Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 30-C Bài 1-50: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ----------------------------------------- Phúc Âm: Lc 18, 9-14: "Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Đó chính là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, bởi vì ai khiêm nhường thì sẽ trở nên to lớn, còn ai kiêu ngạo sẽ trở thành nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, Chúa thường chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn phúc cho người khiêm nhường.
Tuy nhiên, điều kiện đầu tiên để sống khiêm nhường, đó là phải biết mình.
Thực vậy, chúng ta thường biết nhiều sự, nhưng có một điều chúng ta cần phải biết thì lại không biết, đó là biết chính bản thân, biết chính con người mình. Và tâm hồn mình vẫn mãi mãi là một vùng đất xa lạ nhất.
Dân ngoại thời xưa cũng đã biết tới tầm mức quan trọng của việc biết mình. Thực vậy, trên cửa đền thờ kính thần Apollo tại Delphes có khắc ghi câu này:
- Hãy biết mình.
Người Trung Quốc cũng bảo:
- Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình, biết người trăm trận đều thắng.
Và thánh Augustinô thường cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.
Sở dĩ như vậy vì nếu không biết mình, thì cũng chẳng thể nào sống khiêm nhường. Mà đã không khiêm nhường, thì chẳng thể nào có nhân đức. Mà đã không nhân đức, thì chẳng thể nào vào được Nước trời.
Ai muốn tập luyện các nhân đức, mà không thực thi khiêm nhường thì cũng chỉ là như bụi bay trước gió. Ai không biết mình, thì làm sao có thể sửa chữa những sai lỗi để trở nên hoàn thiện. Họ không có lấy một cố gắng để thăng tiến, bởi vì họ luôn tự mãn với chính mình. Họ giống như một chiếc đồng hồ đã chết.
Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ. Bởi vì không có một cái thước nào chính xác để đo được thẳm sâu cõi lòng.
Trong kinh Kính mừng, chúng ta thường đọc:
- Cầu cho chúng con là kẻ có tội.
Khi tâm hồn trong sạch, thì chỉ một vết nhơ rất nhỏ bé cũng đủ đập vào mắt chúng ta. Chính vì thế, những người đạo đức thường có nhiều điều để xưng thú trong tòa giải tội. Thậm chí có những vị thánh xưng tội mỗi ngày. Còn chúng ta, một khi tâm hồnđã phủ đầy bùn nhơ, chúng ta không còn cảm thấy những dấu vết của nó nữa và chúng ta thường tự nhủ:
- Tôi chẳng có tội gì để mà xưng thú cả.
Hay:
- Năng xưng, không bằng năng chừa.
Và chúng ta trở thành những kẻ mù lòa, có mắt mà không nhìn, có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Lý do khiến chúng ta khó nhận biết mình, đó là tính kiêu ngạo, đó là tinh thần Pharisêu.
Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước mặt đặt những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách thậm tệ. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa.
Chúng ta thường cư xử hà khắc đối với người khác mà khoan dung với chính bản thân. Đáng lý ra chúng ta phải khoan dung với người khác mà hà khắc đối với chính bản thân mình.
Vậy có phương cách nào giúp chúng ta biết mình hay không?
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu về tính tình và những sai lỗi của mình. Đâu là điều tôi hay vấp phạm nhiều nhất ? Đâu là điểm yếu, đâu là “mối tội đầu” của tôi để rồi bắt tay vào việc sửa đổi.
Tiếp đến là hãy tự vấn lương tâm xem những cám dỗ nào là những cám dỗ tôi thường xuyên gặp phải ? Cách thức chống trả của tôi như thế nào ? Và tại sao những cám dỗ ấy lại làm cho tôi vấp ngã ?
Rồi cũng hãy tự kiểm điểm xem tình trạng đạo đức hiện giờ của tôi ra làm sao ? Khô khan và nguội lạnh hay chăm chỉ và sốt sắng ?
Và sau cùng, đừng bao giờ quên đi một phương pháp chính yếu đó là sự cầu nguyện. Hãy suy nghĩ và hỏi Chúa trong thinh lặng. Hãy nhìn vào Chúa và chúng ta sẽ thấy được con người thực của mình.
Chỉ khi nào biết mình, thi chúng ta mới thực sự bắt đầu trở nên trọn lành. Hay như lời thánh nữ Têrêsa đã nói:
- Nhận biết mình nhỏ bé thì có giá trị và lợi ích hơn là nhận biết những chân lý cao vời.
Dụ ngôn về “Hai hạng Người Cầu Nguyện” của bài Tin Mừng hôm nay phê phán những người biệt phái tự hào mình là người công chính và khinh chê người khác. Người đó đứng riêng biệt một mình để cầu nguyện trong đền thờ, cử chỉ này nói lên phần nào thái độ tự hào và khinh dể người khác. Đứng riêng ra để khẳng định mình là mình, mình có đủ bản lãnh. Cung cách này được xác nhận thêm qua lời cầu nguyện của ông: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác…” Coi mình không giống như kẻ khác là một vinh dự, một ơn phúc, một mục tiêu để phấn đấu, để dành cho được. Vì thế, khi được như vậy người ta không thể không sung sướng và tạ ơn, qua đó chứng minh sự khác biệt của mình với đại chúng.
Để chứng minh, người biệt phái kể ra một số khác biệt của mình với đại chúng, nhất là không giống như người thu thuế vốn nổi bật vì các nết xấu, hay cụ thể hơn nữa là ăn chay một tuần hai lần và dâng cúng cho đền thờ 1/10 hoa lợi.
Tóm lại, sống công chính là thi hành các giới răn của Chúa trong mười điều răn như không tham lam, không ngoại tình và tuân giữ các luật lệ của Môisê như ăn chay, dâng cúng vào đền thờ mà không cần biết tâm tình bên trong cần có. Giữ được như vậy, họ cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác. Vơ đũa cả nắm, họ liệt kê tất cả mọi người vào hạng tội lỗi. Như thế có thể nói đứng riêng một mình là tư thế phản ảnh đích xác sự thánh thiện của người Pharisêu, nó cũng phản ánh quan niệm cũ về sự thánh thiện.
Nhưng trớ trêu thay, số người cho mình là công chính lại không được Chúa nhận cho là người công chính. Như vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được nên công chính cho bằng là phải hiểu thế nào là được nên công chính. Vì làm như thế cốt để cho ai cũng tưởng họ là nên công chính nhưng rốt cuộc là không phải công chính. Và ngược lại, kẻ mà ai cũng tưởng là không công chính thì họ lại được kể là công chính, được cứu độ. Được ơn công chính là ơn nhưng không của Thiên Chúa, như Ngài đã quyết định cho người thu thuế trong dụ ngôn được kể trên là người công chính.
Thiên Chúa không căn cứ trên thành tích nào của ta, và ơn cứu độ chẳng những không làm xa cách loài người mà là đưa ta đến chỗ kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Những việc ta làm không phải là nguyên nhân khiến ta được cứu độ, được nên công chính, nhưng là chính Thiên Chúa ban cho ta.
Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe có thể không cần một câu chuyện hướng dẫn nào khác, nhưng tự nó gợi ý để chúng ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.
Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.
Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.
Bài dụ ngôn hôm nay nêu bật lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, anh không nhìn sang người khác, không dám so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm của mình rồi khiêm tốn chấp nhận.
Chúng ta cũng vậy, mỗi lần chúng ta đặt mình trước nhan Chúa, khi cầu nguyện chúng ta hãy ý thức rằng, Thiên Chúa đã biết rõ cả rồi, đã biết trọn cả con người của chúng ta là như thế nào rồi, nên không cần che giấu tránh né. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng nhân từ và hay thương xót, nên chúng ta không quá lo sợ hay tuyệt vọng vì những bất toàn ấy mà hãy vươn lên cùng Chúa, xin Chúa chữa lành: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Trong lời cầu nguyện của người thu thuế, chúng ta còn có thể khám phá ra một yếu tố quan trọng khác nữa, khi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi, là kẻ đã xúc phạm đến Chúa”. Người thu thuế kia tha thiết muốn kêu lên cùng Chúa, muốn hưởng nhờ lòng nhân từ của Ngài để tiến mãi trên con đường thiêng liêng, sống mối tương quan với Chúa mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Người Pharisêu không có được thái độ này, ông tự mãn với chính mình và ông nghĩ là do công trạng của mình tạo lập ra, như vậy lời cầu nguyện của ông thật ra không phải là lời cầu nguyện mà chỉ là những lời khoe khoang đi kèm với thái độ khinh dể kẻ khác.
Ước chi trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng ta, chúng ta đừng nhìn sang kẻ khác mà so sánh. Bởi vì chúng ta sẽ bị cám dỗ so sánh mình với những bất toàn của anh chị em và nâng mình lên khinh dể kẻ khác. Chúng ta hãy so sánh mình với chính mẫu gương trọn lành của Chúa để nhận biết chúng ta còn nhiều điều phải canh tân để tiến lên mãi: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Ước chi lời cầu nguyện này trở thành lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta không những hôm nay mà trong mọi ngày của đời sống chúng ta, để chúng ta nhận lãnh ơn thương xót của Chúa và tiến lên mãi trong tình thương của Ngài. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Chúng ta vừa nghe thánh Luca kể lại một dụ ngôn rất hay, dụ ngôn nêu lên hai nhân vật tương phản, có thể nói là hai thái cực của xã hội Do thái thời ấy: biệt phái và thu thuế. Anh biệt phái là hình mẫu của người giữ đạo tốt, anh thuộc nhóm đạo hạnh. Còn người thu thuế là hình mẫu của loại tội nhân công khai, bởi thu thuế là phục vụ nền hành chính xâm lược, anh bị xếp vào loại hàng ngũ bất hảo. Thế nhưng anh thu thuế lại được Đức Giêsu khen vì anh đã khiêm nhường.
Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.
Thế thì tại sao người biệt phái này bị Đức Giêsu kết án ? Để trả lời được chúng ta nên xác định trong dụ ngôn hôm nay ai là nhân vật chính: anh biệt phái hay anh thu thuế ? Xin thưa cả hai người này đều không phải là nhân vật chính. Để ý kỹ chúng ta sẽ thấy cả hai người đang ở trong đền thờ. Vậy nhân vật chính của dụ ngôn này là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa như chúng ta đã nghe trong bài đọc 1: “Người là Thần chí công, không nể mặt giàu để hại nghèo. Người nghe kẻ oan khổ kêu xin”. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu nỗi lòng của người nào cần đến Ngài. Vậy vấn đề then chốt nằm ở chỗ: Anh thu thuế rất cần Thiên Chúa thương xót, trong khi anh biệt phái không cần. Thực vậy, Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy rất rõ: anh biệt phái chỉ nhìn sau lưng anh, anh tự mãn vì sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình, còn anh thu thuế thì nhìn trước mặt mình và xin Chúa giúp ; anh biệt phái nhìn chính mình, còn anh thu thuế nhìn vào Thiên Chúa và đó là điều cứu vớt anh. Thay vì đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và phó thác bản thân cho Người, thì anh biệt phái đã đặt Thiên Chúa trước sự hiện diện của anh và “bắt Chúa” phải “chuẩn nhận” những gì anh có. Anh biệt phái đã đi đến chỗ quên mất Chúa, Chúa chỉ đóng vai phụ, còn anh mới là vai chính.
Các việc lành thánh, đạo đức của anh biệt phái thiết nghĩ là Thiên Chúa có ghi nhận. Nhưng có một điều anh quên mất là chỉ mình Thiên Chúa mới xét đoán ai là người công chính mà thôi, trong khi anh đã thay Chúa làm việc này: tự hào về mình, tự cho mình là “đạo đức”.
Người ta kể rằng có một vị quan nọ đi thăm trại giam. Các tù nhân khi thấy ngài thì ai cũng nói họ vô tội, họ bị oan, (trong khi việc họ bị giam là do chính vị quan này trước khi xét xử). Duy chỉ có một tới trước mặt vị quan và nói: tôi bị tù là đáng với tội của tôi. Nghe thấy thế, vị quan đã tuyên bố một câu làm mọi người quá bất ngờ: “Tôi thấy ở đây ai cũng vô tội, chỉ có anh này đây là người có tội vậy thì chúng ta phải tách anh ta ra khỏi đám người kia, bằng cách đem anh ra ngoài vì sợ mọi người bị “nhiễm” bởi tội của anh”.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta hãy sống tâm tình phó thác, khiêm nhường như anh tội nhân trên đây hay như anh thu thuế trong dụ ngôn. Thiên Chúa sẽ đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng mình “đạo đức”, nhưng cũng chính Ngài sẽ làm cho nên công chính những ai biết khiêm nhường, phó thác. Hiểu như thế thì mọi việc đạo đức chúng ta làm như: dâng lễ, đọc kinh, ăn chay, bố thí… có ích gì đâu nếu chúng ta không lồng nơi đó một tâm tình khiêm nhường, phó thác cho Chúa vì mình “đã làm những việc phải làm”. Ngược lại, tội lỗi chúng ta có đáng gì đâu đối với Chúa một khi mình biết thống hối, tin vào lòng Chúa xót thương và chính Chúa sẽ nâng chúng ta lên để ta được công chính hóa.
Họp nhau đây để cử hành thánh lễ “tạ ơn”, chúng ta hãy có nơi mình sự khiêm nhường trước thánh nhan và như thế ta mới có thể để cho lòng mình trào lên lời cầu nguyện rất tuyệt vời như thánh Augustinô: “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Ngài. Vì con có thể nghĩ đến tội lỗi của mình, mà vẫn không bị nó đè bẹp”.
Lời cầu nguyện của người Pharisêu như sau: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi t uần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế cũng có thể theo cách đó: “Lạy Chúa, Chúa hãy nhìn người Pharisêu đứng ở đàng kia để mọi người có thể nhìn thấy ông ta cầu nguyện. Ông ta nghĩ ông ta tốt hơn những người khác. Ông ta khinh bỉ những người như con. Chúa hãy nhìn cái áo dài ông ta đang mặc như để làm cho ông ta cảm thấy mình thánh thiện và làm người ta chú ý đến ông ta.
“Ông ta đã làm mọi việc không phải để đem lại vinh quang cho Chúa, mà để được những người khác tôn trọng, và do đó đem lại vinh dự cho ông ta. Ông chắc sẽ chiếm được chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc và trong hội đường. Ông thích được người ta chào ông trên phố và gọi ông bằng “tôn sư”.
“Ông ta rất sốt sắng và lo lắng về những luật chi li ngớ ngẩn theo cách giữ luật của ông ta trong lúc thờ ơ với những điều thật sự là quan trọng, đó là thực hành sự công bằng và lòng thương xót. Ông ta trình bày luật pháp cho người khác rất hay. Ông ta phải thực hành điều ông ta rao giảng. Ông ta sống trên sự đóng góp của các bà góa.
“Oi lạy Chúa, Chúa đừng tin vào ông ta. Tất cả chỉ là một màn trình diễn. Ông ta không chân thật. Nhìn bên ngoài, ông ta có vẻ trong trắng, giống như mồ mả quét vôi trắng, nhưng bên trong đầy những sự thối rữa. Ông ta là một kẻ giả hình khổng lồ trên đôi chân mình”.
Người thu thuế có thể nói tất cả những điều ấy hoặc hơn thế nữa. Và Chúa phải nói thêm: “Cha đồng ý với mọi lời con nói”. Bởi lẽ chính Chúa cũng sẽ nói những điều ấy về người Pharisêu. Nhưng người thu thuế không nói điều gì theo cách đó. Ông chỉ nói đơn giản: “Lạy Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi”.
Điều mà người Pharisêu đã làm là cáo tội người khác, đồng thời phô trương những công việc tốt của ông ta. Người thu thuế đã làm điều ngược lại. Ông này xưng thú tội lỗi của mình và để tội lỗi của những người khác cho Chúa xử lý. Kết quả là người thu thuế về nhà và được nên công chính còn người Pharisêu thì không. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói rõ điều đó.
Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều này nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào tội lỗi của chính mình. Mặt khác, người ta không thể cân nhắc tội lỗi của người khác mà không để cho tính chủ quan của mình chen vào làm thiên lệch.
Người thành công luôn bị cám dỗ nhìn sự thành công của mình như một sự chúc lành của Thiên Chúa hoặc một phần thưởng vì mình sống công chính. Điều này dẫn người ta đến chỗ phán xét người không thành công và cho rằng người này vừa không bác ái, vừa không chân thật.
Chúng ta đi đến chỗ tin rằng mình phải được sửa sang tề chỉnh cả bên ngoài lẫn bên trong trước rồi mới dám trình diện với Giáo Hội của Người. Nhưng chúng ta phải đến trước mặt Thiên Chúa bằng con người thật của mình. Bởi lẽ như thánh Phanxicô Atxidi nói: “Tôi ở trước mặt Thiên Chúa với con người thật của tôi. Không là cái gì khác. Không hơn. Không kém”.
Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
- Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng ?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
- Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
- Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa ; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa ; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: ‘Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không ; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật về chính mình. Họ không khinh thường ai. Người khiêm nhường chấp nhận và tôn trọng tha nhân, bởi đó tha nhân thoải mái khi sống với họ.
Nét đẹp của người thu thuế
Người biệt phái trong dụ ngôn nhận ra anh ta không tham lam, bất chính, ngoại tình. Tuy nhiên, anh ta lại đánh giá người khác thấp hơn mình. Anh ta khinh người thu thuế đang cầu nguyện dưới cuối hội đường. Thái độ coi khinh người khác, không đẹp lòng Thiên Chúa.
Nét đẹp của người thu thuế, là thái độ khiêm nhường, nhận ra sự thật về chính mình: “Tôi là người tội lỗi”. Anh ta không so sánh mình với người khác, không khinh người khác, nhưng nhận mình nhỏ bé thấp hèn. Thái độ của anh ta, được Thiên Chúa thương: anh ta ra về và được khỏi tội.
Trong cuộc sống, nhiều người bị coi là người xấu, nhưng chắc gì tôi tốt hơn những người đó? Khi tôi xét đoán người khác, coi thường người khác, khinh người khác, là tôi đã không sống giới răn yêu thương. Khi cho người khác dở hơn mình, tôi đã dành quyền xét đoán của Thiên Chúa. Khi khinh thường người khác, tôi không còn đẹp nữa. Lúc đó, tôi không tôn trọng họ, và như vậy tôi không sống hạnh phúc; và tôi cũng không để người đó hạnh phúc với tôi. Một người khiêm nhường, là người có thể sống với người khác, và để người khác sống thoải mái hạnh phúc với mình.
Khiêm nhường: tuyên dương những gì Thiên Chúa làm cho mình
Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê hôm nay, tin rằng Ngài sẽ được hưởng triều thiên công chính. Nhận sự thật về mình, ngay cả khi mình được những điều tốt, không phải là kiêu ngạo. Phaolô tin mình sẽ được thưởng công, và Ngài biết người khác cũng được vậy nếu họ mong chờ ngày Chúa xuất hiện. Hơn nữa, khi nhận rằng những gì mình được, là hồng ân của Thiên Chúa, đó cũng là hành vi khiêm nhường, vì đã trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài.
Không đặt mình trên người khác, nhận rằng người khác có thể có những điều tốt hơn mình, đó là thái độ của những người khiêm nhường. Những gì mình có hay hơn người khác, không phải do mình, nhưng đó là hồng ân “nhưng không” Thiên Chúa ban cho mình, thế nên mình chẳng có gì để vênh vang hoặc khinh thường người khác khi họ không có điều đó.
Người khiêm nhường không xét đoán
Thiên Chúa là Đấng công bình, Ngài không thiên tư tây vị, Ngài không đứng về phía người giầu hoặc người thế lực; trái lại, Ngài ở bên người nghèo, Ngài nghe tiếng kêu xin của người nghèo. Một trong những cách nói Thiên Chúa nghe tiếng kêu xin của người nghèo, là “lời cầu nguyện của người nghèo không bị bỏ qua cho đến khi đạt được mục đích, nghĩa là, cho đến khi Thiên Chúa nhận lời”, “lời cầu nguyện của người nghèo vượt quá tầng mây”.
Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Không kết án người khác. Những điều người khác làm dở, có thể có những lý do mà mình không hiểu được. Thiên Chúa biết lòng người, mình không thể hiểu được những hoàn cảnh cụ thể, để mà phán xét kết tội họ. Người có lòng thương xót không sợ ngày phán xét, vì họ sẽ được thương xót và được phán xét như họ đã thương xót người khác. Không xét đoán người khác, không khinh người khác, là một hành vi vượt thắng chính mình.
Khiêm nhường không là nhu nhược, không là sợ hãi người khác, không là ngu dốt. Người khiêm nhường có thể rất thông minh, có thể đoán được những gì người khác sẽ làm, nhưng họ cũng nhận ra rằng, có thể có những lý do mà họ không hiểu được. Vì tôi không biết hết, nên tôi không phán đoán và kết án ai. Thiên Chúa là Đấng biết tất cả, Ngài sẽ phán xét con người. Có người muốn khẳng định Yuđa xuống hoả ngục! Nhưng, làm sao tôi biết được! Tại sao tôi đòi thay chỗ Thiên Chúa để đưa ra lời phán quyết. Tại sao tôi không nghĩ rằng Yuđa có thể hối hận vào giây phút cuối đời? Nếu muốn phán đoán, hãy có tình yêu của Thiên Chúa, để không phán đoán kết tội ai.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Khi phán đoán kết tội người khác, tôi được gì? 2. Nhận ra nét đẹp của người khác, có giúp tôi sống hạnh phúc hơn không? Tại sao? 3. Tại sao bạn thích sống với người khiêm nhường, hơn sống với người kiêu ngạo?
"Mật ngọt đời sống và quả cầu bơ mặt trời / xin đừng giăng mây bao phủ / để rồi mưa rơi trong ngày vui của tôi." Đó là những lời ca của nữ ca sĩ Barbra Streisand hát trong đĩa nhạc nổi tiếng của cô cách đây ít năm: "Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi." Nhưng tôi lại nghĩ rằng băng nhạc Mills Brothers cũ cách đây mấy thập niên lại gần với sự thật hơn khi họ hát, "Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống." Dĩ nhiên ai chẳng muốn sống vô tư dưới ánh mặt trời. Chúng ta đâu muốn giáp mặt với những biến động và nguy cấp như: bệnh tật, đau đớn, khổ sở, chia ly và chết chóc. Ai trong chúng ta đều muốn hát, "Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi!" Thế nhưng, ngay khi chúng ta còn đang hát, thì mây đen bao phủ, mưa bắt đầu rơi, và bệnh tật xảy đến, hay người thân yêu của ta giã từ cõi đời, hoặc mối giây yêu đương đứt quãng, hay như những vấn đề kinh tế gia đình đè bẹp chúng ta. Chúng ta không cần phải dẫn chứng thêm nữa để có thể nhận ra rằng bài hát xưa đúng với sự thật hơn: "Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống." Thử thách thật sự của đời sống là không phải ta sống thế nào dưới ánh dương quang, mà là ta sống thế nào dưới cơn mưa.
Khi Chúa Giêsu ban Bài Giảng Trên Núi như một bức ảnh tuyệt mỹ của đời sống, Ngài kết thúc bài giảng đó bằng sự nhấn mạnh rằng đó là sự thật. Ngài nhắc nhở mọi người rằng các biến cố sẽ xảy đến; nghĩa là mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống của mọi người. Khi trình bày bức ảnh rõ ràng của một cuộc sống sẽ được chúc phúc, no thoả, và xứng danh con người, thì Ngài đã kết bằng những biến cố đó. Ngài dùng dụ ngôn về hai người xây nhà, một người xây trên nền cát và người kia xây trên nền đá. Khi mùa lũ đến, ngôi nhà xây trên cát hoàn toàn bị tàn phá. Còn ngôi nhà kia vì được xây trên đá nên vẫn kiên vững với bão giông. Để dễ hiểu dụ ngôn này, các bạn nên biết là nơi Đất Thánh nơi Chúa Giêsu giảng, thì mưa đổ xuống theo mùa. Trong mùa khô, tức mùa không có mưa, thì có rất nhiều nơi để bạn chọn xây nhà. Nhưng phải cẩn thận, vì biết đâu chỗ bạn chọn lại là giữa lòng sông đang bị khô nên khi mà mưa đến thì nhà bạn sẽ bị chìm dưới 50 hay 60 thước Anh. Chúa Giêsu dùng sự thật của đời sống này ở Đất Thánh mà làm bình phong cho dụ ngôn của Ngài. Ngày dạy rằng bạn hãy cẩn thận khi xây nhà vì chắc rằng mưa bão sẽ đổ xuống trên nó, và chỉ có nhà nào xây trên nền đá mới đứng vững mà thôi. Chúa Giêsu đã kết Bài Giảng Trên Núi bằng sự thật đó.
Nhưng nó có liên quan gì đến chúng ta? Nền đá là gì? Xây dựng trên cái gì để nó có thể giúp ta đứng vững khi những biến cố và nguy cấp chắc chắn xảy đến trong đời sống chúng ta? Đơn giản đó là sự tín phục nhưng lại ít người biết đến. Với tài năng độc đáo của một vị Thầy, Chúa Giêsu đã dễ dàng hướng dẫn chúng ta qua Bài Giảng Trên Núi để vào thực tế. Trước tiên Ngài đưa ra hai lối, đó là 2 con đường rộng và hẹp. Rồi Ngài đề cập đến 2 loại cây đó là tốt và xấu. Xong Ngài nói về 2 căn nhà được xây trên cát và đá. Điều gì làm khác biệt trong mỗi loại của ba trường hợp trên? Tôi xin được trả lời bằng lời của Chúa Giêsu: "Không có ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà vào được Nước Trời, trừ những người làm theo ý Cha Ta" (Mt. 7:21).
Người xây nhà trên đá là người nghe và thực hành Lời Chúa. Chúng ta nghe được trong Bài Phúc Âm hôm nay là: "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lk. 18:14). Sự kiêu căng và dại dột của những người Pharisêu là tự nghĩ họ tốt lành hơn người khác và như thách thức Thiên Chúa tìm ra lỗi lầm trong đời sống của họ. Đó là họ tự xây nhà trên cát sỏi trơn tuột của chính bản thân và ý riêng họ. Người tội lỗi khôn ngoan và khiêm nhượng tự nhận mình có những vấn đề và sẵn sàng bỏ ý riêng mình mà theo ý Chúa, đó là người xây nhà mình trên nền móng bằng đá của sự vâng phục. Thiên Chúa là Chúa Nhân Từ mời gọi chúng ta dâng trót cuộc sống theo luật Ngài, nhưng Ngài không thúc ép chúng ta. Ngài không bắt buộc bất cứ ai. Đó phải là sự tự tình chấp nhận Thánh Ý Ngài, ước muốn sống theo như Ngài muốn chúng ta sống, nhờ đó mà ta có thể trở nên như Thiên Chúa muốn chúng ta trở nên.
Ngay bây giờ các bạn có thể đang ngồi đó và mọi sự coi như tốt đẹp đối với các bạn. Nhưng trước khi ngày tàn, biết đâu tang thương sẽ đến với các bạn, ấy là mưa rơi trong ngày vui của các bạn. Các bạn không thể biết điều gì xảy ra ở góc quẹo kế tiếp...! Đời sống là thế đấy. Có những lúc đau thương nối tiếp nhau. Các biến cố dồn đống lên, và thế là chúng ta phải chiến đấu với chúng. Đôi lúc chúng ta cảm thấy như anh chàng trong câu truyện "Con Chó Xồm." Trở về nhà sau một cuộc hành trình lâu ngày và được viên tài xế đón ở sân ga, anh chàng hỏi, "Có gì xảy ra khi tôi vắng nhà không?" Người tài xế trả lời, "Dạ không có gì đặc biệt, ngoại trừ con chó xồm của ông chủ bị chết." "Trời ơi! sao con chó của tôi lại chết?" "Dạ, tại nó ăn thịt con ngựa bị chết cháy," người tài xế tài xế trả lời. "Hả! ăn thịt con ngựa bị chết thiêu?" "Vâng ạ, con ngựa bị thiêu chết khi chuồng ngựa bị cháy." "Chuồng ngựa bị cháy?" "Vâng, chuồng ngựa bị cháy vì nhà bị bắt lửa." "Bắt lửa từ nhà của tôi?" "Vâng thưa ông, nhà bị cháy vì nến của đám tang ạ." "Hở! sao lại nến đám tang?" "Đúng thế, bà chủ đã tạ thế ạ." "Trời! Bà nhà tôi chết rồi sao?" "Dạ, bà chủ mất vì quá kích động khi bà nghe tin người cộng sự của ông đã làm thụt két quá mức nên việc buôn bán của ông bị sụp tiệm ạ." Dĩ nhiên, câu truyện cứ thế tiếp diễn... Hết cái này tới cái khác nối tiếp nhau. Ý của câu truyện là vào một lúc nào đó trong đời sống chúng ta sẽ cảm thấy tựa như thế: nhiều biến cố cứ dồn dập đổ trên chúng ta! Chúa Giêsu rất thực tế về vấn đề này tuần tự mỗi năm mùa mưa sẽ đến; các biến sự sẽ lần lượt xảy đến. Những ai có cách sống ăn rễ sâu nơi tình yêu Chúa sẽ vượt qua những khó khăn.
Những Kitô hữu không phải là những người đứng hát bài ca vô thực với những con mắt thau láu: "Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi." Nhưng những Kitô hữu là những người biết rằng mưa sẽ đổ xuống. Kitô hữu là những người tự do và sung sướng hạ mình vâng phục ý Chúa.
Khi Đức Giêsu đưa ra kết luận: ‘người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không’, những người nghe Ngài hẳn đã ngỡ ngàng, chưng hửng.
Ông Pharisêu là mẫu mực trong việc giữ Luật. Những điều xấu xa tiêu cực, ông không làm. Những điều Luật đòi hỏi, ông còn làm hơn thế. Lời cầu nguyện của ông hết sức tự phát và chân thành, một lời nguyện mà nhiều người đạo đức thèm muốn. Tại sao Thiên Chúa lại không nhìn đến ông?
Tại sao Thiên Chúa lại thương người thu thuế tội lỗi, dù anh ta nào đã hứa bỏ cái nghề tồi tệ đó; nào đã chịu đền bù bao nhũng lạm mình gây ra?
Tình thương của Thiên Chúa thì nghịch lý, nhưng không vô lý. Chúng ta cần nhìn ông pharisêu cầu nguyện.
Ông đứng tách biệt với những người khác trong Đền Thờ. Mắt ông vẫn thấy anh thu thuế đứng tuốt phía dưới.
Chúng ta cần nghe lời ông cầu nguyện.
Ông muốn dâng lên Thiên Chúa một lời tạ ơn, nhưng tạ ơn lại trở thành so sánh mình với người khác, và đầy ứ cái tôi tự mãn, tự hào: tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay, tôi nộp thuế...
Cái tôi của ông thật tuyệt vời, hơn hẳn người khác. Cái tôi của ông quá ngon lành, bảo đảm, nên ông không cần xin Chúa thêm điều gì. Ông chỉ khoe Chúa những thành tích của ông, hay đúng hơn ông đang ngắm mình độc thoại. Đời sống của ông pharisêu đầy đặn quá, tròn trịa quá đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa. Ngài chẳng tìm ra một kẽ hở nào để vào đời ông nên Ngài chịu đứng ngoài.
Ngược lại anh thu thuế thì run rẩy xấu hổ, chẳng dám ngước nhìn Chúa, chẳng dám lại gần tha nhân. Anh thấy rõ các tội của mình, và thấy mình bị kẹt cứng, tự sức không sao tháo gỡ. Anh chỉ còn biết cậy dựa và phó thác cho Tình thương.
Người thu thuế thật là con người tội lỗi, nhưng tội của anh đã trở nên một kẽ hở để Thiên Chúa có thể đi vào đời anh. Chính sự trống rỗng của anh đã thành khoảng trống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.
Tiếc là ông pharisêu chưa nhận ra khuyết điểm của mình. Ông về nhà mà không biết mình chẳng được Chúaưu ái. Ông về nhà mà vẫn khép kín tự mãn như lúc lên đền.
Làm sao tôi có được sự trung tín của người pharisêu và sự khiêm hạ của người thu thuế? Làm sao tôi tận dụng mọi năng lực Chúa ban mà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu? Ước gì đời tôi có nhiều kẽ hở để Chúa vào.
Gợi Ý Chia Sẻ
Càng thánh thiện thì càng thấy mình cần đến Thiên Chúa. Khi nào trong cuộc sống bạn thấy mình cần Chúa hơn cả?
Chúng ta vẫn thường ngấm ngầm so sánh mình với người khác như ông pharisêu. Chúng ta rất dễ rơi vào thái độ tự hào. Làm sao để thắng được tính xấu này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, những tội chúng con phạm vừa mang dáng dấp của tội Ađam vừa mang dáng dấp của tội Cain.
Tội nào cũng là khép lại trên chính mình, khước từ Thiên Chúa và quay lưng trước anh em. Tội nào cũng là lấy mình làm trung tâm và qui tất cả về mình.
Xin cho chúng con đừng nhìn ngắm công trạng của mình, nhưng nhìn vào những nén bạc Cha giao mà chúng con chưa đầu tư sinh lợi cho đủ.
Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ, nhưng hướng đến tương lai với bao điều cần thực hiện.
Lạy Cha, xin cho chúng con đừng lấy đức hạnh của mình làm thước đo người khác, đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân.
Ước gì chúng con có quả tim như Con Cha, hiền lành và khiêm nhượng, để chúng con có thể mở ra đến vô cùng trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.
Chúa Nhật 29 TNC, Lời Chúa dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, còn Chúa Nhật hôm nay: TN 30-C10
Chúa Nhật 29 TNC, Lời Chúa dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, còn Chúa Nhật hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta cần có thái độ khiêm tốn trong việc cầu nguyện.
Trong dụ ngôn hôm nay, Luca nêu lên hai nhân vật tương phản, có thể nói là hai thái cực của xã hội Do thái thời bấy giờ: Biệt phái và thu thuế. Người Biệt phái thuộc nhóm đạo hạnh, là hình mẫu của người giữ đạo tốt. Còn người thu thuế là hình mẫu của loại tội nhân công khai, bởi thu thuế là phục vụ nền hành chính xâm lược. Người thu thuế bị xếp vào loại hàng ngũ bất hảo. Thế nhưng người thu thuế lại được Đức Giêsu chấp nhận vì anh đã khiêm nhường.
Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người Biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người Biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh thì ta thấy thái độ cầu nguyện của người Biệt phái là đứng; còn người thu thuế thì đứng xa xa cúi mặt xuống đất và đấm ngực mà kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Hơn nữa, khi nghe lời cầu nguyện của người Biệt Phái, ta chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Thế nhưng, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh Biệt phái. Câu hỏi đặt ra là tại sao người Biệt phái này bị Đức Giêsu kết án? Để trả lời được chúng ta nên xác định trong dụ ngôn hôm nay ai là nhân vật chính: anh Biệt phái hay anh thu thuế ? Xin thưa cả hai người này đều không phải là nhân vật chính. Để ý kỹ chúng ta sẽ thấy cả hai người đang ở trong Đền Thờ. Vậy nhân vật chính của dụ ngôn này là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa như chúng ta đã nghe trong bài đọc 1: “Người là Thần chí công, không nể mặt giàu để hại nghèo. Người nghe kẻ oan khổ kêu xin”. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu nỗi lòng của người nào cần đến Ngài.
Vậy vấn đề then chốt nằm ở chỗ: Người thu thuế rất cần Thiên Chúa thương xót, trong khi anh Biệt phái không cần. Thực vậy, Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy rất rõ: người Biệt phái chỉ nhìn sau lưng anh, anh tự mãn vì sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình, còn người thu thuế thì nhìn trước mặt mình và xin Chúa giúp; người Biệt phái nhìn chính mình, còn người thu thuế nhìn vào Thiên Chúa và nhìn nhận chỉ có Ngài mới có thể cứu vớt anh mà thôi. Thay vì đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và phó thác bản thân cho Người, thì người Biệt phái đã đặt Thiên Chúa trước sự hiện diện của anh và “bắt Chúa” phải “chuẩn nhận” những gì anh có. Người Biệt phái đã đi đến chỗ quên mất Thiên Chúa, Thiên Chúa chỉ đóng vai phụ, còn anh mới là vai chính.
Các việc lành thánh, đạo đức của anh Biệt phái thiết nghĩ là Thiên Chúa có ghi nhận. Nhưng có một điều anh quên mất là chỉ mình Thiên Chúa mới xét đoán ai là người công chính mà thôi, trong khi anh đã thay Chúa làm việc này: tự hào về mình, tự cho mình là “đạo đức”.
Người ta kể rằng có một vị quan nọ đi thăm trại giam. Các tù nhân khi thấy Ngài thì ai cũng nói họ vô tội, họ bị oan (trong khi việc họ bị giam là do chính vị quan này trước khi xét xử). Duy chỉ có một tới trước mặt vị quan và nói: tôi bị tù là đáng với tội của tôi. Nghe thấy thế, vị quan đã tuyên bố một câu làm mọi người quá bất ngờ: “Tôi thấy ở đây ai cũng vô tội, chỉ có anh này đây là người có tội vậy thì chúng ta phải tách anh ta ra khỏi đám người kia, bằng cách đem anh ra ngoài vì sợ mọi người bị “nhiễm” bởi tội của anh”.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta hãy sống tâm tình phó thác, khiêm nhường như anh tội nhân trên đây hay như người thu thuế trong dụ ngôn. Thiên Chúa sẽ đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng mình “đạo đức”, nhưng cũng chính Ngài sẽ làm cho nên công chính những ai biết khiêm nhường, phó thác. Hiểu như thế thì mọi việc đạo đức chúng ta làm như: dâng lễ, đọc kinh, ăn chay, bố thí… có ích gì đâu nếu chúng ta không đặt trong đó một tâm tình khiêm nhường, phó thác cho Chúa vì mình “đã làm những việc phải làm”. Ngược lại, tội lỗi chúng ta có đáng gì đâu đối với Chúa một khi mình biết thống hối, tin vào lòng Chúa xót thương và chính Chúa sẽ nâng chúng ta lên để ta được công chính hóa.
Họp nhau để cử hành thánh lễ “tạ ơn”, chúng ta hãy có nơi mình sự khiêm nhường trước thánh nhan và như thế ta mới có thể để cho lòng mình trào lên lời cầu nguyện rất tuyệt vời như thánh Augustinô: “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Ngài. Vì con có thể nghĩ đến tội lỗi của mình, mà vẫn không bị nó đè bẹp”.
Đức Giêsu giảng bài này cho một nhóm Pharisêu. Pharisêu là một hội của những người muốn sống đạo hơn bình thường. Thí dụ như luật (Levi 16:29-31) chỉ đòi ăn chay một năm một lần, nhưng họ ăn chay mỗi thứ hai và thứ năm; sách Đệ Nhị Luật (14:22-29) chỉ đòi dâng một phần mười hoa lợi nông nghiệp, nhưng họ dâng một phần mười của mọi loại thu nhập (câu 12). Tuy nhiên trong lòng họ chạy theo tiền (16:14) tham lam của cải và độc ác (11:39).
Người Pharisêu bắt đầu lời nguyện rất hay, "xin tạ ơn Chúa," giống như kinh Magnificat của Đức Mẹ (1:46-56) hay kinh "An bình ra đi" của ông Simeon (2:29-31). Nhưng chỉ được bấy nhiêu, rồi ông ta chỉ kiêu ngạo ca tụng chính mình, chê bai và lánh xa người khác vì ông ta cho tất cả là hèn kém hơn ông. Tuy nhiên ông cũng không đứng xa lắm và nói lớn đủ để mọi người nghe ông tự đắc và lên án người khác.
Có ba cấp người thu thuế: có kẻ trả cho chính quyền một số tiền để mua lấy quyền thu thuế; dưới đó là các ông quản đốc thu thuế, như Zacchaeus; rồi tới các nhân viên thu thuế theo mức đã định (tuy nhiên một số nhân viên lộng quyền thu trên số này).
Cử chỉ khoanh tay và nhìn xuống của người thu thuế là theo thông lệ khi cầu nguyện. Còn đấm ngực là cử chỉ của phái yếu (23:27); chỉ khi nào khổ não lắm mấy ông mới đấm ngực (23:48).
Chuyện trớ trêu ở chỗ là ông Pharisêu cho mình là công chính còn người thu thuế thì bất chính, nhưng kết quả ra ngược lại.
Một Điểm Chính
Chúng ta được trở nên công chính nhờ trung thành trong giao ước với Chúa và nhờ vậy được Chúa cứu độ. Không có Chúa, ta không tự trở nên công chính được.
Suy Niệm
Tôi làm sao để "trung thành trong giao ước với Chúa"? Tôi có làm vậy không? Cái gì giúp tôi? (Thánh lễ và kinh nguyện "Lạy Chúa Giêsu xin thương con tội lỗi", kinh sáng tối, kinh trước bữa ăn v.v... có giúp gì không?)
Tôi có tự mãn, tự kiêu mà không cần Chúa không? Nền văn hóa này có khyến khích tôi làm vậy không?
Tôi khinh thường ai? Ai là "kẻ thu thuế" đối với tôi?
1. Theo cách suy nghĩ thông thường của bạn, khi nghe hai người trong bài Tin Mừng cầu nguyện, bạn đánh giá ai công chính hơn ai? Cách phán đoán của Đức Giê-su về sự công chính có khác với cách của bạn không? Khác chỗ nào? 2. Những người tập luyện được nhiều nhân đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người, nhưng lại tự hào và lên mặt về sự hơn người đó, thì sẽ được Thiên Chúa đánh giá thế nào?
3. Đọc bài Tin Mừng bạn rút ra được bài học gì cho mình? cho cách xử sự hằng ngày và cho công việc nên thánh của mình?
Suy tư gợi ý:
1. Cách phán đoán của Đức Giê-su khác với cách của ta
Qua lời cầu nguyện của hai người trong bài Tin Mừng này, ta biết tất cả những điều tốt lành mà người Pha-ri-siêu khoe với Chúa rằng mình đã làm đều là sự thật, và tình trạng tội lỗi mà người thu thuế thú nhận trước mặt Chúa cũng đều là sự thật. Nếu để ta xét đoán, ta sẽ dễ cho rằng người Pha-ri-siêu kia mới là người công chính, còn người thu thuế đích thực là tội lỗi. Nhưng câu kết luận của Đức Giê-su làm chúng ta phải ngạc nhiên: «Tôi nói cho các ông biết: người này (tức người thu thuế), khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia (tức người Pha-ri-siêu) thì không». Ta thấy phán đoán của Đức Giê-su về sự công chính khác hẳn cách phán đoán của chúng ta. Đương nhiên, chúng ta phải lấy cách phán đoán của Ngài làm mẫu mực cho cách phán đoán của ta, và phải chỉnh lại cách suy nghĩ của ta theo cách của Ngài.
2. Tự đề cao mình khiến mình bớt giá trị trước mặt Thiên Chúa
Như vậy, điều khiến cho một người nên công chính không phải là những việc tốt lành mà họ làm được cho bằng động lực đã thúc đẩy họ làm những việc ấy. Nếu họ làm những điều tốt để được mọi người khen thưởng, khâm phục, chứ không phải vì yêu Chúa hay thương tha nhân mà làm, thì những điều tốt ấy chỉ có giá trị trước mặt người đời chứ không chắc có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đức Giê-su đã nói về những hành động ấy như sau: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,1-2).
Làm điều tốt đẹp để được khen đó là làm vì một động lực vị kỷ, tự kiêu. Đương nhiên, chẳng mấy ai trên đời thoát được tính vị kỷ, muốn tự đề cao mình: người ta chỉ hơn nhau ở chỗ vị kỷ ít hay nhiều mà thôi. Muốn nên thánh, ta phải tập luyện hằng ngày để tính vị kỷ hay tính thích được đề cao của ta càng ngày càng giảm đi. Sự thánh thiện và tính vị kỷ hay «độ phình lớn của cái tôi» tỷ lệ nghịch với nhau. Lời của Gio-an Tẩy giả có thể coi là một định luật: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Cái tôi của ta càng nhỏ đi thì đời sống thần linh hay sự sống của Đức Ki-tô càng lớn lên trong ta, và giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng lớn. Ngược lại, cái tôi của ta càng phình lớn, thì sự sống của Đức Ki-tô ở trong ta hay giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng nhỏ đi. «Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên» (Mt 23,12; Lc 14,11; 18,14).
Người nào hay tìm cách để được mọi người đề cao, khen thưởng thì cũng thường tự coi mình là hơn người và thích chê bai người khác: hạ người khác xuống để mình được nổi bật lên. Những người này dù có làm được biết bao điều tốt lành, thực tập biết bao nhân đức để được người khác nể phục, dù có lên được những bậc thang cao trong Giáo Hội hay xã hội thì vẫn là con số 0 trước mặt Thiên Chúa. Họ không được Thiên Chúa coi là người công chính.
3. Tự hạ, tự coi thường mình lại làm mình tăng giá trị lên trước mặt Thiên Chúa
Qua bài Tin Mừng ta thấy tội lỗi hay những hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn hay kiêu ngạo. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi, nên đã làm mất đi sự công chính của mình. Nhưng hành động khiêm nhường, biết nhìn nhận sự bất chính và tội lỗi của mình đã lập tức biến anh ta nên người công chính trước Thiên Chúa, bất chấp quá khứ tội lỗi của mình. Tương tự như vậy, tên trộm bị đóng đinh bên phải Chúa, tôi nghĩ chưa chắc anh ta đã phạm ít tội hơn tên trộm bên trái, nhưng chỉ vì anh ta nói được câu: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!» mà đã được Đức Giê-su hứa «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» (Lc 23,41-43). Ôi thật là kỳ diệu sự khiêm nhường tự hạ, biết nhìn nhận thực trạng hèn kém của mình! Nó có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính! Ngược lại, cũng thật quái lạ, tính kiêu ngạo, tự mãn, tự đề cao, có thể biến những điều tốt thành xấu, công chính thành bất chính!
4. Bài học về khiêm nhường tự hạ
Nếu thế thì tại sao ta lại không rút ra một bài học cho mình? cho lý tưởng nên thánh của mình? Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, của nhân đức. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ trở nên có giá trị khi đi chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (không, zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị: càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
Đức Gioan-Phaolô I (1912-1978) nói: «Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và đĩ điếm nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hỏa ngục có cả hồng y giám mục nhưng không có người khiêm nhường». Nếu đúng như vậy thì bí quyết để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu là khiêm nhường, tự hạ, và ai khiêm nhường tự hạ thì dường như không thể xuống hỏa ngục được! Còn muốn xuống hỏa ngục thì chỉ cần kiêu ngạo là đủ, và kẻ kiêu ngạo thì dường như không thể vào thiên đàng được!
Trong cuộc đời, ta thấy có nhiều người sống trong sạch như các thiên thần, hoặc làm được rất nhiều việc lành như những vị thánh, nhưng họ lại kiêu ngạo, tự hào không kém gì ma quỉ về sự tốt lành của họ. Chính vì thế, họ không phải là đối tượng của Nước Trời. Thật là uổng, tất cả những nhân đức họ tập được, những việc lành họ làm được, chỉ vì kiêu ngạo mà biến thành «công dã tràng»! Như vậy, ai tự đưa mình lên thì coi chừng kẻo bị hạ xuống tới tận hỏa ngục! Còn ai tự hạ mình xuống thì rất có thể sẽ được đưa lên tới tận thiên đàng! Đức Giê-su đã chẳng nói: «Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu» sao? (Mc 10,31; xem Mt 20,16; Lc 13,30). Vậy thì dại gì mà kiêu căng, khoe khoang, tự mãn! dại gì mà lên mặt chê bai kẻ khác! Chính khi ta chê bai kẻ khác với mục đích để mình nổi bật lên, thì hành động của ta lại trở thành đáng chê hơn kẻ bị ta chê!
Về sự khiêm nhường và kiêu ngạo, Karl Marx (?) nói: «Khiêm nhường bao nhiêu đều không đủ, Chỉ chút kiêu ngạo cũng quá nhiều!».
Vì thế, hãy khiêm nhường được chừng nào hay chừng nấy, và đừng kiêu căng hay tự mãn chút nào cả!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Thánh Kinh cho con biết Cha rất thích kẻ khiêm nhường, và rất ghét kẻ kiêu căng. Đức Giê-su là hình ảnh trung thực nhất của Cha đã sống một cuộc đời hết sức khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, đến nỗi Ngài không còn sống cho bản thân mình mà hoàn toàn sống cho Cha và tha nhân. Xin cho con biết sống như Đức Giê-su: quên mình, tự hạ, để có thể sống yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và kinh sợ. Ngạc nhiên vì kết luận rất bất ngờ của Đức Giêsu so với cách suy nghĩ đánh giá của chúng ta. Kinh sợ vì thấy chính mình nhiều khi cũng hành xử y hệt người Pharisêu ấy. Người Pharisêu trong đoạn Tin Mừng tự hào về những việc mình làm, điều đó không phải là không có lý do chính đáng. Chắc hẳn ông ta đã thật sự làm được những điều mà ông ta kể ra với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng viết, «Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng…». Từ «nguyện thầm» cho ta thấy những việc tốt lành đạo đức ông kể ra là chỉ để cho Chúa nghe, chứ không phải để khoe khoang với mọi người. Cho nên những việc ấy là có thật. Chẳng những ông tuân giữ luật Môsê cũng là luật Chúa một cách nhiệm nhặt, mà còn làm tốt hơn những gì luật ấy buộc nữa. Chẳng hạn luật Môsê chỉ buộc kiêng ăn mỗi năm một lần vào ngày lễ tạ tội, tức ngày 10 tháng 7 của lịch Do Thái (x. Lv 16,29), thế mà ông đã ăn chay mỗi tuần hai lần. Nghĩa là nhiều hơn gấp 104 (=52 x 2) lần luật buộc! Chính những việc làm xem ra tốt lành ấy đã khiến ông tự hào mình đạo đức, khiến ông rơi vào tình trạng mà sách Cách Ngôn nói: «Có hạng người cứ cho mình là trong sạch, dù chưa được gột rửa khỏi vết nhơ» (Cn 30,12).
Nhưng rõ ràng theo quan điểm Đức Giêsu thì ông không phải là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Điều đó hẳn phải làm ta ngạc nhiên. Nhưng ta còn ngạc nhiên hơn nữa khi Đức Giêsu lại coi người thu thuế tội lỗi kia – là người công chính sau khi ông cầu nguyện cách khiêm cung như thế. Mặc dù người thu thuế chắc chắn đã phạm nhiều tội hơn người Pharisêu kia. Quả thật, cách suy nghĩ, đánh giá của Đức Giêsu ngược hẳn với cách thường tình của chúng ta, kể cả những Kitô hữu "cao cấp". Nhưng là người Kitô hữu, chúng ta phải học cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu, chứ không phải tiếp tục cố chấp với cách suy nghĩ của mình.
Thiên Chúa cũng sẽ xét xử chúng ta dựa trên cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu chứ không theo cách của chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, sẽ có một sự đảo lộn không ngờ so với những suy nghĩ hay dự đoán của con người, vì có «những điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa» (Lc 16,15). Vì thế, ngày ấy có thể xảy ra: «Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót» (Mt 20,16; Mc 10,31; Lc 13,30); «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12); «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,22-23).
2. Sự công chính theo quan điểm của Đức Giêsu
Rõ ràng Đức Giêsu không phán đoán theo kiểu con người, kể cả những Kitô hữu "cao cấp". Sự công chính không chính yếu hệ tại những việc đạo đức, những lễ nghi tôn giáo mà ta làm được, cho dù nhiều tới đâu. Lời của thánh Phaolô soi sáng cho ta phần nào: «Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,2-3). Như vậy, tất cả những việc tốt lành mà ta làm được, dù nhiều đến đâu, nếu không phát xuất từ tình yêu đích thực, thì trước mặt Thiên Chúa, vẫn chỉ là một con số không to tướng.
Những việc làm tốt đẹp ấy nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ta sẽ không bao giờ kể ra để được mọi người khen ngợi, kể cả việc kể ra với Thiên Chúa. Khi kể ra để được khen ngợi, thì việc kể ra đó chứng tỏ ta làm những việc ấy không phải do tình yêu, mà do ý muốn được khen ngợi là đạo đức, là có tình yêu, là giỏi giang, là tuyệt hảo. Và như thế thì ta «đã được phần thưởng rồi» (Mt 5,2.5), nên Thiên Chúa không còn phải thưởng cho ta nữa.
Nếu ta kể công với Thiên Chúa, thì hóa ra ta làm những việc ấy chỉ để Ngài trả công như thể ta là người làm công. Họ làm việc để được trả lương hơn là làm vì tình yêu, khác với con cái trong nhà làm vì yêu thương cha mẹ chứ không để được cha mẹ trả công. Trường hợp này, Thiên Chúa, Đấng vô cùng công bằng, luôn trả công cho ta xứng đáng bằng một phần thưởng nào đó có thể ngay ở đời này; nhưng Ngài không thể kể ta là người công chính đáng được hưởng thứ phần thưởng vốn chỉ dành cho những người có tình yêu đích thực. Cũng như ông chủ có thể trả lương sòng phẳng cho những người làm công, nhưng không bao giờ chia gia tài cho họ, mà chỉ chia gia tài cho con cái, cho dẫu con cái làm được ít việc cho ông hơn người làm công. Cũng vậy, trước con mắt Thiên Chúa, giá trị của một công việc dù nhỏ bé nhưng được làm vì tình yêu thì vẫn vô cùng lớn hơn giá trị của một công việc dù to tát nhưng lại làm vì một động lực khác.
3. Trường hợp hai người cầu nguyện trong dụ ngôn
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng trên, người Pharisêu tưởng rằng ông có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Nhưng thánh Phaolô cho biết, «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy» (Rm 3,20; Gl 2,16); «Dân Ítraen tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm» (Rm 9,31-32). Sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy.
Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Vì «Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường» (Gc 4,6; Pl 5,5). Do đó, ta đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình. Thánh Phaolô viết: «Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính» (Rm 4,5). Trước khi sa ngã, chắc chắn thiên thần Lucifer còn thánh thiện hơn ta bây giờ rất nhiều. Nhưng ‘ông’ đã trở nên xấu xa tội lỗi vì tính kiêu ngạo và niềm tự hào về sự thánh thiện của ‘ông’. Do đó, kiêu ngạo là đầu mối mọi tội lỗi, nó xấu xa và tác hại hơn bất kỳ tội ác nào.
Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật, ông đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhận chân tình trạng tội lỗi của mình. Qua sự đánh giá của Đức Giêsu, ta thấy đối với Thiên Chúa, tuy tội lỗi làm mất lòng Thiên Chúa nặng nề, nhưng tình yêu được thể hiện bằng tâm hồn khiêm nhượng lại làm đẹp lòng Ngài nhiều hơn. Thật vậy, thánh Phêrô nói: «Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8; x. Tb 12,9). Kẻ thánh thiện nhất trên đời cũng vẫn có tội, vì trước mặt Thiên Chúa, «không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10). Vấn đề không phải là mình tội lỗi nhiều hay ít, mà là mình có được Thiên Chúa tha thứ hay không: «Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!» (Rm 4,7-8). Chính tình yêu và lòng khiêm nhường thống hối khiến Chúa tha thứ tất cả và «không kể là có tội». Do đó, một người vô cùng tội lỗi nhưng một khi đã thật lòng thống hối, thì trước mặt Thiên Chúa, người ấy công chính hơn một người ít phạm tội, làm được nhiều việc phúc đức, nhưng lúc nào cũng tự hào về sự vô tội hay đạo đức của mình.
Bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta biết điều ấy. Đó là tin vui cho những người tội lỗi, vì họ chỉ cần thật lòng thống hối là được nên công chính; nhưng lại là tin buồn cho những người kiêu ngạo, thích tự hào về sự đạo đức hay thánh thiện của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, có thể nói: trước mặt Cha, tính ích kỷ và kiêu ngạo của một người che lấp tất cả mọi sự tốt đẹp của người ấy, khiến người ấy trở thành bất chính. Và tình yêu thương và lòng khiêm nhượng của một người co thể che lấp được những tội lỗi xấu xa của người ấy. Vậy, xin Cha giúp con biết sống yêu thương, khiêm nhượng và trừ tuyệt tính ích kỷ và kiêu ngạo trong con.
Cầu nguyện luôn là điều không thể thiếu nếu chúng ta muốn được tăng trưởng trong đời sống tâm linh. Chính vì thế, tiếp theo lời kêu gọi hãy kiên trì cầu nguyện trong Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong tinh thần khiêm tốn để nhờ đó, chúng ta xứng đáng đón nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
1. Cầu nguyện là đặt mình trước mặt Chúa: Bài Tin mừng kể lại câu chuyện có hai người lên Đền thờ để cầu nguyện, hay đúng hơn, luôn có hai hạng người cầu nguyện trong Đền thờ. Trước hết là “những người tự hào mình là công chính”. Những người này bước vào Đền thờ “đứng thẳng, (và) cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia”. Lời đầu tiên của ông ta là lời cảm tạ Thiên Chúa thì quả là đúng đắn, bởi vì mọi sự chúng ta có đều là do Chúa ban. Tuy nhiên, liền sau đó ông ta liền làm một bản so sánh mình với người khác. Và để có thể làm nổi bật mình lên, ông ta đã nêu lên những lầm lỗi của người khác. Thậm chí, ông ta còn chỉ đích danh một người đang cùng cầu nguyện trong Đền thờ với ông “tên thu thuế kia”. Và hình như chưa lấy thế làm đủ, ông ta bắt đầu kể ra một loạt những việc đạo đức mà ông ta đã làm: “tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi”.
Với “bản thành tích” này, với cái nhìn tự nhiên, chúng ta có thể nhận thấy: người Biệt phái này quá hoàn hảo. Chẳng những ông ta trung thành giữ những điều luật dạy, mà còn làm quá những điều luật dạy “ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng 1/10 tất cả hoa lợi”. Vâng, ông ta chẳng làm gì sai, nhưng có lẽ động lực thúc đẩy ông ta làm những việc này chưa đúng. Ông ta thực hiện không phải vì lòng mến Chúa, nhưng là để kể công. Ông ta cần một “giấy chứng nhận”, một “Bằng khen” của mọi người. Ông ta đã giữ luật thật nghiêm ngặt, tỉ mỉ không phải vì lòng mến Chúa, nhưng ông đã làm tất cả chỉ để cho người khác thấy mà ca ngợi ông.
Chính vì chỉ nhìn mình trong tương quan với chính bản thân và so sánh với người khác, nên người biệt phái này đã không nhận ra được những giới hạn của mình. Ông nghĩ mình có thể làm được tất cả. Thiên Chúa nợ ông, cần biết ơn ông, chứ ông không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người biệt phái này đến Đền thờ chỉ để kể cho Chúa biết những việc ông đã làm, và kết án người khác, chứ ông không hề cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính vì ông không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên khi ra về ông vẫn ở trong tình trạng cũ của mình, “Tội ông không được tha”. Và thậm chí, ông ta còn phạm thêm một tội nữa, đó là tội nói hành, nói xấu người khác.
Như thế, cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Corinhtô: “Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên toà nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, những không phải cứ thế là tôi đựơc giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa” (1 Cr 4, 3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
2. Mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa: Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình, nhìn ra những giới hạn và bất toàn của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại: “Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ tội lỗi, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
Thật vậy, kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu tuyên bố: “Ta bảo các ngươi: người nầy ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”. Mặc dù thân mang nhiều tội lỗi, nhưng người thu thuế đã khiêm tốn thú nhận và xin Thiên Chúa tha thứ và Người đã tha thứ cho anh. Còn người Biệt phái không được tha tội, không phải vì Thiên Chúa không muốn tha, nhưng bởi vì ông ta đã không nhận ra tội mình, để sám hối nên Thiên Chúa không thể tha cho ông được.
Chúng ta cần đến với Chúa bằng chính con người thật của mình. Cho dù chúng ta tội lỗi, và yếu đuối đến đâu đi chăng nữa, nếu chúng ta thật lòng sám hối, trở về, thì giống như người Cha nhân hậu, Thiên Chúa sẽ mở rộng vòng tay để ôm chúng ta vào lòng và tha thứ hết mọi lỗi phạm của chúng ta. Thiên Chúa luôn yêu thương và sẵn lòng đón nhận lời cầu nguyện của những tâm hồn ý thức sự nhỏ bé của mình, đó cũng chính là cảm nghiệm của tác giả sách Huấn Ca mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ người goá bụa, khi nó tỏ lời than van. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”. Còn tác giả Thánh vịnh thì khẳng định: “Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo”, và “Phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi”. Thiên Chúa ghét tội, nhưng lại hết lòng thương xót những tội nhân. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta. Chỉ cần chúng ta thành tâm thống hối đến với Ngài, Ngài sẽ mở rộng vòng tay đón nhận và ban ơn tha thứ cho chúng ta.
Mở rộng lòng mình, khiêm tốn thú nhận tội lỗi để đến với Chúa, không những chúng ta sẽ được Ngài tha thứ, nhưng chúng ta còn được Thiên Chúa ban thưởng, cho ta được chung hưởng phần gia nghiệp đời đời với Ngài, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa còn lớn lao hơn tội lỗi của chúng ta. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong những ngày cuối đời của mình đã tâm sự với Timôthê, người môn đệ yêu dấu: “Cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính sẽ dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy”.
Tóm lại, lời Chúa hôm nay dạy chúng ta hai bài học: Trước hết, trong mọi việc chúng ta hãy đặt mình trong tương quan với chính Thiên Chúa chứ không phải chỉ dựa vào xét đoán của người khác hay ý muốn của bản thân chúng ta. Chúng ta cần phục vụ cộng đoàn, tham dự phụng vụ với lòng yêu mến Thiên Chúa chứ không phải để người khác xem thấy mà ca ngợi.
Kế đến, mỗi người chúng ta cần ý thức về sự giới hạn, bất toàn của mình, và thật lòng khiêm tốn mở lòng mình ra để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Giờ đây, mỗi người chúng ta hãy thành tâm sám hối về tất cả những lỗi lầm của mình, xin Thiên Chúa tha thứ, để chúng ta xứng đáng tham dự vào hiến tế của Đức Giêsu trên bàn thờ đây. Và nhờ ơn Chúa nâng đỡ, khi trở về nhà, chúng ta cũng có một cái nhìn yêu thương và khoan dung hơn với anh chị em mình. Amen.
Chúa Nhật 29 vừa qua Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện. Sang Chúa Nhật 30 tuần này, Hội Thánh lại muốn con cái mình phải cầu nguyện trong khiêm tốn, nên ngay Bài Đọc I sách Huấn Ca đề cập đến “ Lời cầu nguyện của người khiêm nhường vọng lên các tầng mây” và như thế Thiên Chúa sẽ nhậm lời con cái nài van, như Bài Tin Mừng đưa ra dụ ngôn về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người Biệt Phái và một người thu thuế, người Biệt Phái cầu nguyện với sự kiêu hãnh, cậy dựa vào sự công chính của riêng mình mà khinh bỉ người khác. Còn người thu thuế nhận mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, xin Chúa thứ tha những lầm lỗi.
1/ Hai nhân vật đại diện cho những thái cực của Do Thái Giáo: Người Biệt Phái giữ luật một cách chi ly, tỷ mỉ, bối rối. Có công giữ đạo một cách nghiêm túc và ông gặp nhiều khó khăn vì đạo của mình. Còn người thu thuế là một gã buông thả, buông cả những thâm tín nền tảng nhất của mình, nếu ông có. Đối với ông, tiền là điều quan trọng nhất trên đời, vì ông phục vụ một cách không thương xót cho những kẻ bóc lột (La Mã), làm hại những người đồng hương của ông, vì lợi lộc của ông. Cho nên nếu mọi người khinh bỉ ông thì cũng đúng.
a/ Người Biệt Phái:
Có ba cái sai lầm trong cầu nguyện. Ông lấy “cái tôi” làm trung tâm: “Tôi không gian tham, bất lương, ngọai tình”(c.11a), nghĩa là ông không phải là một người tội lỗi, không có tật xấu. Ông cầu nguyện để phô trương sự công chính của mình, tạ ơn để đề cao một cách khéo léo sự công chính trước mặt Chúa. Như vậy cầu nguyện là một hành vi thổi căng lòng tự kiêu.
Thứ hai là so sánh với người khác để dìm họ xuống và nâng mình lên: “không như người thu thuế kia”(c11b.).Cầu nguyện như thế là một tiến trình coi khinh, hạ thấp con cái Chúa trước mặt Chúa, khinh dể người anh em mà Thiên Chúa yêu. Đó chính là tiến trình chống lại tình yêu, trong khi đó điều kiện để cầu nguyện là phải coi trọng người khác, yêu thương người khác như anh em.
Thứ ba là kể công với Chúa: “ăn chay một tuần hai lần,và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi”(c.12), sự công chính mà ông đang có là do công mình.
Lời cầu nguyện của ông hòan tòan khác xa Đức Maria, Mẹ lấy Thiên Chúa làm trung tâm: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” và nhận mình là giai cấp nghèo hèn “ nữ tỳ hèn mọn”, và chỉ nghĩ đến dân tộc Israel “ Chúa độ trì Israel là tôi tớ Chúa, như đã hứa cùng cha ông chúng tôi”.
b/ Người thu thuế: Ông đứng lẻn đàng xa, vì nhận ra mình là người tội lỗi không dám gần Chúa, không dám gần người anh em (Biệt Phái), vì sợ họ bị lây tội của mình, và ông không dám ngước mắt lên trời vì thấy Thiên Chúa thánh thiện, tốt lành qúa, còn mình tội lỗi ! Ông nhìn nhận mình hèn hạ, tội lỗi, nên đấm ngực và nguyện…Cử chỉ đấm ngực là cử chỉ không bình thường đối với một người đàn ông thuộc vào nhóm văn hóa Xêmít, vì đó là đặc điểm của đàn bà chứ không phải đàn ông. Nên cử chỉ đấm ngực của ông diễn tả lòng thống hối, đau đớn đến cực độ.
2/ Chúa Giêsu đánh giá về hai cách cầu nguyện.“Người này ra về được công chính, còn người kia thì không”(c.14). Điều này chẳng có gì lạ, vì thực ra người Biệt Phái không cầu sự tha thứ, hay nói đúng hơn ông không cần tha thứ, vì ông có tội gì đâu! Cái nghịch lý ở đây là người hãnh diện không cần đến sự công chính hóa thì khi trở về bị “ bất chính hóa”. Còn kẻ coi mình là người có tội chẳng có công gì thì lúc trở về nhà lại được công chính hóa. Vì người Biệt Phái không xin gì cả, nên họ không được gì hết: bởi làm sao Thiên Chúa còn có thể cho họ cái gì, vì họ hòan tòan thỏa mãn với cái họ có rồi. Hồng ân cứu rỗi của người thu thuế là họ không thỏa mãn về chính mình, do đó họ mở lòng ra tiếp nhận ơn ban của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu chống lại cách cầu nguyện của người Biệt Phái, ông nghĩ ông có thể tự trở nên công chính chỉ bằng cách chu tòan việc đạo đức của mình, trong khi “ chẳng phàm nhân được nhìn nhận là người công chính vì đã làm những gì luật dậy” ( Rm.3,19-20; Gal.2,16) Như vậy càng cầu nguyện càng bớt dựa vào Chúa và càng dựa vào mình hơn.
3/ Sứ điệp Tin Mừng: Ai lấy việc làm của mình mà công chính hóa mình, thì không được công chính hóa. Còn kẻ không dựa vào công chính mình mà dựa vào tình thương của Chúa, để được công chính hóa thì sẽ được công chính hóa.
Câu hỏi gợi ý:
- Cầu nguyện có làm cho tôi thấy sự nghèo nàn của tôi trước Chúa hay tự mãn ? - Cầu nguyện có làm cho tôi thông cảm với người khác hơn hay làm cho tôi tách khỏi anh em?
Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.
Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày 3 lần: 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.
Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pha-ri-siêu. Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Pu-bli-ca-nô). Nhóm Pha-ri-siêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.
Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.
Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.
Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.
Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng:
“Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”
Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo... ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.
Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.
Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14:22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.
Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.
“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.”
Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.
Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”
Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Yê-su đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.
Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”
Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.
Và Đức Yêsu đã kết luận rằng:
“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?”
Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.
Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.
Trước hết, khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.
Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15:9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12:9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1:13; Gl 1:13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phú thc vào Chúa Quang phòng, đại lưỡng vô song, khôn ngoan vô cùng.
Thứ đến, khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.
Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:
- Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói:
- Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.
Có một chuyện cổ tích thời Trung cổ. Câu chuyện này kể lại một người đã về bên kia thế giới. Cuộc đời trên thế gian của cô thì thật là tầm thường. Khi đến cửa thiên đàng, cô được cho biết là nếu muốn vào thiên đàng thì phải trở về thế gian và tìm cho được món vật gì mà giá trị nhiều nhất trước mặt Chúa. Cô đã trở về thế gian để tìm kiếm.
Một ngày nọ, cô gặp một người bị tử đạo vì danh Chúa Kitô. Cô nghĩ: “Máu tử đạo chắc là món quà mà Thiên Chúa đánh giá cao trọng nhất.” Thế rồi, cô liền lấy một giọt máu tử đạo và đem về thiên đàng. Khi dâng lên, cô được biết là món vật đó chưa phải là cao trọng nhất. Cô lại trở về thế gian và tìm kiếm.
Rồi một ngày nọ, cô gặp một nhà truyền giáo đang rao giảng Lời Chúa giữa những người nghèo khổ. Cô nghĩ rằng, “Đây rồi, ta tìm được món vật quí nhất rồi, đó là giọt mồ hôi của người rao giảng Tin Mừng.” Khi đem về thiên đàng, cô lại được cho biết là món vật ấy chưa phải là quí nhất trước mặt Chúa. Cứ như vậy nhiều lần, cô đã tìm đủ mọi vật để đem về thiên đàng, nhưng vẫn không được gọi là vật quí giá nhất trước mặt Chúa.
Bất chợt, cô thấy một người đàn ông cưỡi ngựa đến cạnh hồ nước của thành phố. Ông xuống ngựa và định tâm uống nước. Khi người đàn ông nhìn thấy đứa bé đang chơi gần đấy, ông chợt nhớ lại tuổi thơ ấu của ông. Khi ông cúi xuống nước thì bỗng ông nhìn thấy dung nhan phản chiếu của ông trên mặt nước. Đó là một khuôn mắt xấu xí và dày dạn. Nhìn chòng chọc vào khuôn mặt của mình, ông nhận ra rằng ông đã uổng phí cuộc đời mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Bất chợt, những giọt lệ bắt đầu lăn xuống trên má ông. Cô đã vội hứng lấh một giọt nước mắt thống hối đó và đem về thiên đàng. Khi cô dâng hạt nước mắt ấy lên thì cả thiên đàng vui mừng hớn hở. Thì ra món quà mà Thiên Chúa đánh giá trị cao nhất là giọt nước mắt thống hối của tội nhân.
Câu chuyện cổ tích trên rất phù hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Bài Phúc âm cho chúng ta biết lời cầu nguyện được Chúa coi là cao trọng nhất, là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi thống hối. Chúa Giêsu đã phán: “Cả thiên đàng sẽ vui mừng khi một tội nhân trở lại còn hơn là chín mươi chín người công chính không cần trở lại.” (Lc 15:7)
Lòng thống hối thường được hiểu là ăn năn vì đã trót phạm tội. Thật ra lòng thống hối còn phải hiểu rộng rãi hơn nữa. Đó là chúng ta dốc lòng muốn cải sửa những gì đã làm sai.
Cách đây nhiều năm, nhóm “Broadway” đã trình diễn một vở kịch nói về một người con trai mới lớn đã bỏ học, bỏ gia đình và trở thành con mồi ngon cho ma túy. Những thứ đó đã đưa câu đến chán chường. Cậu đã nhìn trời và thầm thĩ rằng: “Tôi ước ao cuộc đời nầy như là một cuốn vở để tôi có thể xé bỏ đi những trang nào mà tôi đã lầm lỗi.”
Tạ ơn Chúa Giêsu, chúng ta có thể xé đi bất cứ phần nào mà chúng ta đã làm sai và liệng đi. Chúa Giêsu nhân từ đã lập nên Bí tích Xá giải. Qua Bí tích này, chúng ta có thể bỏ đi những gì là xấu xa và làm lại từ đầu.
Đó là sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Tin vui đó là chúng ta biết được món quà cao quí nhất trước mặt Chúa là những giọt lệ thống hối.
Luca thuật lại việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế, để dạy chúng ta là những người tin theo Chúa, chúng ta cần phải có thái độ và tâm tình nào khi cầu nguyện.
Có phải từ chỗ tự cao, tự mãn của tính kiêu ngạo như của người biệt phái khi ông ra trước mặt Chúa, không nói một lời cầu xin, trái lại ông còn coi Chúa như người mắc nợ để nghe ông say sưa kể công về những thành tích đạo đức của ý riêng; mà ông đã làm trong quá khứ, hoặc tuân giữ một vài điều luật để khỏi lỗi luật bên ngoài, rồi đem mình ra so sánh với những người khác và tự cho mình là công chính mà khinh bỉ kẻ khác? Hoặc từ chỗ thẳm sâu (Tv 130:1) của một tâm hồn tan nát khiêm cung (Tv 50:19) của người thu thuế: ông không dám đến gần Chúa, không dám ngước mắt lên trời, mà chỉ đấm ngực mình để bày tỏ lòng ăn năn thống hối mà nâng lòng mình lên chúng Thiên Chúa ở trên trời cùng với lời cầu nguyện chân thành vắn tắt như một kẻ ăn xin, khẩn nài lòng thương xót Chúa tha thứ cho mình là kẻ tội lỗi?
Chính sự kiêu hãnh, tự tán dương và nhìn về mình một cách tự mãn qua việc bày tỏ vẻ công chính trước mặt người đời của người biệt phái khi cầu nguyện, để rồi khinh thị kẻ khác mà không cần đến lòng thương xót của Chúa...một cách nào đó ông đã phỉnh gạt chính mình và ăn cướp vinh quang của Thiên Chúa (Mk 2:9) vì ông có gì mà lại đã không chịu lấy từ nơi Thiên Chúa? Mà nếu đã chịu lấy, sao lại vinh vang không chịu lấy? (1Cr 4:7). Chính lòng kiêu ngạo này đã khiến cho Thiên Chúa nhờn tởm (Lc 16:15) bởi Ngài biết rõ lòng con người suy tính (Gr 17:9-10) và người ta ai cũng ghét (Hc 10:7). Do đó Chúa chống lại người kiêu ngạo (Gc 4:6) và khiến ông không được công chính hóa.
Còn người thu thuế với lòng khiêm nhượng thống hối nhìn nhận những yếu đuối của mình, không xấu hổ khi nghe người khác tố cáo tội trạng mình (Hc 4:26; Tv32:5) để rồi tín thc cho tình thương nhân hậu của Chúa và kết quả ông đã đạt được sự tha thứ của Thiên Chúa (Cn 28:13), khiến ông được công chính hóa và ra về được khỏi tội. Bởi thú tội ra thì còn đâu trách móc nữa (Hc 20:3). Thật vậy, lòng khiêm nhường quả là nền tảng của việc cầu nguyện và còn là tâm trạng để nhận được hồng ân của việc cầu nguyện (Gc 4:6).
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy những người Kitô hữu chúng ta không những phải sống trung thành trong việc tuân giữ lề luật tôn giáo, mà còn phải ý thức về sự yếu đuối khốn cùng của mình và biết phó thác tin cậy vào lòng nhân hậu của Chúa nữa. Ngoài ra, chúng ta không nên có thái độ tự kiêu lầm tưởng như người biệt phái nghĩ; bởi vì sự công chính của chúng ta không nguyên chỉ cần liên hệ với Thiên Chúa mà thôi, nhưng sự công chính của chúng ta còn có liên đới với những người xung quanh nữa. Do đó chúng ta cần phải có tinh thần trách nhiêm xây dựng, tiếp nhận nâng đỡ nhau trong cuộc sống (Rm 14:1; 15:7; Cl 3:13) không nên tỏ thái độ khước từ và khinh bỉ những người hèn kém xấu số sống chung quanh mình, vì Thánh Phaolô nói: “Chúng ta phải vác gánh nặng của nhau, và như thế chúng ta sẽ làm trọn luật của Đức Kitô. Vì nếu ai tưởng mình là gì, mà kỳ thực là không, thì chỉ lừa gạt chính mình đó thôi. Vậy ai nấy hãy hạch sách lấy mình, và bấy giờ sẽ có lý mà vinh vang, mình đọ với mình, chứ không đọ với ai khác; vì mỗi người phải mang gánh nặng riêng mình” (Gl 6:3-5)
Dụ ngôn "Người Biệt Phái và Người Thu Thuế" Chúa Giêsu đưa ra cho thấy sự tương phản giữa 2 thái độ của con người đứng trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.
Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đạo đức bác ái hơn hẳn người ta. Riêng anh thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát khinh chê, vì là hạng "cõng rắn cắn gà nhà," tước đoạt tài sản "nhân dân," làm lợi cho ngoại bang. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào đền thờ và cùng làm một công việc: cầu nguyện. Nhưng tại đây sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét, khi tâm tình và thái độ sâu kín được bộc bạch trước Nhan Giavê.
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng và cầu nguyện: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không giống các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi." Khách quan thì người này không bịa chuyện. Ông chỉ nói điều ông làm. Và những gì ông làm thì không chê trách vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi. Thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy. Thường thì người ta chỉ phải ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông thi hành chuyện đó mỗi tuần hai lần. Luật buộc các nông dân phải nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân trên tất cả mọi thứ hàng hoá mua về.
Hành động của ông thật đáng tuyên dương nhưng thái độ của ông đã làm mất toi công phúc. Tạ ơn Chúa là điều cần thiết, nhưng kể lể công đức như ngầm bảo Chúa đang mắc nợ với tôi là điều chẳng đúng tí nào. Tệ hại hơn là khi ông dùng công nghiệp hay lòng đạo của mình để đè bẹp tâm hồn kẻ khác.
Đáng lẽ cầu nguyện là để gia tăng sự gắn bó giữa mình với Giavê, thì đây, người biệt phái lại làm lung lay nhịp cầu tiến đến với Ngài.
Không những đã không làm chắc thêm nhịp cầu đến với Thiên Chúa, người biệt phái còn làm tan tành nhịp cầu đến với tha nhân. Anh hăng hái lên án phường tham lam, bất chính, ngoại tình, thu thuế. Anh nhất quyết không thoả hiệp với tội lỗi, điều này rất đáng khâm phục. Nhưng anh thiếu cảm thương những người có tội và điều này đã làm cho anh khác xa Thiên Chúa.
Vì không làm vững nhịp cầu đến với Chúa và tha nhân mà lời cầu nguyện của người biệt phái đã rơi vào giòng sông hư không. Anh ra về chẳng nên công chính, cũng chẳng được sạch tội.
Trong khi đó, người thu thuế đi cầu nguyện nhưng lại "không dám ngước mặt lên trời," anh "đứng xa xa," đâu đó phía cuối đền thờ, lại còn "đấm ngực" và nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội." Anh nhìn rõ chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Trước tấm gương của tình thương, anh thấy mình là kẻ tội lỗi. Có lẽ anh đã bao lần cố gắng vươn lên nhưng vẫn cứ bị ngã xuống đau thương. Thế nên lời cầu nguyện của anh chất chứa tâm tình thống hối, khiêm nhu, khẩn thiết, cậy trông, chân thành: "Lạy Chúa, xin thương tôi…." Không dám ngước mắt lên trời nhưng lại thấy được tình Chúa bao la vẫn còn hơn đứng thẳng ngước cao mà chẳng khám phá sự yêu thương đâu cả.
Nhìn vào tha nhân để tự mãn là thất sách. Nhưng nhìn vào Chúa để khẩn nài và bước theo là lối đường tôi được mời gọi đi tới. Bao người thu thuế đã nhìn vào Đức Kitô, gặp gỡ được tình thương, sau đó "ra về và được nên công chính," như Mathêu và Giakêu. Họ đã làm chắc nhịp cầu với Thiên Chúa khi bước theo Đức Kitô và nối kết nhịp cầu với tha nhân khi "xin bố thí cho kẻ khó nửa phần của cải, và đền bù gấp bốn cho kẻ bị thiệt oan" (Lc 19:8).
Cầu nguyện để tiến sâu hơn vào tình thương và mối hiệp thông với Thiên Chúa và con người chính là bài học mà Đức Kitô muốn trao ban cho nhân loại hôm nay.
Có sáu người vào nhà thờ cầu nguyện. Người thứ nhất cầu nguyện: "Cảm tạ Chúa cho con có được TN 30-C20:
Có sáu người vào nhà thờ cầu nguyện.
Người thứ nhất cầu nguyện: "Cảm tạ Chúa cho con có được việc làm tốt. Chúa biết đó, con đã phải cố gắng nhiều để có được việc này và giữ nó. Cám ơn Chúa vì con chưa bao giờ phải đi ăn xin. Mỗi xu con có, con kiếm được bằng mồ hôi nước mắt. Con không phải như những kẻ khác thất nghiệp ăn bám vào xã hội ; phải bắt bọn thất nghiệp đi làm."
Người thứ hai cầu nguyện: "Cảm tạ Chúa, các con của con đều rất ngoan. Con không dám nói chúng là thiên thần, nhưng Chúa thấy không: chúng đâu có đi đập phá các trạm điện thoại công cộng, hay đi gieo khủng hoảng cho các người già cả. Chúa cũng không thấy chúng ăn tục nói bẩn, chẳng như những đứa mất dạy hàng xóm, không ai dạy bảo ; bọn trẻ hàng xóm sẽ là những kẻ gây tội ác tương lai."
Người thứ ba cầu nguyện: "Cảm tạ Chúa cho cuộc hôn nhân của con được suông sẻ. Jim và con có những trăn trở, nhưng chúng con vẫn gắn bó với nhau. Không như những kẻ khác, hôn nhân của họ đủ mọi nguy cơ tan vỡ. Chỉ cần thấy có dấu hiệu của vấn nạn là họ liền chia tay. Họ không sẵn sàng cùng nhau bàn bạc giải quyết những vấn nạn giữa họ. Để rồi xã hội phải gánh chịu những hậu quả do thái độ nhỏ nhen ích kỷ của họ, khi những đứa con của những gia đình tan vỡ này sống trong phóng túng."
Người thứ tư cầu nguyện: "Cảm tạ Chúa, con có thể chỉ uống một ly rồi ngưng. Con chẳng giống như những kẻ không tự kiềm chế mình. Họ sống trong quán rượu bia, như ông hàng xóm của con đó, mỗi tối về đến say mướt. Những kẻ như thế phải bị nhốt lại."
Người thứ năm cầu nguyện: "Cảm tạ Chúa, con vẫn còn giữ đạo, không như những kẻ hàng xóm của con. Có thể con hơi bảo thủ. Con không chịu lễ bằng tay. Con không xứng đáng để rờ vào Mình Thánh. Khi con thấy bà này, bà nọ đưa tay ra chịu lễ, con cảm thấy như muốn nôn. Cứ nhìn theo thái độ thánh thiện của bà ta, làm như chính bà là Đức Trinh Nữ Maria không bằng!"
Người thứ sáu: ông không vào trong nhà thờ, nhưng khi đi ngang qua nhà thờ ông cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, cảm tạ Chúa, con không như cái đám người kia, vào trong nhà thờ mỗi chủ nhật để thờ phượng Chúa. Họ chẳng là gì, có chăng chỉ là một lũ giả hình. Ở trong nhà thờ, họ bắt tay nhau để làm dấu hiệu chúc bình an cho nhau. Nhưng con biết thật sự là một số trong bọn họ chẳng thèm nói chuyện với nhau khi bước ra khỏi nhà thờ. Phần con, ít ra con cũng là người chân thật. Con biết con không phải là thánh, nhưng con cũng chẳng giả bộ là thánh."
Người Pharisiêu trong câu chuyện Đức Giêsu kể không phải là một kẻ đểu giả lường gạt. Thật ra ông ta là một người thành thật, trung thành, chăm lo gia đình, và giữ luật tỉ mỉ. Ông ta đã làm hơn những gì luật buộc ông ta. Luật chỉ bắt ăn chay một lần mỗi năm, vào ngày lễ Đền Tội, nhưng ông ăn chay mỗi tuần hai lần ! Luật chỉ đòi hỏi thuế thập phân trên nguồn thu nhập cố định, nhưng ông đã nộp thuế trên mọi thứ thu nhập.
Vậy, ông ta đã sai sót ở chỗ nào ? Trước tiên là thái độ của ông ta đối với Thiên Chúa. Ông ta cho rằng mình đã tích luỹ được nhiều công phúc. Vì thế, ông cho rằng Thiên Chúa mắc nợ mình. Thứ đến là thái độ của ông đối với những người khác. Ông khinh chê họ. Ông là một người kiêu hãnh, không có một chút dấu hiệu khiêm nhường nào. Mà lòng khiêm nhường lại là mảnh đất màu mỡ cho sự sung mãn của mọi đức hạnh khác. Nơi ông, chúng ta thấy thái độ tự tin đầy ngạo mạn, tự mãn, và khinh rẻ người mắc tội.
"Không có mùi hôi thối nào tệ như cái mùi bay lên từ cái tốt lành nay đã bị nhơ uế" (Triết gia Henry David Thoreau).
Nơi ông ta, cái tôi đầy tràn. Ông không ca tụng Thiên Chúa, nhưng lại ca ngợi chính bản thân ông. Ông ta đã nhắc tới cái "tôi" ít là sáu lần trong lời cầu nguyện ngắn ngủi. Không còn chỗ cho Thiên Chúa nơi một người đầy cái tôi. "Sau khi cầu nguyện, nếu ai trở nên hãnh diện hoặc tự mãn, thì người đó đã không cầu nguyện cùng Thiên Chúa mà cầu nguyện với chính mình" (Rabbi Baal Shem Tov).
Lời cầu nguyện của người thu thuế là một khuôn mẫu. Ông thân thưa thật đơn sơ: "Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi." Đây là một lời cầu nguyện có sức lay chuyển nhất trong các lời cầu nguyện, và Chúa không thể không nghe. Khi cầu nguyện như vậy, người thu thuế đã đơn sơ nói lên sự thật. Khi chúng ta có thể thốt lên được "tôi là một kẻ tội lỗi" với lòng xác tín và khiêm nhường thì chúng ta đang rất gần Thiên Chúa. "Tôi đủ kinh nghiệm để ý thức rằng tôi không tốt lành hơn những người khác" (Carlo Carretto).
Người Pharisêu hoàn toàn không nhận thức ra tình trạng tội lỗi của mình. Ông ta nghĩ rằng mình chẳng có tội gì cả. Ông không phải là tội nhân như phần còn lại của nhân loại. Không, ông ta khác. Như thế, thay vì xét chính lương tâm mình và xưng những tội của chính mình, ông ta lại xét lương tâm những người khác và xưng ra những tội của họ: tham lam, bất công, dâm dục, và v.v …
Nhưng ông ta có nhiều tội. Thật vậy, ông có nhiều tội nghiêm trọng. Tội căn bản của ông là kiêu ngạo. Ông tự phụ và tự cho mình là đúng, rồi ông khinh miệt những kẻ khác. Tội lỗi của ông không phải ở hành vi xấu mà ở nơi thái độ không tốt. Thái độ của ông ta có vấn đề, như kiểu nói của người Mỹ.
Người thu thuế cũng có thể xưng ra những tội của người Biệt phái. Nhưng ông ta không làm như thế. Ông chú tâm vào chính mình, và để những tội lỗi của người khác dành cho sự xét xử giữa Thiên Chúa và họ. Với thái độ thành thật triệt để, ông đã lột trần tâm tư mình trước Thiên Chúa. Ông đã không giấu giiếm một điều gì cả. Quỳ trước Thiên Chúa và với tất cả lòng khiêm nhường, ông thân thưa: "Xin Chúa thương xót con vì con là kẻ có tội." Kết quả là khi ông ra về, ông được giao hoà với Thiên Chúa. "Lời cầu của kẻ nghèo hèn xuyên thấu ngàn mây thẳm" (bài đọc 1).
Chúng ta có thể học hỏi từ hai người này. Trước hết, từ người Pharisêu. Thật ra có một chút gì pharisêu tiềm ẩn trong mỗi người chúng ta. Như người Pharisêu, chúng ta nhận thấy rất rõ về tội của kẻ khác nhưng lại đui mù về tội của chính chúng ta. Kể tội kẻ khác rất dễ trở thành một thói quen. Điều này thật nguy hiểm vì nó ngăn cản chúng ta xét đến tội của chính mình. Hơn nữa, chúng ta không thể xét đoán tội kẻ khác mà bản thân mình lại không bị xét đoán.
Chúng ta cũng học hỏi từ người thu thuế. Ông ta cho chúng ta thấy cách thức để xưng tội mình. Ngay cả khi không thể nhận ra rõ ràng những tội cụ thể của mình, thì mỗi người chúng ta trong sự thật vẫn phải ý thức rằng "tôi là kẻ có tội".
Nhiều người tìm đến bí tích Hoà Giải với một danh sách liệt kê tội. Hầu hết các tội trong danh sách liệt kê đó là những tội mọn và ít thay đổi từ lần xưng tội này đến lần xưng tội kế tiếp. Chẳng có một cố gắng nào để đi sâu đến gốc rễ của sự tương quan giữa mình với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta chú ý quá nhiều về "cái tội" mà lại không chú ý đủ đến thực trạng của chúng ta "là kẻ tội lỗi".
Liệt kê một danh sách tội của bản thân mình là một việc dễ dàng đối với người thu thuế. Nhưng ông đã không làm như vậy. Ông làm một việc hay hơn nhiều, và khó hơn nhiều. Ông đã nói: "Tôi là một kẻ đầy tội lỗi."
Chúng ta cũng vậy, phải sẵn sàng đặt mình trước Thiên Chúa trong tâm tình mình là những kẻ tội lỗi. Chúng ta cần lòng thương xót của Thiên Chúa như mặt đất cần mưa. Điều mà chúng ta cần phải đối diện không phải là sự kiện chúng ta đã phạm tội, mà là chúng ta là tội nhân. Chúng ta đầy dẫy tội lỗi, chúng ta là những người sa ngã, đó là thực tế. Tội không phải là một hành động hay một chuỗi những hành động, nhưng là tình trạng mà chúng ta đang sống. Đây là sự thật quý nhất mà người thu thuế đã nắm bắt được.
Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự thất bại của loài người trong việc hiểu biết chính mình, không nhận ra được cái ác và những mối tương quan với nó diễn ra trong chính bản thân mình. Những người trong các nhóm "hỗ trợ - nâng đỡ" nói rằng điểm quay trở lại của họ là khi họ có thể nêu đích danh điểm yếu đuối của mình.
Người Pharisiêu đầy cái tôi ; cái tôi của ông là trung tâm của thế giới của ông. Ông ta đã tự nâng mình cao lên. Nơi vị trí được nâng cao, ông ta coi những người khác là thấp hèn ; và khinh dể một số trong những người này. Trái lại, người thu thuế tự hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Ông đặt niềm hy vọng của mình vào lòng thương xót của Chúa. Chúng ta có thể khá hơn nếu cũng làm như vậy. Thiên Chúa yêu thích những người với tâm hồn tan nát và ăn năn, biết nhận lỗi mình, hơn là những người cao ngạo tự mãn, tự xưng là mình không bao giờ phạm tội.
"Một tội nhân nhận biết mình là tội nhân vẫn hơn là một vị thánh biết mình là thánh" (Yiddish).
Lời cầu nguyện của người Pharisêu như thế này: "Con cảm tạ Chúa, rằng con không vơ vét, bất công, lăng loàn như phần còn lại của nhân loại, và đặc biệt là con không như tên thu thuế đây. Mỗi tuần con ăn chay hai lần ; và con nộp thuế thập phân trên tất cả mọi thu nhập."
Lời cầu nguyện của người thu thuế cũng có thể như thế này: "Lạy Chúa, hãy nhìn người Pharisêu kia, đang đứng để mọi người có thể nhìn thấy ông ta cầu nguyện. Ông ta nghĩ rằng mình tốt lành hơn mọi người khác. Ông ta khinh dể những người như con. Chúa nhìn chiếc áo thụng mà ông ta đang mặc, chiếc áo ấy như thể để cho ông ta cảm thấy thánh thiện và thu hút sự chú ý của mọi người đến chính ông."
"Mọi việc ông ta làm, không phải là để đem danh dự đến cho Chúa, nhưng là để kiếm được sự trọng vọng của những người khác, và như thế mang danh dự về cho chính ông. Ông ta sắp đặt để chắc chắn có được chỗ danh dự nơi bàn tiệc và trong hội đường. Ông ta yêu thích khi được người ta chào ở giữa công chúng và gọi ông ta là 'rabbi'."
"Ông nổi nóng và tỏ ra phiền hà về những luật lệ nhỏ nhoi mà ông ta tạo ra trong khi phớt lờ những điều quan trọng như thực hành công lý và thương xót. Ông rất giỏi khi ra luật cho những kẻ khác. Đúng ra ông ta phải thực hành những gì ông đã giảng dạy. Ông sống trên những đóng góp của các bà goá."
"Ôi, lạy Chúa, Chúa đừng để ông ta lừa. Tất cả những điều đó đều là diễn tuồng, là một màn kịch. Ông không thành thật. Bề ngoài trông ông sạch sẽ như một ngôi mộ được rửa trắng toát, nhưng bên trong, ông ta đầy sự thối rữa. Ông là một kẻ giả hình đúng mức."
Người thu thuế có thể nói như trên, và có thể hơn thế nữa. Và Chúa cũng có thể thêm vào: "Ta đồng ý với những lời mà ngươi vừa nói", vì chính Chúa đã nói những điều đó về những người Pharisêu. Nhưng người thu thuế đã không nói như thế, thay vào đó, ông ta nói cách đơn sơ: "Lạy Chúa, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi."
Điều mà người Pharisêu đã làm là xưng thú tội của những người khác, cùng lúc đó lại phô trương những việc tốt của mình. Người thu thuế đã hành động trái ngược lại. Ông xưng thú những tội mình, còn những tội của những người khác, ông để cho sự phân xử giữa Thiên Chúa và họ. Kết cuộc là người thu thuế ra về với sự hài lòng của Thiên Chúa, trong khi người Pharisêu không được như vậy. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết điều này.
Kể tội kẻ khác dễ dàng trở thành một thói quen. Điều này thật nguy hiểm vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào tội của chính mình. Ngoài ra, chúng ta không thể xét đoán tội kẻ khác mà không bị xét đoán.
Những người thành công luôn luôn muốn gán cho sự thành công của mình như là một hình thức ban ơn hay ân thưởng của Thiên Chúa cho người công chính. Tư tưởng không đúng, không thực, và thiếu bác ái này dẫn đến những võ đoán không tốt về những người không thành công.
Chúng ta đã được dạy phải ăn mặc chỉnh tề, cả bên trong lẫn bề ngoài, trước khi bước vào trong "nhà của Chúa". Nhưng thực chất của chúng ta thế nào thì phải đến trước Thiên Chúa y như vậy. Bởi vì, như thánh Phanxicô Assisi đã nói: "Tôi là tôi trước mặt Thiên Chúa, không khác, không hơn, không kém."
LỜI NGUYỆN GIAO DÂN
Chủ tế: Với tâm tình khiêm tốn và tin tưởng, chúng ta nài xin Chúa thương đến những nhu cầu thiết yếu của bản thân, của Giáo Hội và của thế giới.
Xướng: Xin cho Giáo Hội trở thành nơi mà các tội nhân có được kinh nghiệm chữa lành bởi lòng thương xót của Thiên Chúa.
Xướng: Cầu nguyện cho các nhà cầm quyền để họ có được thái độ khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm của mình, và can đảm sửa chữa.
Xướng: Xin cho chúng con đừng bao giờ coi thường người khác hay coi nhẹ giá trị của họ.
Xướng: Xin cho chúng con cố gắng đến với Chúa bằng tất cả sự chân thật của chúng con, với những nhân đức hay tội lỗi, với những thất bại hay thành công.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con biết sống khiêm tốn, không che giấu khuyết điểm, khôn ngoan rút ra được những bài học từ những lần lầm lỗi, và đương đầu với những khó khăn của cuộc sống, để chúng con nhận biết rằng ân sủng Chúa luôn đủ cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Trong những tuần gần đây, kể cả tuần này, trừ tuần 28, Giáo Hội chọn những bài Phúc Âm theo Thánh Luca cho chu kỳ Phụng Niên Năm C liên quan đến các dụ ngôn. Tuần 24 về dụ ngôn tìm thấy chiên lạc và đồng tiền bị mất, tuần 25 dụ ngôn về người quản gia bị truất phế, tuần 26 về dụ ngôn số phận trầm luân của người phú hộ không biết thương người, tuần 27 về dụ ngôn tâm tình vô dụng của người đầy tớ sau khi phục vụ, tuần 29 về dụ ngôn bà góa được quan tòa giải oan cho, và tuần 30 hôm nay về dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện. Nếu so sánh với đa số dụ ngôn của Chúa Giêsu, được Phúc Âm Thánh Mathêu là Phúc Âm nhắm đến đối tượng dân Do Thái, thì dụ ngôn trong Phúc Âm Thánh Mathêu thiên về Nước Trời, tức liên quan đến mạc khải thần linh, hay đến “những gì trên cao” (Jn 3:12), còn dụ ngôn trong Phúc Am Thánh Luca là Phúc Âm nhắm đến Dân Ngoại, lại thiên về “những gì trần thế” (Jn 3:12), tức về nhân bản, về con người, đúng hơn, về đức tin cứu rỗi con người cần có. Nói đến đức tin ở đây là nói đến mối liên hệ giữa con người “thuộc hạ giới” (Jn 8:23) và “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) “thuộc thượng giới” (Jn 8:23), và mối liên hệ này bao giờ cũng được thể hiện chẳng những bằng việc Thiên Chúa tìm cách tỏ mình ra (hay mạc khải) cho con người, mà còn bằng việc con người giao tiếp với (hay tin tưởng) Thiên Chúa, qua đời sống nguyện cầu của mình nữa. Thế nhưng, con người sẽ không thể nào nguyện cầu, tức không thể nào biết cầu nguyện, hay không thể nào trở thành một con người “tôn thờ chân chính”, một kẻ “tôn thờ như Thiên Chúa muốn” (Jn 4:23), nếu họ không thực sự nhận biết Thiên Chúa. Nghĩa là con người phải thực sự tin tưởng Thiên Chúa rồi mới có thể nguyện cầu, nguyện cầu một cách chân chính, nguyện cầu một cách thực lòng, bằng không, việc nguyện cầu của họ chỉ là bâng quơ bôi bác, và lời nguyện cầu của họ chỉ là môi mép bề ngoài (xem Mt 15:8-9; Is 29:13).
Bài Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật XXX Mùa Thường Niên Năm C hôm nay cho chúng ta thấy nhận định này hoàn toàn chính xác. Nếu người Pharisiêu thực sự nhận biết Thiên Chúa, chắc chắn ông ta sẽ không có cử chỉ cầu nguyện một cách nghêng ngang, cũng như sẽ không có những lời cầu nguyện tỏ ra khoe khoang phách lối như thế. Con người tiêu biểu cho niềm tự phụ mình là người công chính của chung phái Pharisiêu trong dân Do Thái đây không cầu nguyện một cách nghêng ngang là gì, như Chúa Giêsu diễn tả trong bài Phúc Âm hôm nay như thế này: “Người Pharisiêu ngẩng mặt lên mà nguyện cầu”. Thật ra, cử chỉ “ngẩng mặt lên mà nguyện cầu” như thế tự nó hoàn toàn không có gì đáng trách, vì đó là cử chỉ con người tỏ ra muốn chiêm ngưỡng, muốn đối diện với Đấng mình tìm kiếm mà thôi. Bằng không, việc Kitô hữu Công Giáo chúng ta, theo nghi thức Phụng Vụ Thánh Lễ, trước khi cúi đầu thờ lậy, cần phải ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Mình Thánh và Máu Thánh Chúa, khi chủ tế dâng lên sau lời truyền phép, là một cử chỉ vô lễ, phạm thượng. Tuy nhiên, lý do tại sao cử chỉ “ngẩng mặt lên mà nguyện cầu” của người Pharisiêu là một cử chỉ cầu nguyện một cách nghênh ngang, là vì, cử chỉ này bộc phát cho thấy tâm tình chẳng những khoe khoang mà còn phách lối của ông ta nữa, những tâm tình không thể giấu diếm qua ngay những lời cầu nguyện mở đầu của ông ta: “Ôi Thiên Chúa, tôi tạ ơn Chúa vì tôi không phải như những người khác, giành giật, điêu ngoa, ngoại tình, hay thậm chí như tên thu thuế kia. Một tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân về tất cả những gì tôi có”.
Nếu việc cầu nguyện của người Pharisiêu tự phụ mình là công chính cho thấy ông ta không thực sự nhận biết Thiên Chúa thế nào, thì cả cử chỉ lẫn ngôn từ của người thu thuế tỏ ra khi cầu nguyện, cùng lúc với người Pharisiêu bấy giờ, cho thấy anh ta hết lòng nhận biết Thiên Chúa, tin tưởng Thiên Chúa. Không phải hay sao, nếu người Pharisiêu “ngẩng đầu lên mà cầu nguyện” thì người thu thuế, như Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Người là, “ở đàng xa, không dám ngước mắt lên trời”. Cũng thế, ở đây, nguyên cử chỉ “không dám ngước mắt lên trời” chưa chắc đã nói lên tâm tình khiêm tốn tự hạ. Như trường hợp của viên quan chức mắc nợ vua của mình một số tiền kếch sù không thể trả, như Chúa Giêsu đề cập đến trong một dụ ngôn khác ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 18 câu 26: “Bấy giờ viên quan chức này phục xuống mà nói: ‘Xin chủ hãy nhẫn nại với tôi, tôi sẽ trả lại đầy đủ cho ông mà’”. Thế nhưng, cử chỉ “phục xuống” này, qua những gì hắn làm sau đó, chứng tỏ chỉ là một cử chỉ sợ sệt về những thiệt hại liên quan đến hắn mà thôi, hơn là một cử chỉ thật sự nhận biết và kính sợ. Đó là lý do, như Chúa Giêsu tiếp tục cho biết về thái độ của viên quan chức bất chính này là: “Khi hắn gặp đồng bạn cùng phục vụ với hắn nợ hắn chỉ có một phần nhỏ so với số nợ của hắn, hắn liền túm lấy người ấy, bóp cổ họ mà truyền: ‘Ngươi phải trả cho tao những gì ngươi mắc nợ tao’”. Cử chỉ “phục xuống” của người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay thật là một cử chỉ anh ta cho thấy “tấm lòng tan nát khiêm cung” (đáp ca) của anh ta, khi anh ta thưa cùng Đấng Tối Cao: “Ôi Thiên Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Chính Chúa Giêsu đã công nhận việc cầu nguyện chân tình của người thu thuế, khi Người kết thúc dụ ngôn bằng câu: “Các người hãy tin Tôi đi, người thu thuế này ra khỏi đền thờ mà về thì được công chính hóa, còn người kia thì không”.
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao con người có thể thực hiện hay đạt đến trình độ cầu nguyện đích thực này, nếu chính Thiên Chúa không tác động và hoạt động trong cuộc đời của họ. Đúng thế, theo đường lối mạc khải của mình, Thiên Chúa thường, nếu không muốn nói là luôn luôn, tìm cách tỏ mình ra cho con người, đúng hơn tìm cách lôi kéo con người, tìm cách thức tỉnh “con người vốn yêu tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19), để con người có thể từ từ nhận biết Ngài, bằng chính những sự dữ do con người gây ra. “Chúa đã dùng Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ” (lời nguyện kết mỗi chặng đàng Thánh Giá) là như thế. Thật ra, “ngay từ ban đầu, khi Thiên Chúa mới tạo dựng nên trời đất” (Gen 1:1), “Thiên Chúa thấy tất cả mọi sự Ngài đã tạo dựng đều tốt lành” (Gen 1:31). Thế nhưng, từ sau khi hai nguyên tổ sa ngã, đủ mọi thứ sự dữ đã xuất hiện, như được Thánh Phaolô tóm gọn trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma đoạn 5 câu 12: “bởi một người mà tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian”. Thực tế cho thấy, nếu sự sống có ba bậc, tự nhiên (hữu hình), linh thiêng (thiên thần) và siêu nhiên (ân sủng) thế nào, sự dữ cũng có thể được chia thành ba loại hay ba cấp chính như thế: đó là sự dữ về thể lý (như vất vả khốn khó, bệnh hoạn tật nguyền, đau thương chết chóc v.v.), sự dữ về tâm lý (như ngu đần dốt nát, điên khùng bấn loạn, nhục nhã oan ức v.v.), và sự dữ về luân lý (như tính hư nết xấu, thử thách cám dỗ, lỗi lầm vấp phạm v.v.). Vì loài người được dựng nên để hưởng vinh phúc trường sinh, chứ không phải để bị trầm luân khổ ải, bởi thế, cho dù sự dữ do chính lỗi lầm của họ gây ra, họ cũng vẫn không thể nào dám nuốt lại cái họ đã mửa ra, vẫn không thể nào chấp nhận đau khổ, trái lại, lúc nào họ cũng tỏ ra hết sức ghê tởm sự dữ, tránh xa đau khổ, cả về thể lý, tâm lý lẫn luân lý. Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đã lợi dụng yếu điểm này nơi con người để đánh động họ, để lôi kéo họ về với Ngài, như Ngài đã từng thực hiện như thế một cách tỏ tường dọc suốt lịch sử dân Do Thái vậy.
Thật vậy, trong ba tuần lễ liền, Chúa Nhật Thường Niên XXVIII, XXIX và XXX thuộc chu kỳ phụng vụ Năm C, Phúc Âm Thánh Luca đã cho chúng ta thấy con người thực sự đã hết lòng hướng về Thiên Chúa khi họ phải quằn quại trong sự dữ, cả sự dữ về thể lý, tâm lý cũng như luân lý. Trước hết, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXVIII đã không nói đến câu truyện có thật về 10 người cùi, vì quá khổ ải với sự dữ thể lý là chứng bệnh cùi nan trị đã rủ nhau kéo đến van xin Chúa Giêsu chữa lành cho họ hay sao? Không bị cùi, chắc gì chín người cùi chính tông Do Thái đã nhớ đến Chúa, đã chạy đến Chúa, vì khi vừa được Người chữa lành cho liền quên mất Người ngay lập tức. Sau nữa, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXIX, Chúa Giêsu cũng không nói đến dụ ngôn về một bà góa gặp phải sự dữ thuộc lãnh vực tâm lý, tức trường hợp bà bị đồng loại ức hiếp hay sao, trường hợp làm cho bà không thể ngồi yên chịu đựng, cho đến khi quan tòa phải giải quyết theo ý bà? Nếu không bị oan ức, bị ức hiếp, bà góa này đâu cần phải chạy đến cầu cạnh vị quan tòa hư hỏng này làm gì cho mất giờ chẳng những của hà mà cả của vị quan tòa khó tính nữa. Bởi thế, Chúa Giêsu mới nói trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 4 câu 25 và 26: “Vào thời tiên tri Elia có nhiều bà góa trong dân Yến Duyên lúc bị hạn hán…, song Elia chỉ được sai đến với một bà góa ở Zarephath gần Sidon mà thôi”. Sau hết, qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã không nói đến dụ ngôn về người thu thuế, sau khi quằn quại lương tâm với sự dữ thuộc lãnh vực luân lý, tức bị lương tâm cắn rứt về tội lỗi của mình, đã quay đầu trở lại cùng Thiên Chúa Chí Công Chí Thánh hay sao? Nếu không sống trong tội lỗi, như người thu thuế ở dụ ngôn hôm nay, hay như người đàn bà tội lỗi trong thành đến tìm gặp Chúa Giêsu ở nhà của người Pharisiêu, được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 7 từ câu 36 đến 50, chưa chắc thành phần tội nhân này đã cảm thấy hối hận mà trở về cùng Thiên Chúa, hay lại rơi vào trường hợp của người Pharisiêu trong dụ ngôn hôm nay, hay của người Pharisiêu mời Chúa dùng bữa với sự hiện diện của người đàn bà tội lỗi trong thành, bề ngoài có vẻ đạo đức tốt lành song bề trong không hề nhận biết Thiên Chúa gì cả thì sao!
Vấn đề thực hành sống đạo: Vấn đề được đặt ra từ dụ ngôn của Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật XXX Mùa Thường Niên Năm C hôm nay về hai người lên đền thờ cầu nguyện, người thu thuế ra về được nên công chính, còn người Pharisiêu thì không, đó là: phải chăng tội lỗi là con đường dẫn con người đến việc trở về gặp gỡ Thiên Chúa nhanh hơn và chắc hơn là cách giữ tỉ mỉ các thứ luật lệ? Bằng không, tại sao trong dụ ngôn về người cha nhân lành, được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại cách đây 6 tuần, người con phung phá nhận biết cha mình dễ hơn và nhanh hơn anh mình, người anh không hề bỏ nhà ra đi, trái lại, luôn tuân lệnh cha trong mọi sự, mà cuối cùng mới lòi ra sự kiện phũ phàng là người con cả này không hề biết cha mình gì cả?
Tin mừng Chúa nhật hôm nay nhấn mạnh đến giá trị tuyệt hảo của đức khiêm nhường. Đối với các nhà tu đức, nhân đức khiêm nhường được coi như bàn tay rắn chắc nâng đỡ mâm ly nhân đức, nhân bản của con người. Riêng đối với Đức Kitô, Ngài đánh giá đức khiêm nhường đích thực như thế nào?
Hình ảnh tương phản giữa luật sĩ và thu thuế, đã nói lên ngụ ý của Đức Kitô: đó là thái độ tự hạ sâu thẳm của người thu thuế. Ông tự nhận mình là kẻ tội lỗi, đớn hèn. “Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13). Trong âm thầm, ông đã nhận ông thật như ông đáng là.
Một điều chắc chắn là Đức Giêsu Kitô chẳng khuyến khích chúng ta sống bê tha, tội lỗi để có cơ hội sống tự hạ. Tự hạ không dừng lại ở mặt tiêu cực: nhìn nhận những lầm lỗi. Nhưng đúng nghĩa hơn, bên trong sự tự hạ là cảm nhận sâu xa vai trò thụ tạo của chính mình, và xác tín vai trò tạo hoá quyền uy cùng với lòng xót thương từ ái của Thiên Chúa. Cảm nghiệm này tuy khó đón nhận, nhưng nó rất hợp lý, vì thử hỏi trong chúng ta, ai có khả năng chọn cho mình một mái ấm gia đình vừa ý để mình chào đời. Hay tự định đoạt tài năng, cơ hội thuận lợi cho bước đường công danh mà gạt bỏ sang bên lề những giới hạn phận người.
Thật vậy, đời người, phận người chẳng đơn thuần do một mình tôi khiến tạo nên. Khổng tử có dạy “Thiên địa nhân hòa”. Cuộc sống chịu sự chi phối của vũ trụ, của ngoại vật. Do đó, chúng ta có trách vụ sống an hoà ngay từ tại tâm. Nghĩa là chúng ta tìm hạnh phúc qua cung cách sống nhã nhặn với môi trường quanh mình, như khám phá ra những hồng ân của Thiên Chúa ban trên người thân cận. Chẳng lấy mình làm chuẩn mực để bình phẩm tha nhân như người thu thuế. Là biết nỗ lực tận dụng ơn lộc Chúa ban xây dựng tình huynh đệ đại đồng “Không ai nên thánh một mình”. Vâng, chỉ khi nào chúng ta mang lấy chiều kích đích thực của chúng ta, lúc đó chúng ta mới bước vào trong tình huynh đệ phổ quát. Khi ấy, chúng ta không xem ai là thấp hơn mình, vì đã nhìn ra sự nhỏ bé của bản thân và trở nên khiêm nhường hiền lành.
Lạy Chúa, chúng con là thụ tạo bé nhỏ, khác nào những hạt cát bé nhỏ đang ẩn mình sau những bức tường hùng vĩ của tòa nhà Giáo Hội. Và tự thâm tâm chúng con chẳng có điều chi để tự hãnh diện về mình. Có chăng là tấm chân tình tri ân Thiên Chúa hằng đoái thương chúng con, cùng xin Ngài tiếp tục dạy dỗ, đỡ nâng đoàn con thi hành trọn vẹn bổn phận của những đứaa con bé nhỏ trong đại gia đình Giáo Hội, xã hội thân yêu này.
Mỗi một biểu tượng, hay một dấu chỉ đều có một ý nghĩa. Khi ta nhìn thấy lá cờ có nhiều sao và những sọc mầu đỏ, ta biết đó là lá cờ nước Mỹ.
Khi Maisen giang rộng hai tay sau khi đã cầu nguyện cùng Thiên Chúa thì quân lính Israel thắng quân Amelek cách dễ dàng, khi Maisen mệt hạ tay xuống thì quân lích Israel thua trận. Vậy khi Maisen giang hai tay ra là dấu của sự chiến thắng.
Thiên Chúa đã hé mở cho dân Israel về cuộc chiến thắng sự chết và việc cứu chuộc của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu giang hai tay trên thập giá, đó là dấu chỉ của sự cứu chuộc, ngài đã chiến thắng sự chết, phục sinh trong vinh quang. Như Maisen đã cầu nguyện để có ơn Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải cầu nguyện để được ơn Chúa mới có thể vác thập giá mình mỗi ngày. Nếu cuộc sống một Kitô hữu không có sự cầu nguyện thì chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhiều trở ngại, chán nản và thất vọng. Maisen khi đuối sức đã nhờ đến hai người giúp để đỡ tay ông lên; cũng vậy, chúng ta cũng sẽ đuối sức mệt mỏi cần có sự trợ giúp để đủ sức mạnh chiến đấu, đó là sự hiệp nhất với Chúa qua sự cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa trong Thánh Kinh, Lời Chúa là sức mạnh bồi dưỡng Đức tin, giúp con người sống hoàn hảo. Không đọc hoặc không tìm gặp sự tốt lành trọn hảo của Thiên Chúa, mà nơi Thánh Kinh là một nguồn phong phú, thì cuộc sống ta thật uổng phí, vì như trồng cây mà không được vun tưới, cuộc đời sẽ cằn cõi, khô khan. Vác thập giá mà không có Lời Chúa làm sức mạnh thì ta sẽ bỏ cuộc một cách dễ dàng. Hãy nhai và nuốt Lời Chúa mỗi ngày, ta sẽ cảm nghiệm được sự ngọt ngào, thánh thiện, chân thật và đầy yêu thương của Chúa, nhất là tìm được sự bình an cho tâm hồn. Thêm vào đó là lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Mình Máu Chúa, để Chúa thấm nhập vào thân thể ta và ta được ở trong Chúa.
Bà góa trong Phúc âm đã được quan tòa để ý tới, vì lòng kiên nhẫn kêu nài của bà. Mỗi người chúng ta cần có lòng kiên nhẫn khi cầu nguyện, vì không phải những gì chúng ta xin là đòi hỏi Chúa phải cho. Chúa chỉ cho ta khi nào, bằng nào, lúc nào và như thế nào là quyền của Ngài, Ngài đòi hỏi chúng ta có lòng khiêm nhường, kiên nhẫn, tin tưởng. Cần có thái độ của một người con nói chuyện và xin với cha mình, chứ không phải đòi buộc cha mình phải cho. Đừng vội chán nản và thất vọng khi điều ta xin mà không được, vì ta xin theo ý ta, nhưng đối với Chúa điều ta xin, có khi không đẹp lòng Chúa nên Ngài không ban. Chúa muốn chúng ta cầu nguyện liên lỉ đêm ngày, không phải chờ tới khi gặp hoạn nạn, khó khăn mớ cầu nguyện. Chúa muốn chúng ta chỉ nghĩ cũng như hành động cho Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lòng kiên nhẫn khi cầu nguyện và cho con biết cầu nguyện những gì hữu ích cho cuộc sống đời sau.
Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe có một tầm mức thật quan trọng, vì nếu chúng ta thực hành như lời Chúa dạy, chắc chắn chúng ta sẽ được ơn cứu rỗi. Dụ ngôn này được gửi đến cho mọi người không trừ một ai.
Chúng ta hãy cùng nhau nhìn vào người biệt phái và người thu thuế, để rồi rút ra một kết luận thực hành.
Trước hết, người biệt phái là người đạo đức, đã làm những công việc tốt lành: ông ta đã ăn chay hai lần trong một tuần. Đã bố thí 1/10 hoa lợi. Ông ta thật đáng ca ngợi vì chưa chắc có ai trong chúng ta đã làm được như vậy. Thế nhưng, ông vẫn bị kết án.
Còn người thu thuế đã sống một cuộc sống không mấy tốt đẹp, rất có thể ông ta đã biển thủ, đã hối lộ, đã tiếp tay với kẻ thù mà bóc lột đồng bào của mình. Thế những anh ta đã được tha thứ.
Tại sao lại có sự đảo lộn như thế ?
Tôi xin thưa:
- Sở dĩ như thế vì ông Biệt phái đã kiêu ngạo khinh bỉ kẻ khác. Còn người thu thuế đã không kết án một ai nhưng đã khiêm nhường cầu xin ơn tha thứ vì nhận biết mình tội lỗi.
Nếu là một vị Linh mục bịa ra câu chuyện trên, hẳn chúng ta sẽ bảo:
- Đó chỉ là sự nói bóng nói gió mà thôi.
Nhưng ở đây chính Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện ấy hầu soi sáng cho chúng ta nhận ra một sự thật:
- Thiên Chúa nôn mửa kẻ kiêu ngạo, nhưng lại dành tình thương cho những người khiêm nhường kêu cầu Ngài.
Đây cũng chính là thảm cảnh của mỗi người chúng ta. Đúng thế, chúng ta đều có những nét giống với ông Biệt phái ở một mức độ nào đó. Bởi vì chúng ta tưởng mình là người tốt lành để rồi lên tiếng khinh bỉ và chê bai kẻ khác. Chúng ta tự hào là người đạo gốc, chúng ta siêng năng đi nhà thờ, tham dự thánh lễ, xưng tội hàng tháng, chúng ta không giống như người này người kia.
Chúng ta là những gia trưởng, không rượu chè, không cờ bạc, không lăng nhăng như kẻ này kẻ khác. chúng ta sống bằng nghề buôn bán, nhưng không gian tham, không giả dối, như những người chung quanh…
Mãi mãi một điệp khúc. Đúng thế:
- Tôi không như kẻ khác.
Chúng ta vốn thường so sánh mình với kẻ khác. Kẻ khác thì thế này thế kia, còn tôi, tôi không như vậy. Cách thức so sánh như thế sẽ làm cho chúng ta trở nên những người Biệt phái chính tông.
Khi đo vải chúng ta có bao giờ lại đo bằng cái thước thiếu ? Thế nhưng, khi so sánh tại sao chúng ta chỉ biết so sánh mình với người khác, chứ không so sánh mình với Chúa hay với các thánh để thấy mình còn thua kém?
Tôi còn có thể đưa ra nhiều thí dụ, nhiều hình ảnh khác nữa, nhưng bằng ấy mà thôi cũng đã đủ.
Có lần tôi nói với một bà được tiếng là đạo đức, mà lại cư xử hà khắc với người chung quanh:
- Xin bà hãy ý tứ, Chúa Giêsu đã nói trong Phúc âm: Những kẻ thu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào Nước trời.
Và người đàn bà này đã yên lặng.
Phải chăng chúng ta cũng đã nhận ra cung cách của ông Biệt phái nơi chính bản thân chúng ta ?
Bởi vậy hãy suy nghĩ và quyết định:
- Ông Biệt phái đã bị kết án. Còn người thu thuế đã được tha thứ.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân. Vì thế hãy noi gương người thu thuế mà khiêm nhường đấm ngực ăn năn:
- Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi.
Đừng xét đoán và kết án người khác vì chúng ta không có quyền đó. Nếu ở vào hoàn cảnh của ho, chúng ta sẽ hành động như thế nào ? Vì thế, ừng khinh bỉ họ.
Nếu chúng ta cư xử khắc nghiệt với họ thì rồi một ngày kia Chúa cũng cư xử khắc nghiệt với chúng ta như vậy. Bởi vì:
- Ai đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy.
Hãy sống khiêm nhường, để chúng ta biết rõ con người thực của mình:
- Nếu có những ưu điểm thì đó là do tình thương của Chúa như lời thánh Phaolô: Những gì chúng ta có đều bởi lãnh nhận, một khi đã lãnh nhận thì làm sao còn có thể kiêu căng.
Điều tốt chúng ta thực hiện được là do ơn Chúa. Sản phẩm đích thực của chúng ta chỉ là tội lỗi, thì làm sao chúng ta còn có thể hãnh diện ?
Sự xấu chúng ta làm thì hoàn toàn xấu và do chúng ta. Còn điều tốt chúng ta thực hiện thì chưa hẳn là đã tốt và không hoàn toàn do chúng ta.
Bởi đó, hãy luôn ghi nhớ lời Chúa phán:
Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Bình thường sau mỗi trận bão, người ta đều thấy những cây càng cao thì càng bị gió đánh ngã, cành lá tả tơi, nhiều khi còn bị cuồng phong bứng bật cả gốc rễ, trong khi đó, những cây nhỏ, những bụi rậm thì không hề hấn gì. Hiện tượng thiên nhiên này nhắc cho tôi nhớ lại câu nói: trèo cao thì té đau.
Từ lãnh vực thiên nhiên bước sang xã hội loài người, chúng ta cũng thấy những cảnh tương tự. Sau những cuộc đảo chính, thường những kẻ có địa vị cao bị lật đổ, những người trước kia ăn trên ngồi trốc bây giờ bị hạ bệ, gánh chịu số phận thăng trầm, lên voi xuống cho. Còn những người thuộc đám dân đen, thấp cổ bé miệng thì ít bị ảnh hưởng, ngược lại, họ còn có thể nuôi một chút hy vọng, biết đâu những người lãnh đạo mới thanh liêm hơn, thương dân hơn…
Qua đoạn tin mùng hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một khung cảnh trang nghiêm của một buổi cầu nguyện với hai khuôn mặt: Ông biệt phái và anh thu thuế. Rồi Ngài đã kết luận: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuông sẽ được nâng lên.Từ lời kết luận này, chúng ta đi tới mấy nhận định sau đạy.
Nhận định thứ nhất đó là người tự cao tự đai sẽ không thể nào cầu nguyện cho đúng cách, bởi vì cửa trời vừa hẹp lại vừa khó, nên chỉ những người khiên nhu mới có thể đi qua để tiến đến cùng Chúa.
Nhận định thứ hai đó là người tự cao tự đại sẽ không thể nào cầu nguyện cho hợp lý, bởi vì ai trong chúng ta cũng đêu phạm tội. Vì thế khi cầu nguyện không ai có thể so sánh mình đạo đức thánh thiện hơn kẻ khác, nhưng phải tự thú mình thuộc về đoàn những kẻ tội lỗi chung lời khẩn cầu lòng thương xót Chúa.
Nhận định thứ ba đó là người tự cao tự đắc sẽ không thể nào cầu nguyện cho hơp tình, bởi vì cầu nguyện là để thờ phượng , ca ngợi, yêu mến và cảm tạ Chúa chứ không phải là thời gian để báo cáo những thành tích vĩ đại của mình.
Qua ba Chúa nhật liên tiếp, chúng ta đã theo dõi bước chân của Chúa để nghe Ngài dạy những bài học liên quan đến việc cầu nguyện. Với một trong số mười người cùi được chữa lành, Chúa Giêsu dạy chúng ta cần phải có lòng biết ơn đối với Thiên Chúa trong lúc cầu nguyện. Với thái độ của một bà góa trước vị quan tòa bất lương, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta phải kiên tâm bền chí cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng. Và hôm nay, Ngài đòi chúng ta phải khiêm nhu trong lúc cầu nguyện, đồng thời hãy đánh vào yếu điểm của Thiên Chúa, đó là lòng nhân từ và thương xót của Ngài.
Với những tâm tình trên, chắc chắn lời nguyện cầu của chúng ta sẽ là như làn hương trầm bay lên trước tôn nhan Thiên Chúa.
Người ta kể lại một lần kia Thiên Chúa từ trời hiện xuống xem loài người tôn kính Ngài như thế nào. Ngài thấy một tín đồ Ấn giáo ngồi xếp bằng trong chiếc khăn và chăm chỉ chìm sâu vào tĩnh niệm, dẹp hết mọi sự trên đời này, Ngài rất hài lòng nhưng tự hỏi: Tại sao phải chịu khổ hạnh như vậy? Ngài lại thấy một nhà sư Trung hoa tươi cười tìm dung hòa sự thiện và sự ác một cách thật khó khăn. Thiên Chúa vui mừng nhưng Ngài nói: Tại sao lại phải cố gắng nhiều như thế? Sau đó, Ngài trông thấy một người tiền sử tế lễ trước thần minh với vẻ mặt đầy sợ hãi. Thiên Chúa cảm động nhưng Ngài lại tụ hỏi: Tại sao phải sợ hãi quá như thế? Ngài trông thấy một tín đồ Hồi giáo đi chân không quì trên tấm thảm, đầu cúi sát đất lâm râm cầu nguyện. Ngài cảm phục nhưng lại hỏi: Tại sao lại phải cung kính quá hư thế? Sau cùng Ngài gặp một Rabbi Do thái lớn tiếng đọc thánh vịnh chúc tụng Đức Giavê, trên trán và trên cánh tay có đeo các bản văn luật. Ngài vui vẻ nhận lời cầu của ông nhưng lại tự hỏi: Tại sao phải có nhiều luật lệ như vậy. Vì thế một hôm Thiên Chúa Cha nói với Chúa Con: Con hãy đem TÌNH YÊU xuống trần gian, ta không muốn các lễ vật, ta không muốn cái chết, ta cũng không muốn sự sợ hãi và lề luật, mà chỉ muốn TÌNH YÊU, một tình yêu chân thành mà thôi. Bởi vì ta là cha và mọi người đều là con cái của ta.
Khiêm tốn, yêu thương, phó thác, đó là những thái độ đặc thù người Kitô hữu cần phải có mỗi khi cầu nguyện, mỗi khi đứng trước mặt Thiên Chúa và đối thoại với Ngài. Đây cũng là thái độ Chúa Giêsu và Giáo hôi khuyên chúng ta phải có trong cuộc sống đức tin. Các bài đọc hôm nay giúp cght kiểm điểm lại cách thức cầu nguyện và nội dung lời cầu của chúng ta xem nó đã trưởng thành tới đâu hay vẫn còn mang nặng tính cáchấu trĩ, hời hợt, không trung thực và còn xa cách tinh thần Kitô giáo.
Cũng như các tiên tri, tác giả sách Huấn ca đã đả phá các kiểu thờ phượng Thiên Chúa một cách máy móc, nặng hình thức bên ngoài mà không xuất phát từ lòng tin yêu trungthưc. Ông khẳng định Thiên Chúa không chấp nhận các cử chỉ bên ngoài nhằm che đậy những bất công gây ra cho người khác, đặc biệt là nhưng kẻ nghèo hèn và bất hạnh trong xã hội, bởi vì Ngài luôn đứng về phía họ, những kẻ bị thiệt thòi, bị bóc lột, bị hất hui.
Do đó tiếng than van duy nhất thầu đến trời cao, thấu đến Thiên Chúa chình là tiếng kêu than của tấm lòng khiêm tốn chân thành, biết ăn năn sám hối, biết khát khao sự công chính. Thiên Chúa đáp lại tiếng kêu than ấy vì nó liên lụy tới Ngài.
Chính vì thế mà người thu thuế đã được Chúa nhận lời vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
ta ghi nhận hai mẫu người công chính. Trước hết là ông biệt phái. Ong tượng trưng cho mẫu người công chính nhưng không công chínhm mẫu người công chính nhưng không có ơn Chúa, mẫu người công chính không có sự thánh thiện. Ông lên đền thờ cầu nguyện, cảm tạ Thiên Chúa vì không như kẻ khác, tham lam, bất công, ngoại tình. Trái lại ông ăn chay mỗi tuần hai lần. Luật Do thái chỉ đòi buộc mỗi năm ăn chay một lần, nhưng đây ông ăn chay những hai lần trong một tuần, hẳn ông là người đạo đức sốt sắng biết chừng nào. Ông dâng một phần mười tất cả những hao lợi. Luật Do thái chỉ buộc dâng một phần mười hoa lợi chính mà thôi. Ông quả thật là một người quảng đại và rộng rãi.
Nếp sống đạo đức của người Pharisêu xem ra thật tốt, nhưng chỉ có một điều lệch lạc đã làm hư đi tất cả, đó là thái độ tự kiêu, khoe khoang: “Tôi không giống như kẻ khác, tôi không phải như tên thu thuế tội lỗi kia. Đó là sự công chính mà không có sự công chính, sự công chính mà không có ơn Chúa, sự công chính mà không có sự thanh thiện.
Tiếp đến là anh thu thuế. Anh tượng trưng cho mẫu người công chính có ơn Chúa, người công chính có sự thánh thiện. Đó là người được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi, được Thiên Chúa ban ơn công chính, được Thiên Chúa đổ đầy ơn sủng.
Ngày nay chúng ta vẫn còn có thể nhìn thấy hai hạng người công chính như đã được mô tả trong bài dụ ngôn. Một hạng người công chính nhưng có ơn Chúa và sự thánh thiện, bởi vì họ khiêm nhường, tự nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Còn một hạng người công chính nhưng không có ơn Chúa và sự thánh thiện bởi vì kiêu căng, không ý thức về tội lỗi và họ làm mọi việc cốt để khoe khoang, lòng ho luôn khinh thị anh em.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta sống khiêm tốn trước tôn nhan Chúa, luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình và thật lòng kêu xin: Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi. Chúng ta cần phải có ơn sủng Chúa nâng đỡ để trở nên công chính, để trở nên thánh thiện trước tôn nhan Ngài.
Có lẽ chúng ta còn nhớ anh chàng Louis trong bộ phim “Người giàu cũng khóc” đã được trình chiếu trên đài chuyến hình một vài năm trước đây. Dưới mắt ông Albertô, cha của anh, thì anh là một người con hết xài, một thứ đồ bỏ đi không còn thuốc chữa, bởi lẽ đời anh không có gì khác hơn là những thú vui thấp hèn. Anh ích kỉ và lười biếng, chỉ biết hưởng thụ. Thế nhưng, cuối bộ phim, tác giả kịch bản cho thấy một điều trái ngược hoàn toàn với sự suy nghĩ của ông Albertô. Louis không phải là con người hư hỏng hết thuốc chữa, nhưng anh đã đổi đời để trở thành một con người tốt, một người hữu ích cho kẻ khác nhờ sự nâng đỡ, sự tin tưởng, và nhất là nhờ vào tình yêu của cô Mariana dành cho anh.
Câu chuyện trên cho phép chúng ta hiểu một phần nào thái độ của Chúa Giêsu dành cho người thu thuế trong đoạn Tin mừng hôm nay. Trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, những người thu thuế là những kẻ tồi tệ. Họ chỉ biết có tiền, nên không cần gì đến sĩ diện, đến nhân phẩm. Họ sẵn sàng cộng tác với ngoại bang để bóc lột đồng bào của mình, miễn là có tiền. Vì vậy, ai cũng khinh bỉ họ. Sự khinh bỉ ấy được biểu lộ qua thái độ cư xử hằng ngày của mọi người. Nó còn được bộc lộ qua cả lời kinh của người biệt phái: Tôi không như tên thu thuế kia. Vậy mà Chúa Giêsu lại tuyên bố một câu xanh rờn: Người thu thuế ra về và được khỏi tội còn người biệt phái thì không. Nghĩa là đối với Chúa, người thu thuế không phải là đồ bỏ đi. Vì Ngài biết từ đáy tâm hồn, anh vẫn còn một cái gì đó rất tốt đẹp,rất quí giá và vẫn còn khả năng để biến đổi cuộc đời.
Đó chính là cái nhìn của Thiên Chúa trên con người, nhất là trên những kẻ tội lỗi. Đó là là cái nhìn của tình thương, của sự tha thứ, của sự tin tưởng rằng kẻ tội lỗi vẫn có thể hoán cải. Đang khi mọi người xa tránh, lên án người thu thuế, thì Chúa vẫn nhìn anh bằng con mắt của tình thương, của lòng bao dung và tha thứ. Tình thương ấy như xóa hết mọi lỗi lầm trong quá khứ của anh và mở ra cho anh một tương lai mới. Và chính anh, anh cũng tin vào tình thương tha thứ ấy nên mới dám mở lời cầu xin: Xin thương xót con là kẻ có tội. Cầu xin như thế chính là biết nhìn nhận một sự thật về mình, không biện hộ, cũng không bào chữa. Và lời thú nhận ấy đã trở thành một khởi điểm cho sự đổi đời.
Chiêm ngắm cách nhìn của Thiên Chúa về kẻ tội lỗi như thế để chúng ta đừng thất vọng, đừng ngã lòng trông cậy khi thấy mình có những lầm lỗi. Trái lại hãy biết tin tưởng vào một Thiên Chúa yêu thương, một Thiên Chúa luôn mở ra cho chúng ta cánh của của tương lai, chứ không khóa chặt cuộc đời chúng ta trong những lỗi lầm của quá khứ.
Chiêm ngắmcắi nhìn của Thiên Chúa như thế còn là để cho chúng ta noi gương bắt chước khi nhìn tha nhân. Thường thì chúng ta vẫn có cái nhìn chật hẹp và nặng thành kiến về người khác. Cái nhìn như thế thật tai hại vì nó làm mất đi cơ hội để người khác có thể trờ về và đổi mới. Nó cũng không chứng tỏ được chúng ta là con cái của một Thiên Chúa tình thương, giàu lòng từ bi và nhân ái.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai người cầu nguyện. Người cầu nguyện thứ thuộc nhóm biệt phái. Ông tiến sâu vào nơi cực thánh, đứng thẳng, ngửa mặt,giơ tay lên cao để cầu nguyện. Ông cũng biết cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, nhưng ông chỉ gọi Chúa đến để nghe ông ta nói về mình. Ông tự phụ vì đã không phạm tội và có lẽ những tội điển hình đang tràn lan trong xã hội thời bấy giờ là việc tham lam, bất công, ngoại tình…Ông tự cao tự đại so sánh mình đạo đức thánh thiện vượt xa mọi người, nhất là những người thu thuế và ông ta còn tự mãn nêu lên thành tích ăn chay và nộp thuế của ông. Tóm lại, ông lên đền thờ không phải để cầu nguyện nhưng là để kể cho Chúa nghe đời sống luân lý lành thánh hơn người và những thành tích vượt bực của mình.
Còn người cầu nguyện thứ hai là một người thu thuế. Anh ta không dám tiến gần đến nơi cực thánh, không dám đứng thẳng, không dám ngước mắt nhìn trời. Anh ta chỉ biết hổ thẹn, cúi đầu, đấm ngực ăn năn vì anh ta quá rõ nghề thu thuế của mình đã nhuộm đen cuộc đời và con người anh ta trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.
Chúng ta biết hành nghê thu thuế thời Chúa Giêsu là cộng tác với lực lượng ngoại xâm Rôma để bóc lột đồng bào. Ngoài ra, người thu thuế nào cũng lạm dụng quyền thế và cơ hội để làm giàu bằng cách thu trội hơn luật định. Vì thế, anh ta không có thành tích gì để khoe khoang, ngoại trừ khẩn khoản lòng thương xót của Thiên Chúa và khiêm nhường thú nhận mình là kẻ tội lỗi. Nhưng chính thái độ và tấm lòng khiêm nhu này đã cho phép anh ta đến gần Thiên Chúa hơn. Và chính sự van nài lòng thương xót của Thiên Chúa, có thể nói được là đã giúp anh ta đánh trúng yếu điểm nhất, đồng thời cũng lại là điểm mạnh nhất của Thiên Chúa. Đó là lòng thương xót của Ngài, vì Thiên Chúa được diễn tả là Đấng từ bi, nhân hậu và giàu lòng thương xót.
Kết quả buồi cầu nguyện của ông biệt phái và anh thu thuế, như lời Chúa Giêsu đoán xét, là anh thu thuế ra về được khỏi tội còn ông biệt phái thì không. Tóm lại, Chúa Giêsu muốn chúng ta lưu ý: Không một người nào tự phụ tự mãn nào lại có thể cầu nguyện đúng nghĩa được. Bởi lẽ cửa trời vừa hẹp lại vừa thấp, chỉ những người khiêm nhu mới có thế bước qua để đến gần Thiên Chúa. Không một người tự cao tự đại nào lại có thể cầu nguyện hợp lý vì ai trong chúng ta cũng phạm tội. Vì thế, không ai có thể tự cho mình đạo đức hơn người khác nhưng phải thú nhận mình thuộc về đoàn người tội lỗi chung lời cầu khẩn lòng thương xót của Thiên Chúa. Không một người nào tự kiêu tự đắc nào lại có thể cầu nguyện hợp tình vì cầu nguyện là để ca ngợi, thờ phượng, yêu mến vàcảm tạ Thiên Chúa chứ không phải là thời gian phúc trình những thành tích vĩ đại của mình.
Một cô gái đến nhà thờ xưng tội. Cô đã than thở với linh mục rằng: Con thường dự lễ không nên.Thế con làm gì mà không nên ? Thưa cha, suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm, khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì nói hành nói xấu, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai…Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn. Cô gái giống như người thu thuế lên đền thờ đấm ngực cầu nguyện và đã được Chúa Giêsu nâng lên, khác với ông biệt phái cầu nguyện với vẻ tự đắc đã bị Ngài hạ xuống.
Thực vậy, người thu thuế đã cầu nguyện theo lối tự phê, tự kiểm thảo. Anh đã xưng thú tội mình, nhận mình là kẻ tội lỗi, không dám tới gần Thiên Chúa thánh thiện. Anh chỉ đứng xa xa. Anh tự kết án mình trước Thiên Chúa là vị quan tòa tối cao và công minh. Anh không dám ngước mắt lên, anh đã đau đớn đấm ngực ăn năn thống hối tội lỗi. Anh chỉ biết trông cậy vào lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa, nên anh tha thiết van xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội. Lời cầu khiêm tốn đó có sức an ủi ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy lòng đầy tin tưởng vì anh biết rằng: dù tội lỗi có nặng nề đến đâu chăng nữa cũng sẽ được tha thứ.
Như David ngày xưa, dù đã phạm tội ngoại tình và sát nhân, nhưng đã sám hối và được tha thứ. Như Phêrô dù đã chối Chúa ba lần, nhưng đã ăn năn, không những được tha thứ mà lại còn được đặt làm đầu Giáo hội.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã kết luận: Anh ra về và được nên công chính, còn ông biệt phái thì không, bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Người đời thường bảo: đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại. Người đời còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi, huống chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành và giàu lòng thương xót.
Nhiều lần Đức Kitô đã sánh ví: Thiên Chúa như người mục tử nhân lành đã bỏ tất cả để lên đường tìm kến con chiên lạc, hay như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng và khi cậu trở về, ông không những tha thứ hết mà còn mở tiệc ăn mừng.
Với chúng ta cũng thế, tâm tình sám hối là bước chân đầu tiên trên con đường trở về cùng Chúa, là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ, hay như Kinh thánh cũng đã xác quyết: Chúa không bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
Qua hình ảnh ông biệt phái và anh thu thuế, chúng ta nhận thấy: Kẻ kiêu ngạo không thể cầu nguyện, bởi vì cửa lên trời rất hẹp nên chỉ những người biết khiêm nhường quì gối mới có thể vào được. Đồng thờ kẻ nào khinh dể anh em cũng không thể cầu nguyện được, bởi vì trong khi cầu nguyện chúng ta không được nâng mình lên trên người khác. Chúng ta cần nhớ rằng mình cũng là một phần tử của nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu…tất cả đều phải quì gối xuống trước ngai tòa Thiên Chúa để van xin lòng thương xót của Ngài.
Chỉ cầu nguyện thực sự khi biết đặt đời sống mình bên cạnh đời sống của Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta không hề hồ nghi điều ông biệt phái nói. Tất cả đều đúng. Ông đã ăn chay, đã dâng cúng một phần mười hoa lợi. Ông không giống người khác, lại càng không giống anh thu thuế.
Nhưng vấn đề không phải là tôi có tốt như người khác hay không ? Nhưng là tôi có tốt như Thiên Chúa hay không ? Tất cả tùy ở cách chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống thánh thiện tuyệt vời của Thiên Chúa, thì tất cả chúng ta chỉ có thể nói: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi.
Dụ ngôn này không phải Chúa chỉ nhằm đến bọn biệt phái, dầu nó vạch trần bộ mặt giả hình và kiêu căng của họ, nhưng Chúa còn nhằm đến một số người đã theo Ngài. Nhưng dầu thuộc giai cấp hay nghề nghiệp nào, thì ở mọi nơi và trong mọi lúc, tinh thần biệt phái này cũng vẫn len lỏi và có mặt. Đó là hạng người cho mình là đạo đức và tỏ ra khinh bỉ người khác.
Nhận thấy mình tội lỗi, cầu xin lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là khỡi điểm của cuộc sống mới. Rồi dù có tiến bộ trên đường thánh thiện tới mức nào chăng nữa, thì cũng vẫn cần lòng khiêm tốn như vậy. Càng gần ánh sáng, càng nhận ra mình nhơ bẩn. Càng gần Chúa, càng nhận thấy mình tội lỗi và không thể khoe khang về thành tích đạo đức của minh. Càng biết mình không ra gì, thì lại càng xứng đáng để phục vụ Chúa và anh em đồng loại.
Trong đời sống xã hội cũng như trong đời sống cá nhân, sự kiêu ngạo của chủ nghĩa biệt phái đã ngăn trở tính cách đắc lực, tình huynh đệ và ơn huệ của Thiên Chúa. Điều cần thiết là chúng ta phải biết sám hối ăn năn và sống khiêm cung, bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuốngsẽ được nâng lên.
Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:
Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”) ; thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
B. ... nẩy mầm.
Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
1. Lời của một bản thánh ca: con chẳng có gì dâng lên Chúa hôm nay...
2. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không ?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa. Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?
- Được chứ ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
3. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
4. “Người pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, bì con không giống như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18,11)
Chẳng phải có những lúc tôi đã gân cổ tranh cãi với người khác: “Tôi đúng, anh sai” sao ?
Chẳng phải có những lúc tôi bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa sao ?
Chẳng phải có những lúc tôi hài lòng khi thấy mình hơn người nào đó về nhiều mặt sao ?
Như vậy tôi chính là người pharisêu đứng thẳng người trong đền thờ và khoe với Chúa công trạng của mình.
Chúa không cần những cái đấm ngực thình thịch “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Chúa chằng cần công trạng nhưng cần tấm lòng khiêm cung của tôi.
Xin cho con biết khiêm cung để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, để hiểu và cảm thông với anh em, và để có thể cất lời ngợi khen Chúa là Đấng Thánh, ngàn trùng chí thánh (Epphata)
Một cô gái đang độ thanh xuân, lên đền thờ xưng tội, cô đã than thở với Linh mục rằng: Thưa Cha, con thường dự lễ không nên. Thế con làm gì mà không nên ? Thưa Cha suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm: khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì thích nói chọc ghẹo người ta cho người ta chửi, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai, khi thì thích phạm tội.
- Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn con nên trong sáng (Thánh Thể tr. 42). Cô gái này giống với người thâu thuế lên đến thờ đấm ngực cầu nguyện đã được Đức Giêsu nâng lên, và khác với người Pharisiêu cầu nguyện đầy vẻ tự đắc đã bị Đức Giêsu hạ xuống.
Trong kinh nguyện của Giáo Hội, nhất là Thánh lễ, ta thấy: Cầu nguyện gồm bốn việc: Thống hối, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn. Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thống hối.
1- Người Pharisiêu cầu nguyện như đọc bản báo cáo đầy thành tích vẻ vang của mình. Những thành tích như ăn chay mỗi tuần hai lần, còn luật dậy một năm chỉ ăn chay có một lần thôi (Lv. 16, 19-31), nộp thuế tối đa là một phần mười mọi thứ lợi tức, còn luật chỉ buộc một phần mười lợi tức chính, và không bao giờ phạm những tiêu cực như tham lam, bất công, ngoại tình. Rồi Pharisiêu kết luận cho mình hơn hẳn bọn thu thuế và tất cả các người khác. Như vậy, Pharisiêu đã tự khen mình, tự nâng mình lên là người công chính, tự phong thánh, lại khinh chê người khác và coi Thiên Chúa chỉ là khán giả đến xem triển lãm những thành tích công đức của ông.
Đức Giêsu đã phê vào bản báo cáo này như thế nào ? Người phê: Làm thì láo, báo cáo thì hay. Cho nên ông bị hạ xuống và tội ông không được tha, còn thêm tội kiêu ngạo. Bao nhiêu lần Đức Giêsu đã cảnh báo Pharisiêu như nấm mồ sơn phết bên ngoài, còn trong đầy ô uế thối tha. Họ xây mồ mả các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Rồi đến lượt họ, họ lại giết Đấng Cứu thế trên thập giá (Mt. 23, 4. 27. 34)
2- Người thu thuế cầu nguyện theo lối tự phê, tự kiểm thảo. Ông đã tự xưng thú tội mình, nhận mình là kẻ tội lỗi. Không dám tới gần Thiên Chúa thánh thiện vô cùng, ông chỉ đứng xa xa. ông tự kết án mình trước mặt Thiên Chúa là vị quan tòa tối cao, công minh, nghiêm thẳng, ông không dám ngước mặt lên, ông đã đau đớn đấm ngực ăn năn, thống hối tội lỗi. Ông thâm tín sự khốn nạn của tội lỗi mình. Ông không thấy mình có thành tích nào có thể đền tội ông được, dù ông làm bao nhiêu việc ăn chay, hãm mình, bố thí dâng cúng, cũng chẳng đáng công gì. Ông không thể cậy trông vào đâu được, chỉ có lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa mới cứu ông được thôi, nên ông đã tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con, con là kẻ tội lỗi khốn cùng”. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi ông ngọt ngào biết bao. Ông cảm thấy đầy lòng tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì ông biết rằng: Dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, như đại vương David giết chồng, cướp vợ, đã hết lòng ăn năn sám hối. Thiên Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ. Dù cả toàn dân bỏ Chúa, và bị quân thù bắt lưu đầy ở Babilon, lại bị Thủ tướng Aman ra tay diệt trừ. Trong cơn khốn cùng như thế, Hoàng hậu Esthe cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ. Tội lỗi như dân ngoại thành Ninivê, Chúa còn thương bắt buộc ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ để họ biết cải tà qui chính. Chúa liền thương tha thứ cho họ. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung của Thiên Chúa, ông càng đấm ngực hết lòng sám hối.
Đức Giêsu đã phê cho ông: “Người này ra về thì được nên công chính. Trái lại, Pharisiêu thì không, vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi. Huống chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và long trọng mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về, vì “Con ta đây đã chết, nay sống lại ; đã mất, nay tìm thấy” (Mt. 18, 12-14 ; Lc. 15, 4-7. 11-32).
Tội nặng tầy trời như tông đồ của Phêrô: chối Thầy. Khi hết lòng ăn năn trở lại, Chúa đã lờ đi như không biết, không trách một lời, lại còn thân mật hỏi: “Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em hay không ?” Thái độ của Chúa thật vô cùng bao dung quảng đại, không miệng lưỡi nào ca ngợi cho xiết.
Thời nay, người ta xa lánh tòa giải tội, không còn lo sám hối, hoặc vì không còn tin vào Thiên Chúa từ bi hay thương xót, nên thất vọng chết như Giuda, hoặc vì quá tự mãn với những tiến bộ khoa học, không cần Thiên Chúa nữa ; hoặc vì khô khan lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, lòng chai đá, không còn biết tội phúc nữa, đâu còn biết ăn năn sám hối.
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra con là kẻ tội lỗi, yếu hèn như kẻ nghèo khó, bị áp bức, sống mồ côi, góa bụa trong Bài đọc 1 để luôn luôn đấm ngực ăn năn, hết lòng chạy đến cầu khẩn Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Chúa nhậm lời cầu nguyện của người biệt phái nhưng nhậm lời cầu nguyện của người thu thuế.
Hôm nay chúng ta cũng lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu thuế.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi mình và xin Chúa thứ tha.
II. Gợi ý sám hối
- Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được.
- Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội.
- Như người thu thuế, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi mình và xin Chúa thương xót.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 35,12-14.16-18)
"Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn". Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối ; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt những người bị xã hội coi khinh.
2. Đáp ca (Tv 33)
Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
3. Tin Mừng (Lc 18,9-14)
Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống:
‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác ("tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia") ; thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa ("Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội")
4. Bài đọc II (2 Tm 4,6-8.16-18) (Chủ đề phụ)
Những suy nghĩ và tâm tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết:
- Nhìn lại cuộc sống đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy hết đường đua và sắp về tới đích.
- Nghĩ tới những người đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.
- Nghĩ tới cái chết, Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Tội và thân phận tội lỗi
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế: hắn đã kể ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v.v. Tuy nhiên tất cả đều là… tội của người khác ! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội, nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là "Con là kẻ tội lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con"
Thực ra người biệt phái cũng có tội: tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác… Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu phê phán người biệt phái vì: a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội ; b/ chỉ nhìn thấy tội của người khác ; c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình ; d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu đề cao người thu thuế vì: a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của mình ; b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình. Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi.
Nhiều người đến tòa cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao ? Vì chúng ta quá chú ý đến các thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy.
"Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh" (Yiddish).
2. Một tấm lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội do thái, ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính Chúa Giêsu cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế.
Nhưng người thu thuế này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi, anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha: theo luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5...
Lòng anh tan nát. Nhưng anh không tuyệt vọng: nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 ("Lạy Chúa xin xót thương con theo lòng nhân hậu Chúa"). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu "Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung". Thiên Chúa đúng là như thế. Người thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giêsu nói: "Ta nói cho các ông biết: người này khi trở về thì đã nên công chính rồi".
3. Lòng trí hướng về ai ?
Người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng đến những hướng khác nhau.
Lòng trí của người biệt phái hướng về ai ?
- Trước hết là hướng về người khác: "Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia"
- Đồng thời lúc đó cũng hướng về bản thân mình: "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con"
- Nơi quan trọng nhất phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua !
Còn lòng trí người thu thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa: "Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Chúng ta dễ phạm lại sai lầm của người biệt phái: khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người khác gây cho mình.
Hãy học cầu nguyện như người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
4. Ai là người công chính ?
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: "Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?" Khi tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
- Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng ?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
- Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
- Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !
****
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám do rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Đức Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: "Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi".
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông "tạ ơn Chúa" nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo "cái tôi" bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa ; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa ; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: "Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia" (Lc, 8,11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" (Lc 18,13).
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không ; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 18,14).
****
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ. Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
5. Mảnh suy tư
Nếu người biệt phái có quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ.
Nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến nhà thờ: tội lỗi mà đến nhà thờ làm chi ? Chỉ là giả hình ! Nhà thờ là nơi dành cho những người đạo đức thánh thiện.
Nếu như thế thì nhà thờ sẽ rất nhỏ hẹp.
Tưởng tượng xem một tiệm sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày không ! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh viện không !
Chúng ta đến nhà thờ không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn. (Flor McCarthy)
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều có tội. Hơn nữa tất cả chúng ta đều mang thân phận yếu đuối tội lỗi. Chúng ta hãy xin Chúa là Cha tha tội cho chúng ta và hãy hứa với Ngài là chúng ta cũng tha thứ cho anh em chúng ta.
VI. Giải tán
Là những kẻ tội lỗi đã được Chúa thương xót thứ tha, anh chị em hãy ra về và làm chứng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa.
Tin Mừng theo thánh Luca có khoảng 40 dụ ngôn, trong số này có 15 dụ ngôn thuộc nguồn riêng của Luca. Dụ ngôn mà ta đang tìm hiểu là một trong số 15 dụ ngôn đó. Xét về mặt văn chương, nó giống với các dụ ngôn "Người Samari tốt lành", "Ông nhà giầu và Ladarô" (Lc 16,19-31), "Người phú hộ dại dột" (Lc 12,16-21). Các dụ ngôn trên đây đều nhằm đưa ra những thí dụ cụ thể về thái độ nên theo hay nên tránh. Chúng ta cùng nhau nhìn ngắm cử chỉ và lắng nghe lời cầu nguyện của người Pharisêu và của người thu thuế. Đây là hai mẫu người tương phản nhau vào thời Đức Giêsu. Pharisêu -còn gọi là Biệt phái- là những người rất được dân chúng kính trọng vì đời sống đạo đức của họ. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuân giữ tỉ mỉ mọi khoản luật. Ngược lại, hạng người thu thuế thường bị mọi người coi khinh, vì họ phục vụ cho đế quốc Rôma và vì những gian lận có thể có của họ khi hành nghề.
Có lẽ người Pharisêu và người thu thuế đã lên đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong đền thờ. Người Pharisêu đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế của họ. Người thu thuế thì đứng đằng xa, xa người Pharisêu và xa cả đám đông. Anh thấy mình bất xứng và tội lỗi. Anh chẳng dám ngước mắt lên trời, như những người Do Thái khác khi cầu nguyện. Thậm chí anh còn làm một cử chỉ khác thường mà người đàn ông vùng Trung Đông hầu như chẳng bao giờ làm, đó là đấm ngực. Đấm ngực là một cử chỉ của riêng phụ nữ (x.Lc 23,48).
Chúng ta hãy nghe lời cầu nguyện của hai người trên đây; qua lời cầu nguyện của họ, ta thấy được phần nào nội tâm của từng người.
Lời nguyện của người Pharisêu trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, cuối cùng là những việc đạo đức ông quen làm. Đây là một lời cầu nguyện hết sức thành thật; người Pharisêu chỉ muốn nói lên những điều ông đã sống. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộtp một phần mười lợi tức cho đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho đền thờ một phần mười tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do Thái thời ấy mơ ước. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, nhưng chỉ là lời "tạ ơn". Điều đáng tiếc là lời nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: "vì con không như bao người khác", "con không như tên thu thuế kia". Chính vì thế chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình "tạ ơn" của người Pharisêu này. Tạ ơn thực sự bao giờ cũng gắn liền với khiêm tốn thẳm sâu.
Người thu thuế đến đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là một tội nhân, ngang hàng với người làm điếm (x.Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisêu ("hay như là tên thu thuế kia"), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi". Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em, nhưng anh chỉ dám đứng xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng.
Thái độ nội tâm
Người Do Thái thường đứng khi cầu nguyện, nhưng thế đứng của người Pharisêu không phải là thế đứng bình thường. Đó là thế đứng vững chãi của một người "tự hào, cho mình là công chính và khinh miệt người khác" (c.9). Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức, nhiệm nhặt. Ông ra gặp Chúa với một kho những công trạng to lớn của riêng ông, nhưng than ôi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này, không như người khác… Rốt cuộc, ông Pharisêu lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói: "Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài." Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được. Ông Pharisêu đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Pharisêu không xin Thiên Chúa điều gì, bởi vì ông thấy mình không thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình.
Nếu người Pharisêu là một ông nhà giàu, chẳng có gì phải xin Thiên Chúa, thì ngược lại, anh thu thuế, tuy là người có lắm tiền nhiều của, nhưng thật ra anh là người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về sự nhơ nhớp của mình và thấy gần như không thể làm lại cuộc đời. Nếu hoán cải, anh phải bỏ nghề, và nhất là phải bồi thường toàn bộ những gì anh đã thu quá mức, cộng thêm một phần năm số tiền trên. Tình cảnh của anh thật là tuyệt vọng. Anh chỉ còn biết cậy dựa vào lòng thương xót Chúa.
Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức của người Pharisêu đã trở nên một chướng ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội lỗi của người thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón nhận Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu
Đức Giêsu long trọng tuyên bố: "Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không." Như thế những ai tự cho mình là công chính (c.9) thì không được Thiên Chúa nhìn nhận, còn kẻ tội lỗi biết cậy trông, lại được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Chúng ta không thể tự tạo cho mình sự công chính thánh thiện nhờ làm những việc lành phúc đức. Trở nên công chính là một ơn Chúa ban cách nhưng không, nhờ lòng tin và lòng mến của ta đối với Đức Giêsu Kitô.
Chắc chắn chúng ta phải làm nhiều việc lành, nhưng đừng tưởng mình có thể mua được Nước Trời bằng những công nghiệp của mình. Chúng ta được cứu độ nhờ công nghiệp của Đức Kitô. Dù sống đạo đức hay trót mang thân phận tội lỗi, chúng ta phải tránh thái độ khép kín trước Thiên Chúa và tha nhân. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở ra để đón nhận.
Chúng ta khao khát nên thánh, nên trọn lành. Người Pharisêu nhấn mạnh đến chuyện "tôi làm". Nhưng nên thánh không phải là chuyện "tôi làm", mà là chuyện "để Thiên Chúa tự do làm nơi tôi". Sau khi được thiên thần truyền tin, Đức Maria đã nói: "Xin hãy xảy ra cho tôi như lời thiên thần truyền", nghĩa là xin Thiên Chúa hãy làm nơi tôi điều Ngài muốn. Đó là tiếng xin vâng của Mẹ.
Sự lớn lên của đời sống thiêng liêng nằm ở chỗ chúng ta trở nên nhỏ lại, nhường bước, để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, chúng ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Thiên Chúa ngày một hơn.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Người Pharisêu vừa cầu nguyện, vừa so sánh mình với người khác. Bạn thấy mình có nét gì giống với ông ta không (tự hào, tự mãn, khép kín…)?
2. Chúng ta dễ phê phán và kết án người khác dựa trên cái nhìn hời hợt bên ngoài. Có khi nào bạn đã vấp phải sai lầm khi vội vã xét đoán người khác không?
Sau khi nghe bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể tưởng tượng rằng Chúa coi thường các việc lành đạo đức và tán thành những điều xấu xa, tội lỗi. Thực ra, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta kiểm điểm lại thái độ và tâm tình của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn, người thứ nhất thuộc nhóm Pharisêu, còn gọi là Biệt phái, rất đạo đức và được dân chúng kính trọng. Người Pharisêu này không phải là người đạo đức giả vì ông ta không chỉ cầu nguyện thôi, mà còn hành động nữa, đã vậy ông ta còn làm hơn cả lề luật đòi hỏi: ăn chay một tuần hai lần thay vì luật buộc ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộp cho đền thờ một phần mười tiền thu nhập thay vì nộp một phần mười lợi tức trên các sản phẩm nông nghiệp. Người Pharisêu này thành thật, sống đạo đức, nhiệm nhặt. Nhưng tiếc thay, ông ta chỉ say sưa kể công về những thành tích đạo đức của mình. Ông chỉ nghĩ đến tội của người khác mà không nghĩ đến tội của mình. Biết mình đạo đức, thánh thiện, nhưng ông ta khinh chê những người khác: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.”
Người thứ hai thuộc nhóm thu thuế, thường bị mọi người khinh chê vì hợp tác với đế quốc La Mã xâm lược và vì những gian lận có thể có của họ khi hành nghề. Ông ta ý thức mình là kẻ tội lỗi, bất xứng, không dám đến gần Chúa, không dám ngước mắt lên trời như những người Do-thái khác khi cầu nguyện, mà chỉ đấm ngực và khiêm nhường thống hối nhìn nhận tội lỗi của mình: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Và ông ta trông đợi tất cả mọi sự ở Thiên Chúa.
Phần kết luận của dụ ngôn này thật ngạc nhiên: Chúa nhậm lời và tha tội người thu thuế; trái lại, Người không nhìn nhận sự công chính của người Pharisêu. Ông này tưởng rằng đã đạt được sự công chính và thánh thiện do chính công trạng của mình. Ông ta không xin Chúa điều gì cả. Ông không cần đến Chúa nữa. Thực ra, người biệt phái không có cầu nguyện vì chỉ tự hào về mình và kê khai những công đức của mình. Ông chỉ lên đền thờ để kể công với Chúa mà thôi. Cái “tôi” của ông quan trọng hơn cả, Chúa chỉ đứng hạng nhì, những người khác thì đứng đàng sau thật xa. Sự công chính không phải do công lao của mình nhưng do Thiên Chúa ban, do lòng tin của mình vào Chúa Kitô. Thánh Phaolô khẳng định điều này trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê (3,9). Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cũng không do những công đức của mình. Chúa luôn đến với con người và ban ơn nhưng không cho con người, vì Người là Tình Yêu. Người thu thuế biết mình yếu đuối, tội lỗi, thành thật kêu van Chúa. Và Chúa đã nhận lời cầu xin của ông ta. Thiên Chúa luôn chờ đón để ban ơn tha thứ và yêu thương chúng ta. Do đó, cho dù tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề tới đâu đi nữa, chúng ta không nên tự giam mình trong tội lỗi, khép kín trong tuyệt vọng, nhưng hãy chạy đến cùng Thiên Chúa với tấm lòng sám hối và đón nhận tình thương yêu vô bờ của Chúa.
“Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Qua dụ ngôn này Chúa cũng muốn dạy chúng ta về lòng khiêm tốn. Có khiêm tốn mới nhận ra được Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và tha thứ. Có khiêm tốn mới biết đón nhận Thiên Chúa vào cuộc đời của mình, mới nhận ra Người là cứu cánh cuộc đời, là nguồn mọi hạnh phúc và bình an. Có khiêm tốn mới nhận ra biết bao hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta, cho gia đình và cho Cộng đoàn chúng ta. Từ đó phát sinh tâm tình tạ ơn. Và cách hoàn hảo nhất để diễn tả tâm tình tạ ơn đó chính là dâng thánh lễ. Mỗi thánh lễ là một hiến tế tạ ơn.
Ước gì mỗi người chúng ta ý thức được điều đó khi tham dự thánh lễ.
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế. Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt TN 30-C39
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế: hắn đã kể ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v.v. Tuy nhiên tất cả đều là… tội của người khác ! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội, nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là "Con là kẻ tội lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con". Thực ra người biệt phái cũng có tội: tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác… Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giê-su phê phán người biệt phái vì:
a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội;
b/ chỉ nhìn thấy tội của người khác;
c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình;
d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giê-su đề cao người thu thuế vì:
a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của mình;
b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình. Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi. Nhiều người đến tòa cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao ? Vì chúng ta quá chú ý đến các thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy. "Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh" ( Yiddish ).
2. Một tấm lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội Do-thái, ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính Chúa Giê-su cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế. Nhưng người thu thuế này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi, anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha: theo luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1 / 5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5... Lòng anh tan nát. Nhưng anh không tuyệt vọng: nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 ( "Lạy Chúa xin xót thương con theo lòng nhân hậu Chúa" ). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu "Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung". Thiên Chúa đúng là như thế. Người thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giê-su nói: "Ta nói cho các ông biết: người này khi trở về thì đã nên công chính rồi".
3. Lòng trí hướng về ai ?
Người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng đến những hướng khác nhau. Lòng trí của người biệt phái hướng về ai ?
- Trước hết là hướng về người khác: "Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia"
- Đồng thời lúc đó cũng hướng về bản thân mình: "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con"
- Nơi quan trọng nhất phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua !
Còn lòng trí người thu thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa: "Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Chúng ta dễ phạm lại sai lầm của người biệt phái: khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người khác gây cho mình. Hãy học cầu nguyện như người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
4. Ai là người công chính ?
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm. Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: "Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?" Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín.
Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói: “Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng ?” Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.” Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !”
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám do rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Đức Giê-su mới nhắc nhở tất cả chúng ta bằng dụ ngôn: "Người Pha-ri-sêu công chính và người thu thuế tội lỗi".
Người Pha-ri-sêu lên Đền Thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông "tạ ơn Chúa" nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông. Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo "cái tôi" bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pha-ri-sêu bắt đầu từ câu này: "Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia" ( Lc 8, 11 ). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Ki-tô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" ( Lc 18, 13 ).
Sai lầm căn bản của người Pha-ri-sêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ của Chúa ban ( Pl 3, 9 ) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính. Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" ( Lc 18, 14 ).
“Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ. Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.” ( Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
Nếu người biệt phái có quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ. Nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến Nhà Thờ: tội lỗi mà đến Nhà Thờ làm chi ? Chỉ là giả hình ! Nhà Thờ là nơi dành cho những người đạo đức thánh thiện. Nếu như thế thì Nhà Thờ sẽ rất nhỏ hẹp. Tưởng tượng xem một tiệm sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày không ! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh viện không !
“Chúng ta đến Nhà Thờ không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn.” ( Flor McCarthy )
Có một giáo huấn rất quan trọng thường được Chúa Giê-su đề cập nhiều lần trong Tin Mừng và hôm nay, giáo huấn đó một lần nữa được nhắc lại để răn dạy chúng ta. Đó là: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. ( Lc 18, 14. Lc 14, 11. Mt 23, 12 )
Để minh hoạ cho bài học của mình, Đức Giê-su kể lại câu chuyện: Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Một người biệt phái là hạng người có tiếng đạo đức, giữ luật rất nghiêm và một người thu thuế vốn mang tiếng là người tội lỗi.
Người biệt phái này tỏ ra rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình ngon lành, đạo đức quá đỗi nên có cần gì đến Chúa nữa đâu ! Ong đâu có cầu khẩn hay cậy nhờ gì Chúa ! Ông tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia !”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Quả là ông này có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng Thiên Chúa chê bỏ ông vì thái độ tự kiêu của ông. Ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ nào cho Chúa rót thêm.
Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Anh này đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và tha thiết cầu xin Thiên Chúa tha lỗi… nên anh đã được Thiên Chúa đổ đầy. Tấm lòng chân thành và khiêm tốn của anh đã giúp anh nhận được ơn tha thứ và dồi dào tình thương của Thiên Chúa.
Với dụ ngôn này, Chúa Giê-su ghi sâu bài học đáng nhớ này vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG
Về điểm này, nhiều bậc thánh hiền đông phương cũng có cùng quan điểm với Chúa Giê-su. Một hôm Đức Khổng Tử vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói: “Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để dạy đời. Bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy tràn thì đổ nhào. Vậy vật ấy có phải là cái lọ này không ? Rồi ngài sai học trò đổ nước vào. Quả nhiên đổ đầy quá thì lọ đổ, bỏ không thì nghiêng, đổ vừa phải thì lọ đứng.” ( Trích lại từ Góp Nhặt A )
Như vậy, ai tự nâng mình lên, tự làm cho mình đầy tràn... thì sẽ phải sụp đổ vậy. Quy luật cuộc đời là như thế. “Mặt trời đứng bóng rồi phải xế, trăng tròn rồi sẽ khuyết, vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy” ( Thái Trạch ) Và: “Cái gì đầy rồi sẽ phải đổ vậy” ( Khổng Tử ). Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta: “Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu, dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp”.
Bậc thông minh duệ trí thì nên làm cho vơi bớt bằng khiêm nhường, tỏ ra ngu khờ dại dột… mới được an toàn; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới thì cũng đừng phô trương mà rước hoạ vào thân nhưng hãy làm cho vơi đi bằng cách sống hạ mình như người yếu đuối, nhát sợ.
AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC NÂNG LÊN
Chúa Giê-su đã minh chứng cho lời Ngài dạy bằng chính đời sống vô cùng khiêm hạ của Ngài. Tiến trình hạ mình, tự huỷ và được vinh thăng của Chúa Giê-su đã được thánh Phao-lô tóm gọn trong thư gửi cho Phi-lip-phê: “ Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người... và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". ( Pl 2, 6 – 11 )
Ngoài ra, mẹ Tê-rê-xa Calcutta trong thời đại chúng ta, người đã tự nguyện trở nên tôi tớ thấp hèn của rất nhiều người khốn khổ đau thương nên mẹ trở thành người được mộ mến nhất trên hành tinh này, là một minh chứng hùng hồn nhất cho lời dạy của Chúa Giê-su: “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chứng thực những lời Chúa dạy bằng chính cuộc sống của Ngài. Lời Chúa cũng đã thành hiện thực nơi mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta. Xin cho lời Chúa cũng được thể hiện nơi đời sống chúng con hôm nay. Amen.
Linh mục I-nha-xi-ô TRẦN NGÀ
Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nhấn mạnh trong tài liệu “Mea culpa”: “Cần phải xin ơn tha thứ – vì mối giây liên hệ nối kết chúng ta tất cả trong Nhiệm Thể – cho dù không có trách nhiệm cá nhân của chúng ta trong đó, nhưng vì chúng ta mang gánh nặng của những lầm lỗi của những người đã đi trước chúng ta và cả chúng ta nữa chúng ta đã phạm tội. Vì thế, trong sự công nhận khiêm tốn các lỗi lầm riêng mình và của người khác, các tín hữu Kitô được mời gọi lãnh nhận trên mình, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt những ai đã bị xúc phạm, về tội lỗi và các thiếu sót mà chính mình đã vướng mắc vào. Chúng ta xin tha thứ với Thiên Chúa và với những người bị xúc phạm bởi những cách ăn ở sai lầm: và việc xin tha thứ này bao gồm cả "thanh luyện hóa ký ức”. Trong khi công nhận và xin tha thứ các tội lỗi, chúng ta giải thoát chính chúng ta và người khác khỏi gánh nặng và những hậu quả hiện vẫn còn lại của tội lỗi, dù những tội này đã phạm trong quá khứ, để làm cho công việc đối thoại và hòa giải trở nên dễ dàng hơn.”
Người Pha-ri-sêu hôm nay đã không nhận ra tội của mình mà lại nhận ra của người khác. Cái sai lầm của người Pha-ri-sêu là đã tự nhận mình là người đạo đức, cái đạo đức làm tiêu chuẩn cho người khác. Rất dễ lấy mình làm mẫu, càng làm lớn càng dễ mắc tật này, người Pha-ri-sêu thời đức Giê-su, là người có nhiều uy tín trong dân, họ được trọng vọng vì địa vị đứng đầu trong dân. Tiếc thay, người Pha-ri-sêu lầm tưởng làm đầu cũng làm mẫu cho dân noi theo.
Đặt mình làm tiêu chuẩn nên không còn thấy chỗ đứng tầm thường của người khác, đặt mình làm tiêu chuẩn nên cũng tự nhận mình là mẫu mực cho dân. Từ chỗ sai lầm ấy, người Pha-ri-sêu thấy chung quanh mình chỉ toàn những kẻ mê lầm, tội lỗi, họ tự tách riêng ra khỏi đám dân tầm thường. Người Pha-ri-sêu lên án người khác để tô điểm công lao của mình, theo cách đó là dẫm lên người khác để đi lên, hy sinh tính mạng người khác để củng cố địa vị của mình. Người Pha-ri-sêu không dừng lại ở việc lên án mà còn tự mãn về những gì mình có, của cải, vật chất, danh vọng, địa vị chỉ tiếc rằng thiếu tự mãn về tình thương.
Người thu thuế thì đơn giản hơn bởi chẳng có gì để tự mãn, chỉ thấy mình cần được thương xót. Thấy mình cần được thương xót là thấy mình cần hoán cải bởi nhận ra thiếu sót. Người nhận ra thiếu sót của mình xứng đáng là con người. Con người vốn không thập toàn, nên cũng cần sám hối.
The missing piece của Shel Silverstein. Nó kể câu chuyện về một chiếc vòng bị cắt đi một mảnh hình tam giác. Cái vòng muốn được trọn vẹn, không thiếu mẩu nhỏ nào nên lang thang tìm kiếm mảnh thất lạc. Nhưng bởi vì nó không hoàn hảo nên chỉ có thể lăn đi rất chậm. Nó chiêm ngưỡng những bông hoa trên đường. Nó tán gẫu với những con sâu. Nó tận hưởng ánh nắng mặt trời. Nó đã thấy rất nhiều những mảnh vỡ khác nhau nhưng không có cái nào là vừa với nó. Và nó để tất cả lại bên đường rồi tiếp tục cuộc tìm kiếm.
Rồi một ngày kia, chiếc vòng tìm thấy một mảnh rất vừa vặn. Thật là hạnh phúc. Giờ đây nó có thể toàn vẹn, không thiếu chút gì. Nó lắp lại cái mẩu đã mất và bắt đầu lăn. Bây giờ, nó đã là một cái vòng thật hoàn hảo, nó có thể lăn rất nhanh, quá nhanh để có thể lưu ý tới những bông hoa và nói chuyện cùng lũ sâu. Và khi nó nhận ra thế giới đổi khác như thế nào khi lăn nhanh quá, nó dừng lại, vứt mảnh vỡ vừa tìm được lại bên đường và tiếp tục lăn đi chậm rãi.
Câu chuyện mang lại một bài học khá kỳ lạ: chúng ta càng trở nên toàn vẹn hơn khi chúng ta mất đi hay bỏ lỡ một cái gì đó. Trên một phương diện nào đó, một người có tất cả mọi thứ là một người đáng thương. Anh ta sẽ không bao giờ có được niềm thích thú để khát khao, để hy vọng và nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng những mơ ước về một điều tốt đẹp hơn. Anh ta cũng sẽ không bao giờ có được cái cảm giác được một ai đó yêu thương, cho anh ta những cái anh ta luôn luôn mong muốn mà không bao giờ có. Một con người muốn nên toàn vẹn là người nhận thức được những hạn chế của mình, là người có đủ can đảm từ bỏ những giấc mơ viễn vông của mình mà không cảm thấy đó là một sự thất bại. Một con người muốn nên toàn vẹn là người biết rằng họ có đủ sức mạnh để vượt qua những thảm kịch và tồn tại, là người có thể thất bại mà vẫn cảm thấy bình an. Mình đã thoát khỏi điều tồi tệ nhất mà vẫn nguyên vẹn ước muốn.
Con người hạnh phúc là con người nhìn thấy sự khiếm khuyết của mình, họ thấy cần một nỗ lực để chinh phục, để rồi thành công. Con người là “nhân vô thập toàn”, như vậy là con người hạnh phúc. Hạnh phúc nằm trong chỗ vô thập toàn, để hoàn thiện mãi mãi và không ngừng đi lên.
Điều mà cuộc sống đòi hỏi ở chúng ta là “hãy nên hoàn hảo, như Cha là Đấng ngự trên trời”, không phải là “đừng bao giờ mắc sai lầm”, mà là “hãy nên hoàn hảo”.
Và cuối cùng, nếu chúng ta đủ dũng cảm để yêu, đủ mạnh mẽ để tha thứ, đủ rộng lượng để vui mừng vì hạnh phúc của những người khác, và đủ khôn ngoan để hiểu rằng hạnh phúc có cho tất cả mọi người, chúng ta sẽ hạnh phúc.
Cung cách của con người cầu nguyện trước mặt Chúa. Cầu nguyện, là sự tương giao giữa hai người yêu nhau, bao gồm cả hai, người cầu nguyện và Đấng mà lời cầu nguyện dâng lên. Ta chú ý đến người cầu nguyện với Chúa. Đâu là những cung cách của con người cầu nguyện được nêu lên trong phụng vụ hôm nay?
1) Người Pharisêu cảm tạ Chúa vì ông không như người khác. Cầu nguyện như thế đó, ông đúng là thành viên của một giáo phái, một người coi những ai không thuộc nhóm mình là đáng loại trừ. Ong là người mà những ai ông không thích đều là kẻ xấu, đáng bị nguyền rủa và lên án. Những ai cầu nguyện theo cách này chứng tỏ rằng họ không phải do Thần Khí của Chúa điều khiển nhưng là bởi thành kiến. Và rồi biết bao sự khinh miệt đối với người kia, đối với "tên thu thuế kia"! Làm sao tạ ơn Chúa được về một điều đi ngược lại với chương trình của Chúa? Người cầu nguyện theo cách này, dù họ là ai đi chăng nữa, sẽ không được Chúa nghe lời. Ngài không đứng về phía ai cả, tất cả mọi người đều là con cái Ngài.
2) Người Pharisêu tạ ơn Chúa về những công lao của mình. Trước tiên, ông tạ ơn Chúa về những điều mà ông ta không làm mà người khác lại làm. Chẳng khác gì ông bảo, "mọi người khác đều là trộm cắp, còn tôi thì không; mọi người khác đều là ngoại tình, còn tôi thì không; mọi người khác đều là bất công , còn tôi thì không;" Dưới ba cái danh nghĩa này, có liên hệ đến điều răn thứ 5,6 và 7, ta gặp thấy một tổng kết tất cả những điều cấm đoán mà một người Do Thái đạo đức phải tuân theo. Những người khác có thể phạm tội, họ có thể vi phạm một vài điều cấm đó, nhưng một Pharisêu thì không bao giờ. Đây là chính là điều tự hào của người Pharisêu: một con người luôn tuân thủ từng chi tiết nhỏ trong lề luật. Cảm tạ Chúa vì điều hãnh diện của riêng mình, đó chẳng phải là điều nghịch lý sao? Tuy nhiên, người Pharisêu cũng tuân theo những cái được gọi là những lề luật "tích cực", dù chúng xuất phát từ Ngũ Kinh hoặc từ truyền thống của phái Pharisêu. Tỉ như chay tịnh là một lời khuyên trong Ngũ Kinh, nhưng ăn chay mỗi tuần hai lần (Thứ Hai và Thứ Sáu) lại là một luật buộc của người Pharisêu. Cũng thế, đóng thuế thập phân là một điều lệ của Luật, nhưng đóng thuế thập phân trên mọi vật mua từ chợ về lại là một quy tắc do phái Pharisêu đưa vào. Từ thâm tâm, khi cầu ngyện người Pharisêu chẳng thấy mình có tội gì cả, chỉ có công đức thôi. Ong chẳng cảm tạ Chúa vì những ơn Ngài ban, nhưng chỉ vì những công đức ông đã lập được. Vây thì, đó là loại cầu nguyện gì vậy?
3) Người kia nhận biết mình là tội nhân. Đây là thái độ của người thu thuế, cũng phải là thái độ của người Pharisêu và của mọi người chúng ta. Có một chi tiết cảm động trong bản văn Hy Lạp, không được chú trọng trong nhiều bản dịch, "lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội." Một đàng, ông nhận rằng thu thuế đồng nghĩa với tội lỗi, theo quan niệm chung của người do thái thời Đức Giêsu. Đàng khác, ông nhận rằng là người thu thuế, ông là người tội lỗi nhất. Với lòng khiêm nhường thống hối như thế, ông tin chắc rằng Chúa sẽ nghe lời ông.
2. Thiên Chúa, vị thẩm phán của người cầu nguyện. Đây là điều khác lạ đánh động chúng ta trong phụng vụ hôm nay. Thái độ của Chúa đối với người cầu nguyện, đó là cung cách của vị thẩm phán. Điều này không muốn nói rằng Thiên Chúa tiên thiên là một người cha, nhưng là một người cha thực thi công minh. Ngài thực thi công minh đối với những ai cầu nguyện với thái độ xứng hợp, giống như người thu thuế. Và Ngài cũng thực thi công minh với những ai cầu nguyện với thái độ không xứng hợp như người Pharisêu, ra về mà không được Chúa tha vì thực sự ông đâu có cần. Thiên Chúa là vị thẩm phán không bao giờ thiên vị, và đây chính là lý do Ngài luôn lắng nghe con người cầu nguyện với Ngài trong cơn khốn khó. Lời cầu nguyện bay lên thấu đến trời (Bài 1) nói cách khác, đến nơi Thiên Chúa cư ngụ. Thiên Chúa phán xét con người cầu nguyện theo tiêu chuẩn của Ngài là Đấng cứu độ, chứ không theo tiêu chuẩn riêng của người này hoặc của người kia. Trong câu trả lời cho người cầu nguyện, Thiên Chúa không hành động một cách bất chợt nhưng thiết lập bình đẳng và công minh. Vì vậy mà Thánh Phaolô mong đợi không phải là kết quả của những công đức riêng, nhưng là sự công minh của Thiên Chúa đối với Ngài cũng như đối với những ai như Ngài lo việc phục vụ Tin Mừng. (Bài 2)
GỢI Ý MỤC VỤ
1. Chỉ làm vinh danh một mình Chúa. Chúa nhật hôm nay là dịp thuận tiện để ta xét lại thái độ của ta khi cầu nguyện. Có thể ta đã cầu nguyện giống như cách thức của người Pharisêu trong Tin Mừng, mà chẳng hề hay biết. Có lẽ tôi cầu nguyện bởi lý do vợ tôi hoặc bạn gái tôi đưa tôi đến nhà thờ, mà lẽ ra tôi phải cầu nguyện chân thành hơn, tôi phải nghĩ tới những lo âu hoặc những mơ ước của tôi cho tương lai. Hoặc có lẽ tôi thưa chuyện với Chúa, thật nhiều nhưng không phải do nhu cầu cần ở bên Chúa, nhưng là vì tôi muốn trút bỏ mọi thất vọng của tôi. Có lẽ tôi cũng dự cuộc linh thao hoặc tĩnh tâm, hoặc tham dự một chuyến "du lịch tôn giáo" (hình như đây là mốt thời nay) không phải để cầu nguyện cho bằng để tìm một chút an bình nội tâm nào đó, và giải tỏa căng thẳng tâm hồn. Phải chăng tôi đến nhà thờ để gặp bạn bè hơn là hội ngộ Chúa? Phải chăng tôi đi vì để được khen là một kitô hữu đứng đắng? Xin hãy nhớ rằng cầu nguyện là tương quan với Chúa. Và người có thể liên hệ với Chúa phải là kẻ khiêm nhường. Trong sự khiêm cung tôi chúc tụng Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì lòng khoan dung tha thứ của Ngài dành cho tôi, tôi cầu xin những ân huệ thiêng liêng cũng như vật chất, cho tôi và cho mọi người, như thế Chúa sẽ nhậm lời tôi. Kinh nguyện của tôi sẽ làm đẹp lòng Chúa, nếu tôi chỉ mong tìm vinh danh một mình Chúa. "Danh dự và vinh quang cho Chúa đến muôn muôn đời"
2. Cầu nguyện với cả tấm lòng. Cả con người ta đều dấn thân vào kinh nguyện: thân xác, tinh thần, ý chí và ước muốn, tư thế, điệu bộ và cả những cung cách nội tâm. Tuy thế, trên hết ta phải cầu nguyện bằng cả tấm lòng. Môi miệng của người cầu nguyện phải thốt lên những lời xuất phát tự tâm hồn. Tư thế của người ấy phải phản ánh trạng thái của tâm hồn, đang đối diện với Thiên Chúa. Để suy tư, tình cảm, tâm tư và các quyết định trở thành của một người cầu nguyện đích thật, chúng phải xuất phát từ tinh thần trong sáng, nơi Thánh Linh ngự trị, là Thầy dạy đích thực của việc cầu nguyện. Với cả tấm lòng ta không chỉ diễn tả những cảm xúc thuần nhân loại mà còn cả một thế giới nội tâm, cung thánh sâu thẳm nhất nơi mà con người tìm gặp chính mình. Nơi đây ta phơi bày tất cả trước mặt Chúa, và khiêm tốn thú nhận với ngài sự nghèo hèn của ta, tội lỗi, lòng sám hối và tình yêu của ta. Ta cần nuôi dưỡng sự cầu nguyện bằng cả tấm lòng qua những kinh đọc, để chắc chắn rằng chúng không chỉ là thói quen do sự thường xuyên lập đi lập lại. Ta cần nuôi dưỡng sự cầu nguyện bằng cả tấm lòng qua việc suy gẫm, để việc suy gẫm của ta không trở thành chỉ là những suy nghĩ, dù chúng có thật thanh cao đến đâu; hoặc chỉ đơn thuần là sự phản tỉnh đẹp và thích thú về cuộc sống và về thế giới, mà không mảy may chạm đến cuộc sống và thế giới của chính mình; hoặc chỉ là một lời độc thoại tôi nói và tôi tự trả lời, không cố gắng tạo ra bầu khí thinh lặng cần thiết để lắng nghe tiếng Chúa.
1. Trong phúc âm Lc, dụ ngôn người biêt phái và người thu thuế được tiếp đón sau dụ ngôn vị thẩm phán bạo ngược. Không có gì chứng minh hai dụ ngôn này được đưa ra trong cùng một hoàn cảnh. Có lẽ chúng được liên kết với nhau vì có cùng chủ đề tương tự. Mỗi dụ ngôn đều có phần nhập đề đặc biệt. Mạch văn ghi lại những giai thoại cuối cùng trong hành trình tiến về Giêrusalem. Lc giống Mt và Mc ở điểm này. Dụ ngôn xem ra được đưa ra tại Perée hoặc Giuđêa ít lâu trước khi CGS đi tới Giericô lần cuối cùng. Bản văn đã giúp xác quyết các dữ kiện đó. Dụ ngôn chạm trán, không chút vị nể, sự công chính giả hiệu của người biệt phái. CGS đã không đợi đến ngày cuối cùng mới làm việc đó, nhưng đúng hơn ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, tuy nhiên Ngài tránh dịp đả kích.
2. Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng CGS muốn dùng dụ ngôn này để dạy về sự cầu nguyện, hoặc bề sự khiêm tốn, hoặc về sự cầu nguyện khiêm tốn, đó là những điểm nhấn mạnh trong những lời chú giải. Họ xây dựng ý kiến đó trên sự kiện dụ ngôn được bao gồm trong một cơ cấu về việc cầu nguyện, theo sau vị thẩm phán bạo ngược và nhất là dựa trên những nét chính dụ ngôn: dụ ngôn không được xây dựng do những lời cầu nguyện của người biệt phái và người thu thuế sao ? Cách chung, các tác giả này xem câu châm ngôn: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” như là câu kết thúc trình thuật dụ ngôn.
Đa số các nhà chú giải cho rằng CGS có lý khác. Khi mô tả người biệt phái cầu nguyện. Ngài không muốn dạy về sự cầu nguyện cho bằng phơi trần hai đời sống nội tâm. Phải chăng lúc cầu nguyện là lúc người ta được coi là chân thành hơn hết đó sao ? Vậy dụ ngôn có mục đích dạy về các giá trị của hai trạng thái tâm hồn, hai thái độ nội tâm, hai mặc cảm tinh thần: mặc cảm của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của mình và mặc cảm của người thu thuế, tuy là tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của TC.
Tất cả đều làm nổi bật quan niệm đó: thể văn dụ ngôn đưa ra hai khuôn mặt đối nghịch, chỉ mình CGS mới xét đoán ai công chính, ai không. Câu nhập đề cũng nghiêng theo quan điểm đó: “CGS nói dụ ngôn sau đây với những ai thường tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác”. Dụ ngôn dạy những người tự phụ, bằng cách cho họ thấy rõ ràng tính tự kiêu và vẻ hợm hĩnh họ bày tỏ trước mặt TC, trong khi những người bị họ khinh chê, nhờ ăn năn hoán cải, đã được ơn tha thứ và ơn công chính hóa.
3. Thông thường, các dụ ngôn trình bày những sự vật hay con người để dùng bản chất hay việc làm của họ để dạy về các thực thể thuộc bình diện cao hơn. Ngược lại, dụ ngôn hôm nay chỉ là một ví dụ.
CGS đã vắn tắt phác họa hai khuôn mặt nổi tiếng. Không nên có tiên kiến khi phân tích hai khuôn mặt đó. Từ nhiều thế kỷ, người biệt phái đã thành một loại chiên hy sinh (bouc émissaire); một số nhà chú giải còn muốn tô đậm hơn các nét mà CGS đã sơ họa. Chớ làm thế. Một khuôn mặt luôn ngụ một ý nào đó; nếu quá nhấn mạnh nó sẽ thành hài hước và cuối cùng không gây được một cảm tưởng nào.
Ví dụ, khi người biệt phái cảm tạ Chúa vì mình không như những kẻ khác, thật là ép nghĩa khi xem người biệt phái đó muốn đối chiếu bản thân ông là người công chính; bên kia là tất cả mọi người khác, họ đều là người hư hỏng. Nhiều nhà chú giải nghĩ phải hiểu ngầm có thêm câu “như những người khác không phải là biệt phái": cách nói này có thể chấp nhận. Ngoài ra, người biệt phái không xem tất cả các người khác không phải là biệt phái đều là những quái vật. Đừng hiểu cách vô hạn định thành ngữ hoi loipoi tôn ânthrôpôn. Nếu dịch thành ngữ này là “các người còn lại” thì quá mạnh nghĩa; có lẽ nên dịch là “các người khác”, hay “quần chúng nói chung”. Hoặc nếu muốn hiểu thành ngữ đó theo nghĩa mạnh thì phải xem người biệt phái đã cố ý khoa trương như tác giả Tv (Tv 14,2-3). Việc đối chiếu người đạo đức với các kẻ gian ác là một chủ đề thường gặp trong các Tv (Tv 1,14; 16,17...). Việc người biệt phái có khuynh hướng gán ghép điều ác cho kẻ khác và điều thiện cho bản thân mình là một việc có thể có. Ông sai lầm ở chỗ là tạo nên ảo tưởng đó ngay trước mặt TC. Ông hơi hợm hĩnh, buồn cười, nhưng sự kiêu ngạo của ông không lạ lùng gì, vì thường ai cũng thế.
Và vì hình ảnh người biệt phái có vẻ có như trong thực tế, và vì lời ông cầu nguyện xem ra chính đáng, nên dụ ngôn đã làm cử tọa kinh ngạc và khó hiểu. Sách Tamud ghi lại một lời nguyện ở thế kỷ I khá tương tự với lời nguyện của người biệt phái: “Lạy Chúa là TC của con, con cảm tạ Chúa vì đã cho con nhập bọn với các người đầu đường xó chợ, con đã lên đường sớm như họ: nhưng con sớm đi theo Lời của Lề luật còn họ sớm theo phù vân giả dối. Con từng vất vả như họ: con chịu vất vả để trọng thưởng, còn họ chịu vất vả mà chẳng gì. Con chạy họ cũng chạy: con chạy về sự sống của thế giới mai sau, còn họ chạy về hố thẳm diệt vong (b Ber 28b).
Lời nguyện của người Biệt phái do đó là một lời nguyện rút từ cuộc sống cụ thể, và b Ber 28b là lời chú giải chính xác về thành ngữ “con cảm tạ Chúa” của câu 11. Người biệt phái chân thành cảm tạ Chúa đã hướng dẫn đời sống ông. Ông biết rằng chính TC đã cho ông sống khác biệt và tốt hơn người khác, rằng chính Ngài đã cho ông gia nhập nhóm những người biết nghiêm túc tuân giữ các bổn phận tôn giáo. Ông không muốn hoán đổi cuộc sống ông với suộc sống của kẻ khác dù họ có một đời tốt đẹp hơn, vì ông hứa rằng: đường ông đang đi, dù gặp bao khó khăn gian khổ, cuối cùng cũng sẽ đưa đến “sự sống của thế giới mai sau”. Đó chẳng phải là những lý do để cảm tạ hay sao (c.12 cũng là lời cảm tạ). Hãy lưu ý thêm điều này: lời nguyện của người biệt phái không chứa đựng một lời van xin gì cả, mà chỉ là một lời cảm tạ, tri ân. Thật là điều tuyệt hảo, không ai mà lại không ao ước như thế. Đó chính là tiền nếm sự sống vĩnh cửu. Cầu nguyện như thế, có gì cần phải sửa đổi?
4. Chúng ta cũng phải khảo sát lời cầu nguyện của người thu thuế với cái nhìn của người đương thời. Bản văn nói là ông ta không dám nhìn lên và hơn nữa - đây là điều hiểu ngầm - không dám đưa tay lên trời như ông vẫn thường làm khi cần nguyện. Ông cúi đầu và đấm ngực: đây là một cử chỉ hoàn toàn lạ thường biểu lộ một nỗi thất vọng sâu xa. Ông ăn năn đấm ngực, không để ý gì đến nơi đang đứng; ông đau khổ vì thấy mình quá xa TC; hoàn cảnh của ông cũng như gia đình của ông, thật vô vọng, bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là từ bỏ nghề nghiệp của ông, nhưng còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền mà ông đã tham nhũng. Làm sao biết ông đã biển thủ ai ! hoàn cảnh của ông, cũng như lời cầu nguyện của ông, thật là vô vọng.
Chính lúc đó, câu 14a kết luận: “Ta bảo các ngươi, người này ra về khỏi tội, còn người kia thì không ! TC đã tha thứ cho người này mà không tha thứ những kia. Đó chính là câu kết luận khiến thính giả CGS bỡ ngỡ; chắc chắn không ai trong họ ngờ điều đó. Vậy người biệt phái đã có thể làm gì ? Và người thu thuế sẽ phải sửa đổi làm sao ? Nếu bỏ câu 14b (có lẽ là câu kết luận tổng quát Lc thêm vào), CGS không thèm đưa ra một giải pháp nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản: đó là cách TC xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao TC xem ra bất công. Trong tiếng kêu đầy thất vọng, người thu thuế đọc lại những câu đầu của Tv 51 (Miserere) và chỉ thêm: “thương xót tôi là kẻ có tội” (một nghĩa đối nghịch): “Lạy Chúa, xin thương xót tôi dù tôi là kẻ tội lỗi” (c.13). Nhưng trong chính Tv 51 này cũng có nói: “Của lễ TC ưa chuộng chính là tâm hồn tan nát khiêm cung” (Tv 51,19). CGS nói TC xử sự như Tv đã viết. Ngài nhận lời những tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự “công chính” của riêng mình. Ngài là TC của những người thất vọng và lòng thương xót của Ngài vô biên đối với những ai có tâm hồn tan nát. TC thế đó ! và bây giờ, bắt chước Ngài, tôi cũng hành động như vậy.
KẾT LUẬN
CGS đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng là “đạo đức”. Họ tự công chính hóa bản thân mình, trong khi đúng ra phải để Chúa công chính bản thân họ, vì chỉ Ngài có thể làm công việc đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Qua dụ ngôn này, Chúa đề nghị chúng ta chọn giữa hai thái độ tinh thần, hai cách thức nhận ra tương quan chúng ta với Ngài.
Thái độ của người biệt phái chứng tỏ ông có ý thức về các cố gắng đã chu toàn, các tiến bộ bản thân ông đã thực hiện, khoảng cách giữa tình trạng hiện thời lành thánh và tình trạng khả thể tội lỗi của mình. Ông rất quan tâm đến điều đó và đặt tin tưởng vào những thành tích tinh thần của mình (ăn chay, dâng 1/10 ...) Ông có một cái gì đó để làm chứng trước tòa TC; ông còn thấy mình “chắc ăn” hơn khi sánh mình với những người có thành tích thua mình.
Người thu thuế đo lường khoảng cách giữa tình trạng hiện thời tội lỗi và tình trạng phải trở nên lành thánh của mình; khoảng cách này đối với ông không có gì là rõ ràng cả. Tuy nhiên ông không trì trệ đối với điều đó. Ông kêu van lòng thương xót, ông không tìm cách được công chính hóa bằng một thành tích tốt lành... Xin Chúa hãy hành động.
Người thứ nhất nhìn sau lưng ông và tự mãn bằng sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình. Người thứ hai nhìn trước mặt mình và xin TC giúp. Người thứ nhất nhìn chính mình, người thứ hai nhìn TC - và đó là điều cứu vớt ông.
2. TC chúc phúc cho lòng khiêm cung tín thác. Lòng khiêm cung cốt ở chỗ phơi bày tâm tư trước mặt TC. Nó được tạo nên do sự sáng suốt và sự tín thác. Sự sáng suốt soi sáng tâm trí về trạng thức của lương tâm. Nó khám phá ra những bất hạnh lớn lao và xem ra bị vây hãm trong sự thất vọng, chán chường. Thế nhưng sự tín thác đến để nâng đỡ tâm hồn. Khám phá ra sự bất hạnh của mình dưới cái nhìn của TC để biết rằng TC là tình yêu, chính là kêu xin sự tha thứ và lòng xót thương một cách rất bảo đảm. Nếu thành thực, nghĩa là quyết tâm thực hành việc ra khỏi bất hạnh của mình, ta sẽ được tha thứ.
Ngược lại, sự tự túc tự mãn làm mếch lòng TC khi đem ra khoe khoang trước mặt Ngài hoặc người bên cạnh. Ai trong chúng ta lại không bị cám dỗ tự “công chính hóa” trước người bên cạnh, trước mặt những người khác ? Có thực sự chấp nhận đường lối khiêm như làm hài lòng TC ? Chúng ta rất dễ bị cám dỗ nâng mình lên. Thử xem chúng ta phản ứng thế nào khi bị người khác đánh giá quá thấp. Cũng như lòng khiêm như tín thác làm hài lòng TC, sự nhún nhường thành thật khiến chúng ta làm vừa lòng người khác. Trong cả hai trường hợp, tâm hồn cảm thấy dễ dàng đón nhận, trao đổi, vui mừng.
3. Đừng kiêu ngạo hoặc tự đắc về việc đạo đức của chúng ta. Khi tham dự thánh lễ, chúng ta chỉ chu toàn bổn phận tối thiểu của người Kitô hữu. Chúng ta đừng bằng lòng về một sự hiện diện duy hình thức, không hiến dâng thân mình làm hòa với lời nguyện tôn thờ, van xin của phụng vụ, nhưng hãy làm hòa lẫn mọi ý hướng và thái độ nội tâm với mọi nghi lễ, kinh nguyện phụng vụ. Đừng bắt chước kiểu công chính biệt phái: đứng trên cao nhìn xuống phê phán người ta, dù họ có mặt hay vắng mặt. Chỉ mình TC mới thấu triệt các lý do họ hành động, các tâm ý cũng như các khó khăn họ gặp phải. Chúng ta đừng xuất hiện trước mặt TC như những quan tòa phê phán tha nhân, nhưng như những người thờ lạy thống hối, khiêm cung.
BÀI ĐỌC 1: Huấn ca 35,12-14; 16-18= Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức./ Không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa.
BÀI ĐỌC 2: 2Timôthê 4, 6-8; 16-18= Tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử, Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời.
TIN MỪNG(Gospel): Luca 18, 9-14= Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. / For everyone who exalted himself be humbled while he who humbles himself shall be exalted.
A- Ý Chúa nói gì với con qua ba bài đọc trên (Reflection, live out and share)
1/ Bài Tin mừng hôm nay Chuá Giêsu cho tôi biết một dụ ngôn đừng có tự hào cho mình là người tốt lành mà khinh chê anh em như sau: ngươì Pharisêu tự kiêu và khinh chê người khác. Còn người thu thuế đứng xa đấm ngực: …chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”(Lc 18,13) Ngay lúc này Chúa Giêsu đà chữa lành tâm hồn anh và được công chính. Người Pharisêu có thể là tôi. Hãy bắt chước cách cầu nguyện người thu thuế..
2/ Chúa nói đã nói cho bạn biết là người Pharisêu không được sạch tội và ngài kết luận: Vì phàm ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”(Lc 18,14) Sách gương phúc nói: Đừng nghĩ mình hơn ai, nếu không Chúa thấu suốt mọi người sẽ bạn là người xấu nhất. Đừng hãnh diện vì những việc đã làm, vì lý đóan của Chúa khác người đời. Bạn hãy cậy vào Chúa là Đấng yêu người khiêm tốn và hạ kẻ kiêu ngạo. Bạn hãy khiêm nhượng thì tâm hồn lúc nào cũng được bình an.
3/ Bài sách Huấn ca hôm nay nhắn nhủ tôi như sau: “Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây.” (Hc 35,16) Chúa luôn tỏ cho bạn biết là Ngài không thiên vị ai, luôn bênh vực kẻ nghèo hèn về thể xác lẫn tâm hồn. Ngài sẵn sàng giúp những ai bị áp bức, lưu ý những lời kêu khấn của kẻ mồ côi và tiếng than van của người goá bụa. Chúa thật là Đấng công minh và chính trực! Tôi hãy khiêm tốn và kiên trì câù nguyện như những người kể trên.
4/Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê đã phấn khởi và tin tưởng như sau: “Nhưng có Chúa đứng bên cạn, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để…và tất cả dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.” (2Tm 4, 17) Phaolô đã ví mình như là lực sỉ vào thi đấu cho đức tin của mình, cùng với những ai đang hết tình mong đợi ngày Chúa đến với mỗi người. Như vậy bạn cần can trường chiụ khổ cực, hiểm nguy để Chúa sẽ cứu bạn vào vương quốc bình an của Ngài. Bạn hãy chiến đấu để rao giảng Lời Chúa cho hòan thành.
B- Lời Chúa tôi ghi nhớ tuần này: (The Best God’s Word: Luca 18, 14)
AI NÂNG MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG; CÒN AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN.
For whoever exalts himself will be humbled, and the one who humbles himself will be exalted
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì: (So what am I doing / For Action)
Tôi có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
D- Tôi khiêm tốn cầu nguyện và Sống cầu nguyện: (I pray and practice/ Pray in Action)
Lạy Cha, Đức Giêsu đã nói: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Xin cho con đừng hãnh diện về việc thiện đã làm, vì không có Chúa con chẳng làm được việc gì.!
*** Hoa thơm cỏ lạ: TRONG SỰ CẦU NGUYỆN, THIÊN CHÚA LẮNG NGHE TIẾNG LÒNG CUẢ BẠN
1) Ý CHÍNH: Nhằm dạy bài học khiêm nhường cho các người Pharisêu hay tự mãn về sự công chính của mình, Đức Giêsu kể ra một dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện như sau:
- Người Pharisêu: Có thái độ tự cao tự đại, thể hiện qua cử chỉ đứng thẳng người trước bàn thờ mà cầu nguyện. Nội dung lời cầu của ông ta gồm những lời chỉ trích người khác và báo cáo về thành tích của mình.
- Người thu thuế: Có thái độ khiêm tốn, thể hiện qua cử chỉ đứng xa xa, cúi đầu đấm ngực mà cầu nguyện. Nội dung lời cầu nguyện của ông ta là một lời xin Chúa dủ lòng thương xót thân phận tội lỗi của mình.
Cuối cùng Đức Giêsu kết luận rằng: người thu thuế vì đã hạ mình xuống, nên sẽ được Chúa nâng lên và ban ơn tha tội khi ra về. Còn người Pharisêu vì tự nâng mình lên, nên sẽ bị Chúa hạ xuống và không nhận được ơn tha tội khi về nhà.
2) CHÚ THÍCH: - Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế (Lc 18,9-10): + Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người…:Câu mở đầu cho thấy chủ đích của dụ ngôn nhằm chỉ trích những người hãnh diện về sự công chính của mình (x. Lc 15,7).
+ Người công chính: Là người được Chúa tha thứ tội lỗi và nhờ đó trở nên một người thánh thiện, luôn làm những điều đẹp lòng Chúa.
+ Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Đền thờ là nơi cầu nguyện của người Do thái. Người ta tụ tập ở đền thờ vào những ngày Sa-bát, ngày lễ, ngày chay…để nghe đọc Sách Thánh, hát Thánh Vịnh và cầu nguyện. Tuy nhiên mỗi người đều có thể đến đó cầu nguyện vào những giờ đền thờ mở cửa.
+ Một người thuộc nhóm Pharisêu: Đây là nhóm người tự tách ra khỏi quần chúng. Họ giữ Luật nghiêm ngặt trong từng chi tiết và tự hào mình là người công chính. Họ làm mọi việc cốt để cho người ta trông thấy. Vì thế họ đeo những hộp kính thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi ở nơi công cộng và được thiên hạ xưng hô là “Thầy” (ráp-bi) (x. Mt 23,5-7).
+ Còn người kia làm nghề thu thuế: Đây là hạng người bị dân chúng đồng hóa với kẻ tội lỗi và khinh dễ xa lánh. Lý do là vì họ đã cộng tác với chính quyền Rô-ma và còn hay ăn chặn tiền thuế của người ta đóng để làm giàu bất chính. - Người Pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12): + Người Pharisêu đứng riêng một mình…: Pharisêu có nghĩalà tách biệt. Ở đây người Pharisêu tự tách ra khỏi những người khác cùng vào đền thờ cầu nguyện ba lần trong ngày. Nhất là tách biệt với tên thu thuế đang đứng ở đàng xa kia.
+ Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia…: Người Pharisêu này tạ ơn Chúa vì đã cho mình không mắc phải những thói xấu phổ biến thời đó như tham lam, bất công, ngoại tình…giống như nhiều người khác.
+ Con ăn chay mỗi tuần hai lần: Thường luật chỉ buộc ăn chay vào ngày lễ xá tội nhằm ngày 10 tháng 7 hằng năm (x. Lv 16,29). Ngoài ra những người Pharisêu còn ăn chay thêm mỗi tuần hai ngày vào thứ hai và thứ năm để lập thêm công nghiệp (x. Lc 5,33).
+ Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con: Người Do thái công nhận Thiên Chúa đã cho họ được có của ăn dồi dào phong phú, nên họ dâng một số hoa quả đầu mùa tượng trưng để tạ ơn Thiên Chúa. Luật cũng qui định phải nộp thuế một phần mười, đánh trên các hoa màu như lúa mì, rượu mới,dầu tươi và những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê (x. Đnl 14,22-23). Các người Pharisêu không những đã chu toàn bổn phận nộp thuế theo luật dạy, mà còn nộp thuế cả về các thứ rau quả khác nữa (x. Lc 11,42). Tóm lại, người Pharisêu này lên đền thờ không phải để cầu xin Chúa, mà để kể cho Chúa nghe về đời sống luân lý tốt lành hơn người và những thành tích đạo đức vượt bậc của mình. - Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Tôi nói cho các ông biết: Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,13-14): + Còn người thu thuế thì đứng đàng xa…:Người thu thuế cũng thưa thật với Chúa về thân phận tội lỗi của mình. Ong không dám đứng gần nơi cực thánh, không dám đứng thẳng người hay ngước mắt nhìn trời như người Pharisêu. Thái độ và lời cầu xin của người thu thuế đẹp lòng Chúa và ông đã được đổi mới từ tình trạng tội lỗi trở nên công chính.
+ Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi: Người thu thuế chỉ còn biết cúi đầu đấm ngực ăn năn vì cái nghề thu thuế của ông đã biến ông trở thành tội nhân trước mặt Thiên Chúa và người đời. Ong chỉ còn biết kêu xin Chúa thương xót tha tội như lời Thánh Vịnh 50. Chính thái độ khiêm tốn đó là điều kiện để ông được ơn cứu độ.
+ Người này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính: Người Pharisêu tưởng rằng chỉ cần làm các việc đạo đức như ăn chay cầu nguyện và bố thí là đương nhiên sẽ được nên công chính. Nhưng ở đây Đức Giêsu cho thấy không phải vậy. Sự công chính là một ơn huệ mà chỉ những ai khiêm hạ mới được Thiên Chúa ban cho mà thôi.
+ Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Câu này đã có ở Lc 14,11. Ở đây được thêm vào để kêu gọi người ta hãy sống khiêm tốn dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Vì Chúa luôn hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu (x. Lc 1,25).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
2) CÂU CHUYỆN:
a- HÃY DÂNG LÊN CHÚA CẢ NHỮNG TỘI LỖI CỦA TA NỮA:
Vào một đêm Giáng Sinh, thánh Hiêrônimô đang quì bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, thì bỗng Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói lòa. Người hỏi thánh nhân: “Hiêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?” Thánh nhân đáp: “Lạy Chúa Hài Đồng. Con xin dâng trái tim nhỏ bé của con”. Chúa đáp: “Được lắm. Nhưng còn gì khác nữa không ?” Thánh nhân thưa: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể làm được”. Chúa hỏi tiếp: “Ngoài những cái đó ra, con còn gì khác nữa không ?” Thánh nhân khẩn khoản thưa: “Nào con còn có cái gì khác nữa để dâng Chúa đây ?”Chúa bảo: “Này con. Hãy dâng cho Ta những tội lỗi của con”. Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại: “Oi lạy Chúa. Làm sao con dám dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?” Chúa đáp: “Được chứ ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta hằng mong đợi”. Nghe thế, thánh nhân bật lên khóc nức nở vì vui mừng sung sướng.
b- GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SÁM HỐI:
Người Hồi giáo có câu chuyện về lòng sám hối như sau: Ngày kia Đấng Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất thì lấy đem về trời cho Ngài. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường, nơi máu của các anh hùng liệt sĩ đang chảy lai láng để bảo vệ quê hương. Sứ thần thu nhặt một ít máu ấy mang về cho Đấng Ala. Nhưng xem ra Đấng Ala không mấy hài lòng phán: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều đáng quí. Nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải xuống thế lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng có lòng quảng đại. Vô số người nghèo đi sau quan tài. Họ vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân của mình. Sứ thần liền thu lại một ít hương thơm và đưa về trời. Lần này Đấng Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng ngài vẫn chưa hài lòng nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng ta nghĩ rằng vẫn còn có cái gì đó tốt đẹp hơn thế nữa”.
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh xuống trần gian. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp nơi. Một buổi chiều nọ, khi ngồi nghĩ chân bên vệ đường, sứ thần bỗng nghe thấy có tiếng ai đó đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi của sứ thần, người kia giải thích như sau: “Tôi đã nhiều lần chiều theo ma quỷ cám dỗ mà phạm nhiều tội xấu xa. Giờ đây nước mắt trở thành của ăn hằng ngày của tôi !”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và vội vã bay về trời dâng cho Ala. Ngài chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành sứ mệnh. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp hữu ích và đáng quý bằng lòng sám hối. Bởi vì chỉ nó mới có sức làm người ta đổi mới cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng thù hận trở thành mùa xuân ấm áp của tình yêu thương !”
c- TẠI SAO MA QUỶ KHÔNG ĐƯỢC THA TỘI ?
Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng: “Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào !”. Chúa liền hỏi nó rằng: “Tại sao ngươi lại dám bảo Ta đối xử không công bằng ?” Bấy giờ tên quỷ kia mới đáp: “Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều thứ tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc Thiên Đàng đời đời cho chúng. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đã đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao ?” Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói với tên quỷ rằng: “Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỷ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa ?” Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỷ liền thét lên rằng: “Ma quỷ chúng ta không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả”. Nói thế rồi quỷ liền cong đuôi chạy mất.
3) SUY NIỆM:
- Khi Đức Giêsu kết luận người thu thuế ra về và được nên công chính, còn người Pharisêu thì không, chắc hẳn các thính giả đang nghe Người đều ngạc nhiên chưng hửng. Vì người Pharisêu kia đã tỏ ra mẫu mực trong việc tuân giữ lề Luật: Những điều xấu xa tội lỗi ông ta đã không làm. Còn những điều Luật đòi hỏi thì ông lại làm nhiều hơn thế nữa. Vậy tại sao Chúa lại không chấp nhận lời cầu nguyện của ông ? Tại sao Chúa lại ưu ái người thu thuế tội lỗi kia, mặc dù anh ta chưa quyết tâm từ bỏ cái nghề tồi tệ đó, và cũng chẵng thấy anh ta hứa sẽ đền bù những thiệt hại đã gây ra cho người khác ?
- Nhưng khi xét lại thì chúng ta thấy cách hành xử của Thiên Chúa tuy có khác biệt nhưng lại rất hữu lý. Thật vậy, người Pharisêu đã có những cử chỉ và lời cầu thật đáng trách: Ong ta đng tách biệt với những kẻ khác mà ông đánh giá là tồi tệ. Đặc biệt ông có thành kiến với tên thu thuế đang đứng đàng kia. Lời cầu của ông là một bản cáo trạng tội lỗi người khác và đề cao thành tích cá nhân của mình, tự mãn về một số việc tốt đã làm được và cảm thấy mình không cần xin Chúa ban điều gì nữa.
- Ngược lại với người Pharisêu là người thu thuế. Ong này xấu hổ về tội lỗi của mình, nên không dám ngước nhìn lên Chúa, và cũng chẳng dám đứng gần tha nhân. Ong thấy mình quá bất xứng và chỉ còn biết trông cậy vào lòng khoan dung của Chúa. Ong chỉ biết cúi đầu đấm ngực mà thưa rằng: “Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội !” Nhưng chính thái độ khiêm nhường thú tội đó lại là kẽ hở để Chúa có thể đi vào cuộc đời của ông và ban ơn tha tội, biến ông trở nên công chính.
- Tội lỗi hay nhân đức đều có thể giúp ta nhận được ơn Chúa hay không. Muốn nhận được ơn Chúa để trở nên công chính, thì điều quan trọng là ta phải ý thức mình tội lỗi bất xứng và cần được Chúa ban ơn tha thứ. Như vậy người Pharisêu không được Chúa thương là do thái độ kiêu căng khinh thường tha nhân và tự mãn về thành tích của mình. Còn người thu thuế đã được tha tội và trở nên công chính vì đã khiêm nhường thú nhận tội lỗi và xin Chúa dủ lòng thương xót.
4) THẢO LUẬN:
a- Khi được người khác khen một ưu điểm, bạn sẽ phản ứng thế nào để noi gương khiêm nhường của Đức Maria (x. Lc 1,45-49) ? Bạn có thường khen người dưới khi họ làm được một điều tốt hay không ?
b- Khi biết một người lỗi phạm một điều có hại cho tập thể, bạn nên giữ thái độ im lặng để giữ gìn hòa khí hay phê bình để sửa lỗi cho họ ? Theo tinh thần Tin Mừng, bạn cần phải sửa lỗi cho tha nhân như thế nào để đạt kết quả tốt nhất (x. Mt 18,15-17) ?
II. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI, Trước Thánh Nhan Cha, chúng con chỉ biết noi gương người thu thuế mà thưa rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Thật vậy, đối với Chúa, chúng con chỉ là hư không. Những việc tốt chúng con làm được xét cho cùng là do ơn Chúa ban, và có là gì so với những việc tốt lành Chúa đã làm cho chúng con.
LẠY CHÚA, xin giúp chúng con ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Xin giúp chúng con tránh thói kiêu căng tự mãn của người Pharisêu. Xin cho chúng con biết tôn trọng mọi người và không bao giờ dám tự mãn về những việc tốt đã làm được. Xin cho chúng con biết luôn dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa về những ơn lành Chúa đã thương ban. Xin cho cuộc sống của chúng con là một chuỗi những lời tạ ơn Chúa, khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, vì chúng con biết rằng mọi sự Chúa để xảy đến cho chúng con đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) LẠY MẸ MARIA, Những tội chúng con sai lỗi đều là những điều xúc phạm đến tình thương của Chúa và khép cửa lòng mình trước tha nhân. Chúng con đã lấy mình làm trung tâm và đòi mọi người phải luôn qui hướng về mình. Xin Mẹ giúp chúng con đừng hãnh diện về công trạng và thành tích cá nhân của mình, nhưng biết nhìn thấy những nén bạc Chúa trao mà chúng con chưa sinh lợi. Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ, nhưng luôn hy vọng hướng đến tương lai.
LẠY MẸ, xin cho chúng con đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân. Ước gì chúng con có quả tim hiền lành và khiêm nhường trong lòng như Chúa Giêsu, người con yêu của Mẹ, để chúng con có thể mở ra trước những đời hỏi của Tin Mừng Nước Thiên Chúa và đáp ứng những nhu cầu của tha nhân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ không ít lần chạm trán với mấy ông Pharisêu và Kinh sư. Trong những lần như thế, Chúa Giêsu nhận thấy thái độ của những “ông kẹ” này là hay vênh vang, lên mặt dạy đời, đồng thời cũng tự cho mình là công chính, đạo đức nên tỏ ra khinh khi, xem thường người khác. Chính vì thế, dụ ngôn “người Pharisêu va người thu thuế” rất riêng của thánh sử Luca cho chúng ta biết thế nào là thái độ cầu nguyện được Thiên Chúa vui thích và chấp nhận.
THÁI ĐỘ CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI PHARISÊU
Bắt nguồn từ nhóm người đạo đức (Hassidim) có từ thời Macabê, những người Pharisêu hay còn gọi là nhóm biệt phái sống tách biệt thành những cộng đoàn nhỏ, chuyên cần suy niệm Lời Chúa và tuân giữ cách tỉ mỉ mọi lề luật thành văn cũng như truyền khẩu. Theo các nhà Kinh thánh, có lẽ Chúa Giêsu ngay từ bé cũng đã được nhóm người này dạy dỗ về giáo lý và cầu nguyện trong những dịp lễ hội diễn ra tại hội đường Dothái. Tuy nhiên, với thời gian, phần lớn trong số họ đã sống “biệt phái” theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nó. Mẫu người Pharisêu cầu nguyện mà Chúa Giêsu đưa ra hôm nay là một điển hình.
Chúng ta thấy câu đầu tiên trong lời cầu nguyện, ông Pharisêu nói với Chúa, nhưng từ câu thứ hai trở đi, ông kể tội người khác và chỉ nói về mình. Ông tự mãn và kiêu hãnh khi so sánh mình với người khác và nhận thấy mình hơn hẳn “bao kẻ khác” về khoản không tham lam, bất chính và ngoại tình. Ông không đấm ngực mình để ăn năn sám hối mà quay sang đấm ngực người thu thuế tội nghiệp kia. Ông đã đạp người thu thuế, đạp mọi người xuống bùn đen để tự đề cao mình cho Thiên Chúa cũng như cho người khác thấy. Chưa dừng lại ở đó, người Pharisêu còn dông dài kể lể thành tích công nghiệp của mình. Nào là ăn chay một tuần hai lần quá với lề luật đòi hỏi; nào là thường xuyên đóng góp 1/10 lợi tức cho Đền thờ. Giờ cầu nguyện, nhưng chúng ta thấy, người Pharisêu chả cần cầu xin gì cả, ông cứ thao thao bất tuyệt báo công mình, kể tội người, mình nói mình nghe, Thiên Chúa đóng vai trò phụ không hơn không kém. Thực hiện xong điều mà ông gọi là bổn phận cầu nguyện, ông hả hê ra về, dương dương tự đắc với chính mình cũng như đối với tha nhân.
Chúng ta có thể thấy thái độ của người Pharisêu là thái độ quy kỷ, tức là lấy cái tôi của mình làm chuẩn mực, làm trung tâm thay vì phải quy hướng về Chúa. Ông cho rằng, những công nghiệp mà ông có được như ăn chay, bố thí, … đủ sức cho ông có được tấm vé của sự công chính, được tha mọi tội lỗi. Nói khác đi, người Pharisêu trong lúc cầu nguyện, mắt nhìn Chúa nhưng tâm hồn ông đã khép kín, đã đóng chặt trong cái tôi tự mãn, tính kiêu ngạo của mình.
THÁI ĐỘ CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI THU THUẾ
Nhắc đến người thu thuế, xã hội Dothái thời Chúa Giêsu luôn xem là loại người tội lỗi cách công khai, bởi họ cách nào đó đã phục vụ quân Rôma xâm lược, bắt chẹt dân đen. Thu thuế, vì thế được xếp vào một trong những nghề bất hảo nhất, hết thuốc chữa của thời đại, không còn niềm hy vọng gì. Hơn ai hết, người thu thuế biết thân phận mình. Chính vì thế, bước vào nơi linh thánh, anh không dám tiến gần đến nơi cực thánh, chỉ tìm nơi khuất từ xa xa như thể ẩn mình trước Đấng tuyệt đối. Không giống như người Pharisêu vênh vang, kênh kiệu, anh chẳng dám ngước mắt lên trời, tay không ngừng đấm ngực, miệng không ngớt lời thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Người thu thuế đứng đó và nói lên sự thật, rằng anh là con người tội lỗi, cần được Chúa xót thương. Anh đứng nơi ẩn khuất từ xa trong đền thờ vì cho rằng mình không xứng đáng để được buớc đến gần thánh nhan Thiên Chúa; chẳng dám ngước mắt nhìn trời, anh tự nhận rằng con người tội lỗi của anh chẳng đáng để Chúa lắng nghe; anh không đấm ngực kẻ khác, chỉ không ngừng đấm ngực mình hối lỗi ăn năn. Đứng trước Đấng chí thánh, anh chẳng có điều gì để khoe khoang, để báo công trạng, anh chỉ biết có mỗi một điều: anh là kẻ tội lỗi và giờ đây, điều anh cầu xin là mong được Thiên Chúa dủ lòng thương xót. Chính vì thế, lời cầu nguyện của anh trở thành lời cầu nguyện tuyệt vời nhất. Tuyệt vời, vì anh thật tâm thống hối. Tuyệt vời, vì anh thật sự trải rộng tâm hồn với Thiên Chúa. Tuyệt vời, vì anh trông cậy vào Thiên Chúa chứ không dựa vào sức riêng của mình. Tuyệt vời, vì anh ra về trong sự thanh thản của tâm hồn và chắc chắc người vui mừng nhất chính là Thiên Chúa vì Người vừa tìm lại được con chiên đi lạc. “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Hẳn đó cũng chính là tâm tình của mỗi chúng ta khi đến trước Nhan Chúa. Bởi điều Thiên Chúa cần không phải là thành tích “có đạo”, ăn chay bố thí mà chính là tấm lòng khiêm nhường, nhận ra những giới hạn yếu đuối và tội lỗi của mình, mong được trở về bên Chúa để được Người yêu thương và giữ gìn.
Cầu nguyện là điều cần thiết nhất của mọi tôn giáo. Con người sống trong một thế giới văn minh hiện đại, một thế giới có nhiều tiếng ồn ào khua náo: nào tiếng xe, tiếng máy nổ, tiếng chân đi, tiếng động của muôn vàn thứ, như vậy họ như bị thu hút từ sáng tới tối, tới khuya bởi hàng loạt tiếng động. Liệu con người có biết ngồi lại bình tâm suy nghĩ để lắng động tâm hồn mà suy nghĩ lại cuộc đời hoặc nhìn lại những khoảng khắc đời mình để cảm tạ Đấng tạo hóa đã yêu thương tác dựng nên mình hay không ? Như vậy, thinh lặng xem ra không thể thiếu được trong đời bởi vì có thinh lặng người ta mới thấy lại mình và người ta mới nhận ra phải cám tạ tri ân Thiên Chúa. Tin Mừng và phụng vụ Chúa nhật 30 thường niên đưa ra hai mẫu người cầu nguyện: người Pharisiêu và người thu thuế. Cả hai người đều ra trước mặt Chúa, đều cầu nguyện nhưng hai thái độ của họ hoàn toàn khác nhau: một người đã gặp Chúa và người kia không gặp được Ngài.
THÁI ĐỘ CẦU NGUYỆN CỦA HAI CON NGƯỜI: NGƯỜI GIẦU VÀ NGƯỜI NGHÈO:
Đoạn Tin Mừng của thánh Luca sáng nay thật hóm hỉnh và dí dỏm khi trình bầy hai con người cùng vào nhà thờ, cùng ra trước Chúa và nói một cách dân dã là cùng khẩn cầu, vái lạy Thiên Chúa: kể công, van lơn và khiêm nhượng đọc kinh, cầu nguyện. Người Pharisiêu là người có địa vị cao trọng trong xã hội Do Thái xưa, thời Chúa Giêsu, họ được liệt vào hàng thông luật, giữ luật một cách hết sức tỉ mỉ nhưng tất cả đều là bề ngoài. Họ bầy ra muôn vàn thứ luật nhưng chính họ lại không giữ mà chỉ đè trên vai trên cổ của những người khác, đặc biệt là những người nghèo. Họ ăn phần của các bà góa, bớt xén của những người nghèo, họ đáng phải khinh bỉ…Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 18, 9-14, thánh sử đã viết một cách rất ấn tượng nhưng cũng rất nực cười khi trưng ra thái độ cầu nguyện của người biệt phái, ông nói với Chúa trong tư thế đứng thẳng hiên ngang, nghĩa là ông coi như ngang hàng với Chúa.Người Pharisiêu đứng thẳng nguyện thầm rằng:”
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác, là những hạng trộm cướp, bất công, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”( Lc 18, 11 ). Rõ ràng người Pharisiêu hết sức tự mạn, kiêu ngạo, ông dám qua mặt cả Chúa mà phán đoán người khác, so sánh với người khác, ông lại còn dám kết án người thu thuế, bởi vì ông dùng ngôn từ:” tên thu thuế kia”, một kiểu nói ngỗ ngược, cao ngạo. Rồi ông kể công một cách vô tội vạ:” Con ăn chay, mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười lợi tức của con”( Lc 18, 12). Còn người thu thuế theo thánh Luca, rất khiêm nhượng, anh đứng tận cuối nhà thờ, không dám ngước mặt lên nhìn Chúa, vì anh tự cảm thấy mình yếu hèn, tội lỗi, không xứng đáng. Anh đấm ngực, một cử chỉ khiêm tốn, rồi anh thầm cầu nguyện:” Lạy Thiên Chúa, con là kẻ tội lỗi, xin thương xót con”( Lc 18, 13 ). Anh nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, cần được ơn tha thứ và lòng dủ thương của Chúa. Như vậy, anh đã thực thi đúng lời Chúa:” Hễ ai hạ mình xuống sẽ được Chúa nâng lên “.
CHÚA CHO THẤY RẤT RÕ:
Người biệt phái không ưa Chúa, ghen ghét Chúa, họ tỏ ra kiêu hãnh, tự mãn, họ giữ luật nhưng không có tấm lòng, Chúa lên án họ:” Khốn thay các ngươi, hỡi người biệt phái ! Vì các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, mọi loại rau cỏ mà bỏ qua chính lẽ công bình cùng với lòng mến yêu Thiên Chúa”( Lc 11, 42 ). Chúa Giêsu còn vạch mặt bọn biệt phái:” Thật nhóm Pharisiêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà”( Lc 11, 39 ).
Lập trường và thái độ của Chúa Giêsu rất rõ, Ngài không chấp nhận cách giữ luật tỉ mỉ, hình thức nhưng không hồn vì đạo của Ngài là đạo tình thương. Nói như thế, không có nghĩa là Chúa Giêsu chủ trương không có luật lệ gì, nhưng Ngài muốn giải thoát con người khỏi ách của lề luật, khỏi cái ràng buộc mà chính loài người bầy đặt ra, Ngài mời gọi con người sống hoàn thiện lề luật, mời gọi con người sống lề luật mới, sống tinh thần mới yêu thương:” Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu người thân cận như chính mình”( Mt 22, 37-39 ). Khi Chúa nói lên điều đó, Chúa muốn dậy loài người, dậy con người rằng mọi người đều có tội, mọi người đều yếu đuối cần phải được Ngài tha thứ và gia ân giáng phúc. Ơn cứu độ được Chúa ban nhưng không cho mọi kẻ tin, lắng nghe và tuân giữ lời Ngài. Như thế, làm sao con người lại dám vênh vang, tự phụ trước mặt người khác được. Vì chỉ mình Chúa là Đấng thấu suốt tấm lòng của từng người mà thôi, chỉ mình Chúa là Đấng thẩm phán chí công mới có quyền xét đoán người khác. Kẻ tự kiêu, tự mãn tự đóng kín lòng không để ơn Chúa khoả lấp, họ không nhận được ơn tha thứ của Chúa. Do đó, mọi người phải khiêm tốn mở lòng ra để đón nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bắt chước Chúa vì Chúa là Đấng thánh và là nguồn của mọi sự thánh thiện.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1-Bạn cảm nghiệm sao về thái độ cầu nguyện của người thu thuế ?
Phụng vụ lời Chúa hôm nay ghi lại việc người Pharisêu và người thu thuế cùng đi lên đền thờ cầu nguyện. Tuy nhiên có một sự khác biệt lớn trong cách thế và thái độ cầu nguyện của mỗi người. Người Pharisêu đứng thẳng người trong nhà thờ đọc lời cầu nguyện, nhưng thực ra là những lời tự bốc thơm. Anh ta tự tâng bốc mình đến nỗi anh ta coi Chúa không là gì khác hơn là cái loa cho anh ta dùng để phô trương về mình. Cái lỗi lầm của anh ta là tự đặt ra cái mẫu mực cho đời sống và hành động của mình và coi mình quan trọng hơn người khác. Người Pharisêu tin rằng cái việc giữ đạo bên ngoài có thể làm cho mình được công chính hoá trước mặt Chúa. Trong lời cầu nguyện anh ta đã phạm tội kiêu ngạo. Anh ta toan coi mình là quan trọng và toan tự lập không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Thánh Phaolô trước khi trở lại, là người Pharisêu, cũng kiêu căng, tự phụ, háo danh. Sau cuộc trở lại, Phaolô đã đổi hẳn toàn diện con người. Lúc này, Phaolô nhận thức rằng mình tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi sự.
Khác với người Pharisêu, người thu thuế trong phúc âm hôm nay cúi đầu tạ tội, và từ thâm tâm kêu cầu xin Chúa thương xót. Người thu thuế tượng trưng cho cái tâm hồn thống hối tội lỗi. Lời cầu nguyện của người thu thuế: Lạy Thiên Chúa, xin thưong xót con là người tội lỗi (Lc 18:13). Người tín hữu đơn thành có bổn phận ăn năn sám hối tội lỗi để xin được tha thứ. Mỗi người đều có tội, nhưng phải luôn cố gắng đạt tới hoàn thiện. Đó là lý do tại sao Chúa cứu thế đến kêu gọi người tội lỗi trở lại.
Bài trích sách Huấn Ca hôm nay cho thấy cái niềm tin của người Do thái coi trọng đức khiêm tốn như thế nào! Người Pharisêu cũng là người Do thái, nhưng anh ta đến với Chúa lại ca tụng chính mình. Trong khi người Pharisêu kê khai những thành quả với Chúa, thì người thu thuế đến với Chúa tay không, không có gì để tự hào, ngoại trừ tộị lỗi và tính tham lam của mình. Người thu thuế ý thức được rằng mình cần Chúa. Trong lời cầu nguyện anh ta xưng mình là kẻ tộị lỗi và xin Chúa xót thương tha thứ. Lời cầu nguyện của anh ta biểu lộ lòng khiêm tốn và tâm hồn thống hối. Khiêm tốn là cái ước muốn xác nhận cái thực chất về mình trước mặt Thiên Chúa và người đời. Khiêm tốn là cái khả năng chấp nhận sự thực về mình, điểm tốt cũng như điểm xấu, cho dù sự thực có đau lòng.
Hôm nay mỗi người cần tự xét về cách cầu nguyện và thái độ cầu nguyện của mình. Nếu ta thấy mình cầu nguyện như người Pharisêu: Lạy Chúa con không như người nọ người kia, con không bỏ lễ Chúa nhật, không lường gạt, không ngoại tình.. , thì lời cầu nguyện của ta đã có gì sai lệch, có gì tự phụ và giả hình. Thực tế trước mặt Chúa, thì không ai có quyền tự nhân danh mình để mặc cả với Chúa. Ta không liệt kê những việc đạo đức hay thiện hảo đã làm với hi vọng Chúa sẽ đối xử khoan dung nhân hậu với ta. Cái thái độ không chấp nhận những yếu hèn và tội lỗi của mình là những chướng ngại vật làm cản trở ơn thánh Chúa đến với ta.
Để được Chúa nhậm lời, lời cầu nguyện của ta phải là lời cầu nguyện chân thành của người khiêm tốn và có lòng sám hối. Theo kinh nghiệm của những nhà dẫn đàng thiêng liêng và của các vị linh mục giải tội thì khi cái mối liên hệ của người ta với Chúa chưa được gần gũi và thân mật, người ta sẽ xưng tội một cách hời hợt, chỉ xưng những điều sai trái mình đã làm. Còn khi mối liên hệ của người ta với Chúa trở nên gần gũi thân mật, người ta sẽ xét tội một cách kỹ lưỡng hơn, người ta sẽ xét và xưng cả những tội về tư tưởng, và những tội mình đã bỏ qua không làm như là những gì mình phải làm cho Chúa và cho tha nhân mà đã không làm.
“Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.' Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.' Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi ; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."
Ở Pa-lét-tin, người ngoan đạo giữ ba giờ cầu nguyện mỗi ngày, lúc chín giờ sáng, mười hai giờ trưa và ba giờ chiều. Lời cầu nguyện được kể là linh nghiệm đặc biệt nếu cầu nguyện trong Đền Thờ, và vì thế vào những giờ đó nhiều người đến Đền Thờ để cầu nguyện. Chúa Giê-su nói về hai người lên Đền Thờ để cầu nguyện.
Có một đạo sĩ Do-thái, ông lên Đền Thờ cầu nguyện.
Ông đứng giữa Đền Thờ nói với Thiên Chúa, nhưng thực ra không phải là lời cầu nguyện thật. Ông bắt đầu bằng "tôi tạ ơn Chúa", nhưng thực ra ông không nói với Chúa mà là nói với chính mình. Lời cầu nguyện đích thực bao giờ cũng phải được dâng lên cho Chúa và chỉ một mình Chúa mà thôi. Ông đang trình bày chính mình như một bằng chứng trước mặt Thiên Chúa. Ông vui mừng vì so sánh với kẻ khác thì ông thuộc một giai cấp riêng, mọi người khác đều "tham lam, bất chính, ngoại tình và điển hình cho bọn tội nhân ấy là bọn thâu thuế khốn nạn. Thay vì nhìn vào Thiên Chúa, ông đã nhìn vào người thâu thuế, ông đã khoe rằng chẳng những đã giữ mình thoát khỏi tội lỗi của kẻ khác, lại còn làm nhiều việc lành hơn. Luật Do-thái chỉ buộc ăn chay một ngày trong năm, đó là ngày lễ chuộc tội, những kẻ muốn lập công đặc biệt cũng kiêng ăn các ngày thứ hai và thứ năm nữa. Luôn nhớ đó là ngày phiên chợ và Giê-ru-sa-lem đầy dẫy dân từ các làng đổ về. Những kẻ ăn chay làm cho sắc mặt mình tái đi, bước đi trong bộ áo nhàu nát, những ngày đó tuyên truyền mạnh mẽ cho cái vẻ đạo đức vì có nhiều người ngắm nhìn họ.
Luật buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy lê-vi, vị đạo sĩ này dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ không buộc phải dâng. Nói khác đi, ông tỏ ra tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi, ông làm như Thiên Chúa cần biết ơn ông, tất cả thái độ trên tiêu biểu cho một điều tệ hại nhất của chủ thuyết Pharisi. Có một bài cầu nguyện của một ra-bi còn được ghi lại như sau: "Lạy Đức Chúa Gia-vê, tôi cảm tạ Ngài vì đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ trong Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc chúng cũng làm việc ; tôi làm việc vì lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống đờisau, còn chúng chạy tới hố diệt vong." Ra-bi Ben Jocai được ghi nhận là đã có lần nói: "Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi ; nếu chỉ có một người thì đó là tôi." Người biệt phái này thực ra không lên Đền thờ để cầu nguyện, ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào. Một con người như thế đâu có hiểu biết gì về sự thánh thiện của Thiên Chúa, về tinh túy của luật Chúa là tình yêu !
Có người thâu thuế.
Người này cung kính đứng cách xa con người có vẻ thánh thiện, vì công đức của người ấy được mọi người nhận biết, cảm phục. Cũng không dám ngước nhìn lên trời, đấm ngực tỏ dấu ăn năn miệng kêu khấn: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội." Những chữ dùng ở đây không những chỉ tội nhân mà còn là tội nhân rất khốn nạn nữa. Và Chúa Giê-su cho biết chính lời cầu nguyện khiêm tốn và tấm lòng tan nát này khiến Thiên Chúa đoái thương anh ta.
Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ những ai biết quỳ gối mới có thể vào được.
Người nào khinh dể anh chị em mình thì không thể cầu nguyện được. Trong khi cầu nguyện chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng chúng ta là một phần của nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quỳ gối trước ngai thương xót của Thiên Chúa.
Chỉ có sự cầu nguyện thật khi biết được đời sống mình bên cạnh đời sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hề hồ nghi điều người biệt phái này nói, tất cả đều đúng. Ông đã ăn chay, ông đã kỹ lưỡng dâng một phần mười, ông ta đã không giống người khác, lại càng đã không giống người thu thuế này. Nhưng vấn đề không là: "Tôi có tốt như kẻ khác chăng ?" nhưng "tôi có tốt như Thiên Chúa không ?" Tất cả tùy ở chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống diệu kỳ của Chúa Giê-su, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói: "Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi."
Dụ ngôn này không phải chỉ dạy về lòng khiêm nhường khi đi cầu nguyện mà cả trong mọi cách đánh giá bản thân và trong mọi lúc đến cùng Thiên Chúa. Nó đối chiếu sự tương phản giữa tôn giáo của hình thức và tôn giáo của tâm hồn. Nó minh định rằng chỉ có ăn năn là con đường duy nhất đưa đến sự tha tội và bình an.
Dụ ngôn này không phải Chúa kể cho người Pha-ri-sêu, dầu nó vạch trần bộ mặt giả tạo và tự lừa dối của mọi thứ chủ nghĩa biệt phái. Hình như khi kể, Chúa đã nghĩ đến mấy người trong số đã theo Ngài, nhưng dầu là thuộc giai cấp hay nghề nghiệp nào, ở thời đại nào hay nơi chốn nào, tinh thần biệt phái này cũng có đại diện. Đó là hạng người cho mình là đạo đức và coi kẻ khác không ra gì.
Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm của cuộc sống mới. Rồi muốn tiến bộ trên đường thánh thiện đến mức nào đi nữa, cũng vẫn cần lòng khiêm tốn như vậy. Càng gần ánh sáng càng nhận ra mình nhơ bẩn, càng gần Chúa càng thấy mình tội lỗi và càng không thể khoe khoang về thành tích đạo đức của mình. Hễ càng biết mình không ra gì, thì càng xứng đáng để phục vụ Chúa và đồng loại. Đứng trên phương diện quốc gia cũng như trong đời sống cá nhân, sự kiêu ngạo của chủ nghĩa Pha-ri-sêu ngăn trở tính cách đắc lực, tình huynh đệ và ân huệ của Thiên Chúa, điều cần thiết là chúng ta sám hối, sống khiêm cung: "Ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên."
Tuần trước chủ đề cầu nguyện nhấn mạnh đến kiên trì sống công chính trong xã hội đầy gian ác. Nghĩa là để được ơn cứu độ, người ta phải đương đầu với sự ác, đấu tranh cho công lý trong môi trường xã hội họ sống.
Nhưng như thế chưa đủ, nên tuần này phục vụ lại phải dẫn ta đến nhà thờ để xem “Ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên; còn kẻ nào nhấc mình lên, sẽ bị hạ xuống”(Lc 18,14). Vì ơn cứu độ không chỉ hệ tại do công Đức của con người trong xã hội mà còn do hệ tại lòng thương xót Chúa đổ xuống trên những tấm lòng khiêm nhường, đồng thời Ngài chống lại kẻ kiêu căng (tuần này). Vậy thế nào là kiêu căng? Thế nào là khiêm nhường? Căn cứ vào Lời Chúa hôm nay: Kiêu căng là kẻ tự mãn cậy dựa vào sức mình giữ lề luật mà khinh khi kẻ khác; còn khiêm nhường là người chỉ thấy mình là kẻ tội lỗi, kẻ bất lực, chỉ còn trông cậy vào lòng Chúa thương xót.
Ông biệt phái và người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ rõ nét khuôn mặt kẻ kiêu căng, và Chân tướng người khiêm nhường:
A. CHÚA CHỐNG LẠI KẺ KIÊU NGẠO:
Hai thái độ kiêu ngạo của ông biệt phái:
1/ Sống cậy dựa vào thế lực lề lụât:
-“Mỗi tuần tôi ăn Chay hai lần” (Lc 18,12a): Trước lưu đầy Babilon, luật chỉ buộc mỗi năm ăn Chay một lần vào dịp lễ xá tội (xem Lv 16,29). Sau lưu đầy, thêm một lần nữa để nhớ cảnh tàn phá Giêrusalem. Nhưng những biệt phái tỏ ra đạo đức, mỗi tuần ăn Chay thêm hai lần vào ngày thứ hai và thứ năm để đền bù những thiếu sót của dân tộc đối với lề luật .
-“Tôi nộp thuế Thập phân về hết mọi vật tôi mua” (Lc 18,12b): Luật này đầu tiên chỉ nhắm đến những người sản xuất nhỏ như thì là, rau húng, bạc hà (Mt 23,23). Thuế này cũng nhắm trên cả lợi tức do súc vật mang lại (Lv 27,31). Ông biệt phái này còn quảng đại nộp thuế Thập phân trên hết mọi vật ông mua sắm được.
Nhưng luật đâu có sức cứu độ con người, Giá trị của luật bất quá chỉ làm cho ta nhận ra tội (x Rm 3,20), và nó còn giam giữ con người trong tội lỗi (x Gal.3,22). Tại sao thế? Bởi vì luật luôn luôn chỉ có hai mặt đối lập:
- Mặt tiêu cực: cấm ta làm điều xấu.
- Mặt tích cực: dạy ta làm điều tốt.
Ai vi phạm điều luật cấm dĩ nhiên là có tội. Nhưng ai biết điều tốt mà không làm thì cũng có tội (Gac.4,17). Trong thực tế, không có ai thi hành trọn vẹn điều tốt họ muốn. Chính Thánh Phaolô cũng đã thú tội với tín hữu: “Điều tốt tôi muốn tôi đã không thi hành, nhưng chính tôi lại làm điều tôi ghét” (Rm 7,15.19); Satan vả mặt tôi, Chúa để dằm đâm vào tôi, đã ba lần tôi xin Chúa cứu tôi, Chúa đáp lại: “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2 Cr12,7-9).
Thế mới hiểu lý do Phaolô nhắc lại lời Tv 14,1-3 và kết luận: “Không ai công chính, không một ai…hết thảy đều lầm lạc hư đốn cả lũ ! Ta biết rằng mọi điều lề luật nói là nói cho kẻ ở trong lề luật, hầu mọi miệng lưỡi phải khóa lại, và tất cả thế gian phải tự nhận mình mắc án của Thiên Chúa, bởi chưng do tự việc làm của lề luật, không xác phàm nào sẽ được giải án tuyên công trước mặt Chúa”. (x Rm.3, 10-20)
2/ Khinh bỉ và kết án người khác:
Biệt phái đến nhà Chúa cầu nguyện mà không nhìn lên Chúa để xin Chúa giúp mình cố gắng hơn, hầu điều chỉnh cuộc đời mình nên giống Cha trên trời như Đức Kitô đã đặt ra chỉ tiêu ấy (x Mt 5,48). Vì biệt phái mới chỉ dâng Chúa 1/10 của hắn chiếm được, còn Chúa cho hắn cả vũ trụ, cả con một Ngài (Rm 8,32). Đúng là nhìn lên thì hắn không bằng ai, nhưng khi nhìn xuống hắn không thấy ai bằng mình ! Do đó cách giữ luật của hắn là để vênh váo với đời, đạp vào mặt người khác. Hắn nói: “Tôi không phải như những người khác: gian tham, bất luơng, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia” (Lc 18,11).
Tại sao hắn giám kết án thu thuế là kẻ gian tham? Vì người địa phương đứng ra lấy thuế của dân, nộp đủ chỉ tiêu cho Rôma, còn được hưởng huê hồng số thu phụ trội !
Tại sao thu thuế là kẻ bất lương? Vì dân Do Thái đang có khát vọng độc lập, thoát ra khỏi ách thống trị Rôma, thế mà kẻ lấy thuế của dân mà nộp cho ngoại xâm là củng cố thế lực cho đế quốc, là hành động bất luơng: rước voi về giày mồ là hành động phản dân hại nước !
Tại sao thu thuế lại bị đồng hoá với kẻ ngoại tình? Thưa vì Do Thái chỉ sống cậy nhờ vào danh Chúa, chứ không cậy nhờ vào chiến xa pháo mã như dân ngoại (Tv. 19,8). Ở đây người thu thuế đã đánh mất niềm tin này. Đó là một thứ “Đĩ Thánh”.
Vì tính kiêu ngạo như bản tính của biệt phái, nên: “Thiên Chúa là thần chí công, Người không tẩy vị, Người không nể mặt giầu để hại nghèo” (Dhc 35, 12-13). Do đó Đức Giêsu kết án hạng biệt phái này: “Hắn đưa mình lên, sẽ bị hạ xuống và không được giản án tuyên công” (Lc 18, 13).
B. CHÚA THƯƠNG XÓT KẺ KHIÊM NHƯỜNG:
Người thu thuế đến nhà thờ nhìn lên, chẳng những anh thua xa Thiên Chúa, mà anh còn thua cả người biệt phái đang đứng trên Cung Thánh, nên anh quá xấu hổ: “Không dám ngước mắt lên trời, anh đấm ngực mà thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót tôi là đứa tội lỗi” (Lc 18,13).
Thực ra, người ta có gì mà không do lãnh nhận từ trên ban cho (Ga 3,27). Cho dù cả việc thi hành lề luật như ông biệt phái hôm nay. Thế thì có gì mà phải lên mặt vênh váo (I Cr 4,7), có gì đáng kể mà dâng lên Chúa, ngoại trừ ý thức mình chỉ là tội nhân, nên cầu khẩn lòng Chúa xót thương, bởi vì “Chúa nghe lời người oan khổ kêu xin, nỗi hồn đắng cay là của lễ được Chúa chấp nhận” (Dhc 35,14-16). Với niềm tin ấy người tội lỗi dám kêu lên với Chúa: ‘Lạy Chúa con thờ, là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính. Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu Ngài cũng không chấp nhận.
Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tấm lòng tan nát một tấm lòng tan nát giày vò, Chúa không khinh chê !” (Tv 50,16.18-19).
Để xác quyết cụ thể và rõ nét hơn, chỉ mình Luca đã cho ta thấy tên trộm có lòng sám hối kêu cầu lòng Chúa xót thương, đã được Chúa cho nó thừa hưởng ơn cứu độ đầu tiên: “Hôm nay, Ta cho ngươi ở trên nước Thiên Đàng làm một với Ta” (Lc 23, 43). Tuy nhiên phụng vụ hôm nay không chủ ý kết án mọi người biệt phái, cũng Chẳng có ý tâng bốc hết mọi kẻ thu thuế. Nhưng phụng vụ muốn cho ta bắt chước đời sống của biệt phái Phaolô: trước kia ông rất tự mãn lòng đạo của mình, cuồng nhiệt đến nỗi ông giết kẻ nào sống đạo không giống ông (xem Cv 9). Ông tệ hơn người biệt phái đến nhà thờ trong Tin Mừng ta vừa đọc. Nhưng ông đã được Chúa chộp lấy (Pl.3,12), mạc khải con của Ngài cho ông, để ông đi giảng Tin Mừng cho muôn dân (Gal.1,15-16). Từ đó ông cảm nhiệm Chúa bỏ trời đến cứu ông là người thứ nhất trong các kẻ tội lỗi (I Tm.1,15), nên ông vênh vang trong Chúa (I Cr1,31) nói với Giám mục Timôthêu, học trò của mình rằng: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, tôi đã Chạy đến cùng đường, nhưng chỉ có Chúa, Đấng phán xét chí công xử cho tôi. Chính Ngài dành triều Thiên cho tôi (chứ không phải lề luật tôi giữ được), cả lúc tôi bị điệu ra tòa chiến đấu một mình, vì mọi người đã bỏ mặc tôi, nhưng công phúc đó tôi xin đừng ai kể đến, và chính lúc ấy tôi có vững được Đức tin là vì có Chúa phù hộ tôi, và ban sức mạnh cho tôi, Ngài cứu tôi thoát khỏi miệng sư tử, Chúa cho tôi thoát khỏi hành vi ám muội, và chỉ có Ngài cứu tôi vào Nước Trời” (2 Tm. 4,6-18: Bài đọc II).
Ngày nay, mỗi khi ta đến nhà thờ cầu nguyện dâng lễ, ngay phút đầu ta đã phải thành thật thú tội với Chúa, và cùng anh chị em, và ba lần ta xin Chúa Kitô thương xót ta, cuối cùng ta được Ngài đón nhận lấy toàn thể con người ta, Ngài đón nhận cả cái xấu nhất nơi ta (lưỡi), Ngài ở với ta để dạy ta biết cách giữ luật, và dạy ta biết yêu thương đón nhận lấy đồng loại với cả cái xấu của họ, ngõ hầu ta đi lùa những kẻ kiêu ngạo, tự mãn về Chúa Giêsu, để Ngài chộp lấy như mục đích Chúa trộm lấy biệt phái Phaolô.