Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 201-250 Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ --------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
******
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Theo truyền thống lâu năm Hội Thánh Công giáo luôn kết thúc Năm Phụng Vụ bằng việc suy TN 34-ABC201
Theo truyền thống lâu năm Hội Thánh Công giáo luôn kết thúc Năm Phụng Vụ bằng việc suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Chúa, là Vua vũ trụ.
Nhìn vào thế giới loài người, số các tín hữu nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là Chúa, là Vua của mình và của vũ trụ còn là thiểu số. Hơn nữa, trong số những người đã nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là Chúa, là Vua của mình và của vũ trụ thì cũng còn rất nhiều người chưa thật sự “đầu phục” Chúa, chưa sống đúng tư cách là “con dân”, là “kẻ được cứu” của Chúa. Vì thế mà việc mừng lễ Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ bao giờ cũng mang chiều kích Phúc Âm hóa hay Truyền Giáo.
Vì Chúa Nhật XXXIV là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ, nên cũng mang thêm ý nghĩa của ngày “Tổng Kết” tức của việc xét mình kiểm điểm xem suốt một năm qua mỗi người chúng ta đã nhìn nhận, suy tôn và rao truyền vương quyền của Chúa Giêsu Kitô như thế nào và đạt được kết quả lớn nhỏ ra sao?
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Êd 34,11-12.15-17): “Phần các ngươi là những đoàn chiên của Ta, Ta xét xử giữa chiên với chiên" Đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán, và trong ngày mây mù đen tối.
"Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính.
"Còn các ngươi, hỡi chiên của Ta, Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Này Ta sẽ phân xử giữa con này với con khác, giữa cừu đực với dê đực".
22 Trong bài đọc 2 (1 Cr 15,20-26.28): “Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự" Anh em thân mến, Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực.
Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết. Khi mọi sự đã suy phục Người, bấy giờ chính Con cũng sẽ suy phục Đấng đã bắt mọi sự suy phục mình, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 25,31-46): "Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra" Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: 'Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta'.
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: 'Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?' Vua đáp lại: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'.
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!'
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta'. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Mục Tử nhân lành, hết mực chăm lo cho con cái Người như người chăn chiên tốt lành chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng bó, chữa lành, vỗ béo và chăn dắt đàn chiên của mình (bài đọc 1).
* Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho sứ mạng tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần và đưa toàn thể đưa nhân loại về với Cha. Người nắm mọi vương quyền trên trời dưới đất …. cho đến ngày Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (bài đọc 2). Trong ngày ấy Chúa Giêsu Kitô tức Con Người sẽ đứng phán xét người lành kẻ dữ để ban thưởng và luận phạt. Tiêu chuẩn cuộc phán xét cuối cùng là lối sống vị tha: "Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế (cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp rước, thăm viếng, hỏi han…) cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy" (bài Phúc âm).
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng cùng hành động với Chúa Cha và Chúa Con để giúp con người nhìn nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, là Vua vũ trụ vạn vật.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
Mỗi lần chúng ta cho/không cho kẻ đói ăn, cho/không cho kẻ khát uống, cho/không cho kẻ rách rước quần áo, tiếp rước/không tiếp trước khách trọ, thăm viếng/không thăm viếng người đau bệnh, hỏi han/không hỏi han người bị giam cầm là chúng ta đã làm/không làm những việc ấy cho chính Chúa Giêsu Kitô vậy.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa, như môn đệ đối với Thầy, như đây tớ với ông chủ của mình.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, mỗi người hãy làm 2 việc này:
Việc thứ nhất là khám phá và cảm nghiệm sự chăm sóc mà Thiên Chúa dành cho mình trong đời sống cá nhân và gia đình, trong lãnh vực vật chất, tinh thần và tâm linh.
Việc thứ hai là kiểm điểm xem mình đã quan tâm như thế nào đến nhu cầu của những người sống bên cạnh và xung quanh chúng ta xem họ cần có đến sự giúp đỡ (về vật chất, tinh thần, thời gian) của chúng ta hay không và chúng ta có đáp lại sự mong đợi của họ hay không.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Thiên Chúa là Mục Tử Nhân Lành vì Người chăm sóc, qui tụ, tìm kiếm, đưa về, băng bó, chữa lành, vỗ béo và chăn dắt đàn chiên của mình.» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cách riêng cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Giám mục, các linh mục, phó tế và tu sĩ nam nữ, là những người được giao phó sứ mạng chăm lo cho những người khác trong cộng đoàn Dân Chúa, để các ngài chu toàn trách nhiệm nặng nề và cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian này để sớm hay muộn họ được ơn nhận ra và đầu phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Kitô hữu nhất là cho những người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta để họ nhận ra Chúa trong tha nhân, nhất là trong những người cần giúp đỡ!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính chúng ta và cho những người sống khép kín, tham lam và ích kỷ, để chúng ta và những người ấy nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của lối sống “mackeno” của mình mà sám hối và hoán cải trong thời gian Thiên Chúa còn nhẫn nại đợi chờ!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigòn ngày 18 tháng 11 năm 2020 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Nước tôi không thuộc chốn này": Chữ “chốn này” (enteuthen) tương đương với thế gian này: TN 34-ABC202
“Nước tôi không thuộc chốn này": Chữ “chốn này” (enteuthen) tương đương với thế gian này tiếng mà Gioan tránh lặp lại lần thứ ba. Nhóm chữ "thế gian này" gần giống nhóm chữ "bởi đất" (3,31), "có tính cách trần thế" và tương đương với "phàm tục", "có đặc tính của thế gian"; nên người ta cũng dịch được: "Vương quốc tôi không có tính cách trần thế". Xin nhớ tiếng Aram rất ít tĩnh từ.
"Để làm chứng cho sự thật": Tư tưởng Thánh Kinh đã nhận ra mối tương quan giữa khôn ngoan và vương quyền (x. 2 Sm 14,17-20). Vương quyền cánh chung mà Chúa Giêsu khai mạc trong thế gian, ngay lúc này, sẽ không dùng đến bạo lực; theo thánh ý của Cha, Đấng đã giao phó sứ mệnh cho Người. Vương quyền đó sẽ được thể hiện nhờ việc tiếp đón sự thật của Thiên Chúa biểu lộ trong Người, lời nhập thể (x. 14, 6; 3, 11.32; 8, 13-14.46).
"Ai thuộc về sự thật": So sánh với 7, 17; 1 0, 26 và nhất là với 8, 47 ("Ai bởi Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa"), câu mà chữ bởi Thiên Chúa" đối ứng với chữ "thuộc về sự thật" của chung ta: ai thuộc về sự thật là bạn hữu của sự thật.
KẾT LUẬN
Vương quyền mà Chúa Kitô gián tiếp đòi hỏi khác biệt cách sâu xa với vương quyền mà các mục tiêu và phương tiện đều thuộc phạm vi thế gian; vương quyền Người không cần đến sức mạnh và phương pháp thông thường của hoạt động chính trị. Vương quyền Người, Người nhận từ Thiên Chúa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong bản văn này, chúng ta chứng kiến giai thoại sẽ đưa đến việc Philatô kết án tử hình cho Chúa Giêsu. Để quán triệt bản văn, cần nhắc lại rằng Philatô và Chúa Giêsu không đứng trên cùng một bình diện. Khi thốt lên tiếng "vua", Philatô nghĩ đến một vương quyền chính trị trần thế. Còn lúc tự xưng là vua, Chúa Giêsu nói đến vương quyền thiên sai của Người. Phải xác định rằng Người tự xưng là Vua Messia theo một nghĩa vô cùng rộng lớn hơn ý nghĩa được quan niệm bởi các thủ lãnh dân Do thái, những kẻ chỉ thấy trong Đấng Messia tương lai một vì vua trần tục. Qua câu hỏi "Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” Chúa Giêsu muốn cho Philatô biết Người chẳng phải là vua theo cách ông ta tưởng nghĩ, và càng không phải là vua theo cách người Do thái quan niệm. Vì thế, sau câu đáp của Philatô. Chúa Giêsu nói: "Vương quyền không thuộc thế gian này”. Thế rồi ta đi đến diễn tiến kỳ lạ sau đây: người Do thái muốn làm cho Philatô kết án Chúa Giêsu, bởi vì Người tự xưng là đến từ một thế giới khác, nghĩa là từ Thiên Chúa. Vì đó không phải là nguyên do kết án đối với Philatô, nên họ đưa ra một cớ khác, là Người đã tự xưng là một vua trần thế chống lại hoàng đế Rôma, điều mà Chúa Giêsu tuyên bố là không phải. Chúa Giêsu bị kết án do quyền tài phán Rôma dưới danh nghĩa một vương quốc trần thế, trong lúc Philalô biết Người từ chối vương quyền này.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu là một việc làm chứng cho sự thật. Chúa Giêsu không phải là vua thuộc thế gian này nhưng là vua trong thế gian này, và trong thế gian này người làm chứng cho một thực tại thần linh. Quả thế, ở đây cần phải nắm vững ý nghĩa chữ "sự thật". Sự thật, theo Tin mừng Gioan, không phải là một tri thức thuần lý phù hợp với thực tại đâu. Nó là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người cảm thấy nó xâm nhập vào trong tất cả hữu thể mình và trong toàn cuộc sống. Nhưng con người cũng còn phải tiếp nhận. Việc tiếp nhận này không chỉ bằng lý trí: nhưng còn bằng tâm hồn, ý chí, toàn thể con người ta. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật vì, xét như là kẻ được xâm nhập và biến đổi bởi kinh nghiệm về thần linh, người đề nghị tất cả hãy đi vào sự thông hiệp có sức thần hóa với Người, Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua khi, trong một nhân loại rất thường chống nghịch Thiên Chúa, con người đón tiếp "chứng" của Người, nghĩa là tin Người và hết lòng để cho Người thần hóa.
3. "Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Ta...". Thuộc sự thật là gì? Đó là sẵn sàng đón tiếp thực tại thần linh mà Chúa Giêsu đem đến cho con người. Trong thực tế chúng ta hôm nay, điều này hệ tại thành thật đối với Thiên Chúa Đấng phán bảo qua Thánh Kinh và Giáo Hội, sống phù hợp với những gì Thiên Chúa mặc khải cho và theo Chúa Giêsu mà ta gặp thấy trong Tin Mừng, trong Giáo Hội, trong các nhiệm tích, trong anh chị em.Vương quyền của Chúa Giêsu không giống chút nào với cách thống trị của nhân thế, nhưng nó trở nên hữu hiệu khi con người cá nhân và tập thể, trong cuộc sống thực sự hiểu rằng mình đến từ Thiên Chúa và đi về cùng Thiên Chúa, cho nên hết. sức ra công để nhân loại nhận biết sự thật nhờ những nét đẹp nhất của khuôn mặt nó, là những nét của Tình Yêu.
4. Chúa Giêsu là hiện thân của sự thật vốn tự mặc khải, sự thật của lòng trung thành và thương xót của Thiên Chúa; Chúa Giêsu bị vu cáo, đánh đòn, đội mão gai và bị lưỡi đòng của thế gian này đâm thủng là hiện thân của sự thật, của thực tại Thiên Chúa, của sự thật chấp nhận số phận đớn đau, của sư thật tự mặc khải cách vinh thắng oai hùng khi cam lòng chịu sự chế diễu của thế gian dối trá. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng Vua của chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai làm vương miện, chớ bao giờ quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc không thuộc về thế gian. Nếu chúng ta có can đảm làm chứng nhân cho một vị vua và một vương quốc như thế trong trần gian này, thì những kẻ "thuộc sự thật" sẽ nghe lời chứng của chúng ta, và Chúa Kitô, Đấng đã bị treo lên trên thập giá, sẽ kéo họ đến cùng Người, và triều đại thanh bình vui tươi của Người sẽ được thiết lập trong tâm hồn chúng ta và trong tâm hồn anh em mãi mãi.
Martin Caphu là người sắc tộc BăngLa, Phi Châu, đã chọn theo Chúa thay vì làm vua nước BăngLa: TN 34-ABC203
Martin Caphu là người sắc tộc BăngLa, Phi Châu, đã chọn theo Chúa thay vì làm vua nước BăngLa.
Sắc tộc BăngLa tổ chức như 1 vương quốc. Đứng đầu sắc tộc là nhà vua, gọi là Frong, và có cơ sở hành chính thuộc thành phố Rontain. Thủ đô là BăngLa, nằm trong quốc gia Cameroun ngày nay. Thân phụ của Martin Caphu có nhiều con, và anh là người con duy nhất được lãnh nhận Bí tích rửa tội năm 1963, lúc 17 tuổi nhờ Phong Trào Tổ Ấm thành lập tại Fontain. Chủ trương phong trào là giúp dân và phục vụ hết mình cho giới trẻ.
Anh âm thầm liên lạc với phong trào và cộng tác với họ trong việc dấn thân phục vụ người nghèo tại bệnh viện., sau khi Martin học xong trung học tại Fontain, anh được gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Sau khi đậu tiến sĩ điện tử, anh xin gia nhập Phong Trào Tổ Ấm và trở nên thành viên của Phong Trào. Năm 1980, anh nhận được tin cha anh qua đời và trước khi chết, ông đã xin trở lại đạo Công giáo. Trong chúc thư, ông đã chọn anh làm người kế vị ngôi vua cha. Nhưng chỉ sau 1 thời gian ngắn, anh cảm thấy ơn Chúa gọi theo Chúa hơn là làm vua. Anh đã trình bày với Hội Đồng: "Thưa quý trưởng tộc, tôi đã hiến đời mình cho Chúa. Vậy nay tôi xin trao trả quyền hành này lại cho một người khác, để tôi được tự do theo lý tưởng của tôi".
Các vị chức sắc đã đồng ý và chọn em của Martin lên làm vua. Anh đã trở lại Rôma và sống trong một cộng đoàn nhỏ gồm 6 người trong phong trào. Anh không hề hối tiếc việc đã từ bỏ quê hương và danh vọng. Anh luôn giữ trong người 1 tập album có hình ảnh của đại gia đình, để cầu nguyện cho họ hàng ngày, để họ nhìn ra ánh sáng Chúa Kitô. Anh nghĩ rằng: việc theo Chúa không làm cho anh lãng quyên hay xa cách gia đình, ngược lại, anh cảm thấy gần gũi với mọi người, với tổ tiên. Anh luôn luôn nhớ cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho mọi người trong gia đình.
Từ chối một địa vị cao sang trong xã hội đề theo đuổi lý tưởng, theo ơn gọi làm môn đệ Chúa Kitô, để nhận lấy một địa vị hèn kém, làm người rốt hết để phục vụ anh chị em là một điều hiếm có. Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định để làm vua cả vũ trụ ỀPhải, quan nói đúng tôi là vuaỂ. Ngài đã đổi chỗ của mình, đã thay đổi hoàng phục để đổi lấy nhân tính rách rưới của con người chúng ta để dạy chúng ta con đường phục vụ, con đường nhỏ bé để lên trời. Chúa đã học bài học kiếp làm người bị chà đạp để sống lại từ cõi chết và trở nên vua trên khắp vũ hoàn. Đây là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Chúa Giêsu vua toàn thể vũ trụ. Lạy Chúa, chúng con xin suy tôn Chúa là vua vũ trụ, vua gia đình, vua tổ quốc, vua cõi lòng chúng con cho đến muôn muôn đời.
Nhẫn kim cương vẫn là giấc mơ của nhiều bà nhiều cô. Dấu hiệu của sang giầu mà. Dịp lễ Tạ: TN 34-ABC204
Nhẫn kim cương vẫn là giấc mơ của nhiều bà nhiều cô. Dấu hiệu của sang giầu mà. Dịp lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh nhiều tiệm kim hoàn quảng cáo đại hạ giá với nhiều hấp dẫn: "Mọi khi giá 4995 đồng, bây giờ chỉ phải trả 3995. Tiết kiệm được tới 1000 đồng. Dịp may hiếm có. Nhẫn kim cương bật lửa ấm yêu thương trong mùa đông giá lạnh! "Tình yêu thì vĩnh cửu!" (Love is forever). Ý họ muốn thuyết phục là nhẫn kim cương mang sức mạnh làm cho tình yêu bền chặt, vì thế liệu sao mua được nhẫn kim cương mà tặng cho nhau!
Có ai đoán được chiếc nhẫn của công nương Diana đeo vào tối ngày 31 tháng 8 năm 1997 trước khi chết giá bao nhiêu không? Chiếc nhẫn này do anh bồ người Ai Cập sống kiểu đế vương là Dodi Fayed tặng đấy. Trị giá 205 ngàn tiền Mỹ! Chắc hẳn nàng Diana phải cảm động chớp mắt lia lịa.
Và có ai đoán được đám cưới của Diana với hoàng tử Charles tốn phí bao nhiêu không? Hoàng gia nước Anh đã chi 3 triệu rưỡi tiền Mỹ. Với hai ngàn bảy trăm khách danh dự, hàng triệu người xem Tivi.
Vậy mà tổ ấm vua chúa này đã vỡ sau 15 năm tình lận đận. Và chiếc nhẫn giá tới trên hai trăm ngàn tiền Mỹ Diana cũng chỉ đeo được có vài giờ tối hôm đó, và chẳng mang theo được về thế giới bên kia. Khi làm biên bản tai nạn, cảnh sát Paris đã trao chiếc nhẫn này lại cho gia đình Spencer. Nhưng một hình ảnh rất đáng chú ý: nằm trong quan tài, Diana không đeo nhẫn mà cầm một tràng hạt do Mẹ Têrêsa đã tặng trong một lần gặp gỡ. Diana là một người theo Tin Lành Anh Giáo mà lại cầm tràng hạt là nét đặc trưng lòng sùng kính Đức Mẹ của người Công Giáo, âu đây cũng là một dấu chỉ thời đại. Đúng là:
Kiếp ngắn dài, một mộ bia Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian Dừng chân đếm túi hành trang Những gì con lại chuỗi vàng lời kinh.
CÔNG CHÚA BOKASSA
Truyện thật xẩy ra ở Sài Gòn trước đây khá lâu. Một cô bé lai đen nghèo khổ bán bắp luộc ở vệ đường kiếm sống qua ngày, bỗng được một số người đến đón về tòa đại sứ một nước Phi Châu, được thay quần áo mới và trang điểm sang trọng quá sức tưởng tượng.
Thì ra trước đây Bokassa là một trung sĩ đi lính Lê dương cho Pháp sang Việt Nam, đã để lại một đứa con rơi, sống chết thế nào chẳng biết. Bây giờ ông đã lên làm vua, đầy quyền uy và vàng bạc, muốn tìm lại đứa con đó. Thế là ông cho người đi tìm nhiều ngày, qua nhiều điều tra. Và cuối cùng ông đã tìm thấy đứa con gái của ông và xin rước về cung vua...
Bỗng một ngày, cô bé lọ lem trở thành công chúa giầu sang. Câu chuyện này cũng chính là câu chuyện của những người khám phá niềm tin trong Đạo Chúa: được Rửa Tội tháp nhập vào thân thể Đức Kitô, tất cả mọi người Kitô bỗng trở thành con của vua Trời Đất, thừa kế "ngai vàng" hoàng vương sang trọng và quyền năng. Lạ lùng quá phải không? Quả thực đức tin đã đổi được số mệnh và niềm tủi hận của mọi người.
Đó cũng chính là câu chuyện của "chú bé lọ lem" Dũng Lạc. Phòng trưng bày các di tích Tử Đạo của Hội Thừa Sai ở Paris bây giờ còn giữ được một đôi hài của Thánh Dũng Lạc, thật đẹp và thật sang. Đó chính là đôi hài ngài vẫn đi khi làm lễ. Đi hài để làm lễ là nói lên phong thái sang trọng hoàng vương. Cử hành thánh lễ và rước lễ đúng là mang được "đôi hia bẩy dặm" có mãnh lực vượt qua mọi khó khăn ngăn cách. Có ngờ đâu, ngài xuất thân là con một gia đình lương dân quá nghèo, phải mang cho một thầy giảng nuôi hộ, được dạy giáo lý, và năm 12 tuổi mới được rửa tội nhập đạo Công Giáo.
TÌM MUA NGỌC TRAI
Con mắt khám phá ra kho tàng giàu sang của cuộc đời chính là con mắt đức tin mà ngay buổi đầu tiên đặt chân đến Cửa Bạng, Bắc Việt, vào ngày 19 tháng 3 năm 1627, Cha Đắc Lộ đã chỉ lối. Cha Đắc Lộ gợi đúng tâm lý của người dân Cửa Bạng là nơi nhiều người sinh sống bằng nghề biển và tìm ngọc trai.
" Chúng tôi vừa cập bến thì một số đông dân xứ này thấy chúng tôi đến gần liền lấy thuyền của làng lân cận đến mừng chúng tôi, chất vấn chúng tôi xem chúng tôi là những người nào, từ đâu mà tới và đem theo những hàng hóa mới lạ nào. Tôi đáp nhân dịp này chúng tôi đến bán cho người Đất Bắc một hạt trai quí mà không đắt, để cho người nghèo khó nhất cũng có thể mua được miễn là có ý ngay lành. Thấy dân chúng tỏ ra muốn xem, thì tôi cho họ hiểu là hạt trai này không thể coi bằng con mắt thân thể nhưng bằng con mắt tinh thần biết phân biệt thật giả. Nói tóm lại chúng tôi đến giảng dạy đạo thật có giá hơn hết các hàng hóa của người Ấn Độ, và một mình nó có thể mở đường tới cõi phúc đích thực trường cửu"
" Khi nghe nói về điều mà họ thường gọi là Đạo theo ngôn ngữ các nho sĩ, và Đàng theo ngôn ngữ bình dân có nghĩa là đường lối, thì họ tò mò muốn tôi cho biết đạo thật và đàng thật mà chúng tôi định rao giảng. Sau đó tôi lấy đề tài thảo luận với họ về nguyên lý vạn vật, tôi quyết định công bố dưới danh hiệu Chúa Trời Đất, vì không tìm được trong ngôn ngữ họ một tên riêng để chỉ Thượng Đế"
Cha Đắc Lộ là người đầu tiên dùng danh từ Chúa Trời, rất gần gũi với văn hóa và tâm thức người Việt. Đức Chúa Trời là Cha toàn năng và hằng hữu, là nguồn mọi sang giầu. "Có Chúa chăn nuôi tôi chẳng thiếu thốn chi." (TV 23). Đó là một tin quá mừng đối với con người đang sống trong thân phận nghèo khổ thấp cổ bé miệng.
Tin Vui mở mắt con người để khám phá ra "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng, có người tìm gặp thì liền chôn giấu lại, rồi về vui mừng bán mọi sự mình có mà mua lấy thửa ruộng ấy." (Mt 13:44)
TIN VUI NẺO BƯỚC DŨNG LẠC
Ngày 24 tháng 11 hằng năm, hội thánh Công Giáo hoàn vũ mừng kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Phong thánh là đề cao một mẫu gương, một đạo sống đáp ứng thời điểm, như Đức Gioan Phaolô II đã nói rõ trong tông thư "Đệ Tam Thiên Nhiên Sắp Đến":
" Trong viễn tượng hướng về đệ tam thiên niên, tòa thánh sẽ ghi vào trang sử tử đạo của hội thánh hoàn vũ, lưu ý nhiều đến sự thánh thiện của những người, ngay ở thời đại chúng ta, đã hoàn thành đời mình trong chân lý của chúa Kitô. Một cách hết sức đặc biệt, cần ghi nhận sự anh dũng của các nhân đức nơi những người nam, nữ, đã thực hiện ơn gọi làm người Kitô trong cuộc sống hôn nhân: trong xác tín rằng nhiều hoa trái thánh thiện nảy sinh trong bậc sống này, chúng tôi thấy cần phải tìm ra những phương cách thích hợp nhất để đề cao và nêu lên cho toàn thể Hội Thánh làm mẫu mực và khích lệ những người chồng người vợ Kitô giáo." (trang 40-42).
Đám cưới tốn phí ba triệu rưởi tiền Mỹ cũng không mang lại hạnh phúc, cũng không làm cho một người như Diana thành hoàng hậu. Chiếc nhẫn kim cương trên hai trăm ngàn cũng không làm cho Diana sang giầu khi nằm xuống hơn một tràng chuỗi Mân Côi.
Như vậy, mừng lễ Thánh Dũng Lạc và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, không chỉ để kính nhớ cầu khẩn, nhưng còn là dịp khơi lên niềm hãnh diện bước theo một đạo sống đã được cả hội thánh hoàn vũ xác nhận là chắc chắn làm cho mình sống được phong thái làm vua sang giầu thật, làm cho mình được sống dũng mạnh và an lạc như thánh Dũng Lạc và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Con người mỏi mệt và nhầy nhụa vật chất ngày nay đang tìm một con đường, một lối sống giản đơn khơi mở lối thoát sống thảnh thơi hơn. Thì đây hội thánh giới thiệu Đạo Sống Dũng Lạc, tức là Đường Tu Đức theo tinh thần Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khởi đi từ một niềm tin, một nhãn quan, tiến tới một thể hiện.
PHÚT CẢM NHẬN
Dù cả khi bị bắt vào tay Philatô, Chúa Giêsu vẫn xác nhận mình là Vua, không gì trên trần thế này có thể chế ngự được mình.
Từ trong trại "tập trung sát tế" thời Đức Quốc Xã, Viktor Frankl đã tìm ra lẽ sống còn và giúp nhiều bạn tù Do Thái đứng vững giữa những đầy đọa tột cùng. Frankl bị mất hết người thân trong gia đình, thân xác bị lột trần, nhân phẩm bị tước đoạt, mà vẫn còn là mình, mà vẫn cứ là mình. Và ông đã để lại cho nhân loại một cuốn sách mỏng nhưng mang giá trị siêu việt về tâm lý, tâm linh và giáo khoa. Đó là cuốn "Khi Con Người Tìm Ra Lẽ Sống," (Man's Search For Meaning) với khám phá về Logotherapy.
Khám phá đó là: Con người khác con vật ở chỗ biết tự thức về bản ngã của mình, mang tự do căn bản để chọn lựa thái độ sống mình vẫn cứ là mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi mọi thứ quyền khác bị tước đoạt thì mình vẫn còn cái quyền căn bản đó. Và khi con người đã tìm ra lý do để sống, thì không một quyền lực nào hay hoàn cảnh nghiệt ngã nào lay chuyển nổi. Sở dĩ có những người phải tự tử vì thấy đời buồn chán, phi lý và tẻ lạnh. Hãy bắt đầu làm một cái gì cho mình và giúp người khác được thì tìm ra được lẽ sống. Stephen Covey đã áp dụng thành công vào trong chương trình "Bảy Nếp Thành Đạt Cao" (The Seven Habits of Highly Effective People) rất nổi tiếng ngày nay.
Chúa là Vua, mà mình là con của Vua trời đất thì đương nhiên mình cũng là hoàng tử hay công chúa, được Chúa cho chia sẻ sự giàu sang với Chúa. Đây không phải là một kiểu chơi chữ, mà là một xác tín trong đời: mình đã được đóng ấn tấn phong tước vị đó ngày nhập Đạo Chúa. Khi sực khám phá ra như vậy thì đời sống tự nhiên thay chuyển, từ tác phong đến cách hành xử.
Dù trong bất cứ nghịch cảnh nào, xin cho con luôn nhận ra mình là con của Vua Trời Đất, giầu có biết chừng nào: có Chúa dẫn nuôi, con luôn được sung mãn, không còn thiếu thốn chi, không còn sợ gì nguy hại dù đi trong thung lũng tối.
Con cảm ơn Chúa vì thái độ an nhiên tin tưởng của thánh thi sĩ Dũng Lạc trong nhà tù như được diễn tả trong bài thơ gửi cho một người bạn:
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan. Bút chép thơ này gửi thở than, Lòng nhớ bạn nỗi còn vất vả, Dạ thương khách chạy chưa yên hàn. Đông qua tiết lại thời xuân tới, Khổ tạm mai sau hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó, Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng. Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường (từ tác phẩm Vũ Khúc Thăng Ca, Thời Điểm xuất bản)
Xin mời thăm gia trang giới thiệu Tư Liệu Xây Nhà Niềm Tin và Văn Hoá Việt: www.dunglac.net
Vào thời gian cuối năm, kinh doanh, sản xuất hay làm việc gì, người ta cũng tổng kết, lượng: TN 34-ABC205
Vào thời gian cuối năm, kinh doanh, sản xuất hay làm việc gì, người ta cũng tổng kết, lượng giá, rút ưu khuyết điểm, vừa để nhìn lại một năm sắp qua, vừa để lấy đà hay xác định hướng đi, chọn lựa chiến lược cho năm mới.
Trong đời sống tôn giáo, tâm linh cũng tương tự như thế. Người Công Giáo kết thúc Năm Phụng Vụ bằng việc nhìn nhận và tôn vinh Chúa Giê-su Ki-tô làm Vua Vũ Trụ, Vạn Vật và Loài Người. Mỗi người Công Giáo, mỗi cộng đoàn giáo xứ, giáo phận, Dòng Tu được mời gọi thực hiện ba điều sau đây:
(1o) Kiểm điểm xem chúng ta đã sống như thế nào dưới Vương Quyền và trong Vương Quốc của Chúa Giê-su Ki-tô trong năm qua?
(2o) Đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô, Con của Ngài, Đấng đã được đặt là Vua, làm Chúa Tể Vũ Trụ Vạn Vật và Con Người, chúng ta phải có tâm tình nào cho thích hợp trong tuần lễ cuối năm Phụng Vụ này?
3o) Chúng ta quyết tâm sẽ sống như thế nào trong Năm Phụng Vụ Mới 2007 để thể hiện sự suy phục Vương Quyền của Chúa Giêsu trong đời sống cá nhân, cộng đoàn và xã hội?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Đn 7,13-14: Thị kiến về Con Nguời.
13 Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. 14 Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.
(2) Bài đọc 2: Kh 1,5-8: Lời mở đầu
5 Xin Đức Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, 6 làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men! 7 Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men! 8 Đức Chúa là Thiên Chúa phán: "Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng."
(3) Bài Tin Mừng: Ga 18,33-37: Đức Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27,1-2,11-30; Mc 15,1-19; Lc 23,13-23)
33 Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do Thái không? " 34 Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi? " 35 Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì? " 36 Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Đn 7,13-14) là Lời Chúa trong sách ngôn sứ Đa-ni-en, kể lại thị kiến của ông về một Nhân Vật đặc biệt được gọi là Con Người. Nhân Vật này xuất hiện như thần linh (ngự giá mây trời) được Thiên Chúa (Đấng Lão Thành) trao cho quyền thống trị, vinh quang, vương vị vĩnh cửu và được mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ phụng sự đến muôn ngàn đời. Nhân Vật đặc biệt này chính là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết trên Thập Giá để cứu chuộc nhân trần.
(2) Bài đọc 2 (Kh 1,5-8) là những lời mở đầu của Sách Khải Huyền trong đó Thánh Gio-ABCn Tông Đồ nói về Chúa Giê-su Ki-tô là Anh Cả (Trưởng Tử) loài người, là Thủ Lãnh mọi vương quyền trần gian, là Đấng đã đổ hết máu mình mà rửa sạch tội lỗi nhân loại và lập nên Vương Quốc trong đó Thiên Chúa - là Đầu và là Cuối, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng - thống trị đến muôn muôn đời.
(3) Bài Tin Mừng (Ga 18,33-37) là tường thuật của Thánh Gio-ABCn về phiên tòa "kỳ lạ" của tổng trấn Phi-la-tô, trong đó tuy có cuộc đối đáp giữa hai nhân vật là quan tòa và bị cáo, nhưng dường như là hai người dùng hai ngôn ngữ khác nhau và mỗi người nói về một thực tại khác nhau. Phần Chúa Giê-su, Người đã khẳng định với tổng trấn Phi-la-tô về lý do mà Người có mặt trên trần gian và về Vương Quyền của Ngài, nhưng không phải là thứ vương quyền trần gian mà Phi-la-tô và người đời thường hiểu. Phi-la-tô cũng chẳng quan tâm đến việc nhận ra Chân Dung hay Căn Tính đích thực của Chúa Giê-su nên đã dễ dàng nhượng bộ những tiếng la hét của những người Do Thái đòi giết Chúa Giê-su mà tuyên án Người phải chết trên thập giá! Nhưng theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, chính khi Chúa Giê-su bị treo lên cao là lúc Vương Quyền của Người bao trùm tất cả gian trần này.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh hôm nay là:
NHỜ VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA CHA CHO ĐẾN CHẾT TRÊN THẬP GIÁ VÀ VÌ YÊU THƯƠNG NHÂN LOẠI ĐẾN HƠI THỞ VÀ GIỌT MÁU CUỐI CÙNG,
CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ ĐƯỢC CHÚA CHA TÔN VINH LÀM VUA CAI TRỊ TOÀN THỂ VŨ TRỤ VẠN VẬT VÀ CON NGƯỜI! VƯƠNG QUỐC CỦA NGƯỜI BAO LA VÔ TẬN! VÀ VƯƠNG QUYỀN CỦA NGƯỜI TỒN TẠI ĐẾN MUÔN THUỞ MUÔN ĐỜI!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
- Nếu tôi nhìn nhận và tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là Vua toàn thể vũ trụ, vạn vật và con người, thì tôi sẽ hăng say tìm mọi cách để Vương Quyền của Người được nhìn nhận trong thế giới này, để Vương Quốc Tình Thương của Người mở rộng đến mọi tâm hồn và mọi cơ cấu quốc gia và quốc tế.
- Nếu tôi nhìn nhận và tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô là Vua của cá nhân và gia đình tôi, thì tôi và gia đình tôi sẽ nỗ lực sống theo Hiến Chương Nước Trời mà Người đã công bố trong bài giảng trên Núi (Mt 5,1-12) làm cho tinh thần Bát Phúc toát lên trong đời sống cá nhân và gia đình và lan tỏa ra chung quanh.
IV. CẦU NGUYỆN
Vì là hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ B, nên đề nghị chúng ta dâng lên Thiên Chúa Tâm Tình và Lời Kinh Suy Phục & Tạ Ơn, cùng với tác giả Hương Kinh Trà Lũ qua bài thơ TẠ ƠN sau đây:
Tạ ơn tình trời Cho tôi làm người Trăm năm tại thế Vĩnh hằng thiên thai. Tạ ơn cuộc đời Cho tôi tình người Niềm vui hạnh phúc Nỗi buồn khổ đau. Tạ ơn trầu cau Con đò bến nước Cây đa đình cổ Hương lúa vàng thau. Tạ ơn suối reo Biển sâu rừng thẳm Mây xanh núi biếc Gió mùa lao xao. Tạ ơn trăng sao Chớp lòa sấm nổ Giọt nắng thanh tao Mưa sa tưới gội. Tạ ơn đồng nội Thơm hạt lúa vàng Công người vun xới Cho hạt cơm ngon. Tạ ơn phố đông Tàu xe tấp nập Cho người gặp gỡ Kết một niềm thương. (Xin thêm) Tạ ơn Thiên Chúa Ban ơn Cứu Độ Qua Chúa Giêsu là Vua Vũ Trụ. Điệp khúc tạ ơn Tha thiết trong tim Tạ ơn mãi mãi Ngàn đời tri ân. (Hương Kinh Trà Lũ) Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Garden Grove (CA/USA) 11.11.2006
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ hôm nay, Giáo hội mời gọi ta ngắm nhìn trái đất, nơi Thiên: TN 34-ABC206
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ hôm nay, Giáo hội mời gọi ta ngắm nhìn trái đất, nơi Thiên Chúa đã tạo dựng cho con người và vì con người, nơi Thiên Chúa đã đem lòng yêu thương và ban ơn cứu chuộc. Nơi đây Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình, đã mặc lấy thân phận con người, sống như con người, và chết cho con người được sống.
Hôm nay trái đất này là nơi sinh sống của hơn 6 tỉ người. Trái đất này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay đưa ta về khung cảnh xét xử Chúa Giêsu trong dinh philatô, nơi một kẻ tội lỗi lại xét xử một đấng Thánh, một con người hèn mọn lại xét xử một Thiên Chúa tối cao, và một tạo vật bé nhỏ lại đi xét xử một đấng tạo hóa quyền năng vô biên.
Trong cuộc xét xử này, Đức Giêsu không nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân chúng tôn vinh mình là vua, nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài. "Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga.18:36)
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ. Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại rộng lớn vô biên và có những công dân thực sự. Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này. "Tôi đã sinh ra và đã đến trong thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật.". (Ga.18:37)
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước. Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan. Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
"Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi". Chúng ta không nghe được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật, như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề: ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công... Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế, ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
***
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ hôm nay, ước chi ta biết xóa bỏ những thần tượng giả mạo, ước chi ta chọn Ngài làm vua của lòng mình, để Ngài chiếm hữu từng khoảng khắc cuộc đời ta, và ngự trị trong cõi lòng ta luôn mãi. Amen
Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế. Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn: TN 34-ABC207
1. Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”.
X. Léon-Dufour giải thích: "Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy "vị Ngôn sứ" để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là "Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi." ("Lecture de l'evangile selon Jean", tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: "Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: "Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.
- Sau đó, Chúa đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần: "Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
A. Marchadour quảng giải: "Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi khác, đến từ "xứ sở" nơi Đức Giêsu "sinh ra”, và từ đó Người "đã đến thế gian”, vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này" ("L'evangile de Jean", Centurion, trang 227).
2. Đức Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn hỏi: "Vậy ông là vua ư?”, Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là "làm chứng cho chân lý" (từ "làrn chứng" trong tiếng Hy lạp là "martyr": tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn ("Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý"): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu "bất cứ ai thuộc về chân lý”.
Sứ mạng của Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: “ Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi" Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là gì?" ("Célébrer" tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Đức Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn.
(x. Léon-Dufour, trong "Lecture de l'evangile selon St Jean", cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức Kitô là "Vua Vũ Trụ”, một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là "một cuộc hiển linh của vi vua" Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là "người"vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì "chân lý" mà Người công bố, liên quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua " ấy ở đâu: Vua vinh quang phán: "Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40): để có thể tìm thấy "vua”, tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu. Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu "vua dân Do Thái" phản ánh theo cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về "vị vua" đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
2. Đức Giêsu, phản vua (L'antiroi)
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu.
Ngày nay cũng vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-ABCnh-hùng (antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn kính đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân lý... giống như Người.
Thành công của Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.
Trong những lời đối thoại với ông Philatô mà bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 18, 33b – 37 ) thuật: TN 34-ABC208
Trong những lời đối thoại với ông Philatô mà bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 18, 33b – 37 ) thuật lại, Đức Giêsu khẳng định một cách rõ ràng vương quyền của Người và nêu ra hai đặc trưng quan trọng của vương quyền đó, khác hẳn với quan niệm mà ông Philatô có thể có về vương quyền và sứ mệnh của các vị vua trên thế gian này.
1. Đức Giêsu nói rõ với ông Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” ( c. 36a ). Trước đây, khi tranh luận với người Pharisêu về lời chứng liên quan đến bản thân Người, Đức Giêsu đã từng nói: “Tôi không thuộc về thế gian này” ( 8, 23 ), trong ngữ cảnh là lập tức ngay sau đó Người khẳng định “Tôi Hằng Hữu” ( Êgo êimi ) ( 8, 24.30 ). Cái “thế gian này” được đề cập đến ở đây chính là cái hệ thống bất chính, cái hệ thống đang áp đặt sự thống trị gian ác của nó trên con người, cái hệ thống mà sự gắn kết với nó bị coi là tội lỗi. Đối ngược với cái hệ thống ấy, Đức Giêsu phục vụ con người và từ khước việc người ta suy tôn mình ( x. 6, 15 ). Trong tư cách là vua của “Nước không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu sẽ là Con Người bị giương cao lên, Đấng hiến ban mạng sống để cứu độ nhân loại.
2. Đức Giêsu xác định với ông Philatô: “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái” ( c. 36b ). Lời này giả thiết cách hiểu rằng một trong những đặc trưng của các ông vua của thế gian này là họ sử dụng sức mạnh để thiết lập và bảo vệ quyền thống trị của họ. Nhưng Đức Giêsu thì không như vậy. Người coi việc sử dụng bạo lực là một thành phần của cái hệ thống bất chính và tội lỗi. Chính ở điểm này mà vương quyền của Đức Giêsu khác hẳn vương quyền của vua chúa thế gian. Người tự nguyện chấp nhận bị nộp vào tay người Do Thái và ngăn cản ông Phêrô dùng sức mạnh chống lại những kẻ đến bắt Người ( 18, 11 ). Người từ chối sử dụng sức mạnh, chứng tỏ Người không làm vua như những người khác. Người chấp nhận bị nộp cho người Do Thái thay vì huy động lực lượng để thoát khỏi số phận bi tương của một kẻ bị kết án tử hình.
3. Vương quyền của Đức Giêsu không đặt nền hay bắt nguồn từ bất cứ nền tảng pháp lý hay chính trị hay kinh tế hay ý thức hệ nào của cái thế gian này. Người nói rõ: “Thật ra, Nước tôi không thuộc chốn này” ( c. 36c ). Vương quyền của Người có nền tảng hoàn toàn khác. “Không thuộc chốn này” tức là “không thuộc về thế gian này”. Vương quyền của Đức Giêsu thuọc “thượng giới” chứ không phải “hạ giới” ( x. 8, 23 ), tức là thuộc cảnh vực của Cha và của Thánh Thần. Đó là vương quyền mang lại sự sống ( x. 4, 47.49 ) chứ không phải sự chết.
4. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã khiến ông Philatô ngạc nhiên. Ông không thể hiểu một vị vua mà lại tuyên bố như vậy. Ông không thể quan niệm một vị vua mà lại từ chối sử dụng sức mạnh để bảo vệ uy quyền của mình. Vì thế, ông hỏi thẳng Đức Giêsu: “Vậy ông là vua sao ?” Thực ra, khộng chỉ ông Philatô ngạc nhiên. Mọi người đều phải nạc nhiên khi nghe công bố về vương quyền của Đức Giêsu như Người đã nói ở c. 36 trong bài Tin Mừng hôm nay, nếu họ nghe bằng đôi tai của những con người thuộc hạ giới. Thế giới hôm nay, và cả cái phần thuộc về thế giới này trong các thực tại và tập thể Kitô giáo nữa, vẫn không thể hiểu được vương quyền của Đức Giêsu và vẫn phải ngạc nhiên mà chất vấn Người: “Ông là vua sao ?”
5. Đức Giêsu trả lời: “Tôi là vua” ( c. 37a ). Hoàn toàn phù hợp với những gì được nói ở câu 36, Đức Giêsu tường minh khẳng định về vương quyền của mình. Rồi lập tức Người nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian chính là để làm chứng cho sự thật” ( c. 37b ). Người giải thích sứ mệnh làm vua của Người. Sứ mệnh đó không hệ tại ở sự thống trị hay cai quản, theo kiểu các vị vua của thế gian này. Sứ mệnh làm vua của Đức Giêsu trước hết và trên hết là “để làm chứng cho sự thật”.
“Đã đến thế gian” là kiểu nói đã hai lần được Gioan áp dụng cho ánh sáng: 3, 19 và 12, 46. Đáng chú ý là ở 12, 46, Đức Giêsu khẳng định một cách tỏ tường ánh sáng là chính bản thân Người. Đàng khác, sự thật là chính bản thân Đức Giêsu như Người đã nói: “Chính Thầy là sự thật” ( 14, 6 ). Như thế, sự thật mà Đức Giêsu đã đến để làm chứng được đồng nhất hóa với ánh sáng, tức là ánh rạng ngời của sự sống ( “sự sống là sự sáng...”: 1, 4 ).
Về lời chứng của mình, Đức Giêsu đã từng nói: “Chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy” ( 3, 11 ). “Người làm chứng về những gì Người đã thấy và đã nghe” ( 3, 32 ). Đó cũng là lời chứng về sự từ khước của Người đối với thế gian vì cách hành xử xấu xa của nó: “Tôi làm chứng rằng các việc thế gian làm thì xấu xa” ( 7, 7 ). Đó còn là lời chứng về chính bản thân Người trong liên hệ với sứ mạng của Người ( 8, 14 ).
Trong khía cạnh tích cực, sự thật mà Đức Giêsu-Vua đến để làm chứng, là kinh nghiệm của chính bản thân Người ( 3, 11.32 ), kinh nghiệm về Thần Khí là Tình Yêu và là Sự Sống. Đó là sự thật về tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( 3, 16 ). Tình yêu đó được thể hiện nơi con người và hoạt động của Đức Giêsu. Đức Giêsu là sự thật về Thiên Chúa bởi vì Người thể hiện tình yêu của Thiên Chúa, và Người là sự thật về con người xét như là sự thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa về con người. Đó chính là sự thật mà Đức Giêsu-Vua làm chứng.
6. Đức Giêsu làm chứng cho sự thật bằng chính cái chết của Người trên thập giá. Và quả thực, cách nói “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật” ( c. 37b ) cho thấy sứ mệnh của Vua Giêsu được thực hiện trong lịch sử. Vương quyền của Đức Giêsu hoàn toàn khác với vương quyền của cái thế gian xét như là một hệ thống bất chính, nhưng vương quyền đó cũng vẫn phải được thực hiện ngay trong lịch sử nhân loại, và hơn nữa, phải là yếu tố định hướng lịch sử nhân loại.
Vì thế, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu cầu nguyện với Cha cho những kẻ thuộc về Người trằng: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” ( 17, 15 – 19 ).
Kết luận:
Có hai đặc trưng của Đức Giêsu-Vua được khắc họa trong những lời Đức Giêsu nói với ông Philatô trong bài Tin Mừng hôm nay: ( 1 ) sự từ khước sử dụng sức mạnh, ( 2 ) sứ mệnh làm chứng cho sự thật. Tôn thờ Đức Giêsu-Vua, chúng ta được mời gọi phải xây dựng cuộc sống và cộng đoàn của mình cho phù hợp với hai đặc trưng quan trọng đó.
Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc: TN 34-ABC209
Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc thực tế để nắm giữ quyền lực này. Có hai cách duy trì quyền lực: luật pháp và sức mạnh. Cách thứ nhất thì tốt nhưng luôn luôn không đủ. Vị quân vương giỏi phải dùng cách thứ hai, cách của sức mạnh.
Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì lại không thể chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để doạ sói.
Quân vương không cần giữ lời hứa, nếu có điều gì chạm vào quyền lợi của ông ta. Phần lớn con người thì bất lương, vô ơn, lường gạt, nói dối, sợ nguy hiểm và tham lợi, cho nên tại sao vị quân vương phải lương thiện với họ.
Một quân vương nên để cho người dân yêu mến hay sợ hãi ? Có thể ông ta cần cả hai. Nhưng nếu phải chọn một trong hai, thì an toàn hơn là để cho người dân khiếp sợ. Tuy nhiên tôi cho rằng vị quân vương nên làm ra vẻ bác ái và trọng danh dự, vì dù sao phần lớn con người thường bị lường gạt bởi sự phô trương, và tôi đồng ý rằng một quân vương không kiểm soát được mình thì giống như một kẻ điên, và không còn điều nghi ngờ về một chính quyền được điều hành bằng luật pháp ( Niccolò Machiavelli, Le Prince ).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến vương quyền. Quan Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không ?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu lại đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói về tôi ?” Quan Philatô phủ nhận mình không là dân Do Thái, rồi lại hỏi câu khác: “Ông đã lảm gì ?” Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi này, mà khẳng định môt điều hoàn toàn xa lạ với câu nghi vấn nêu ra.
Quan Philatô trở lại câu hỏi ban đầu: “Vậy ông là vua sao ?” Chúa Giêsu lại khéo léo tránh né: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.” Lần thứ hai Người tế nhị từ chối vương quyền trần thế.
Quân Vương
Quan Philatô đã cố ý gài bẫy Chúa Giêsu nhìn nhận vương quyền, nhằm hai mục đích, trước là ghép tội mưu phản, sau là bêu riếu, sỉ nhục Chúa Giêsu. Nhưng Người đã khôn ngoan đối đáp, lấy lại thế chủ động, cật vấn trở lại, khiến quan Philatô lúng túng, phải thanh minh, kẻo bị liên lụy, mang tiếng là a dua với dân Do Thái, cố tình phong vương cho Chúa Giêsu, có thể bị mang tội phản quốc, khiến ông phải vội đính chính ngay: “Tôi là người Do Thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.”
Nếu muốn làm vua, Chúa Giêsu đã có nhiều cơ hội được lên ngôi nhờ chính quần chúng tôn phong, như sau khi hai lần hóa bánh nuôi hàng ngàn người, như khi được chào đón trọng thể vào Đền Thánh Giêrusalem… Nếu thành quân vương, thì làm sao thoát được thói bá đạo để củng cố quyền lực, như Nicolo Machiavelli đã trình bày trong tác phẩm Quân Vương.
Nhân cơ hội thẩm vấn công khai, trước chính quyền đô hộ, Chúa Giêsu loan báo rộng rãi về Vương Quốc của Người, hoàn toàn thoát tục: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái.”
Thiên Vương
Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm một lần nữa: “Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” Như thế, Người muốn nói đến Nước Trời, Thiên Quốc, niềm hy vọng và cứu cánh của con người. Bởi vậy, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ khi đến thế gian: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” ( Ga 18, 37 ).
Vương quyền của Chúa Giêsu đặt trên nền tảng sự thật, yêu thương và phục vụ, chứ không phải lừa dối, mỵ dân, thù hận và áp bức như quân vương thế gian. Người còn làm gương, sống đúng theo lề luật Nước Trời, khiêm hạ, nhịn nhục, chịu khinh rẻ, phỉ báng, chịu cáo gian, vu khống, mà vẫn yêu thương và phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng. Còn thần dân trung tín của Người là những người nghe theo và thực thi Lời Người dạy.
Tuy nhiên, con người thường vẫn hay tôn thờ đồng tiền như là vua của mình. Tiền như tiên, như Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già… Hoặc công danh là tiên đế, thái thượng hoàng. Hoặc hưởng thụ, xác thịt, xa hoa là quân vương. Chạy theo “đồ giả,” “hàng giả” bóng bẩy, hào nhoáng, màu mè, hấp dẫn, mà bỏ qua “đồ thật”, “hàng thật” chân chất, tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Mải mê chạy theo các thờ lạy các hôn quân hỗn tạp, vô tình xa lánh Minh Quân duy nhất. Tuy nhiên, Đấng Thiên Vương cứ vẫn nhẫn nại, chờ đợi các con dê ham vui, sớm sám hối, ăn năn, trở thành chiên ngoan, sớm nhận ra vị Vua đang yêu thương mình quá bội.
Đấng Thiên Vương Giêsu lấy thịnh tình đối xử với con dân. Luôn săn sóc, luôn nâng đỡ, luôn an ủi và mời gọi những kẻ khốn cùng, những con chiên lạc, những đứa con hoang đàng, tả tơi, kiệt lực, kiệt sức, sám hối trở về. Vì Tình Yệu vô bờ bến, Thiên Vương Giêsu đã phải hạ mình, chịu khổ hình và chịu chết, đền thay nguyện giúp cho mọi tâm hồn tội lỗi, hầu cứu rỗi thoát khỏi án phạt muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy luôn làm Vua tâm trí và cõi lòng của con, để con có thể thuộc về Người từng giây phút trong cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết sống xứng đáng là con dân của Vua Kitô, Đấng hằng chăm sóc và ban muôn hồng ân, để con được sống muôn đời trên Nước Trời. Amen.
Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ: TN 34-ABC210
Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ trong tâm hồn mỗi người, trong gia đình, rồi lan ra đến cộng đồng, kể cả cộng đoàn Công Giáo.
Ảnh hưởng của tội nguyên tổ sao mà dai dẳng thế ?!? Có phải vì con người đầu tiên đã chui vào bụi rậm trốn ánh nhìn của Thiên Chúa mà bây giờ tâm hồn con cháu loài người vẫn cứ thích hướng lòng về những ém nhẹm, những giấu kín, những che đậy, ẩn nấp đâu đó từ tư tưởng đến hành động. Cả tôi, cả bạn, nếu lắng lòng sâu thẳm và thành tâm xét mình, có lẽ một ngày đời của chúng mình không biết bao nhiêu lần gian dối, bao nhiêu ý định không ngay thẳng, bao nhiêu lời nói việc làm gian tà… Cứ tưởng như là không ai có thể biết được điều ta đã giấu kín.
Biết đâu là chân lý ? Con cái đã không nhìn thấy cách sống chân thành nơi cha mẹ của chúng, lại còn chứng kiến hằng ngày những gian dối trong nhà. Ánh mắt nhìn của cha chưa hẳn là ánh mắt của thủy chung, bao dung, quảng đại. Nụ cười dịu dàng của mẹ ngày nay chưa hẳn là nụ cười của tình yêu trung tín, của hiến dâng trọn vẹn, của hy sinh ví tựa biển thái bình.
Biết đâu là chân lý ? Con dân trong một đất nước cũng chẳng biết đâu là chân lý khi cả một khối lãnh đạo đất nước nói một đường làm một nẻo, hoặc mỗi ngày lại có thêm một bại lộ về những gian tà tham nhũng, phanh phui dần những trò nham hiểm thanh trừng lẫn nhau trên sân khấu chính trị…
Biết đâu là chân lý ? Ở đâu cũng thấy bóng dáng của sự gian dối. Ở đâu người ta cũng không sống chân thành với nhau. Và khi không sống chân thành với nhau bằng tình thương của con người, thì ở đó, không có bóng dáng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính khi sống gian tà là lúc chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Với các Kitô hữu cũng vậy, tuyên xưng “Tôi tin vào Thiên Chúa” mà vẫn cứ ẩn mình trong sự gian dối, thì lời tuyên xưng kia lại chính là sự nói dối lộ liễu của một con người quá thấp hèn trước Thiên Chúa uy quyền, cao cả, mà không hề sợ hãi phép công thẳng của Ngài.
Đức Giêsu Kitô đã đến và mạc khải cho trần gian biết những sự thật quan trọng: Có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa ban Sự Sống vĩnh cửu cho con người.
Đức Giêsu Kitô đã làm chứng về những điều đã mạc khải bằng chính cuộc sống của Ngài: rao giảng Nước Thiên Chúa, loan truyền sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và mời gọi mọi người biết yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu, như Con Thiên Chúa đã yêu: hiến mạng sống mình vì người mình yêu, để người mình yêu được sống và sống dồi dào ở đời này, phục sinh ở đời sau.
Trong khi nhân loại cứ vật vờ trong cách sống gian dối mà Satan dạy dỗ, hướng dẫn cho cách lẩn tránh Thiên Chúa, thì chính Đức Giêsu Kitô đã khai mở một con đường mới cho nhân loại: sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính ấy bắt nguồn từ việc: Tin vào Đức Giêsu Kitô và sống theo Lời Ngài. Câu hỏi “Biết đâu là chân lý ?” đã được giải đáp thỏa đáng ngay tại tòa tổng trấn Philatô: “Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng Tôi”.
“Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” hay nói cách khác, những người chọn Chúa Kitô làm thần tượng cho mình, chọn Lời Chúa Kitô làm kim chỉ nam cho đời mình, những người chấp nhận thuộc về Chúa Kitô, là những người đã biết được đâu là chân lý, sống trong chân lý, và làm chứng cho chân lý.
Trong cùng một Đức Giêsu Kitô, họ trở nên con dân trong Nước Thiên Chúa mà chính Người làm Vua của họ. Một đất nước của Chân Lý, quyền bính là Tình Thương, không thuộc về thế gian này:
"Quan nói đúng. Tôi là Vua !”
"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà Nước tôi không thuộc chốn này".
Sống trong Sự Thật là sống Niềm Tin có Thiên Chúa, và sống chân thành yêu thương trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được “Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương ban ơn bình an và ân sủng” khi Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”.
Giáo Hội kết thúc Năm Phụng Vụ với Lễ suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua vũ trụ, Vua muôn loài, và là Vua của những kẻ đã Tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài dạy. Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi chúng ta về việc mỗi tín hữu phải kết thúc hành trình đời người và hành trình Đức Tin trong Chúa Giêsu Kitô để xứng đáng hưởng phần gia nghiệp muôn đời mà Thiên Chúa đã sắm sẵn nhờ máu cứu độ của Con Ngài: Nước Thiên Chúa.
Khi kết thúc hành trình đời người, dẫu chỉ còn hai nắm tay không trước mặt Thiên Chúa, con người vẫn là một thụ tạo xinh đẹp, nếu thụ tạo ấy sống và làm chứng cho sự thật là Thiên Chúa và Tình Yêu. Và ngược lại, con người có xiêm y lụa là xinh đẹp trước mặt trần gian mà sống trong sự gian dối, bất tín thì đáng tiếc thay, họ không được niềm vui vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Vua.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa Giêsu, biết sống tin yêu chân thành như Chúa Giêsu, để chúng con xứng đáng được kết thúc hành trình đời người trong Nước Thiên Chúa, dưới vương quyền Vua Giêsu Kitô mà suốt đời con đã kính tin, tôn thờ, yêu mến.
Năm Phụng Vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập Thể, tiếp nối qua hành trình rao giảng Tin Mừng rồi: TN 34-ABC211
Năm Phụng Vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập Thể, tiếp nối qua hành trình rao giảng Tin Mừng rồi cuộc Thương Khó và Phục Sinh và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, Năm Phụng Vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa Nhật cuối cùng Năm Phụng Vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào ? Việc tuyên xưng Đức Kitô là Vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu ?
1. Vua Trong Lịch Sử
Sau thế giới đại chiến lần thứ nhất, chế độ quân chủ ( vua cai trị ) không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng “làm kiểng” như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật Bản... không có thực quyền.
Trong lịch sử loài người, có một số vị vua có tài, giỏi đánh giặc và trị nước, nhưng hầu hết các vị vua đều độc tài độc đoán ( vì cha truyền con nối ), không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, chẳng quan tâm đến bá tánh. Các vị vua bên Tàu còn tự xưng mình là thiên tử ( con trời ) nên làm trời con, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống ( quân xử thần tử, thần bất tử bất trung ). Các vua Roma tự xưng mình là Thần, ngang với Thượng Đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì tham lam, ích kỷ, dâm ô. Khi đã chiếm được ngai vàng, họ coi thần dân như bầy tôi, giang sơn đất nước là tài sản riêng của họ: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc và còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, phải chiến tranh giành giật đẫm máu. Đọc lịch sử Việt Nam, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm. Năm 1945, vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị.
2. Vua trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước công nguyên, dân Israel có vua cai trị giống như các dân khác.
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavit và Salômôn. Giavê Thiên Chúa, qua ngôn sứ Samuel đã cảnh cáo dân rằng: “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” ( 1S 15, 10 ). “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel… Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê… ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” ( 2S 12, 9 ).
Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp ( 1V 11, 3 ). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các bà vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi… Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” ( 1V 11, 11 ).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Bêlem, từ hai tuổi trở xuống” ( Mt 12, 6 ).
3. Đức Giêsu Kitô, Vua Niềm Tin
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua Vũ Trụ. Ngài không làm vua theo kiểu vua chúa trần gian. Ngài cũng không làm vua một lãnh vực kinh tế nào. Đức Giêsu là Vua Niềm Tin. Vương Quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật. “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố, đó là ý định cứu rỗi của Chúa Cha: Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến để cứu độ thế gian.
Đức Giêsu thiết lập một Vương Quốc phổ quát và vĩnh cửu bằng niềm tin và tình yêu trong sự thật.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: “Chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêda không ?” Đức Giêsu đáp: “Của Xêda hãy trả cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không ?” Người đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nước Chúa không thuộc về thế gian. Nước Chúa ở trong các tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Đức Giêsu đem đến cho nhân loại.
Vương Quốc Đức Giêsu là Vương Quốc Sự Thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương Quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêda hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêda chỉ cai trị thể xác loài người, còn Vương Quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thế lực của Xêda là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh Vương Quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêda cũng bị giới hạn. Vương Quốc của Vua Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêda. Vương Quốc Sự Thật, Niềm Tin tồn tại muôn đời.
Trong Vương Quốc Niềm Tin, con người tiếp nhận Sự Sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất.Thiên Chúa thông ban Sự Sống cho con người vì Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống ?
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhận định: “Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo Hội ngày nay” ( Phát biểu tại Assisi nhân Ngày Cầu Nguyện cho Hòa Bình 27.10.2011 ). Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu xa của những thách thức đối với Giáo Hội ngày nay là khủng hoảng Đức Tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục. Có lẽ đây là một trong những lý do chính mà Ngài quyết định mở Năm Đức Tin cho toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 14.11.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục loạt bài Giáo Lý về Năm Đức Tin. Thế kỷ trước, chúng ta đã chứng kiến sự lớn mạnh và phát triển của chủ nghĩa tục hóa, nhân danh con người có quyền tự chủ tuyệt đối, coi tục hóa là một giải pháp và sự sáng tạo đối với hiện thực. Ngày nay, đức tin đang phải đối diện với những khó khăn, đó là “ít hiểu biết về Đức Tin, Đức Tin bị thử thách và chối từ Đức Tin”. Chủ nghĩa vô thần ‘thực dụng’ là một hiện tượng nguy hại cho Đức Tin.
Đức Thánh Cha mô tả về ba con đường nhận biết Thiên Chúa: Thế Giới, Con Người và Đức Tin.
Thế Giới: liên quan đến việc “giúp con người ngày nay phục hồi khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp và cấu trúc của công trình sáng thế. Thế giới này không phải là một khối hỗn mang không có hình dạng, nhưng càng tìm hiểu, càng khám phá cơ chế lý thú của nó, càng ngắm kỹ một mẫu hình, chúng ta càng thấy đó là cả một trí tuệ sáng tạo”.
Con Người: Thánh Augustinô từng nói: “Chân lý cư ngụ trong trái tim con người”. Theo Đức Thánh Cha, “đây là một khía cạnh khác, ngày nay trong một thế giới ồn ào, làm chúng ta bị phân tâm, chúng ta có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại và nhìn sâu vào nội tâm mình”.
Đức Tin: đây không chỉ đơn giản là một “hệ thống những giá trị, những lựa chọn và hành động”, nhưng “là sự gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đang nói và hành động trong lịch sử, Đấng biến đổi cuộc sống hằng ngày của chúng ta, biến đổi suy nghĩ, các giá trị, những lựa chọn và hành động của chúng ta”. Ngài kết luận: “Đức Tin không phải ảo tưởng, là trốn chạy cuộc sống, là nơi tạm trú đủ tiện nghi, là cảm xúc; nhưng là sự dấn thân vào mọi khía cạnh của cuộc sống và loan báo Tin Mừng, Tin Vui đem lại giải thoát mọi điều thuộc về con người” ( Theo Alessandro Speciale, Vatican Insider, 14.11.2012; WHĐ ).
Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu ? Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng Đức Tin.
Đức Tin là một Sự Sống. Khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương Quốc của Đức Kitô. Ánh sáng Đức Tin hướng dẫn nhân loại đến yêu thương và phục vụ. Khi con người biết sống cho người khác họ sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Ở Vũng Tàu, có tượng Chúa Kitô Vua thật lớn đứng trên núi cao nhìn về biển đông, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân ra khơi, nhìn lên tượng Chúa để xác định phương hướng. Khi gặp sóng gió, họ cũng hướng về tượng Chúa để cầu nguyện xin ơn.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Vua niềm tin, chúng ta trọn một niềm xác tín, Chúa Kitô là trung tâm Lịch Sử Cứu Độ là chuẩn đích cho chúng ta định hướng với tin yêu và hy vọng. Hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của Sự Sống và Sự Thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình ( Kinh Tiền Tụng ).
Cách đây một tháng, tôi có dịp đi thăm Đà Lạt, một anh bạn của tôi ở Đà Lạt có dẫn đi xem một vài: TN 34-ABC212
Cách đây một tháng, tôi có dịp đi thăm Đà Lạt, một anh bạn của tôi ở Đà Lạt có dẫn đi xem một vài địa điểm du lịch tại đây. Một trong số những địa điểm tham quan mà tôi thấy rất thích, đó là Dinh Bảo Đại. Người hướng dẫn giới thiệu cho chúng tôi về cuộc sống, nơi làm việc và khu vui chơi giải trí của vua cũng như hoàng triều. Sau khi tham quan xong, hai anh em chúng tôi có chung một nhận định như sau: vua Bảo Đại là một vị vua trần gian, tại một đất nước nhỏ bé, ấy vậy mà có cả một cung dinh thự nguy nga với đầy đủ tiện nghi sang trọng của thời bấy giờ, đấy là chưa kể đến cung đình của nhà vua ở Huế. Còn Vua Giêsu, một vị Vua trên hết các vua, Chúa các chúa. Một vị Vua Cả Trời đất, nhưng cuộc sống, lời rao giảng và ngay cả ngày đăng quang của Người lại rất đặc biệt. Khác hẳn những vị vua của trần gian. Phải chăng đây là điều lạ lùng nơi Vua Giêsu Kitô mà hôm nay chúng ta mừng ?
Trước khi tìm hiểu về những điều lạ lùng nơi Vua Giêsu, và những bài học mà Người ban cho chúng ta, chúng ta cùng nhau xác tín căn tính của Người:
Quả thật, tự bản tính của Chúa Giêsu là Vua như lời Người mạc khải: “Tôi và Chúa Cha là một" ( Ga 10, 27 – 30 ); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” ( Ga 14, 9 ). Và khi quan Philatô hỏi Chúa Giêsu có phải là vua không ? Người đã trả lời lập trường của mình: "Quan nói đúng. Tôi là Vua” ( Ga 18, 36 ), nhưng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". ( x. Ga 18, 33b – 37 ). Lập trường thứ hai mà Người muốn tỏ cho Philatô được rõ, đó là: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Và cuối cùng, Chúa Giêsu khẳng định Thiên Tính của mình khi nói: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” ( Ga 19, 11 ). Như vậy, quá rõ, Chúa Giêsu – Người là vua tự đời đời, bởi vì Người là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu. Nhưng Người lại là vị Vua rất lạ lùng.
Lạ lùng lúc sinh ra: “Hôm nay Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Dấu chỉ để nhận ra Người là: một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 11 – 12 ). Khi đặt bút viết về mầu nhiệm Giáng Sinh, nhà thơ, Linh Mục Võ Thành Tâm đã viết:
“...Gió mong quạnh trong hang lừa ẩm ướt Chúa muôn loài mặc lốt trẻ sơ sinh… Bê Lem ơi ! Giờ phút ấy có hay Vua cao cả gặp ngay nhiều tủi cực Đàn súc vật tới chầu quanh máng cỏ Kính dâng Ngài hơi thở ấm thô sơ”
Nếu các hoàng tử con vua ở trần gian sinh ra là một điều trọng đại: cả quốc gia lẫn cung đình hân hoan, hoàng triều trang hoàng tráng lệ, vui ca, nhảy múa để đón con vua chào đời, ngược lại, vị “Hoàng Tử” Con Trời ngự đến lại mang trong mình hình hài của một trẻ thơ nằm trong máng cỏ của bò lừa, nơi một cách đồng hoang vu lạnh giá...
Lạ lùng thời thơ ấu: Chúa Giêsu mới sinh ra đã bị vua Hêrôđê tìm giết, Nên Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria phải bồng Ngài trốn sang Ai Cập ( x. Mt 2, 13 – 16 ). Không như bao vị hoàng tử khác, từ lúc ấu thơ đã được chăm sóc kỹ lưỡng, còn “Hoàng Tử” Giêsu của chúng ta lại khác hẳn, Người đã chịu đồng cảnh ngộ với những trẻ em thời bấy giờ do sự ghen ghét của ông vua trần gian là Hêrôđê. Và, cũng không như bao vị hoàng tử khác, thiếu thời của các hoàng tử đều được ở riêng để huấn luyện cung cách thống trị nhằm chuẩn bị cho việc nối ngôi sau này, thì “Hoàng Tử” Giêsu lúc 12 tuổi lại không phải vậy: Người luôn tìm cách chu toàn bổn phận của người con với Cha của mình: “Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà của Cha con sao ?" ( Lc 2, 49 ).
Lạ lùng khi tổ chức triều đình: nếu các vua trần gian lấy quyền của riêng mình để chọn lựa những người mình ưa thích, thì Chúa Giêsu tổ chức triều đình và tuyển chọn các quan đại thần lại bằng con đường cầu nguyện: "Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông Đồ" ( Lc 6, 12 ). Nếu các vua trần gian có cả một hệ thống quân sự, thống trị và củng cố vương quyền của mình bằng quyền lực, thì Chúa Giêsu lãnh đạo bằng con đường tình yêu và vâng phục, bởi vì trong Vương Quốc ấy, sự thật, công lý và bình an ngự trị.
Lạ lùng trong tiến trình “đăng quang”:
Người là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò ! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” ( Dc 9, 9 ). Được dân chúng tung hô chúc tụng, nhưng chỉ sau đó một thời gian ngắn, Người đã bị chính con dân của mình tìm bắt, đả đảo, chế nhạo và, đánh đập.
Cuối cùng, họ “đăng quang” Người trên thập giá. Khi đã “đăng quang” xong, họ chế diễu Người đủ điều. Nhưng cũng chính trên thập giá, “vương quyền” của Người được tỏ lộ rõ ràng hơn bao giờ hết: "Đây là vua dân Do Thái" ( Lc 23, 38 ). Người ta cho rằng tấm bảng viết “Đây là vua dân Do Thái” treo trên đầu của Người là một sự sỉ nhục, thì giờ đây lại là một bản tuyên tín “Người là Vua”. Điều lạ lùng hơn nữa là Vua Giêsu không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có vương trượng, chỉ có cây sậy. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu thương cho đến chết và chết trên thập giá.
Lạ lùng khi “xưng vương”:
Rất nhiều người, kể cả các môn đệ cũng thất vọng vì cơn hấp hối và cái chết của Người đã cận kề, thì anh trộm lành lại thốt lên lời hy vọng: “Lạy Ngài khi nào về Nước Ngài xin nhớ đến tôi cùng” ( Lc 23, 42 ). Tiếng nói của anh bất ngờ vang lên như một lời minh oan cho Chúa Giêsu: Chúng ta chịu như thế này thật là đích đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có tội tình gì đâu ( x. Lc 23, 41 ); và anh đã tuyên xưng vương quyền của Người: “Khi nào Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng” ( Lc 23, 42 ). Qua lời cầu khẩn đó, anh vẫn tin cái chết không phải là hết, đồng thời tin vào Nước của Chúa Giêsu và anh hy vọng mình sẽ được dự phần vào Nước đó.
Đúng như lời anh xin, ơn cứu độ của Chúa dành cho anh đã được thực hiện: "Hôm nay, anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng." ( Lc 23, 43 ). Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 13 – 15 ). Và, “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi sự lên với tôi” ( Ga 12, 32 ),
Qua cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với quan Philatô, và, qua lời tuyên xưng của anh trộm lành, cũng như lời xác quyết của chính Người, một lần nữa, chúng ta đã hiểu được phần nào về nguồn gốc thần linh của Người. Người là Vua Sự Thật, Công Lý và Tình Yêu. Không ai yêu như Người: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau” ( Ga 13, 34 ); hơn nữa, “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” ( Ga 13, 14 ).
Chúa Giêsu đã yêu thương con người cho đến chết: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” ( Ga 15, 13 ); Người còn ban chính Thịt Máu của Mình làm của ăn của uống cho nhân loại để minh chứng tình yêu: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy; ăn em hãy cầm lấy mà uống, này là Máu Thầy” ( Mc 14, 22 – 24 ); không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của Chúa Giêsu đối với con người: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em, hãy ở lại trong tình yêu Thầy” ( Ga 15, 9 ).
Người còn nêu gương và dạy cho chúng ta về sự khiêm nhường: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng khiêm nhượng” ( Mt 12, 29 ); hay “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì ? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn” ( Lc 22, 25 – 27 ).
Khó nghèo để làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn: “Cáo có hang, chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu” ( Lc 9, 58 ).
Bình dân để không còn khoảng cách chủ – tôi, không còn phân biệt giàu nghèo, tội lỗi hoặc thánh thiện: “Nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ” ( Mt 9, 10 ).
Một vị Vua giải thoát dân của mình bằng con đường hy sinh mạng sống: “Máu Thầy đổ ra để cho muôn người được tha tội” ( Mt 26, 28 ); và đã đem lại bình an cho dân: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con ” ( Ga 14, 27 ).
Ước gì khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta học được bài học khiêm nhường, khó nghèo và yêu thương. Xin cho sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn vang vọng trong cuộc sống thường ngày của ta, để qua đó, ta luôn đứng về phía sự thật, bênh vực công lý, bảo vệ người nghèo, bị bỏ rơi trong xã hội. Sẵn sàng đón nhận đau khổ vì Chúa và vì đức tin khi phải làm chứng cho Nước Trời bằng con đường Sự thật. Xin cho chúng ta xác tín vai trò của mình ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, là được tham dự vào chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế của Chúa Giêsu để biết “chọn sao cho trọn”, nhằm cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và tình thương ngay trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này.
Như thế, Chúa Giêsu là vị Vua rất lạ lùng, thì chúng ta là con dân của Người trong Nước ấy, cũng sẽ là những con người lạ lùng khi sống và biểu dương tinh thần Kitô hóa và Kitô giới trong môi trường xã hội hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chỉ có Chúa là Đường, chỉ có Chúa là Sự Thật, chỉ có Chúa là Sự Sống, xin làm Vua cai trị lòng trí chúng con, xin cho lòng trí chúng con khi sống với những thực tại trần gian, luôn biết quy hướng tâm hồn của mình về Nước của Chúa, Nước của Công Lý, Sự thật và Bình An. Ước gì sau cuộc đời trần thế này, chúng con cũng được chung hưởng hạnh phúc Nước Trời như người trộm lành khi xưa. Amen.
Không biết từ bao giờ, cổ tích luôn là những câu chuyện được hằn sâu vào tâm trí nhân loại. Vì: TN 34-ABC213
Không biết từ bao giờ, cổ tích luôn là những câu chuyện được hằn sâu vào tâm trí nhân loại. Vì chưng, ngay từ thơ bé, con người đã được tiếp xúc với những câu chuyện thần tiên, đưa tâm hồn họ vào những giấc mơ thiên đường. Ở đó, có một thế giới của sự thiện, mà sự ác không bao giờ có thể tồn tại. Sở dĩ, cổ tích được trẻ thơ yêu mến cũng là vì nơi ấy chứa đựng khát vọng căn bản và sâu thẳm của nhân loại – khát vọng thế giới hướng thiện thống trị, không còn bóng tối, không còn sự ác.
Thế nhưng, phải chăng cổ tích muôn đời mãi vẫn là cổ tích, để rồi vương quốc có những ông vua hiền minh, tài đức; những bà hoàng hậu xinh đẹp, tốt bụng không mãi tồn tại. Thực tế, nhân loại chỉ đón nhận được tội ác, chiến tranh và thù hận. Cho đến bao giờ, vị vua công chính thật mới xuất hiện ? Chẳng phải đã hơn 2.000 năm qua rồi, nhưng hỏi thử cái vương quốc cổ tích của nhân loại đã trở thành hiện thực rồi chưa ?
Phải, dường như thế giới sự thiện không bao giờ hiện diện hữu hình trên trần thế này. Trần gian chỉ là nơi bóng tối và sự dữ thống trị. Còn cái thế giới đẹp, cái thế giới thiện, cái thế giới chân thực dường như chỉ có ở trên trời, nơi không thuộc về trần gian này.
Nói vậy, chẳng lẽ thiên đường hạnh phúc không bao giờ tồn tại thật, mà nó thuộc về một nơi huyền ảo, xa xôi nào đó thôi chăng ? Tại sao vậy ? Tại sao vườn địa đàng trần gian lại không thể có, mà chỉ là địa ngục ? Tại sao thế giới sự thiện, ông vua hiền minh không thể tồn tại vĩnh cửu trong cuộc sống này, mà chỉ có thể xuất hiện ở một cuộc sống khác ? Nếu vậy, khi nào con người mới có thể thủ đắc một cuộc sống thái bình, thịnh vượng và hạnh phúc thật sự đây ?
Thế giới nhân loại khao khát đó, không bao giờ có ở trên trần đời này. Vì chính nhân loại đã tự tay mình giết chết vị Vua bình an, quyền năng và thánh thiện tuyệt đối vĩnh cửu, Đấng làm chủ vương quốc ấy. Nước của Ngài hoàn toàn không thuộc về trần gian này. Ngài đích thực là Đấng Tạo Hóa muôn loài, là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Thế nhưng, vương quốc Ngài hiện hữu không hệ tại bởi quyền lực thế trần, mà nơi đó chỉ có tình yêu thương, quyền năng và lòng thương xót. Thế giới, vương quốc ấy tồn tại ngay chính tâm hồn con người, không cần phải quay ngược quá khứ, cũng chẳng cần phải chờ đợi vào tương lai xa xôi, mà chỉ cần sống những giây phút hiện tại thật bình an, tin yêu và phó thác, hà tất con người sẽ sờ chạm được ngưỡng cửa tình yêu bất diệt.
Dân Do Thái nói riêng, nhân loại nói chung lầm tưởng Đức Giêsu đến làm vua trần thế. Họ xâu xé Ngài vì sợ mất chiếc ghế địa vị, quyền lực. Kết quả của lòng ganh ghét, hận thù đó chính là cái chết thảm thương trên thập tự. Nhưng không, Ngài đã khẳng định rõ ràng, minh bạch: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” ( Ga 18, 36 ).
Phải, vương quốc tình yêu, nơi có sự sống vĩnh cửu, nơi bóng tối và sự dữ không thể bén mảng đến chính là Nước của Thiên Chúa và Ngài chính là Vua, là Đấng trị vì thế giới đó. Một thế giới thối nát bởi hận thù, tội lỗi… không phải là nơi Thiên Chúa ngự. Ngài cũng không cần địa vị, của cải thế trần, nhưng Ngài cần tấm lòng, trái tim nhân loại. Những ai biết yêu thương và sống tình yêu thương, chính là những con người đến từ vương quốc của Thiên Chúa, và đang thủ đắc Nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa, thế giới Ngài hiện hữu không phải là một vương quốc cổ tích huyền ảo, nhưng là một thế giới thật, nơi ấy chỉ có tình yêu thương và sự thiện. Bóng tối tội lỗi không thể che mờ sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là khu vườn cổ tích mà nhân loại muôn thuở khao khát. Như muôn người, bao nhiêu thiên niên kỉ qua đi, con miệt mài lên đường đi tìm vương quốc tình yêu. Con đã vượt qua bao đèo cao, núi sâu, sa mạc cũng như biển cả thác ghềnh… để tìm Chúa, Đấng tình yêu của lòng con. Con biết rất rõ, con ý thức rất minh bạch, chỉ có nơi ấy mới cho con hạnh phúc, chỉ có nơi ấy mới không còn đau khổ và phải chết, chỉ có nơi ấy mọi giọt lệ mới được lau khô.
Thế nhưng, đường về Vương Quốc vĩnh cửu dường như xa quá, muốn được tận mắt diện kiến dung nhan Thiên Chúa quyền năng dường như vượt ngoài giới hạn con hay vì bởi lòng đam mê tham vọng, của cải thấp hèn, mà bước chân con bị trì hoãn. Có những lúc con bơ vơ giữa sa mạc tối tăm hoang dại, con lạc đường, lạc hướng trên con đường chân lý, con đã loại trừ Ngài, con đã buông bỏ Thiên Chúa để thỏa mãn dục vọng bản thân.
Xin ở bên con, xin nâng đỡ con, xin bảo vệ con, cho con niềm tin, cho con tình yêu, cho con sức mạnh, hầu con có thể kiên vững đến cùng trên con đường tìm về Đấng là Chân Thiện Mỹ, là Tình Yêu, là Vua Vĩnh Cửu. Trời đất có qua đi, vạn vật có không còn tồn tại, cho dù có mất đi tất cả, cho dù là không còn lại gì, cho dù có phải chấm hết cuộc sống, thì Thiên Chúa, Đấng là Vua, Đấng là Chủ… vẫn luôn tồn tại trong tận đáy lòng… nơi vương quốc cổ tích đời con.
Tôi còn nhớ rất rõ, khi còn bé, cừ đến ngày 13.10 hàng năm tôi lại được mẹ tôi dắt đi hành hương: TN 34-ABC214
Tôi còn nhớ rất rõ, khi còn bé, cừ đến ngày 13.10 hàng năm tôi lại được mẹ tôi dắt đi hành hương Fatima Đức Mẹ ở Vĩnh Long. Lần nào đi tôi cũng qua khu nhà của cá thầy dòng Kitô Vua cạnh đó để chiêm ngắm Đức Kitô đội mũ triều thiên đứng uy nghi trên đỉnh nhà. Lúc đó tôi vô cùng hãnh diện vì Chúa tôi là Vua. Nhưng tôi cũng lấy làm thắc mắc mọi vua khác tôi đọc trong truyện, có quân lính, có vệ sĩ bảo vệ, sao Vua Kitô lại không thấy. Rồi những hình tượng đó ngày một qua đi, đến hôm nay khi học biết về Kinh Thánh lại làm cho tôi càng vui mừng hơn gấp bội. Vì Chúa của tôi là Vua trên các vua chứ không phải ông vua trần gian với binh quyền thế mạnh, chỉ uy hiếp được người đời, rồi cuối cùng cũng sẽ đi vào diệt vong. Còn Vua Kitô đã xây dựng đất nước trong chân lý và tình yêu, nên đất nước vẫn tồn tại và phát triển. Hơn nữa, trong Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là Vua trước Philatô khiến nhiều người trong chúng ta phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm vua của Chúa Giêsu Kitô:
1. Vua tình yêu
Đức Giêsu đã trả lời Philatô "Nước Tôi không thuộc thế gian này". Trong hoàn cảnh như thế nếu xét theo khía cạnh ngoại giao, thì đây là một câu trả lời vụng về thiếu khôn khéo. Nhưng vì Ngài là Vua của chân lý, của sự thật. Ngài phải nói lên sự thật, nhưng có nhiều người không hiểu vì họ bị mê muôi bởi vinh quang trần thế. Công việc của Ngài đến là để làm chứng cho chân lý. Ngài đến để chiến thắng tội lỗi, và Nước Ngài không phải ở trần gian, nếu Ngài muốn dấy loạn dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi người ta đứng lên chiến đấu thì chuyện không có gì là khó. Nhưng nếu vậy thì không phải là Vua của tình yêu nữa mà là một ông vua bạo lực của trần gian. Từ ban đầu, Ngài đã khẳng định mình là Vua, nhưng Nước Ngài không căn cứ trên bạo lực và vũ khí, mà là một vương quốc trong lòng người. Mục tiêu là chinh phục thế gian, nhưng là cuộc chinh phục bằng tình yêu và lòng bao dung.
2. Vua của đất nước không biên giới.
Nước của Vua Kitô Giêsu hoàn toàn khác với nước mà người Do Thái trông đợi. Họ chờ một Đức Kitô làm vua thật sự, nâng đỡ dân tộc rồi giải thoát họ khỏi ách thống trị của Rôma. Điều họ trách cứ Đức Kitô ở đây chẳng qua biểu lộ một niềm hy vọng sâu xa, đó là mơ ước sau bao bao năm bị đô hộ. Và khi thấy Đức Giêsu không hành động theo ý muốn, họ thất vọng, lên án tố cáo Ngài. Vì thế, Ngài biết rõ vị thế làm Vua của mình, biết rõ người Do Thái đang nuôi hy vọng hão huyền với những quan niệm lệch lạc. Vương quyền Ngài thật kỳ lạ không giống như họ tưởng. Đó là một vương quyền tuyệt đối, với mục đích quy tụ mọi dân trên toàn cầu, và tất cả mọi người thấp hèn, yếu đuối tật nguyền, cho đến cao sang quyền uy đều có thể trở thành công dân nếu biết tuân phục thánh ý Chúa.
3. Vua mọi vua.
Qua câu trả lời mạnh mẽ hiên ngang của Đức Giêsu trước quan Philatô đại diện cho quyền lực trần thế. Đức Giêsu đã thể hiện vượt trội vì Ngài là Vua các vua, vương quyền Ngài vượt hẳn sự trông đợi của người Do Thái, Ngài không để mất sự cao cả khi mang thân phận yếu hèn. Điều này cho họ thấy rằng nếu họ biết được uy quyền của Đức Giêsu nếu họ quan tâm đến chân lý, biết nỗ lực khám phá đường lối Chúa. Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu một đàng cho thấy Ngài như một vị Vua uy quyền, đàng khác lại mang chiều kích lớn lao đặc biệt về mặt tôn giáo. Bởi vì đó là câu trả lời đánh tan mọi ảo vọng của dân Do Thái. Và khẳng định rõ ràng vương quyền chân thật phải do Thiên Chúa thiết lập.
Tóm lại, Đức Giêsu Kitô thật sự là vị Vua đầy uy quyền, đất nước Ngài vô biên, thần dân là tất cả mọi người tín hữu. Còn luật lệ là tình yêu. Nó đã thể hiện qua việc Vị Vua đã trở nên giống phàm nhân, nhằm yêu thương phục vụ con người. Để diễn tả mầu nhiệm tình yêu này, trong thư gởi tín hữu Philipphê thánh Phaolô đã nói: "Ngài đã trở nên chúng ta như một con người... Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu" (Pl 2, 5-6). Chúng ta là những thần dân đã được mời gọi gia nhập đật nước của Ngài qua Bí Tích Rửa Tội, thì mỗi người cũng được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô thủ lĩnh chúng ta qua chức vụ vương đế. Vì vậy đã là công dân nước Chúa thì mỗi người phải góp phần vào công việc xây dựng vương quốc nước Ngài trên trái đất này, qua việc thánh hóa bản thân mỗi ngày và phục vụ tha nhân bằng cả tình yêu như chính Đức Giêsu đã từng phục vụ và "hiến mạng sống để cứu chuộc cho nhiều người" (Mc 10,45).
Trong thời gian nầy, đài truyền hình Vĩnh Long đang chiếu bộ phim Dương Gia Tướng. Bộ phim: TN 34-ABC215
Trong thời gian nầy, đài truyền hình Vĩnh Long đang chiếu bộ phim Dương Gia Tướng. Bộ phim nói lên sự trung thành của một gia tộc. Trung thành trong mọi trường hợp. Có những lúc bị nịnh thần hảm hại, gia tộc họ Dương phải nhà tan cửa nát, nhưng vẫn một mực trung thành. Một sự trung thành dường như mù quáng. Trung thành với đất nước, trung thành với nhà vua. Nhưng nhà vua trong câu chuyện, có vẽ như quá hồ đồ và nông cạn, không đủ khôn ngoan sáng suốt để phân minh tỏ tường. Vậy mà Dương Gia vẫn trung thành. Đáng quý thay chữ trung thành không gì có thể thay đỗi được.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Nói đến danh từ Vua, chúng ta nghĩ ngay đến chế độ phong kiến mà chúng ta đã từng học biết, đã từng nghe, khiến không khỏi rùn mình khiếp sợ. Nhưng chúng ta cùng nhìn lại, cùng nghe lại vị Vua của mình: "Nước tôi không thuộc thế gian nầy", "Tôi sinh ra, và đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý, ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi".
Đức Kitô là Vua của chân lý, nước Ngài không thuộc về thế gian nầy với những tranh chấp hận thù. Ngài đến để phục vụ, đem tình thương, đem bình an cho mọi người. Không tranh giành quyền lợi trần gian, nên Ngài không phải lo sợ mất đi ảnh hưởng, chính vì thế Ngài không cần phải nghe những lời nịnh hót dối trá. Mọi thần dân trong nước Ngài yên tâm với sự công minh chân chính, một tấm lòng nhân hậu bao dung. Ngài là Đường , là Chân Lý và là Sự Sống. Những thần dân của Ngài là những người thuộc về chân lý.
Mỗi người trong chúng ta có một quê hương, một đất nước mà chúng ta được tận hưởng của những bậc cha anh, là di sản quý báu mà mọi người có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ. Nhưng khi chúng ta rời xa cuộc sống trần gian này, chúng ta sẽ còn lại gì, vị vua nào đang ngự trị trong tâm hồn để gìn giữ, để bảo vệ con người yếu hèn của chúng ta.
Cuộc sống của một đời người, chúng ta tôn thờ ai, và ai đã làm vua ngự trị chiếm hữu cuộc đời của chúng ta? Cứ nhìn lại đời sống đã qua, chúng ta sẽ nhận ra được vị vua của cuộc sống mỗi người.
Có người chọn vị vua là danh vọng, tiền tài. Mục đích của họ chỉ là cuộc sống trần gian này, họ cố gắng vun bồi chỗ đứng, địa vị xã hội để làm sao tạo được uy tín hầu kiếm nhiều lợi nhuận, cho đời sống được thoải mái, an nhàn. Đó là mục đích sống của họ, nên họ bất chấp chân lý, bất chấp tất cả, họ dẩm bừa lên tất cả, miển sao đạt được mục đích là họ sẳn sàng hành động không ngần ngại điều gì hết. Nhưng họ đâu biết rằng, đó là một vị vua mù quáng, vì nhiều lúc họ bị đồng tiền phản bội, làm khổ họ đủ cách. Cũng nhiều lúc danh vọng, địa vị mà họ đạt được không luôn luôn mang lại hạnh phúc cho họ. Vì đó chỉ là một vị vua trần thế, giống như vị vua của Dương Gia trong phim Dương Gia Tướng.
Chúng ta có chọn cho mình vị vua của chân lý? Chúng ta có thuộc về chân lý, để nghe tiếng của vị vua công chính không? Ngài không sợ bị chiếm ngôi nên Ngài không cần phải nghe những nịnh thần. Ngài không sợ mất quyền lợi, vì Ngài luôn ban phát, nên Ngài không cần phải tranh giành. Ngài luôn yêu thương, kêu mời mọi người đến với Ngài, để cùng hưởng vinh quang mà Ngài đã chuẩn bị cho những người thuộc về chân lý. Chúng ta là thần dân của Ngài, trong những lúc chúng ta dám can đảm sống ngay chính, không sợ những lời nói bâng quơ chăm chọc. Cũng trong những lúc phải chọn lựa, chúng ta dám chọn lự sự thật, chọn lựa những điều đúng mà không sợ phải mất đi những gì mình đang có. Cũng có những lúc, chúng ta sẵn sàng hy sinh một chút sung sướng riêng tư, một chút thỏa mãn những dục vọng ích kỷ, để lắng nghe tiếng Ngài, hành động theo những gì Ngài chỉ dạy, cho dù phải vất vả khổ cực đôi chút. Đó là những lúc chúng ta sống xứng đáng là thần dân của Ngài. Nhưng xét trong đời sống đã qua , với những chuỗi ngày dài, được bao nhiêu ngày chúng ta là thần dân trung thành của Ngài, được bao nhiêu ngày, chúng ta biết chọn vị Vua của Chân Lý? Còn những ngày kế tiếp đây, chúng ta muốn chọn cho mình vị vua như thế nào?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta biết chọn Chúa làm vua thật trong suốt cả cuộc đời.
Nước Trời được diễn tả là vương quốc của tình yêu, nơi đó mọi người được vui hưởng tình yêu tràn: TN 34-ABC216
Nước Trời được diễn tả là vương quốc của tình yêu, nơi đó mọi người được vui hưởng tình yêu tràn đầy của Thiên Chúa. Trong vương quốc này, Đức Giêsu là vị Vua của tất cả mọi người như Lời Ngài đã nói: "mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy".
Khi nghe nói đến tước hiệu vua, mọi người thường nghĩ đến một con người quyền lực, oai vệ trong bộ cẩm bào, nắm trong tay quyền sinh sát tùy ý mình khiến mọi người khiếp sợ. . . Thế giới đã từng biết đến một Tần Thuỷ Hoàng, một Napoleon, một Hitler. . .là những vị vua như thế. Nhưng Vua Giêsu thì hoàn toàn ngược lại. Ngài là vị Vua Hiền lành, Vua Hoà bình và Vua Tình yêu. Vua Giêsu có hoàng cung là cuộc sống rong rủi nay đây mai đó "Con Người không có nơi tựa đầu", có vương miện là vòng gai đội đầu, có vương trượng là cây sậy yếu ớt, có vệ binh là 12 tông đồ không biết đến việc binh đao. . . Bởi lẽ, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Hiến Pháp của Nước trời là giới luật Yêu thương: "Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15,13).
Thế nhưng, đứng trước một vị vua như thế, thử hỏi có được mấy người yêu mến và qui phục Ngài? Hình như, con người ngày nay quá yêu thích quyền lực, giàu sang, thoải mái. . . nên họ cũng muốn xây dựng nơi mình hình ảnh của một vì vua theo ý và sở thích của riêng họ. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng giờ ngồi phơi nắng dầm mưa để xem vua bóng đá Péle, Ronaldo trình diễn trên sân cỏ và cổ võ hết mình. Họ sẵn sàng thức trắng đêm để nghe vua nhạc Pop Michael Jackson hát. . . nhưng họ rất ngại đến với Vua Kitô để nghe Ngài chỉ dạy những con đường dẫn tới chân thiện mỹ và sự sống vĩnh cửu. Lý do là vì ta còn biết quá ít về Chúa Giêsu, chưa đi vào sự sống mật thiết với Ngài, chưa để cho tình yêu của Ngài dẫn dắt cuộc đời của ta và trên hết là chúng ta chưa có lòng ao ước sống trong Vương quốc tình yêu của Chúa.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Chúa Giêsu và Philatô xung quanh vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với Philatô và cũng là với tất cả chúng ta rằng Ngài là Vua, nhưng Nước Ngài không thuộc về thế gian này. Điều đó cũng có nghĩa là Nước của Ngài thuộc về thượng giới hay chính là Nước trời.
Tôi có quen với một chị ở Việt Nam nhưng đã sang định cư ở bên Úc 5 năm rồi, dù chính quyền Úc chấp nhận cho chị nhập cư, nhưng chị chưa thể trở thành công dân của nước Úc được, và dĩ nhiên những quyền lợi của chị bị nhiều hạn chế. Chị nói với tôi là để được chấp nhận là một công dân của nước này thì phải có một số điều kiện như: phải ở lại Úc trong thời gian xuyên suốt ít là năm, rồi phải trải qua kì thi quốc tịch rất khó. . .
Còn chúng ta, kể từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là chúng ta chính thức trở thành công dân của Nước trời, được đầy đủ quyền lợi của một người con cái Thiên Chúa với quyền thừa kế Nước trời, xem ra quá dễ dàng. Nhưng thử hỏi chúng ta đã lưu tâm đến quyền công dân này như thế nào? Chúng ta có quí trọng, có tha thiết với chuyện này không? Hay vì thấy Chúa ban ơn dễ dàng quá rồi chúng ta xem thường? Thậm chí có người còn chối bỏ quyền công dân này cách dễ dàng khi họ quyết đi theo tiếng gọi của quyền lực trần thế (Chẳng hạn: làm trưởng phòng này thì anh chị không thể là người Công giáo được! Thế là Chúa bị khai trừ. Chức trưởng phòng được đặt lên trên quyền Công dân Nước trời, đôi khi trên cả Chúa nữa! Chuyện này không phải là hiếm xảy ra đâu). Hoặc có người sẵn sàng chấp nhận tuyệt thông với Giáo hội chỉ vì muốn thoả mãn đi theo tiếng gọi của những mối tình vụn trộm nên dẫn đến việc ngoại tình, phá thai, kết hôn không phép đạo. . . Nhưng cũng có biết bao những tâm hồn thành tâm thiện chí, quyết bảo vệ quyền Công dân Nước trời của mình nên sẵn sàng hy sinh tất cả, vui lòng mất mát tất cả, ngay cả mạng sống của mình miễn sao đừng lạc mất Chúa. Đó là gương của các thánh tử đạo mà chúng ta mới vừa mừng kính hôm Chúa Nhật tuần trước. Khi hết lòng vì niềm tin mình đã lãnh nhận là khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu chính là Vua của chúng ta, Nước trời là gia nghiệp đời đời của chúng ta. Thử hỏi cón có ai khôn ngoan hơn nũa không? Chọn Chúa, chọn Nước Trời làm gia nghiệp là chọn lựa cao nhất và khôn ngoan nhất mà con người có thể làm được ngay tại thế gian này.
Nhưng làm sao chúng ta có thể chọn lựa được như thế nếu chúng ta không hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa của mình. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu: "Ông có phải là vua dân Do thái không?" thì Chúa Giêsu hỏi lại: "quan tự ý nói thế hay có người khác nói với quan về tôi". Chúa muốn kiểm định xem cái biết của Philatô ở mức độ nào: chỉ nghe nói về Chúa hay đã có cảm nhận riêng về Ngài? Rõ ràng Philatô đã biết cách rất mù mờ về Chúa Giêsu với những thông tin đầy thành kiến về Chúa do những kẻ chống đối Chúa cung cấp cho. Cách biết của Philatô về Chúa Giêsu như thế sẽ không thể làm cho ông đi vào sự thân mật với Chúa Giêsu. Và như thế thì Chúa Giêsu sẽ còn tiếp tục im lặng. Ngài sẽ im lặng trước câu hỏi của Philatô: "Sự thật là cái gì?". Như thế, chắc chắn Philatô sẽ không được: "sự thật giải thoát" mà sự thật đó chính là Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống".
Sống niềm tin và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là đi vào sự tiếp xúc riêng tư với Ngài, để chi tình yêu của Ngài tác động và lôi kéo ta vào thế giới riêng. Nơi đó, ta sẽ gặp được tình yêu, lòng thương xót và sự thật. Nơi đó, ta sẽ gặp được vị Vua thật của lòng ta và Ngài sẽ Vua cai trị tâm hồn ta. Khi đó, chúng ta sẽ biết cách hành động theo chân lý và sẽ được "Chân lý giải thoát" chúng ta.
Kết thúc năm Phụng Vụ vào Chúa nhật tuần ba mươi bốn thường niên, Hội Thánh mừng kính trọng: TN 34-ABC217
Kết thúc năm Phụng Vụ vào Chúa nhật tuần ba mươi bốn thường niên, Hội Thánh mừng kính trọng thể lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ. Chúa Giêsu Kitô được tôn phong làm vua với đúng với thực chất của Ngài, Ngài là Con Thiên Chúa, Thiên Chúa là Đấng tạo nên vạn vật thì Ngài là, chủ là Chúa và là Vua trên tất cả moị sự. Ngài không chỉ là vua trên trời mà là vua cả trần gian này và đặc biệt hơn Ngài là vua của mọi tâm hồn chúng ta. Tước hiệu Vua của Ngài nối kết ba mối tương quan giữa trời, đất và con người. Qua việc phục sinh vinh quang của Ngài, Ngài được gọi là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho chúng ta ân sủng và bình an. Sách Khải Huyền còn mô tả: "Ta là Anpha và Ômêga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng" (Kh1,8). Với những tước hiệu cao vưột quy về Đức Giêsu Kitô cho thấy quyền tối thượng của Ngài trên mọi loài, mọi vật trên trời và dưới đất. Nhưng ngoài những tước vị cao trọng dành cho Ngài, Ngài còn muốn chúng ta thấy một khía cạnh khác của một vị vua, khi trả lời cho Philatô, Chúa Giêsu xác nhận Ngài chính là vua nhưng Ngài nhấn mạnh đến một chuyện mà người đời không ngờ tới, đó là vua của một lối sống - sống theo sự thật. Vương quốc của Ngài là vương quốc của sự thật, ai sống theo sự thật sẽ là công dân của nước này. Sự thật nơi Ngài được diễn tả qua tình yêu trao hiến, phục vụ và hy sinh cả mạng sống mình.
Chúng ta đang tôn thờ và yêu mến Đức Giêsu Kitô, Ngài là vị vua duy nhất trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Vua ở đây không phải như những vị vua trần thế, nay còn mai mất nhưng Ngài là vua của mọi loài, vua trên các vua và vĩnh cửu. Một vị vua đem lại bình an, hạnh phúc thật sự cho con người và cứu rỗi con người.
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT: TN 34-ABC218
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần nói lời ca tụng, tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh hót nhà vua như sau: "Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa".-"Thánh thượng có toàn quyền cả trong đất liền cũng như ngòai biển cả bao la!"
Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm đang có các cơn sóng vỗ rì rào, nhà vua liền tuyên bố: "Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và trên biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!". Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giê-su, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Giê-su. Chỉ có Chúa mới là "Vua trên hết các vua", là "Chúa trên hết các chúa". Chỉ có Chúa mới "có quyền trên cả đất liền cũng như biển khơi" Con xin ngợi khen Chúa. AL-LÊ-LU-IA!".
3. SUY NIỆM:
1) Hôm nay là ngày Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ. Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Chúa Giê-su Ki-tô là Vua Vũ Trụ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đã khẳng định trước mặt quan Phi-la-tô: "Phải, tôi là Vua".
2) Đức Giê-su là Vua, vì Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Đấng đã dùng Lời quyền năng sáng tạo nên vũ trụ vạn vật như sau: "Phải có ánh sáng! Liền có ánh sáng" (x. St 1,3). Đức Giê-su thực là Vua, vì Người đã chiến thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết bằng Lời quyền năng như sau: "Câm đi và hãy xuất khỏi người này!" (Mc 1,25-27) ; "Này con, con đã được tha tội rồi" (Mc 2,5) ; "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!" (Ga 11,43).
3) Người từng tuyên bố: Nước Người không thuộc về trần gian này. Vương quyền Người không dựa trên sức mạnh của vũ khí quân đội mà dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại xưa đã từng xuất hiện một thời trên trần thế, thì nay đều đã bị diệt vong. Chỉ duy Vương Quyền của Đức Giê-su vẫn luôn tồn tại và hiển trị trong các tâm hồn.
4) Chúa Ki-tô chiến thắng! Chúa Ki-tô trị vì! Chúa Ki-tô hiển trị muôn đời! ("Christus vincit. Christus regnat. Christus... imperat"): Ngày nay các tín hữu chúng ta tôn kính Vua Giê-su không phải chỉ bằng nghi lễ trong nhà thờ, bằng việc ca hát tung hô Người ... Nhưng quan trọng hơn: Chúng ta phải tích cực góp phần xây dựng Nước Trời yêu thương an bình hạnh phúc ngay từ trong gia đình đến khu xóm, chợ búa, trường học, xí nghiệp, sở làm và mọi lúc mọi nơi... Chúng ta phải làm thế nào để mọi người nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha, sống chan hòa yêu thương nhau như anh em trong đại gia đình của Thiên Chúa, dưới quyền cai trị của Đức Giê-su Vua vũ trụ, như Người đã phán trước khi lên trời: "Thầy đã được trao tòan quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18b-20)..
4. THẢO LUẬN: 1) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su làm Vua gia đình mình?
2) Chúng ta cần làm gì để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho anh em lương dân, hầu mở rộng Vương Quyền của Vua Giê-su đến tận cùng thế giới?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU: Ngày nay các bạn trẻ thường hay chọn cho mình một thần tượng để tôn sùng và bắt chước: Người thì mê vua bóng đá Pê-lê; Có người lại chạy theo vua nhạc Rốc Mai-côn Giắc-sân (michael jackson). Có những cô gái cố trang điểm, ăn mặc giống như cô ca sĩ này, hay người mẫu nọ... còn chúng con là môn đệ của Chúa, chúng con có Chúa là vị thần tượng ưu việt duy nhất. Ước chi chúng con nói được như thánh Phao-lô: "Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô" (Pl 1,21)- Từ nay "tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20).
- Lạy Chúa. Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của sự thật. Xin cho chúng con biết yêu sự thật và nói thật để mưu ích cho tha nhân, (nhưng không phải mọi sự thật đều nên nói ra). Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo. Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36). Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin. Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là con dân của Vua Giê-su "là đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
Hình ảnh Chúa Giêsu phác hoạ về ngày phán xét thế giới trong Tin Mừng hôm nay cho thấy tính: TN 34-ABC219
Hình ảnh Chúa Giêsu phác hoạ về ngày phán xét thế giới trong Tin Mừng hôm nay cho thấy tính nghiêm trọng trong ngày xử án của vị vua vũ trụ. Đó là ngày tách chiên ra khỏi dê, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, tách sự sống ra khỏi sự chết.
Quan trọng như thế mà tất cả cán cân công lý của ngày phán xét chỉ dựa trên có một điều luật duy nhất. Lạ lùng hơn nữa là chính cả chiên lẫn dê đều sửng sốt không biết mình đã thi hành hay không thi hành điều luật ấy khi nào. Đến nỗi vua vũ trụ phải giải thích "Điều gì các ngươi đã làm cho một người anh em nhỏ nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta" (Mt 25, 40)
Điều luật đó chính là Đức Ái.
Nhưng tại sao vua vũ trụ lại chỉ sử dụng có một khuôn vàng thước ngọc duy nhất ấy? Là vì động lực thúc bách Thiên Chúa tạo dựng trời đất cũng xuất phát duy nhất bởi tình yêu. Đã xuất phát điểm bởi tình yêu thì chung cuộc cũng trở về duy nhất bởi tình yêu. Ta nhận ra dung mạo của vị vua vũ trụ trong một chân dung được khắc hoạ là vị vua tình yêu !
Không ai khác, đó chính là "Giêsu Nazareth - vua Do Thái."
Danh hiệu này bằng chữ viết, dưới danh nghĩa một bản án do Philatô cho đóng phía trên đầu Đức Giêsu. Người Do Thái đã tẩy chay danh hiệu trên vì họ không chấp nhận một bản án tố cáo tội họ đóng đinh giết vua của mình. Họ đề nghị công thức: "Người này xưng mình..." nhưng Philatô đâu có tự ý, chính ông đã hỏi Chúa Giêsu "Ông là Vua ư?" và Đức Giêsu đã xác nhận "Ông nói đúng tôi là Vua" (Mt 27,11) thế nên Philatô đã đanh thép như chính Đức Giêsu đã xác nhận để khẳng khái trả lời cho người Do Thái rằng: "Điều ta đã viết là viết" (Ga 19,22)
Với những sự kiện trên, chứng tỏ người Do Thái đã bị tước bỏ mọi quyền chọn lựa. Không phải họ phủ nhận mà bản án không có giá trị, ngược lại dù họ đã từng muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua vì lý do duy vật chất, sau khi được chứng kiến Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì Chúa cũng đã bỏ họ để lên núi một mình (x. Ga 6, 5-27)
Đặc quyền bị tước bỏ là do sự suy thoái của chính họ. Dân tộc Do Thái là một dân được chính Yavê Thiên Chúa tuyển chọn. Họ cũng chọn chính Yavê là Vua độc tôn duy nhất. Vậy mà sau những năm sống trong sa mạc hoang vắng, tâm hồn của họ cũng cằn cỗi dần theo. Sự kiện đòi thiết lập vua trên dân Israel đời tiên tri Samuel, là một biểu hiện khai mào cho tình trạng suy thoái xa rời tối thượng quyền của Thiên Chúa, sự suy thoái sẽ trượt dốc từ Saul qua các triều đại kế tiếp và cao trào suy thoái là vào chính thời Đức Giêsu, khi mà một Dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn lại không một chút nhục nhã lớn tiếng tuyên bố với Philatô, kẻ trị vì trên tự do của họ rằng, "Chúng tôi chỉ có một vua là vua Xêda mà thôi" (Ga 19, 15)
Khước từ vua tình yêu, họ chỉ còn vua chính trị. Cách tuyên bố của họ vì chính trị, để khai trừ Đức Giêsu Nazareth mà họ thù ghét hơn, nhưng chính vì thế mà bản án Philatô viết cũng chính trị và họ phải lãnh nhận hậu quả cũng chính trị !
Bản án trở thành bản tố cáo thái độ thù ghét của thế hệ Do Thái quá khích cực đoan nhưng diễn tả một tình yêu lớn nhất của người dám chết cho người mình yêu.
Mới đây, tôi đã giải thích ý nghĩa tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cho một nhà văn quân đội khi ông về thăm Nhà thờ chính toà Phát Diệm: "Quan niệm Phật giáo muốn mưu cầu hạnh phúc chúng sinh phải tránh tham, sân, si và diệt dục. Còn Công giáo thì khác, Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, không tránh mà còn nhập thể vào thân xác tham, sân, si của con người. Sau tham, sân, si là cái chết của chính Ngài, sau cái chết của Ngài là tình yêu lớn nhất: chết cho người mình yêu."
Mọi thách đố, chướng ngại không thể trở thành rào cản. Đức Giêsu tuyên bố: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì nghe tôi" (Ga 18,37)
"Khi những người được mời không xứng đáng thì những kẻ qua đường được mời vào đầy phòng cưới dự tiệc" (x. Mt 22,2-10) Vua tình yêu vẫn mở tiệc cưới, phòng tiệc vẫn đầy người dự, nhưng là người mới, áo cưới mới.
Ý thức vua tình yêu trao ban ân huệ cách nhưng không, Dân mới của Thiên Chúa hiểu rằng chỉ có tình yêu đáp đền tình yêu, hàng ngày trong lời Kinh Lạy Cha - lời Kinh trọng nhất - Hội Thánh lớn tiếng xin cho Nước Cha trị đến trong tâm hồn và trong mỗi gia đình - Nước tình yêu, Nước công bình, Nước sự sống, Nước ơn phúc, Nước hoà bình.
Tin Mừng thánh Matthêu chương 25 mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ TN 34-ABC220
Tin Mừng thánh Matthêu chương 25 mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ, dễ bị ngộ nhận như là gai chướng. Sự gai chướng dễ bị ngộ nhận này không nguyên chỉ vì tước hiệu Vua vũ trụ mà Hội Thánh suy tôn Thầy Chí Thánh và còn cả nơi nội dung lời giảng dạy của Người qua dụ ngôn "cuộc phán xét chung".
Hình ảnh của một minh quân trong lịch sử quả là hiếm hoi so với nhiều ông vua gian ác, độc tài, chuyên chế. Nghĩ đến thể chế phong kiến người ta dễ có tâm tình không mấy thiện cảm. Đã là quân chủ với một ông vua cai trị kiểu cha truyền con nối thì sự chuyên chế hà khắc thường xảy ra. Thế mà Hội Thánh vẫn không ngần ngại suy tôn Chúa Kitô với danh hiệu Vua vũ trụ. Qua danh hiệu này Hội Thánh không chỉ nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô trên mọi vật mọi loài thọ tạo, hữu hình và vô hình, mà còn tuyên bố với mọi người về niềm hạnh phúc và vinh dự của mọi loài thọ tạo khi có Đức Kitô làm vua của mình.
Đã là loài thọ tạo thì phải thần phục Đấng dựng nên mình. Tuy nhiên chúng ta không sống tâm tình thần phục như nguời nô lệ. Đấng xứng đáng là Vua, là chủ tể của chúng ta đã tự nguyện làm anh cả giữa loài người. Đấng tạo thành đã tự nguyện trở nên con của loài người. Và đặc biệt Người đã chọn hạnh phúc của con người, của từng người làm vinh quang của chính Người. Có thể nói không ngoa ngữ chút nào rằng Người tự nhận số phận của con người, của từng người, nhất là những người yếu thế, kém phận, làm số phận của chính Người.
Chúa Kitô làm vua của một vương quốc mà trong đó mọi người từ cổ chí kim đều là con dân của Người. Chúng ta hãnh diện và vui mừng vì vương quốc mà Chúa Kitô thống trị là một vương quốc mà trong đó "dân vi quý, dân vạn đại". Chúng ta vui mừng và hãnh diện trong vương quốc này vì vị Vua cai trị chúng ta là Đấng có thể nói theo kiểu phàm nhân rằng " luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ". Chúng ta lại càng hãnh diện và vui mừng vì vương quốc Chúa Kitô thiết lập là một vương quốc mà trong đó không một ai là đáng bỏ đi, không một ai là thành phần hạ đẳng.
Khi các người làm hay không làm điều tốt cho một trong những kẻ bé mọn này là các ngươi đã làm hay đã không làm cho chính Ta ( x.Mt 25,31-46 ). Hiến pháp, luật lệ của vương quốc này thật đơn giản. Đó là phải sống cho có lòng, có tâm với nhau, đặc biệt với người anh chị em yếu thế, kém may mắn cận kề chúng ta.
"Thầy bảo thật cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" ( Mt 5,20 ). Và Chúa Giêsu đã quảng diễn sự phải "công chính hơn" là không được phép loại bỏ bất cứ một ai dù chỉ là trong cung cách hành xử hay trong tâm trí. Không loại bỏ tha nhân chưa đủ, Người còn đòi hỏi phải biết liên đới với tha nhân trong hạnh phúc của họ. " Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" ( Mt 5,23-24 ). Dĩ nhiên, nếu vì lỗi của ta thì việc bỏ của lễ lại để đi làm hòa trước đã, là điều dễ hiểu. Còn nếu không phải do lỗi của ta mà do lỗi của người anh em, thì ta cũng phải làm như thế. Nếu không, ta sẽ mắc phải món nợ tình yêu, khi ta thờ ơ với số phận của người anh em mình. Người có lỗi, người có tội là một trong những bé mọn mà ta cần quan tâm nâng đỡ. Mẹ Hội Thánh đã hiểu chân lý này khi dạy chúng ta những mối thương người: "Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội..."
Không ai có thể lên trời "một mình". Không ai có thể làm con dân Nước trời với sự ích kỷ, với thái độ bàng quan, hững hờ trước người anh em. Mặc dù vẫn có đó sự gai chướng của hình ảnh vị quân vương trần thế của quá khứ lịch sử. Thế nhưng đã đón nhận chân lý trong niềm tin thì chúng ta cùng với toàn thể thụ tạo phải thần phục tuyệt đối Đấng tạo thành nên mình. Đã con thần dân của vương quốc tình yêu thì ta phải sống theo thể chế và luật lệ của vương quốc mà thôi. Luật lệ và thể chế ấy không gì hơn là sự hiệp thông liên đới huynh đệ trong tình yêu của Vị Vua trên các vua đã yêu thương chúng ta. Đã có biết bao người xưa lẫn nay đã đón nhận sự gai chướng đã ít nhiểu dễ bị ngộ nhận ấy và rồi họ đã cảm nghiệm nó thật là "êm ái và nhẹ nhàng" ( x.Mt 11,28-30).
Đã có một thời Liên Bang Uc Đại Lợi tưởng lâm vào cảnh nội chiến. Khi đuơng kim Thủ Tướng TN 34-ABC221
Đã có một thời Liên Bang Uc Đại Lợi tưởng lâm vào cảnh nội chiến. Khi đuơng kim Thủ Tướng 'bảo hoàng hơn vua' John Howard thuộc đảng bảo thủ Tự Do lên cầm quyền, phe cấp tiến lo sợ đại lục Úc Châu một sớm một chiều lại trở về quỹ đạo của đế quốc Anh nơi đã một thời "mặt trời không bao giờ lặn."
Một cuộc trưng cầu dân ý đã diễn ra và quốc trưởng Liên Bang Úc Đại Lợi vẫn là một người da trắng sống cách xa thần dân đa chủng của mình hơn nữa vòng trái đất. 'Vox populi, vox Dei," -ý dân là ý Trời. Thôi thì đành ngậm đắng nuốt cay chấp nhận...
Là những nạn nhân của một chế độ độc tài phi nhân phi dân chủ, chắc hẳn mọi người chúng ta đều không muốn cảnh gia đình trị, đảng trị độc diễn trên chính trường. Nói một cách khác, lãnh đạo quốc gia không thể là từ "cha truyền con nối", lại càng không thể từ đảng tịch, đoàn viên.
"Con vua thì lại làm vua" trong một chế độ quân chủ chuyên chế, nhưng sớm muộn gì những chế độ quân chủ có tính cách trang trí kia cũng sẽ cáo chung. Và những chế độ độc tài đảng trị cũng một ngày sẽ theo ông Lê Nin, Các Mác!!! Sao có thể vững tin như thế? Thưa vì Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đã long trọng xác quyết là "mọi người đều được sinh ra bình đẳng." Ngày nay, khó có thể chấp nhận một xã hội dựa trên huyết thống hoàng tộc. Và lại càng không thể chấp nhận một thể chế độc đảng sống phè phỡn nhỡn nhơ trên mồ hôi xương máu của những người dân cùng khốn.
Khi người thanh niên giàu có buồn rầu sụ mặt bỏ đi vì lòng còn vương vấn với những quyến rũ thế trần, chắc hẳn anh ta đã không thể nào hiểu rằng trước mặt mình là Đức Vua mà mỗi khi nghe tên thánh Người, "các tà thần chạy trốn, các tầng trời bừng sáng và khắp trái đất khiếp run." Và anh ta cũng không thể hiểu rằng chính Đức Vua kia đã từ bỏ tất cả để tự tìm đến và sống với những người cùng khốn, thì một chút hy sinh của mình nào có nghĩa lý gì. Bám vào cái ta thì làm sao thấy đuợc cái chúng ta! Với Vua Kitô, thần dân của Người là những người bị chối bỏ khinh chê bởi những hoàng tộc khác. Vương miện của Người là mão gai, trượng của Người là thánh giá và đền đài của Người là hang đá tanh hôi.
Và vua Kitô đến không ngựa xe và cũng không tiền hô hậu ủng. Vua đến vì tất cả mọi người: những kẻ đang đắm chìm vào vật chất xa hoa và những người đang lún sâu vào bùn nhơ tội lỗi. Vua đến mang niềm tin cho những người đã cùn nát hy vọng vào sự cứu rỗi đời mình. Vua Kitô đến vì tương lai toàn thế giới...
ROMA- Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu Chúa nhật Chúa Kitô Vua:.
"Rồi các ông sẽ Con Người ngự bên hửu Đấng toàn năng, và ngự giá mây mà đến..."
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu," Ông có phải là Vua dân Dothái không?" TN 34-ABC222
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu," Ông có phải là Vua dân Dothái không?" và Chúa Giêsu trả lời," Chính ngài nói tôi là Vua." Trươc đó không lâu, Caipha đã hỏi Người cũng một câu hỏi đó trong cách khác: "Ông có phải là Con Thiên Chúa Đáng Chúc tụng không?" và Chúa Giêsu đã thẳng thắng trả lời lần này: "Chính tôi đây!"
Thật vậy, theoTin Mừng Thánh Marcô, Chúa Giêsu tăng cường câu trả lời này, trưng dẫn và áp dụng cho chính mình điều mà tiên tri trong Sách Daniel đã nói vể Con Người ngự giá trên mây trời mà đến và nhận lãnh vương quốc không bao giờ tàn (Bài đọc I). Một thị kiến vinh hiển trong đó Chúa kitô xuất hiện trong câu truyện và trên câu truyện, thế tục và đời đời
Bên hình ảnh vinh hiển này của Chúa Kitô chúng ta gặp, trong các bài đọc lễ trọng này, hình ảnh Chúa Giêsu khiêm tốn và đau khổ, quan tâm về việc làm cho các môn đệ nên vua hơn là cai trị họ. Trong đoạn trích từ sách Khải Huyền, Chúa Giêsu được diễn tả như là "Đấng yêu thương chúng ta và đã cứu chúng ta khởi tội bằng máu Người, Đấng đã đưa chúng ta vào một vương quốc, làm linh mục cho Thiên Chúa và Cha của Người."
Điều được luôn luôn chứng tỏ khó làm là giữ chung hai đặc quyền này của Chúa Kitô-vẻ uy quyền và lòng khiêm tốn-phát sinh từ hai bản tính của Người, thần tính và nhân tính. Con ngươi thời nay không có vấn đề thấy trong Chúa Giêsu người bạn và người anh của mọi người, nhưng họ gặp là chuyện khó nếu cũng công bố Người là Chúa và công nhận vương quyền của Chúa Giêsu trên họ.
Nếu chúng ta xem cuốn phim chiếu Chúa Giêsu, thì rõ về sự khó nầy. Nói chung phim cinema đã chọn Chúa Giêsu làm người hiền, bị bắt bớ, bị hiểu lầm, rất gần gũi con người hầu chia sẻ thân phận con người, những sự nổi loạn con người, sự ước muốn của con người sống một đời sống bình thường. Trong đường hướng này được kết nối phim"Jesus Christ Superstar-Chúa Giêsu Siêu Sao" và "Sự Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô" thô lỗ và phạm thượng hơn của Martin Scorcese.
Pier Paolo Pasolini, trong "Vangelo secondo Matteo" (Tin Mừng theo thánh Matthêo), cũng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Người bạn các tông đồ và các con người, gần gũi với chúng ta, mặc dầu Người không thiếu một chiều kích nào đo của mầu nhiệm, được diễn tả với nhiều thi thơ, hơn hết qua những lúc sầu thảm thinh lặng.
Chỉ có Franco Zeffirelli, trong cốn phim "Chúa Giêsu thành Nadareth" của ông, đã cố gắng giữ cả hai là vẻ uy quyền và tính khiêm nhượng. Chúa Giêsu xuất hiện trong cuốn phim của Zeffirelli's như là một người giữa muôn người, niềm nở và gần gũi, nhưng, đồng thời, như một Đấng, với những phép lạ và sự phục sinh của Người, đặt chúng ta trước mầu nhiệm của bản thân Người, một con người vượt quá sự nhân bản đơn thuần.
Tôi không muốn ngăn chận những cố gắn tái đề nghị biến cố Giêsu trong những từ có thể hiểu được và bình dân. Trong thời gian của Người Chúa Giêsu không bị xúc phạm nếu "dân chúng" xem người như là một trong các vị tiên tri. Tuy nhiên, ngài hỏi các tông đồ, "Nhưng phần anh em, anh em nói Thầy là ai?" cho thấy rõ những câu trả lời về phía dân chúng thì không đủ.
Chúa Giêsu mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta hôm nay trong ngày lễ trọng Kitô Vua, là Chúa Giêsu trọn vẹn, hầu như nhân bản mà còn siêu việt. Tại Paris thanh gỗ đã được sử dụng để thiết lập chiều dài của thước được giữ cẩn thận đến nỗi đơn vị đo lường này, do Cách Mạng Pháp đưa vào, không bị thay đổi với thời gian. Cũng vậy, trong cộng đồng tín hữu tức là Giáo Hội, hình ảnh thật sự của Chúa Giêsu thành Nadareth được bảo tồn. Hình ảnh này phải được sử dụng như là tiêu chuẩn để đo tính hợp pháp của mọi sự trình diễn về Người trong văn chương, cinéma và nghệ thuật.
Đó không phải là một hình ảnh cố định và trơ trơ, được giữ dưới tủ kính như cây thước, nhưng là một hình ảnh Chúa Kitô sống động, Đấng lớn lên trong sự hiểu biết của Giáo Hội, Đấng sẽ tiếp tục làm nẩy sinh những câu hỏi và những thách thức mới của nền văn hóa và phát triển nhân bản. Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Ðức Kitô-Vua. Người là Ðấng thống trị duy: TN 34-ABC223
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Ðức Kitô-Vua. Người là Ðấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta !
Nhưng mừng lễ Ðức Kitô làm vua cuộc đời chúng ta có nghĩa là chúng ta tin nhận rằng chúng ta hết lòng khâm phục Người và để Người làm chủ trên chúng ta, trên trọn cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, trong thực tế ai làm chủ đời tôi, đời chúng ta ? Chỉ một mình Ðức Kitô hay còn vua nào khác nữa ? Phải chăng ngoài Ðức Kitô là Ðấng duy nhất làm chủ trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chứ không còn vua nào khác nữa ?
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có bao nhiêu vua chúa khác đang chờ đợi tranh dành ngôi vua với Ðức Kitô : Nào là « vua thuốc lá », « vua bia rượu», « vua cờ bạc », « vua thể thao », « vua tivi, vua phim ảnh », « vua tiền bạc », v.v... Những ai thiếu khôn ngoan và liều mình để cho các ông vua này cai trị đời họ, thì thật là cả một tai họa khôn lường : Họ hoàn toàn mất hết tự do, trở nên nô lệ cho chúng, để chúng sai khiến, và họ sẽ vâng lời làm bất cứ điều gì chúng muốn, cả đến tư cách, lý trí và tình nghĩa gia đình bạn bè họ cũng sẵn sàng từ bỏ hết, vì để làm thỏa mãn chúng ! Ðúng vậy, đó là những ông vua độc tài và chỉ muốn nô lệ hóa những kẻ phục tùng chúng. Chúng đòi hỏi các thần dân của chúng những đóng góp rất to lớn về thời giờ và tiền bạc. Chúng hứa mang lại một cuộc sống đầy hoan lạc và vui thú, nhưng rốt cục thường chỉ để lại những cảm giác trống rỗng, chán chường và thất vọng.
Tôi đã từng gặp nhiều người đã dại dột để cho hầu hết những ông vua như thế lừa gạt và rơi vào tròng nô lệ của chúng. Kết cục, những người đó trở nên thân tàn ma dại, và chẳng những hoàn toàn vô dụng cho gia đình và xã hội mà còn là gánh nặng cho mọi người. Họ trở nên những kẻ sống đời tầm gửi trên mồ hôi, nước mắt và công lao của kẻ khác.
Các ông vua trần tục đó thường huyênh hoang và cao ngạo. Chúng chỉ luôn tìm cách nhấn sâu và chôn vùi những kẻ chạy theo chúng xuống tận bùn đen hôi thối của tội ác. Chúng ta thử đưa ra một vài thí dụ : chẳng hạn « vua thể thao » : Thể thao thực ra là một điều lành mạnh, nhưng nếu chúng ta mê man đến nỗi sao nhãng bổn phận đối với gia đình, đối với con cái và đối với Thiên Chúa, thì thể thao không còn là một môn tập luyện lành mạnh nữa, nhưng là một tên độc tài thống trị trên ta và biến ta thành nô lệ cho nó. Hay không ai chống đối việc thưởng thức một chén rượu hoặc một ly bia, nhưng nếu cuộc sống mà hoàn toàn lệ thuộc vào chén rượu hay ly bia, đến nỗi thiếu chúng thì mọi việc đều bị đình trệ, không thể tiến xa hơn được nữa, bấy giờ chén rượu và ly bia không còn là những phương tiện « làm vui lòng người », mà là những ông vua độc tài biến chúng ta thành nô lệ cho chúng. Những kẻ say mê cờ bạc, rượu chè, v.v... sẽ đốt cháy nhân vị và tư cách của mình.
Làm thế nào để chúng ta có thể bảo vệ được sự tự do và độc lập, nhất là tư cách và nhân phẩm của mình trước những ông vua độc tài đó? Chỉ một cách duy nhất là chúng ta hãy dứt khoát xa tránh chúng. Những ông vua này tuy độc tài và luôn nô lệ hóa con người, nhưng chúng lại không có « khí giới » trong tay để bắt ép được ta làm nô lệ cho chúng. Việc sống cuộc đời tự do và có tư cách, hay làm nô lệ cho chúng là hoàn toàn tùy vào sự quyết định của chúng ta, hoàn toàn tùy vào ý chí của chúng ta.
Khi nói đến đây tôi lại liên tưởng đến một ông vua khác còn khó tính và độc tài hơn cả trong các ông vua vừa kể trên : đó chính là « cái tôi » của chúng ta. Cái khó để tự giải thoát khỏi sự cai trị của ông vua độc tài này là ở chỗ : Nó không điều khiển chúng ta từ bên ngoài vào, nhưng là ngự trị nội tại trong ta, chiếm giữ và lèo lái cả lý trí và ý muốn của ta. Cuối cùng, những lợi lộc mà ông vua « cái tôi » thu vén là cốt cho chúng ta, để phục vụ chính chúng ta. Chính cái khó nhất là ở chỗ đó : Làm thế nào chúng ta có thể khách quan nhận ra cái lệch lạc, cái sai trái của cái tôi - nghĩa là lòng ích kỷ - của chúng ta ?
Con đường duy nhất là tìm về phục vụ Ðức Giêsu Kitô-Vua, vị vua đích thực của vũ trụ và của đời sống chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, Người chịu chết để chúng ta được sống. Người là vị vua nhân hậu, chấp nhận thân phận nghèo hèn và vâng lời chịu lụy cho đến chết, chết trên thập giá. Về Ðức Kitô-Vua, Tinsley đã viết : « Người đã không bao giờ là Vua và là Ðấng Cứu Thế, nếu không chết trên thập giá ». Ðức Kitô là vua và nước của Người không thuộc về thế gian này, nhưng lại ở giữa thế gian. Người không hề dùng quyền bính để cai trị, nhưng là để phục vụ. « Phục vụ thay vì cai trị », bênh vực quyền lợi của kẻ cô thế cô thân, chở che người nghèo đói, trả lại công bằng cho những người đã bị mất quyền sống, v.v... là chương sống và hành động của Kitô-Vua. Người thay thế sự tự hy sinh mình vào chỗ sự tự khẳng định mình. Người không đòi hỏi gì cho mình cả, người chỉ cho đi ! Người không tẩy não hay rửa đầu ai hết, Người rửa chân cho mọi người. Những thủ lãnh thế gian bắt thần dân chết thay cho mình, còn Ðức Kitô-Vua lại đã chết thay cho thần dân của Người : Ðó chính là sự cao cả của Đức Kitô-Vua. Chính những kẻ nhạo báng Người đã nói lên sự thật về Vương Quyền của Người, khi họ mỉa mai : « Nó đã cứu được kẻ khác ! » (x. Mt 27,42). Quả vậy, việc cứu giúp kẻ khác : là biểu tượng và là mục đích của Phẩm Hàm Vương Ðế và của Vương Quyền Ðức Giêsu. Vương Quyền của Ðức Giêsu cần đến những con người không chỉ sống và chỉ nghĩ đến chính mình mà thôi, nhưng - cũng như Người - còn biết giúp đỡ và sống cho kẻ khác nữa. Thiên Chúa cần đến tất cả chúng ta!
Ai chấp nhận và tùng phục Vương quyền êm ái dịu hiền của Ðức Giêsu, người đó hoàn toàn tự do trước tứ độ tường, trước mọi mê say tội lỗi. Dĩ nhiên, để phục quyền Ðức Kitô-Vua, nghĩa là để bước đi trên con đường của Người, con đường của sự từ bỏ bản thân mình và nhờ thế được sống đời tự do, con người cần phải từ bỏ một đôi thứ - không chỉ những thứ xấu và tai hại, nhưng đôi khi cả những thứ tốt nữa - nếu chúng trở nên chướng ngại vật ngăn cản bước đường đó của chúng ta. Chính đó là con đường đưa dẫn chúng ta vào trong Vương Quốc vô biên giới, một con đường không chỉ hứa mang lại một cuộc sống sung mãn, nhưng còn ban tặng cho ta chính cuộc sống đó nữa. Ai phục vụ Ðức Kitô-Vua, người đó tìm được ý nghĩa và mục đích chân thật đời mình !
Bài đọc một, trích sách Daniel, từ chương 7 đền 12 nói về các thị kiến của vị tiên tri. Như chúng : TN 34-ABC224
Bài đọc một, trích sách Daniel, từ chương 7 đền 12 nói về các thị kiến của vị tiên tri. Như chúng tôi trình bày tuần trước, vào thời thượng cổ, cũng như bây giờ, khi quần chúng lâm vào hòan cảnh quẫn bách chính trị, kinh tế thì nhu cầu cấp thiết là niềm hy vọng. Kinh Thánh cống hiến niềm hy vọng ấy bằng nhiều hình thức khác nhau. Phỏng hai thế kỷ trước Chúa Giêsu và hai thế kỷ sau Ngài hình thức phổ thông là văn chương khải huyền. Xa hơn nữa là các tiên tri, ngôn sứ... Hôm nay chúng ta có văn chương khải huyền của Daniel: "Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn, thì kìa có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến". Xin nói ngay, văn chương khải huyền được viết bằng ngôn ngữ bóng bẩy: thị kiến, giấc mơ, ẩn dụ, biểu tượng ... để diễn tả hy vọng rằng sự thiện sẽ thắng cái ác, lành thánh sẽ thắng tội lỗi, vinh hiển sẽ thắng lao tù. Mặc dầu hiện thời còn phaỉ vật lộn với những khó khăn. Cuối cùng Thiên Chúa sẽ toàn thắng thế gian. Các cuộc bách hại sẽ chấm dứt, Hội Thánh được bình an.
Đọc những tường thuật của Daniel về các thị kiến, người ta có cảm tưởng vị tiên tri chia sẻ những mộng mị đêm hôm trước của mình với người bạn nào đó. Nhưng sự thực không phải như vậy. Tiên tri nói lời Thiên Chúa cho các đồng bào ông về hy vọng tương lai. Ong viết cho họ đang trong cơn bách hại của vua Antiôkô VI 200 năm trước Chúa Giêsu. Các người Do Thái đang chịu đựng khốn đốn vì đức tin. Trong khi đa số đồng bào chịu bắt bớ và giết hại thì một số chạy theo nhà vua chối bỏ đạo cha ông, thờ lạy thần ngoại giáo. Hẳn vị tiên tri cảm thấy đau lòng vì những phản bội, cũng như ngày nay chúng ta cảm thấy đau xót khi giáo dân, tu sĩ, chạy theo tiện nghi vật chất, sống đời nhung lụa mà quên mất Lời Chúa. Tiên tri cảnh cáo đồng bào về những sự lừa dối của thế giơí Hy lạp, về triết lý, khoa học, văn hoá của nó. Dĩ nhiên, những kẻ chạy theo thế gian sẽ chẳng bị trừng phạt như những người trung thành, nhưng đức tin bị mai một bởi não trạng sai lầm.
Thế giới này đầy dãy những cám dỗ và hấp dẫn. Như vậy người ta dễ dàng thờ lạy tà thần, những tà thần xem ra đầy quyền lực, giàu sang và lôi cuốn. Thực ra thời nào cũng có những cám dỗ, chúng đánh lạc hướng các tín hữu nhẹ dạ chối bỏ đức tin và tôn giáo của tổ tiên, chạy theo thành công tiền bạc và quyền lực. Hai tuần trước, tức đầu tháng 10 dl, tôi trên đuờng đi giảng tĩnh tâm ở một giáo xứ lẻ, bất giác nhìn ra cửa kính xe hơi đã thấy những bảng quảng cáo hàng hoá giáng sinh. Tôi liếc nhìn và có cảm giác đợt sóng thần đầu tiên về quảng cáo đang ập tới. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ bị nhận chìm trong những hào nhoáng của lễ hội. Chẳng thể tránh khỏi. Các cửa hiệu, tiệm tạp hoá, siêu thị, quán càphê, trạm dừng chân, báo chí, internets... thôi thì cẳng còn thiếu nơi đâu không có quảng cáo. Chúng ta chẳng cần có bàn tay bạo chúa Antiôkô. Chính chúng ta và con cháu đang chết đuối trong những làn sóng duy vật, khoái lạc, hưởng thụ. Các thanh niên, thiếu nữ, trẻ người non dạ sẽ chẳng thể nào ngóc đầu vượt khỏi những quảng cáo đầy cám dỗ đó. Cha mẹ sẽ bị áp lực mua sắm, lãng phí về những tiêu xài vô bổ. Chẳng cần nói tới tuổi trẻ, lớn đầu như chúng ta cũng sẽ bị lôi cuốn, cám dỗ. Sau lễ hội là nợ nần thiếu thốn! Làm thế nào thoát ra được đây? Chẳng cần có bàn tay bạo chúa Antiôkô. Bàn tay của vật chất, tiện nghi, văn minh máy móc nặng nề hơn. Cho nên văn chương khải huyền lại một lần nữa cần thiết cho linh hồn các tín hữu! Am mưu satan thật quái ác. Chúng ta phải tỉnh thức luôn kẻo rơi vào vòng tay của hắn mà chẳng biết!
Đúng vậy, ngẫu tượng hiện diện khắp nơi trên mặt địa cầu, khắp năm châu bốn bể, khắp làng mạc thôn xóm, thành thị khu phố. Những ngẫu tượng của thành công, tiếng tăm, hạnh phúc và muôn vàn hình thức khác. Cho nên bận tâm của Daniel không chỉ cho thời đại ông mà cả cho chúng ta nữa. Lễ Chúa Kitô vua hôm nay nhắc nhở các linh hồn, ai sẽ làm vua trên thế gian này? Ai sẽ chiếm hữu trái tim con người? Môn đệ Chúa làm đuợc chi? Liệu satan với các chiến thuật tinh vi của hắn sẽ lôi kéo được nhiều linh hồn và sẽ thắng? Hay vua khiêm nhường Giêsu ? Câu trả lời giành cho các kẻ nhận mình là tông đồ Chúa. Riêng Daniel trong bài 1 xác định dứt khoát " Đấng Lão Thành trao cho Người vinh quang và vương vị, muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng thờ Người. Quyền thống trị của Người là vĩnh cửu, không bao giờ mai một". Liệu chúng ta đồng ý với tiên tri không? Nếu đồng ý thì phải làm chi? Chẳng lẽ dung dưỡng xác thịt, gây gương mù gương xấu, rồi hô lớn : Chuá đã toàn thắng? Không đời nào xảy ra như vậy! Bơỉ vì vị tiên tri nói đến "Con Người" và chúng ta biết rõ số phận của Ngài ra sao! Con Người đó sau khi chịu khổ hình, chết và sống lại mới được ban quyền năng trên trời, dưới đất, hoả ngục và "vương quốc của Người chẳng hề suy vong". Xin tưởng tượng sự thiện sẽ ngự trị khắp nơi và bền vững muôn đời muôn kiếp. Daniel đoan hứa với tất cả mọi linh hồn đang chịu bách hại, chán nản và rã rời, vì kẻ thù mạnh thế. Ong cũng nói với chúng ta, những tín hữu trung kiên trước lôi kéo của thế gian.
Ví ngay từ đầu, các tín hưũ tiên khởi đã tin thật Chúa Giêsu là "Con loài người". Và chính Ngài cũng năng dùng danh hiệu này: "Liệu khi Con Người đến còn tìm thấy lòng tin trên mặt đất này nữa không" ? hoặc "Con Người phải chịu trao nộp vào tay các thượng tế, kinh sư. Họ sẽ hành hạ Ngài và giết đi". Tuy nhiên, Hội Thánh cũng tin Ngài sẽ trở lại trên các tầng mây xanh. Vậy tiên tri viết cho các người Do Thái đang bị vua Antiôkô bách hại để an ủi họ, đồng thời cảnh cáo những ai muốn từ bỏ đức tin để chạy theo giả trá thế gian. Ong cũng viết cho các tín hữu tân thời đang bị thế giới thù nghịch, tẩy chay và những kẻ muốn thất vọng vì mòn mỏi đợi trông Chúa trở lại mà không thấy. Chúng ta nên suy nghĩ thấu đáo hơn nội dung bài đọc và lựa chọn thái độ xứng hợp.
Đây là tuần lễ cuối cùng của năm phục vụ B. Tuần tới bắt đầu mùa vọng C và một loạt bài đọc mới. Cho nên các bài đọc hôm nay có tính kết thúc. Bài hai tuyên bố: kính dâng Ngài vinh quang và uy quyền đến muôn thủa muôn đời Amen! Rồi Thiên Chúa phán: Ta là Anpha và Ômêga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến. Là Đấng toàn năng! Amen. Nhưng ngày lễ hôm nay cũng thúc giục chúng ta nghĩ đến năm phục vụ C: Phải khởi sự ra sao? Có lẽ nên với hy vọng và tham dự trước. Chúng ta sẽ bỏ bớt những thói quen không tốt. Nên có kinh nghiệm tự do thiêng liêng nhiều hơn. Chúng ta sẽ hạ quyết tâm và kiên cường tuân giữ, trung thành với Lời Chúa nhiều hơn. Chúng ta còn một tuần lễ nữa để suy nghĩ về các lựa chọn của mình. Phải làm điều chi tốt hơn là rắp tâm ăn kiêng, vận động thân thể để được khoẻ mạnh và cường tráng. Xin đề nghị: Một tinh thần đổi mới, ý chí vững bền và một tình yêu thắm thiết. Tuần tới chúng ta sẽ mang những quyết tâm đó dâng trên bàn thờ Thiên Chúa, xin Ngài chứng giám và trợ giúp thực hiện, bởi chúng ta chẳng thể làm chi mà không có ơn Chúa Kitô. Ngài sẽ thêm sức mạnh cho nếu chúng ta thành tâm.
Cho nên ngày lễ Chúa Kitô vua hôm nay là cơ hội tốt để mọi người suy nghĩ lại, rời bỏ quá khứ xấu xa, tiến tới nếp sống mới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta lần nữa: " Ai yêu chuộng sự thật thì nghe tiếng tôi". Nghĩa là chúng ta chọn Ngài làm tiếng nói cao cả cho lương tâm mình, Ngài sẽ dẫn chúng ta trên đường ngay nẻo chính đi tới Đức Chúa Trời. Từ trước đến nay có lẽ tiếng xác thịt, thế gian, satan dẫn dắt chúng ta. Vì vậy chúng ta mới rơi vào sa đoạ. Lúc này chúng ta cần phải nhận ra mình sai lầm mà lắng nghe tiếng Chúa Giêsu: Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi. Không nghe tiếng Ngài là chúng ta về phe với dối trá, lừa đảo. Mặc dù chúng ta xưng mình là môn đệ Chúa. Điều này đã xảy ra rất nhiều lần trong cuộc đời mỗi người. Chẳng cần chứng minh. Hôm nay Chúa Giêsu ứng nghiệm thị kiến của Daniel. Ngài là Con của nhân loại mặc khải Thiên Chúa Cha cho thế giới, nói toàn sự thật về thiên đàng, thế gian và hoả ngục. Ngài cảnh cáo mọi người đừng chọn sai lầm của cải vật chất, xác thịt và ma quỉ, tức quyền lực, của cải, tiện nghi, giàu sang, hào nhoáng, mà chọn nghèo hèn, khiêm tốn và thanh sạch: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi". Thánh Gioan hay dùng từ " thế gian" để chỉ những kẻ từ chối Thiên Chúa, yêu mến tối tăm. Liệu chúng ta thuộc về nhóm họ không? Chắc chắn " thế gian" chẳng có khả năng ban sự sống, chỉ ban chết chóc và gian dối mà thôi. Chúa Giêsu xưng mình là vua của vương quốc sự thật, sự sống và tình yêu. Ai yêu mến những giá trị đó thì nghe tiếng Ngài. Xin nhớ: khi Ngài tuyên bố các câu ấy thì Ngài đang đứng trước mặt Philatô. Hai thực tại hoàn toàn đối lập nhau. Hai biểu tượng : một của Chân lý, một của gian tà. Nếu chúng ta chọn Ngài, chúng ta chọn sự thật. Nếu chúng ta chọn Philatô, chúng ta chọn gian dối. Đường lối của Ngài là hèn mọn, yêu thương và kiêm nhường. Đường lối của Philatô là quyền lực giàu sang và hào nhoáng. Như vậy chúng ta dễ biết mình thuộc về phía nào. Than ôi! Thiên hạ xưa nay la to mình thuộc về Chúa Giêsu, nhưng thực chất họ thường xuyên chọn Philatô và đường lối của ông ta.
Năm phụng vụ đã kết thúc, lần nữa chúng ta hạ quyết tâm chọn Chúa Giêsu và đường lối của Ngài. Sống khiêm nhường, bác ái, khổ chế, cầu nguyện. Chúng ta nghe tiếng Ngài và được dẫn dắt đến sự thật, sự sống, đến vương quốc tình yêu và ánh sáng. Chúng ta sẽ phục vụ Ngài trong các kẻ nghèo hèn vì Ngài tuyên bố làm việc đó là phục vụ chính Ngài. Amen.
Hôm nay Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Mẹ Hội Thánh đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa: TN 34-ABC225
Hôm nay Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Mẹ Hội Thánh đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật này với hàm ý : ước nguyện sau cùng là tất cả mọi người đều ở trong Nước Thiên Chúa, một nước chỉ có yêu thương, thái bình, hạnh phúc. Vì thế, phụng vụ Lời Chúa ngay từ Bài đọc I, trích trong sách Daniel đã nói tiên tri về Đức Kitô sẽ được trao quyền thống trị trên muôn lòai (Dn. 7, 13 - 14) và Bài đọc II thánh Gioan đã mô tả vị vua cai trị ấy đầy lòng yêu thương, dám hy sinh mạng sống lấy máu rửa sạch tội lỗi chúng ta, nên được tôn làm vua muôn lòai (Kh 1, 5 - 8). Và bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Chúa Giêsu đã xác quyết : "Quan nói đúng, tôi là Vua" (Ga 18, 33 - 37), cho nên bài đáp ca đã lặp đi lặp lại : Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (Tv 92)
Nói tới Vua là nói tới ngai vàng, vương quyền, thế lực... nên khi nghe Ngài nhận là vua người Do Thái tưởng Ngài là vua theo nghĩa chính trị nên kết án Ngài phản loạn. Nhưng không phải thế, Chúa Giêsu làm vua thì ngược lại, Ngài lang thang "không có nơi gối đầu...", làm bạn với phường tội lỗi, kết thân với kẻ đói nghèo, bệnh tật...Nhưng Ngài là vua một cách hòan hảo với đầy đủ đức tính của một vị vua nhân ái và yêu thương, sẵn sàng cúi xuống trên kẻ bần cùng, xoa dịu vết đau của người cô thế thể xác lẫn tinh thần. Ngài là vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng trên Thập giá. Không cai trị bằng quyền lực, nhưng bằng tình thương. Một vị vua không lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
Chúa Giêsu làm vua, nhưng không phải là một vua như mọi vua trần gian và nước của Ngài cũng không giống các nước trên trần thế. Nước ngài không xây dựng trên sức mạnh, quyền lực vì "Nước tôi không thuộc thế gian này...". Nước Chúa xây dựng trên sự thật, mà sự thật là làm cho con người trở thành người hơn, biết tôn trọng nhân phẩm, nhân quyền của nhau. Sống theo sự thật không dễ, vì người sống theo sự thật thường thua thiệt, còn kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Chỉ có những ai dám nói sự thật và sống theo sự thật mới đựơc sống trong vương quốc của Chúa Giêsu. Vì thế, để làm công dân nước Chúa, người ta phải cố gắng sống theo Lời Chúa và dạy cho người khác cũng sống như thế. Ai sống theo giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về nước Chúa. Mỗi người chúng ta hãy sống xứng đáng làcon dân nước Chúa.
Vương quốc của Chúa Giêsu còn là vương quốc của tình yêu. Thế nhưng, yêu mình, yêu cha mẹ, yêu thân nhân, bạn bè thì dễ, yêu người dưng, người khác chủng tộc, khác màu da cũng còn có thể, nhưng yêu kẻ thù thì thật vô cùng khó. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi phải yêu hết mọi người, yêu cả kẻ thù vì Ngài là vua tình yêu, và chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là con dân của Chúa. Trong Tân Ước, Ngài đã dùng những ví dụ để nói về Ngài : người mục tử tốt lành dám bỏ chín mươi chín con chiên để lo tìm một con chiên lạc, người đàn bà tìm moi móc đồng bạc đánh rơi, người cha nhân lành.... Tìm được chiên vác lên vai, đưa về mở tiệc mừng, tìm được tiền đem khoe, tìm được con mở tiệc ăn mừng... Phải, Ngài quả là vị mục tử đã dám hy sinh mạng sống cho đàn chiên (x. Ga 11, 50).
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy biến đổi nơi Đức Kitô để nhập Vương quốc của Người. Một nước không có quân đội, vì không thuộc thế gian, nhưng vương quốc ấy có công dân thực sự, đó là những người đứng về phía sự thật, mà sự thật là chính Chúa Giêsu, dám lên tiếng đấu tranh cho những bất công, bóc lột và đưa tinh thần của Đức Kitô vào những nơi nghèo đói, lạc hậu, ma túy, tham nhũng, ... Chúng ta càng làm cho tình yêu và sự thật thắng thế, thì nước Chúa càng lớn lên. Xin Chúa làm vua chính cõi lòng chúng ta để chúng ta biến đổi thế giới.
Vương Quyền Chúa ngày nay đang bị lu mờ bởi những đam mê dục vọng. Xin Chúa là vua thống trị mọi tâm hồn, thức tỉnh lương tâm các nhà lãnh đạo quốc gia, để họ biết chấp nhận Chúa là chủ tể vạn vật, và biết tôn trọng những giá trị, quyền lợi căn bản của con người. Nhờ đó mọi người được hưởng một nền hòa bình trong bầu khí yêu thương chân thành. Sr Mai An Linh OP
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra một số tước hiệu của Ngài như : mục tử, thầy, Chúa: TN 34-ABC226
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra một số tước hiệu của Ngài như : mục tử, thầy, Chúa, Con Người, tôi tớ vv...Tuy nhiên, tước hiệu là Vua, Chúa Giêsu chỉ xác nhận vài giờ trước khi Ngài bị kết án. Philatô đã hỏi cung Chúa Giêsu:" Ông là Vua sao ? ". Tước hiệu Vua ở đây có nhiều ý nghĩa.
TÔI LÀ VUA : Bài tường thuật Ga 18, 33b-37 rút ra từ bài thương khó của Chúa Giêsu trong Tin Mừng của thánh Gioan, là một cuộc thẩm vấn kỳ lạ, bị cáo lại đặt câu hỏi với quan toà và kéo quan toà xoay quanh vấn đề " Vua dân Do Thái ". Theo dõi cuộc thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta chú ý nhân vật Philatô đối với Chúa Giêsu.
Philatô sau khi trao đổi với dân chúng ở ngoài phủ đường, ông đi vào trong và ra lệnh đưa Chúa Giêsu đến trước mặt ông. Ông hỏi Chúa Giêsu:" Ông mà lại là Vua dân Do Thái ?". Đây là lần đầu tiên tước hiệu Vua xuất hiện trong trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Tin Mừng nhất lãm cũng ghi lại tước hiệu này. Sự kiện này cho thấy tất cả đều bắt nguồn từ truyền thống tiên khởi. Ở đây, rất có thể tước hiệu Vua được thốt ra từ miệng của Philatô. Câu hỏi cung này chứng tỏ Philatô đã biết từ trước dân Do Thái tố cáo Chúa Giêsu. Đối với Philatô cũng như lời tố cáo của dân Do Thái: tước hiêu" Vua Do Thái " mang ý nghĩa chính trị. Vua Israen mang ý nghĩa tôn giáo
( Ga 1, 19 ). " Vua dân Do Thái " mang ý nghĩa chính trị ( Ga 18, 34 ). Ở đây Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của Philatô nhưng Ngài đặt câu hỏi cho Philatô:
"Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về Tôi ?". Câu hỏi của Chúa Giêsu nhằm làm rõ nghĩa câu hỏi cũng như ý nghĩa sâu xa của Philatô. Nếu tự ý Philatô nói ra câu đó, thì "Vua" có ý nghĩa chính trị, còn nếu do dân, hoặc ai đó nói về tước hiệu Vua của Chúa Giêsu, tước đó có nghĩa tôn giáo" Vua dân Do Thái ". Chúa Giêsu muốn làm rõ ý nghĩa của từ Vua, để nếu Philatô gán ghép cho từ Vua theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu sẽ phủ nhận, còn nếu hiểu chữ "Vua" theo nghĩa tôn giáo, Đức Giêsu là Đấng Mêsia phải đến trong thế gian, Chúa Giêsu sẽ chấp nhận. Philatô tỏ ra bực tức, ông không muốn hiểu tước vị " Vua dân Do Thái " theo nghĩa tôn giáo. Chính vì thế, Philatô đã hỏi Chúa Giêsu tiếp:" Ông đã làm gì ?". Giờ phút này, Chúa Giêsu không ngần ngại xác định cho Philatô rằng Nước của Ngài không thuộc thế gian này, nghĩa là Nước của Chúa không tổ chức theo nghĩa chính trị mà Nước của Ngài hoàn toàn thuộc về lãnh vực thiêng liêng : " Nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của Tôi đã cố chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái ". Đúng như lời Chúa Giêsu nói, Ngài có một Nước nhưng Nước đó là Nước Trời, Nước linh thiêng, hoàn toàn khác biệt với thế gian. Philatô khi nghe Chúa Giêsu nói về "Nước", ông ta liền hỏi Chúa Giêsu:" Vậy thì ông là Vua sao ? ". Chúa Giêsu không ngần ngại và Ngài khẳng định một cách trang trọng:" Ông nói đó : Tôi là Vua ".
Lời khẳng định của Chúa Giêsu rằng Vương Quốc của Ngài thuộc thế giới thần linh. Ngài được Chúa Cha sai đến trần gian để làm chứng cho sự thật, nghĩa là Ngài làm chứng cho Thiên Chúa, làm chứng cho Nước Trời. Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa. Vương Quốc của Chúa Giêsu, chính Ngài đã thiết lập trong cuộc khổ nạn, Ngài chịu chết theo ý của Chúa Cha để cứu độ nhân loại :" ...Còn Ta, khi Ta được nâng lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" ( Ga 12, 32 ). Điều khác lạ xem ra hết sức nghịch lý ở chỗ; chính trong sự đau khổ, Chúa Giêsu xưng mình là Vua, và khi Ngài bị treo lên thập giá, Ngài mới chứng tỏ thật mình là Vua. Chúa Giêsu là Vua nhân từ, hiền hậu, Vua tôi tớ, Vua thí mạng sống để cho muôn dân được sống. Thật ra nếu có nghịch lý là nghịch lý đối với Philatô, đối với người Do Thái, đối chúng ta khi mọi người có ý nghĩ theo ý người đời, theo cái nhìn xác thịt của con người. Đối với Chúa Giêsu đó là một việc làm hoàn toàn ý thức, hoàn toàn tự hiến theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài vâng phục tới cùng, vâng phục Cha Ngài cho tới chấp nhận cái chết trên thập giá. Suốt cuộc thẩm vấn, Philatô biết Chúa Giêsu vô tội ( Ga 18, 38 ) và muốn tìm cách tha bổng Chúa Giêsu ( Ga 19, 12 ). Nhưng Philatô tỏ ra hèn nhát, ông sợ áp lực của người Do Thái, ông sợ mất chức, mất quyền. Do đó, ông để mặc cho Chúa Giêsu bị án tử hình dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội. Ông vẫn cho treo bản án:" Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái".
Nuớc Chúa không thuộc trần gian nhưng vẫn hiện diện giữa trần gian. Người Kitô hữu thuộc về Vương Quốc tình yêu, lấy chân lý, yêu thương, hiệp nhất, hòa bình làm nền tảng. Vương Quốc của Chúa qui tụ mọi con dân sống tình huynh đệ bác ái và Vua Giêsu đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ. Liệu người Kitô hữu có can đảm làm chứng cho Vương Quốc tình yêu của Chúa Giêsu không ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chiêm ngưỡng Chúa trong tư cách là Vua hiền lành, khiêm nhượng, Vua phục vụ, Vua tôi tớ. Amen.
Đức Giêsu trả lời cho quan Philatô rằng: "Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ : TN 34-ABC227
Đức Giêsu trả lời cho quan Philatô rằng: "Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý. Ai thuộc về chân lý thì hãy nghe tôi."(Jn 18:37) Khi Đức Giêsu hỏi các tông đồ người đời hiểu biết về Ngài thế nào, thì họ trình thuật lại. Những câu trả lời về Ngài đều không đúng! Thế rồi Ngài muốn chính các tông đồ là những người gần gũi Ngài nhất hiểu biết về Ngài thế nào, Ngài hỏi: "Chính các con, các con nghĩ Thầy là ai?" Nhờ được ơn soi sáng, Phêrô đại diện các tông đồ trả lời đúng:" Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa."(Lk 9:20). Câu trả lời tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả đầy đủ ngôi vị của Đức Giêsu và chương trình Thiên Chúa cứu độ trần gian. Là Con Thiên Chúa, thì việc Ngài làm đem hiệu quả hơn mọi vua trần thế. Là Con Thiên Chúa, nên lời Ngài nói đáng tin và có sức cứu thoát tội nhân khỏi quỉ thần. Ngài đúng là Vua vĩnh cửu. Danh từ vua không đủ nghĩa để giải thích những ân phúc mà Đức Kitô ban phát cho nhân loại. Theo quan niệm trần gian, vua thì ngồi trên cao, có quyền thế và nắm vận mạng sinh tử của nguời dân. Trái lại, Đức Kitô là nguời 'tôi tớ'. Ngài kêu gọi dân đến với Ngài, để nâng cao giá trị làm nguời của họ lên hàng thần thánh. Ngai của Ngài không mạ vàng sáng chói, nhưng là cây Thánh Giá trên đồi cao sinh hoa trái cứu chuộc. Triều thiên của Ngài không cẩn bằng ngọc quý, nhưng là những hạt máu tuơi để rửa sạch tội loài nguời. Ngài không bắt dân phải chết để bảo vệ ngôi báu, nhưng chịu chết treo để xin Chúa Cha ban ơn tha thứ cho dân, như lời sách Khải Huyền:" Nguời là thủ lãnh các vua trần thế ... đổ máu mình ra để thánh hóa chúng ta trở nên tư tế của Thiên Chúa."(1:5-6). Quyền thế của vua trần gian thì giới hạn, nhưng Ngài lại ban cho những ai tin theo Ngài sự sống vĩnh cửu.
Thực Hành:"Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai"(TV 92:1). Sau khi bị vua trần gian ruồng bỏ và giết chết trên thập giá, Đức Kitô được nâng lên làm Vua vũ trụ. Ngài không bỏ loài nguời duới quyền sự dữ, nhưng sai các tông đồ tiếp tục công việc cứu độ của Ngài qua bí tích Rửa tội. Bí Tích rửa tội là lễ phong vương cho từng Kitô hữu. Họ được sai đi để cứu độ trần gian. Ước gì mỗi Kitô hữu biết Vua đời mình là ai, và biết phục vụ theo tinh thần tôi trung của Đức Kitô. Lm Peter Hà Ngọc Đoài
Trước khi gửi thư cho bảy giáo đoàn hội thánh Tiểu Á, thánh Gio-ABCn chào thăm họ nhân danh Chúa TN 34-ABC228
Trước khi gửi thư cho bảy giáo đoàn hội thánh Tiểu Á, thánh Gio-ABCn chào thăm họ nhân danh Chúa Giê-su. Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su là Vua và chúc tụng những công nghiệp của vị “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian.” Hình thức của bảy thư đều theo cùng một dàn bài như nhau: người nhận thư là mỗi giáo đoàn, người gửi thư là Chúa Ki-tô, nội dung là xét xử, đe dọa hay khích lệ cộng đoàn về lòng trung thành, lời khuyên và hứa ban phần thưởng. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy tước hiệu Thủ Lãnh dành cho Chúa Ki-tô thực là thích hợp trong vai trò Đấng phán xét muôn loài trong ngày sau hết và trích dẫn đoạn Kinh Thánh này mang nhiều ý nghĩa cho lễ trọng kính Chúa Giê-su là Vua. Vậy qua lời giới thiệu của Gio-ABCn trước khi ngài viết lại các sứ điệp của Chúa Giê-su để gửi cho các giáo đoàn Tiểu Á, thì Vua Ki-tô là ai và Người đã làm gì? a) Vua Ki-tô là “vị Chứng Nhân trung thành, Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy và Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian”
Những tước hiệu trên đây cho chúng ta một hình ảnh đầy đủ về Chúa Ki-tô trong ba thời điểm thuộc sứ mệnh của Người: sống giữa nhân loại để công bố Tin Mừng cứu rỗi, chết và sống lại để thiết lập một nhân loại mới, và sẽ trở lại xét xử muôn loài và quy tụ muôn loài mà đưa về cho Thiên Chúa Cha.
Cuộc sống của Chúa Giê-su trên trần gian là một chứng từ của tình yêu Thiên Chúa. Người trung thành làm chứng cho sự thật (Ga 18:37), đó là Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi sai Người đến với thế gian. Người trung thành trong vai trò là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại, để kêu gọi họ hãy hối cải, dạy họ những chân lý mới và mời họ hãy tin vào Tin Mừng Người rao giảng. Dù phải đương đầu với dửng dưng, chống đối, nguy hiểm và ngay cả cái chết khổ nhục, Người vẫn trung thành với sứ mệnh cứu thế. Thực vậy, Người đã cam lòng chịu chết để trung thành với tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại. Máu Người đổ ra trên thập giá đã xóa bỏ tội lỗi trần gian và chứng tỏ lòng “yêu thương đến cùng” của Thiên Chúa.
Sự Phục sinh đã nói lên vai trò mới trong sứ mệnh làm vua của Chúa Giê-su. Người là Con Cả của nhân loại mới, là Anh Trưởng của một đàn em đông đúc. Chân lý này đã được thánh Phao-lô khai triển nhiều lần trong các thư của ngài, nhất là thư Cô-lô-xê. Sự Phục sinh của Chúa Giê-su là khuôn mẫu, khởi đầu và bảo đảm cho sự sống lại trong ngày sau hết của tất cả những ai tin vào Người. Đó là tất cả những gì mà thánh Phao-lô gọi là “niềm hy vọng” của tín hữu khi còn đang sống cuộc lữ hành tại trần gian này.
Chúa Ki-tô là Thủ Lãnh, nhưng chúng ta hãy nghe ý niệm về thủ lãnh của Người: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:43-44). Chính vì Người đã “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống nhu người trần thế, lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7-8), đã thi hành vai trò thủ lãnh như vậy ở trần gian, nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Người..., mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giê-su Ki-tô là Chúa’” (Pl 2:9,11). Nếu Đầu đã đi theo con đường thập giá để tiến đến vinh quang, thi các chi thể cũng phải theo cùng một hướng ấy. Theo kế hoạch cứu rỗi nhiệm mầu, Thiên Chúa đã đặt Chúa Ki-tô làm Thủ Lãnh của một Dân Mới, của “giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2:9) để dẫn dưa nhân loại trở về và tiến vào vương quốc vĩnh cửu của Người. b) Vua Ki-tô đã đối xử như thế nào với con dân của Người?
Chúa Giê-su đã cho chúng ta câu trả lời rõ ràng: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy... Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10:42,45). Sách Khải Huyền đã tóm tắt cách thức đối xử của Vua Giê-su trong một động từ duy nhất: Người đã yêu mến chúng ta cho đến giọt máu cuối cùng, yêu đến độ “lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” và cho chúng ta được tham dự vào sứ vụ vua, ngôn sứ và tư tế của Người, tức là cũng được cai trị mọi loài cùng với Đức Ki-tô. Đúng là “con Vua thì lại làm vua”! Ở đây chúng ta nhận ra cấu trúc của Phụng Vụ, tại sao Giáo Hội sử dụng đoạn sách Khải Huyền hôm nay để tiếp nối đề tài sứ vụ tư tế của Chúa Giê-su qua thư Do-thái trong sáu Chúa Nhật trước đây.
Tấm lòng yêu thương của Vua Giê-su đòi hỏi sự đáp trả nơi mỗi người chúng ta, nếu quả thực chúng ta vỗ ngực xưng mình là công dân đích thực của vương quốc Người. Câu hỏi gợi ý chia sẻ Trong cuộc sống đời tạm này, chúng ta có thể tôn vinh nhiều người hoặc sự vật làm vua của mình và để cho mình lệ thuộc vào những ông vua ấy. Vậy tôi đang làm bề tôi cho ông vua nào? Tiền bạc? Danh vọng? Quyền hành? Thú vui? Tôi sẽ làm cuộc cách mạng nào để lật đổ những ông vua này và chỉ tôn vinh Vua Giê-su thôi?
“Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men” là vinh tụng ca dâng lên Vua Ki-tô. Tôi sẽ làm gì để làm rạng rỡ vinh quang và uy quyền của Chúa Giê-su?
Yêu thương là chính sách cai trị của Vua Giê-su. Tôi có theo chính sách ấy của Người không? Và tôi đã thi hành chính sách ấy như thế nào trong gia đình, sở làm, nhóm, cộng đoàn? Cầu nguyện kết thúc Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể cùng đọc lời nguyện sau đây: Lạy Chúa Giê-su, Vua vũ trụ, nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua củ một tỷ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ, nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất. Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu: có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra. Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian. Lạy Chúa Giê-su Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn. Ước gì một tỷ người công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Mỗi năm khi mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, chúng ta là người Công Giáo luôn có nhiều: TN 34-ABC229
Mỗi năm khi mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, chúng ta là người Công Giáo luôn có nhiều suy nghĩ. Chúng ta có những tâm tư, tình cảm và lại có cả những vấn nạn về một Vị Vua, danh nghĩa là Vua nhưng hoàn toàn khác các vua thế gian. Một Vị Vua cai quản trên trời dưới đất nhưng là một Vị Vua khiêm nhường, hiền từ, không thần dân như các Vua trần thế, không quân đội, một vị Vua nhân ái cưỡi trên mình lừa hiền từ đi vào Giêrusalem để chịu chết cứu độ nhân loại theo ý Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu là Vua, là Vua Vũ Trụ, Vua thiêng liêng, Vương Quốc của Người không thuộc thế gian này.
Lần giở lại Kinh Thánh, chúng ta chưa bao giờ thấy Chúa tự phong cho Ngài tước hiệu Vua như lòng mong ước của nhiều người. Bởi vì, dân chúng khi được chứng kiến các phép lạ Chúa làm đặc biệt phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi sống nhiều ngàn người ăn thì dân chúng sau đó đã đi tìm Chúa với ý định tôn Ngài lên làm Vua theo ý của họ. Và rồi, chính các môn đệ khi đi theo chân Đức Giêsu Kitô, các Ngài cứ tưởng Chúa sẽ đánh đuổi ngoại xâm và thiết lập lại Vương quyền Israen. Chúa sẽ lên làm Vua theo kiểu các Vua trần gian, các môn đệ sẽ tha hồ chia chác chức vị trong Vương Quốc của Chúa Giêsu.
Bài đọc thứ I hôm nay viết :” Đấng lão thành trao cho Người bá quyền, vinh quang cùng vương vị, mọi dân tộc, mọi quốc gia, ngôn ngữ phải phục vụ Người. Bá quyền của Người là bá quyền vĩnh viễn, chẳng bao giờ mai một, vương vị của Người sẽ không thể suy vong “ ( Dn 7, 13-14 ) hay Sách Khải Huyền trong bài đọc thứ II viết:” Đức Giêsu Kitô là vị chứng nhân trung thành, là trưởng tử, người đầu tiên từ cõi âm trỗi dậy, là Chúa tể mọi vương đế trần gian “ ( Kh 1, 5 ). Vâng, đây là cách nói đầy vẻ ẩn dụ, cách nói của Kinh Thánh. Trong Tin Mừng, chúng ta chỉ đọc thấy việc xác nhận tước hiệu Vua của Chúa Giêsu một lần trước mặt quan Philatô. Chúa xác nhận tước hiệu Vua khi Philalô hỏi Chúa Giêsu :” Ông có phải là Vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu xác nhận tước hiệu này nhưng Ngài xác định ngay :” Nước Tôi không thuộc thế gian này “.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu trước mặt Philatô nhằm minh chứng cho Philatô và những người bắt Chúa, Ngài là Vua nhưng là Vua Vũ Trụ, Nước của Ngài là Vương Quốc yêu thương, Ngài là Vua nhưng là Vua hiền từ, khiêm nhường, Vua hy sinh, phục vụ quên mình.Philatô chắc chắn khi nghe Chúa Giêsu trả lời như vậy, Ông phải mắc cỡ, giật mình và hối hận vì thực tế Ông và các đệ tử, hay cấp trên chẳng phải sợ sệt gì vì Chúa Giêsu chỉ là Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Đấng chết vì yêu :” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình “ ( Ga 15, 13 ). Nói như Gioan, Nước của Chúa là nước vô tận, là thiên giới không có ranh mốc, không địa giới vv…Nước của Chúa hoàn toàn siêu nhiên, hoàn toàn linh thiêng. Chúa cũng đã nói các môn đệ của Ngài ở thế gian nhưng không thuộc thế gian. Tuy nhiên, cho tới ngày hôm nay vẫn còn biết bao người cứ tưởng nước Chúa là thế gian này và họ tìm đủ cách để bành trướng nước Chúa theo ý nghĩ của họ. Nhưng họ đã lầm bởi vì theo thánh Matthêu nói về ngày chung thẩm, ngày cùng tận, khi Chúa tái lâm đến, Ngài sẽ tách dê ra khỏi chiên. Nước Chúa toàn những kẻ công chính, những kẻ ngay lành, thần dân của Ngài mình mặc áo trắng, tay cầm cành vạn tuế…Nước của Ngài là nước hòa bình, công chính.
Nước của Chúa là nước sự thật và là nước tình yêu.
Chúng ta cùng với thánh Phaolô ca ngợi địa vị của Thiên Chúa :” Đức Giêsu Kitô…vốn là Thiên Chúa từ bản tính, nhưng…Ngài đã tự nguyện từ bỏ tất cả những gì mình có, để mặc lấy thân phận tôi tớ. Ngài đã trở nên đúng là một con người…Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Vì thế, để tôn vinh danh hiệu Giêsu, mọi loài mọi vật trên trời duối đất, và cả trong âm phủ, đều phải quì gối, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha “ ( Pl 2,5-11).
Lạy Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ, xin tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tín thác vào Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tước hiệu Vua của Chúa Giêsu có nghĩa gì ? 2.Tại sao dân chúng lại muốn tôn Chúa Giêsu làm Vua ? 3.Các môn đệ có muốn chúa làm Vua không ? Tại sao ? 4.Philatô sao lại hỏi Chúa có phải là Vua không ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-ABCn 18:33b-37)
Thật là một cuộc xử án lạ đời! Thay vì quan tòa Phi-la-tô hạch hỏi tội nhân Giê-su, thì tội nhân: TN 34-ABC230
Thật là một cuộc xử án lạ đời! Thay vì quan tòa Phi-la-tô hạch hỏi tội nhân Giê-su, thì tội nhân hỏi ngược lại quan tòa. Quan tòa nói chuyện dưới đất,
Thật là một cuộc xử án lạ đời! Thay vì quan tòa Phi-la-tô hạch hỏi tội nhân Giê-su, thì tội nhân hỏi ngược lại quan tòa. Quan tòa nói chuyện dưới đất, còn tội nhân nói chuyện trên trời. Trong khi quan tòa sợ hãi và tránh né sự thật, thì tội nhân lại khẳng định sứ mệnh của mình là làm chứng cho sự thật! Hơn thế nữa, tội nhân còn kêu gọi và thách đố quan tòa: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi!” Vậy chúng ta hãy xem Vua Giê-su Ki-tô nói gì về vương quốc sự thật của Người.
Sau khi Phi-la-tô xác nhận người Do-thái tố cáo với ông rằng Chúa Giê-su xưng mình là vua, ông bắt đầu thẩm vấn Người. Phi-la-tô hỏi: “Ông đã làm gì?” Chắc chắn ông ta muốn biết xem Chúa Giê-su có âm mưu thiết lập một chế độ chống lại đế quốc Rô-ma hay không. Ông lo lắng cho quốc gia trần thế của Xê-da cũng như cho địa vị của ông. Có lẽ ông không ngờ Chúa lại quả quyết vương quốc của Người không thuộc về trần gian này. Tiếp theo, Chúa Giê-su đã cho ông biết rõ ràng sứ mệnh làm vua của Người như sau: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Trước hết vương quốc của Chúa Giê-su không thuộc về trần gian này. Người nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian với một mục đích”. Mục đích không phải là để hành xử quyền bính, nhưng là “làm chứng cho sự thật”. Thực vậy, Chúa Giê-su là Ngôi Lời đã xuống thế làm người theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Do quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đã được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-ABC. Người từ trời đến thế gian không phải để thành lập một quốc gia có chính phủ, dân chúng, quân đội, thể chế giống như đế quốc Rô-ma, nhưng là khởi đầu một vương quốc thiêng liêng, vô hình. Tất cả hiến pháp, luật lệ, mọi tổ chức của vương quốc này đều xoay quanh một điểm chính là tình yêu. Ngay cả đến chính nghĩa hay sự thật của vương quốc này cũng là một sự thật về tình yêu. Thánh Gio-ABCn Tông đồ đã tóm tắt sự thật về tình yêu ấy trong một khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gio-ABCn 3:16).
Vua Giê-su đã làm chứng hùng hồn nhất về chân lý tình yêu Thiên Chúa bằng cách chấp nhận cái chết cứu độ để cho thấy mức độ Thiên Chúa yêu thương nhân loại: Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người sẵn sàng thí mạng sống mình vì bạn hữu! Trong vương quốc tình yêu, Vua Giê-su thiết lập một luật mới: công dân hãy yêu thương nhau như chính Vua đã yêu thương họ. Vua Giê-su đã liên kết, đặt ngang hàng với nhau hai giới luật về yêu thương: mến Chúa và yêu người. Cuối cùng ngay đến tòa án của Vua cũng là xét xử về yêu thương: anh em làm điều tốt cho một người công dân hèn mọn nhất trong vương quốc của Ta là anh em làm cho chính Vua vậy.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi Chúa Giê-su nói về sự thật “Thiên Chúa yêu thương nhân loại”, ông Phi-la-tô không hiểu hoặc không muốn hiểu sự thật ấy. Ông ngớ ngẩn hỏi Chúa: “Sự thật là gì?” Chúa Giê-su không trả lời, vì Người biết có trả lời cũng không thuyết phục được ông tin vào tình yêu Thiên Chúa. Còn chúng ta, tuy đã nhiều lần được dạy về sự thật, nhưng chúng ta cũng thường có thái độ chẳng khác gì Phi-la-tô. Nghĩa là chúng ta cũng thờ ơ trước tình yêu Chúa yêu thương chúng ta. Hoặc chúng ta không ý thức mình đang thuộc về vương quốc tình yêu, nên sống trong thù hận và không chút quan tâm tới người khác.
Vậy chúng ta hãy quyết tâm thi hành bổn phận công dân vương quốc tình yêu, đó là “làm chứng cho sự thật” tức là làm chứng nhân tình yêu, và “đứng về phía sự thật” tức là tuân lệnh Chúa Giê-su, Vua chúng ta. Hôm nay, để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo Hội lập lại lời hiệu triệu của Vua Giê-su để mời gọi chúng ta trong Năm đức tin này hãy hoán cải và canh tân lời cam kết theo gương Chúa mà sống hiến pháp yêu thương của Nước Người.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại TN 34-ABC231
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại đặt vấn đề với quan toà và hướng dẫn cả cuộc tranh luận về tước hiệu Vua dân Do Thái.
Thực vậy, Chúa Giêsu biết rằng chính dân Do Thái đã tố cáo Người xưng mình là vua. Nếu không có lời tố cáo này, Philatô chẳng bao giờ có ý bắt và kết án Người. Và bây giờ, nếu ông có quan tâm thì cũng chỉ vì khía cạnh chính trị của lời tố cáo này mà thôi, bởi vì ông đại diện cho hoàng đế Rôma, cai trị đất nước Do Thái.
Nhưng Chúa Giêsu nói tiếp với quan tổng trấn rằng: Nước Người không thuộc về thế gian này. Đối với người Do Thái cũng như đối với Philatô, danh từ vua chỉ có một ý nghĩa duy nhất là một lãnh tụ chính trị, có vương quốc, có thần dân với bộ máy cai trị và quân đội, để bảo vệ chủ quyền và an ninh cho đất nước. Nếu Chúa là vua theo nghĩa này thì hẳn thần dân của Người đã không để cho Người rơi vào tay họ. Chính họ cũng biết điều đó. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Người đã từ chối ý định của họ là muốn tôn Người làm vua.
Chúa là Vua, nhưng Người không cạnh tranh với hoàng đế Rôma vì nước Người không thuộc về thế gian này. Vương quốc của Người được thiết lập ngay trong lễ Vượt qua, khi Người phó mình chịu chết để vâng phục thánh ý Chúa Cha: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta. Đức Kitô thi hành vương quyền của mình bằng cách kéo loài người khỏi sự chết để dẫn đưa họ vào nhà Chúa Cha.
Điều nghịch lý là ở chỗ ngay trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô mới xưng mình là vua và ngay khi bị treo trên thập giá Người mới chứng tỏ mình thật sự là vua. Trong suốt cuộc xét xử, Philatô đã tỏ ra là một quan toà nghiêng ngửa và yếu đuối. Ông ta biết Chúa Giêsu không có tội gì và muốn tìm cách tha Người, nhưng ông lại sợ áp lực của người Do Thái: Nếu quan tha nó thì quan không phải là bạn hữu của hoàng đế.
Thế thì nguy rồi, chức vụ của mình, gia sản của mình và ngay cả mạng sống của mình cũng có thể tiêu ma. Thôi mặc kệ cho sự thật, mặc kệ cho bị cáo phải tử hình. Ta lo cho ta trước đã. Đó là một con người không trung thực và hèn nhát. Dù biết Chúa Giêsu không có tội muốn làm loạn, muốn xưng vương, nhưng Philatô vẫn cứ treo bản án: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám đứng về phía của chân lý của sự thật hay không? Chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh, những thiệt thòi để cho Nước Chúa được trị đến hay không?
Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được TN 34-ABC232
Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ đầu trình thuật, thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ Philatô để khỏi mắc uế hầu có thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (Ga 18,28); nhưng việc hỏi cung Chúa Kitô phải xảy ra bên trong phủ Philatô, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ để tra hỏi Chúa Giêsu. Vì vậy, trình thuật (Ga 18,28-19,16) chia ra làm bảy phân đoạn, theo các lần ra-vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nằm trong phân đoạn II (Ga 18,33-38), có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên để hiểu được nó ta phải đặt nó vào trong văn mạnh của cả trình thuật.
1. “Nộp” Chúa Giêsu
Nếu chỉ đọc lướt qua Tin mừng, ta có thể kết luận: chính Philatô đã nộp Chúa Giêsu, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá.
Tuy nhiên, đọc kỹ bản văn ta sẽ thấy: không phải Philatô, nhưng chính người Do thái, đại diện là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, thánh Gioan không hề nói là Philatô đã kết án tử cho Chúa Giêsu mà còn nhấn mạnh: bởi xác tín Chúa Giêsu vô tội, nên Philatô đã muốn thả Người, và sở dĩ ông phó nộp Người để bị đem đi giết là chỉ vì ông sợ hãi trước áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi.
Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên án tử (Ga 18,38b; 19,4; 19,6c); vì vậy, ông có ý định thả Chúa Giêsu (Ga 18,39; 19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để đương đầu với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này. Để thắng những do dự cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (Ga 19,12.15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp Người cho họ đóng đinh” (Ga 19,6).
Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi lên trên hậu cảnh của bi kịch: “... vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng hơn” (Ga 19,11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (Ga 13,2.27). Và đây mới chính là kẻ nộp người: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã nộp Chúa Giêsu cho Philatô.
Một câu hỏi được đặt ra: suốt thảm kịch này, Thiên Chúa, vị Thẩm phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử bất công đó? Chắc chắn là không phải vậy, vì Chúa Giêsu xác quyết trước Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông” (Ga 19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).
Nhưng hành vi Chúa Cha “nộp” Con mình mang một nghĩa khác hẳn với hành vi của Satan, Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha tôn trọng tình yêu của Chúa Giêsu: chịu đau khổ vì nhân loại, cũng như tôn trọng sự tự do của con người: Giuđa, Biệt phái và các nhân vật khác trong cuộc Khổ nạn; nghĩa là: Ngài cho phép Chúa Giêsu bị bắt bớ được diễn ra. Như thế, xét trong nghĩa này, Chúa Cha “nộp” Chúa Giêsu, thể hiện một tình yêu vĩ đại. Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp: “không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10,18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác nhau. Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ hoàng đế, và vì thế, họ đáng bị luận phạt.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ lộ
Việc Chúa Giêsu hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu chi phối: câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là: “ông là vua dân Do thái sao?” (Ga 18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (Ga 18,34); cách trả lời này cho thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái. Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giêsu và lên án Người chiếm đoạt vương quyền nếu người Do thái không tố cáo. Sở dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”.
Họ chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Binh lính Rôma là những kẻ đầu tiên. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn Người: “Đoạn lính tráng, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng tát vả Người” (Ga 19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người thành vua và nhạo báng Người.
Philatô cũng nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng ý ông là để nhạo báng người Do thái trong con người vị vua Giêsu. Ông truyền dẫn Chúa Giêsu “đến nơi gọi là Nền đá, tiếng Hipri là Gabbatha” (Ga 19,13). Philatô đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi” (Ga 19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.
Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấm biển trên đầu Chúa Giêsu, mang giòng chữ “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19). Vua đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn. Người đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới (Is 53,3).
Tuy nhiên, cảnh bên ngoài đó lại cho thấy: Chúa Giêsu vẫn chiếm hữu vương quốc của Người như Người quả quyết: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (Ga 18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực, không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (Ga 19,11), từ Thiên Chúa mà thôi.
Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô mang tính vĩnh cửu, không tồn tại nơi thế gian chóng qua này (1Ga 2,17). Thành ra để chiếm hữu vương quốc Người, Chúa Kitô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi vào cõi vĩnh hằng, phải “qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), và như thế phải được “giương cao khỏi đất” (Ga 12,32). Chính khi chịu đóng đinh, Chúa Kitô chiếm hữu vương quốc Người.
Thánh Gioan mặc nhiên nhấn mạnh điều đó. Trước hết ông ghi nhận: địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi là “Gabbatha” (Ga 19,13), tiếng Hipri có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv 109,1).
Tiếp đến, tấm biển mà Philatô cho đặt trên đầu Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19) cũng có ý nghĩa tương tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (Ga 12,31-32).
Đấy là huống cảnh nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ được “giương cao” trên thập giá.
Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ mà vì đó Người đã đến (Ga 12,17).
3. Những ai thuộc về vương quyền Giêsu Kitô-vua?
Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (Ga 17,24). Khi qua khỏi thế gian này mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (Ga 12,25; 13,1). Một khi “được giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (Ga 12,32); Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (Ga 14,2).
Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã trao cho Người sự sống vĩnh cửu” (Ga 17,1-2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu muốn ám chỉ: loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Kitô, họ thuộc quyền Người, để Người thông ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang cánh chung (Ga 17,24). Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Kitô được thể hiện nhờ việc trao ban sự sống cánh chung cho loài người: “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay Người. Kẻ nào tin Con sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ không thấy sự sống” (Ga 3,35-36).
Phải chăng như vậy con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha? Không, giây phút này chỉ đánh dấu một sự hoàn thành, một sự viên mãn, chứ không phải là một khởi đầu. Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này, phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được” (Ga 10,27-28); chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết (Ga 8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong thế gian phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 13,34-35).
Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống thần linh: lời Thiên Chúa (Lc 8,11; 1Pr 1,22-23; 1Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa Kitô - Ngôi Lời (Ga 1,12-13). Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu cho chúng ta trên trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ” những gì đang được dấu ẩn trong bí mật thánh thiêng này (1Ga 3,1-2).
Vâng! Vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự sống cho loài người, Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ sự sống Người đã ban cho chúng ta. Vương quốc của Chúa Kitô không “thuộc thế gian này” (Ga 18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về cùng Cha trên trời. -----------------------------------
“Chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho chân lý. Phàm ai thuộc về chân lý thì nghe được tiếng tôi” (Ga 18:37).
Không ít người khi mới tìm hiểu về Kitô giáo, hoặc có dịp đọc qua một vài trang sách Phúc Âm, đã TN 34-ABC233
Không ít người khi mới tìm hiểu về Kitô giáo, hoặc có dịp đọc qua một vài trang sách Phúc Âm, đã vội đưa ra vài nhận xét về Đức Giêsu như sau: Ngài không phải là một chính trị gia xuất chúng và cũng chẳng phải là một thương gia đại tài. Bởi vì những lời Ngài nói, những điều Ngài hứa hẹn không giống với các chính khách hay các nhà buôn thời nay tí nào. Thay vì lôi kéo quần chúng bằng những lời mời gọi hấp dẫn, có tính chất quyến rũ thị hiếu của người ta, để họ sẵn sàng đi theo ủng hộ, thì Đức Giêsu lại nói, “Ai muốn theo Ta, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Đã vậy rồi khi có người đi theo, Ngài lại phán thêm những câu mà mới nghe qua đã muốn bất mãn. Chẳng hạn như, “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con và ngay cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26); hoặc “Ta không đến để đem bình an, nhưng là gươm giáo” (Mt 10:34).
Thật là khác lạ! Thay vì hứa hẹn một cuộc sống sung túc nhẹ nhàng thoải mái, êm ấm bình an, thay vì cứ hoá bánh ra thật nhiều và hoá thường xuyên để nuôi dân chúng, và như thế thì làm gì mà họ chẳng theo, thậm chí còn ủng hộ, bỏ phiếu bầu mình làm thủ lãnh, chứ đàng này Ngài lại dạy phải chịu đau khổ, phải từ bỏ chính mình, phải nhân nhượng kẻ thù, hay nói cách khác là phải chịu mất mát thiệt thòi. Thế thì làm sao mà lôi kéo dân chúng được!
Khi suy luận như thế, tất nhiên sẽ có không ít người tin tưởng mình sẽ nắm chắc phần thắng khi đánh cuộc nếu Đức Giêsu mà ra tranh cử, dù thời xưa hay thời nay, thế nào cũng bị loại ngay từ vòng đầu thôi. Nhất là khi họ thấy thân xác của Ngài bị đóng đinh thê thảm trên thập giá, kết thúc cuộc đời không một chút oai phong vinh quang, thì chẳng mấy ai dám khẳng định Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Vua dân Do thái, hay là Chúa của muôn dân. Có chăng chỉ là một sự nhạo báng!
Ấy thế mà kẻ bị đóng đinh ô nhục trên thập giá giữa những tên trộm cướp, người đã từng bị nhạo báng là vua, là Mêsia, lại thật sự là Đức Kitô, Vua của muôn muôn tỉ tâm hồn.
Sẽ có người ngạc nhiên nêu vấn đề: Tại sao nghịch lý thế? Do đâu mà một tử tội lại được người ta bước theo đông đảo như vậy? Phải chăng vì người đó chính là chân lý-phải chăng vì người đó đã đến để giải thoát nhân loại bằng chân lý, và nay lại dám hiến mình chịu chết cho chân lý?
Nhưng “chân lý là gì”? Câu hỏi không cần câu trả lời của Philatô lại là đề tài suy tư của nhiều thế hệ. Chân lý đó chính là Thiên Chúa yêu thương con người. Bất cứ ai tin nhận chân lý này sẽ tìm thấy cho mình một sức sống phong phú, một niềm vui linh thiêng tràn đầy, nhất là sẽ múc được hồng ân cứu thoát, dù rằng người đó có đang quằn quại trong nỗi đau của thân xác như người trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu.
Trong nỗi đau đớn tột cùng trước những hình khổ do quân Roma bày ra, anh trộm lành đã nhận chân con người của Đức Giêsu. Anh Đã bênh vực cho Ngài khi lên tiếng: “Ông này đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23:41). Nói cách khác, anh đã thừa nhận Đức Giêsu đã làm điều đúng. Ngài chỉ làm theo sự thật, đã sống cho chân lý yêu thương con người, và nay ngài chết cũng vì chân lý yêu thương đó.
Từ chỗ tin nhận và bênh vực sự vô tội của Đức Kitô, anh trộm lành đã khám phá ra vương quyền và thiên tính của Ngài. Kết quả, anh đã lên tiếng khẩn cầu: “Khi nào về Nước, xin Ngài nhớ đến tôi” (Lc 23:42).
Lạ quá! Làm sao trước một thân xác rã rời với đinh sắt, máu me thế kia mà anh ta có thể cất lên được lời kêu nài như thế là lời thỉnh cầu trước một quốc vương? Làm sao trước hình hài của một kẻ đang chịu đau khổ chẳng thua kém gì anh ta thế kia mà anh lại đem lòng thần phục như đối với một vị vua uy quyền như vậy? Câu trả lời sẽ là: Chân Lý đã gặp gỡ anh và anh đã tin nhận Chân Lý. Đức Kitô gặp anh và anh đã tin phục Ngài. Chính sự tin phục cùng tin nhận này mà ơn cứu độ, phần thưởng của sự sống linh thiêng được trao ban cho anh ngay trong ngày đó.
Đã có rất nhiều người gặp Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả đều nhận ra Ngài là Chân Lý, là Vua của tâm hồn, là Chúa của yêu thương. Philatô đã gặp Đức Giêsu đấy chứ, nhưng lòng ham mê quyền hành đã che khuất chân lý; những người luật sĩ biệt phái đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng những ghen tương đố kị, những mưu cầu ảnh hưởng cá nhân đã làm lu mờ khuôn mặt của chân lý; rất nhiều người trong đám đông dân chúng Do thái về dự lễ Vượt qua ngày xưa đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng chỉ vì thích hùa theo tính bạo động của đám đông, bất chấp chuyện đúng sai, bất chấp kẻ vô tội là Giêsu hay là Baraba. Thế nên, cuối cùng Chân Lý đã bị họ đóng đinh.
Trong tuần cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội muốn đặc biệt nhắc nhở với mọi người tín hữu về gương mặt của Chúa Giêsu Vua, gương mặt của chân lý yêu thương con người-chân lý duy nhất mang lại hạnh phúc và niềm vui tâm hồn. Thử hỏi chân lý yêu thương đó có ngự trị tâm hồn của tôi chưa? Tôi đã dám bước trên những gì là quyền hành, dù đó là quyền hành của một người cha, người chồng, hay người chủ, tôi có dám vượt thoát những gì là ghen tương đố kị, lợi ích riêng tư, tôi có can đảm chế ngự những bạo động của dục tình hay nóng giận để làm cho hình ảnh của chân lý yêu thương là Vua Giêsu được bừng sáng hơn trong gia đình và cộng đoàn tôi không?
Xét lại chính mình nhân ngày cuối năm phụng vụ để xác định thái độ tin phục và suy tôn cần có đối với Vua Giêsu, hầu sự bình an và niềm hạnh phúc thiên đàng mà Ngài đã tặng ban cho người trộm lành xưa, cũng chiếm ngự tâm hồn, gia đình, và cộng đoàn chúng ta.
Tiên tri Đaniel đã ngắm nhìn thị kiến về vương quốc vĩnh cửu. Vị Bô Lão ban cho Con Người TN 34-ABC234
Tiên tri Đaniel đã ngắm nhìn thị kiến về vương quốc vĩnh cửu. Vị Bô Lão ban cho Con Người quyền năng, vinh dự và vương quốc. Mọi dân tộc sẽ qui tụ về để phụng sự Ngài. Đây là thị kiến về ngày cánh chung. Không ai biết được ngày giờ kết cùng của thế giới. Khi chúng ta có mặt ở đời, mọi sự đã có đó và luôn chuyển động. Con người được thông dự sự sống với muôn loài và muôn vật. Con người là loài cao quí được Thiên Chúa ban cho có hồn có xác. Xác hồn kết hợp để hoàn thành sứ mệnh được trao ban.Chúng ta hiện hữu trên trần gian một khoảnh khắc thời gian rồi lại trở về cát bụi. Tuy cuộc đời của chúng ta ngắn ngủi phù du, thân xác sẽ tan biến nhưng linh hồn sẽ hiện hữu đến muôn đời. Mọi sinh hoạt trong cuộc lữ hành trần thế sẽ dẫn bước chúng ta về chung hưởng hạnh phúc bên Đấng quyền năng trong vương quốc của Ngài.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng diễn tả về hình ảnh của ngày cánh chung. Chúa Giêsu Kitô là thủ lãnh của các vua, Vua các vua và là Đấng yêu thương đã hiến mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta. Ngài là trưởng tử những kẻ đã an giấc, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha: Ngài là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Chúng ta đặt niềm tin vào những lời mạc khải của Con Thiên Chúa. Con người chúng ta bị giới hạn mọi mặt và tâm trí không hiểu thấu những sự cao siêu. Ngay trong vũ trụ vật chất hiện hữu chung quanh, con người cũng chỉ mới khám phá một chút ven bìa giới hạn của một số nhỏ hành tinh. Tâm trí và giác quan của con người đắm chìm thưởng ngắm vũ trụ bao la để nhận ra sự cao siêu vô lường của Tạo Hóa. Chúng ta chẳng biết đâu là bến bờ. Thánh Gioan đã diễn tả về sự vô thủy vô chung của vũ trụ qua Đấng Toàn Năng phán: Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thủy và cứu cánh (Kh 1, 8).
Kinh Thánh mạc khải giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Với những suy tư tìm tòi của con người qua mọi thời đại, nhân loại vẫn còn lần mò trong đêm tối của vô minh. Những suy tư triết học, thần học và khoa học chỉ trả lời một cách rất khiêm tốn về sự hiện hữu của vũ trụ và muôn loài. Có nhiều giả thuyết tìm cách giải thích sự có mặt của vũ trụ theo thuyết Tiến hóa, Ngẫu nhiên hoặc Tự nhiên hình thành. Các khoa học không thể giải đáp một cách thỏa đáng cho những khao khát của tri thức con người muốn tìm hiểu về cội nguồn. Trí khôn của con người không vượt qua được biên giới của sự hiện hữu và chung cục. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta về nguồn gốc và cứu cánh của vũ trụ và con người. Đây là một chân lý cao siêu mà Chúa Giêsu đã làm chứng.
Đứng trước tòa án của Philatô, Chúa Giêsu đã phát biểu một cách công khai: Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là chỉ để làm chứng cho Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi (Ga 18, 37). Lời của Chúa Giêsu là thần trí và là sự sống. Ngài đến thế gian để làm chứng cho chân lý. Chân lý là sự thật. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Sự thật nằm trong tâm thiện. Lời sự thật là không quanh co, giả dối, lừa lọc, dối trá hay gian manh. Đôi khi nói sự thật thì mất lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc bất công. Chúa Giêsu nói rằng ai thuộc về chân lý thì nghe lời Ngài dạy. Chúng ta đã nhận lãnh Bí tích Rửa Tội để trở nên chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về Chúa, như thế chúng ta cũng thuộc về chân lý. Thuộc về chân lý thì phải suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và hành động trong sự thật.
Chúa Giêsu nhìn sự thật trong tận đáy tâm hồn mỗi người. Con người thì thích phô trương và xuất hiện bên ngoài để kéo chú ý của người khác. Giống như các mặt hàng cần quảng cáo ra thị trường, các tiếp viên đã tô điểm bên ngoài, làm đẹp, chào hàng hấp dẫn để kéo lôi khách hàng. Cũng giống như các chính trị gia đã không ngại dùng mọi thủ đọan để hứa hẹn, tô bóng và khuyến dụ các cử tri dồn phiếu. Giữa sự xuất hiện bên ngoài và sự thật có một khoảng cách xa. Có những người rất khôn khéo trong lời nói và thuyết phục đã kéo lôi được nhiều thành viên. Sự dối trá ẩn nấp trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta cần sống trung thực qua ý tưởng, lời nói và việc làm: Nhưng hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37). Nhớ điều răn thứ 8 là chớ làm chứng dối.
Có một số cụm từ tiếng Anh mà người nói dối hay dùng: Never, khi bị ai bắt gặp đang nhìn một cái gì không tốt và bị chất vấn, người đó liền chối ngay là không bao giờ. That man/woman’, dùng chữ đó để diễn tả một sự xa cách với người đó. ‘I would never do something like that’ tôi không bao giờ làm những việc như thế. Yes, ma’ma, nếu một người nào không có lý do, tự dưng nói mama với bạn, hãy cẩn thận. By the way, người nói dối dùng chữ này để người khác chú ý hơn tới điều họ sẽ nói sau. ‘I know you think I’m lying, but…Tôi biết bạn nghĩ rằng tôi đang nói dối, nhưng…Why would I do that?’What kind of person do you think I am? Tự bào chữa bằng cách hỏi tại sao tôi làm thế? Bạn nghĩ tôi là loại người nào? Người nói dối quanh qua, quẩn lại cũng chỉ là tránh né vấn đề nói sự thật.
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về cách đối xử trong thế thái nhân tình. Người đời nói: Một sự bất tín vạn sự không tin. Trong dụ ngôn những yến bạc rút ra cho chúng ta một bài học về sự tín trung và chân thật: Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25, 23). Sự chân thành là một đức tính tốt cần tu luyện mỗi ngày. Người ta nói rằng khôn ba năm dại một giờ, đôi khi vì sự sa ngã bất trung dại dột trong chốc lát mà mất cả chì lẫn chài. Đặc biệt trong đời sống gia đình, vợ chồng cần trung tín và thành thật với nhau trong mối tương giao. Chúng ta biết rằng mọi việc làm dối trá trong bóng tối rồi cũng sẽ có ngày được phơi bày ra ánh sáng.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là nhân chứng cho sự thật. Sự thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa là Thần Chân Lý. Chúa Giêsu đã hứa cùng các môn đệ: Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26). Sự thật thì rất đơn sơ, rõ ràng, trong sáng và có tính thuyết phục. Sự thật không cần đối chất. Ai ở trong Chúa thì yêu mến sự thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những phiền muộn và lo lắng. Sống sự thật là sống trong an lạc và hạnh phúc. Chúng ta có thể tìm kiếm chân lý qua cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô: Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi. Đáp lời hỏi của Philatô: Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao? " Đức Giêsu đáp: "Quan nói đúng: Tôi là Vua (Ga 18, 37). Chúa Giêsu chính là Vua vũ trụ, Vua muôn vua.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến để khai mở tâm trí chúng con, để chúng con biết suy tưởng sự thật, loan truyền sự thật và sống sự thật. Xin cho chúng con tìm đến sự thật tuyệt đối nơi thập giá Chúa Kitô. Từ thánh giá Chúa, chúng con sẽ được múc tận nguồn ơn tha thứ và lòng thương xót.
Elvis Aron Presley ( 1935 – 1977 ) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn vinh TN 34-ABC235
“Elvis Aron Presley ( 1935 – 1977 ) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling Stone từng viết: "Elvis chính là rock 'n roll" và phần lớn tác phẩm của Elvis là hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về lượng khán giả đến xem trình diễn, cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.
Là một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng nhạc, Presley sống một cuộc đời sa hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis sinh ngày 8.1.1935 trong một mái lều xiêu vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng bù lại, gia đình chăm sóc Elvis Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm 15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi, Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó là một cây guitare. Ban đầu, cậu tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng, nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút đến quên cả ăn ngủ.
Chỉ vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu xuất hiện một anh chàng khá điển trai, biểu diễn hết mình, với những cú lắc hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được các thiếu nữ ở dưới khán đài reo hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: "Liệu tôi có làm gì sai không mà bị mọi người la dữ như vậy ?" để rồi nhận được câu trả lời: "Dù anh có làm gì đi nữa, thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức và tua lại màn trình diễn đó đi !"
Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi âm đầu tiên, trị giá chỉ có 30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới phải ngỡ ngàng, khi giành liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và nhanh chóng trở thành triệu phú. Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô nàng Priscilla Beaulieu và sau 8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy vợ, anh trở nên "ngoan ngoãn" hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của ma tuý, Elvis đã được Tổng Thống Mỹ Richard Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy nhiên, đang trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng thanh niên này đã tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng vang trong lĩnh vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được đai đen Karate.
Sau khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia, đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí còn nhiều hơn cả chương trình cuộc thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng làm ông Vua nhạc rock and roll lún sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm nào mà anh không phải dùng đến thuốc ngủ. Đến ngày 16.8.1977, ngôi sao sáng đã tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại bao nỗi thương tiếc cho các fan hâm mộ” ( Wikipedia ).
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại, cao sang và trường cửu, không ồn ào, hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm như Vua Rock kia. Vì Người là Đức Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” ( Ga 1, 3 – 4 )
“Ông có phải là vua dân Do Thái không ?” Quan Tổng trấn Philatô mỉa mai hỏi Đức Giêsu. Người không nhận cũng chẳng chối, mà hỏi lại điều đó do ai nói ra, rồi giải thích cặn kẽ. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này." Nước Chúa thật kỳ lạ, hoàn toàn trái ngược với thế gian, nhưng vẫn hiện diện và tồn tại.
Đức Vua Tình Yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu.” Thánh Gioan đã long trọng khẳng định trong Thư thứ nhất ( 1Ga 4, 16 ). Bởi vì "Thiên Chúa yêu thế gian đến ban Con Một mình, để ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống đời đời" ( Ga 3, 16 ). Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, thể hiện công khai Tình Yêu qua cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Vì yêu thương nhân loại, Người mặc lấy thân xác phàm nhân, nghèo khó, cơ hàn, tầm thường, để gần gũi, an ủi, vỗ về, dẫn dắt mọi người đến sự sống vĩnh cửu. Người chính là ánh sáng, soi chiếu vào chốn tăm tối, tội lỗi, để cứu thoát con người khỏi lầm lạc, chết chóc. "Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm” ( Ga 12, 46 ).
Nhân ái, khiêm nhu, hiền hậu, khoan dung, tha thứ, Đức Vua Giêsu luôn mãi yêu thương mọi người, nhất là những ai lạc bầy, lẻ đàn, như người thu thuế, người phụ nữ hư hỏng, những kẻ bệnh tật, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ phân biệt… “Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu thế gian.” ( Ga 12, 47 )
Đức Vua Giêsu đã hiến tế chính thân mình để minh chứng cho Tình Yêu vô biên của Người với nhân loại. “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.” ( Ga 15, 13 ).
Đức Vua Công Chính
“Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật.” ( Ga 18, 36-37 ). Đức Giêsu khéo léo xác nhận chức vụ cao cả, vĩ đại của Người, là làm chứng cho sự thật, cho sự công chính giữa thế gian, đang bị chìm đắm, mê muội trong sự giả dối, gian tà, lưu manh, háo danh, háo lợi. Người đem Tin Mừng đến hạ bệ, giải thoát, xua đuổi, những ngẫu tượng, những tà thần ra khỏi tâm hồn con người. “Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái” ( Cl 1, 13 ). Tiếc thay, không phải ai cũng sẵn sàng mở lòng đón nhận Đức Vua Công Chính.“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga 1, 11 ).
Chỉ duy nhất Đức Vua Giêsu mới có thể dẫn dắt con người đến nguồn sống vĩnh cứu. Bởi vì Người chính là chánh đạo, là ánh sáng cứu độ: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Đức Vua Bình An
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng" ( Mt 11, 28 – 30 ). Trong một thế giới ồn ào, xô bồ, thực dụng, chụp giựt cơ hội làm giàu, tranh nhau chức quyền, con người điên đảo, quay cuồng, chạy theo gía trị vật chất, phàm tục, làm sao có bình an trong tâm hồn ? Phước thay, Đức Giêsu đã kịp thời đem lại bình an cho nhân loại. “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” ( Lc 2, 14 ).
Sự bình an đích thực không thể bỗng dưng mà có, nếu không nhờ Đức Vua Giêsu chịu hy sinh, hiến tế trên đồi Golgotha. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” ( Cl 1, 20 ).
Đức Vua Bình An luôn thân thương mời gọi con người gia nhập vào Nước Chúa, sống theo đường lối của Người, theo chân lý của Người, tuân thủ theo Bát Phúc, thì mới được hưởng phúc an bình và niềm vui. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” ( Rm 14, 17 ).
“Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em”. Vì không có tình yêu nào lớn lao hơn. Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao, để chinh phục anh em về với Chúa” ( Đường Hy Vọng, số 981 ).
Lạy Chúa Giêsu, Vua trên hết các vua, nhưng không thống trị, mà yêu thương phục vụ, không chỉ thị ra lệnh, mà chỉ khuyên nhủ, ủi an, không gay gắt kết án, mà chỉ ra tay cứu giúp, không trừ khử, mà luôn đi tìm kẻ lạc đường trở về. Xin Người dạy cho chúng con sống trung thành với Tin Mừng, để xứng đáng làm công dân Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa mà vô cùng khiêm hạ, hiền hậu, từ bi, nhân ái, xin Mẹ giúp chúng con cải tà quy chánh, một lòng một dạ tuân giữ Hiến Chương Nước Trời, để được Đức Vua Giêsu thương yêu mãi. Amen.
Trong đêm, Đức Giêsu đã bị bắt (Ga 18,12) và bị điệu đến ra trước các ông Khanan (18,13) và Caipha TN 34-ABC236
Trong đêm, Đức Giêsu đã bị bắt (Ga 18,12) và bị điệu đến ra trước các ông Khanan (18,13) và Caipha (18,24). Đến sáng, người Do Thái lại điệu Đức Giêsu đến dinh tổng trấn Philatô (18,18). Bản văn đọc hôm nay cho thấy Người đang ở tại tòa án Rôma; Người đứng trước quan tổng trấn, là nhân vật có quyền lực tối cao, nắm quyền sinh sát trong tay. Không phải là trong một cuộc đối thoại thong thả, nhưng là trong một phiên tòa có thể định đoạt về mạng sống, mà những gì Đức Giêsu đã làm được công bố. Người đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người và tuyên bố cho hiểu “Nước” của Người thuộc về loại nào.
Tùy theo sự di chuyển của Philatô ra với dân chúng hay vào với Đức Giêsu, cuộc xử Đức Giêsu trước tòa Philatô được bố trí thành 7 đoạn theo cấu trúc chuyển hoán và đồng tâm như sau (Các học giả cũng có đề nghị một cấu trúc song song, nhưng không thuyết phục):
- đoạn 1: 18,28-32: bên ngoài; - đoạn 2: 18,33-38a: bên trong; - đoạn 3: 18,38b-40: bên ngoài; - đoạn 4: 19,1-3: bên trong - Đỉnh cao: “Kính chào Vua dân Do Thái” (19,3); - đoạn 5: 19,4-8: bên ngoài; - đoạn 6: 19,9-11: bên trong; - đoạn 7: 19,12-16a: bên ngoài.
Trong toàn khối này, bản văn đọc hôm nay thuộc đoạn 2, là đoạn phong phú nhất với những tư tưởng thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền của Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Chất liệu của bản văn được bố trí xoay quanh câu hỏi của Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Tuy nhiên, ta có thể chia bản văn ra thành ba đơn vị dựa theo ba lần đối đáp giữa Philatô và Đức Giêsu:
1) Đặt vấn đề về vua (18,33-34); 2) Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (18,35-36); 3) Đặt vấn đề về vua (18,37).
3.- Vài điểm chú giải
- vua dân Do Thái (33): Đây là những lời đầu tiên của Philatô. Trên môi ông này, từ “Do Thái” không có sắc thái thù nghịch (như ở c. 31), nhưng nhắm đến quốc gia Do Thái.
- Tôi là người Do Thái hay sao? (35): Có tác giả cho rằng Philatô nói như thế là để tỏ ý khinh bỉ người Do Thái. Nhưng đúng hơn, nên cho rằng Philatô chỉ muốn nói rằng ông không biết gì về Đức Giêsu ngoài những gì giới hữu trách Do Thái đã báo cáo với ông về Người.
- chốn này (36): Tác giả dùng từ enteuthen, “chốn này”, cũng có nghĩa là “thế gian này” (ek tou kosmou toutou), vì ngài muốn tránh nhắc lại công thức ấy lần thứ ba. Cụm từ “thuộc về thế gian này” có nghĩa tương tự “thuộc về đất” (ek tês gês, 3,31), có đặc tính của thế gian này. Như vậy, dịch cho rõ nghĩa là “Nước tôi không thuộc về đất”.
- Vậy ông là vua sao? (37): Cách Philatô nhắc lại câu hỏi như thế không phải là lạ thường. Bởi vì theo tập tục Rôma, khi bị cáo không tự biện hộ được cho đến nơi đến chốn, thì quan tòa sẽ hỏi trực tiếp ba lần, trước khi nghị án.
- Chính ngài nói rằng tôi là vua (37): Đức Giêsu không chối Người là vua, nhưng đây không phải là một danh xưng mà Người trực tiếp chọn lấy để mô tả vai trò của Người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chúng ta ở bên trong tòa án, Philatô trở vào trong dinh, và cho gọi Đức Giêsu đến. Đây có phải là Đồn Antônia không, chúng ta không rõ. Lúc này là bình minh. Chi tiết này có tính thông tin, nhưng cũng có tầm mức biểu tượng: đây là ngày Đức Giêsu chịu chết, nhưng cũng là ngày bắt đầu vinh quang; đây là ngày “quyết liệt” của Đức Giêsu, ngày sắp diễn tiến, ghi dấu ấn trên toàn thể lịch sử của nhân loại. Điều cần ghi nhận là có hai không gian: người Do Thái không vào dinh Philatô vì sợ bị nhiễm uế, và như thế không được cử hành lễ Vượt Qua; Đức Giêsu đang ở trong dinh Philatô, tức ở trên phần đất bị nhiễm uế: Người đã bị dân Do Thái (dân không nhiễm uế) loại trừ.
Philatô và Đức Giêsu đối diện nhau, ta không thấy có nhân vật nào khác ở đây. Tương ứng với đoạn văn này là đoạn 19,8-12, là nơi Philatô và Đức Giêsu cũng ở một mình với nhau.
* Đặt vấn đề về vua (33-34)
Từ c. 33 trở đi, các chi tiết được cung cấp dồi dào. Tác giả nêu bật chuyển động của Philatô. Ông đi vào và hỏi trực tiếp Đức Giêsu là Người có phải là vua chăng. Ông dùng công thức “vua dân Do Thái” (ho basileus tôn Ioudaiôn). Rất có thể ông dùng lại lời tố cáo của người Do Thái; tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy lời tố cáo này minh nhiên ở đâu cả. Nhưng Đức Giêsu hỏi ngược lại, Người hỏi ông về thái độ của ông: Philatô phải ý thức rằng ông nói bằng sự hiểu biết riêng hay ông nhắc lại những gì kẻ khác bảo, vì đây là một lời buộc tội rất nặng. Kẻ bị cáo nại tới lương tâm của quan tòa và nhắc ông nhớ tới bổn phận phải kiểm chứng các hoàn cảnh thực tế cho chính xác và với trách nhiệm. Trước tiên, Philatô giữ khoảng cách bằng cách nêu ra nhận định là chuyện này chẳng dính dáng gì đến ông và ông đảm bảo rằng mọi chuyện này là do người Do Thái.
* Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (35-36)
Rồi ông hỏi: “Ông đã làm gì?” (c. 35b). Bằng câu hỏi này, ông cho thấy rằng ông ý thức về bổn phận của ông, ông không muốn chịu trách nhiệm về các nhận định của kẻ khác hoặc về các phán đoán tổng quát, nhưng ông muốn xác định thật rõ những gì bị cáo đã làm, trước khi tuyên án.
Đức Giêsu trả lời, nhưng tập trung vào câu hỏi “Ông có phải là vua không?” (c. 33). Tác giả cho thấy Đức Giêsu tỏ ra là Người làm chủ tình hình qua cách Người dẫn dắt cuộc thẩm vấn của Philatô: Philatô hỏi câu thứ nhất, Đức Giêsu hỏi về tư cách của tổng trấn; ông hỏi câu thứ hai, Đức Giêsu trả lời câu thứ nhất... Qua đó, Người không nêu ra các sự kiện riêng lẻ, nhưng Người nhắm đến tính cách toàn thể của công trình Người, bằng cách trước tiên nói cho biết điều gì còn thiếu nơi công trình này. Trong khi vẫn bị trói (18,24), Người tuyên bố ba lần: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (18,36). Đức Giêsu muốn nói rằng Nước của Người không phải là kiểu trần gian, không có dính dáng gì với những chuyện lãnh địa hoặc quyền chúa tể, cũng như không liên hệ gì đến việc sử dụng các dụng cụ quyền lực.
* Đặt vấn đề về vua (37)
Từ đó, Philatô đã để cho mình bị thuyết phục, ông hỏi: “Vậy ông là vua sao?” (c. 37), chứ không còn hỏi: “Vậy ông là vua dân Do Thái sao?”. Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn nhận Người là vua, nhưng không theo cách của các vua thế gian này. Người đã nói: “Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu…” (c. 36). Có một chuyện Philatô không biết, nhưng chúng ta đã được thông tin, đó là Phêrô đã dùng gươm để chiến đấu hầu bảo vệ Đức Giêsu, nhưng Người đã từ khước kiểu dùng vũ lực ấy. Chỉ có điều đến bây giờ, khi ở trước mặt Philatô, lý do của sự từ khước này mới được Đức Giêsu công bố: Nước của Người không thuộc về thế gian này. Người cũng cho biết Nước của Người không thuộc về thế gian này qua lời nhắc đến việc bị nộp cho người Do Thái. Nếu Người là vua theo cách các vua trần gian này, các thuộc hạ của Người đã chiến đấu cho Người: “không để tôi bị nộp cho người Do Thái”. Vậy, đứng trước Philatô, khi nghe quan hỏi: “Vậy ông là vua sao?”, Đức Giêsu vẫn đang bị trói, ở trong tư thế yếu đuối cùng cực, đã cho thấy Người là ai: Người là vua. Philatô nhận biết rằng Đức Giêsu không phải là một vị vua theo nghĩa người ta đã tố cáo. Nhưng từ những lời Đức Giêsu nói, ông cũng hiểu ra rằng Người vẫn cho rằng Người là vua: thế thì ông muốn biết Nước của Người là kiểu nào.
Đức Giêsu xác nhận lời khẳng định đã nêu ra và bây giờ Người giải thích bản chất của Nước Người theo chiều hướng tích cực, và như thế là mời Philatô đón nhận khẳng định của Người. Người thật sự là vua. Bằng lời nói sau đây, Người xác định lập trường của Người và nhiệm vụ làm vua của Người: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian chính là để làm chứng cho sự thật” (c. 37). Ý nghĩa tổng hợp của việc Người sinh ra và đến thế gian nằm trong việc làm chứng cho sự thật: chỉ vì điều này mà Người đến ở trong thế gian và chỉ điều này mới là cốt lõi của công việc làm vua của Người. Chỉ ai biết rõ sự việc và có kinh nghiệm thì mới làm chứng được. Đức Giêsu không muốn nói đến sự thật về một sự kiện nào, nhưng là sự thật về Thiên Chúa. Người có quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa, Người biết Thiên Chúa trong sự hiệp thông hết sức thâm sâu. Người được Thiên Chúa sai phái và từ Thiên Chúa mà đến trong thế gian. Chỉ có Người mới làm chứng được về vị Thiên Chúa mà Người luôn hiệp thông với, vì Người sống trong sự hợp nhất hoàn hảo với Thiên Chúa như là Con với Cha.
Theo truyền thống Kinh Thánh, vua là mục tử của dân. Nhiệm vụ của vua là làm cho dân được sống dồi dào. Đức Giêsu đã mô tả công việc của Người là mục tử tốt: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10,10). Cùng với lời chứng về Thiên Chúa, Đức Giêsu giúp người ta đến được với sự sống toàn vẹn, ngoài mọi khả năng của loài người.
Và như để làm chứng cho tầm mức đích thật của lời khẳng định về tư cách vương giả của Người, và cho thấy rằng quyền lực của Người không phải là như quyền lực chính trị của thế gian này, Đức Giêsu tuyên bố rằng, đứng trước lời chứng của Người, trong liên hệ với sự thật, sẽ phát sinh một đường ranh phân đôi loài người: “Phàm ai phát xuất từ sự thật thì lắng nghe tiếng tôi” (c. 37), và hiểu ngầm là ai không phát xuất từ sự thật, thì không nghe tiếng Người (x. 10,2-4).
Như vậy, Đức Giêsu đã tóm tắt cho Philatô về ý nghĩa của sứ mạng của Người, về lý do khiến Người sinh ra đời và khiến Người đến trong thế gian. Đây là một câu tóm rất ngắn, nhưng khá đầy đủ, đầy gợi ý, đặc biệt với lời nhắc đến cuộc chào đời. Lời nhắc này quan trọng vì cho phép ta hiểu được Đức Giêsu là ai. Quả thế, khi gặp Người, ta không thể không tự hỏi Người từ đâu đến và xuất xứ của Người là thế nào.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Philatô cũng rất rõ. Ta không thể biết Người nếu không thay đổi thái độ và lấy lập trường. Do đó, đến cuối lời tuyên bố, Đức Giêsu tìm cách lôi kéo kẻ đang nghe Người vào: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (c. 37). Philatô sẽ phản ứng như thế nào?
Philatô lại khởi đi từ phần cuối của lời tuyên bố của Đức Giêsu và nêu một câu hỏi nhằm được giải thích: “Sự thật là gì?” (c. 38). Với câu hỏi này, Philatô tránh trả lời và ông phản ứng như một nhà chính trị. Bằng câu hỏi này, hoặc nhằm diễn tả một hoài nghi (ai có thể biết được sự thật chứ?), hoặc một lời chế nhạo (sự thật thì quan trọng gì?), ông đã cắt đứt cuộc đối thoại.
Dù sao, các trao đổi giữa Philatô và Đức Giêsu cho thấy là sứ điệp của Người lúc đầu đã được ưu tiên gửi đến cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ khước, nay vượt biên giới tôn giáo để đến với Dân ngoại, có đại diện là quan Philatô.
+ Kết luận
Mặc dù đây là khoảnh khắc lạ lùng, Philatô cũng nhận được một lời loan báo Đức Giêsu gửi cho ông. Rất có thể cuộc đối thoại sẽ đưa Philatô đến chỗ nhận biết Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi là sự thật” (14,6), nhưng Philatô chưa đủ chín để nhận ra điều này. Dù sao, đề tài “sự thật” là một đề tài rất quan trọng trong TM IV. Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, một phạm trù, hoặc chỉ là một ý tưởng, nhưng là một con người. Sự thật là con người mà Philatô đang thấy trước mặt. Và sự thật là điều mà Philatô không sao hiểu nổi. Để có thể đón nhận lời chứng của Đức Giêsu và hoạt động của Người trong tư cách là vua, người ta phải mở lòng ra với Thiên Chúa. Philatô đã không thể hiểu được ý nghĩa đầy đủ của lời Đức Giêsu đáp, và ông cũng không muốn hiểu. Đối với ông, làm sáng tỏ các tương quan sức mạnh là đủ khi thi hành nhiệm vụ quan tòa, Philatô đã chấp nhận rằng Đức Giêsu nói với ông về nhiệm vụ của ông. Nhưng ông đã khép mình lại trước lời chứng của Đức Giêsu về Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Có những bức tranh diễn tả Đức Kitô Vua: một người với gương mặt nghiêm khắc, thậm chí giận dữ, ngồi trên một cái ngai, bên cạnh có các thiên thần, cũng có gương mặt lạnh lùng và căng thẳng sẵn sàng đáp ứng mọi ước muốn của Người, y như các vệ sĩ! Các nghệ sĩ đã cho thấy Đức Giêsu giống như một vị vua trần thế, mà mọi người phải kính trọng, sợ hãi, vâng phục, luôn luôn phải cong lưng cúi đầu. Thật đáng tiếc, nếu lầm lẫn vương quyền của Đấng Mêsia với vương quyền của thế gian này. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một hình ảnh khác hẳn.
2. Vương quyền của Đức Giêsu không thể mô tả được bằng các từ ngữ nói về quyền vương đế nhân loại. Vương quyền của Người được xác định bằng cách đặt liên hệ với thế giới khác, thế giới chúng ta mà Đức Giêsu đến sống để làm chứng, và như thế Người đóng vai trò trung gian và đưa thế giới của Thiên Chúa vào ngay trong lòng một thế giới nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Quyền làm vua của Người, Đức Giêsu hành xử khi lôi kéo loài người khỏi sự chết để đưa họ vào trong nhà Cha (x. 12,31-32). Người hành xử vương quyền khi Người hy sinh mạng sống (x. 17,1-2). 3. Khi làm chứng về sự thật, Đức Giêsu cũng làm chứng về chính mình, vì Người là sự thật, Người đến mang sự thật cho thế gian (8,14.18; 14,6). Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người đã làm chứng về sự thật, và đây chính là nguyên nhân đưa Người tới chỗ chết: như vậy, chính vào thời điểm quyết liệt này mà Người làm chứng rõ nhất về sự thật. Đây là chân lý về lòng trung thành và từ bi thương xót của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại.
4. Chúng ta không thể quên rằng đức vua chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai trên đầu. Chúng ta không thể quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc “không thuộc về thế gian này”, không mang đặc tính của “đất”. Do đó, làm chứng về Tin Mừng, về Đức Kitô, cũng chính là làm chứng rằng Đức Kitô, Vua chúng ta, là một vị vua đã bị kết án tử hình, bị đánh đòn, phải đội vòng gai, và sẽ bị đâm thủng cạnh sườn, để giới thiệu về tình yêu hết sức lạ lùng của Thiên Chúa. Quả thật, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô bờ bến và muốn đón nhận chúng ta vào trong sự hiệp thông trong đó Ngài đang sống với Con. Đức Giêsu muốn đưa chúng ta đến sống với Chúa Cha bằng sự sống mà chính Người đang sống, để chúng ta có được sự an toàn, niềm vui thâm sâu, trong tương lai vững bền. Đây là nội dung của lời chứng chúng ta phải công bố trong lòng thế giới.
Lễ Chúa Kitô vua được Giáo Hội mừng trọng thể vào Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ để nhắc TN 34-ABC237
Lễ Chúa Kitô vua được Giáo Hội mừng trọng thể vào Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ để nhắc nhở chúng ta về một Vị Vua Kitô quyền năng tuyệt đối, Đấng tạo dựng vũ trụ, con người. Ngài có toàn quyền trên trời dưới đất. Nhưng Vị Vua này lại là Vị Vua nhân từ, hay chạnh lòng thương xót. Vị Vua hiền lành và khiêm nhường, cưỡi lừa đi vào thành thánh Giêrusalem được trẻ em Do Thái, và nhiều người tung hô, nhưng Ngài đi vào Giêrusalem để chấp nhận ý của Thiên Chúa Cha là chết để cứu chuộc nhân nhân loại. Thánh lễ này đã được Đức Cố Giáo Hoàng Piô XI thiết lập để công khai trình bày lập trường, quan điểm của Giáo Hội về Vương quyền của Chúa Giêsu.
Sách Đanien đoạn 7, 13-14 trong bài đọc I miêu tả về Vương quyền và Vương quốc của một con người. Vương quyền, Vương quốc của Ngài sẽ tồn tại muôn đời, không một sức mạnh nào có thể phá hủy nổi. Đấng được ban cho quyền năng, vinh dự và vương quốc mà ngôn sứ Đanien đã nói tới chính là Đức Kitô mà sách Khải Huyền của thánh Gioan khẳng định lại rõ ràng, dứt khoát là Đức Kitô, Đấng đã dùng Máu của mình mà rửa hết mọi người sạch mọi tội lỗi, là Đấng đã yêu thương chúng ta. Do đó, bài sách Khải Huyền làm sáng tỏ về Vương quyền của Đức Kitô đã được Cựu Ước loan báo, đề cập đến từ trước.
Hai đoạn trích trọng sách ngôn sứ Đanien và sách Khải huyền đưa chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay. Đây là câu chuyện xoay quanh tước hiệu “ Vua “ mà Philatô đã chất vấn Chúa Giêsu khi những kẻ bắt Ngài trao nộp Ngài cho Ông. Thực tế, trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã im lặng. Bởi vì, tước hiệu “ Vua người Do Thái “ là do dân chúng gán cho Ngài, chứ không phải tự Ngài nói lên để người Do Thái tung hô Ngài. Thực ra, đây là lời kết án của các vị lãnh đạo tôn giáo và của những người ghét, chống đối Chúa Giêsu, đã dùng tước hiệu này để kết tội Chúa Giêsu, gán ghép cho Ngài muốn lật đổ những người cầm quyền Do Thái ủng hộ quân xâm lược là Đế Quốc Roma.
Chúa Giêsu im lặng trước câu hỏi này của Philatô, bởi vì Ngài hiểu rất rõ đây chỉ là lời họ dựa trên sự bịa đặt của dân Do Thái để kết án Ngài. Và khi đứng trên cương vị để thẩm vấn Chúa Giêsu về tước hiệu “ Vua Do Thái “. Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Vua, nhưng là Vua thiêng liêng, nước của Ngài không thuộc thế gian này. Vương quyền của Chúa Giêsu không phải là Vương quyền chính trị. Vương quyền của Ngài là Vương quyền thượng giới. Nước của Ngài không được thiết lập do sức mạnh, Ngài không có vũ khí. Những người lãnh đạo tôn giáo, và dân sự lúc đó luôn nghĩ về một vị Vua theo ý trần gian. Họ đứng trên quan điểm chính trị để lên án Chúa, nhưng thực ra Chúa Giêsu thiết lập Vương quốc của Ngài dựa trên sự thật vì Ngài là Con Thiên Chúa. Chính vì thế, nhưng ai làm Con Thiên Chúa là sống trong sự thật vì họ đón nhận Đức Kitô. Với nhãn giới của Chúa Giêsu, Vương quyền của Ngài không tách rời sự thật. Philatô không thể nào hiểu được sự thật khi Ông đang đối diện với Chúa Giêsu là Sự Thật. Philatô đứng trên bình diện chính trị. Ông đại diện cho quyền bính ở trần gian. Còn Chúa Giêsu là chính Sự Thật. Do đó, Philatô không thể nào hiểu nổi việc của Chúa Giêsu.
Hôm nay, Giáo Hội toàn cầu mừng lễ Chúa Kitô Vua để nhắc nhở cho mọi Kitô hữu về cùng đích của lịch sử cứu rỗi. Đây là lời tuyên tín về một Vị Vua Giêsu nhân từ, hiền lành, khiêm tốn. Vị Vua hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một : Vua Vũ Trụ, Vua con người,Vị Vua đến để phục vụ, chứ không đến để được phục vụ, hầu hạ. Giáo Hội luôn có sứ mạng loamn báo về Nước Trời, nghĩa là Vương quốc của Đấng cứu thế. Tuy nhiên, Vương quốc ấy không chỉ đóng khung ở nước Do Thái mà phải được loan truyền khắp nơi, tới tận cùng trái đất. Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian này nhưng Nước Trời lại được xây dựng bằng những con người bằng xương bằng thịt. Do đó, người Kitô hữu không được thờ ơ với những thực tại trần thế mà phải góp tay xây dựng Nước Đời và Nước Trời hài hòa đúng theo ý Chúa muốn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, Vua loài người, xin giúp chúng con biết sống hiền hòa, khiêm nhường và bác ái như Chúa là Vua nhưng đã đến để phục vụ con người, yêu thương, cứu vớt con người. Xin cho chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thật để chúng con biết xây dựng Vương quốc yêu thương của Chúa giữa thế giới này. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao Philatô lại không hiểu sự thật là gì ? 2.Vương quốc của Chúa Giêsu là Vương quốc nào ? 3.Nước Chúa ở đâu ? 4.Chúng ta hiểu thế nào về tước hiệu “ vua “ ?
Trong bài đọc một hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính: Thứ nhất: Con Người ngự giá mây trời mà đến TN 34-ABC238
Trong bài đọc một hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính:
Thứ nhất: Con Người ngự giá mây trời mà đến và được dẫn tới trình diện Đấng Lão Thành. Thứ hai: Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu và vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.
Bài Đọc Hai: Kh 1, 5- 8
Có ba điểm trong bài đọc hai này:
Thứ nhất là các tước hiệu của Đức Kitô: Đức Kitô là vị chứng nhân trung thành, là trưởng tử, là thủ lãnh mọi vương đế trần gian. Thứ hai: Đức Kitô yêu mến chúng ta. Ngài đã yêu thương và tẩy rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người. Thứ ba: Thiên Chúa vĩnh cửu. Ngài là Anpha và Omega, Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng toàn năng.
Bài Đọc Tin Mừng (Ga 18, 33b- 37)
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là Quan Philatô: Khi dân Do thái và các tư tế nộp Đức Giêsu cho quan, ông ta đã hỏi Đức Giêsu: ông có phải là vua dân Do thái không? Và câu hỏi thứ hai quan Philatô đã đặt ra cho Chúa Giêsu cũng mang cùng ý hướng trên: Vậy ông là vua sao? Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: trước câu hỏi của quan Philatô, Đức Giêsu đã lấy lại chính câu hỏi để trả lời: chính ngài nói rằng tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật; ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.
2. Suy Niệm
Giáo hội dành tuần cuối cùng của Năm Phụng Vụ để mừng kính Chúa Giêsu Vua. Thánh lễ này được đức giáo hoàng Pio XI thiết lập vào ngày 11/12/1925, sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Có lẽ, khi thiết lập thánh lễ này, đức giáo hoàng Pio XI muốn nói lên hai điều:
Thứ nhất: Khi con người tự “xưng hùng xưng bá” thì hệ luận của nó là bạo quyền, bốc lột, đàn áp, trục lợi, xâu xé lẫn nhau. Thứ quyền bính mà người ta khoác lên mình luôn có nguy cơ là bức bình phong che đậy sự tham lam bất chính, và biến người khác thành phương tiện phục vụ cho sự ích kỷ của mình. Thứ hai: Khi tôn Đức Giêsu là Vua, vị vua của tình yêu, bao dung và tha thứ, con người sống đúng với vai trò của mình, cũng như dễ có thái độ hiền hòa và yêu thương lẫn nhau. Nhờ đó, chiến tranh sẽ được đẩy xa, hận thù được lột bỏ và tình yêu sẽ lên ngôi.
Vâỵ thánh lễ Chúa Giêsu Vua hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm hai điểm sau: a. Vương Quốc Của Đức Giêsu Không Thuộc Về Thế Gian Này.
Khi Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”, thì Đức Giêsu đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này” (Ga 18, 36). Như thế, vương quốc của Đức Giêsu khác hẳn với ý niệm vương quốc của con người thời nay, bởi vì, vương quốc của ngài được xây dựng trên tình thương và sự thật. Ngài nói: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian này để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18, 37). Vậy sự thật là gì? Nhìn dưới khía cạnh đạo đức thì sự thật là nhận biết Thiên Chúa Cha và nhận biết Người Con mà Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô. Đó là nền tảng đức tin kitô giáo. Chúng ta không thể xây dựng một cuộc sống an hòa và hạnh phúc nếu không đặt nền móng nơi Đức Kitô (x. Cl 2, 7). Bởi vì, thiếu vắng chiều kích này, tâm hồn con người sẽ trống rỗng, sẽ là môi trường thuận lợi cho những “ký sinh trùng” của sự ích kỷ phát triển.
Dĩ nhiên, sống trong một xã hội mà nói dối và lộc lừa đã trở nên căn bệnh kinh niên, thì việc sống theo sự thật không đơn giản chút nào. Người thành thật luôn chịu thua thiệt và bị coi là khờ dại vì không “uốn theo chiều gió”; còn những kẻ ranh ma, lộc lừa lại được ca tụng là khôn ngoan và hợp đời. Tuy nhiên, con người không thể bước vào vương quốc của Đức Kitô nếu chưa xây dựng đời mình trên sự thật: sống theo sự thật là tấm hộ chiếu cho những ai muốn bước vào vương quốc tình yêu của Ngài. Đàng khác, sống theo sự thật sẽ giúp mỗi người thoát khỏi những vướng bận thấp hèn, khỏi những lộc lừa gian dối để được hoàn toàn tự do sống theo ân sủng của Chúa. Đức Kitô đã khẳng định: “sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8, 32).
b. Đức Kitô- Vua Tình Yêu
Thánh Gioan đã nói thật chính xác: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8); những gì Chúa Giêsu làm cho con người đều gói gém trong hai chữ: tình yêu. Vì yêu, Ngài đã khước từ ving quang, mặc lấy thân nô lệ, trỡ nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá để cứu độ con người (Pl2, 6- 11). Cũng vì yêu, Ngài đã không ngần ngại đồng bàn với người tội lỗi, quân thu thuế và gái điếm để cứu chữa họ. Cho nên, vương quốc mà Ngài thiết lập cũng không đi ra ngoài quỹ đạo này. Đây không phải là một thứ tình yêu “bàn giấy”, nhưng là một tình yêu dẫn đến phục vụ: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).
Trong chiều hướng đó, Đức Giêsu cũng đang mời gọi chúng ta hãy để cho Ngài thiết lập vương quốc tình yêu nơi tâm hồn mỗi người: hãy để cho Ngài chiếm hữu đời mình và thanh luyện bản thân. Có thế, tâm hồn chúng ta mới có được bình an địch thực và khả năng mở ra với người khác để phục vụ. Thiên Chúa không muốn chúng ta tự đóng kín tâm hồn mình, vì nó có nguy cơ làm chết gộp đời sống tâm linh và khả năng yêu thương. Nói cách khác, Ngài mời gọi chúng ta hãy mở ra cho Thiên Chúa và anh chị em. Bởi vì, vương quốc của Đức Kitô không có biên cương, không có rào chắn, nhưng luôn được mở ra cho tất cả mọi người. Nơi đó, mọi người có thể bước vào và được Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-ABCn 18:33b-37)
Khi Phi-la-tô hỏi Chúa Giê-su có phải là vua dân Do-thái không, có lẽ ông ta đã thắc mắc không rõ TN 34-ABC239
Khi Phi-la-tô hỏi Chúa Giê-su có phải là vua dân Do-thái không, có lẽ ông ta đã thắc mắc không rõ chức phận đích thực của “vua dân Do-thái” là gì. Nếu Chúa Giê-su là vua theo nghĩa thường tình, thì tại sao dân Do-thái lại đi nộp vua của họ? Chẳng lẽ họ không muốn đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi và có một ông vua cai trị họ hay sao? Cho nên Phi-la-tô muốn biết rõ Chúa Giê-su có làm gì liên hệ tới việc làm suy giảm ảnh hưởng của Rô-ma hoặc việc âm mưu nổi loạn chống lại Rô-ma hay không. Đây cũng là dịp để Chúa Giê-su trình bày lại sứ mệnh đích thực của Người, không những để cho cá nhân Phi-la-tô hiểu, mà cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Người được rõ mà quyết tâm bước theo Người.
Trả lời Phi-la-tô, Chúa Giê-su đã xác định hai điều rõ ràng: Thứ nhất, Nước của Người “không thuộc về thế gian này”; và thứ hai, sứ mệnh của Người là “làm chứng cho sự thật”. Như thế, tất cả những gì Chúa Giê-su đã làm, đặc biệt là trong khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, đều nhắm mục đích xây dựng một vương quốc không thuộc về trần gian này và làm chứng cho sự thật tối cao trên tất cả những sự thật khác, tức là sự thật “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian…” Do đó, mục đích mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua không những là để chúng ta suy tôn quyền bính của Người là Đấng cứu độ trần gian, mà còn giúp chúng ta xác tín một lần nữa sứ mệnh của Người khi đến với chúng ta.
Trước hết Nước của Vua Giê-su không thuộc trần gian này. Biên giới của Nước ấy không phải là đất đai biển cả, nhưng là các tâm hồn. Dân số của vương quốc không giới hạn màu da tiếng nói hoặc giai cấp xã hội, nhưng là tất cả những con người tự nguyện tin vào Vua Giê-su và chấp nhận đi theo lối sống mà Người đã trình bày trong bài giảng trên núi về các Mối Phúc. Luật pháp của Nước này hoàn toàn được thiết lập trên căn bản duy nhất là tình yêu. Trong khi xây dựng vương quốc ấy, Vua Giê-su không đề ra những phương sách hay kế hoạch nhằm nâng cao nền kinh tế quốc gia, mở mang dân trí hoặc củng cố thế lực, nhưng Người rao giảng và cổ võ một lối sống thể hiện những tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân. Người kêu gọi dân chúng đặt niềm tin vào Cha trên trời là Đấng nhân lành chăm sóc chúng ta như con cái. Người đặt tiêu chuẩn nói lên thế nào là một công dân tốt: “Anh em hãy nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo”, hoặc cụ thể hơn, “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha trên trời là Đấng hay xót thương”.
Điều xác định thứ hai là về sứ mệnh đặc biệt của Vua Giê-su khi Người đến trần gian: làm chứng cho sự thật. Như chúng ta thấy, ngay trong lời mở đầu, sách Tin Mừng Gio-ABCn đã giới thiệu Chúa Giê-su là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” của Chúa Cha (1:14). Mà sự thật ấy chính là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (3:16). Chúa Giê-su đã dành cả cuộc đời để chứng minh sự thật ấy, làm mọi sự, thậm chí sẵn sàng chịu chết, để cho người ta thấy Thiên Chúa thực sự yêu thương họ vô điều kiện. Bản thân Người là tình yêu của Thiên Chúa đã nhập thể làm người, một Tình Yêu không còn là một ý niệm nữa, nhưng là một con người sống động như chúng ta, để chúng ta có thể đụng chạm Tình Yêu đó bằng giác quan. Sứ mệnh của Người là kêu gọi người ta “đứng về phía sự thật” (đón nhận tình yêu Thiên Chúa) và “nghe tiếng Chúa” (đáp lại tình yêu ấy). Vậy thì còn sứ mệnh nào cao cả hơn sứ mệnh của Vua Giê-su?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Là người Việt Nam sống tha hương, chúng ta vẫn nhớ về đất nước mình. Cũng vậy, là người Công giáo sống giữa xã hội này, chúng ta cũng không quên mình là công dân của Nước Trời và Chúa Giê-su là Vua. Vua chúng ta đúng nghĩa là “phụ mẫu chi dân”, là cha là mẹ chúng ta. Chúng ta hãnh diện và trân quý tình yêu Vua Giê-su dành cho chúng ta. Chúng ta nắm chặt lấy những chân lý Người dạy dỗ chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Vua giúp chúng ta thắng vượt khó khăn. Chúng ta cứ mạnh dạn bước theo Người!
Gv 18,33b-37: 33 Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” 34 Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” 35 Ông Philatô trả lời: “Tôi là người Dothái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”. 37 Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.
Văn mạch của đoạn 18:33b-37 là Chúa Giêsu chịu xét xử trước Philatô (18:28-19:16a). Đoạn nầy TN 34-ABC240
Văn mạch của đoạn 18:33b-37 là Chúa Giêsu chịu xét xử trước Philatô (18:28-19:16a). Đoạn nầy thuật lại nội dung cuộc thẩm vấn lần thứ nhất ngay sau khi Người bị giao nộp Philatô; lần thẩm vấn thứ hai là 19:8-12. Nội dung cuộc thẩm vấn xoay quanh việc xác định Chúa Giêsu có phải là vua hay không. Câu hỏi của Philatô và câu trả lời của Chúa Giêsu đóng khung cuộc thẩm vấn nầy (18:33b và 18:37). Có thể phân chia đoạn nầy như sau: 1- Philatô hỏi về Chúa Giêsu (18:33b-35); 2- Chúa Giêsu trả lời về chính mình (18:36-37).
Đặc điểm của phần nầy là được kết cấu bằng nhiều câu hỏi của Philatô và của Chúa Giêsu (18:33b.34.35). Philatô hỏi Chúa Giêsu hai điều: - Người có phải là vua dân Do thái không (18:33b), và Người đã làm gì (18:35b). Xen kẽ vào đó là câu hỏi của Chúa Giêsu, thay vì câu trả lời (18:34) và lời khẳng định về việc người Do thái giao nộp Người cho ông (18:35). Tước hiệu “vua của dân Do thái” mà Philatô dùng để hỏi Chúa Giêsu rất có thể là một tiếng vang từ người Do thái, chứ không phải tự ông nói lên. Có thể minh chứng điều nầy qua câu hỏi và trả lời giữa Chúa Giêsu và Philatô (18:34-35). Ông sẽ lập lại tước hiệu nầy hai lần nữa khi ông thăm dò ý kiến dân chúng để thả Người ra (18:39) và khi cho viết nó vào tấm bảng đóng trên thập giá (19:19). Đối với người Do thái, nếu họ có gọi Người bằng tước hiệu ấy, chỉ để chế nhạo Người (19:3), chứ họ không chấp nhận Người là vua của họ (19:21). Tuy nhiên, giữa dân chúng, Chúa Giêsu được gọi là “vua của Israel” hai lần (1:49; 12:13). Trong tin mừng Gioan, hạn từ “Israel” và “Do thái” đối nghịch với nhau. Từ “Israel” chỉ cách tích cực dân riêng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến để tỏ mình ra cho họ và làm vua của họ (x. 1:31). Trong khi đó, từ “Do thái” chỉ cách tiêu cực riêng giới lãnh đạo của dân Israel, đại diện cho những người chống đối và giết Chúa Giêsu (x. 5:16.18; 7:1; 8:52; 9:22; 10:31.33; 11:8; 18:35; 19:21). Vậy, Chúa Giêsu không là vua của người Do thái. Người là vua theo nghĩa khác. Phần thứ hai gồm hai câu dài, với nội dung là trả lời câu hỏi của Philatô (18:36-37). Đặc điểm của phần nầy là dùng chủ ngữ ở ngôi thứ nhất số ít: “vương quốc của tôi” (18:36 [3x]), “tôi là vua”, “tôi đến”, “tôi làm chứng”, “tiếng tôi” (18:37). Trong câu 18:38 Chúa Giêsu định nghĩa cách phủ định vương quốc của Người; trong khi ở câu 18:37, Người xác định cách tích cực vai trò làm vua và việc làm của Người. Khi định nghĩa vương quốc của Người [3x] (18:36), Chúa Giêsu đối nghịch nó với vương quốc xuất phát từ “thế giới nầy”. Khi dùng cụm từ “thế giới nầy”, thánh Gioan muốn ám chỉ thế giới thuộc bên dưới. Đó là thế giới đã bị kết án cùng với thủ lãnh của nó (12:31; 16:11). Cả Người và những ai ở trong vương quốc của Người đều không “bởi thế giới nầy” (x. 15:19; 17:14), vì Người từ Thiên Chúa mà đến (8:23; 17:16). Vậy, vương quốc của Người và vương quyền của Người từ Thiên Chúa mà đến.
Sau khi giải thích những gì không phải là vương quốc của Người, Chúa Giêsu tuyên bố Người là vua, những việc Người làm, và Người xác định ai là thần dân của Người (18:37). Philatô xem ra hiểu điều Người đã nói, nên lần nầy ông hỏi lại với câu ngắn hơn “Vậy ông là vua sao?”. Cách nói tiêu biểu trong tin mừng Gioan “Tôi là” để xác định chân tính của Chúa Giêsu (x. 6:48; 9:5; 10:9.11; 10:36; 11:25; 14:6; 15:1.5 18:37). Người là vua thật. Tuy nhiên, Người không đến “từ thế gian nầy”, mà từ Chúa Cha Người vào “trong thế gian” (1:9; 3:17.19; 6:14; 10:36; 11:27; 12:46). Công việc của Người là “làm chứng cho sự thật” (1:17; x. 8:32-47), rao giảng sự thật (16:7) và tìm kiếm những người theo sự thật (4:23). Thần dân của Người là những người nghe theo sự thật. Cụm từ “nghe tiếng tôi” gợi lại cách nói Chúa Giêsu dùng trong diễn từ về người mục tử “con chiên tôi thì nghe tiếng tôi” (10:3.4.5.16.27). Như thế, khi làm chứng cho sự thật, và làm cho nhiều người nghe tiếng Người, Người đã tạo nên đàn chiên của Người. Đó là dân của Người và vương quốc của Người. Dân của sự thật và vương quốc của sự thật. Phần Người, chính Người là Vua của sự thật (x. 14:6), chứ không phải là vua của người Do thái.
Sự thật giải thoát con người. Chấp nhận Chúa Giêsu làm vua và nghe tiếng Người, con người sẽ trở thành con cái tự do của Thiên Chúa.
Ý niệm về vương quyền và vương quốc của Chúa Ki-tô không thể hiểu theo những tiêu chuẩn của TN 34-ABC241
Ý niệm về vương quyền và vương quốc của Chúa Ki-tô không thể hiểu theo những tiêu chuẩn của vua chúa trần gian. Cả ba bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày hình ảnh siêu nhiên về Chúa Ki-tô là Con Người, là vị Thủ Lãnh và là Vua của một vương quốc không thuộc về thế gian này. Sứ mệnh của Người là “làm chứng cho sự thật” và triều đại của Người sẽ tồn tại muôn đời. Vương quyền và triều đại ấy sẽ bảo đảm chắc chắn cho số phận tương lai của ta, đồng thời cũng mở ra cho ta một chân trời mới cho cuộc sống hiện tại của một Ki-tô hữu trên trần gian.
1. Chúa Ki-tô là “Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (bài đọc Cựu Ước – Đa-ni-en 7:13-14)
Theo thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, Con Người chính là Chúa Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi và thần chết. Hai nhân vật trong bài đọc thứ nhất hôm nay là Con Người và Đấng Lão Thành. Thị kiến cho ta thấy khung cảnh đơn sơ nhưng cực kỳ uy nghiêm của một lễ đăng quang trọng đại. Ta có thể hình dung Chúa Ki-tô khải hoàn “đang ngự giá mây trời mà đến và tiến lại gần Đấng Lão Thành” là Thiên Chúa Cha. Khung cảnh này ta đã được nghe Chúa Giê-su nói đến khi Người bị vị thượng tế vặn hỏi Người có phải là Đấng Ki-tô không. “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14:61-62). Người “được dẫn đưa tới trình diện Đấng Lão Thành” (Đn 7:13). Chúa Ki-tô đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ nhân loại. Giờ đây trong ngày phán xét chung, Người được đưa tới trình diện Chúa Cha và được Chúa Cha trao ban “quyền thống trị, vinh quang và vương vị”. Có lẽ suy niệm về điều này, thánh Phao-lô Tông đồ hoặc Giáo Hội sơ khai đã vẽ lại cảnh đăng quang của Chúa Ki-tô được ngôn sứ Đa-ni-en tiên báo. “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giê-su Ki-tô là Chúa’” (Pl 2:9-11).
Điểm đặc biệt nhất mà Đa-ni-en thấy ở đây là tính cách vĩnh cửu của vương quyền và vương quốc Chúa Ki-tô (Đn 7:14b). Vĩnh cửu vì đó không phải là vị vua và vương quốc đời này, mà là Đức Ki-tô, Đấng được Thiên Chúa đặt lên và trao quyền thống trị Triều Đại của Người. Các quốc gia trên thế giới này khi tồn, khi vong, cũng như những người cai trị chúng. Ngay cả các đế quốc cũng vậy. Tất cả đều lệ thuộc vào thời gian. Còn vương quốc của Chúa Ki-tô thì trường tồn muôn đời, vì thời gian là của Người và Người là Chúa của quá khứ, hiện tại lẫn tương lai (Nghi thức làm phép nến Phục Sinh). Quyền thống trị vĩnh cửu của Chúa Ki-tô khiến ta nghĩ tới A-đam. Sau khi tạo dựng A-đam, Thiên Chúa đã ban quyền cho A-đam được thống trị muôn loài trên mặt đất. Tuy nhiên tội bất tuân phục của ông đã tước đoạt đi quyền thống trị ấy, để cho chính ông và con cháu lâm vào tình cảnh yếu đuối và phải “đổ mồ hôi mới kiếm được miếng ăn”. Chúa Ki-tô là A-đam Mới, nay đã chiến thắng tội lỗi nên được Thiên Chúa phục hồi cho quyền thống trị. Quyền thống trị vĩnh cửu của Chúa Ki-tô đã đặt nền tảng cho tương lai vĩnh cửu của ta, vì nếu quyền thống trị của Người không trường tồn thì ta sẽ chẳng được chia sẻ phần gia nghiệp muôn đời với Người.
2. Chúa Giê-su là vị Thủ Lãnh khai mạc vương quốc vĩnh cửu (bài đọc Tân Ước – Khải Huyền 1:5-8) Đoạn sách Khải Huyền của thánh Gio-ABCn Tông đồ tiếp tục khai triển việc thiết lập vương quốc vĩnh cửu của Chúa Ki-tô. Tiến trình thiết lập ấy được gồm tóm trong ba danh hiệu quy về Chúa Ki-tô: Chứng Nhân trung thành, Trưởng Tử của những người từ cõi chết trỗi dậy, và Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian. Cách Gio-ABCn xếp thứ tự ba danh hiệu này đã cho thấy vương quốc của Chúa Ki-tô được thiết lập như thế nào rồi. Trước hết, Chúa Ki-tô được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để làm Chứng Nhân. Người làm chứng rằng Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến mức độ nào. Người cũng làm chứng rằng con người có thể đáp lại tình yêu ấy ra sao. Để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa, Chúa Ki-tô “đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1:5-6). Người đã làm chứng cho việc trung thành phụng sự Thiên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Cái chết của Người không kết thúc sứ mệnh trên trần gian, nhưng chỉ là ngưỡng cửa để Người bước qua, sống lại và là người đầu tiên trỗi dậy từ cõi chết. Người được tuyên dương là Trưởng Tử của Nhân loại Mới, tức Con Đầu Lòng giữa những người con sẽ được sống lại để hưởng phúc trường sinh với Người. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Đức Ki-tô nắm giữ vai trò Thủ Lãnh. Người đến trần gian làm Thủ Lãnh, nhưng không phải để được phục vụ như các thủ lãnh của thế gian, mà là để phục vụ và chết cho mọi người (Mc 10:45). Người làm Thủ Lãnh để quy tụ muôn vật muôn loài về với Thiên Chúa Cha, như Đầu của Nhiệm Thể đem mọi chi thể trở về cùng Thiên Chúa là nguồn cội của chúng.
Như thế, Chúa Ki-tô đã thiết lập vương quốc Người không phải nhờ một quyền lực nào khác ngoài quyền lực của Thiên Chúa. Sức mạnh của Người không dựa vào khí giới súng đạn, nhưng là tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu nhân loại. Từ A tới Z chỉ có tình yêu. Hoặc nói theo ngôn ngữ khải huyền của Gio-ABCn: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga”, là Thiên Chúa và chỉ có Tình yêu thống trị mà thôi.
3. Vương quốc của Chúa Ki-tô là vương quốc của sự thật (bài Tin Mừng – Gio-ABCn 18:33b-37)
Chúa Giê-su đến để thiết lập vương quốc tình yêu, như ta đã thấy qua đoạn sách Khải Huyền của thánh Gio-ABCn. Tuy nhiên bài Tin Mừng còn cho thấy một khía cạnh khác của vương quốc ấy, đó là vương quốc của sự thật, điều mà Chúa Giê-su đã trả lời cho Phi-la-tô khi Người bị ông ta cật vấn.
Đầu óc của Phi-la-tô không thể vượt qua khỏi ý niệm thông thường về ông vua như thượng tế và dân chúng đã tố cáo Chúa Giê-su. Trả lời cho câu hỏi của tổng trấn, Chúa Giê-su khẳng định rõ ràng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật” (Ga 18:36a.37c). Làm chứng cho sự thật là sứ mệnh vị Vua của vương quốc ấy phải thi hành. Chính Phi-la-tô cũng không hiểu được điều Chúa Giê-su đã nói. Với ông, trên đời này làm gì có thứ vương quốc của sự thật, mà chỉ có vương quốc đầy bạo lực, quyền hành, bóc lột, chiến tranh… Cho nên ông ta hỏi Chúa: “Sự thật là gì?” và cũng chẳng cần có câu trả lời, nhưng vội lảng tránh và tìm cách chạy tội hèn nhát không dám bênh vực sự thật. Sự thật là vương quốc của Chúa Ki-tô không nhắm những mục tiêu chính trị hay những phương tiện trần gian như vũ lực và bạo quyền. Do đó, Chúa Giê-su muốn nói rằng Người không phải là đấng mê-si-ABC đến để giải phóng Ít-ra-en như dân chúng mong đợi, nhưng là Đấng Mê-si-ABC đến để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi. Còn đối với thần dân của vương quốc sự thật ấy, “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Người”. Người lên tiếng kêu gọi người ta hãy nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, hãy sống yêu thương theo luật pháp mến Chúa yêu người của vương quốc ấy. “Đứng về phía sự thật” có nghĩa là đáp lời mời gọi của Chúa Ki-tô mà bước vào Triều Đại Thiên Chúa hoặc Nước Thiên Chúa. Ở trong đó mọi người là anh chị em con cùng một Cha trên trời, sống những giá trị Tin Mừng qua lối cư xử với bản thân, với người khác và trọn đạo làm con cái Chúa. Sự thật ở đây là chính Đức Ki-tô, là đạo lý của Thiên Chúa để nhân loại sống theo (Ga 14:6). Sự thật ấy sẽ giải phóng ta khỏi tội lỗi nếu ta hết lòng tin (Ga 8:32). Quả thực, Thiên Chúa đã ban cho nhân loại Sự Thật, nhờ đó con người biết Thiên Chúa là Đấng nào và biết thân phận làm con của họ để sống sao cho đúng với sự thật. Tóm lại, vương quốc sự thật là kế hoạch Thiên Chúa thiết lập để tỏ ra tình yêu vô điều kiện và cứu độ của Người. Người thiết lập nó và đặt Đức Ki-tô làm Vua. Và đây là lời hiệu triệu của Vua nước sự thật: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Chẳng lẽ ta muốn làm con dân của vương quốc sự thật mà lại có thể làm ngơ trước lời hiệu triệu đó hay sao?
4. Sống Lời Chúa
Kết thúc năm Phụng vụ, Giáo Hội mời gọi ta lần cuối cùng hãy nhìn nhận con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su Ki-tô. Người đến thiết lập Triều Đại Thiên Chúa ngay tại trần gian này và đã chết để chuộc tội cho ta. Người đưa ra một lối sống mới cho những ai muốn thực sự sám hối và tin vào Tin Mừng, kiến tạo một nhân loại mới. Ngày cánh chung, Người sẽ ngự đến trong mây trời để xét xử muôn loài. Còn ta thì được Người đưa vào vương quốc của Người ngay tại trần gian này để chuẩn bị bước vào vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã vào vương quốc vĩnh cửu để dọn chỗ cho ta. Người hứa: “Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3). Người hứa chắc chắn như vậy và Người đang chờ ta.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su phán: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Vậy tôi đang đứng ở đâu? Tôi có lắng nghe Chúa nói và thực hành những điều Người dạy bảo không? Tôi đang ở trong vương quốc của Người hay vương quốc của ma quỷ tội lỗi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Ki-tô là người Con mà Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ Đức Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ).
Mỗi năm, cứ đến Chúa nhật cuối cùng thì Phụng vụ lại mừng kính Đức Kitô là Vua. Thế nhưng, Ngài TN 34-ABC242
Mỗi năm, cứ đến Chúa nhật cuối cùng thì Phụng vụ lại mừng kính Đức Kitô là Vua. Thế nhưng, Ngài là vua theo ý nghĩa nào?
Khi Philatô chất vấn Chúa Giêsu: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu đã trả lời: Phải, tôi là vua. Cũng là một khái niệm làm vua, nhưng Philatô có kinh nghiệm khác, người Do Thái có kinh nghiệm khác, còn Chúa Giêsu thì cũng có kinh nghiệm khác.
Philatô thì coi làm vua là người ngự trị trong vinh quang, theo kiểu Caesar lúc bấy giờ đang trị vì tại Rôma. Người Do Thái thì coi làm vua là phải nổi lên để giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột và kìm kẹp của đế quốc Rôma, đem lại cho quê hương đất nước một thời đại hoàng kim. Còn Chúa Giêsu thì sao? Quan niệm của Ngài có mang nặng màu sắc chính trị và trần tục hay không?
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai, các Phúc Âm đều nói tới những cơn cám dỗ Ngài phải chịu trong hoang địa. Chủ đề của những cơn cám dỗ ấy xoay quanh và gắn liền với uy quyền, với khái niệm làm vua. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đương đầu, đã khước từ sự cám dỗ ấy, không phải chỉ ở trong hoang địa, mà còn kéo dài trong suốt cả cuộc đời của Ngài. Sự cám dỗ ấy đến từ phía dân chúng, cũng như đến từ thẳm sâu cõi lòng của Ngài. Chẳng hạn sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, dân chúng muôn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trôn họ. Đứng trước tòa án của Philatô cũng vậy. Sau khi xác quyết mình là vua, thì Ngài đã lập tức xác định ngay lập trường của mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì binh đội của tôi đã chiến đấu, để tôi không bị nộp cho người Do Thái.
Bởi đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không từ chối tư cách làm vua của Ngài, nhưng kinh nghiệm làm vua ấy có một nét khác lạ và sâu xa. Chính vì thế, Ngài đã khước từ mọi kinh nghiệm trần gian của việc làm vua. Thái độ của Chúa Giêsu là luôn tránh né, để khỏi gây hiểu lầm về tính cách thiên sai của Ngài: Ngài đã tự coi mình là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã nói tới. Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như thế, chúng ta thấy có một sự đối chọi gay gắt giữa khái niệm làm vua để thống trị và quy hướng về mình, với hình ảnh người tôi tờ đau khổ, thinh lặng và chịu đựng mọi khinh bỉ, nhưng nhờ đó đã làm phát sinh ra sự sống ơn sủng, cũng như làm phát sinh ra sự giải thoát khỏi những trói buộc của tội lỗi. Hẳn thực Chúa Giêsu đã sống cho người khác, đã xử trí các tương quan bằng lòng yêu mến. Ngài đã lên ngôi khi bị treo trên thập giá. Giới luật Ngài dùng để cai trị, đó là giới luật yêu thương. Ngài đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ bằng việc quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội. Ngài là một vị vua không giống ai.
Vì thế mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi phải làm gì? Tôi phải sống thế nào, để xứng đáng là thần dân trong vương quốc của Ngài.
Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu TN 34-ABC243
Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu Chúa nhật Chúa Kitô Vua:.
"Rồi các ông sẽ Con Người ngự bên hửu Đấng toàn năng, và ngự giá mây mà đến..."
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu," Ông có phải là Vua dân Dothái không?" và Chúa Giêsu trả lời," Chính ngài nói tôi là Vua." Trươc đó không lâu, Caipha đã hỏi Người cũng một câu hỏi đó trong cách khác: "Ông có phải là Con Thiên Chúa Đáng Chúc tụng không?" và Chúa Giêsu đã thẳng thắng trả lời lần này: "Chính tôi đây!"
Thật vậy, theoTin Mừng Thánh Marcô, Chúa Giêsu tăng cường câu trả lời này, trưng dẫn và áp dụng cho chính mình điều mà tiên tri trong Sách Daniel đã nói vể Con Người ngự giá trên mây trời mà đến và nhận lãnh vương quốc không bao giờ tàn (Bài đọc I). Một thị kiến vinh hiển trong đó Chúa kitô xuất hiện trong câu truyện và trên câu truyện, thế tục và đời đời
Bên hình ảnh vinh hiển này của Chúa Kitô chúng ta gặp, trong các bài đọc lễ trọng này, hình ảnh Chúa Giêsu khiêm tốn và đau khổ, quan tâm về việc làm cho các môn đệ nên vua hơn là cai trị họ. Trong đoạn trích từ sách Khải Huyền, Chúa Giêsu được diễn tả như là "Đấng yêu thương chúng ta và đã cứu chúng ta khởi tội bằng máu Người, Đấng đã đưa chúng ta vào một vương quốc, làm linh mục cho Thiên Chúa và Cha của Người."
Điều được luôn luôn chứng tỏ khó làm là giữ chung hai đặc quyền này của Chúa Kitô-vẻ uy quyền và lòng khiêm tốn-phát sinh từ hai bản tính của Người, thần tính và nhân tính. Con ngươi thời nay không có vấn đề thấy trong Chúa Giêsu người bạn và người anh của mọi người, nhưng họ gặp là chuyện khó nếu cũng công bố Người là Chúa và công nhận vương quyền của Chúa Giêsu trên họ.
Nếu chúng ta xem cuốn phim chiếu Chúa Giêsu, thì rõ về sự khó nầy. Nói chung phim cinema đã chọn Chúa Giêsu làm người hiền, bị bắt bớ, bị hiểu lầm, rất gần gũi con người hầu chia sẻ thân phận con người, những sự nổi loạn con người, sự ước muốn của con người sống một đời sống bình thường. Trong đường hướng này được kết nối phim"Jesus Christ Superstar-Chúa Giêsu Siêu Sao" và "Sự Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô" thô lỗ và phạm thượng hơn của Martin Scorcese.
Pier Paolo Pasolini, trong "Vangelo secondo Matteo" (Tin Mừng theo thánh Matthêo), cũng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Người bạn các tông đồ và các con người, gần gũi với chúng ta, mặc dầu Người không thiếu một chiều kích nào đo của mầu nhiệm, được diễn tả với nhiều thi thơ, hơn hết qua những lúc sầu thảm thinh lặng.
Chỉ có Franco Zeffirelli, trong cốn phim "Chúa Giêsu thành Nadareth" của ông, đã cố gắng giữ cả hai là vẻ uy quyền và tính khiêm nhượng. Chúa Giêsu xuất hiện trong cuốn phim của Zeffirelli's như là một người giữa muôn người, niềm nở và gần gũi, nhưng, đồng thời, như một Đấng, với những phép lạ và sự phục sinh của Người, đặt chúng ta trước mầu nhiệm của bản thân Người, một con người vượt quá sự nhân bản đơn thuần.
Tôi không muốn ngăn chận những cố gắn tái đề nghị biến cố Giêsu trong những từ có thể hiểu được và bình dân. Trong thời gian của Người Chúa Giêsu không bị xúc phạm nếu "dân chúng" xem người như là một trong các vị tiên tri. Tuy nhiên, ngài hỏi các tông đồ, "Nhưng phần anh em, anh em nói Thầy là ai?" cho thấy rõ những câu trả lời về phía dân chúng thì không đủ.
Chúa Giêsu mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta hôm nay trong ngày lễ trọng Kitô Vua, là Chúa Giêsu trọn vẹn, hầu như nhân bản mà còn siêu việt. Tại Paris thanh gỗ đã được sử dụng để thiết lập chiều dài của thước được giữ cẩn thận đến nỗi đơn vị đo lường này, do Cách Mạng Pháp đưa vào, không bị thay đổi với thời gian. Cũng vậy, trong cộng đồng tín hữu tức là Giáo Hội, hình ảnh thật sự của Chúa Giêsu thành Nadareth được bảo tồn. Hình ảnh này phải được sử dụng như là tiêu chuẩn để đo tính hợp pháp của mọi sự trình diễn về Người trong văn chương, cinéma và nghệ thuật.
Đó không phải là một hình ảnh cố định và trơ trơ, được giữ dưới tủ kính như cây thước, nhưng là một hình ảnh Chúa Kitô sống động, Đấng lớn lên trong sự hiểu biết của Giáo Hội, Đấng sẽ tiếp tục làm nẩy sinh những câu hỏi và những thách thức mới của nền văn hóa và phát triển nhân bản.
Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống TN 34-ABC244
Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống giữa bao hiểm nguy, bất trắc khiến lòng người luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh đẩy đưa. Giữa người với người vẫn còn những hố sâu ngăn cách bởi ích kỷ, ghen ghét và tham lam. Có thể vì một chút danh lợi thú mà người ta bán rẻ nhau và bán rẻ chính nhân phẩm của mình. Cuộc đời đầy thị phi đến nỗi Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay những người thân cận nhất vẫn có thể trở thành kẻ thù của nhau. Cha mẹ từ chối con cái. Con cái ngược đãi cha mẹ. Vợ chồng nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Bạn bè dễ dàng quay lưng lại với nhau vì tiền tài, vì danh vọng và vì tình yêu. Một cuộc sống đầy vong ân bội nghĩa nên mấy ai còn niềm tin nơi nhau. Có mấy ai dám sống cho chân lý để rồi lại phải chịu thiệt thòi vào thân! Hôm nay, Lời Chúa tường thuật lại một phiên tòa đầy bất công và thiếu khách quan của sự thật. Gọi là bất công vì sự ghen tỵ mà người ta đã kến án kẻ vô tội. Thiếu chân thực vì toàn bộ câu chuyện đã bị bóp méo hoàn toàn. Theo thánh Gioan kể lại: họ tố cáo Chúa Giêsu về ba điều: gây rối loạn trong dân chúng, cản trở việc nộp thuế cho hoàng đế, và tự xưng mình là vua. Thật ra, vì lòng ghen ghét, họ đã không ngần ngại bóp méo sự thật. Theo sự tra xét của họ thì Chúa Giêsu phạm tội lộng ngôn, nhưng họ biết rất rõ quan toàn quyền sẽ không chịu nghe một lời tố cáo như vậy, mà sẽ bảo đó là chuyện tranh chấp về tôn giáo và bảo họ phải tự dàn xếp. Thế nên, vì muốn loại trừ Chúa, họ đã không ngần ngại vu khống để bỏ vạ cáo gian. Nhưng Philatô lại không dám bảo vệ sự thật. Cho dù Chúa Giêsu đã cho ông hiểu rằng: Ngài là Vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng Philatô đã không quan tâm đến việc bảo vệ công lý cho bằng bảo vệ ngai tòa của mình. Ông rửa tay để làm ngơ trước sự bất công.
Và cũng từ phiên tòa này, Chúa Giêsu đã công khai nói lên sứ mạng của Ngài, Ngài đến trong thế gian này là thiết lập một vương quốc sự thật, một nền công lý và hòa bình từ chính trong tâm hồn con người. Và chính vì thế mà ngài đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Ai đi theo đường công chính, biết ăn ở ngay lành, thực hành bác ái yêu thương chính là công dân trong Nước của Thiên Chúa. Nước của Ngài không hạn chế bởi địa dư, bởi mầu da sắc tộc mà mở rộng không gian tới tận cùng trái đất. Nơi nào có những người xây dựng hòa bình, công lý và tình thương, nơi đó Nước Chúa đang ngự trị.
Là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Nghĩa là phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng tình liên đới giữa con người với nhau trong yêu thương chân thật. Như lời Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “phải làm thế nào để tính thiện nơi con người được chiếu lộ ra, và giải phóng các sức mạnh của sự tiềm ẩn nơi con người, để sự thiện ấy được lớn mạnh hơn sự ác cả trong lĩnh vực luân lý lẫn xã hội". Vâng, cuộc đời này có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy sa đọa, con người ngày nay vẫn muốn loại trừ Thiên Chúa. Dường như vì ích kỷ đã làm cho họ mù loà đến nỗi không nhận ra sự bất hạnh của tha nhân để cảm thông, để nâng đỡ. Dường như vì tham lam mà con người muốn loại trừ đồng loại để bảo vệ tiền tài danh vọng cho chính mình. Đồng tiền và danh vọng đã làm mờ con mắt. Tự hủy diệt mình trong đam mê lạc thú và quyền lực thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con dám sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Ngõ hầu danh Chúa được cả sáng. Amen.
Hôm nay, nhân ngày lễ tôn vinh Chúa Giê-su vua, chúng ta hãy đến bệ kiến Ngài.Trước hết, chúng TN 34-ABC245
Hôm nay, nhân ngày lễ tôn vinh Chúa Giê-su vua, chúng ta hãy đến bệ kiến Ngài. Trước hết, chúng ta hãy tiến vào chiêm ngưỡng hoàng cung của Vua Giê-su. Thật lạ lùng! Nơi đây là một ngọn đồi hoang vu trơ trọi, sặc mùi tử khí, lác đác mấy thập tự giá nằm vương vãi đó đây. Tiếp theo, chúng ta hãy tìm đến ngai tòa đức Vua. Đây rồi, ngai tòa của Ngài đây, vì có tấm biển ghi rõ ràng: “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Ít-ra-en” (Ga 19,19). Ta hãy chiêm ngưỡng xem vị vua này như thế nào? Ngự ở đâu? Cẩm bào của ngài thế nào? Ngai vàng Ngài ra sao? Thần dân của Ngài gồm những hạng người nào? Nơi đây, Vua Giê-su không mặc áo cẩm bào sang trọng đính ngọc dát vàng, nhưng phải chịu cảnh mình trần, thân mình bầm dập, loang lổ vết thương. Nơi đây, Vua Giê-su không ngồi chễm chệ trên ngai cao nhưng chịu treo thân trên thập tự giá. Hai bên ngai Vua Giê-su không có hai chức quan tả, hữu thừa tướng như ở các cung đình uy nghiêm lộng lẫy, mà là hai tên gian phi cùng chịu treo trên thập tự giá như Ngài. Thay vì quân hầu, người ta chỉ thấy đám lính hung hăng, thô bạo. Chúng đứng đó không phải để hầu hạ phục dịch Ngài, nhưng là để lăng nhục, để hành hung, chế giễu nhạo cười Ngài và kết liễu cuộc sống của Ngài. Vị vua này thật lạ lùng! Thay vì để cho thần dân tung hô chúc tụng, Vua Giê-su chịu nghe những lời nhiếc móc nhạo cười: “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu được mình”, “Nếu ông là vua dân Do-thái thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23,35-37). Trên ngai cao này, thay vì ban ra những lệnh truyền như vua chúa trần gian, những lệnh truyền bắt dân phải chịu sưu cao thuế nặng để chất thêm vàng bạc vào kho báu của mình, truyền cho nô lệ phải hầu hạ phục dịch mình, truyền cho quan quân phải hy sinh mạng sống, chiến đấu phục vụ cho vương quốc mình… Vua Giê-su chỉ ban ra những lời yêu thương: “Lạy Cha, xin tha thứ tội lỗi cho những người đóng đinh Con…” và hứa ban hạnh phúc thiên đàng cho người bất hạnh cùng chịu treo trên thập tự giá như mình: “Hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Tôi” (Lc 23, 43). Cuối cùng, không như vua chúa trần gian, bòn rút công sức, của cải thần dân tận xương tủy, Vua Giê-su hiến trao mạng sống mình cho muôn người được sống đời đời, trút cho nhân loại cả giọt máu cuối cùng trong đáy tim!
Như thế, dù là Chúa tể trời đất, bá chủ muôn vật muôn loài, Chúa Giê-su đã hạ mình xuống thế làm người, chuốc lấy tủi hổ, đau thương và nộp mình chịu chết để cứu độ muôn dân. “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Ph 2, 9-11). Lạy Chúa Giê-su, Trên cõi đời này, không ai xứng đáng là vua của chúng con, bởi vì tất cả mọi ông vua đều ươn hèn, yếu đuối và mắc phải đủ mọi thứ lỗi lầm. Chỉ có Chúa mới là vị vua hoàn hảo, vua tốt lành thánh thiện, vua đầy lòng yêu thương, là vua quảng đại bao dung, đã hy sinh chịu chết để ban cho chúng con sự sống đời đời. Xin cho chúng con biết tôn Chúa lên làm Vua của mình, biết noi gương Chúa mà hy sinh cho người khác, biết nhận quy luật yêu thương của Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc sống chúng con.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà Tin mừng Gioan (18, 33-37) trích đọc vào Lễ Chúa Ki-tô Vua 33 Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không? "34 Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi? "35 Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì? "36 Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này."37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao? " Đức Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."
Mục đích của Chúa Giê-su khi thành lập Giáo Hội là thiết lập một vương quốc của tình yêu, công TN 34-ABC246
Mục đích của Chúa Giê-su khi thành lập Giáo Hội là thiết lập một vương quốc của tình yêu, công lý và hòa bình trên mặt đất. Nhiệm vụ của mỗi Ki-tô hữu phải là nắm men làm dậy lên tình yêu, công lý và hòa bình trong đống bột trần thế. Triều đại Thiên Chúa chỉ có thể trị đến bằng hành động tích cực của mỗi thành viên.
Đn 7: 13-14 Trong Bài Đọc I được trích từ sách Đa-ni-en, nhà thị kiến được tham dự vào lễ phong vương của một nhân vật mầu nhiệm, được gọi “Con Người”, lãnh nhận từ Thiên Chúa vương quyền hoàn vũ.
Kh 1: 5-8 Bài Đọc II là phần mở đầu sách Khải Huyền của thánh Gioan. Đây là một bài thánh thi chúc tụng Đức Ki-tô, “Người là Đấng vinh hiển và toàn năng đến muôn thuở muôn đời”.
Ga 18: 33-37 Tin Mừng được trích dẫn từ bài Thương Khó theo Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô. Ngài khẳng định mình là Vua, nhưng Nước Ngài không thuộc thế gian này.
BÀI ĐỌC I (Đn 7: 13-14)
Sách Đa-ni-en cốt yếu là một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Mục đích của tác giả là an ủi các tín hữu Do thái đang sống trong cảnh bị bách hại dưới thời vua An-ti-ô-khô Ê-phi-pha-nê (175-164 trước Công Nguyên). Tác giả tiên báo kẻ thù của họ sắp bị tiêu diệt và cuối cùng Thiên Chúa sẽ toàn thắng.
1.Bố cục:
Ngoài phần phụ chương (ch. 13-14), sách Đa-ni-en gồm có hai phần chính:
- “Phần trình thuật” (ch. 1-6) kể lại tấm gương của thiếu niên Đa-ni-en bị lưu đày ở Ba-by-lon, qua đó, tác giả cho thấy Thiên Chúa phù trợ các tín hữu trung thành với Ngài ngay cả trong những cơn gian nan khốn khó nhất như thế nào.
- “Phần thị kiến” (ch. 7-12), theo thể loại văn chương khải huyền, trình bày những thị kiến liên quan đến lịch sử dân Ít-ra-en. Chính ở phần thứ hai nầy mà chúng ta gặp thấy bản văn nổi tiếng mô tả lễ phong vương của “Con Người”. Đức Giê-su đã đồng hóa mình với nhân vật mầu nhiệm này.
2.Sứ điệp:
Vị ngôn sứ vừa mới trình bày một trong những thị kiến ban đêm, trong đó ông đã thấy xuất hiện từ biển bốn con quái vật, biểu tượng bốn đế quốc thống trị. Những đế quốc nầy không được nêu tên, xem ra cốt là bốn đế quốc tiếp nối nhau thống trị Ít-ra-en: Ba-by-lon, Ba tư, A-lê-xan-đê đại đế, triều đại của hai dòng họ La-gít và Sê-lơ-sít. Con thú thứ tư gây kinh khiếp nhất, chính là triều đại của dòng họ Sê-lơ-sít là vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê quỷ quyệt, được mô tả bằng những hình tượng huyền hoặc. Bốn đế quốc này đều sụp đổ để nhường chỗ cho Nước Thiên Chúa, được trao ban cho một nhân vật được gọi “Con Người”.
Trong ngôn ngữ Do thái, danh xưng “con người” viết thường là một thành ngữ Do thái được viết tắt từ cụm từ “con cái của loài người” (“son of Man”) để chỉ “một phàm nhân mỏng dòn yếu đuối” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Trong sách Ê-dê-ki-en, danh xưng này xuất hiện đến 93 lần mà tiêu biểu nhất là lệnh truyền của Thiên Chúa được ngỏ với ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói…” (Ed 7: 2). Qua danh xưng này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en muốn nói rằng ông chỉ là một phàm nhân như bao nhiêu con người khác, nhưng Thiên Chúa toàn năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, đã trao ban cho ông lời hằng sống của Ngài để ông chuyển giao cho dân Ngài. Vì thế, có một khoảng cách khôn sánh giữa sứ điệp mà ông truyền đạt và con người của ông.
Tuy nhiên, trong sách Đa-ni-en, thành ngữ “Con Người” được viết hoa là một danh hiệu để chỉ một nhân vật có nguồn gốc thiên giới: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (7: 13). Theo biểu tượng Kinh Thánh, “mây trời” luôn luôn là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Con Người lãnh nhận “quyền thống trị, vinh quang và vương vị”, được Đấng Lão Thành, tức là Thiên Chúa hằng sống, trao ban. Trong khi những vương quyền trần thế lần lượt bị tiêu vong, thì vương quyền của Con Người “chẳng hề suy vong” và bao trùm mọi dân mọi nước cũng như toàn thể vũ trụ.
3.Vương quyền của Con Người:
Toàn bộ chương 7 nầy cho thấy dung mạo “Con Người” vừa là một cá nhân vừa một tập thể, tương tự như dung mạo “Người Tôi Trung” của I-sai-a đệ nhị. Vả lại, Đức Giê-su đã đồng hóa dung mạo “Người Tôi Trung” và dung mạo “Con Người” vào Ngài. Viễn cảnh vừa cá nhân vừa tập thể này hoàn toàn phù hợp với não trạng Do thái: Con Người là một lãnh tụ điển hình của dân Thiên Chúa, đồng thời cũng là dân Thiên Chúa. Những câu theo sau giải thích rõ điều này: khi con thú thứ tư dứt khoát bị tiêu diệt, Thiên Chúa ban cho dân thánh của Đấng Tối Cao vương quốc với quyền thống trị cũng như địa vị cao cả trên mọi dân mọi nước (7: 18, 27).
Trong tất cả sấm ngôn, phải phân biệt “nghĩa hiện thời” và “nghĩa tương lai”. Nghĩa hiện thời mà tác giả sách Đa-ni-en nhắm đến là loan báo cho đồng bào của ông cuộc giải thoát chắc chắn sắp đến được ban cho họ qua các vị tử đạo vinh hiển của họ. Như vậy, về phương diện tập thể, Con Người là dân Chúa chọn được giải thoát và được tôn vinh. Tuy nhiên, những viễn cảnh cánh chung (nghĩa tương lai) không bao giờ vắng bóng trong các sách khải huyền. Đó là quy luật của thể loại văn chương này. Những biến cố được loan báo hiện thời bao gồm rồi bức tranh vĩ đại của thế giới sắp đến. Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng trình bày nghĩa kép như thế: tôn vinh các thánh tử đạo của thời kỳ bách hại cũng là tôn vinh toàn thể dân Chúa chọn, họ sẽ cử hành cuộc chiến thắng sau cùng của Con Chiên vào ngày tận thế.
Tiếp sau sách Đa-ni-en, các sách khải huyền Do thái lấy lại danh hiệu “Con Người” và ban danh hiệu này cho một cá nhân rất rõ nét, khi trao ban tước hiệu này cho một Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng các sách này nhấn mạnh tính cách siêu việt và mầu nhiệm của nhân vật này, và tính cách này chỉ được bày tỏ vào thời tận thế.
Khi nhận tước hiệu Con Người về mình, Đức Giê-su đã cá nhân hóa tước hiệu tập thể này vào Ngài. Theo cách thức này, Ngài khẳng định vừa nhân tính vừa thiên tính của Ngài, Ngài thật sự là một con người có nguồn gốc thần linh: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Khi Đức Giê-su tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Do thái: “Từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26: 64), rõ ràng Ngài ám chỉ đến nhân vật “Con Người” trong sách Đa-ni-en.
BÀI ĐỌC II (Kh 1: 5-8)
Sách Khải Huyền thánh Gioan được định vị vào trào lưu văn chương khải huyền Do thái, đặc biệt sách Đa-ni-en. Tác giả sử dụng những từ ngữ và hình ảnh tương tự, nhưng chủ đề thì biến đổi. Những sấm ngôn đã được ứng nghiệm. Đấng Thiên Sai đã đến giữa nhân loại, đã chết và sống lại; Ngài đã vào trong vinh quang của Ngài. Ngay từ đầu đoạn trích nầy, Đức Giê-su được xưng tụng là “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian”.
Ở những chương đầu tiên, sách Khải Huyền được trình bày như một bức thư được gởi đến cho bảy Hội Thánh miền Tiểu Á. Theo thể loại thư tín của thời đại nầy, thư thông thường bắt đầu với lời chào được gởi đến người nhận, và cũng như trong các thư của thánh Phao-lô, lời chào này được Ki-tô hóa: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki tô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Kh 1: 2). Lời cầu chúc này tập hợp lời chào Hy lạp: “ân sủng”, và lời chào Do thái: “bình an”.
1.Các danh hiệu của Đức Giê-su Ki-tô:
Danh hiệu đầu tiên của Đức Giê-su Ki-tô được kể ra là “Chứng Nhân trung thành”. Trong thư thứ nhất cũng như trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký Gioan nhấn rất mạnh tầm quan trọng của chứng nhân. Thánh Gioan Tẩy Giả là chứng nhân của Đức Ki-tô; thánh Gioan Tông Đồ cũng là chứng nhân về điều mình đã thấy và đã nghe (x. 1Ga 1: 1-4; Ga 19: 35). Ở đây, danh hiệu “Chứng Nhân trung thành” được áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô. Chính Đức Giê-su Ki-tô làm chứng về những gì Ngài đã thấy và đã nghe ở trong cung lòng của Chúa Cha.
Những danh hiệu: “Chứng Nhân trung thành”, “Trưởng Tử” và “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian”, không phải là ngẫu nhiên nhưng rất tương xứng với những danh hiệu của Đấng Mê-si-a (“Đức Ki-tô”) thuộc dòng dõi Đa-vít được mô tả trong Tv 89: 27-28, 38. Với danh hiệu “Trưởng Tử”, thánh Gioan thêm: “trong số những người từ cõi chết chỗi dậy” như thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Cô-lô-sê (Cl 1: 15). Sách Khải Huyền rõ ràng là một bức tranh mô tả vô số những người được tuyển chọn vây quanh Đấng Phục Sinh.
2.Bài thánh thi:
Đoạn trích này là một “bài thánh thi” mà các nhà chuyên môn gọi “Vinh Tụng Ca” ca ngợi những ân phúc của Đức Giê-su Ki-tô. Bài thánh thi ca ngợi những phẩm chất cao vời của vương quyền Đức Ki-tô: triều đại tình yêu, thời kỳ Đức Vua dâng hiến cho các thần dân của Ngài những thành quả cuộc Tử Nạn và Hy Tế của Ngài và cho họ dự phần vào vương quốc của Ngài. Sau khi đã thánh hiến họ và thanh tẩy họ khỏi vết nhơ tội lỗi, Ngài cho họ trở thành tư tế để tôn vinh Thiên Chúa là Cha của Ngài.
Vị vua nầy sẽ tỏ mình ra vào ngày tận thế: “Kìa Người ngự đến giữa đám mây” như Con Người trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en. “Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người”, ám chỉ đến sấm ngôn của Dcr 12: 10: “Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu”, nghĩa là Đấng mà người ta long trọng loan báo cuộc Quang Lâm của Ngài là Đấng chịu đóng đinh trên thập giá.
“Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người”, vì đây là giờ xử án, giờ ăn năn sám hối. Như sách Khải Huyền, Tin Mừng Mát-thêu cũng đặt bên cạnh nhau sự ăn năn sám hối và thị kiến vinh quang: “Bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” (Mt 24: 30).
Như sách Đa-ni-en, sách Khải Huyền là một bài thánh ca chứa chan niềm hy vọng vào sự chiến thắng của Thiên Chúa trên các quyền lực của sự ác. Lời tung hô “A-men!...A-men!...” đem lại cho bài thánh thi tạ ơn nầy sắc thái phụng vụ.
Bài thánh thi kết thúc với lời công bố của Thiên Chúa. Lời công bố này gồm hai phần: phần thứ nhất: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga”, và phần thứ hai: “Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng”. Phần thứ nhất là một biểu thức lập đi lập lại nhiều lần trong sách Khải Huyền: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga” (chữ đầu và chữ cuối trong mẫu tự Hy ngữ) và âm vang lời Thiên Chúa công bố trong Is 44: 6: “Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta”. Phần thứ hai được gợi hứng từ lời Đức Chúa công bố cho ông Mô-sê trong sách Xuất Hành: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3: 14), nhưng được thích ứng vào viễn cảnh ngày tận thế nên được thêm vào ở đây: “Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng”. Ở Kh 22: 13, lời công bố nầy được quy cho chính Đức Ki tô: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Cùng Tận” .
TIN MỪNG (Ga 18: 33-37)
Sau khi sống lại, Đức Giê-su sẽ công bố quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài; nhưng trong khi thi hành sứ vụ công khai, Ngài đã không ngừng tránh né danh hiệu nầy vì sợ dân chúng hiểu lầm danh hiệu này theo sắc thái chủ nghĩa dân tộc và chính trị. Còn đối với các môn đệ của Ngài, Ngài chỉ dạy cho họ một mẫu gương phải noi theo, mẫu gương phục vụ như Ngài: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28). Chỉ khi Ngài bị bắt, bị nộp vào tay người đời và bất lực, Ngài mới công bố mình là Vua.
Trong bài Thương Khó, thánh Gioan dành cho hoạt cảnh Chúa Giê-su bị điệu ra trước quan tổng trấn Phi-la-tô một chỗ quan trọng hơn ba sách Tin Mừng Nhất Lãm. Thánh Gioan đặt ở nơi hoạt cảnh này dấu ấn của riêng mình, ý nghĩa sâu xa, pha lẫn với lời châm biếm nhẹ nhàng, sứ điệp ngẫu nhiên được dùng để nâng đỡ sứ điệp vĩnh hằng. Thánh Gioan là nhà thần học về cuộc Thương Khó.
1.Đức Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô:
Bản văn thuật lại cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và tổng trấn Phi-la-tô đưa chúng ta vào trọng tâm của cuộc tranh luận. Các thượng tế tố cáo Đức Giê-su hai tội: “Ông nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa” và “Ông nầy tự xưng mình là vua”. Lời tố cáo thứ nhất mới thực sự là lời buộc tội, lời tố cáo thứ hai chỉ là cái cớ ngụy tạo cốt đặt vị tổng trấn Rô-ma và kẻ phá rối trị an đối diện với nhau. Vị tổng trấn không dễ bị mắc lừa; ông hiểu quá rõ mánh lới của các thượng tế, vì thế ông cần phải tra hỏi phạm nhân cho ra lẽ: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”.
2. “Vua dân Do thái”:
Đối với tổng trấn Rô-ma, đây là một câu hỏi then chốt, vả lại đây là câu hỏi duy nhất thuộc thẩm quyền của ông: tội chính trị. Theo phương sách Chúa Giê-su thường dùng, phương sách này cho phép Ngài giữ thế phản công, thay vì trả lời câu hỏi mà quan tổng trấn đặt ra cho Ngài, Chúa Giê-su hỏi ngược lại ông Phi-la-tô: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”, nghĩa là, “với tư cách quan tổng trấn, ông có những thông tin chính xác về những tham vọng chính trị của tôi, hay lời buộc tội đến từ các thượng tế mà ông chỉ nghe tin đồn?”. Như vậy, Đức Giê-su đặt tổng trấn Phi-la-tô trước trách nhiệm của ông.
Quan tổng trấn hiểu rõ điều nầy và ông trả lời với thái độ miệt thị các lãnh đạo Do thái: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”. Qua câu trả lời này, ông Phi-la-tô muốn nói rằng chính ông, với tư cách quan tổng trấn, tiến hành cuộc điều tra, chứ không dựa trên những lời đồn đại. Như chúng ta thấy, cuộc tranh luận được tiến hành không phải bởi quan tòa nhưng bởi kẻ bị cáo. Điều này cho thấy Đức Giê-su vẫn làm chủ tình thế, dù người chất vấn Ngài nắm trong tay quyền sinh sát đối với Ngài.
Câu hỏi “Ông đã làm gì?” là lời đáp trả cho câu hỏi vặn lại của Đức Giê-su. Đức Giê-su không trả lời thẳng câu hỏi sau cùng này: “Ông đã làm gì?”, nhưng câu hỏi đầu tiên: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”; Ngài gợi lên bản chất vương quyền của Ngài: Nước Ngài không thuộc về thế gian này, vì thế, quyền lực Rô-ma chẳng có gì phải bận tâm; và quân đội của Ngài không chiến đấu để bảo vệ Ngài, vì thế, quan tổng trấn chẳng có gì phải lo sợ.
Quan tổng trấn Phi-la-tô lại hỏi: “Vậy ông là vua sao?”, Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Câu trả lời của Đức Giê-su vừa khẳng định nhưng vừa bỏ lửng, nghĩa là: “Đúng như ông nói, nhưng không theo cách ông nghĩ”.
3.Sự thật:
Đức Giê-su tiếp tục tranh luận khi mô tả bản chất vương quyền của Ngài: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Một lần nữa, Đức Giê-su đặt tổng trấn Phi-la-tô trước trách nhiệm của ông: ông đứng về sự thật hay đồng lõa với sự dối trá. Bấy giờ, quan tổng trấn biết rõ các vị thượng tế bịa đặt lời tố cáo; vì thế ông đứng về phía sự thật. Quả thật, tổng trấn Phi-la-tô sắp công bố đến ba lần Đức Giê-su vô tội trước đám đông (Ga 18: 38; 19: 4, 6). Thánh Lu-ca còn xác định thêm nữa: “Bây giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại mà nói: ‘Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay khích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo” (Lc 23: 13-14). Vì thế ông tìm mọi cách để tha bổng Chúa Giê-su, nhưng ông đành bất lực trước những áp lực từ phía giai cấp lãnh đạo Do thái.
“Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga 19: 7). Đây mới thật là tội danh dẫn Ngài đến cái chết. Ông Phi-la-tô không đủ can đảm đi cho đến cùng lời chứng của mình, nói lên tiếng lương tâm ngay thẳng của mình. Vấn đề trung thành với sự thật được đặt ra và được đặt ra rất kịch tính.
4.Sứ điệp vĩnh hằng:
Bên kia sứ điệp bất ngờ của Đức Giê-su với tổng trấn Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”, thánh ký nghĩ đến tất cả các Ki-tô hữu mà giáo huấn này được gởi đến họ. Đức Giê-su đã đến mặc khải cho con người sự thật đến từ Thiên Chúa; Ngài đã làm chứng sự thật nầy cho đến cả mạng sống mình, Ngài đã đồng hóa mình với sự thật. Tất cả những ai đón nhận, sống và chết cho sự thật này được liên kết với Ngài. Đức Giê-su không nói “Ai sở hữu sự thật”, nhưng “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giê-su đã công bố Xa-tan là cha của sự dối trá, trong khi sự thật là một phần liên kết với Thiên Chúa và mở rộng cánh cửa Nước Thiên Chúa.
Trong một khảo sát được công bố mới đây của nhóm nghiên cứudo Giáo sư Trần Ngọc Thêm chủt rì cho TN 34-ABC247
Trong một khảo sát được công bố mới đây của nhóm nghiên cứudo Giáo sư Trần Ngọc Thêm chủt rì cho thấy, bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%.
Có thể thấy nói dối có mặt ở khắp nơi. Nói dối chằng chịt từ dưới lên trên, dọc ngang ngang dọc, trong gia đình, trong công sở, nơi kinh doanh, trong thực thi pháp luật…
Điều lạ là ai cũng nói dối nhưng ai cũng tỏ ra mình thật thà. Ai cũng biết mười mươi đối phương đang nói dối nhưng ai cũng tỏra hoàn toàn tin cậy.
Ngayở cấp độ Giáo hội nhiều giáo xứ, nhiều ban ngành cũng chấp nhận và sẵn sàng lừa dối nhau bằng những bản báo cáo mượt mà thành tích, số liệu… nhưng thực tế có phải vậy?
Một xã hội dối trá làm sao chúng ta có thể hy vọng xây dựng được một xã hội lành mạnh văn minh tình thương. Một xã hội dối trá sẽ cài cắm vào lương tâm con người từ thuở bé những hạt giống xấu của gian dối, lừa gạt. . .và chắc chắn sau này những mầm non ấy lớn lên trở thành những lãnh đạo, họ sẽ gian dối bằng cách ăn bớt giờ làm, đục khoét người dân và báo cáo láo về thành tích, rồi nào là học giả bằng thật, học giả bằng giả, mua bằng cấp, và mua quan bán chức… để leo lên những chức vụ cao hơn.
Chẳng cần nói đến thế hệ sau mà chỉcần nhìn vào hiện tại chúng ta có thểthâý sự dối trá đang hoành hành khắp nơi.
Biết bao kỹ sư đã rút ruột công trình hay thiết kế ẩu, thi công ẩu… miễn là có lợi cho mình gần đây nhất là đường cao tốc 34 ngàn tỉ một cơn mưa đã hư.
Với nghề lương y như từ mẫu là bác sỹ, có người sẵn sàng trục lợi trên tính mạng con người. Là công nhân, họ cũng sẽ có trăm phương ngàn kế để ăn cắp nguyên vật liệu hay thành phẩm của nhà máy.
Rồi trong kinh doanh, với kiểu làm ăn chụp giật…và lừa đảo đã khiến bao người tan gia bại sản.
Nếu được nhận định về xã hội hôm nay, chúng ta có thể nói đây làmột xã hội giả dối, con cái lừa dối cha mẹ, người nọ lừa dối người kia, nói một đằng nhưng việc làm lại một nẻo, nói mà không làm.
Hôm nay lễ Chúa Ky-tô Vua, chúng ta được nghe lại lời xác quyết của Chúa Giê-su đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Chính Ngài đã nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Sự thật mà Chúa Giê-su làm chứng chính là giới thiệu cho nhân loại một vương quốc đầy ánh sáng tình thương và chân thành. Một vương quốc không có bệnh thành tích mà chỉ có tinh thần phục vụ một cách vô vị lợi. Một vương quốc mà con người tìm được tiếng nói chung khi biết tôn trọng sự thật và đề cao chân lý.
Chính Chúa Giê-su đã sống điều đó. Ngài đã sống cuộc đời không tìm hư danh mà chỉ biết sống yêu thương phục vụ mọi phận người lầm than. Ngài cũng không làm để được báo cáo thành tích mà chỉ biết cho đi mà không hề so đo tính toán. Ngài đã sống và bảo vệ chân lý cho dù vì thế mà Ngài bị nhiều thế lực gian tà thù ghét và tìm cách loại trừ. Tuy nhiên, cuối cùng Ngài vẫn toàn thắng. Sự dữ đã bị đẩy lùi. Sự gian dối của ma quỷ đã bị phơi bày. Thiên Chúa đã làm chủ vạn vật và trái đất này.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.Vợchồng chân thành với nhau trong nghĩa tình thuỷ chung. Người trong một đoàn thể, một xứ đạo sống chân thành với nhau hầu loại trừ bệnh thành tích khoe trương. Nhất là trong cuộc sống hằng ngày cần lấy chữ tín làm đầu, luôn sống chân thành trong lời nói , việc làm luôn theo chân lý và sự thật.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen
Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội công bố bài Tin Mừng Gioan: Vua Giêsu đang bị trói, bị điệu đến trước TN 34-ABC248
Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội công bố bài Tin Mừng Gioan: Vua Giêsu đang bị trói, bị điệu đến trước mặt quan Philatô và bị đối xử như một tội phạm. Philatô hỏi: Ông là vua sao? Sao lạ vậy? Vua Hêrôđê còn sống sờ sờ đó mà. Vua gì mà chẳng có quân có tướng hộ vệ? Vua gì mà chẳng có vương miện cẩm bào? Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu mang chiếc áo loang lỗ máu đào, tả tơi. Phải chăng Philatô nhận ra Chúa có một tác phong uy quyền cao cả một một vị đế vương. Và trong chiều sâu tâm hồn, Philatô thán phục đánh giá cao vị vua này!
Chúa Giêsu đáp: Chính ngài nói rằng tôi là vua. Rồi Chúa giải thích thêm: Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi. “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Như vậy, Chúa xác nhận Ngài là Vua, vì có một nước để Ngài thống trị. Đó là nước của sự thật: Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Chúa; đó là nước của tình yêu: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu này để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.” (Ga 13,35); đó là nước của sự sống: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24).
1. Nước của Sự Thật.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Nước trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại nước huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi nước làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn nước của Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội khí giới nhà tù. Sức mạnh nước của Đức Giêsu là niềm tin yêu thương tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn nước của Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn nước sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu là vị vua của Sự Thật và sứ mạng của Ngài là làm chứng cho sự thật. Là vua sự thật, Chúa đến thế gian để chỉ cho con người về sự thật và dạy cho con người sống sự thật. Vua Giêsu đã chỉ cho con người thấy Thiên Chúa là chân lý và là sự thật. Vua Giêsu còn chỉ cho con người thấy bộ mặt thật gian dối của thế gian, sự xảo trá của ma quỷ và thế lực của bóng tối. Nó đang tìm cách tách con người ra khỏi sự thật và gieo sự gian dối vào trong tâm hồn con người.
Kitô hữu là thần dân của nước sự thật nên dám nói lên sự thật, dám can đảm sống theo sự thật, dám chết cho sự thật.
2. Nước của Tình Yêu
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của nước Ngài thiết lập. Đức Kitô là vua, nhưng lại rất khác với các vua trần thế ở chỗ : để cai trị, các vua thế gian dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (Ga 10,11-16). Luật pháp trong nước của Ngài là sống trong Tình Yêu. Một Tình Yêu trọn vẹn trong chiều dọc, đối với Đấng dựng nên mình là Thiên Chúa. Một Tình Yêu chan hòa trong chiều ngang đối với đồng loại của mình.
“Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới. Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa nước của Ngài. Đó là nước của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời”. (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt).
“Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Vua Giêsu đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Tình yêu chi phối mọi sinh hoạt cuộc đời. Con người đau khổ vì không có tình yêu. Chúa là tình yêu. Chỉ những ai biết tìm đến với Ngài, được Ngài thông truyền cho tình yêu, họ mới biết mở mắt để nhận ra được mọi người anh em, như thế mới có thể yêu thương. Bản tính của tình yêu là cho đi điều tốt lành. Ai sống yêu thương thì thuộc về Chúa, là thần dân của Ngài. Nước của Chúa Kitô Vua là nước của tình yêu. Muốn vào nước ấy, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
3. Nước của Sự Sống
“Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ “(Ga 11, 25-26). Thật là đại tin mừng : “Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” ( Ga 1,4-5).
Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống nên nước của Ngài không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết nước của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua Sự Sống.
Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi con người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong nước Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nổ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Nước vĩnh cửu của Người.
Mừng lễ Chúa Giêsu – Vua Vũ Trụ – Vua Sự Thật -Vua Tình Yêu – Vua Sự Sống, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
Giêsu, lạy Chúa từ nhân, Tâu Vua vinh hiển, thần dân kính mừng! Duy Ngài là lẽ cậy trông, Là trung tâm điểm của dòng thời gian. Quyền uy thống trị vũ hoàn, Chúng con tình nguyện làm dân con Ngài. (Thánh Thi Kinh sáng lễ Chúa Kitô vua).
Ngày 11-2-2013, cả thế giới ngạc nhiên trước thông báo chính thức của Tòa Thánh: Đức Giáo Hoàng TN 34-ABC249
Ngày 11-2-2013, cả thế giới ngạc nhiên trước thông báo chính thức của Tòa Thánh: Đức Giáo Hoàng Bênêđitô 16 sẽ từ nhiệm và việc từ nhiệm này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 28-2-2013. Mặc dù việc một Giáo Hoàng từ chức là điều đã được tiên liệu trong Giáo Luật (Khoản 332), những người Công giáo khắp năm châu vẫn bàng hoàng trước thông tin này. Một số báo chí chớp lấy cơ hội để tưởng tượng ra một tình trạng bê bối nội bộ… Tuy vậy, những người thiện chí, trong đó có khá nhiều nguyên thủ quốc gia, đánh giá đây là một quyết định anh hùng. Quả thật, quyết định từ nhiệm của Đức Bênêđitô 16 là một quyết định bất ngờ và có tính tiên tri trong bối cảnh số quốc gia trên thế giới đang xảy ra những vụ biểu tình đòi quyền dân chủ, thậm chỉ có những cuộc đảo chính nhằm lật đổ những chế độ độc tài. Người dân tại một số quốc gia cũng lấy Đức Giáo Hoàng để so sánh với nhiều nhà lãnh đạo chính trị tham quyền cố vị, kìm hãm sự phát triển của đất nước mà không đủ can đảm từ chức.
Với việc can đảm từ nhiệm khi thấy sức khỏe không bảo đảm cho một sứ mạng quan trọng, Đức Thánh Cha Bênêđitô cũng muốn khẳng định với thế giới rằng: trong Giáo Hội, quyền lực không phải để thống trị mà để phục vụ. Quả vậy, không riêng gì đối với vị thủ lãnh kế vị thánh Phêrô, mà đối với tất cả những chức vị khác trong Giáo Hội đều nhằm phục vụ Dân Chúa. Tính hiệu quả của công việc và ích lợi của Dân Chúa luôn được đặt ở vị trí ưu tiên. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, sự từ nhiệm này đã khẳng định được giá trị của nó. Người kế nhiệm Đức Bênêđitô 16 là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đem lại một luồng sinh khí mới cho Giáo Hội. Ngài luôn chủ trương canh tân Giáo Hội, làm cho Giáo Hội thực sự là Giáo Hội phục vụ con người. Một Giáo Hội hiện hữu không phải để thống trị hay duy trì quyền lực, mà vì con người, như Chúa Giêsu đã vì nhân loại mà thực thi sứ mạng cứu độ.
Ngày Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội tôn vinh Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Danh xưng “Vua” có thể khiến nhiều người thời nay ngộ nhận. Bởi lẽ đa số những vị vua của xã hội phong kiến gợi lại những hình ảnh không đẹp về đời sống luân lý cũng như trong trách nhiệm của một người “phụ mẫu chi dân”. Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta hiểu rõ hơn danh xưng “Vua” dành cho Chúa Giêsu. Ngài được ngôn sứ Edêkien giới thiệu như một mục tử ân cần chăm sóc từng con chiên trong đàn chiên của mình. Không một con chiên nào bị quên lãng hay bỏ rơi, dù là những con chiên bệnh tật còm cõi. Người mục tử còn cất công lặn lội đi tìm những con chiên bị lạc. Người mục tử chân chính lấy hạnh phúc của chiên là hạnh phúc của mình. Ông vui niềm vui của đoàn chiên, ưu tư trăn trở khi thấy lợi ích của đàn chiên bị đe dọa.
Ý niệm về một vị mục tử này được Đức Giêsu nhắc lại trong giáo huấn của Người. Người còn khẳng định: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên của tôi và các chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Không chỉ là một mục tử coi sóc, dẫn dắt đoàn chiên, Chúa Giêsu còn đồng hóa mình với những người nghèo khổ bé mọn trong cuộc sống. Thánh sử Mátthêu đã ghi lại bài giáo huấn của Chúa về ngày phán xét cuối cùng. Lúc bấy giờ, chính Chúa Giêsu sẽ là vị Vua và là Thẩm phán tối cao để xét xử nhân loại. Mọi dân mọi nước sẽ được quy tụ về để tham dự cuộc xét xử này. Vị Vua của ngày phán xét sẽ dựa vào thái độ của mỗi người đối với người nghèo mà quyết định tương lai hậu vận của họ. Tác giả Tin Mừng nói đến sự ngạc nhiên của những người có mặt trong phiên tòa, cả những người tốt cũng như người xấu, khi họ thấy Chúa tự đồng hóa mình với những người đói khát, trần trụi, tù đày, đau yếu, cơ nhỡ… Thì ra ai giúp người nghèo là giúp Chúa. Ai bỏ rơi người nghèo là bỏ rơi Chúa. Trong ngày phán xét chung, không thấy vị Vua đề cập tới những chức tước, địa vị đạo đời của chúng ta hoặc những công lao lẫy lừng chúng ta đã làm khi sinh thời, nhưng Người nhấn mạnh đến cách chúng ta đối xử với anh chị em mình.
Từ khái niệm Vua được tuyên xưng trong phụng vụ hôm nay, chúng ta được mời gọi suy tư về những trách nhiệm khác nhau trong Giáo Hội cũng như xã hội. Một người mang chức vị quan trọng đạo đời không phải để hưởng thụ cá nhân, mà là để phục vụ người khác. Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình để tôn vinh Thiên Chúa và vì hạnh phúc của con người. Như Đức Giêsu đến đến để phục vụ con người, Giáo Hội không được quên sứ mạng quan trọng mà Chúa đã trao phó là phục vụ và đem cho con người mọi thời đại ánh sáng Tin Mừng. Lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ cũng nhắc nhớ chúng ta, mỗi người cũng được mời gọi tham gia vào công cuộc xây dựng Giáo Hội, vì nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được Chúa ban ba sứ mạng quan trọng: làm ngôn sứ, làm tư tế và làm “vua” để cộng tác phần mình làm cho cộng đoàn Giáo Hội địa phương lớn mạnh.
Người tín hữu sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Họ là công dân của một vương quốc vĩnh cửu. Vương quốc ấy đang hiện diện trên thế gian như “vương quốc của Tình yêu, vương quốc của Sự thật”. Vương quốc ấy sẽ tỏ hiện hoàn toàn khi mọi sự được đặt dưới chân Chúa Giêsu là Vua muôn loài (Bài đọc II). Đó là lý tưởng và đích điểm cuộc sống của chúng ta. Đó cũng là Thiên Đàng, là hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài.
Thánh Gioan kể lại thị kiến về cuộc chiến cánh chung thứ nhất: Một con ngựa trắng và người cưỡi TN 34-ABC250
Thánh Gioan kể lại thị kiến về cuộc chiến cánh chung thứ nhất: Một con ngựa trắng và người cưỡi ngựa tên là Trung Thành và Chân Thật, Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: “Vua các vua, Chúa các chúa” (Kh 19, 11 và 16). Trước khi bị hành quyết vì “tội” là Linh Mục Công Giáo, cha Miguel Agustin Pro (1891–1927, Dòng Tên) vẫn hiên ngang hô vang: “Viva Cristo Rey! – Vạn tuế Đức Vua Kitô!” Tạ ơn Chúa luôn ban cho những tấm gương sáng cho tín nhân soi vào để củng cố Đức Tin!
Chân thành thân thưa, Thánh Vịnh gia xác định: “Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy, con nghe được hai điều, rằng: Ngài nắm quyền uy và giàu lòng nhân hậu; rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người” (Tv 62, 12-13). Đó là điều rạch ròi và chắc chắn, vì Ngài KHÔNG THIÊN VỊ bất cứ ai (Đnl 10, 17-18; Hc 35, 12; Lc 20, 21; Cv 10, 34; Rm 2, 11; Gl 2, 6; Ep 6, 9). Chúa Giêsu xác định: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho Người Con MỌI QUYỀN XÉT XỬ” (Ga 5, 22).
QUỐC VƯƠNG ĐỆ NHẤT
Trong một quốc gia thời quân chủ, quyền tối thượng thuộc về vua. Theo trật tự xã hội, người ta “quy ước” là Quân-Sư-Phụ – thứ nhất là vua, thứ nhì là thầy (người dạy), thứ ba mới là cha mẹ. Vua được tôn xưng là Đức Vua, là Hoàng Đế, là Thánh Thượng, và tất nhiên cũng nắm quyền lực cao nhất – bao hàm cả quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Không chỉ vậy, vua còn mệnh danh là Thiên tử – con của Trời, thần dân phải phụng mệnh tối đa, tuân thủ “tối mặt”. Vua bảo chết mà chết mới là trung thần. Đúng là “hết ý” luôn!
Trong mười hai con giáp, rồng là con vật quý – dù chỉ là con vật do tưởng tượng, nhưng mọi thứ của vua đều được trân trọng là “rồng”: Long nhan, long thể, long bào, long mão, long sàng,…
Chúng ta biết rằng thời phong kiến theo chế độ “tông pháp” (cha truyền con nối), vua trị vì tới mãn đời. Vua có khi chỉ là một thiếu niên, và sẽ làm vua cho đến chết, gặp phải ác vương thì dân vô cùng khốn khổ. Vua có “quyền” nên thỏa sức “hành” người ta, vì thế vua nào cũng có có “máu ác”, thế mà vẫn được xã hội mặc nhiên chấp nhận, ít có những ông vua đức độ như vua Nghiêu và vua Thuấn của Trung Quốc, làm thiên hạ thái bình, hoặc như các vua Trần Nhân Tôn và Lê Thánh Tôn của Việt Nam; qua thời dân chủ thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người khiến dân Việt tiếc thương hoài, tưởng nhớ mãi.
Lịch sử cho thấy rằng minh quân thì hiếm, hôn quân (vua ác) thì nhiều. Trung Quốc có Tần Thủy Hoàng, Vạn Lý Trường Thành của ông vua này đã hao tổn bao sinh mạng của dân lành; Việt Nam có vua Lê Long Đĩnh, với “biệt danh” là Ngọa Triều (“ngọa” là nằm, “triều” là triều chính, ông này ăn chơi sa đọa đến nỗi không ngồi được nên phải nằm mỗi khi ngự triều), ông ta còn có thú vui độc ác là “róc mía trên đầu nhà sư” và “mổ bụng các thai phụ để xem thai nhi thế nào”; vua Shah Jahan của Ấn Độ đã xây đền Taj Mahal bằng cẩm thạch (một trong những kỳ quan thế giới) để tưởng nhớ người vợ thứ ba là Mumtaz Mahal, nhưng khi đền này xây xong, ông ra lệnh chặt tay tất cả những người thợ để họ không thể xây ngôi đền nào khác đẹp như vậy. Ác nhân luôn vui thú với sự ác độc của họ, càng nghĩ ra các trò ác thì họ càng thấy vui.
Việc bách hại Kitô hữu cũng theo quy trình tương tự. Thời xưa, đế quốc Rôma đã từng “làm mưa, làm gió” một thời, biết bao tín hữu bị phanh thây, xẻ thịt! Người Công giáo Việt Nam cũng bị hành hạ suốt ba thời ác vương: Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức. Hàng trăm ngàn tín nhân đã chết không toàn thây để anh dũng minh chứng niềm tin tuyệt đối vào Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh.
Từ cổ chí kim, luôn có những ác vương trên khắp thế giới. Thế nhưng thần dân vẫn phải tán tụng họ là “hoàng thượng anh minh”. Thậm chí khi muốn tấu trình thì phải “muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu với cái bệ rồng của vua ngồi chứ không được tâu thẳng nhà vua, thậm chí còn không được nhìn mặt vua, ai nhìn là phạm tội “khi quân”.
Ngày nay chỉ còn vài quốc gia theo chính thể quân chủ, nhưng không “thuần túy” như xưa. Người đứng đầu một quốc gia ngày nay gọi là tổng thống, chỉ tại chức theo nhiệm kỳ vài năm. Ngày xưa vua tàn ác minh nhiên, dễ thấy; còn ngày nay, người đứng đầu một nước cũng vẫn có người ác độc, nhưng bằng các động thái khác và “tinh vi” hơn nhiều, rất khó phát hiện. Mà có phát hiện thì cũng chẳng làm gì được, bởi vì phe nào cũng có “vây cánh” cả rồi!
THIÊN VƯƠNG NGỰ ĐẾN
Đệ nhất quốc vương hoặc tổng thống cũng chỉ là phàm nhân, nghĩa là vẫn sai lầm và dân vẫn chịu khổ. Vì thế người ta mong chờ Thiên Vương để đòi lại công bình cho họ. Ngôn sứ Đanien kể: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện” (Ðn 7, 13). Đó là hình ảnh liên quan thời điểm niên tận thế cùng – Ngày Tận Thế, Ngày Cánh Chung. Chính lúc đó mọi người tỏ tường mọi thứ, là lúc yết kiến Thiên Vương, và cũng là lúc phải trình diện Vua Muôn Đời.
Và rồi lúc đó, “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị”, còn “muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Ðn 7, 14a), thậm chí quỷ vương cũng phải tâm phục khẩu phục mà bái lạy Người là Vua các vua, là Chúa các chúa, như Kinh Thánh đã nói: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (Gióp 2, 1). Đó là đặc quyền, độc nhất vô nhị: “Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7, 14b).
Theo thị kiến của ngôn sứ Đanien, Con Người ngự giá mây trời đó chính là Đức Kitô, là Vị Vua hoàn toàn khác thường về mọi thứ: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93, 1-2). Vì thế, Ngài chính là Đệ nhất Thiên Vương mà chúng ta hằng mong đợi, đồng thời cũng phải tôn thờ và tôn vinh: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93, 5). Vạn tuế Thiên Vương Kitô!
Không chỉ có vậy, chúng ta còn phải cầu nguyện: “Xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen!” (Kh 1, 5-6). Thánh Gioan cũng thị kiến “Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1, 7a), điều đó cho thấy về Ngày Tận Thế, ngày mà Đức Kitô đến xét xử thế gian, vẫn đang diễn tiến từng ngày. Và rồi “ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!” (Kh 1, 7b). Kẻ lành và kẻ dữ đều diện kiến Ngài, nhưng cuộc sống vĩnh hằng của họ lại hoàn toàn khác nhau: Người lành được làm công dân Nước Trời vĩnh hằng, còn kẻ ác làm đệ tử Luxiphe đời đời.
Là Thiên Chúa duy nhất, hằng hữu và hằng sống, Ngài xác định: “Ta là Anpha và Ômêga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1, 8). Và mãi mãi Ngài vẫn là thế, vĩnh hằng bất biến: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13, 8).
THIÊN VƯƠNG THƯƠNG XÓT
Trình thuật Ga 18, 28-37 mô tả một phiên tòa bất công – vì kẻ ác lại kết án tử một người công chính. Hôm đó, ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu tới và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp mà đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Ông Philatô nói: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”.
Chúa Giêsu rạch ròi hai lần xác định: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Chắc hẳn tổng trấn Philatô không thể hiểu ý Chúa, thế nên ông ta liền hỏi lại: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu không hề tự nhận là vua, và thản nhiên nói: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Rồi Ngài nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Ngài là Người-của-Sự-Thật, là Nhân-Chứng-Chân-Lý, Ngài không đấu tranh cho chính Ngài mà đấu tranh vì công lý và hòa bình của nhân dân, dù người đó sống tốt lành hay tội lỗi. Lòng thương xót của Chúa Giêsu bao la vô tận: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1Sb 16, 34 và 41; 2Sb 5, 13; 2Sb 7, 3 và 6; Er 3, 11; Tv 100, 5; Tv 106, 1; Tv 107, 1; Tv 118, 1-4 và 29; Tv 136, 1-26).
Nếu nói về Vương Quốc Chân Lý, Ngài là Vua Sự Thật. Tuy là Thiên Vương đệ nhất nhưng Ngài lại luôn động lòng trắc ẩn, như vậy Ngài chính là Đức Vua Thương Xót. Thế mà những kẻ ác lại tự nhận mình là công chính để rồi xét xử Người-Vô-Tội. Thiết nghĩ cũng nên biết điểm “chú thích” này: Tại dinh Caipha, một mình Chúa Giêsu phải đối mặt với hội đồng xét xử gồm 71 người – trong đó có 23 Tư tế, 23 Luật Sĩ, 23 Kỳ Lão, với hai vị chánh và phó chủ tịch. Ôi, thật kinh khủng!
Đề cập vua chúa thế gian và quyền hành trần tục, có lần Chúa Giêsu đã nói: “Thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân” (Mt 20, 25). Người có thế quyền và thế lực hành xử như vậy, bắt người khác quy phục, còn Chúa Giêsu không dùng uy quyền và thế lực để đàn áp người khác, không lạm dụng uy tín và chức vụ để thị uy hoặc bóc lột người khác, mà ngược lại, Ngài phục vụ chứ không bắt người khác phục vụ (x. Mt 20, 28; Mc 10, 45). Ngài không chỉ là Vua của các vua mà còn là Vua Khiêm Nhường và Nhân Ái.
Xưa nay và mãi đến tận thế, chắc hẳn chẳng có ông vua nào dám làm như vậy, thậm chí đối với những kẻ nhẫn tâm giết Ngài mà Ngài vẫn bênh vực họ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Ngài thật lòng thương xót và thật lòng tha thứ chứ không miễn cưỡng hoặc vì ở thế việt vị.
Quả thật, Chúa Giêsu là Vị Vua “ngược đời” nhất thế gian, vì Ngài là Vua Trời nhưng đã tự hạ mình xuống thế gian để hòa nhập với thần dân. Chúng ta cũng “ngược đời”, nhưng ngược đời trái chiều với Vua Trời, vì chúng ta chỉ là bụi tro nhơ nhớp và hèn mọn, thế mà chúng ta lại muốn ở “trên mây”, nghĩa là nâng mình lên càng cao càng tốt – tức là kiêu ngạo, hợm mình, ảo tưởng. Nếu vậy thì chúng ta hoàn toàn đi ngược chiều với Đấng mà chúng ta tôn vinh là Thiên Vương, là Chúa Tể Càn Khôn, là Vua Trời Đất, là Vua Vũ Trụ. Hai người chuyển động ngược chiều thì chẳng bao giờ gặp nhau được!
Hôm nay nhìn lại chính mình, chúng ta học được chút gì ở Vua Giêsu về quyền hành, chức vụ, địa vị, cách phục vụ, sự tha thứ, tình yêu thương, lòng thương xót, cách nói, cách nhìn, cách đối nhân xử thế, …? Nhưng nên nhớ rằng học là một chuyện, và thuộc bài là một chuyện, còn thực hành bài học đó hay không lại là chuyện khác!
Kính mừng Đức Kitô là Vua Vũ Trụ cũng là lúc kết thúc Năm Phụng Vụ và năm đời thường, đồng thời là lời nhắc nhở về tận thế và sự chết, chúng ta cùng suy tư về ý tưởng độc đáo của tộc trưởng Aupumut – bộ lạc Mohican: “Vào giây phút ra đi, ĐỪNG để trái tim mình ngập tràn nỗi sợ hãi, khóc than, nhưng HÃY cầu nguyện như thể được ban tặng một cuộc đời nữa để sống khác đi, HÃY hát bài ca chào cái chết, và ra đi giống như một người hùng quay trở về cố hương”.
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, đầy uy quyền nhưng rất mực khiêm nhường, có quyền ném vào lửa đời đời nhưng đầy tình thương xót, chúng con thành kính phủ phục để thú tội vì chúng con quá tồi tệ. Cúi xin Ngài xót thương và tha thứ cho chúng con, xin giúp chúng con sống đúng theo Ý Ngài muốn, xin Ngài mãi mãi là Vua cai trị cuộc đời chúng con, và ban cho chúng con được hưởng Ơn Cứu Độ muôn đời. Amen.