Giê su là chính lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Người âu yếm thương yêu con cái bằng chính lòng yêu thương của người Mẹ.
12.HỎI: ‘Dâng lời chúc tụng’ là sao?
THƯA: Trước mỗi bữa ăn trong gia đình Do thái, người cha đọc lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa về các ơn lành Ngài đã thương ban: “Xin chúc tụng Ngài, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, là Vua vũ trụ, là Đấng làm cho đất nảy sinh cơm bánh”. Ở đây, với tư cách là người chủ gia đình muôn dân, cgs cũng dâng lời chúc tụng Thiên Chúa Cha trước khi ban bánh nuôi đám đông dân Ngài.
13.HỎI: Bánh còn dư có ý nghĩa gì?
THƯA: Cả hai trình thuật đều ghi chú bánh còn dư để nhấn mạnh ơn ban của Thiên Chúa thật phong phú. Giống như man na trong sa mạc thời Xuất hành: “Các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16,12).
14. HỎI: Có điểm chung nào giữa hai trình thuật không?
THƯA: Có. Cả hai đều nói đến sự đói khát của dân. Thời Ê li sê là thời đói kém, và chính tiên tri có ý định chia sẻ phần lương thực của mình. Còn Chúa Giê su, vẫn để cho dân chúng đến với mình dù đã lánh vào nơi thanh vắng.
15. HỎI. Chi tiết “12 thúng đầy bánh vụn” có nghĩa gì?
THƯA. Chi tiết ấy muốn cho thấy rằng trong việc Quan phòng Thiên Chúa rất hào phóng. Người luôn luôn quảng đại đáp ứng những ai cầu xin Người bằng một tâm hồn đơn sơ và phó thác, luôn tin tưởng vào chương trình Cứu độ đời đời của Người.
16. HỎI. Đâu là giáo huấn quan trọng mà Chúa Giê su muốn gửi đến chúng ta qua “phép lạ hóa bánh ra nhiều”?
THƯA. Có nhiều giáo huấn: 1) Thiên Chúa nuôi sống dân riêng của Ngài và mọi tạo vật trong Lịch sử cứu độ; 2) Thiên Chúa đã tạo nên một thế giới có thể nuôi sống mọi người; 3) việc hóa bánh ra nhiều là hình ảnh cho thấy trước việc thiết lập bí tích Thánh Thể.
17. HỎI. Trong trang tin mừng nầy, dường như thánh Mát thêu trình bày cho chúng ta một cách biểu tượng nghi thức Thánh Thể?
THƯA. Đúng. Ở đây thánh Mát thêu trình bày cho chúng ta nghi thức Thánh thể hoàn bị nhất. Chúa Giê su dùng Lời giảng dạy đám đông trước khi ban cho họ tấm bánh bẻ ra của Ngài. Lời và Bánh chính là con người của Chúa Giê su: Đức Ki tô lấy chính thân mình để làm lương thực nuôi sống. Đó cũng chính là cử chỉ trong Bữa Tiệc li Vượt qua. Ngài chính là tấm Bánh được bẻ ra và phân phát cho mọi người. Qua đó, Thiên Chúa tự trao ban cho con người trong một sự hiệp thông sự sống sâu xa, thực sự và phong phú. Rồi Ngài truyền cho các môn đệ phân phát lương thực. Tiếp nối sứ mạng của các Tông đồ như thế, Giáo Hội phải ban cho thế gian điều đã lãnh nhận từ Đức Ki tô: lương thực thần linh đem lại sự sống và ơn Cứu độ đời đời.
18. HỎI. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Đức Ki tô như thế nào?
THƯA. Bằng cách loan báo tin mừng, chủ sự các bí tích, nâng đỡ về phần luân lí và vật chất những người bị coi là hèn kém nhất (nhưng được Chúa Giê su coi là lớn nhất trong Nước Trời).
Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".
Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
SUY NIỆM
Tin mừng Matthêu viết cho người Do Thái trở lại, vì thế Matthêu trình bày Chúa Giêsu như là một Môsê mới, thay cho Môsê cũ thời Cựu Ước dẫn dắt dân Chúa. Vì thế bài đọc một sách Dân Số và bài Tin Mừng theo thánh sử Matthêu, như là một bản so chiếu, để thấy được cái cũ và cái mới, nhờ đó dân Do Thái xưa và chúng ta ngày nay, nhận ra nhiệm cục (chương trình) Cứu độ của Thiên Chúa.
1/ Môsê cũ và Môsê mới
Môsê cũ thời Cựu Ước, ông được lệnh dẫn dắt dân, ông nhận những mệnh lệnh của Thiên Chúa mang xuống cho dân, và nhận những ước nguyện của dẫn dãi bầy cùng Thiên Chúa. Tuy vậy đôi lần ông cũng phải than trách rằng: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: "Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn, khi chúng khóc lóc đòi con: "Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn? Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn - ấy là nếu con đẹp lòng Ngài! Đừng để con thấy mình phải khổ nữa!”. Môsê cũ dù đã cố sức những vẫn cảm thấy bất lực, trước nhu cầu của dân.
Môsê mới là Đức Giêsu, Ngài mang trọng trách trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu nhận ra nỗi khổ của dân trước khi dân kêu cầu, và Ngài đủ quyền năng để thương xót dân, chữa lành kẻ đau bệnh và nuôi dưỡng dân chúng.
Chúa Giêsu chính là Môsê mới, trổi vượt, hoàn hảo và đủ quyền năng dẫn dắt dân mới về Nước Trời.
2/ Dân thánh cũ và dân thánh mới
Dân thánh cũ trong hoang địa, bộc lộ tính cách của con người, ô hợp, thiếu kiên nhẫn, niềm tin yếu kém, và sống theo thỏa mãn đam mê của con người: “Dân Israel bắt đầu thèm ăn, họ khóc lóc mà nói: “Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy manna thôi.”
Dân thánh mới thời Chúa Giêsu, bộc lộ tính cách của dân thánh. “Nghe tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người.” Họ được nuôi dưỡng bằng Lời hằng sống, và tín thác vào Chúa. Đây không phải tính cách ù lì, chờ sung rụng. Nhưng bản văn muốn nói đến đó là dân thánh mới, sống theo tinh thần mới của Chúa Giêsu: “Người ta sống không nguyên chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4, 4)
Chúng con vừa nghe một bài Tin Mừng thật đẹp trong Tin Mừng của thánh Mathêô.
Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, thánh Mathêô cho chúng ta thấy một hình ảnh thật đẹp về cuộc đời của Chúa. “Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương”(Mt 14,14).
Chúa Giêsu thương. Chúa thương tất cả mọi người nhất là những người cần đến Chúa.
Cha hỏi chúng con. Những người được Chúa thương trong bài Tin Mừng hôm nay có phải là bà con, bạn hữu hay là những người quen biết với Chúa không ?
- Thưa cha không!
+ Rất đúng! Không phải là bà con, bạn hữu hay là những người quen biết với Chúa, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Chúa là thương. Vâng! Chúa thương tất cả mọi người. Vì mọi người đều là con của Chúa nên Chúa yêu thương.
Nếu chúng con đọc kỹ Tin Mừng chúng con sẽ thấy nhiều lần Tin Mừng nhắc tới việc Chúa chạnh lòng thương như thế.
Thấy dân chúng đi theo Chúa vào tận nơi đồng vắng để nghe Chúa giảng, Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.” (Mc 8, 32)
Hai người mù ngồi ở vệ đường (Mc 10,29-34)Chúa đi ngang qua Chúa thấy và Chúa thương.
Một lần kia có một người mắc bệnh phong tìm đến với Chúa và Chúa đã thương. (Mt 8,14)
Tại thành Nain, Chúa thương một bà mẹ góa đang cùng với đám đông đưa đứa con trai duy nhất của mình ra nơi an nghỉ cuối cùng.(Lc 7,13)
Vâng! Chúa là như thế, còn chúng ta hôm nay thì sao ? Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này. Cha ước mong chúng con cũng bắt chước mà làm như vậy.
Một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên cạnh đó một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Ông ta cởi đôi ủng để trên bờ ruộng. Cậu bé tinh nghịch muốn giấu đôi ủng ấy để chọc giận người nông dân. Người người giám hộ nói với cậu:
- Con chớ làm cho người tá điền nghèo khổ này buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui thì tốt hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền vào mỗi chiếc ủng. Chúng ta sẽ núp ở đằng sau, và xem thử ông ta sẽ làm gì.
Cậu bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc một đồng bạc.
Một lát sau, người nông dân đã trở lại với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền trong đó, ông đã vội quì xuống và ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp ông trong lúc túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh.
Nhìn được tất cả những gì người nông dân đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc. Đó là ngày đầu tiên cậu cảm thấy hạnh phúc nhất đời mình.
Chúng con hay bắt chước làm như thế để chúng con được giống Chúa Giêsu.
2. Bây giờ cha hỏi tiếp: Chúa thương rồi Chúa làm gì ?
Chúa không chỉ thương bằng môi bằng miệng. Chúa thương bằng việc làm. Việc làm để chứng tỏ Chúa yêu thương thì không sao kể cho hết. Chỉ cần nhìm vào bài Tin Mừng hôm nay chúng con đã thấy.
Tin Mừng thánh Mathêô hôm nay ghi lại: Chúa chữa lành các bệnh nhân của họ. Rồi sau đó là gì nữa chúng con ? Chúa lo cho dân. Tin Mừng ghi “chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá ! Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy !” Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con”.
“Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” (Mt 14,16)
Thật là một mệnh lệnh vượt quá sức của con người.
Làm sao cho có bánh để cho một số đông hơn năm ngàn người ăn như thế.
Chúng con thấy chỉ lo cho gia đình chúng con được có cơm ăn mỗi ngày, ba mẹ anh chị chúng con đã phải vất vả thế nào. Hôm rồi cha tuyên uý tổ chức cho chúng con đi Vũng tàu một ngày với số lượng chỉ có mấy trăm em. Thế mà cha đã phải nhờ cậy nhiều người giúp đỡ chúng con mới có được bữa ăn trưa. Ở đây chúng con thấy hơn năm ngàn người, làm sao tìm được đồ ăn trong nơi vắng vẻ này. Thế nhưng Chúa vẫn ra lệnh. “Các con hãy lo cho họ ăn”(Mt 14,16). Họ đói! Các con phải lo cho họ ăn. Đúng là chỉ có Chúa mới làm được như thế. Trái tim đã thương thì bàn tay phải hành động. Và sau đó là một phép lạ chưa từng có trên trần gian này đã xảy ra.
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao chúng con ? Hôm nay Chúa cũng vẫn muốn như vậy. Tại sao thế chúng con ? Thưa vì tình thương là điều Chúa luôn muốn con người thực hiện. Vì chỉ có tình thương mới làm cho cuộc sống trở thành dễ sống và đáng yêu hơn.
Cha kể cho chúng con câu chuyện đẹp này:
Một cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng:
- Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác ?
Người chủ cửa hàng trả lời:
- Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!
Cậu bé rụt rè nói:
- Cháu có thể xem chúng được không ạ ?
Người chủ cửa hàng mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp, hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi:
- Con chó này bị sao vậy bác ?
Ông chủ giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời.
Nghe thế cậu bé tỏ ra xúc động:
- Đó chính là con chó cháu muốn mua!
Chủ cửa hàng nói:
- Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết cháu sẽ không muốn mua nó đâu.
Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:
- Cháu không muốn bác tặng nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả bác 2 đô la 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả dần 50 xu được không ạ ?
- Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó, người chủ cửa hàng khuyên. Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa như những con chó khác được đâu.
Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái tật nguyền, cong vẹo được nâng đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và khẽ bảo:
- Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà và chú chó con này sẽ cần một ai đó hiểu và chơi với nó.(Dan Clark)
Yêu thương là như thế chúng con. Chúng ta không phải chỉ yêu thương con người mà còn yêu thương tất cả những tạo vật của Chúa nữa. Yêu như thế mới được gọi là yêu như Chúa. Amen.
Đám đông theo Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay khá tử tế. Họ kỳ vọng, họ ước muốn, họ đói và họ khát lời của Ngài. Mặc dù giờ đã muộn, họ vẫn cứ bám theo khi Chúa đi nghỉ. Họ đi bộ quanh bờ hồ. Họ quyết định không cho Chúa nghỉ yên. Nguyên nhân nào thúc đẩy họ như vậy?
- Phải chăng họ đói lời Ngài?
- Phải chăng họ bị cuốn hút bởi con người Ngài và coi Ngài như là một siêu sao?
- Phải chăng họ muốn trông thấy phép lạ Ngài làm, nên họ dẫn đưa các bệnh nhân đến để Ngài cứu chữa?
Tất cả những nguyên nhân đó không phải là động lực chính thúc đẩy họ. Điều đáng ghi nhận ở đây là họ luôn có khát vọng cao hơn!
Chúng ta hôm nay cũng là một tập thể, cũng là một đám đông.
- Nhưng liệu chúng ta đến đây tham dự thánh lễ với những ước vọng giống như đám đông Dothái thuở ấy không?
- Hôm nay chúng ta đến đây với tâm trạng nào? Đang đói hay là đang no thoả rồi?
Thiên Chúa chẳng có thể làm được gì đối với những ai không ước muốn! Ngài cũng đành chịu bó tay đối với những người ngủ quên đời sống tâm linh hoặc tự mãn cho mình là đủ.
Đứng trước đám đông như vậy, Chúa Giêsu xúc động và một lòng thương xót vô bờ choáng ngập tâm can Ngài. Ngài thấy các bệnh nhân kêu xin Ngài. Ngài thấy những người Dothái trông chờ Đấng Messia, và cả những người dù không có vai trò gì trong tôn giáo thời ấy cũng đang khát Thiên Chúa. Họ theo Ngài suốt cả ngày đàng và chiều tối đã đến gần. Chả nhẽ lại cứ để họ như đàn chiên không người chăn ư?
Có rất nhiều lý do chính đáng để Chúa cần ở lại nơi thanh vắng: suốt một ngày làm việc mệt nhọc cần phải nghỉ ngơi một chút, nghỉ ngơi để cầu nguyện và hướng về Cha. Tuy nhiên, lòng thương xót của Ngài đối với đám đông đó không cho phép Ngài đi nghỉ.
Lòng thuơng xót của Chúa ở đây không có tính chất cảm tình chảy nước mắt. Lòng thương xót của Ngài năng động và có hiệu lực. Ngài nghĩ trong thâm tâm: “Giảng dài thêm nữa liệu có lợi không? Bệnh nhân ốm yếu nhiều quá rồi. Chúng ta cần phải chữa họ ngay đi. Hoàng hôn đã buông xuống, họ đói và cái bụng của họ đã rỗng hết. Khi bụng đói, thì nghe cũng chẳng vào. Chúng ta hãy hành động thôi!”
Các tông đồ lúc đó có một giải pháp rất người và cụ thể: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua cái gì đó để ăn”.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chấp nhận giải pháp đó. Ngài chẳng hề giải tán kẻ quấy rầy, kẻ có tội hoặc ông bố của đứa con gái đau nặng xin Ngài cứu chữa? Phải chăng Ngài đến trần gian để giải tán những người mà Ngài được sai đến hay sao? Cần phải hành động ngay thôi: họ sẽ có bánh ăn! Họ sẽ có một bữa ăn khai trương miễn phí, một tiệm ăn tâm hồn trong rừng vắng.
Điều quan trọng ở đây chúng ta cần chú ý: Chúa Giêsu không phải là nhà ma thuật làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để người ta tin Ngài. Vì chưng, Ngài nói với các tông đồ: Chính anh em hãy cho họ ăn! Câu nói này làm các tông đồ hết sức ngạc nhiên, vì họ đâu có phải là những người thợ làm bánh mì.
Lúc bấy giờ ở đó chỉ có 5 chiếc bánh nhỏ và 2 con cá. Thật là nực cười! Nhưng Chúa muốn cho các tông đồ hiểu rằng Ngài cần họ và Ngài sẽ chẳng làm gì nếu họ không cộng tác với Ngài. Thiên Chúa có thể thực hiện những việc cao cả với điều kiện là con người hợp tác với Ngài trong hành động.
Giọt nước mà linh mục khi dâng lễ rót vào chén rượu là phần đóng góp của con người vào việc biến đổi bánh ruợu trở thành Mình Máu Chúa. Khi dâng lễ, mỗi người chúng ta hãy trở nên giống như đứa trẻ trong bài Tin mừng hôm nay có 5 chiếc bánh và 2 con cá, để nói với Chúa rằng: “Lạy Chúa, trong cuộc đời phục vụ của con, con chỉ là đứa trẻ mang một số sản phẩm đến đây, còn việc tiếp theo Chúa biến đổi là việc của Chúa”.
Đứng trước nỗi đói khát của đám đông nhân loại hôm nay, trái tim chúng ta có mở ra đủ để cảm thông với họ chưa? Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay, Chúa Giêsu không có vẻ đắc chí vì đã cho đám đông đang đói được ăn no nê. Nếu Ngài không giải tán đám đông như lời các Tông đồ yêu cầu, chính là vì Ngài cũng muốn đem đến cho họ một điều gì khác. Ngài muốn tỏ cho họ thấy điều mà chỉ sau này họ mới hiểu được mà thôi: họ đói một loại của ăn khác, không phải là của ăn vật chất này. Đúng vậy! Chúa Giêsu không đến trần gian để làm thoả mãn những nhu cầu vật chất của chúng ta. Ngài không đến để thay hết các thợ bánh mì, các nhà buôn cá, các tiệm ăn và quán ăn bình dân, các thầy thuốc và các dược sỹ.
Ngài đến để trả lời cho cơn khát vô tận còn tiềm ẩn sâu xa bên trong mỗi người. Hãy chú ý bài Tin Mừng hôm nay: Những cử chỉ cho việc hoá bánh ra nhiều cũng chính là những cử chỉ trong bữa Tiệc Ly: “Ngài ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ”. Phép lạ này nhằm mục đích báo trước Ngài sẽ lập Bí tích Thánh Thể. Ngài chuẩn bị cho đám đông hôm nay sẽ nghe những lời khó hiểu: “Tôi sẽ cho anh em thịt tôi để ăn và máu tôi để uống.” Lòng thương cảm của Ngài không phải chỉ gửi đến những cái bụng trống rỗng cồn cào, mà còn gửi đến những con tim đang đói tình yêu thương.
Thế giới hôm nay và cả xã hội chúng ta, có rất nhiều cử chỉ bác ái của những người công giáo đối với những người xấu số thiệt phận và nghèo đói: các nước giàu xoá nợ cho các nước nghèo, xây dựng những ngôi nhà tình nghĩa. Điều đó tốt! Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì chưa đủ:
- Lẽ nào người kitô chúng ta lại không xao xuyến và đầy lòng trắc ẩn đối với biết bao người thời nay quên lãng giá trị đích thực?
- Chúng ta có thể lãnh đạm sao được trước biết bao bạn trẻ đã mất đức tin?
- Biết bao sinh viên không có người hướng đạo hoặc đào tạo đầy đủ?
- Biết bao cặp vợ chồng đã không lãnh nhận Bí tích Hôn Phối rồi lại bỏ nhau.
- Biết bao người già không được một linh mục hoặc một nữ tu thăm viếng vì công việc của các ngài chồng chất?
Hãy xin Chúa cho chúng ta ơn biết đói. Biết đói không phải để gầy đi cho đẹp hoặc để bớt độ cao máu, nhưng là để cảm thông với những người đói trên thế giới này. Hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết đói Chúa Kitô để tôn giáo mà chúng ta theo không phải là một ý thức hệ hoặc là đạo cha truyền con nối, nhưng là đạo tình yêu say đắm Tình Yêu. Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Nếu lên mạng rồi vào google.com và đánh típ: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới” chỉ trong 18 giây, chúng ta đã có ngay kết quả lên tới 1.210.000 chuyên mục liên quan đến vị tổng thống này. Ông là ai? Thưa ông là Mujica, Tổng thống Uruguay.
“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ. Ông là vị Tổng thống không thích sống trong nhung lụa.
Tuy nhiên, Mujica được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không hẳn vì ông sống giản dị và nghèo, nhưng vì đã dành 90% tiền lương của mình, cho công tác từ thiện.
Chúng ta không cần biết ông có theo đạo Công Giáo hay không! Nhưng chúng ta biết chắc rằng: “Ông là người biết ‘thương xót’ người nghèo”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã “thương xót” dân chúng. Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Qua đó, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ và cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường “thương xót” của Ngài, để làm toát lên vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu nơi hành động của chúng ta. 1. Đức Giêsu là Đấng “thương xót”
Trong suốt hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn yêu thương, quan tâm đến con người, nhất là những người ốm đau, bệnh tật, những người thấp cổ bé họng và đói khát.
Khởi đi từ việc rời bỏ vinh quang Thiên Quốc để nhập thế và sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong sự thiếu thốn, hẳn Đức Giêsu hiểu rõ hơn ai hết nỗi bần cùng của con người. Vì thế, đã nhiều lần, Tin Mừng cho thấy: khi dân chúng đến với Ngài, mang theo những bệnh tật trên thân xác, Ngài đã “thương xót” và chữa lành họ.
Không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý, Ngài còn đi xa hơn để chữa trị tâm hồn cho những ai đang hoang mang, bất hạnh và thất vọng.
Vẫn tình thương đó, hôm nay, khi thấy dân theo mình nghe giảng, và khi trời đã xế bóng, Đức Giêsu không nỡ để dân chúng bụng đói ra về, nên Ngài đã ra tay để làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng.
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu đã làm, đã nói và hành động, Ngài không muốn cho các môn đệ ngoài cuộc, bởi vì mai đây chính các ông là những người sẽ thay Ngài để thi hành lòng “thương xót” của Thiên Chúa cho dân. Vì thế, khi được hỏi: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Như thế, qua câu nói của Đức Giêsu, không phải vì vô lý, cũng chẳng phải Ngài thách thức các ông, nhưng:
Trước hết, Đức Giêsu muốn các ông hãy ra khỏi sự ích kỷ của bản thân, sự an phận của vật chất để biết chia sẻ với những ai bất hạnh, nghèo đói, vì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Gaudium et Spes, số 1)
Thứ đến, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông về sứ mạng của chính mình, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
Cuối cùng, Đức Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về sự tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Còn chúng ta, những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người cũng được mời gọi để thi hành công việc mà chính Ngài đã làm và muốn các môn đệ thi hành khi xưa. Vậy chúng ta phải làm gì?
2. Thực trạng xã hội
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy vươn xa tầm nhìn để thấy được trong xã hội loài người gồm hơn 7 tỷ người, trong đó có hàng triệu triệu trẻ em mồ côi, bệnh tật, bị bóc lột sức lao động và buộc làm nô lệ cho tình dục...
Số người chết vì đói, vì thiếu thuốc chữa bệnh cũng lên cả triệu người trên năm. Hàng triệu người vô gia cư, thất nghiệp, mù chữ... Rồi những người mắc phải những căn bệnh thế kỷ, nạn buôn bán phụ nữ để làm gái bán dâm, buôn bán ma túy và tham nhũng cũng tăng lên từng ngày.
Tình trạng loạn luân, phi đạo đức nhan nhản trong xã hội hiện nay. Những chuyện như: cha giết con, con giết cha; vợ giết chồng và ngược lại. Nhiều nạn nhân chết oan uổng chỉ vì một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu”, hay chỉ là một câu nói vô tình nào đó...
Như vậy, ngày nay, người ta “bội thực” đủ thứ... nhưng lại “đói khát” đời sống đạo đức và tâm linh hơn bao giờ hết.
Sự thật thà dường như vắng bóng trong học đường, và ngoài xã hội. Niềm tin tưởng lẫn nhau có lẽ quá xa vời đối với thương trường. Sự tương thân tương ái cũng không còn mấy ý nghĩa, mà thực ra chỉ là lợi dụng. Đạo đức gia đình, nghề nghiệp là thứ gì đó xa xỉ phẩm đối với giới trẻ, các ông chủ và ngay cả những người được coi là mang danh đạo đức... Tình trạng thờ ơ, vô cảm và ngăn cấm tôn giáo là điểm “hot”; “nhạy cảm” tại nhiều nơi!
Tất cả những hiện tượng đó, Đức Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phóng tầm nhìn để có một tấm lòng biết “thương xót”. Đồng thời, hãy ra khỏi sự yên thân để cùng nhau lên đường nhằm góp chút men, chút muối và trở thành ánh sáng để ướp đời và soi sáng thế gian.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Thực ra, chúng ta không thể nào làm thay đổi nổi màu đen trên thế giới!!! Thế nhưng, ngay thời điểm hiện tại và nơi chúng ta sinh sống, không thiếu gì những con người tương tự.
Họ là những người đang đi lạc hướng trong niềm tin, lệch lạc trong lối sống, cách nhìn và suy nghĩ; những người sống trong tội; ham tiền, mê bạc và hám dục... sống dửng dưng, vô cảm với anh chị em đồng loại. Vì thế, không thiếu những Lazarô nghèo ngay bên cạnh người Phú hộ giàu có...
Những hình ảnh trên có thể là chính chúng ta. Nếu quả là vậy, thì chúng ta hãy hối cải và trở về với Chúa. Còn nếu hình ảnh đó là hình ảnh mà người anh chị em chúng ta đang vô tình hay cố ý vấp phải, thì không phải ai, mà là chính chúng ta hãy làm một cái gì đó bé nhỏ như:
Một cái nhìn thân thiện, cảm thông;
Một ly nước cho người đỡ khát, một chén cơm cho khách qua đường;
Một hành động khước từ sự bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái;
Một thái độ khẳng khái với sự bất công, tham nhũng;
Một lời cầu nguyện, hy sinh để xin Chúa “thương xót” và làm động lòng những người dư giả, để họ giúp cho những người đói khát, bần cùng, để kẻ giàu không no và người nghèo không đói.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được “con mắt của Chúa” để chúng con có cái “nhìn giống Chúa”. Xin cho chúng con “con tim của Chúa” để chúng con cũng biết “chạnh lòng thương” như Chúa. Amen. Jos. Vinc. Ngọc Biển
Báo cáo của tổ chức vận động chống đói nghèo quốc tế Oxfam có tiêu đề "Nền kinh tế của 99%", được đưa ra trước thời điểm khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) từ 17-20/1, theo đó, tổng tài sản của 3,6 tỷ người nghèo nhất thế giới chỉ tương đương với tổng giá trị tài sản ròng của 8 người gồm 6 công dân Mỹ, một doanh nhân Tây Ban Nha và một doanh nhân đến từ Mexico. Trong số này có những tỷ phú như Bill Gates - nhà sáng lập Tập đoàn công nghệ danh tiếng Microsoft, Mark Zuckerberg - ông chủ trang mạng xã hội "đình đám" Facebook và Jeff Bezos, nhà sáng lập trang bán hàng trực tuyến Amazon. Ước tính, giá trị tài sản của nhóm người giàu nhất này tăng trung bình 11% mỗi năm kể từ 2009.
Cũng theo cách tính toán mới, con số của năm là 43 người giàu nhất và 3,6 tỷ người (50% dân số thế giới).
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại có sự bất bình đẳng và chênh lệch giầu nghèo quá lớn như vậy? Có phải vì con người ích kỷ, hẹp hòi không biết chia sẻ cho nhau không, hay thay vì chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men giúp con người đỡ khổ, thì lại tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang?
Thật nguy hiểm, khi con người ngày càng giầu về vật chất, nhưng lại nghèo về tinh thần như: đạo lý, công bằng, tình thương, sự thật, tình liên đới và trách nhiệm, kéo theo sự đói nghèo tổng thể. Phải khẳng định rằng, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Người cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8), nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
“Anh em hãy cho họ ăn”, lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Nhìn thấy đám đông, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Đây là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Đức Giêsu không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được ủi an, dạy dỗ và bảo ban.
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, thật dễ dàng. Nhưng, đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận. Tại sao vậy? Vì thiếu tình liên đới.
Triệu chứng thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, không ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công mà không thấy phẫn nộ; thấy điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm.
Chúa muốn loại bỏ sự vô cảm nơi các môn đệ, Người phán: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn”. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải truyền tới bàn tay.
Đồng cảm là góp phần mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô, năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán như thế, không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy: “Hãy mang lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt tay vào. Đồng cảm không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Đồng cảm là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Quả thật, có lòng thương cảm người khác là một điều tốt, nhưng chưa đủ, cần phải có hành động thực sự nữa. Chúa Giêsu đã làm và dạy chúng ta như thế. Thử nghĩ, trước nỗi đau và túng cực của tha nhân, ta có thái độ thế nào? Ngoảnh mặt làm ngơ hay bưng tai giả vờ làm điếc, không thể chấp nhận được. Chúa không đòi chúng ta làm những việc to lớn, nhưng đòi chúng ta biết chia sẻ những gì trong tầm tay của chúng ta, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Ngạn ngữ phương tây có nói: Giúp người thì trời giúp cho. Việt Nam ta cũng thường nói: ở xởi lởi thì trời cởi cho, ở xẻn xo thì trời co tay lại.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Những người già bị bỏ rơi cô đơn, người này đói vì tôi vô tâm hay đã ăn quá nhiều, người kia rách vì tôi đã mê mải chạy theo mốt. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Thế giới này chưa công bằng trong đó có phần lỗi của chúng ta. Ý thức về sứ mạng này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả, những người cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương.
Lạy Đức Maria, Đấng chỉ bảo đàng lành, xin cầu cho chúng con. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong thời gian mọi người phải cách ly vì đại dịch viêm phổi Vũ Hán vừa qua, chúng ta được chứng kiến lòng quảng đại của người dân Việt. Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” được thể hiện rõ, qua những nghĩa cử chia sẻ đầy tình người. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, những ATM phát gạo, những bữa cơm miễn phí, những chiếc khẩu trang chống dịch… tất cả làm nên vẻ đẹp truyền thống của lòng nhân ái nơi người Việt Nam chúng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật XVIII thường niên này nói về lòng quảng đại và hào phóng của Thiên Chúa đối với con người. Ngài cũng đang qua các tín hữu để thể hiện quyền năng và lòng quảng đại cứu giúp những người thiếu thốn. Thánh Máthêu nói với chúng ta về tâm trạng của Chúa Giêsu: Người chạnh lòng thương khi thấy đám đông theo Người vào sa mạc, vào lúc cuối ngày, họ đang đói và cần có lương thực. Xin lưu ý: khi Chúa Giêsu ăn chay trong sa mạc, ma quỷ đã cám dỗ Chúa về nhu cầu ăn uống. Nó nói với Chúa: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy biến những tảng đá này thành bánh mà ăn”. Nhưng Chúa không làm theo lời dụ dỗ của ma quỷ. Người tuyên bố: “Người ta sống không chỉ bằng cơm bánh, mà còn bằng lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Nếu trong sa mạc, lúc chay tịnh, Chúa Giêsu không hoá đá thành bánh theo cám dỗ của ma quỷ, thì bây giờ, cũng trong sa mạc, trước đám đông dân chúng đang đói khát, Chúa lại chạnh lòng thương, và Người làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Người Do Thái am hiểu lịch sử đều dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu như một Môisen mới. Trong hành trình sa mạc về Đất Hứa, qua trung gian ông Môisen, Chúa đã ban mana và chim cút để nuôi dưỡng dân lữ hành, nhờ vậy mà suốt thời gian 40 năm, họ không trồng cấy, không chăn nuôi, mà vẫn có lương thực để đi về Đất Hứa. Như thế, chúng ta có thể nói: nếu Chúa làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều là vì thương dân chúng. Người cũng muốn qua phép lạ này chứng minh quyền năng thiên linh của Người, như chính Chúa nói với người Do Thái trong Tin Mừng Thánh Gioan: “Chính Cha tôi cho người Do Thái ăn Manna trong sa mạc là bánh bởi trời”.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng. Người có thể phán một lời là có bánh ăn cho mọi người. Nhưng Người không làm thế mà lại chọn cách hoá bánh ra nhiều khởi đi từ đồ ăn dự trữ có người mang theo. Các tác giả Tin Mừng đều kể lại phép lạ nhân bánh khởi đi từ những chiếc bánh và những con cá từ những người có mặt. Cụ thể, trong trình thuật của Thánh Mátthêu hôm nay, trước câu hỏi của Chúa, các môn đệ đã trả lời: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Dựa theo câu trả lời này, thì có lẽ đó là bánh và cá các môn đệ đã chuẩn bị cho Thày và trò. Số bánh này quá ít ỏi so với nhu cầu của đám đông. Vì chỉ có chút ít như thế, các ông đã tìm một phương pháp đơn giản để thoái thác trách nhiệm, như lời các ông thưa với Chúa: “Xin Thầy cho họ về, vì nơi đây hoang vắng và cũng đã muộn”. Vâng, đó là cách giải quyết dễ dàng hơn cả mà các môn đệ cũng như chúng ta thường lựa chọn. Cách giải quyết này vừa nhanh gọn vừa không gây bận rộn cho các môn đệ. Đức Giêsu không chấp nhận giải quyết kiểu đó. Người nghĩ đến những người già cả, những người đến từ xa. Họ đang rất đói và có thể gục ngã trên đường trở về. Lòng thương xót của Chúa muốn mang lại sức sống và niềm vui cho con người. Đức Giêsu muốn khẳng định cho mọi người thấy những ai kiên tâm theo Người sẽ không phải thất vọng. Họ sẽ không về tay không.
Khởi đi từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nhân lên nhiều đến nỗi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư đến mười hai thúng. Một khi quyền năng của Thiên Chúa gặp gỡ lòng quảng đại của con người, phép lạ sẽ xảy ra, những điều kỳ diệu sẽ xuất hiện ngoài sức tưởng tượng của con người. Thánh Mátthêu còn nhấn mạnh thêm con số năm ngàn chỉ tính đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. Kết quả kỳ diệu đó đến từ tình thương của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Từ năm cái bánh và hai con cá, những gì được chia sẻ không mất đi, trái lại được nhân lên gấp bội. Có người sánh ví đức ái như ngọn lửa tài tình, càng được chia sẻ thì càng được bùng lên, lan rộng khắp nơi mà không hề bị tiêu hao mất mát.
Ngày hôm nay, đây đó có những người giàu có tới mức dư thừa, đồng thời cũng còn những người bất hạnh, thiếu thốn kể cả những gì tối thiểu cho cuộc sống hằng ngày. Làm ra cơm bánh và tăng trưởng kinh tế là một thách đố lớn đối với con người của mọi thời đại. Người ta đã trách Chúa sao không phân phối tài sản đồng đều giữa các nước bắc bán cầu và nam bán cầu, giữa những người giàu “nứt đố đổ vách” và những nghèo “rớt mồng tơi”. Nhưng thực ra, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ cho mọi người và cho mỗi người. Ngài cũng luôn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài bằng việc giang rộng cánh tay để xoá đi chênh lệch, xóa đi bất hạnh nghèo đói. Vì mọi người đều là anh chị em với nhau và cùng được hưởng những tài nguyên mà Thiên Chúa ban tặng. Những người giàu có chỉ là người quản lý của cải Chúa ban để phân phát cho những anh chị em mình. Họ không thể dựa trên lý lẽ “là của mình” để tùy tiện phung phí hoặc dửng dưng trước sự nghèo đói của những người xung quanh. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố một cách dứt khoát: “Của cải để lãng phí là của cải ăn cắp của người nghèo”. Gần đây, có những nhóm thiện nguyện, gom góp những đồ đạc đã sử dụng để tặng cho những người có nhu cầu. Họ trưng dẫn một câu thơ rất có ý nghĩa: “Mọi thứ đều là của chung, khác nhau ở chỗ ai dùng mà thôi”. Đúng thế, những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hàng ngày đều là của Chúa ban. Một số người may mắn được Chúa trao làm người sở hữu. Người quảng đại biết chia sẻ với tha nhân; người ích kỷ chỉ ôm lấy cho riêng mình. Ca dao Việt Nam đã nói: “Xởi lởi trời cho, so đo trời lấy”. Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Đong đấu nào thì sẽ nhận đấu ấy”. Sống rộng rãi với tha nhân, Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chính trong lúc này, chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể. Nơi đây Đức Giêsu tiếp tục hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng chúng ta. Nơi đây chúng ta lãnh nhận lương thực thiêng liêng, lương thực nuôi sống chúng ta và là bảo chứng cho chúng ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho toàn thế giới, đồng thời là lời mời gọi mọi người hãy yêu thương và chia sẻ cho nhau, như Người đã yêu thương và hiến chính mình cho chúng ta. Lời ngôn sứ Isaia năm xưa (trong Bài đọc I) nay đang được thực hiện: “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây. Dù không tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào… Hãy lắng tai nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống…”., Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa như người mẹ, luôn luôn quan tâm chăm sóc chúng ta. Bí tích Thánh Thể là nguồn suối vô tận của tình thương. Hãy đến kín múc nơi Bí tích này những ân sủng thiêng liêng, giúp ta bước đi, kể cả những lúc đi trong sa mạc hoang vắng và những lúc cô đơn trong dòng chảy cuộc đời. Nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể luôn tự tin và trung thành gắn bó với Chúa, như Thánh Phaolô diễn tả (Bài đọc II): Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, kể cả gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Nhờ Đấng yêu mến chúng ta mà chúng ta sẽ toàn thắng. Trong những ngày này, qua các thông tin xã hội, chúng ta đau lòng thấy bên Trung Quốc, chính quyền một số địa phương không ngừng đập phá các nhà thờ, tượng ảnh và thánh giá, thiêu huỷ sách Đạo và các ấn phẩm Công giáo. Không chỉ có các cộng đoàn Kitô hữu là nạn nhân của chế độ, mà cả các tôn giáo khác cũng chịu chung số phận: chùa chiền bị phá, kinh Phật bị đốt cháy. Biết bao anh chị em Kitô hữu của chúng ta trong quốc gia này đang bị bách hại. Chúng ta cầu nguyện cho họ, để giữa gian truân khốn khó, những Kitô hữu này vẫn nhận thấy tình thương của Chúa, gắn bó với Người để Người ban sức mạnh và lòng trung thành. Xin cho những kẻ báng bổ thân linh tỉnh ngộ và ngừng ngay những hành động điên rồ của họ, để thoát khỏi những hậu quả khủng khiếp cho quốc gia và dân tộc.
Đối với chúng ta, thông điệp Giáo Hội muốn gửi đến cho chúng ta Chúa nhật này là lòng liên đới với anh chị em. Xung quanh chúng ta, vẫn còn đó biết bao người cần được giúp đỡ tinh thần và vật chất. Sống trong cuộc đời, ai cũng phải có trách nhiệm đối với anh chị em mình. Một tác giả đã viết: “Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho” (Helder Camara). Nếu không có tiền bạc, ít nhất chúng ta có thể chia sẻ cho anh chị em nụ cười, sự quan tâm, lời khích lệ và sự cảm thông. Tất cả những điều này, được thực hiện đúng lúc, đúng nơi và với tâm tình trân trọng quý mến, sẽ có giá trị tuyệt vời.
Làm sao có thể lấy năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn? Một bài toán không thể. Nhưng Chúa bảo: “Hãy cứ cho họ ăn!” (Mt 14, 13 – 21).
Chúng ta bắt đầu từ đâu? Câu chuyện là cừu hay là sói, cho chúng ta thấy cách thành công của người kiên quyết đi tới vượt qua trở ngại.
Giả sử, bạn bắt đầu hay bạn thành công ở một lãnh vực, người khác tán thưởng, vỗ tay, hoan hô. Nhưng cũng sau đó một số trong những người này, bày chuyện khinh thường thành công của bạn. Họ nói tại sao không thế này, thế kia để hay hơn, hoặc chê bai chỗ này, chỗ nọ chưa đạt. Là cừu hay là sói. Cừu thường theo bầy, sói thường đơn độc, bạn có can đảm đơn độc bước tới?. Hãy xem cách thức của Chúa Giêsu thực hiện: Ngài đón nhận năm chiếc bánh và hai con cá để bắt đầu.
Người ta nói: Bạn sẽ không bao giờ thành công, thành công chỉ là một thành tích nhất thời và hiếm khi. Bạn sẽ nghĩ thế nào, tiếp tục hay đang nghe theo những khó khăn người khác nói để bỏ cuộc? Dư luận tiêu cực chung quanh thường nhiều hơn tích cực, bạn cứ nghe những điều tiêu cực về bạn, bạn sẽ bỏ cuộc. Họ đưa những giới hạn mà không thể vượt qua: “làm sao có thể cho năm ngàn người ăn với năm chiếc bánh”, thành công không bao giờ dễ dàng. Hãy bỏ những giới hạn đó phía sau. Trong dịp này Chúa Giêsu cũng cương quyết thực hiện điều Chúa tiên liệu: “Ngài cầm năm chiếc bánh và hai con cá dâng lời chúc tụng” (Mt 14, 19).
Hãy bắt đầu từ những gì nhỏ nhất, ít nhất có trong tay, trong khả năng của bạn. Bạn hãy nhớ rằng, những gì có trên tay sẵn có luôn là một hồng ân để bắt đầu khởi sự. Chúa đã giao phó cho bạn những khả năng và nhất là khả năng yêu thương, nếu bắt đầu khả năng ấy không chỉ tìm vinh quang cho bạn mà nhằm phục vụ lợi ích của anh chị em, những người đang chờ đợi bạn cần có những công việc làm, cần có những bữa cơm hằng ngày… Bạn hãy bắt đầu ước mơ của bạn, từ “hạt cải nhỏ bé lớn lên sẽ thành cây lớn, chim trời đến đậu, nương nhờ” (Mt 13, 31 32).
Không có thành công nào mà không có khó khăn, con sói không bao giờ quan tâm đến ý kiến bầy cừu, đứng bên ngoài quan sát. Hãy bắt đầu làm việc với hết sức mình cùng với một số ít người đang cùng bạn đồng hành. Tiến lên! Với tâm hồn khao khát, với một lý tưởng cao vời, tình yêu cuộc sống, đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cho những người nghèo khó đang chờ mong bạn. Bạn hãy bắt chước Chúa Giêsu: “Anh em hãy cho họ ngồi xuống, và cầm bánh phân phát cho mọi người”.
Phép lạ, ở đây chúng ta có thể nhấn mạnh đến điều kỳ diệu khi bạn vượt qua nỗi sợ hãi, cách xa bầy cừu nhút nhát. Mạnh dạn tiến lên với những gì bạn đang có, dù là ít ỏi.
Không bao giờ than vãn với số vốn ít của mình về nhiều mặt. Chúa mời gọi bạn hãy tạ ơn với những gì mình đang có trong tay. Cùng với những người thiện tâm, vững vàng tiến lên, với tình yêu, khát khao mang hạnh phúc đến cho nhiều người. Phép lạ sẽ xảy ra.
Ước gì chúng ta nhận ra ơn Chúa, vì Chúa thật là Đấng nhân ái, nhân hậu: “nhân ái với mọi người, và nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 144,9), để “muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 144,15-16).
Ngôn sứ Isai đã mô tả Thiên Chúa ban ơn một cách dồi dào và nhưng không, khi ơn Chúa không khoanh vùng, cấm vận, phân biệt, kỳ thị, khước từ, chối bỏ một ai, nhưng được ban hào sảng, quảng đại và nhưng không, vô điều kiện cho mọi người, nhất là những người nghèo khó không có tiền để mua, không có gì để trả: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1).
Như thế, không chỉ những của ăn cho “chắc dạ no lòng”, mà cả những thức ăn, thức uống được xếp vào mặt hàng cao qúy, sang trọng như sữa và rượu cũng được Thiên Chúa ban dư tràn. Tất cả đều được ban nhưng không và chan chứa, dư đầy để dân Ngài được no nê, vui thoả: “Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị”(Is 55,2).
Tin Mừng Matthêu làm chứng điều này, khi “Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14).Và đám đông ấy khao khát lắng nghe Ngài giảng dậy đã không chịu tan hàng dù trời đã về chiều, đến nỗi các “môn đệ lại gần và thưa với Người : “Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15).
Trước lời đề nghị của các môn đệ, Đức Giêsu đã:
Không trốn chạy vấn đề: Vấn đề trước mắt là đám đông đói, và giải pháp dễ dàng, gọn đẹp nhất được các môn đệ đưa ra là giải tán để ai nấy tự lo cho mình, vì qủa thực lấy đâu ra bánh mà cho đám đông hàng nhiều ngàn người ăn giữa một “nơi hoang vắng riêng biệt”. Và Đức Giêsu đã làm các môn đệ giật mình khi nói với các ông: “Họ không cần đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16), mà không theo ý các ông giải tán đám đông là giải pháp nhanh chóng, dễ dàng và rảnh tay hơn cả.
Muốn các môn đệ Ngài là những trợ tá của Ơn Chúa: Không trốn chạy vấn đề, không tránh né khó khăn, không xóa bỏ trách nhiệm bác ái trước nhu cầu chính đáng của ngưới khác, Đức Giêsu đã công khai yêu cầu các môn đệ nhập cuộc, dấn thân vào việc lo cho đám đông ăn, khi nói với các ông như một lệnh truyền: “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Ngài giúp các ông nhận ra vai trò cộng tác vào ơn Chúa, vai trò trợ tá phân phát ơn Chúa của mình khi bảo các ông đem lại cho Ngài những gì các ông có. Và tất cả những gì các ông kiếm được trước nhu cầu lương thực của nhiều ngàn người chỉ “vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá” (Mt 14,17).
Thật ít oi những gì các môn đệ mang lại cho Ngài, khi được yêu cầu lo cho đám đông ăn, nhưng với những “ít oi, nhỏ bé” đó, Đức Giêsu đã làm phép lạ “hoá bánh ra nhiều” nuôi cả đám đông “có tới năm ngàn đàn ông không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14,21).
Qủa thực, từ hoàn cảnh thiếu thốn, đói khát của đám đông và tâm trạng lo âu của các môn đệ, Đức Giêsu đã biến thành bầu khí vui tươi, hạnh phúc khi tất cả được no đủ, và các môn đệ được sung sướng hả hê vì không ngờ Thầy đã làm phép lạ cả thể để mọi người được ăn no và phấn khởi tin Thầy là Đấng Thiên Sai.
Với chúng ta, cuộc sống cũng có những lúc thiếu thốn, cơ cùng cả vật chất lẫn tinh thần và ngoài Chúa ra, chúng ta chẳng còn biết trông vậy vào ai khác.
Xin Chúa dậy chúng ta tin vào lòng nhân ái, nhân hậu của Chúa, Đấng ban ơn dư đầy và nhưng không cho những ai “tìm Người khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên” (Is 55,6), vì khi đã nhận ra ơn Chúa từng giây phút bao phủ cuộc đời, chúng ta sẽ như thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39).
Mỗi lần đi làm từ thiện ở đâu đó thì tôi lại thường răn mình với câu của cha ông: “Làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”. Tôi phải nhìn lại xem những người ở bên cạnh đã được tôi quan tâm chia sẻ hay chưa? Người nghèo đang chung sống với tôi đã được hưởng lộc gì từ tôi? Hay tôi chỉ quan tâm đánh bóng tên tuổi của mình mà bỏ rơi người bên cạnh mình?
Tôi vẫn nhớ lời một cô bé trong xứ đã nói với tôi:
“Cha ơi! Nếu cha cần giúp ai đó, cha có thể liên lạc với cô của con. Cô của con tốt lắm, hay chia sẻ cho người nghèo lắm. Nhưng… cô chỉ chia sẻ cho người ngoài thôi. Con là cháu ruột, nhà con nghèo nhưng cô không giúp… Lần kia, cô nhờ con chở cô vào một trung tâm nuôi người già neo đơn và trẻ mồ côi để giúp họ. Cô cầm một xấp tiền trong tay và đi phát cho hết mọi người. Con đứng kế bên cô, con thèm được cô cho một tờ thôi nhưng không được. Cô đâu có biết là đứa cháu gái của cô phải mượn xe để chở cô đi làm việc từ thiện. Giá như mà cô cho cháu của cô 1 tờ để đổ xăng cũng đỡ…”
Xem ra lời Chúa Giê-su từng nhắc nhở cũng chẳng thừa: “Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu” (Ga 12, 8).
“Người nghèo luôn bên cạnh các ngươi”. Người nghèo đó không hẳn chỉ ở trong trung tâm này hay nhà mồ côi kia. Người nghèo đó luôn ở bên cạnh. Họ có thể là người cha người mẹ già nay đã tàn hơi và kém trí nhớ. Người nghèo đó có thể là chính người anh, người chị, người em, người con, người cháu đang sống trong mái nhà của chúng ta. Những người nghèo đó thật gần với chúng ta, họ gần hơn những người nghèo mà chúng ta hay đi thiện nguyện để đăng đàn đánh bóng tên tuổi mình.
Bài phúc âm hôm nay kể rằng: khi thấy một đám đông rất đông đã đi theo Chúa và luôn ở bên cạnh Chúa suốt cả ngày. Chúa chạnh lòng thương. Chúa bàn với các tông đồ để tìm ra phương án lo cho họ. Thế nhưng, các môn đệ đã “bàn” rất hợp lý với Đức Giêsu rằng “lực bất tòng tâm”, tốt nhất là giải tán dân chúng để họ đi mua thức ăn! Phủi tay là thượng sách. Nhưng Chúa Giêsu đã bảo các ông: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính chúng con hãy cho họ ăn đi.”. Các ông bàng hoàng sửng sốt vì biết đào đâu ra thức ăn cho bằng ấy ngàn người?
Bất đắc dĩ, các ông mới dùng phương án gom góp của mọi người để chia sẻ cho nhau. Các ông cũng chỉ gom được năm cái bánh và hai con cá!”. Ấy thế mà một khi đã đưa cho Chúa rồi thì “ai nấy đều ăn no nê” .
Đôi khi chúng ta cũng thường bỏ quên người nghèo ở bên cạnh chúng ta. Đôi khi chúng ta vẫn dửng dưng với người bên cạnh đến nỗi họ đang sống trong cô đơn, tủi hổ vì chúng ta.
Họ là những cha mẹ già già yếu thèm một chút tình người của đứa con mà cả đời lo cho nó nhưng lại bị nó bỏ rơi trong cô đơn xó nhà.
Họ là những người vợ thèm một chút quan tâm của người chồng để bù đắp lại cuộc đời vợ lam lũ chịu cực chịu khổ vì chồng.
Họ là những người hàng xóm láng giềng tốt bụng luôn sẵn lòng giúp chúng ta nhưng ngược lại chúng ta lại quên quan tâm tới họ.
Nhiều người chúng ta luôn ao ước có thể góp sức làm thay đổi thế giới. Chúng ta ao ước có thể làm những chuyện phi thường, những chuyện siêu phàm để mang lại hạnh phúc cho loàingười. Thế nhưng, điều ấy sẽ không bao giờ xảy ra vì chúng ta chỉ là người phàm nên chăng chỉ có thể làm những chuyện bình dị mà thôi! Điều mà chúng ta có thể làm thay đổi cả thế giới này là bằng chính những hành động nhỏ nhặt nhất của mình, những công việc của bổn phận, những công việc của tự nguyện hy sinh vì lợi ích tập thể đều là những công việc góp phần thay đổi thế giới. Vâng chúng ta chỉ cần làm một việc nào đó với tất cả sự yêu thương và tình cảm chân thành là chúng ta đang làm vơi đi những khổ đau, những gánh nặng cho tha nhân.
Khi chung tay giúp đỡ người khác chỉ với một hành động nhỏ thôi chúng ta cũng làm nên những điều to lớn đối với người nhận được sự giúp đỡ và cả những người xung quanh.
Không cần làm những chuyện phi thường mà chỉ cần làm những việc nhỏ nhưng biểu lộ một tình yêu chân thành vẫn có thể làm vơi đi biết bao phiền muộn, đau khổ cho tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta luôn là những con người biết đóng góp phần nhỏ bé của mình để làm vơi những đau khổ, đói nghèo cho những người chung quanh. Xin cho chúng ta biết quan tâm đến người bên cạnh của mình và đừng bao giờ để ai bị nghèo đòi hay bỏ quên trước mặt chúng ta. Amen.
Chúng ta cần lương thực hàng ngày, nhưng nói đến bảo quản thức ăn dư thừa dùng sau mỗi bữa ăn là điều không phải ai cũng quan tâm. Thức ăn dư dùng sau bữa ăn mang tặng thùng rác là cách đơn giản nhất, khỏi phải mất công đóng hộp, bọc kín bỏ tủ lạnh. Có người muốn bữa cơm nào cũng phải có thức ăn hảo hạng, thật nhiều, mới nấu cho bữa đó. Xào xáo lại thức ăn cũ là họ không bằng lòng. Đại đa số có thức ăn là vui rồi, không đòi hỏi thêm gì nữa. Hàng triệu trẻ em trên thế giới chỉ mơ sao có được bữa ăn no trước khi ngủ mà giấc mơ đó khi có, khi không, bởi cha mẹ em bươm chải nguyên ngày, thế mà vẫn không kiếm đủ tiền mua thực phẩm cho con trong ngày. Đức Kitô gặp hoàn cảnh đó trong cuộc sống của Ngài. Dưới ách đô hộ của Lamã, những kẻ thống trị và cộng tác viên của họ sống sung túc, yến tiệc linh đình. Bên cạnh đó là những người nghèo khổ, bần cùng. Họ vất vả làm việc nguyên ngày, dưới điều kiện ngặt nghèo, mà thực phẩm lại thiếu. Tối đến họ không có chỗ nghỉ ngơi an toàn. Đói ăn, thiếu dinh dưỡng, lao nhọc vất vả, điều kiện sống tồi tệ là nguyên nhân dẫn đến đủ các loại bệnh tật. Nhiều người chết rất trẻ. Phúc âmthường nhắc đến việc Đức Kitô chữa trị cho những người đau yếu, bệnh tật vì Ngài chạnh lòng thương, họ như những chiên con không chủ. Gặp Đức Kitô họ coi Ngài như chủ chiên và kéo đến nghe lời Ngài giảng dậy. Ngài ban cho họ thực phẩm tinh thần, chữa bệnh và bảo vệ họ. Không phải tất cả những người đến nghe vì đói khát thực phẩm tinh thần cả đâu, như chính Đức Kitô nhắc họ:
‘Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông’ Gn 6, 27-28
Đức Kitô dậy đám đông về tình yêu, và lòng thương xót Chúa. Đó là sứ mạng rao giảng của Ngài. Ngoài việc ban cho họ lương thực trường sinh, Đức Kitô còn chữa bệnh cho họ, nguyên nhân bệnh tật, nghèo đói như đã trình bày ở trên. Đây là lần đầu tiên, các tông đồ học từ Đức Kitô tỏ lòng thương xót đám đông, khi các ông xin Đức Kitô giải tán đám đông để họ đi tìm mua thực phẩm vì nơi đồng cỏ trống vắng này không có hàng quán. Các tông đồ cũng để í quan sát, biết rõ đám đông không mang theo thực phẩm, ngoại trừ em bé có dăm cái bánh và vài con cá. Không mang theo thực phẩm có lẽ nhà cũng không có gì để mang. Nếu giải tán, đám đông cũng không có tiền mua thực phẩm. Rõ ràng đám đông nghèo đói về vật chất nhưng rất giầu Lời Chúa, bởi họ đã lắng nghe Đức Kitô nguyên ngày. Rất có thể họ cũng quen thuộc với lời sấm của Isaiah và thường dùng những lời này để an ủi nhau khi gặp khốn khó.
‘Đức Chúa sẽ đãi tiệc muôn dân, thịt béo, rượu ngon…. Người xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người’ Is 24, 6-8.
Tông đồ Đức Kitô có lẽ lo lắng tìm đâu đủ thức ăn cho đám đông. Cuối ngày, không tìm được biện pháp tốt hơn, các ông thưa cùng Đức Kitô giải tán họ. Đức Kitô biết việc Người làm, nhưng Ngài nói với các ông. Các anh hãy cho họ ăn. Yêu cầu này quá khả năng của các ông. Văn trong bài đọc xác định chính Thiên Chúa là Đấng lo cho đám đông cả linh hồn lẫn thể xác. Con người có trách nhiệm phụ giúp, làm những công việc như xin Đức Kitô ban ơn, chuẩn bị cho đám đông ngồi thành nhóm nhỏ, phân phát thực phẩm và cuối cùng chính Đức Kitô nhắc các ông đừng phung phí thực phẩm còn dư. Các ông đã thu thực phẩm rải rác trên đám cỏ, và thu được nhiều thúng. Đừng phung phí thực phẩm là bài học chúng ta cần ghi nhớ. Thế giới luôn có người đói khổ, mong ăn no, mặc ấm mà không có; trong khi đó lại có người dùng thực phẩm bừa bãi, dùng chọi nhau chơi vui, hay ăn đua xem ai ăn được nhiều.
Chúng ta học từ Đức Kitô, luôn nhớ dâng lời cảm tạ Chúa ban cho của ăn trước mỗi bữa, ăn và luôn biết dùng thực phẩm Chúa ban với tâm tình cảm mến, biết ơn.
Khi nhìn thấy hình ảnh của những người nghèo, những người gặp tai nạn, những người bệnh tật, hay những hoàn cảnh mất mát do thiên tai gây nên, chúng ta cảm thấy đau xót và không thể làm ngơ được. Đó là hành động của tình yêu thương phát xuất từ tiếng nói của con tim. Và điều ấy, chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài đã động lòng thương khi nhìn thấy đám đông dân chúng đi theo mình (x. Mt 14, 14). Ngài thương dân chúng trong cảnh đói khát, không chỉ thiếu thốn về đời sống vật chất, nhưng là đói khát về tình thương, khát khao về Chân- Thiện- Mỹ. Phát xuất từ tình thương, Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng. Ngài cũng đang khơi lên trong tâm hồn chúng ta lòng trắc ẩn là sức mạnh tình yêu khi Ngài nói với chúng ta: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16).
Giống như các môn đệ khi xưa, chúng ta thấy hoang mang, làm sao chỉ với năm cái bánh và hai con cá đủ cho hơn năm ngàn người ăn? Tương tự, chúng ta có hàng ngàn lý do cản trở chúng ta thể hiện tình yêu thương. Chẳng hạn: con cũng muốn giúp đỡ người khác, hay giúp đỡ những công việc chung trong giáo xứ, nhưng nhà con nghèo, con bận nhiều việc nên không có thời gian; hay con không có khả năng, không tài giỏi,… Khi nhìn vào chính con người, chúng ta cảm thấy giới hạn và dường như chẳng có gì cả. Thật vậy, chúng ta chẳng có gì ngoài tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô dành cho chúng ta.
Nhưng làm sao chúng ta có thể quảng đại trao ban khi chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu ấy? Chúng ta được nhắc nhở: không có lấy gì mà cho! Hằng ngày, chính Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta hãy đến để kín múc tình yêu và ân sủng của Ngài: “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào ( Is 55, 1). Chúng ta hãy chạy đến với Chúa để được Ngài lấp đầy bằng tình yêu của Ngài. Đồng thời, chúng ta hãy sống chậm lại để hít thở và cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta từ những điều nhỏ nhất. Chúng ta được tràn đầy sức sống khi mỗi sáng thức dậy, được hân hoan khi hoàn thành một công việc, được an vui hưởng sự chăm sóc từ những người thân yêu, được khoan khoái khi sống trong bầu khí an lành,… đó là một hồng ân. Hay từng ngày nắng, mưa cũng đều là công trình yêu thương của Chúa dành cho chúng ta, chúng ta chẳng thể làm được những việc ấy. Không chỉ có thế, chúng ta còn được nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng qua Lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Thật vậy, chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc một cách đặc biệt.
Khi chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa và tất cả mọi sự của chúng ta là của Chúa, chúng ta hãy vui vẻ, quảng đại trao ban. Sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa đang ở trong chúng ta. Nó thúc giục chúng ta đi đến với tha nhân: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16). Chúng ta đừng dừng lại ở việc nêu lên hoàn cảnh, vấn đề của người khác như các môn đệ: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” ( Mt 14, 15), nhưng chính chúng ta phải hành động. Theo kinh nghiệm của Đức cha Lambert: “phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu, Người muốn đích thân làm những việc ấy nhưng không thể được, nên dùng một số người do Người tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế” (Nhóm Nghiên cứu linh đạo Mến Thánh Giá, Tuyển tập bút tích của Đức cha Pierre Lambert de la Motte, Btt 9). Mỗi khi chúng ta thực hiện một hành động yêu thương là chính Đức Giêsu đang hành động trong chúng ta, nên chúng ta đừng sợ hãi hay nản chí. Có thể, khi giúp đỡ chúng ta sẽ “bị lừa”, hay chúng ta đã giúp đỡ, đã tha thứ nhiều rồi, nhưng tha nhân vẫn không chịu thay đổi. Chúng ta hãy nhìn đến kinh nghiệm của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: con không thể yêu nổi, nhưng chính Chúa Giêsu đang ở trong con yêu (Kim Thiếu, Một Tâm Hồn). Chúng ta trao ban tình yêu là khi làm tốt nhất trong những trách nhiệm mà chúng ta được Thiên Chúa trao cho. Làm tốt trong vai trò là người cha, người mẹ, người con trong gia đình, là người giáo dân tốt trong giáo xứ, hay làm hết khả năng trong công việc. Khi chúng ta càng trao ban, tình yêu của chúng ta lại càng được triển nở và đong đầy.
Lạy Chúa Giêsu, con đã cảm nhận được tình yêu thương vô bờ Ngài dành cho con, tình yêu ấy không gì có thể ngăn cản và không khi nào vơi cạn. Lạy Chúa, con đã được sống trong tình yêu của Chúa thì xin cho con biết can đảm, quảng đại chia sẻ tình yêu ấy cho những anh chị em khác qua kinh nghiệm thiêng thiêng, những kiến thức, những lời cầu nguyện, những lời nói nâng đỡ, và cả những hành động âm thâm trong cuộc sống thường ngày. Hầu, chúng con luôn được phủ lấp trong tình yêu của Chúa. Amen.
Lời Chúa trong Thánh kinh hôm nay cho thấy hình ảnh của việc Thiên Chúa quan phòng. Không những Chúa hướng dẫn loài người theo đường lối của Chúa, mà còn săn sóc đến nhu cầu vật chất của họ.
Trong suốt bốn mươi năm trường theo Chúa, dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, vượt qua biển Ðỏ ráo chân. Họ làm cuộc hành trình theo Môsê băng qua sa mạc, đi về đất hứa, dừng lại ở mỗi chặng đường: cắm trại, nghỉ ngơi, chăn nuôi, trồng cấy để tích trữ lương thực, rồi lại tiếp tục đi. Trong suốt thời gian lưu lạc, dân Chúa đã trải qua nhiều thăng trầm. Họ đã nhiều lần bất trung phản nghịch cùng Chúa, bằng cách bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai. Họ còn đúc bò vàng để thờ. Tuy nhiên Chúa vẩn săn sóc họ, còn mưa manna từ trời xuống nuôi dưỡng họ. Sách ngôn sứ Isaia hôm nay chứng tỏ lòng ưu ái của Chúa đối với dân Người khi ghi lại: Ðến cả đi, hỡi những ai đang khát, nước đã sẵn đây! Dẫu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào (Is 55:1). Việc quan phòng của Chúa đối với người Do thái trong Cựu ước chỉ là để sửa soạn cho chương trình quan phòng của Chúa cho toàn thể nhân loại, chứ không riêng gì cho dân tộc nọ, dân tộc kia mà thôi.
Ðám đông dân chúng trong Phúc âm hôm nay đi theo Chúa mà không mang theo thức ăn. Ðến chiều, các môn đệ đề nghị với Chúa giải tán dân để họ vào các làng mạc kiếm thức ăn. Chúa bảo các ông: Hãy cho họ ăn (Mt 14:16). Chúa muốn các ông cộng tác với Người trong việc nuôi dưỡng dân chúng. Tuy nhiên các ông chỉ có năm cái bánh và hai con cá. Chúa cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, bẻ ra và trao cho các môn môn đệ, để các ông phân phát cho dân chúng. Số người ăn có tới năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con, được ăn no nê mà người ta còn thu lại được mười hai giỏ đầy bánh vụn.
Ðiều cần lưu ý ở đây là trước khi bẻ bánh cho dân chúng ăn, Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng tạ ơn. Ðó là truyền thống Do thái cổ xưa. Người Do thái ngồi vào bàn ăn thường đọc kinh làm phép của ăn. Và đây cũng là truyền thống của người công giáo. Truyền thống công giáo nhắc nhở ta tạ ơn Thiên Chúa trước khi ăn. Truyền thống công giáo còn nhắc nhở ta cảm tạ Chúa về mọi sự Chúa đã ban. Khi người tín hữu thời Giáo hội sơ khai dâng lễ, họ mang trong đầu óc ý niệm tạ ơn vì thánh lễ theo nguyên tự Hy lạp có nghĩa là tạ ơn. Mọi sự ta có đều do Chúa ban do lòng rộng lượng và săn sóc của Chúa. Không những Chúa ban cho ta sự sống mà còn ban phương tiện để duy trì sự sống. Là người con thảo, ta cần được nhắc nhở để cảm tạ Chúa về mọi ân huệ Chúa ban.
Phép lạ hoá bánh hôm nay có tầm mức quan trọng vì được cả bốn phúc âm ghi lại đầy đủ với vài chi tiết khác nhau (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6: 1-14). Nhiều học giả Thánh kinh cho rằng việc Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều là để tiên báo phép Thánh thể. Thật vậy khi làm phép lạ hoá bánh, Chúa dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ (Mt 14:19; Mc 6:41; Lc 9:16; Ga 6:11) như khi lập phép Thánh thể (Mt 26:26; Mc 14:22; Lc 22:19; 1Cr 11:23-24). Ngay trước phép lạ hoá bánh, thánh Gioan còn nhắc đến lễ Vượt Qua. Chính trong bối cảnh của lễ Vuợt Qua mà Chúa lập Bí tích Thánh thể. Và ngay sau phép lạ hoá bánh, thánh Gioan dành cả chương sáu còn lại để ghi lại lời cắt nghĩa cuả Chúa về Bánh hằng sống.
Mỗi người cần nhận thức tầm quan trọng của việc ăn uống để duy trì sự sống. Khi mà kiến bò bụng, người ta sẽ cảm thấy khó cầm trí để phụng sự Chúa. Ðúng như cha ông ta thường nói: có thực, mới vực được đạo. Ðọc Phúc âm ta thấy Chúa làm phép lạ là do người ta xin. Lần này Chúa tự làm phép lạ hoá bánh nuôi dân mà không có người xin. Như vậy ta thấy việc quan phòng của Chúa được thể hiện qua lòng thương xót của Chúa, qua việc quan tâm đến nhu cầu vật chất của loài người. Việc quan phòng của Chúa còn được thể hiện trong thế gian qua việc quan tâm của người đối với người, bằng việc quan tâm của các tông đồ khi thấy dân chúng đói lả, bằng những hành động giúp đỡ của người này đối với người khác. Hằng triệu người Việt Nam đã trải qua hai cuộc di cư vĩ đại: một lần từ Bắc vào Nam năm 1954, lần khác từ quê hương ra ngoại quốc năm 1975, hầu như với hai bàn tay trắng. Thế mà qua sự quan phòng của Chúa, họ không phải chết đói, lại còn được những cơ quan chính phủ và tư nhân giúp đỡ để tái tạo nhà cửa và sự nghiệp.
Qua Phúc âm hôm nay Chúa còn dạy ta tránh việc phung phí đồ ăn. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh, Chúa bảo các tông đồ thu vụn bánh còn dư lại kẻo phí phạm. Không phải khi có dư thừa đồ ăn thức uống mà ta phung phí thức ăn uống, trong khi có cả hằng triệu người phải đói, không đủ cơm ăn trên thế giới.
Lời cầu nguyện xin cho đủ lương thực hằng ngày: Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa cho lương thực hằng ngày. Xin tha thứ những lần con cho rằng tự mình cung ứng thực phẩm, những lần con tỏ ra vô ơn bội nghĩa cùng Chúa. Xin thứ tha những lần con phí phạm đồ ăn thức uống, những lần con tỏ ra ích kỉ không chia sẻ với người nghèo đói. Xin cho con được nhân thức rằng mọi sự con có là do Chúa ban, để con biết sống trong tâm tình biết ơn, bằng việc chia sẻ. Cũng xin cho những quốc gia giầu có, ý thức về trách nhiệm liên đới trong việc giúp đỡ những quốc gia đói nghèo. Amen.
Thi sĩ Tagore từng viết: “Tình Ngài yêu con không bờ, không bến nhưng con có thấy bóng Ngài đâu”. Dù không thấy, nhưng bằng lòng yêu mến của mình, Tagore dám khẳng định: Tình Ngài yêu con không bờ, không bến.
Yêu như thế nào mà Tagore lại bảo là “không bờ, không bến”?
Quay về với nội dung Tin Mừng, bạn và tôi có thể cảm nghiệm như Tagore: Tình Ngài yêu con:
Một lần, Chúa Giêsu tìm vào hoang địa vắng vẻ. Nhưng dân chúng nghe biết nên đi theo Người. Họ theo thật đông, có đến trên năm ngàn người! Đến chiều, dẫu đã đói, họ vẫn cứ theo.
Vì thương họ, Chúa đã làm phép lạ để nuôi họ. Tin Mừng kể, Chúa cầm bánh và cá mà các môn đệ mang đến, rồi đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân.
Một phép lạ phi thường: Chỉ một hành động bẻ ra đã trở nên lương thực nuôi một đám người không thể tưởng tượng: trên năm ngàn người mà vẫn dư!
Nhưng phép lạ ấy không thuộc về quá khứ. Ngày hôm nay, để nuôi linh hồn, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của ta, Chúa đã bẻ chính cuộc đời của Người, bẻ chính thân xác Người.
Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu hạ mình làm người ngang hàng với ta, không là một sự bẻ ra hay sao?
Bị thù nghịch, bị giết chết, chết ô nhục như một tên tử tội, chết tức tưởi trên cây gỗ giá, không là bẻ ra đó sao?
Trong bí tích Thánh Thể, Chúa là tấm bánh nuôi hồn ta, cũng chính là sự tự bẻ ra.
Mãi mãi Chúa Giêsu là Thiên Chúa tự bẻ chính mình, bẻ chính cuộc đời, bẻ chính sự sống của Người cho ta, vì ta, yêu ta.
Trong mỗi thánh lễ, linh mục chủ tế sẽ bẻ tấm bánh mà mọi tín hữu đều tin đó là Mình Thánh Chúa. Chủ tế nâng cao Mình Thánh và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian”. Dấu chỉ bẻ Mình Thánh từ tay linh mục là dấu chỉ Chúa Giêsu tự bẻ chính mình trong bí tích Thánh Thể.
Thánh Thể là lời nói chung quyết, mạnh mẽ của tình yêu, là sự bẻ ra tuyệt đỉnh mà chỉ có một mình Chúa chúng ta mới làm thế. Người bẻ ra vì yêu ta không bờ, yêu không bến.
Tôn vinh Mình Thánh trên tay, chủ tế còn mời gọi: “Phúc cho ai được dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.
Bạn có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu yêu mến, ta hãy cung kính rước Người vào linh hồn mình. Nếu lỡ biết mình bất xứng, lo xưng tội, quyết tâm với Chúa chừa tội để giữ mãi tâm hồn thanh sạch và có thể thường xuyên rước Chúa.
Khi đến nhà thờ, chúng ta cùng vào trong nhà thờ dự lễ sốt sắng, dự lễ trọn vẹn từ đầu đến cuối, cũng là dấu chứng tỏ lòng mến của ta đối với Thánh Thể.
Hay lễ xong, ngồi lại năm phút, ba phút để cảm tạ Chúa, hay cầu nguyện cho nhau, cho gia đình, cho bản thân, đó cũng là dấu chứng tỏ lòng mến đối với Thánh Thể.
Chúa bẻ cuộc đời Người cho ta và vì ta, đó là sự tự xóa mình, cho không từng người, vì sao ta không nhận? Người xóa mình để làm bằng chứng tình yêu, vì sao ta từ chối tình yêu đó?
Nhân đọc bài Tin Mừng về việc Chúa bẻ bánh và cá làm phép lạ nuôi dân, chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể để thêm yêu mến Người. Ước gì từ hôm nay, mỗi lần đến nhà thờ, ta bước vào trong nhà thờ dự lễ trang nghiêm, sốt sắng.
Và ước gì trong từng thánh lễ, ta luôn luôn cảm nghiệm rằng: tình Chúa thương ta không bờ, không bến như Tagore đã từng cảm nghiệm.
Nhân ngày sinh nhật của mình, một tỷ phú giàu lòng quảng đại chiêu đãi tất cả dân làng một bữa tiệc thịnh soạn cho cả ngàn người ăn. Khi giờ tiệc chưa bắt đầu, khách mời chưa kịp đến… thì có chừng 100 người đàn ông lực lưỡng đường đột xông vào, trút hết thức ăn trên bàn vào những chiếc bị lớn rồi hùng hục vác đi.
Thế là khi đến giờ nhập tiệc, 900 khách mời còn lại chẳng còn gì để ăn, chỉ biết nhấm nháp chút ít thức ăn rơi rớt trên bàn nên ai nấy phải ra về bụng đói.
Câu chuyện trên đây cho thấy rằng: Sở dĩ có nhiều người, dù vẫn làm lụng hằng ngày, mà vẫn phải đói là vì có những người tích lũy cho mình quá nhiều mà không chia sớt cho những người túng thiếu.
Thiên Chúa là người Cha quảng đại, tạo ra đầy đủ lương thực, thực phẩm cho mọi người trên trái đất hưởng dùng. Tiếc thay, có những người cậy sức, cậy thế, cậy quyền… thu tóm quá nhiều tài nguyên, của cải cho mình… bỏ mặc nhiều người yếu sức, yếu thế… phải lâm cảnh túng thiếu lầm than.
Chia sớt cơm bánh cho nhau
Sáng hôm ấy, đông đảo dân chúng lũ lượt theo Chúa Giê-su để nghe Ngài giảng và đưa nhiều bệnh nhân đến xin Ngài chữa lành.
Chiều xuống, trước khi giải tán dân chúng, Chúa Giê-su không đành để họ về bụng đói, nên truyền cho các môn đệ : “Các con hãy cho họ ăn.”
Các môn đệ phân vân: Làm sao có thể lo liệu cho số người đông đảo thế này có bánh ăn, trong khi mình chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá? Thôi thì cứ trao tất cả cho Chúa Giê-su.
Sau khi nhận được chút ít thức ăn từ tay môn đệ, “Chúa Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho môn đệ” rồi truyền cho các ông phát ra cho dân chúng.
Chắc hẳn lúc bấy giờ các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên. Với số đông không đếm xuể thế nầy mà chỉ có chừng nầy bánh và cá thì ai nhịn, ai ăn? Tuy nhiên, theo lệnh Chúa Giê-su, các ông vẫn chia ra cho mấy người lân cận. Những người nầy đang đói, muốn giữ lại tất cả cho mình, nhưng vâng lệnh Chúa truyền, họ chỉ ăn một phần vừa phải, rồi chuyền số bánh ít ỏi còn lại qua tay người khác… Đang khi người ta chia bánh cho nhau thì phép lạ xảy ra: Bánh được chia hoài mà không hết! Cá được chuyền mãi vẫn không vơi! Thế là mọi người được no nê, lại còn thu được mười hai giỏ đầy còn dư không ăn hết!
Giả sử người thứ nhất nhận được chiếc bánh nhỏ, nghĩ rằng: Với chừng nầy bánh thì có thấm vào đâu, thôi ta cứ giữ lại hết cho mình… thì dòng chảy yêu thương sẽ khựng lại, phép lạ bánh sẽ không diễn ra.
Qua sự kiện hóa bánh ra nhiều, Chúa Giê-su dạy chúng ta hiểu rằng: Nếu mọi người đều quảng đại chia sớt cơm bánh cho nhau, thì chẳng có ai trên đời phải đói khát.
Câu chuyện mẹ Tê-rê-xa kể lại sau đây giúp chúng ta tin tưởng hơn vào bài học này. Mẹ nói:
Vào một buổi tối nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và cho biết rằng: “Có một gia đình gồm 8 đứa con đã phải nhịn đói suốt mấy ngày qua.” Thế là tôi vội mang theo chút lương thực đi đến nhà đó.
Đến nơi, tôi thấy những đứa bé xanh xao, gầy gò, mặt mũi bơ phờ… đang ngồi trước cửa.
Tôi đưa túi gạo cho người mẹ. Chị ta liền ngồi xuống, chia số gạo đó ra làm hai phần bằng nhau rồi vội mang một phần đi ra ngoài. Khi chị trở về, tôi hỏi: “Con đi đâu vậy?” Chị trả lời cách thản nhiên: “Con trao bớt gạo cho những người hàng xóm, họ cũng là những người nghèo đói như con!”
Nghĩa cử cao đẹp này khiến mẹ Tê-rê-xa xúc động. Mẹ nói: “Nếu ai cũng làm như người đàn bà trên đây, biết chia sẻ cho người khác phần ăn, dù rất ít ỏi của mình, thì phép lạ bánh hoá nhiều lại diễn ra và không ai trên thế giới nầy phải lâm vào cảnh đói kém.”
Trái lại, nếu ai cũng lo thủ thân, nghĩ rằng còn phải để của cải cho tương lai, cho con, cho cháu… thì khi đó, dòng chảy của tình yêu dừng lại, vòng quay của lương thực bị chặn đứng và cảnh thiếu đói sẽ xảy ra.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con thấu hiểu bài học Chúa dạy hôm nay và sẵn sàng tiếp tay với Chúa làm cho phép lạ hoá bánh ra nhiều được tiếp tục diễn ra trong cuộc sống hôm nay, bằng cách sẵn sàng chia phần bánh ít ỏi của mình cho người khác. Amen.
Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát cảm thấy trong thân xác được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo tinh thần. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người được Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ loan báo cho những người lưu đày cuộc giải thoát của họ gần kề dưới ẩn dụ của một bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Điều này muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước của Ngài và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Bài Đọc II được trích từ thư của thánh Phao-lô gửi các tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân hùng hồn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khi nuôi đám đông dân chúng ăn no nê, Đức Giê-su cho một dấu chỉ tiên trưng về lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi hãy đến mà ăn uống cho thỏa thích được gửi đến những người lưu đày tại Ba-by-lon. Trong những năm tháng dài, những người bất hạnh này phải chịu những túng thiếu đủ mọi thứ. Ở giữa họ, một vị ngôn sứ đứng lên, vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, không ngừng khích lệ họ hãy hy vọng: ông hứa với họ một sự giải phóng gần kề. Chẳng bao lâu Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài trên họ.
Vị ngôn sứ này được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 của sách I-sai-a, đã được đề tựa là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
“Đến cả đi, hỡi những người đang khát”
Vị ngôn sứ để cho chính Đức Chúa nói, theo thói quen của văn phong ngôn sứ, mà tác giả của chúng ta trung thành một cách đặc biệt; ông xóa mình sau sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về ông, thậm chí ngay cả tên ông.
Vị ngôn sứ gán cho Đức Chúa ngôn từ của một người bán nước rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình; nhưng với một sự khác biệt vì những mặt hàng Thiên Chúa đề nghị thì hoàn toàn cho không. Những lời đề nghị của Thiên Chúa được trình bày theo một sơ đồ rất quen thuộc với Cựu Ước: lời hứa ban “của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là vườn địa đàng, bánh man-na trong hoang địa, Đất Hứa chảy sữa và mật ong, bên kia của ăn thức uống này ẩn hiện những “của ăn thức uống tinh thần”, chủ yếu là lương thực tuyệt vời, tức là Lời Chúa. Sau cùng, lời mời gọi tham dự bàn tiệc nghĩa là lời hứa “Giao Ước”.
Của ăn thức uống vật chất
“Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Xin đừng giảm thiểu tối đa khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tự do và có thể lại được nếm rượu ngon của những vườn nho xứ Pa-lết-tin, lại được uống sữa đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đi. Rượu luôn luôn là biểu tượng niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
Của ăn thức uống tinh thần
Nhưng sâu xa hơn, là ý nghĩa tinh thần. Những của ăn thức uống Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả, trong Cựu Ước, bởi những hình ảnh bữa ăn, bánh, rượu, món ăn hảo hạng. Ơn cứu độ thời Mê-si-a như niềm vui tương lai của những người công chính vào thời tận thế, được diễn tả bởi những ẩn dụ như thế. Còn về nước, rỉ ra, phụn vọt lên, chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh như biểu tượng của sự sống thần linh. Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ này, vào tuần lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22: 17).
Một bản văn của sách Châm Ngôn đưa ra một sự đối chiếu với bản văn hôm nay: Đức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường phố, cất tiếng nơi công trường, kêu gọi chỗ ồn ào náo nhiệt, tuyên bố nơi cổng thành, mời gọi tất cả những ai muốn nếm những thiên ân của mình hãy đến tham dự bàn tiệc của mình: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng hoàn thoàn thuộc về tinh thần. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”: chỉ lương thực đích thật duy nhất đó là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời kêu gọi này nhắc nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
Bữa ăn Giao Ước
Lời Chúa này nói gì với những người lưu đày. Nó loan báo cho họ biết Thiên Chúa sắp hoàn lại sự tự do cho họ, và còn nữa, nó là lời hứa về một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được đóng ấn trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững, theo cùng hàng với những lời hứa được ban cho vua Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã hiểu ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị tiêu hủy, dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa dân Ít-ra-en và Thiên Chúa của dân. Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên bia đá, nhưng trong tận đáy lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đến phiên mình công bố giao ước mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, vị ngôn sứ gợi lại những tư tưởng rất thân thiết với những người lưu đày: những lời hứa xưa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít muôn năm bền vững. Như vậy, Thiên Chúa đã không quên!
Khía cạnh ngôn sứ
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: một lời mời gọi dự phần trước bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là hiện thân Thiên Chúa trong mọi ngã đường và trên các công trường. Trước tiên, cũng chính Ngài đề nghị những lương thực vật chất, cung cấp rượu hảo hạng cho tiệc cưới làng quê, ban bánh và cá để nuôi dưỡng đám đông đói khát, chữa lành bệnh tật cho các bệnh nhân, … ngõ hầu muốn nói rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống, và Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bữa ăn Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta nắm bắt Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Những lời thổ lộ đầy cảm xúc này hoàn tất bài ca hy vọng và khải hoàn, qua đó thánh Phao-lô đóng lại chương 8 thư gửi tín hữu Rô-ma, thực tế, phần đạo lý của thư này.
Sau khi đã chứng tỏ làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong tội, và làm thế nhờ Đức Ki-tô họ được tách ra khỏi tội lỗi, thánh nhân đã phô bày, trong chương 8 này, sự mới mẻ của người Ki-tô hữu: một đời sống theo Thần Khí và trong niềm hy vọng được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa làm chứng về một tình yêu bao la mà con người là đối tượng. Lúc đó, Thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm nồng nàn của mình tuôn tràn ra dưới ngòi bút thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng sau cùng này chất chứa biết bao sự hùng hồn và cảm xúc.
Người Ki-tô hữu đối mặt với sự thử thách
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn. Trở ngại nào có thể khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là những đau đớn cùng cực nhất? Những thử thách được liệt kê ở nơi con số “bảy”, con cố chỉ sự hoàn hảo. Chắc chắn đây không là ngẫu nhiên. Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến tất cả những khốn khổ mà thánh nhân đã kinh qua. Thánh nhân đã nêu lên những nỗi gian truân này nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11); thánh nhân thêm vào ở đây, như do sự linh cảm, “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ trong cuộc tử đạo của ngài. Nhưng đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến mọi người Ki-tô hữu đang gặp phải những khó khăn và những phiền nhiễu.
Thánh Phao-lô khẳng định một cách mạnh mẽ rằng trong mọi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến của họ, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng cảm thấy sự hiệu nghiệm nội tại và tình thân của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ kinh nghiệm của mình.
Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét
Để hoàn thiện những ví dụ của mình, thánh Phao-lô loại ra khỏi những người Ki-tô hữu nỗi sợ hãi mà họ có thể có về những quyền lực bí nhiệm ám ảnh vũ trụ và có thể dự phần vào sự điều hành vũ trụ, cũng như mọi cảnh huống cuộc đời con người: sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai.
Những mê tín dị đoan cổ xưa đầy dẫy trong vũ trụ về những quyền năng ít nhiều tác hại, chúng dễ dàng giải thích cái ác. Sự gia tăng của những mê tín này trở nên thuận lợi nhờ khoa chiêm tinh phát triển, từ đó, những tín ngưỡng dễ dàng tràn lan hơn nữa vì niềm tin trong các tôn giáo truyền thống sa sút.
“Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những thiên linh, những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15).
“Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng chiêm tinh và những “định mệnh” đè nặng trên vận mệnh của con người.
Còn đối với những kiểu nói “sự sống hay sự chết”, “hiện tại hay tương lai”, đây là những cặp đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn, như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22).
Ở đây, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: cái chết với những xao xuyến của mình, cuộc sống với những bận lòng của mình, hiện tại với những lo âu của mình, tương lai với những bấp bênh của mình.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng thánh nhân xem những niềm tin này và những sợ hãi này là của mình. Với một sự thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ một cách rạng rỡ tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do những toàn thắng của họ trên những quyền lực bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ “hóa bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Quả thật, dường như trong số những phép lạ, đây là phép lạ đặc trưng nhất, chứa đựng mặc khải nhất mà Đức Giê-su thực hiện. Bốn bài tường thuật bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau; mọi chi tiết đều hướng đến sự súc tích và sự chính xác của chúng.
Đức Giê-su tìm cách lánh vào nơi hoang vắng một mình với các môn đệ Ngài. Để được yên tĩnh, Ngài xuống thuyền qua bên kia biển hồ Ghê-nê-sa-rét để lánh xa đám đông. Nhưng đám đông đã nhận biết nên theo đường bộ dọc theo biển hồ và họ đến nơi trước khi thuyền cập bến.
Một ngày hồng ân
Đức Giê-su không còn sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù đám đông cản trở dự định của Ngài, Ngài ân cần tiếp đón họ; Ngài động lòng thương những nỗi khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói: “Ngài dạy dỗ họ suốt ngày” (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày thiên ân này bởi một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài.
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ hồ, nhưng dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm mà biến cố được định vị, những chi tiết được các tác giả Tin Mừng trình bày, nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
Sự đồng nhất của những dấu chỉ
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi này thì hoang vắng. Như vậy, thánh sử hướng tư tưởng về thời Xuất Hành, khi người Do thái trong hoang địa Xi-nai lâm vào cảnh đói và nhận được từ trời bánh man-na kỳ diệu. Đức Giê-su là Mô-sê mới, trong hoang địa Ga-li-lê này Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho dân ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô cũng nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân cỏ non mới thật sự phủ xanh miền Pa-lết tin. Điều này muốn nói rằng Đức Giê-su chính là vị mục tử nhân lành, được các ngôn sứ loan báo, Ngài dẫn đàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi. Rõ ràng thánh Mác-cô gợi lên điều đó: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Đối diện với sự chểnh mảng của các thủ lãnh Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “người chăn chiên thời Mê-si-a”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định rõ hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này trước tiên giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở thành Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét mà những đoàn người hành hương đến từ miền Ga-li-lê quy tụ lại: chính từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ rằng thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một cung giọng đặc biệt cho cử chỉ của Đức Giê-su? Đây là một cử chỉ ngôn sứ, loan báo Lễ Vượt Qua mới.
Dấu chỉ Thánh Thể
Phép lạ hóa bánh ra nhiều rõ ràng soi sáng cho việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy. Thánh Mát-thêu viết: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Những ngôn từ rất đối xứng với những ngôn từ của Bữa Tiệc Ly.
Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc phân phát bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức việc chia sẻ sự hiện diện hóa nhiều của Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Bánh được ban ở trên đồi Ga-li-lê thì dư dật như rượu được ban ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số 12 ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những khách mời khác vào dự bàn tiệc của Thiên Chúa.
Những chiếc thúng được dùng để đựng những mẫu bánh thừa chắc hẳn là những chiếc giỏ mây mà người Do thái thường mang theo bên mình khi di chuyển. Vào buỗi chiều bắt đầu ngày sa-bát, họ đặt vào trong một ít rơm để ủ thức ăn, vì họ không được nhen lửa vào ngày sa-bát. Người Rô-ma gọi người Do thái là “người mang giỏ”.
Dấu chỉ thời Mê-si-a
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ có một tầm mức Thánh Thể, nó còn gợi lên một ý nghĩa trực tiếp: ý nghĩa về bữa tiệc thời Mê-si-a.
Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các Thánh Vịnh (132: 15; 78: 24-27), các sách minh triết đã loan báo điều đó: triều đại Mê-si-a sẽ được đánh dấu bởi những dấu chỉ của sự dồi dào và no thỏa, những hình ảnh tham dự trước bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở Bài Đọc I: sự dồi dào của ăn thức uống được đề nghị một cách nhưng không cho những người lưu đày, có nghĩa đó là giờ giải thoát của họ, giờ tha thứ và ân cần săn sóc của Thiên Chúa.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su đề nghị cho đám đông: thời điểm cứu độ đã điểm; giờ của Đấng Mê-si-a là giờ Thiên Chúa hiện diện và tác động giữa loài người, giờ Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài. Đó là giờ Đức Giê-su bày tỏ lòng từ ái của Đức Giê-su đối với đám đông dân chúng. Họ đã đi bộ một quảng đường dài để hội ngộ với Ngài, đã lắng nghe Ngài suốt ngày, và chiều xuống, họ không có gì ăn. Nếu họ đã theo Ngài như thế, đó không phải là họ đang tìm kiếm những nhu cầu cốt yếu mà họ cảm thấy một cách lờ mờ sao?
Đức Giê-su làm dịu cơn đói phần xác của họ để giúp cho họ hiểu rằng Ngài có thể cho họ no thỏa cơn đói phần hồn nữa.
Bánh Lời Chúa
Dấu chỉ khác của thời Mê-si-a không được bày tỏ minh nhiên, nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến: “bánh là biểu tượng cốt yếu của Lời Chúa”. Mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh, thức ăn ban sự sống cho thân xác con người, và Lời Chúa, lương thực thần thiêng cung cấp sự sống đích thật. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra Ngài là Ngôi Lời, lời Thiên Chúa ở giữa loài người như trong Am 8: 11:
“Đây sắp đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng – Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”,
hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
Dấu chỉ về Giáo Hội
Dấu chỉ mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhất là dấu chỉ về Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ được dự phần vào. Các môn đệ là những người đề nghị với Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố tránh né; họ không có gì cả. Về phương diện con người, không có giải pháp nào có thể. Bài học thật khủng khiếp. Không phải Giáo Hội thường phải chạm trán với những vấn đề mà bên ngoài không thể giải quyết được, nếu như không có đức tin? Chính niềm tin tưởng phó thác vào Ngài mà Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài. Tiếp đó, chính ở nơi họ mà Ngài trao phó việc ân cần phân phát bánh và cá cho dân chúng: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Chính nhờ họ mà ân ban Thánh Thể và Lời Chúa sẽ được tiếp diễn mãi. Còn đám đông dân chúng, hỗn hợp và đông đảo, quy tụ chung quanh Đức Giê-su và được tham dự vào cùng một bánh, họ loan báo những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội. Như người ta thường nói: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của những người được thụ hưởng sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thêm nữa, đa số trong họ đã không biết nguồn gốc bánh và cá mà người ta phân phát cho họ. Chỉ một mình thánh Gioan nói về lòng nhiệt thành của đám đông “họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, phần tiếp theo của những biến cố cho thấy rằng những dấu chỉ được đề nghị, dù quá minh nhiên, đã không được hiểu; chúng xem ra như một trong những thử thách sau cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê trong việc khai lòng mở trí cho con người hiểu sứ điệp của Ngài.
Như ông Mô-sê trong thời Xuất Hành, Đức Giê-su đã đưa dân chúng tin Người vào hoang địa. Tại đây Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi “năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ” giống như Mô-sê xưa đã xin Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống để nuôi dân Ít-ra-en. Phép lạ này tiên báo về bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sẽ thiết lập trong bữa Tiệc Ly sau này.
CHÚ THÍCH:
– C 13-14:
+ Lánh khỏi nơi đó: Khi Gio-an Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê bỏ tù thì Đức Giê-su đã lánh sang miền Ga-li-lê (x. Mt 4,12). Giờ đây, khi nghe tin Gio-an bị vua Hê-rô-đê chém đầu thì Đức Giê-su lánh vào nơi hoang vắng, vì chưa đến “giờ của Người” (x.Ga 8,59;11,53-54). Cái chết của Gio-an là điềm báo về cái chết của Người sắp xảy đến.
+ Đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt: Theo Mác-cô và Lu-ca, lý do chính của cuộc rút lui này là để thầy trò có những giờ phút ở riêng bên nhau, tránh sự quấy rầy của dân chúng (x. Mc 6,31). Hướng đi của thuyền các ngài là hoang địa gần thành Bét-sai-đa (x. Lc 9,10), nằm về phía Đông Bắc và cách biển hồ Ga-li-lê khoảng một cây số. Đây là thời gian gần đến lễ Vượt qua của dân Do Thái (x. Ga 6,4).
+ Đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người: Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa cũng đi theo Mô-sê vào trong sa mạc Xi-nai. + Chạnh lòng thương: Khi chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su chứng tỏ Người chính là Mục tử lý tưởng mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm (x. Ed 34,11-16).
– C 15-18:
+ xin Thầy giải tán đám đông: Các môn đệ đã biết nghĩ đến nhu cầu của đám đông đang cần được ăn uống, nhưng các ông lại bất lực trước nhu cầu lớn lao kia, nên đề nghị Đức Giê-su giải tán dân chúng để ai nấy tự lo lương thực cho mình.
+ Chính anh em hãy cho họ ăn: Đức Giê-su biết rõ các môn đệ bất lực, nhưng Người vẫn ra lệnh cho các ông phải lo cho họ được ăn. Qua câu này, Người muốn Giáo Hội sau này không những phải rao giảng Tin Mừng, mà còn phải làm hết khả năng để đáp ứng nhu cầu về thể xác cho dân chúng nữa.
+ chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !: Số lượng quá nhỏ bé so với nhu cầu cần dùng. Riêng Tin Mừng Gio-an còn cho biết năm chiếc bánh đó làm bằng lúa mạch, tức là loại bánh của người nghèo.
+ Đem lại đây cho Thầy !: Với mấy chiếc bánh như vậy, các môn đệ không thể làm được gì. Nhưng Đức Giê-su chỉ cần các ông có thiện chí đóng góp hết khả năng của mình là Người sẽ thực hiện một phép lạ lớn lao.
– C 19: + Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ: Cỏ chỉ mọc vào mùa xuân, nghĩa là khoảng tháng ba dương lịch trước lễ Vượt Qua (x. Ga 6,4.10; Mc 6,39). Việc cho dân chúng ngồi trên cỏ là để tránh mất trật tự thường xảy ra mỗi khi phân phát đồ ăn.
+ Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá: Trong các gia đình Do thái, vào trước bữa ăn, người cha thường đọc kinh cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành Người đã thương ban. Ở đây khi làm cử chỉ này, Đức Giê-su cho thấy Người là gia chủ của đại gia đình nhân loại.
+ Ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ: Các cử chỉ và hành động ở đây tương tự như Người sẽ làm trong bữa tiệc ly để thiết lập bí tích Thánh Thể vào tối Thứ Năm trước cuộc khổ nạn sau này (x. Mt 26, 26).
– C 20-21:
+ Ăn no và còn dư: là hai yếu tố nói lên sự dồi dào của bữa tiệc Thiên Sai mà I-sai-a đã tuyên sấm trước đó: “ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thì béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6).
+ Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại đựơc mười hai giỏ đầy: Mười hai Tông đồ thu được mười hai giỏ. Con số 12 ở đây tượng trưng cho 12 chi tộc dân Ít-ra-en. Qua đó cho thấy sự nghiệp của Đức Giê-su lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở số người được ăn bánh hôm ấy.
+ Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con: Vì con đường theo Đức Giê-su quá xa nên có lẽ chỉ đàn ông mới quyết tâm đi tới nơi. Có thể đàn bà con nít cũng có mặt, nhưng không được tác giả Tin mừng nhắc đến do quan niệm “trọng nam khinh nữ” của dân Do thái thời bấy giờ.
CÂU HỎI:
1)Tại sao Đức Giê-su phải lánh vào nơi hoang địa ? Nơi đó nằm ở đâu ?
2) Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh nào trong thời kỳ Xuất Hành ? Thái độ chạnh lòng thương và chữa lành bệnh tật của Đức Giê-su cho thấy Người là ai ?
3) Tại sao các môn đệ lại đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông ? Khi đòi chính các ông phải lo cho dân chúng ăn, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì cho các mục tử của Hội Thánh ?
4) Đức Giê-su đã làm gì trước khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ? Phép lạ này tiên báo về bí tích nào sẽ được Người thiết lập sau này ?
5) Hai đặc tính của bữa tiệc là ăn no và còn dư cho thấy lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm ? Ý nghĩa của con số 12 giỏ đầy bánh thừa nói lên điều gì ? 6) Phải chăng đàn bà và trẻ con không được ăn bánh hóa nhiều trong phép lạ này của Đức Giê-su ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
LỜI CHÚA: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14).- Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
CÂU CHUYỆN:
1) TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC THỂ HIỆN BẰNG SỰ SẺ CHIA?
Ăn thêm cái nữa đi con!
– Ngán quá, con không ăn đâu! – Ráng ăn thêm một cái, má thương. Ngoan đi cưng! – Con nói là không ăn mà. Vứt đi ! Vứt nó đi !
Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay. Chiếc bánh kem văng qua cửa xe rơi xuống đường, sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi.
Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ, chạy nhanh đến nhặt. Mắt hai đứa sáng lên dán chặt vào chiếc bánh kem thơm ngon. Thấy bánh bị lấm láp, đứa em gái nuốt nước miếng và bảo thằng anh:
– Anh Hai thổi sạch rồi hai anh em mình cùng ăn nhé.
Thằng anh phùng má thổi. Nhưng bụi đất đã dính vào kem chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó đã làm chiếc bánh rơi tòm xuống mương đầy nước dơ bên cạnh.
– Ai biểu anh Hai thổi chi cho mạnh – Con bé nói rồi thút thít khóc.
– Ừa.Tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi.
2) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu trong bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, đến lượt em gái bị chứng xuất huyết nội và được cha mẹ mang đi cấp cứu trong cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần phải được cấp thời tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu anh lại cùng một loại với cô em. Khi được hỏi có muốn truyền máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé tỏ ra chần chừ và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã can đảm trả lời bác sĩ: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu từ cậu bé sang cho cô em. Đến khi cậu bé tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
3) TÌM THẤY NIỀM VUI KHI CẢM THÔNG GIÚP ĐỠ THA NHÂN:
Một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên cạnh đó một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Ông tá điền cởi đôi ủng để lại trên bờ ruộng trước khi làm việc. Cậu bé tinh nghịch muốn giấu đôi ủng ấy để trêu chọc người nông dân. Nhưng người giám hộ đã khuyên cậu rằng:
– Con chớ làm cho người tá điền nghèo khổ này buồn phiền, nhưng hãy làm cho ông ta được vui thì tốt hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền vào hai chiếc giày ủng. Chúng ta sẽ núp ở gần đây để xem thái độ của ông ta thế nào khi nhận được tiền.
Cậu bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc ủng một đồng bạc.
Một lát sau, người nông dân trở lại lấy đôi ủng để về nhà. Sau khi khám phá ra có tiền trong đó, ông đã vội quì xuống và ngước mắt lên trời cảm tạ Chúa đã thương ban ơn giúp cho gia đình ông qua cơn túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh đã làm điều này.
Đứng trước nhưng gì dã xảy ra và nghe lời người nông dân cầu nguyện, cậu bé đã rất cảm động muốn khóc. Đây là lần đầu tiên cậu cảm thấy lòng mình vui vẻ hạnh phúc.
CẢM THƯƠNG CHÚ CHÓ CON BỊ TẬT NGUYỀN: Một cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng:
– Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác ?
Người chủ cửa hàng trả lời:
– Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!
Cậu bé rụt rè nói:
– Cháu có thể xem chúng được không ạ ?
Người chủ cửa hàng mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp đi hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi:
– Con chó này bị sao vậy hả bác ?
Ông chủ giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời.
Nghe thế cậu bé tỏ ra xúc động:
– Đó chính là con chó mà cháu muốn mua!
Chủ cửa hàng nói:
– Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết là cháu sẽ thực sự không muốn mua nó đâu.
Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:
– Cháu không muốn bác tặng không nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả 2 đô la 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả góp 50 xu được không ạ ?
– Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó, người chủ cửa hàng khuyên. Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa với cháu như những con khác được đâu.
Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái bị tật nguyền, cong vẹo được nâng đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và nói:
– Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà, và chú chó con này sẽ cần một ai đó thấu hiểu và sẵn sàng chơi đùa với nó. (theo Dan Clark)
Yêu thương là thế đó. Chúng ta không những phải yêu thương con người mà còn phải yêu thương cả các con vật do Chúa dựng nên nữa. Như thế mới gọi là yêu như Chúa.
5) BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý vừa được giải phóng khỏi phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng. Có lẽ hai cánh tay bức tượng đã bị bể tan do bom đạn. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào đó hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm với đôi tay của loài người.
SUY NIỆM:
1) DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại như sau:
– Đem lại đây cho Thầy !: Dù đây chỉ là phần đóng góp nhỏ nhoi của các môn đệ, nhưng Người vẫn sử dụng. Người chỉ cần các ông nhiệt tình và quảng đại trao cho Người những gì các ông đang có là đủ.
– Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của những tấm bánh là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, dâng lên cho Chúa Cha, rồi trở lại tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay từng người trong đám đông.
– Bẻ ra, trao đi, chia sẻ và hóa nhiều: Phép lạ các tấm bánh được nhân ra nhiều khi nó đang ở trong tay ai ? Tin Mừng không nói rõ Đức Giê-su đã làm phép lạ từ năm cái bánh trở thành một đống bánh và cá thật lớn, rồi các môn đệ chỉ việc lấy ra phân phát cho dân chúng nhưng thánh sử Mát-thêu viết như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng phải bẻ ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su đã được bẻ ra, trao đi và chỉ nhân ra nhiều khi nó được chia sẻ từ người này sang người khác. Đó là điều then chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
2) ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19):
– Phép lạ Bánh hóa nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước cuộc Khổ nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong bữa tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
– Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái như sau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?”(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
3) PHÉP LẠ BẺ BÁNH TRONG ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
– Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ cho mình: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ biết quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông phân phát cho dân chúng mà bánh đã hóa ra nhiều.
– Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi bạn phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, nhưng tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, vui tươi, hạnh phúc và niềm hy vọng.
THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần hay không?
2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần nào cho người sống bên cạnh bạn: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa…?
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sự đói khát đang giày vò bao người, để sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nhưng Lạy Chúa. Khả năng chúng con giới hạn và không thấm vào đâu so với nhu cầu của tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương quảng đại của các môn đệ Chúa xưa bằng việc dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con.
– LẠY CHÚA. Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành một đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một Vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng ! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao.
Người Việt có câu: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Điều đó cho thấy sự ăn uống không chỉ cần thiết và còn cấp bách, không thể trì hoãn. Thật vậy, với bản năng sinh tồn, người ta phải làm và dám làm mọi thứ: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Tại Việt Nam đã có những trường hợp đáng thương khi người ta phải lấy trộm hoặc giật lấy những thứ đơn giản như mấy ổ bánh mì, thế nhưng pháp luật lại kết án họ nhiều năm tù, còn những kẻ cướp công khai bạc tỷ thì lại lãnh án nhẹ hoặc tù treo. Thật là bất minh và bất công!
Ai đã từng phải khổ, phải cắn răng chịu cơn đói thì thấy rằng, lúc đó toàn thân phải gồng mình để chịu đựng, vừa toát mồ hôi vừa run lên. Cái “miếng” lúc này đáng giá hơn cái “gói” lắm. Xã hội văn minh, nhưng khắp nơi vẫn thấy nhiều người thiếu những thứ thiết yếu nhất!
Có chuyện kể – xảy ra thật tại Indonesia – về một “Phiên Tòa Lương Tâm” như sau…
Tại phòng xử án, thẩm phán trầm ngâm suy nghĩ trước lời cáo buộc của các công tố viên đối với một bà cụ phạm tội ăn cắp khoai mì (sắn) và phải bồi thường 1 triệu Rupiah. Lời bào chữa của bà cụ: Gia đình rất nghèo khổ, đứa con trai bị bệnh, đứa cháu suy dinh dưỡng vì đói khát. Nhưng ông chủ quản lý vườn khoai mì nói rằng bà ta phải bị xử nghiêm minh như những người khác.
Vị thẩm phán thở dài: “Xin lỗi, thưa bà…” Ông ngưng giây lát, vừa nhìn bà cụ đói khổ vừa nói: “Nhưng pháp luật là pháp luật, tôi là người đại diện pháp luật nên phải xử nghiêm minh. Tôi tuyên phạt bà phải bồi thường một triệu Rupiah cho chủ vườn. Nếu không có tiền bồi thường, bà phải ngồi tù hai năm rưỡi.”
Bà cụ run run, rướm nước mắt, vì bà đi tù rồi thì con cháu ở nhà ai chăm lo? Vị thẩm phán nói tiếp: “Nhưng tôi cũng là người đại diện của công lý. Tôi tuyên phạt tất cả những công dân nào có mặt trong phiên toà này 50.000 Rupiah vì sống trong một thành phố văn minh, giàu có này mà lại để cho một bà cụ ăn cắp mà lo cho đứa cháu đói khát và đứa con bệnh tật.” Nói xong, ông lấy mũ của mình đưa cho cô thư ký: “Cô hãy đưa mũ này truyền đi khắp phòng và tiền thu được hãy đưa cho bị cáo.”
Cuối cùng, bà cụ đã nhận được 3,5 triệu Rupiah tiền quyên góp, trong đó có cả 50.000 Rupiah từ các công tố viên buộc tội bà, một số nhà hảo tâm còn trả giúp một triệu Rupiah tiền bồi thường. Bà cụ run lên vì vui sướng. Thẩm phán gõ búa kết thúc phiên toà. Tất cả mọi người đều mãn nguyện và mỉm cười hạnh phúc.
Có lẽ đó là phiên tòa xử nghiêm minh nhất và gây xúc động, bởi vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cuộc sống xung quanh mình. Cái nghèo của người khác cũng mang tính liên đới, có phần lỗi của mỗi chúng ta. Trong phiên tòa kia, vị thẩm phán đã không chỉ dùng LUẬT PHÁP mà còn dùng cả TRÁI TIM để phân xử.
Như chúng ta đã biết, ăn uống là “đệ nhất khoái” trong tứ khoái của con người, và là bài học đầu tiên người ta phải học trong cuộc đời: “Học ăn, học nói, học gói, học mở.” Thật là lạ lùng bởi vì trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối,” việc ăn uống cũng được coi là “mối thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống.” Rõ ràng việc ăn uống là việc không thể trì hoãn. Khi không còn thiếu thốn, người ta lại lo sao có thể “ăn no, mặc ấm,” rồi miệt mài cố gắng để có thể “ăn ngon, mặc đẹp.” Cả đời cứ phải “vượt qua” như thế.
Sống là đấu tranh, vì bản năng sinh tồn. Người ta có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi mới có thể lo những thứ khác – liên quan cả xác lẫn hồn. Quả thật, người ta rất thực tế: “Có thực mới vực được đạo.” Trong lúc đói, Thằng Bờm không cần bất cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi.” Thế thôi. Người Anh diễn tả đơn giản: “That’s all.” Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của cái bụng lúc đó. Và đó là tất cả.
Vì miếng ăn – để sinh tồn, chiến tranh vẫn không ngừng xảy ra bằng nhiều cách. Biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người nghèo đói để bắt họ làm theo mưu thâm kế độc của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng, nó có thể làm cho người ta vinh dự hoặc nhục nhã.
Vật chất hay tiền bạc cũng chỉ vì miếng ăn, có thể nói rằng quyền lợi cơ bản là… “miếng ăn.” Bất ngờ thấy ai cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình chuyện gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn không.” Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái gì thì người ta chỉ cho những thứ thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa là “công bằng” chứ đừng nói chi “bác ái.” Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa.” (Mc 10:18; Lc 18:19) Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy, càng rõ hơn trong xã hội coi trọng vật chất ngày nay – một dạng chủ nghĩa duy vật tinh vi.
Tất cả mọi người, không trừ ai, đều được Thiên Chúa nhân lành mời gọi: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.” (Is 55:1) Cứ đến “mua” mà không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ, đó là “mua” bằng giá trị của niềm tin chân thành và tình mến thiết tha.
Ngày nay, với sự lây nhiễm virus sĩ diện hão, người ta “đánh giá” nhau bằng mức độ vật chất. Vì muốn chứng tỏ mình mà người ta có thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ người ta “thích” (ra vẻ), dù ăn được hay không. Có những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh. Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406 USD/1,5 kg (khoảng 3,4 tỷ VNĐ), trứng cá muối Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp (khoảng 530 triệu VNĐ), hoặc dưa lưới Yabari có giá 22.872 USD/quả (khoảng 486 triệu VNĐ), v.v… Các món đó chúng ta có mơ cũng không thể thấy. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng, đám “cậu ấm, cô chiêu” ăn chơi mỗi đêm tốn vài ngàn USD. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi” cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt” vậy thôi. Dù gì thì cũng quá lãng phí quá. Chắc chắn chỉ có buôn ma túy hoặc cướp giật thì mới dám “chơi chảnh” như vậy!
Từ xa xưa, Thiên Chúa đã đặt vấn đề: “Sao lại PHÍ tiền bạc vào của không nuôi sống, TỐN công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?” (Is 55:2a) Lương thực chỉ nuôi sống phần xác chứ không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức cho khoái khẩu, cho ra vẻ ta đây. Điều đó cho thấy ăn uống là điều thú vị lắm, không khéo hóa mê ăn uống thì lại là tội. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh thần, đặc biệt là đói linh hồn. Lạ thật, lạ vì người ta tự mâu thuẫn. Vậy là không khôn rồi!
Là Đấng giàu lòng thương xót và vốn dĩ nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị.” (Is 55:2b) Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít.” (Is 55:3) Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.” (Tv 23:1)
Với ít nhiều kinh nghiệm sống, ai cũng có thể cảm nhận được Thiên Chúa quan phòng như thế nào. Thật vậy, Ngài rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cả thể lý và tinh thần mà lại hoàn toàn miễn phí. Chúng ta lãnh nhận liên tiếp và nhận rất nhiều mà vẫn vô ơn, thế nhưng Ngài vẫn làm ngơ, bỏ qua, không hề chấp lách. Bởi vì bản chất của Ngài là tốt lành, yêu thương, thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với chúng ta, mà Ngài còn nhân hậu với mọi thụ tạo của Ngài, từ gã khổng lồ tới con vi trùng.
Chúng ta có thể nhận thấy qua kinh nghiệm cuộc sống. Có những lúc chúng ta chưa xin đã được – loại này nhiều lắm, hoặc xin và được rồi, nhưng chúng ta lại “phủi tay,” kiểu “qua cầu rút ván,” giống như chuyện “mười người phong hủi được sạch cả nhưng chỉ có một người Samari trở lại tạ ơn Chúa.” (Lc 17:11-18) Mặc dù vậy, Ngài vẫn không bỏ đói ai. Như vậy liệu có quá tệ chăng? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài ĐÚNG BỮA CHO ĂN. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật MUÔN VÀN THOẢ THUÊ.” (Tv 145:15-16) Thiên Chúa toàn năng, không gì là không thể, đặc biệt là Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa GẦN GŨI tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.” (Tv 145:17-18)
Trong đời thường, cái nghèo luôn đi đôi với cái khổ và cái khó – nghèo khổ hoặc nghèo khó, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những người giàu mà vẫn khổ và khó. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều,” nhưng cũng có những kẻ “nhàn rỗi sinh nông nổi,” và vì nông nổi nên mới ra nông nỗi. Khổ, khổ thật! Thế nhưng người ta vẫn có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Quả thật, phải thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ nào trong hành trình tâm linh, chắc hẳn mỗi chúng ta phải tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:35) Và chỉ có mình mới có thể xác định chứ không ai làm thay được.
Đúng là không dễ trả lời chút nào. Nhưng đừng vội hoang mang, đây là bí quyết của Thánh Phaolô có thể giúp chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, KHÔNG CÓ GÌ tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:37-39) Đó là cách lo liệu cho cái đói của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” (Mt 5:6)
Chúa Giêsu không muốn ai bị đói – dù thể lý hoặc tinh thần, chỉ muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. (Ga 10:10) Trình thuật Mt 14:13-21 (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14) kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất. Đó là “lòng trắc ẩn” của Chúa Giêsu dành cho đám đông – những người say mê lắng nghe lời giáo huấn của Ngài. Họ no nê cả thể lý và tâm linh.
Thời gian đó, khi biết tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê ra lệnh chém đầu vì vua lỡ “hứa dại” với con gái của mụ Hêrôđia, Chúa Giêsu lánh khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành nườm nượp kéo nhau đi theo Ngài. Khi ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy họ thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ. Tình yêu thương không thể trì hoãn.
Chiều buông, nắng nhạt. Hoàng hôn vàng võ dần dần hóa thành đêm đen, cái bụng mọi người bắt đầu đánh lô-tô. Đã đến lúc cần ăn tối. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, thế nên họ lại gần thưa với Sư Phụ: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Nhưng Ngài thản nhiên bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Ôi chao, thế thì “căng” thật! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” Mèn ơi, đó là đồ ăn thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì thấm gì với đám đông như kiến như cỏ thế kia? Chúa Giêsu biết việc gì cần làm ngay.
Chúa Giêsu ôn tồn: “Đem lại đây cho Thầy!” Rồi Ngài truyền cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh.” Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, và trao cho môn đệ rồi Ngài bảo họ phân phát cho đám đông. Cứu đói là một cách thể hiện lòng thương xót cụ thể.
Sau đó thế nào? Thánh sử Mátthêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.” Môt bài toán kỳ lạ: 5 + 2 không là 7 mà là rất nhiều, vô số, tới mức dư thừa.
Chúa Giêsu thực hiện phép lạ này để nuôi sống phần xác cho dân chúng, còn phép lạ vĩ đại nhất và quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống phần hồn chúng ta là Phép lạ Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể vừa là thần lương vừa là thần dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc chỗ nọ. Thật là mâu thuẫn, vậy mà vẫn nói rằng “tôi tin.” Đức Tin như vậy có cần “xét lại” chăng?
Hãy nghe Thánh Thomas More (1478-1535, luật sư, triết gia và chính khách người Anh) chia sẻ kinh nghiệm về Thánh Thể: “Nếu tôi xao lãng, việc hiệp lễ sẽ giúp tôi tịnh tâm trở lại. Nếu hằng ngày có những dịp xảy đến xúi giục tôi xúc phạm đến Thiên Chúa, tôi sẽ tự trang bị cho cuộc chiến mỗi ngày bằng việc lãnh nhận Thánh Thể. Nếu tôi đặc biệt cần đến ánh sáng và sự khôn ngoan để thực thi các phận sự nặng nề của tôi, tôi sẽ đến bên Đấng Cứu Độ, mong tìm được lời khuyên và ánh sáng của Người.”
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài luôn quan phòng và tiền định những điều tốt lành nhất để chúng con được sống dồi dào trong sự sống của Ngài. Xin giúp chúng con luôn biết chia sẻ chính tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con cho mọi người, bất kể đó là ai. Xin giúp chúng con biết thể hiện lòng thương xót đúng Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thiếu ăn thiếu mặc, không tiền, không địa vị, luôn bị xếp vào tình trạng nghèo, khó khăn…., nhưng đói nghèo, túng thiếu mà bị liệt vào số phận những “người bất hạnh”, chắc chắn là không đúng rồi. Vào dịp cuối tháng 7 hàng năm, các phương tiện truyền thông báo chí, luôn đưa tin các thủ khoa, á khoa đậu đại học là con nhà nghèo, mồ côi cha, mồ côi mẹ…. Như thế, đâu phải cứ túng thiếu nghèo khổ là không “có cửa” thành danh, là khó đạt tới hạnh phúc ? Chẳng ai muốn mình bị thất bại trong cuộc đời, cũng không ai muốn mình sẽ nghèo mãi, “ăn vay cả đời”. Nói gì thì nói, kinh nghiệm luôn cho ta thấy : người hạnh phúc không phải chỉ là người giầu có địa vị; người thành công không nhất thiết phải là người tài trí thông minh.
No cơm ấm áo là mơ ước chính đáng của người nghèo, bận tâm của người khôn ngoan là làm gì để được no thỏa cả tinh thần lẫn thể chất. Đói cơm bánh hay đói tình thương, đều cần được giúp đỡ sẻ chia. Đối tượng được Thiên Chúa yêu thương cứu độ là tất cả mọi người, chứ không phải chỉ một số người tội lỗi hay đã thánh thiện. Chúa Giêsu hé mở cho các môn đệ là Chúa dư khả năng để đáp ứng được nhu cầu cơm bánh cho đám đông, nhưng không vì thế mà chút tình người nơi các ông bị khép lại.
Rất nhiều người hôm nay có bằng cấp nhiều, tiền của dư thừa, nhưng họ vẫn than thở sao tôi cô đơn, dường như cuộc sống của tôi còn thiếu 2 chữ “bình an” ! Biết bao người đã thuộc lòng tư tưởng hay của vĩ nhân : muốn thành công trên đường đời, phải làm chủ lấy thời cuộc; muốn làm chủ lấy thời cuộc phải làm chủ lấy những người xung quanh; và muốn làm chủ những người xung quanh ta phải làm chủ lấy chính mình. Xem ra chìa khóa thành công ở ngay trong “ý chí của mình”, hạnh phúc thật khởi đi từ tâm hồn của mình, vậy mà người ta cứ lòng vòng kiếm tìm thật vất vả đáng thương !
Thiên Chúa cho dân người ăn mà không phải trả tiền : là ý tưởng mà Isaia đã nhận ra, đã quả quyết từ xưa, được diễn tả nơi bài đọc 1. Ngôn sứ mời gọi tất cả mọi người: có tiền cũng như không có tiền, đều đáng được bồi bổ tinh thần thể xác, được no say hạnh phúc. Thực tế hơn, con người cần sự khôn ngoan, biết phân biệt thứ lương thực nào ích lợi cho tâm hồn và thể xác, thức ăn nào nuôi sống và ăn vào sẽ không phải chết. Bài đọc 2, Thánh Phaolô chắc chắn bằng cảm nghiệm nơi bản thân, được Thiên Chúa yêu thương, cho nên dẫu ngài phải chịu nhiều lo lắng, buồn phiền, bắt bớ, đói khát, trần truồng, tiêu diệt, ngài vẫn thốt lên : “Không gì có thể ngăn cản được lòng tôi đừng tin vào Thiên Chúa.”
Người Việt Nam chúng ta có câu : “của cho không bằng cách cho”, cho như thế nào để người nhận không bị tự ái, cho như thế nào, để vợ con hiểu và vui mừng vì việc làm của chồng, của bố thật đáng tự hào ? Trong khi các môn đệ không có tiền, không có điều kiện để đi vào các làng mạc mà mua bánh cho Thầy, cho mình ? Giải pháp hữu hiệu nhất tưởng là cho đám đông tan hàng, ai về nhà đó, cơm bánh của ai tự người ấy lo, ít là không gây phiền hà cho Thầy.
Theo suy nghĩ của các môn đệ, của đám đông dân chúng, Chúa Giêsu tài giỏi, nhiều quyền năng, nghĩ như vậy thì không sai ! Góp ý của các môn đệ nên giải tán đám đông có để lại ấn tượng gì không ? Chúa Giêsu lại cần mỗi người đều phải thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa, mọi người đều phải diễn tả được tình yêu thương và niềm hy vọng cho anh chị em của mình.
Ngày hôm nay, hàng giáo sĩ, tu sĩ không thể dùng năm chiếc bánh và hai con cá để đáp ứng cho hơn năm ngàn người ăn no nê; tuy nhiên bằng sự hiểu hiết, bằng sự tận tình yêu thương phục vụ, biết bao tấm lòng đang được ấm lên trong sự thông hiệp với tình yêu Giêsu ! Ngày hôm nay, tiền của vật chất vẫn là qui ước để giao dịch mua sắm; ấy vậy, chỉ có có tình yêu mới cảm hóa được lòng người, chỉ khi tình yêu được no thỏa, tâm hồn người ta mới hết lạnh lẽo, trong mọi tương quan sẽ không còn cảm thấy cô đơn nữa.
Quan niệm tôn giáo thời Chúa Giêsu, người chủ gia đình, người chủ tọa trong các buổi hội họp, phải là người có trách nhiệm diễn tả tình tình yêu thương của Thiên Chúa cho mọi người. Chủ trương của Chúa Giêsu, ai đến với Chúa sẽ có niềm vui, được no thỏa hạnh phúc, không lẽ nào đám đông dân chúng đến nghe giáo huấn của Chúa tâm hồn rỗng, bụng đói mà phải về không như thế ? Đi tìm kiếm Chúa, đến gặp Chúa Giêsu, mọi người sẽ thấy rõ hơn như thế nào là : vui lòng khách đến vừa lòng khách đi. Nào các bạn hãy mạnh dạn đến với Chúa, thưa chuyện với Chúa, chắc chắn mỗi người còn được thu hút cách đặc biệt hơn nữa, vì Chúa là nguồn yêu thương. Amen.
Theo thống kê của ngân hàng thế giới, trong khi con số những người giàu nhất thế giới có tăng đôi chút, thì ngược lại, con số những người nghèo lại tăng gấp nhiều lần mỗi năm. Thống kê cũng cho biết, mỗi ngày trên thế giới có hàng chục ngàn người chết đói, và hàng năm, con số người chết lên đến hàng triệu. Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới, người nghèo là người có thu nhập bình quân một ngày dưới 1$ (20.000đ). Theo tiêu chí này, thì Việt Nam là một trong những quốc gia đói nghèo. Tuy nhiên gần đây, Việt nam cũng có hơn 100 người được xếp vào hạng giàu trên thế giới, có những người ăn sáng bằng một tô phở ở Hà Nội với giá 700 ngàn ; bên cạnh đó, nhiều người không kiếm nổi 10 ngàn một ngày. Có những người một bữa nhậu đãi nhau hết cả chục triệu, và bên cạnh đó có những người khác bữa đói, bữa nhịn.
Vấn đề nghèo đói lương thực luôn là vấn đề trầm trọng nơi nhiều quốc gia, nhiều gia đình. Bên cạnh đó, còn một tình trạng đói nghèo khác, đó là đói nghèo trong tâm hồn : đói tình yêu, nghèo hạnh phúc, thiếu niềm vui, thiếu bình an ; dư thừa của cải nhưng tâm hồn trống rỗng, nghèo đói… Tình trạng đói nghèo này có khi còn trầm trọng và gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người nhiều hơn là thiếu đói cơm áo.
Thiếu đói cơm áo, người ta có thể chờ đợi sự trợ giúp của các nhà hảo tâm hoặc của các quốc gia giàu có, nhưng việc thiếu đói trong tâm hồn, thì chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn cho chúng ta, mà mỗi người phải tìm đến với sự trợ giúp này. Thiên Chúa là Đấng đầy tràn hạnh phúc và bình an. Ngài nhìn thấy sự đói khát trong tâm hồn và thể xác của con người. Ngài sẵn sáng đáp ứng mọi sự đói khát và thiếu thốn của con người, chỉ với một điều kiện duy nhất là hãy đến mà lãnh nhận.
Qua miệng tiên tri Isai, Thiên Chúa mời gọi : Hãy đến, hỡi tất cả những người đang khát, hãy đến…dầu không có tiền, cứ đến mà dùng, đến mua rượu mua sữa không phải trả đồng nào… Hãy chăm chú nghe lời ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với ta, các ngươi sẽ được sống. Như vậy, lương thực Thiên Chúa ban trước hết không chỉ ăn bằng miệng, nhưng còn là “ăn bằng tai”. Những ai nghe và thực hành Lời Chúa truyền dạy thì sẽ được no thỏa ân phúc, tìm được bình an, và Lời Chúa sẽ thỏa mãn sự khao khát, thiếu đói trong tâm hồn con người.
Nếu như tiên tri Isai nói đến một thứ lương thực “ăn bằng tai”, thì khi Chúa Giêsu đến, Ngài vừa mời gọi những người đi theo Ngài nghe và tuân giữ lời Ngài, vừa còn đáp ứng cái đói thể xác bằng bánh và cá. Hơn nữa, Ngài còn làm no thỏa cái đói trong tâm hồn bằng một thứ lương thực đặc biệt, đó là máu và thịt Ngài. Tin Mừng hôm nay kể lại : Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài mấy ngày trong hoang địa để nghe lời Ngài, Ngài chạnh lòng thương.
Chạnh lòng thương có nghĩa là để cho trái tim mình rung nhịp trước đau khổ của người khác. Đám đông không chỉ bơ vơ, đói khát thể xác mà còn bị sự dày vò bởi bệnh tật và đau khổ, nghĩa là theo quan niệm lúc bấy giờ, họ đang bị trói buộc bởi ma quỷ, tội lỗi. Thấy thế, Chúa đã ra tay chữa lành bệnh tật thể xác và đau khổ tâm hồn của họ.
Buổi chiều hôm đó, thấy một đám đông đang có nguy cơ đói lả, các tông đồ cảm thấy bất lực trước một nhu cầu quá lớn là lo cho cả ngàn người ăn. Vì thế, các ông đã muốn chọn một giải pháp dễ dãi, thoái thác trách nhiệm nên các ông nói với Chúa : Thưa Thầy, đã muộn rồi, ở đây lại thanh vắng, chúng ta nên giải tán đám đông, để họ tự đi mua thức ăn. Chúa Giêsu đã không đồng ý với giải pháp đó. Ngài ra lệnh cho các tông đồ : Chính anh em hãy cho họ ăn. Các tông đồ, với sự giới hạn của mình, dường như bó tay trước nhu cầu quá lớn như thế. Các ông đã thưa với Chúa về giới hạn nhỏ bé của mình : Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, tức là chỉ đủ cho một phần ăn.
Đối với Chúa Giêsu, ít hay nhiều không quan trọng, nhưng quan trọng là các tông đồ có dám nhường phần ăn của mình cho người khác hay không, phần còn lại Chúa sẽ làm. Thế là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự quảng đại chia sẻ của con người, Chúa Giêsu đã cầm lấy…, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ trao cho đám đông. Chi tiết này cho thấy, một lần nữa, Chúa Giêsu lại muốn có sự cộng tác quảng đại của các tông đồ. Chúa trao cho các ông để các ông tiếp tục trao cho người khác. Như thế lương thục, của ăn cứ liên tục được trao tặng qua các môn đệ, phục vụ đến mọi người, và sẽ mãi là như thế.
Từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ là đóng góp của con người, cùng với sự cộng tác của các môn đệ, Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư thừa đến mười hai giỏ đầy bánh vụn. Phép lạ này được thực hiện để báo trước một phép lạ lớn lao hơn, đó là phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Ngài đã biến máu thịt mình nên của ăn nuôi dưỡng nhân loại. Với phép lạ Thánh Thể tại nhà tiệc ly và vẫn còn kéo dài đến ngày nay, Đức Giêsu cũng vẫn đang cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói : Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, vì này là mình và máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em, hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Với việc biến mình trở nên lương thực làm của ăn, của uống cho con người, Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn mọi đói khát thể xác và tâm hồn cho con người mọi thời và mọi nơi. Chỉ nhưng ai đến lãnh nhận lương thực này, ăn mình và uống máu Ngài, thì sẽ không bao giờ còn bị các cơn đói khát, thèm muốn của thế gian đe dọa nữa. Nói như thánh Phaolô trong bài đọc hai : Khi gắn bó với Đức kitô qua việc nghe Lời Ngài và ăn lương thực của Ngài ban tặng, thì không một đau khổ, nghèo đói nào có thể làm lung lạc tinh thần của chúng ta : Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô, dù là gian truân khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Tức là tất cả những nghèo đói, thèm khát, đau khổ của thế gian sẽ không làm gì được chúng ta, một khi chúng ta ở trong tình yêu với Chúa Giêsu.
Thưa quý OBACE, trong chúng ta, có những người đang nghèo túng của ăn, cơm áo. Bên cạnh đó, có rất nhiều người giàu của cải nhưng lại đang nghèo đói tinh thần. Có nhiều gia đình thèm muốn có một bữa ăn xum họp cả nhà mà không được ; có nhiều gia đình mong một ngày yên ổn không cãi vã, không to tiếng mà cũng không tìm ra ; có những người quá mệt mỏi với công việc, mong được một ngày nghỉ ngơi, thoát khỏi những lo toan cũng không thể… và nhiều người khác, tuy ngoài miệng vẫn cười, mà lòng đầy nước mắt và sự bất an. Nhiều bạn trẻ đang khao khát tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc và tìm cho mình một hướng đi, một mục đích sống… Tất cả những khát khao đó là những hình thức của đói khát tinh thần ngày nay. Chắc chắn rằng, con người, xã hội và của cải không thể làm nguôi cơn đói ấy. Chỉ có một Đấng có thể thỏa mãn cho chúng ta đó là Thiên Chúa. Chỉ có một thứ lương thực có thể xoa dịu mọi khát khao của con người đó là Lời của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Chỉ có một thứ lương thực cứu đói và gia tăng sức mạnh đó là Mình và Máu Chúa Giêsu được trao ban trong thánh lễ mỗi ngày.
Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình hãy tìm đến để lãnh nhận lương thực kỳ diệu này mỗi ngày. Hãy ăn bằng tai những lời dạy bảo của Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thấm nhập và chi phối cuộc sống và hướng dẫn hành động của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ không còn khát khao điều gì nữa, vì Lời Chúa chính là lương thực cho chúng ta. Hãy siêng năng đến với Bí Tích Thánh Thể qua thánh lễ mỗi ngày. Hãy lãnh nhận và ăn mỗi ngày thứ lương thực thần linh này, Chúa sẽ bổ sức cho cuộc đời chúng ta, sẽ dập tắt mọi khát khao thấp hèn của con người và hướng chúng ta đến sự khao khát thánh thiện, khao khát hạnh phúc đời đời.
Một khi được đón nhận lương thực từ tay Chúa, chúng ta còn có bổn phận tiếp tục chia sẻ cho những người bên cạnh. Hãy quảng đại như các mộn đệ xưa, dâng cho chúa cả phần ăn mà chúng ta phải sử dụng để Chúa dùng sự quảng đại nhỏ bé của chúng ta, mà nuôi dưỡng nhiều anh em khác nữa. Hãy dâng cho Chúa không chỉ những của ăn hay những thứ dư thừa, mà hãy dám dâng cho Chúa cả những cái chúng ta đang cần. Chúa đang chờ đợi sự công tác của chúng ta để xoa dịu nỗi đau khổ, đói khát của anh em. Không chỉ dâng tặng cho Chúa những của cải vật chất, mà còn dâng cho chúa những sự hy sinh, lời cầu nguyện và những việc lành, việc tốt âm thầm. Chúa rất vui lòng đón nhận những của hy sinh đó để đem lại ân phúc cho người thân, cho gia đình chúng ta và cho nhiều anh chị em khác nữa. Xin cho chúng ta luôn biết noi gương Mẹ Maria, mở rộng tâm hồn để Chúa lấp đầy mọi thiếu thốn, nghèo đói của thân phận con người và biến chúng ta trở nên những con người no thỏa ân phúc của Chúa. Amen.
Có đứa trẻ nói với cha rằng: “cha ơi, con muốn sau này con sẽ thay đổi cả thế giới”. Người cha ôn tồn bảo con: “con phải học thật giỏi hôm nay thì mới hy vọng ngày mai giúp đời”.
Hóa ra muốn thay đổi thế giới không phải là chờ lớn lên mới làm mà phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Sự trau dồi kiến thức, sự học hành là điều tối thiểu để có khả năng giúp đời mai sau.
Có một cậu bé vào tập việc trong một tiệm sửa xe đạp, có người khách đem đến một chiếc xe đạp hư, cậu bé không những sửa lại cho thật tốt, mà còn lau chùi chiếc xe cho sạch đẹp. Những người đang học việc khác cười nhạo cậu bé đã dại dột, đã chẳng được thêm chút tiền công nào lại còn tốn sức. Hai ngày sau, người khách trở lại, thấy chiếc xe đạp vừa tốt vừa đẹp như mới mua, cậu bé liền được người khách nhận đưa về hãng của ông ta để làm việc với mức lương cao.
Hóa ra để thành đạt trong đời thật đơn giản, chỉ cần tận tụy với công việc trước mắt, đôi khi chịu thiệt thòi một chút sẽ giúp ta thành công.
Có một thanh niên đến xin làm môn đệ của một vị hiền triết liền được vui vẻ chấp nhận. Lúc ấy có một người phong hủi lầm lũi bước ra. Nhà hiền triết liền nói với đồ đệ: “Con hãy đến giúp người phong hủi này tắm rửa cho sạch sẽ đi.” Người đồ đệ trố mắt ngạc nhiên: “Con là môn đệ của ngài, sao lại có thể đi phục vụ một con người bẩn thỉu như thế chứ ?” Nhà hiền triết bảo: “Con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao biết được con là… môn đệ của Ta ?
Hóa ra học hành tập luyện để nên giống thầy mình thật đơn giản, chỉ cần đem lòng thành thật ra mà phục vụ hết mình là được rồi.
Các môn đệ của Chúa khi thấy biển người bao la đã thấm đói và khát vì suốt một ngày phơi nắng nơi vùng đồng quê hẻo lánh. Rồi trời lại sắp tối. Các ông đã “bàn” rất hợp lý với Đức Giêsu rằng “lực bất tòng tâm”, tốt nhất là giải tán dân chúng để họ đi mua thức ăn! Nhưng Chúa Giêsu đã bảo họ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính chúng con hãy cho họ ăn đi.”. Các ông bàng hoàng sửng sốt vì biết đào đâu ra thức ăn cho bằng ấy ngàn người? Các ông đã thưa với Chúa: “Ở đây chúng con chỉ vỏn vẹn có năm cái bánh và hai con cá!”. Ấy thế mà khi đã đưa cho Chúa rồi thì “ai nấy đều ăn no nê” .
Hóa ra phép lạ không bỗng dưng mà có. Phép lạ chỉ xảy ra qua sự nỗ lực của con người, và Thiên Chúa hoàn tất những nỗ lực ấy theo thánh ý của Ngài.
Nhiều người chúng ta luôn ao ước có thể góp sức làm thay đổi thế giới. Chúng ta ao ước có thể làm những chuyện phi thường, những chuyện siêu phàm để mang lại hạnh phúc cho con người. Thế nhưng, điều ấy sẽ không bao giờ xảy ra vì chúng ta chỉ là người phàm nên chăng chỉ có thể làm những chuyện bình dị mà thôi! Điều mà chúng ta có thể làm thay đổi cả thế giới này là bằng chính những hành động nhỏ nhặt nhất của mình, những công việc của bổn phận, những công việc của tự nguyện hy sinh vì lợi ích tập thể đều là những công việc góp phần thay đổi thế giới. Vâng chúng ta chỉ cần làm một việc nào đó với tất cả sự yêu thương và tình cảm chân thành là chúng ta đang làm vơi đi những khổ đau, những gánh nặng cho tha nhân.
Khi chung tay giúp đỡ người khác chỉ với một hành động nhỏ thôi chúng ta cũng làm nên những điều to lớn đối với người nhận được sự giúp đỡ và cả những người xung quanh.
Giáo xứ chúng ta mỗi tháng ban Caritas đều đến thăm hỏi hơn 100 gia đình già, neo đơn, nghèo và chia sẻ cho họ một chút gạo trong chương trình chén gạo tình thương. Một chút gạo chẳng là bao nhưng mang nặng cả một tình yêu đùm bọc của giáo xứ dành cho người nghèo. Chén gạo của từng người tuy nhỏ nhưng được gom vào tay Chúa đã đem lại rất nhiều niềm vui cho người nghèo.
Thế nên, hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ nhặt nhất để thay đổi cuộc sống của chính mình và những người xung quanh. Nhiều người với những hành động nhỏ nhặt của mình đã làm thay đổi cả thế giới. Mẹ Tê-rê-sa thành calcutta là một ví dụ. Và hôm nay Đức Giáo Hoàng Phanxico vẫn đang là tấm gương phản chiếu tình yêu của Chúa qua những nghĩa cử bình dị mà ngài vẫn dành cho người nghèo, người bệnh tật . . .
Không cần làm những chuyện phi thường mà chỉ cần làm những việc nhỏ nhưng biểu lộ một tình yêu chân thành vẫn có thể làm vơi đi biết bao phiền muộn, đau khổ cho tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta luôn là những con người biết đóng góp phần nhỏ bé của mình để làm vơi những đau khổ, đói nghèo cho những người chung quanh. Amen.
Ăn uống là “đệ nhất khoái” trong tứ khoái của con người, ăn cũng là điều phải học đầu tiên trong đời của mỗi con người: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Thật lạ, ngay cả trong kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”, việc ăn uống cũng được coi là “mối thương” hàng đầu: “Thứ nhất: cho kẻ đói ăn, thứ hai: cho kẻ khát uống”. Điều đó cho thấy rằng việc ăn uống là nhu cầu cấp bách theo bản năng sinh tồn của con người. Trước tiên, người ta lo sao cho “ăn no, mặc ấm”, sau đó người ta cố gắng sao cho “ăn ngon, mặc đẹp”.
Có no cái bụng, không phải lo về những điều cơ bản nhất, rồi người ta mới lo những thứ khác. Quả thật, người ta vẫn thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Khi đói, Thằng Bờm không cần bất cứ thứ gì khác, dù đó là những thứ sang trọng hoặc quý giá, mà chỉ cần “nắm xôi”. Thế thôi. Người Anh diễn tả đơn giản:“That’s ALL”. Vâng, chỉ có nắm xôi mới có thể giải quyết nhu cầu cấp bách của cái bụng lúc đó.
Vì biết được nhược điểm của con người như vậy, có những người ác tâm đã lợi dụng người nghèo đói để bắt họ làm theo ý đồ xấu của mình bằng cách cho họ ăn uống. Miếng ăn là quan trọng, nhưng miếng ăn cũng có thể là VINH hoặc NHỤC.
Ở đời, chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Quyền lợi cơ bản là “miếng ăn”. Bất ngờ thấy ai cho mình cái gì thì cũng rất có thể họ muốn nhờ vả mình cái gì đó, chứ đâu dễ gì họ cho mình “ăn không”. Miếng ăn có điều kiện chứ không vô điều kiện hoặc miễn phí. Theo lẽ thường, nếu có cho ai cái gì thì người ta chỉ cho những gì thừa, nghĩa là chỉ ở mức “bố thí” chứ chưa được là “công bằng”, đừng nói chi “bác ái”. Quả thật, “chẳng có ai nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18; Lc 18:19). Kinh nghiệm sống đã và đang cho chúng ta biết rõ như vậy.
Thiên Chúa nhân lành mời gọi tất cả mọi người, không trừ ai: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55:1). Cứ đến “mua” mà không phải trả tiền. Một dạng “mua bán” rất kỳ lạ, đó là “mua” bằng giá trị của niềm-tin-chân-thành.
Trong cuộc sống đời thường, người ta có thể bỏ ra bạc triệu hoặc bạc tỷ để mua những thứ người ta ưa thích, dù ăn được hay không. Có những món ăn rất đắt, thuộc loại đắt nhất hành tinh. Ví dụ: Nấm trắng Alba của Ý có giá 160.406 USD/1,5 kg (khoảng 3,4 tỷ VNĐ), trứng cá muối Almas ở vùng biển Caspian có giá 25.000 USD/hộp (khoảng 530 triệu VNĐ), hoặc dưa lưới Yabari có giá 22.872 USD/quả (khoảng 486 triệu VNĐ). Những món này chúng ta có mơ cũng chẳng thấy được. Cỡ “đại gia” hạng bình thường ở Việt Nam cũng sẵn sàng uống những chai rượu có giá vài triệu đồng. Người ta biện hộ rằng làm như vậy để “chơi” cho biết, “chơi” cho thiên hạ “lé mắt”. Dù gì thì cũng thật là lãng phí quá!
Vì thế, Thiên Chúa đặt vấn đề: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng?” (Is 55:2a). Lương thực chỉnuôi sống phần xác chứ không thể nuôi sống linh hồn, thế mà người ta vẫn dám bỏ ra số tiền lớn để chỉ được thưởng thức cho khoái khẩu. Điều đó cho thấy ăn là điều thú vị lắm. Người ta chỉ lo đói thể lý mà không sợ đói tinh thần, đặc biệt là đói linh hồn. Đúng là tự mâu thuẫn và… dại dột quá!
Với lòng nhân hậu, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi: “Hãy chăm chú nghe Ta thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị” (Is 55:2b). Lời mời gọi đó không chỉ là lời mời gọi bình thường, mà còn mang tính mệnh lệnh và thực sự có lợi cho người được mời: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít” (Is 55:3).
Thiên Chúa rất hào phóng, luôn ban cho những điều tốt lành cho cả xác và hồn mà lại hoàn toàn miễn phí. Chúng ta lãnh không ngừng nhận và nhận nhiều mà vẫn vô ơn bội nghĩa, thế nhưng Ngài vẫn làm ngơ, không chấp. Tại sao? Bản chất Ngài là tốt lành, là yêu thương, là thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Thật lạ, Ngài không chỉ nhân hậu với “động vật cấp cao” là con người, là chúng ta, mà Ngài còn “nhân hậu với muôn loài” mà Ngài đã dựng nên.
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rõ. Có những lúc chúng ta chưa xin, hoặc xin được rồi mà lại “phủi tay”, kiểu “qua cầu rút ván”, như chuyện “mười người phong hủi được sạch, nhưng chỉ có một người Samari trở lại cảm ơn Chúa” (Lc 17:11-18), ấy thế mà Ngài vẫn không bỏ đói chúng ta bữa nào. Chúng ta có thấy mình quá tệ? Ước gì mỗi chúng ta biết kịp nhận thức như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145:15-16). Thiên Chúa toàn năng, không gì là không thể, Ngài vô cùng đại lượng và nhân hậu, nhưng cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:17-18).
Cái NGHÈO luôn đi đôi với cái KHỔ, nhưng cái khổ chưa chắc là tại cái nghèo, vì có những người giàu mà vẫn khổ. Cái nghèo và cái khổ có thể là MỐI PHÚC đối với người này, nhưng lại có thể là MỐI HỌA đối với kẻ khác. Có những người “đói ăn vụng, túng làm liều”, nhưng cũng có những kẻ “nhàn rỗi sinh nông nổi”. Người ta có đủ cách để tự biện hộ cho những hành vi sai trái của mình. Phải thực sự tin mến Chúa thì mới không bị chao nghiêng trước nghịch cảnh. Để nhận biết mình ở mức độ nào trong hành trình tâm linh, chúng ta hãy tự trả lời thật lòng với câu hỏi của Thánh Phaolô:“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:35).
Chắc chắn không dễ trả lời. Và đây, Thánh Phaolô hiến kế cho chúng ta: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:37-39). Đó là biết lo cho cái đói của linh hồn. Ai sống kiên tâm được như vậy thì thật là đại phúc!
Chúa Giêsu lo chúng ta bị đói cả thể lý lẫn tinh thần. Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Mt 14:13-21) kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất (cũng được tường thuật ở Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; và Ga 6:1-14) mà Chúa Giêsu đã làm vì “chạnh lòng thương” dân chúng.
Nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê ra lệnh chém đầu vì vua lỡ hứa dại với con gái của bà Hê-rô-đi-a, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó và đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành vẫn nườm nượp đi bộ mà theo Ngài. Ra khỏi thuyền, Ngài trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Hoàng hôn buông nhạt nắng, chiều gần chạm vào đêm, cái bụng ai cũng đang đánh lô-tô, nghĩa là đến giờ ăn tối rồi. Có lẽ các môn đệ cũng thấy “bụng reo” rồi, nên lại gần thưa với Sư Phụ Giêsu: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14:15). Nhưng Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14:16). Ui da, “căng” thật đấy! Có lẽ lúc này nhìn các ông “tội nghiệp” lắm. Họ nhìn nhau, vừa gãi đầu vừa nói: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” (Mt 14:17). Mèn ơi, đó là đồ ăn thằng nhỏ mang đi phòng thân, mà có nhiêu đó thì nhằm nhò gì với đám đông như kiến thế kia chứ?
Nhưng Sư Phụ Giêsu thản nhiên bảo họ: “Đem lại đây cho Thầy!” (Mt 14:18). Rồi Ngài truyền cho dân chúng “ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6:39). Sau đó, Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và Ngài bảo các môn đệ phân phát cho dân chúng cùng ăn.
Thánh sử Mát-thêu cho biết chi tiết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” (Mt 14:20-21).
Phép lạ này được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống thể xác dân chúng. Phép lạ vĩ đại nhất và quan trọng nhất được Chúa Giêsu thực hiện để nuôi sống linh hồn chúng ta là Phép lạ Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể vừa là thấn lương vừa là linh dược. Phép lạ vĩ đại này hằng ngày vẫn xảy ra khắp nơi trên thế giới, thế nhưng người ta lại thích đua nhau đi tìm các “sự lạ” khác ở nơi này hoặc nơi nọ. Thật là mâu thuẫn quá, thế mà vẫn nói rằng “tôi tin”. Đức Tin như vậy có lẽ rất cần “xét lại” lắm đấy!
Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Chúa luôn ban cho lương thực nuôi xác dưỡng hồn để chúng con được sống dồi dào. Xin giúp chúng con sống Đức Tin cụ thể là biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời của chúng con, biết TẠ ƠN Ngài, rồi BẺ RA và TRAO CHO tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ và hèn mọn, vì nhu cầu của họ rất cấp bách. Như vậy thì chúng con mới sống Luật Chúa, biết chạnh lòng thương, biết sống yêu thương và thể hiện lòng thương xót theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Bài Tin Mừng và hai bài đọc hôm nay đều nói về lòng Chúa thương xót, trong đó Niềm Tin đã được thánh Phaolô làm nổi bật nhất. Có niềm tin thì không gì có thể ngăn cản chúng ta tách rời khỏi Thiên Chúa. Có Thiên Chúa, cuộc sống của chúng ta sẽ sung mãn cả tinh thần lẫn vật chất. Của cải Chúa ban cho chúng ta là những phép lạ mà con người không thể tưởng tượng nổi. Chỉ năm cái bánh và hai con cá mà cho cả ngàn người ăn no lại còn thừa 12 thúng. Làm sao để có được như vậy?
KHÔNG GÌ CÓ THỂ NGĂN CẢN CHÚNG TA RỜI KHỎI THIÊN CHÚA
Bài đọc 2 thư gửi tín hữu Rôma hôm nay (Rm 8:35-39) là một trong những đoạn được nhiều người ưa thích nhất. Phaolô có một niềm tin sắt đá, lúc vui cũng như khi buồn, lúc bệnh hoạn cũng như khi khỏe mạnh. Tình yêu của ngài đối với Chúa Kitô chịu chết là một giao ước với Thiên Chúa không hề suy xuyển, một bảo đảm cho tình yêu cứu chuộc loài người của Thiên Chúa: “Cái gì có thể ngăn cách chúng ta khỏi tình yêu của Đức Kito?”(Rm 8:35). Đây là một câu hỏi nóng bỏng phát xuất tự đáy lòng đầy nhiệt huyết của một tôi tớ Chúa, một người được Thiên Chúa kêu gọi để thi hành một sứ mệnh cao cả, một câu hỏi của một người trưởng thành có nhận thức và cảm nghiệm sâu xa về Giáo Hội ngay từ bên trong, cũng có những xấu xa tội lỗi, nạn chia rẽ và tranh chấp. Đó là dấu chỉ về một Kitô hữu từng hiểu biết những thực tế đau thương nhưng vẫn nuôi hy vọng.
CHỈ CÓ 5 CÁI BÁNH MÀ CẢ NGÀN NGƯỜI ĂN NO
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong Mátthêu là phép lạ duy nhất Chúa Giêsu làm đã được thuật lại trong tất cả bốn Tin Mừng (Mt 14:31-21; Mc 6:31-44; Lc 9:10-17; Ga 6:5-15). Câu chuyện xẩy ra tại Tabgha, nơi có 7 dòng suối ở phía Tây Bắc biển hồ Galilê. Bài Tin Mừng hôm nay là biểu tượng của phép Thánh Thể và bữa tiệc mừng sau cùng của Vương quốc Nước Trời (Mt 8:11; 26:29). Bài đọc này không chỉ giúp ta nhìn về tương lai mà cả quá khứ Thiên Chúa đã từng nuôi ăn dân Do Thái trong sa mạc bằng manna khi họ thoát khỏi Ai Cập (Xh 16), một phép lạ mà dân Do Thái hiện nay nói là đã xẩy ra ở thời thiên sai. Những mảnh vụn bánh còn dư (Mt 14:20) lại khiến ta nhớ tới phép lạ Elisha với 20 cái bánh mà cả trăm người ăn no (2V 4:42-44). Danh từ “mảnh vụn” tiếng Hy Lạp là klasmata, ở số ít có nghĩa bánh thánh bẻ ra từng mảnh nhỏ như nói trong sách giáo huấn của 12 Tông đồ / Didache 9:3-4 .
Phép lạ này Chúa Giêsu làm là do “lòng trắc ẩn yêu thương” của Chúa đối với dân chúng. Như nhiều trường hợp khác, khi thấy đám dông đói khát, Đức Giêsu động lòng thương nên ban thức ăn cho họ. Ơn phúc dồi dào do Thiên Chúa ban còn có nghĩa Chúa quan phòng chúng ta về những nhu cầu căn bản hàng ngày. Ngoài ra còn có tính thiên sai, bởi vì chủ tọa bữa tiệc không ai khác ngoài Đức Giêsu Kitô là đấng Thiên Sai.
Số người tham dự bữa tiệc là 5 ngàn người không kể đàn bà trẻ nít (14:21) cũng rất đặc biệt. Thực ra tổng số người có thể lên tới 12 hay 13 ngàn! Dân số Do Thái ở Palestine thời Đức Giêsu có chừng nửa triệu, như vậy cỡ 1/10 dân số đã được Chúa nuôi ăn lúc đó. Do đó phép lạ rất có ảnh hưởng về mặt chính trị. Dân Do Thái đã được Thiên Chúa cho thừa hưởng gia nghiệp như đã hứa với 12 chi họ Israel, do đó bữa tiệc có thể biến cải cả vương quốc thiêng liêng lẫn đời sống kinh tế xã hội nữa.
CHÚA BỊ CÁM DỖ VÀ DÂN CHÚNG ĐÓI KHÁT
Nếu so sánh phép lạ 5 cái bánh và hai con cá với cảnh Đức Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc, chúng ta sẽ thấy hai trường hợp gần như đi song hành với nhau nhưng kết thúc lại khác nhau. Một bên là cảnh hoang giã cô tịch và đói khát, một bên ồn ào, dân chúng đông đúc cần thức ăn. Dù không có ma quỉ can dự vào phép lạ hóa bánh, nhưng có thể có nhiều cạm bẫy sẵn sàng xập xuống đời sống tâm linh của những người hiện diện. Lúc đầu, Đức Giêsu đã ngừng giảng và đi cầu nguyện để lấy lại sức. Nhưng thấy dân chúng đói, cần thức ăn, Chúa đã không cho giải tán họ, mà thay đổi chương trình cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Trong những hoàn cảnh cấp bách, chúng ta đã chăm lo đời sống tâm linh và vật chất của chúng ta thế nào? Trước một đám đông cả ngàn người đang nhao nhao kêu đói kêu khát dưới bầu trời nóng bức có lẽ Đức Giêsu đã nhớ lại việc ma quỉ cám dỗ người trong sa mạc và câu Người đã nói: “Con người sống không phải chỉ bằng cơm gạo mà còn bằng Lời Hằng Sống”. Lúc này, đám đông đang đói khát, cái họ cần có phải là lời hằng sống không? Dĩ nhiên họ cần lời hằng sống. nhưng một ngày không có cơm ăn cũng chẳng ai chết. Vậy Chúa làm gì cho dân chúng lúc bấy giờ?
Hẳn Chúa Giêsu không có ý so sánh việc người toàn thắng cơn cám dỗ trong hoang địa với cảnh đói khát của đám đông. Nhưng Người thấy những nhu cầu cấp thiết của họ nên đã động lòng trắc ẩn….
Ý NGHĨA 5 CÁI BÁNH VÀ 2 CON CÁ
Thế giới ngày nay có quá nhiều người nghèo, thức ăn lại không đủ. Hành động bác ái của chúng ta giải quyết được gì khi vẫn còn quá nhiều người chết đói? Với 5 cái bánh và 2 con cá, cùng lắm thêm một cóng nước lạnh hay mấy đồng xu của người góa phụ, chúng ta giúp được gì cho họ? Nhưng Thánh Têrêsa thành Calcuta đã nói: “Việc chúng ta làm chỉ là một giọt nước trong biển cả. Nhưng nếu giọt nước đó không còn trong biển thì nước biển sẽ ít nước đi, vì giọt nước đó đã mất đi rồi.” Đức Giêsu đã nói với các môn đệ hãy chia cho đám đông những gì mình có. Các ông đã thưa với Chúa “Chúng con chỉ có 5 cái bánh và 2 con cá thôi.” Chúa Giêsu đòi hỏi cái sở hữu nghèo nàn ấy của các ông phải được trải rộng tối đa.
DẤU ẤN CỦA TINH THẦN KITÔ GIÁO
Ba tác động của Mátthêu nhìn về thiên đàng là những khuôn mẫu tuyệt đẹp mà chúng ta có thể áp dụng trong đời sống hàng ngày trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hướng về thiên đàng có nghĩa là tiếp cận với Thiên Chúa bằng cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa vì những gì Chúa ban cho ta, rồi đem chia sẻ với tha nhân. Sống cuộc sống Chúa ban bằng cách chia sẻ nó cho tha nhân chính là dấu ấn của người Kitô hữu. Bài Tin Mừng hôm nay nói lên dấu ấn của tinh thần Kitô giáo. Nó liên hệ với việc nâng tâm trí mình lên với Thiên Chúa bằng cầu nguyện, tạ ơn và ca tụng Người vì những gì ta có, rồi đem chia sẻ cho tất cả mọi người.
HÃY ĐẾN VỚI TA…, CÁC NGƯƠI SẼ ĐƯỢC SỐNG!
Đừng bao giờ quên rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thì luôn luôn trải rộng đến mọi dân tộc, mọi quốc gia trên khắp địa cầu. Qua người, mọi ơn phúc đã được bảo đảm cho vua Đavít đều được đổi mới. Hãy để Lời Chúa qua tiên tri Isaia (55:1-3) linh hứng cho chúng ta và làm cho chúng ta trở nên can đảm để hành động:
“Những ai khát, hãy đến mà uống! “Những ai không tiền, hãy đến mà nhận thức ăn “Hãy đến, không phải mua, không tốn kém gì cả “Hãy uống rượu và sữa! “Tại sao lại tốn tiền mua những thứ không phải là bánh ăn, ….phí của trời cho những thứ không làm no bụng? “Hãy nghe ta và các ngươi sẽ có thức ăn ngon lành ….cao lương mỹ vị thỏa thích. “Hãy đến với Ta, vảnh tai lên mà nghe ….các ngươi sẽ được sống.” (Is 55:1-3)
Dịp Hành hương Thánh Địa, chúng tôi có ghé thăm miền đất Tabgha với nhiều địa danh quen thuộc được kể trong Phúc Âm.Vùng Tabgha màu mỡ trải dọc theo hướng Tây Bắc bờ Biển hồ Galilê. Tên Tabgha bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Heptapegon” nghĩa là “7 con suối” và được thu gọn lại theo tiếng Ả Rập là Tabgha.
Theo truyền thống, tại miền đất này đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu: Phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều; Chúa giảng Bài giảng trên Núi; sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ và trao quyền lãnh đạo cho Simon Phêrô…
Chúng tôi đến thăm “Nhà Thờ Bánh Hóa Nhiều”, giữa một khu vườn rất nhiều cây ôliu và hoa cỏ xanh tươi xinh đẹp. Ngôi Nhà thờ nguyên thủy được xây dựng dưới thời Byzantine, trong nhiều giai đoạn khác nhau và được trùng tu vào các thế kỷ sau đó. Nhà thờ vẫn còn lưu giữ một sàn nhà khảm đá (mosaic) đã được khám phá tại Thánh địa. Có lẽ biểu tượng nổi bật nhất, nằm ngay trên đỉnh của bức tranh phía dưới bàn thờ chính là 4 chiếc bánh và 2 con cá, kính nhớ việc Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ tại đây.
Khi chiêm ngắm bức họa với 2 con cá và 4 chiếc bánh, ai cũng hỏi tại sao lại 4 mà không phải là 5 chiếc bánh như Phúc Âm đã kể? Đây là một sự “thiếu sót” có chủ ý của nghệ nhân khi làm nên bức hình đó. Vì chiếc bánh thứ năm không nằm trong giỏ nhưng nằm trên bàn thờ, đó chính là Mình Thánh Chúa mỗi khi thánh lễ được cử hành trên bàn thờ này.
Người Ba Tư xâm chiếm vùng này và phá hủy Nhà thờ vào năm 614. Vương cung Thánh đường mới được xây dựng trên nền cổ của ngôi Nhà thờ, vẫn còn giữ nguyên phong cách cũ đồng thời kết hợp hài hòa những nét cổ xưa và hiện đại. Ngày nay, các thầy dòng Biển Đức chăm sóc ngôi Nhà thờ này.
Chúng tôi đọc Phúc Âm câu chuyện phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều và thinh lặng suy niệm. Matthêu chương 14 mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: bữa tiệc sang trọng với cái đầu của Gioan Tẩy Giả và bữa tiệc của dân nghèo với 5 cái bánh và 2 con cá.
Mt 14,1-12: Tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quý phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời: quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, thức ăn cao lương mỹ vị, rượu ngon thoả thích, vũ nữ duyên dáng chân dài chân ngắn…và có cả hận thù ích kỷ, máu đổ đầu rơi.
Mt 14,13-21: Tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Đây là phép lạ của tình thương. Các môn đệ cũng đóng vai trò quan trọng là cộng tác với Chúa, đi phân phát thức ăn cho dân chúng. Mọi người chia sẻ cho nhau, bánh và cá cứ thế mà tiếp tục nhiều lên. Chúa không làm phép lạ một núi bánh và cá cho mọi người đến lấy. Chúa làm phép lạ khi mọi người liên đới với nhau, cùng bẻ ra và trao cho nhau. Bữa ăn hôm đó là một biểu tượng của bữa tiệc Thánh Thể. Không còn ranh giới, không còn giai cấp, không còn kẻ trên người dưới. Một tinh thần hoà đồng, tất cả đều là anh chị em trong Chúa Giêsu. Trong tiệc Thánh Thể, người ta tìm thấy bình an và nguồn hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn. Người ta tận hưởng hoa trái tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, người ta nhận biết giá trị của bình an nội tâm do ân sủng Chúa ban đến.
1. Bánh Trường Sinh
Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể: "Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ" (Mt 14,20). Trong Tiệc Ly "Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng" (Mc 14,22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu ( Lc 24, 30) và của Giáo hội (Cv 2, 42).
Ðược bánh ăn, dân chúng muốn "bắt lấy Ngài tôn lên làm vua" (Ga 6,15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh "Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi" (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ" ( Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là "Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
"Bánh Ta sẽ ban" hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá luôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
2. Bánh Lời Chúa:
"Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ" (Dt1, 1). Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay "Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân" (Lc 9,2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ "Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn" (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên "khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng". Thế là, con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá; con người yếu đuối công bố Lời quyền năng; con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao.
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng "do nhân" (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ, đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bởi Thừa tác viên chính thức. Lời Bí Tích mang hiệu năng "do sự" (ex opere operato), qua các bí tích Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: "Không ai có thể tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần" (1Cor 12,3) và "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công"(Tv 127,1).
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Chúa chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Ðồng thời cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nỗ lực để chu toàn sứ vụ.
3. Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Ðổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của mình.
Ðến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. Linh mục đọc Lời Truyền Phép là Lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến. Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô. "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (Ga 6,35). "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" (Ga 6,51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
Trong cuộc sống có biết bao nhu cầu cần thiết, như ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, nhu cầu được chữa lành bệnh tật phần hồn và phần xác, nhu cầu học tập, trau dồi kiến thức..., nhất là nhu cầu được sống và sống hạnh phúc.
Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mesia đến cứu độ trần gian, vì yêu thương nhân loại, Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu của con người. Sau những lần đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cảm thấy mệt nhọc, Ngài cũng có nhu cầu được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng lấy lại sức và cầu nguyện, nên sau khi rao giảng, "Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt" (Mt 14, 13-21). Dân chúng cũng có nhu cầu được lắng nghe lời Chúa, khao khát được nghe những lời hằng sống của Chúa. Khi thấy Chúa Giêsu lên thuyền rời xa họ, dân chúng đã đoán được nơi Ngài sẽ đến. Vì vậy, họ đã đi theo Người: "đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người" (Mt 14, 13). Dân chúng đã đi và đến trước nơi Chúa đến. "Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ" (Mt 14, 14).
Chúa "chạnh lòng thương" là phản ứng của người có lòng trắc ẩn, hay thương xót, cảm thông với những nhu cầu, với những hoàn cảnh éo le, đau khổ của đám đông dân chúng. Vì thế, mặc dù chính Chúa cũng có nhu cầu đang cần được nghỉ ngơi, cần ở một mình để cầu nguyện với Chúa Cha, nhưng Ngài đã quên nhu cầu của mình mà lo cho những nhu cầu của đám đông. Ngài đã đón tiếp họ và "chữa lành các bệnh nhân của họ". Chúa không chỉ chữa lành bệnh tật phần xác, Ngài còn chữa lành bệnh phần hồn. Ngài giảng dạy họ nhiều điều, an ủi động viên và nhất là ban cho họ lời hằng sống. Đám đông say mê lắng nghe Lời Chúa quên đi mệt nhọc, quên cả đói, quên cả thời gian, làm các môn đệ của Chúa phải lo lắng. Các ông thấy trời đã xế chiều nên lại gần thưa với Chúa Giêsu: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn" (Mt 14, 15).
Thấy dân chúng đói khát, ốm đau bệnh tật phần hồn phần xác, Chúa Giêsu "chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ". Ngài chữa lành cả phần hồn phần xác. Vì vậy, trước lời đề nghị của các môn đệ là "giải tán đám đông", để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Vì yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu không nỡ để họ nhịn đói mà về, sợ họ bị xỉu dọc đường: "Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến" (Mc 8, 3). Chúa đã yêu cầu các môn đệ cho họ ăn: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn" (Mt 14, 16). Các môn đệ không hiểu được ý định của Chúa, các ông hiểu một cách rất thực tế, vì các ông không có đủ tiền để mua bánh cho đám đông chừng năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và con trẻ. Nhu cầu của đám đông thì quá lớn, khả năng của các ông thì quá hạn hẹp, nên các ông đã thưa với Chúa: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!" (Mt 14, 17). Chúa đã mời gọi các ông cộng tác với Người để nuôi dưỡng dân chúng bằng cả việc chữa trị, nuôi dưỡng phần hồn và phần xác, nên "Người bảo: 'Đem lại đây cho Thầy!' Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ để họ trao cho dân chúng" (Mt 14, 19-20). Vì chạnh lòng thương Chúa không nỡ để đám đông dân chúng ra về trong tình trạng mệt nhọc đói khát. Chúa đã cầm lấy năm cái bánh và hai con cá để làm phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Sau khi nhân bánh ra nhiều Chúa sai các môn đệ phân phát cho dân, "ai nấy đều được ăn no nê" (Mt 14, 20).
Qua việc Chúa làm phép lạ "hóa bánh ra nhiều" Chúa mạc khải cho ta biết quyền phép vô biên và lòng thương yêu vô cùng của Chúa đối với loài người chúng ta. Chúa luôn quan tâm đến mọi nhu cầu vật chất, tinh thần và tâm linh của con người. Chúa hy sinh thì giờ, sức khỏe, hy sinh cả những nhu cầu riêng tư để giảng dạy, chữa bệnh phần hồn, phần xác cho dân chúng. Vậy, chúng ta chạy đến với Chúa, lắng nghe Người giảng dạy, hãy đặt hết niềm tin tưởng, vững lòng trông cậy, phó thác mọi sự trong tay Chúa, vì Người quyền phép vô biên và yêu thương vô cùng. Người không nỡ để những ai, khiêm tốn biết chạy đến với Người và hết lòng tin tưởng, phó thác nơi Người phải đau khổ, ốm đau bệnh tật, đói khát phần hồn phần xác. Chúa sẽ ra tay chữa lành những bệnh tật phần xác, ban lời hằng sống để chữa lành bệnh tật phần hồn. Ngài ban cho chúng ta của ăn nuôi dưỡng phần xác và mọi nhu cầu chính đáng trong cuộc sống trần gian.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi xưa: "chính anh em hãy cho họ ăn" (Mt 14, 16), vẫn luôn là lệnh truyền của Chúa đối với chúng ta hôm nay: "chính anh em hãy cho họ ăn". Bởi thế giới hôm nay còn biết bao người đói khát về mọi mặt: về tâm linh về tinh thần và vật chất. Là kitô hữu, chúng ta có bổn phận đem Tin Mừng giới thiệu cho người chưa biết Chúa, họ là những người đói khát "đói khát tâm linh", giúp họ tìm đến với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và được "no say lời Chúa", được hưởng ơn cứu độ Người ban và được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời. Với những người đau buồn sầu khổ "đói khát tinh thần", chúng ta hãy học nơi Chúa gạt bỏ nhu cầu riêng tư để lắng nghe những ai cần chia sẻ, biết nói lời an ủi, động viên, khích lệ, làm cho cuộc sống của tha nhân được vui tươi phấn khởi. Với những người nghèo đói vật chất, chúng ta có bổn phận chia cơm sẻ áo, làm phúc bố thí giúp cho người nghèo đói, những người cô đơn, tàn tật có cơm ăn, có nước uống, người ốm đau có thuốc chữa bệnh. Chúng ta luôn có bổn phận làm thế giới này bớt đi người đau khổ do thiếu hiểu biết, do chưa biết Chúa, không được lắng nghe Lời Chúa, do thiếu những lời ủi an chia sẻ, do thiếu lương thực, nước uống, do thiếu thuốc chữa bệnh…
Trong lúc Gio-an Tẩy Giả đang ở trong tù, Đức Giê-su đã làm chứng về sự cao trọng của Gio-an mà không một phàm nhân nào sinh ra bởi người nữ có thể sánh được với ông. Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận ra tình cảm và sự quý mến mà Đức Giê-su dành cho Gio-an Tẩy Giả, nhất là tính cương trực và lòng can đảm khi làm nhân chứng cho sự thật của ông. Vì thế khi nghe tin Gio-an bị hành quyết, Đức Giê-su cảm thấy có một sự mất mát và buồn phiền. Người đã mất đi một người anh họ, một người bạn, người chiến hữu đã dùng cả cuộc đời để giới thiệu Đấng Cứu Thế cho người khác.
Ngoài ra, cái chết của Gio-an có thể coi như một lời nhắc nhở cho Đức Giê-su nhớ lại sứ mạng và kết cục của một ngôn sứ là như thế: sống thì bị ngược đãi, bị bỏ tù và cuối cùng là cái chết. Do đó, chúng ta có thể hiểu ý định rút lui vào nơi vắng vẻ mà Đức Giê-su muốn thực hiện ở đây. Người muốn có thời gian thinh lặng để đối diện vơi sự mất mát do cái chết của Gio-an tẩy giả gây ra, mặt khác đây cũng là thời gian để Đức Giê-su suy nghĩ và cầu nguyện về con đường và sứ mạng mà Người đang thực hiện. Hơn thế nữa, mỗi khi bước vào cõi thinh lặng là cơ hội để Đức Giê-su gặp Thiên Chúa, Cha của Người.
Tuy nhiên, ý định và nhu cầu của Đức Giê-su đã không xẩy ra. Cái chết của một ngôn sứ vĩ đại như Gio-an đã gây ra một chấn động cho môn đệ của ông và những ai đi theo Ngài. Họ cũng buồn phiền và đau khổ. Vì thế, họ cũng muốn theo chân Đức Giê-su rút lui vào hoang vắng. Người đi đâu thì họ đi đến đấy. Họ hy vọng chính Chúa sẽ làm cho họ vơi đi nỗi buồn phiền và mất mát mà họ đang phải đối diện. Còn Đức Giê-su, khi nhìn thấy đám đông theo Người như thế thì chạnh lòng thương, con tim của Người như bị ai đâm thấu vậy. Người trước tiên chữa lành một số bịnh nhân trong nhóm họ, và sau đó là cho họ ăn. Lòng thương xót và sự quan tâm của Đức Giê-su không dừng lại ở ý nghĩ mà còn được Người thực hiện bằng hành động: Qua việc chữa lành Người trao cho họ niềm hy vọng và tựa nương vào Chúa. Với việc nuôi ăn, Người bảo đảm họ sẽ không bị chết đói.
Đức Giê-su muốn truyền cho các môn đệ tấm lòng và sự quan tâm đến nhu cầu của tha nhân. Lòng thương xót không chỉ được diễn tả bằng lời nói mà thôi, nhưng còn được thể hiện bằng hành động. Để diễn tả cho ý tưởng này, xin kể cho anh chị em một mẩu truyện ngắn, có lẽ các nhân vật và chi tiết trong câu chuyện không có thật; nhưng tình tiết và bài học mà truyện kể đem lại thì rất thật. Truyện kể như sau:
Tại một làng nọ, có một người làm chủ một trang trại với đầy ngô khoai. Mỗi buổi sáng, sau khi thức dậy ông và gia đình đều dâng lời cầu nguyện cho những kẻ đói ăn có đủ lương thực dùng hằng ngày. Nhưng mỗi khi có ai đến xin ăn thì ông đều từ chối và không muốn cho đi những gì ông đã dự phòng trong kho lẫm nhà mình.
Vào một ngày kia, sau khi nghe cha mình cầu nguyện cho người nghèo và người túng thiếu, cậu con út của ông mới thưa với ông rằng: “Thưa Ba, con ước gì có được số lượng dự trữ ngô và khoai của Ba.” Người cha mới hỏi lại cậu muốn có ngô và khoai để làm gì? Cậu đáp lại “con muốn có ngô và khoai để đáp trả lời cầu nguyện của Ba.”
Ông Bố thương xót người nghèo khổ và túng thiếu bằng lời cầu nguyện. Nhưng cậu út của ông lại muốn nhắc nhở ông rằng lời cầu nguyện của bố cậu cho những kẻ đói ăn chưa đủ. Bố của cậu cần diễn tả lòng thương xót của ông bằng việc làm nữa. Đó là việc mà Đức Giê-su muốn dậy các môn đệ qua việc làm cho Bánh hóa nhiều hôm nay!
Thưa anh chị em,
Tuy nhiên, làm thế nào để có đủ lương thực nuôi ăn một số đông như thế khi trời đã chập choạng tối và nơi họ đang tụ họp lại hoang vắng và cách xa thị trấn hay làng mạc; vì thế việc tìm kiếm lương thực quả thật khó khăn cho các môn đệ. Lý do của các Tông Đồ đưa ra quả thật rất đáng thuyết phục. Nhưng khi nại vào các lý do như thế, các Tông đồ cho chúng ta biết rằng các ông tuy là những người bạn hữu thân thiết với Đức Giê-su, nhưng các ông vẫn chưa học được bài học quên mình và quan tâm đến người khác.
Các lý do của các môn đệ đã không làm thay đổi ý định của Đức Giê-su. Người biết sẽ phải làm gì. Người truyền lệnh cho các môn đệ “hãy cho họ ăn.” Khi nghe Chúa phán như thế, các môn đệ không thể nghĩ ra làm thế nào mà họ có thể nuôi ăn một đám đông như thế. Tất cả những gì họ có chỉ là năm chiệc bánh và hai con cá, với ngần ấy lương thực thì làm sao đủ cho năm ngàn người ăn. Nhưng, các môn đệ còn bỏ sót một yếu tố thật quan trọng, đó là sự hiện diện của Đức Giê-su, Đấng có thể làm mọi sự, đang hiện diện giữa họ.
Sau đó, Đức Giê-su cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá. Thực phẩm chỉ vọn vẹn có bấy nhiêu thì ai ăn ai nhịn đây. Nhưng đó lại là tất cả những gì các môn đệ có. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. Kết quả là ai ai cũng hài lòng vì được ăn no. Có lẽ Người hài lòng nhất là chính Đức Giê-su. Giống như dân Is-ra-el khi xưa, trong hoang địa đã được Thiên Chúa nuôi ăn bằng manna và nước uống thế nào thì hôm nay qua việc phân phát bánh, Đức Giê-su cũng nuôi những ai đã bỏ hết mọi sự, vất vả theo chân Người được ăn no nê.
Thưa anh chị em,
Các cử chỉ như đón nhận, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban hôm nay chỉ được ghi lại một lần khác; đó là trong bữa tiệc ly Người đã san sẻ bánh và rượu cho các môn đệ. Bánh và rượu đây là dấu chỉ tượng trưng cho Thịt và Máu của Người như Đức Giê-su đã phán: “Ta là bánh trường sinh và ai đến với Người sẽ không đói bao giờ.
Bánh, của ăn và thực phẩm là những thực vật nhằm nuôi dưỡng và làm cho con người được lớn lên. Con người cần đến nó để duy trì sức khỏe và sự sống. Nhưng ý nghĩa của bữa ăn không nhằm đến việc ăn cho đầy bụng. Đói quá thì cũng chết mà ăn no quá thì bội thực và cũng chết. Việc của chúng ta là biết ăn. Bữa ăn là cơ hội để xây dựng tình nghĩa, thể hiện tình yêu, cùng san sẻ và chia vui những thành công trong đời và qua bữa ăn con người còn đến gần và thông cảm nhau hơn; từ đó cộng đoàn được gầy dựng một cách thật tự nhiên. Đây là một biểu tượng vô cùng phong phú qua mọi thời đại, đến nỗi Đức Giê-su cũng không bỏ quên nó. Người đã dùng nó như một phương tiện để nói lên lòng quan tâm và lo lắng của Người dành cho chúng ta.
Trình thuật ‘Bánh hóa Nhiều’ hôm nay là thế. Biến cố này nói lên tình yêu của Người dành cho những ai đã theo Người. Sự kiện này còn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng những gì chúng ta có được để duy trì cuộc sống thể lý của chúng ta đều được ban tặng từ Chúa; và sau cùng Người còn là bánh trường sinh nuôi dưỡng toàn bộ con người chúng ta.
Giống như thức ăn có thể dẫn chúng ta đến gần nhau và nhiều việc được bắt đầu và tiến đến thành tựu qua bữa ăn thế nào thì của ăn mà Chúa ban phát cũng làm cho chúng ta trở nên thành viên của một cộng đoàn thuộc về Người, nhất là giúp chúng ta nhận thức rằng qua đó chúng ta nên những người bạn thân tình với Chúa và với nhau.
Tuy nhiên, họ và chúng ta vẫn còn gặp trở ngại; như hai môn đệ trên đường Em-mau, chúng ta có thể biết kế hoạch của Chúa, chứng kiến việc Chúa chết, nghe các bạn nói rằng Người đã sống lại và hiện ra với họ… Nói chung là giống như họ, chúng ta biết rất nhiều, biết rất rõ những kế hoạch và gần như là biết mọi sự; nhưng lại quên sự hiện diện của Đấng trở thành của ăn cho chúng ta; cho nên chúng ta e ngại vì thấy mình đứng trước những nhu cầu quá lớn lao của con người. Nhìn chung quanh vẫn thấy bao người đói khổ. Hàng giây, hàng phút vẫn còn bao nhiều sinh mạng nhất là các trẻ em bị chết đói trên thế giới này. Thế mà, trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực.
Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; trao cho Người những cố gắng thật khiêm tốn của chúng ta thì việc làm cho ‘Bánh Hóa Nhiều’ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể làm hài lòng người khác bằng lòng quảng đại và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng ta có; thế là quá đủ cho chúng ta rồi. Thế mà chúng ta lại không dám, cứ khư khư giữ làm của riêng cuối cùng mọi người, cả chúng ta nữa, đều bị đói khát.
Như vậy, hãy nhớ rằng chúng ta còn nhiệm vụ phải chu toàn. Nhiệm vụ đó là được gửi đi, gặp gỡ những người mà chúng ta chưa biết. Đến với nhau bằng tấm lòng rộng mở và cùng nhau chia sẻ một nhịp đập, cùng tiến về một mục tiêu. Mục tiêu đó được phát sinh từ những lần chúng ta cùng nhau tham dự tiệc bẻ bánh và trao ban của ăn cho nhau thì ai trong chúng ta còn bị thiếu thốn và đói khát nữa. Ai ai cũng hài lòng, người hài lòng nhất có lẽ là Chúa và như thế là đủ cho chúng ta rồi. Amen!
Cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có hai giai đoạn: Giai đọan 1 là thời ẩn dật kéo dài 30 năm từ thời thơ ấu sang thời trưởng thành. giai đọan 2 là thời công khai kéo dài 3 năm. Trong mỗi giai đoạn kể trên có một biến cố có tầm quan trọng đạc biệt và giống hết nhau: Đó là câu chuyện Chúa Giêsu đi lễ đền thờ Giêrusalem lúc 12 tuổi trong giao đọan 1 và câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trong giao đọan 2. Cả hai biến cố hay câu chuyện đều khẳng định Thiên-Chúa-tính của Chúa Giêsu. Trong câu chuyện thứ nhất Chúa Giêsu tỏ ra thông thái khác thường và khẳng định Người phải lo việc của Cha. Trong câu chuyện thứ hai Chúa Giêsu được Cha giới thiệu là Con Yêu Dấu của Người và đáng được các môn đệ nghe lời.
Chúng ta hãy chăm chú đọc bài Phúc âm Chúa Nhât XVIII Thường Niên A hôm nay trong Mt 17,1-9 và tìm xem biến cố ấy có ý nghỉa gì.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 17,1-9: Khi ấy, Chúa Giêsu gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây ông Môsê và Êlia hiện ra và đàm đạo với Người.
Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại".
III. BÀI VIẾT VỀ LỄ HIỂN DUNG CỦA ĐỨC TỖNG GIÁM MỤC HÀ NỘI GIUSE VŨ VĂN THIÊN
Theo chu kỳ phụng vụ, hôm nay là Chúa nhật XVIII thường niên, trùng với ngày 6-8 dương lịch, lễ “Chúa hiển dung.” Ngày lễ này cũng được gọi là “Lễ Chúa biến hình.” Tên gọi này gợi lại sự kiện Chúa Giê-su biến đổi hình dạng trên núi, trước mặt ba tông đồ. Sự kiện này được cả ba tác giả Tin Mừng “nhất lãm” thuật lại. Tuy có một vài chi tiết khác nhau, nhưng cả ba đều nhấn mạnh tới thiên tính của Đức Giê-su và sứ vụ của Người. Cả ba tác giả đều ghi lại tiếng từ đám mây nói về Chúa Giê-su: “Đây là Con Ta yêu dấu” (Mt 17,5; Mc 9,7), hoặc “Đây là người Ta tuyển chọn” (Lc 9,35). Đây là lời của Chúa Cha nhằm giới thiệu với các môn đệ sứ mạng thiên sai của Đức Giê-su. Sự kiện “biến hình” xảy ra vài ngày sau khi Đức Giê-su nói với các môn đệ về cuộc khổ nạn của Người. Lời tiên báo này gây tâm trạng hoang mang nơi các ông. Trong bối cảnh ấy, ba môn đệ thân thiết với Chúa Giê-su là ông Phê-rô, ông Gio-an và ông Gia-cô-bê, đã được Chúa dẫn lên núi. Sự kiện này chắc chắn đã để lại một dấu ấn không phai mờ nơi tâm trí các ông. Sau này, thánh Phê-rô viết trong thư mà chúng ta đọc trong Bài đọc II như sau: “Quả thế, Người (tức là Chúa Giê-su) đã được Thiên Chúa ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến.” Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.”
Mục đích của cuộc biến hình là gì?
– Thứ nhất, Chúa Giê-su muốn củng cố tinh thần của các môn đệ. Khi loan báo cho các ông biết Người sẽ chịu đau khổ và sẽ bị giết chết, Người cũng nói tới những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ Người. Những điều này khó hiểu và khó chấp nhận, đến nỗi Phê-rô phải kéo riêng Người ra và trách móc Người. Qua cuộc biến hình, Chúa Giê-su muốn khẳng định với các ông: dù Người có chịu đau khổ, nhưng Người sẽ sống lại vinh quang sáng láng như các ông nhìn thấy Người. Dù Chúa đã tỏ mình như thế, các ông vẫn không thể hiểu lời tiên báo của Chúa Giê-su. Các ông cũng không hiểu ý nghĩa lời dặn của Chúa: đừng nói với ai về sự kiện này, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Như vậy, các ông chỉ hiểu rõ ý nghĩa của cuộc biến hình sau sự kiện phục sinh.
– Thứ hai, khi thay hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ, Chúa Giê-su muốn các ông thay đổi quan điểm về sứ mạng Thiên Sai của Người, đồng thời thêm niềm tín thác vào quyền năng của Chúa. Cuộc biến hình của Chúa Giê-su như một sự “lột xác” đối với các ông, giúp các ông hiểu rõ hơn về việc theo Chúa. Nếu Chúa Giê-su đã trải qua thập giá để đến vinh quang, người môn đệ cũng phải bước đi trên con đường thập giá hằng ngày để theo Chúa và được vinh quang với Người.
– Thứ ba, khi biến hình trên núi, hai nhân vật trong Cựu ước đã hiện ra đàm đạo với Chúa Giê-su. Đó là ông Môi-sen, đại diện cho truyền thống lề luật; ông Ê-li-a, đại diện cho truyền thống ngôn sứ. Là những người Do Thái đạo đức, ba môn đệ dễ dàng hiểu ý nghĩa của sự kiện này. Chúa Giê-su muốn khẳng định: Người đến trần gian để thực hiện những gì các ngôn sứ đã loan báo từ nhiều thế hệ. Người cũng đến để chu toàn lề luật Thiên Chúa đã ban cho dân tộc Do Thái qua trung gian ông Môi-sen. Từ nay, Luật cựu ước không còn chỉ dành cho người Do Thái, mà cho tất cả nhân loại. Đó là luật yêu thương. Luật yêu thương bao gồm tất cả những luật khác, vì như thánh Phao-lô nói sau này: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Hành trình của người môn đệ Đức Giê-su đầy gian nan thử thách. Lễ Chúa Giê-su biến hình, hay lễ Hiển Dung giúp ta thay đổi cuộc đời mỗi ngày. Hôm nay, Chúa Giê-su đang “biến hình” giữa chúng ta. Người khẳng định: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế,” nhưng chẳng ai trong chúng ta nhận thấy Người bằng mắt thường. Chúa hiện diện vô hình và huyền nhiệm giữa chúng ta. Chúa Giê-su cũng đang “biến hình” trong bí tích Thánh Thể. Người hiện diện trong bí tích này, dù con mắt giác quan của chúng ta không cảm thấy. Chỉ có Đức tin khẳng định với chúng ta: Người đang hiện diện và đang âu yếm nhìn chúng ta với tình thương vô bờ. Người hiện diện để cảm thông, nâng đỡ chúng ta khi gánh nặng cuộc đời muốn làm chúng ta gục ngã. Chúa Giê-su còn đang “biến hình” trong lời Kinh Thánh, trong Giáo Hội và nơi những người đau khổ, cô đơn nghèo nàn không nơi nương tựa, vì ai đón tiếp những người bất hạnh đau khổ này là đón tiếp chính Chúa vậy (x. Mt 25, 31-46).
Khi suy niệm mầu nhiệm thứ bốn mùa Sáng trong kinh Mân côi, chúng ta đọc: Đức Chúa Giê-su biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Lý tưởng của người Ki-tô hữu là gặp Chúa Giê-su để nên đồng hình đồng dạng với Người. Chúa muốn cho chúng ta mỗi ngày sống là một nấc thang tiến tới trọn lành. Chúng ta chỉ có thể vươn tới sự trọn lành nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều người đã theo Chúa lâu năm mà cuộc đời không biến đổi. Có người nói, tin Chúa nhưng hành động và lời nói lại ngược lại với lời Người dạy. Lễ Chúa Biến hình nhắc nhở chúng ta: chúng ta phải biến đổi mỗi ngày. Một tác giả tu đức đã viết: “chúng ta phải cố gắng vươn lên hằng ngày. Ngày hôm nay, phải sống tốt hơn ngày hôm qua và ngày mai phải sống tốt hơn ngày hôm nay.” Quả vậy, sống là không ngừng vươn lên, không ngừng khám phá để cảm nhận những điều mới mẻ và diệu kỳ Chúa đang làm xung quang chúng ta. Khi không ngừng vươn lên, chúng ta sẽ cảm nhận được Thiên Chúa mỗi ngày một điều mới mẻ. Thánh Augustinô đã viết: “Lạy Chúa, Chúa là vẻ đẹp của ngàn xưa, một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới,” và thánh nhân tỏ ra luyến tiếc: “Con đã yêu Chúa quá muộn màng, lạy Chúa là Đấng Tuyệt Mỹ từ đời đời đến đời đời; con đã yêu Chúa quá muộn màng. Và xin Chúa hãy nhìn xem, Chúa chờ đợi con ở bên trong cõi lòng con, nhưng con lại ở bên ngoài cõi lòng mình, và con kiếm tìm Chúa tại đó.”
Nói về sự biến đổi, chúng ta hãy nghe thánh Phao-lô đã nhắn nhủ tín hữu Cô-rin-tô: “Tất cả chúng ta, mặt không màn che, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3,18).
Xin Chúa biến đổi chúng ta, để mỗi người trở nên hình ảnh của Ngài giữa đời. A-men!
TGM Giuse Vũ Văn Thiên Sàigòn ngày 05 tháng 7 năm 2023