Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 121-160

Chủ nhật - 24/09/2023 10:57
Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 121-160
Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 121-160
Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 121-160
----------------------------------
Mục lục:

PiôHậu 121: LÁ THƯ NGỎ GỬI ANH XAOLÔ (2) 2
PiôHậu 122: LÁ THƯ NGỎ GỬI XAOLÔ (SAOLÔ) 5
PiôHậu 123: LÁ THƯ NGỎ GỬI TÔMA.. 9
PiôHậu 124: LÁ THƯ NGỎ GỬI GIOAN.. 13
PiôHậu 125: LÁ THƯ NGỎ GỬI THÁNH ANRÊ.. 16
PiôHậu 126: TÁI BÚT GỬI SIMON-PHÊRÔ.. 20
PiôHậu 127: LÁ THƯ NGỎ (3) GỬI SIMON – PHÊRÔ.. 24
PiôHậu 128: LÁ THƯ NGỎ (2) GỬI SIMON – PHÊRÔ.. 28
PiôHậu 129: LÁ THƯ NGỎ GỬI ANH SIMON – PHÊRÔ.. 32
PiôHậu 130: LÁ THƯ NGỎ GỞI MÁCCÔ.. 35
PiôHậu 131: LÁ THƯ NGỎ GỞI ANH MÁTTHÊU.. 39
PiôHậu 132: Lời ngỏ. 42
PiôHậu 133: NHẬT KÝ ĐỨC GIÊSU.. 43
PiôHậu 134: Trang nhật ký đầu tiên. 44
PiôHậu 135: Trang nhật ký thứ 2. 45
PiôHậu 136: Trang nhật ký thứ 3. 47
PiôHậu 137: Trang nhật ký thứ 4. 49
PiôHậu 138: Trang nhật ký thứ 5. 51
PiôHậu 139: Trang nhật ký thứ 6. 52
PiôHậu 140: Trang nhật ký thứ 7. 54
PiôHậu 141: Trang nhật ký thứ 8. 55
PiôHậu 142: Trang nhật ký thứ 9. 57
PiôHậu 143: Trang nhật ký thứ 10. 58
PiôHậu 144: Trang nhật ký thứ 11. 60
PiôHậu 145: Trang nhật ký thứ 12. 63
PiôHậu 146: Trang nhật ký thứ 13. 65
PiôHậu 147: Trang nhật ký thứ 14. 66
PiôHậu 148: Trang nhật ký thứ 15. 68
PiôHậu 149: Trang nhật ký thứ 16. 69
PiôHậu 150: Trang nhật ký thứ 17. 70
PiôHậu 151: Trang nhật ký thứ 18. 71
PiôHậu 152: Trang nhật ký thứ 19. 73
PiôHậu 153: Trang nhật ký thứ 20. 76
PiôHậu 154: Trang nhật ký thứ 21. 77
PiôHậu 155: Trang nhật ký thứ 22. 79
PiôHậu 156: Trang nhật ký thứ 23. 81
PiôHậu 157: Trang nhật ký thứ 24. 82
PiôHậu 158: Trang nhật ký thứ 25. 84
PiôHậu 159: Trang nhật ký thứ 26. 85
PiôHậu 160: Trang nhật ký thứ 27. 87

----------------------------------

 

PiôHậu 121: LÁ THƯ NGỎ GỬI ANH XAOLÔ (2)


Anh Xaolô rất thân mến.

 

Tôi mới lượm được một nguồn tin rất chính xác. Nhờ đó tôi biết chắc rằng bây giờ Anh đang ở PiôHậu 121


Tôi mới lượm được một nguồn tin rất chính xác. Nhờ đó tôi biết chắc rằng bây giờ Anh đang ở Tacxô với bố mẹ. Mọi người đang nhìn Anh một cách trìu mến. Bố Anh thì mừng quá, vì không còn phải nhíu mày nghiến răng nghe tin Anh trói đàn ông, trói đàn bà để hành hạ, để tra tấn. Mẹ Anh thì miệng lúc nào cũng chúm chím như hoa quỳnh đang chậm chạp mở cánh, vì không còn phải nghe xóm giềng đàm tiếu về Anh nữa. Còn Anh thì đang trải qua những ngày tháng đẹp như mơ. Mơ mà lại rất thật.

1. Anh mải mê đọc Thánh Kinh. Đọc từ cuốn Sáng Thế ký đến cuốn Malaki. Đọc đi, đọc lại, đọc mãi không chán. Anh cúi gằm mặt xuống để đọc. Anh lấy ngón tay viết lên từng nét chữ, để khỏi bỏ sót. Anh đọc chăm chỉ y như người ta mò vàng trên bãi cát. Ngồi câm như hến, ngón tay khảy nhẹ nhẹ, khảy mãi, khảy mãi. Bỗng lóe lên một mảnh trấu sáng chói. Vàng! Trời ơi là trời!

Hôm ấy Anh đọc Sáng Thế ký.

"Chúa sáng tạo ánh sáng và tinh tú.

Chúa sáng tạo cây cỏ, dã thú, chim trời và cá biển.

Chúa lấy đất sét sáng tạo ra Ađam

Chúa lấy xương sườn Ađam để làm ra Eva.

Chúa đi dạo với Ađam và Eva như người cha thân thương chơi dung dẻ với bé thơ.

Eva bị con rắn lừa gạt mà ăn trái cấm.

Ađam nể Eva mà đồng phạm tội chống lệnh của Chúa.

Chúa đuổi Ađam và Eva ra khỏi vườn.

Chúa gằn giọng kết án con rắn: 'Vì mi cám dỗ người đàn bà phạm giới, nên Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người đàn bà. Và … sau này dòng dõi người đàn bà sẽ đạp nát đầu mi'."

Đọc đến đấy, Anh đứng bật dậy, la ầm lên “Đây rồi! Đây rồi!”. Bố mẹ Anh chạy lại hỏi hối hả:

- Cái gì vậy?

- Đây là lời tiên tri nói về Đấng Cứu Thế: “Dòng dõi người đàn bà sẽ đạp nát đầu mi”. Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Người đã đến để giải phóng chúng ta khỏi tội và đưa chúng ta về làm con Chúa”.

Ba người đứng lặng nhìn nhau. Ngây ngất!

Phát giác đầu tiên này làm Anh nổi hứng. Thế là Anh hì hục đọc Kinh Thánh. Đọc để thấy những lời tiên báo về Đấng Cứu Thế, về một Đức Giêsu Nadarét mà Anh đã truy nã. Hối hận quá chừng! Nhưng cũng thương yêu vô cùng vô tận!

2. Ngoài những giờ đọc Kinh Thánh để tìm ra tín hiệu về lịch sử cứu độ, Anh còn dành rất nhiều thời gian để cầu nguyện. Anh không còn cầu nguyện như các ông kinh sư nữa. Anh chán cái cảnh đứng dang tay giữa ngã ba đường phố, miệng đọc oang oang những bài thánh vịnh, giống hệt con buôn Ả Rập ngoác mồm quảng cáo hàng hóa Ba Tư. Anh ngồi một mình trong phòng riêng. Ngọn bạch lạp nhạt nhòa, lung linh. Anh không cầu nguyện bằng lời. Anh nghĩ về một nơi xa xăm. Anh muốn gặp Đức Giêsu ở Nadarét, ở Caphácnaum và ở Đamát. Anh muốn thấy Ngài giảng. Anh muốn rờ vào tua áo của Ngài. Anh muốn cầm lấy bàn tay của Ngài… Và Anh đã được gặp Ngài, mặt đối mặt.

Tối hôm ấy, bố Anh gọi:

- Xaolô! Xuống ăn tối con.

- (im phăng phắc).

- Xaolô! Xaolô! Đói rồi con ơi. Xuống mau đi.

- (im lặng tuyệt đối).

Bố Anh chạy lên, đẩy cửa. Ông đứng sững lại, trố mắt nhìn. Anh đang nói chuyện với một Đấng vô hình nào đó. Gối quỳ, tay chắp, mắt đăm đăm nhìn, miệng mấp máy, thì thầm. Dường như Anh nghe thì nhiều, mà nói thì rất ít …
Mãi tới khuya. Bố con Anh mới ngồi vào bàn ăn.

Anh Xaolô thân mến ơi! Anh thấy tôi biết rất nhiều và rất rõ về Anh. Nhưng Anh có biết tại sao tôi biết nhiều về Anh như thế không. Miễn trả lời nhá.

Sau những năm tháng quên đời, để vùi đầu vào công trình nghiên cứu và cầu nguyện, tôi đề nghị Anh trở lại với đời, để thấy đời vừa trắng vừa đen. Anh lẳng lặng nghe tôi kể chuyện đời nha.

1. Anh quên Giêrusalem, nhưng Giêrusalem chưa quên Anh đâu. Từ đền thờ đến phố chợ, từ giới thượng lưu đến bọn khố rách áo ôm, cái tên Xaolô của Anh vẫn thường xuyên được nhắc đến để thương và để ghét. Các Rabbi thì gọi Anh là “thằng phản bội”. Giới thượng lưu thì gọi Anh là “thằng du côn”. Giới Kitô thì ngẩn ngơ chẳng biết phải gọi Anh là gì. Người hiểu biết, thì bảo Anh là “người được tuyển chọn”. Nhưng đa số thì cứ nghe đến tên Anh là họ lại nổi da gà lên.

2. Ông Kêpha mới bị các niên trưởng ở Giêrusalem xì nẹc cho một trận: “Anh là niên trưởng mà tại sao anh dám vào nhà một tên không cắt bì?”. Chuyện dài dòng lắm.

Ông Kêpha đang cầu nguyện trên sân thượng nhà ông Ximon ở Gióppê, thì thấy một tấm màn lớn túm lại rồi từ trời thòng xuống. Trong ấy có lúc nhúc những con vật uế. Có tiếng người nói: “Bắt lấy, làm thịt mà ăn”. Ông Kêpha le lưỡi kêu lên: “Eo ơi! Từ bé tới giờ chưa bao giờ tôi bỏ thứ ô uế ấy vào miệng”.

Đúng lúc ấy, có ba người từ Xêdarê xuống, tự giới thiệu là người được đại úy Conêliô sai đến tìm ông Ximon… Thì hóa ra ông sĩ quan ở Xêdarê cũng được thị kiến bảo đi mời ông Kêpha đến giảng đạo. Ông Kêpha sợ quá, run như cầy sấy. Theo luật thì không tín đồ Do Thái nào được bước chân vào nhà người ngoại. Nhưng vì có hai thị kiến trùng hợp, nên ông Kêpha liều mạng đi lên Xêdarê cùng với ba đệ tử của ông Conêliô.

Ông Kêpha vào nhà ông đại úy Conêliô. Ông say mê kể chuyện về Đức Giêsu và lịch sử cứu độ. Ông đang thao thao bất tuyệt, thì… Thần Khí của Chúa xuống trên thính giả. Họ nói tiếng lạ… Ai nấy ngẩn ngơ nhìn nhau.

Ông Kêpha kể chuyện này cho các niên trưởng, những người vừa mới xì nẹt ông. Ai nấy đều ngỡ ngàng, cùng thốt lên một loạt: “Vậy thì Thánh Thần xuống trên cả người ngoại nữa sao?” Vừa bỡ ngỡ, vừa mừng vui khôn xiết!.

Anh Xaolô ơi! Anh nghĩ sao về chuyện này?

3. Sự cố kỳ lạ ở Antiôkia.

Vào thời Anh hung hăng bắt bớ con cái Chúa như sư tử đực vồ mồi, thì nhiều người Kitô phải bỏ chạy ra nước ngoài. Một số khá đông hội tụ ở Antiôkia. Họ vừa tìm kế sinh nhai, vừa loan báo Tin Mừng. Vì lo làm ăn, vì lo loan báo Tin Mừng, họ quên bẵng cái tên Xaolô của Anh. Họ hết sợ Anh rồi, vì Antiôkia ở ngoài tầm vồ của Anh.

Không biết ai xúi giục mà bỗng dưng họ dám loan báo Tin Mừng cho “bọn không cắt bì”. Thế mà, lạ thay, người ngoại đón nhận Tin Mừng một cách hồ hởi và ồ ạt. Dư luận ở Giêrusalem đang bàn tán xôn xao về vấn đề này. Vấn đề được đặt ra đó là có nên loan báo Tin Mừng cho người ngoại không? Tôi thuộc phe trung lập, nghĩa là không ủng hộ, mà cũng không chống đối. Vấn đề quá mới lạ. Tôi báo tin này cho Anh, để Anh suy nghĩ và chuẩn bị tinh thần.

Hiện nay, ông Kêpha đứng về phe ủng hộ, vì ông có kinh nghiệm bản thân ở Xêdarê. Còn ông Giacôbê thì nghiêng về phe chống đối.

Vấn đề thứ hai được đặt ra, đó là khi người ngoại tin và theo đạo Chúa, thì có nên bắt họ phải cắt bì và giữ luật Môsê hay không? Đối với chúng ta, thì cắt bì là một vinh dự, nhưng đối với người ngoại, đặc biệt là bọn Rôma, thì … xấu hổ đến phải độn thổ. Thế mới khổ! Bởi vậy, vấn đề còn đang đu đưa, chưa biết có kết thúc được hay không. Dù sao thì ông Bacnaba cũng đã được các niên trưởng trao công tác điều nghiên tại chỗ. Ông sẽ đi Antiôkia vào tháng tới.

Chuyện đời tôi kể cho Anh đến đây là xong. Thân ái chào Anh.

Tái bút: Có một chuyện tôi quên hỏi Anh. Tôi mới nghe lóm một chuyện vui vui, mà chưa có bằng chứng cụ thể. Đó là bố Anh hối Anh lấy vợ và đã kiếm cho Anh một cô gái xinh lắm. Tôi cũng nghe lóm rằng Anh cứ vô tư như người không có quả tim. Đúng không? Nếu Anh không thành thật khai báo thì tôi sẽ vào cuộc. Chờ đấy.

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 122: LÁ THƯ NGỎ GỬI XAOLÔ (SAOLÔ)


Anh Xaolô thân mến.

 

Tôi chỉ biết Anh do một chuyện tình cờ. Hôm ấy tôi đi xem vụ ném đá ông Têphanô. Têphanô PiôHậu 122


Tôi chỉ biết Anh do một chuyện tình cờ. Hôm ấy tôi đi xem vụ ném đá ông Têphanô. Têphanô là một người lương thiện. Nhưng ông bị bọn quá khích đánh đòn hội chợ, chỉ vì ông tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Cứu Thế. Ông dùng lời sứ ngôn để minh chứng Đức Giêsu đã bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Bọn quá khích kết án ông là xúc phạm đến Giavê và Môsê. Họ ném đá ông về tội lộng ngôn.

Tôi đứng xem như một người khách bàng quan. Tôi thấy ông Têphanô ngước mắt nhìn trời, y như ông thấy Đấng vô hình. Giữa trận đá ném như mưa, mà miệng ông vẫn cứ mấp máy, vẫn cứ thì thầm: “Lạy Chúa, xin tha tội cho họ và xin đón lấy linh hồn con”. Đáng thương quá chừng! Đáng mến vô cùng! Cái chết bao dung của Têphanô khiến tôi ngậm ngùi, suy nghĩ về Đức Giêsu của ông.

Trong khi đó, tôi thấy Anh đứng thẳng băng, hai tay chống nạnh, cặp mắt hằm hằm. Chờ cho đến khi ông Têphanô ngã gục trên vũng máu, Anh mới thôi đằng đằng sát khí và quay gót ra về.

Sung sướng! Vênh váo!

Thương ông Têphanô chừng nào, tôi cũng ghét Anh chừng nấy. Từ hôm ấy, tôi tò mò theo dõi và tìm hiểu về Anh. Bây giờ thì tôi nắm gọn lý lịch của Anh trong hai bàn tay của tôi. Tôi hiểu rõ về Anh còn hơn là tôi hiểu về mười ngón tay của tôi.

1. Bố Anh là người Do Thái chính cống: ái quốc và trung thành với luật Môsê. Không chịu nổi ách thống trị của đế quốc Rôma, bố Anh di tản sang Tacxô. Tacxô cũng là thuộc địa của đế quốc Rôma, nhưng là thành phố khá tự do. Là một hải cảng quy tụ đủ các màu da từ da trắng của Âu Châu, đến da đen của Trung Phi, từ da vàng của Á Châu đến da xam xám của Bắc Phi. Đã đa chủng thì cũng đa văn hóa và đa tôn giáo. Bố Anh là người trải đời biết chọn đúng chỗ để kinh doanh thương mại. Anh đã sinh ra và lớn lên tại thành phố này, một thành phố văn minh và trù phú, chỉ đứng sau Rôma và Alecxandria mà thôi. Có lẽ nhờ đó mà Anh có một kiến thức khá rộng.

2. Là một thanh niên thông minh, nhưng lại ngang bướng. Cứ nhìn cái tướng của Anh là tôi có thể đọc vanh vách:

Trán cao: thông minh

Trán vồ: bướng bỉnh

Mặt tam giác: hiếu chiến, hiếu thắng

Chân mày rậm: tướng của lãnh tụ

Mắt sâu và hấp háy: tinh nghịch và độc ác

Nhân trung dài: ngạo đời, biếm đời

Môi hơi hơi dày: tình cảm ướt át

Lưng không dài nhưng vai lại rộng và vai u thịt bắp: giàu nghị lực, nhưng kiêu ngạo.

Bố Anh rất hãnh diện về sự thông minh của Anh, nhưng vẫn nơm nớp sợ Anh sẽ hư hỏng, nên đã cho Anh về du học tại thủ đô Giêrusalem. Ông hy vọng Anh sẽ yêu tổ quốc và đồng bào hơn khi ở nước ngoài. Nhưng điều mà ông quan tâm nhất là để Anh được học đạo với tôn sư Gamalien. Về nơi ăn chốn ở thì quá thuận tiện, vì Anh có chị ruột đang sinh sống tại Giêrusalem. Đúng là kế hoạch tuyệt vời: nhất cử, mà tam tứ tiện!

3. Khi Anh về Giêrusalem để học đạo, thì Đức Giêsu đã về trời được chừng sáu năm rồi, nên Anh không được may mắn gặp Người và nghe Người giảng. Đáng tiếc vô cùng!

Lúc đó Anh được bao nhiêu tuổi nhỉ? Người ta hỏi tôi, tôi không biết. Tôi hỏi người ta, thì chẳng ai trả lời chính xác. Đành đoán mò vậy. Nhìn nước da và dáng đi của Anh, thì tôi cho rằng lúc đó Anh chưa quá hai mươi sáu tuổi. Ở tuổi ấy, người ta đã khôn lắm rồi, nhưng vẫn chưa “tam thập nhi lập”, vẫn còn hung hăng bọ xít.

Bố con Anh đều thuộc nhóm Pharisêu: kiêu ngạo và cuồng tín; lúc nào cũng tưởng mình là số một, lúc nào cũng cho mình là người có chân lý tuyệt đối. Chính vì thế Anh chỉ thấy Đức Giêsu là một tên phá luật, phá đạo mà quên rằng chỉ một mình Người mới là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Môsê chỉ là học trò của Đức Giêsu. Các sứ ngôn chỉ là người chờ mong ngày Người giáng trần mà thôi.

Thế là Anh đem hết khả năng và tâm sức để tiêu diệt tín đồ của Đức Giêsu. Ông Têphanô là nạn nhân đầu tiên của Anh. Sau này tôi mới biết Anh là linh hồn của cuộc tàn sát dã man hôm ấy. Anh chỉ đứng nhìn mà không ném đá. Ném đá là việc của đàn em … Gớm thật!

4. Vì quá ghét “Bọn Kitô”, Anh bỏ quên cả việc học hành, quên luôn cả việc cưới vợ. Ngày ngày Anh sục sạo tìm kiếm tín đồ của Chúa để bắt trói. Trói đàn ông, trói cả đàn bà, giải về các hội đường để tra tấn, để ném đá. Tín đồ của Chúa bỏ chạy tán loạn. Người giàu thì vượt biên trốn sang đảo Síp, đảo Krét. Thậm chí có người xuống tận Kyrênê hoặc lên tận Antiôkia. Người nghèo thì khăn gói trốn vào miền Xamari. Xamari là mảnh đất bị vạ tuyệt thông mà Anh không bao giờ dám đặt chân tới. Cứ nghe nói đến tên Xaolô là mọi người đều le lưỡi và sợ co rúm lại.

Khi không còn tìm được “Bọn Kitô” trong nước, Anh xin Thượng tế cho giấy giới thiệu để tìm bắt họ ở nước ngoài nữa. Y như một thằng điên. Y như một con cọp cái…

5. Từ Giêrusalem, Anh khoanh tay đứng nhìn về hướng Bắc. Anh nghĩ đến Đamát ở tận bên kia dãy núi Libăng, cách xa thủ đô Giêrusalem hơn 200 dặm Rôma. Ở đấy có nhiều người Kitô tị nạn. Cơn giận bùng nổ. Anh quyết tâm đích thân đến tận nơi để bắt trói họ, dẫn họ về thủ đô, bất chấp một cuộc hành trình dài hơn một tuần lễ. Chỉ nội ngày hôm sau, Anh và đoàn tùy tùng cưỡi ngựa lên đường. Ngựa phi nước đại, ngựa đi nước kiệu, ròng rã suốt tám ngày trời …

Cổng thành Đamát đã hiện ra trước mắt. Ánh mặt trời ban trưa đổ xuống như lửa thiêu. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi ngựa như bốc hơi. Anh vẫy tay ra lệnh cho đoàn kỵ mã nhập thành. Bỗng có một luồng ánh sáng nhá lên làm mờ cả mắt. Con ngựa hốt hoảng nhảy chồm lên, hất Anh ngã lăn đùng xuống. Một giọng nói nghiêm nghị văng vẳng bên tai:

- Xaolô! Xaolô! Tại sao ngươi bắt bớ Ta?
- Lạy Ngài, Ngài là ai?

- Ta là Giêsu ngươi đang tìm bắt. Khốn cho ngươi, vì ngươi dám giơ chân đạp mũi nhọn.
- Lạy Ngài, bây giờ tôi phải làm gì?
...

Anh Xaolô thân mến.

Tôi không biết bây giờ Anh đang ở đâu. Nhưng dù ở phương trời nào, thì Anh đã là người hoàn toàn thua trận. Ý chí của Anh, thể lực của Anh đang nhão ra như một mẹt bánh đúc thiu. Tôi hy vọng Anh đã mở mắt ra và đã thấy Đức Giêsu mà Anh ghét cay ghét đắng chính là Đấng Cứu Thế mà dân tộc ta đã trông chờ từ hơn một thiên niên kỷ.

Dù không biết Anh đang ở đâu, tôi vẫn đoán mò là Anh đang ở Tacxô. Anh đang ngẫm nghĩ sự đời. Anh đang hối hận vì đã bắt bớ con cái của Đấng Cứu Thế. Nhưng, Anh Xaolô ơi ! Có một điều anh không ngờ và không hề hay biết. Đó là chính vì Anh bắt bớ đạo Chúa mà đạo Chúa đang bùng phát tại Xamari. Dân Kitô tị nạn từ Giêrusalem và Giuđê mà lên Xamari. Người Xamari rất ghét người Do Thái chúng ta, nhưng lại rất yêu người Kitô, không phân biệt họ là Do Thái hay không Do Thái. Họ giơ vòng tay thật rộng đón nhận Kitô hữu tị nạn. Họ đón tiếp. Họ cho ở. Họ cho cơm ăn và việc làm. Nhất là họ ùn ùn tin theo Đức Giêsu và đang tạo thành một Giáo Hội vừa phồn thịnh, vừa bình an vô sự.

Đây là nhận xét cuối cùng của tôi: “Nếu Anh không bắt đạo tàn nhẫn như thế, thì đạo đã không phát triển được như hôm nay đâu”.

Anh là một tên phá đạo. Nhưng Chúa lại biến cái ác của Anh trở thành cái thiện của Người. Anh đốt rừng thành tro, Chúa lại dùng tro ấy để biến rừng thành vườn cây ăn trái rất màu mỡ.

Anh hãy sám hối. Anh hãy đền tội. Nhưng Anh hãy vui mừng vì Tin Mừng đang bùng vỡ đấy.

Anh là một bài học lớn, một bài học đắt giá cho chính Anh và cho lịch sử loài người.

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 123: LÁ THƯ NGỎ GỬI TÔMA


Tôma mến!

 

Tối hôm ấy chúng mình theo Thầy lên núi. Chúng mình dựng lều để ngủ đêm. Còn Thầy thì lững PiôHậu 123


Tối hôm ấy chúng mình theo Thầy lên núi. Chúng mình dựng lều để ngủ đêm. Còn Thầy thì lững thững đi về phía cây cổ thụ, ngồi một mình, có vẻ trầm tư.

Nhâm nhi với các cậu hết một bầu, thì tớ làm bộ đi ra ngoài có việc cần. Thật tình mà nói, tớ lò mò đi xem Thầy cầu nguyện. Tớ núp trong lùm cây. Chỉ để hở hai con mắt.

Thầy quỳ gối, chắp tay, cúi đầu. Không động đậy, y như một pho tượng. Tớ cũng quỳ xuống, chắp tay, nhưng không cúi đầu, mà lom lom nhìn ngắm Thầy. Bỗng Thầy dang tay, ngước mắt nhìn trời. Nhìn lâu lắm. Dường như Thầy thấy Đấng vô hình. Thầy mấp máy môi, thì thầm tha thiết.

Tớ nghe câu được câu không. Nhưng tớ hiểu là Thầy xin Chúa Cha chọn cho Thầy mười hai môn đệ thân tín, để khi Thầy về với Chúa Cha thì có người thừa kế, thực hiện chương trình cứu độ cần được phổ biến đến tận cùng trái đất.

Quá nửa đêm, Thầy vẫn say mê cầu nguyện. Tớ trở về lều. Các cậu nằm ngổn ngang. Thở phò phò ngáy pho pho. Mùi rượu phảng phất, chua chua, nồng nồng. Không còn chỗ trống, tớ đành ra ngoài bìa, nằm cô đơn. Chân phải gác lên chân trái. Tay trái kê làm gối đầu. Tay phải vắt ngang trán. Suy nghĩ mông lung.

Tớ thầm nghĩ trong bụng: thế nào tớ cũng được Thầy chọn vào “nhóm mười hai”. Còn cậu thì rớt cái ạch. Chắc như đinh đóng cột.

Sáng hôm sau, Thầy tập trung anh em. Tớ vừa đi vừa nhún nhảy như con sáo sậu. Các cậu thì lớ ngớ chẳng hiểu gì. Thầy đọc danh sách nhóm mười hai. Phêrô đứng đầu. Cậu đứng thứ tám. Còn tớ thì hẫng. Tớ gục mặt, cắn răng. Tớ hậm hực đặt vấn đề: tại sao cậu được chọn, mà tớ thì rớt? Cậu hơn tớ cái gì? Từ khả năng đến tính nết, cậu đều thua xa tớ. Tớ giận Thầy. Nhưng hễ cứ nhìn mặt Thầy và thấy cặp mắt của Thầy, thì tớ lại thôi không dám giận nữa. Nhưng với cậu thì tớ không bỏ qua được. Tớ phân tích tâm lý của cậu, tớ theo dõi cuộc đời của cậu. Bây giờ thì cậu hãy bình tĩnh nghe thành tích nghiên cứu của tớ.

1. Thầy trò chúng mình đang truyền giáo ở Miền Bắc, thì chị Mátta cho người ra báo tin khẩn: “Ladarô người Thầy yêu đang đau nặng”. Nét mặt Thầy không thay đổi, trả lời một cách vô tư: “không sao đâu…” Người loan tin tỏ vẻ thất vọng, lủi thủi ra về. Tớ nhìn Thầy một cái, rồi cúi mặt làm thinh. Ngẫm nghĩ mà chả hiểu gì.

Một ngày trôi qua. Hai ngày trôi qua. Ngày thứ ba Thầy phấn khởi hô: “Vô Nam”. Đứa nào cũng trợn mắt lên, đua nhau phản đối.

- Thầy vô Nam làm chi vậy?

- Người ta đang đòi ném đá Thầy, mà Thầy không quan tâm sao?

- Tụi con hổng dám đâu.
...

Thầy nghiêm giọng, nói như đọc tuyên ngôn: “Đi ban ngày thì không vấp ngã, vì có ánh sáng. Đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng”. Thầy nói thì Thầy nghe. Chúng mình thì như vịt nghe sấm. Ngơ ngơ nhìn nhau. Chả hiểu Thầy muốn nói gì. Thấy chúng mình tối dạ quá, Thầy mỉm cười độ lượng. Sau vài phút im lặng nặng nề, Thầy lại mỉm cười và nói nho nhỏ, vừa đùa vừa thật:

- Chúng ta vô Nam để đánh thức Ladarô bạn của chúng ta. Anh ta đang ngủ.

Thế là chúng mình lại nhao nhao lên:

- Thưa Thầy, anh ta ngủ, thì anh ta sẽ thức. Cần gì phải vô đó mà lay anh ta dậy?

Thầy lấy bàn tay che nửa miệng, nói thì thào vào tai chúng mình:

- Ladarô chết rồi! Thầy mừng cho các anh, vì nhờ đó mà đức tin của các anh lớn lên.

Chúng mình lại ngơ ngơ nhìn nhau. Tớ thấy cậu nghếch mặt lên, môi trề ra, nói một câu xanh dờn: “Nào chúng ta cùng vô Nam, để cùng chết với Thầy”. Những người đơn sơ chỉ nghe cậu nói mà không nhìn mặt cậu, thì tưởng là cậu có tinh thần cao cả, sẵn sàng xả thân vì Thầy và với Thầy. Nhưng cậu không qua mặt tớ được đâu. Cậu là mẫu người chuyên môn móc họng thiên hạ. Giọng của cậu lúc nào cũng chua lè như giấm. Cậu bất bình với Thầy, nói móc Thầy đấy…

2. Tối hôm ấy, Thầy trò ngồi tâm sự với nhau. Thầy yêu trò. Trò mến Thầy. Thầy trầm tư, giọng buồn buồn. Trò im lặng lắng nghe. Vừa buồn, vừa thương. Thầy nói bóng nói gió về một cuộc hành trình xa xôi vạn dặm. Thầy ngặm ngùi vì phải về với Chúa Cha, mà để lại một đám học trò non dại. Thầy bảo Thầy chỉ tạm biệt, chứ không vĩnh biệt. Đi để dọn chỗ. Đi rồi trở lại… Không ai hiểu lời Thầy, nhưng ai cũng đoán mò là sắp có một chuyện buồn lắm. Thấy cặp mắt nào cũng thắc mắc, nét mặt nào cũng u buồn, Thầy buông nhẹ một câu, như để xí xóa: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường cả rồi”. Thầy vừa dứt lời, cậu bụp ngay một phát: “Thầy đi đâu, chúng con còn chưa biết, thì làm sao mà biết được đường Thầy đi”. Thầy chỉ cười xòa. Nhưng tớ lườm cậu một cái, để dạy cậu một bài học: “Đừng hỗn với Thầy”. Mặt cậu vẫn trơ ra như đá. Vua lì!

3. Tớ không được tuyển chọn vào “nhóm Mười Hai”, nhưng tớ lúc nào cũng thập thò ở sau lưng các cậu. Chẳng có chuyện gì trong nội bộ các cậu, mà tớ không biết. Giuđa phản bội, tớ biết. Các cậu ngu ngơ không biết gì, tớ cũng biết. Trong vườn Cây Dầu, Thầy cầu nguyện ở chỗ nào, tớ biết. Ba lần Thầy năn nỉ van xin các cậu tỉnh thức cầu nguyện, để khỏi sa ngã, tớ biết hết. Các cậu lăn lưng ra ngủ, tớ biết. Anh nào ngáy to, tớ cũng biết.

Khi Thầy bị bắt, các cậu bỏ chạy tán loạn. Nhưng sau đó anh em vẫn lo đi tìm nhau, chia sẻ nỗi buồn với nhau. Chỉ một mình cậu là trốn biệt. Từ chiều thứ sáu đến sáng sớm Chúa nhật, trọn ba mươi sáu tiếng đồng hồ, ai nấy đều buồn đến tuyệt vọng. Nhưng nhóm mười hai vẫn ngồi bên nhau. Trừ tên Giuđa phản Thầy và cậu, mọi người gần như quên bạn. Cậu không có một tí tinh thần huynh đệ nào hết. Cậu bỏ trốn đi đâu, không ai biết mà liên lạc. Tính nết của cậu, lập trường của cậu lúc nào cũng là “Sống chết mặc bay, thằng này phải sống”.

Khi thấy tình hình hơi êm, cậu mò về. Ai cũng thắc mắc hỏi tại sao cậu bỏ rơi anh em, thì cậu chỉ cười trừ, lòi hai cái răng nanh nhọn hoắt, đứng ngoài hàng, ngạo nghễ chọc vào mắt thiên hạ. Các bà khoe đã gặp Thầy, cậu dề môi chế nhạo: “Đàn bà nhẹ dạ”. Anh em quả quyết đã được Thầy hiện ra và cùng ăn cá nướng với Thầy, thì cậu chê là: “Giống đàn bà”. Bảo là cậu ngang như cua, thì chẳng oan ức chút nào. Còn tớ thì thấy cậu ngang hơn cua. Vừa ngang vừa ngạnh… Chị Mácđala già tay ấn như thế, mà cũng chỉ biết le lưỡi lắc đầu, buông nhẹ một câu: “Gặp Tôma, quỷ ma cũng phải chạy”. Cậu coi tập thể chúng tớ không bằng cái ngón tay của cậu. Cậu cứ một mực cãi: “Chừng nào ngón tay này rờ được vào vết đinh ở tay, ở chân của Thầy, thì thằng này mới tin…” Ngang đến thế là cùng!

Một tuần sau Thầy lại hiện ra, nhìn thẳng vào mặt cậu. Chừng đó cậu mới hết ngang ngược. Tớ thấy cậu quỳ mọp xuống, lạy Thầy lia lịa. Tớ nói thầm trong bụng: “Nghe rõ chưa: Phúc thay người không thấy mà tin. Đừng cứng lòng nữa!”. Dường như từ hôm ấy, tớ thấy cậu khiêm tốn hơn nhiều.

4. Sau khi Thầy về với Chúa Cha, tớ thấy anh em đều bung ra đi truyền giáo. Nhưng tất cả đều đi trong vùng Địa Trung Hải. Còn cậu thì đi đâu không biết. Tớ nghe đồn là cậu đi sang tới tận Ấn Độ, một nước cực Viễn Đông, ở tận cùng trái đất.

Không còn thấy cậu nữa, tớ lại suy nghĩ về Thầy. Nếu tớ là Thầy, thì cậu bị sa thải từ lâu rồi. Nhưng vì Thầy không phải là tớ, nên cậu vẫn được yêu thương, trìu mến. Cậu cứng đầu, Thầy vẫn nhẫn nại chờ đợi. Cậu thiếu xã hội tính, Thầy vẫn chấp nhận và biến cậu trở thành một nhà truyền giáo dám đi xa nhất. Đi một mình. Chết một mình. Biệt tăm vô âm tín. Nhưng nhờ cậu mà Tin mừng được loan đi xa đến như thế.

Tôma mến.

Bây giờ tớ mới hiểu cái tâm và cái ý Thầy dành cho cậu. Tớ thương Thầy nhiều hơn và thông cảm với cậu nhiều hơn. Cậu bỏ lỗi cho tớ nhé.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 124: LÁ THƯ NGỎ GỬI GIOAN


Gioan thân mến!

 

Tớ không được Thầy tuyển chọn vào “Nhóm Mười Hai”. Tớ chỉ đứng ở ngoài, để dòm, để ngó PiôHậu 124


Tớ không được Thầy tuyển chọn vào “Nhóm Mười Hai”. Tớ chỉ đứng ở ngoài, để dòm, để ngó. Tớ thấy cậu là một nhân vật sáng sủa nhất trong nhóm. Lúc nào cũng ở kế bên Thầy. Lúc nào cũng được Thầy quan tâm và trìu mến. Cậu là thần tượng nho nhỏ của tớ. Thế rồi… bỗng tớ đổi ý, đánh giá cậu thấp tè tè.

Hôm ấy ba mẹ con của cậu đến quỳ mọp dưới chân Thầy. Có vẻ xum xoe. Có vẻ nịnh hót. Ba cặp mắt hấp háy. Thầy đôn hậu hỏi han:

- Bà muốn gì đấy? Cứ nói tự nhiên đi.

- Thưa Thầy, khi Thầy làm Vua, thì… xin cho hai đứa con của tôi: một đứa làm Thủ tướng; một đứa làm Tổng Tư lệnh Quân đội.

- Thế hai chú mày có dám “vào sinh ra tử” với Thầy không?

- Thưa chúng con sẵn sàng sống chết với Thầy.

- Nếu muốn sống chết với Thầy, thì Thầy cho ngay. Nhưng còn làm Thủ tướng hay làm Tổng Tư lệnh, thì… hãy xin với Chúa Cha.

Giọng nói hóm hỉnh của Thầy làm cho ba mẹ con của cậu sụ mặt xuống. Quê! Xấu hổ quá! Tớ liếc nhìn mười ông bạn của cậu thì mười cặp mắt nguýt dài; mười cặp môi trề ra. Bất mãn ra mặt.

Từ câu chuyện tồi tệ này, tớ bắt đầu có thành kiến xấu về cậu. Tớ lần mò về quá khứ và thấy chân dung lem luốc của cậu.

1. Hai anh em nhà cậu được Thầy sai đi tìm một chỗ nghỉ qua đêm. Hai đứa đi như bay đến một ngôi làng gần nhất. Ngôi làng này có nhiều kỷ niệm đẹp. Ai cũng mến Thầy. Nhiều nhà đã từng mời Thầy dùng bữa. Tới nhà thứ nhất, cậu niềm nở chào.

- Chào bác ạ.

- Hai chú mày đi đâu đấy?

- Thầy chúng con muốn bác cho chúng con ngủ nhờ một đêm ạ.

- Thầy trò các chú đi đâu vậy?

- Chúng con về thủ đô Giêrusalem dự lễ Vượt Qua ạ.

- Tưởng thế nào… Nếu Thầy trò các chú đến thăm người Samari chúng tôi, thì chúng tôi sẵn sàng đón tiếp. Hân hạnh lắm. Nhưng vì Thầy trò các chú đi dự lễ Vượt Qua ở thủ đô Giêrusalem, thì chúng tôi xin miễn.

Hai từ “Vượt Qua” và “Giêrusalem” được phát âm nhệu nhạo một cách cố tình, để chế giễu, để khiêu khích. Hai anh em tái mặt, rút lui, vừa đi vừa chửi thề.

Vào nhà thứ hai, thì tình trạng cũng y như thế. Hai anh em hậm hực ra về. Vừa gặp Thầy, cậu đã hầm hầm báo cáo. Vừa nói vừa đấm tay vào không khí.

- Xin Thầy cho phép chúng con khiến lửa trời xuống thiêu rụi tụi nó.

- Tại sao mà làm hung làm dữ vậy?

- Tại không đứa nào chịu cho Thầy nghỉ trọ, chỉ vì Thầy đi lễ ở Giêrusalem. Lẽ ra chúng nó phải quỳ xuống mà xin Thầy vào ở mới đúng. Tổ sư chúng nó!

- Thầy đến không để diệt, mà để cứu. Người ta không cho mình trọ, thì mình đến nơi khác. Không biết tên quỷ nào đã xúi chúng con nghĩ như thế.

Nghe Thầy mắng, mặt cậu sa sầm. Cậu làm thinh không nói, nhưng tớ biết là cậu chưa đồng thuận với Thầy đâu. Thầy vỗ vai cậu, xởi lởi nói đùa để cậu hạ nhiệt: “Ôi con nhà sấm! Ôi, ông thiên lôi!”. Hai anh em nhà cậu cười tủm tỉm để chống thẹn.

2. Hôm ấy cậu đi truyền giáo. Cậu gặp một người trừ quỷ. Ông ta cũng nhân danh Thầy Giêsu để trục xuất quỷ. Quỷ cũng chịu bỏ chạy. Cậu lên mặt nạt nộ, cấm ông ta không được lấy tên Thầy để trừ quỷ. Ông ta nín khe, không dám cãi lại cậu. Thế là mũi cậu phổng lên. Cậu về nhà, vừa báo cáo, vừa khoe công với Thầy.

- Thưa Thầy, con gặp một người nhân danh Thầy để trừ quỷ. Con cấm hắn, vì hắn không thuộc về phe ta.

- Người lấy tên Thầy để trừ quỷ, thì là bạn. Người ta thương mình, quý mình, thì tại sao lại cấm người ta?!

Tớ biết là cậu yêu Thầy. Vì yêu Thầy, cậu mới bênh Thầy như thế. Nhưng cậu yêu, mà yêu sai. Yêu sai thì còn tệ hại hơn là không yêu.

Gioan thân mến!

Tớ thương cậu, rồi thôi thương. Tớ quý trọng cậu, rồi thôi trọng thôi quý. Nhưng Thầy thì vẫn thương yêu và trìu mến cậu. Đặc biệt là trong bữa tiệc ly, cậu được ngồi kế bên Thầy. Cậu tựa đầu vào ngực Thầy, y như đứa trẻ con giành mẹ cho riêng mình. Việc Giuđa phản bội, Thầy bật mí cho một mình cậu mà thôi.

Cứ vừa nhìn cậu, vừa nhìn Thầy, tớ lại hiểu thêm được một chút về Thầy. Ánh mắt của Thầy, nét mặt của Thầy khiến tớ phải nghĩ lại về cậu. Nghĩ mãi tớ thôi ghét cậu và bắt đầu lại thấy cậu tuyệt vời.

1. Cậu là dân Galilê, làm nghề chài lưới. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để đánh giá cậu là ai rồi: Cùng đinh xác pháo. Thế mà cậu lại quen thân với Thượng Tế, người ngồi trên chóp bu của xã hội. Cậu quen biết từng gia nhân trong dinh Thượng Tế. Cậu quen từ cô gác cổng cho tới anh vệ sĩ. Cậu nói nhỏ với cô gác cổng để đưa Phêrô vào dinh. Phêrô lấm lét đi sau lưng Cậu y như bé mầm non theo cô giáo đi vào hội chợ. Cậu biết thằng bị Phêrô chém đứt tai tên là Mancô và Mancô có bà con với anh chàng đang ngồi sưởi bỗng chỉ mặt Phêrô mà nói: “Anh cũng ở trong nhóm Giêsu. Hồi nãy tôi thấy anh ở trong vườn Cây Dầu”. Tớ đoán mò mãi mà vẫn không hiểu nổi những điều vừa nói. Tớ chỉ biết cúi đầu lạy cậu ba cái.

2. Nhóm “Mười Hai” được Thầy coi như bạn hữu. Ba năm trời gắn bó với nhau, gian khổ với nhau, vinh quang bên nhau. Thế mà giờ phút cuối cùng, khi Thầy tắt thở, tớ thấy dưới chân thập giá chỉ có một mình cậu mà thôi. Ngoài tên phản bội là Giuđa, còn bao nhiêu thì chạy trốn mất dạng hết. Thế mới biết cậu vĩ đại biết dường nào. Tớ lại chắp tay lạy cậu ba cái nữa.

3. Trước khi tắt thở, Thầy gửi Mẹ cho cậu “Gioan, đây là Mẹ của con”. Mẹ nhìn cậu, cậu nhìn Mẹ. Hai ánh mắt gặp nhau. Thân thương quá chừng! Nhìn Mẹ, nhìn cậu, tớ bật khóc nức nở. Cảm động quá chừng! Thương ơi là thương! Bao nhiêu tình yêu Thầy dành cho Mẹ, bây giờ Thầy trút hết cho cậu. Bao nhiêu ưu tư của một đứa con hiếu thảo, bây giờ Thầy trao hết cho cậu.

Tại sao Thầy không gửi Mẹ cho Giacôbê thứ? Nó đâu phải là người dưng. Nó là cháu gọi Mẹ bằng dì mà. Cậu được Thầy tin tưởng như thế: Vinh dự ngàn trùng!

Từ đó, cậu rước Mẹ về ở với cậu. Cậu được Mẹ yêu. Cậu chăm sóc Mẹ thì ít, Mẹ chăm sóc cậu mới nhiều. Hỏi còn ai trên đời này sướng hơn cậu không? Tớ chắp tay lạy cậu bốn cái.

4. Sáng Chúa nhật Phục Sinh, ai ra thăm mộ thấy mộ trống, thì đều hoảng hốt và lo âu. Chỉ có một mình cậu biết chắc là Thầy đã sống lại. Chỉ một mình cậu biết Thầy đích thân xếp khăn liệm gọn ghẽ đâu vào đấy, rồi mới đi ra. Người ta ai cũng có mắt, nhưng thấy mà không hiểu. Cậu sống bên cạnh Thầy, hiểu tâm tánh của Thầy, thì cậu mới phát giác được điều đó. Tặng cậu hai chữ tuyệt vời.

Cuối cùng tớ cám ơn cậu, vì cậu đã nói một câu để đời: “Tình yêu loại trừ nỗi sợ. Ai sợ là chưa có tình yêu hoàn hảo”. Chào cậu. Cám ơn cậu. Ta cùng nhau yêu Thầy và yêu Mẹ.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 125: LÁ THƯ NGỎ GỬI THÁNH ANRÊ


Kính thưa vị Tông Đồ đáng kính.

 

Con sống sau Ngài gần hai mươi thế kỷ, tưởng như không thể biết Ngài là ai. Thế mà bỗng dưng PiôHậu 125


Con sống sau Ngài gần hai mươi thế kỷ, tưởng như không thể biết Ngài là ai. Thế mà bỗng dưng con lại thấy Ngài sờ sờ trước mắt …

Hôm ấy con đi dạo trước tòa lãnh sự nước Anh. Lá cờ nước Anh bay phất phới. Con đứng sững, say sưa ngắm nhìn. Quốc kỳ nào cũng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, vì nó là linh hồn của tổ quốc. Quốc kỳ nước Anh lấy màu xanh dương làm nền. Nhưng nền xanh dương bị lấn chiếm gần hết bởi bốn vạch đỏ: một vạch ngang; một vạch dọc và hai vạch chéo. Ngắm nhìn, suy nghĩ, nhưng không hiểu ý. Con đi vội về nhà, mở từ điển bách khoa. Từ điển bảo rằng:

- Nước Anh là hải đảo, nên lấy màu xanh dương làm nền cho lá cờ tổ quốc.


- Bốn vạch đỏ là hai cây thánh giá: cây thánh giá hình chữ thập là biểu tượng của thánh Georges, giám mục; cây thánh giá chữ X là biểu tượng của thánh Anrê Tông Đồ. Thánh Anrê bị đóng đinh trên khổ giá hình chữ X.

- Thánh Georges và thánh Anrê là hai thánh bổn mạng của nước Anh.

Như vậy thì có lẽ nước Anh là nước duy nhất tuyên xưng niềm tin của mình một cách trang trọng như thế trên lá cờ của tổ quốc. Mong rằng tổ quốc của người Anh được Chúa chúc phước và được hai vòng tay của hai thánh Bổn mạng bao bọc che chở.

Kính thưa thánh Anrê, vì thấy Ngài ngày nào cũng bay phất phới trước tòa lãnh sự của nước Anh, con nổi hứng muốn tìm hiểu thật nhiều về Ngài qua bốn cuốn Tin Mừng. Đọc mãi, đọc hết cả bốn cuốn, nhưng cũng chỉ lượm được dăm ba mảnh vụn về cuộc đời của Ngài.

Mảnh vụn một. Dân Galilê rủ nhau về thủ đô dự lễ. Trùng trùng điệp điệp. Năm ấy, ngoài việc tham dự đại lễ, bà con ùn ùn đi nghe Gioan Tẩy Giả giảng. Ông kêu gọi bà con cải tà quy chính, để đón nhận Đấng Cứu Thế. Giọng nói của ông vang lên như sấm sét đập vào đầu những ông kinh sư giả hình đạo đức, cầu danh cầu lợi. Giọng của ông ôn tồn dịu dàng kêu gọi người thu thuế và bọn đàng điếm ăn năn sám hối. Một trận cuồng phong sám hối bùng lên. Tầng tầng lớp lớp người tội lỗi lội xuống sông xin xối nước và rưng rưng giọt lệ…

Hai chàng thanh niên trẻ măng, người làng Betxaiđa, làm nghề đánh cá, rủ nhau đến xin làm đệ tử Gioan Tẩy Giả. Hai chàng thanh niên lực lưỡng bỗng dưng trở thành hai thầy tu khổ hạnh. Bánh mì và cá thịt trên bàn ăn, bây giờ chỉ còn là châu chấu cào cào với chút mật ong rừng. Khổ ơi là khổ! Phải là những người có ý tưởng cao siêu lắm, mới dám đổi đời như thế. Hai chàng thanh niên ấy chính là Anrê và Gioan.

Mảnh vụn hai. Thầy đang thuyết pháp. Trò đang lắng nghe. Bỗng Thầy làm thinh. Trò giật mình bỡ ngỡ… Có bóng người đang thấp thoáng ở đằng xa. Gioan Tẩy Giả khuyến khích hai môn đệ “Các em nên đi theo Người. Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”.

Anrê và Gioan cúi đầu giã từ thầy. Hai cái đầu cùng gục trên ngực thầy. Đầu của trò và ngực của thầy không muốn xa lìa. Thương quá! Những giọt lệ học trò làm ướt áo thầy. Gioan Tẩy Giả đẩy hai cái đầu của học trò ra, khuyên nhủ như ra lệnh: “Các em hãy bỏ thầy, mà đi theo Người, vì Người mới là Đấng–phải-đến. Còn thầy chỉ là kẻ đến trước để dọn đường cho Người mà thôi”.

Anrê và Gioan vội vã đi theo Đức Giêsu, một vị tôn sư đáng kính vô cùng. Đáng kính đến mức độ Gioan Tẩy Giả phải thốt lên rằng: “Tôi không đáng xách dép cho Người”. Vì Người đáng kính quá, nên hai chàng cứ lẽo đẽo theo sau lưng mà không dám lên tiếng chào. Người quay lại hỏi, để hai chàng khỏi bẽn lẽn.

-Hai chú mày đi tìm ai vậy?

-Thưa Thầy, Thầy ở đâu?

-Ở trong cái lều đằng kia. Mời hai em đến mà xem.

Thấy tôn sư đáng kính xởi lởi, xuề xòa, dễ thương, Anrê và Gioan bỗng trở nên dạn dĩ, cởi mở.
Ba Thầy trò ngồi xếp bằng trong căn lều ấm cúng. Giọng nói của Thầy ôn tồn ấm áp. Ánh mắt của Thầy thì… không biết lấy gì mà diễn tả. Nó chinh phục, nó chiếm đoạt, nó ru êm, nó bao bọc, nó bồng ẵm… Ôi, ánh mắt thần thánh!

Mảnh vụn ba. Ngồi tâm sự với Thầy Giêsu suốt một buổi chiều, Anrê cảm thấy lòng mình sung sướng quá! Hạnh phúc là đây! Sự nghiệp là đây! Hừng sáng hôm sau, Anrê dẫn ông anh đến để giới thiệu với Thầy. Thầy vồn vã đón tiếp và tuyên bố nhanh như một phản xạ:

- “Simon, từ nay người ta sẽ gọi anh là Kêpha nghĩa là Đá. Trên tảng đá này Thầy sẽ xây dựng giáo hội của Thầy”.

Câu nói bất ngờ làm mọi người ngỡ ngàng, đưa mắt nhìn nhau. Chẳng ai hiểu ý Thầy muốn nói gì. Nếu Thầy muốn trao một trọng trách cho ai, thì người ấy phải là Anrê, một người vừa lanh lẹ, vừa có nhiều xã hội tính. Simon là người chân chất, ruột để ngoài da, không phù hợp với công tác lãnh đạo. Càng phân tích càng khó hiểu. Đành để đấy, vì đấy là việc của Thầy.

Mảnh vụn bốn

Thầy trò ngồi nhìn nhau.Thầy thì vô tư. Trò thì lúng túng như chuột mắc bẫy.

- Thưa Thầy. Xin Thầy cho bà con giải tán. Người thì đông, trời thì đã xế. Họ về sớm để còn kiếm chỗ trọ và kiếm cái ăn.

- Các anh lo cho người ta ăn đi.

- Hai trăm đồng cũng chả đủ cho mỗi người một miếng.

- Vậy thì các anh còn bao nhiêu bánh?

Ai nấy trố mắt nhìn nhau. Vừa buồn cười, vừa bất bình. Anrê từ đằng xa chạy về, dẫn theo một em bé bán bánh. Trong rổ hắn còn năm ổ bánh mì và hai con cá. Anrê đẩy hắn đến với Thầy. Mọi người nhìn theo, nói thầm trong bụng “Trò hề”.

Thầy nhận rổ bánh, xoa đầu em bé, rồi ngước mắt nhìn trời, thì thầm cầu nguyện. Anrê nhìn cặp mắt thần của Thầy, chờ đợi một biến cố kỳ diệu. Biến cố ấy đã xảy ra. Năm ổ bánh mì và hai con cá làm no nê năm ngàn đàn ông, vài ngàn đàn bà và trẻ con … Anrê cảm thấy hạnh phúc quá chừng và tự hỏi: “Nếu mình không dẫn em bé ấy đến với Thầy, thì …” Ôi năm ổ bánh mì và hai con cá!

Mảnh vụn năm. Một cuộc biểu tình, một lễ tôn vương được thành hình một cách ngẫu nhiên. Đức Giêsu ngồi trên lưng con lừa tơ. Quần chúng cầm cành ôliu vừa đi vừa hô “Vạn tuế Con Vua Đavít”. Chẳng ai biết mục đích của cuộc biểu tình là gì. Nó tự thành hình, rồi tự tan biến. Y như một trò ảo thuật.

Đức Giêsu đang đứng một mình, trầm tư, thì Anrê và Philíp lăng xăng ào tới, tíu tít giới thiệu: “Thưa Thầy, các bạn ngoại đạo muốn gặp Thầy”. Ánh mắt Đức Giêsu bừng sáng. Ngài dang rộng hai cánh tay đón tiếp người ngoại đạo và ngoại quốc. Niềm vui của Ngài như bùng vỡ. Ngài xuất thần nhìn về tương lai và thấy Tin Mừng bắt đầu bùng vỡ, để đi đến tận cùng trái đất.

Nhìn Thầy đang sung sướng vì được gặp người ngoại, Anrê hãnh diện quá chừng. Anh nghĩ thầm trong bụng “Nếu không có mình, thì người ngoại không dám đến gặp Thầy. Nếu không được gặp người ngoại, thì Thầy ỉu xìu, đâu có được hưng phấn đến như thế”.

Kính thưa thánh Anrê.

Đó là những điều con thấy và suy nghĩ về Ngài. Con ước mơ thấy Ngài là tông đồ trưởng. Ngài có lý tưởng cao. Ngài tháo vát và có tinh thần hội nhập. Ngài đã đi tới và sống với mọi người. Lạ thay, Thầy đã không trao cho Ngài trọng trách ấy. Con nghĩ mãi mà không hiểu. Con gọi cái đó là “mầu nhiệm của ơn gọi”. Con cúi đầu chấp nhận. Xin trân trọng kính chào Ngài.

Tái bút

Kính thưa thánh Anrê.

Con xin được hỏi nhỏ Ngài một lời. Đã lâu lắm rồi, đọc Phúc Âm, con vẫn thấy người ta bảo Ngài là em của thánh Phêrô; nay người ta lại bảo Ngài là anh, thánh Phêrô là em. Thế là thế nào ? Con không dám cãi, vì cãi thì thua. Nhưng con vẫn cứ buồn buồn và cứ gọi Ngài là em của thánh Phêrô. Con lý luận thế này:

1. Ở trên đời này, con thấy: em luôn luôn lanh khôn hơn anh và chị. Lý do: em sinh sau được học khôn với anh chị. Đó là điều mà anh chị không được hưởng. Đàng khác khi cha mẹ sinh con đầu lòng, thì kinh nghiệm còn ít hơn khi sinh những đứa con sau. Ngài lanh lẹ tháo vát hơn thánh Phêrô nhiều, nên con đoán Ngài là em, Phêrô là anh.

2. Trong Thánh Kinh con cũng thấy như thế. Aben là em thì đạo đức hơn anh là Cain. Giacóp là em thì lấn quyền trưởng nam của Exau. Rebécca là em thì vừa đẹp vừa đảm hơn cô chị Lia … Đó là quy luật tự nhiên, chứ không phải là quy luật của mạc khải: “Hễ là em thì được Chúa trao quyền cao chức trọng”. Không đúng, bằng chứng là ông Cam, con thứ của ông Noe lại thua ông anh cả là Xem.

3. Nếu con là Ngài, nếu con là anh của Phêrô, thì không đời nào con đến Caphácnaum để làm phụ với ông em mà nhà ông em thì lại có cả mẹ vợ nữa.

4. Nếu con là anh của Phêrô, thì không đời nào con lại sánh vai với Gioan để đi theo Gioan Tẩy Giả. Gioan chỉ đáng làm em út.

Ai nói gì thì nói, con vẫn gọi Ngài là em của thánh Phêrô.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 126: TÁI BÚT GỬI SIMON-PHÊRÔ


Anh Phêrô đáng kính!

 

Trong ba lá thư ngỏ, tôi xưng hô “cậu - tớ” với anh. Từ nay tôi xin rút lại cách xưng hô ấy. Tôi vẫn PiôHậu 126


Trong ba lá thư ngỏ, tôi xưng hô “cậu - tớ” với anh. Từ nay tôi xin rút lại cách xưng hô ấy. Tôi vẫn coi anh như người bạn nối khố. Nhưng bỗng tôi thấy lòng kính trọng đối với anh đang lớn lên và bao trùm hết cả hai chữ thân thương của chúng ta. Tại sao vậy? Những hình ảnh sau đây sẽ trả lời câu hỏi ấy.

Hình ảnh 1.

Tôi thấy anh đứng trước hàng ngàn thính giả. Hàng ngàn cặp mắt không chớp. Hàng ngàn cái miệng há ra mà quên khép lại. Họ say mê nghe anh thuyết giảng. Anh dẫn chứng Kinh Thánh một cách nhuần nhuyễn y như một giáo sư Kinh Thánh loại cao cấp. Bố cục bài giảng rất chặt chẽ, để dẫn đến một kết luận. Đó là Đức Giêsu đã bị đóng đinh, đã bị mai táng và đã sống lại. Đó là Đấng Cứu Thế mà các sứ ngôn đã tiên báo và nôn nóng chờ đợi suốt dòng lịch sử mười ba thế kỷ.

Giọng nói của anh có lúc chắc nịch như chém đinh chặt sắt; có lúc rỉ rả ôn tồn như mời gọi, như an ủi. Mọi người cảm thấy nhói trong tim, phải vội lấy hai bàn tay úp lấy lồng ngực... Họ hối hận vì đã vô tình trước cái chết oan khiên của Đấng Cứu Thế. Họ nhao nhao hỏi anh: “Bây giờ chúng tôi phải làm gì?”

Ba ngàn người cúi đầu xin tin và xin thanh tẩy.

Anh Phêrô kính mến. Tôi không thể hiểu được sự kiện này. Tôi hỏi ý kiến mọi người xung quanh. Ai cũng lắc đầu, không thể hiểu được. Tôi chỉ biết chắp tay xá anh ba cái. Tôi chỉ biết ngước mắt lên trời, để tìm Thầy. Tôi không thấy Thầy, nhưng vẫn cảm thấy Thầy đang ở trong tâm của anh. Tôi xá Thầy một ngàn cái.

Hình ảnh 2.

Một ông què. Què từ ngày lọt lòng mẹ. Què hơn bốn mươi năm. Què lê lết và nghèo lây lắt. Ông ta chăm chăm nhìn anh, hy vọng có một vài đồng xu rơi bịch vào cái nón rách. Anh móc túi tìm tiền. Túi lép kẹp. Anh trợn mắt nhìn vào mặt ông què, nói như ông tướng đọc lệnh trước hàng quân:

“Anh nhìn vào mặt tôi nè. Vàng bạc và tiền nong thì tôi không có. Nhưng tôi có cái này... Đó là nhân danh Đức Giêsu Nadarét, tôi cho anh đứng dậy mà đi”.

Bàn tay anh và bàn tay ông què siết lấy nhau. Anh kéo ông què. Ông què đứng dậy. Đứng rồi thấy chân mình vững, giậm ba cái, rồi nhảy tưng tưng y như trẻ con. Quần chúng bu lại, trợn mắt, há hốc miệng để nhìn. Nhìn ông què chạy nhảy. Ngắm anh đang đứng khoanh tay. Người ta tưởng anh là ông Thần giáng thế. Uy tín của anh bốc lên như diều gặp gió. Người ta mê anh như thần tượng. Người ta giành nhau để vuốt vai anh, để hôn tà áo của anh. Có một bà già quỳ mọp dưới chân anh, chắp tay xá lia lịa. Tôi đứng chết trân như pho tượng. Chẳng nhìn ai. Chẳng nhìn anh. Chỉ muốn nhìn Thầy. Không thấy Thầy. Đành nhắm mắt lại. Có một bàn tay vô hình đang dìu dắt anh, đang uốn nắn anh như một điêu khắc gia đang thổi hồn mình vào một tác phẩm nghệ thuật. Tôi cảm thấy một trang sử vừa lật qua.

Hình ảnh 3.

Một rừng quan tòa. Ông nào cũng nghiêm nghị như đấng thiên triều. Khăn áo chỉnh tề. Râu ria tỉa tót. Ngồi im phăng phắc. Đa số quan tòa thuộc phe Xađốc, một phe rất dị ứng với niềm tin vào sự kiện phục sinh.

Tôi thấy anh và Gioan đi vào, mỗi người có hai vệ binh kề hai bên. Các anh đứng giữa sảnh đường, hiên ngang như hai cây cổ thụ. Các quan tòa trố mắt nhìn, nhưng vẫn im phăng phắc. Thượng tế Caipha trịnh trọng vuốt râu một cái rồi lấy ngón tay trỏ phải chỉ thẳng vào mặt các anh, giọng nói như sấm sét.

- Nhờ quyền năng nào và nhân danh ai mà các người đã làm những điều ấy?

- Kính thưa quý vị thủ lĩnh, kính thưa quý vị kỳ mục, quý vị thắc mắc về việc chúng tôi đã làm cho ông què này được khỏi tật và đi được. Vậy xin quý vị và toàn dân Ítraen biết cho rằng: Nhờ danh Đức Giêsu Kitô mà chúng tôi đã cho ông què này được lành mạnh. Đức Giêsu là người làng Nadarét mà quý vị đã đóng đinh vào khổ giá. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Người là tảng đá mà quý vị loại bỏ, thì nay đã trở nên đá góc. Anh Phêrô ơi! là một thằng thuyền chài, dốt đặc cán mai, dài cán thón, thế mà hôm nay anh đứng hiên ngang và thuyết giảng hùng hồn trước rừng người trí thức của thủ đô. Ông nào cũng lắc đầu, vừa thán phục vừa ấm ức. Ấm ức mà chẳng nói nên lời. Ông què được anh chữa lành đang đứng sờ sờ ra đó. Ông ta chỉ cần nhấc chân một cái cũng đủ để bịt miệng tất cả bấy nhiêu ông quan tòa.

Rừng người trí thức mời hai anh ra ngoài, để họ âm thầm bàn kế hoạch đầu hàng. Họ không dám dẫn độ các anh trở lại trại giam. Họ chỉ còn một cách là năn nỉ, là van xin các anh đừng rao giảng Đức Giêsu nữa. Đã thua đậm, bây giờ lại thua nữa. Tôi thấy rừng người trí thức sụ mặt xuống khi nghe anh tuyên bố: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là nghe lời các ông”.

Nói xong, hai ông quay ngoắt ra về. Vừa đi vừa nhón gót. Vừa đi vừa ca hát. Đứng nhìn các anh ngoe nguẩy ra về. Tôi ngậm ngùi nhớ lại lời Thầy căn dặn từ năm xưa: “Anh em đừng sợ thế gian. Họ chẳng làm gì được anh em đâu”.

Anh Phêrô ơi! Mừng cho anh. Thương anh vô vàn.

Hình ảnh 4.

Bà Linh Dương, một chứng tá Tin Mừng của Gióppê. Người nghèo nhìn bà như một vị cứu tinh. Chị em phụ nữ coi bà như đầu tàu của nhóm truyền giáo. Mừng quá! Vinh dự quá! Bỗng dưng bà nằm xuống, nhắm mắt và tắt thở. Người nghèo gục đầu thất vọng. Các bà phụ nữ khóc òa lên. Chả biết làm gì bây giờ. Chỉ biết tắm rửa và mặc áo đẹp cho bà. Và ... lại khóc thê thảm.

Người ta báo tin buồn cho anh. Anh vội vã đến, hấp tấp leo cầu thang. Anh làm hiệu cho mọi người đi ra, không nói một lời, vì anh đang thất vọng. Anh quỳ một mình bên giường người quá cố, chắp tay, cúi đầu cầu nguyện. Anh van xin Thầy ra tay cứu vớt. Thần linh của Thầy nhập vào anh, thấm vào từng mạch máu li ti đang luồn lách chảy trong cơ thể của anh. Nhiệt độ tăng lên 38,39,40 độ... Bỗng anh ngẩng đầu, ngước mắt nhìn thẳng vào mặt xanh xám của người đã chết, ra lệnh như Thầy vẫn làm: “Bà Tabitha, trỗi dậy!” Bà Linh Dương mở mắt, chớp chớp và ngồi dậy... Mọi người sững sờ một giây, rồi lại khóc òa lên. Khóc vì mừng quá. Khóc vì thương quá. Người ta ôm bà Linh Dương để mừng. Người ta ôm anh để tôn vinh. Tin vui bùng vỡ! Tin mừng bùng vỡ!...

Hình ảnh 5.

Trên đường phố lờ mờ, anh lững thững bước. Ngơ ngơ. Bỗng anh đứng lại ngó trước nhìn sau, rồi đi vội về căn nhà của bà Maria, mẹ của Máccô. Anh đập cổng thình thình mọi người cảm thấy thót tim. Cô Rôđê rón rén ra ngó. Thấy anh, cô ta mừng quá! Mừng quá, mà quên mở cổng. Hắn chạy vào nhà báo tin.

- Ông Phêrô về rồi!

- Mày khùng hả!

Mọi người chạy ra mở cổng. Thấy anh, mọi người sửng sốt. Anh lấy ngón tay trỏ đặt lên môi. Mọi người im lặng đi vào, im lặng ngồi nghe anh kể chuyện. Anh rỉ rả kể chuyện, kể thật nhỏ. Ai nấy nín thở để nghe, sợ bỏ sót một lời vàng ngọc.

Đêm ấy, anh ngồi trong phòng biệt giam, chờ sáng hôm sau, dâng đầu cho vua Hêrôđê. Hai tay: hai xiềng. Hai chân: hai xiềng. Bỗng xiềng rơi xuống leng keng. Có ai đó bảo anh khoác áo choàng và đi theo. Đi tới cửa phòng, cửa phòng mở ra. Đi tới cổng trại giam, cổng mở toang. Hai người cứ đi, đi mãi. Bỗng người dẫn đường biến mất. Định thần lại, anh mới biết người dẫn đường ấy là Sứ Thần của Chúa. Người thật chứ không phải người trong mơ. Và anh được Thầy cứu thoát thật, chứ không phải là chuyện chiêm bao.

Anh Phêrô ơi!

Từ câu chuyện Thiên Thần dẫn anh ra khỏi trại giam, tôi không còn thấy anh nữa. Anh đi đâu, tôi không biết. Mãi sau này tôi mới được bạn bè cho hay là anh sang tận Rôma. Ở đấy anh lại trở thành thần tượng. Thần tượng của dân chúng. Thần tượng của cả bọn lính cai tù. Tôi nghe nói có một lần nào đó, tên cai tù cũng quỳ xuống xin hôn tay anh. Chả biết có đúng hay không. Nhưng nếu có, thì cũng dễ hiểu thôi.

Chúc anh mãi mãi là nền tảng, để Thầy xây Giáo Hội của Người. Chúc anh mãi mãi chỉ rao giảng một mình Thầy mà thôi. Sống vì Thầy, mà chết cũng vì Thầy. Nhớ nha!

Thân mến vô vàn.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 127: LÁ THƯ NGỎ (3) GỬI SIMON – PHÊRÔ


Simon mến!

 

Tớ tiếp tục đi tìm Thầy trong con người của cậu, qua những hình ảnh cuối cùng. Sau bữa tiệc PiôHậu 127


Tớ tiếp tục đi tìm Thầy trong con người của cậu, qua những hình ảnh cuối cùng.

Sau bữa tiệc buồn hơn sự chết, Thầy trò chúng mình kéo nhau ra vườn Cây Dầu để nghỉ đêm. Thầy thì không ngủ được một tí nào. Cứ cầu nguyện, cứ thổn thức. Lúc thì quỳ gối, chắp tay và thầm thĩ. Lúc thì phủ phục, nói không thành lời. Trò thì lăn lưng ra mà ngủ một đống. Chưa bao giờ tớ thấy cậu tồi tệ đến như thế. Hai lần Thầy đến đánh thức và năn nỉ cậu cầu nguyện. Cầu nguyện để khỏi sa ngã. Cầu nguyện để chia sẻ nỗi cô đơn của Thầy. Thế mà cậu cứ vùi đầu vào hai cánh tay mà ngủ. Vô tư, vô tâm, vô tình đến chịu không nổi. Y như cái bị thịt không có linh hồn. Đáng ghét quá chừng!

Lần thứ ba Thầy lại đến để đánh thức cậu, không phải để năn nỉ cậu cầu nguyện, mà để bảo cậu mở mắt ra mà xem Thầy bị bắt, bị trói, bị lôi đi...

Tớ thấy cậu đứng bật dậy, ngơ ngác một tích tắc, rồi vung gươm chém loáng một cái. Sau đó tớ chỉ còn thấy Thầy đang ôm thằng vệ binh bị thương, âu yếm gắn lại cái vành tai vừa bị chém đứt. Còn cậu thì tớ chả thấy đâu. Biến mất dạng. Con người của cậu là như thế đó: đầu rỗng tuếch; tim lạnh ngắt; chỉ còn một cánh tay vạm vỡ và dại dột.

Thầy bị lôi đi giữa ánh đuốc bập bùng. Còn chúng mình thì chạy thục mạng vào bóng tối mịt mùng chẳng biết phương hướng là đâu. Thậm chí có đứa còn chạy tồng ngồng như con nhộng. Bây giờ nhớ lại, tớ thấy xấu hổ quá chừng và thương Thầy quá thể.

Chạy mà không có ai đuổi theo, tớ hết sợ. Tớ mò về nội thành, để thăm dò tin tức. Tớ thấy cậu thập thò ở cổng dinh Thượng tế. Cậu không thấy tớ, nhưng tớ thấy cậu từ đầu đến chân. Có lúc cậu bịt mặt, dựa lưng vào tường. Cậu hối hận. Cậu xấu hổ. Có lúc cậu đứng nép bên cánh cổng, nghiêng đầu ngó vào bên trong. Cậu thương Thầy quá, chả biết số phận Thầy ra sao.

Bà gác cổng bắt chéo chân, vươn vai một cái, liếc mắt nhìn cậu. Cậu không nhìn bà, cứ lom lom nhìn vào tiền sảnh. Bà nhổ nước miếng, chửi thầm trong bụng: “Đàn ông Galilê, quê ơi là quê!

Thấy cậu thập thò, lấp ló, Gioan chạy ra xởi lởi với bà gác cổng:

- Bạn của em đấy.

- Ừ, vào đi. Nhìn mặt là tao biết liền, anh này cũng ở trong nhóm Galilê, theo ông Giêsu.

- Chị nói gì mà kỳ vậy? Tôi có biết ông Giêsu là ai đâu. Cậu vừa nói vừa lẽo đẽo theo sát gót thằng Gioan.

Tớ vội chen vào, mỉm cười với bà gác cổng:

- Em cũng là bạn của thằng Gioan. Cho em vào với.

Bà gác cổng gật đầu, mỉm cười liếc mắt đưa tình.

Trời đã sang xuân, nhưng thời tiết vẫn còn lạnh quá. Ba đứa chúng mình bu quanh đống lửa, xen kẽ với bọn vệ binh. Đứa nào cũng thấp thỏm lo cho Thầy đang bị xét xử trong dinh thượng tế. Mặt cậu rầu rầu như lá bầu dính cứt trâu. Mắt cậu lấm lét vừa nhìn xuống vừa liếc xéo xung quanh.

Bỗng một thằng vệ binh chỉ ngay vào mặt cậu, vừa nói vừa cười.

- Thằng này cũng ở trong nhóm Giêsu.

- Mày nói gì tao không hiểu.

- Đừng có chối. Tao nghe giọng Galilê là tao biết rồi: Vừa cứng vừa đớt.

Cậu cúi gầm mặt xuống, vừa xấu hổ vừa sợ hãi. Chưa kịp ngửa mặt nhìn lên, thì một thằng vệ binh nữa lại tấn công cậu:
- Đúng nó đấy. Hồi nãy tao thấy nó ở trong vườn Cây Dầu. Chính nó chém đứt tai thằng Mancô em của tớ.
- Không có! Tôi không biết chuyện này. Đừng nói bậy.

Cậu vừa cãi, vừa đặt hai bàn tay lên hai đầu gối, nhún một cái, đứng bật dậy và chuồn lẹ. Cậu vừa quay lưng, thì con gà trống cồ, từ trong chuồng, phóng ra một hồi gáy vừa dài vừa to: “Cúc...cu...cu.”

Lúc ấy Thầy đã lãnh án tử, đang ngồi ở trước tiền sảnh. Bọn vệ binh dày vò, chế giễu và đày đọa Thầy y như bầy mèo hoang đang vờn con chuột lắt sắp bị chúng ăn thịt. Cậu nhìn Thầy một cái rồi cúi xuống nhìn hai bàn chân. Thầy nhìn cậu, nhìn rất lâu, như ghim ánh mắt vào tim gan của cậu. Cậu khóc hụ lên, chạy ù ra phía cổng, rồi biến mất dạng trong bóng đêm. Bà gác cổng liếc mắt đuổi theo, buông thõng một câu: “Đàn ông gì mà ... y như đàn bà”.

Cậu thì biến mất dạng. Nhưng tớ đoán là cậu không dám về gặp anh em. Cậu ngồi ở một gốc cây nào đó trong vườn Cây Dầu, để khóc một mình. Khóc vì xấu hổ. Khóc vì hối hận. Khóc vì thương Thầy.

Còn tớ thì cứ luẩn quẩn trong sân thượng tế để chia sẻ nỗi đau của Thầy. Tớ đoán là Thầy đang nghĩ về cậu, một đứa học trò ruột để ngoài da, nhưng rất thật thà. Thầy không buồn không giận, mà chỉ thương cậu thôi.

Sáng Chúa nhật hôm ấy, tớ thấy cậu phờ phạc đến thảm thê: má hóp; mắt lõm, cằm đè xuống ngực y như ông già sắp chết đói. Bỗng chị Mácđala chạy về, vừa thở hổn hển, vừa hốt hoảng kể lể:

- Chết rồi anh Simon ơi! Không biết ai lấy trộm mất xác của Thầy rồi.

- Trời ơi là trời! Thật không?

- Thật! Em vừa ở đấy về nè.

Cậu ôm lấy cột, đứng ngất đi một hồi lâu. Gioan đến đỡ cậu ngồi xuống … Khi đã lại sức, hai anh em cùng chạy ra mộ. Gioan chạy vù vù. Còn cậu thì vừa chạy, vừa lấy hơi. Gioan tới mộ trước. Cậu lẹt đẹt tới sau. Hai đứa rủ nhau vào. Cậu há hốc mồm, trợn mắt trắng dã … vì không thấy xác Thầy đâu. Cậu thất vọng ra về, đi thất thểu như người mất hồn. Tuyệt vọng!

Tớ bảo cậu quy tụ anh em lại để bủa ra đi tìm xác Thầy. Cậu chỉ lắc đầu, không nói nên lời. Tớ chửi thầm trong bụng: “Thủ trưởng mà như con gà què; mất xác Thầy mà miệng câm như hến. Hèn!” Tớ xúi Gioan thăm dò bên phía Caipha xem đứa nào ăn trộm xác Thầy và giấu xác Thầy ở đâu. Nó ghé miệng vào tai tớ, nói một câu gọn lỏn: “Thầy sống lại thật rồi”. Thấy Gioan có vẻ tự tin, tớ bắt đầu suy nghĩ về những lần Thầy tiên báo. Tớ thấy hơi yên tâm. Nhìn cậu một lần nữa. Cậu vẫn giống như tàu lá chuối khô...

Bầu khí sôi bỏng ở thủ đô đã lùi vào dĩ vãng. Bọn chúng mình rút về Galilê. Tất cả đều tập trung ở nhà cậu. Đúng là huynh đệ chi binh. Tình nghĩa chan hòa. Đúng là thủ trưởng, nuôi cơm một bầy em. Một buổi sáng, cậu vác dầm ra bến. Tớ hỏi:

- Cậu đi đâu đấy?

- Tớ đi thả lới đây.

- Cho chúng tớ đi với.

Đứa nào cũng cười toe toét, dập dìu kéo nhau xuống thuyền, kể cả thằng Nathanaen, dân miền núi, chẳng biết sông nước là gì. Suốt ba năm theo Thầy, tớ chưa bao giờ thấy cậu được anh em quý mến và trọng vọng như hôm ấy. Tớ mường tượng thấy cậu có một tương lai xán lạn. Mừng cho cậu. Mừng cho anh em.


Nhưng buồn cười quá, vì chuyến ra khơi hôm ấy thất bại hoàn toàn. Trắng tay! Thuyền vừa ghé bến, thì một người khách lạ hỏi thăm:

- Các chú không bắt được con cá nào sao?

- Thưa Bác, không!

- Cứ thả lưới xuống bên phải thì mới có.

Chúng mình ngoan ngoãn nghe ông khách lạ y như thằng cu tí nghe mẹ bảo đi quét nhà. Thế mà ai ngờ… chúng mình vớ được một mẻ cá nhiều cực kỳ. Gioan là người đầu tiên phát giác ra người khách ấy là Thầy. Hắn bảo cậu: “Chúa đấy!”. Cậu vội nhảy tùm xuống nước, vì… Cậu đang tự nhiên như ông Ađam. Lần đầu tiên tớ thấy cậu xấu hổ, vì đã… tô hô.

Chúng mình kéo lưới và cá lên bờ, ngồi quây quần bên bếp lửa. Cá và bánh Thầy nướng sẵn. Chúng mình im lặng ngồi ăn. Chẳng đứa nào dám mở miệng hỏi chuyện. Vui quá, nhưng im phăng phắc. Đứa nào cũng vừa cúi mặt làm bộ bận ăn, nhưng cặp mắt vẫn láo liên nhìn trộm Thầy. Thầy nhìn mặt từng đứa, im lặng không nói, nhưng mỉm cười, cặp mắt hấp háy như đùa nghịch với trẻ con.

Bỗng Thầy đứng lên làm hiệu cho cậu và Gioan đi theo. Thầy nói gì đó với cậu, tớ không nghe được nhưng tớ thấy cậu sụ mặt, xấu hổ. Sau này Gioan bật mí cho tớ. Thầy hỏi cậu một lần, hai lần, rồi ba lần. Lần nào cũng chỉ là: “Anh có mến Thầy hơn những người này không?” Tại sao vậy? Tại cậu giống con nít. Và để nhắc lại chuyện cậu chối Thầy ba lần. Tớ thầm nghĩ: “Cũng vừa! Chừa cho đến chết. Hết cái thói “Ta đây”.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: Báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 128: LÁ THƯ NGỎ (2) GỬI SIMON – PHÊRÔ


Simon mến!

 

Trong lá thư trước, tớ đã ôn lại bốn kỷ niệm về cậu. Qua bốn kỷ niệm ấy, tớ thấy cậu quê rõ PiôHậu 128


Trong lá thư trước, tớ đã ôn lại bốn kỷ niệm về cậu. Qua bốn kỷ niệm ấy, tớ thấy cậu quê rõ, còn Thầy thì tớ chỉ thấy lờ mờ. Hôm nay, trong lá thư này tớ tiếp tục ôn lại những kỷ niệm xưa ấy. Hy vọng tớ sẽ thấy Thầy nhiều hơn.

Sau phép lạ hóa bánh, Thầy ra lệnh cho chúng mình phải xuống thuyền đi về Caphácnaum. Mặt đứa nào cũng nhăn như bị. Tớ thầm nghĩ trong bụng: tại sao không chớp thời cơ này, kêu gọi đồng bào tổ chức lễ tôn Thầy lên ngôi vua. Đất nước sẽ thanh bình, thịnh vượng. Dân sẽ no cơm ấm áo. Chúng mình thì thi nhau mà võng lọng.

Xuống thuyền rồi tớ mới biết là đứa nào cũng nghĩ như tớ. Khi xuống thuyền rồi, tớ mới hiểu ý của Thầy. Thầy ghét cay đắng cái máu xôi thịt của tụi mình. Phải nói là Thầy đuổi chúng mình về trước, kẻo chúng mình sẽ tham gia vào lễ tôn vương đang manh nha trong đám quần chúng. Chúng mình về Caphácnaum. Còn Thầy thì trốn lên núi. Lễ tôn vương bị hẫng…

Chúng mình đang lênh đênh trên mặt hồ. Gió thì thổi ngược. Trời thì tối om om. Bỗng có một con ma xuất hiện đang rảo bước trên sóng nước. Tất cả đều la lên. “Ma!”. Con ma tiến lại gần thuyền. Thì hóa ra là Thầy. Thầy cười xuề xòa: “Thầy đây! Đừng sợ!”. Tớ thì xấu hổ, gục mặt xuống. Còn cậu thì le te: “Nếu đúng là Thầy, thì xin Thầy cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Thầy bảo: “Thì xuống mà đi”.

Cậu nhảy xuống và đi trên mặt nước thật. Đi chuệnh choạng y như thằng cu tí mới lên hai tuổi. Bỗng Cậu chìm xuống, chỉ còn cái đầu. Cậu vừa bơi vừa la bai bải: “Thầy ơi! Cứu con với!” Thầy cầm tay cậu kéo lên thuyền và cho cậu một bài học: “Người đâu mà kém tin thế. Tại sao lại hoài nghi như vậy?”

Cậu ngồi kế bên Thầy. Đầu tóc, râu ria và áo xống đều ướt nhẹp. Cậu nhìn Thầy. Mặt cậu ngây thơ như trẻ con. Còn Thầy thì cứ cười tủm tỉm. Thầy cười cậu. Đức tin của cậu phập phù như có như không. Thầy không đồng ý với cậu. Nhưng Thầy không giận, không phiền trách. Thầy chỉ buồn cười thôi. Cười yêu thương. Cười bao dung.

Thấy cậu vác cần câu ra bờ hồ, tớ đi theo. Tớ hỏi móc họng cậu một câu:

- Bộ mát thần kinh hay sao mà đi câu vào giờ này?

- Thầy bảo.

- Thầy bảo sao?

- Tiên sư cha mày! Cái gì cũng hỏi. Cái gì cũng muốn biết… Lúc chúng mình vừa về tới cổng, thì thằng nhân viên thuế vụ kéo áo tao hỏi: “Thầy chúng mày không đóng thuế sao?”. Tao chặn họng nó: “Tại sao không?”. Nói vậy thôi, chứ sức mấy mà nó dám đòi Thầy tiền thuế. Tao phải đóng, mày phải đóng, còn Thầy thì phải được miễn. Vừa bước chân vào nhà, chưa kịp lau mình, thì Thầy đã bảo tao: “Thầy là Con của Chúa Cha, thì không cần phải đóng thuế đền thờ. Nhưng… đóng đi cho rồi, kẻo họ hoạnh họe làm rách việc của mình. Anh ra bờ hồ thả câu. Con nào bắt mồi đầu tiên, thì moi họng nó lấy ra một đồng tiền mệnh giá bốn quan. Đó là phần thuế của Thầy và của anh đấy”.

Cậu vừa nói hết câu, thì phao bị giật chìm. Cậu lôi lên một con cá to bằng bắp chân, dài ba gang tay, giãy đành đạch. Cậu đè nó, móc họng, lôi ra một đồng tiền mệnh giá đúng bốn quan. Cậu cầm đồng tiền, ấp vào ngực, sung sướng như vớ được hũ vàng.

Hai đứa chúng mình lẳng lặng đi về. Không ai nói với ai một lời. Cảm động quá! Thấm thía quá! Bỏ quên con cá.

Về tới nhà, cậu quỳ thụp dưới chân Thầy, vừa thân thưa, vừa nhệu nhạo: “Thầy! Thầy đích thực là Con Thiên Chúa hằng sống”. Thấy cậu khóc, tớ cũng khóc.

Thầy đứng thẳng, hai cánh tay đặt tréo trước ngực, nhìn hai đứa chúng mình. Nhìn lâu lắm. Không nói gì. Dường như Thầy lấy ánh mắt truyền đạt niềm tin qua chúng mình. Tớ thấy thương mến và muốn gửi gắm hết đời mình cho Thầy. Còn cậu thì cứ quỳ mãi, ôm mặt mà khóc.

Hôm ấy Thầy giảng ở nguyện đường Caphácnaum. Thính giả đông như kiến cỏ. Bên trong nguyện đường thì không còn chỗ ngồi. Bên ngoài thì không còn chỗ đứng. Đông hơn thường, vì Thầy mới thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều ở Bétxaiđa. Uy tín của Thầy lúc đó y như diều gặp gió. Cánh diều lượn lờ trên mây. Tiếng sáo vi vu trong gió.

Thấy quần chúng nín thở để nghe, chúng mình đứa nào cũng thấy mát trong bụng và phập phồng ở lỗ mũi. Bất ngờ… thính giả lả tả ra về, để lại một khoảng trống mênh mông. Từ dòng người đang chảy xuống chân đồi như thác đổ, vọng về những câu nói nghe như búa bổ.

“Tại sao ông ta lấy thịt của ông ta mà cho chúng mình ăn”

“Là một tên thợ mộc ở Nadarét lại đi khoe là từ trời mà xuống”

“Lời gì mà chói tai như thế. Ai mà nghe cho nổi!”

Trong nguyện đường chỉ còn trơ ra mười ba Thầy trò. Người này nhìn người kia. Ngơ ngơ. Tớ đứng ở bên ngoài, lòng đau như thắt. Tớ không thèm nhìn thính giả ra về. Giận quá! Tớ không thèm nhìn các cậu. Chán quá! Tớ chỉ lom lom nhìn Thầy…

Chắc chắn ở trên đời này chưa có nhà giảng thuyết nào thất bại ê chề như Thầy. Thế mà Thầy không xấu hổ, không hối hận. Thầy vẫn đứng thẳng, khoanh tay, nhìn về xa xăm. Dường như Thầy đang ôm ấp một công trình lớn lao lắm, cao siêu lắm. Quên bẵng hiện tại.

Bỗng Thầy thôi xuất thần, quay lại nhìn cậu, làm bộ bất cần, hỏi một câu lạnh ngắt như xối nước vào mặt: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?”. Cậu trả lời như hờn dỗi “Bỏ Thầy, thì theo ai bây giờ? Chỉ có Thầy mới có lời hằng sống”. Thầy mỉm cười nhìn cậu. Khóe mắt của Thầy dường như nhấp nháy. Tớ đoán mò là Thầy chọc quê cậu, chứ không phải là Thầy khen cậu đâu. Đừng ham.

Simon mến!

Tớ biết chính cậu và Gioan là người chuẩn bị bữa tiệc cho chúng tớ. Nhưng tớ lại không quan tâm đến điều đó. Tớ thích theo dõi cậu, vì nhờ cậu tớ thấy được cái tâm của Thầy.

Anh em đang ăn, thì Thầy đứng dậy, cởi bỏ áo choàng, thắt lưng, kéo áo lên, rồi lấy chậu đi múc nước. Ai nấy đều ngậm miệng, quên nhai, để theo dõi. Thầy bưng chậu nước đến quỳ trước mặt cậu.

- Phêrô, bỏ chân vào chậu để Thầy rửa.

- Thưa Thầy, không đời nào con để Thầy rửa chân cho con. Cậu hốt hoảng, ôm cứng hai ống chân. Mặt cậu tái mét, gục xuống hai đầu gối. Run cầm cập.

- Nếu anh không cho Thầy rửa chân, thì anh sẽ không có phần trong ngày vinh quang của Thầy.

- Nếu thế thì xin Thầy rửa luôn cả tay và cả đầu con luôn. Cậu vừa nói vừa thả cả hai bàn chân vào chậu. Mắt sáng rực lên. Hí hửng.

Sau khi rửa chân hết một vòng, Thầy trở về chỗ ngồi, nghiêm nghị dạy một bài học để đời:
“Anh em gọi Thầy là rápbi. Đúng!

Anh em gọi Thầy là Chúa. Đúng!

Vậy mà Thầy đã rửa chân cho anh em như một tên đầy tớ rửa chân cho chủ. Thế thì anh em cũng phải noi gương Thầy mà phục vụ cho nhau như thế”.

Tớ thấy mặt cậu sụ xuống. Hẫng! Thế mới biết lòng dạ của cậu lúc nào cũng chỉ là xôi thịt. Còn Thầy thì rất dị ứng với cái gọi là quyền bính và quyền lợi. Thầy thì cao vời vợi. Còn trò thì cứ thấp tè tè. Thầy biết lòng dạ của anh em. Nhưng Thầy vẫn nhẫn nại chờ đợi. Không hài lòng, nhưng vẫn bao dung và tha thứ. Thầy vẫn yêu cậu và anh em như người mẹ yêu đứa con tàn tật. Tớ thấy thương Thầy quá. Càng thương Thầy bao nhiêu, càng giận cậu bấy nhiêu.

Ngồi ăn trở lại được một lát, Thầy lại rầu rầu nhìn mặt từng đứa. Vừa buồn, vừa thương. Thầy nuốt nước miếng một cái, rồi nhỏ nhẹ buông thả từng tiếng.

“Nội trong đêm nay, tất cả anh em sẽ bỏ Thầy mà chạy trốn hết…”.

Tớ thấy cậu đứng phắt dậy, vỗ tay vào ngực nói dõng dạc như tuyên ngôn: “Thưa Thầy, nếu chúng nó bỏ Thầy hết, thì con cũng vẫn một lòng một dạ với Thầy”. Thầy mỉm cười và ân cần nói với cậu: “Phêrô, đừng chủ quan. Nội trong đêm nay, khi gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”.

Cậu cụt hứng, ngồi phịch xuống. Tự ái to như núi. Không thèm nhìn Thầy. Còn Thầy thì bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Biết trước mọi chuyện buồn sẽ liên hoàn diễn ra. Nhưng không than phiền, không kết án ai. Một mình chịu đựng. Sẵn sàng để trăm dâu đổ đầu tằm.

Chào tạm biệt. Hẹn gặp cậu trong lá thư sau.

Lm. Pio Nguyễn Phúc Hậu
Nguồn: Báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 129: LÁ THƯ NGỎ GỬI ANH SIMON – PHÊRÔ


Simon mến!

 

Cậu lẽo đẽo theo Thầy. Tớ cũng vậy. Cậu được Thầy tuyển vào “nhóm mười hai”. Còn tớ thì PiôHậu 129


Cậu lẽo đẽo theo Thầy. Tớ cũng vậy. Cậu được Thầy tuyển vào “nhóm mười hai”. Còn tớ thì… xôi hỏng bỏng không. Không ở trong “Nhóm mười hai”, nhưng tớ vẫn ở trong “nhóm bảy mươi hai”. Tớ vẫn thường xuyên đi truyền giáo với Thầy. Vì thế, tớ vẫn có dịp theo dõi và đánh giá cậu. Tớ ghi nhận rất nhiều hình ảnh về cậu. Mỗi hình ảnh là một tài liệu để tớ suy nghĩ về cậu và qua cậu tớ hiểu về Thầy.

Thằng Anrê, em của cậu, được ngồi tâm sự với Thầy từ xế chiều đến tối mịt. Nó mê Thầy như mê thần tượng. Sáng hôm sau, nó lôi cậu tới để giới thiệu với Thầy. Vừa nhìn thấy mặt cậu là Thầy nói ngay, nói nhanh như một phản xạ: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha”. Hai nhóm môn sinh của Thầy cộng lại được tám mươi bốn cái đầu. Không đứa nào được Thầy đổi tên, trừ một mình cậu. Tại sao vậy? Tớ ngẫm nghĩ mãi. Bỗng tớ giật mình nhớ ra:

Tổ phụ Ápram được Giavê đổi tên Ápraham, ngụ ý trao cho Ngài làm tổ phụ một dân tộc đông như sao trời và cát biển. Từ dân tộc này, muôn dân sẽ được chúc phúc. Đổi tên có nghĩa là trao một sứ mạng quan trọng.

Tổ phụ thứ ba của chúng ta là Giacóp được sứ thần gọi là Ítraen. Thế là dân tộc ta, đất nước ta mang tên là Ítraen. Tên này đi vào lịch sử thế giới và được ghi trên bản đồ toàn cầu. Đổi tên lại có nghĩa là long trọng bước vào dòng chảy của lịch sử.

Bây giờ Thầy đổi tên cậu là Kêpha. Kêpha là đá tảng. Tớ nghi ngờ là Thầy sẽ trao cho cậu một sứ mạng quan trọng lắm. Ví dụ: Cậu sẽ làm thủ trưởng, lãnh đạo “Nhóm mười hai” và chỉ huy cả chúng tớ nữa. Chừng hai năm sau, khi chúng mình tĩnh tâm ở vùng núi Hẹcmon, thì Thầy công bố: “Anh là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy…” Ngay bóc! Cậu thấy tớ đoán giỏi chưa? Tớ đoán được ý của Thầy. Nhưng tại sao Thầy có ý ấy, thì tớ… xin thua.

Lúc ấy tớ thấy cậu đang giặt lưới. Tớ biết tỏng là cậu tính giặt lưới xong, thì: ăn một bụng cơm; uống một bầu rượu, rồi đi ngủ… Ai ngờ… Thầy giơ tay ngoắt một cái. Cậu vội chèo xuồng tới. Mũi xuồng vừa chạm bờ hồ, thì Thầy nhảy xuống. Xuồng lùi ra. Thầy ngồi xuống giảng cho bà con đang ngồi trên bờ. Cậu chống xuồng.

Thầy vừa kết thúc: “Ai có tai, thì nghe”, cậu mừng quá, vì sắp được ăn uống ngủ nghỉ. Ngờ đâu… Thầy ra lệnh: “Ra khơi thả lưới”. Tớ thấy mặt cậu dài ra, rầu rầu y như lá bầu dính… cứt… trâu. “Thưa Thầy chúng tôi vất vả suốt đêm hôm qua, mà chẳng được gì. Nhưng… vì nể Thầy mà chúng tôi…” Tớ hiểu ý cậu muốn nói thêm: “Đi thả lưới, nhưng sẽ lại về với hai bàn tay trắng”. Cậu vừa chèo xuồng cà giựt, cà giựt, vừa lầm bầm trong miệng. Chẳng ai thèm để ý, nhưng tớ thì nghe rõ từng lời. Cậu giận Thầy, cậu còn nói hỗn nữa kia…

Bất ngờ: mẻ lưới hôm ấy trúng cực kỳ. Cậu hối hận, cậu xấu hổ, vì đã lỡ miệng nói xấu Thầy. Tớ thấy cậu quỳ mọp dưới chân Thầy, run lẩy bẩy: “Xin Thầy tránh xa con ra vì con tội lỗi quá”. Tớ cười thầm trong bụng: “Cho mày chừa cái thói bép xép”.

Thầy cúi xuống đỡ hai vai cậu, giọng Thầy ngọt như mía lùi: “Đừng sợ! Từ nay anh sẽ đi lưới người”. Sau đó thấy Thầy cười một cách đắc thắng. Nhờ cái lối cười ấy, tớ mới khám phá ra rằng: Thầy muốn cậu đi theo Thầy trăm phần trăm từ lâu lắm rồi, nhưng mà hễ cứ nhắc tới ý nguyện ấy, thì cậu lại gãi đầu gãi tai: “Xin Thầy thông cảm, vợ con khó tánh lắm. Nó chỉ cho con theo Thầy năm mươi thôi”. Thầy cũng đã ngỏ lời với bà xã cậu vài lần rồi. Bà ta cũng gãi tai, rồi xun xoe: “Xin Thầy thông cảm. Anh ấy mà đi theo Thầy luôn thì mẹ con chúng con phải treo nồi, mà ngồi ngáp vặt… Thầy ơi, năm mươi, năm mươi thôi nhá”.

Sau phép lạ này, cả hai vợ chồng cậu đều thôi gãi tai. Thầy thắng một cú đậm, vì cả cậu, em cậu lẫn hai anh em nhà Dêbêđê đều quyết tâm theo Thầy trăm phần trăm.
Nhưng mà… tớ hỏi nhỏ cậu: “Hai xuồng cá đầy ắp đó bán được bao nhiêu tiền? Tiền ấy cậu đưa cho ai?” Hỏi chơi vậy thôi. Khỏi trả lời.

Hôm ấy Thầy cho cậu bốc lên như diều gặp gió. Sau đó, Thầy cắt dây cho diều rơi xuống: rách te tua; gãy tan tành. Cậu có nhớ tớ muốn nói chuyện gì đó không? Nhắc lại chuyện này, chắc là cậu sẽ xấu hổ và giận tớ lắm. Kệ. Tớ cứ nói. Nói để hiểu Thầy và thương Thầy nhiều hơn. Vả lại cậu có giận, thì cũng chỉ giận vài ngày rồi thôi. Bản chất của cậu là vậy.

Chúng mình đi tĩnh tâm ở vùng núi Hẹcmon. Để tập cho tụi mình biết nhận xét, Thầy hỏi: “Anh em nghe dân chúng đánh giá Thầy là ai?” Chúng mình đua nhau trả lời. Nói chung thì dư luận quần chúng đánh giá Thầy khá cao: Từ sứ ngôn nhỏ cỡ Hôsê, cho tới sứ ngôn lớn cỡ Êlia. Thậm chí còn tin rằng Thầy là Gioan Tẩy giả trỗi dậy từ cõi âm. Nghe báo cáo xong. Thầy mỉm cười, nghiêng cái đầu, hỏi một cách như thách đố: “Thế còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”. Cậu là thằng nhanh mồm nhất, giơ tay trả lời ngay: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”. Thầy nhìn cậu chằm chằm, nói một cách trang trọng, nhấn mạnh từng lời, theo nhịp đập xuống của ngón trỏ phải: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”.

Tớ thấy cậu hỉnh mũi lên. Sướng quá! Chưa bao giờ có ai được Thầy khen ngợi như thế. Sau đó Thầy còn hứa trao cho cậu chìa khóa Nước Trời, chọn cậu làm nền tảng của Hội Thánh, mà ma quỷ cũng phải giơ tay đầu hàng. Oai quá! Mắt cậu sáng rực lên như ánh đuốc. Cho đến bây giờ tớ vẫn chưa hiểu tại sao Thầy lại khen ngợi cậu đến như vậy. Để đấy…

Vừa khen cậu xong, Thầy chuyển đề và chuyển giọng. Thầy cấm không cho ai bật mí Thầy là Con Thiên Chúa. Đồng thời Thầy cho biết Thầy sắp về thủ đô để bị bắt, bị giết, nhưng… ngày thứ ba sẽ sống lại.

Thầy nói chưa hết lời, thì mặt cậu đã sụ xuống. Cậu đứng bật dậy, nắm cánh tay Thầy, lôi Thầy ra xa để góp ý. Thầy vui vẻ để cậu lôi đi. Tớ đi theo. Cậu nói nhỏ bên tai Thầy với một giọng vừa tha thiết, vừa giận lẫy: “Thầy ơi! Thầy đừng có làm vậy. Chúa Cha không nỡ tâm để Thầy phải khổ nhục như vậy đâu?” Cậu vừa dứt lời, tớ thấy Thầy đứng thẳng lưng, hai tay chống nạnh, vằn mắt lên, quát vào mặt cậu: “Đồ quỷ! Tránh ra đằng kia! Anh dám cản lối Thầy hả? Anh chỉ biết việc người phàm, mà chẳng hề biết việc của Thiên Chúa”.

Thầy chưa bao giờ nặng lời với ai như vậy. Tại sao? Tại Thầy ghiền cây khổ giá và rất dị ứng với những ai sợ vác khổ giá. Tớ có thể khoe với cậu rằng tớ hiểu Thầy rất rõ về vấn đề khổ giá này. Tớ cảm thấy tớ đang ôm quả tim của Thầy giữa hai lòng bàn tay. Muốn cho Thầy vui, thì cứ vui vẻ vác khổ giá. Còn nếu ngại vác khổ giá, thì thế nào cũng bị mắng là đồ quỷ. Chắc như đinh đóng cột.

Thầy đưa cậu, Gioan và Giacôbê lên núi. Còn chúng tớ thì thèm nhỏ nước miếng. Ghen tức, nhưng vẫn không dám nói, vì vừa thương vừa nể Thầy. Chuyện gì xảy ra trên ấy, thì tớ không biết. Nhưng rồi tớ cũng biết, vì cậu kể tuốt tuột.

Thầy thì cầu nguyện. Trò thì ngủ khò. Bỗng các cậu giật mình thức giấc… Thầy biến dạng, sáng rực như hào quang. Thầy là thần thánh chứ không phải là người. Lãnh tụ Môsê và ngôn sứ Êlia đứng hai bên và hầu chuyện Thầy.

Một thần hai thánh đang đàm đạo với nhau, thì từ trời có tiếng phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy nghe lời Người”. Ba anh em lăn đùng ra. Chết giấc. Bỗng thấy có bàn tay lay vai, cậu mở choàng mắt. Chỉ còn một mình Thầy, không rực sáng nữa …

Ba Thầy trò xuống núi. Thầy cấm các cậu không được kể chuyện này cho tới khi Thầy trỗi dậy từ cõi chết.

Tớ không được may mắn như cậu để nhìn ngắm Thầy. Nhưng tớ hiểu rằng Thầy là tất cả lịch sử cứu độ; Thầy là mặc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Môsê và Êlia cũng chỉ là học trò của Thầy mà thôi.

Tớ còn nhiều điều phải nói với cậu. Hẹn gặp cậu trong lá thư sau.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: Báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 130: LÁ THƯ NGỎ GỞI MÁCCÔ


Máccô mến!

 

Đêm hôm ấy, Thầy cầu nguyện trong vườn Cây Dầu. Ngài thì thổn thức đến toát mồ hôi lạnh PiôHậu 130


Đêm hôm ấy, Thầy cầu nguyện trong vườn Cây Dầu. Ngài thì thổn thức đến toát mồ hôi lạnh. Đệ tử thì lăn lưng ra ngủ một cách vô tư. Bỗng ánh đuốc bập bùng, tiếng chân bước dồn dập, tiếng đàn ông la hét làm rung chuyển rừng khuya... Thầy bị bao vây và bị trói. Có một lưỡi gươm vung lên và bập xuống. Có tiếng kêu “ối” một cái. Náo loạn xảy ra. Rượt đuổi và chạy trốn. Trong số những người lẩn trốn vào bóng đêm, có một chàng thanh niên tồng ngồng như con nhộng... Hỏi: “Ai đấy?”, thì mọi người đều trả lời vanh vách: “Máccô”.

Máccô ơi, từ ngày xảy ra câu chuyện buồn cười ấy, tớ bắt đầu nghiên cứu về cậu. Cậu không biết tớ đâu. Nhưng tớ thì có một ôm tài liệu về cậu. Nếu cậu không tin, thì hãy ngồi im nghe tớ kể về đời của cậu.

1. Cậu là quý tử của đại gia. Bố mẹ cậu có một tòa nhà hai tầng, ở ngay trung tâm thủ đô, cách dinh Thượng Tế đúng 100 bước của tớ. Cậu là mẫu người con nhà lành, ăn trắng mặc trơn, nhưng khôn nhà dại chợ.

Mẹ cậu hâm mộ Thầy như một siêu sao. Hầu bao của bà lúc nào cũng rộng mở, để chia cơm sẻ áo cho người nghèo. Nhờ đó cậu hiểu biết khá nhiều về Thầy. Nhưng chưa bao giờ cậu dám nghĩ đến chuyện thoát ly gia đình, để đi theo Thầy. Nếu mẹ gợi ý, thì cậu chỉ gãi tai: “Thủng thẳng”.

2. Tối hôm ấy, Thầy ăn mừng lễ Vượt Qua tại nhà cậu. Bố mẹ cậu bố trí một căn phòng rộng rãi ở trên lầu. Chiên Vượt Qua, bánh mì không men, rượu nho, rau đắng và nước sốt màu gạch đều do bố mẹ cậu tài trợ. Công việc bếp núc, thì có dư người để lo. Cậu không phải nhúng một ngón tay vào đó. Thế là cậu mon men đến bên Thầy để gạ chuyện. Thầy trò tâm sự, cậu thấy ấm lòng. Cậu nhìn Thầy bằng ánh mắt trìu mến. Thầy nhìn cậu bằng ánh mắt bao bọc ủ ấp. Thầy trò mà như mẹ con. Thân thương, gần gũi. Bỗng cậu cảm thấy không thể xa Thầy. Cậu muốn làm đệ tử của Thầy từ những giây phút ấy.

3. Bữa Vượt Qua của Thầy không vui như cậu tưởng. Thầy thì trầm tư. Trò thì ngơ ngác. Dường như có chuyện gì buồn lắm và quan trọng lắm.

Thầy bưng thau nước rửa chân cho từng đệ tử. Đứa nào cũng co rúm lại. Xấu hổ đến muốn độn thổ.

Thầy ngỏ lời như hờn dỗi: “Một trong chúng con sẽ phản Thầy”. Đứa nào cũng trợn mắt nhìn nhau, như muốn hỏi nhau: “Thằng nào?”. Tự ái đầy mình!

Thầy cầm ổ bánh mì và ly rượu nho, ngước mắt nhìn trời y như xuất thần, rồi trao cho đệ tử, tha thiết mời họ: “Ăn đi! Uống đi! Đây là thân thể của Thầy sẽ bị nộp vì anh em. Đây là máu của Thầy sẽ đổ ra để cứu độ anh em...”

Cậu tò mò theo dõi. Chẳng hiểu gì, nhưng cảm thấy buồn tê tái. Vừa buồn vừa thương.

4. Sau bữa tiệc buồn, cậu đến bên Thầy, cúi đầu và thỏ thẻ:
- Mời Thầy đi nghỉ.
- Cám ơn Máccô. Tình hình đang căng lắm. Để Thầy ra nghỉ ở vườn Cây Dầu.
- Thưa Thầy con không hiểu.

- Đừng buồn. Đừng sợ. Mọi sự đã được Chúa Cha an bài rồi. Thầy đi nhá.
- Con cũng đi ra ngoài đó với Thầy.

Từ nhà cậu ra tới vườn Cây Dầu tớ đi bộ chỉ mất 20 phút. Nhưng hôm ấy Thầy trò đi hết hơn 30 phút. Thầy quỳ cầu nguyện ở gốc cây dầu. Đệ tử của Thầy thì nằm lăn lóc cách đó chừng 40 thước. Còn cậu thì chui vào trong nhà kho, cuốn chăn ngủ khò. Cả vườn Cây Dầu và nhà kho đều là bất động sản của bố mẹ ccậu. Cậu thuộc lòng từng ngõ ngách. Bao nhiêu cây dầu, cậu nhớ thuộc lòng. Trong kho có bao nhiêu thùng dầu, cậu đếm trên đầu ngón tay. Căn phòng rộng bao nhiêu, cậu thuộc nằm lòng.

Trời đã sang xuân, khí hậu hơi ấm hơn một chút. Cậu cởi bỏ áo dài lùng bùng khó chịu, chui vào trong chăn y như con nhộng nằm trong kén. Dường như cậu quên mặc xà rông. Đó là tập tánh của cậu: lè phè cho thoải mái...

Đang ngủ ngon, bỗng có tiếng nói xôn xao và ánh đuốc bập bùng. Cậu khoác chăn trên mình, đi ra quan sát tình hình. Thầy bị trói. Đệ tử bỏ chạy. Cậu đang đứng xớ rớ, thì một thằng lính chạy tới chụp lấy vai cậu. Cậu tung chăn bỏ chạy thoát thân. Thân trần như nhộng. May quá, trời tối như mực. Không ai thấy cái trần truồng của cậu. Nhưng câu chuyện xấu hổ này còn lưu truyền mãi cho đến ngàn đời.

5. Có tin đồn là ở Antiôkia giáo dân có sáng kiến loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và dân ngoại đang gia nhập Giáo hội rất đông. Tin này gây sốc ở thủ đô. Thế là các Tông Đồ cho ông Barnaba lên Antiôkia để nhận xét tình hình. Barnaba là cậu ruột của cậu. Thế là cháu nôn nóng cuốn gói theo cậu. Loan báo Tin Mừng cho người ngoại là một cuộc cách mạng đi ngược với truyền thống Do Thái giáo. Cuộc cách mạng này thành công, chứng tỏ nó có chính nghĩa. Barnaba đáp tàu đi Tácxô tìm anh chàng Saolô đưa về Antiôkia. Barnaba với Saolô được coi như cha con. Khi Saolô mới trở lại, các Tông Đồ không tin tưởng. Barnaba phải đưa hết uy tín của mình ra để bảo lãnh Saolô. Từ đó Saolô mới được các Tông Đồ tin tưởng, gặp gỡ và hợp tác.

Hai cha con cùng nhau củng cố giáo đoàn Antiôkia. Cậu luôn luôn đứng bên cạnh Barnaba y như một tập sự viên trẻ người non dạ. Cái tâm của cậu, thì to bằng quả bưởi. Nhưng cái lực của cậu, thì chưa bằng quả ổi. Lúc nào cậu cũng thở dài “lực bất tòng tâm”.

6. Sau một năm sống với tân tòng gốc lương dân, Saolô vừa mở lòng, vừa mở trí. Anh quyết tâm đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Anh mở tuyến truyền giáo I, khởi đầu từ Salamin và kết thúc ở Đerbê. Cuộc hành trình dài 1.113km và trong thời gian 4 năm.

Đoàn truyền giáo có 3 người: Saolô, Barnaba và Máccô. Đến Paphô thì Saolô đổi tên là Phaolô.

Chuyến đi này có một chuyện buồn xảy ra. Người gây ra chuyện buồn lại chính là cậu. Khi đoàn đang hoạt động ở Perghê, Phaolô phác họa chương trình đi Antiôkia xứ Pixiđia. Nghe đến Antiôkia, cậu ớn đến nổi da gà lên. Cuộc hành trình xa tới 160km. Đường rừng núi quanh co. An ninh chưa bảo đảm. Thường xảy ra cướp bóc. Thế là cậu phản đối. Không làm cho Phaolô đổi ý, cậu đánh bài chuồn. Chuồn về Giêrusalem với mẹ. Đoàn truyền giáo chỉ còn hai người: Phaolô và Barnaba.

Anh Saolô giận cậu lắm. Ba năm sau anh vẫn chưa quên vụ này.

Tớ nhớ là vào khoảng năm 50, Phaolô mở tuyến truyền giáo II. Đoàn truyền giáo có ba người: Phaolô, Barnaba va Xila. Thấy không có tên cậu trong danh sách, cậu của cậu đề nghị.

- Cho cháu tôi đi với.

- Máccô, cháu của ông là một tên hèn nhát. Hắn đã đào ngũ trong tuyến truyền giáo I. Tôi không đồng ý cho hắn đi.

Thế là Phaolô và cậu của cậu to tiếng với nhau. Kết quả là “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi”. Hai cậu cháu của cậu lủi thủi lui về đảo Síp. Từ đó hai người không còn đồng hành trên bất cứ tuyến truyền giáo nào nữa.

Trong vụ này tớ không đồng ý với Phaolô. Tớ thông cảm với cậu, vì cậu là con nhà giàu không quen chịu gian khổ. Cậu “đào ngũ” trên tuyến truyền giáo I là đáng được thông cảm. Sau ba năm ngẫm nghĩ cậu đã hối hận lắm rồi. Lúc ấy cậu cũng đã trên dưới 30, đầy nhiệt huyết, thì không nên từ chối thiện chí của cậu... Tớ vẫn theo dõi vụ này. Mãi cho tới khi già, Phaolô mới hết giận cậu. Bấy giờ Phaolô mới coi cậu là cộng tác viên đắc lực (2Tm 4,11). Khi viết thư cho Philêmon, ông cũng nhắc đến cậu, như một lời thăm ké, nhưng rất thắm thiết. Cậu đã trở thành một nhà truyền giáo thực thụ. Mừng cho cậu!

Cậu có rất nhiều kỷ niệm về Đức Giêsu. Đời sống của Ngài, giáo huấn của Ngài, tâm tính của Ngài đầy ắp trong tim cậu. Về điểm này, tớ thua cậu xa vời vợi. Khi nghe cậu kể chuyện về Đức Giêsu, tớ thấy thương quá, thèm quá.

Máccô ơi! Cậu có biết, tại sao tớ có nhiều tài liệu như thế về Cậu không? Nói nhỏ với cậu thôi, đừng cho ai biết nhá. Cô Rôđê, ôsin của nhà cậu đấy. Cô ấy coi cậu như thần tượng vậy.

Chúng ta cùng yêu Thầy và cùng loan báo Tin Mừng.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: Báo Công giáo và Dân tộc

--------------------------------

 

PiôHậu 131: LÁ THƯ NGỎ GỞI ANH MÁTTHÊU


Anh Mátthêu mến!

 

Người ta bảo “Con sâu làm rầu nồi canh”. Con sâu là anh. Nồi canh là đoàn truyền giáo của Thầy PiôHậu 131


Người ta bảo “Con sâu làm rầu nồi canh”. Con sâu là anh. Nồi canh là đoàn truyền giáo của Thầy Giêsu. Ai nỡ tâm ví von như thế? Chua quá! Nhưng... cũng không oan lắm đâu. Sở dĩ em nghĩ như thế, vì em cũng đang là con sâu đây. Vì con sâu này, mà Thầy đang khổ vô cùng.

Anh Mátthêu ơi, em đang ngồi dưới ánh trăng mờ, để ngẫm nghĩ sự đời. Em nghĩ về cuộc đời “ba chìm bảy nổi” của em. Em nghĩ về cuộc đời “chín lênh đênh” của anh. Em nghĩ về Thầy Giêsu của chúng mình. Em nghĩ gì về anh, thì anh sẽ đọc trong thư. Còn em nghĩ gì về mình, thì em chỉ ngỏ với Thầy mà thôi. Anh đừng mong.

1. Sáng hôm ấy, anh rón rén bước vào văn phòng Sở Thuế Vụ Caphácnaum. Anh cúi đầu chào một ông Tây, cổ to như cổ trâu, cằm nhẵn thín như đít ếch. Ông niềm nở đón tiếp anh, vì Sở đang thiếu biên chế một cách trầm trọng.

Anh đổi đời 180 độ từ hôm ấy.

Hội đường ra vạ tuyệt thông cách ly cho anh, coi anh như một tên phản đạo và phản quốc. Cha mẹ coi anh như người dưng nước lã. Không ai dám nói chuyện với anh. Không ai thèm bước chân vào nhà anh. Ai cũng sợ “mắc uế”.

Bị đồng bào và đồng đạo ghét bỏ, mặt anh vẫn cứ tỉnh bơ. Bất cần. Người ta không thèm nhìn anh. Anh cứ vênh váo nhìn họ. Nhìn để ghét. Nhìn để thách thức. Anh thôi thờ Chúa. Anh thôi thờ cha kính mẹ. Anh chỉ thờ tiền. Tiền chui vào túi anh y như nước sông Giođan chảy vào Biển Chết. Chế độ La Mã nhắm mắt cho anh hà lạm và bóc lột đồng bào. Họ mua sự trung thành của anh, y như sự trung thành của một con chó.

2. Một năm trôi qua. Hai năm trôi qua. Giới làng chơi bắt đầu thắc mắc rất nhiều về anh. Người này bảo là anh mắc bệnh trầm cảm. Người kia khẳng định là anh bị “người đẹp” rút ruột. Có người cho rằng anh bị “ông Giêsu hớp hồn”. Chẳng ai hiểu anh hết. Chỉ có người đồng cảnh ngộ mới hiểu được tâm sự của anh mà thôi. Tiền bạc, lạc thú... chỉ cho ta một thứ hạnh phúc ảo. Phải ăn thật no, phải uống thật say, rồi ói mửa, thì mới biết thế nào là hạnh phúc ảo của lạc thú. Điểm đến của mọi lạc thú chỉ là buồn nôn, chỉ là ói mửa. Ai đi đến đỉnh điểm của lạc thú thì chỉ còn đủ sáng suốt để thấy mình ngã gục, chứ không còn đủ sức để quay gót.

Theo sự hiểu biết của em, thì anh chưa đi tới đỉnh điểm. Anh còn sức để quay gót. Nhưng... con đường về đã bị kéo dây chì gai. Hội Đường và gia đình đã quay lưng với anh. Luật đạo và luật đời đã loại trừ anh. Không có “luật vị nhân sinh” mà chỉ có “luật vị luật”. Không có luật sống. Chỉ có luật chết. Tôi chưa giết anh, nhưng luật đang “tùng xẻo” anh.

3. Hôm ấy là ngày sabát, em đi nghe Thầy Giêsu giảng, nhác thấy anh đứng ở đằng xa. Khoanh tay. Cúi đầu. Em nghĩ thầm trong bụng: “Thấm đòn rồi nha”.

Trong nguyện đường có một bà cụ bị còng lưng từ mười tám năm. Lưng còng tròn vo như chữ Ômêga. Bà chỉ cúi mặt nhìn đường đi chứ không ngước lên được, để nhìn mặt thiên hạ. Thầy Giêsu gọi bà lại, đặt tay lên lưng bà và nói: “Bà hết tật rồi đấy”. Bỗng bà đứng thẳng lên. Lưng ngay đơ. Bà mừng quá, khóc òa lên.

Ông trưởng hội đường nổi giận, quát thật to: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh vào những ngày ấy. Không được đến vào ngày sabát”. Cả hội đường nín khe. Bầu khí im lặng nặng hơn đá đè. Vừa thương Thầy, vừa sợ ông trưởng hội đường. Vừa thương bà cụ già, vừa sợ phạm luật. Thầy Giêsu lên tiếng, giọng chắc nịch như giọng ông quan tòa: “ngày sabát, luật cho phép cởi dây dắt bò đi uống nước. Tại sao bà này là con cháu ông Ápraham bị xatan trói buộc mười tám năm, lại không được tháo xiềng xích vào ngày sabát?”. Em nói vào tai người đứng gần em nhất: “Tại con bò cao quý hơn con cái ông Ápraham”. Em ngước mắt nhìn tìm anh, thấy anh gật gật cái đầu, tỏ vẻ thấm ý. Dường như anh cũng nghĩ như em. Từ lúc đó em hiểu rằng: ngày sabát phải phục vụ con người; con người không được nhân danh luật sabát để ức hiếp con người. Em nhớ có một lần Thầy Giêsu nói: “Ngày sabát vì con người chứ không phải con người vì ngày sabát”. Luật vị nhân sinh là vậy. Anh thấy em tiến bộ dữ chưa? Đi nghe Thầy giảng riết, rồi cũng khôn ra.

4. Anh đang kiểm tra hàng hóa chất đầy trên lưng một con lạc đà. Ông chủ râu ria rậm rạp, lẽo đẽo theo anh. Xum xoe. Gãi tai... con lạc đà nghếch mõm cao một tầm với, vô tư nhìn trời, nhai nhóp nhép, xè bọt mép...

Thầy Giêsu đi qua, đứng lại, nhìn anh. Anh phất tay ra lệnh cho con lạc đà rời quầy. Thầy đi tới. Anh quay lại. Hai người ôm nhau. Anh gục đầu vào ngực Thầy. Thầy xoa lưng và vỗ vai anh.

- Anh đi truyền giáo với tôi nhá.

- Thầy cho con đi với Thầy thật không?

- Tại sao không?

Anh cười hố hố, nhảy cẫng lên như thằng trẻ con. Simon khều Gioan, tỏ vẻ bất mãn: “Rách việc! Một con sâu làm rầu hết một nồi canh”.

5. Anh dọn tiệc “giải nghệ”. Khách có râu và không có râu, khách cắt bì và không cắt bì ngồi lẫn lộn với nhau. Loạn xà ngầu! Thầy được mời ngồi vào chỗ trang trọng nhất, kế bên ông cằm nhẵn, giám đốc sở thuế vụ. Thầy nâng ly chúc mừng mọi người, không phân biệt Âu - Á, đạo - ngoại và giai cấp. Năm anh đệ tử của Thầy nháy nhau ngồi chung một bàn. Anh nào cũng lấm lét. Anh nào cũng ngượng ngùng. Vào nhà người thu thuế, ăn cơm với bọn không cắt bì, mắc uế cả lũ. Xấu hổ quá chừng!

Nội ngày hôm sau, ông trưởng hội đường Caphácnaum tìm gặp Thầy. Không mỉm cười chào “Sàlom”. Không lễ phép tôn kính sư phụ. Ông hét vào mặt Thầy.

- Ông có biết Mátthêu làm nghề thu thuế không?

- Tôi biết.

- Ông có biết giáo luật cấm không cho tín đồ giao du với bọn phản đạo ấy không?

- Tôi biết.

- Biết thì tại sao ông dám vào ăn cơm ở nhà nó?

- Thầy thuốc thì đến với bệnh nhân. Còn tôi thì đến với người tội lỗi. Tôi đến để cứu...

Thầy ví von hay quá, thâm thúy quá, thấm thía quá. Ông trưởng hội đường quay lưng ngoắt một cái. Tức quá. Cãi không lại, nhưng không chịu thua. Để đấy...

Anh Mátthêu ơi! Thầy gọi anh. Anh theo Thầy. Đúng là rách việc thật. Không ai đồng thuận với Thầy. Người thì chống đối ra mặt. Người thì nói xấu sau lưng. Người thì cắn môi nén giận. Có lẽ chỉ một mình em là hiểu anh và hiểu Thầy. Chỉ vì em cũng là bệnh nhân như anh . Chỉ vì chúng mình đang chết đuối, mới thấy cái phao cứu hộ là tuyệt vời. Em cứ ngẫm nghĩ mãi về vấn đề này.

Từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ; từ Đông sang Tây; từ cổ chí kim; từ gia đình ra tới xã hội; từ trong đạo ra ngoài đời... em chỉ thấy có một mình Thầy là người duy nhất vừa yêu thương vừa quý mến người tội lỗi. Không những thế, Thầy còn trả giá bằng cái giá cao ngất trời bị kẻ thù chống đối: kệ. Bị người thân giận dỗi: kệ. Cứ một niềm yêu thương. Cứ một lòng trìu mến... Cứ mỗi lần đọc Thánh vịnh 100, nghe tác giả giận dữ đòi quét sạch thành đô những đứa làm điều ác, không sót một tên, em lại ngậm ngùi nghĩ về Thầy. Thương quá, chịu không nổi. Thôi em không nói nữa. Em lại khóc mất rồi...

Chào anh.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../la-thu-ngo-gui-anh-mattheu_a1325

--------------------------------

 

PiôHậu 132: Lời ngỏ

 

Mình đi ra bờ sông, gác chân lên gốc mắm, đứng nhìn trời mây nước. Trời xanh thăm thẳm, xa PiôHậu 132


Mình đi ra bờ sông, gác chân lên gốc mắm, đứng nhìn trời mây nước. Trời xanh thăm thẳm, xa cách ngàn trùng. Vài cụm mây mỏng tanh trôi lững lờ, ngơ ngơ như người không có linh hồn. Con nước ròng đang chảy miết ra vàm, quên cả bờ bến. Vô tâm. Vô tình. Mình cảm thấy cô đơn quá chừng !...

Bỗng gió nổi lên. Cành mắm rung xào xạc. Những trái mắm trái mùa rơi lõm chõm xuống dòng sông, trôi lều bều như rác rến, xoáy thành những vòng tròn sau cột miệng đáy, rồi mất dạng theo dòng nước thủy triều.

Bất giác mình tự hỏi: “Trái mắm trôi về đâu?” Số phận của nó là lênh đênh, là vô định. Có thể nó sẽ trôi tới Rạch Chèo rồi mất hút trong vịnh Thái Lan mịu mù. Cũng có thể nó sẽ vướng vào đám ô rô, cóc kèn nào đó ở Bàu Trấu, Đồng Cùng, Mang Rổ... rồi phải vật lộn với ô rô, cóc kèn để tồn tại và phát triển.

Mình nhớ đến thánh Phêrô, một con người tầm thường như trái mắm, trôi nổi bồng bềnh trên dòng lịch sử của miền Địa Trung Hải. Ông lên Giêrusalem để giảng Lời Chúa, thì bị lãnh đạo tôn giáo bỏ tù. Ông được ra tù, thì lại bị vua Hêrôđê tống ngục. Từ trong ngục, ông theo sứ thần đi ra mà cứ ngỡ là mình ngủ mơ. Ông đến Rôma, thủ đô của quân xâm lược để tiếp tục giảng Lời. Ông sống chui lủi như con chuột xạ, nay ở hang toại đạo này, mai ở xóm nô lệ kia. Chính bản thân ông đã là tên nô lệ rồi. Có những lúc ông không biết nên ở hay nên đi; nên ở đây hay ở đó. Ông nhớ lại lời Thầy tiên báo: “Khi con về già, người ta sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đi đến những nơi con không muốn” (Ga. 21,18). Số phận của Phêrô đã được an bài rồi: Bồng bềnh và vô định.

Bất giác mình nghĩ về mình. Mình cũng là một trái mắm đang trôi nổi vật vờ. Đi về đâu, nào ai biết được? Số phận là bồng bềnh và vô định. Mình trở vô căn nhà vắng lặng để tìm Thầy, Thầy của Phêrô, Thầy của mình…

Trích Nhật ký Truyền giáo
Nước trời giống như trái mắm
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 133: NHẬT KÝ ĐỨC GIÊSU


LỜI TÁC GIẢ:

 

Nhật ký Đức Giêsu chỉ là một thể cách nguyện ngẫm của tác giả. Đó là những khoảnh khắc tưởng PiôHậu 133


1.Nhật ký Đức Giêsu chỉ là một thể cách nguyện ngẫm của tác giả. Đó là những khoảnh khắc tưởng nhớ về Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh của mình. Đó cũng là những đứa con đi xa tưởng nhớ về người mẹ đang sống trong ngôi nhà thân quen, với những sinh hoạt gần như không thay đổi. Mẹ đang giặt đồ… Mẹ đang nấu cơm… Mẹ đang đưa võng… Đứa con tưởng thế là đúng…, có thể không đúng…, nhưng thấy lòng ấm áp lạ thường!

2. Có những độc giả đồng tình, đồng cảm với tác giả mong muốn được chia sẻ… Nhật kí Đức Giêsu chỉ đến với những độc giả ấy, như đến với những người bạn thân thương nhất. Mong rằng cả người viết lẫn người đọc đều trở thành bạn đồng môn ngồi xung quanh Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh…, Thầy dễ thương lạ lùng!

3.Tác giả Nhật kí Đức Giêsu luôn luôn chờ đợi, lắng nghe và tùng phục mọi giáo huấn của thẩm quyền Giáo Hội.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 134: Trang nhật ký đầu tiên


NADARÉT, NGÀY …

Cha kính mến,

 

Hôm nay, ngày Sabát [1]: bố mẹ con nghỉ việc, con sang nhà bà nội chơi. Nội con cưng PiôHậu 134


Hôm nay, ngày Sabát [1]: bố mẹ con nghỉ việc, con sang nhà bà nội chơi.

Nội con cưng con lắm, ôm con vào lòng, hôn lên trán con, cho con ăn mứt chà là và bánh mì kẹp thịt trừu nướng… Bỗng nội con đổ quạu, gí ngón tay vào trán con:

- Mày thì cái gì cũng được: được người, được nết. Nhưng có một cái tao không chịu, đó là con trai mà không giống bố được lấy một giọt. Mẹ mày cũng vậy: dâu hiền ơi là hiền; nhưng vẫn là con đàn bà bạc phước. Đàn bà gì mà chỉ sinh được một đứa con, rồi bị Giavê thắt dạ lại [2]. Còn thằng bố mày nữa, vợ nói gì cũng nghe, muốn gì cũng chiều. Đàn ông gì mà hiền như cục đất.

- Nội ơi nội, con nói nội nghe nè!

- Cái thằng này khôn quá à! Đánh trống lảng hả? Bênh bố mẹ hả? Hiếu thảo dữ ta!

Thấy nội chưa hết giận, con câu cổ nội, hôn chụt một cái, rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Con nhảy lên đùi mẹ ôm cổ mẹ và hôn chụt một cái. Con nép mình vào lòng mẹ, thương mẹ vô vàn. Sau một khoảnh khắc im lặng con thỏ thẻ:

- Mẹ ơi mẹ! Hồi nãy nội nói xấu mẹ và nói xấu bố. Nội chê bố là hiền như cục đất, chê mẹ là người bạc phước.

- Ý Giavê [3] mầu nhiệm lắm con ạ, nội con chẳng hiểu được đâu. Tính nội con vẫn thế đấy: thương thì thương, mà giận thì giận. Giận đấy mà cũng thương đấy.

Giêsu

Con của Cha.
________________

1 Ngày Sabát la ngày thứ Bảy, nghỉ lao động hoàn toàn: không nổi lửa, không đi bộ quá 1.800m kể cả đi lẫn về, không trị bệnh…

2 Người Do-thái quan niệm rằng: người đàn bà có phước thì phải sinh nhiều con, nhất là nhiều con trai. Không sinh con hoặc sinh quá ít là đàn bà bạc phước (st 16,1-4; 29.31-35; Sm 6,20-23; Lc 1,25). Maria mang thai Đấng Cứu Thế là một mầu nhiệm chỉ được báo tin cho Maria, Giuse mà thôi. Mầu nhiệm này gây bao nỗi khỗ cho Maria.

3 Cách gọi Thiên Chúa của người Do Thái

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/

-------------------------------

 

PiôHậu 135: Trang nhật ký thứ 2


NADARÉT, NGÀY …

Cha kính mến,

 

Đêm hôm qua con xin phép bố sang ngủ bên gi­ường mẹ. Bố ừ. Con rúc đầu vào nách mẹ. - Mẹ PiôHậu 135


Đêm hôm qua con xin phép bố sang ngủ bên giường mẹ. Bố ừ. Con rúc đầu vào nách mẹ.

- Mẹ ơi mẹ!

- Gì con?

- Tại sao nội vừa thương vừa ghét con?

- Nội đâu có ghét con bao giờ đâu?

- Hôm qua nội đang nựng con, bỗng dưng nội đổ quạu, nội gí ngón tay vào trán con. Nội chê con là con trai mà không giống bố được lấy một giọt. Ừ mà sao con không giống bố tí nào mẹ nhỉ? Mấy đứa bạn của con đứa nào cũng giống bố hết. Thằng Giacôbê mũi khoằm như mũi bố. Thằng Giuđa môi dề như môi bố… Còn con thì chỉ giống mẹ, mẹ nhỉ? Mẹ thở dài não ruột.

- Thì mẹ cũng đã nói với con rồi mà. Ý Giavê mầu nhiệm lắm. Chỉ có bố và mẹ hiểu được thôi. À mà quên, dì Êlidabét cũng biết nữa.

- Chuyện gì thế mẹ?

- Ngủ đi con!

- Con không buồn ngủ. Con muốn nghe mẹ kể chuyện cơ.

Mẹ ôm con vào lòng, vuốt ve từng lọn tóc. Giọng mẹ tha thiết. Hơi mẹ phả ra ấm ấm ở trên đầu. Và…

- Hồi mẹ còn bé, mẹ chỉ muốn ở vậy suốt đời để dễ bề cầu nguyện với Giavê. Bà ngoại sắm dây chuyền và hoa tai, mẹ cất đi hết, chẳng đeo bao giờ… Thế rồi ông ngoại nhận đám nói của bố con. Mẹ chẳng muốn tí nào, nhưng mẹ không dám phản đối, vì con cái chẳng có quyền gì trong vấn đề hôn nhân. Mẹ biết rằng Giavê muốn gì, thì nên thế ấy… Thế rồi hôm ấy cả nhà đi vắng, chỉ có mình mẹ ở nhà. Một người lạ xưng mình là sứ thần Gáprien đến báo tin là mẹ sẽ thụ thai Đấng Mêsia [1][1]. Mẹ có thai từ hôm ấy. Mẹ xin phép ông ngoại vào miền Nam để thăm dì Êlisabét. Mẹ kể chuyện này cho dì nghe. Dì hiểu ngay. Mẹ và dì ôm nhau khóc nức nở. Dì bảo là con của dì đang ở trong bụng cũng biết. Nó chòi đạp trong bụng như nhảy mừng vậy. Mẹ ở với dì suốt ba tháng trời. Trong đời, chưa bao giờ mẹ được sung sướng như thế. Hai chị em nói chuyện về hồng ân của Đức Chúa suốt ngày. Dì bảo con của dì cũng do hồng ân của Chúa, cũng do sứ thần Gáprien báo cho biết trước.

Khi mẹ về, bố con thấy mẹ có thai, thì buồn thất vọng. Bố con tính thôi không cưới mẹ nữa. Nhưng sau này bố con hiểu, bố con lại vui và rước mẹ về. Bố con và mẹ chỉ lo cho con và cùng nhau nhắc nhở về hồng ân của Chúa. Bố và mẹ không biết rồi sau này con sẽ ra thế nào? Chỉ một mình Đức Chúa biết. Con nhớ lắng nghe tiếng gọi của Người… Mẹ nói, con hiểu không?

- Con hiểu. Con vẫn gọi Đức Chúa là Cha của con mà.

- Con hiểu. Nhưng nội con hiểu sao được. Vì thế thấy con ngoan thì nội thương, nhưng lâu lâu lại giận, vì thấy con không giống bố. Nội có ý nghi ngờ mẹ, nhưng mẹ hết lòng chiều nội nên nội chẳng nỡ tâm ở ác với mẹ. Nội giận bố con, vì bố con không chịu có con như người ta. Đức Chúa muốn sao thì nên vậy bố con vẫn nói thế.
Bố con đối xử với mẹ như bát nước đầy. Bố con chẳng từ chối mẹ điều gì. Bố con cũng là một hồng ân Đức Chúa ban cho mẹ. Mẹ cứ tôn vinh Đức Chúa mãi về điều đó. . . Con ngủ chưa?

- Con vẫn nghe mẹ nói. Mẹ nói đến sáng cũng được.

- Thôi, ngủ đi con.

Con ngủ khò một giấc cho tới sáng.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/

-------------------------------

 

PiôHậu 136: Trang nhật ký thứ 3


NADARÉT, NGÀY …

Cha kính mến,

 

Hôm qua con lại qua chơi bên nhà nội. Nội lại cưng con và cho con ăn mứt chà là. Con quét nhà PiôHậu 136


Hôm qua con lại qua chơi bên nhà nội. Nội lại cưng con và cho con ăn mứt chà là. Con quét nhà cho nội. Con ôm củi cho nội đốt lò. Củi rơi rớt lung tung. Nội mắng yêu:

- Thằng đẻ rơi. Thảo nào, củi rơi hết quá nửa.

- Con đẻ rơi hả nội?

- Ừ!

- Rơi ở đâu nội?

- Ở trong chuồng bò.

- Tại sao vậy nội?

- Về hỏi bố mày ấy.

Tối hôm qua, con khều vai bố con.
- Bố ơi, bố!

- Gì vậy con?

- Nội bảo là con đẻ rơi, đẻ rơi trong chuồng bò. Thật hả bố?

- Thật mà không thật.

- Thế là thế nào?

- Chuyện này dài mà hay lắm. Bố không có tài kể chuyện. Bố chỉ giỏi đóng bàn, đóng ghế thôi. Con hỏi mẹ. Mẹ kể chuyện mới có duyên.

Con rón rén sang giường mẹ. Mẹ con đang chắp tay. Im lặng. Con kéo áo mẹ.

- Mẹ đang cầu nguyện. Tại sao con làm mẹ lo ra?

- Con thấy mẹ nói chuyện cũng sốt sắng như cầu nguyện vậy. Mẹ đã nói chuyện với Chúa. Bây giờ mẹ nói chuyện với con về Chúa, đàng nào cũng là cầu nguyện cả.
- Tại sao con còn bé, mà con nói câu nào cũng bắt mẹ phải suy nghĩ? Không biết rồi mai mốt con tôi ra thế nào? Chúa muốn thế nào, thì nên thế ấy… Con muốn sẽ hỏi mẹ cái gì?

- Nội bảo con là thằng đẻ rơi…

- Nội nói vậy mà không phải vậy đâu. Con lại đây, mẹ kể cho con nghe.

Con ngồi vào lòng mẹ. Mẹ tựa cằm lên đầu con. Giọng mẹ ôn tồn, rỉ rả. Thương quá là thương!

- Hồi ấy… còn chừng một tháng nữa thì tới ngày mẹ sinh con. Hoàng đế Augúttô ra lệnh kiểm tra dân số. Bố con không phải là người làng này, gốc gác của bố con ở tận Bêlem xa tắp tít. Thế là bố và mẹ phải gói ghém tiền bạc đi vào trong Nam để làm giấy tờ. Tính vào trong ấy vài ngày rồi về ngay. Ai ngờ… Người cưỡi lạc đà thì đến sau, vào trước. Người dắt lừa thì đến trước, vào sau. Lạc đà ở đâu mà nhiều đến thế! Mẹ ôm bụng, nhìn lạc đà mà nẫu cả ruột. Hết chờ đợi, rồi đến đợi chờ. Ngày tháng cứ vùn vụt trôi qua. Ngày sinh con cũng vùn vụt đi tới.

Mẹ tính liều sinh con trong lều. Nhưng gió tuyết phũ phàng muốn giật tung cả lều cuốn đi. Bố con hốt hoảng đi tìm một chỗ trọ trong thành, nhưng vô vọng. Bố dỡ lều đưa mẹ vào trong hang đá quạnh hiu giữa cánh đồng. Hang đá dơ nhưng kín gió. Bò lừa hôi hám, nhưng ấm áp. Buồn ngủ gặp được chiếu manh, thế là mừng rồi… Giavê muốn thế, mẹ chẳng hiểu được. Nhưng Người muốn sao thì nên vậy.

Mẹ cứ tưởng ngày sinh con thì có bà ngoại giúp đỡ. Lúc bấy giờ mẹ còn bé tí, có biết gì đâu. Ai ngờ… ngày con ra chào đời, cả mẹ lẫn con cô đơn không thể tưởng tượng được. Con khóc nhiều chừng nào, mẹ khóc nhiều chừng nấy. Con khóc để chào đời. Mẹ khóc vì ngậm ngùi. Đức Chúa thì ngàn trùng, còn mẹ thì như có như không. Người nâng lên, rồi Người hạ xuống. Thân mẹ bé bỏng như thế này, làm sao mẹ chịu đựng cho nổi!

Cha kính mến,

Mẹ con khóc quá chừng. Nước mắt mẹ làm ướt đẫm đầu con. Con xoay ng­ười ôm lấy cổ mẹ.

- Mẹ ơi mẹ! Thế mẹ có hận Giavê không?

- Con nói gì vậy? Làm sao mẹ dám hận Giavê? Nhưng quả thật bàn tay của Người đè quá nặng trên cuộc đời của mẹ. Người là Đức Chúa, Người muốn sao thì nên vậy. Mẹ chỉ biết “xin vâng”…

Con nằm ngủ bên mẹ. Mẹ bắt đầu thở đều đều, nhưng hai dòng lệ vẫn còn chảy.

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/

-------------------------------

 

PiôHậu 137: Trang nhật ký thứ 4


NADARÉT, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Trời đã sang xuân. Màu xanh tươi mát bao phủ khắp nơi. Đồi xanh, núi xanh, đồng xanh… Và hôm PiôHậu 137


Trời đã sang xuân. Màu xanh tươi mát bao phủ khắp nơi. Đồi xanh, núi xanh, đồng xanh… Và hôm nay, trời cũng xanh nữa. Làng Nadarét rộn lên niềm vui. Lòng con rộn lên niềm háo hức. Năm nay con lên mười hai tuổi. Bố mẹ con cho con về thủ đô dự lễ Vượt qua [1]. Bố con qua bên nội. Mẹ con giặt đồ. Còn con thì tung tăng áo mới. Ngày mai đã lên đường rồi. Con nôn nao chịu không nổi.

Cha kính mến,

Con vừa chạy chơi khắp xóm. Nhà nào cũng đang chuẩn bị để sáng mai lên đường. Vá lều, nướng bánh, phơi đồ, gói mứt… Bọn trẻ con thì chí chóe với nhau. Đứa nào cũng nhìn con cách thèm thuồng. Đứa nào cũng hỏi con đủ thứ, nhất là thằng Giuđa:

- Giêsu ơi, bố mày cho mày đi lễ thật hả?
– Ừ!

– Sướng thế?! Chúng tao thì còn lâu mới được đi.

– Mẹ mình cũng được bố cho đi nữa.

– Nhà mày giàu thế! Đi lễ cả nhà!

- Chẳng giàu đâu, chỉ biết để dành thôi. Bố mình làm ăn cần cù. Mẹ mình khéo léo dành dụm. Còn mình thì không hay vòi như các cậu.

Mà thế thật. Bố mẹ con chẳng giàu có như ai, nhưng cũng chẳng bao giờ phải thiếu thốn. Bố con cho con tiền. Mẹ con dạy con để dành. Bố con bảo: đi lễ thì phải có tiền để “bỏ hòm” đền thờ, để giúp người ăn xin. Năm nay con đã để dành được ba mươi đồng rồi. Tha hồ mà cho người ăn xin.

Giêsu
Con yêu dấu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/
-----
[1]: Ngày đại lễ của người Do Thái, kỉ niệm biến cố Giavê Thiên Chúa đưa dân người thoát khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập.

-------------------------------

 

PiôHậu 138: Trang nhật ký thứ 5


GIÊRIKHÔ, NGÀY…

 

Đêm nay, đêm thứ ba, đoàn Nadarét dừng chân ở tại thành Giêrikhô. Nhiều đoàn khác cũng dừng PiôHậu 138


Đêm nay, đêm thứ ba, đoàn Nadarét dừng chân ở tại thành Giêrikhô. Nhiều đoàn khác cũng dừng chân ở đây. Lều dựng lên ở hai bên đường, trập trùng như vô tận… Lạc đà, lừa ngựa và người hành hương từ đâu ùn tới tầng tầng lớp lớp như không biết ngưng nghỉ. Bước chân dồn dập. Bụi bay mù mịt. Tiếng hát ông ổng. Có lẽ họ tiến thẳng về Giêrusalem ngay trong đêm nay chăng? Mẹ con bảo thế. Rồi bỗng dưng, mẹ con cao hứng hát lên:

"Ai được lên núi Chúa ?

Ai được ở trong đền thánh của Người?"

Giọng mẹ truyền cảm như thôi miên, tha thiết như trái tim, rung nhẹ như hơi thở, lan tỏa như hương trầm. Bố con ồm ồm họa theo, một rừng đàn ông họa theo:

"Đó là tay sạch lòng thanh

Chẳng mê theo ngẫu tượng

Không thề gian thề dối…"

Sẵn trớn, đoàn Nadarét tiếp tục hát thánh ca cho đến khuya.

Khi mỗi căn lều chỉ còn leo lét một ánh đèn và tiếng thở đều đều của người mê mệt, thì ở ngoài kia mẹ con vẫn còn ngồi trên bãi cỏ, mặt nhìn về hướng Giêrusalem, không nhúc nhích. Người đang tâm tình cùng Đức Chúa.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/

-------------------------------

 

PiôHậu 139: Trang nhật ký thứ 6


GIÊRUSALEM, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Trưa nay đoàn Nadarét đã tới đền thờ Giêrusalem, chân con mỏi như muốn rơi ra từng khúc. Thế PiôHậu 139


Trưa nay đoàn Nadarét đã tới đền thờ Giêrusalem, chân con mỏi như muốn rơi ra từng khúc. Thế mà con vẫn chưa chịu nghỉ. Con chạy tung tăng khắp nơi để ngắm nghía, để rờ mó. Những hàng cột đá cẩm thạch dài hun hút. Đá trơn và mát rười rượi. Các thầy Lêvi mổ chiên bò không ngừng tay. Khói bàn thờ bốc lên nghi ngút. Tiền dâng cúng bỏ vào hòm nghe rổn rảng và không ngơi tay. Con cũng bỏ vào đó một đồng. Không biết cơ man nào là người. Không biết cơ man nào là tiền. Người và người, tiền và tiền.

Con chạy lên tận khu hồ Bêdata. Bệnh nhân nằm la liệt. Dường như Bêdata là hội chợ triển lãm bệnh nhân. Người ta bảo rằng lâu lâu lại có thiên thần xuống quậy nước. Ai nhanh chân xuống tới mặt hồ trước nhất, thì bệnh gì cũng khỏi. Con tự nghĩ:

1. Có thật không?

2. Bao lâu mới có một lần?

3. Chỉ có một người được khỏi thôi sao?

Thế thì có cũng như không! Hy vọng để thất vọng. Hy vọng mỏng manh. Thất vọng tràn trề. Đau khổ vẫn còn đó, đầy ắp và triền miên.

Bỏ Bêdata, con vòng trở về sân dân ngoại [1]. Đây là một cái chợ. Đây là chốn làm ăn. Thượng vàng và hạ cám. Mồ hôi chua lè và dầu thơm ngào ngạt. Áo quần tả tơl và vòng vàng rủng rỉnh. Chửi thề và hát thánh ca… loạn xà ngàu. Con không thể chịu được cái bầu khí dung tục này… Và kia nữa: chiên, dê, bò, bồ câu… Toàn là lễ vật để dâng trên bàn thờ cả, nhưng phải văng tục vài câu rồi mới ngã giá.

- Tôi mua chiên để dâng lễ hy sinh, mà sao các người cứa cổ đến thế?

– Tôi phải đóng thuế cho đền thờ. Thượng tế cứa cổ tôi, tôi phải cứa cổ các người. Không cứa thì lấy gì mà ăn.

Chuyện của người lớn, con không dám xen vào. Mai mốt lớn lên, con sẽ dẹp cho mà coi.

Con về tới căn lều của gia đình, thì mẹ đã lên đèn. Bữa cơm tối cũng vừa dọn ra. Bánh mì không men, mứt chà là và nước lã. Con ăn ngấu nghiến làm mẹ con phì cười.

- Con đói lắm hả?

– Vâng.

- Sao con không mua bánh mà ăn? Con có nhiều tiền lắm mà.

– Con cho người ăn xin hết rồi.

– Cho con một núi vàng thì cũng hết. Thôi được, cho người nghèo hay là cho Chúa thì cũng thế. Cho thì tốt hơn nhận con ạ. Con lo ngủ sớm để mai còn lên đền thờ nữa.
Bây giờ con xin được ngủ trong tình âu yếm của Cha.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/

[1] Năm 17 TCN, Herode bắt đầu sửa lại đền thờ do Zorobalel đã bị phá. Herode cho nới rộng chu vi tường chung quanh chừng l.544m. Xây lại pháo đài cũ về góc tây bắc. Đổi thành pháo đài Antonia, để ghi ơn hoàng đế La mã Antonio. Chính đền thờ, vua để các tư tế xây lấy, chỗ mà chỉ có họ vào được, dài 45m và cao 54m. Đền thờ (nhỏ) này ghép bằng đá hoa trắng, mỗi phiến dài 11m25, rộng 5m 40. cao 3m60.

Đại để, có bức tường ngoài cùng, xây các cửa vào đền thờ. Bên trong bức tường có sân dành cho dân ngoại. Đây là nơi dành cho dân ngoại lui tới và là nơi diễn ra việc buôn bán trục lợi với những mánh khoé bất chính, những thủ đoạn lộ liễu. Việc buôn bán này do các tư tế Đền thờ cầm đầu. Con cháu họ giữ việc buôn bán đổi tiền. Gia nhân của họ cầm dùi cui, sẵn sàng đánh những ai cản trở việc buôn bán của con cháu họ.

-------------------------------

 

PiôHậu 140: Trang nhật ký thứ 7


GIÊRUSALEM, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Hôm nay thánh đài Giêrusalem đã vãn người. Tín đồ hành hương đã dỡ lều và lục tục ra về PiôHậu 140


Hôm nay thánh đài Giêrusalem đã vãn người. Tín đồ hành hương đã dỡ lều và lục tục ra về. Thương buôn cũng cuốn gói nhảy phóc lên lưng lạc đà theo hướng Tây trực chỉ Gióppê, hoặc theo hướng Đông đi về miền Ảrập xa tít mù khơi… Từ sân tư tế đến sân dân ngoại, từ hành lang Salômon đến sân phụ nữ, từ thung lung Xêrông đến núi Cây Dầu, chỗ nào cũng rác rến và rác rến.

Từ vách tường đến gốc cây, từ mương rãnh đến bờ bụi, chỗ nào cũng hực lên mùi xú uế. Sầm uất bao nhiêu, thì xơ xác bấy nhiêu…

Chắc giờ này bố mẹ con và đoàn Nadarét đã tới Giêrikhô rồi. Bố mẹ con đang cuống quít đi tìm con. Còn con thì vẫn còn ở đây trong vùng thánh địa xơ xác. Con chưa muốn ra về, vì chính những khoảnh khắc này con mới thấy tâm hồn mình chìm lắng. Con muốn một mình dang tay cầu nguyện giữa hành lang Salômon sâu thăm thẳm.

Con cảm thấy sự hiện hữu của Cha đang chạm vào da thịt của con. Con cảm thấy tình thương của Cha đang hòa tan vào dòng máu, châu lưu khắp thân thể của con. Từng thớ thịt của con, từng sợi tóc của con đều có Cha và biến hóa thành Cha… Con chết lịm trong cảm thức này…

Có một bàn tay đặt nhẹ lên vai con. Con sực tỉnh. Một vị tôn sư hiền từ đang nhìn chằm chằm vào mặt con. Người không nói, nhưng cặp mắt của người như đang dò tìm.

– Rắpbôni! Con khoanh tay, miệng lắp bắp chào người.

- Con làm gì ở đây một mình?

– Con nói chuyện với Cha con.

- Cha con là ai?

– Cha con là Đức Chúa Giavê.

- Ta không hiểu ý con muốn nói gì. Thôi đứng dậy, đi theo ta.

Người bá vai con, dìu con về phòng. Xa xa về hướng Gióppê, mặt trời đỏ oẳng đang chìm dần vào biển cả…

Vị tôn sư già khả kính dọn bữa cho con. Bánh mì, sữa tươi, thịt cừu và mứt chà là. Người nói chuyện với con một cách trân trọng.

- Ta thấy con có một cái gì rất khác thưởng. Phải chăng Giavê sắp ban cho dân tộc ta một Samuen mới. Chúa đã gọi Samuen ba lần trong giấc ngủ. Con biết chuyện này chứ?

- Dạ, thưa con biết.

– Vậy khi Giavê gọi con, thì con thưa ngay như Samuen nhé. Thôi, con đi cầu nguyện và ngủ, mai ta sẽ lại gặp con.

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/

------------------------------

 

PiôHậu 141: Trang nhật ký thứ 8


GIÊRUSALEM, NGÀY …

Cha kính mến,

 

Hôm nay vị tôn sư già khả kính mở tiệc đãi khách. Chỉ có một mình con là con nít, được ngồi đồng PiôHậu 141


Hôm nay vị tôn sư già khả kính mở tiệc đãi khách. Chỉ có một mình con là con nít, được ngồi đồng bàn với các ngài. Thức ăn đầy bàn. Các ngài lấy đồ ăn cho con đầy cả đĩa, mà con ăn chẳng được bao nhiêu. Ai nấy đều thương con như con cháu, thậm chí còn trân trọng con như một sứ ngôn tí hon. Các ngài bắt con trả bài về Kinh Thánh. Các ngài đua nhau đặt câu hỏi. Ban đầu con bị khớp. Nhưng sau một giây cầu nguyện với Cha. Con thấy Thần Khí của Cha lan tỏa khắp người con. Con trả lời vanh vách đâu vào đó…

- Này cháu, tại sao Đavít bé tí mà lại đánh thắng tên khổng lồ Gôliát?

- Thưa, tại Gôliát tự cao tự đại, còn Đavít thì biết nương tựa vào Giavê.

- Tại sao Giavê bỏ rơi dân của Ngài nhiều lần và trao cho xiềng xích của dân ngoại?

- Thưa, Giavê không bỏ rơi dân của Ngài. Chính dân này đã bỏ Ngài.

- Tại sao Giavê không tiêu diệt dân ngoại cứ để dân ngoại áp bức con cái của mình?

- Thưa, bởi vì dân ngoại cũng là con của Ngài.

- Trong Sách Thánh, Giavê chỉ gọi Ít-ra-en là con của Ngài mà thôi. Tại sao cháu dám nói dân ngoại cũng là con của Ngài?

- Thưa trong sách Giona, Giavê đã phán: “Ninivê cũng là con của Ta. Nó đã sám hối, lẽ nào ta tiêu diệt nó…”

Có một ông tôn sư mũi khoằm và râu đỏ. Ông này nhìn con hau háu.
- Cháu tên gì?

- Thưa, tên cháu là Giêsu.

- Giêsu hả? Tên có ý nghĩa đấy? Bố cháu làm gì?

– Thưa, bố cháu làm thợ mộc.

- Thợ mộc hả? Không khá đâu. Quê cháu ở đâu?

– Thưa, quê cháu ở Nadarét.

- Ồ, con thợ mộc, quê ở Nadarét! Nếu cháu không làm con thợ mộc và đừng sinh ở Nadarét thì có tương lai đấy. Thưa quý vị, Nadarét là cái dấu chấm hết của mọi vấn đề đấy nhé.

Nói thế rồi ông cười hô hố, bước ra khỏi phòng, cái đầu cứ gật gù một cách đắc chí. Các vị khác nhìn nhau ngơ ngác. Bán tín bán nghi…

Con buồn tê tái, vì bố con bị chế giễu. Xin Cha chúc lành cho bố con.

Giêsu
Con yêu dấu của Cha

Lm Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/2/

------------------------------

 

PiôHậu 142: Trang nhật ký thứ 9


GIÊRUSALEM, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Con được hầu việc Cha suốt ba ngày qua. Hôm nay là ngày thứ bốn rồi. Chưa bao giờ con cảm PiôHậu 142


Con được hầu việc Cha suốt ba ngày qua. Hôm nay là ngày thứ bốn rồi. Chưa bao giờ con cảm thấy Cha gần gũi và thân thương đến thế. Thậm chí con quên rằng bố mẹ con giờ này vẫn đang đi lang thang khắp mọi nơi để tìm con. Nhưng con linh cảm rằng các ngài cũng sẽ trở lại đây.

Do sự giới thiệu của vị tôn sư già khả kính, con được hầu chuyện với hầu hết các kinh sư ở thủ đô này. Hôm nay, các ngài không còn bắt con trả bài nữa, mà chỉ gợi ý để con phát biểu cảm tưởng.

- Cháu được bố mẹ cho về thủ đô dự lễ Vượt qua, cháu có thích không?

- Thưa, cháu vừa thích vừa không thích?

- Tại sao thích?

- Thưa, tại cháu thấy Đức Giavê được tôn vinh đến tột độ.

- Tại sao không thích?

- Cháu rất buồn khi thấy người nghèo và người bệnh nhiều quá. Không ai cứu vớt được họ. Bố thí bao nhiêu cũng không vừa. Nhất là không có ai yêu thương và kính trọng họ cả. Nhưng điều làm cháu buồn nhất là…

- Là cái gì, cháu cứ nói đi.

- Bóc lột, người ta bóc lột nhau ngay trên bàn thờ.

- Tại sao cháu dám nói lộng ngôn?

- Có một người lái buôn la toáng lên rằng: “Thượng tế cứa cổ tôi, tôi cứa cổ các người. Không cứa thì lấy gì mà ăn…”.

Các tôn sư đấm ngực, trợn tròn mắt nhìn nhau miệng há hốc.

Bỗng mẹ và bố con ào tới.

- Con!

- Mẹ, bố!

- Tại sao con ở lại đây mà không nói gì với bố mẹ, để bố và mẹ vất vả tìm con bốn ngày nay
- Con mải lo hầu việc cho Cha con ở trên trời, nên con quên bẵng đi.

- Con nói gì mẹ không hiểu. Tại sao con cứ bắt mẹ phải suy nghĩ?

- Mẹ giận con hả mẹ?

- Mẹ không dám giận con. Nhưng mẹ biết Đức Chúa bắt mẹ suốt đời phải khổ vì con. Người muốn thế, mẹ chỉ biết “xin vâng”. Người thì ngàn trùng. Còn mẹ thì như có như không…

Bố mẹ con được các tôn sư trọng vọng. Nhờ đó mẹ con lại vui như tết.

Giêsu

Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cungmedonghanh.com/.../sach/nhat-ky-chua-giesu/2/

-------------------------------

 

PiôHậu 143: Trang nhật ký thứ 10


BÊTANIA BÊN BỜ SÔNG GIOĐAN, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Ý của Cha bừng cháy trong con, khiến con phải đứng dậy rời căn lều mong manh, men theo triền PiôHậu 143


Ý của Cha bừng cháy trong con, khiến con phải đứng dậy rời căn lều mong manh, men theo triền dốc để xuống bờ sông Giođan, nơi anh Gioan của con đang giảng và làm phép Rửa. Anh đi tu rất sớm, ngay từ hồi thơ ấu. Anh chọn đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng; uống nước lã và mặc áo da thú. Thân xác của anh thì gầy guộc và đen đúa, nhưng ý chí của anh thì như gang như thép. Mặt anh hốc hác, nhưng cặp mắt của anh thì như có lửa. Anh đứng dưới sông, nhìn về phía các rắpbi: giọng anh như chém đinh chặt sắt…

+ Hỡi nòi rắn độc, lưỡi rìu đã kề sát gốc cây. Hãy sám hối, hãy sinh hoa kết quả. Nếu tự đắc mình là con cái Ápraham, thì lưỡi rìu sẽ vung lên: cây không trái sẽ trở thành củi khô, bỏ vào lò lửa…

Nhìn về phía quần chúng: giọng anh bỗng trở nên ôn tồn rỉ rả…

+ Anh là lính hả? Đừng đàn áp. Anh là người thu thuế hả? Đừng hà lạm. Chị làm điếm hả? Hãy hoàn lương… Tất cả hãy xuống sông và thanh tẩy.

Quần chúng tôn sùng anh con như một ngôn sứ. Thậm chí có người gọi anh là Đấng Mêsia – Anh giãy nảy lên và thanh minh một cách quyết liệt:

- Tôi không đáng xách dép cho Đấng Mêsia.

- Không là Mêsia, tại sao ông dám làm phép Rửa?

- Tôi chỉ rửa bằng nước mà thôi. Đấng Mêsia đến sau tôi sẽ rửa bằng Thần Khí. Tôi chỉ là người đi trước để dọn đường cho Người.

- Khi nào Người đến?

- Người đang đến kia rồi!

Anh con chạy lên bờ – Anh quỳ dưới chân con. Con quỳ dưới chân anh. Con xin anh thanh tẩy cho con. Anh từ chối đay đảy.

Con năn nỉ anh. Anh dìu con xuống dòng sông. Hai anh em cùng nhìn lên trời… Cha! Con thấy Cha. Con nghe tiếng nói của Cha: “Đây là Con Chí Ái của Ta”. Cha ơi, con yêu Cha vô cùng. Chỉ vì yêu Cha mà con nhập thân làm người. Chỉ vì yêu Cha mà con đến đây chịu Thanh tẩy như một tội nhân. Chỉ vì yêu Cha mà con sẽ tự hiến thân làm giá cứu đời… Con sẽ chết đi để đời được sống, để ý Cha được thể hiện… Và kìa một cánh chim bồ câu đang đến với con. Thương mến vô vàn… Cha, Con và Thần Khí. Con chết lịm và tan biến trong mầu nhiệm…

Khi con tỉnh dậy thì anh con và con vẫn còn ngập mình trong nước và tay trong tay.

Tôi mừng vì Chú đã đến. Cả đời tôi chỉ mong đợi một giây phút này.

- Anh là sứ ngôn cuối cùng, sứ ngôn tuyệt vời: bất khuất trước cường quyền, bao dung đối với tội nhân.

Bất khuất, bao dung, khiêm tốn đó là chân dung muôn đời của anh con.

Giêsu

Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p5_a1845

-------------------------------

 

PiôHậu 144: Trang nhật ký thứ 11


XIKEM, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Hôm nay con mở màn cho sự nghiệp truyền giáo của con bằng thái độ đối với người Samari PiôHậu 144


Hôm nay con mở màn cho sự nghiệp truyền giáo của con bằng thái độ đối với người Samari .

Từ năm thế kỷ nay, người Do-thái đoạn tuyệt với đồng bào cư ngụ tại Samari, coi họ như người ngoại. Từ Bắc xuống Nam, từ Nam về Bắc, người Do-thái không thèm đi qua xứ Samari, mà đi vòng qua bên kia sông Giođan. Một vạ tuyệt thông bất thành văn đã giáng xuống trên toàn bộ xứ Samari, vạ tuyệt thông truyền kiếp.

Con quyết tâm xóa bỏ vĩnh viễn vạ tuyệt thông truyền kiếp này bằng cách dẫn năm đệ tử đầu mùa xuyên qua xứ Samari mà về xứ Galilê.

Con hiên ngang đi đầu. Đệ tử của con e dè bước theo sau. Họ sợ mắc uế. Họ sợ dư luận.

- Tại sao Thầy dám đi vào xứ Samari?

– Vì họ là anh em của ta.

– Họ là kẻ thù không đội trời chung.

– Trời là của chung, không ai được đội trời riêng…

Mặt trời đã đứng bóng. Chân mỏi nhừ. Mồ hôi đầm đìa. Miệng khô khốc. Dạ dày lép kẹp.

– Xin Thầy cho tụi tôi nghỉ chân. Dân chài không giỏi đi bộ.

– Các anh vào thành mua đồ ăn. Thầy chờ ở đây.

Con ngồi trên thành giếng Giacóp. Nước trong vắt, nhưng sâu thăm thẳm! Đành chịu khát. Nhìn lên bầu trời; con quên khát bởi con thấy Cha hiện diện trong cõi vô biên. Cha!… Trời xanh, biển xanh, núi xanh, rừng xanh , đồng xanh, chỗ nào cũng có màu xanh. Màu xanh nhiều như tình yêu của Cha; dịu mát và bao trùm tất cả. Ôi, nếu loài người hiểu được tình yêu bát ngát và bao la này, thì làm gì có lằn ranh phân biệt Galilê - Samari, lằn ranh phân biệt giàu – nghèo… Những lằn ranh gây nên bao nhiêu tang tóc! Ôi, những lằn ranh!…

Có tiếng nước chảy róc rách. Con bừng tỉnh. Một người phụ nữ đang đổ nước vào vò. Cơn khát bỗng gào thét.

- Chị làm ơn cho tôi xin miếng nước.

- Ông xin tôi nước uống ư? Người Do-thái đâu có thèm chơi với người Samari chúng tôi. Tôi không dám đâu…

- Nếu chị biết tôi là ai, thì chính chị sẽ xin tôi nước uống. Còn tôi, tôi sẽ cho chị một thứ nước, uống một lần là suốt đời không khát nữa.

- Ông nói dóc! Giếng thì sâu, gàu thì không có… Bộ ông ngon hơn tổ phụ Giacóp, người đã đào cái giếng này hả?

- Ai uống nước giếng này, thì còn khát hoài. Ai uống nước của tôi, thì người ấy sẽ thành mạch nước.

- Dóc tổ!… Bây giờ tôi xin ông thứ nước đó, ông dám cho không?

– Tôi sẵn sàng cho, nhưng với điều kiện là chị kêu chồng chị tới đây.

– Tôi có chồng đâu mà kêu.

- Tôi biết – Tại chị chanh chua quá, nên tôi mới nói như thế. Chỉ nhìn thoáng một cái thôi, tôi cũng đã thấy hết cuộc đời của chị rồi. Chị đã có năm đời chồng. Người chồng này là người chồng thứ sáu, mà không phải là chồng thật, theo giáo luật.

- Tôi công nhận ông là một tiên tri… Vậy tôi đố ông nhá. Người Do-thái các ông thì thờ Giavê ở Giêrusalem, còn chúng tôi thì thờ Người ở Garidim. Vậy, các ông đúng hay là chúng tôi đúng?

- Từ trước đến bây giờ thì người Do-thái đúng. Nhưng từ giờ phút này trở về sau, người ta không thờ Chúa ở Garidim cũng không thờ Chúa ở Giêrusalem, mà chỉ thờ Người trong Thần Khí và Chân lý.
– ? …

Đến bây giờ, người phụ nữ ấy mới hết chanh chua. Đó là một chân dung phụ nữ hiếm có ở trên đời này. Lanh lẹ, sâu sắc, kiêu ngạo, khinh đời. Có tài, có sắc, nhưng thiếu khiêm nhu, nên không thành đạt. Đã ba chìm bảy nổi, lại còn chín lênh đênh… Nhưng Tin mừng sẽ đưa chị về bến bờ. Chị sẽ là người truyền giáo cho hôm nay và nhất là cho ngày mai, khi Tin mừng bị bắt bớ tại Giêrusalem và khắp miền Giuđê.

Xóa lằn ranh Do Thái – Samari hôm nay là chuẩn bị cho mùa gặt bội thu trong ngày mai. Thái độ không phân biệt là những hạt giống lành gieo xuống đất, sẽ mọc lên, sinh hoa kết quả khôn lường! Con nói như thế nhưng đệ tử của con chưa hiểu…

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p5_a1845

-------------------------------

 

PiôHậu 145: Trang nhật ký thứ 12


CAPHÁCNAUM, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Sáng nay con và mẹ con đi ăn cưới ở Cana. Mẹ con từ Nadarét tới. Còn con thì từ miền Nam trở PiôHậu 145


Sáng nay con và mẹ con đi ăn cưới ở Cana. Mẹ con từ Nadarét tới. Còn con thì từ miền Nam trở về cùng với năm đệ tử mới toanh là Gioan, Anrê, Phêrô, Philíp và Natanaen.

Con đang ngồi ăn tiệc thì mẹ con kéo áo con.

- Con vô trong kia, mẹ muốn nói với con một chuyện… Tiệc chưa tàn mà rượu đã hết. Con hãy ra tay cứu họ, vì không còn cách nào xoay xở được nữa.

- Cả mẹ lẫn con đều không có trách nhiệm gì trong vụ này.

– Chúng nó đang khóc như ri kìa. Con nỡ lòng nào…

- Nhưng thời giờ của con chưa tới mẹ ạ. Chưa đến lúc con phải làm phép lạ.

– Nếu con không thương người lớn, thì ít ra con phải thương chú rể cô dâu. Chúng nó còn bé tí. Chúng nó tin dị đoan: đám cưới mà không suôn sẻ, thì khó mà ăn đời ở kiếp được với nhau. Con phải cứu vớt hạnh phúc của chúng nó.

Con tỏ vẻ lạnh lùng. Mẹ con khóc một cách nhẫn nhục. Con hiểu mẹ con hơn ai hết. Mẹ con lại nhớ đến lời ông già Simêon đã nói với mẹ. hồi con mới được bốn mươi ngày tuổi:

“Vì em bé này mà nhiều người Ítraen sẽ bị vấp ngã. Nhưng cũng vì bé mà nhiều người được trỗi dậy. Vì bé mà chính cháu sẽ phải đau khổ vô vàn khác nào một lưỡi gươm xuyên qua tâm hồn của cháu”.

Vì con mà mẹ con phải lận đận. Nội con không hiểu mẹ. Trong gia đình chẳng ai hiểu mẹ. Chỉ có bố con hiểu mẹ thì người đã khuất mất rồi. Gần năm mươi tuổi đời, mà chưa một lần được nếm niềm kiêu hãnh của bà mẹ Đấng Mêsia… Nước mắt của mẹ làm con nhão ra… Con quyết tâm thực hiện phép lạ đầu tay, mặc dù thời giờ chưa điểm. Con đến bá vai mẹ tỏ ý vâng phục – Mẹ con cười hớn hở. Nước mắt vẫn còn rơi lã chã, nhưng là nước mắt vui mừng. Thương ơi là thương. Thương đến chịu không nổi.

Mẹ con tập họp các tay chạy bàn lại và ra lệnh như một nữ tướng.

- Đây là con của dì, Người bảo gì thì chúng con phải nghe.
– Dạ.
- Các em ra giếng múc nước đổ đầy sáu cái chum để ở trước nhà, con ra lệnh.
– Dạ.
Thần Khí của Cha chạy rần rần trong cơ thể của con. Con giơ tay lên sáu chum nước. Con truyền cho nó phải hóa thành rượu. Ý của con là ý của Cha. Sức mạnh của con là sức mạnh của Cha. Nước đã vâng lời con. Con ra lệnh cho một em chạy bàn:

- Này em, bác Simon đang cần rượu ngon để đi mừng khách. Em múc rượu mới trong chum này đưa cho bác.

Uống cạn ly rượu, bác Simon đi vội vào trong nhà, gọi vợ chồng thông gia và những em chạy bàn tới. Bác tỏ vẻ bất bình.

- Tụi bay làm ăn dở như cái gì ấy. Rượu ngon thì đãi trước, khi khách ngà ngà rồi thì đãi rượu nhẹ. Tụi bay làm ngược không à!

- Cái đó là rượu thật hả bác? Nói thật với bác: nhà em hết rượu rồi. Vợ em khóc hết nước mắt từ nãy tới giờ. Thím Maria bảo đây là phép lạ con của thím ấy làm. Bây giờ thì sáu cái chum nước rửa tay chân ở đàng trước nhà là rượu cả rồi đấy.

Bác Simon ra phía trước uống thêm một ly, hai ly… sáu ly. Bác vỗ tay ra lệnh mọi người im lặng.

- Thím Maria đâu, dẫn con của thím ra đây… Kính thưa bà con cô bác, đây là thím Maria thân tộc của gia đình này, đây là Giêsu con của thím, một Êlia của thời đại… Lẽ ra thì giờ này chúng ta không còn một giọt rượu để chung vui với hai họ. Thế nhưng sứ ngôn Giêsu này đã hóa sáu chum nước kia thành rượu, rượu ngon tuyệt vời. Xin mời quý bà con cô bác tự động đến đó múc mà uống, để mừng cho hai cháu….

Con trở về chỗ, im lặng nhìn mọi người uống rượu. Hình ảnh làm con thích thú nhất đó là cô dâu bé tí cứ bám lấy mẹ con như một đứa con nít lẽo đẽo theo mẹ. Mẹ con sung sướng như thể cả đời chỉ có một ngày này là vui. Con tạ ơn Cha về điều đó. Con muốn mẹ con được hạnh phúc.

Sau khi tàn tiệc, con mời mẹ con về Caphácnaum với con. Bây giờ đã khuya lắm rồi mà mẹ con vẫn chưa ngủ. Các bà từ đâu ùn ùn kéo đến để nói chuyện với mẹ con.

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p6_a1846

-------------------------------

 

PiôHậu 146: Trang nhật ký thứ 13


GIÊRUSALEM, NGÀY….

Cha kính mến,

 

Hôm nay lần đầu tiên trong đời truyền đạo, con ngồi tâm sự với một rắpbi, rắpbi Nicôđêmô. Ông là PiôHậu 146


Hôm nay lần đầu tiên trong đời truyền đạo, con ngồi tâm sự với một rắpbi, rắpbi Nicôđêmô. Ông là người trí thức từ đầu đến chân: thuộc lòng Thánh Vịnh, am tường Lề Luật và Tiên tri. Ông là người công chính từ râu tóc đến áo choàng: ánh mắt nhân từ, giọng nói ôn tồn, cử chỉ khoan thai. Rất dễ thương và rất dễ mến.

Buổi tâm sự kéo dài đến khuya. Tư tưởng xoay quanh hai bản lề quan trọng là:

Thiên Chúa yêu thương thế gian quá chừng đến nỗi đã hiến Con Một mình làm giá chuộc tội cho đời. Người con ấy sẽ bị treo như con rắn đồng của Môsê.

Mọi người phải tái sinh trong Thần Khí thì mới được vào Nước Thiên Chúa.

Ông không hiểu gì hết. Ông ngớ ngẩn đến mức độ:

- Không lẽ tôi già như thế này mà phải chui vào lòng mẹ để được tái sinh sao?

– Ông là thầy dạy đời mà không hiểu điều đó sao?

Ông lủi thủi ra về. Lấm lét – Sợ hãi. Trời tối như mực.

Nicôđêmô là tiêu biểu cho lớp người CÓ quá nhiều: có tiền, có quyền, có uy tín, có bạn bè… Có quá khứ, có hiện tại và có tương lai. Đến khi có niềm tin, thì niềm tin không còn có chỗ để đứng thảnh thơi…

Đức Tin đẩy mọi CÁI CÓ vào thế lâm nguy. Đức Tin đòi phải bỏ tất cả mọi CÁI CÓ để hiện diện và lớn lên.

Nicôđêmô có cả một truyền thống dày cộm về Đấng Mêsia. Đấng Mêsia ấy sẽ phất cờ khởi nghĩa, tiêu diệt các cường quốc lân bang y như Đavít hạ thủ Gôliát. Người sẽ ngự trên ngai vàng, muôn dân sẽ hướng về đó. Bản thân ông cũng sẽ nhờ đó mà rực lên như ngọn đuốc. Hiện nay ông là một rắpbi được toàn dân trọng vọng. Những bài thuyết giảng của ông, những kiến thức về Thánh Kinh của ông đã cho ông một chỗ đứng vững chắc, một mâm cơm thịnh soạn.

Niềm tin vào con sẽ đẩy ông vào thế phá sản. Qua buổi tâm sự, ông tỏ vẻ ngớ ngẩn. Cái hiểu biết của ông về Đấng Mêsia không dung hoà được với điều con vừa mặc khải. Nếu công khai theo con như Phêrô, như Gioan… thì cái chỗ đứng và cái mâm cơm của một rắpbi không còn nữa. Nhưng ông vẫn tin, tin một cách mơ hồ, vì thấy không ai làm được những việc con đã làm. Lương tâm tốt lành của ông bắt ông phải tin, nhưng không đủ sức để khước từ những cái CÓ đồ sộ. Tin mà không theo. Theo mà cứ âm thầm lén lút. Nhưng vì là người thiện chí, ông sẽ đứng dậy và theo con vào phút cuối cùng. Lương tâm sẽ cắn ông để ông phải thức tỉnh. Đó là lương tâm của người trí thức chân chính.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p6_a1846

-------------------------------

 

PiôHậu 147: Trang nhật ký thứ 14


CAPHÁCNAUM, NGÀY…..

Cha kính mến,

 

Hôm nay con dành trọn buổi tối để nói chuyện với Mẹ. Năm nay Mẹ con đã ngót nghét năm mươi PiôHậu 147


Hôm nay con dành trọn buổi tối để nói chuyện với Mẹ. Năm nay Mẹ con đã ngót nghét năm mươi tuổi. Mái tóc đã điểm sương. Một vài nếp nhăn đã xuất hiện trên khuôn mặt. Nhưng giọng nói của Mẹ vẫn không thay đổi: ôn tồn, rỉ rả. Ánh mắt của Mẹ vẫn như thưở nào: trong sáng và tin tưởng. Còn nụ cười của Mẹ thì… nghiền nát mọi nỗi thống khổ, vực dậy mọi tâm hồn tan nát, hoá giải mọi ý đồ đen tối…

Mẹ chẳng có gì để đau khổ và hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc của Mẹ chỉ là vui buồn của đời con. Đau khổ lớn nhất của Mẹ là phải nghe các luật sĩ kết án con ngay trên giảng đài. Mỗi ngày Sabát Mẹ con phải uống cạn chén đắng đầy tràn. Từ trên toà giảng, giọng nói của luật sĩ cứ vang lên như sấm sét:

- Giêsu con của bà Maria đã vi phạm luật thánh như cơm bữa: trị bệnh ngày Sabát; giao du với bọn bị vạ tuyệt thông; vào nhà bọn không cắt bì; thậm chí còn ăn những thức ăn mà luật Lêvi cấm.

- Mẹ nuông chiều con để con hỗn với các tôn sư, dám gọi các tôn sư là cái mộ tô vôi.
- Tội của Mẹ lớn hơn tội của con.

Khi chìm ngập trong bể khổ, Mẹ thường nhắc lại những câu sau đây, khiến con cảm thấy đau nhói trong tim.

+ Bé này trở nên như mũi gươm xuyên thấu tim của cháu.

+ Đức Chúa thì ngàn trùng, còn Mẹ thì như có như không. Người muốn sao thì nên vậy.
Buồn, tủi và thoang thoảng chút giận lẫy. Nhưng bao giờ Mẹ cũng kết thúc bằng lời “XIN VÂNG” ngọt lịm và một nụ cười trong sáng tuyệt vời.

Kết thúc buổi tâm sự, Mẹ con thỏ thẻ:

- Mẹ muốn đi truyền đạo với con.

- Con cũng muốn thế. Nhưng… Ý Cha con trên trời lại không muốn thế.

- …. Mẹ muốn ở gần để chăm sóc cho con. Nhưng nếu Giavê không muốn thì… Mẹ xin vâng…. Mẹ gởi con cái áo này để con mặc mà nhớ Mẹ. Chính Mẹ tự đan lấy. Áo đan liền không có đường may.

Mặc áo đẹp quá như thế này chắc con mắc cỡ lắm.

Con ráng mặc thường, để Mẹ được vui.

Cha kính mến,

Ngày mai Mẹ con sẽ trở về Nadarét: Lại ngậm đắng, nuốt cay, lại “XIN VÂNG” và lại nở những nụ cười trong sáng. Con xin gửi Mẹ con vào bóng cánh của Cha.

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p6_a1846

-------------------------------

 

PiôHậu 148: Trang nhật ký thứ 15


CAPHÁCNAUM, NGÀY ….

Cha kính mến,

 

Con trở về đây sớm hơn dự tính, vì Gioan không còn nữa. Anh con đã bị bắt, bị tống ngục và PiôHậu 148


Con trở về đây sớm hơn dự tính, vì Gioan không còn nữa. Anh con đã bị bắt, bị tống ngục và bị chém đầu. Cái chết tức tưởi của Gioan đang tạo nên một trận cuồng phong dư luận.

Gioan là người không thức thời, biết tiến mà không biết lui. Hêrôđê cướp vợ của ông anh, đó là tội ngoại tình, đó là tội loạn luân. Đúng thế. Nhưng vua chúa quan quyền làm sai thì kệ người ta. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Nếu Gioan đừng khiển trách Hêrôđê về tội ác ấy, thì không phải ngồi tù, không bị chém đầu, tha hồ mà giảng, tha hồ mà làm phép rửa… Giảng và làm phép rửa đến mãn đời… Đúng là trẻ người non dạ.

Hêrôđia, một người đàn bà sống ngoài cương thường đạo lý. Bà chỉ biết quyền và lợi. Bà sẵn sàng bảo vệ quyền lợi bằng mọi giá. Bà là người đạo diễn thành thạo đến quỷ quyệt, để thủ cấp của Gioan được để trên cái mâm mà dâng cho bà. Một người đàn bà thủ đoạn và tàn nhẫn đến rùng mình!

Hêrôđê, một nhà chính trị hoạt đầu. Dù chỉ là một ông vua bù nhìn trong một nước thuộc địa, ông vẫn luồn lọt để được một chỗ đứng cao hơn các tiểu vương khác. Ông được Hoàng đế La Mã cho làm vua hai xứ trù phú nhất, đó là Galilê và Pêrê.

Là một ông vua phi đạo đức đến thành quỷ ác. Chỉ vì chiều vợ, ông đã tống giam một sứ ngôn được toàn dân kính trọng và thương mến. Chỉ vì chiều đứa con ghẻ, chỉ vì cao hứng trong cơn say xỉn, ông cho chém đầu một nhà tu hành vô tội. Mạng sống của một công dân, cái đầu của một nhà truyền đạo đối với ông, chỉ là trò đùa của cung đình. Ghê tởm thật!

Hêrôđê còn là một tín đồ nham nhở, ông đã cướp vợ của ông anh, một tội mà luật Môsê kêu án tử hình . Thế mà hằng năm ông vẫn về thủ đô để dự lễ Vượt qua như một tín đồ thuần thành!

Đối với ông đạo chỉ là cái áo mưa: mưa thì mặc, hết mưa thì quẳng đi. Đạo cũng chỉ là một thứ thực dụng.

Cha kính mến,

Dư luận nhận xét về Hêrôđê và Hêrôđia thì rất đúng. Quyền bính và luật pháp không vị nhân sinh thì lịch sử sẽ đào thải nó. Còn Gioan thì sẽ mãi mãi là một vĩ nhân, một anh hùng tuẫn đạo, một nhà truyền giáo đúng đắn nhất. Anh chọn chân lý chứ không chọn mạng sống. Anh tự hủy để Tin Mừng lớn lên.

Anh tự nguyện chui vào bóng tối để nhường lối cho con. Trong lúc sinh thời anh thường tuyên bố: "Người thì phải lớn lên; còn tôi thì phải nhỏ đi”. Ước chi lời nói này mãi mãi là khuôn thước cho mọi nhà truyền giáo của mọi thời đại.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p7_a1847

-------------------------------

 

PiôHậu 149: Trang nhật ký thứ 16


CAPHÁCNAUM, NGÀY ….

Cha kính mến,

 

Sau một ngày lăn lộn với quần chúng, con cảm thấy mệt muốn đứt hơi. Con ngả lưng nghỉ một PiôHậu 149


Sau một ngày lăn lộn với quần chúng, con cảm thấy mệt muốn đứt hơi. Con ngả lưng nghỉ một chút, rồi thiếp ngủ lúc nào không hay. Bỗng con giật mình do một linh cảm không sai lầm. Con nghĩ đến Mẹ con, một người đàn bà cô thân cô thế đang bị “giam giữ” trong “nhà tù Nadarét”.

Nadarét chống đối con, hăm dọa con. Con phủi chân ra đi, thế là xong. Công tác rao giảng Tin Mừng của con đã đẩy Nadarét vào sâu trong quá khứ. Nhưng Mẹ con vẫn còn ở đó, đơn thương độc mã. Một mình Mẹ con phải đưa lưng ra chịu đòn dư luận. Từ ngày con cuốn gói bỏ Nadarét trở về đây, bọn chống đối quá khích hằng ngày vẫn đến bao vây nhà Mẹ con để xỉa xói, để nguyền rủa. Chỉ vì con mà Mẹ con phải khổ, phải nhục. Những người tốt bụng vẫn lén lút đến an ủi Mẹ con và khóc với Mẹ con. Nhưng người tốt thì ít, mà người ác thì nhiều. Người tốt chỉ có tấm lòng, còn người ác thì có đầy quyền lực.

Chắc hẳn giờ này Mẹ con đang nhớ lại lời tiên tri của cụ già Simêon đã nói với Mẹ hồi con mới được bốn mươi ngày tuổi: “Bé này sẽ trở nên lưỡi dao sắc xuyên qua tim của cháu”. Mẹ con buồn, Mẹ con khóc, nhưng Mẹ con có thói quen ghi khắc mọi biến cố vào tâm trí, để suy nghĩ và tìm hiểu lần lần ý mầu nhiệm của Cha. Nhờ thế mà mọi nỗi thống khổ khủng khiếp cứ tan chảy dần dần như tảng băng phơi nắng. Cứ như thế Mẹ con vẫn kết thúc mọi nỗi đau giằng xé bằng một nụ cười phó thác. Và cứ như thế Mẹ con sẽ trở nên một người đàn bà can đảm tuyệt vời.

Xin Cha chúc lành cho Mẹ của con.

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p7_a1847

-------------------------------

 

PiôHậu 150: Trang nhật ký thứ 17


NADARÉT, NGÀY …..

Cha kính mến,

 

Hôm nay con trở về Nadarét thăm Mẹ, thăm quê. Mẹ con vui như tết. Bà con thân thuộc đến chơi PiôHậu 150


Hôm nay con trở về Nadarét thăm Mẹ, thăm quê. Mẹ con vui như tết. Bà con thân thuộc đến chơi thật đông. Nadarét hãnh diện vì có người đồng hương được tôn vinh khắp nơi. Nadarét không còn là biểu tượng của con bọ hung nữa. Những phép lạ con thực hiện tại Caphácnaum đều vang vọng tới đây cả rồi.

Căn nhà nhỏ hẹp của Mẹ chẳng có chỗ cho khách đứng. Mẹ con lấy đệm trải ra ngoài sân. Con ra ngồi ngoài đó để có thể nói chuyện và thăm hỏi mọi người. Quý vị cao niên, bạn bè đồng trang lứa, chú thím dì dượng…. Chẳng thiếu một ai. Trẻ em thì vô vàn….

Gia đình thanh bạch: chẳng có rượu cho người lớn nhâm nhi; chẳng có mứt chà là cho các bà lai rai…; chỉ có một chum nước giếng cho người khát nước. Thiếu thủ tục xã giao, nhưng chẳng ai chấp nhất, vì chẳng ai có giờ để mà chấp nhất. Cả hai mẹ con chẳng có giờ để nói và thiếu thời giờ để nghe. Người ta kể lại cho nhau những việc con đã làm tại Caphácnaum. Người ta khen Mẹ con là người có phước. Người ta khen con là không học mà làm nên sự nghiệp. Ca ngợi và ca ngợi. Nhưng trong những lời ngợi ca, vẫn thoang thoảng mùi vị chua chua, cay cay…

- Phải chi chú đừng trị bệnh vào những ngày Sabát, thì chú còn hơn cả Êlia nữa.

- Giảng thì tuyệt vời rồi, nhưng phải chi ông bố là biệt phái thì hay biết mấy.

- Rằng hay thì thật là hay… nhưng vẫn có mùi phoi bào.

- Anh đừng giao thiệp với bọn thu thuế, thì mới giữ được uy tín.

- Uy tín của anh lớn lắm đấy, nhưng chưa tuyệt đối đâu. Chơi với thu thuế là rách việc.

Giêsu
Con yêu dấu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p8_a1848

-------------------------------

 

PiôHậu 151: Trang nhật ký thứ 18


CAPHÁCNAUM, NGÀY….

Cha kính mến,

 

Sáng nay con đến nguyện đường Nadarét để cùng với bà con nghe đọc và giảng Thánh Kinh. Ai PiôHậu 151


Sáng nay con đến nguyện đường Nadarét để cùng với bà con nghe đọc và giảng Thánh Kinh. Ai nấy đều đề nghị con đọc và giảng. Ông truởng hội đường có chút e ngại vì ông cho rằng con là người quá cấp tiến, nhưng ông vẫn chiều theo ý kiến quần chúng. Con nhận lời ngay. Cả hội đường nín thở và chờ đợi.

Ông trưởng hội đường trao cho con cuốn ngôn sứ Isaia. Vừa mở ra con thấy và đọc ngay đoạn sau đây:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa…”.

Bài đọc cho con thấy trọn vẹn sứ mạng của con, đó là giải phóng con người khỏi nỗi thống khổ do bệnh tật, bất công, nghèo đói và tội lỗi. Người giải phóng phải chấp nhận hy sinh. Sứ mạng của con là giải phóng. Con biết con phải đương đầu với một thử thách lớn lao. Thử thách lớn lao ấy chính là sự chống đối của giáo quyền.

Con mô tả hết nỗi thống khổ của người bệnh, người nghèo, người tội lỗi, người bị đàn áp… Bà con cảm động đến rơi lệ. Dường như ai cũng đau khổ, không bằng cách này thì bằng cách khác. Đau khổ bao trùm trên thân xác và trên lương tâm của nhân sinh. Nhưng không có nỗi thống khổ nào phi lý cho bằng nỗi thống khổ do chính tôn giáo gây nên… Đau khổ vì những khoản luật không phục vụ nhân sinh, mà chỉ bảo vệ quyền bính; đau khổ vì đường lối mục vụ nghiêm khắc đến tàn nhẫn; đau khổ vì tình yêu đối với Giavê bị thay thế bằng nỗi khiếp đảm….

Nội dung bài giảng của con đi từ trình bày đến đấu tranh cho chân lý. Thế là có thương và có ghét, có ủng hộ và có chống đối. Người chống đối thì có quyền lực, người ủng hộ thì chỉ có tấm lòng. Người có quyền lực, thì “cả vú lấp miệng em”. Họ lôi lý lịch thợ mộc của bố con ra mà hạ uy tín của con… Con cảm nghiệm sâu sắc lý do tại sao ngày xưa sứ ngôn Êlia đã cứu đói một bà góa ở Xêrépta và sứ ngôn Êlixê đã chữa bệnh cùi cho Naaman, một quan chức của nước Xiri . Cả hai sứ ngôn đều quan tâm đến người ngoại để cảnh cáo người Ítraen. Con nhắc lại hai câu chuyện này để người đồng hương của con hiểu rằng:

+ Ítraen không được quyền tự cao tự đại mà coi thường các dân tộc khác. Tất cả các dân tộc đều là anh em, con cùng một cha.

+ Câu ngạn ngữ “sứ ngôn không được trọng vọng ở quê hương mình” là một nhận xét rất đúng về nhân tình thế thái, nhưng cũng cho thấy nhân tình thế thái là một bất công.

Tự ái cá nhân, tự ái dòng họ, tự ái dân tộc, quyện lấy nhau, tạo nên một cuộc chống đối khủng khiếp. Mạnh ai nấy la. Nguyện đường giống như một cái chợ bị cướp. Thậm chí có người còn dọa giết con.

Con lặng lẽ ra về, cuốn gói chuồn thẳng xuống Caphácnaum. Nadarét quê hương yêu dấu bây giờ chỉ còn là một dĩ vãng xa vời.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p8_a1848

-------------------------------

 

PiôHậu 152: Trang nhật ký thứ 19


CAPHÁCNAUM, NGÀY ….

Cha kính mến,

 

Hôm nay là ngày Sabát, con tới nguyện đường để nghe đọc và suy gẫm Thánh Kinh. Người ta PiôHậu 152


Hôm nay là ngày Sabát, con tới nguyện đường để nghe đọc và suy gẫm Thánh Kinh. Người ta lại mời con giảng. Thần Khí của Cha thấm vào ý và lời của con. Hàng trăm cặp mắt không muốn chớp. Hàng trăm con tim không muốn đập. Hồn con và hồn thính giả quyện vào nhau… Bỗng có rối loạn. Một người bị quỷ nhập la toáng lên.

– Ông Giêsu ơi! Chúng tôi có làm gì ông đâu mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Chúng tôi biết ông là ai rồi? Ông là Đấng Thánh của Chúa…

– Im ngay và ra khỏi người này!

Con hét lên trong cơn thịnh nộ. Người bị quỷ nhập lăn đùng xuống đất, lấy tay dụi mắt rồi đứng dậy, bỡ ngỡ như còn đang trong giấc mơ… Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Nguyện đường không còn rối loạn nữa, nhưng vẫn ồn ào như cái chợ. Vui mừng và bỡ ngỡ. Chỉ còn người nói, không còn người nghe. Con đành bỏ dở bài giảng.

Cha kính mến,

Chính Xatan đã phá đám công trình sáng tạo của Cha. Hôm nay Cha sai con đến để tiêu diệt hắn và phục hồi lại những gì đã đổ vỡ. Đó là lẽ công bằng. Vậy mà hắn lại kêu oan: “Chúng tôi có làm gì ông đâu mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”. Bản chất của hắn là thế: gian dối. Hắn đã lừa dối Eva, nên Eva mới lỗi giới. Tội gian dối của hắn mở đầu cho mọi tội ác trong lịch sử. Chính vì thế con gọi hắn là tên gian dối, là cha đẻ của sự láo khoét. Con cũng khẳng định rằng mọi sự gian dối trên môi miệng loài người đều do hắn mà ra.

Cha ơi! Loài người đang chết chìm trong biển cả gian dối. Gian dối bao trùm từ mái nhà của yêu thương, đến toà nhà của công lý… Chỉ có sự thật mới giải phóng con người. Sự nghiệp giải phóng loài người phải khởi đầu từ đây. Xatan phá hoại bằng sự gian dối, thì con tái thiết bằng sự chân thật.

Cánh cửa nguyện đường khép lại sau lưng quần chúng. Dòng người tuôn chảy về ngôi nhà của người vừa được trừ quỷ. Niềm vui quá lớn làm chao đảo sinh hoạt bình thường của thị trấn. Thân bằng quyến thuộc đến đó để ăn, để uống và để quên đi nỗi nhục cay đắng đã đè nặng trên gia tộc do thành kiến xã hội và tôn giáo. Người dưng nước lã cũng đến đó để ăn, để uống và để chia sẻ niềm vui chưa từng thấy. Ăn bao nhiêu, uống bao nhiêu cũng không vừa. Uống vì vui, uống vì thèm. Ồn ào để tránh im lặng. Cuộc đời của quần chúng thiếu chiều sâu, nên cứ bồng bềnh và trôi nổi như thế.

Con đứng nhìn dòng người cho tới khi người cuối cùng mất hút trong ngõ hẻm. Con thủng thỉnh đếm bước trở về ngôi nhà của anh Simon. Mẹ vợ của anh đang lên cơn sốt. Căn nhà bịt bùng hực lên mùi thuốc thảo mộc. Đám đệ tử của con đang hừng hực hào khí của nguyện đường, bèn nhao nhao lên như cái chợ:

- Simon, khỏi thuốc thang làm chi. Xin Thầy hét một tiếng là bệnh sốt rét dông liền.

- Cậu xin Thầy biểu diễn một màn coi. Bệnh sốt rét cũng là quỷ đó. Phải trừ bỏ nó như trừ quỷ vậy.
- Thầy, xin Thầy cứu bà khỏi quỷ sốt rét.

- Ê, coi chừng: hôm nay là ngày Sabát đấy, luật không cho trị bệnh đâu….

Cha kính mến,

Quả vậy, hôm này là ngày Sabát, luật không cho trị bệnh. Mà theo truyền thống thì luật là thánh. Nhưng con không thể tùng phục luật này. Luật để phục vụ con người chứ đâu phải để bảo vệ cơ chế. Vả lại ngay trong điều luật này đã hàm chứa một sự khinh dể con người. Ngày Sabát: luật cho phép cứu một con bò, một con lừa sa xuống hố, nhưng lại không cho cứu người! Như vậy thì hóa ra con người lại thua con vật sao!

Luật nào không phục vụ con người, thì không có lý do tồn tại… Thần Khí của Cha bừng sáng trong con, khiến con mạnh dạn tiến đến bên bệnh nhân. Con nắm lấy tay bà. Sức mạnh chạy rần rần từ tay con qua tay bà. Ánh mắt bà sáng lên niềm tin. Con kéo bà ngồi dậy. Bà bình phục hoàn toàn. Bà quỳ mọp xuống để tỏ lòng tri ân. Con vội nâng bà đứng lên để trao bà cho niềm vui điên cuồng của con cháu.

Bà lăng xăng đích thân dọn bữa. Bà trải đệm xuống nền nhà… Bỗng bà tiu nghỉu.

- Thưa Thầy, tôi muốn đãi Thầy một bữa tối đa. Nhưng kẹt tôi quá: hôm nay là ngày Sabát, không nấu nướng gì được, mong Thầy thông cảm.

- Bà hết bệnh là tôi vui rồi. Nếu bà muốn tôi vui hơn nữa thì….

- Thì sao Thầy?

- Thì bà cho thằng rể của bà theo tôi luôn đi.

- Cái đó thì tôi không dám. Còn tùy nó và vợ con của nó.

Bữa cơm trưa kết thúc mau lẹ, vì bệnh nhân từ đâu kéo đến, đứng chật cả sân. Bệnh tật đày đọa cả thân xác lẫn linh hồn.

Có một nền tu đức lệch lạc vẫn giải thích rằng: bệnh tật là hình phạt Giavê giáng xuống trên người tội lỗi; bệnh nhân đồng nghĩa với tội nhân. Và cũng theo nền tu đức ấy: nếu hôm nay con chữa hết bấy nhiêu bệnh nhân, thì con sẽ phạm tội vô vàn vô số… Con đặt tay trên mọi bệnh nhân, mọi bệnh nhân được cứu, thì hàng trăm người được hạnh phúc. Còn riêng con thì phải khổ. Các luật sĩ sẽ nhân danh đức tin để lên án con. Họ chống đối con để bảo vệ cơ chế và quyền lợi. Còn con thì phải hy sinh để con người được cứu độ.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p8_a1848

------------------------------

 

PiôHậu 153: Trang nhật ký thứ 20


CAPHÁCNAUM, NGÀY ….

Cha kính mến,

 

Caphácnaum đã dành cho con rất nhiều tình cảm. Cứ chữa một người khỏi bất cứ bệnh gì thì PiôHậu 153


Caphácnaum đã dành cho con rất nhiều tình cảm. Cứ chữa một người khỏi bất cứ bệnh gì thì có ngay hàng trăm người bạn, hàng ngàn người hâm mộ. Caphácnaum đã trở thành một trung tâm truyền đạo. Muốn giảng lúc nào cũng có người nghe. Con giảng ở hội đường, ở nhà anh Simon, con giảng trên nương và trên bờ hồ…

Sáng nay bà con tập trung đầy nhà anh Simon rồi cho người đi tìm con ở bờ hồ. Họ nhất quyết giữ con ở lại.

- Xin Thầy cứ ở đây đừng đi đâu hết. Ai muốn nghe giảng thì đến đây. Ai có bệnh thì cũng đến đây. Thầy đi mãi riết rồi không còn sức mà làm việc.

- Ở đây có bà mẹ vợ ông Simon lo cơm nước cho Thầy. Đi đây đi đó, hàng trăm đầu bếp, chẳng ai biết nấu sao cho vừa miệng Thầy. Ăn như vậy thì còn khổ hơn là không ăn.

- Thầy đi hoài kiệt sức rồi thì làm sao mà giảng được.

Người ta viện đủ lý do để giữ con ở lại. Lý do nào cũng có vẻ là lo cho con. Nhưng thật ra là họ ích kỷ. Họ muốn cầu lợi. Nếu con ở đây với họ, Caphácnaum sẽ trở thành trung tâm trị bệnh, trung tâm truyền đạo…. Nhờ đó kinh tế phát triển mau chóng. Nội bán bánh mì và bán nước giải khát cho khách hành hương cũng đủ làm giàu rồi. Sẽ có kinh doanh nhà trọ, kinh doanh vận tải giao thông đuờng bộ, đường thủy…

Nhưng cuối cùng thì hạt giống Tin Mừng sẽ không được gieo vãi mà sẽ bị “gí bồ”. Người truyền đạo sẽ không còn là người gieo giống nữa mà chỉ còn là người kinh doanh Tin Mừng. Bởi thế con từ chối thẳng thắn:

- Tôi phải đi đến mỗi thành, mỗi làng để rao giảng. Đó là sứ mạng của tôi. Tôi đi chứ tôi không ngồi.

Không lợi dụng được con, nhiều tay kinh tài tỏ vẻ thất vọng. Họ lắc đầu. Chính Simon cũng tỏ vẻ thất vọng. Anh muốn vừa gần vợ con, vừa được coi như nhân vật quan trọng trong trung tâm truyền giáo.

Con xếp dọn khăn áo và lên đường thật lẹ, bỏ lại sau lưng một rừng người ngơ ngác nhìn theo. Con đi và con sẽ đi mãi mãi cho tới mút cùng của thời gian và không gian.

Ra đi là bỏ lại, là quên mình để sống cho người khác. Phải can đảm để ra đi. Con e rằng rồi đây “ngồi” sẽ thắng “đi”. “Ngồi” sẽ trở thành nếp sống bình thường, hữu tình và hữu lý. Ngày ấy sẽ đến và con rùng mình nghĩ đến nó.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p9_a1849

------------------------------

 

PiôHậu 154: Trang nhật ký thứ 21


CAPHÁCNAUM, NGÀY….

Cha kính mến

 

Sáng nay khi mặt trời còn đỏ oẳng, mặt hồ còn nhuộm màu… bình minh, con đã kết thúc bài giảng PiôHậu 154


Sáng nay khi mặt trời còn đỏ oẳng, mặt hồ còn nhuộm màu… bình minh, con đã kết thúc bài giảng. Bà con lẻ tẻ ra về, lặng lẽ và suy tư. Vài người còn lưu luyến.

- Này Simon, về nhà lấy lưới, chúng ta ra khơi! - Con ra lệnh.

- Thưa Thầy, chúng tôi đã hì hục suốt đêm mà không được lấy một con cá nhỏ. Nhưng nể lời Thầy, chúng tôi sẽ đi để rồi về trắng tay một lần nữa.

Simon là mẫu người “ruột để ngoài da”: buồn vui không che đậy, gặp đâu nói đấy. Thương thì thương da diết, mà ghét thì không thèm đội trời chung… Vì nể con, anh ôm lưới bỏ xuống thuyền và ra khơi, nhưng miệng thì không ngớt lẩm bẩm và nhịp chèo thì cà giật như nhịp thở của người lên cơn suyễn. Lòng dạ của anh bây giờ chỉ còn là: ăn ba hột, uống ba sợi và ngủ vùi cho đến xế chiều.

Thế mà…! Nhưng chính cái “thế mà” làm anh nẫu ruột ấy lại là chiến thuật đưa anh vào mê hồn trận.

Bên đây là chiếc ghe của Simon và Anrê. Xa tắp tít đàng kia là chiếc ghe của Giacôbê và Gioan. Hai cánh buồm no gió in hằn vào không gian thành hai bắp thịt khổng lồ đang gồng lên để kéo một tay lưới dài lê thê.

Con dang tay đón gió. Gió từ đâu mà đến? Gió mơn man làn da. Rồi gió đi về đâu? Con muốn chết lịm trong không gian vô tận. Bỗng con cảm thấy Cha là vô tận và tình yêu của Cha đang lấp đầy không gian vô tận. Còn con thì đang ngụp lặn trong tình yêu vô tận ấy. Cha ơi! Ngàn trùng ơi! Vô tận ơi!

Thần Khí của Cha bao trùm lên con, lan tỏa trong con, thấm vào không gian, phả xuống mặt nước, chìm xuống đáy hồ.

Thần Khí của Cha cho con thấy rõ đàn cá đang nhởn nhơ trong dòng nước xanh. Chúng lượn lờ sát bên thành lưới, lùi dần về hướng gió theo nhịp tiến chậm chạp của hai chiếc ghe. Cứ như thế thì chắc chắn Simon sẽ trở về với hai bàn tay trắng… Con vận dụng ý chí, truyền cho đàn cá lao vào thành lưới. Chúng đã tuân lệnh con.

Hai chiếc ghe khép vòng tròn lại. Bốn tay chài thấy cá đụng trong lưới, họ quýnh quáng la ơi ới kêu các bạn chài đến gỡ tiếp. Hai ghe cá đầy ắp từ từ tiến vào bờ. Cả xóm chài rộn lên niềm vui. Những tay ghe đàn anh ngơ ngác nhìn nhau, lắc đầu tỏ vẻ kinh ngạc.

Simon đến quỳ dưới chân con.

- Xin Thầy xa tôi, vì tôi không xứng đáng với Thầy. Thầy tha thứ cho tôi, vì tôi đã xúc phạm đến Thầy.

- Simon, đừng sợ! Từ nay anh không còn đánh cá ở biển hồ này nữa! Anh sẽ đi chinh phục tâm hồn người ta.

Thế là từ nay chấm dứt cảnh đu đưa giữa Tin Mừng và cuộc sống. Simon đã theo con từ lâu, nhưng chỉ theo 50 phần trăm. Anh đi truyền giáo với con được dăm bữa nửa tháng, thì vợ anh lại cho người móc anh về lo việc nhà. Giacôbê và Gioan cũng thế. Họ là hai lao động chính của một cơ sở làm ăn khá lớn. Họ không thể dễ dàng dứt áo ra đi để phục vụ cho Tin Mừng một trăm phần trăm được.

Mẻ cá bội thu hôm nay là một cú sốc tâm lý tả xung hữu đột để các đệ tử của con và gia đình của họ tự nguyện dâng hiến trọn vẹn con người cho sự nghiệp truyền giáo. Nhu cầu truyền giáo hôm nay và mãi mãi vẫn là thế: phải có một số người hy sinh trăm phần trăm.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p9_a1849

-------------------------------

 

PiôHậu 155: Trang nhật ký thứ 22


CAPHÁCNAUM, NGÀY….

Cha kính mến,

 

Con vừa trải qua một ngày cô đơn tột cùng. Những người thân thương nhất cũng đang nhìn con PiôHậu 155


Con vừa trải qua một ngày cô đơn tột cùng. Những người thân thương nhất cũng đang nhìn con bằng ánh mắt hờn dỗi và phiền trách. Những người hâm mộ con nhiều nhất, hôm nay cũng bắt đầu lạnh nhạt và quay mặt đi… Tất cả đều bắt đầu từ việc con chọn Mátthêu làm đệ tử và đã đến dùng cơm tại nhà anh ấy.

Các kinh sư đã dồn Simon vào chân tường:

- “Tại sao Thầy các anh lại ngồi ăn với bọn tội lỗi? Các anh có biết rằng ngồi ăn với bọn thâu thuế là vi phạm luật thánh, là mắc uế không?” .

Còn Simon thì đã nói thẳng thừng với con:

- “Thầy cho Mátthêu làm đệ tử là Thầy làm nhục chúng con. Hắn là một tên thu thuế, là tên phản quốc, phản đạo. Hắn đã bị vạ tuyệt thông cách ly… Chọn hắn làm đệ tử là Thầy coi chúng tôi ngang hàng với hắn".

Mẹ vợ của Simon, mới hôm nào đây, quỳ dưới chân con và tôn sùng con như thần thánh, thì hôm nay cũng ngoa ngoắt:

- "Từ thuở bé đến bây giờ, tôi chưa thấy ai như Thầy. Cái gì cũng một vừa hai phải… Người ta chửi Thầy, chúng tôi hết đường chống đỡ".

Cha kính mến,

Đến với Mátthêu và tuyển chọn anh vào đoàn truyền giáo là một cuộc cách mạng táo bạo có tầm mức toàn diện và gặp sự chống đối của tư tưởng và cơ chế tôn giáo. Con biết thế. Chính con cũng cảm thấy rùng mình trước hành động này. Trong một vài khoảnh khắc con muốn lùi bước, nhưng rồi con lại tiến lên. Con biết đây là thánh ý của Cha mà con phải thi hành. Cái giá mà con phải trả là rất lớn, nhưng cũng chính là cái giá mà Cha đã chọn.

Chọn Mátthêu làm đệ tử là con đã đụng đầu với một truyền thống đạo đức lâu đời. Từ thuở xa xưa cha ông chúng con đã lên án tội nhân như lên án tội lỗi, đã tự thánh hóa bản thân bằng cách loại trừ người tội lỗi.

Trong truyền thống đạo đức ấy, nổi cộm lên một thánh nhân dang tay cầu nguyện một cách chân thành và tự tin. Đó là tác giả Thánh vịnh 101.

Con ghét kẻ làm điều tà vậy
Không để cho dính bén đến mình.
………………..
Ai nói chùng nói lén là con sẽ diệt trừ
Con mắt khinh người lòng dạ kiêu căng.
Những bọn đó, không khi nào con chịu.
…………………
Nhà con ở không khi nào chứa chấp
Kẻ quen trò bịp bợm thói lưu manh
Hạng nói dối chuyên nghề
Con đuổi cho khuất mắt
Mỗi buổi mai con lại diệt trừ
Cho hết phường ác nhân trong xứ sở,
Hầu quét khỏi thành đô Chúa
Bọn làm điều ác, chẳng sót một tên.

Cha sai con đến để cứu độ thế gian. Bởi thế con phải mạnh dạn xô ngã vị thánh nhân ấy, để giành lấy tội nhân. Các kinh sư đã chống đối con, kệ họ. Các đệ tử buồn con, kệ họ. Con phải thi hành thánh ý của Cha. Dù sao Simon cũng đã bớt giận lẫy. Trước khi con đến đây để hầu chuyện Cha, con đã nói với anh ấy:

- Thầy đến để cứu vớt tội nhân, cũng như thầy thuốc đến để cứu chữa bệnh nhân.
- Thưa Thầy, Thầy nói thế thì tôi hiểu. Thầy tha lỗi cho tôi.

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p9_a1849

-------------------------------

 

PiôHậu 156: Trang nhật ký thứ 23


APHÁCNAUM, NGÀY …

Cha kính mến,

 

Bữa cơm tối hôm nay Mátthêu đã ngồi chung đệm với tụi con. Mọi người đã nhìn nhau bằng ánh PiôHậu 156


Bữa cơm tối hôm nay Mátthêu đã ngồi chung đệm với tụi con. Mọi người đã nhìn nhau bằng ánh mắt thân thiện. Một tô rượu đã chuyền từ tay này qua tay khác làm tăng thêm bầu khí cởi mở. Mátthêu dốc hết bầu tâm sự.

- Mátthêu, tại sao cậu lại chọn nghề thu thuế, nghề phản quốc ?

- Tớ không phản quốc, vì tổ quốc đã mất từ trước khi tớ làm nghề này.

- Cậu đánh mất đồng bào, đánh mất bạn bè.

- Tớ cần tiền chứ không cần người.

- Thế tại sao cậu lại giải nghệ?

- Thật tình mà nói, ban đầu thì thấy tiền là trên hết, nhưng khi có tiền rồi, thì mới thấy tiền chỉ là phù vân. Không còn đến nguyện đường, không còn đọc Thánh Kinh, không còn đồng bào, tớ cảm thấy tâm hồn trống vắng và cô đơn lạ thường. Nhiều lúc tớ muốn giải nghệ, tớ muốn trở về với nguyện đường nhưng. . .

- Nhưng cái gì?

- Nhưng, không có con đường trở về. Mọi lối về đã bị rào kín hết rồi. Tớ hận nguyện đường, tớ hận các cậu, tớ hận các kinh sư… Đúng ra mà nói thì tớ có lỗi vì tớ bỏ nguyện đường, nhưng thật ra thì chính nguyện đường đã bỏ tớ. Tớ không thể chạy về với những người khinh dể và ghét bỏ tớ… Mãi cho tới hôm nay tớ mới trở về, trở về với Thầy, vì chỉ có một mình Thầy đã mở rộng tay đón tớ. Và rồi đây bọn thu thuế của tụi tớ sẽ trở về hết với Thầy.

Nói đến đây, Mátthêu nghẹn lời. Mọi người im lặng tuyệt đối. Bấy giờ họ mới hiểu tại sao con đã đạp đổ bức tường ngăn cách giữa nguyện đường với người thu thuế, tại sao con đã gạt cả luật lẫn lệ sang một bên, để đến ăn cơm với Mátthêu. Bây giờ họ mới cảm nghiệm được rằng đường lối mục vụ khe khắt, loại trừ người tội lỗi là một sai lầm có tính cơ bản. Bây giờ họ mới dám nghĩ rằng linh đạo của Thánh vịnh 101 cần được xoay ngược lại.

Yêu thương và kính trọng người tội lỗi là ý của Cha, vì người tội lỗi vẫn là người. Yêu thương và kính trọng người tội lỗi là con đường rộng nhất, để đón người tội lỗi trở về.

Con cảm tạ Cha, vì những tâm hồn bé nhỏ này đã hiểu và cảm được lòng và ý của Cha.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p10_a1850

-------------------------------

 

PiôHậu 157: Trang nhật ký thứ 24


THẬP TỈNH, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Sáng nay con kết thúc bài giảng sớm hơn mọi ngày, vì mặt trời hôm nay nóng hơn mọi bữa. Con PiôHậu 157


Sáng nay con kết thúc bài giảng sớm hơn mọi ngày, vì mặt trời hôm nay nóng hơn mọi bữa. Con dẫn đoàn người từ trên nương men theo con đường mòn đi xuống phố chợ. Không một bóng cây. Không một sợi gió. Mồ hôi rịn ra ở chân tóc, lăn trên sống lưng, trộn với bụi dính trên bàn chân…

Xa xa có một căn chòi tồi tàn. Một người đàn ông đang đứng gần đó, lấy tay che mắt nghiêng nghiêng cái đầu. Anh đang nhìn về phía con, phía của mặt trời. Bỗng anh hớt hải chạy tới, đạp bừa lên những đám cỏ dại… Có tiếng ồn ào ở phía sau lưng con:

- Cùi mày ơi!
- Coi chừng bị mắc uế!
- Đuổi nó đi!
- Lấy đá ném nó!

Bất chấp tiếng la tiếng chửi, người đàn ông gieo mình xuống chân con.

- Lạy Chúa,… nếu Chúa muốn… xin Chúa cho con được sạch.

- Tôi muốn, anh hãy sạch.

Con vực anh đứng dậy. Anh sửng sốt nhìn con. Anh nhìn vào bàn tay. Anh lấy ngón tay cụt rờ lên da thịt, nhảy cẫng lên như con nít. Anh la lên như người mộng du:

- Tôi sạch rồi! Mẹ ơi, con sạch rồi!

- Im đi, nghe tôi nói nè. Một: không được um sùm làm lớn chuyện. Hai: đến xin tư tế tái khám và xin chứng minh thư đã khỏi bệnh để về sum họp với gia đình. Ba: xin tư tế hướng dẫn để làm lễ tạ ơn theo luật Môsê.

- Dạ.

Hắn dạ một tiếng thật to rồi chạy ào xuống triền dốc, miệng cứ bai bải:

- Mẹ ơi, bố ơi, con sạch rồi nè!…

Con về nhà Simon, chưa kịp rửa mặt thì cả nhà hắn đã quỳ ở cửa, tế con như tế sao. Con chưa kịp nâng họ dậy, thì mẹ hắn đã ôm chầm lấy chân con mà hôn, nước mắt đầm đìa, miệng mếu máo:

- Thầy đã cứu sống con tôi. Thầy đã cứu sống gia đình tôi. Ơn này thì đến chết tôi vẫn không quên.

- Thôi bà con đi về đi và đừng nói gì hết. Bà con im lặng được thì tôi nhờ. Nếu không im lặng thì mang họa cho tôi đấy.

Họ ra về, nhưng không ai bịt được miệng họ. Quần chúng là thế: khôn mà không ngoan, ngoan mà dại khờ. Họ ca tụng con chừng nào, thì làm khổ con chừng nấy. Họ thương con chừng nào, thì lãnh đạo nguyện đường ghét con chừng nấy. Ôi! Tình yêu quần chúng, tình yêu mù lòa.

Simon báo cáo là ban lãnh đạo nguyện đường Caphácnaum đã họp từ ngay sau trưa. Họ quyết định hại con bằng mọi giá. Họ chưa hãm hại được con đâu, vì thời giờ của con chưa tới. Nhưng vì con không muốn mất thời giờ để tranh luận với người điếc, nên đã đến miền Thập Tỉnh này và nghỉ ngơi một thời gian.

Giêsu
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p10_a1850

-------------------------------

 

PiôHậu 158: Trang nhật ký thứ 25


HOAN CA PHỤC SINH!

HALLELUJA! HALLELUJA!

THẬP TỈNH, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Hôm nay là ngày thứ hai con sống giữa người ngoại. Bên đây và bên đấy chỉ cách một con sông PiôHậu 158


Hôm nay là ngày thứ hai con sống giữa người ngoại. Bên đây và bên đấy chỉ cách một con sông, sông Giođan. Con sông nhỏ hẹp mà như xa nghìn trùng. Bên đấy khinh dể bên đây và gọi bên đây là bọn không cắt bì. Ở bên đây từng bầy heo nhởn nhơ trên nương đồi. Ở bên đấy có người đã bạc đầu mà chưa một lần nghe tiếng kêu eng éc. Có người phải nôn mửa vì tình cờ ngửi thấy mùi mỡ heo. Lịch sử của dòng sông Giođan là lịch sử của xương máu. Chỉ cần nói “bên này” và “bên kia” sông Giođan cũng đủ để thấy mùi tanh tưởi của máu đã chảy ra trong suốt mười hai thế kỷ của lịch sử.

Người “bên này sông Giođan” lúc nào cũng muốn “nhân danh Chúa tôi trừ diệt chúng”. “Người bên này sông Giođan” lúc nào cũng mơ ước gieo vạ thần tru lên người “bên kia sông Giođan” để mở bờ cõi đến tận “miền sông Cả”.

Sông Giođan, sông của hận thù, hận thù của chủng tộc, hận thù của tôn giáo, con sông ghê tởm nhất của thế giới.

Cha ơi! Con linh cảm rằng dòng nước của sông Giođan vẫn mãi mãi còn là dòng máu tanh tưởi. Nhìn dòng nước lững lờ trôi, tim con co thắt lại, đau đớn vô cùng…

Giêsu
Con yêu của Cha

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p10_a1850

-------------------------------

 

PiôHậu 159: Trang nhật ký thứ 26


CAPHÁCNAUM, NGÀY …

Cha kính mến,

 

Sau một tuần lễ sống thoải mái và tự do rao giảng trên phần đất của dân ngoại, hôm nay con lại PiôHậu 159


Sau một tuần lễ sống thoải mái và tự do rao giảng trên phần đất của dân ngoại, hôm nay con lại trở về Caphácnaum, về căn nhà của Simon, mà con đã coi như nhà của mình. Bầu khí thân thương chưa kéo dài được một khoảnh khắc thì quần chúng từ khắp nơi lại ùn ùn kéo đến. Già trẻ, trai gái, giàu nghèo. Vòng trong và vòng ngoài. Chỗ nào cũng chỉ thấy người và người. Ưu tư và khổ đau chồng chất. Cặp mắt nào cũng ánh lên niềm khao khát ngỏ bày. Qua ánh mắt, con hiểu tất cả tâm tư và cuộc đời của họ. Con tim của con quặn đau chính nỗi đau của họ…

Con phải ngỏ lời với họ. Nhưng nói gì bây giờ? Đành rằng cuộc đời thì có nỗi khổ và niềm vui. Nhưng niềm vui thì như gió thoảng, như mây bay, còn nỗi khổ thì cứ ngồn ngộn ra đó…

Bỗng con nghĩ về mẹ của con. Đời của mẹ con cũng chồng chất nỗi khổ, nhưng nét mặt của mẹ lúc nào cũng rạng ngời ánh sáng thanh bình. Châm ngôn của mẹ con là PHÚ THÁC VÀ TIN YÊU. Phú thác và tin yêu không giảm thiểu thể tích của nỗi khổ, nhưng biến nỗi khổ thành hòn đảo cô đơn giữa đại dương hạnh phúc.

Thế là con bắt đầu bài giảng bằng một câu chuyện, câu chuyện về cuộc đời của một người đàn bà vô danh. Người đàn bà ấy là Maria, mẹ của con. Con giấu tên mẹ. con giấu những mầu nhiệm mà Cha dành riêng cho mẹ, nhưng con kể hết những mẩu chuyện về đời thường của mẹ. Thính giả không nhúc nhích, nín thở để nghe.

Bỗng xuất hiện bốn người đàn ông lực lưỡng khiêng một ông mập nằm trên chõng. Họ tìm lối vào. Thính giả cứ ngồi bất động, không chịu nhường chỗ. Có những cùi chỏ giương lên để phản kháng. Con không can thiệp, để thính giả lặng lẽ tận hưởng dòng đời ngọt ngào của mẹ. Bốn người đàn ông nhẫn nhục lùi bước. Họ đi vòng ra phía đầu hồi nhà. Chẳng ai thèm quan tâm đến họ. Mọi lòng trắc ẩn đều khép lại một cách vô tình. Ở đây đang có một cái gì lớn hơn lòng thương xót.

Bỗng có tiếng ầm ầm như có người đang dỡ mái nhà. Có những bàn tay nạy tấm ván trên sân thượng. Tấm ván bật lên. Ánh sáng tràn vào. Một cái chõng thòng xuống. Một người đàn ông mập ú nu, nằm bất động, cặp mắt lờ đờ, hai giọt lệ lăn từ đuôi mắt xuống lỗ tai, cặp môi dày thều thào:

- Thầy, Thầy đã thấu suốt cuộc đời tôi. Chẳng có tội gì mà tôi không phạm. Xin Thầy cứu cả hồn lẫn xác tôi.

-Tôi tha tội cho anh.

Con dõng dạc tuyên bố như thế. Người đàn ông vẫn bất động như một đống thịt, nhưng mọi cơ bắp trên mặt đều co giật, nước mắt tuôn trào, đôi môi mếu máo. Anh xúc động. Quần chúng trố mắt nhìn. Có hai mái đầu quý phái đang nghiêng vào nhau, tỏ vẻ bất bình. Họ đang nhân danh Cha để chống đối con. Họ đang tìm cách đưa con ra tòa về tội phạm thượng. Chỉ một mình Giavê có quyền tha tội, họ nghĩ thế. Họ có lý. Họ sẽ ném đá con. Họ làm đúng. Nhưng họ đâu có ngờ rằng con bởi Cha mà ra và chính Cha đã trao cho con quyền xét xử và tha tội. Con sẽ làm cho họ hiểu điều này.

- Kính thưa quý kinh sư, chỉ có một mình Giavê có quyền tha tội. Đúng thế. Nhưng Giavê cũng đã trao quyền ấy cho loài người. Để minh chứng điều đó, tôi xin hỏi quý vị: tha tội cho người này hay là cho người này hết bất toại, cái nào khó hơn?

- Tha tội, tội hết hay không, thì ai mà biết. Còn cho người này hết bất toại, thì cái đó khó ạ.

- Vâng, đúng thế. Tôi sẽ cho người này hết bất toại để quý vị thấy rằng tôi đã được Giavê ban quyền tha tội… Này anh, hãy đứng dậy.

Người đàn ông mập bất toại đứng phắt dậy, nhảy tưng tưng như đứa con nít được kẹo. Anh ôm bừa bất cứ người nào. Nhảy cho đã rồi anh ôm chõng ra về. Đắc chí. Chẳng thèm dòm ai. Hạnh phúc nhất trên đời. Bà con ùn ùn đi theo anh ta về nhà. Chẳng một lời chào giã từ. Bây giờ con mới có được một phút nghỉ ngơi, một phút được người ta bỏ quên.

Giêsu,
Con yêu của Cha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p11_a1854

-------------------------------

 

PiôHậu 160: Trang nhật ký thứ 27


CAPHÁCNAUM, NGÀY…

Cha kính mến,

 

Hôm nay con bị mắng vốn. Người mắng vốn con lại chính là môn đệ của Gioan Tẩy Giả. “Chúng PiôHậu 160


Hôm nay con bị mắng vốn. Người mắng vốn con lại chính là môn đệ của Gioan Tẩy Giả.

“Chúng tôi ăn chay, các thầy biệt phái ăn chay, mỗi tuần hai ngày: thứ hai và thứ năm. Chúng tôi và các thầy biệt phái cầu nguyện mỗi ngày năm lần: khuya, sáng, trưa, chiều, tối. Còn môn đệ của Thầy thì chỉ biết ăn và ngủ, chẳng có tí tác phong tu hành nào cả”.

Đau quá! Đúng quá! Đệ tử của con hầu hết là dân hạ bậc: chất phác, bộc trực và dễ thương, nhưng nông cạn và thực tiễn. Thấy rượu thì mắt họ sáng lên, nghe kinh kệ thì mắt họ nhắm lại.

Con vẫn cầu nguyện một mình và không yêu cầu họ chia sẻ. Con vẫn nhắm mắt làm ngơ để họ nhâm nhi với nhau. Họ sẽ cầu nguyện và sẽ ăn chay, nhưng phải giáo dục dần dần.

Nôn nóng và thúc ép họ, thì không những mất cả chì lẫn chài mà còn xúc phạm đến danh dự của họ nữa. Con biết là con sẽ còn bị mắng vốn nữa, nhưng con chấp nhận như thế vì không thể làm khác được. Họ phải tiến bộ, nhưng phải tự nguyện và được kính trọng.

Trong thực tế, con đã giải đáp bằng phương pháp “nhất cử lưỡng tiện”: vừa bảo đảm danh dự môn đệ của con, vừa nhắc nhở môn đệ của Gioan về tâm lý sư phạm.

“Không ai lấy rượu mới đổ vào bầu da cũ. Rượu mới sẽ làm thủng bầu da cũ: mất cả rượu lẫn bầu”.

Giêsu,
Con yêu của Cha.

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.cgvdt.vn/.../nhat.../nhat-ky-duc-giesu-p11_a1854

----------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây