Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 TN-A Bái 151-200: Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng
------------------------------------------ Phúc Âm: Mt 20, 1-16a: “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy. Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”. Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục lục:
Ở đời người ta dễ đau xót, tiếc nuối khi mất của, mất tiền nhưng chẳng mấy ai xót thương người khổ TN 25-A151
Ở đời người ta dễ đau xót, tiếc nuối khi mất của, mất tiền nhưng chẳng mấy ai xót thương người khổ đau. Có một câu chuyện thời trung cổ kể rằng, trong quá trình xây dựng tháp Babel, khi một người đàn ông ngã xuống và chết, không ai nói gì. Cùng lắm người ta nói: “Tội nghiệp, ông ta trượt chân và ngã.” Ngược lại, nếu một viên gạch rơi xuống, mọi người sẽ phàn nàn và tiếc của. Vì sao? Bởi vì một viên gạch tốn tiền để làm, để chuẩn bị, để nung, vv.. Người ta tiếc một viên gạch vì phải mua. Một viên gạch đáng giá hơn mạng người.
Và dường như điều đó cũng đang diễn ra trong thế giới ngày nay. Nhất là trong khủng hoảng vì đại dịch Covid. Hàng ngàn người đang chết vì đói, vì đau khổ nhưng không ai nói về họ.Các báo chí phàn nàn vì công ty phá sản, vì hàng hóa bán không được, vì sản phẩm phải vất bỏ đi. . . .
Trên trang mạng ta vẫn thấy người bị tông xe nằm đó còn người gây tai nạn thản nhiên gọi điện thoại cho ai đó? Có khi chỉ vì một con chó bị ăn cắp liền kéo cả làng hùa ra đánh chết một mạng người. Và rồi, cuộc sống ngày càng thiếu thốn khiến kẻ cướp cũng hung bạo hơn nên dễ dàng cướp đi sinh mạng một người chỉ để lấy một sợi giây chuyền với giá vài trăm đồng!
Đây cũng là điều băn khoăn của Đức Thánh Cha Phanxico về viễn tượng tương lai. Ngài nói rằng đã gọi là khủng hoảng sau Covid thì đương nhiên phải có dư chấn gây ảnh hưởng lớn cho sự thay đổi. Ngài nói: “Đại dịch là một cuộc khủng hoảng. Chúng ta sẽ ra khỏi đại dịch tốt hơn hoặc tệ hơn. Chúng ta phải chọn. Và liên đới chính là con đường để thoát khỏi đại dịch tốt hơn, không phải với sự thay đổi bên ngoài, với một lớp sơn như thế này và mọi thứ đều ổn”. Thế nên, người ky-tô hữu phải luôn đặt câu hỏi rằng: tôi có nghĩ đến các nhu cầu của tha nhân không? Nếu chúng ta nghĩ đến tha nhân thì hãy loại bỏ tính ích kỷ, ghen tương để sống liên đời và chia sẻ cho nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn của tình liên đới và cảm thông với nhau. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. . . Không nên buồn rầu vì người khác học lực kém hơn mình mà lại giầu có chẳng thua ai! Hãy cùng nhau tạ ơn Chúa, và cùng giúp nhau để ai cũng có của ăn, ai cũng có đầy đủ phương tiện để sống đúng với phẩm giá con người.
Nếu chúng ta không giúp được anh em thoát khỏi cơn khủng hoảng của nghèo đói, của thất nghiệp thì hãy tạ ơn Chúa, vì Ngài quá tốt lành đã lo liệu cho con cái của Ngài đều có của ăn dư đầy.
Dụ ngôn về những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, nhưng đều được ông chủ trả cho 1 đồng tiền công. Đây là lòng tốt của ông chủ. Ông chủ đối xử với người làm công theo cái tình chứ không phải cái lý. Mà thực ra đã là thương xót thì không còn đứng trong ranh giới công bình. Ông chủ cho ai bao nhiêu là tùy lòng tốt và khả năng của mình.
Thế nhưng, trong dụ ngôn ta thấy những người làm trước lại có thái độ ghen tức với đồng loại và khó chịu với chủ. Họ làm 12 tiếng được một đồng và người làm vài tiếng, thậm chí 1 tiếng cũng được như họ. Họ đã không thể vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Họ chỉ biết mình và chỉ muốn mình có và bực tức khi anh em cũng có được như mình!
Vậy thì ông chủ có bất công không? Chắc chắn là không. Vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận tức là 1 đồng. Chính ông chủ trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông ta bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành. Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng. Trọng tâm của dụ ngôn là việc phân phát lương bổng lúc cuối ngày.
Thế giới hôm nay cần liên đới để cùng với Đấng tạo hóa mà chỉnh đốn lại những mất mát sau đại dịch. Đại dịch sẽ làm cho nhiều ngừới mất việc và đói nghèo. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy chia sẻ công việc cho anh em. Dù họ làm 1 tiếng hay hai tiếng cũng là cách để san xẻ và giúp đỡ cho nhau có cái ăn cái mặc.
Xin Chúa gíup chúng ta cũng có lòng quảng đại để xan sẻ cho nhau, để cùng dìu nhau qua khó khăn. Xin Chúa ban cho xã hội có nhiều tấm lòng quảng đại để nâng đỡ nhiều người đang rơi vào khủng hoảng của đói nghèo và thất nghiệp. Xin cho chúng ta dám loại bỏ tính ghen tương ích kỷ để cùng nhau cảm tạ về những ơn lành Chúa ban. Amen
Con người yêu mến sự khôn ngoan nên không ngừng tìm kiếm những giải pháp khôn ngoan nhất TN 25-A152
Con người yêu mến sự khôn ngoan nên không ngừng tìm kiếm những giải pháp khôn ngoan nhất cho các vấn nạn của cuộc đời. Có nhiều người bỏ cả cuộc đời để nghiên cứu, để đề xướng, để sống và chết cho lý tưởng mình cưu mang, chẳng hạn: các triết gia của các môn phái duy linh (Plato), duy lý (Descartes), duy vật (K. Marx, ông tổ của chủ nghĩa cộng sản), hiện sinh (Hegel)… Các học thuyết họ đề xướng được mọi người hoan nghênh đón nhận trong một thời gian rồi cũng dần dần lui vào bóng tối vì không giải quyết được tòan bộ các vấn nạn của cuộc đời. Chỉ có cuốn Kinh Thánh vẫn tồn tại từ bao ngàn năm qua vì nó cung cấp cho con người sự khôn ngoan đích thực đến từ Thiên Chúa, là nguồn gốc mọi sự và cùng đích mọi lòai. Bài đọc I hôm nay giới thiệu cho chúng ta một sự khôn ngoan trên hết mọi khôn ngoan, đó là sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa. Thánh Phaolô sẵn sàng chấp nhận những gì mà thế gian cho là điên rồ: đau khổ và chết cho Tin Mừng. Phúc Âm dạy chúng ta lòng thương xót và rộng lượng của Thiên Chúa trong cách đối xử với con người, nhất là những người kém may mắn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khôn ngoan của Thiên Chúa và của con người.
Tiên tri Isaiah so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa với sự khôn ngoan của con người trong việc đối xử với kẻ gian ác: Theo cách cư xử con người, “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Exo 21:24; Lv 24:20). Kẻ giết người phải chịu tử hình; có ăn năn cũng muộn rồi. Theo cách cư xử của Chúa, Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn họ bỏ tư tưởng và đường lối họ đang theo mà trở về để được Người xót thương tha thứ.
Con người thường có khuynh hướng lọai suy: Họ lấy sự suy nghĩ và tiêu chuẩn của con người để áp dụng cho Thiên Chúa. Tiên tri Isaiah phản đối cách suy diễn này khi tuyên sấm cách xác quyết về vị thế của Thiên Chúa: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.”
Không phải chỉ có sự khác biệt về khôn ngoan giữa Thiên Chúa và con người, nhưng nhiều khi còn hòan tòan đối ngược nhau! Giữa Thiên Chúa và con người có một khỏang cách bao la như khỏang cách giữa trời và đất; và không có một khôn ngoan nào trên trần thế có thể so sánh được với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, như lời Ngài phán: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
2/ Bài đọc II: Khôn ngoan của thánh Phaolô: muốn được chịu gian khổ và chết cho Tin Mừng.
Con người thường có khuynh hướng trốn tránh đau khổ và sợ chết, nhưng thánh Phaolô lại muốn được chịu đau khổ vì Tin Mừng và hy vọng được chết để làm chứng cho Chúa. Lý do: Đối với con người không có đức tin, chết là hết, là đi vào cõi tiêu diệt; nên họ sợ đau khổ và sợ chết. Còn đối với thánh Phaolô, chết là một mối lợi vì sẽ được về chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa, nên ngài mong muốn được chết.
Tuy muốn chết để về với Chúa, nhưng vì lòng nhiệt thành vì Tin Mừng, ngài cũng muốn sống để làm ích tha nhân. Ngài băn khoăn giữa cái chết và cái sống: Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần, nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em.
Sau cùng, thánh Phaolô đã đi tới kết luận là ngài không cần phải lo lắng chọn đàng nào, nhưng đặt trọn vẹn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình và cũng không ai chết cho chính mình. Nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết là chết cho Chúa. Vì thế, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa” (Rom 14:8). Ngài khuyên các tín hữu Philipphê bao lâu còn sống hãy sống làm sao cho xứng đáng với Tin Mừng đã lãnh nhận: “Hãy luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một lòng một dạ chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em.”
3/ Phúc Âm: Lòng thương xót của Thiên Chúa và sự ghen tị của con người.
3.1/ Lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài muốn mỗi người có việc làm để sinh sống. Có mấy điều chúng ta cần hiểu trước khi tìm ra ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay:
– Giờ làm việc bên Do-Thái là từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Giờ thứ nhất tương ứng với 6 giờ sáng, giờ thứ ba là 9 giờ sáng, giờ thứ sáu là 12 giờ trưa, giờ thứ chín là 3 giờ chiều, giờ mười một là 5 giờ chiều, và giờ mười hai là 6 giờ chiều (hết giờ làm việc).
– Thợ làm thuê: họ làm tùy theo nhu cầu mỗi ngày. Hôm nào không có ai thuê là không có tiền để sinh sống. Họ thường tập họp tại những chỗ công cộng như chợ búa để người thuê dễ dàng nhận ra.
– Tiền công nhật mỗi ngày là một quan tiền (khỏang 8 dollars một ngày). Đây là mức sinh sống tối thiểu của một gia đình.
– Mùa nho chín của Do-Thái rơi vào tháng 9, và phải hái hết trong tháng 9 trước khi mùa mưa đến, nếu không nho sẽ bị ủng thối. Chủ vườn rất cần thợ dẫu chỉ làm ít tiếng trong ngày.
Chúa ví Nước Trời giống như chuyện gia chủ vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Có những người được mướn làm từ đầu ngày, có người được mướn trễ hơn 3, 6, 9 tiếng. Có những người được mướn chỉ làm một tiếng. Điểm chính ở đây là tất cả mọi người đều được kêu gọi để làm việc, chứ không chỉ dành cho một số người mà thôi. Những người được mướn trễ không phải vì họ lười biếng, nhưng vì không ai mướn họ. Nước Trời cũng thế, có những người được Chúa chọn ngay từ ban đầu như những người Do Thái. Có những người được chọn khi Chúa Giêsu sai các Tông Đồ đi rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ các nước lân cận của Do-Thái như Syria, Lebanon, Turkey, Jordan, Egypt… Có những người được đón nhận Tin Mừng nhờ các nhà truyền giáo từ những nước này như Việt-Nam, Thái Lan, Lào… Sau cùng, vẫn có những người được chọn trước khi Ngày Phán Xét tới.
3.2/ Sự rộng lượng của Thiên Chúa: Ông chủ muốn trả lương tất cả mọi người đồng đều vì ông muốn tất cả đều có một số tiền tối thiểu để sinh sống. Ông không đối xử bất công với những người làm từ đầu vì ông đã thỏa thuận lương với họ và họ đã bằng lòng. Cũng vậy trong kế họach cứu độ của Thiên Chúa. Ngài không đối xử bất công với người Do-Thái khi cho những Dân Ngọai vào Nước Trời.
3.3/ Sự ghen tị của con người: Vì phải lãnh luơng sau cùng nên những người đã làm từ đầu nghĩ mình sẽ được lãnh lương nhiều hơn; nhưng khi thấy mình cũng chỉ được một quan nên họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Cách đối xử của ông chủ là lời cảnh tỉnh cho các môn đệ: Đừng đòi hỏi đặc quyền vì đã làm môn đệ Chúa từ đầu. Nó cũng là lời cảnh tỉnh cho dân Do-Thái: Họ hãnh diện vì được chọn làm dân riêng của Chúa ngay từ đầu, và khinh thường Dân Ngọai là những người không đáng được nhận vào làm dân Chúa. Đó cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người: Đừng đòi hỏi phải được đối xử đặc biệt vì đã theo Chúa lâu năm, đã làm cho Chúa nhiều hơn. Sau cùng, trong con mắt đức tin: một em bé mới sinh qua đời cũng được hưởng Nước Trời như một cụ già sống lâu trăm tuổi.
3.4/ Thái độ con người khi làm việc: vì phần thưởng hay vì lòng “mến Chúa yêu người”? Nếu con người làm việc vì phần thưởng hay tiền công, họ đã được trả công hay lãnh nhận phần thưởng ngay ở đời này. Nhưng nếu họ làm vì lòng “mến Chúa yêu người,” họ sẽ được Thiên Chúa thưởng công xứng đáng ở đời sau. Những người đến làm việc từ đầu ngày, họ đã thỏa thuận với chủ về lương bổng; trong khi những người đến làm sau, họ nghe lời chủ đi làm và trông cậy hòan tòan vào lòng thương xót của chủ sẽ trả công cho họ xứng đáng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải luôn nhớ: Đừng bao giờ lấy tiêu chuẩn của con người áp dụng cho Thiên Chúa trong tư tưởng, cách suy nghĩ, cũng như trong hành động. Nếu muốn học khôn ngoan, thì không có khôn ngoan nào của con người có thể so sánh với khôn ngoan của Thiên Chúa. Hãy để giờ tìm kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa trong Kinh Thánh thay vì những sách vô bổ của thế gian này.
– Sống là sống cho Chúa và tha nhân. Chết là về với Chúa. Đừng sợ đau khổ và ngay cả cái chết để làm chứng cho Tin Mừng.
– Chúng ta phải có lòng thương xót và rộng lượng như Thiên Chúa trong cách đối xử với tha nhân, chứ không phải chỉ sống công bằng là đủ. Đừng đòi hỏi được hưởng đặc quyền vì đã đến trước và đừng ganh tị khi thấy người khác được hưởng đặc ân.
– Làm việc vì lòng mến Chúa yêu người chứ không làm vì bất ký lý do nào khác. Nếu làm vì các lý do khác, chúng ta đã được lãnh ở đời này rồi. Nếu làm vì lòng mến Chúa yêu người, Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ta xứng đáng.
Đang thất nghiệp mà có người tạo công ăn việc làm cho, lương bổng cũng được, ai chẳng mừng. Bài TN 25-A153
Đang thất nghiệp mà có người tạo công ăn việc làm cho, lương bổng cũng được, ai chẳng mừng. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh Nước Trời như một vườn nho mênh mông, lúc nào cũng cần công nhân. Vườn nho ấy có ông chủ thật tốt bụng mong muốn cho có nhiều thợ vào làm. Tất nhiên việc tạo công ăn việc làm cho người khác cũng đem lại lợi ích cho ông, nhưng điều lớn hơn mà ông nhắm đến là mang lại niềm vui cho những người cần được giúp. Ông vui niềm vui của họ, cảm thấy vườn nho vừa đem lại sức hấp dẫn mà cũng nhờ đó đem lại niềm vui cho cả hai, ông và những người thợ. Không chỉ những người sáng sớm ra ông gặp, mà còn biết bao người khác đang lâm vào tình trạng bị “bơ vơ”, bị lọai ra ngòai không có ai nhìn đến. Ông muốn cứu tất cả, giúp tất cả những người đang mất phương hướng trong cuộc đời, dù là giữa trưa hay chiều tà. Những người gặp ông trong cuộc sống đều được ông tạo cơ hội để trở thành công nhân của vườn nho hạnh phúc.
Chuyện diễn tiến đẹp như mơ khi những người thợ, chiều đến, dứt giờ làm được ông chủ mời đến lãnh phần lương bổng đáng có. Thế nhưng, lại chữ nhưng bất ngờ. Những người vào làm sớm nhất lãnh số lương theo hợp đồng, hẳn không hẹp hòi gì, một quan tiền, đủ để ăn và dư dả để sống. Điều đau và bực tức cho họ là khi đứng theo dõi ông chủ phát lương, họ nhận ra ông chủ bất công, thiên vị những người đến sau, kể cả những người chỉ mới vào làm trước đó một giờ (Chắc vào lúc 4 giờ chiều như thời gian lao động hiện nay). Những người vào sau, làm ít, không vất vả như họ thế mà cũng được lãnh một quan tiền. Họ bèn lên tiếng phàn nàn, thậm chí phản đối vì việc đối xử lạ lùng chưa từng thấy trong cuộc đời. Họ cho rằng ông thiếu công bằng, lầm lẫn hay… tâm thần?: ”Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt“. Những người lên tiếng cảnh báo ông chủ, những tưởng ông sẽ xem lại mà thưởng cho họ ít nhiều hơn số tiền đã lãnh. Nhưng ông từ tốn trả lời: ”Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi. Còn tôi, tôi muốn cho người làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đọat về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức“. Quả thật, thái độ của ông chủ này thật khác người. Từ xưa đến nay chưa gặp bao giờ. Thế nhưng ông nói đúng, mình không thể đòi ông phải theo ý mình. Ông không hề vi phạm hợp đồng, không hề cắt bớt đi phần mình có; chỉ có điều ông làm như thế là… kỳ cục quá. Giá mà ông tốt với mình như với những người đến sau thì hay biết mấy…
Lạy Chúa,
Suy nghĩ của những người đến trước cũng là suy nghĩ của con. Sở dĩ họ lên tiếng vì như ông chủ vuờn đã nói trúng tim đen của họ và của con, đó là “Sự ghen tức”. Thói xấu này chẳng chỉ riêng ai. Bao lần trong cuộc đời con đã từng thể hiện, khi công khai, lúc ngấm ngầm khi thấy người khác được trọng dụng hơn con. Bực tức khi con có thâm niên, có năng lực trong sở làm; vậy mà những người mới vào làm ít năm lại được cất nhắc làm sếp. Bao năm tận tụy trong nhà Chúa, giữ đạo cả một đời thế mà gia đình vẫn lận đận không khá lên được, còn những người ngọai, người tân tòng kia sao Chúa lại thương cho họ hơn con.
Ghen tức, đố kỵ đang tồn tại trong bản thân con. Con không nhận ra tình thương yêu, lòng thương xót, bao dung, rộng lượng, nhân từ của Chúa mà chỉ chăm chăm nhìn đến bản thân mình; rồi so đo, tính tóan. Xin Lời Chúa hôm nay giúp con tự cảnh tỉnh mình. Biết tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban “Đủ cho con“, đồng thời cũng tạ ơn Chúa khi lòng yêu thương của Người luôn đổ tràn trên trái đất này. Mỗi người sẽ được Chúa sắp xếp với khả năng và thiện chí của mình để phục vụ Chúa và giúp ích mọi người.
Khi đọc Kinh Thánh, đôi khi chúng ta thấy. Chúa là Đấng công bằng, thưởng phạt rạch ròi. Ngài TN 25-A154
Khi đọc Kinh Thánh, đôi khi chúng ta thấy Chúa là Đấng công bằng, thưởng phạt rạch ròi. Ngài giống như vị quan tòa, nghiêm minh khi xét xử. Trong chương 25 của Tin Mừng Mát-thêu ta thấy Ngài đóng cửa không cho năm cô trinh nữ dại khờ vào dự tiệc, vì họ đi mua dầu để thắp đèn nên về trễ; Ngài quẳng tên đầy tớ lười nhác vào chỗ tối tăm vì anh ta không đầu tư mà lại chôn giấu yến bạc dưới đất; Ngài tống vào lửa đời đời để chịu cực hình muôn kiếp những ai đã không giúp đỡ các anh em bé nhỏ nhất của Ngài. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Thiên Chúa không chỉ là Đấng công bằng (dikaios, Mt 20,5.13) mà còn là Đấng tốt lành (agathos, Mt 20,15). Ngài là ông chủ vườn nho, ra chợ một ngày năm lần, đích thân tìm thợ và đưa họ về làm việc, hứa trả lương công nhật đúng theo tiêu chuẩn đã định. Lòng tốt của ông chủ biểu lộ khi ông thấy những người thợ cứ đứng chờ ngoài chợ vì không có ai mướn. Vẫn luôn luôn có những người đứng chờ như thế cả ngày: lúc 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, rồi lúc 3 giờ và 5 giờ chiều. Lần nào ra chợ ông chủ đều gặp họ. Lần nào gặp họ ông chủ đều mời họ đi làm cho mình (Mt 20,5). Khi chỉ còn một tiếng nữa là hết ngày lao động, ông chủ vẫn tiếp tục ra chợ, vẫn thấy những người đứng chờ. Ông trò chuyện, hỏi thăm lý do khiến họ cứ đứng không như vậy. Khi biết chẳng ai mướn họ, ông chủ liền kêu họ làm cho mình. Những người được mướn vào lúc 5 giờ chiều chắc vui lắm, vì ít ra họ cũng kiếm được chút đỉnh để nuôi vợ con. Niềm vui của nhóm thợ cuối cùng được nhân lên gấp bội khi họ là những người đầu tiên được lãnh lương, và đã được trả lương cả ngày, dù chỉ làm có một tiếng. Niềm vui của nhóm thợ lúc 5 giờ chiều lại gây sự hụt hẫng cho nhóm thợ làm từ 6 giờ sáng, vì cuối cùng, họ cũng chỉ nhận được một quan. Họ cằn nhằn về lối cư xử bất công của ông chủ: một người làm vất vả nắng nôi cả ngày được trả lương bằng một người khác làm có một tiếng. Ông chủ gọi họ là “bạn,” và cho biết mình không bất công vì đã trả cho họ theo như hai bên đã “thỏa thuận” (Mt 20,2.13). Ông còn khẳng định ông có quyền làm điều mình muốn. Ông có quyền cho những người cuối như những người đầu. Ông có quyền sử dụng những gì ông có theo lòng tốt của ông. Lòng tốt ấy vượt lên trên công bằng, nhưng không phải là bất công. Không ai được phép ganh tỵ vì thấy ông quảng đại. Thiên Chúa không chỉ công bằng mà còn tốt lành, vì Ngài có trái tim. Ngài thương những người đứng chờ cả đời, những người tìm kiếm mà chưa bao giờ gặp, những người liên tục gặp thất bại và vấp ngã trong đời. Ngài thương những người đến sau, đến chậm hơn người khác, và Ngài thi ân cho sự chờ đợi, tìm kiếm tưởng như vô ích của họ. Trên thiên đàng có nhiều người thợ vào giờ thứ 11, tức 5 giờ chiều, có nhiều anh trộm lành được cứu độ vào giờ phút chót. Thiên Chúa luôn làm chúng ta ngỡ ngàng vì những món quà bất ngờ. Ngài không chỉ công bằng mà còn tốt lành, vì Ngài có trái tim. Cầu nguyện Lạy Chúa, việc tông đồ của con phải là việc diễn tả lòng tốt. Để khi thấy con, người ta phải nói: “Vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.” Và nếu có ai hỏi con, tại sao con lại hiền lành và tốt như thế, con sẽ trả lời, vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều. “Ước chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!” Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói: “Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt biết chừng nào!” (Chân phước Charles Foucauld)
Trong cuộc sống đời thường, người ta hay nói đến công bằng như một lý tưởng phấn đấu và TN 25-A155
Trong cuộc sống đời thường, người ta hay nói đến công bằng như một lý tưởng phấn đấu và là một điều kiện căn bản để xây dựng một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Tuy vậy, ở đời này không bao giờ có công bằng tuyệt đối. Bởi lẽ ngay khái niệm công bằng cũng được hiểu rất khác nhau, tuỳ theo quan điểm chính trị, văn hoá và xã hội của con người.
Thiên Chúa là Đấng công bằng. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta như thế. Tác giả Thánh vịnh đã viết: “Quả thật Chúa là Đấng công bằng, ưa thích điều chính trực; những kẻ sống ngay lành được chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 10,7). Không chỉ công bằng, nơi Chúa còn có tình thương và lòng nhân hậu. Ở đời này, hiếm thấy công bằng và tình thương đi đôi với nhau. Dân gian ta thường nói: “Thương em anh để trong lòng, việc quan anh cứ phép công anh làm”. Điều đó cho thấy đã công bằng thì không (hoặc rất khó) mà có tình thương và không có sự nể nang tình nghĩa. Đây cũng là điều cần thiết bởi nếu không xã hội sẽ rối loạn như giao thông không có đèn hiệu.
Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay chứng minh cho thấy: Thiên Chúa vừa công bằng và tràn đầy tình thương. Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Những lời này dạy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, như Thiên Chúa là Đấng bao dung và quảng đại.
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, nhất là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu. Họ phê phán Chúa vì Người gần gũi những người tội lỗi và những kẻ bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương và phàn nàn bất mãn chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.
Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã đặt ra hai câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Họ giống như một số người có thái độ “ghen ngược” trong xã hội hôm nay, kêu ca phàn nàn trách móc trong khi mình không có quyền gì để làm những điều đó. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”. Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn cùng của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ” (Bài đọc I).
Những lo toan bận tâm thường ngày không thể cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gan ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).
Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chính là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.
Phải chăng ông chủ vườn nho không công bằng? Người làm công giờ thứ nhất cũng như nhiều người TN 25-A156
Phải chăng ông chủ vườn nho không công bằng?
Người làm công giờ thứ nhất cũng như nhiều người ngày nay thường cho rằng ông chủ vườn nho không công bằng, vì đã trả cho người làm giờ thứ mười một bằng người làm giờ thứ nhất.
Một điểm cần lưu ý, người chủ vườn nho đã thỏa thuận với người được thuê làm, họ chỉ làm công với giá một quan tiền một ngày; do đó ông chủ công bằng khi trả cho họ một quan tiền.
Ông chủ không thoả thuận gì với người làm giờ thứ 11, vì họ đâu có làm được bao nhiêu! Ông chủ vườn nho trả công cho họ một quan tiền một ngày chỉ với một giờ lao động, vì ông chủ vườn nho nhân từ, tốt lành, thông cảm với người làm vườn nho giờ thứ 11! Đó là một ơn cho người làm giờ thứ mười một.
Đáng lẽ người làm vườn nho phải thấy điều trên để “có cái nhìn đúng đắn” về ông chủ, nhưng thực tế lại không như vậy. Người chủ vườn nho bị hiểu lầm, bị cho là bất công. Một hành vi tốt của ông chủ, bị người ta giải thích lệch lạc!
Qua hành vi “hiểu sai” về ông chủ, người ta có thể hiểu biết hơn về người làm vườn nho giờ thứ nhất! Đáng lẽ người làm vườn nho giờ thứ nhất phải vui với người làm giờ thứ 11, thì ngược lại họ lại buồn phiền. Sở dĩ vậy vì họ ganh tị. Nếu họ hiểu đúng và nhận ra nét đẹp của ông chủ, thì họ đã vui với người làm giờ thứ 11!
Cái nhìn đúng hay sai về điều gì đó, làm cho một người buồn hay vui. Người có cái nhìn đúng đắn, là người chấp nhận thực tại và nhìn được nét tích cực của sự kiện đó. Người có cái nhìn đúng đắn, sống hạnh phúc hơn người có cái nhìn lệch lạc. Người làm vườn nho giờ thứ nhất, đã không phải lo lắng như người làm giờ thứ 11: “làm sao có tiền nuôi sống mình và những người thân trong ngày hôm nay?”; đáng lẽ người làm vườn nho giờ thứ nhất phải nhận ra điều này để cám ơn ông chủ đã thuê mình, nhưng họ lại không nhận ra! Họ không nhận ra sự thật, nên họ không hạnh phúc!
Nếu một người yêu nghề, say lao động, thì họ đã hạnh phúc trong công việc của họ. Người làm vườn nho giờ thứ nhất đã không yêu nghề say lao động, nên họ đã cực khổ “suốt ngày”! “Lao động là vinh quang”, chính trong lao động và nhờ công việc mà người ta triển nở hơn! Nếu ai đó không thay đổi chính mình để hạnh phúc trong công việc thường ngày của họ, thì đáng buồn biết bao vì họ không hạnh phúc ở giây phút hiện tại.
Người chủ vườn nho chính là Thiên Chúa
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, cho chúng ta biết Thiên Chúa ngay từ những giây phút đầu tiên của của cuộc đời. Chúng ta đã biết mục đích ý nghĩa đời người, không còn phải vất vả tìm kiếm như bao người hãy còn đang hoang mang đi tìm “con người sinh ra để làm gì, con người sẽ đi về đâu? cuộc đời có nghĩa gì không? tại sao con người lại khổ cực như vậy?”, ấy thế mà chúng ta không biết nhận ra để hạnh phúc, mà ngược lại chúng ta còn hay càm ràm than trách “giữ đạo là khổ, phải đọc kinh lần hạt, phải giữ các giới răn, phải cầu nguyện,...”. Đáng lẽ chúng ta phải tạ ơn Chúa đã cho chúng ta biết Chúa sớm, thì trái lại chúng ta lại hay càm ràm “tại sao những người biết Chúa sau lại được bằng chúng con, những người đã phải vất vả giữ đạo từ thuở nhỏ?!”. Hãy cẩn thận kẻo chúng ta là những kẻ làm vườn nho giờ thứ nhất vô ơn!
Nếu chúng ta nhận ra Thiên Chúa nhân từ, chắc chúng ta đã hạnh phúc hơn trong cuộc sống. Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn về đạo, hẳn chúng ta đã hạnh phúc hơn khi sống đạo, khi chúng ta “sống tốt, yêu Chúa yêu người”. Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa, hẳn chúng ta đã tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương cho chúng ta biết Chúa từ những giây phút đầu tiên của cuộc đời, và chắc chúng ta cũng đã hạnh phúc tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương cho bao người biết Chúa ở giây phút cuối đời của họ!
Dụ ngôn gây thắc mắc. Tại sao những công nhân làm sau cùng lại được hưởng lương bằng những TN 25-A157
Dụ ngôn gây thắc mắc. Tại sao những công nhân làm sau cùng lại được hưởng lương bằng những người làm từ sáng sớm? Như thế có công bằng không?
Nếu chúng ta là những công nhân làm từ sáng sớm, chúng ta có vui lòng không? Chắc chúng ta cũng không vui cho lắm, vì chúng ta cực nhọc nhiều mà lãnh lương ít. Họ cằn nhằn là phải, vì họ đã cực khổ nhiều mà chỉ lãnh lương đúng giá. Họ cho rằng ông chủ không công bằng. Nhưng nếu chúng ta là những công nhân làm việc chỉ một tiếng đồng hồ mà được lãnh lương bằng một ngày thì chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có vui không? Chúng ta có thấy rằng ông chủ đối xử quá tốt với chúng ta không?
Con người nghĩ theo sự công bằng tự nhiên, Thiên Chúa không theo đường lối của ai cả. Ngài là chủ, Ngài muốn thương ai tùy ý Ngài. Như Ngài đã nói qua tiên tri Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”. Chúng ta đòi hỏi công bằng, điều đó không sai, nhưng có một thứ trật tự vượt hẳn sự công bằng đó là tình yêu. Nếu Chúa lấy sự công thẳng mà đối xử với chúng ta, chúng ta sẽ ra sao? Nhưng may thay cho chúng ta vì Chúa vẫn thương chúng ta, chỉ có chúng ta không đáp lại cân xứng tình yêu của Chúa thôi.
Dụ ngôn này rất thích hợp cho thời bấy giờ và có tính cách tranh luận với phái Pharisêu. Những người Pharisêu cho rằng họ giữ đạo tốt, họ có nhiều công nghiệp, họ phải được ưu đãi. Làm như họ có quyền đòi buộc Chúa phải thưởng công họ xứng đáng. Thực sự Chúa đã nói nhiều lần trong Kinh Thánh là Ngài sẽ thưởng công xứng đáng tùy theo việc của mỗi người, nhưng công việc gì đáng thưởng? Không phải theo tiêu chuẩn của chúng ta, nhưng tùy theo sự đánh giá của Chúa. Dụ ngôn người Pharisêu lên Đền thờ cầu nguyện đã cho thấy tính cách phô trương và tự mãn của người Pharisêu, tưởng rằng mình đã làm được nhiều việc quan trọng cho Chúa. Và Chúa Giêsu đã kết luận: người Pharisêu không được gì cả mà chỉ có người thu thuế là đẹp lòng Chúa.
Dụ ngôn cũng là một lời cảnh báo cho những Kitô hữu Do Thái đầu tiên xem mình như được ưu tiên hơn người mới theo đạo. Thánh Phaolô đã khẳng định, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô mà thôi.
Dụ ngôn cũng vạch trần bộ mặt nhỏ nhen ganh tị của chúng ta. Chúng ta luôn dành phần ưu tiên. Xã hội hôm nay là như thế, là tranh chấp, là ganh tị hờn oán, là đè đầu cỡi cổ, khai thác người anh em. Một người sống nhân ái hiền hòa trở thành nhân vật quí hiếm. Là người Công giáo, tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, không lẽ chúng ta lại sống theo thói thế gian hay sao?
Thiên Chúa đại lượng còn chúng ta lại bủn xỉn, hẹp hòi, ích kỷ. Thánh Phaolô dạy chúng ta noi theo gương Chúa, quảng đại, vui với người vui, khóc với người khóc. Yêu thương vẫn là giới luật duy nhất của chúng ta. Chúa không loại bỏ người nào. Tất cả đều được yêu thương như nhau. Chúa luôn mời gọi những người gian ác trở về: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình mà trở về với Đức Chúa và Người sẽ xót thương”.
Bất cứ vào giờ nào tiếng gọi của Chúa vẫn vang vọng, không ngừng khuyến khích chúng ta trở về với Chúa và vào làm vườn nho của Ngài. Vườn nho của Ngài mênh mông luôn cần đến những bàn tay cần mẫn. Vườn nho của Ngài là gia đình của chúng ta, đoàn con phải lo nuôi dưỡng dạy dỗ, là cha mẹ già phải chăm lo hôm sớm, là những người quanh ta đang cần bàn tay nâng đỡ, là những trách nhiệm hằng ngày của chúng ta. Và Chúa sẽ trả công xứng đáng. Và những người thiệt thòi lại được thương xót hơn. Chúa không hẹp hòi. Ngài trả công cho mỗi người xứng với công việc họ làm. Ngài lại quảng đại với những người bị thiệt thòi hơn, những người không ai thèm mướn. Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta vô dụng. Chỉ cần chúng ta muốn làm việc cho Chúa hay không. Nói tóm lại, công việc Ngài trao cho chúng ta đó là yêu thương. Ai cũng có thể làm công việc đó, người mạnh cũng như người đau yếu, người già cũng như người trẻ, người giàu cũng như người nghèo, ai cũng có thể yêu thương. Mở rộng con tim chúng ta ra cho người khác.
Chúa cho mỗi người chúng ta nhiều khả năng khác nhau, chúng ta cần sử dụng cho thế giới bớt hận thù và mọi người được tôn trọng. Chúa ban cho chúng ta đầy tràn ơn lành, chúng ta cũng phải theo gương Chúa, quảng đại hơn, không so đo tính toán như Chúa không bao giờ tính toán với chúng ta. Chúa không bảo chúng ta làm gì cho Chúa. Ngài không cần một ai, nhưng những người anh em chúng ta cần đến chúng ta, nhiều lúc chỉ cần một nụ cười thông cảm. Yêu mến Chúa thực sự chính là yêu mến anh em thực sự.
Hãy nhìn vào những người đã say mê Chúa, những người mà chúng ta gọi là thánh. Họ làm gì? Họ cũng nhỏ bé như chúng ta, cũng nặng nề trong thân phận con người như chúng ta, nhưng họ đã làm gì? Họ đã say mê Thiên Chúa đến nỗi họ chỉ biết một điều là xả thân cho anh em của Ngài. Họ đã biết yêu Chúa như thế nào: “Khi các ngươi làm cho những người anh em nhỏ bé của Ta đây một điều gì là làm cho chính Ta”.
Nhìn vào các thánh, chúng ta tưởng rằng họ là siêu nhân? Không, họ cũng như chúng ta thôi. Thánh Gioan Boscô xả thân cho những thanh thiếu niên đường phố, thánh Vinh Sơn sống cho trẻ mồ côi, thánh Đamiên Creuser sống chết cho người cùi ở đảo Môlôkai, thánh Gioan Maria Vianney chôn mình hằng ngày trong tòa giải tội, Mẹ Têrêxa Calcutta kiệt sức cho những người cùng khổ nhất trong xã hội… Và gương mẫu cao cả nhất chính là Chúa Giêsu, đã chấp nhận tất cả để cứu chúng ta. Ngài là Tình Yêu vô bờ, không bao giờ vơi cạn. Hãy nhìn Chúa chúng ta trên thập giá để biết phải làm gì.
Vườn nho của Ngài mênh mông, Ngài đang cần những công nhân nghe theo lời Ngài mời gọi vào làm vườn nho cho Ngài. Chúng ta không thể nói rằng: “không ai mướn chúng tôi”. Ngài mở rộng trước mắt chúng ta một vườn nho đang cần những bàn tay chăm sóc. Thế giới chúng ta đang thiếu thốn tình yêu và công bằng và đang trên con đường sụp đổ. Nguy cơ một thế chiến thứ ba đang ngấm ngầm chờ dịp bùng nổ. Máu người vô tội đang chảy từng ngày. Sự dã man tràn ngập như nước vỡ bờ. Làm sao chúng ta có thể nói rằng không ai mướn chúng tôi? Chúng ta không thể đóng góp gì cho anh em chúng ta đang chìm sâu trong tuyệt vọng sao? Chúng ta không biết làm gì sao? Một lời cầu nguyện vẫn là một đóng góp quí báu, một cử chỉ thân tình, một hi sinh nhỏ bé có thể là một hồng ân cho thế giới.
Chúa Giêsu đang có mặt nơi bàn thờ và đang ở giữa chúng ta. Ngài là ông chủ nhân lành của vườn nho, là Đấng đã mời gọi chúng ta vào làm vườn nho cho Ngài. Vì chúng ta dễ quên và dễ chán nản, nhất là khi thấy những cố gắng của chúng ta không hiệu quả, và người đời lại cứng cỏi từ chối mọi thiện chí của chúng ta. Ngài đến để nhắc cho chúng ta nhớ rằng cuộc đời của Ngài kết thúc trong thất bại của thập giá, nhưng Ngài vẫn không thôi tiếp tục cứu vớt thế gian. Tình yêu của Ngài không bao giờ vơi cạn và con người càng từ chối Ngài lại thương xót nhiều hơn. Ngài đến để ban cho chúng ta một hồng ân vô tận đó là Mình thánh Ngài làm của ăn để nhờ đó, chúng ta đủ sức làm việc tiếp theo mặc dù không thể thấy kết quả. Hãy ăn lấy Chúa, Thiên Chúa Tình Yêu để biết yêu thương như Ngài là không mỏi mệt.
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)...
***
SUY NIỆM
Anh chị em thân mến,
Mấy ngày qua ở Việt Nam chúng ta người ta đang bàn tán nhiều về hình thức đầu tư BOT, và TN 25-A159
Mấy ngày qua ở Việt Nam chúng ta người ta đang bàn tán nhiều về hình thức đầu tư BOT, và gần đây nhất là Hội phụ huynh học sinh như là nhóm lợi ích, và đang gây ra bao bất bình trong xã hội. Nhóm lợi ích đã tạo ra một thế lực để chi phối chính quyền, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Lợi ích nhóm chỉ nhắm quyền lợi của mình, họ không quan tâm đến thiện ích của người khác, và cũng chẳng màng chi đến nhu cầu của tha nhân. Họ sống ích kỷ và lòng ngập đầy sự tham lam. Nhóm lợi ích đó không chỉ xuất hiện trong thời đại hôm nay, nhưng nó đã hiện diện lâu đời, đó là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói tới: lợi ich nhóm trong cộng đoàn Giáo Hội, điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đó là “tệ nạn xấu nhất đập vào Giáo Hội ngày nay”.
Được ông chủ mướn vào làm vườn nho, họ nghĩ rằng họ có đặc quyền được hưởng lương bổng theo ý họ, chứ không theo điều đã thoả thuận. Việc thoả thuận ban đầu chỉ là điều kiện để họ hình thành nhóm, và khi đã bước được vào vườn nho họ muốn thao túng, vì thế họ không chấp nhận việc ông chủ trả lương cho người đến sau bằng họ, và điều đó cũng có nghĩa, họ chỉ nghĩ đến lợi ích của họ và không muốn chia sẻ lợi ích cho ai. Họ đã giết chết khả năng tương giao với tha nhân, tâm hồn trở nên khô cứng để có thể nhận ra rằng, cuộc đời chỉ tràn đầy ý nghĩa khi cuộc sống biết xẻ chia, biết quan tâm đến người khác. Một lối sống ích kỷ như thể chỉ có thể đem đến cho họ sự cô đơn cùng cực. Bởi cuộc đời chỉ có niềm vui khi cuộc đời biết kiến tạo mối tương giao với tha nhân.
Quả thật, Giáo Hội cũng đang nhức nhối bởi những thái độ ích kỷ, thiếu cởi mở và xẻ chia của những người con của Giáo hội, những người con luôn tự hào về công trạng đóng góp của mình trong việc xây dựng Giáo hội, họ đang bóp nghẹt sức sống của Tin Mừng, một sức sống đến từ lòng bao dung độ lượng của Thiên Chúa. Trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Philippines vào trung tuần tháng 1-2015, một em bé đã hỏi Đức Thánh cha: Tại sao Chúa lại để xảy ra sự dữ như thế, và tại sao ít có ngừơi giúp chúng ta? Một câu hỏi đắng lòng, tại sao lại có quá nhiều người chịu khổ đau vì bất công trong một thế giới bước vào kỷ nguyên với nhiều thuận lợi và tiện ích cho con người? Thưa, bởi vì chủ nghĩa hưởng thụ, thực dụng đang khuynh đảo và làm xói mòn những giá trị nhân văn trong mối tương quan giữa người với người. Người ta chỉ còn quan tâm đến quyền lợi cá nhân và dần hình thành một lối sống vô cảm trước người khác. Sự vô cảm đó đang làm cho cuộc sống xã hội mất đi mối thâm giao và trái tim con ngừoi đang dần hoá đá. Nhà văn Helen Adams Keller đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”.
Vì lợi ích của một nhóm, của một cá nhân, chúng ta đang đánh mất dần mối tương giao để nối vòng tay lớn. Khi chủ trương toàn cầu hoá người ta có tham vọng đưa con người lại gần với nhau, chia sẻ thiện ích cho nhau, thì điều ngược lại đã xảy ra thay vì mang đến cho nhau những cái hay tốt, thế giới lại ngập tràn một lối sống vô cảm và làm cho thế giới này đang khép dần các con đường dẫn tới sự gặp gỡ để xẻ chia, để yêu thương, và điều tệ hại nhất là con đường dẫn tới để gặp gỡ Thiên Chúa cũng bị bịt kín . Đó chính là nguyên nhân để sự dữ hoành hành khắp thế giới, và cuộc sống con người bất an.
Vâng, chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới có thể kiến tạo được sự bình an, bởi Ngài là Đấng giàu lòng từ bi và nhân ái, Ngài đã không để một ai đứng thất nghiệp ngoài đường. Ngài thấu hiểu nỗi lòng của những con người đang đới diện với nhiều âu lo. Kìa là người cha đang lo kiếm cơm gạo nuôi sống gia đình, kìa là ngừoi mẹ đang bươn chải để lo cho con có được cuộc sống ấm no, kìa những người khốn khổ đang lo âu cho cuộc sống… Tất cả đều được Chúa quan tâm, mỗi ngừoi đều được Chúa đói xử như nhau, kẻ làm từ giờ thứ ba tới giờ thứ 11, Người không tính sổ chúng đã làm bao nhiêu giờ, Ngài chỉ tính toán làm sao cho chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc. Thiên Chúa là thế đó, và vì thế chỉ có nơi Ngài chúng ta mới có thể tìm thấy được bình an. Một sự bình an được nẩy sinh từ tình yêu hướng tha, không quy ngã , một tình yêu biết chia sẻ, chứ không thu quén cho riêng mình. Và như thế sự bình an luôn được đâm chổi nẩy lộc trong mối tương giao đầy ắp tình người, từ con tim đến con tim.
Có câu chuyện kể rằng, ở một ngôi làng nọ có tục lệ khi một người trong làng tổ chức lễ cưới và người được mời khi đi dự tiệc cưới không cần mang gì hết ngoài một xị rượu, Tại cửa tiệc cưới người ta đặt sẵn một cái chum để khách dự tiệc cưới đổ rượu mà họ mang tới vào đó. Và khi tiệc cưới bắt đầu chum rượu được bưng vào, và khách dự tiệc sẽ uống rượu mà họ đã mang tới và đã được đổ chung vào với nhau. Thật tuyệt vời về sự chung chia niềm vui tiệc cưới. Nhưng thật kỳ lạ, khi mọi người cùng nếm rượu thì chẳng thấy mùi rượu đâu cả, mà chỉ toàn là nước lạnh. Điều gì đã xảy ra, thưa bởi vì khách được mời đều nghĩ rằng cả chum rượu thì một xị nước lã của mình thì ăn thua gì. Và thay vì mang rượu, họ đều mang nước lã, và kết quả là tiệc cưới không còn có niềm vui, không có nụ cười và chỉ còn là những tiếng hờn trách giận dỗi.Thật buồn, phải không anh chị em. Đó là hậu quả của thói ích kỷ, thiếu sự hiệp thông xẻ chia.
Lạy Chúa, chúng con khao khát có được cuộc sống bình an, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm sự bình an đó trong sự quan tâm đến tha nhân, biết sống quảng đại và bao dung, để không tị hiềm ganh tương. Vâng, lạy Chúa xin cho chúng con biết hành động như Chúa để chúng con biết kiếm tìm niềm vui trong sự xẻ chia. Amen.
Kinh nghiệm nói cho chúng ta biết rằng: nhiều lần trong đời sống đức tin, chúng ta tự hỏi liệu TN 25-A160
Kinh nghiệm nói cho chúng ta biết rằng: nhiều lần trong đời sống đức tin, chúng ta tự hỏi liệu Thiên Chúa nhìn và đánh giá chúng ta thế nào nhỉ? Thiên Chúa có thiên vị? Ngài bênh đỡ người khác, bỏ mặc tôi? Ngài thương người khác hơn tôi? và rất nhiều câu chất vấn khác nữa…
Các bài đọc Phụng vụ hôm nay cho chúng ta một câu trả lời đầy thuyết phục từ lời ngôn sứ Isaia “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta” (Isa 55, 8). Thật vậy, Thiên Chúa nhìn và đánh giá chúng ta không như người đời. Ngài không căn cứ vào bằng cấp, sự danh giá, quyền bính, thành tựu, địa vị, quyền cao chức trọng, của cải của ta mà nhận xét, phán quyết. Thiết nghĩ, Thiên Chúa tôn trọng bạn và tôi là những người con yêu quý, ‘độc nhất vô nhị’ của Ngài. Ngài thỏ thẻ bên tai chúng ta, mời gọi, thúc giục chúng ta bằng lời nói yêu thương, không hề vướng bợn định kiến hay xét đoán. Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta không nhận ra điều này, phải chăng vì trong chúng ta tiềm ẩn lối suy nghĩ thiển cận, vội vã như những người được kêu mời làm vườn ở giờ đầu tiên “những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, còn chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?” (Mt 20, 12). Hay là do sự hoán đổi cách nhìn nhận, coi trọng giá trị mà xã hội thực dụng, văn hoá ‘ăn liền’, trào lưu ‘rẻ rúng, chóng qua’ mang lại, ảnh hưởng sâu đậm đến lối nhìn, suy nghĩ, đánh giá của chúng ta đối với tha nhân, cũng như thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta chăng!
Thứ đến, Thiên Chúa có lẽ chẳng trông mong những gì chúng ta kỳ vọng! Thực tế, qua những câu chuyện trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa coi trọng những người nghèo khó, nghề nghiệp tuy thấp kém nhưng có tâm hồn luôn biết tìm kiếm Chúa (x. 1Sm 16), viên đại đội trưởng với thái độ khiêm tốn thể hiện lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su (x. Lc 7, 1-10), bà goá tuy nghèo túng, nhưng cho đi một cách quảng đại tất cả những gì bà có, trong khi những người giàu có, chỉ cho đi những đồng bạc dư thừa (x. Lc 21, 1-14), v.v... Đường lối của Chúa chẳng ai thấu hiểu được, và cách thức của Người không bao giờ dựa trên những vẻ sa hoa, bề ngoài. Ngài chẳng màng đến sơ yếu lí lịch hào nhoáng, hay những thành tựu của ta. Nói như vậy, không có nghĩa là Thiên Chúa bỏ mặc những người thành đạt, những ai có công việc cao cả, hoặc những người giàu sang biết cho đi một cách quảng đại và thành tựu của bạn và tôi không có ích gì trong việc tôn vinh Chúa. Mà đúng hơn, chúng ta không nên tự cho mình đang đứng đầu trong việc tôn vinh Chúa nhờ những thành đạt hay công trạng mình đạt được. Theo lẽ trật tự Thiên Chúa đặt ra, bạn và tôi không nhất thiết phải đứng hàng đầu “kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16) Đối với Chúa, “ngàn năm trôi qua như thể một ngày, và một ngày dài thăm thẳm như thể ngàn năm” (x. Tv 90, 4; 2Pr 3, 8), quá khứ hay tương lai dường như không hiện diện trong chương trình của Chúa, mà hơn hết, sống giây phút hiện tại ‘bây giờ và nơi đây’ (hic et nunc) mới thực sự cấp bách và cần kíp như câu danh ngôn sau: “đừng âu sầu, não nề, khóc than về quá khứ vì mọi thứ đều đi qua, cũng đừng mơ tưởng về tương lai vì nó chưa đến. Hãy sống trọn vẹn và biến giây phút hiện tại thành khoảnh khắc tươi đẹp hơn”.
Nếu bạn có những băn khoăn, không cảm thấy hạnh phúc về bản thân hoặc về những thành tựu đạt được, hay tự vấn không biết Chúa nhìn và đánh giá cuộc đời bạn thế nào, thì xin bạn cùng tôi nhớ rằng: * Chúa hết mực yêu thương con cái của Ngài như người cha hằng hy sinh cho những đứa con mình một cách liên lỉ, vô điều kiện. Ngài nhìn bạn và tôi không ngoài điều gì khác ngoài một tình yêu vô hạn. Ngài cũng rất tự hào khi nhìn thấy những lựa chọn khôn ngoan và trưởng thành mà chúng ta đã và đang thực hiện trong dòng đời đầy biến chuyển này;
* Ngài nhìn thấy tâm hồn vâng phục của chúng ta, một tâm hồn đơn sơ, trung thành phó thác vào Ngài, ngay cả những lúc thất vọng ê chề, chán chường dường như mọi thứ chung quanh ta là bầu trời tối đen mịt mù không lối thoát;
* Chúa nhìn thấy cuộc sống hy sinh mà chúng ta dành cho Ngài và cho tha nhân qua biết bao lần ta dấn thân ngay cả khi phải trả giá; Ngài nhìn thấy ta sẵn sàng bước theo Ngài, tín thác vào chương trình cứu độ mà Ngài dành cho ta, thậm chí khi bạn và tôi không thể nhìn thấy rõ con đường phía trước hoặc đích điểm cuối cùng của đường đời;
* Chúa nhìn thấy tâm hồn quảng đại của bạn và tôi, sẵn sàng chia san, sẵn sàng quên mình và cho đi vì tha nhân. Luôn đặt công ích, lợi ích của cộng đoàn lên trên tư lợi; Ngài nhìn thấy ta khiêm tốn, sẵn lòng đón nhận ngọn lửa tinh luyện để ta được thanh luyện, tẩy sạch bợn nhơ và trở nên tinh tuyền, thánh thiện hơn;
* Chúa nhìn thấy ta mạnh mẽ trong đức tin, mặc dù bản thân ta cảm thấy yếu đuối. Ta đã trung thành với ơn gọi làm con của Ngài mặc dầu bao thử thách, chông gai giăng bẫy trên đường đời; Ngài nhìn thấy chúng ta là sứ giả Tin Mừng, là chứng nhân mang thông điệp tình yêu của Ngài đến với mọi người để họ cũng có thể tìm thấy nguồn vui ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Ngài nhìn cuộc sống của chúng con khác với cách thế gian. Ngài thấu rõ những giá trị thật sự nơi cuộc sống của con mà những người khác có thể không để ý đến hoặc không nhìn thấy. Phẩm chất làm nên tính cách đóng góp cho cuộc sống của anh chị em chúng con và sẽ còn mang âm hưởng cho những biến chuyển lớn lao trong đời sống đức tin của chúng con. Xin ban cho chúng con đôi mắt biết hướng nhìn lên Chúa, và biết nhìn về phía tha nhân!
Bàn tiệc phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho thấy sự nôn nóng cần thiết của một cuộc TN 25-A161
Bàn tiệc phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho thấy sự nôn nóng cần thiết của một cuộc tìm kiếm hai chiều: con người tìm kiếm Thiên Chúa; Thiên Chúa kiếm tìm con người. Từ bài đọc thứ nhất cho đến bài Tin Mừng, tất cả đều hối thúc, giục giã con người tìm kiếm Thiên Chúa; đồng thời, con người hãy học biết rằng, chính Thiên Chúa cũng đang kiếm tìm nó.
Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Isaia thúc bách dân Chúa, “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần”; vì sẽ đến lúc, con người muốn tìm Chúa, nhưng không tìm được; và Người có ở gần đến mấy, họ cũng không thể kêu cầu. Ở đây, Isaia nói đến những con người mất đức tin; và một khi đức tin đã mất, Thiên Chúa có ở gần đến mấy cũng hoá xa; Người có đó, họ cũng không nhận ra Người. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi Isaia nói tiếp, “Hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa, vì Chúa rộng lòng tha thứ”; Thánh Vịnh đáp ca cũng xác tín, “Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Người”. Với Thiên Chúa, không bao giờ là quá muộn. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng hối thúc tín hữu Philipphê, “Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô”, Đấng mà ngài xác tín, “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”.
Đặc biệt với dụ ngôn Tin Mừng, một bất ngờ đến thú vị nhưng cũng thật xúc động và ấn tượng khi sự hối hả, nôn nóng không chỉ ở phía con người mà còn ở phía Thiên Chúa. Ông chủ vườn Chúa Giêsu nói đến là hình ảnh chính Thiên Chúa. Từ sáng sớm, ông chủ ra chợ tìm thợ vào làm vườn nho; đến lúc chiều tà, ông vẫn ra ngoài kiếm họ. Năm lần bảy lượt, ông vẫn chỉ nói với người đến trước, kẻ đến sau cũng một câu, “Các anh hãy đi làm vườn nho cho tôi”. Đây là một ân huệ, cũng là một mệnh lệnh; nhưng cùng lúc, đó là một lời van xin. Đây là lời van xin của một Thiên Chúa đang luôn luôn đi tìm con người, một cuộc tìm kiếm của Đấng hằng xót thương, một cuộc tìm kiếm đời đời của trời. Chúng ta đọc thấy trong dụ ngôn hôm nay có đến năm lần trong một ngày, chủ vườn ra tìm thợ, nài nỉ thợ, hối thúc thợ vào làm vườn nho mình. Để rồi, kết thúc câu chuyện, chủ đã trả tiền công cho các thợ cùng một mức như nhau; người làm cả ngày, kẻ làm tám tiếng hay cả với những người chỉ làm một giờ… tất cả họ đều nhận được một mức lương giống nhau.
Bài học chúng ta rút ra ở đây là, thông thường, với đời sống đức tin của mình, chúng ta thích ngồi “nhàn rỗi cả ngày”; nói cách khác, chúng ta dễ dàng trở nên con cái Chúa, tin nhận Người; nhưng, sẽ rất khó khi chúng ta phải chấp nhận ‘công việc hàng ngày’ của một đời sống làm con Chúa, xây dựng mối tương quan ngày càng gắn bó hơn với Người; một tương quan đòi hỏi cam kết, dấn thân và nhất là biến đổi. Sống một đời sống đức tin nhàn rỗi luôn luôn dễ dàng hơn so với một đời sống không ngừng hoạt động. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn đi tìm chúng ta; với Người, không bao giờ là quá muộn. Người rất hào phóng và không bao giờ là quá trễ để con người hướng đến Người.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang ngỏ với chúng ta, “Các anh hãy đi làm vườn nho cho tôi”. Đây là một thách đố mà nhiều người trong chúng ta phải đối mặt, vì có thể, chúng ta đã mất nhiều năm để sống một đức tin vu vơ, sống một đời sống ươn lười ì ạch và không biết làm cách nào để thay đổi. “Hãy đi làm vườn nho” vì thế, có thể là hãy đi mà thay đổi đời sống, trở về cùng Chúa, trở về cùng anh em; là bước ra khỏi tình trạng tội lỗi để sống trong ánh sáng; hoặc cũng có thể là một cam kết dấn thân mà nhiều lúc chúng ta còn lưỡng lự. Dụ ngôn Tin Mừng tiết lộ rằng, Thiên Chúa, Đấng xót thương và nhân từ vô cùng đang chờ đợi chúng ta và cũng đang nôn nóng đi tìm mỗi người; Người không bao giờ trốn tránh việc ban tặng sự giàu có của Người cho chúng ta, dù chúng ta đã xa Người bao lâu cũng như đã sa ngã đến thế nào. Thiên Chúa cũng sẽ trả cho chúng ta ‘một đồng’ như bao người khác. Đừng sợ! Ơn cứu độ là ‘một đồng’, ân sủng của Người là ‘một đồng’, Thiên Chúa hằng luôn mong ước cho ai ai cũng được hưởng ‘một đồng’ đó. Sự công bằng của Thiên Chúa là thế, một sự công bằng mang tính cứu độ. Đó là lý do khiến Thiên Chúa mãi mãi đi tìm con người, và đó cũng là lý do thúc bách chúng ta kiếm tìm Người.
Trong một buổi chia sẻ khinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại, “Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ; lần kia, cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời”. Phim kể chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh dể, làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương mình. Qua nhiều biến cố, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết; cô gái trở về, thống hối, tiếc thương. Về đến nhà hôm ấy, gia đình tôi bàn tán ý nghĩa của chuyện phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình lớn tiếng, “Bấy giờ mới trở về, ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”. Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói, “Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”. Thú thật, ngày đó, tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi, nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm thía ý nghĩa của nó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng trở về với Chúa, và nhất là, tôi dễ dàng yêu thương tha thứ cho các con tôi”.
Anh Chị em,
Cô gái ấy chỉ hiểu được ‘không có sự trở về nào là trễ trong tình thương’ một khi đã làm mẹ. Cũng thế, chúng ta chỉ hiểu được điều đó khi chúng ta mang lấy tấm lòng xót thương của Thiên Chúa, một Thiên Chúa ở gần khi chúng ta kêu cầu Người. Vậy thì, chúng ta đang đi tìm Thiên Chúa hay Thiên Chúa đang đi tìm chúng ta? Chúng ta đang nhàn rỗi hay đang chăm chỉ trong công việc? Nếu đang chăm chỉ, hãy tạ ơn Chúa và tiếp tục cam kết mà không do dự; hoặc nếu đang nhàn rỗi, rõ ràng, Chúa muốn chúng ta đổi thay. Sự rộng lượng và khoan dung của Thiên Chúa thì luôn luôn như trời, như bể.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thật lạ lùng, khi con đang ở trong vườn nho ân sủng của Chúa thì Chúa vẫn mời gọi con ‘hãy đi làm’; thì ra, con chưa nên giống Chúa và Chúa vẫn đang đi tìm con mỗi ngày. Xin xót thương con”, Amen.
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ, cắt đặt công việc phù hợp cho mỗi loài, đồng thời TN 25-A162
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ, cắt đặt công việc phù hợp cho mỗi loài, đồng thời ban thưởng xứng đáng khi chúng chu toàn bổn phận được trao.
Con người, được dựng nên giống hình ảnh Chúa, có bổn phận nhận biết, yêu mến, tôn thờ Đấng tạo hóa thay cho loài thụ tạo, để được hưởng tình yêu và sự sống muôn đời.
Nhưng không làm được, vì tội bất phục tùng, họ đã đánh mất tình nghĩa với Chúa, gây hậu quả bi thảm là tội lỗi và sự chết.
Tất yếu, con người không thể tự cứu chính mình, họ cần đến Thiên Chúa cứu. Giê-su được ban tặng cho loài người và thánh danh Giê-su có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ, Người xuống thế làm người cho được cứu hết mọi người thế gian.
Hồng ân cứu độ, vừa là quà tặng thần linh, vừa là sự đáp trả tự do của con người, nên mạc khải dùng ý niệm “trả công” hay “ban thưởng”: “Thiên Chúa trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm” (2C 5, 10), để diễn tả thực tại nền tảng của đức tin.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày mầu nhiệm đức tin bằng những hình ảnh rất phong phú diễn tả Thiên Chúa, “tình yêu và sự sống”, trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, kêu gọi kẻ tội lỗi làm hòa với Chúa bằng việc tìm kiếm và kêu cầu danh Ngài. Ngôn sứ cho thấy sự nhẫn nại và lòng thương xót Chúa vô biên vô tận. Chúa hằng luôn ở gần và lắng nghe lời họ kêu xin: “Hãy tìm Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên” (Is 55, 6). Thế thì, khi nào Chúa ở kề bên và còn cho gặp?
Thưa bao lâu con người còn sống, thì bấy lâu Chúa vẫn ở kề bên và sẵn lòng cho gặp, chỉ khi, ai đó khước từ Người cho đến chết, họ mới phải lìa mặt Người. Vậy bao lâu còn sống trên trần gian, tất cả đều có thể tìm gặp và khẩn cầu lòng thương xót Chúa cho mình và cho kẻ khác.
Tuy nhiên, tìm gặp và kêu cầu Chúa hệ tại tấm lòng hoán cải canh tân, dốc lòng đoạn tuyệt tội lỗi cách quyết liệt và dứt khoát. Ngôn sứ khuyến cáo: “Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có, mà trở về với Chúa, Người sẽ xót thương” (Is 55, 7).
Sau này Phao-lô lặp lại lời dạy trên khi khuyến khích cộng đoàn sống theo gương Đức Kitô: “Anh em hãy cởi bỏ lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt, buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn” (Ep 4, 22 – 23).
Việc Thiên Chúa kêu mời chúng ta trở về với Người để được hưởng tình yêu và sự sống là mầu nhiệm lớn lao, trí khôn không thể thấu hiểu, vì đó là đường lối của tình yêu thượng trí, như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Chúa cao vời hơn phàm nhân như vậy.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc minh chứng điển hình cung cách hành xử của Chúa thiết lập trên lòng nhân ái và tình yêu diệu huyền.
Dụ ngôn ông chủ vườn nho mướn thợ đi làm. Ông không giao kèo khung giờ làm việc, mà chỉ thỏa thuận tiền công là “một đồng”.
Điểm khác thường của ông chủ, mướn thợ trong nhiều thời điểm khác nhau, thậm chí cả vào giờ thứ “mười một”, nghĩa là, thợ chỉ phải làm có một giờ và kết thúc ngày làm, ông chủ đều trả mỗi người một đồng.
Bài học rút ra từ dụ ngôn: ơn cứu độ, không phải tiền công do việc làm, mà trên hết, là hồng ân Chúa ban, bởi thế, không ai có quyền đòi được trả công vì đã sống đạo, đã làm việc cho Chúa. Trong mọi việc đã làm, chúng ta chỉ có thể thưa: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm” (Lc 17, 10).
Thật và rất thật, đoạn Tin Mừng gieo vào lòng chúng ta niềm hy vọng lớn lao, vì biết rằng: cho dù là kẻ tội lỗi, là thợ giờ thứ “mười một”, chúng ta vẫn được ban thưởng trọn vẹn phần phúc Nước Trời. Hãy xem người trộm lành cùng bị đóng đinh với Chúa mà vững lòng tin tưởng, cậy trông. Chỉ một lời tuyên xưng đức tin chân thành, anh đã nhận lời hứa: “Thật hôm nay, con sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 3, 43).
Thực ra, đây không phải là trường hợp duy nhất Giê-su hứa thiên đàng cho tên trộm biết hối cải, nhưng nhiều và rất nhiều những kẻ tìm đến thú tội với Người đều được hứa như vậy: “Tội con đã được tha” (Lc 5, 20).
Anh chị em đã có bao giờ cảm nhận được hồng ân tha thứ tội lỗi và lời hứa thiên đàng như thế chưa? Nếu có, thì hãy sinh hoa quả xứng với lòng thống hối, để đáng được ban thưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, làm mọi sự vì Tin Mừng, chỉ khao khát một điều duy nhất là được ở cùng Chúa. Đối với ngài, sống là Đức Kitô và chết là “mối lợi”, vì được ở cùng Chúa luôn mãi.
Phao-lô chỉ có một mối bận tâm: tìm Chúa và ở với Người, mọi cái khác, kể cả công việc Chúa trao cũng chỉ là thứ yếu, là rơm rác, là phân bón, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô.
Cái dũng của thánh nhân là ở chỗ đó, linh đạo nên thánh là ở chỗ đó: “tìm Chúa, chứ không phải công việc của Chúa” (Đường hy vọng).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải biết tận dụng thời gian Chúa ban để tìm kiếm và kêu cầu danh Ngài. Đó là thời gian vàng, là cơ hội duy nhất cho kẻ lữ hành,vì Chúa luôn luôn ở cùng chúng ta.
Sự nhẫn nại và lòng thương xót vẫy gọi chúng ta vào vườn nho Chúa cho dù muộn màng, chỉ là thợ giờ thứ mười một.
Anh chị em hãy vui lên trong Chúa, tôi xin nhắc lại “hãy vui lên”, vì Chúa đã gần đến. Hãy đồng tâm nhất trí, hiệp nhất trong đức tin, đức cậy, đức mến, để khi Chúa đến vẫn thấy chúng ta đang tỉnh thức và vững dạ đợi chờ, nghĩa là, tìm kiếm Chúa trong sự hoán cải, canh tân.
Hầu chắc, Giê-su và chúng ta sẽ dẫy tràn niềm vui, vì phần thưởng dành cho chúng ta sẽ bội hậu trên trời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta!
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) chỉ làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã đi làm từ sáng sớm, nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền...
***
Vào thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều (Lv 19,13; Đnl TN 25-A163
Vào thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15). Lương công nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) chỉ làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã đi làm từ sáng sớm, nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ tức giận và cằn nhằn ra sao. Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy. Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau. Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,vì ông đã trả cho những người thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những câu nói lên tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:đó là ý muốn của tôi.
Tình thương của Thiên Chúa phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi sao?” (c. 15). Thiên Chúa không phải là một nhà kinh doanh, nhưng là người cha tốt lành.
Ông chủ vườn nho thương cả những người đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu, nhưng anh ấy đã phải đứng chờ suốt cả ngày.
Thế giới hôm nay lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ, đứng chờ suốt ngày, đứng chờ suốt đời. Họ chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ. Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế, những tiếng reo kinh ngạc, những tiếng reo ngỡ ngàng, những tiếng reo tri ân…Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng. Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ đợi. Nhiều khi chờ đợi còn mệt mỏi hơn cả làm việc nữa. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu nổi. Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ sau khi chứng kiến: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi.
Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì hết.
Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi nhễ nhại ướt đẫm cả áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp.
Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người thất nghiệp vô tội này.
Và ông đã có một lời cầu nguyện như sau: “Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”. “Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”.
Lạy Chúa, tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi và con tim chúng con chai cứng.
Xin Chúa mở rộng lòng trí chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa, và hành động giống Chúa hơn.
Xin gúp chúng con đừng bao giờ bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác. Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công. Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
Câu chuyện dụ ngôn thợ làm vườn nho ở phần cuối quả là bất thường. Nó bất thường ở chỗ TN 25-A164
Câu chuyện dụ ngôn thợ làm vườn nho ở phần cuối quả là bất thường. Nó bất thường ở chỗ người bắt đầu làm từ sáng sớm cũng được trả một quan tiền, bằng người vào làm lúc trưa và ngay cả bằng người vào làm lúc chiều. Nó bất thường nên các người thợ làm từ sáng sớm cảm thấy bất công, vì họ tưởng họ đáng lý phải được lãnh nhiều hơn.
Dụ ngôn, vì vậy chỉ cho thấy sự so sánh ganh tỵ của con người và lòng bao dung quảng đại của Thiên Chúa.
Bạn có thói ganh tỵ không? Chắc là bạn sẽ trả lời là không. Tuy nhiên, điều chắc chắn mỗi người chúng ta đều có; đó là sự so sánh hơn thua.
Trong lớp học, chắc học sinh nào cũng muốn học giỏi hơn người khác. Trong làm ăn buôn bán, ai cũng muốn phát đạt hơn người khác. Ngay cả một tu sĩ cũng muốn mình đạo đức thánh thiện hơn người khác. Rõ ràng là sự so sánh và muốn hơn người là một điều tốt. Nó là động lực mà Thiên Chúa đặt để nơi lòng con người để con người vươn lên.
Tuy nhiên, nhiều khi so sánh mình với người khác lại trở thành nguồn gốc cho tội lỗi, nghĩa là, nó dẫn ta đến phạm tội.
Xin kể câu chuyện giả tưởng như sau:
Bạn là chủ hộ một căn nhà trị giá 1 tỷ. Một người đến đề nghị mua nhà bạn với giá 2 tỷ. Bạn thật là vui mừng và đồng ý bán ngay.
Ngày hôm sau, bạn nghe nói rằng hai ngôi nhà kế cận, chỉ trị giá 700 triệu và 500 triệu, cũng đã được ông chủ đó mua với giá 2 tỷ, ngang bằng với giá ông đã mua nhà bạn. Thật là tin sét đánh đối với bạn. Nhà bạn to lớn sang trọng ông ấy đã mua 2 tỷ. Hai nhà hàng xóm kia, nhỏ hẹp, chỉ đáng giá mấy trăm triệu mà ổng cũng mua 2 tỷ. Bạn liền giận dữ, gọi điện thoại cho người mua nhà và phiền trách ông ta về việc ấy. Ông ta liền trả lời: Tôi có làm gì phỉnh gạt anh đâu? Tôi muốn mua giá cao là tùy ở tôi chứ?
Trong dụ ngôn, những người làm từ sáng sớm, đã cằn nhằn với chủ nhà, có vẻ như chỉ trích chủ nhà là bất công. Họ nói: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Cũng nên nhắc lại, tội lớn nhất của thế giới thần linh có động cơ từ tội ganh tỵ. Tổng lãnh Thiên Thần Lucipher vì ganh ty rồi kiêu ngạo, không muốn tùng phục Thiên Chúa. Họ chống Thiên Chúa đến cùng. Lucipher hay Satan không muốn chịu thua Thiên Chúa, biểu lộ tội ghen ty cho đến cùng. Tội nguyên tổ, cũng có động cơ từ sự ghen tỵ. Ông bà nguyên tổ đã ganh tỵ với Thiên Chúa, muốn biết lành biết dữ như Thiên Chúa nên đã phạm lệnh Chúa, ăn trái cấm. Và rõ ràng nhất, tội Cain giết em là Ebel. Tội này xảy ra cũng là vì sự ganh tỵ.
Làm sao để chúng ta thoát khỏi cái tính so sánh ganh tỵ, tránh xa được tội?
Để tránh được sự ghen tỵ đó, chúng ta phải nhận ra rằng, Thiên Chúa là ông chủ, có quyền cho ai bao nhiêu tùy ý của Ngài. Và chắc chắn rằng, Ngài chẳng bao giờ bất công. Chúng ta phải xác định rằng, ông Chủ vườn nho, hình ảnh của Thiên Chúa, không bao giờ bất công.
Điều kế tiếp là ta phải đánh giá theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa chứ không phải theo tiêu chuẩn của thế gian. Nếu chúng ta đánh giá theo tiêu chuẩn của Chúa thì chúng ta sẽ khám phá ra mình cũng không thua kém kẻ khác.
Thử hỏi: phải chăng có quyền lực là sung sướng, có tiền bạc giàu sang là sung sướng, có đẹp đẻ là hạnh phúc, là hơn kẻ khác?
Nhiều khi những hoàn cảnh tốt đẹp, giàu có, danh vọng lại gây tai hại cho chúng ta. Những người thợ được có việc làm ngay từ sáng sớm có vẻ là may mắn. Nhưng điều xấu xảy ra cho những người thợ này là ra khi ra về thì lòng họ đầy oán hận trách móc ông chủ. Về đến nhà gặp vợ con với nét mặt buồn bã và bực dọc, trút ra những lời khó nghe.
Nhiều khi sự khó khăn bi thảm, như nghèo đói bệnh tật, xấu số lại là một hoàn cảnh tốt cho chúng ta. Chắc hẳn những người thợ bị thất nghiệp đến giờ cuối sẽ vui mừng và biết ơn ông chủ. Về đến nhà gặp vợ con với nét mặt hân hoan sung sướng, chia sẽ niềm vui mình vừa được.
Đánh giá theo Thiên Chúa, khác đánh gía theo thế gian đã được Thánh Phaolô biểu lộ trong thư gởi tín hữu Corintô, khi ngài nói: “Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì mà thế gian xem là vô nghĩa để làm bẻ mặt những người thông thái, và Ngài chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để những kẻ có thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiên hạ chê bai, khinh khi, bị liệt vào hạng không ra gì, để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng” (1Cr 1,27-28).
Vì vậy, để tránh những lỗi phạm do sự so sánh ghen tỵ, cần phải tin tưởng Thiên Chúa là người cha nhân từ, luôn săn sóc chúng ta. Ngài không bao giờ để con cái Ngài bị thua thiệt thiếu thốn. Ngài rất công bằng nhưng cũng rất khoan dung, rộng tay ban phát. Điều Ngài ban phát, tuy nhiều khi ta không đáng giá được giá trị thực của nó, là hơn hay kém người khác, nhưng chắn chắn là vượt xa công trạng của mỗi người.
Chúng ta đang tìm kiếm gì điều gì, cái gì cho cuộc sống của chính mình và của những người thân TN 25-A165
Chúng ta đang tìm kiếm gì điều gì, cái gì cho cuộc sống của chính mình và của những người thân yêu của mình? Vấn nạn rất khổ tâm của các mục tử tại hầu hết các xứ đạo ngày nay đó là: thứ nhất, các em thanh thiếu nhi có rất ít thời gian để đi lễ, đi học giáo lý. Khi được hỏi tại sao, thì nguyên nhân và lý do đầu tiên mà quý phụ huynh luôn trả lời: “Thưa cha, con nhà con nó bận đi học thêm suốt, xin Cha thông cảm.” Thứ hai, là với các bạn trẻ, thanh niên cũng hiếm khi đi nhà thờ; lý do là vì đi làm ăn xa, không có giờ đi lễ hay sinh hoạt gì trong giáo xứ. Cũng có thể, trong thâm tâm của nhiều người Kitô hữu ngày nay đang đặt ra câu hỏi này chăng: “Tại sao tôi phải tìm Chúa và đến với Chúa, Đấng mà tôi không thấy? đến với Chúa, đến với nhà thờ thì tôi sẽ được gì? trong lúc tôi phải đi học, đi làm, đi lo kiếm sống?” Thử hỏi, sau bao ngày tháng tìm kiếm những thứ mà mình đang theo đuổi, nó đã đem lại cho chúng ta điều gì? Nếu không phải là sự vất vả, khó khăn, đau khổ và bất an trong tâm hồn? Vậy chúng ta nên tìm kiếm gì?
Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã mời gọi: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần, hãy bỏ đường lối mình, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.” Khi tìm kiếm Chúa chắc chắn chúng ta sẽ có sự bình an và hạnh phúc đích thực, vì Thiên Chúa chính là nguồn cội của mọi sự.
Nhưng ai bảo đảm cho tôi khi tôi tìm kiếm Chúa và sống theo thánh ý Ngài? Mỗi khi chúng ta có những tư tưởng như vậy, thì chúng ta đã dùng lý trí và sự suy đoán của mình mà đo lường với ý Chúa. Nhưng qua lời Tiên tri Isaia, Chúa đã phán “Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.” Chính vì vậy, mà chúng ta phải luôn khiêm tốn để tìm kiếm cho được thánh ý và đường lối của Chúa.
Nhưng tại sao Chúa lại làm khó, và đánh đố chúng ta như vậy, tại sao Chúa không tỏ cho chúng ta thấy rõ ràng luôn đường lối và thánh ý Ngài? Thật ra, vì yêu thương Thiên Chúa đã tỏ bày đường lối và thánh ý của Chúa qua nhiều cách thế khác nhau và cao điểm là qua mạc khải nơi chính Chúa Giêsu Kitô, nơi sứ vụ của Ngài. Thế nhưng, biết bao lần con người đã không tin, không chấp nhận, mà họ còn cho rằng cách suy nghĩ của mình và con đường mình chọn là tốt hơn của Chúa. Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng trải qua kinh nghiệm này, nên Ngài chỉ dạy cho chúng ta. Ban đầu Phaolô rất cứng lòng, đã không tin vào Chúa Giêsu và con đường Thánh giá tình yêu cứu độ của Chúa. Không những thế, Phaolô còn lên án, chống đối và bắt bớ những ai tin vào Ông Giêsu và giáo lý của Người. Thế nhưng, khi đã được Đức Kitô chinh phục, tin theo và làm theo những gì Chúa hướng dẫn, Phaolô đã tuyên xưng: “Đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi.” Đức Kitô muốn như thế nào, thánh ý Chúa hướng dẫn làm sao thì Phaolô xin vâng theo và thực thi, miễn làm sao Tin mừng tình yêu, cứu độ của Đức Kitô được lan tỏa và được vinh danh.
Còn với chúng ta, khi được Lời Chúa hôm nay mời gọi, liệu chúng ta vẫn còn muốn tìm kiếm thứ gì khác hay còn chần chờ mà chưa muốn tìm kiếm Chúa, thánh ý và đường lối của Ngài để theo? Nếu đã sẵn sàng, thì tìm kiếm Chúa và theo Chúa lúc này có muộn không? Thực ra đối với Chúa, mỗi giây phút trong cuộc sống hiện tại là rất quan trọng, miễn sao chúng ta biết tận dụng thời gian hiện tại này để làm cho nó được đong đầy, trọn vẹn với tình yêu thương. Dụ ngôn những người thợ đi làm vườn nho trong bài Tin mừng đã minh chứng cho chúng ta thấy, Thiên Chúa vẫn luôn đang khao khát để kêu mời chúng ta đến với Ngài. Dù cho bất cứ giờ nào, ông chủ đều muốn gọi và tạo cho họ có cơ hội để vào làm việc trong vườn nho của mình. Cho dù từ sáng sớm tinh sương, hay giờ thứ ba, dù giờ thứ chín và ngay cả đến giờ thứ mười một ông đều mời gọi họ: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”.
Hôm nay và ngay chính lúc này, Chúa cũng đang mời gọi và đang tạo cho tất cả chúng ta một cơ hội tuyệt vời nhất để chúng ta đến với Chúa, sống với Chúa, và qua đó để Chúa ban ơn, trả công bội hậu cho chúng ta. Chỉ có lòng dạ con người hẹp hòi, ích kỷ, kỳ kèo, tính toán hơn thiệt đối với Chúa và với nhau, nhưng với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng bao dung, hay xót thương, Ngài luôn ban ơn cân xứng với những việc chúng ta làm cho Chúa và tha nhân. Hơn thế nữa, với Thiên Chúa, việc chúng ta lắng nghe và đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để đi làm vườn nho, không lệ thuộc vào số thời gian hay số lượng công việc, cũng như thành phẩm mà chúng ta đạt được. Điều quan trọng mà Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta chính là lòng tin, lòng mến cũng như nhiệt huyết của chúng ta dành cho Chúa và cho sứ vụ-ơn gọi của mỗi mình.
Lạy Chúa, thật hạnh phúc cho chúng con, vì được làm con cái Chúa, được Chúa mời gọi và tuyển chọn cách nhưng không để làm việc trong vườn nho Giáo hội của Chúa, Chúa còn ban muôn ơn lành và phúc lộc cho chúng con ngoài công sức và sự đóng góp nhỏ bé của chúng con. Xin cho chúng con ý thức hơn về cơ hội hồng phúc cao quý này, hầu luôn khiêm tốn để có thể lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, mà hăng say, vui tươi đáp trả lại với lòng tin, cậy, mến và hết cả nhiệt huyết của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Trong bài Tin mừng Chúa nhật 25 Thường niên hôm nay, chúng ta nghe đọc câu chuyện dụ ngôn TN 25-A166
Trong bài Tin mừng Chúa nhật 25 Thường niên hôm nay, chúng ta nghe đọc câu chuyện dụ ngôn về lòng quảng đại của ông chủ vườn nho, vốn dựa vào chủ đề lòng thương xót, qua việc sử dụng những hình ảnh về sự cách biệt trong kinh tế và xã hội. Dụ ngôn này có nhiều khả năng diễn giải khác nhau.
cn25Chúa Giêsu so sánh Nước trời với một ông chủ vườn nho trả cùng một mức lương công nhật cho tất cả người thợ, dù số giờ làm việc của họ khác nhau. Một số người làm việc cả ngày, trong khi một số khác chỉ làm một phần trong ngày. Một số khác nữa chỉ làm một giờ đồng hồ. Vậy mà ông chủ lại trả lương đủ một ngày công cho tất cả mọi người thợ. Một trong những người thợ làm việc suốt cả ngày chỉ trích ông chủ, chú ý đến cách trả lương không công bằng như vậy. Nhưng ông chủ bác bỏ những lời chỉ trích, thay vào đó ông lên án sự ghen tị cũng như khẳng định sự quảng đại và công bằng của mình.
Vì những dụ ngôn của thánh Matthêu tập trung vào ngày phán xét cuối cùng nên dụ ngôn này có thể được giải thích theo quan niệm cánh chung. Ông chủ vườn tượng trưng cho lòng bao dung của Thiên Chúa trong việc phân xử. Những người thợ làm việc cả ngày có thể là những người trung thành trong suốt cuộc đời của họ, và những người làm việc ít giờ nhất có thể là những người tội lỗi nhất, là những người cuối cùng trở lại cuộc sống ngay chính. Theo cách hiểu này, dụ ngôn sẽ cho thấy lòng rộng rãi của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, thậm chí ban thưởng cho người cuối cùng trước cả người đầu tiên. Ý tưởng này được hỗ trợ nơi Bài đọc một trích sách ngôn sứ Isaia, nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa khi tha thứ. Dụ ngôn của Matthêu cũng có âm hưởng của dụ ngôn của Luca về đứa con hoang đàng.
Tuy nhiên, dụ ngôn ông chủ vườn của Matthêu cũng có thể được giải thích như sự trình bày về giá trị của công việc và tầm quan trọng của một mức lương công bằng. Ngày nay, cách đọc hiểu dụ ngôn như vậy có thể thuyết phục hơn, đặc biệt là trong ánh sáng của các giáo huấn xã hội của Giáo hội và những khó khăn kinh tế hiện nay.
Thường thì việc trả lương bằng nhau vào đoạn cuối của dụ ngôn được làm nổi bật lên, tuy nhiên ông chủ đã rộng lượng ngay trước cả lúc ấy. Sau khi thuê nhóm thợ đầu tiên, ông gặp thấy còn nhiều người thất nghiệp và thuê mướn họ. Ông tiếp tục thuê thợ làm vườn như vậy cho đến khi chiều tà, khi mà có lẽ đã không còn ai ở ngoài chợ lao động. Điều này cho thấy là có bao nhiêu người đang cần công việc thì người chủ sẵn sàng thuê bấy nhiêu.
Vì đại dịch Covid-19, nhiều người rơi vào cảnh thất nghiệp, vốn chỉ làm trầm trọng thêm hoàn cảnh kinh tế bấp bênh mà tất cả đã phải đối mặt trước đó. Theo Vụ Thống kê Dân số và Lao động vào tháng 7 năm nay thì khả năng 5 triệu người Việt Nam mất việc vào cuối năm 2020 không phải không thể xảy ra. Nhiều người khác thì phải nghỉ luân phiên, giảm giờ làm việc hoặc tạm thời nghỉ việc. Bài Tin mừng hôm nay là nguồn động lực cho những nhà tuyển dụng cần sáng tạo và đổi mới trong việc tạo ra công ăn việc làm cho những người có nhu cầu lao động.
Bên cạnh đó, dụ ngôn này cũng khẳng định rằng mức lương tối thiếu phải là mức lương đủ sống. Khi mà ông chủ trả lương đồng đều cho mọi người thợ, ông không lừa gạt những người làm việc nhiều giờ nhất. Thay vào đó, ông bù đắp cho mọi người làm việc ngày hôm đó để những người dù có làm việc ít giờ nhất vẫn có thể đủ sống dựa trên thu nhập của họ. Cần có những cố gắng cải cách về tiền lương để mức lương tối thiểu có thể đủ nuôi sống bản thân và gia đình người lao động.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thay vì bố thí, ông chủ vườn nho đã rất rộng lượng bằng cách cung cấp công việc và tiền công chính đáng cho tất cả mọi người thợ, giúp cho họ sống có phẩm giá bằng chính sức lao động của mình. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng cách đối xử công bằng với người lao động là một vấn đề cuộc sống cần được xem xét khi phân định lựa chọn người lãnh đạo. Tiền lương giúp con người có của ăn, của mặc, nơi ở và chăm sóc sức khỏe- tất cả đều là nguồn lực thiết yếu cho cuộc sống con người.
Vì sao dụ ngôn thợ làm vườn nho (được đóng khung trong cùng một châm ngôn: 19,30 = 20,16) TN 25-A167
1. Vì sao dụ ngôn thợ làm vườn nho (được đóng khung trong cùng một châm ngôn: 19,30 = 20,16) lại nằm trong văn mạch này và đâu là trọng tâm của nó?
2. Trong Cựu ước, vườn nho tượng trưng cái gì?
3. Khi trả cho mỗi người cùng một đồng tiền công, trong lúc số giờ làm việc lại khác nhau, phải chăng chủ vườn nho đã lỗi đức công bằng xã hội? Ta có thể đặt ra vấn đề cứu rỗi bằng ngôn ngữ công nghiệp cá nhân tương đương với các quyền lợi đối với Thiên Chúa không?
4. Những người thợ giờ thứ nhất phản đối sự bất công hay lòng tốt của gia chủ?
5. Phải chăng có sự tương tự giữa thái độ của các người thợ này với thái độ của người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng?
1. Ý nghĩa tổng quát của dụ ngôn thật rõ ràng, nhưng cách dụng nó lại hơi khả nghi. Vì thế có lẽ đầu tiên nên đi từ ý nghĩa tổng quát trước khi sang phần áp dụng cụ thể.
Nếu thu gọn lại trong hai vế của một so sánh, dụ ngôn có thể tóm tắt như thế này: cũng như sau một ngày lao động trong đó các người thợ đã làm việc với những số giờ rất khác nhau, ông chủ đã trả cho tất cả cùng một số tiền, vì muốn tỏ ra ông rộng rãi với một vài kẻ đồng thời không bất công với bất cứ ai, thì cũng thế, Chúa có quyền đối xử rộng rãi với những kẻ Ngài muốn mà không bao giờ lỗi đức công bằng, và chẳng ai có quyền chỉ trích chuyện ấy được. Hình như đây đúng là ý nghĩa tự nhiên nhất của dụ ngôn như nó hiện ra trong Mt. Chủ đề của dụ ngôn rõ ràng là chủ đề về lòng quảng đại của Thiên Chúa, Đấng ban cho mọi người cùng một hồng ân lạ lùng và nhưng không, gọi là ơn cứu rỗi. Tình yêu của Thiên Chúa tuôn tràn đến tất cả mọi người chẳng phân biệt ai. Điều chủ yếu là đón nhận tình yêu ấy, chứ đừng đo lường lòng tốt của Ngài theo bản thanh toán của công bằng giao hoán nhân loại.
2. Dụ ngôn này được gửi đến ai? nhắm ai? Căn cứ vào văn mạch trực tiếp đóng khung dụ ngôn, một số cho rằng nó được gởi đến các môn đồ. Số khác, dựa vào văn mạch chung của cả phần này (ch.19-23), một văn mạch rõ ràng là có tính cách tranh luận, nghĩ rằng đúng hơn dụ ngôn nhắm đến nhóm Biệt phái đang ghen tức vì thấy Chúa Giêsu quan tâm đến hạng thu thuế và tội lỗi: họ bảo Người muốn trả lời Biệt phái ràng, dù “đã vác nặng cả một ngày thường” qua việc tuân giữ Lề luật từ buổi thơ ấu, họ không được phép chỉ trích việc Thiên Chúa lấy lòng nhân lành ban cho các tội nhân, vào muộn trong nước Trời, cùng một phần thưởng như họ. Sau hết có kẻ áp dụng dụ ngôn vào mối liên hệ giữa Do thái và lương dân: nhưng người này, dù vào trễ trong nhiệm cục cứu rỗi của Đấng thiên sai, cũng sẽ thừa hưởng các lời hứa đã ban cho tuyển dân; việc họ gia nhập muộn màng không có nghĩa là họ thông phần ít hơn vào các của cải thiêng liêng Chúa Kitô mang đến. Phải chọn lối nào trong ba lối áp dụng vừa nêu?
3. Nếu lưu tâm đến ‘toàn bộ thần học Mt, ta có thể tiên thiên rằng trong ba lối áp dụng này, lối nào cũng có thể chấp nhận được. Quả vậy, mỗi lối đều đáp ứng một số bận tâm và chủ đề nòng cốt của Tin Mừng thứ nhất. Thành thử không có lý do gì để loại bỏ một trong ba, như thể nó mâu thuẫn với viễn thông của Mt. Dầu vậy, ta vẫn có thể xếp hạng chúng theo thứ tự đáng ưu tiên chấp nhận nhiều hay ít. Vì dù cả ba lối áp dụng đều dung nạp được, bộ không có một lối nào nổi bật hơn hai lối kia ư?
Câu trả lời dĩ nhiên là có, và người ta có lý để ưa lối thứ nhất hơn, là lối áp dụng dụ ngôn vào các môn đồ. Quả thế, văn mạch trực tiếp rất rõ ràng về điểm này: trong các đoạn văn đi trước và đi sau, chỉ có các môn đồ được đề cập. Và vì để trả lời cho một câu hỏi cụ thể của Phêrô mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn này. Phải chăng Người cũng có nghĩ tới Biệt phái hoặc toàn thể Israel, được đại diện qua những kẻ “đầu hết” trở nên cuối hết”? Điều ấy có thể lắm, nhưng chẳng có gì trong bản văn xác quyết cho ta như vậy. Thành thử tốt hơn là nên lưu ý tới chính cách trần thuật của bản văn Tin Mừng và giải thích dụ ngôn dựa vào câu hỏi của Phêrô. Nhưng như thế thì nó sẽ mặc ý nghĩa nào ?
4. Phêrô xem ra có một lối suy tưởng hơi tính toán. Phải tha mấy lần (18, 18- 22)? ông đã sẵn sàng tỏ ra quảng đại và đề nghị một giới hạn rộng rãi: 7 lần. Dù thế, ông vẫn mong một câu trả lời rõ rệt. Và Chúa Giêsu đáp: người phải tha đến 77 lần, nghĩa là luôn luôn. Kỳ thực, qua cách trả lời đó, Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể qui định vấn đề các tương giao liên vị dựa trên một nền tảng có tính cách định lượng được.
Trong trường hợp hiện tại cũng vậy, Phêrô muốn biết những ai đã từ bỏ mọi sự để phục vụ Chúa Kitô sẽ được phần thưởng nào. Ông nghĩ cả hai vế của phương trình phải cân đối: phục vụ và hy sinh bao nhiêu, phần thưởng sẽ là bấy nhiêu. Chúa Giêsu vồn vã trả lời và đoan chắc với ông rằng các tôi tớ người sẽ được ân thưởng bội hậu. Tuy nhiên câu hỏi của Phêrô đã bị chuyển hướng và cho thấy ông có thái độ sai lầm. Nước Trời đâu phải dựa trên luật giao hoán đổi chác, lao động bao nhiêu, tiền lương bấy nhiêu! Không nên áp dụng cái có thể là thủ tục hoàn toàn chính đáng trong lãnh vực kỹ nghệ hay thương mại vào việc phục vụ Thiên Chúa. Quả vậy, trong Nước trời chẳng có vấn đề công nghiệp cá nhân được đánh giá theo giờ lao động đâu. Đây tiên vàn là vấn đề đón nhận ân sủng. Thiên Chúa không mấy nhìn đến nỗ lực của người thợ cho bằng đến lòng quảng đại bao la của Ngài, hằng muốn hiện thân cho tất cả cách sung mãn, trọn vẹn. Thành thử trong văn mạch này, văn mạch nói đến việc trả lương cho các môn đồ (câu hỏi của Phêrô), dụ ngôn đã nêu lên một trường hợp trả lương cho các người thợ trong đó lòng quảng đại thắng lướt óc tính toán hơn thua.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ. “Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế... Há tôi lại không được phép.... sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình TN 25-A168
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23). Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương...
***
Kính thưa cộng đoàn,
Một lần kia, đang ngồi uống cà phê với mấy bạn ở ngoài quán. Một đứa bé nó bán vé số đến TN 25-A169
Một lần kia, đang ngồi uống cà phê với mấy bạn ở ngoài quán. Một đứa bé nó bán vé số đến gần, và nó mời, thì con mới chọc nó:
- Con ơi, con bán cái gì?
Thì bé mới nói rằng:
- Dạ thưa chú, con bán Mơ Ước.
Hỏi: Tại sao vậy con?
- Bởi vì, rõ ràng chú thấy rằng, tới chiều, ai cũng muốn mình được trúng số. Và đó chính là Mơ Ước của mọi người.
Mơ Ước đó, hình như ai cũng mơ ước cả. Bởi vì, ai cũng ước mơ mình được giàu sang phú quý, có thật là nhiều tiền, vợ đẹp, con khôn trên cuộc đời này.
Như, có một cái câu chuyện kia kể rằng:
Có một chàng thanh niên đi lên núi và gặp vị thiền sư và xin vị thiền sư cho bửu bối để làm sao thỏa mãn ước nguyện của mình. Và rồi vì tình thương, vị thiền sư đã cho chàng thanh niên ước mơ đó. Để khi trở về với cuộc đời, sau chốc lát, chàng thanh niên mơ ước có vợ đẹp con khôn. Và chỉ trong chốc lát thôi!
Thì anh ta có một ngôi biệt thự, và anh ta có một người vợ đẹp, và anh ta ước mơ rằng anh ta được là người giàu có. Và cũng chỉ trong chốc lát thôi! Anh ta đã được giàu có.
Thế nhưng, có một điều đáng nói rằng, vị thiền sư trao cho anh cái bửu bối đó và nói rằng: ma quỷ sẽ làm theo tất cả những điều mà anh muốn, anh ước mơ.
Nhưng mà nếu, mà anh không làm theo ước mơ đó, anh không ước mơ điều khiển được cho ma quỷ không có giờ nghỉ, thì ma quỷ sẽ quật lại anh. Và rồi đầy đủ rồi. Xong rồi, chỉ cần trong chớp nhoáng: vợ đẹp, con khôn, nhà lầu, biệt thự.
Và, hết giờ rồi nhanh quá! Và còn lại một thời gian rất dài anh ta mới sợ quá và đi lên núi gặp lại vị thiền sư anh ta hỏi rằng:
Thiền sư ơi! Bây giờ có cách nào làm cho quỷ nó không thất nghiệp, nó có việc làm? Để nó đừng quật lại tôi.
Vị thiền sư mới nói rằng: -Bây giờ ngươi hãy đi nói với con quỷ rằng, hãy đi lấy cái lông con chó mực, mà vuốt lại cho nó thẳng.
Thế rồi, chàng thanh niên đó đi xuống núi và gặp con quỷ và quỷ hỏi: - Bây giờ muốn làm gì cho anh nữa, tôi sẽ làm?
Chàng thanh niên nói rằng: ngươi hãy đi vuốt cái lông của đuôi con chó đó cho nó thẳng. Và quỷ hoàn toàn bó tay, bởi vì quỷ làm không được!
***
Và rồi, chúng ta lại thấy đó là ước mơ của con người. Bởi vì, ai ai cũng ước mơ: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, đó là chuyện bình thường. Bởi vì, là con người trong cái phận người mình có cái ước mơ của mình.
Và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu lại khác! Chúa Giêsu cũng có một cái Ước Mơ nhưng mà, không phải một cái ước mơ để mà giàu có, giàu sang, phú quý, quyền lực. Mà ước mơ của Chúa Giêsu đó là gì?
“Thầy những ước mơ ném lửa vào trần gian, và lửa trần gian này cháy bùng lên.”
Nghe thấy sợ quá, hoảng quá! chính người Tin Lành đã bắt bẻ cái câu Kinh Thánh này!
Thực sự ra, không phải người Tin Lành mà cả người Công giáo, nếu nghe chưa có rõ, hiểu chưa tường, thì sẽ cảm thấy rất khó chịu và thấy Chúa Giêsu là một người rất gian ác. Bởi vì ước mơ gì? Ước mơ của Chúa Giêsu đó là: Nén lửa vào thế gian.
Mà lửa là gì? Lửa là thiêu rụi, là đốt cháy! Vậy mà Chúa Giêsu lại ước mơ đem lửa vào thế gian.
Cái lửa ước mơ của Chúa Giêsu đem vào thế gian không phải là cái lửa của sự chết, của sự cháy, của sự thiêu rụi mà đó chính là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mang tới tình yêu của Thiên Chúa Cha vào trong cuộc đời mình và Chúa Giêsu muốn chuyển cái tình yêu đó cho nhân loại, cho anh chị đồng loại. Chúa Giêsu ước mơ làm sao cho cái Tình Yêu đó thắp sáng lên trong cuộc đời mỗi người Kitô Hữu.
Hôm nay chúng ta nghe một câu chuyện rất là vui. Khi mà trong cái hành trình đi rao giảng của mình, Chúa Giêsu lấy cái hình ảnh của Nước Trời có khi là tiệc cưới, có khi là lưới cá, có khi là viên ngọc quý. Và hôm nay, chúng ta lại được nghe, chúng ta bắt gặp hình ảnh của một Nước Trời như là một ông chủ Vườn kia, thuê người đi làm vườn nho nhà mình.
Và cái nét đặc biệt là: Trước khi thuê thợ vào làm vườn nho thì ông chủ đã thỏa thuận lương bổng cho tất cả những người làm với ông.
Và đặc biệt, có những người đến trễ nhưng ông vẫn vui vẻ để đón nhận vào làm công việc của ông. Thế nhưng, tưởng chừng rằng người chủ này rất là tốt bụng và rất vui vẻ. Khi đã mời gọi những người thậm chí đi làm giờ trễ vào làm. Người ta gọi câu chuyện này là câu chuyện giờ thứ 11.
Và ông chủ này rất là bất công, ông chủ này làm cho người ta khó chịu! Khi ông chủ kêu những người đến sau cùng và những người đến trễ đó để trả lương và điều đặc biệt hơn nữa làm cho những người đến làm trước nổi khùng lên.
Bởi vì, những người mới vào làm có một chút thôi thì ông chủ vẫn trả lương, và trả đúng 1 đồng như thỏa thuận. Và cái lòng ganh tị của những người đến trước đã bùng bùng lên.
Và rồi họ đã quở trách ông chủ và rồi ông chủ nói với những người mà ông chủ thuê giờ đầu:
- Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu? Chớ thì, bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy một đồng của bạn đi và hãy đi về. Bởi vì, tôi muốn trả cho ai hết là quyền của tôi.
Chúng ta thấy căn tính và nét đẹp của đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến cho trần gian này. Chúa Giêsu đến mang tình yêu đến cho trần gian này.
Và Chúa Giêsu lắp đầy trên cuộc đời của những con người, và đặc biệt những con người tội lỗi.
Những người công chính thì thường huênh hoang. Và nghĩ rằng mình chẳng cần đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
Còn những người tội lỗi họ biết mình, ý thức được mình là những con người tội lỗi và họ xin Lòng Thương Xót Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không xử với chúng ta theo sự công bằng. Nếu mà Chúa Giêsu xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc kẹt.
Ngay bản thân con, nhìn lại cuộc đời của mình: bốn mươi mấy năm trời, mười năm linh mục. Nhìn lại, không phải là nói lý thuyết, không phải là nói để được Chúa thương, không phải là nói để cho anh chị em thương hại đâu. Nhưng diện đối diện với lòng mình, thấy mình đặt mình trước mặt Chúa, thì mình thấy mình ngược lại với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu càng tuổi càng thêm nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời.
Còn bản thân của mỗi người chúng ta và cách riêng bản thân của con, con cảm thấy rằng mình là con người quá tội lỗi. Vì nhiều lần, nhiều lúc, mình cũng nghĩ rằng, mình sẽ làm điều này, điều kia cho Chúa và anh chị em đồng loại của mình. Những người sống gần với mình, những người thân với mình đừng buồn. Thế nhưng chỉ vì cái tôi của mình, nhiều lần nhiều lúc mình đã làm cho những người đó buồn.
Và rồi, nếu! nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương.
Căn tính của cuộc đời của Chúa Giêsu là chỉ xót thương thôi, Ngài quên đi những lỗi lầm của chúng ta, Ngài quên đi những yếu đuối của chúng ta và Ngài thương xót chúng ta như trong bài đọc thứ nhất:
Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Đường lối của các ngươi và đường lối của Ta cách xa nhau.
Tư tưởng của chúng ta là như thế.
Chúng ta vẫn sống công bằng với anh chị em. Nhiều khi cái công bằng đó đến nghiệt ngã! Nếu nhìn đến sự công bằng đi! chúng ta có công bằng không?
Khi xung quanh chúng ta có quá nhiều người kém may mắn hơn chúng ta. Những người khuyết tật, những người mù, và những người câm điếc. Liệu rằng, tất cả những gì chúng ta có, chúng ta có can đảm để chia sẻ cho những người bất hạnh đó một cách công bằng hay không?
Trong khi đó thực tế của cuộc đời chúng ta là những con người yếu đuối Chúng ta là những con người tội lỗi vậy mà CHÚA thương chúng ta nhiều. Chúng ta là những người thợ giờ thứ 11, làm ít thưởng nhiều nhưng trong lòng của chúng ta vẫn mặc lấy, mang lấy sự hơn thua, sự ích kỷ.
Nước Trời chắc có lẽ, không có trò của những người ganh tị. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người hơn thua. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người giành giật. Nước Trời là Nước mà nơi đó, chỉ có tình yêu, và tình yêu mà thôi!
Vẫn là những con người yếu đuối sống trong dòng chảy của xã hội. Ngày hôm nay kinh tế thay đổi nhiều, mà lòng người cũng thay đổi nhiều, khiến cho người ta ích kỷ nhiều hơn, ghen tuông nhiều hơn, đấu đá nhiều hơn.
Và xin Chúa cho mỗi người chúng ta, dành thời gian nhiều hơn với Chúa. Đặt mình trước mặt Chúa, để luôn luôn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta là những con người tội lỗi. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương. Để rồi, chúng ta cũng lấy tình yêu thương, mà Chúa yêu thương chúng ta đó mà chúng ta yêu thương anh chị em đồng loại.
Bởi lẽ, Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa yêu thương chúng ta hơn chúng ta tưởng. Và khi cảm nhận được lòng thương xót đó, chúng ta sẽ yêu thương anh chị em đồng loại và chúng ta sẽ bớt đi những hờn ghen, những ganh tị. Bởi vì, Chúa là người quá yêu thương chúng ta trong khi chúng ta còn là tội nhân. Như Thánh Phaolô nói: Chúa đã yêu thương chúng ta khi chúng ta đều là tội nhân, Ngài đã chết, đã chết cho ta.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để chúng ta nhìn lên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được một lòng yêu thương, một lòng thương xót vô bờ mà Chúa đã dành cho chúng ta. Để rồi, chúng ta đừng bao giờ ganh tị với anh chị em đồng loại chúng ta như những người trong trang Tin Mừng ngày hôm nay. Amen.
Dòng dã lịch sử nhân loại và lịch sử dân riêng Ítraen, Thiên Chúa không ngừng nói với con người TN 25-A170
Dòng dã lịch sử nhân loại và lịch sử dân riêng Ítraen, Thiên Chúa không ngừng nói với con người và chứng tỏ : “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương. Chúa nhân ái với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên… Ai qụy ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên” (Tv 144,8-9.14). Ngôn sứ Isaia còn công bố và nhắc nhở : “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên. Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương” (Is 55,6-7).
Sự tốt lành, và lòng nhân hậu của Thiên Chúa tất nhiên vượt xa ý nghĩ của phàm nhân, vì “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9). Chân lý này đã được chính Đức Giêsu làm sáng tỏ qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho” trong Tin Mừng Matthêu:
Thiên Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, vì Ngài đón nhận tất cả mọi người, không loại bỏ ai: Đức Giêsu đã trình bày chân dung một ông chủ rất tốt lành “vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình, sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền” (Mt 20, 1-2). Thế rồi,” khoảng giờ thứ ba”, rồi “khoảng giờ thứ sáu”, cả khi chiều về, ông đều ra ngoài đường và thấy vẫn còn những người “ở không”, chưa được ai mướn. Ông chủ hỏi họ : “Sao các anh đứng suốt ngày ở đây, không làm gì hết vậy ? Họ đáp : “Vì không ai mướn chúng tôi” (Mt 20,6-7). Và ông bảo tất cả “Hãy đi vào vườn nho làm việc cho tôi !”, và với mỗi người, ông đều thoả thuận trả lương cho họ “hợp lẽ công bằng” (Mt 20,4).
Ông chủ là Thiên Chúa đã đích thân ra đường hầu như suốt ngày để mời gọi những người “ở không”, thất nghiệp vào vườn nho làm việc cho ông. Ông chủ thật tốt, vì không từ chối ai, dù trong số họ có những người chưa làm vườn nho bao giờ, tay nghề còn non nớt, cả những người sức khoẻ yếu kém, lý lịch nhân thân không bảo đảm. Bằng chứng là ông đã không đặt ra bất cứ điều kiện nào từ tuổi tác, sức khỏe, khả năng, cũng chẳng bắt ai phải xuất trình bằng cấp, hay giấy chứng nhận hạnh kiểm của phường xã, hoặc nhận xét của tổ trưởng, công an khu vực, nhưng cách chọn nhân viên, người làm của ông chủ rất hào phóng, dễ dàng, và hợp đồng lương bổng hậu hĩnh, rõ ràng, phân minh.
Qủa thực, sự tốt lành và nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện qua trái tim thương xót và đôi tay giang rộng của Ngài khi đón nhận tất cả mọi người vào vườn nho Nước Trời, không trừ ai, dù phần đông bất xứng, không đủ điều kiện.
Thiên Chúa tốt lành và nhân hậu khi ban hồng ân dồi dào, chan chứa cho tất cả mọi người: Thiên Chúa là ông chủ đã biểu hiện lòng tốt cách rất độc đáo, khi trả cho tất cả mọi người đã vào làm vườn nho cho ông số lương cao nhất của một ngày trọn, dù có người mới chỉ làm một giờ, vì được nhận vào muộn, ở “giờ thứ mười một”. Thấy thế, những người vào làm trước nhất tỏ thái độ bất mãn, và cằn nhằn ông chủ : “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12).
Thực vậy, dụ ngôn “thợ làm vườn nho” đã đề cập và đề cao sự tốt lành và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Trước những người tự cho mình xứng đáng, giỏi giang, đạo đức hơn người, và đang khiếu nại phần tốt nhất cho mình, Đức Giêsu muốn họ hiểu rằng lương bổng họ nhận, phần thưởng họ lãnh đều không do tài cán, công lênh, đạo đức, phẩm hạnh của riêng họ, nhưng tất cả là hồng ân từ lòng tốt, và nhân hậu của Thiên Chúa, nên thái độ phải có chính là biết chấp nhận và đón nhận tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, Đấng không gọi những người được tuyển chọn là tôi tớ, kẻ ăn người làm, nhưng là Bạn Hữu (x. Ga 15,15); Ngài cũng ân cần căn dặn những ai đi theo Ngài: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27), nên thái độ ghen tức khi thấy người khác nhận được hồng ân như mình, hoặc hơn mình là thái độ không xứng hợp ở người được Thiên Chúa gọi vào làm vườn nho cho Ngài.
Xin Chúa cho chúng con luôn xác tín lòng tốt và nhân hậu của Thiên Chúa hằng bao phủ cuộc đời mỗi người chúng con, và đừng bao giờ lấy tư tưởng của con người để đo đạc tư tưởng của Thiên Chúa, lấy đường lối của phàm nhân để đo lường đường lối của Ngài, vì tư tưởng của Thiên Chúa thì vô cùng tốt lành, và đường lối của Ngài thì nhân hậu vô biên.
Là người cha tốt lành, nhân hậu, Thiên Chúa chỉ nghĩ và thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho chúng con là con cái của Ngài.
Người ta dễ mủi lòng trước một cảnh đời bất hạnh. Nhìn thấy người khác đau khổ, ai mà không TN 25-A171
Người ta dễ mủi lòng trước một cảnh đời bất hạnh. Nhìn thấy người khác đau khổ, ai mà không thương. Lòng thương người là có thật. Nó được nuôi dưỡng qua những tháng ngày: từ tình thương yêu giữa những người thân trong gia đình, tình bạn bè, tình làng nghĩa xóm. Rồi một ngày, ta nhận thấy lòng mình càng mở ra hơn, mình cũng thương cả những con người bất hạnh thỉnh thoảng vẫn ghé vào nhà xin ta chén cơm hay ngụm nước. Thế nhưng bỗng một ngày, nhìn người ta sung sướng, ta thấy lòng mình ghen tức, khó chịu, ta hằn học trách đời bất công. Tại sao ta chỉ có thể mủi lòng trước sự đau khổ của người khác nhưng khi thấy họ sung sướng hơn ta, ta không thể chấp nhận được?
Cuộc đời của ta giống như câu chuyện của những người thợ được mướn vào làm việc trong vườn nho. Có khi ngay từ sáng sớm, ta đã may mắn kiếm được việc làm. Tuy phải làm việc nặng nhọc, vất vả cả ngày, chịu nắng nôi thiêu đốt nhưng bù lại, ta an lòng vì có được một công việc ổn định. Ông Chủ là người tốt đã trả lương cho ta, đồng lương cân xứng với việc ta đã làm. Ông thương ta, dù ta chẳng tài cán gì hơn ai nhưng Ông đã mướn ta vào vườn nho ngay từ sáng sớm. Ta ra sức làm việc, chăm chỉ từ sáng sớm đến khi chiều về, không nề hà những vất vả phải chịu. Cuộc đời đã dạy cho ta một chân lý: “Có làm thì mới có ăn”. Nếu ta biếng nhác, ta mới là người đáng trách. Khoảng giờ thứ mười một, ông chủ vườn nho trở ra và thấy những người khác đứng ở đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi” (Mt 20, 6-7). Cuộc đời của ta cũng đã từng canh cánh một nỗi lo sợ: sợ thất nghiệp. Đó là nỗi lo lắng của những người thợ phải đứng chờ mỏi cả chân mà vẫn chưa có ai thuê. Họ canh cánh trong lòng nỗi lo cơm áo gạo tiền. Không ai thuê, ta lấy đâu ra tiền đong gạo cho đàn con nheo nhóc. Ta hãy nhớ lại những lần ta phải “ở không” mấy tháng liền vì không tìm được việc làm. Ta cảm nhận được niềm vui của những người được mướn vào làm việc trong vườn nho vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, và cả giờ thứ mười một nữa. Chờ đợi điều gì quá lâu, người ta sẽ dễ chán nản và muốn bỏ cuộc, có những người đã bỏ cuộc. Ta đã thấy được sự kiên trì, nhẫn nại của những người vào làm giờ sau hết. Hãy thử nghĩ xem, họ đã phải đứng chờ ở chợ trong thời gian lâu như thế là vì điều gì. Họ mong chờ một cơ hội để được một ông chủ thuê vào làm, ít là kiếm được đôi ba đồng để trang trải trong cuộc sống. Có được việc làm, họ sẽ có được một khoản tiền dù ít ỏi nhưng cuộc sống của họ vẫn được đảm bảo hơn. Có rất nhiều người đã phải chờ đợi lâu như thế. “Không ai thuê”, đó là một nỗi lo, một nỗi đau, một thử thách mà họ thật sự đã phải trải qua.
Chiều về, kết thúc một ngày làm việc vất vả, ta sẽ được lãnh đồng lương. Nhìn thấy những người vào làm sau chót được lãnh một đồng, ta cứ nghĩ mình sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng đến lượt mình, ta cũng chỉ được lãnh một đồng. Ta hụt hẫng. Lòng tự ái của ta đang cao hơn núi. Ta nghĩ đến sự khó nhọc mình đã phải chịu. Ta đã không thể vui niềm vui của những người vào làm sau chót. Họ đã chẳng phải vất vả gì nhưng lại được hưởng số lương như ta đáng được hưởng. Ta ghen tức và thấy thương cho chính mình. Ta trách móc Ông Chủ bất công. Ta đã chân thành chia sẻ niềm vui của những người được nhận vào làm sau, nhưng ta không thể chia vui khi họ được thương hơn ta. Tình thương có thể đem ra so sánh được không? Nếu cứ đem tình thương ra cân đo đong đếm như thế, ta sẽ chẳng thấy mình được thương, vì dường như ta cứ muốn được thương hơn người khác, và vì thế khi thấy người khác “được thương hơn”, ta sẽ ghen tức, bực bội là chuyện đương nhiên. Nói khác đi, ta chưa thương người khác như Chúa Giêsu vẫn mời gọi: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 31-35).
Lạy Chúa Giêsu! Người chính là Ông Chủ tốt lành. Chúa yêu thương chúng con với một tình yêu duy nhất, tràn đầy. Chúa đã dạy con phải hết lòng yêu thương anh em mình. Chúa biết trái tim con còn chưa đủ quảng đại để có thể vui với người vui và buồn với người buồn. Xin biến đổi trái tim con, uốn nắn trí lòng con cho nên giống Chúa. Xin Chúa dạy con biết trân quý tình thương Chúa đã dành cho con, để con cũng biết hết tình yêu thương anh em như Chúa mời gọi. Amen.
Khi nói về tình yêu chúng ta hiện lên vô vàn những khái niệm, còn con tim rạo rực cũng như muốn TN 25-A172
Khi nói về tình yêu chúng ta hiện lên vô vàn những khái niệm, còn con tim rạo rực cũng như muốn “lên tiếng”! Trong kinh nghiệm, chúng ta có thể khẳng định rằng vẻ đẹp của tình yêu được xây dựng từ người trao yêu thương. Tức là tình yêu được tạo nên từ sự cho đi và nhận lãnh. Nhưng để diễn tả tình yêu bằng hành động thì thật khó! Bởi chúng ta chỉ muốn lãnh nhận mà không muốn cho hay chưa đủ khiêm tốn để đón nhận sự trao ban của người khác. Đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta nghe: “Dụ ngôn thợ làm vườn nho”(Mt 20,1-16). Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Lòng Thương Xót của Người, và khi cảm nhận về tình yêu, chúng ta cũng biết trao ban tình yêu ấy cho tha nhân.
Thiên Chúa không yêu chúng ta với những gì chúng ta có nhưng như chúng ta là. Thiên Chúa chính là người chủ vườn nho, từng khoảnh khắc đã “đi ra” và sẵn lòng đón nhận tất cả những người làm công, dù là vào giờ “chót” trong ngày. Đặc biệt, ông đã rộng lòng trả lương không những tương xứng mà còn hơn cả điều họ nghĩ, hơn cả sức lực họ làm ra. Đúng thế, từng giờ, từng giây phút, Thiên Chúa luôn tỏ lòng nhân hậu, yêu thương chờ đợi chúng ta đến với Người. Chính Người đi tìm gặp chúng ta để gửi trao yêu thương. Người không “chọn” chúng ta như những gì chúng ta “có”: là tài năng, sức khẻo, thì giờ…, nhưng Người yêu thương chúng ta “như chúng ta là”. Vậy từng giờ khắc của ngày sống, chúng ta đã đáp lại tình yêu của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có đang tìm gặp Chúa hay chỉ loay hoay trong khoảng không gian của mình để đạt được những gì chúng ta muốn? Người đang mong chờ chúng ta đến với Người, không phải với những công trạng, công việc to lớn nhưng với tình yêu mến. Thật vậy, xét về mặt lý trí, những người vào làm sau hết chẳng có công trạng gì nhiều. Như gương của thánh nữ Têrêxa nhặt một cọng rác cũng đủ cứu một linh hồn, một việc làm tầm thương với tình yêu phi thường. Đó là tin vào lòng nhân hậu của Chúa. Những người làm giờ đầu tiên nhận tiền xong họ đã càm ràm ông chủ “tại sao vậy?”. Phải chăng họ chỉ nghĩ đến nhu cầu và đòi hỏi những lợi ích hơn cho mình nên họ đã sinh lòng ghen tức? Đối với Thiên Chúa, Ngài biểu lộ tình yêu không chỉ dựa vào sức lực cử chúng ta nhưng bới lòng yêu thương, nhân hậu của Chúa.Vậy, chúng ta đã nhận được tình yêu của Thiên Chúa chúng ta hãy đáp lại tình yêu của Người qua việc thể hiện tình yêu ấy cho tha nhân. Chúng ta đừng ghen tức hay so bì khi nhìn thấy người khác giàu có hơn, sung sướng hơn hay có địa vị hơn. Thay vào đó, chúng ta hãy cùng cộng tác và hỗ trợ để họ chu toàn tốt những trách nhiệm, nghiệp vụ của họ. Đặc biệt, chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cho cả chúng ta nữa, biết đáp lại tình yêu Chúa qua việc đem hết khả năng, nhiệt huyết mà làm sinh hoa trái trong đời sống đức tin thường ngày. Để cùng mọi người, chúng ta diễn tả vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết luôn tìm kiếm Chúa như chúng con là để chúng con đáp lại tình yêu và lòng nhân hậu Chúa dành cho chúng con. Nhờ Người, chúng con biết đón nhận và cùng nhau sống an vui, hạnh phúc. Amen.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta dụ ngôn “Thợ làm vườn nho”. Ông chủ trong câu chuyện là TN 25-A173
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho chúng ta dụ ngôn “Thợ làm vườn nho”. Ông chủ trong câu chuyện là người “tốt bụng” cách khác thường, không giống với các ông chủ ta thường gặp. Ông ra chợ từ sáng sớm mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình, rồi nhiều lần trong ngày trở ra, thấy có những người ở không, ông gọi họ vào vườn nho và hứa sẽ trả công cân xứng. Tất cả những người được gọi đều được trả mỗi người một quan tiền bắt đầu từ người vào giờ sau chót.
Chúng ta cũng được ví như những người thợ được gọi vào làm việc trong vườn nho. Ngày chúng ta được gọi vào vườn nho cuộc đời là ngày chúng ta chào đời. Có người được gọi vào giờ thứ nhất, có người vào giờ thứ ba, thứ sáu hay thứ mười một…Có bao giờ chúng ta tự hỏi, tại sao ta lại được sinh ra vào thời này mà không phải là thời kia, là gia đình này mà không phải gia đình nọ. Về điều này, chúng ta không thể tự mình quyết định. Chính Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu đã gọi mỗi người chúng ta ở những thời điểm, hoàn cảnh rất khác nhau. Tuy thế, tất cả chúng ta đều được Người trao cho một sứ mạng là làm việc trong vườn nho cuộc đời: Có người là giáo viên, có người là linh mục, có người là công nhân… Lúc này, ta được mời gọi cộng tác với Ngài trong vai trò này, khi khác ta lại được mời gọi cộng tác trong vai trò khác. Điều quan trọng là ta phải khám phá ra sứ mạng của mình và nỗ lực cộng tác với tất cả khả năng, sức lực và tình yêu để góp phần làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Vậy làm sao ta có thể khám phá và thực thi sứ mạng của mình?
Thiết nghĩ, để từng bước khám phá và thực thi sứ mạng của mình mỗi ngày ta phải đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa, với tha nhân; mỗi suy tưởng, nói năng, hành động ta luôn hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Khi ta làm như vậy, ta sẽ bớt đi những ích kỷ, ghen tương, giận hờ ta dành cho nhau. Thiên Chúa không chỉ gọi riêng ta nhưng là gọi cả anh chị em của ta, tất cả mọi người. Cũng chẳng phải vì Ngài cần đến ta nhưng là bởi Ngài biết ta cần đến Ngài. Ngài biết ta cần được làm việc, được thể hiện mình, được góp phần nhỏ bé của mình vào vườn nho của Chúa. Bởi thế, ta được mời gọi cộng tác, liên đới với mọi người trong sứ mạng rất riêng của ta. Mỗi người đứng ở một vị trí khác nhau, nhiệm vụ khác nhau và với tất cả sức lực, khả năng, tình yêu của mình hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó trong cuộc đời mình. Khi thực thi sứ mạng rao giảng Tin Mừng Đức Kitô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy, ngài đã phải vất vả, bị giằng co giữa hai đàng: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1, 23-24). Ngài đã chọn ở lại với các anh em. Còn chúng ta, đã bao giờ chúng ta trăn trở, thao thức cho sứ mạng của mình? Nếu chúng ta hết mình với sứ mạng Chúa trao trong cuộc đời, chúng ta sẽ là những người thợ đẹp lòng Chúa. Chúng ta sẽ bớt đi thái độ cằn nhằn, so đo tính toán theo kiểu con người mà mặc lấy tâm tình phó thác, khiêm tốn đón nhận tất cả. Ta sẽ có khả năng vui mừng vì thấy người khác cũng được gọi và trả công như ta. Mỗi chúng ta, khi thực thi sứ mạng cần nhận ra lòng thương xót, sự quảng đại mà Thiên Chúa đã dành cho ta để luôn biết vui lòng với những gì mình được lãnh nhận.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương gọi chúng con vào đời, được tin tưởng trao ban sứ mạng cộng tác với Chúa trong vươn nho cuộc đời. Xin cho chúng con luôn biết khám phá, nỗ lực thực thi sứ mạng Chúa trao trong vui tươi, khiêm tốn, tin tưởng. Xin cho chúng con biết đi vào sự hiệp thông với Chúa và tha nhân, cùng nhau khám phá, thực thi sứ mạng Chúa trao; cùng giúp chúng con biết bằng lòng với những gì nhận được và không bao giờ lấy tư tưởng, suy nghĩ của mình mà áp đặt hay giới hạn tình thương của Chúa. Amen.
Đại nhân Mahatma Gandhi xác định: “Luật lệ không công bằng thì tự nó đã là một dạng bạo lực TN 25-A174
Đại nhân Mahatma Gandhi xác định: “Luật lệ không công bằng thì tự nó đã là một dạng bạo lực.” Công bằng liên quan con người, Brian Tracy phân tích: “Bạn sẽ HỐI TIẾC rất nhiều điều trong đời, nhưng bạn sẽ KHÔNG BAO GIỜ HỐI TIẾC vì đã quá tốt hoặc quá công bằng.”
Tay làm, hàm nhai; tay quai, miệng trễ. Đó là tất yếu. Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!” (2 Tx 3:10) Đó là công bằng. Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách trau dồi sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội: “Nhàn cư vi bất thiện.” Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Mỗi người một việc để bổ túc lẫn nhau. Chỉ có lòng người xấu và hèn hạ, không có nghề xấu, nghề hèn.
Làm việc gì cũng phải chịu khó, chứ đừng khó chịu. Người chịu khó lao động là người biết tự trọng, không ỷ lại vào người khác, tức là không ích kỷ, là một dạng phục vụ, và cũng là cách giúp đỡ người khác. Những người lười biếng là một dạng bóc lột sức lao động của người khác, cướp công sức của người khác.
Ngày 15-05-1891, ĐGH Lêô XIII (1810-1903) đã năm ban hành Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) liên quan giới lao động, thông điệp này vẫn còn giá trị ngày nay. Ngày 14-09-1981, dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông điệp Rerum Novarum, ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005) đã ban hành Thông điệp Laborem Exercens (Lao Động của Con Người), đề cập vấn đề Tin Mừng trong sự lao động và trong công việc. Điều đó cho thấy sự lao động là hoạt động quan trọng, cả thể lý và tâm linh, vì Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5:17) Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua cách hoạt động của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần. (x. St 1:1-31 – 2:1-3)
Công việc có liên quan luật lệ, đặc biệt là luật của Chúa. Có câu chuyện kể rằng…
Có hai người tên Tốt và Lành nói chuyện với nhau về công việc đời thường và tinh thần. Anh Tốt chê anh Lành về việc giữ ngày Chúa Nhật – cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ,… Anh Lành cười và đặt vấn đề:
– Này nhé, nếu tôi có 7 đồng, tôi ra đường và gặp một người ăn mày, tôi cho anh ta 6 đồng, anh nghĩ sao?
– Ôi, anh thật là đại lượng, đáng khen, còn người ăn mày kia chắc phải cảm ơn anh lắm.
– Đúng vậy. Thế nhưng người ăn mày kia lại đè tôi xuống để lấy nốt một đồng nữa. Vậy anh nghĩ sao?
– Cái thằng khốn nạn thật. Nó đáng chết!
– Đó là chuyện giữ ngày Chúa Nhật đấy. Anh cứ nghĩ coi: Chúa cho anh 6 ngày để làm việc, Ngài chỉ giữ lại cho Ngài một ngày là Chúa Nhật. Thế mà anh không biết ơn Chúa, không tôn trọng ý Ngài, lại còn dám cướp cả ngày Chúa Nhật. Động thái của anh có khác thằng vô ơn, độc ác và khốn nạn kia không?
Có thể câu chuyện này cũng là vấn nạn của chúng ta, bởi vì chúng ta thường có nhiều lý do để thoái thác và biện hộ cho chính mình, và theo ý mình.
Làm việc gì cũng mệt, không thể thoải mái. Chơi nhiều còn mệt kia mà. Nhưng khi lao động, chúng ta tự hoàn thiện mình qua việc tìm kiếm Chân-Thiện-Mỹ, tức là đi tìm chính Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài là Đấng chí thiện. (x. Mc 10:18) Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã từng nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.” (Is 55:6) Ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi. (x. Gv 3:1-8) Giờ Thương Xót sẽ đến lúc kết thúc. Vì thế, đừng lần lữa kẻo không kịp: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.” (Is 55:7) Đợi nước đến chân mới nhảy thì sẽ không kịp, thời gian cứ lặng trôi và đang dần thu ngắn lại. Chắc chắn có tận thế, và cái chết của mỗi người rất bất ngờ.
Hãy quyết tâm, đừng lần lữa, đừng chần chừ, đừng ngần ngại, và đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đã hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban.” (Tv 91:15-16) Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta ước muốn. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào ngoài Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, vì Ngài là Thiên Chúa duy nhất. (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20)
Là thụ tạo, là phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu hết huống chi tình yêu Thiên Chúa. Chính Ngài xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9) Hạt bụi phàm nhân quá bé nhỏ, li ti như loài vi trùng vậy.
Ngày xưa, người ta so sánh điều không tưởng với chuyện lên cung trăng, tức là không thể xảy ra. Nhưng ngày nay, người ta đã có thể lên cung trăng, có thể bay lượng trên bầu trời, nhưng đó chỉ là một góc nhỏ của trời mà thôi. Khoa học tiến bộ, người ta tìm mọi cách để khám phá bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn nhiều nơi người ta không biết là gì nên gọi là “lỗ đen” – chỉ thấy tối thui. Đành chịu thua!
Thiên Chúa toàn năng, siêu việt, chúng ta chỉ còn biết xưng tụng Ngài: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu.” (Tv 145:2-3) Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, chúng ta càng kính thờ và tạ ơn Ngài. Đó chính là hành trình đức tin, là quá trình lao động tâm linh.
Tuy cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương đối với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Nếu vấp ngã, hãy vững lòng tin và đứng dậy ngay!
Thiên Chúa vô tiền khoáng hậu, vô thủy vô chung, và yêu thương vô bờ bến, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.” (Tv 145:17-18) Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng là tội nhân, chẳng ai hơn ai, nhưng vấn đề cần thiết là chân thành sám hối: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9:13) Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ. (x. Hs 6:6) Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời “nói nặng” của Chúa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mt 15:8; Mc 7:6)
Câu châm ngôn của dân Pháp rất độc đáo: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác.” Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng ganh tị và tranh chấp, nhưng cũng có những người làm điều đó vì ý ngay lành, làm vì bác ái và bênh vực Tin Mừng. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì tính ưa tranh giành, không có lòng ngay. Nhưng Thánh Phaolô vẫn bảo là “không sao,” chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng vì điều ấy sẽ giúp ngài đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ.
Cuối cùng, Thánh Phaolô nói: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.” (Pl 1:20-21) Thánh nhân lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em.” (Pl 1:22-24) Vấn đề là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, tức là để “tuân phục Thánh Ý và vinh danh Chúa” mà thôi. Cũng vì thế mà Thánh Augustinô ước nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Biết Chúa là chân nhận chỉ một mình Ngài nhân lành và giàu lòng thương xót để mà tôn thờ Ngài hết linh hồn, hết sức lực; biết mình là tự ý thức yếu đuối và tội lỗi để mà khiêm hạ, quên mình.
Đại nhân Mahatma Gandhi rất thích Tám Mối Phúc của Chúa Giêsu, ông gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô. Ông đã từng xác nhận thẳng thắn: “Tôi yêu mến Đức Kitô nhưng tôi không phục các Kitô hữu.” Tại sao? Có lần ông vào một nhà thờ Công giáo và thấy bảng ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ.” Ông liền quay ra và không bao giờ đến nhà thờ nữa. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta vô cùng xấu hổ, bởi vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà chính mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói suông mà không thực hiện. Nước Chúa chưa rộng mở là lỗi của chúng ta: “Lỗi tại tôi mọi đàng!”
Đối với cộng đoàn Philíp, Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em.” (Pl 1:27) Và đó cũng là lời khuyên dành cho chúng ta hôm nay.
Ai cũng là người lao động vì mỗi chúng ta đều là “người thợ làm vườn nho” cho Chúa. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là đừng so đo, ganh tị, liếc xéo, mỉa mai, bè phái,… Sự công bằng vừa đáng mừng vừa đáng sợ: đáng mừng vì Chúa không chấp tội, đáng sợ vì chúng ta cố chấp. Sự sống và sự chết lúc đó mang tính đời đời. Phúc và họa không thể thay đổi. Vấn đề đó được đề cập trong dụ ngôn “ông nhà giàu và Ladarô nghèo khó.” (Lc 16,19-31)
Sau khi nói về phần thưởng dành cho ai biết buông bỏ mọi sự để nhẹ bước theo Ngài, Đức Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.” (Mt 19:30) Sự hoán vị trái ngược, rất đáng quan ngại. Rồi Ngài kể câu chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” (Mt 20:4)
Nắng nhạt, chiều buông, ông chủ bảo người quản lý gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà chẳng hơn gì người vào làm muộn.
Rạch ròi và thẳng thắn, ông chủ trả lời cho một người trong đám thợ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20:13-15) Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, cái tôi luôn nổi dậy, thế nên chúng ta vẫn thường so đo đủ thứ, “ngụ ý” rằng mình nổi trội hơn người khác. Giả sử Chúa Giêsu cũng đặt vấn đề như vậy với chúng ta như vậy thì chắc hẳn chúng ta chỉ có “câm như hến” mà thôi. Người ta gọi người đó là “Pathological Narcissist” – Người Tự Ái Bệnh Lý, nghĩa là tự yêu mình thái quá hóa thành bệnh lý. Bệnh gì cũng phải điều trị ngay.
Khi há miệng thì mắc quai nón. Vướng víu lắm. Càng nói càng dở, càng nói nhiều càng liều lĩnh, càng lý luận càng đuối lý. Nói nhiều thì sai nhiều. Chúa Giêsu thấy họ im re nên Ngài lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 20:16) Cứ chảnh như vậy thì công sức lao động trở thành công cốc. Phí đời!
Chính Chúa Giêsu không ngừng mời gọi mọi người tin vào Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất để được trường sinh bất tử, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không là “thích ai thì chọn,” mà là tùy quyết định riêng của người được gọi với đầy đủ quyền tự do. Sự tự do này do Thiên Chúa ban, có thể hữu ích hoặc bất lợi cho chúng ta, tùy thuộc ý muốn của mỗi người, Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này. Đó là sự công bằng, vì thế chúng ta không thể biện hộ bất cứ lý do gì.
Có phải là nhiều người không được vào Nước Trời? Rất có thể, vì người ta bướng bỉnh và cố chấp. Đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa thực sự muốn mọi người được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ ai phải hư mất, bị trừng phạt. Mối nguy là chúng ta ỷ lại, tự cho mình là tốt lành hơn người khác, mạo nhận là đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc xéo” tha nhân, cho rằng họ là người tội lỗi, xấu xa, thế nhưng chính họ lại có Visa Nước Trời trước chúng ta. (x. Mt 21:31-32) Thế thì thật khốn thay!
Thánh Thomas Aquino cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ. Nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.”
Lạy Thiên Chúa chí công, xin tăng lực để chúng con kiên trì miệt mài làm việc, xin giúp chúng con biết quên mình, khiêm nhường dấn thân, hết lòng phục vụ vì yêu mến. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Đại Việt sử ký toàn thư” ghi nhận, cha ông chúng ta bằng sức mạnh “thuỷ chiến”, đã 3 lần chiến TN 25-A175
“Đại Việt sử ký toàn thư” ghi nhận, cha ông chúng ta bằng sức mạnh “thuỷ chiến”, đã 3 lần chiến thắng giặc ngoại xâm tại Sông Bạch Đằng, thuộc Quảng Ninh, Hải Phòng. Tên tuổi các ngài sẽ còn mãi mãi lưu danh hậu thế: Ngô Quyền (938) – Lê Hoàn (981) – Trần Quốc Tuấn (1288). Tuy không để lại lời căn dặn cụ thể, chi tiết, tiền nhân, bậc sinh thành chúng ta, các ngài đều có ý nhắc nhớ hậu duệ: cha là anh hùng, con phải hảo hán, con hơn cha, nhà mới thực có phúc. Rất nhiều người hôm nay, thích dùng câu thành ngữ: thần giao cách cảm, như muốn khẳng định “phúc lộc” của tổ tiên, sự hiện diện của đấng bậc sinh thành, dù đã khuất, tình yêu của các ngài vẫn mãi ở bên con cháu, là có thật, xin đừng lãng quên.
Nhớ và quên là cảm xúc nơi con người, nếu buông bỏ lý, sẽ thấy tình bao la rộng lớn, nếu nhớ thân phận ta mong manh, nay còn mai mất, ta cần phải sống tốt, để thấy, để biết, mọi người là anh chị em, có chung cội nguồn yêu thương, xin hãy khắc ghi vào tâm trí. Lời mời gọi đi làm vườn nho, cách diễn tả về tình yêu thương luôn hiện hữu nơi cuộc đời này, là sự thật, ai cũng có cơ hội nhận biết Thiên Chúa quảng đại với từng hoàn cảnh. Tình yêu “không bờ bến” được cụ thể hoá, từ sáng sớm đến chiều tà, kẻ trước người sau đều có cơ hội làm việc, cuối ngày, tiền thù lao họ nhận đầy đủ. Cách cư xử đầy nhân ái là thế, dù thất nghiệp, dù túng nghèo, họ đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, cuộc sống càng khó khăn đau khổ, cánh cửa hạnh phúc ở phía trước càng lộng lẫy.
Người xưa có câu: nhiệm vụ quan trọng nhất của nền văn minh nhân loại, đó là mỗi người phải biết tư duy, ý thức mình được yêu thương. Khi dắt các học trò đi vào tình huống dụ ngôn, Đức Giêsu giới thiệu “ông chủ vườn nho” có một không hai, tiền công tiền thưởng luôn sòng phẳng theo thoả thuận, giầu nghèo, chức vị hay cùng đinh, đều đáng dự phần với gia chủ. Ai có thể quên, khi đói được ăn, khát được uống, cần việc làm, tức thì gặp được gia chủ tốt bụng, làm sao các học trò lại không thương nhớ Vị Thầy nói hay làm giỏi, chân thành trong yêu thương phục vụ, tế nhị trong hoà giải. Đúng, quên và nhớ, ganh ghét và yêu thương, đối nghịch nhau, vì thế mà con người luôn cần một trọng tài công minh hoá giải. Đức Giêsu luôn mong ước những ai là môn đệ của Ngài, hãy khiêm tốn học hỏi và thực hành bài tập: muốn không ganh ghét anh chị em, đừng bao giờ để Chúa xa khỏi lòng mình.
Trong đạo đức, trong nghệ thuật, vấn đề được công chúng đón nhận, không phải là ở lời nói mới lạ, mà hệ tại ở việc làm xuất phát từ trái tim và khối óc thật tỉnh táo. Được gọi đi làm vườn nho là vui rồi, vấn đề không phải là tiền công nhiều hay ít, mà là hạnh phúc vì gặp được gia chủ tốt bụng. Được làm môn đệ Đức Giêsu, các học trò không phải nhiệt tình theo chiều hướng: thiên lôi chỉ đâu đánh đó, vì nói hay không bằng nghe giỏi, sự trưởng thành tuỳ thuộc có liên đới hiệp thông với “sư phụ” mình thế nào. Con người giới hạn, mấy ai đủ tinh tế mà nhận biết đâu là ông chủ tốt bụng, có giọng nói ngọt bùi và cách cư xử đầy tình nhân ái ? Con người có thể nhớ ơn và đền ơn những ai thương yêu mình, nhưng đâu phải ai cũng nhớ lời răn dạy: ai mà phụ nghĩa quên ơn, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Lòng biết ơn, sống quảng đại, hài lòng với những gì mình đang có, bao giờ cũng là điều ghi nhớ cần thiết cho việc thực hành yêu thương. Tất cả vì yêu, từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 11, ông chủ vẫn ra đường tìm kiếm thợ vào làm vườn nho, vì muốn mong xã hội này, thế giới này, không ai phải phàn nàn xã hội thiếu thầy, thừa thợ. Trường đời luôn là chuỗi ngày giúp ta học, hiểu, và sống có tình có nghĩa. Những tư tưởng cao thượng, chỉ có thể toả sáng từ trái tim rộng lớn, những ân tình nặng trĩu, chỉ đến từ lẽ phải. Vì chưa hiểu công bằng yêu thương là giầu vật chất phải chia sẻ, nếu nhiều tài hay lắm đức, người ta phải có nghĩa vụ giúp nhau, cùng tiến tới bàn tiệc thiên quốc.
Đạo làm người vẫn khơi dạy điều hay lẽ phải, giúp ta sống đẹp, sống đúng, với bản thân và tha nhân: vật chất khó vay, ân tình khó trả, bạn bè dễ kiếm, còn tri kỷ thì khó tìm. Ông chủ trả tiền công cho mỗi người làm vườn nho theo thoả thuận, ông sẽ không chấp nhận, nếu cả đời người thợ cứ nông cạn như đứa trẻ con, xin đừng quên, hành trình đời người phải là quảng đại yêu thương. Mong ước được học, được hiểu, là tốt, khao khát hạnh phúc là đúng, xin ơn khôn ngoan, xin cho tâm trí dồi dào tình yêu, là hoàn toàn chính xác. Đức Giêsu sẽ vui, khi mỗi chúng ta là những môn đệ trưởng thành, sẽ không quên cùng Chúa học – hành, nhớ cùng Chúa sống quảng đại yêu thương, nhớ cùng Chúa duy trì và phát triển vườn nho Nước Trời. Amen.
Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng TN 25-A176
Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Những lời này cho thấy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, đồng thời phải thận trọng trong những suy tư về lòng bao dung của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, đặc biệt là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu đi lại giao du với những người tội lỗi và những hạng bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” mà Chúa Giêsu kể, nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương một cách vô lý, chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình. Khi khiếu nại và phàn nàn trách móc ông chủ, những người thợ dựa theo lý lẽ công bằng theo kiểu người đời, tức là người làm nhiều thì hưởng nhiều mà người làm ít thì hưởng ít. Tuy vậy, nơi Thiên Chúa không chỉ có công bằng, mà còn có tình thương. Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã trả lời: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”. Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn khổ của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu. Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ” (Bài đọc I). Những lo toan bận tâm thường ngày không cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I). Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chúng là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.
Ở đời thường “đứng núi này trông núi kia”. Con người vì quá tham lam nên luôn muốn hơn người TN 25-A177
Ở đời thường “đứng núi này trông núi kia”. Con người vì quá tham lam nên luôn muốn hơn người khác. Sự hơn thua thể hiện qua việc ganh đua, ganh ghét, đôi khi làm hại lẫn nhau.
Có cô gái nọ, ngoại hình xinh xắn, yêu một chàng trai hiền lành nhưng lại chẳng bao giờ biết bằng lòng với cuộc sống của mình. Hễ thấy có ai đó được người yêu tặng một món quà đắt tiền, là cô chạy về nũng nịu làm khổ người yêu. Hay vô tình nhìn ảnh ai đó được đi du lịch nhiều nơi, là cô lại giận dỗi chàng vì không có điều kiện đáp ứng cho mình.
Rồi từ ghen tị, cô chuyển sang gièm pha, nói xấu sau lưng từng bạn gái. Bởi cô cho rằng những người kia đâu có xinh, dịu dàng hay đặc biệt như mình mà lại nhận được những điều hơn mình. Để rồi sau cùng, tình bạn mất đi mà tiếng tăm cô cũng chẳng còn được đẹp đẽ gì nhiều. Tình yêu, đương nhiên cũng vì sự đố kị mà lung lay.
Vì ghen ghét mà con người gây nên cho nhau biết bao thị phi. Xem ra ở đời rất nhiều lần chúng ta cũng là nạn nhân của sự ghen ghét. Chúng ta cũng bị những tiếng xấu ở đời mà mình không hề có. Chúng ta cũng từng đau khổ vì những lời dèm pha đầy độc ác. Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Trong xã hội và cả trong tôn giáo. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Chúng ta đã từng chứng kiến khi ai đó bàn luận về một người vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Có những người trời ban cho nhan sắc đẹp thì vẫn có người ghen ghét bảo rằng nó xấu nết chẳng ra gì! Có những người tuổi trẻ thành công liền có người dè bửu bảo rằng chỉ là chạy chức chạy quyền có hay ho gì. Có những người sống rất độ lượng quan tâm chia sẻ đến mọi người thì vẫn bị tiếng xấu là giả hình, đánh lừa nhau thôi.
Xem ra sự ghen ghét ở mọi nơi trong mọi chốn. Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho dư đầy, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không cầu mong điều tốt đến với anh em mà đôi khi còn dèm pha và đạp đổ .
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn của con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhoen thường tình. Amen.
Tiền quý thật nhưng quý hơn nữa nếu gói cả tấm lòng. Thời Chúa Giêsu, một đồng có giá trị TN 25-A178
Tiền quý thật nhưng quý hơn nữa nếu gói cả tấm lòng.
Thời Chúa Giêsu, một đồng có giá trị một ngày lương. Với lòng tốt của Chúa, một đồng có giá trị lớn hơn rất nhiều nữa, nếu học được bài học của lòng tốt.
Một đồng đúng giá.
Khi có ghen tỵ, một đồng chỉ có giá đúng một đồng.
Người làm từ sáng sớm đến người làm giờ cuối, mỗi người được phát một đồng từ người đến sau hơn hết. Cách thử này, Chúa đã làm bộc lộ ra nhiều tâm tư của nhiều người. Người đến từ giờ thứ nhất, cũng như ngững giờ đầu, đều nghĩ mình sẽ được nhiều hơn, vì điều chính đáng đã làm được nhiều giờ hơn. Nhưng họ cũng chỉ lãnh có một đồng và một đồng không hơn không kém giá trị một ngày lương.
Một đồng, chỉ là một đồng không hơn, không kém. Công sức bỏ ra chỉ nhận lại là giá của công sức, không gì hơn. Đó là những gì buồn tẻ trong cuộc đời, con người của ghen tỵ chỉ nhặt lại về mình những ghen tỵ mà không sao ra khỏi nỗi buồn chán của một ngày sống. Khi không có tấm lòng, con người chỉ sống niềm vui tạm bợ bằng giá của một ngày lao công nặng nhọc.
Giá thật của một đồng.
Không chỉ là một đồng mà còn nhân lên nhiều lần bởi tấm lòng. Có nhiều gương sáng để soi chiếu.
Lula xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó. Thưở ấu thời, ông đi bán đậu phộng, đánh giầy ở những nơi phố chợ. Một hôm đi đáng giy cùng hai người bạn. Gặp một vị khách giàu có có ý định đánh giầy, nhưng lại không biết chọn ai.
Ông nói: Ai cần tiền nhất tôi sẽ trả cho hai đồng. Hai dồng thời ấy cũng lớn như hai ngày công.
Cả ba tròn xoe đôi mắt, hai người kia đều kể về hoàn cảnh nghèo khó của mình và đã mấy bữa nhịn ăn.
Lula đề nghị: Xin ông cho tôi đánh giầy, tôi sẽ chia cho hai người bạn tôi, mỗi người một đồng. Lời đề nghị quá tốt, ông nhà giàu đồng ý.
Vài ngày sau, ông nhà giàu kia tìm đến Lula và nhận ông vào làm công, dù tiền công không nhiều nhưng cũng ổ định hơn đi đánh giầy. Lula nghĩ rằng, nờ lòng tốt mà mình có thêm cơ hội khác tốt hơn một đồng.
Sau này, Lula chính là Luiz Inácio Lula da Silva đó là tên của tổng thống Brazil nhiệm kỳ 2002 – 2010 với châm ngôn “Giúp đời”.
Giá một ngày lương.
Một đứa trẻ trong gia đình, ít khi nào được bố ở nhà để cùng đi dã ngoại cùng gia đình. Chỉ có mẹ dẫn đi đây đó mà không có bố. Đứa trẻ dành tiền tiết kiệm bỏ heo mỗi khi có chút tiền.
Một hôm nó hỏi bố: Bố ơi, một ngày lương của bố, bao nhiêu hả bố?
– Bố nó hỏi lại: con hỏi làm gì?
– Con hỏi để con có thể trả lương cho bố hai ba ngày để cả nhà cùng đi dã ngoại đây đó. Bố chẳng mấy khi bỏ việc để đưa gia đình đi, con muốn có bố và mẹ.
Ông bố rất ngạc nhiên: À! Bố xin lỗi con và mẹ con, đôi công việc làm bố quên mất, bố có một gia đình còn quý hơn tiền bạc.
– Vậy cuối tuần này đi hả bố?
– Cuối tuần đi, bố sẽ đưa cả nhà đi ba hôm để chuộc lỗi..
Cái giá của lòng tốt.
Lòng tốt là một gia tài ai cũng có, chỉ có điều biết dùng lòng tốt ấy để nâng giá trị cuộc sống lên hay không? Lòng tốt như một hạt giống tốt gieo vào lòng người khác. Lòng tốt là một câu nói, là một cử chỉ, là một cách nghĩ… một ngày nào đó bất ngờ, hạt giống ấy có thêm nhiều bông hạt tốt khác. Mark Twain đã từng nói: “Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy”.
Giá của một đồng không đo bằng vật chất mà chính tấm lòng đã làm cho một đồng trở nên ý nghĩa. Chúa Giêsu dạy về lòng tốt, cũng chính là nhận ra lòng thương xót của Chúa nơi mình để ra đi thực thi lòng thương xót ấy với anh chị em. Gieo trồng lòng tốt cũng chính là mang Chúa đến với mọi người.
Các chị cấy lúa một ngày thì lấy công bao nhiêu? – Thế anh tính thuê chúng tôi bao nhiêu? – Một TN 25-A179
– Các chị cấy lúa một ngày thì lấy công bao nhiêu? – Thế anh tính thuê chúng tôi bao nhiêu? – Một người một trăm năm chục ngàn một công. – Ít quá. Trả hơn đi. Chúng tôi cấy một ngày ít cũng hai trăm ngàn một công. – Vậy thì khoán theo sào vậy? Ruộng nhà tôi nhiều. Tôi thuê mấy chị cấy luôn tám sào. – Tám sào thì sáu trăm ngàn một người. Các chị có ba người thì phải cấy xong tối đa trong ba ngày.
Người ta đi làm thuê cốt kiếm thêm đồng ra đồng vào. Người muốn thuê nhân công cũng phải lựa người, thương lượng tiền công và trả công cách sòng phẳng. Hôm nay, bài Tin Mừng kể câu chuyện về một gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm vườn nho. Thuê thợ từ sáng sớm thì chắc chắn ông sẽ có quyền chọn lựa, sự thương lượng cũng dễ dàng hơn. Ông thỏa thuận với họ là mỗi ngày một quan tiền. Giờ thứ ba ông lại trở ra, gặp mấy người đứng không ngoài chợ, ông thuê họ vào làm vườn nho. Cũng có thể giờ này công việc phát sinh khá nhiều nên số lượng thợ dự tính không đủ nên ông phải đi thuê thêm thợ. Giờ này tuy đã khá muộn, nhưng tiền công sẽ tính theo thời gian làm việc và lượng sản phẩm, nên số thợ này sẽ hưởng lương ít hơn. Đến giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng thuê thêm mấy người khác nữa. Người gia chủ lại trở ra và gặp những người “không ai thuê”, ông lại thương tình gọi họ vào vườn nho. Ông thuê người ta chỉ vì ông thương họ. Những người này chắc hẳn phải có điều gì đó đặc biệt nên người ta mới không thuê. Có thể là trông họ ốm yếu, hay bị khuyết tật, cũng có thể là họ làm không có uy tín nên người ta “trừ ra”. Bây giờ đã là giờ thứ mười một rồi. Như vậy đồng nghĩa với việc số thợ này chỉ làm có một giờ. Chiều đến, ông bảo người quản lý tính tiền công để trả cho thợ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót, họ được lãnh một quan tiền. Những người vào làm trước thấy thế cũng mừng thầm, bọn họ vào làm sau mà đã được một quan tiền thì tôi là người vào làm trước chắc chắn sẽ được hơn thế. Anh quên mất rằng, từ ban sáng anh và gia chủ đã thỏa thuận là “một ngày một quan tiền.”. Thỏa thuận này có thể thay đổi vì có thể ông chủ thấy anh làm năng suất hoặc như số công việc tăng lên nên ông trả thêm. Sự thường là thế. Vậy mà các anh lại cũng chỉ nhận được một quan tiền, bằng với số tiền mà những kẻ đến sau chẳng phải vất vả đổ mồ hôi sôi nước mắt, chẳng phải chịu nắng nôi thêu đốt. Có gì đó không công bằng. Các anh so sánh và bất bình trước sự đối xử bất công của gia chủ. Khi hạnh phúc của ai đó chạm đến lòng tự ái của tôi thì làm sao tôi có thể chia vui với họ được. Trong khi tôi cố gắng hết sức để làm việc, cố gắng để thu gặt thành công mà người khác dường như chẳng phải bỏ bao nhiêu công sức, chẳng cần mấy sự cố gắng nhưng vẫn được trọng đãi, được thưởng hậu hĩnh như tôi, làm sao tôi chia vui với họ được. Quả thật, nếu ta quá yêu mình, quá coi trọng bản thân và luôn nghĩ “mình xứng đáng hơn” thì làm sao ta có thể vui với người vui được. Quả đúng là chia buồn thường dễ hơn chia vui. Không phải vì ta buồn cho nỗi buồn của ai đó cho bằng là ta mừng vì ít ra ta vẫn may mắn hơn họ nên khi chia buồn với ai đó ta dễ tỏ ra quan tâm và hỏi han. Khi người khác hơn mình, liệu ta có vượt lên trên sự ghen tỵ để chia vui với họ?
Thiên Chúa là Đấng công bình nhưng cũng là người Cha giàu tình yêu thương. Nước Trời dành cho tất cả những ai có trái tim bao la, yêu thương không tính toán và luôn biết đón nhận cả những người làm hại mình. Yêu thương đồng nghĩa với việc ta biết trân trọng người khác, không vì lòng ích kỷ, nhỏ nhen mà coi khinh thành công của người khác, không xem họ là kẻ thù.
Lạy Chúa! Con thường dễ yêu mình hơn yêu tha nhân. Lòng yêu mình quá đáng, luôn nghĩ mình ngon, nghĩ mình xứng đáng hơn người khác khiến trái tim và tâm hồn con bị méo mó. Xin cho con hiểu rằng, Thiên Chúa luôn công bình và yêu thương. Xin cho trái tim con luôn rộng mở và nhớ rằng: “Ai có Chúa thì không thiếu điều gì nữa. Mình Chúa là đủ rồi.” (Thánh Têrêsa Avila). Như thế, con sẽ không xem mình là trung tâm, nhưng luôn mở ra với Thiên Chúa và anh chị em. Thiên Chúa luôn thương xót hết mọi người. Amen.
Lại đây tôi kể cho nghe, Đắng cay cái kiếp làm thuê cho người, Có ai chẳng muốn đổi đời, Bạn TN 25-A180
“Lại đây tôi kể cho nghe Đắng cay cái kiếp làm thuê cho người Có ai chẳng muốn đổi đời Bạn ơi tôi chịu những lời mỉa mai.” (Kiếp làm thuê- Tác giả: Phạm Văn Long)
Đó là tâm tư của những người đi làm mướn. Họ phải đi làm từ sớm và về thật trễ mới được lương cao. Có khi, họ phải chịu đựng cả những lời mỉa mai. Nếu họ đi trễ chẳng ai thuê, có thuê họ cũng được tính theo giờ để trả lương. Cuộc sống hôm nay là vậy. Còn Chúa Giêsu lại kể cho chúng ta câu chuyện cũng nói về những người làm thuê, nhưng họ lại được đối xử với lòng xót thương. Họ không bị mỉa mai nhưng được tôn trọng.
Vườn nho đang cần người làm, và ông chủ đã ra ngoài thuê thợ từ sớm. Những người thợ đầu tiên được thỏa thuận một ngày một quan tiền. Còn người đến giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một cũng được ông thuê với sự thỏa thuận sẽ trả lương hợp lẽ công bằng. Ông chủ đã thực hiện đúng lời hứa. Khi kết thúc ngày làm việc, ông gọi những người làm sau hết đến lãnh mỗi người một quan tiền. Và những người làm giờ đầu cũng lãnh như vậy, khiến họ càu nhàu trách móc ông chủ (Mt 20, 2 -12). Chắc ai cũng thắc mắc tại sao ông chủ lại trả lương như vậy? Lẽ ra, ông phải trả lương cho những người làm sau ít tiền hơn chứ. Thật là một hành động kỳ lạ.
Mà quả thực có gì kỳ lạ đâu, ông là ông chủ mà, ông có quyền cho hay không cho. Ông cũng đã trả lương cho những người giờ đầu đúng theo thỏa thuận lúc vào làm. Còn những người làm sau, được một quan tiền vì ông thương xót họ. Ông đã thấy được nơi họ có sự chăm chỉ, có ý chí, kiên nhẫn, tràn đầy hy vọng và khao khát đi tìm việc, nên ông vừa trả lương vừa cho để động viên họ. Ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy hình ảnh ấy ngay trong đời sống hằng ngày. Đã có nhiều người từ miền quê lên thành phố xin việc. Cứ sáng sớm họ phải đến trước các cổng công ty để chờ nộp hồ sơ, hay đợi để được gọi vào phỏng vấn. Khi công ty này không được, họ lại nhanh chân đến các công ty khác xin việc. Và cứ như vậy, có người đã mất một tháng hay hai tháng, thậm chí cả năm để xin việc. Và khi xin được việc rồi, họ lại tận tâm với công việc. Còn sự càu nhàu của những người thợ đầu tiên được dựa trên nhận thức về “sự công bằng”. Thời gian họ làm dài hơn, khối lượng công việc nhiều hơn. Họ không nghĩ mình là một người làm thuê phụ thuộc vào ông chủ. Còn ông chủ thì có quyền, ông muốn cho ai thêm là tùy ông.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta cảm nhận về lòng thương xót của Ngài. Ngài muốn cho chúng ta biết Ngài là Đấng có quyền quyết định mọi việc, và hằng công bằng cũng chẳng thiên vị ai. Hội Thánh là vườn nho, những người thợ đầu tiên là những người có đức tin từ lâu hay còn gọi là đạo gốc. Còn những người thợ sau là người mới biết và bắt đầu đi theo Chúa. Ngài thấy nơi họ sự đơn sơ, thánh thiện, sống phó thác và có một đức tin mạnh, nên Ngài đã ban cho họ những ân sủng mà họ đáng lãnh nhận. Ngài muốn hòa hợp tất cả mọi người là một, cùng hưởng hạnh phúc, cùng xây dựng và làm phát triển Hội Thánh của Ngài. Mặt khác, Ngài còn muốn mọi thời, mọi thành phần và mọi lứa tuổi đáp lại tiếng Ngài một cách không chậm trễ. Ngài mong chúng ta phục vụ Thiên Chúa một cách quảng đại, không so đo, tính toán. Ngài mong muốn như thến, còn chúng ta thì cứ sống ganh tị, ích kỷ, tách biệt, và Ngài đã nói “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20, 16a).
Chúng ta cứ nghĩ mình theo Chúa lâu rồi, nhưng xem ra chẳng được bao nhiêu. Chúng ta sống với những hình thức bên ngoài, còn tâm hồn chúng ta lại trống rỗng. Chúng ta cứ phân biệt với người này người kia, mà không nhận ra rằng họ cũng là anh em mình, và là con cùng một Cha. Họ vẫn có khao khát để sống và được sống hạnh phúc. Họ còn chịu thiệt thòi là không nhận biết Chúa sớm hơn. Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta hãy sống con người của mình nhỏ bé lại, để những người xung quanh chúng ta lớn lên. Ca dao Việt Nam có câu “Lá lành đùm lá rách”. Vâng, chúng ta phải thương yêu nhau, yêu những người khổ hơn và kém may mắn hơn chúng ta, hãy cho họ những gì mình có, không nhất thiết phải là vật chất. Chúng ta phải trở nên những người thợ đích thực, trung thành với chủ và yêu mến anh em mình. Nhờ đó, Hội Thánh mới phát triển và bền vững trong Chúa Kitô. Vậy hiện tại chúng ta là những người thợ thế nào? Và Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra điều gì? Chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu trở thành những ông chủ nhân từ, và những người thợ đích thực trong cuộc sống.
Lạy Chúa, Ngài là một ông chủ có một không hai. Ngài luôn đồng cảm, thương xót những người nghèo khổ. Chúng con được Ngài yêu thương, nâng đỡ. Ngược lại, chúng con chẳng biết lại còn so đo tính toán, và tự biến mình thành những người thợ tham lam, ích kỷ và hay tính toán. Chúng con xin Chúa hãy cứu chúng con, và tiếp tục kiên trì với những người thợ vô dụng này, xin đừng bỏ rơi chúng con. Amen.
Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà… câu chuyện dụ ngôn về tiền công trả cho các TN 25-A181
“Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”, câu chuyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một, những người đã làm lụng vất vả ròng rã suốt 12 tiếng đồng hồ. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về mặt pháp lý thì không ai cãi được, thế nhưng vẫn còn đó một điều gì không ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều phần đa chúng ta vẫn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng! Nếu Nước Trời thật sự giống như câu chuyện này thì quả thật, nó đang hàm chứa một điều gì quá bất thường, một điều mà bình thường không thế nào chấp nhận nổi.
Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ luật nhân quả: có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì được thưởng sự lành, còn ai làm ác thì phải gánh chịu sự dữ. Người Công giáo cũng vậy, họ được dạy dỗ từ tấm bé (chẳng hạn như qua kinh ‘ngày Chúa Nhật hôm nay’), để rồi xác tín như đinh đóng cột rằng: ai làm việc lành phước đức càng nhiều thì công phúc trên thiên đàng càng lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng thường tình thôi vì đó chính là định luật nhân quả hợp lý đã in sâu vào tâm khảm con người, không dễ gì xóa nhòa.
Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, hẳn Đức Giê-su chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, đàng khác đã bắt đầu xuất hiện một yếu tố ‘cào bằng’ rất kì lạ, một đặc trưng tuyệt vời của Nước Trời đang đến: “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên việc ‘cào bằng’ này xem ra như phá vỡ nền tảng công bằng của luật nhân quả: công nhiều thì thưởng nhiều, công ít thì thưởng ít, hay dữ nhiều thì phạt nặng, dữ ít thì phạt nhẹ. Và đó là lý do ta đòi sự công bằng khi mình đã nỗ lực sống tốt lành nhân đức suốt cả một đời, ta thấy khó chịu khi có một kẻ khác chẳng tốt lành gì lại được coi trọng hơn mình. Tuy nhiên, chính sự vô lý đó mà ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai của Tin Mừng cứu độ: “Tôi tốt bụng” – Thiên Chúa nhân lành – Chúa Cha đầy từ tâm.
Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đang vẽ lên diện mạo của một Thiên Chúa là Cha, rất khác với hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, hình ảnh của một Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót là như thế đấy! Nếu không thấu hiểu và chấp nhận công bằng này, một công bằng mà chỉ mình Đức Giê-su mới có thể mạc khải cho nhận loại, và mạc khải bằng cái giá là chính cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể ngay cả linh mục – tu sĩ – Ki-tô hữu cũng sẽ bất mãn để rồi cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mất thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Còn nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) của Thiên Chúa, thì đúng là tôi cũng sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Đáng đáng tiếc một điều là, trong dụ ngôn, các người thợ của giờ thứ nhất đã không kịp khám phá ra điều này, để rồi họ cằn nhằn với ông chủ và ghen tức với đồng bạn! Lẽ ra họ phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng đồng hồ, trong khi lấy làm tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Người trong có một tiếng – một thời gian quá ngắn ngủi như thế.
Nếu không khám phá ra Thiên Chúa của Đức Ki-tô là một Thiên Chúa ‘tốt bụng’, thì niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.Ta lúc đó cũng sẽ rất dễ phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng:bất chấp các nỗ lực sống gương mẫu và đạo hạnh,mình cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’.
Khi áp dụng các phản ứng này cho chính mình, tôi nhận ra rằng: nhiều khi tôi cũngcảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục…, vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời mỗi khi gặp thử thách gian nan, tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng cậy trông. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ này người nọ…, tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của mình; ‘tất cả đều là hồng ân’ chỉ là khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi không hơn không kém…, vì nhiều lúc tôi chẳng thấy có lý do nào để mà vui mừng cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, vì Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một mớ bòng bong dang dở, một chuỗi các khó nhọc vất vả, và một dẫy nhưng phiền trách than van và sợ hãi!
Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra: Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa đến muôn đời. A–men.
Trong đời sống xã hội, người ta vẫn hành xử theo nguyên tắc ‘Ai làm nhiều sẽ được thưởng công nhiều TN 25-A182
Trong đời sống xã hội, người ta vẫn hành xử theo nguyên tắc ‘Ai làm nhiều sẽ được thưởng công nhiều, ai làm ít sẽ được thưởng công ít’. Đó là quy chuẩn thông thường về sự công bằng trong cuộc sống con người. Tuy nhiên, các bài đọc lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về một quy chuẩn cao hơn, đó là sự công bằng và tấm lòng đại lượng của Thiên Chúa, khác xa sự đo đếm theo kiểu thế gian. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu và rất quảng đại. Sự quảng đại của Ngài vượt trên tất cả những giới hạn và thước đo của lòng người. Sứ điệp lời Chúa khơi dậy nơi chúng ta một chiều kích khác của Đức ái. Đức ái Kitô giáo mời gọi chúng ta phải gạt bỏ mọi ghen tương hay tị nạnh, để học hỏi nơi Thiên Chúa sự khoan hậu và lòng quảng đại vô bờ bến.
Tình yêu Thiên Chúa luôn tuyệt đối và vô giới hạn
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia trình bày giáo huấn về lòng nhân từ của Thiên Chúa với khẩu lệnh ‘Hãy trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa xót thương và luôn rộng lòng tha thứ. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống như tư tưởng của con người. Đường lối của Thiên Chúa khác xa với những suy tính nơi đầu óc chúng ta’ (Is 53, 6-4). Nguyên tắc này được minh giải rõ nét hơn qua dụ ngôn những người thợ làm vườn nho mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội Do thái ngày xưa, tiền công nhật bình thường là 1 đồng, và ông chủ đã hào phóng trả như thế, đồng đều cho tất cả những người thợ, dù họ đến từ sáng sớm, hoặc đến vào ban trưa, thậm chí có người mới chỉ bắt đầu đến làm việc khi trời đã xế chiều. Rõ ràng ông chủ trong câu chuyện là hình ảnh ám thị về Thiên Chúa. Ngài minh xử rất công bằng, thực hiện đúng như lời đã hứa, đồng thời Thiên Chúa cũng rất mực đại lượng. Lòng quảng đại của Ngài vượt xa những giới hạn theo cách suy tính nơi đầu óc con người chúng ta.
Thiên Chúa công bằng
Qủa thật, tất cả chúng ta đều được sinh ra trong tội lỗi. Nếu đặt mình trước mặt Chúa để thẩm định về giá trị nơi mình, chúng ta thật không xứng đáng với bất cứ công trạng gì, nhất là khi cân, đo, đon, đếm với những tội lỗi mà chúng ta đã phạm. Tác giả thánh vịnh 143 đã viết : “Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa cần biết đến. Phàm nhân là gì mà Chúa phải lưu tâm”. Monier, một nhà tu đức cũng nhận định : “Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng với tình yêu ấy. Nhưng, con người xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người”. Chúng ta hoàn toàn bất xứng, nhưng Thiên Chúa luôn quảng đại giang rộng đôi tay ôm đón chúng ta vào lòng, người giầu sang cũng như kẻ nghèo hèn, người công chính cũng như kẻ tội lỗi. Tình yêu Thiên Chúa luôn tuyệt đối, luôn là ‘một đồng’ giống nhau cho tất cả những người thợ làm vườn nho, cho dù họ đến từ sáng sớm hay chỉ đến muộn màng. Đúng hơn, đó là một tình ‘cho không biếu không’ phát xuất từ lòng quảng đại nhưng không của Thiên Chúa, chứ không phải do công trạng nơi con người chúng ta. Đối với Chúa, một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi trang trọng nơi bàn tiệc gia đình. Một cô gái điếm với quá khứ chẳng mấy sáng sủa, vẫn có thể ngồi tâm sự bên cạnh Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí, một tên trộm khét tiếng với một cuộc đời đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, nhờ tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa vào những giây phút sám hối muộn màng. Hình ảnh ‘ông thánh ăn trộm’ cũng tương hợp với hình ảnh của những người thợ giờ thứ 11 mà Chúa nói đến hôm nay. Trong khi người khác đã vất vả suốt từ sáng sớm đến lúc chiều tối, anh thợ này đến làm việc chỉ mới có vài ba tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, ông chủ đã đối xử thật tốt, thật công bằng và rộng lượng với tất cả những người thợ đến làm vườn nho cho ông ta.
Khi quảng diễn dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn vạch mặt thói kiêu căng và giả hình của nhóm biệt phái. Thái độ tự mãn của họ cũng giống cái nhìn hẹp hòi nơi những người thợ đầu tiên, vì họ đã đến vườn nho từ sáng sớm. Rất có thể đây cũng là thói cao ngạo mà chúng ta vẫn thường hay mắc phải. Sự ghen ghét là con đẻ của tính kiêu căng, hay tự mãn về những thành tích đạo đức của mình. Những người biệt phái thời xưa thích vênh váo, khoe khoang những gì họ đã làm như việc ăn chay, bố thí, hay giữ luật một cách rất tỉ mẩn. Xét bề ngoài, tư cách đạo đức của họ đáng khen, nhưng họ thiếu một điều rất căn bản, đó là sự chân thật và lòng khiêm tốn. Biệt phái thời xưa không còn, nhưng có thể kiểu cách biệt phái như thế vẫn còn xảy ra nơi cuộc sống chúng ta ngày hôm nay. Người ta vẫn gọi đó là ‘cái tôi Kitô hữu’, khi chúng ta chỉ giữ đạo một cách hình thức, nhưng bên trong tâm hồn thì rỗng tuếch.
Sự ghen ghét là thuốc độc giết chết tâm hồn
Cha Thomas Merton đã viết : “Hỏa ngục là nơi chất đầy sự ghen ghét”. Ghen tương hay tị nạnh chính là thuốc độc bóp chết trái tim chúng ta. Sự ghen tương được nói đến trong dụ ngôn hôm nay, thể hiện nơi những người thợ đầu tiên. Họ ghen tỵ vì lòng quảng đại của ông chủ. Những người Pharisêu ngày xưa đã mắc phải căn bệnh chết người này. Chúa Giêsu nói với họ : “Những phường đĩ điếm và trộm cướp sẽ vào nước Thiên đàng trước các ông”. Ngài còn công bố cho mọi người biết : “Những người từ đông sang tây sẽ được đến dự tiệc trong nước trời, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài”. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ có thái độ hẹp hòi như những người thợ đầu tiên đã vất vả làm việc từ ban sáng. Tâm địa hẹp hòi và sự tị nạnh nơi họ là rào cản mà họ tự xây lên, che chắn lòng thương xót của Chúa. Sự ghen tương của họ cũng giống như sự ích kỷ của người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Vì ghen tương, anh ta đã không nhận ra rằng : ‘Tất cả những gì của cha đều là của con’. Cũng vậy, sự ghen ghét sẽ làm che mờ con mắt đức tin khiến chúng ta không thể nhận ra biết bao ơn huệ mà Chúa đã ban cho ta một cách nhưng không.
Kết luận
Có một bà cụ miền quê nuôi một con gà trống. Bà ta tự hào vì mỗi sáng, khi con gà của bà cất tiếng gáy, mặt trời sẽ từ từ mọc lên soi sáng cho cả làng. Một bữa nọ, bà ta có chuyện xích mích với những người hàng xóm chung quanh. Bà bực tức bỏ làng đi xa và xách theo con gà của mình. Trước khi đi, bà ta còn cay cú nói với mọi người: “Tôi sẽ mang con gà của tôi đi, để từ nay khi không còn tiếng gáy của nó, mặt trời sẽ không mọc lên và dân làng sẽ bị chìm trong bóng tối”. Bà ta hỉ hả lên đường, nhưng đợi mãi từ ngày này sang ngày khác, không có người dân nào đến năn nỉ xin bà xách con gà trở về làng cũ. Cuối cùng bà ta chết, cùng với con gà mái yêu quý. Bà ta đâu biết rằng, con gà của bà dù có gáy hay không gáy thì mặt trời vẫn mọc lên và soi sáng cho mọi người. Đức Hồng Y Suenens đã nói : “Như mặt trời mọc lên làm nở những đóa hoa đã khép lại trong đêm tối, lòng khoan dung và độ lượng cũng làm khai mở những tâm hồn đang co quắp trong cái vỏ ích kỷ của tâm hồn, do sự ghen tương và tỵ nạnh”. Chúng ta hãy tập sống quảng đại và bao dung đối với mọi người để Thiên Chúa cũng luôn quảng đại đối với chúng ta.
Dụ ngôn làm việc vườn nho, Người thuê lao động, phát cho lương ngày. Đồng lòng lợi tức hôm nay, Ra vườn từ sáng, hăng say việc làm. Nhiều người thất nghiệp khổ cam, Không ai thuê mướn, hãm giam đợi chờ. Ngóng tin sốt ruột hững hờ, Chủ thương gọi tới, giúp nhờ việc đây. Khoảng giờ thứ sáu hôm nay, Giờ ba, giờ chín, gọi ngay ra đồng. Vui mừng có việc ngóng trông, Thù lao tùy chủ, trả công gọi mời. Một đồng lương trả từng người, Người sau, kẻ trước, xin mời lãnh công. Số người từ sớm kể công, Chúng tôi vất vả, mà không hơn gì. Chủ rằng đồng ý đã ghi, Chúng ta thỏa thuận, cầm đi số tiền. Công bằng đối xử trước tiên, Rộng lòng quảng đại, nhân hiền có sao.
Trong bài Phúc Âm đã kể rằng chủ vườn nho mướn những người làm việc được trả lương theo thỏa thuận. Xem ra rất công bằng. Nhưng truyện xảy ra, có những người làm ít mà lại được hưởng nhiều, đã gây nên sự ghen tương chành cạnh. Những người đến sau, làm có mấy giờ mà cũng được hưởng lương đồng đều như những người vất vả từ sáng sớm. Thật là khó chịu với cách đối xử của ông chủ. Ông chủ đã trả lương cho các người làm công theo cách thế của riêng ông với sự đại lượng từ bi.
Làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa. Chúa ban cho mỗi người khả năng riêng biệt để cùng nhau góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp. Ai trong chúng ta cũng cần có công ăn việc làm. Làm việc để phát triển khả năng. Làm việc để kiếm sống. Có những người may mắn, làm ít mà hưởng nhiều. Có những người cầy sâu cuốc bẫm, làm việc cực nhọc vất vả, đổ mồ hôi, sối nước mắt mới có của ăn. Hằng ngày họ chạy lo kiếm công ăn việc làm, không có việc kể như không có của ăn.
Suy lại cuộc đời, chúng ta vào làm vườn nho của Chúa đã lâu. Chúng ta đã được những gì? Có lẽ chúng ta đã nhận lãnh vô vàn ân huệ. Còn có những người vừa mới vào làm vườn nho, mới gia nhập đạo, họ cũng được thừa hưởng những ân lộc như chúng ta, đôi khi còn có hơn nữa, chúng ta có ghen tị không?
Làm việc trong vườn nho của Chúa đã là một ân phúc. Điều quan trọng không phải làm nhiều giờ hay ít giờ, mà làm việc với lòng mến hay không? Đừng ngồi đó kể lể rằng: Tôi là đạo gốc ba bốn đời. Tôi đáng được hưởng những đặc quyền hơn những người khác. Điều so sánh này không ích lợi gì cả. Mỗi người được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là được mời vào làm vườn nho. Thời gian dài ngắn không quan trọng, tùy thuộc chúng ta thi hành với lòng bác ái và yêu thương. Mọi ân huệ đều là ơn sủng nhưng không mà Chúa đã ban. Chúa rộng lượng ban đầy dư hơn là chúng ta đáng được.
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa cho chúng ta được làm trong Vườn Nho của Chúa.
Trong cuộc sống có nhiều dạng thỏa thuận – dù bằng lời nói hoặc bằng văn bản (chữ “thỏa hiệp TN 25-A184
Trong cuộc sống có nhiều dạng thỏa thuận – dù bằng lời nói hoặc bằng văn bản (chữ “thỏa hiệp” thường dùng cho dạng không tốt), sự thỏa thuận với nhau về một điều gì đó gọi là hợp đồng – nhất là trong chuyện làm ăn. Về tâm linh cũng có dạng thỏa thuận: dạng tốt là thỏa thuận về việc làm vườn nho (Mt 20:1-16) mà Tin Mừng hôm nay đề cập, dạng xấu là “thỏa hiệp cám dỗ” của ma quỷ (với bà Eva, hoặc khi chúng ta phạm tội). Các dạng “hợp đồng ngầm” với ma quỷ đều rất nguy hiểm.
Chúa Giêsu xác định: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5:17). Chúa Cha và Chúa Con đều làm việc không ngừng, Chúa Thánh Thần cũng vẫn không ngừng tác động trong Giáo Hội. Như vậy, chắc chắn sự lao động có giá trị cao. Và tất nhiên chúng ta không thể lười biếng mà không chịu lao động.
Ai cũng phải lao động, bằng cách này hay cách khác, nhỏ làm việc nhỏ, lớn làm việc lớn, nhưng phải lao động chân chính chứ không thể lao động phi pháp. Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách trau giồi (dồi) sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội, bởi vì “nhàn cư vi bất thiện”, vì rảnh quá hóa nông nổi, và vì nông nổi mà thành nông nỗi. Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, đều có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Chỉ có lòng người xấu chứ không có nghề nào xấu. Vấn đề là có chịu làm việc hay không, chứ làm việc gì cũng là tiếp tục hoàn thiện công trình sáng tạo của Thiên Chúa – tất nhiên công việc đó hợp pháp chứ không phi pháp.
Phải công tâm mà công nhận rằng những người chịu thương chịu khó, siêng năng lao động là người có bản lĩnh, biết tự trọng, không ỷ lại vào người khác, không ích kỷ, không lợi dụng người khác. Đó là một dạng phục vụ, và cũng là một cách giúp đỡ người khác. Còn đối với những người lười biếng thì sao? Tất nhiên là đối lập với các đức tính của người lao động cần mẫn. Thánh Phaolô không hề úp mở mà nói thẳng luôn: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2 Tx 3:10).
Vào dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông điệp “Rerum Novarum” (Tân Sự – ban hành ngày 15-5-1891) của Đức Lêô XIII (1810-1903), Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) đã có Thông điệp “Laborem Exercens” (Lao Động của Con Người), ban hành ngày 14-9-1981, nói về Tin Mừng trong sự lao động, trong công việc. Điều đó cho thấy sự lao động là hoạt động quan trọng, cả thể lý và tâm linh. Thật vậy, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua cách hoạt động của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần (x. St 1:1-31 – 2:1-3).
Trong khi lao động, con người tự hoàn thiện chính mình trên hành trình đi tìm Chân-Thiện-Mỹ, đó là hành trình đi tìm Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng chí thiện: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18). Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã chân thành nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55:6). Thiên Chúa còn cho phép chúng ta gặp khi Ngài ở gần, đến lúc Ngài không cho gặp và đi xa thì chúng ta vô phương. Đó là thời gian Ngài còn thương xót, và sẽ tới lúc hết giờ thương xót. Chắc chắn như vậy!
Kinh Thánh cho biết rõ rằng “ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi” (x. Gv 3:1-8). Và còn hơn thế nữa: “Bất cứ chuyện gì cũng đều có thời có buổi, và đều bị Thiên Chúa xét xử” (Gv 8:6). Vì thế, đừng lần lữa kẻo lỡ cơ hội. Cơ hội tốt không đến hai lần, thế nên hãy lắng nghe cho rõ: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ” (Is 55:7). Nước đến chân thì không thể nhảy kịp, và đừng quên rằng “Giờ Thương Xót” cũng đang dần thu ngắn lại, không ai có thể biết sẽ kết thúc lúc nào!
Tuy nhiên, đừng chần chừ, đừng ngần ngại, và cũng đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đã hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban” (Tv 91:15-16). Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban cho chúng ta hơn cả điều chúng ta mong đợi. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa chúng ta đang suy tôn thờ kính. Và đúng như thế, vì Thiên Chúa đã minh định rằng chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa và cấm chúng ta thờ bất cứ thần nào khác (x. Đnl 32:39; Is 43:10; Is 45:5-6; Is 46:9; Hs 13:4).
Là phàm nhân, chúng ta không thể nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu Thiên Chúa: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).
Ngày xưa, mỗi khi nói tới điều khác lạ, người ta thường so sánh với chuyện lên cung trăng hoặc Tết Công-gô, tức là chuyện không thể xảy ra. Thế mà ngày nay, người ta đã có thể lên cung trăng, có thể “lên trời”, thế nhưng đó chỉ là một góc nhỏ của trời mà thôi. Khoa học tiến bộ với mức kinh ngạc, người ta đã và đang tìm mọi cách để “khám phá” bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn biết bao “vị trí” mà người ta không biết gọi là gì, thế nên người ta đành phải mô tả là “lỗ đen” (black holes). Càng ngày khoa học lại phát hiện thêm hành tinh mới. Cứ thế và cứ thế, càng đi xa vào vũ trụ càng thấy thăm thẳm mù mịt. Có sẵn đó mà khám phá mãi không hết!
Thiên Chúa siêu hơn cả siêu việt, tuyệt hơn cả trác tuyệt, hơn cả tuyệt luân. Chúng ta chỉ còn biết cùng với Thánh Vịnh gia mà xưng tụng Thiên Chúa: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145:2-3). Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, chúng ta càng kính thờ và tạ ơn Thiên Chúa. Đó chính là hành trình đức tin, là quá trình lao động tâm linh.
Thật lạ lùng, Thiên Chúa chí thánh, là Đấng cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145:8-9). Quả thật, Thánh Phaolô đã dày dạn kinh nghiệm nên xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Thế thì đừng nản chí sờn lòng hoặc thất vọng – dù là thất vọng về chính mình, mà hãy vững lòng tin tưởng và mau mắn đứng dậy ngay lập tức!
Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Đấng vô tiền khoáng hậu, vô thủy vô chung, và yêu thương vô hạn, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:17-18). Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng chỉ là tội nhân trước mặt Thiên Chúa mà thôi, chẳng ai hơn ai, nhưng vấn đề là có chân thành sám hối hay không. Và đó là điều Thiên Chúa mong đợi ở chúng ta: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ (x. Hs 6:6). Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời “nói nặng” này của Thiên Chúa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15:8; Mc 7:6).
Người Pháp có câu châm ngôn khá độc đáo: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác”. Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng GANH TỊ và TRANH CHẤP, nhưng cũng có những người làm công việc đó vì Ý NGAY LÀNH, họ làm vì BÁC ÁI và BÊNH VỰC TIN MỪNG. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì TÍNH ƯA TRANH GIÀNH, KHÔNG CÓ LÒNG NGAY. Nhưng Thánh Phaolô vẫn bảo là “không sao”, chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng bởi vì điều ấy sẽ giúp ngài đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô phù trợ.
Và rồi Thánh Phaolô kết luận: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và CHẾT LÀ MỘT MỐI LỢI” (Pl 1:20-21). Vậy là sao? Thánh Phaolô lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị GIẰNG CO giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:22-24). Vấn đề cốt lõi là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, mục đích là để “tuân phục Thánh Ý Chúa và vinh danh Chúa” mà thôi. Và cũng vì thế mà Thánh Augustinô đã tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con – Domine, noverim Te, noverim me”. Biết Chúa là chân nhận rằng Ngài là Đấng duy nhất và giàu lòng thương xót, nhờ vậy mà tôn thờ Ngài hết linh hồn và hết sức lực, biết mình là ý thức mình yếu đuối và đầy tội lỗi để mà sống khiêm nhường hơn.
Bát Phúc (Tám Mối Phúc, Bài Giảng Trên Núi) của Chúa Giêsu đã gây ấn tượng đối với danh nhân Mahatma Gandhi. Ông rất yêu quý, ông Bát Phúc và gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô, ông cũng khiến chúng ta ngạc nhiên khi ông thẳng thắn nói: “Tôi YÊU MẾN Đức Kitô nhưng tôi KHÔNG PHỤC các Kitô hữu”. Tại sao vậy? Có lần ông vào một nhà thờ Công giáo, ngoài cửa có ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ”. Thấy vậy, ông quay ra ngay. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy thật là xấu hổ, vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói hay mà không thi hành điều mình nói. Nước Chúa chưa rộng mở có lỗi của mỗi chúng ta. Đúng là lỗi tại tôi mọi đàng!
Đối với cộng đoàn Phi-líp, Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ có một điều là anh em PHẢI ăn ở làm sao cho XỨNG với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em” (Pl 1:27). Và chắc chắn đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta hôm nay, chẳng loại trừ một người nào!
Trên hành trình tâm linh, hành trình đức tin, ai cũng là người lao động, là công nhân hoặc người thợ, hoàn toàn giống nhau và bình đẳng, hằng ngày làm việc theo sự thỏa thuận của “bản hợp đồng đức tin”, đó là làm việc trong “vườn nho” của Thiên Chúa với MỨC LƯƠNG NHƯ NHAU – đối với công nhân thâm niên cũng như tân binh. Tuy nhiên, điều cần phải luôn lưu ý là đừng so đo hoặc ganh tị để rồi liếc xéo nhau, nhìn nhau bằng nửa con mắt hoặc ngó nhau bằng “ánh mắt hình mũi tên”.
Một hôm, sau khi nói về phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Ngài, Đức Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mt 19:30; Mc 10:31; và Mt 20:16 cũng đề cập ý này). Một câu nói thật đáng để chúng ta “quan ngại” lắm! Rồi Ngài kể câu chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh HỢP LẼ CÔNG BẰNG” (Mt 20:4).
Khi hoàng hôn buông xuống, nghĩa là hết giờ lao động, ông chủ vườn nho bảo người quản lý gọi tất cả thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà chẳng hơn gì người vào làm muộn.
Rất bình tĩnh và thản nhiên, ông chủ trả lời với họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng THOẢ THUẬN với tôi là MỘT QUAN TIỀN sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi TỐT BỤNG mà bạn đâm ra GHEN TỨC?” (Mt 20:13-15). Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, chúng ta cũng vẫn thường so đo đủ thứ, cứ tưởng chỉ có mình làm được công kia hay việc nọ, ý muốn nói mình “nổi trội” hơn người khác, muốn người khác phải “nể phục” mình. Và nếu Chúa Giêsu đặt vấn đề như vậy với chúng ta về vấn đề này, chắc chắn chúng ta “há miệng mắc quai nón”, phải câm họng mà thôi. Dụ ngôn “người Pharisêu và người thu thuế” (Lc 18:9-14) không bao giờ cũ, lúc nào cũng mang tính thời sự nóng bỏng!
Người ta thường nói rằng “người dốt thích nói chữ”. Thế nhưng họ càng nói lại càng dở, càng lý luận lại càng đuối lý. Chúa Giêsu biết họ đuối lý nên mới im như thóc thối, Ngài lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 20:16). Nói chung, chẳng qua là hội chứng ảo tưởng, và rồi không khéo thì công sức lao động trở thành công cốc. Thế thì tiêu!
Như một điệp khúc vô tận, Chúa Giêsu đã và đang không ngừng mời gọi mọi người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ để được sống đời đời, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không có nghĩa là “thích ai thì chọn”, mà “chọn” ở đây là tùy vào quyết định riêng của chính người-được-mời-gọi, bởi vì Thiên Chúa trao ban quyền-tự-do-trọn-vẹn. Sự tự do này là chính Thiên Chúa ban cho chúng ta, nhưng có thể có lợi hoặc bất lợi cho chúng ta, điều đó tùy vào ý muốn của mỗi người, và Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này.
Nếu thực sự như vậy, phải chăng không có nhiều người được trở thành công dân của Nước Trời? Rất có thể, và đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa luôn mong muốn mọi người đều được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Cũng có mối nguy cơ là vì chúng ta ỷ lại, tự cho mình là “ngon lành” hơn hẳn những người khác, nhận mình là đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc ngang liếc dọc” với những tia mắt “sắc hơn dao cau”, và cho rằng người nọ người kia là những kẻ tội lỗi, nào ngờ họ lại có Visa Nước Trời trước chúng ta (x. Mt 21:31-32). Ôi, không cái khốn nào bằng cái khốn này!
Thời Cựu Ước, ông Bơ-li-am đã tâm nguyện thế này: “Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, và tôi được mãn phần như họ” (Ds 23:10). Mong sao mỗi chúng ta cũng biết mơ ước như vậy để có thể hoàn thiện trước phút lâm chung. Đó cũng là cách chứng tỏ rằng chúng ta hoàn tất điều thỏa thuận với Thầy Giêsu chí thánh: HOÀN THIỆN và NHÂN TỪ (Mt 5:48 và Lc 6:36).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Đấng duy nhất mà con tin kính và tôn thờ, xin giúp con biết miệt mài chuyên cần sống Đức Tin sống động, luôn biết khiêm nhường, hết lòng yêu thương, và chân thành tha thứ hết lòng theo lệnh truyền của Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Nước Trời là một “định tín “khó“ định nghĩa”, bởi vì, Nước trời chưa ai thấy được, ngoại trừ Đấng TN 25-A185
Nước Trời là một “định tín “khó“ định nghĩa”, bởi vì, Nước trời chưa ai thấy được, ngoại trừ Đấng từ Trời mà xuống, đó là Chúa Giêsu. Vì, Nước trời nếu theo ai đó, thì là: Thiên Đàng, nhưng, nếu người Dothai cho rằng: Nước Trời là nơi “dành” cho người “tốt“, hay người “giỏi giang”, hoặc người “trí thức”, hoặc là “sự công bằng” theo kiểu thế trần, thì hôm nay đây, một lần nữa, Chúa Giêsu cho chúng ta biết, “NƯỚC TRỜI“ là gì?
Vâng, Nước Trời chính là “Đạo lộ“ của Thiên Chúa, vì Khởi đi từ bài đọc I hôm nay (Is 55, 6 -9) cho chúng ta biết Đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối của loài người. Vì : ”Đạo lộ của Ta khác với đường lối của các ngươi, Tư tường của Ta khác với tư tưởng của các ngươi, vì trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tường và đường lối của Ta cũng cáo hơn của các người bấy nhiêu“ (Is 55, 8-9).
Vì vậy, lời Chúa hôm nay (Mt 20, 1- 16a) cho chúng ta ý tường đó. Vâng, không ai công bằng hơn Thiên Chúa, cũng như không ai thương xót như Ngài. Thiên Chúa không bao giờ bất công với ai, vì Ngài là Thiên Chúa. Nhưng, Thiên Chúa muốn thể hiện Nước Trời trong lòng nhân thế, vì Ngài muốn hướng nhân thế lên với Ngài, chứ không muốn nhân thế chỉ mãi mãi là thế nhân.
Vâng, điều ấy là chân lý, chứ không phải lộng ngôn. Cũng chính vì điều nầy mà có một thiên thần phản nghịch, tức sự ganh ghét, sự đố kỵ, sự cạnh tranh đối với loài thụ tạo có thân xác, và xuất phát là ma quỷ.
Thiên Chúa đã thỏa thuận “một đồng mỗi ngày” đủ cho nhu cầu của ngày ấy và của mỗi người. Ân sủng siêu nhiên, cũng như ân sủng tự nhiên là phương tiện sinh sống trên trần thế không thể theo ý người làm công, mà là theo sự “thỏa thuận“ rõ ràng lúc ban đầu. Thiên Chúa không bỏ rơi ai, và cũng không bóp chẹt ai. Một ngày 24 tiếng đồng hồ như nhau, và mưa nắng trải đều khắp nhân gian. Chúng ta thấy giờ thứ ba, tức 9 giờ sáng, giờ thứ mười một tức 5 giờ chiều, nhưng, công nhật mỗi ngày là “một đồng”. Những người làm từ tảng sáng tức khoảng 6 giờ sáng, đến người sau cùng cũng chỉ “một đồng lương’, vì đã “đồng ý” như vậy.
Ông chủ không hề bớt xén tiền công, nhưng vẫn bị “chỉ trích”, tuy đây là ”dụ ngôn”, nhưng thực tế trong cuộc sống, không phải là không có xảy ra. Điều đặc biệt là “Ông Chủ” lại trả tiền công cho những người làm giờ thứ 11 trước, rồi sau đó, lần lượt trả cho những người làm từ sáng sớm, rồi đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chin.
Vậy, sự công bằng của Thiên Chúa là gì? Há chẳng phải là “Lòng Xót Thương“ sao?! Thiên Chúa xót thương vì thời gian “thất nghiệp” của người giờ thứ 11. Sự đau khổ của anh ta từ sáng sớm đến chiều tối không được ai thuê mướn. Sự trả lương cho người làm giờ thứ 11 như Thiên Chúa đã làm, ngày nay, không có chủ doanh nghiệp nào làm. Bởi vì, đó là “thâm“ tiền túi của chủ. Thiên Chúa thể hiện tình thương trên người bất hạnh, chứ Ngài không bất công, cũng như mắc nợ ai. Thiên Chúa không cho người nhiều, người ít, mà là Thiên Chúa yêu thương họ. Thiên Chúa yêu thương người bất hạnh, nỗi khốn khổ của họ, chứ Ngài không mắc nợ họ. Vì Thiên Chúa muốn yêu thương ai, thì đó là quyền của Thiên Chúa. Nhân thế không thể đòi hỏi theo ý mình.
Chúng ta thấy, nội dung Đoạn Tin Mừng hôm nay, dường như là “vô lý” nhưng rất hợp lý. Bởi vì, Ông Chủ trả lương cho người “sau cùng” ngang bằng với người làm từ tảng sáng. Nhưng, Thiên Chúa không lấy của những người làm trước, mà cho những người làm sau. Xét cho cùng Ông Chủ “bị thiệt” chứ không phải những người làm trước bị thiệt. Vì sự thỏa thuận vẫn giữ nguyên giá trí của nó, Ông Chủ không tùy tiện “tăng thêm” tiền công nhật, mà là Ông Chủ cho “thêm“ người làm sau cùng, để ngày ấy họ cũng “đủ” cái ăn như người làm từ sáng.
Thiên Chúa không xét theo nhiều hay ít, mà là xét theo “nhu cầu” thực tế của họ trong ngày ấy.
Sự công bằng của Nước Trời không phải bởi sự “so đo” theo kiều trần thế, mà là “tình thương“ bởi Thiên Chúa. Sự cân đong, đo, đếm của Thiên Chúa không dựa vào ”năng lực” của con người, vì có ai có năng lực xứng đáng, hay tài năng hơn tha nhân đâu? Nếu có chăng sự giỏi giang, hay tài trí của người đó, cũng do chính Thiên Chúa ban.
Vậy, sự “đau khổ” của người làm công từ giờ thứ 11, không phải do anh ta lười biếng không chịu làm, mà do không được thuê mướn. Nỗi khổ của anh ta cũng không kém người làm từ sáng sớm. Anh ta làm ít giờ hơn, nhưng tâm trạng “lo lắng” ưu tư, nỗi buồn, sự mặc cảm, không biết có ai thuê mình không? Làm thế nào có đủ tiền mua gạo cho ngày hôm nay để nuôi vợ con, v. v và v…v? Như vậy, Thiên Chúa thấu suốt những điều ấy và ban cho họ.
Như vậy, Nước Trời qua Dụ Ngôn hôm nay chính là ”LÒNG THƯƠNG XÓT” của Thiên Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung.
Bài đọc II nay (Pl 1, 20c -24. 27a) khuyên chúng ta… ”ăn ở như thế nào cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô“. Vì, mối lợi duy nhất chính là Đức Kitô, chứ không phải điều gí khác.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con sống chứng nhân cho Nước Trời, xin cho chúng con biết sống khôn ngoan như Lời Chúa dạy là có một tấm lòng quảng đại, một trái yêu thương, và một tính thần đầy quả cảm để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Vì chúng con muốn làm theo lời Chúa, chứ không muốn làm theo ý của phàm nhân, xín cho chúng con can đảm thực thi ý Chúa ./. Amen.
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?”(Mt 20,14)
Anh chị em thân mến,
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe là những lời dạy của Chúa nói về lòng tốt và tình thương của Người TN 25-A186
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe là những lời dạy của Chúa nói về lòng tốt và tình thương của Người. Chúng ta thấy rất rõ điều này qua dụ ngôn đặc biệt Chúa dùng để cắt nghĩa cho chúng ta.
I. Bài dụ ngôn
Một người kia có một vườn nho. – Ông ta là chủ của vườn nho đó cho nên ông ta có quyền canh tác trên vườn nho đó để thu hoa lợi
– Diện tích vườn nho có lẽ phải lớn cho nên ông phải thuê người làm cho ông.
– Ở đây chúng ta nên lưu ý một chút về cách tính giờ của người Do Thái:
Ngày làm việc của người Do Thái bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và kết thúc vào lúc mặt trời lặn. Và căn cứ vào đó thì chúng ta sẽ có một thời biểu tương ứng như thế ny:
Giờ thứ 1, thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11, tương đương với 6giờ, 9giờ, 12giờ, 15giờ, 17giờ, và kết thúc lúc 18 giờ.
– Có 5 đợt thuê thợ tất cả.
Đợt đầu có sự mặc cả rõ ràng về giá cả 1đ/một ngày công.
Các đợt sau thì không có sự mặc cả gì.
– Chiều đến: trả lương.
– Cách thức trả lương có khác thường….bắt đầu từ người đến làm việc sau cùng đến người làm đầu tiên.
– Chính cách thức trả lương như thế đã làm nảy sinh ra sự phen bì giữa những người thợ được thuê làm trong cùng một vườn nho.
– Người cuối cùng vui vì thái độ đầy lòng yêu thương và quảng đại của chủ.
– Những người đến làm trước buồn vì cảm thấy mình như bị thua thiệt.
Vấn đề đặt ra ở đây là ông chủ làm như thế có công bằng không. Ta phải trả lời là có. – Này bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng sao?(Mt 20,13)
– Ông đã đối xử với họ theo lẽ công bằng thương mại. Luật pháp gọi là công bằng giao hoán.
– Về phương diện này thì ông chủ hợp lý và hợp pháp
– Việc ông chủ đối xử khác, khác hơn lẽ công bằng giao hoán thì lại là vấn đề khác. Nó đã vượt ra ngoài phạm vi công bằng. Nó đã vươn lên tới một bình diện cao hơn…đó là lòng Bác ái yêu thương và ông ta có quyền làm như thế.
Vậy thì khi kể dụ ngôn này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì .
II. Bài học
Muốn hiểu được bài học Chúa muốn dạy qua bài dụ ngôn hôm nay, chúng ta lại phải trở về với những hoàn cảnh của nó. Tin Mừng kể lại trước khi nói dụ ngôn này thì có một người thanh niên đến gặp Chúa và muốn xin được làm môn đệ của Ngài. Chúa bảo anh ta hãy trở về bán tất cả những gì anh có rồi phân phát cho những người nghèo khó và Chúa coi đó như một điều kiện phải có để Ngài chấp nhận anh ta. Sự đòi hỏi của Chúa làm cho anh ta chùn bước. Lý do là vì anh có nhiều của cải. Của cải đã níu kéo quá mạnh, thành thử anh ta đã bỏ cuộc. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt tại đấy.
Sau khi người thanh niên bỏ đi thì ông Phêrô….lại ông Phêrô. Ông Phêrô đứng ra đặt vấn đề với Chúa. Ông nói như sau: “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì”(Mt 19,27)
Câu hỏi của Phêrô sặc mùi thương mại trần thế. Ông muốn Chúa phải nói rõ cho các ông biết Chúa Chúa sẽ đối xử với các ông thế nào trước những hy sinh từ bỏ của họ. “Chúng con sẽ được gì?”
Chúa không để cho các ông ấy phải thất vọng. Chúa đã trả lời. Chúa không lẩn tránh vấn đề. Và câu trả lời của Chúa thật là tuyệt diệu. Tuyệt diệu ở chỗ nó vừa thỏa mãn được vấn đề các tông đồ đặt ra với Chúa, lại vừa có sức nâng tầm nhìn của các môn đệ lên tới một bình diện cao hơn.
“Ai vì danh Ta mà từ bỏ Cha Mẹ, anh em, con cái, nhà cửa, ruộng đất thì sẽ được gấp trăm ở đời này và ….tiếng Và thật quan trọng…Và được sự sống đời đời.”(Mt 19,29)
Sự sống đời đời. Đó là một phần thưởng vô cùng quí gía mà không có một giá trị trần thế nào có thể đổi chác được. Phần thưởng đó là do ơn lộc của Chúa cũng như do lòng quảng đại vô bờ vô bến của Ngài.
Trong nước của Thiên Chúa sẽ không có giao hoán đổi chác, phần thưởng sẽ không dựa vào lao động như thước đo.
Phần thưởng trong nước Thiên Chúa không được tính theo số lượng giờ giấc nhưng trước hết phải căn cứ vào niềm tin: Tin vào sự quảng đại và tình thương bao la của Thiên Chúa và sau là trung thành với niềm tin đó.
Vì thế dù chỉ được Chúa kêu gọi một phút giây trước giờ tàn của cuộc sống thì sự trung thành cũng vẫn cần thiết.
Con người không có quyền ghen tị với sự quảng đại của Thiên Chúa. Nếu một ai đó thấy cuộc đời của mình không được Chúa đối xử lại một cách quảng đại, thì lý do không phải tại Chúa mà họ phải hồi tâm trở lại với lòng mình xem mình đã sống với Chúa như thế nào:
Ông chủ trong dụ ngôn đã tính toán với những ai đã muốn tính toán với ông. Nhưng ông lại rất quảng đại đối với những ai tin tưởng vào ông.
Để minh họa điều này tôi xin mời anh chị em nghe một câu chuyện. Câu chuyện này do văn hào Tagore viết ra. Ông là một người không có đạo nhưng những gì ông viết rất phù hợp với những Lời của Chúa trong Phúc âm.
Câu truyện có tựa đề là “Người ăn xin”
Con đi ăn xin từng nhà trên con đường làng. Bỗng con thấy một cỗ xe bằng vàng đang từ xa đi tới….như một giấc mơ, giấc mơ huy hoàng. Con tự hỏi ông vua nào mà lại lộng lẫy như thế? Lòng hy vọng trào lên trong lòng con. Con tự nghĩ:
– Thế là từ nay đời mình sẽ hết khổ!
Và con chuẩn bị sẵn sàng chờ Ngài đến….tay Ngài bung những đồng tiền vàng vung vãi trong đám cát bụi bên đường.
Và cỗ xe dừng lại nơi con đang đứng. Cái nhìn của đức vua đậu lại trên con….rồi Ngài bước xuống, miệng mỉm cười. Con cảm thấy như cơ may của đời mình đã tới.
Bỗng dưng con thấy đức vua chìa tay ra và hỏi
– Con có gì cho ta không?
Con bối rối ngỡ ngàng….Con từ từ thò tay vào trong bị rút ra một hạt lúa mì và dâng cho Ngài. Nhận hạt lúa mì xong, Ngài lên xe và tiếp tục đi.
Chiều đến….khi dốc những hạt lúa trong bị ra…thì thật ngỡ ngàng biết bao.
Một hạt vàng óng ánh nằm giữa những hạt lúa mì khác.
Con nức nở khóc và tiếc rẻ. Con tự nguyền rủa chính mình:
– Tại sao mình đã không dâng cả cho đức vua tất cả những hạt lúa mì mình có.
Có lẽ cuộc sống của chúng ta mỗi người nhiều khi cũng giống như thế. Chúng ta rất hẹp hòi với Chúa và với anh em. Rồi nhiều khi chúng ta thấy người nọ người kia được Chúa đối xử hơn chúng ta, thay vì chúng ta bình tâm xét lại xem chúng ta đã sống cho Chúa như thế nào, chúng ta lại đâm ra ghen tương phen bì với anh em và cả với Chúa nữa.
Giờ đây xin Chúa điều chỉnh lại cách sống của chúng ta sao cho những ngày tháng chúng ta sống trên đời là những ngày tháng tràn ngập niềm vui vì đó là những ngày chúng ta sống chan hòa với Chúa và với anh chị em chúng ta Amen.
Mức độ sôi động hay trầm lắng, cuộc sống có ngọt ngào cay đắng, tương quan xã hội sẽ có TN 25-A187
Mức độ sôi động hay trầm lắng, cuộc sống có ngọt ngào cay đắng, tương quan xã hội sẽ có thân thiện, đằm thắm, từ lâu đã hình thành bức tranh cuộc đời mỗi người, cho dù cảm nhận đó còn lơ mơ đối với con tim và khối óc chúng ta. Trong nghệ thuật, sẽ không có đúng sai hoặc cao thấp, các tác giả đã có ý mặc vào mỗi bài thơ một sự tương phản của câu truyện tình, mỗi ca khúc sẽ vang vọng đong đưa như cặp tình nhân lãng mạn. Hôm nay đây, Đức Giêsu nói tới một bức tranh đẹp, nội dung và mầu sắc bức tranh thật sống động bởi lòng tốt của ông chủ, bởi sự ngạc nhiên của những người thợ được gọi đi làm vườn nho. Đường nét bức hoạ tuyệt vời do tình yêu thương của chủ vườn nho, ông chủ không xét tuổi tác, sức khoẻ, thời gian, trong khi đó tiền công, tiền thưởng trước sau đều thoả đáng công bằng.
Để vẽ một bức tranh, trước hết người hoạ sĩ cần có một nền trắng, rồi sau đó ông sẽ làm rõ những ý tưởng và sắc mầu hài hoà mà tâm hồn người nghệ sĩ muốn diễn tả. Hình ảnh Thiên Chúa bao dung sẽ rõ ràng biết bao, khi tâm hồn con người được “cài đặt” vào đó tình yêu và sự trinh trong. Hoàn cảnh, điều kiện mỗi người tuy không giống nhau, nhưng ai cũng được phản ánh nét đẹp cao quý của Thiên Chúa để tô vẽ bức tranh tâm hồn mình thật ý nghĩa hơn. Câu truyện dụ ngôn được mô tả đầy kỹ thuật, mang dáng dấp một bức tranh rực rỡ mầu, do nhiều tình tiết bất ngờ. Khởi đầu của ngày mới, ông chủ ra đi tìm thợ làm vườn nho, tiền công cũng được thoả thuận sòng phẳng, rồi đến giờ ba, giờ sáu, giờ chín, giờ thứ mười một, ông chủ thật tốt lành, đúng, ai cũng có cơ hội nhận phần thưởng của ông.
Tục ngữ có câu: gai trên rừng ai vót mà nhọn, trái trên cây ai vo mà tròn. Thoáng nghe câu ví von ấy, chúng ta có cảm giác như tất cả vạn vật là do “thiên định”, nhưng không, gai nhọn đinh sắt, trái quả, cây thập giá, đều là những hình ảnh xuyên suốt về bức tranh đầy sắc mầu ơn cứu độ cho hôm nay và mai sau. Bức tranh đẹp với dụng ý mời số dân được tuyển chọn đi làm vườn nho từ sáng sớm, với đầy hứa hẹn, nhưng còn mở ra hy vọng cho người thợ làm việc chăm chỉ, dù quãng thời gian được làm việc vào giờ chiều. Bức tranh dụ ngôn hôm nay không những gây chấn động về tính hào phóng của ông chủ, mà thực sự còn sôi nổi khi trời đã về chiều, khi mà tiền công, tiền thưởng sẽ công minh rõ ràng cho đám thợ.
Nhiều người đọc dụ ngôn “đi làm vườn nho” hôm nay cứ tiếc mãi, nếu như đừng ai phàn nàn, khiếu nại, ganh tị với nhưng người làm vườn nho vào giờ cuối, bức tranh sẽ đẹp và hoàn hảo biết bao ! Thực ra thì không phải ai cũng đã đọc, đã hiểu, câu thành ngữ: sống vì nhau, dễ bền ; sống vì tiền, dễ vỡ. Đức Giêsu có ý đưa dụ ngôn đi làm vườn nho để làm sáng tỏ về giáo lý yêu thương, và lòng bao dung của Thiên Chúa đối với mọi người: giầu nghèo, khờ hay khôn, tội lỗi hay đức độ, tất cả đều có cơ hội đi làm vườn nho và lãnh thưởng. Thiết tưởng mỗi người cũng nên suy xét, tôi được gọi vào làm vườn nho giờ thứ mấy, tôi đã nhận một số vốn là mấy nén bạc, và liệu tôi có khó chịu, phàn nàn, bất mãn vì người anh chị em tại sao may mắn hơn tôi ? Rất có thể nhiều người đã đọc được ý tưởng này: ganh ghét là tự thú sự thua kém của mình. (Victor Hugo).
Người ta có kể câu truyện “phục vụ” như sau: một chú heo nhỏ đến xin làm môn đệ của vị thần, vị thần vui vẻ đón nhận đệ tư mới. Lát sau, một con nghé nhỏ từ trong đám bùn lầy bước ra, toàn thân nghé lấm lem dơ bẩn. Vị thần nói với chú heo nhỏ: heo ơi, con hãy tới giúp nghé con tắm rửa cho sạch sẽ đi. Chú heo nhỏ trố mắt nhìn ngạc nhiên, con là môn đệ của thần, sao lại có thể đi phục vụ một con nghé bẩn thỉu như thế chứ ? Vị thần bảo chú heo nhỏ, con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao có thể biết được con là môn đệ của ta ? Vâng, để ghi tên làm đệ tử của một vị thần, không khó, nhưng để sống tinh thần phục vụ hầu giúp mọi người nhận biết “mình” là đệ tử vị thần, nhất định phải có lòng bác ái vị tha.
Tất cả số thợ được gọi làm vườn nho từ sáng sớm cho đến chiều tàn, và cả chúng ta hôm nay, ai cũng có cơ hội góp phần làm cho bức tranh đẹp của người hoạ sĩ thêm phong phú sống động. Đức Giêsu mời gọi mỗi người hãy ý thức mình là người thợ chăm chỉ, đồng thời hãy lấy bài học công bằng yêu thương của ông chủ vườn mà cư xử tốt với nhau. Đừng than thân trách phận vì tiền công tiền thưởng: được voi đòi tiên, hay một số còn nói “sóc” hơn: được voi, đòi hai Bà Trưng. Đừng bao giờ ganh tị với người anh chị em mình, đừng bao giờ có ý định làm mờ đi hình ảnh yêu thương mà Thiên Chúa đặt để nơi tâm hồn ta. Xin cho bức tranh đẹp mà mỗi người có cơ may được cộng tác vào công trình của Thiên Chúa, sẽ mãi nguồn vui hạnh phúc cho ơn gọi nước trời hôm nay và mai sau. Amen.
Khi làm việc ai cũng muốn được trả thù lao xứng đáng với công sức đã bỏ ra. Phải chăng ông chủ TN 25-A188
Khi làm việc ai cũng muốn được trả thù lao xứng đáng với công sức đã bỏ ra. Phải chăng ông chủ trong “dụ ngôn thợ làm vườn” (Mt 20, 1-16a) đã thiên vị, đã không công bằng ? Những người làm trước mà lương cũng bằng người vào làm sau là một quan tiền. Ông chủ đã giải đáp mọi thắc mắc : “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,15)
Xét đi xét lại, ông chủ chẳng phải không công bằng hay thiên vị, nhưng còn vượt trên sự công bằng là tình yêu, lòng bao dung, bác ái. Nhìn lại, tất cả mọi người đều được trả lương, Cuộc sống trong ngày của họ được đảm bảo. Nếu những người vào làm trước không chăm chỉ, không năng suất, không hiệu quả, ông chủ có quyền trừ lương. Nhưng ông chủ lại không trừ lương mà lại trả đúng theo như đã thỏa thuận.
Hãy đặt mình vào trường hợp những người vào làm sau. Họ lo lắng, sợ. Hôm nay, họ không được thuê làm, họ sẽ lấy gì ăn, lấy gì để chi trả cho cuộc sống ? Họ chẳng có gì để đảm bảo nuôi sống họ. Không những thế, họ còn bị người khác chê cười, cho họ là những người lười biếng. Nhưng thực tế, họ không muốn như vậy, họ cũng muốn làm việc, nhưng họ chưa có cơ hội may mắn. Ông chủ trả lương cho họ bằng với những người làm trước để họ có điều kiện trang trải cuộc sống hằng ngày. Đó chẳng phải là điều hợp lý và rất tốt sao ?
Để dạy dân chúng biết về tình thương Thiên Chúa, biết về Nước Trời, Đức Giêsu dùng “dụ ngôn thợ làm vườn”. Ông chủ chính là Thiên Chúa, người làm vườn nho chính là mỗi người chúng ta, phần thưởng chính là Nước Trời. Thiên Chúa sinh chúng ta vào thế giới này trong những hoàn cảnh, điều kiện, môi trường sống khác nhau, và những thời gian khác nhau. Con người được mời gọi cộng tác vào chương trình của Chúa. Con người dù đến trước hay đến sau, với tình yêu thương, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn được mời gọi họ hướng tới phần thưởng Nước Trời. Những người đến trước có thể là những người sống tron môi trường, hoàn cảnh tốt. Những người đến sau có thể là những người chẳng mấy tốt lành, tội lỗi, hay những anh chị em lương dân. Hoàn cảnh của họ có thể không may mắn, họ không muốn làm những việc trái lương tâm, nhưng họ buộc phải làm thế. Đến phút cuối, họ ăn năn và trở lại, nhận biết Chúa, chẳng lẽ Chúa lại chấp tội họ sao ? Thiên Chúa luôn thương xót, tha thứ và đón nhận họ trong vòng tay yêu thương của Người. Những người như vậy chẳng lẽ chúng ta không vui vì họ được trở lại trong gia đình của Thiên Chúa sao ? Hay với bản tính ghen tương, con người hắt hủi, lên án, phê, phán, so bì tính toán với họ ? Chúng ta được mời gọi bước ra khỏi những tính toán hẹp hòi để giúp đỡ, cầu nguyện, giúp họ được trở lại lãnh nhận hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin uốn nắn chúng con. Xin cho chúng con nhìn tha nhân trong ánh mắt yêu thương, bác ái, trong chiều hướng tốt, không phải là ghen tương ích kỷ, xét đoán. Xin cho chúng con luôn biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu và chia sẻ.
Lạy chúa, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người rất riêng tư và cá vị. Xin cho chúng con luôn nỗ lực đáp trả tình yêu Chúa từng ngày. Amen.
Lương bổng, công xá là động lực quan trọng giúp con người có thể làm việc hiệu quả. Tiền lương TN 25-A189
Lương bổng, công xá là động lực quan trọng giúp con người có thể làm việc hiệu quả. Tiền lương thường được tính bằng đồng tiền, mà “Đồng tiền liền khúc ruột” (tục ngữ Việt Nam), nên vấn đề trở nên thật rắc rối. Chức càng lớn thì bổng càng to, cấp càng to thì lương càng bự… để rồi từ đó nảy sinh ra giai cấp và vấn đề mua quan bán tước, chạy chức chạy quyền. Tâm lý chung của con người là thế. Người ta không muốn cho kẻ khác có tài hơn mình hoặc được ưu đãi hơn mình, thậm chí còn không muốn cho người khác bằng mình nữa. Ai cũng muốn mình mới là người nổi trội hơn, đáng được ưu đãi và tôn vinh hơn. Lòng ghen tị che mờ lý trí, khiến con người nhiều khi trở thành lố bịch, chỉ thấy mình là “number one”, còn tất cả chỉ là “number ten” không đáng một xu. Ấy là chưa kể nhiều khi ghen tị trở thành ghen tức, rồi ghen tức trở thành ghen ghét, hận thù cũng chẳng bao xa.
Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXV/TN-A – Mt 20, 1-16a) trình thuật: Tất cả những người thợ vào làm vườn nho từ tảng sáng tới những người vào làm giờ thứ ba, thứ sáu hay thứ mười một, đều lãnh tiền công bằng nhau (một quan tiền). Những người vào làm trước nhất đã “vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 11-12). Suy đi nghĩ lại, thấy quả thực con người là thế, nếu không thế thì đã chẳng là con người. “Ghen tuông âu cũng thế gian thường tình” (Truyện Kiều). C’est la vie! Đời mà! Ghen tuông cũng có nhiều dạng (ghen tuông, ghen tị, ghen ghét, ghen tức) và ở nhiều lãnh vực khác nhau (tình, tiền, danh vọng, bổng lộc…): Từ tình cảm trai gái đến vợ chồng, rồi giữa cha mẹ và con cái, anh em với nhau trong gia đình, đến làng xóm, công tư sở, đến quốc gia, thậm chí còn có cả trường hợp giữa những quốc gia trên thế giới cũng ghen tức với nhau nữa.
Cựu Ước nói về chuyện ghen tuông rất nhiều: Câu chuyện ghen tức giữa Ca-in và A-ben đưa đến cảnh Ca-in đánh chết em ruột mình chỉ vì lễ vật của A-ben được Thiên Chúa chấp nhận, còn Ca-in thì bị khước từ (St 4, 1-8). Cảnh vua Sa-un ghen tức với Đa-vít chỉ vì Đa-vit chiến thắng vang dội quân Phi-li-tinh, được cả triều đình khâm phục. Một nhà vua quyền thế còn ghen tị với cả con của triều thần dưới quyền mình (Vua Sa-un hỏi: “Hỡi người thanh niên, con là con ai?” Đa-vít trả lời: “Con là con của tôi tớ ngài là Gie-sê, người Bê-lem.” – 1Sm 17, 58)! Từ ghen tị nhỏ nhen đi tới chỗ đâm chém giết hại nhau cũng chẳng bao xa (“Vua Sa-un nói: Người ta cho Đa vít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi. Từ ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Đa-vít với con mắt ghen tị… Vua Sa-un phóng cây giáo và nói: “Ta phải đâm Đa-vít, ghim nó vào tường mới được.” Nhưng cả hai lần Đa-vít đều tránh được.” Cuối cùng, “vua Sa-un trở thành kẻ thù của ông Đa-vít suốt đời.” – Sm 18, 10-11.29). Chuyện ghen tị còn xảy ra giữa Ep-ra-in với Giu-đa (Is 11, 11-13), rồi còn biết bao trường hợp khác nữa …, nhiều, nhiều lắm!
Cựu Ước thì như vậy, sang đến Tân Ước thì sao? Ngay trong nội bộ các môn đệ đầu tiên của Chúa cũng có cảnh ghen tức. Vẫn còn đó chuyện 2 người con ông Dê-bê-đê xin ngồi bên tả và bên hữu Chúa Giê-su, khiến cho “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an” (Mc 10, 41). Đám thượng tế, kinh sư cũng vì ghen tị với Đức Giê-su mà nộp Người (“Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Người” – Mc 15, 10). Sau này, họ còn ghen với Thánh Phê-rô và tìm cách hại các Tông đồ (“Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông – tức là phái Xa-đốc – ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng.” (Cv 5, 17); “Nhưng người Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân.” (Cv 17, 5).
Cũng chẳng cần nói tới xa xưa làm gì, bởi chuyện ghen tức đố kị ở xã hội ngày nay thì đầy rẫy, không bút mực nào có thể kể cho hết được! Viết tới đây, kẻ viết bài này lại nhớ tới câu chuyện “ngồi gần, ngồi xa Chúa” mà đã hơn một lần được nhắc tới trong những bài chia sẻ của mình. Đó là lời khuyên của một giảng viên trong một lớp học: “Hãy yêu Chúa thật nhiều và càng yêu nhiều thì sau này lên thiên đàng càng được ngồi gần Chúa nhiều hơn”. Không kềm được tính nói thẳng, nói thật, kẻ viết bài này đã phản bác: Đó chỉ là những cảm nghĩ, suy tư của con người (khi yêu ai càng nhiều thì càng cảm thấy gần gũi người ấy nhiều hơn). Còn đến khi được hưởng phúc trên quê trời, thì tất cả mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp cao hay thấp, không căn cứ vào phẩm trật lớn hay nhỏ, cũng chẳng còn ranh giới giữa yêu nhiều yêu ít. Khi đó, Chúa sẽ ở với và ở trong mỗi con người (“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.” – Ga 17, 20-21), vậy thì còn sợ gì ngồi gần hay ngồi xa?
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, đặt giả thử nếu ông chủ vườn nho cứ kêu thợ tới làm việc, mà không có một giao ước nào, thì không thể phiền trách những người tới làm từ sáng sớm ghen tức với những người chỉ làm có một giờ sau chót. Tuy nhiên, ông chủ đã có giao ước từ trước và thực hiện đúng với giao ước là mỗi người làm vườn sẽ được trả công một quan tiền. Và chính câu trả lời của ông chủ đã cho thấy lòng ghen tị hẹp hòi của con người đã khiến họ không nhìn thấy tấm lòng bao dung của ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 13-15). Vâng, đừng thấy chủ tốt bụng mà ghen tức với anh em. Còn điều quan trọng hơn là hãy nhìn lại mình, xem mình tới trước mà có làm việc bằng (chớ đừng nói là hơn) người đến sau không?
Hoá cho nên chẳng cần phải suy tư cũng hiểu ngay ông chủ trong dụ ngôn “thợ làm vuờn nho” đích thị là Thiên Chúa, và tiền công một quan tiền chính là Nước Trời vậy. Được gọi trước hay được gọi sau không thành vấn đề, mà vấn đề đặt ra ở đây là anh có đáp ứng đúng với ơn gọi ấy hay không. Đừng vội cho mình là người quan trọng vì được gọi trước, rồi sinh lòng ghen tức với những người đến sau, bởi chính thái độ ghen tức ấy bộc lộ rõ ràng bản chất con người vừa ích kỷ, vừa kiêu căng tự phụ. Đó phải chăng là tội thứ nhất (kiêu ngạo), tội thứ sáu (ghen ghét), kể cả tội thứ tư (hờn giận) trong 7 mối tội đầu? Khi đã phạm cùng lúc đến 3 trong 7 mối tội đầu thì dù cho có được gọi đầu tiên, hậu quả tất yếu cũng vẫn là “xuống hàng chót” và biết đâu, kẻ đứng chót sẽ “lên hàng đầu” vì họ đã sống đúng với ơn gọi của mình. Ấy cũng bởi “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 20, 16).
Tóm lại, bài học người Ki-tô hữu rút ra được phải là: Hãy khiêm tốn nhìn lại bản thân hơn là nhìn vào người khác để phân bì đố kỵ. Hãy “Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6, 42). Ghen tị không những làm mất tình yêu thương, gây nên những gương mù gương xấu, mà còn hơn thế nữa, ghen tị có thể làm cho người ta mù quáng, đi tới chỗ hận thù hãm hại lẫn nhau. Hãy làm theo lời dậy của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Phi-lê-phê: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5). Ước được như vậy.
Ôi, lạy Chúa! Ngay từ những ngày đầu Chúa mới dựng nên chúng con, thì Nguyên tổ chúng con đã phạm sai lầm (dù cho sai lầm đó là do quỷ dữ cám dỗ, nhưng nếu không kiêu ngạo muốn được ngang bằng với chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bản thân mình, thì Nguyên tổ đâu có sa ngã!). Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho chúng con, để chúng con hiểu được rằng “ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa.” (Gc 3, 16). Đồng thời thêm sức cho chúng con có đủ dũng khí, kiên quyết “từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha.” (1Pr 2, 1). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
Câu nói “huyền thoại” củanam ca sĩ Sơn Tùng “Mình thích thì mình vẽ lên thôi” hiện là câu TN 25-A190
1. Câu nói “huyền thoại” củanam ca sĩ Sơn Tùng “Mình thích thì mình vẽ lên thôi” hiện là câu cửa miệng của không ít bạn trẻ. Khắp các diễn đàn, dân mạng liên tục dùng mẫu “Mình thích thì mình làm thôi” để trả lời khi được hỏi lý do cho hành động nào đó. Con người có giới hạn còn phải “bó tay” trước việc “mình thích thì mình làm thôi”, dĩ nhiên trong những “cái thích” của con người, nhất là các bạn trẻ, có những hành động trái pháp luật, trái lương tâm, trái với luân thường đạo lý, hay đơn giản chỉ là sự bồng bột… Còn Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, Ngài vượt lên trên tất cả; không có một giới hạn nào dành cho Ngài, vì vậy nếu “Chúa thích thì Chúa làm thôi”, và chắc chắn cái “thích” và cái “làm” của Chúa không bao giờ sai lầm.
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia đã cho thấy đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người, cách hành xử của Thiên Chúa không phải như cách hành xử của con người… Con người thì trừng phạt, nhưng Thiên Chúa lại xót thương, mà việc xót thương của Thiên Chúa là một hành vi đúng đắn, vì để cứu sống con người… Từ đó mời gọi những người yếu đuối tội lỗi đừng sợ, đừng trốn tránh, mà hãy quay trở về với Thiên Chúa để được sống.
2. Câu truyện dụ ngôn trong Mt 20, 1-16a cho chúng ta thấy sự thật về Nước Trời, nghĩa là sự thật về Thiên Chúa. Quả thật Thiên Chúa được phác họa qua chân dung ông chủ nhà là Đấng công bằng ; Ngài nói là Ngài làm, Ngài nói làm sao Ngài làm như vậy: “Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền… họ vào vườn nho làm việc” (Mt 20, 2), đến cuối ngày họ lãnh “mỗi người một quan tiền”. Đó là sự công bằng của ông chủ.
Nhưng hơn hết, việc họ được vào làm vườn nho cho ông chủ không phải xuất phát từ bản thân của họ, nhưng nhờ ông chủ “tảng sáng đã ra mướn thợ… khoảng giờ thứ ba, ông trở ra,… khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín,… rồi giờ thứ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác đứng đó.” Nếu có ai hỏi, có lẽ Chúa sẽ trả lời: “mình thích thì đi thôi”, không ai có quyền ngăn cản Thiên Chúa làm một việc tốt như thế.
Việc đáng trân quý hơn vì nó vượt lên trên sự công bằng, đó là ông chủ trả cho người làm sau hết bằng người làm trước hết. Dĩ nhiên việc này không bất công đối với người làm từ tảng sáng, nhưng nó lại là ân huệ của ông chủ dành cho người làm ở giờ thứ mười một. Lời giải thích của ông chủ dành cho những kẻ cằn nhằn ông cho thấy lý do để ông làm việc đó: “Này bạn tôi đâu tôi đâu có xử bất công với bạn… chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?” (x.Mt 20, 13-15). Và đó cũng là sự thật về Thiên Chúa, “Chúa thích thì Chúa làm thôi”.
3. Nhưng qua đó mới thấy được “cái thích” của Thiên Chúa là gì, nó hoàn toàn khác với “cái thích” tự nhiên của con người. Nhờ vậy mà chúng ta thấy được hành động “thích thì làm” của con người có thể dẫn đến những sai lầm; nhưng “thích thì làm” của Chúa luôn luôn đem đến những điều tốt. Nói một cách ngắn gọn lại: đường lối của Thiên Chúa, cái lạ lùng của Thiên Chúa, cái thích của Thiên Chúa chính là lòng thương xót của Ngài, nhờ thế mà chúng ta được sống.
Con người thì thích lên án, chỉ trích, chê bai, ghanh ghét… Những người biệt phái và Pharisêu nói: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”(Mt 9, 11) ; Những người làm từ tảng sáng nói: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 12). Còn Thiên Chúa thì thích bênh vực, thông cảm, tha thứ và yêu thương…“Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” ; “Các ông hãy đi học cho biết lời này có nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần hy lễ.” ; “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”…
4. Như vậy phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy sự thật về cái “thích” của Thiên Chúa. Qua đó càng thêm xác tín, mỗi người được Thiên Chúa “thích” một cách đặc biệt, vì vậy Ngài muốn tỏ lộ cái thích đó trên cuộc đời của từng người theo mỗi cách khác nhau.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ trong Thánh Lễ kính thánh Matthêu hôm 21/09 tại nhà nguyện thánh Marta như sau: “Có rất nhiều, rất nhiều… ngay cả trong Giáo Hội ngày nay, người ta nói: “Không, không thể làm thế, tất cả đều rõ ràng, tất cả đều rõ, không, không được như thế…” Họ là những tội nhân và cần loại bỏ họ”. Tuy nhiên Thiên Chúa lại thích hành động nơi cuộc đời của họ như thế nào là tùy Ngài, chúng ta đừng “ganh tị với lòng tốt của Thiên Chúa”. Khi chấp nhận lòng tốt của Thiên Chúa là chúng ta chấp nhận cách thức Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót nơi mỗi người, kể cả những người chúng ta cho rằng: “hết thuốc chữa”.
Riêng đối với mỗi người, chắc chắn nhiều lần chúng ta cảm nhận “cái thích” của Thiên Chúa làm cho chúng ta “nhúc nhích” cõi lòng. Mỗi lần được thứ tha khi đến tòa giải tội, mỗi lần được một ân huệ nào đó mà chính chúng ta xét thấy là không xứng đáng, mỗi lần được ban cho một điều mà chúng ta vẫn hằng khao khát… Xét lại trong tất cả, có phải do chúng ta xứng đáng hay không? Vậy thì do điều gì? Thưa có “Chúa thích thì Chúa làm thôi”. Thiên Chúa sẽ mãi mãi thích làm như vậy đối với mỗi người và từng người.
Hãy để cho cái “thích” của Thiên Chúa thúc đẩy sự phấn chấn nơi tâm hồn chúng ta, làm đòn bẫy để tiến tới mỗi ngày trong niềm tin yêu và phó thác, rằng Thiên Chúa không bao giờ chê ghét một ai. Từ đó cũng hãy để cho Thiên Chúa có tự do hành động nơi người khác.
Thông thường theo sự công bằng, ai làm nhiều thì hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng lương TN 25-A191
Thông thường theo sự công bằng, ai làm nhiều thì hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng lương ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay không theo tiêu chuẩn như thế.
1- Dụ ngôn ông chủ quảng đại
Ông chủ thuê thợ hành xử theo cách thức khác vượt trên sự công bằng đó. Dụ ngôn kể từ sáng sớm ông đã ra thuê thợ làm vườn nho cho mình. Ông đã thỏa thuận với họ là sẽ trả cho họ mỗi ngày một đồng. Nhưng khi đi ra ngoài, lúc giờ thứ ba (9 giờ sáng), thấy những người ở ngoài không làm gì, ông mời họ vào làm, đến giờ thứ sáu (12 giờ trưa) rồi giờ thứ chín (3 giờ chiều), và cả đến giờ thứ mười một (5 giờ chiều), ông cũng làm như thế. Chiều đến, ông gọi thợ lại mà trả tiền công cho họ, ông trả cho người thợ làm từ sáng sớm đúng một đồng như đã thỏa thuận và cho người làm giờ cuối cùng cũng một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Nên những người làm nhiều giờ đã cằn nhằn và trách móc ông chủ. Nhưng xét cho cùng ông đã không có lỗi gì đến sự công bằng đối với họ, ở đây ông đã hành xử vượt trên sự công bằng, theo lòng quảng đại đối với những người làm sau (x. Mt 20,1-16a).
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn ám chỉ rằng những người thợ đầu tiên được mời gọi bởi Thiên Chúa là những người Luật Sỹ, biệt phái và nói chung là tất cả những người Do Thái như là dân tộc được chọn và được thừa hưởng lời hứa từ các tổ phụ. Họ cho rằng chỉ có họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ. Trái lại, những người thợ làm vườn nho vào giờ cuối cùng là những người tội lỗi và dân ngoại mà Chúa Giêsu đến để tìm kiếm họ và mời gọi họ vào đón nhận ơn cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Qua đó, Chúa Giêsu muốn chống một thứ tôn giáo và luân lý chỉ dựa trên công trạng của mình. Theo đó, những người Biệt Phái và Luật Sỹ đã loại bỏ khả năng được hưởng ơn cứu độ những người nghèo, người bị bỏ rơi và người tội lỗi. Đồng thời Chúa Giêsu loan báo sứ điệp mới mẻ rằng ơn cứu độ chủ yếu dựa trên sự nhưng không, lòng quảng đại và thương xót của Thiên Chúa. Người đặc biệt ám chỉ ông chủ vườn nho đó chính là Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên! Cách hành xử của ông chủ chính là cách hành xử của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động và phân xử hoàn toàn khác với những so đo tính toán của con người. Như bài đọc I diễn tả: “Thật vậy, tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các người và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy (Is 55,8-9).
2- Lòng quảng đại vượt trên sự công bình
Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?
Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa hành xử với chúng ta không chỉ dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu, lòng quảng đại và thương xót. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng quảng đại.
Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, ơn cứu độ không phải chủ yếu là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa muốn ban cho tất cả mọi người không có loại trừ ai, kẻ cả những người đến giờ chót, miễn là họ mở lòng đón nhận, miễn là họ biết lắng nghe lời mời và cộng tác với Thiên Chúa.
3- Sự “vô lý” của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta
Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẻ ngược đời, vô lý và khác với lý luận của chúng ta. Các Giáo Phụ nói rằng: “Thiên Chúa không tính toán khi ban phát ân huệ của Người.” Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dỏm: “Thiên Chúa không biết tính toán!” Nhưng chính sự “vô lý” của Thiên Chúa lại trở thành cơ hội, là lối vào cho chúng ta tới gần Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết và bị luận phạt rồi. Bởi lẽ, chúng ta đã nhiều lần đắc tội với Người. Một cách khiêm tốn, phải thành thật thú nhận rằng, chúng ta chẳng xứng đáng và chẳng có công trạng gì để được cứu độ, nếu không nhờ vào lòng thương xót của Người.
Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ.
Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, bất kỳ lúc nào, giờ nào, cả giây phút cuối cùng trong cuộc đời, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Người làm vườn nho của Chúa, và dù làm nhiều hay làm ít, Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi và nhân hậu của Người.
Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của tình yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21), để lượng giá cuộc đời không dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi, ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, nhưng theo tầm nhìn, tiêu chuẩn và đường lối của Thiên Chúa khi đối xử với tha nhân mình. Amen!
Tấm lòng của nhân vật “ông chủ vườn nho” trong dụ ngôn hôm nay, diễn tả phần nào tấm lòng TN 25-A192
Tấm lòng của nhân vật “ông chủ vườn nho” trong dụ ngôn hôm nay, diễn tả phần nào tấm lòng của Chúa – tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người – Lòng Chúa Thương Xót.
Chúng ta có thể ghi nhận mấy điểm sau đây nơi ông chủ vườn nho để giúp ta suy ngẫm về Tấm Lòng Của Chúa.
Quan tâm chăm sóc mọi người Ông chủ vườn nho đã để ý và nhận ra có những người chưa làm việc. Họ chưa có cơ hội, hay do hoàn cảnh nào đó họ chưa được ai nâng đỡ. Ông chủ vườn nho đã tìm đến họ để thăm hỏi chứ không đợi họ đến xin việc. Ông đi bước trước vì chính ông là người quan tâm đến họ. “Vì không ai mướn chúng tôi” (Mt.20,7). Ông chủ đã cho tất cả họ vào vườn nho làm việc hết. Đó là sự động viên chân tình thật cao quý để giúp nhiều người thoát khỏi tình cảnh “ăn không ngồi rồi”. Dù đã muộn, cũng hãy làm việc ngay khi có cơ hội.
Trong cuộc sống, ai là người “không được ai mướn” ? Có thể họ là những người thiểu năng, tật nguyền, không đủ tiêu chuẩn để làm việc trôi chảy… Hay không có ai đùm bọc họ, không thuộc thành phần con ông cháu cha, không có gốc rễ cậy nhờ, không có phe cánh, họ không thể “chen chân” vào nơi nào đó để tìm một việc làm chỉ vì họ không quen biết lớn, dù rằng họ có năng lực làm việc… Đặc biệt, trong xã hội hôm nay, “thất nghiệp” là một điều tệ hại trong cuộc sống.
Không giống như ông chủ ruộng đất kia, chỉ nhắm tới việc làm sao cho sinh nhiều hoa lợi, rồi thụ hưởng một mình. Không biết quan tâm đến ai, không nghĩ đến việc chia sẻ cho ai…
“Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi”. (Lc.12,13-21).
Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn này rõ ràng muốn chia sẻ những hoa lợi cho những người đang thiếu thốn. Đã tới khoảng giờ mười một rồi còn gì ! Sẽ làm được bao nhiêu việc đâu, nhưng ông vẫn “mướn” họ. [ Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.]
“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” (Mt.20,7).
Không có sự chọn lựa để loại trừ ai, chỉ cần họ muốn và sẵn sàng làm việc. Đây rõ ràng là sự nâng đỡ.
Hơn cả sự “sòng phẳng”. Ta vẫn biết ngày nay, nhiều việc làm người ta tính tiền công theo từng giờ. Căn bản của tiền lương là sự sòng phẳng, trả tiền công theo đúng hợp đồng, đúng thỏa thuận.
Trong dụ ngôn này, trong số những người làm công, những kẻ đến sau, thậm chí có kẻ chỉ làm có 1 giờ, mà vẫn được trả công 1 đồng, với họ, rõ ràng đây là cách trả tiền công hơn cả sự “sòng phẳng”. Trong câu chuyện dụ ngôn hôm nay, thật sự, những người làm công, cả người đến trước lẫn kẻ đến sau, ai nấy đều ngỡ ngàng… tất cả đều được ông chủ ghi nhận “có công” như nhau !
Điều gì đã dẫn đến cách ứng xử “khác lạ” của ông chủ vườn nho như vậy ? Tại sao ?
“Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt.20,12).
Có thể chúng ta đang chờ đợi một câu trả lời “hợp lý” của ông chủ vườn nho theo cách nghĩ thông thường của chúng ta, thí dụ như: “Tại vì những người kia tuy tới trễ nhưng họ làm ‘chạy việc’ hơn, họ làm chu đáo hơn, họ làm có tính chuyên nghiệp hơn…”. Nhưng không, câu trả lời rất đơn giản, mà chúng ta không hiểu được, vì “tư tưởng phàm nhân của ta” (Is.55,8), lòng ích kỷ đã bịt kín mắt ta, che mờ tâm trí ta, nên ta không nhận ra, không hiểu được, không thấy được. Đó đơn giản là vì “lòng tốt” của ông chủ – ông chạnh lòng thương xót họ đang bơ vơ, đang… thất nghiệp – một ông chủ nhân từ, giàu lòng thương xót.
Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt.20,15).
Cuộc sống không phải là một cuộc đua một mất một còn… Có những “cuộc đua công khai” và có những “cuộc đua âm thầm”. Có những “cuộc đua có tổ chức” và có những “cuộc đua tự nó hình thành” trong lòng ta.
Những cuộc đua công khai “bên ngoài”, những “cuộc đua có tổ chức”, những người trong cuộc có thể có những mánh mung, thủ đoạn, gian xảo để tìm chiến thắng, nhưng ở trường hợp này, người ta cũng còn có thể đặt ra những luật lệ để kiểm soát, còn những cuộc đua “bên trong” – âm thầm trong lòng ta – “tự nó hình thành” trong tim óc ta, khó mà kiểm soát. Lòng ích kỷ, tính ganh tỵ, con tim hẹp hòi… làm cho ta luôn muốn hơn người, luôn muốn “chiến thắng”, ta không muốn ai hơn ta. Từ đó, dẫn đưa ta tới sự giả hình, sự thâm độc, hãm hại, tìm cách đè bẹp người khác.
Bài học Ca-in giết A-ben là một chứng minh cụ thể về lòng ích kỷ, tính ganh tỵ, mà gốc rễ của nó không gì khác, chính là sự kiêu căng, đầu mối mọi tội lỗi.
Sau một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên Ðức Chúa. 4 A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, 5 nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. 6 Ðức Chúa phán với Ca-in: “Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? 7 Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó.” 8 Ca-in nói với em là A-ben: “Chúng mình ra ngoài đồng đi! ” Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình.(St.4,3-8).
Trong cuộc sống, sự cạnh tranh, những cuộc đua ngấm ngầm diễn ra trong lòng người rất mãnh liệt, ám ảnh trong lòng ta những câu hỏi kích thích lòng tự ái, tự kiêu, tự tôn, tự đại:
“Sao người ta lại có thể hưởng được hơn ta một lời khen, một lời ca tụng, sự ưu ái, những quà tặng… khi tuổi đời họ không bằng ta, đường công danh sự nghiệp không thể sánh ngang hàng với ta…”
“Sao lại không có đầu có cuối, ai là kẻ trước tiên, ai là kẻ sau cùng, ai là kẻ ưu tiên, ai là người vớt vát ?”
Với ông chủ vườn nho nhân hậu, tất cả đều như nhau. Vì rằng, cuộc đời không phải chỉ là cuộc đua tìm thứ hạng, hay cuộc đua một mất một còn… trong con tim yêu thương, tất cả đều chiến thắng.
Thật khó hình dung dụ ngôn có phần kết luận: “tất cả mọi người sau khi được lãnh tiền đồng đều liền cùng nhau cám ơn ông chủ và nắm tay nhau ra về vui vẻ”. Nếu dụ ngôn kết luận như vậy thì đó là một câu chuyện “có hậu”, nhưng liệu ta có chấp nhận được không, nhất là khi ta là một trong những người trước tiên vào làm việc trong vườn nho?
Tại thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương về thể chất và tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100m.
Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và quay lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả không trừ một ai! Một cô bé bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
– Như thế này em sẽ thấy tốt hơn.
Cô nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.
Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy, những người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này.
Tất cả là hồng ân Điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người chính là niềm tin yêu vào Ngài chứ không phải là làm được gì cho Ngài. Từ niềm tin yêu, ta sẵn sàng làm việc, và làm việc để “sáng danh Chúa” chứ không phải để “sáng danh ta”, chúng ta làm việc vì chia sẻ với anh em đồng loại chứ không phải làm việc để so sánh, ganh tị, phô trương, tự “xông hương” mình để rồi nhục mạ, hạ bệ người khác.
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. 12Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. 13Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. 14Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18, 9-14).
Ở dụ ngôn trên, ta thấy một sự đảo ngược rất bất ngờ: “tôn mình lên, bị hạ xuống – hạ mình xuống, được tôn lên”. Và, chúng ta lại thấy một sự “đảo ngược” tương tự trong dụ ngôn hôm nay cũng không kém phần ngạc nhiên: “kẻ đứng chót, lên hàng đầu – kẻ đứng đầu, xuống hàng chót”
“Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. (Mt.20,16).
Cuối cùng, chính là tựa nương, tin tưởng vào “ông chủ tốt bụng” – Tấm Lòng Của Chúa – Chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin yêu vào Chúa – Đấng thấu suốt lòng ta, và toàn quyền quyết định về cuộc đời ta với Lòng Thương Xót vô bờ. Tấm Lòng Của Chúa là tình Cha bao la hải hà, là nguồn vui, sự bình an và hạnh phúc viên mãn cho cuộc đời ta. 04
[Tác phẩm điêu khắc khổng lồ có tên “Bàn tay của Chúa” của nghệ sĩ Lorenzo Quinn đã được sắp đặt tại trụ sở của sở giao dịch chứng khoán hoàng gia Luân Đôn trước sự trầm trồ kinh ngạc của công chúng.
Được tạo bởi nhà điêu khắc người Ý Lorenzo Quinn, công trình cỡ lớn này gồm một bàn tay khổng lồ vươn ra khỏi mặt đất và nâng đỡ một hình người mệt mỏi bên trên. Tác phẩm này cô đọng những khoảng khắc nghi hoặc, sợ hãi và truyền tải nó thành hình ảnh về việc con người là gì. (INTERNET) ]
Điều đó cũng có nghĩa là ta đặt tất cả đời mình trong “bàn tay của Chúa”.
“Tất cả là hồng ân”, ta vẫn thường nói thế. Điều đó cũng có nghĩa là ta chẳng là gì trước mặt Chúa, tất cả là do lòng Ngài thương xót. Chỉ khi ta nhận ra “tất cả là hồng ân của Chúa” ta mới có thể sống đơn sơ, khiêm tốn và thành tâm phó thác vào Chúa.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt.20,15).
Lạy Chúa,
Con xin tín thác đời con vào Lòng Chúa Thương Xót. Amen.
Ghen tức, ghen tị là thói xấu ăn sâu vào tâm hồn và chi phối hành động của nhiều người. Các hình TN 25-A193
Ghen tức, ghen tị là thói xấu ăn sâu vào tâm hồn và chi phối hành động của nhiều người. Các hình thức ghen tị được thể hiện hết sức đa dạng và có khi còn mang màu sắc tốt lành nữa. Người ta có thể dễ dàng đến thăm đám tang hoặc an ủi người đau khổ hơn là đến để chúc mừng sự thành công của người bạn. Hai nhà hàng xóm ghen tịnhau vì cái xe, vì trang thiết bị trong nhà, dẫn đến việc lườm nguýt, nói xấu nhau. Các quan chức ghen tị nhau vì người này giàu hơn người kia, thanh thiếu niên ghen tị nhau vì cái xe, hoặc vì áo quần, vì bạn bè, từ đó dẫn đến đánh nhau. Người ta cũng có thể thấy các hình thức ghen tị trong đời sống đạo khi người này thấy người khác xem ra đạo đức, thành công hơn mình, được nhiều người quý mến, hoặc thấy họ nhiệt tình phục vụ hơn mình.
Ngày xưa trong Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng đã trách những người mang trong mình cặp mắt ghen tị qua dụ ngôn ông chủ tuyển chọn thợ làm vườn. Kể câu chuyện này, Chúa Giêsu nói với những người Do Thái luôn tự hào tự mãn cho rằng họ là những người được Thiên Chúa ưu tiên tuyển chọn, là những người độc quyền hưởng ơn cứu độ. Đức Giêsu đến, Ngài mở rộng vòng tay để mời gọi hết mọi người, mọi dân trở về với Thiên Chúa, gia ngập vào vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã không ngần ngại tiếp xúc và mời gọi mọi người từ người lớn đến trẻ nhỏ, từ Do Thái đến dân ngoại, từ người thu thuế đến những cô gái điếm đón nhận Tin Mừng. Bất cứ ai sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa, đều trở nên môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, những người Do Thái đã khó chịu khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc với những người tội lỗi, họ không muốn thấy Thiên Chúa đối xử nhân hậu với những người này.
Chúa Giêsu đã kể câu chuyện: Một ông chủ từ tảng sáng đã ra ngoài đường để thuê thợ vào làm vườn nho cho ông. Ông tỏ ra rất cần thợ, đối với ông, làm nhiều hay làm ít, sớm hay trễ không quan trọng cho bằng người được mời sẵn sàng nhận lời mời của ông để vào làm vườn nho. Những người được mời làm từ sáng sớm đã được thỏa thuận tiền công là một đồng một ngày. Sau đó, ông chủ vẫn tiếp tục ra ngoài để tuyển thợ, cho dù đã trưa, đã chiều và đã gần hết ngày. Cuối ngày, ông trả cho mỗi người một đồng tiền lương như đã thỏa thuận với những người làm từ buổi sáng, dù họ làm việc từ sáng sớm hoặc khi đã chiều muộn. Hành động quảng đại của ông chủ đã khiến những người đến từ sáng sớm ghen tức, họ trách ông: Tại sao chúng tôi vất vả từ sáng sớm mà ông cũng trả cho chúng tôi một đồng bằng với người đến sau?
Câu trả lời của ông chủ cho thấy, ông không làm điều bất công, cũng không làm thiệt hại ai, ông chỉ làm do sự thức đẩy của lòng quảng đại và hay thương xót từ trái tim của ông. Ông không muốn để cho bất cứ ai đứng bên ngoài vườn nho, ông cũng không muốn để những người làm vườn nho cho ông phải thiếu thốn. Khi những người làm từ buổi sáng trách ông không công bằng, ông đã giải thích rõ ràng: Tôi không làm thiệt hại bạn, tôi đã thỏa thuận với bạn là một đồng một ngày công. Bây giờ tôi trả cho những người đến sau một đồng bằng bạn, đó là việc của tôi. Việc ông chủ trả cho những người làm một giờ bằng với người làm từ sáng không phải vì họ xứng đáng, nhưng hoàn toàn do lòng quảng đại của ông chủ, ông muốn và ông làm như thế.
Ông chủ trong câu chuyện chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là một ông chủ tốt lành quảng đại. Ngài muốn mời gọi mọi người cùng vào làm trong vườn nho là Giáo Hội, không kể người đó là dân nào, cũng không kể họ là đạo gốc hay tân tòng, miễn là họ đáp lại lời mời gọi của Chúa, trở thành thành viên trong gia đình của Chúa. Thiên Chúa không chấp nhận sự nghi kỵ, ghen tị trong ánh mắt, trong thái độ của các thành viên trong vườn nho của Ngài. Ngài cũng không muốn con người dùng trái tim hẹp hòi nhỏ bé của mình để giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã khẳng định: Những kẻ trước hết sẽ nên rốt hết và những người rốt hết sẽ nên trước hết. Vậy ai là người trước hết và ai là người sau hết trong câu kết này? Người trước hết ở đây chính là những người Do Thái, họ là dân tộc đầu tiên được thừa hưởng lời hứa cứu độ, nhưng vì họ đã không cố gắng, không hết mình để phụng sự Chúa, họ trở thành kẻ đứng sau hết. Trái lại, những người dân ngoại thành tâm thiện chí tìm kiếm Chúa, dù biết Chúa muộn màng nhưng lại là những người trước hết được thừa hưởng ơn cứu độ. Như thế, việc tin theo Chúa, việc làm vườn nho cho Chúa không được tính bằng thời gian hay vận tốc, làm nhiều hay ít theo số học, mà được tính bằng cường độ của lòng yêu mến và sự nhiệt tâm chúng ta dành cho Chúa. Như vậy, cho dù chỉ làm những việc thật nhỏ bé tầm thường, nhưng với tấm lòng và tình yêu mến mạnh mẽ lớn lao, thì công việc nhỏ bé ấy sẽ trở thành to lớn trước mắt Thiên Chúa. Đó chính là cách tính toán đong đếm của Thiên Chúa.
Tiên tri Isaia đã diễn giải cách đánh giá và cách tính toán “khác thường” của Thiên Chúa: Kẻ gian ác khi bỏ tư tưởng và hành động gian ác, nó sẽ được Thiên Chúa xót thương. Kẻ tội lỗi khi thật lòng trở về với Thiên Chúa, Người sẽ rộng lòng tha thứ. Vì tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa không phải là tư tưởng và đường lối của loài người, “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối, tư tưởng của Ta cũng khác xa tư tưởng và đường lối của các ngươi bấy nhiêu”.
Thánh Phaolô cũng đã có kinh nghiệm này. Ngài luôn ý thức mình là kẻ sinh sau đẻ muộn so với các tông đồ, nhưng đã được Chúa thương tuyển chọn làm tông đồ cho Chúa, vì thế, Ngài chỉ còn một cách đó là dùng hết tình yêu và cuộc đời của mình để phục vụ Chúa và các linh hồn mà không tính toán thiệt hơn. Tất cả cuộc đời của Phaolô dù sống hay chết, là để phục vụ Chúa và các linh hồn.
Mỗi người chúng ta đều được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa là Giáo Hội, không kể tuổi đời, cũng không kể tuổi đạo, tất cả đều được mời gọi hết lòng yêu mến và làm việc cho Chúa, làm vinh danh Chúa. Vì thế, đừng bao giờ tỏ ra ganh tị với nhau trong công tác tông đồ, cũng đừng ganh tị khi thấy Chúa có vẻ ưu ái người này, người khác hơn mình. Chúa vẫn ưu ái mỗi người cách đặc biệt, nhưng vì chúng ta dùng cặp mắt ghen tị, trái tim hẹp hòi để đong đếm tình thương của Chúa, nên nhiều lần ta oán trách Chúa không công bằng, ta không nhận ra lòng quảng đại xót thương của Chúa, hoặc ta ghen tị với anh chị em. Sự ghen tị này xảy ra ngay trong sinh hoạt hội đoàn trong giáo xứ, kèn cựa nói xấu, phân bì lẫn nhau, so đo tính toán trong công việc tông đồ.
Sự ghen tị cũng diễn ra trong gia đình, nơi chòm xóm, bạn bè và nơi xã hội như đã nới ở trên, dẫn đến tình trạng nói xấu, dèm pha, dìm hàng lẫn nhau. Người này tỏ ra khó chịu, tức tối khi người khác được khen, được thành công hơn mình, đẹp hơn mình.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta luôn nhận ra lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với bản thân và đối với anh chị em. Xin Chúa giúp chúng ta gỡ khỏi mình cặp mắt ghen tị nhỏ nhen, trái tim hẹp hòi và xin ban cho chúng ta có tấm lòng và cái nhìn nhân từ quảng đại như Chúa. Amen.
Có một câu chuyện thú vị về một hành khất bất đắc dĩ như sau. Sau một ngày dài làm việc, người TN 25-A194
Có một câu chuyện thú vị về một hành khất bất đắc dĩ như sau. Sau một ngày dài làm việc, người đàn ông đi bộ về nhà. Vì mệt mỏi và đói khát, người đàn ông dừng lại dưới một bóng cây, dựa lưng vào thân cây và thiếp ngủ đi lúc nào không biết. Dáng vẻ mệt mỏi của ông đến độ những người qua lại tưởng ông là người hành khất, vì vậy họ dừng chân và bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng. Chẳng mấy chốc, chiếc mũ của ông đã được khá tiền. Chợt thức giấc, người đàn ông nhìn vào cái mũ ngạc nhiên và bàng hoàng. Ông cảm phục lòng nhân từ và quảng đại của khách qua đường. Ông vui vẻ đếm từng đồng và nhận thấy số tiền còn nhiều hơn một ngày công của ông. Người đàn ông mỉm cười về số phận “người hành khất bất đắc dĩ” của mình, và thầm nghĩ nếu là hành khất thật thì cũng chẳng sợ đói. Sau đó, ông tiếp tục đi bộ về nhà. Trên con đường, ông nhìn thấy nhiều người hành khất và cảm thấy thương cho số phận của họ, và ông lặng lẽ đến từng người, chia đều số tiền đã thu được và số tiền ông hiện có ở trong túi, cho những người hành khất này. Ông hy vọng họ có được một ngày hôm nay tốt đẹp và tiếp tục đoạn đường còn lại về nhà.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể chúng ta nghe dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho” để cho chúng ta biết về một ông chủ tốt, giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Những người thất nghiệp này, có thể được gọi là những người hành khất, đứng ngoài góc đường chờ đợi được mướn để có tiền nuôi thân mình và gia đình mình. Chúng ta được biết có người được mướn vào làm vườn bắt đầu từ những giờ khác nhau, nhưng cuối cùng ai cũng được trả lương bằng nhau.
Thật vậy, nghe qua dụ ngôn, có lẽ chúng ta cảm thấy bực bội, ấm ức và nghĩ ông chủ không công bằng và có vẻ thiên vị. Tại sao ông không trả cho những nhân công làm ít giờ, theo giờ họ làm, mà trả lương cho họ như những người khác cho rắc rối, tạo những lời phản đối và khiếu nại cho mệt. Tại sao ông không trả cho những người làm cả ngày nhiều hơn? Theo như tiêu chuẩn và sự phán đoán của chúng ta thì lối cư xử và quyết định của ông quả không giống ai! Nhưng có phải ông chủ đã làm sai? Ngài có phải theo tiêu chuẩn và ý muốn của con người chúng ta hay không?
Thế những Tin mừng muốn cho chúng ta biết một ông chủ tốt vì ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái. Công bằng vì ông đã trả lương đúng với sự thỏa thuận giữa ông và những người thợ, đúng với giá thích hợp với hoàn cảnh của nhân công, đủ để nuôi sống họ và gia đình họ một ngày. Ông còn đi xa hơn tự cho mình là một người có trách nhiệm phải tìm và giúp những người thất nghiệp, để họ có công việc làm. Và từ đó, chúng ta thấy, ông chủ đã vươn lên thực thi việc bác ái, thể hiện lòng nhân từ giờ nào cũng lo đi tìm những người thất nghiệp và mướn họ, và trả cho những người chỉ làm ít giờ cũng được lãnh một đồng như những người làm cả ngày. Ông chủ trong Tin mừng hôm nay chính là Thiên Chúa, chính là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế, xuống thế làm người trở thành sứ giả tình yêu, lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa Cha cho nhân loại, và dạy con người phải biết sống công bằng, bác ái và quảng đại để xây dựng một thế giới trong công lý và hòa bình, trong tự do và no ấm.
Ông bà anh chị em thân mến, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn thù hằn, ghen ghét, ganh tị và tranh chấp lẫn nhau. Một nhà tư tưởng đã nói rằng vì con người và cũng tại vì Chúa. Thứ nhất, tại con người vì lòng con người quá hẹp hòi, ích kỷ và ghen tị. Vì hẹp hòi, ích kỷ và ganh ghét nên con người không muốn kẻ khác hơn mình. Chúng ta thấy bao nhiêu sự thù hằn, tranh chấp và xung đột xảy ra giữa những người trong gia đình, cộng đoàn, quốc gia và trên thế giới phát xuất từ sự ganh ghét, ích kỷ và đố kỵ trong lòng con người.
Dụ ngôn “Người Con Hoang Đàng” cũng là một minh chứng cho bản chất ghen ghét và ích kỷ nơi con người chúng ta. Đứa em ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp, làm bại hoại gia phong, nhưng dường như người anh không bận tâm, sống chết mặc nó! Bỗng nhiên, đứa em trở về. Được đón tiếp linh đình. Anh tức giận, phẫn uất đến mức anh cắt đứt quan hệ cha con, anh em. Chúng ta thấy người anh đã nói với cha mình: “Thằng con của ông.” Ông chứ không còn là cha, và con của ông, chứ không còn là em của tôi nữa. Tình liên hệ con người, nhất là trong gia đình bị cắt đứt. Khi tình con người bị cắt đứt, con người đâu còn nghĩ đến chuyện thương nhau. Thiếu tình người, nên những làm vườn từ sáng sớm không hình dung và cảm thông được với hoàn cảnh của những người đồng cảnh ngộ. Họ là những người thất nghiệp cần việc làm để lo cho mình và gia đình. Nhưng tại sao con người chúng ta lại thiếu “tình người”, thiếu lòng bác ái và quảng đại như thế? Có lẽ câu trả lời đúng nhất là vì vô ơn. Chúng ta không nhận ra được tình yêu thương và lòng nhân từ của Chúa. Chúng ta không nhận ra những gì chúng ta có là những ơn lành Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta thấy trong bài Tin mừng tuần trước, vì không cảm nhận được tình thương tha thứ của đức vua, đã tha hết món nợ to lớn, nên người đầy tớ độc ác đã đối xử một cách vô tình và vô tâm, không tha thứ với người chỉ nợ anh một số tiền nhỏ. Anh tóm lấy, bóp cổ, bắt giam, và đòi cho được số tiền nhỏ đó. Lòng con người chúng ta quá hẹp hòi, ích kỷ và ghen tị, cho nên vẫn còn tranh chấp, hận thù và ghanh ghét lẫn nhau.
Thứ hai, tại Chúa vì Chúa quá nhân từ và giàu lòng thương xót, và vì Chúa rất công bằng, thương người và bác ái. Thiên Chúa yêu thương và nhân từ với tất cả chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta hãy trở thành những người hành khất bất đắc dĩ ngủ bên vệ đường, nhận được những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta nhưng không. Và Chúa cũng kêu gọi chúng ta bày tỏ lòng tri ân của mình qua lòng bác ái, quảng đại dâng cúng, đóng góp tham gia vào những công việc xây dựng Nước Chúa. Biết noi gương người hành khất bất đắc dĩ trong câu chuyện sống yêu thương, tha thứ và chia sẻ ơn lành với những người nghèo khổ, nhưng người hành khất thật để họ cũng có nguồn sống. Thiên Chúa qua lòng yêu thương vô bờ bến đã sai Con Một của Người xuống trần gian, để ban cho chúng ta sự sống và sống dồi dào. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng ta.
Thoạt đầu, khi mới đọc dụ ngôn những người thợ được mướn vào giờ thứ mười một, nhiều người TN 25-A195
Thoạt đầu, khi mới đọc dụ ngôn những người thợ được mướn vào giờ thứ mười một, nhiều người cảm thấy khó chấp nhận, vì xem ra những nguyên lý thông thường về công bằng xã hội bị hủy bỏ. Người ta thường nêu cao khẩu hiệu “hãy làm việc nhiều hơn để lợi nhuận nhiều hơn”. Thú thực, chúng ta cũng đã từng có cái nhìn phê phán ông chủ giống như những người thợ đã đến làm việc từ giờ đầu tiên, khi chúng chỉ ta quan sát mọi việc theo cái nhìn trần tục.
Thiên Chúa không nhìn mọi việc cùng một cách như chúng ta. Thánh ý của Ngài khác xa tư tưởng con người. “Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Con người nhận định theo tiêu chuẩn công bằng; Thiên Chúa lại nhìn mọi việc theo ánh mắt của tình thương. Nơi Thiên Chúa, vừa có sự công bằng (trả lương như đã hứa), vừa có tình thương (trả lương người cho người đến sau cũng như người đến trước). Ngài là Đấng công minh, tức là vừa công bằng vừa sáng suốt, hiểu thấu lòng con người và những nỗi niềm của họ. Tác giả Mát-thêu đặt câu chuyện dụ ngôn này vào ngữ cảnh các bài giảng của Chúa Giê-su về Nước Trời như một thực tại đã gần đến. Vì thế, nội dung dụ ngôn cũng hướng chúng ta về ngày cánh chung. Người đến trước hay người đến sau, sẽ có lúc phải trình diện trước nhan Chúa, và phải trả lẽ về cung cách sống và làm việc trong vườn nho của Chúa là chính cuộc đời này.
Để giúp chúng ta hiểu thực tại Nước Trời, Chúa Giê-su đảo ngược lý luận của chúng ta về công bằng xã hội. Một sự công bằng xã hội chỉ dừng lại ở những tính toán khắt khe không thể dẫn con người tới hạnh phúc và không thể xây dựng một xã hội huynh đệ, vì nó bỏ rơi những người không có khả năng làm việc và coi họ như không xứng đáng được hưởng những nhu cầu cần thiết.
Sự công bằng của Nước Trời cũng không giống quan niệm về công trạng nơi chúng ta. Đó là sự công bằng xen lẫn với tình yêu, một tình yêu đi đến tận cùng và có thể bị coi như “bất công” theo cái nhìn nhân loại. Đó là điều ông chủ vườn nho đã làm: ông là một người tốt. Ông trả cho mỗi người, không phải theo công lao, nhưng theo nhu cầu của họ. Ông cho đi với lòng rộng rãi bao la, tới mức “hoang phí”. Ông không chỉ dựa trên sản phẩm người thợ làm ra, mà còn nghĩ tới sự công lao khó nhọc của họ. Và, ai là người có thể phán xét và xác định được nỗi khó nhọc, nếu không đó là Vị Thầy nhân lành, khiêm nhường và dịu dàng trong lòng? Đối với Thiên Chúa, mỗi cá nhân trong số những người đang làm việc vì Nước Trời đều xứng đáng nhận được thù lao Tình yêu. Nếu Thiên Chúa công minh như thế, thì nơi Vương quốc của Ngài phải là một nơi không còn sự ghen tị, hiềm thù và cũng chẳng có ai bị lãng quên.
Hãy trở lại với lời mở đầu trình thuật của thánh Mát-thêu: “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm trong vườn nho của mình”. Sống trên đời, hết thảy chúng ta đều là những người thợ được ông chủ là Thiên Chúa trao cho công việc phải làm. Chúng ta làm việc bởi công trình sáng tạo, tức là thế giới này, được trao cho chúng ta canh tác và giữ gìn. Từ khởi thủy, con người đã ý thức được trách nhiệm này. Tác giả sách Sáng thế đã viết: “Đức Chúa dẫn con người vào vườn Ê-đen để anh canh tác và giữ gìn” (St 2,15). Chúng ta thường chỉ nhớ đến chữ “canh tác” mà quên chữ “giữ gìn”, nên chỉ biết khai thác mà không biết bảo vệ. Như vậy, vấn đề làm lâu giờ hay ít giờ xem ra không quan trọng. Đó là thời gian và cơ hội để con người vươn tới vĩnh cửu, trong khi chờ đợi Thiên Chúa, Đấng Cứu độ con người. Cũng vậy, làm việc này hay việc nọ; ở nơi này hay nơi kia; được nhận biết hay quên lãng; được tôn vinh hay coi thường… cũng không quan trọng đối với người tín hữu. Đối với thánh Phao-lô, điều quan trọng là được ở với Đức Ki-tô, và như thế, “anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Người”.
Nước Trời là quà tặng miễn phí. Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô biên. Ân sủng của Chúa dồi dào như dòng suối. Điều quan trọng là chúng ta có trân trọng đón nhận món quà Nước Trời Chúa ban, có tín thác nơi Lòng Thương Xót của Ngài và có chủ động đến kín nước thiêng liêng nơi dòng nước ân sủng chứa chan ấy.
“Không có người cha, người mẹ, người con, hoặc bất kỳ người nào khác có thể ấp ủ đối tượng họ yêu dấu bằng một tình yêu lớn lao như tình yêu Thiên Chúa ấp ủ một linh hồn” (Chân phúc Angela Foligno).
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất TN 25-A196
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc và người nghe Tin Mừng. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. “Những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng” (Mt 20,9-10). Nhất là những người làm công cho ông chủ, họ vừa nhận vừa lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao“? (Mt 20,12). chúng ta tự hỏi: Cách hành xử và trả công của của ông chủ có chấp nhận được không?
Đọc xong, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý.
Không, Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Chúa Giê-su không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta. Một đồng ông chủ trả cho người làm công là đồng bạc Nước Trời, là đồng có tên sự sống đời đời, nên dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…” (Mt 20,1), chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này.
Câu chuyện lấy bối cảnh trong cuộc sống hằng ngày nhưng ngụ ý về Nước Chúa. Vườn nho được hiểu là Hội Thánh, có Chúa làm chủ. Người làm công là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đáp lời Chúa gọi mời. Thời gian làm việc trong ngày là đời người, và tiền công là sự sống vĩnh cửu. Lời mời gọi vào làm vườn nho cho Chúa gửi đến với mỗi người vào những thời điểm khác nhau trong suốt cuộc đời. Có người đến sớm, có người đến muộn, số khác chỉ đáp lời lại tiếng Chúa vào lúc cuối đời. Nhưng bất cứ ai chấp nhận lời mời đều sẽ được hưởng một đồng sự sống đời đời.
Thông điệp của dụ ngôn này thật rõ ràng. Trong khi chúng ta vẫn mặc định rằng người làm việc khó nhọc hơn xứng đáng với tiền công lớn hơn, ông chủ vườn nho hành động ngược lại; do đó một số người xem đó là không công bằng. Nhưng chủ vườn bảo với họ rằng: “Chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về” (Mt 20,13-14).
Không ai bị xử tệ cả, bởi vì họ đã đồng ý với chủ vườn về số tiền họ sẽ nhận cho ngày làm việc của họ (một đơ-ni-ê cho một ngày công là tiền lương khá hậu hĩnh vào thời đó). Ông cũng bảo cho họ biết ông đang sử dụng tài sản của ông theo ý ông muốn: “Tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?” (Mt 20,15).
Luật lệ Nước Trời do Thiên Chúa thiết lập: sự cứu rỗi dành cho loài người hoàn toàn phụ thuộc vào tình thương và lòng nhân lành của Chúa, không do công đức, nỗ lực cá nhân hoặc nếp sống khổ hạnh của bất cứ ai, bởi vì không ai có thể đáp ứng những chuẩn mực đạo đức của Đấng Chí Thánh.
Ai là người làm công được nhận vào giờ thứ mười một? Có thể là những người đón nhận ơn Chúa lúc lâm chung, cũng có thể là những người bị rẻ rúng dưới mắt những người sống đạo lâu năm. Nhưng chớ vội vàng kết luận. Trong ý nghĩa sâu xa hơn, tất cả chúng ta đều là người làm công giờ thứ mười một, và chúng ta đều được Chúa mời vào vương quốc của ngài cách vinh dự. Vì vậy, không cần phải đoán định ai là người làm công giờ thứ mười một. Thông điệp của dụ ngôn là chúng ta được cứu rỗi chỉ do ân ban của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của con người.
Phản ứng của một vài người trong số những người làm công trong vườn nho đối với điều họ cho là bất công, tượng trưng cho sự tự mãn dễ thấy trong cộng đoàn tín hữu sống đạo lâu năm. Họ tin rằng phần thưởng dành cho họ phải tương xứng với thời gian họ phụng sự Thiên Chúa. Đó là kết quả của cách suy nghĩ cho rằng sự cứu rỗi đến từ công đức, và đó là điều mà dụ ngôn này muốn bác bỏ.
Điều chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng” (Mt 20,9). Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông.
Sau cùng, nên nhắc lại “điểm chính” trong dụ ngôn để chúng ta quy chiếu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho cả và nhân loại là nước Chúa, Chúa Giê-su đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được mời gọi trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Ở Do thái, thời Chúa Giêsu, có rất nhiều vườn nho ở Galilê. Các chủ vườn nho thuê nhân công, đặc TN 25-A197
Ở Do thái, thời Chúa Giêsu, có rất nhiều vườn nho ở Galilê. Các chủ vườn nho thuê nhân công, đặc biệt là vào thời điểm thu hoạch. Những người thất nghiệp là phổ biến. Họ phải ra phố chợ ngồi chờ các chủ vườn nho đến thuê mướn họ làm việc công nhật. Việc này không khác mấy với “chợ người”, “chợ lao động” một số nơi ở Việt Nam ta nơi những người đã quá độ tuổi lao động, không còn sức trẻ, hoặc người lao động trẻ không nơi nào tuyển dụng, tụ tập ở đó để kiếm việc làm, ai thuê gì thì làm nấy, bất cứ công việc gì liên quan đến tay chân cần sức người, mọi lúc trong ngày. Dù công việc nặng nhọc nhưng mức thu nhập không bao nhiêu; dẫu sao đây là nguồn thu nhập quan trọng đối với những người lao động này, giúp họ nuôi sống gia đình, con cái. Có khi họ chờ việc trọn buổi sáng nhưng vẫn không có người thuê, thậm chí vài ngày cũng không có ai đến thuê.
Vào thế kỷ thứ nhất, những người thất nghiệp như thế này thậm chí không bằng một người nô lệ vốn dĩ vẫn có được sự đảm bảo tối thiểu từ người chủ. Trong hoàn cảnh đó, không có việc làm đồng nghĩa với không có thức ăn cho gia đình. Những người đi tìm việc rõ ràng muốn làm việc vì họ đã chờ đợi từ sáng đến 5 giờ chiều. Nhưng cũng rõ ràng là trong đời thực, những người lao động nào không được thuê trước 5 giờ chiều có lẽ đã trở về nhà, chắc chắn không ai thuê nữa. Tuy nhiên đoạn Tin mừng cho thấy chủ vườn nho liên tục kiếm thêm công nhân, kể cả lúc 5 giờ chiều. Trong thực tế, thuê mướn người lao động như thế này chắc chắn không phải là cách làm ăn hiệu quả. Hành vi tuyển dụng của ông chủ vườn nho rất kỳ lạ.
Do đó, việc người gia chủ trong đoạn Tin mừng hôm nay tuyển thêm công nhân sau khi đã tuyển đủ số công nhân cần thiết vào sáng sớm không phải vì ông ta không thể tính toán trước được nhu cầu lao động của mình mà là ông ta cố ý muốn giúp “những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ” (Mt 20: 3) giảm bớt khó khăn cho họ và gia đình họ. Việc này được mô tả rất rõ ràng: ông trở đi trở lại nhiều lần, vào những khoảng giờ khác nhau, kể cả giờ thứ mười một, tức là năm giờ chiều theo cách tính giờ ngày nay, để kêu gọi những người chưa được ai thuê mướn vào làm vườn nho cho ông: “Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? " Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” Trong cách tính giờ thời ấy, “khoảng giờ thứ ba” tức là 9 giờ sáng (câu 3), “khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín” tức là 12 giờ trưa và 3 giờ chiều (câu 5), và “khoảng giờ mười một” tức là 5 giờ chiều (câu 6). “Chiều đến” (câu 8) tương ứng với khoảng 6 giờ chiều. Nhóm cuối cùng được thuê chỉ làm việc một giờ trong khi nhóm đầu tiên được thuê đã làm việc khoảng 12 tiếng đồng hồ.
Thế nhưng, tất cả đều lãnh được một quan tiền. Đây là số tiền mà mỗi công nhân được trả (câu 9) gọi là “lương cả ngày”. Một quan tiền tức là một denarius, là mức lương tiêu chuẩn cho một ngày công ở Palestine vào thế kỷ thứ nhất. Khoản tiền trả công này đúng với thỏa thuận của những người được thuê mướn từ tảng sáng: “đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền” (câu 2), nhưng lại là một món tiền xem ra vượt quá công sức những người thợ được thuê mướn vào những khoảng giờ muộn hơn, nhất là những người mãi đến năm giờ chiều mới bắt đầu làm việc: “Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền” (Mt 20: 8-10). Có điều gì đó xem ra thiếu công bằng! Chả thế mà “những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn…cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20: 10-12).
Vườn nho thường tượng trưng cho dân Israel: “Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai cập, đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng, Chúa khẩn hoang bốn bề quang đãng, cho bén rễ sâu và lan rộng khắp nơi. Bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành sum sê rợp bá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả” (Tv 80:8-9); hoặc “Vườn nho của Chúa các đạo binh, chính là nhà Israel đó; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ Giuđa. Ngài những mong họ sống công bình” (Isaia 5:1-7). Như vậy, cả “người đầu tiên” và “người cuối cùng” đều là những người thợ làm việc trong vườn nho của Chúa. Tất cả chúng ta, dù lãnh phép Thánh tẩy để gia nhập Hội thánh của Chúa ngay khi còn thơ bé hay mãi khi đã lớn lên, đều là môn đệ của Chúa. Mọi môn đệ đều bình đẳng trước mặt Chúa. Trong vườn nho Nước trời không có chỗ cho sự so bì, ganh tị, đố kị. Nếu chúng ta như những người thợ đầu tiên trong câu chuyện dụ ngôn này phản đối ông chủ vườn nho, là Thiên Chúa, đối xử với tất cả mọi người bình đẳng như nhau - cho đó là điều không công bằng - thì chúng ta thật dại dột, không khác gì chúng ta đang cầu xin Thiên Chúa xét xử công thẳng với mọi người thay vì vui lòng với ân huệ do lòng quảng đại của Ngài. Trong trường hợp đó tất cả chúng ta sẽ bị “đứng ngoài chợ” (câu 3), “suốt ngày không làm gì hết” (câu 6), “không ai mướn chúng tôi” (câu 7), - bị thất nghiệp và bị đói khát muôn đời.
Trong bối cảnh lịch sử xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, những người đến sau với Nước trời là “những kẻ thu thuế và tội lỗi”. Trong phạm vi rộng hơn của lịch sử cứu rỗi, người ta có thể nghĩ về những người dân ngoại được nghe lời Chúa muộn hơn người Do Thái, về những người đến với đức tin trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử Hội thánh hoặc ở những thời đại khác nhau, về những Kitô hữu có mức độ gắn bó và trung thành khác nhau với Tin mừng của Chúa. Nhưng tất cả những người được cứu độ đều quý giá như nhau trước mắt Thiên Chúa và được ban thưởng như nhau về hạnh phúc vĩnh cửu khi ở bên Chúa Kitô cùng tất cả những người được cứu độ, không quan trọng trước hay sau.
Người làm công lại phàn nàn về người tuyển dụng mình, người đem lại cho mình cơ hội làm ăn sinh sống. Hành vi này đã được mô tả 10 lần trong sách Dân số 14: 2-36, bằng những từ “lẩm bẩm, cằn nhằn, kêu trách, xuyên tạc, khinh thị, thách thức, nổi loạn, chống lại” khi “Tất cả con cái Israel đều kêu trách ông Môsê và ông Aharon” trong đồng vắng (Dân số 14:27 bản Bảy mươi). Thái độ này cũng tương tự như phản ứng của người con cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: “Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà” (Lc 15:28-30).
Có lẽ tôi cũng không khác dân Israel, và những người thợ làm vườn nho này, bao nhiêu! Tôi không bằng lòng coi mình là kẻ được Thiên Chúa ban cho nhiều ơn lành, nhưng lại cứ nghĩ rằng mình là kẻ đáng hưởng công sức lao nhọc của mình, thậm chí đáng được hơn rất nhiều so với những kẻ khác: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20: 12). Phải chăng tôi phản đối sự rộng lượng từ bi của Đấng đã không ban cho tôi nhiều ân huệ hơn những kẻ khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20: 13-15). Có bao giờ tôi sống trong tâm tình của Đấng là Người Cha đầy lòng từ bi nhân hậu, giàu tình thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên… Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm”? (Tv 145: 2-3, 17).
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong buổi đọc Kinh Truyền Tin ngày 20 tháng 9 năm 2020 rằng: “Chúa luôn trả số tiền tối đa: Ngài không trả nửa chừng…Ngài trả cho mọi người số tiền tối đa. Trên thực tế, Thiên Chúa cư xử như thế này: Ngài không nhìn vào thời gian và kết quả, mà nhìn vào sự sẵn sàng, Ngài nhìn vào lòng quảng đại mà chúng ta dùng để phục vụ Ngài. Cách hành động của Ngài còn hơn cả công bằng, nghĩa là vượt xa sự công bằng và được thể hiện trong Ân Sủng. Mọi thứ đều là Ân sủng. Sự cứu rỗi của chúng ta là Ân Sủng. Sự thánh thiện của chúng ta là Ân Sủng. Khi ban cho chúng ta Ân Sủng, Ngài ban cho chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta đáng được. Và như vậy, những người lý luận bằng logic của con người, tức là logic của công đức có được nhờ sự vĩ đại của chính mình, từ vị trí đầu tiên, sẽ thấy mình ở vị trí cuối cùng… Chúng ta hãy nhớ ai là vị thánh được phong thánh đầu tiên trong Giáo hội: Kẻ trộm lành. Anh ta đã “đánh cắp” Thiên đàng vào phút cuối đời: đây là Ân sủng. Thiên Chúa là như vậy, ngay cả với chúng ta. Thay vào đó, những người tìm kiếm công đức của riêng mình đều thất bại; những ai khiêm nhường phó thác bản thân cho lòng thương xót của Chúa Cha - như Kẻ Trộm Lành - sẽ thấy mình đứng đầu” (www.popefrancishomilies.com).
Một trong những nguyên nhân gây ra rất nhiều đau khổ cho chúng ta là cái tính ghen tức. Thật TN 25-A198
Một trong những nguyên nhân gây ra rất nhiều đau khổ cho chúng ta là cái tính ghen tức. Thật vậy, khi con vi trùng ghen tức nằm ở trong trái tim, trong khối óc của một người nào đó thì cuộc đời của cá nhân đó cũng như những người trong gia đình, bạn bè thân quen…của người đó sẽ phải đau khổ, buồn phiền và bất hạnh vô cùng.
Kinh Thánh đã ghi lại khá nhiều những sự tai hại và nguy hiểm của sự ghen tức. Vì ghen tức nên Ca-in đã xông đến giết A-ben, em mình (St 4:8); các anh của Giuse đã bán ông cho người Ítma-ên hai mươi đồng bạc (St 37:12-36); vua Sa-un đã phóng cây giáo ghim ông Đa-vít vào tường (1 Sam 19:10). Và vì ghen tức, cho nên những người vào làm trước nhất đã phiền trách, bất bình và cằn nhằn với ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20:12).
Ngày xưa thì vậy, còn ngày hôm nay thì sao? Cũng thế thôi! Tôi tin chắc bạn đã và đang nghe đang thấy hàng trăm, hàng ngàn những hậu quả bi đát, khốc liệt và bất hạnh do ghen tức gây ra. Ví dụ:
• Vì ghen tức nhau, cho nên mới có những chính trị gia, những phóng viên, những nhà báo, những xướng ngôn viên… đã trơ trẽn dùng mọi thủ đoạn đê tiện, dơ dáy và bẩn thỉu nhất trên đời này, để tung tin giả, để hạ nhục, để vu oan cáo vạ, với mục đích hạ bệ, và triệt tiêu đối thủ của họ…
• Vì ghen tức cho nên người ta mới lao đầu vào làm ngày làm đêm, làm quên cả lễ Chúa Nhật, bỏ bê việc chăm lo cho phần thiêng liêng của chính họ và của con cái… để mua nhà to, xe đẹp, hàng hiệu…
• Vì ghen tức cho nên người ta, trong đó có tôi, mới mất bình an trong tâm hồn, mới phạm tội nói hành nói xấu, chê bai nhau, gây bè kéo cánh để tẩy chay người khác.
Bạn thân mến, xin đừng ghen tức với người khác nữa! Sự ghen tức chỉ đem lại những sự mệt mỏi, vất vả và bất an mà thôi. Thật vậy! GHEN thì hay đi đôi với GHÉT. Mà hễ nói đến GHÉT thì… bẩn lắm, có thứ ghét nào mà sạch đâu? Nguy hiểm hơn nữa, khi tôi ghen ghét với anh chị em của tôi thì tôi sẽ phải lâm vào ba tình trạng rất đau khổ và bi đát sau đây:
1. Tôi sẽ bị đui mù và sống trong bóng đêm của tội lỗi: “Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối, và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng” (1 Ga 2:11).
2. Tôi sẽ trở thành tay sai, là đồ đệ của ma quỷ bởi vì ở đâu có ghen ghét và tranh chấp, thì ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ xấu xa tội lỗi (Gc 3:16).
3. Tôi sẽ mất đi sự sống đời đời: “Ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.” (1 Ga 3:15).
Bạn có muốn sống trong cảnh đui mù, làm tay sai cho ma quỷ, và mất sự sống vĩnh cửu trên Thiên Quốc không? Nếu muốn thì tôi… thua! Còn nếu bạn không muốn, thì bạn và tôi phải lo kiếm cách trừ khử và tiêu diệt ngay những con vi trùng ghen tức & ghen ghét… ra khỏi cơ thể, và tống khứ chúng ra khỏi tâm hồn của chúng mình ngay. Tiêu diệt chúng càng sớm càng tốt. Tiêu diệt chúng bằng cách:
• Đến phòng mạch Confessional (Tòa Giải Tội) xin bác sĩ Giêsu tiêm cho một mũi trụ sinh để tiêu diệt con virus Jealousy & Hatred đang ở trong cơ thể của mình.
• Thường xuyên đến tham dự các Thánh Lễ để nhờ và qua Bí Tích Thánh Thể, Chúa sẽ ban ơn giúp sức để chúng ta có đủ sức đề kháng chống lại con vi khuẩn có tên là ghen tức & ghen ghét!
Ngoài hai phương cách trên, xin bạn ghi nhớ thêm một điều này, Thiên Chúa là Đấng thượng trí và công bằng vô cùng, Ngài ban cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tuỳ khả năng riêng mỗi người (Mt 25:15). Nếu tôi chỉ được trao cho có một nén bạc, thì tại sao tôi lại phải ghen tức với người có năm, hoặc ba, hay hai yến cơ chứ? Vô lý, nếu không muốn nói là… dại!
“Cầm lấy phần của bạn mà đi đi” (Mt 20:14). Hãy bằng lòng với những gì mà Chúa ban cho mình. Khi bạn và tôi bằng lòng với những gì chúng mình đang có, luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa, cám ơn Người trong mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh, thì chắc chắn con vi khuẩn ghen tức sẽ không làm hại được chúng mình đâu!
Cầu chúc bạn và những người thân của bạn một tuần lễ mới vui khỏe và bình an.
Dụ ngôn thợ làm vườn nho là một trong những hình ảnh về Nước Thiên Chúa. Chúa Giê-su TN 25-A199
Dụ ngôn thợ làm vườn nho là một trong những hình ảnh về Nước Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã dùng lối kể truyện để giảng dậy cho người cùng thời với Người. Họ nghe xong câu chuyện liền hiểu ý của Chúa. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Một vài chi tiết về văn hóa, phong tục và thói quen của những người cùng thời với Chúa sẽ giúp chúng ta trong việc suy niệm bài Tin Mừng hôm nay.
Trước tiên, theo thống kê chúng ta được biết tỷ lệ con số những người không có công ăn việc làm rất cao vào thời Đức Giê-su. Tình trạng này kéo dài đến khi Tin Mừng được biên soạn. Họ thường tụ họp tại các trung tâm thương mại hay các ngã tư đường để chờ được thuê mướn. Đúng như cách thức mà dụ ngôn mô tả, công việc của họ thường bắt đầu từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Và tiền công của họ nhận được trong một ngày là một quan tiền. Số tiền này đủ trang trải chi phí cho một gia đình.
Về phía ông chủ, ông có cần phải chia ra nhiều thời điểm trong ngày để mướn thợ như trong dụ ngôn đã mô tả hay không? Bởi vì, theo lẽ thường tình thì một ông chủ khôn ngoan trong việc kinh doanh là một con người biết tính toán số thợ cần làm trong ngày chứ không chia nhiều giai đoạn để thuê nhân công như thế. Vậy, việc thuê mướn thợ theo từng giai đoạn như trong dụ ngôn này mang ý nghĩa đặc biệt gì? Có lẽ chúng ta nên chờ đến lúc ông chủ trả lương sẽ thấy rõ ý định của ông hơn.
Việc trả lương theo thứ tự của ông chủ cũng buộc người nghe có phản ứng khác. Giả như ông gọi nhóm đầu tiên đến và trả cho họ theo đúng hợp đồng, rồi họ ra về thì chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng ông lại trêu chọc người nghe bằng cách trả một quan tiền cho những người được thuê sau cùng, thì những người thuộc nhóm được mướn trước phải có ý nghĩ là họ sẽ được đối xử một cách công bằng và thỏa đáng so với công sức mà họ đã vất vả đổ ra từ lúc 3g chiều, 12 giờ trưa, 9 giờ và 6 giờ sáng. Họ căn cứ vào cách đối xử của ông chủ với nhóm sau cùng và suy luận rằng họ làm nhiều thì sẽ được tiền công nhiều hơn. Sau cùng, họ giận vì ước muốn và ý nghĩ của họ không được đáp trả.
Thứ tự trả lương và việc thuê nhân công của ông chủ khiến chúng ta phải suy nghĩ rằng không có một ông chủ nào lại làm như thế cả. ‘Nhưng như thường lệ, các tình tiết trong câu chuyện mà Đức Giê-su kể thường có yếu tố khác lạ để kích thích phản ứng của người nghe. Như thế, những tín hữu mà Thánh Mát-thêu nhắm đến, cả chúng ta nữa khi nghe dụ ngôn này thì sẽ nhận ra sứ điệp của dụ ngôn: Thiên Chúa rất công bằng, tuy nhiên sự công bằng của Thiên Chúa không bị bó buộc theo lối tính toán của con người và cũng không làm giảm bớt sự rộng lượng của Thiên Chúa. Người muốn ban cho ai tùy theo ý muốn của Ngài. Và không có luật nào buộc Thiên Chúa phải tuân thủ theo ý muốn của con người.
Thật vậy, ngay từ ngày đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, cộng đoàn của Thánh Mát-thêu bao gồm các tín hữu gốc Do Thái và dân ngoại. Họ đã phải đối diện với các vấn đề như được trình bầy trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người tín hữu đạo gốc, cậy mình có tổ phụ là A-bra-ham, I-sa-ac và có một truyền thống lâu dài được xây dựng, bồi dưỡng bởi các ngôn sứ thì đương nhiên họ phải được phần thưởng cao hơn và nhiều hơn nếu so với đám dân ngoại mới nhập đạo chứ. Thế mà những người mới gia nhập lại được hứa hẹn là sẽ có phần thưởng như những người đã vất vả từ lúc tảng sáng đến giờ thì làm gì có công bằng! Ai mà chịu được lối cư xử như thế!
Ngày nay, lối suy nghĩ dựa trên tiêu chuẩn so sánh rồi phân bì và ghen tỵ này vẫn còn. Mình là đạo gốc, được sinh ra và thuộc dòng giống của các Thánh Tử Đạo, thế mà giờ đây lại bị xếp ngang hàng với những người mới nhập đạo, thậm chí còn có cả những người mang tiếng là “đạo vợ” hay “đạo gạo” như câu mà chúng ta nghe dạo nào “theo đạo có gạo mà ăn!” thì ai chịu nổi! Nhưng thật là trớ trêu, kết quả cho thấy những người tân tòng lại có niềm tin sâu sắc và bền vững hơn dân đạo gốc chúng mình!
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay còn nhắc cho chúng ta nhớ rằng sự thèm muốn và ghen tị gắn liền với cuộc sống của con người.
Chúng ta thèm muốn những gì Chúa ban cho người khác hơn mình. Vì thế, khi suy tư trình thuật hôm nay, tôi nhìn ra chính mình trong câu chuyện. Tôi vẫn còn phân bì, ước muốn và ghen tỵ trong cách cư xử và lối sống của tôi. Nhiều lần không nói ra, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn bực bội, đố kỵ và ghen tương với những gì mà người khác nhận được từ Chúa. Như vậy, không phải chỉ có một CÓ mà là BA CÓ: CÓ đố kỵ, CÓ ghen tương và CÓ phân bì.
Tôi chủ trương viết hoa chữ CÓ để nhắc nhở mình phải dè chừng, đừng để cuộc sống bị tính phân bì và đố kỵ làm chủ. Môt cách cụ thể, tôi xin phép thú nhận rằng: tôi, đã nhiều lần, chứng kiến sự thành công và thăng cấp của người khác, ngoài miệng nói lời chúc mừng mà trong lòng vẫn không được vui chút nào, thậm chí lại nghĩ rằng tôi mới là người xứng đáng để đứng vào vị trí đó! Không chỉ có thế, còn mong cho người đó thất bại để thỏa tính ghen tị và không muốn ai hơn mình của tôi.
Tuy nhiên, Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay không lên tiếng khiển trách hay phản đối cách suy nghĩ của những người cằn nhằn lối cư xử của Người. Đức Giê-su nhẹ nhàng và tế nhị nhắc cho họ biết là ông chủ chưa hề đối xử bất công với họ. Ông có quyền và tự do trong cách quản lý và phân chia tài sản.
Thật vậy, Chúa chưa hề đối xử bất công với ai trong chúng ta. Chúa thật quảng đại khi rộng ban cho chúng ta hơn những điều chúng ta dám ước mong hay cầu xin. Câu hỏi “Tôi không được phép làm những gì tôi chọn với những gì thuộc về tôi? Hay bạn ghen tị vì tôi rộng lượng?” làm nổi bật điểm chính của dụ ngôn, đó là ân huệ, lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa là sở hữu của Ngài và Ngài muốn sử dụng như thế nào thì tùy ý Ngài, chúng ta lấy quyên gì mà so sánh, phân bì, đố kỵ và ghen tương!
Thưa anh chị em,
Chúng ta hãy nhớ rằng được kêu gọi là thành viên trong gia đình của Thiên Chúa là một vinh dự, là một hồng ân được trao ban từ Thiên Chúa. Người không trả công cho chúng ta để làm việc cho Người. Trái lại, những gì chúng ta có, toàn là quà tặng của Người trao ban.
Hẳn anh chị em còn nhớ lời cầu xin của người anh cả trong dụ ngôn Tình phụ tử trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca ‘xin hãy đối xử với con như người làm công của Cha’ đã được Đức Giê-su sửa thành ‘con không biết mọi sự của Cha là của con hay sao.’ Anh chỉ muốn là người làm công còn Chúa lại muốn anh nhớ rằng, tương quan Cha - con mới là mối dây đích thật mà Thiên Chúa muốn anh thiết lập và xây dựng.
Từ đó chúng ta biết rằng Thiên Chúa không trả công cho chúng ta khi cho phép chúng ta làm việc để mở mang Nước Chúa. Bổn phận đó là một hồng ân, một sự tín thác trong yêu thương, phát sinh từ lòng rộng rãi của Thiên Chúa, Người muốn ban cho chúng ta những gì mà Chúa muốn chúng ta đón nhận. Và chúng ta gọi đó là quà tặng.
Nếu anh hay chị muốn tặng một thứ gì đó cho người khác với kỳ vọng hoặc hy vọng rằng họ sẽ làm điều gì đó cho anh chị để đổi lại thì đó không phải là một món quà mà đó là một khoản đầu tư; thậm chí và tệ nhất có thể coi là hối lộ.
Quà tặng được trao ban nhưng không, hoàn toàn miễn phí. Nếu anh hay chị nghĩ rằng mình xứng đáng nhận được thứ gì đó và sau đó nhận được nó thì đó không phải là một món quà mà là một khoản thanh toán mà mình được hưởng hay có thể coi như hoàn trả lại một thứ mà chúng ta đã khẳng định trong lòng từ trước.
Quà tặng không mang tính chất giao dịch. Chúng ta không thể kiếm được quà tặng, chúng ta chỉ có thể nhận được chúng.
Như vậy, chúng ta có quyền gì mà ghen tị khi Thiên Chúa thể hiện lòng tốt lành và rộng lượng trong việc trao ban tặng vật cho con người hay sao?
Tốt nhất là chúng ta không nên so sánh, phân bì rồi ghen tương. Hãy noi gương tấm lòng quảng đại, nhân từ, yêu thương và luôn tha thứ của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại cách cư xử của ông chủ trong dụ ngôn. Ông đã không làm thiệt hại đến ai và cũng không ăn bớt của ai. Trái lại, ông đã quan tâm đến từng người, bằng cách cung cấp cho họ và gia đình những gì họ cần để sống. Chỉ có như thế, chúng ta mới chấp nhận, không ghen tương và không phân bì với nhau.
Vì vậy, với tâm tình tạ ơn, chúng ta tán dương và ca tụng lòng rộng ban của Thiên Chúa, Đấng đã ban phát cho chúng ta, không chỉ đủ dùng, còn dư dật để làm quà cho người khác nữa. Amen!
Nhiều Kẻ Hàng Đầu Xuống Chỗ Chót. Lắm Người Đứng Chót Lên Hàng Đầu. Ở một khu rừng TN 25-A200
Nhiều Kẻ Hàng Đầu Xuống Chỗ Chót Lắm Người Đứng Chót Lên Hàng Đầu.
Ở một khu rừng nọ, có một chú thỏ luôn khoe khoang với các loài vật khác rằng mình chạy nhanh nhất, gặp ai thỏ cũng khoe khoang. Một hôm, thỏ thấy rùa đang lê từng bước trên đường bèn cười nhạo. Rùa thách thỏ thi chạy. Thỏ ta tin chắc mình sẽ thắng nên nhận lời thách thức.
Các loài động vật trong rừng rất ngạc nhiên khi nghe tin này, chúng tập trung rất đông để xem rùa và thỏ chạy thi. Trong lúc rùa miệt mài chạy, không dừng lại nghỉ chút nào, thỏ ỷ lại nên loanh quanh và nằm nghỉ. Tới lúc rùa gần chạm vạch kết thúc, thỏ bật dậy khi nghe tiếng hô hào cổ vũ cho rùa. Thỏ vẫn thản nhiên vươn người và ngáp một cách lười biếng rồi mới bắt đầu chạy, nhưng đã quá muộn. Rùa đến đích trước và chiến thắng cuộc đua bằng sự nghiêm túc và chăm chỉ. Thỏ vô cùng xấu hổ và lủi vào rừng sâu.
Rùa tưởng mình thắng nhưng lại thua. Rùa biết mình chậm nên kiên trì, không ngừng cố gắng, và rùa đã thắng. Thỏ tưởng đứng đầu lại hóa đứng chót, tưởng rằng rùa thua nhưng rùa đã đảo ngược thế cờ. Hoán vị thật thú vị. Cuộc sống cũng tương tự – cả đời thường và tâm linh.
Một lần nọ, sau khi nói về phần thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Ngài, Chúa Giêsu kết luận: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.” (Mt 19:30; Mt 20:16; Mc 10:31) Một sự thật phũ phàng rất đáng quan ngại. Hai vị trí đổi chỗ cho nhau. Rồi Ngài kể câu chuyện này: Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười một, ông trở ra và thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng bảo: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh HỢP LẼ CÔNG BẰNG.” (Mt 20:4)
Chiều. Hết giờ lao động. Ông chủ vườn nho bảo người quản lý gọi tất cả thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất. Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại và lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn ông chủ bất công, họ so kè việc họ đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, nắng nôi thiêu đốt, thế mà cũng chỉ như người vào làm muộn nhất.
Ông chủ nói với họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng THỎA THUẬN với tôi là MỘT QUAN TIỀN sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi TỐT BỤNG mà bạn đâm ra GHEN TỨC?” (Mt 20:13-15) Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn đề tâm linh và bác ái, chúng ta cũng vẫn thường so đo đủ thứ, cứ tưởng chỉ có mình làm được công kia hay việc nọ, ý muốn nói mình “nổi trội” hơn người khác, muốn người khác phải “nể phục” mình. Nếu Chúa Giêsu đặt vấn đề với chúng ta, chắc chắn chúng ta không thể nói được gì, phải im lặng thôi. không bao giờ cũ, lúc nào cũng mang tính thời sự nóng bỏng đối với dụ ngôn “người Pharisêu và người thu thuế.” (Lc 18:9-14)
Người dốt thường thích nói chữ. Nhưng họ càng nói càng dở, càng lý luận càng đuối lý. Chúa Giêsu biết họ đuối lý nên mới im lặng, Ngài lặp lại và nhấn mạnh: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 20:16) Chỉ là hội chứng ảo tưởng, không khéo lại trở thành công cốc. Phí cả một đời!
Chúa Giêsu không ngừng mời gọi mọi người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ để được sống đời đời, nhưng chỉ ít người được chọn. Động từ “chọn” ở đây không có nghĩa là “thích ai thì chọn,” mà tùy vào quyết định riêng của chính người được mời gọi, vì Thiên Chúa đã trao trọn quyền tự do. Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta và Ngài hoàn toàn tôn trọng quyền tự do này, có thể hữu ích hoặc bất lợi cho chúng ta, tùy thuộc ý muốn của mỗi người.
Phải chăng không có nhiều người được trở thành công dân Nước Trời? Rất có thể, và đó là lỗi của chúng ta chứ Thiên Chúa luôn mong muốn mọi người đều được hưởng phúc trường sinh với Ngài, không muốn bất cứ một ai phải hư mất. Cũng có mối nguy cơ vì chúng ta ỷ lại, tự cho mình hơn những người khác, tự nhận đạo đức, thánh thiện và công chính, để rồi “liếc ngang liếc dọc” với những tia mắt “sắc hơn dao cau,” và cho rằng người khác tội lỗi, nhưng chính họ lại có Visa Nước Trời trước mình. (x. Mt 21:31-32) Thế thì thật khốn thay!
Thưở xưa, ông Bơliam đã tâm nguyện: “Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, và tôi được mãn phần như họ.” (Ds 23:10) Ước gì mỗi tín nhân cũng biết mơ ước như vậy để có thể hoàn thiện trước phút lâm chung. Đó cũng là cách chứng tỏ rằng chúng ta thi hành đúng ý Thầy Giêsu chí thánh là HOÀN THIỆN và NHÂN TỪ. (Mt 5:48 & Lc 6:36)
Wide nói: “Mỗi thánh nhân có một quá khứ, mỗi tội nhân có một tương lai.” Và Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta thành công, Ngài kêu gọi chúng ta trung thành. Nên thánh không là đặc ân dành cho một số người, nhưng là trách nhiệm của tất cả mọi người.” Thiên Chúa thỏa thuận với chúng ta về việc làm vườn nho (Mt 20:1-16) của Ngài với “một đồng tiền công” là đức tin tuyệt đối, không muốn ai thỏa hiệp với ma quỷ như bà Êva xưa. Các dạng “hợp đồng ngầm” với ma quỷ đều rất nguy hiểm, có thể ảnh hưởng đời đời.
Chúa Cha và Chúa Con đều làm việc không ngừng, Chúa Thánh Thần cũng vẫn không ngừng tác động trong Giáo Hội, như Chúa Giêsu xác định: “Cha tôi vẫn làm việc thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5:17) Chắc chắn lao động rất có giá trị. Ai cũng phải lao động, bằng cách này hay cách khác, nhưng phải lao động chân chính chứ không thể phi pháp. Lao động chân chính là dùng sức mình để làm việc có mục đích (tốt) và có ý thức. Lao động không chỉ là cách mưu sinh mà còn là cách duy trì sức khỏe, đặc biệt là tránh dịp tội, bởi vì “nhàn cư vi bất thiện,” rảnh rỗi hóa nông nổi, vì nông nổi mà thành nông nỗi. Lao động chân tay hoặc lao động trí óc đều cần thiết, đều có giá trị nhất định, không ai hơn ai. Chỉ có lòng người xấu chứ không có nghề nào xấu. Làm việc gì cũng là tiếp tục hoàn thiện công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chính Ngài đã nêu gương: Lao động 6 ngày, chỉ nghỉ 1 ngày cuối tuần. (x. St 1:1-31 – 2:1-3)
Lao động là hoàn thiện chính mình trên hành trình đi tìm Chân Thiện Mỹ, tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng chí thiện tuyệt đối: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.” (Mc 10:18) Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien đã chân thành nhắn nhủ: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.” (Is 55:6) Thiên Chúa còn cho phép chúng ta gặp khi Ngài ở gần, đến lúc Ngài không cho gặp và đi xa thì chúng ta vô phương. Thời gian thương xót cũng có hạn, nghĩa là sẽ tới lúc hết giờ thương xót: Tận thế.
Kinh Thánh cho biết rõ: “Ở dưới bầu trời này, cái gì cũng chỉ có một thời mà thôi.” (x. Gv 3:1-8) Và đặc biệt hơn: “Bất cứ chuyện gì cũng đều có thời có buổi, và đều bị Thiên Chúa xét xử.” (Gv 8:6) Vì thế, đừng lần lữa kẻo lỡ cơ hội. Cơ hội tốt không đến hai lần, và hãy lắng nghe: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa, và Người sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.” (Is 55:7) Nước đến chân mới nhảy thì không kịp.
Giờ Thương Xót cũng đang dần thu ngắn lại, không ai biết lúc nào kết thúc. Đừng chần chừ, đừng ngần ngại, và đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa hứa: “Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự, cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy và hưởng ơn cứu độ Ta ban.” (Tv 91:15-16) Ngài không chỉ lắng nghe và đáp lại, mà Ngài còn ban hơn cả những gì chúng ta mong đợi. Thật là trên cả tuyệt vời, chắc chắn chẳng có thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa chúng ta đang suy tôn thờ kính. Đúng vậy, Thiên Chúa minh định rằng chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa và cấm thờ bất cứ thần nào khác. (x. Đnl 32:39; Is 43:10; Is 45:5-6; Is 46:9; Hs 13:4)
Tình mẫu tử của người mẹ trần gian mà chúng ta còn chưa hiểu thì chúng ta không thể nào hiểu hết lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9) Mỗi khi nói tới điều khác lạ, ngày xưa người ta thường so sánh với chuyện lên cung trăng hoặc Tết Công-gô, tức là chuyện không thể xảy ra. Thế mà ngày nay người ta đã có thể lên cung trăng, có thể “lên trời,” nhưng đó chỉ là góc nhỏ của trời thôi.
Khoa học tiến bộ với mức kinh ngạc, người ta đã và đang tìm mọi cách để “khám phá” bầu trời, nhưng càng khám phá thì người ta càng thấy thăm thẳm, còn biết bao “vị trí” mà người ta không biết gọi là gì, thế nên người ta đành phải mô tả là “lỗ đen” (black holes). Càng ngày khoa học lại phát hiện thêm hành tinh mới. Cứ thế và cứ thế, càng đi xa vào vũ trụ càng thấy thăm thẳm mù mịt. Có sẵn mà khám phá vẫn chưa hết. Thiên Chúa siêu việt, tuyệt luân, chúng ta phải biết ca tụng Ngài: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu.” (Tv 145:2-3)
Càng tìm hiểu vũ trụ, người ta càng nhận biết Thiên Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa, người ta càng kính thờ và tạ ơn Ngài. Đó là hành trình đức tin, là quá trình lao động tâm linh kỳ diệu. Thiên Chúa chí thánh, cao vời khôn ví, nhưng Ngài lại giàu lòng xót thương với mọi người, ai càng yếu thì Ngài càng thương: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Với kinh nghiệm dày dạn, Thánh Phaolô xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Do đó, đừng nản chí sờn lòng hoặc thất vọng – dù là thất vọng về chính mình, mà hãy vững lòng tin tưởng và mau mắn đứng dậy ngay nếu vấp ngã.
Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, vô tiền khoáng hậu, yêu thương vô hạn, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn: “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.” (Tv 145:17-18) Vấn đề không phải là tội nhiều hay tội ít, vì trước mặt Thiên Chúa ai cũng chỉ là tội nhân, chẳng ai hơn ai, quan trọng là có chân thành sám hối hay không. Đó là điều Thiên Chúa mong đợi ở con người: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9:13) Ngài thực sự chỉ muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ. (x. Hs 6:6) Ước gì không ai phải nghe Thiên Chúa trách mắng là tôn kính Ngài bằng môi bằng miệng, còn lòng thì lại xa Ngài. (x. Mt 15:8; Mc 7:6)
Thật độc đáo với câu châm ngôn của người Pháp: “Đừng vì yêu mến Chúa mà chống đối người khác.” Vào thời Thánh Phaolô, có những kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ vì lòng ganh tị và tranh chấp, nhưng cũng có những người làm công việc đó vì ý ngay lành, họ làm vì bác ái và bênh vực Tin Mừng. Lại có những người loan báo Đức Kitô vì tính ưa tranh giành, không có lòng ngay. Nhưng Thánh Phaolô bảo “không sao,” chỉ cần Đức Kitô được rao giảng. Thánh Phaolô mừng bởi vì điều ấy sẽ giúp đạt được ơn cứu độ nhờ Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô phù trợ, và kết luận: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.” (Pl 1:20-21)
Như vậy là thế nào? Thánh Phaolô lý giải: “Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em.” (Pl 1:22-24) Vấn đề cốt lõi là miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, mục đích là để “tuân phục Thánh Ý Chúa và vinh danh Chúa” mà thôi. Và cũng vì thế mà Thánh Augustinô đã tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Biết Chúa là chân nhận rằng Ngài là Đấng duy nhất và giàu lòng thương xót, nhờ vậy mà tôn thờ Ngài hết linh hồn và hết sức lực, biết mình là ý thức mình yếu đuối và đầy tội lỗi để mà sống khiêm nhường hơn.
Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu đã gây ấn tượng đối với ngài Mahatma Gandhi. Ông gọi đó là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của nhân loại. Ông có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động theo tinh thần của Đức Kitô, ông cũng khiến chúng ta ngạc nhiên khi ông thẳng thắn nói: “Tôi YÊU MẾN Đức Kitô nhưng tôi KHÔNG PHỤC các Kitô hữu.” Tại vì có lần ông vào một nhà thờ Công giáo, ngoài cửa có ghi: “Cấm người da đen vào nhà thờ.” Ông quay ra ngay. Là Kitô hữu, là môn đệ Chúa Giêsu và là con cái Thiên Chúa, chúng ta thật xấu hổ, vì chúng ta bảo người ta yêu thương mà mình lại kỳ thị người khác, chỉ lẻo mép nói hay mà không thi hành điều mình nói. Có lỗi của chúng ta khi Nước Chúa chưa rộng mở, Danh Cha chưa cả sáng!
Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ có một điều là anh em PHẢI ăn ở làm sao cho XỨNG với Tin Mừng của Đức Kitô. Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em.” (Pl 1:27) Đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi người chúng ta vậy.
Trên hành trình tâm linh, hành trình đức tin, ai cũng là người lao động, là công nhân hoặc người thợ, hoàn toàn giống nhau và bình đẳng, hằng ngày làm việc theo sự thỏa thuận của “bản hợp đồng đức tin,” đó là làm việc trong “vườn nho” của Thiên Chúa với MỨC LƯƠNG NHƯ NHAU – đối với công nhân thâm niên cũng như tân binh. Tuy nhiên, điều cần phải luôn lưu ý là đừng so đo hoặc ganh tị để rồi liếc xéo nhau, nhìn nhau bằng nửa con mắt hoặc ngó nhau bằng “ánh mắt hình mũi tên.”
Thánh Phaolô nhắc nhở: “Trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng.” (1 Cr 9:24) Ai cũng phải nỗ lực theo bí quyết của con rùa, không ỷ lại như con thỏ. Tội nhân sẽ thành thánh nhân, ở hàng chót sẽ lên hàng đầu.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, Đấng duy nhất chúng con phải tôn thờ, xin giúp chúng con trọn lòng tin kính và quyết tâm sống các đức đối thần và đối nhân, luôn khiêm tốn thi hành các huấn lệnh Ngài truyền. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục.