Thủ đô Giêrusalem đang rối loạn vì tin đồn "xác ông Giêsu bị đệ tử đánh cắp...". Từ đầu đường đến PiôHậu 81
Thủ đô Giêrusalem đang rối loạn vì tin đồn "xác ông Giêsu bị đệ tử đánh cắp...". Từ đầu đường đến cuối phố, từ trung tâm đến khu ổ chuột, chẳng ai đi lao động. Cứ ngong ngóng chờ tin sốt đẻo. Cứ tìm người để bình luận vu vơ. Đàn ông thì trầm tư. Đàn bà thì xáo xác... Tớ vào cuộc.
1. Tớ chạy thẳng một mạch ra kiểm tra ngôi mộ. Vắng te. Cửa mộ tênh hênh. Tảng đá lấp cửa mộ không được lăn sang bên cạnh, mà lật ngửa ra. Tớ vào bên trong: mùi lô hội nồng nặc; giường đá trống trơn; khăn liệm được xếp gọn gàng; đặc biệt là khăn che mặt được xếp gấp và để riêng một nơi. Lính của cậu không còn một đứa nào đứng đó để quản lý hiện trường.
2. Quan sát hiện trường xong, tớ đi vào các ngõ hẻm để lấy tin tức. Ngõ ngách nào cũng thấp thoáng bóng dáng lính tráng của cậu. Tin tức chỗ nào cũng giống hệt như nhau. Đàn bà, trẻ con đều kể vanh vách như học trò trả bài:
"Đêm hôm qua, khi lính gác ngủ,
thì đệ tử ông Giêsu đến phá mộ,
lấy xác đem giấu đi."
3. Đang đôn đáo đi lấy tin tức, tình cờ tớ gặp một thằng lính lê dương. Nó là đội trưởng đội lý hình. Chính nó đóng đinh ông Giêsu. Chính nó đâm "mũi đòng ân huệ". Chính nó vào dinh tổng trấn Philatô, để báo cáo công tác này. Tớ lân la hỏi chuyện.
- Cậu là người nước ngoài, cậu có biết chuyện ông Giêsu bị đóng đinh hôm thứ sáu vừa rồi không?
- Biết. Biết rất rõ. Biết từ đầu đến cuối.
- Người ta đang đồn là xác ông ta mất tích rồi.
- Ai lấy xác ông ấy? Lấy để làm gì?
- Đệ tử ông ta lấy xác giấu đi, để hung tin: "Đức Giêsu đã sống lại đúng như lời Thánh Kinh đã chép và đúng như lời Người đã nói."
- Có lính canh gác đàng hoàng, thì ai mà dám mò tới đó.
- Có lính gác, nhưng lính ngủ khò.
- Lính gác mà ngủ, thì cứ chặt đầu. Ngủ mà vẫn thấy là vô duyên. Thấy mà cứ để cho lấy là đồng phạm. Tớ nói cho cậu biết: ngài tổng trấn biết chuyện này rồi đấy. Ngài không bỏ qua đâu.
4. Giã từ anh lính lê dương bằng một cái bắt tay ấm áp. Dường như hắn bất bình với án tử hình của ông Giêsu... Ngay sau đó, tớ đi tìm một thằng lính của cậu để điều tra cho ra lẽ. Tớ cười với nó. Nó cười với tớ. Tớ hỏi ngay:
- Tao hỏi mày, mày phải nói thật với tao. Hồi nãy tao ra mộ của ông Giêsu, tao thấy mộ trống phộc. Vậy ai lấy trộm xác ông ấy?
- Bọn Galilê, đệ tử của hắn?
- Tại sao chúng mày để cho chúng nó lấy trộm?
- Tụi em mệt quá, ngủ khò hết trơn.
- Ngủ thì tại sao lại thấy? Thấy tụi nó ăn trộm xác, thì đánh bỏ mẹ nó đi chứ. Tao vào trong mộ, không thấy xác ông ấy, chỉ thấy khăn liệm được xếp gấp đàng hoàng. Nếu đệ tử ông ta ăn trộm xác thì phải ôm luôn cả khăn liệm đi chứ... Như vậy là mày chưa nói thật. Vả lại, tảng đá lấp cửa mộ lật đùng ra phía trước. Như vậy thì nó phải kêu rầm một cái, y như bức tường đổ. Thế mà chúng mày vẫn ngủ được. Phi lý. Nói thật đi.
- Em nói thật với anh, nhưng anh giữ bí mật giùm em nha. Sáng hôm nay, lúc trời mới tờ mờ sáng, thì có một cuộc động đất. Cửa mộ bật tung. Tụi em đang định thần, thì thấy ông Giêsu từ trong mộ đi ra, đứng nhìn tụi em. Thế là ba chân bốn cẳng, tụi em chạy vào thành, báo cáo với ngài thượng tế. Thượng tế cũng quýnh lên như tụi em. Ngài bỏ tụi em đứng ở tiền sảnh, đi vào nội thất. Tụi em đứng chờ lâu lắm. Thằng nào cũng run như cầy sấy. Chờ mòn mỏi mới thấy ngài thượng tế đi ra, bưng theo một rổ tiền, trao cho anh Gióp, rồi dặn đi dặn lại y như ông bố trăng trối cho con lúc đang hấp hối.
- Chúng mày đi vào nhà dân nói với họ rằng: "Ban đêm khi chúng tôi ngủ, thì bọn đệ tử của Giêsu đến ăn trộm xác giấu đi."
- Thưa Thầy, nói như vậy là không ổn đâu. Gác mà ngủ, thì đầu chúng con rụng hết. Tổng trấn Philatô không bỏ quan chuyện này đâu. Thế nào ông ấy cũng bắt chúng con phải khai báo sự thật. Khai gian thì đầu rơi là chắc. Khai thật thì Thầy đừng trách chúng con.
- Chúng mày cứ yên tâm mà nói như tao dặn. Còn tổng trấn Philatô có làm khó chúng mày, thì tao sẽ lo cho. Một cân vàng là xong thôi.
Sau khi nghe thằng lính của cậu kể tuốt luốt mọi chuyện, tớ hỏi nó.
- Thượng tế đấm mõm chúng mày nhiều hay ít?
- Bí mật con khỉ. Cỡ một tháng lương không?
- Hơn!
Gióp mến. Xin lỗi cậu nhá. Tớ tò mò chui vào tận tim đen của cậu. Cậu thông cảm.
5. Tớ đi tìm bọn Galilê để phỏng vấn. Tìm mãi chả thấy. Chunusg nó trốn chui trốn nhủi như bầy chuột sạ. Nhưng có điều là tuy mắt không thấy chuột đâu mà mũi thì vẫn ngửi thấy mùi hôi nồng nặc của chuột. Tớ đi qua trước cổng nhà bà đại gia Maria. Cổng đóng im ỉm. Dòm vào dãy nhà hai lầu, thì thấy cửa nào cũng đóng im ỉm. Có một cái gì đó không bình thường. Tớ phỏng vấn ông chủ căn nhà đối diện.
- Bác ơi, cho con hỏi thăm một cái. Có phải căn lầu kia là nhà của bà Maria không?
- Đúng, đại gia nổi tiếng ở đây đấy.
- Nhà có chuyện gì buồn mà sao cửa đóng im ỉm, không có một bóng người như vậy?
- Từ hôm sứ ngôn Giêsu bị đóng đinh, tòa nhà này cứ im ỉm như vậy. Bên ngoài thì thế. Bên trong thì đầy người đấy.
- Bác nghĩ thế nào về chuyện bọn đệ tử ông Giêsu ăn trộm xác ông ấy?
- Chuyện thối ngửi không được. Bọn lính gác bị mua chuộc hết rồi. Chúng nó ngu một đống. Nói dối mà giấu đầu hở đuôi. Lính gác mà ngủ! Ngủ mà thấy! Thấy mà không cản! Ngu ơi là ngu!
- Vậy thì ông Giêsu sống lại thật sao?
- Tôi vô tư trong vụ này. Nhưng chắc chắn là vụ ăn cắp xác giấu đi là không có. Tôi biết rõ là đệ tử của Ngài Giêsu giống y như bầy thỏ vậy thôi. Nhát hít à. Vả lại ăn cắp xác, thì giấu ở đâu? Vào giờ giữ luật sabát, có ai ra khỏi nhà đâu, mà mấy "con thỏ" đó dám ngang nhiên khiêng xác chết đi ngoài đường.
Thượng tế và các thầy kinh sư nhà ta đang rơi vào tình trạng "tiến thoái lưỡng nan"; "đã lỡ đâm lao, thì phải theo lao". Tất cả chỉ là thế và chỉ có thế.
6. Đang đứng nói chuyện với ông già, thì có hai người đàn ông lách ra khỏi cổng nhà bà Maria. Dòm dòm, ngó ngó, rồi cúi đầu bước lẹ về phía cổng thành. Dường như có một ánh mắt theo dõi hai ông qua kẽ hở của cánh cổng. Dường như đó là ánh mắt của đàn bà. Tớ vội vàng lao tới, đẩy cánh cổng. Cánh cổng mở toang. Người đàn bà lấy tay bịt mặt. Y như người chết đứng.
- Salom, chi Rôđê. Xin lỗi chị nha. Tôi hỏi chị một câu thôi: "Ông Giêsu sống lại thật hả?"
- Chứ sao! Người đã nói trước từ lâu rồi mà. Người nói nhiều lần rồi: "Thầy sẽ bị bắt, sẽ bị đóng đinh. Nhưng ngày thứ ba, Thầy sẽ trỗi dậy." Sáng sớm hôm nay bà chủ của em và các bà Galilê đã ra thăm mộ. Các bà đã gặp Chúa. Anh muốn biết rõ, thì cứ hỏi chị Mácđala. Chị ấy bạo mồm lắm, chẳng sợ ai đâu.
Gióp mến!
Thế là mọi khúc mắt, tớ đã gỡ được hết. Sự thật đã rõ như ban ngày. Với tình bạn bè, tớ góp ý với cậu.
1. Đức Giêsu đã sống lại như thế nào, thì các cậu là những người đầu tiên đã thấy. Thấy thế nào thì cứ nói như thế. Đừng xuyên tạc sự thật. Có thể các cậu nói thật, thì sẽ gặp khó khăn. Nhưng sự thật sẽ giải phóng các cậu.
2. Các cậu đừng sợ thượng tế. Thượng tế không dám làm lớn chuyện này đâu. Há miệng mắc quai. Càng há càng mắc. Từ chết đến chết.
3. Ông Philatô cũng chẳng lôi các cậu ra tòa đâu mà sợ. Ông cũng sợ "há miệng mắc quai." Ăn hối lộ rồi, thì cứ câm miệng là tốt nhất. Các cậu cứ nghe tớ mà tỉnh bơ như con ngan vậy. Vừa hì hục ăn cám, vừa ngoắt ngoắt cái phao câu. Vừa vớ bẫm rổ tiền của thượng tế, vừa cứ nói hết sự thật cho toàn dân nghe. Nếu cậu muốn chơi cao hơn, đẹp hơn, thì... đem số tiền ấy tặng những người hành khất, sống lây lất xung quanh đền thờ. Tuyệt vời!
Hôm nay, lần đầu tiên ta ngồi nói chuyện với ngươi cũng có thể đây là lần cuối cùng. Vì thế PiôHậu 82
Hôm nay, lần đầu tiên ta ngồi nói chuyện với ngươi cũng có thể đây là lần cuối cùng. Vì thế, dù không ưa ngươi, ta cũng muốn trình bày nỗi lòng của ta. Mong rằng ngươi ngồi im lặng và lắng nghe.
Đọc Thánh kinh, ta hiểu sai về ngươi, trong suốt thời gian dài đằng đẵng hơn một nửa thế kỷ. Khi đọc đoạn nói về Thầy ta lên núi, ăn chay và cầu nguyện 40 ngày, ta vẫn nghĩ rằng ngươi cám dỗ Thầy ta và Thầy ta đã thắng ngươi một cách dòn dã. Ta còn suy ra rằng ngươi cám dỗ Thầy ta về ba đề mục xấu xa, đó là Danh, Lợi, Thú.
Bây giờ ta mới thấy rằng ngươi không hề cám dỗ Thầy ta. Ngươi chỉ điều nghiên về lý lịch của Thầy ta mà thôi. Điều nghiên và cám dỗ là hai đề tài khác hẳn nhau.
Số là hôm ấy Thầy ta lên núi, dựng lều, ăn chay và cầu nguyện. Ngươi tò mò theo dõi suốt 40 ngày. Điều làm ngươi thắc mắc không phải là việc Thầy ta nhịn ăn lâu như thế. Bởi lẽ ông Môsê cũng đã từng ăn chay 40 ngày, trước khi lên núi Sinai lãnh 10 điều răn. Sứ ngôn Êlia cũng nhịn ăn 40 ngày trước khi lên núi Hôrép. Phật Thích Ca cũng tuyệt thực 40 ngày trước khi đi truyền đạo. Điều làm cho ngươi thắc mắc, cân nhắc nhiều nhất, đó là cách thức cầu nguyện của Thầy ta. Khi cầu nguyện mắt của Người như dán vào bầu trời, như xuyên thủng không gian vô tận, như thấy nhãn tiền một Đấng Vô Hình. Khi cầu nguyện thân xác của Thầy ta lung linh, bay bay như không có trọng lượng, như không còn là xác phàm…
Bỗng dưng ngươi nảy ra ý nghĩ: “Có lẽ ông này là Đấng Cứu Thế”. Ngươi thót dạ nhớ lại chuyện ngày xửa ngày xưa. Giavê ném vào mặt ngươi lời tiên tri như sau: “Vì mi xúi giục người đàn bà lỗi giới, thì sau này dòng dõi người đàn bà sẽ đạp nát đầu ngươi”.
Thế là ngươi hốt hoảng bắt tay vào việc ngay. Ngươi quyết tâm xác định Thầy của ta là người phàm hay là Đấng Cứu Thế. Nếu là người phàm thì thôi. Nếu là Đấng Cứu Thế, thì phải chuẩn bị đỡ đòn, phải chuẩn bị trả thù đúng như lời Giavê phán: “Còn ngươi thì rình để cắn gót chân Người”.
Trước hết, ngươi thấy Thầy ta cảm thấy đói, nên lân la dụ khị: “Ông ơi, nếu ông là Con Thiên Chúa, thì ông hóa phép cho cục đá này thành bánh mà ăn”. Thầy ta đánh trống lảng sang chuyện khác. Người dạy loài người chúng ta một bài học quý giá:
“Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh Mà còn phải sống bằng Lời của Chúa nữa”
Thua keo một, ngươi bày keo hai. Ngươi thử xem có phải Thầy ta là người phàm không. Nếu là người phàm thì hiển nhiên không phải là Đấng Cứu Thế. Ngươi quảng cáo sự giàu sang của thế giới. Ngươi nhận vờ là của ngươi, rồi ve vãn Thầy ta: “Mọi sự giàu sang của trái đất là của tôi hết đấy. Ông mà quỳ lạy tôi một cái là tôi tặng ông tất tật”.
Thầy ta lờ đi, coi phú quý giàu sang như rơm như rác. Người gằn giọng nói một câu ngắn tủn tưởng như vô tư, nhưng là tát vào mặt ngươi:
“Chỉ được thờ một mình Thiên Chúa mà thôi”
Ngươi vẫn chưa kết luận được Thầy ta là người phàm. Thua hai keo, ngươi chơi keo chót. Ngươi rủ Thầy ta lên nóc đền thờ. Từ đấy nhìn xuống, người yếu vía phải đứng tim. Ngươi xum xoe, ngươi dụ khị Thầy ta: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì cứ nhảy một cái là xong, khỏi mỏi chân bò bậc thang. Thiên thần sẽ đỡ ông, không để ông giập gãy đâu”.
Thầy ta không ừ, cũng không hử, không thuận theo cũng không chống đối. Người đóng vai thầy giáo dạy học trò:
“Không được thử thách Thiên Chúa”
Ba lần thử mà vẫn không phân biệt vàng – thau. Ngươi lủi thủi rút lui và chờ thời. Ngươi chờ thời. Ta vẫn theo dõi ngươi…
Hôm ấy tại nguyện đường Caphácnaum, ngươi bô bô tuyên bố thành công: “Bây giờ tôi biết ông là ai rồi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Xatan không yêu dấu ơi!
Ngươi vừa mở miệng tuyên bố “Bây giờ tôi biết ông là ai rồi”, thì trí khôn ta bừng sáng. Ta thú thật với ngươi là hơn năm mươi năm qua ta cứ định nghĩa ngươi là một hữu thể vô hình thông minh sáng láng như Thiên thần, vì quá khứ, ngươi đã là Thiên thần. Bây giờ ta mới khám phá, ta mới thấy ngươi ngu ơi là ngu. Suốt thời gian hơn một nửa thế kỷ, ta sợ ngươi quá thể, ta nể ngươi quá chừng. Bây giờ thì… đừng hòng.
1. NGƯƠI NGU QUÁ CHỪNG!
Thầy ta là Đấng Cứu Thế. Đó là sự kiện rõ như ban ngày.
– Khi sứ thần truyền tin cho Mẹ ta thụ thai Thầy ta thì nói rõ: “Cô sẽ thụ thai một bé trai, đặt tên là Giêsu. Người sẽ ngồi trên ngai vua Đavít tổ phụ của Người”. “Con vua Đavít” là Đấng Cứu Thế đấy. Ngươi có hiểu không?
– Sau khi được mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ ta vào miền Nam thăm dì Êlisabét của ta. Suốt ba tháng trời hai chị em tâm sự với nhau toàn là về lịch sử cứu độ. Thế mà ngươi mù không thấy, không theo dõi.
– Khi Mẹ ta hạ sinh Thầy ta tại hang đá ở Bêlem, thì sứ thần báo tin cho mục đồng rõ ràng rằng: “Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong thành của vua Đavít”. Rõ như thế mà ngươi điếc không nghe. Ấy là ta chưa nói đến chuyện bọn mục đồng về làng loan tin này, thì cả làng xôn xao, cả làng bùng vỡ niềm vui. Ngươi vẫn điếc không nghe.
– Ông già Simêon bồng ẵm Hài Nhi trong đền thờ Giêrusalem và tôn vinh Người là “Ánh sáng của muôn dân”. Ánh sáng của muôn dân là Đấng Cứu Thế đấy. Ngươi vẫn không biết.
Rõ như thế rồi, mà ba mươi năm sau ngươi mới đặt vấn đề, mới nghi ngờ, mới điều nghiên và tạm bỏ cuộc để chờ thời cơ. Eo ơi! Eo ơi!
2. NGƯƠI GIAN DỐI QUÁ CHỪNG!
Bây giờ ta hỏi ngươi:
– Ai lừa gạt Eva, để Eva lỗi giới?
– Làm Eva lỗi giới có phải là phá công trình sáng tạo của Chúa không?
– Sứ mạng của Đấng Cứu Thế là đạp nát đầu ngươi, để đưa loài người trở về làm con Chúa. Như vậy là Người làm đúng hay sai.
Tội của ngươi rõ ràng như thế và số phận của ngươi phải là như vậy. Thế mà ngươi kêu oan, vu khống cho Thầy ta là đàn áp là tiêu diệt ngươi một cách bất công: “Bớ ông Giêsu, tôi có làm gì ông đâu mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”. Ngươi là thằng vừa đánh trống, vừa ăn cướp; vừa đốt nhà vừa la làng. Thầy ta đã công khai tuyên bố: “Có thì nói có; không thì nói không. Nếu thêm bớt điều gì, thì bởi ma quỷ mà ra”.
3. NGƯƠI LÀ MỘT THẰNG ĐỂU
Ngươi tuyên bố Thầy ta là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Đúng quá! Đẹp quá! Đó là loan báo Tin Mừng. Cả đời ta, ta chỉ mong nói được bấy nhiêu cho cả thế giới cùng nghe. Nghe ngươi tuyên dương Thầy ta như thế, ta mừng quá. Ta muốn ôm lấy ngươi và gọi ngươi là bạn thừa sai. Ai ngờ… Thầy ta nạt ngươi: “Câm đi”. Bảo “Câm đi” là cấm loan báo Tin Mừng, là cấm truyền giáo. Tại sao vậy? Tại ngươi “Truyền giáo đểu”.
Thầy ta là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Nhưng Người vẫn khéo léo giấu giếm tước hiệu ấy. Người chỉ nhận mình là “Con người”, một từ có hai nghĩa. Vừa là người phàm, vừa là Đấng Cứu Thế (theo sách Đanien). Suốt ba năm truyền đạo Thầy ta chỉ nhận tước hiệu “Đấng Cứu Thế” một lần. Đó là khi Người nói với người phụ nữ xứ Samari. “Đấng Cứu Thế là người đang nói với chị đây”. Ở Samari mà xưng mình là “Đấng Cứu Thế” thì vô hại, không bị kết án là phạm thượng. Nhưng trước tòa án Caipha thì Người tuyên bố: “Đúng như ông nói: Tôi là Con Thiên Chúa”. Sau lời tuyên bố ấy là án tử hình. Đó là thời giờ Chúa Cha đã ấn định.
Thầy ta muốn giữ bí mật, thì ngươi lại “bật mí”. Như vậy là ngươi phá đám. Tôn vinh người, để giết người là tôn vinh đểu. Đểu là bản chất của ngươi.
Đây là lời cuối cùng ta nói với Ngươi: “Ngươi thua ta về mọi phương diện, từ thiện đến ác”.
Nếu thi phạm tội, thì ta sẽ thắng ngươi 4-2. Ta chỉ thua ngươi hai tội là kiêu ngạo và gian dối. Còn tứ đổ tường là cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm và ma túy, thì ngươi phải thua ta. Ta chưa “ấy” đã thấy ngươi giơ tay đầu hàng rồi. Ngươi có xác thịt đâu mà làm những chuyện ấy.
Còn nếu thi về ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, thì ngươi phải thua ta ngàn trùng. Ta chỉ cần lấy một điểm thôi, thì cũng hơn ngươi vô cùng lần rồi. Một đối với âm không (1/-0).
Tôi định bụng gọi Chị là “phu nhân Tổng Trấn”, thì lại buột miệng gọi Chị là “Chị”. Chị thông PiôHậu 83
Tôi định bụng gọi Chị là “phu nhân Tổng Trấn”, thì lại buột miệng gọi Chị là “Chị”. Chị thông cảm nhá. Lẽ ra Chị phải kiêu sa như một bà mệnh phụ, thì Chị lại hiền hòa và thân thương như một bà hàng xóm láng giềng. Chị hiểu tôi rồi chứ?
Chị ơi! Đêm qua Thầy Giêsu của tôi đã phải sống những giờ phút cô đơn đến tận cùng.
1. Nhìn lên trời cao thăm thẳm, để tìm một lời an ủi, thì cánh cửa thiên đàng dường như đã cài chốt rồi. Chúa Cha đã quyết tâm để cho con của Ngài phải chết oan, chết nhục và chết đau, để cứu dộ nhân thế. Bất giác Thầy tôi đã phải kêu lên thống thiết, “Lạy Cha, nếu được thì xin cho Con khỏi uống chén đắng này…” Khổ quá, cay quá, nhưng vẫn phải vâng lời Chúa Cha, Thầy tôi lại gục đầu thổn thức: “Nhưng xin đừng theo ý Con mà chỉ theo ý Cha thôi.”
Trời lạnh như thế, mà mồ hôi Người toát ra đầm đìa. Hai vai nhô lên thụt xuống như người hấp hối. Thương quá là thương!
2. Mười hai tông đồ thân tín, thì chỉ còn mười một. Mười một đệ tử thân thương bây giờ chỉ còn là mười một bị thịt vô tâm. Ba lần Thầy năn nỉ “Hãy tỉnh thức mà cầu nguyện kẻo sao chước cám dỗ”. “Tại sao không thực được với Thầy lấy một giờ ư?”. Ba lần Thầy đánh thức. Ba lần Thầy năn nỉ tha thiết. Ba lần đệ tử cứ lăn lưng ra mà ngủ, mà ngáy khò khò. Trò vô tư đến thế đấy! Thầy cô đơn biết chừng nào!
3. Giuđa, người đệ tử thứ mười hai thì lạnh như chồn, khôn như rắn. Hắn năng nổ như rắn hổ đi săn đêm. Hắn theo dõi giờ Thầy ra ngủ ở vườn Cây Dầu. Hắn ghi nhận địa điểm Thầy cầu nguyện ở dưới gốc cây ôliu nào, cách xa các đệ tử bao nhiêu thước. Hắn nắm vững trong tay thời điểm và địa điểm sinh hoạt của Thầy, để hiến kế cho Thượng Tế bắt Thầy một cách chính xác. Hắn khẳng định với Thượng tế Caipha rằng: “Tôi hôn ai, thì cứ bắt người ấy – ngay chóc – không lầm”. Học trò mà chơi đểu với Thầy như thế đó. Thầy buồn đến chết được.
4. Ở làng Bêtania có anh Ladarô. Anh ta chết và được an táng trong mộ bốn ngày rồi. Thế mà Thầy Giêsu đã cho anh sống lại. Uy tín của Thầy tôi bao trùm toàn vẹn vùng thủ đô. Ai cũng công nhận Thầy tôi là Đấng Thiên Sai.
Thấy thế, Thượng tế Caipha và Công Nghị hoảng hồn. Họ tuyên bố sẽ ra vạ tuyệt thông cho bất cứ người nào tin theo Thầy Giêsu. Lòng dân hâm mộ Thầy Giêsu đang bốc lên phừng phực thì bỗng xẹp xuống. Ai nấy đều thương Thầy tôi, nhưng chỉ thương trong lòng, không dám biểu lộ ra bên ngoài. Vạ tuyệt thông là nỗi sợ khủng khiếp đè xuống lương tâm mọi tín đồ Do Thái. Họ sợ vạ tuyệt thông hơn cả hỏa ngục. Thế là Thầy tôi lại rơi vào tình thế cô đơn. Cô đơn giữa một rừng người hâm mộ. Ôi nhân tình thế thái!
Chị Philatô thân mến,
Trong khi Thầy tôi phải qua một đêm khủng khiếp như thế trong vườn Cây Dầu hiu hắt, thì chị cũng bị dày vò bởi một giấc mơ khủng khiếp.
Trong giấc mơ, Chị thấy Thầy tôi máu me đầm đìa. Chị hét lên một tiếng nghe rùng rợn như tiếng người bị bức tử, làm náo động cả đồn Antonia. Sáng hôm sau mặt Chị vẫn còn thất thần. Tin này rò rỉ từ khu gia binh quân đội viễn chinh khiến giới bình luận ở thủ đô phải quan tâm. Đến gần trưa có thêm một thông tin giật gân nữa.
Khi chồng Chị đang ngồi ghế chánh án thẩm vấn Thầy tôi, Chị cho người thân tín ra nói nhỏ bên tai ông: “Ông ơi, ông đừng nhúng tay vào vụ này. Ông Giêsu là bậc thánh hiền đấy. Đêm hôm qua, bà có một giấc mơ rùng rợn về Người. Bây giờ bà vẫn chưa hoàn hồn đâu.”
Đàn bà chiêm bao, thì giới đàn ông không quan tâm. Nhưng giấc mơ của bà Đệ Nhất phu nhân tỉnh Syria, thì giới nam tử không thể bỏ qua được. Rất nhiều câu hỏi được đặt ra.
- Bà này là người nước ngoài, thường trú ở tận thủ phủ Xedarê xa tắp tít mà tại sao lại biết ông Giêsu?
- Tại sao bà lại dám khẳng định ông Giêsu là người công chính, trong khi giới lãnh đạo vẫn tố cáo ông ta là một tên phá đạo?
- Tại sao bà ta lại biết ông Giêsu đang lâm nạn và đã bị công nghị kết án tử hình vắng mặt?
- Tại sao ông Giêsu lại ảnh hưởng tới tiềm thức của bà ấy và tạo được một giấc mơ ảnh hưởng tới định mệnh của vợ một quan chức đầy quyền lực?
- …
Chị Philatô mến,
Trong khi mọi người đang vắt óc suy nghĩ, thì tôi vào cuộc. Tôi giải mã.
1. Chị là người phụ nữ Rôma. Người phụ nữ Rôma được xã hội tôn quý, khác hẳn đà bà trên mây Do Thái chúng tôi. Phụ nữ Rôma giống như con thiên nga. Đàn bà Do Thái như con gà trong sân. Chị xuất hiện trước quần chúng. Chị chu du đây đó. Chị quen thân với người quyền quý: người viễn xứ cũng như người bản địa.
2. Chị là Đệ Nhât phu nhân của tỉnh Syria, thì dĩ nhiên Chị là bạn thân của các bà mệnh phụ trong tỉnh. Dinh vua Hêrôđê chỉ cách thủ phủ Xêdarê vài chục dặm đường. Ở đấy có một bà mệnh phụ rất dễ mến. Đó là bà Gioanna, vợ của ông Khugia, quản lý của vua Hêrôđê: chắc chắn Chị phải biết bà này.
3. Bà Gioanna là người hâm mộ Thầy Giêsu như một thần tượng. Bà lẽo đẽo theo Thầy tôi trên mọi nẻo đường truyền giáo. Bà thuộc lòng các bài giảng của Thầy. Bà đếm từng phép lạ Thầy làm. Gặp ai bà cũng kể chuyện về Thầy Giêsu. Thậm chí vua Hêrôđê ngồi lì trong triều đình mà cũng biết hết mọi việc Thầy tôi làm. Tôi đoán mò rằng Chị cũng bị bà Gioanna lôi cuốn. Chị cũng tò mò đi nghe Thầy tôi giảng ở đâu đó. Chị cũng bị hớp hồn bởi ánh mắt và giọng nói thần kỳ của Thầy tôi.
4. Vợ chồng Chị cùng về thủ đô Giêrusalem nhân dịp lễ Vượt Qua. Chồng Chị đi với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội: đi để nắm vững tình hình an ninh chính trị; đi để đối phó với một cuộc nổi dậy có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Còn Chị thì đi với tư cách là khách du lịch: đi để thấy một lễ hội lớn lao mà ngay tại thủ đô Rôma cũng không thể có được; đi để thấy một niềm tin tôn giáo mãnh liệt chưa từng thấy ở bât cứ nơi nào trên thế giới.
5. Lễ Vượt Qua năm nay là lễ cuối cùng của Thầy tôi. Gần như ngày nào cũng bị dọa giết. Ngày nào cũng bị kết tội phạm thượng. Thượng tế và công nghị hội họp liên miên để tìm kế bắt và giết Thầy tôi… Chúng tôi khóc hết nước mắt. Chỉ biết khóc thôi chứ chẳng biết làm gì để cứu Người. Quần chúng gục mặt xuống hết, vì sợ bị vạ tuyệt thông…
Chị Gioanna quen biết nhiều, đôn đáo chạy chọt, nhưng kết cuộc cũng chỉ khóc hụ hụ, khóc tuyệt vọng. Chắc chắn chị ấy cũng đã gặp chị, kể hết nỗi đau tuyệt vọng cho chị nghe, hy vọng chị kêu cứu giùm.
Cuối cùng chị cũng chỉ biết khóc. Tôi biết chị thương Thầy tôi nhiều lắm. Chị muốn cứu Người. Chị năn nỉ. Chồng chị ra tay tế độ. Nhưng chị cũng thừa biết rằng anh ấy không đủ can đảm để hy sinh cái ghế và cái nồi. Cái ghế thì quá cao, cái nồi thì quá lớn. Cái ghế thì bị đe dọa cưa chân. Cái nồi thì có nguy cơ bị đập vỡ. Cái quyền và cái lợi của chức Tổng trấn tỉnh Syria đang như trứng treo đầu gậy. Nếu chị và anh ấy cứu Thầy tôi, thì có nguy cơ bị triệu hồi về Rôma. Thế là chị đành nhắm mắt quay mặt để quên Thầy tôi. Chính vì thế mà lương tâm của chị lại dằn vặt, cắn xé. Thương mà không dám thương. Muốn cứu mà không dám cứu. Không cứu thì hèn. Nhưng cứu thì chết. Ấm ức. Dồn nén. Rồi cũng vỡ trong giấc mơ. Giấc mơ khủng khiếp.
6. Chị bị giày vò suốt đêm thứ năm và suốt buổi sáng thứ sáu hôm nay. Đến trưa thì chồng chị trao Thầy tôi cho bọn lãnh đạo Do Thái lôi đi đóng đinh. Chồng chị rửa tay, mặt tỉnh bơ, miệng tuyên bố lạnh lùng: “Tôi vô tội trong vụ này.” Chị tỏ vẻ giận lây. Anh ấy bảo: “Chúng nó lãnh mọi hậu quả do vụ giết oan ông Giêsu này. Chúng nó thề rằng: “Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi, chúng tôi chịu, ông không phải lo. Em thấy chưa. Em đừng sợ hồn chết oan về báo oán chúng ta.”
Từ đó hai vợ chồng chị quên hẳng Thầy tôi, để giữ cái ghế và ôm cái nồi. Cái mà chị lo, cái mà chị hét ầm len, đó là sợ hồn Thầy tôi về báo oán. Bây giờ thì không sợ nữa. Khỏe re.
Chị ơi! Tôi mong rằng trong tâm tư của chị đã có một hạt giống chân lý rơi vào. Hạt giống ấy sẽ nảy mộng và sẽ mọc lên thành cây “chân lý”. Chân lý ấy sẽ giải phóng chị.
Tôi là người hậu sinh, ra đời sau ngài gần hai mươi thế kỷ. Về thời gian, tôi không có gì để PiôHậu 84
Tôi là người hậu sinh, ra đời sau ngài gần hai mươi thế kỷ. Về thời gian, tôi không có gì để dính dấp tới ngài. Về nguồn gốc, thì tôi và ngài khác hẳn nhau. Dân tộc tôi là con rồng cháu tiên. Tổ phụ của ngài là hai thằng cu tí đang mỏi cổ nhìn lên bầu vú của con chó sói. Về văn hóa thì tôi gọi ngài là "ông tây". Còn ngài thì tưởng tôi là "ông Ba Tàu." Rõ ràng là tôi chẳng có lý do gì để nói chuyện với ngài.
Nhưng vì tôi là đệ tử của Thầy Giêsu, mà ngài đã trao cho lãnh đạo Do Thái đem đi đóng đinh. Thầy tôi bị giết oan, mà ngài đã phủi tay một cách vô trách nhiệm. Loài người đã gọi vụ án này là vụ án bỉ ổi nhất của lịch sử ngành tư pháp. Tôi hận ngài lắm. Nhưng Thầy tôi đã phục sinh vinh quang rồi, nên tôi thôi giận. Tôi chỉ muốn trình bày tâm sự của mình, để cùng ngài nhìn lại khuôn mặt của Thầy tôi. Tâm tư của tôi diễn biến theo trình tự của tòa án do ngài chủ tọa.
1. Sáng thứ Sáu hôm ấy, Thầy tôi đứng trước cổng đồn Antonia, hai tay bị trói giật cánh khuỷu. Sau lưng Thầy tôi là một đoàn người đông như đoàn biểu tình. Có rất nhiều bậc vị vọng khăn áo xúng xính, râu ria sang trọng, dáng đi bệ vệ. Họ dẫn độ Thầy tôi đến đây và yêu cầu được gặp ngài. Ngài ra lệnh dẫn người đứng đầu vào trình diện. Họ từ chối, viện lý do tôn giáo: vào nhà người ngoại đạo, thì mắc uế. Ngài miễn cưỡng ra gặp họ.
Cầm lá đơn tố cáo trong ta, ngài đọc nhanh, có vẻ như không quan tâm. Nội dung như sau:
Giêsu Nadarét, miền Galilê
dám tự xưng mình là Con
Đức Chúa Giavê
Theo luật đạo của chúng tôi
thì đó là tội phạm thượng
Ai phạm thượng thì phải chịu
án tử hình.
Vậy xin Ngài Tổng trấn y án, để chúng tôi đóng đinh nó.
Ngài nhìn trân vào mặt Thầy tôi. Thầy tôi ngước mắt nhìn ngài. Ánh mắt của Người trong veo; không vương một chút hận thù; không gợi lên một tí sợ hãi. Bao dung vô cùng! Cao cả quá chừng!
Ngẫm nghĩ một hồi lâu, ngài dõng dạc tuyên bố với đoàn biểu tình:
- Đây là chuyện nội bộ tôn giáo, không liên quan đến chính trị.
Tôi không chấp đơn.
- Chúng tôi không có quyền thi hành án tử, nếu không được ngài y án. Vả lại tên Giêsu này đã phạm nhiều tội hình sự. Một: Hắn tập họp dân chúng bất hợp pháp, làm mất trật tự an ninh công cộng. Hai: Hắn xúi dân chống thuế nhà nước. Ba: Hắn tự xưng là vua nước Do Thái.
Ngài lắc đầu thất vọng, ra lệnh cho lính dẫn Thầy tôi vào tiền sảnh của hội trường.
2. Ngài mời Thầy tôi ngồi đối diện. Hai ánh mắt giao nhau. Thầy tôi nhìn ngài bằng ánh mắt thương cảm. Còn ngài thì nhìn Người bằng ánh mắt hấp háy, có vẻ trêu chọc.
- Này, tôi hỏi thật ông nhé: "Bộ ông là vua thật hả? Cái mặt nà mà làm hung làm dữ với ai được?"
- Vâng, tôi là vua thật. Nhưng nước của tôi không thuộc về trần thế như ngài nghĩ. Nếu nước tôi thuộc về trần thế, thì tôi phải có lính và lính của tôi sẽ chiến đấu không để người Do Thái bắt tôi và nộp cho ngài.
- Thế là thế nào?
- Tôi đến trong trần gian là để rao giảng chân lý. Ai yêu chân lý thì theo tôi.
- Chân lý là cái quái gì?!
Ngài cười hô hố để chế giễu Thầy tôi, rồi quay ngoắt một cái đi ra phía cổng đồn. Đoàn biểu tình nôn nóng chờ ngài lên tiếng.
- Tôi đã thẩm vấn và không thấy người này có tội gì đáng chết.
- Nó xưng vương, nó âm mưu lật đổ chính quyền, thì phải đóng đinh nó.
- Làm sao tôi dám cho đóng đinh vua của các ông?
- Chúng tôi chỉ có một vua là hoàng đế Rôma. Nếu ngài tha nó, thì chúng tôi sẽ tố cáo ngài với hoàng đế ở bên Rôma.
- Thôi được. Vậy thì thế này nhá: Hằng năm cứ vào dịp lễ Vượt Qua, thì chính quyền ân xá cho một tử tội. Năm nay tôi cho các ông chọn: một là tha Baraba, tên trộm cướp giết người nổi tiếng ở thủ đô; hai là ông Giêsu, người tự xưng là vua. Các ông muốn ân xá cho ai?
- Tha Baraba! Giết Giêsu!
Ngài thất vọng, thất thểu đi vào tiền sảnh. Ngài tính lầm. Ngài chưa hiểu nổi dã tâm của giới lãnh đạo Do Thái. Họ quyết tâm giết Thầy tôi để bảo vệ cơ chế. Cơ chế bảo vệ cái ghế và cái nồi của họ. Ghế thì cao ngất. Nồi thì to đùng. Cái tâm của ngài thì tốt, muốn cứu Thầy tôi. Nhưng kinh nghiệm của ngài thì vơi quá. Ngài đành chịu thua ván cờ đầu.
3. Ngài nhìn Thầy tôi bằng ánh mắt thương hại. Thầy tôi vô tư. Người ngước mắt nhìn lên như thấy ai đó ở trên cao. Ngài vỗ vai Thầy tôi:
Đồng bào ông đang tố ông ngoài kia. Ông có nghe không?
- (Thầy tôi im lặng như xuất thần).
- Ông trả lời đi. Ông phải biết rằng ông được tha hay bị giết là do tôi.
- Tôi biết. Nhưng quyền ấy phải từ Trời ban cho ngài. Tôi biết là tôi sẽ bị giết. Cả ngài và người Do Thái đều phải chịu tội giết oan người lương thiện. Chỉ có điều là người Do Thái thì nặng tội hơn ngài.
Giọng nói của Thầy tôi vừa từ tốn, vừa trịnh trọng. Ngài cúi đầu suy nghĩ.
Bỗng có nàng hầu của phu nhân xuất hiện. Nàng cúi đầu thỏ thẻ.
- Bà bảo con thưa với ông là đừng nhúng tay vào vụ án người thánh thiện này. Đêm rồi bà có một giấc mộng khủng khiếp về ông ấy. Bây giờ bà vẫn chưa hoàn hồn đâu.
- Ai vào chăm sóc bà. Để tao tính.
Ngài bối rối vô cùng. Tiến thoái lưỡng nan. Tha Thầy tôi thì bọn Do Thái sẽ làm đơn thưa sang tận Rôma. Từ lưu đày cho đến mất đầu. Y án tử hình cho Thầy tôi, thì sẽ bị phu nhân đay nghiến. Từ chết đến chết...
Bỗng ngài vỗ đùi đánh đét một cái, khi thoáng đọc lại tờ cáo trạng "Giêsu Nadarét, miền Galilê".
Ngài là tổng trấn, đại diện cho hoàng để Rôma trên toàn tỉnh Syria. Nhưng ngài chỉ nắm toàn quyền về quân sự. Còn hành chính xứ Galilê thì ngài trao cho vua Hêrôđê. Ngài hí hửng quay sang hỏi Thầy tôi.
- Ông là người xứ Galilê?
- Vâng.
- Ồ, vậy thì hay quá. Tôi cho lính dẫn độ ông sang bên vua Hêrôđê. Ngài cũng đang có mặt tại thủ đô trong dịp lễ này. Cầu mong cho ông được may mắn.
Ngài chạy ra cổng, nói oang oang: "Các ông qua bên dinh vua Hêrôđê mà tố ông Giêsu. Ông Giêsu là người Galilê, thuộc thẩm quyền của vua Hêrôđê. Tôi không liên can.
Vừa nói xong, ngài chạy vội về phòng phu nhân cũng lại nói oang oang:
"Em ơi! Êm rồi. Anh cho lính dẫn độ "người thánh" của em sang toà vua Hêrôđê rồi. Giấc mơ hãi hùng của em đã kết thúc. Vui vẻ đi. Đừng buồn nữa."
4. Đọc Văn thư "chuyển tòa" của ngài, vua Hêrôđê sáng mắt lên. Chưa bao giờ ông ấy được ngài tôn trọng như thế. Đàng khác, ông ấy cũng muốn được gặp Thầy tôi một lần, để hiểu thế nào là thần tượng của bà Gioanna, phu nhân của viên quản lý của triều đình.
Ông xum xoe hỏi Thầy tôi về đủ chuyện: từ chuyện giáo lý đến chuyện phép lạ; từ chuyện tòa án Caipha đến chuyện tòa án của ngài. Nhưng tôi lấy làm lạ vô cùng. Thầy tôi cứ im lặng như thóc trong bồ, không trả lời một câu. Không biểu lộ một thái độ. Cứ đứng ngay đơ như cái cột. Như điếc. Như câm.
Vua Hêrôđê đập bàn, hét to: "Thằng khùng. Dẫn nó về cho tổng trấn."
Thấy Thầy tôi trở lại, ngài trợn mắt nhìn. Nghe báo cáo xong, ngài sụ mặt xuống, vò đầu, cấu tóc... Ngài vắt tay sau lưng. Đi tới đi lui. Không thèm nhìn mặt Thầy tôi. Coi Thầy tôi như của nợ...
Bỗng ngài dừng lại, lấy tay vỗ trán mấy cái, rồi ra cổng đồn gặp đám biểu tình đang ngồi buồn thỉu, buồn thiu. Ngài dõng dạt tuyên bố: "Tôi sẽ cho đánh đòn vua các ông. Đánh cho nát thây luôn." Đoàn biểu tình vỗ tay.
Ngài ra lệnh cho lính: "Cho tụi bay đày đoạn hắn tối đa cho tới khi có lệnh ngưng."
Bọn lính viễn chinh bắt đầu diễn tuồng. Chúng cho Thầy tôi đóng vai vua: đội triều thiên bằng vòng gai, mặc áo cẩm bào bằng vải đỏ dơ dáy bẩn thỉu, cầm phủ việt là cây sậy, ngồi trên ngai là bậc thềm. Bọn chúng làm thần dân quỳ xuống, vừa cúi lạy, vừa cười hô hố: "Tâu vua Do Thái." Bọn lính cười hô hố. Bọn Do Thái vỗ tay. Ngài cười tủm tỉm tỏ vẻ hài lòng. Thầy tôi nhìn bọn lính bằng ánh mắt bao dung, không buồn, không giận, nhưng thương xót. Bỗng ngài cười và la lên: "Tấn."
Bọn lính tràn vào như bầy sói giành nhau cắn con trừu. Chúng lột áo Thầy tôi. Trần trụi. Chỉ còn một tấm xà rông che thân. Chúng trói Thầy tôi vào cột đá. Lấy roi da quất vào lưng. Quất mãi. Quất mãi. Thịt rách tơi tả. Máu tuôn xối xả. Thầy tôi nhắm mắt, mím môi, nghiến răng, gồng cơ bắp. Nhưng vẫn im thin thít. Không rên. Không nguyền rủa. Dường như Người có khẽ kêu một lần: "Cha ơi!"
Ngài ra lệnh cởi trói cho Thầy tôi, dẫn Người ra cổng đồn và nói với đoàn biểu tình bằng giọng mỉa mai và hờn dỗi: "Này là Người." Ngài tưởng rằng bọn biểu tình thấy Thầy tôi không còn hình dạng con người, mà chỉ là đống thịt đẫm máu, thì sẽ nguôi giận và đồng ý cho ngài thả Thầy tôi. Ai ngờ.... Họ lại la lên:
- Đóng đinh nó! Đóng đinh nó!
Ván cờ này là ván cờ thứ ba. Ngài lại thua nữa. Thua ba-không. Ngài hờn dỗi tuyên bố:
- Các ông đóng đinh ông ấy, thì các ông chịu tội nhá.
- Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Ông không phải lo.
Ngài lấy nước rửa tay, tuyên bố tỉnh bơ: "Tôi vô tội trọng vụ đổ máu người hiền lương này." Nói xong ngài quay lưng, sải bước về phía phòng phu nhân. Còn Thầy tôi thì bị bọn biểu tình lôi đi...
Tôi thương Thầy tôi quá chừng. Nhưng tôi chẳng biết làm gì. Chỉ biết ôm mặt khóc. Khóc nức nở. Khóc thương Thầy và khóc thương ngài, một người có thiện chí. Nhưng thiện chí nhỏ quá không đủ sức để đương đầu với quyền và lợi.
Ngài tổng trấn ơi! Tôi vẫn thương ngài, vì Thầy tôi không hề tỏ dấu hiệu nào ghét bỏ ngài. Tôi chờ mong rằng ngài cùng tôi hãy cùng nhau đạp chân lên quyền và lợi để đến với Chân lý. Chân lý sẽ giải phóng chúng ta, chứ không phải là "cái quái gì" như ngài đã chế giễu Thầy tôi.
Tôi kính cẩn chào ngài, vì ngài là vị lãnh đạo cao cấp nhất của Do Thái giáo. Ngài được mọi người PiôHậu 85
Tôi kính cẩn chào ngài, vì ngài là vị lãnh đạo cao cấp nhất của Do Thái giáo. Ngài được mọi người Do Thái coi như là vị đại diện của Giavê. Miệng ngài phán ra lời nào, thì mọi tín đồ phải cúi đầu vâng phục...
Nhưng sau khi đọc và nghiền ngẫm kỹ bốn cuốn Tin Mừng, tôi phải rút lại mọi sự kính trọng đối với ngài. Chắc là ngài phải bứt tóc, giật râu, nổi cơn thình nộ và ra vạ tuyệt thông cho tôi. Đành chịu vậy, vì tôi không thể làm khác được.
Đây là bức chân dung của ngài mà tôi đã tìm được trong bốn cuốn Tin Mừng.
1. Vầng trán của ngài vừa cao vừa rộng, chứng tỏ ngài rất thông minh. Quả vậy:
Sau khi cho Ladarô phục sinh từ cõi chết, uy tín của Thầy tôi lên đến tận trời xanh. Quần chúng từ trí thức đến bình dân đều bỏ ngài mà theo Thầy của tôi. Ngài thất thế hoàn toàn. Thế mà ngài đã lật được thế cờ 180 độ. Ngài chỉ cần nói có một câu thôi: "Nếu các người cứ theo ông Giêsu, thì quân đội La Mã sẽ đến phá hủy cả đền thờ lẫn dân tộc... Các người không hiểu gì cả, các người cũng chẳng nghĩ đến điều lợi hại này là: thà để một người chết thay cho dân, còn hơn là để toàn dân bị tiêu diệt".
Không một người Do Thái nào có đủ can đảm để nhìn thấy đền thờ và dân tộc bị hủy diệt. Họ tin và yêu Thầy của tôi lắm, nhưng đành quay mặt đi, không dám theo Thầy tôi nữa. Ngài thắng lớn, thắng tuyệt đối.
Thầy tôi bị lôi ra tòa. Ngài ngồi ghế chánh án. Ngài nắm chắc trong tay án tử hình cho Thầy của tôi. Ngài tố Thầy của tôi về tội cố ý phá đền thờ. Nhưng ngài bị hớ, vì hai chứng nhân khai không đồng nhất. Người thứ nhất khai rằng: "Tên Giêsu này tuyên bố hắn sẽ phá đề thờ và sẽ xây lại trong ba ngày". Người thứ hai khai rằng: "Tên Giêsu này tuyên bố: "Các ông cứ phá đề thờ này đi, tôi sẽ xây lại trong ba ngày"."
Hai chứng nghịch nhau ở chỗ "Tôi phá" và "Các ông cứ phá". Thế là ngài thua. Nhưng ngài lại lật thế cờ. Ngài chất vấn Thầy tôi: "Tôi nhân danh Thiên Chúa để hỏi ông: "Ông có phải là Con Thiên Chúa không?" Thầy tôi trả lời ngay: "Đúng. Tôi là Con Thiên Chúa."
Thầy tôi tuyên bố như thế trước mặt công nghị đông nghịt hội trường. Thế là ngài không cần hai chứng nhân nữa. Ngài tuyên bố ngay: "Phạm thượng! Tử hình!". Ngài lại thắng, thắng quyết định.
Tổng trấn Philatô muốn tha bổng Thầy của tôi, nhưng lại sợ ngài, vì ngài dọa tố cáo ông ta về tội đồng lõa với tên phản bội, tự xưng là Vua Do Thái. Ông ta càng sợ hơn nữa, vì bà vợ khuyến cáo ông ta không được nhúng tay vào vụ giết Thầy tôi là người vô tội.
Ngài khôn lắm. Ngài hứa với Philatô rằng:
"Máu nó đổ lên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi; chúng tôi chịu". Y như vớ được phao bảo hộ, Philatô bèn rửa tay tuyên bố: "Tôi vô tội trong vụ đổ máu người này."
Thế là ông lại thắng. Thắng đậm.
Thầy tôi bị giết oan. Còn ông thì sướng quá. Sướng hơn trúng số độc đắc.
2. Cặp mắt của ngài thì ti hí. Tròng trắng thì trắng dã. Tròng đen thì hấp háy.
Ca dao Việt Nam chúng tôi dạy rằng:
"Những người ti hí mắt lươn;
Trai thì trộm cướp; gái buôn chồng người."
Theo kinh nghiệm của tôi thì, mắt trắng dã là mắt của người tàn ác; mắt hấp háy là mắt của người xảo quyệt và gian tham.
Như vậy ngài là mẫu người vừa gian tham, vừa gian ác. Bốn cuốn Tin Mừng đã minh chứng điều đó.
Thầy Giêsu của tôi rất hiền từ, rất bao dung. Ký giả Matthêu đã ví von rằng: "Cây sậy dập, ngài không nỡ bẻ bỏ; tim đèn bốc khói, ngài không nỡ giập đi." Thế mà hôm ấy Người đánh đuổi bò và chiên của lái buôn, xô đổ bàn ghế của người đổi tiền, đá bay lồng chim câu và tuyên bố gay gắt: "Không được biến nhà Cha Ta, nơi cầu nguyện, thành sào huyệt của bọn trộm cướp." Tại sao vậy?
Thầy của tôi không nhắm thương buôn, mà nhắm các ngài. Các ngài đã thương mại hóa đền thờ của Chúa. Các ngài đã biến Giavê thành phương tiện kinh doanh. Tội ấy là tội bán Trời, dân gian Việt Nam tôi bảo thế. Mà tội bán Trời thì to tày Trời.
Ngài hãnh diện vì đã kêu án tử cho Thầy của tôi theo đúng Luật Môsê. Nhưng thật ra thì ngài đã kêu án tử hình vắng mặt cho Thầy tôi cùng với Ladarô từ mấy ngày trước đó. Tòa án xử Thầy tôi vào đêm thứ năm ấy chỉ là một vở tuồng trơ trẽn, bất chấp luật của Môsê. Thầy tôi bị kết án tử hình trước khi ra tòa. Ôi, một trò đùa của tư pháp ghê tởm! Ôi luật rừng đáng nguyền rủa!
Ngài ngồi ghế chánh án. Ngài chất vấn Thầy tôi về giáo lý và môn đệ. Thầy tôi trả lời đúng luật rằng: "Tôi không giảng lén lút. Tôi giảng công khai trong đền thờ và các hội đường. Xin ngài đừng hỏi tôi. Xin hãy hỏi những thính giả đã nghe tôi giảng". Thầy tôi nói đúng, vì lời của Người khai ra cũng phải có hai người làm chứng theo luật dạy. Vậy mà ngài để cho đệ tử của ngài tát vào mặt Thầy của tôi. Tát bị cáo ngay trước tòa như thế, thì còn gì là luật pháp. Vậy mà ngài làm thinh.
Sau khi bãi tòa, ngài đi ngủ, để cho bọn lâu la của ngài dày vò Thầy của tôi y như mèo cồ vờn chuột lắt. Chúng nó nhổ nước miếng vào mặt Thầy của tôi. Chúng nó bịt mắt Người, rồi vả mặt và còn đùa giỡn: "Hãy doán mò xem ai đã đánh mi đấy". Hỏi rằng trên đời này có ngành tư pháp nào tồi tệ như thế không? Ngài chẳng thèm biết. Mà nếu ngài biết, thì ngài mừng thầm trong bụng. Ôi, lương tâm của một nhà lãnh đạo tinh thần!
Khi ngài dẫn độ Thầy của tôi ra tòa án chánh trị, ngài giấu nhẹm tội "phạm thượng" theo luật đạo. Ngài chụp mũ cho Thầy tôi ba tội chánh trị: phá rối trật tự an ninh công cộng; xúi dân không nộp thuế cho nhà nước; tự xưng vương và âm mưu lật đổ chánh quyền.
Ngài biết trước rồi: nếu tố Thầy tôi về tội tôn giáo, thì tổng trấn Philatô sẽ cho là chuyện nội bộ tôn giáo. Ông sẽ không xét xử và không duyệt "y án", chính vì vậy mà ngài phải dối trá. Tôi không ngờ rằng cái lưỡi thượng tế của ngài lại không có xương và lại có nhiều đường lắt léo đến thế.
Ngài lấy tiền đền thờ để mua chuộc Giuđa phản Thầy. Giuđa bán tội để có tiền. Còn ngài dùng tiền để mua tội. Ngài và Giuđa cùng đểu giả như nhau.
Giuđa hối hận trả 30 đồng tiền dơ bẩn cho ngài. Ngài không bỏ tiền ấy và quỹ đền thờ. Ngài bảo tiền ấy là tiền máu. Ngài trích quỹ đền thờ lấy 30 đồng để mua máu. Bây giờ ngài lại chê nó là tiền máu không nên bỏ vào quỹ đền thờ. Lật lọng đến thế là cùng.
Ngài là thượng tế, là thầy tối cao của Do Thái giáo. Nhưng ngài là người dối trá cao cấp. Thầy Giêsu của tôi đã phục sinh, ngài biết và tin, nhưng ngài cố tình vùi dập chân lý. Ngài đã lấy nhiều tiền từ quỹ đền thờ để bịt miệng bọn lính canh, bắt chúng phải khai là xác của Thầy tôi bị đánh cắp. Ngài cũng đã quyết định dùng một số tiền lớn hơn gấp bội để bịt miệng tổng trấn Philatô. Ôi! hèn ơi là hèn!
Kính thưa ngài Thượng Tế.
Những ân oán ngài đổ lên đầu Thầy của tôi, Người biết trước hết rồi. Đó là con đường khổ giá mà Người đã chọn như một quy luật muôn thuở. Quy luật ấy là "Từ khổ giá đến vinh quang"; "Từ thọ nạn đến phục sinh". Chúa Cha đã an bài như thế. Thầy của tôi chỉ ước mong "ý Cha thể hiện."
Những âm mưu đen tối của ngài, Thầy của tôi cũng đã nắm gọn trong bàn tay. Người không trốn chạy, Người không chống đối. Người như con trừu lặng lẽ đi vào lò sát sinh. Người là alpha. Người là ômêga. Người biết sau lò sát sinh sẽ là gì rồi.
Thấy Thầy tôi lặng lẽ, tôi không không kể tội của ngài nữa. Tôi chỉ xin ngài nhìn lại hình của Thầy của tôi đang quằn quại trên khổ giá. Tôi chỉ xin ngài lắng nghe lời đầu tiên Thầy của tôi thốt ra khi Người sắp tắt thở:
"Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm".
Hôm ấy chị gia nhập đoàn truyền giáo của Thầy. Sự hiện diện của Chị làm bùng vỡ dư luận ở PiôHậu 86
Hôm ấy chị gia nhập đoàn truyền giáo của Thầy. Sự hiện diện của Chị làm bùng vỡ dư luận ở thị trấn Caphácnaum. Đàn ông thì tấm tắc khen ngợi. Đàn bà thì xáo xác truy tìm lý lịch. Còn tôi thì lẳng lặng lắng nghe. Tôi đi tìm những người đàn ông từng trải nhất và những người đàn bà vô tư nhất để hỏi. Họ cho biết chị là phu nhân của ngài Khugia, quản lý của vua Hêrôđê. Nghe tin ấy, tôi ngẩn người ra. Bỡ ngỡ quá chừng!
Tôi ngỏ bày hết tâm tư của mình cho Thầy, mong Thầy cho tôi biết thật nhiều về Chị. Thầy chỉ mỉm cười, vỗ nhẹ lên vai tôi, rồi nhỏ nhẹ tâm tình: “Một ơn gọi đặc biệt. Một ơn gọi hiếm hoi”. Thầy chỉ nói có thế, rồi bỏ đi. Thầy có trăm việc để làm. Tôi chỉ tiếc, mà không dám buồn. Tiếc hùi hụi! Tiếc mãi!
Từ hôm ấy, tôi theo dõi Chị, ngẫm nghĩ về Chị, để tìm ra cái đặc biệt và cái hiếm hoi của một ơn gọi.
1. Chị Mácđala có rất nhiều nhận xét về Chị. Dáng vóc thướt tha, nụ cười thân thiện. Ánh mắt hớp hồn. Giọng nói truyền cảm. Chị có sức chinh phục người quyền quý. Chị có khả năng bao bọc và vỗ về người cô đơn. Chị là người thượng vàng, hạ cám: ngước nhìn lên để chinh phục; cúi mình xuống để cứu vớt. Không ai nỡ tâm ghét Chị. Không ai cả dám coi thường Chị. Chị là mẫu người mà Mácđala phải chắp tay, cúi đầu, tuyên bố lẹ một câu: “Tuyệt vời!”.
Tôi đem chuyện này khoe với Thầy, để xin Thầy cho Mácđala một lời khen. Thầy không tỏ vẻ chuẩn thuận, cũng không tỏ vẻ chống đối. Thầy chỉ mỉm cười và thì thầm: “Biết bao nhiêu nỗi đau được xoa dịu! Biết bao nhiêu giọt lệ được lau khô!” Thầy ngước mắt nhìn trời. Chớp chớp. Cảm động…
2. Hai anh lính cận vệ đang ngồi gác chân chữ ngũ, bàn chuyện “thiên hạ sự”. Nét mặt đăm chiêu, giọng nói trang trọng. Dường như họ bàn chuyện của thượng cấp. Tôi chạy tới, nâng bầu rượu lên, mỉm cười với họ. Họ mỉm cười thân thiện với tôi, ngồi xích sang hai bên, nhường cho tôi một khoảng trống ở giữa. Tôi vặn nút bầu, vứt đi. Ba ánh mắt chạm nhau.
Rượu vào thì lời ra. Tình nghĩa chan hòa. Chưa quen đã thân. Chưa thân đã thương. Rượu dẫn ý và lời lên đỉnh cao của công tác kiểm tra.
Chị Gioanna quý mến.
Từ trên đỉnh cao ấy tôi thấy tất cả tâm và tư của triều đình vua Hêrôđê.
Vua Hêrôđê nhớ hết mọi lời Thầy giảng. Bao nhiêu người mù thấy đường, bao nhiêu người què nhảy như nai, bao nhiêu người câm nói chuyện như ngô rang… ông đều ghi khắc trong lòng. Ông mơ ước một ngày nào đó, đích thân ông được gặp Thầy, được ngỏ bày tâm sự với Thầy.
Bá quan văn võ, các bà mệnh phụ đều rối rít rủ nhau đi nghe Thầy giảng và coi Thầy làm phép lạ.
Cứ mỗi lần Chị đi truyền giáo về, thì triều đình lại rộn lên niềm vui. Vua quên việc triều chính, lính quên việc canh gác. Người ta thì đua nhau hỏi. Chị thì gồng mình lên để trả lời. Giọng nói của Chị, ánh mắt của Chị, nhan sắc của Chị... Cái gì cũng có sức thuyết phục.
Cứ mỗi lần Chị khăn gói lên đường truyền giáo, thì cả triều đình lại thở dài nuối tiếc. Vua Hêrôđê tiễn chân Chị bằng một cái nhìn nuối tiếc. Phu quân của Chị thì bất bình ra mặt. Nhưng Chị chỉ nhìn đáp lễ một cái là ông giơ tay đầu hàng ngay. Thua để thắng. Thua là thắng. Ông nghĩ vậy.
Chị Gioanna ơi!
Tôi đem chuyện “rượu tình” kể cho Thầy nghe, mong Thầy cho Chị một lời khen. Tôi ngước mắt nhìn mặt Thầy và chờ. Chờ mãi chả thấy Thầy khen. Thầy ngước mắt nhìn trời, ngẫm nghĩ một lát, rồi thì thào: “Một đặc sủng của Thần Khí. Hãy cầu nguyện để có nhiều đặc sủng”. Tôi hơi thất vọng. Nhưng không dám giận Thầy. Thầy lớn quá! Cao cả quá! Đành ghi khắc trong lòng để ngẫm nghĩ.
3. Tôi gặp lại hai anh lính cận vệ. Lại ngồi giữa hai anh với hai bầu rượu đầy ắp. Lại rượu vào lời ra. Lại tình nghĩa chan hòa. Họ lại kể chuyện cung đình.
Vua Hêrôđê muốn gặp Thầy Giêsu mà không được. Ông nôn nóng để thấy tận mắt “ngôi sao sáng” của làng quê Nadarét. Ông muốn đích thân phỏng vấn để xem tại sao “ngôi sao sáng” ấy lại xuất hiện trên bầu trời Nadarét… Ông tự đặt câu hỏi:
- Lịch sử có sai lầm không nhỉ? Từ ngày vua Đavít vứt dép để chiếm ngọn đồi Xion cho tới nay, chưa có một vị sứ ngôn nào xuất thân từ Galilê, huống hồ là Nadarét. Nhưng ông Giêsu vĩ đại này lại đích thực là người Nadarét. Chuyện kỳ cục có thật.
- Phải chăng ông Giêsu này là một ngôn sứ đã về sum họp với tiên tổ, nay lại tiếc nuối để trở về với cõi hồng trần. Có thể là thế. Nhưng tại sao lại là thế? Bế tắc!
- Rất có thể đây chỉ là Gioan Tẩy Giả tái giáng. Phải là Gioan mới làm được những việc vĩ đại như thế. Nhưng rõ ràng là mình đã chặt đầu Gioan rồi kia mà. Lại bế tắc.
Chị Gioanna ơi!
Cái đầu của ông Hêrôđê đang rối nùi lên như thế. Chị ở đâu mà không giải thích cho ông ấy? Cái giọng nói ngọt ngào của Chị, cái ánh mắt trìu mến của Chị … Chị để ở đâu mà không lấy ra để thuyết phục?
Tôi thắc mắc như thế với hai anh cận vệ, thì họ bảo rằng: “Đã lâu lắm rồi không thấy bà ấy về”. Thì ra thế. Cỏ lùng đang được gieo vào ruộng lúa mì đấy Chị ạ. Cảnh giác nhá!
4. Đã lâu lắm rồi, tôi không muốn nghĩ về Chị nữa. Tôi buồn. Tôi giận Chị.
Sau khi Thầy thọ nạn, phục sinh và thăng thiên tôi lại muốn nói chuyện với Chị, để tháo gỡ một thắc mắc, mà chỉ một mình Chị làm được thôi.
Trong khi vua Hêrôđê có thiện cảm với Thầy và ao ước được gặp Thầy, thì Thầy cứ… coi như không. Thậm chí có một lần Thầy còn gọi ông ta là “Con cáo già”. Tại sao vậy?
Khi Philatô cho dẫn độ Thầy qua tòa án của Hêrôđê, thì ông ta mừng quá. Nhưng lại mừng hụt, vì Thầy không thèm nói một lời nào với ông ấy. Ông ta chất vấn, Thầy ngậm miệng, y như không nghe không thấy, khiến ông ấy giận dữ gọi Thầy là “Thằng khùng”. Rồi ông ấy cho dẫn độ Thầy trả lại cho Philatô. Tại sao Thầy có thái độ đó. Chị ơi?
Chị Gioanna quý mến.
Tôi ngẫm nghĩ mãi về điều ấy. Nghĩ mãi mà chẳng nghĩ ra. Tôi hỏi thật Chị nha: “Chị có hiểu ý của Thầy không?”. Chị im lặng, cúi đầu. Tôi đành chịu thua. Liệu thời gian có trả lời không? Chị lại im lặng, lại cúi đầu.
Chào Chị. Tôi chưa buông tha Chị đâu. Chị đừng yêu Thầy một mình như thế nhá.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đang làm Tiểu Vương xứ Iturê, thì bất ngờ cuốn gói ra đi. Đi đâu? Không ai biết. Người ta PiôHậu 87
Anh đang làm Tiểu Vương xứ Iturê, thì bất ngờ cuốn gói ra đi. Đi đâu? Không ai biết. Người ta hỏi tôi, thì tôi không mở miệng nói một lời. Tôi không muốn nói về Anh. Tôi chỉ muốn nghe về Anh. Nghe thật nhiều rồi nghĩ. Nghĩ một mình. Nghĩ mãi.
Tôi đi từ Bắc chí Nam, từ nông thôn đến thành thị. Tôi lắng nghe lời bình luận của những cụ già đức độ và đầy kinh nghiệm. Tôi ghi nhận những thông tin dài vô tận của những người đàn bà ủng hộ quá khích quyền tự do ngôn luận. Tôi phỏng vấn thượng tế Caipha. Tôi thăm dò ý kiến của tổng trấn Philatô. Tôi ngồi tâm sự với ngài Hêrôđê Antipát và cô em Hêrôđia của Anh.
Sau khi nghe thật nhiều và nghĩ thật lâu về Anh, bây giờ tôi mới dám nói với Anh và nói về Anh. Xin anh bình tĩnh và lẳng lặng lắng nghe.
1. Nói về anh
Bố Anh là vua Hêrôđê Cả được Hoàng đế La Mã cho nắm quyền hành chính trên toàn xứ Paléttin. Là một ông vua của một nước thuộc địa, thì bấy nhiêu quyền hành đã là một ân huệ lớn lao rồi. Buồn tủi, nhưng vẫn phải cắn răng mà chịu.
Bố Anh có bao nhiêu vợ và bao nhiêu con, thì tôi không biết. Nhưng người ta chỉ nhắc đến ba người: Anh là con cả; Hêrôđê Antipát là con thứ; cô Hêrôđia là con út. Có người bảo Anh là con thứ. Tôi không tin. Ba anh em có chung một cha, nhưng được sinh ra bởi ba bà mẹ khác nhau. Con của bà nào, thì bà ấy biết. Con của bố nào, thì chỉ bà mẹ mới biết. Bởi thế tình huynh đệ lạt như nước ốc.
Ba anh em lớn lên trong ba dinh thự khác nhau. Tôi chờ Anh làm rể cho một gia đình quyền quý, thì bỗng dưng Anh lại làm rể cho bố Anh và cô em Hêrôđia lại trở thành cô dâu của bố. Tôi không thắc mắc về mối tình tròng tréo này. Luật cho phép được kết hôn với người anh chị em con cùng cha khác mẹ. Điều tôi thắc mắc chính là Anh đang giương đông, thì bỗng kích tây: Đang yêu người dưng, thì bỗng dưng lại lấy cô em ruột. Bây giờ thì tôi hiểu rồi. Hêrôđia vừa đẹp, vừa chảnh. Hắn chủ động chinh phục Anh, để giành cái thế của người thừa kế ngai vàng.
Bố anh qua đời rồi, thì Anh không được hưởng quyền thừa kế. Hoàng đế La Mã ưu đãi người em hoạt đầu của Anh là Hêrôđê Antipát. Ông ta được nắm quyền hành chính trên hai tỉnh trù phú là Galilê và Pêrê. Còn Anh thì chỉ được cái “đầu thừa đuôi thẹo” là xứ Iturê, vừa thưa dân, vừa nghèo nàn.
Buồn tủi quá, Anh sang thủ đô Rôma để khiếu nại. Thất bại, Anh ở lại bên ấy. Chẳng biết là Anh chưa về, hay là Anh không dám về.
Thấy Anh không về, vợ Anh mừng quá, vội vã ôm đồ đi theo ông anh Hêrôđê Antipát, một người khôn khéo, biết “nịnh trên đá dưới”, biết “cố đấm ăn xôi”, mà xôi thì vừa dẻo vừa thơm. Thế là cô vợ Hêrôđia nay đã trở thành cô em dâu của Anh. Xalômê đứa con gái rượu của Anh từ nay không còn gọi Anh là bố nữa. Nó tùy hứng gọi Anh là bác, hoặc là cậu. Gia phong chỉ còn là trò tung hứng. Gia đình chỉ còn là “tình tang, tính tình”…
2. Nói với anh
Hêrôđê Antipát đã cướp vợ của Anh. Huynh đệ tương tàn! Hêrôđia phản bội Anh: đánh chết tình anh em; chém chết tình vợ chồng, tội lỗi mênh mông… mênh mông!
Tội lỗi của đôi vợ chồng ngoại tình này khiến toàn dân bất bình. Nhưng không ai dám chỉ trích. Thượng tế làm thinh. Công nghị làm ngơ. Nỗi sợ bao trùm. Sợ “vạ mồm”.
Giữa một rừng người sợ run như cầy sấy, giữa một biển người câm như hến, thì có một người không biết sợ là Gioan Tẩy Giả. Ông vào trong triều đình, chỉ thẳng vào mặt ông vua, tuyên bố như sấm như sét: “Ông không được phép cướp vợ của người anh của ông như thế”. Hêrôđê giận tím mặt. Nhưng lại sợ tái mặt. Âu cũng chỉ vì uy tín của Gioan Tẩy Giả lớn quá. Toàn dân kính trọng ông và yêu quý ông như một ngôn sứ. Đành “hoãn binh chi kế”.
Hêrôđê sợ vợ hơn sợ dân, nên đã miễn cưỡng tống Gioan vào nhà tù. Còn Hêrôđia thì quyết tâm lấy đầu của Gioan để trừ hậu họa. Nhưng hiện tại chưa cho phép. Nàng đành nhẫn nại chờ thời cơ. Và … thời cơ ấy đã đến.
Hêrôđê mừng sinh nhật. Bá quan văn võ, thân hào nhân sĩ, người Rôma, người Do Thái… trùng trùng điệp điệp. Văn công cung đình, nghệ sĩ thượng thặng đua nhau trổ tài. Khi khách tiệc đã ngà ngà say, khi ca-vũ-nhạc-kịch đã bắt đầu xuống triền dốc bên kia, thì Hêrôđia tung lên sân khấu ngôi sao rực sáng là Xalômê. Màn múa điêu luyện làm say mê hàng ngàn thực khách. Hàng ngàn cái miệng quên nhai. Hàng ngàn cặp mắt quên chớp. Hàng ngàn quả tim muốn ngưng đập. Hêrôđê nổi hứng lên, gọi Xalômê tới, lớn tiếng tuyên bố cho cả hội trường cùng nghe: “Con muốn cha thưởng cái gì, thì cha cũng cho. Con xin một nửa nước, cha cũng cho”. Cả hội trường nín thở để nghe nguyện vọng của Xalômê. Được mẹ mớm ý, con bé nâng cái mâm ngang mày, ỏn ẻn thân thưa: “Xin bố thưởng cho con cái thủ cấp của Gioan Tẩy Giả, đặt trên cái mâm này”.
Cả hội trường im phăng phắc, hối tiếc vì một sự đã rồi. Chỉ có một người sung sướng quá chừng. Đó là Hêrôđia, người vợ phản bội của Anh.
Gioan Tẩy Giả, một sứ ngôn cao cả đã chết như thế đó. Oan khiên quá chừng! Nhục nhã vô cùng! Ở trên đời này chưa có một người đàn ông nào phải chết nhục như thế. Chết oan do âm mưu của một người đàn bà tinh quái. Cái đầu đã bị chém lén trong tù, lại còn bị đặt trên mâm mà dâng cho con mẹ đàn bà trắc nết. Nó vày vò cái đầu y như con mèo o con chuột. Nó lấy kìm kéo lưỡi ra mà đâm cho nát… Ôi công lý của loài người! Ôi trò đùa của lịch sử! Lịch sử của loài người ơi, hãy gục đầu xuống mà khóc, hãy sấp mình xuống mà nhận tội! Tội bất công hôm qua, tội bất công hôm nay, tội bất công ngày mai. Trùng trùng, điệp điệp!
Anh Philíp ơi!
Gia đình không còn thân thương của Anh là thế. Quê hương không còn yêu dấu của Anh là vậy. Ở bên ấy, Anh có biết không?
Gioan Tẩy Giả, một sứ ngôn cao cả đã đi vào dĩ vãng. Nỗi oan khiên và ô nhục của ông, không còn ai nhớ nữa. Trên quê hương thống khổ của chúng ta, lại xuất hiện một ngôn sứ mới. Đó là Đức Giêsu người làng Nadarét. Ngài rảo khắp đất nước. Ngài đi, đi mãi. Đi từ Bắc chí Nam. Đi từ thành thị đến nông thôn. Đi từ bên này sang bên kia sông Giođan. Ngài rao giảng một thứ giáo lý mới, mà Ngài gọi là Tin Mừng.
Tin Mừng của Ngài chỉ là TÌNH YÊU.
Tình yêu giữa trời và đất. Đất trời xa vời vợi bây giờ chỉ còn là gang tấc. Trời là cha, ta là con.
Tình yêu giữa người với người. Yêu người, vì người là anh em. Yêu người, vì người là con của Trời. Yêu Trời, thì phải yêu người. Yêu người thì đã là yêu Trời.
Trên bản đồ địa lý, thì có đường ranh. Trên bản đồ nhân sinh, thì đường ranh là kẻ thù.
Quần chúng đi theo Ngài nườm nượp: từ anh thu thuế đến chị “bán hoa”; từ ông hành khất đến bà tàn tật… Họ theo Ngài, vì Ngài là TÌNH YÊU. Tình yêu trong ánh mắt. Tình yêu trong giọng nói. Tình yêu sôi sục trong con tim. Tình yêu cuồn cuộn trong mạch máu. Tình yêu không biên giới. Tình yêu không đường phân ranh.
Thế rồi… một ngày thứ sáu nọ, Ngài bị đóng đinh trên khổ giá. Oan khiên vô cùng! Đau đớn đến tận cùng! Vậy mà vẫn cứ một niềm yêu thương, vẫn cứ một lòng tha thứ. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Ngài nói với Trời: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Ôi, tình yêu không biên giới! Ôi, bản đồ nhân sinh không có đường phân ranh!
Anh Philíp thân mến! Có lẽ Anh muốn hỏi tôi: “Bởi đâu nên nông nỗi ấy?” Để thay cho câu trả lời, tôi mời Anh lẳng lặng nghe tiếp.
Đức Giêsu được mai táng trong mộ đá vào lúc xế chiều thứ Sáu. Hừng đông Chúa nhật, thì ngôi mộ trống phộc. Hỏi tại sao mất xác, thì bọn lính canh trả lời: “Đệ tử Giêsu ăn trộm xác giấu đi”. Nhưng trong chỗ riêng tư, thì mọi anh lính gác đều thú thật với tôi rằng: “Ông Giêsu sống lại thật. Chúng tôi phải nói dối, vì đó là lệnh của thượng tế Caipha”. Rõ ràng là giới lãnh đạo cao cấp của đạo đã cố tình chống lại chân lý để bảo vệ cái ghế và cái nồi. Gian dối đã thua. Chân lý đã thắng.
Đức Giêsu đã chết và đã sống lại để cho ta thấy rằng không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người chết vì người yêu. Ngài cũng muốn lấy cái chết rồi sống lại ấy để dạy ta rằng hạt lúa mì phải chết đi mới mọc lên thành cây lúa mì, trổ sinh nhiều bông và hạt lúa mì.
Tin Mừng của Ngài đang bành trướng khắp xứ Paléttin. Thượng tế và Công nghị đàn áp nó. Vô ích! Ông em của Anh là Hêrôđê Antipát đã lấy đầu của Giacôbê, đã bỏ tù Phêrô… Nhưng vô hiệu. Tin Mừng cứ bùng lên như triều dâng. Tin Mừng cũng sẽ truyền sang Rôma. Nó sẽ bị đàn áp ở đấy. Anh sẽ thấy nó lại bùng vỡ như ở đây.
Tin Mừng là TÌNH YÊU. Tình yêu không biên giới. Tình yêu không có làn ranh. Tình yêu không bị đè dẹp. Đó là điều mà Đức Giêsu đã đem đến cho Anh. Xin Anh lắng nghe, xin Anh ngẫm nghĩ, để Anh vùng đứng lên giữa đống đổ nát của đời Anh. Thân mến trong Tin Mừng của Đức Giêsu Phục Sinh.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Hôm ấy, Thầy dẫn ba Cậu lên núi. Tớ nhìn theo, thèm quá ! Chờ mãi, chờ mỏi mệt, mới thấy Thầy PiôHậu 88
Hôm ấy, Thầy dẫn ba Cậu lên núi. Tớ nhìn theo, thèm quá ! Chờ mãi, chờ mỏi mệt, mới thấy Thầy trò đi xuống. Thầy thì trầm tư, y như mới xuất thần. Trò thì ra vẻ ta đây. Cặp mắt nào cũng hấp háy. Cặp môi nào cũng nhấp nháy. Tớ hỏi các Cậu, thì ba ngón trỏ gí vào ba cặp môi vêu ra. Ý các Cậu muốn nói rằng: “Bí mật tuyệt đối. Đừng xía vào”. Tức lắm, nhưng tớ đành chịu thua, chờ thời gian trả lời.
Chờ mãi, chờ cả năm dài, chờ cho tới khi Thầy trỗi dậy từ cõi chết. Bấy giờ chuyện bí mật mới được bật mí. Cả ba Cậu thi nhau kể. Anh nào cũng hãnh diện, vì được thấy Thầy rực sáng như mặt trời. Tớ lặng lẽ ghi nhận từng chi tiết. Tớ suy nghĩ thật lâu. Bây giờ tớ yêu cầu các Cậu im lặng để nghe tớ nói. Tớ nói về Thầy. Tớ nói về các Cậu.
1. Bốn Thầy trò leo núi. Đến điểm dừng chân, thì Thầy đi cầu nguyện, còn trò thì ngủ lăn lóc, nằm co quắp, ngáy khò khò. Thầy thì cao vời vợi, trò thì thấp lè tè. Lẽ ra các Cậu phải bám sát Thầy, để học hỏi, để lưu trữ tài liệu lưu truyền cho hậu thế. Tớ hỏi: Thầy cầu nguyện với từ thế nào, các cậu lắc đầu. Tớ hỏi: nội dung cầu nguyện của Thầy gồm những gì, các Cậu cúi gằm mặt xuống. Vô tư, vô tâm, vô tình đến thế là cùng. Ôi môn đệ ưu tú !
2. Các Cậu giật mình thức giấc, thì thấy Thầy đang rực rỡ như mặt trời. Từ sợi tóc đến chân mi, từ ánh mắt đến hàm răng, từ nước da đến màu áo … Cái gì cũng tỏa sáng. Cái gì cũng làm ngây ngất lòng người.
Môsê và Êlia đứng chầu hầu hai bên. Thầy thì ân cần và thân thương. Hai ông thì kính cẩn và thân mến. Ba ngài trao đổi về cuộc thọ nạn mà Thầy sắp kề vai gánh lấy vào tuần Vượt Qua sắp tới. Oan khiên và đau thương đến tận cùng! Các Cậu nghe câu được câu không, y như vịt nghe sấm. Chuyện thật mà các Cậu cứ tưởng là chuyện ví von. Chẳng biết buồn, chẳng biết lo … Hứng quá, Phêrô xin dựng ba lều, để Thầy và hai vị nghỉ lại ở đây. Niềm vui kéo dài. Vinh quang không kết thúc …
Ba Cậu thân mến.
Tớ nghe các Cậu kể chuyện mà lòng buồn tê tái. Chuyện thì to như núi, mà lòng trí các Cậu thì nhỏ tí ti. Ý nghĩa câu chuyện thì mênh mông như biển khơi, mà người kể chuyện, thì cứ tưởng nó chỉ to bằng cái hồ Galilê. Buồn ơi là buồn!
Tớ im lặng ngồi nghe các Cậu kể chuyện. Nghe xong, tớ ngẫm nghĩ. Nghĩ mãi. Nghĩ lâu lắm. Bây giờ thì tớ ngộ ra một vấn đề quá lớn. Các Cậu đừng bép xép nữa. Hãy im lặng ngồi mà nghe tớ nói.
Môsê và Êlia là hai nhân vật nổi bật của Cựu Ước, trải qua mười ba thế kỷ của lịch sử dân tộc ta. Môsê đồng hóa với Luật. Êlia đồng hóa với Sứ ngôn. Luật và Sứ ngôn là toàn bộ Cựu Ước. Cựu Ước là chân lý mà ông cha chúng ta lần mò đi theo trong một lịch sử dài mười ba thế kỷ. Môsê và Sứ ngôn là sư phụ tuyệt vời của dân tộc. Giavê dạy dân, nói với dân qua Môsê và các Sứ ngôn. Môsê và Êlia là hiện thân của chân lý. Hai nhân vật vĩ đại như thế đứng chầu hầu Thầy của chúng ta. Điều đó mang ý nghĩa gì ?
Tớ nói thật với các Cậu rằng: Tớ vẫn kính trọng Môsê và các Sứ ngôn, nhưng tớ vẫn thẳng thắn tuyên bố rằng: Môsê và các Sứ ngôn không đáng xách dép cho Thầy. Gioan Tẩy giả là sứ ngôn cao trọng nhất, vậy mà ông đã khẳng định: “Ngài đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dép cho Ngài”.
Chỉ có Thầy mới là “Thầy”. Chỉ có mạc khải trọn vẹn trong một mình Thầy mà thôi. Sự hiện diện của Môsê và Êlia bên cạnh Thầy đã nói lên điều đó. Thế mà các Cậu chả biết.
Cuộc thọ nạn của Thầy ở thủ đô là chuyện lớn. Các Sứ ngôn đã tiên báo rồi. Bây giờ đến lúc Thầy thực hiện. Đau lắm! Nhưng đó là định mệnh mà Chúa Cha đã an bài. Từ khổ giá đến vinh quang. Đó là con đường tất yếu của lịch sử cứu độ. Thầy cũng đã nói đến cuộc thọ nạn này nhiều lần rồi. Thầy bảo: Thầy sẽ bị bắt, bị đánh, bị đóng đinh, nhưng sẽ sống lại. Thành thật mà nói là các Cậu không hiểu, tớ cũng không hiểu. Nói đúng ra là chúng mình không muốn hiểu. Tụi mình theo Thầy không vì lý tưởng cao siêu, mà chỉ vì xôi thịt thôi. Phải chờ cho tới lúc Thầy trỗi dậy từ cõi chết, chúng mình mới hiểu.
Hôm ấy, từ trên núi đi xuống, các Cậu cứ tưng tửng ra vẻ ta đây. Điều đó chứng tỏ các Cậu chả hiểu tí gì về cuộc đàm đạo giữa Thầy và hai vị vĩ đại của Cựu Ước. Thấy và nghe mà như không. Đáng tiếc vô cùng!
3. Các Cậu đang hí hửng chứng kiến cảnh rực rỡ huy hoàng của Thầy, thì từ trời mây vang ra lời của Chúa Cha: “Đây là con ta yêu dấu, hãy nghe lời của Người”. Tưởng rằng nghe Chúa Cha phán về Thầy như thế, thì các Cậu phải nhảy cẫng lên vì sung sướng. Ai ngờ các Cậu lăn đùng ra, bất tỉnh nhân sự!
Chuyện lạ đời. Tớ lại phải suy nghĩ. Suy nghĩ đến quên cả không gian và thời gian. Bỗng trí khôn tớ bừng mở. Tớ thấy có một khoảng cách xa vời vợi giữa giáo huấn của Thầy với giáo huấn của Môsê và các Sứ ngôn. Khoảng cách đó là Tình yêu và Nỗi sợ. Suốt mười ba thế kỷ, ông cha chúng ta sợ Giavê như một quan tòa chí công. Họ gục mặt xuống để khỏi thấy thánh nhan Giavê. Họ bịt tai lại để khỏi nghe tiếng nói như sấm vang của Đấng Tối Cao. Khi Môsê leo núi Xinai để lãnh thập giá, ông cha chúng ta năn nỉ ông ấy, như van xin thần chết rằng:
“Giavê muốn dạy chúng tôi điều gì,
thì xin nói với ông,
rồi ông nói lại với chúng tôi.
Xin Ngài đừng nói trực tiếp với chúng tôi,
kẻo chúng tôi chết hết mất”.
Sợ Giavê, đó là tâm, đó là tư của ông cha chúng ta suốt mười ba thế kỷ. Sợ Giavê đã biến thành văn hóa. Nó thấm vào não, vào tim, vào dòng máu của mọi người. Chính vì thế, các Cậu đã lăn đùng ra mà chết giấc. Chết vì sợ. Sợ vì đã nghe Giavê phán trực tiếp, chứ không qua trung gian. Nếu Thầy không đến đánh thức các Cậu, khuyên các Cậu “đừng sợ”, thì tớ e rằng các Cậu đã chết thật rồi. Oan khiên vô cùng ! Ôi đường lối mục vụ của “Nỗi sợ”!
Sợ Giavê đã tan thành mây khói trong đường lối mục vụ của Thầy chúng ta. Các Cậu còn nhớ không? Hôm ấy bão tố nổi lên, nước tràn vào thuyền. Thầy thì ngủ khò. Chúng mình toàn là đàn ông, ít nhất năm đứa là dân chài, suốt đời chơi với biển khơi, thuộc lòng khí tượng trên hồ Galilê. Hôm ấy sợ là hợp tình là đúng lý, thế mà Thầy nặng lời với chúng mình: “Hỡi người hèn tin, tại sao sợ”. Điều đó chứng tỏ Thầy rất dị ứng với nỗi sợ.
Thầy mở một con đường mục vụ mới. Đó là Tình yêu. Con đường mới quá, ít ai hiểu. Tớ cũng chưa hiểu nổi. Nhưng xét về lâu về dài, thì tớ thấy Gioan là người duy nhất am tường, cảm nghiệm và sống với đường lối mục vụ Tình Yêu này đúng đắn nhất. Tớ không quên được hai lời phát biểu của Gioan. Thứ nhất: Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Thứ hai: Gioan khẳng định: “Tình yêu loại trừ nỗi sợ. Ai sợ là chưa có tình yêu hoàn hảo”. Hoan nghênh Gioan. Cám ơn Cậu vô vàn.
4. Bốn Thầy trò từ trên núi đi xuống. Thầy nghiêm nghị ra lệnh: “Không được cho ai biết những điều vừa thấy và vừa nghe, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Sau đó Thầy công khai nói về cuộc thọ nạn của Ngài.
Tớ thật sự bỡ ngỡ, vì các Cậu đã giữ được bí mật ấy cho tới khi Thầy sống lại. Bản chất của các Cậu là nông nổi và bép xép, không dễ gì giữ được điều quan trọng như thế. Tớ nghi ngờ là ánh mắt và giọng nói của Thầy đã bịt miệng được các Cậu. Chắc là vậy thôi.
Còn chuyện Thầy thọ nạn và phục sinh, thì các Cậu mù tịt chẳng hiểu gì. Tớ cũng chẳng hiểu luôn. Tất cả chúng mình đều chờ đợi ngày Thầy phất cờ khởi nghĩa. Thầy sẽ làm Vua. Chúng mình sẽ chia nhau làm quan làm tướng. Cả ba Cậu đều hau hau vớ chức thủ tướng. Ngay trong bữa Vượt Qua cuối cùng, chúng mình vẫn còn bàn cãi sôi nổi xem đứa nào sẽ làm thủ tướng. Thầy buồn lắm, nhưng Thầy không chấp nhất. Thầy gửi gắm tất cả lịch sử cứu độ cho Chúa Thánh Thần. Đúng thế thật, chỉ sau ngày lễ Ngũ Tuần, chúng mình mới lột xác để đi vào quỹ đạo “Từ khổ giá đến vinh quang”.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Hôm ấy, tôi thấy ông lò mò đi trong đêm tối. Tôi tò mò hỏi: - Rápbi đi đâu đấy? Tôi đi đâu, kệ PiôHậu 89
Hôm ấy, tôi thấy ông lò mò đi trong đêm tối. Tôi tò mò hỏi:
- Rápbi đi đâu đấy?
- Tôi đi đâu, kệ tôi!
Thấy ông lấm lét sợ hãi, tôi tránh mặt. Nhưng vẫn theo dõi... Ông đi về hướng đông núi Cây Dầu. Ông lấy gậy đập nhẹ cánh cổng nhà bà Mátta. Ladarô ra mở cổng, lắp bắp chào.
- Rápbôni! Thầy đi đâu vào giờ này?
- Cho tôi gặp Thầy Giêsu. Bí mật nha.
Ông ơi! Thầy Giêsu của tôi giảng dạy công khai. Quần chúng đến với Ngài trùng trùng điệp điệp như thác vỡ bờ. Không ai sợ hãi, chẳng ai dè dặt. Hà cớ gì ông phải lấm lét đến với Ngài như thế? Y như thằng ăn vụng. À, tôi biết rồi...
Giới lãnh đạo của các ông dùng nỗi sợ để khống chế tín đồ. Sợ Giavê trừng phạt như một tên nô lệ sợ ông chủ hà khắc. Chính Thầy của tôi đã thẳng thắn cảnh cáo các ông: “Khốn cho cả các ông nữa, hỡi các nhà thông luật! Các ngươi chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào” (Lc 11,46). Một người tín đồ của các ông là Kêpha sau này đã phải cay đắng nhận xét rằng những luật lệ ấy là cái ách quàng lên cổ tín đồ, mà từ thời cha đến thời con không ai vác nổi (Cv 15,10). Chính đường lối mục vụ của nỗi sợ ấy lại trở nên vũ khí tối tân bảo vệ Quyền và Lợi của giới lãnh đạo các ông. Chính vì thế uy tín của Thầy Giêsu càng lên cao thì uy tín của giới lãnh đạo các ông càng tụt xuống. Mà uy tín của các ông chẳng qua chỉ là “cái nồi” và “cái ghế”.
Nhưng rất may mắn, ông là một thiểu số nhỏ nhoi và cô đơn có lương tâm ngay thẳng, biết nhìn nhận lẽ phải. Ông tin thầy Giêsu có chân lý và là Đấng Thiên Sai. Chỉ tiếc một điều là cái thiện trong ông vẫn còn bé quá, vẫn bị cái ác lấn lướt. Ông tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng ông vẫn sợ gãy cái ghế và bể cái nồi. Ông là mẫu người trí thức vẫn còn tham, sân, si. Ông vẫn sợ mất quan điểm. Mất quan điểm thì mất quyền lợi. Theo Đức Giêsu, thì mất quyền lợi. Không theo Đức Giêsu thì lương tâm cắn rứt. Ông là người đau khổ vì sự giằng co giữa thiện và ác. Tôi đang tò mò theo dõi ông để xem cuộc chiến giữa thiện và ác trong con người trí thức có lương tri như ông.
Ông Nicôđêmô kính mến.
Hôm ấy, tôi thấy các vệ binh trở về tay không. Giới lãnh đạo các ông nổi giận tưng bừng.
- Tại sao chúng mày không điệu Giêsu về đây cho chúng ta?
- Ông ấy giảng hay quá! Chúng tôi không dám bắt đâu.
- Cả chúng mày nữa, chúng mày cũng bị nó mê hoặc rồi sao? Chúng tao có ai tin nó đâu. Chỉ có chúng mày là những thằng ngu mới tin nó thôi. Đồ khốn nạn! Đồ không biết Lề Luật!
Giữa những đấng bề trên đằng đằng sát khí, tôi thấy ông lắc đầu bất mãn. Nhưng tôi thấy ông vẫn sợ. Ông không dám mạnh dạn đấu tranh cho chân lý. Ông chỉ nhỏ nhẹ góp ý.
- Luật của chúng ta không cho phép kết án ai, khi chưa nghe, chưa biết người ấy nói gì và làm gì.
- Bộ ông cũng theo dân Galilê này hả? Ông thử đọc lại Thánh Kinh coi, có ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê không?
Ông tiu nghỉu như con mèo bị cắt tai, không dám hé răng nói thêm một lời nào. Nghĩa là ông lại sợ mất quan điểm. Nghĩa là ông vẫn sợ “gãy ghế” và “bể nồi”.
Tôi thương ông quá chừng! Tôi thương cái thân phận của người trí thức, mới có chân lý ở trên đầu, nhưng chưa cảm nghiệm được chân lý ở trong tim. Tôi vẫn tò mò chờ đợi.
Ông Nicôđêmô kính mến.
Đêm hôm ấy, Thượng tế Caipha triệu tập Đại Công Nghị để họp khẩn cấp. Các Đấng Bề trên, các ông Pharisêu, các ông Kinh sư... Trùng trùng, điệp điệp. Và có cả ông nữa. Toàn là dân trí thức. Toàn là bậc thầy thuộc Thánh kinh làu làu.
Hội trường rộng thênh thang. Các hoa văn mạ vàng phản chiếu ánh sáng lung linh của rừng bạch lạp. Trang trọng vô cùng! Uy nghiêm vô cùng! Thánh thiêng quá chừng!
Thượng tế Caipha đứng dậy, dang thẳng hai tay như con đại bàng tung cánh. Hội trường im phăng phắc. Hàng ngàn ngọn bạch lạp lung lay như run sợ. Ông nổi cơn thịnh nộ: chân mày dựng đứng, cặp mắt tóe lửa, quai hàm bạnh ra, cả đến bộ râu cũng đồng lõa rung lên bần bật. Bàn tay ông khi thì nắm chặt lại như búa tạ. Khi thì mở ra và chém xuống như lưỡi kiếm của tên lý hình. Ông hét lên như con sư tử sắp vồ mồi:
“Giêsu chỉ là một tên thợ mộc bần cùng của một làng Nadarét quê mùa. Giêsu là một tên lộng ngôn, một tên phản đạo. Giêsu phá luật Môsê, chế giễu Môsê. Láo lếu tận cùng. Nó đáng chết. Nó phải chết”.
Có tiếng xầm xì. Tiếng xầm xì cứ lan ra mãi.
- Phản đạo mà cho Ladarô phục sinh được sao?
- Kết án tử hình, mà vắng mặt bị cáo thì có đúng luật không?
Thấy có nhiều cái đầu lắc lắc không đồng tình, Caipha dịu giọng như muốn năn nỉ, như muốn ve vãn:
“Tôi không cần biết tên Giêsu này nói gì và làm gì. Tôi chỉ biết chắc một điều là nếu dân chúng cứ ùn ùn đi theo hắn, thì... người La Mã sẽ đến phá Đền thờ này và tiêu diệt dân này. Đền thờ này là của Đức Chúa. Dân này là dân của Giavê. Các ông có đủ can đảm để theo hắn và để nơi thánh này bị chà đạp không? Theo thiển ý của tôi, thì hãy cho hắn chết, để cả nước được sống. Các ông nghĩ đi và hãy chọn một trong hai”.
Mọi người lấy hai tay ôm đầu. Có tiếng khóc nức nở, uất ức, hậm hực. Tiến thoái lưỡng nan. Không ai nỡ tâm thấy đền thờ của Chúa bị giẫm đạp.
Thấy cử tọa thấm đòn, Thượng tế Caipha vùng lên:
“Tôi nhân danh Giavê kết án tử hình tên Giêsu lộng ngôn. Tôi kết án tử hình luôn cả Ladarô, vì hắn chui ra từ trong mộ làm dư luận quần chúng nghiêng hết về tên Giêsu đáng nguyền rủa”.
Cả hội trường im phăng phắc. Chẳng biết nên thương ai? Thương ông Giêsu hay thương mình; cứu hiền nhân hay cứu dân tộc? Hằng trăm cái đầu trí thức rơi vào tình trạng u mê. Hằng trăm Đấng Bề trên ngồi trơ ra như bãi ốc bươu vàng ăn phải thuốc trừ sâu.
Bỗng tôi thấy ông đứng lên, giũ áo, giậm chân, nhổ toẹt một bãi nước miếng, rồi đùng đùng đi ra khỏi hội trường. Một vài người vội vã theo ông đi ra. Dường như ông Giuse là một trong số người đó.
Hàng loạt ánh bạch lạp phụt tắt. Hàng trăm Đấng Bề trên lầm lũi ra về. Đại Công Nghị kết thúc như thế đó. Căn phòng tối đen. Đầu óc tăm tối.
Trong bóng tối nhạt nhòa, tôi thấy ông và vài người bạn tâm phúc đang đốp chát nhau.
- Mày bênh ông Giêsu, thì tao không chống đối. Nhưng mày nhổ nước miếng và chửi thề Thầy Thượng Tế là quá đáng.
- Tao chịu hết nổi rồi. Tao là một thằng trí thức hèn. Vì tao hèn nên tao mới lén lút đi học “chân lý” ban đêm. Vì tao hèn, nên tao vẫn cứ ở trong “Bóng tối” để chống lại “Ánh Sáng”. Cũng chỉ vì sợ mất quan điểm. Cũng chỉ vì sợ gãy cái ghế và bể cái nồi. Cái ghế thì mọt đục ruỗng ra rồi. Cái nồi thì bé tí teo như cái niêu. Nhưng vì tao là thằng trí thức, nên tao chỉ đủ can đảm để hèn đến thế là cùng thôi. Hèn hơn thế, thì thằng trí thức này chịu không nổi. Tao tuyên bố thẳng với mày và với mọi người rằng: “Tao là môn đệ của Thầy Giêsu. Thà là chết với Thầy, chứ tao không thể sống hèn nữa”.
Sau một phút im lặng nặng nề, tôi nghe tiếng anh khóc khóc hậm hực. Khóc nức nở. Thấy anh khóc, tôi cũng khóc theo.
Anh Nicôđêmô thân mến.
Tôi không thấy anh mừng lễ Vượt Qua. Tôi không thấy anh ăn uống gì cả. Tôi hiểu. Anh để tang Thầy. Đúng hơn, anh để tang cái án tử vắng mặt của Thầy.
Sáng thứ Sáu hôm ấy, tôi thấy anh để đầu trần. Hỏi tại sao, thì vợ anh nói rằng anh đã vứt bỏ cái khăn rápbi từ mấy bữa nay rồi. Cái khăn rápbi ấy tố cáo thái độ hèn hạ của anh. Anh vứt nó đi để rửa nhục. Anh để đầu trần, mặc áo tang, ra chợ mua 100 cân lô hội và mộc dược, để chuẩn bị làm lễ an táng cho Thầy.
Giới trí thức ở thủ đô vẫn kính trọng anh, nhưng hầu hết đều quay mặt đi chỗ khác, để khỏi bị đánh giá là mất quan điểm. Vài người trong nhóm họ gọi anh là thằng khùng. Anh làm bộ điếc không thèm nghe. Trước đây anh chịu hèn để ôm cái ghế và bế cái nồi. Bây giờ anh tự nguyện đạp đổ cái ghế và đập bể cái nồi, để minh chứng cái cao thượng của một người trí thức chân chính.
Anh Nicôđêmô thân mến.
12 giờ trưa thứ Sáu, Thầy tắt thở.
Bối rối quá chừng! Giới hâm mộ Thầy thì trùng trùng điệp điệp. Nhưng tất cả đều chỉ biết cúi đầu, đấm ngực và làm thinh, vì sợ vạ tuyệt thông của Thượng Tế. Mẹ của Thầy, thân nhân của Thầy, đệ tử của Thầy, từ miền Bắc về đây, lớ ngớ như nai tơ lạc vào thành phố. Đành bó tay. Chỉ còn anh và ông Giuse. Trăm dâu đổ đầu tằm. Anh và ông Giuse đôn đáo lo đủ mọi chuyện từ khâu ngoại giao, đến thủ tục hành chánh; từ khâu tháo đinh, hạ xác đến khâu tẩn liệm theo đúng nghi thức đạo và đời. Hai anh hì hục làm, miệng câm như hến, mà lòng thì quặn đau. Thương quá! Tức quá! Tủi quá!
Lễ an táng của Thầy rất chu đáo. Ngôi mộ của ông Giuse thì khỏi chê. Một trăm cân lô hội và mộc dược của anh thì quá đầy đủ. Tôi cám ơn hai anh vô cùng! Tôi cảm phục hai anh quá chừng!
Anh Nicôđêmô thân mến.
Tôi xin được ôm anh, áp má anh để thương anh, để kính trọng anh. Từ nay không còn quyền lợi để nuối tiếc. Không còn nỗi sợ để lo âu. Từ nay chúng ta chỉ còn một Thầy Giêsu để yêu mến, để ngưỡng mộ và để rao giảng.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Chị “ấy” ơi! Tôi không biết tên chị. Hỏi người ta, thì ai cũng bĩu môi, không trả lời. Hỏi chị, thì PiôHậu 90
Chị “ấy” ơi! Tôi không biết tên chị. Hỏi người ta, thì ai cũng bĩu môi, không trả lời. Hỏi chị, thì chị chỉ khóc hù hụ. Tôi đành gọi chị là “ấy”. Chị thông cảm nhá.
Hôm ấy Thầy tôi đang giảng. Hàng trăm vành tai vểnh lên để nghe. Hàng trăm con mắt mở banh ra để nhìn. Có nhiều cái miệng há hốc ra mà quên không khép lại. Họ say mê nghe, đến xuất thần... Bỗng có tiếng ồn ào. Tôi nổi giận muốn chửi thề một câu. Ngước mắt lên, nhìn thấy chị, tôi chết lịm... Một người đàn bà tiều tụy như một đống giẻ rách. Tóc xõa xuống và rối nùi, che hết nửa phần thân. Hai bàn tay cố giữ lấy vạt áo che kín hết khuôn mặt. Tấm lưng thon thả khòm xuống và run lên bần bật. Tấm áo dài rộng thùng thình cũng đồng tình run lên cầm cập.
- Thưa Thầy, chúng tôi bắt quả tang con mẹ này đang ngoại tình. Theo luật Môsê, thì phải ném đá cho chết. Nhưng chúng tôi muốn Thầy cho ý kiến.
Thầy tôi không thèm nghe, không thèm trả lời. Người cúi mình, lặng lẽ lấy ngón tay viết lên đất. Viết gì thì chả ai biết. Nhưng chắc một điều là Thầy tôi không đồng ý với các ông kinh sư và Pharisêu. Người cũng không đồng ý với Môsê. Người im lặng một cách nặng nề là để phản đối một cách quyết liệt... “Xin Thầy cho ý kiến” lời ấy được nhắc đi nhắc lại. Dai như đỉa đói vậy. Cực chẳng đã Thầy tôi đứng thẳng lên, lấy ánh mắt xuyên tâm, quét một lượt lên mặt các ông kinh sư và Pharisêu, rồi phán một lời cứng như đanh, lạnh như băng: “Ai trong các ông vô tội, thì ném đá trước đi”. Chỉ nói có thế thôi, rồi Người lại cúi xuống, lại viết, viết mãi, viết để viết, viết để tỏ thái độ bất mãn cực kỳ.
Các đấng bề trên cao cả: áo mão xênh xang, râu ria đạo mạo... bỗng dưng sa sầm mặt xuống. Ông già râu bạc kéo áo ông trẻ râu xanh. Họ lặng lẽ rút lui. Khi họ đã đi xa tắp tít, Thầy tôi mới đứng lên. Người nhìn chị. Chị không dám nhìn Người. Chị vẫn bịt mặt, vẫn cúi đầu và vẫn khóc nức nở. Người hỏi chị. Giọng nói của Người nhỏ nhẹ, ôn tồn, như thương, như xót.
- Chị ơi, những người kia đi đâu hết rồi? Không ai kết án chị nữa sao?
- Thưa ông, không!
- Tôi không kết án chị đâu. Chị về đi. Nhớ từ nay đừng phạm tội nữa nhá.
Tôi thấy chị kéo vạt áo xuống dưới gò má. Chị nhìn trộm, rồi nhìn ngay vào mặt Thầy tôi. Nước mắt lại tuôn ra dầm dề. Chị nhệu nhạo kêu lên: “Thầy!”.
Chị ra về. Vừa đi vừa bới tóc. Vừa đi vừa sửa lại nếp áo nhăn nheo. Mặt tỉnh bơ như người đi chợ. Không mặc cảm tội lỗi. Thôi sợ chết nhục. Thôi sợ chết đau.
Chị “ấy” ơi, từ giờ phút này tôi không còn ghét chị nữa; tôi không còn khinh chị nữa. Chị và tôi có chung một Thầy. Chúng ta coi nhau như chị em nhé.
Chị về rồi. Biệt tăm. Tôi không còn gặp chị nữa. Nhưng óc tưởng tượng của tôi cứ bám lấy chị, mải mê nghĩ về chị. Những hình ảnh của chị cứ xuất hiện mãi trên màn ảnh ký ức của tôi. Nhiều lắm. Nhiều lắm.
Bỗng chị đứng khựng lại. Ngẫm nghĩ. Ngón chân cái dí mạnh lên đế hài. Một nỗi sợ bao trùm. Trí tưởng tượng vẽ ra một ông Môsê: mặt hầm hầm, tay nắm chặt một hòn đá to, dứ vào mặt chị: ... “Đứa nào ngoại tình, thì ném cho chết”. Chị quay gót, sải bước về nhà. Bỗng dưng chị đứng khựng lại. Ngẫm nghĩ mông lung. Lòng nhủ lòng: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Hết sợ. Chị lại quay gót. Lại hí hửng...
2. Khu vườn đẹp quá. Tường cao bao quanh. Màu xanh bát ngát. Im phăng phắc. Có hai bóng người lao vào nhau, dán vào nhau. Nghẹt thở... Thiên nhiên như ngưng đọng để lắng nghe, để nhìn ngắm một sự hài hòa đến tuyệt vời. Bên đây là một tác phẩm nghệ thuật mà từ thể khối đến đường nét và màu sắc không có một khuyết điểm nào: đường nét thon thả; thể khối no tròn; màu sắc tươi mát. Cái gì cũng mời gọi, cái gì cũng khiêu khích, mà cao điểm là thách thức... Bên kia là một vầng trán cao rộng, có thấp thoáng một vành khăn của bậc sư phụ. Một bộ râu điểm sương cứ rung rinh, rung rinh khẳng định sự giàu sang và hào phóng của bậc đại gia say mê và đê mê ru hai tâm hồn vào thế giới huyền mơ. Có tiếng chó sủa họ không nghe. Con chim giật mình vỗ cánh bay, để rơi trên đầu họ một vật thể lạ có mùi hôi hôi, họ không biết. Say mê quá hóa thành u mê...
3. Khu vườn đang tĩnh lặng bỗng trở nên huyên náo dữ dội. Bầy chó thi nhau sủa inh ỏi. Người ta đua nhau la om sòm: “Ngoại tình! Bắt lấy nó!”. Người đàn ông có bộ râu hoa mơ vụt chạy về cuối vườn, phóng qua tường. Biến dạng. Người đàn bà quơ vội tấm áo choàng phủ lấy tấm thân nõn nà, rồi quỳ mọp xuống, van lạy như tế thần: “Con lạy các thầy một trăm lạy. Xin các thầy tha chết cho con. Bây giờ các thầy muốn gì... con cũng chịu nữa”. Xung quanh người đàn bà quỳ mọp là hàng chục đấng nam nhi người nào cũng uy nghi, cũng đạo mạo, nhưng cặp mắt nào cũng hấp háy, lòng nào cũng rạo rực. Dường như họ cố tình rình mò, để bắt quả tang, để hạ gục một đối thủ nặng ký. Người đàn bà nõn nà chỉ là nạn nhân của một cuộc đấu đá giành giật quyền và lợi. Luật Môsê chỉ còn là phương tiện để người ta hạ bệ nhau...
4. Hàng trăm thính giả đang hau háu nuốt từng lời giảng của Thầy Giêsu, bỗng quay ngoắt một cái, chằm chằm nhìn vào người đàn bà thiểu não như một đống giẻ rách. Cặp mắt nào cũng đổ lửa. Quai hàm nào cũng bạnh ra. Răng nào cũng nghiến ken két. Có những ngón tay nhọn hoắt như mũi dùi chỉ thẳng vào đống thịt đang run rẩy và hét lên như sư tử gầm: “Con quỷ cái ấy phải đuổi cho khuất mắt. Bọn đĩ thõa ấy phải quét sạch thành đô, không sót một tên...”. Có một đấng nam nhi chân mày rậm rì, ti hí mắt lươn ôm về một vạt áo đầy đá cuội đang phân phát cho quần chúng, niềm nở như nhà từ thiện phát bánh mì cho những thân phận nghèo đói.
5. Một rừng người đồng tâm nhất trí, một lòng một dạ vung tay nguyền rủa, nắm tay kết án và thề thốt: “Nhân danh Chúa tao giết mày. Nhân danh Môsê tao ném đá mày”.
Có một người đàn ông, lưng dài vai rộng, không giống người phàm. Ông đứng thẳng lưng, lặng lẽ nhìn. Ông nhìn đám người đang gào thét bằng ánh mắt nảy lửa. Chỉ nhìn một cái rồi thôi. Vẫn im lặng. Ông đưa mắt nhìn người đàn bà rũ rượi. Ánh mắt nảy lửa dịu dần, dịu dần... Bây giờ chỉ còn thương xót, chỉ còn bao dung. Ông ngước mắt lên trời, dang rộng hai cánh tay. Dường như ông muốn gửi gắm. Dường như ông muốn che chở. Vẫn im lặng.
Quần chúng đang ồn ào, bỗng im phăng phắc, đang chằm chằm nhìn đụn giẻ rách thảm thương, bỗng hướng về người đàn ông không giống người phàm, chăm chú theo dõi. Lòng se lại. Cúi đầu. Xấu hổ...
Chị “ấy” ơi!
Bây giờ chị đang ở đâu? Chị thoát chết rồi, nhưng gia đình của chị và Hội đường của chị có dang tay đón chị về không? Có thể có. Có thể không. Theo thiển ý của tôi, thì đối với chị, mọi sự trên thế gian này bây giờ chỉ là chuyện nhỏ. Thầy Giêsu bây giờ mới là tất cả. Chỉ một tia mắt của Thầy cũng đủ làm cho hàng trăm người hẹp hòi, ích kỷ và tàn nhẫn phải gục đầu xấu hổ. Chỉ một thoáng nhìn của Thầy cũng đủ để vực dậy hàng trăm tâm hồn tan nát và tuyệt vọng.
Thầy đã nhìn chị. Chị đã nhìn Thầy và chị đã cảm nghiệm được ánh mắt ấy. Chị đang tủi hổ đến chết được, thế mà bỗng chị lại khẽ mỉm cười, mỉm cười như trẻ thơ vô tội. Ánh mắt hiền từ độ lượng của Thầy xóa hết mặc cảm tội lỗi của chị. Ánh mắt yêu thương và trìu mến của Thầy khiến chị đang tuyệt vọng, đứng phắt dậy, ngước mắt nhìn trời và vung tay đi về phía trước.
Chị “ấy” ơi! Tôi muốn gặp chị, để cùng chị suy nghĩ về Thầy. Tôi muốn gặp chị, để cùng chị đi đến tận cùng trái đất loan báo tình yêu của Thầy. Chỉ có tình yêu của Thầy mới vực dậy được người tội lỗi. Chỉ có tình yêu của Thầy mới gầy dựng được một thế giới hạnh phúc.
Chào chị từ xa. Xa mặt chứ không cách lòng. Thương mến vô vàn!
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Mình và Mai giã từ Cần Thơ ngày 22.5.1971 để đi Cà Mau. Nhà thờ Bảo Lộc là chỗ dừng chân PiôHậu 91
Mình và Mai giã từ Cần Thơ ngày 22.5.1971 để đi Cà Mau. Nhà thờ Bảo Lộc là chỗ dừng chân. Ngày 23.5.1971 hai anh em đi thăm Hòa Thành và Quản Long, vì đây là lần đầu tiên mình đến Cà Mau.
Trong bữa ăn sáng, ngày 23.5 mình tâm sự với cha Trần Hữu Phước, chánh sở Bảo Lộc, Cà Mau.
– Xin ông Tư cho chúng con đi Năm Căn càng sớm càng tốt.
– Không – Hai nhà truyền giáo cứ ở đây. Tôi sẽ cho làm nhà xứ Năm Căn. Khi nào xong sẽ có trực thăng rước hai cha đi.
– Xin ông Tư tha cho chúng con khỏi đi trực thăng. Chúng con là dân, thì chúng con đi tàu đò như mọi người.
– Đi tàu đò nguy hiểm lắm. Việt cộng có thể chặn tàu ở chỗ kinh Cái Nháp bất cứ lúc nào.
– Kệ. Không sao đâu ông Tư ạ.
– Nếu hai cha quyết tâm đi tàu đò thì tùy ý. Tôi sẽ kêu ông Ba Ninh và ông Ba Chữ hướng dẫn hai cha.
Sáng sớm ngày 24 tháng 5, chiếc xe lôi chở mình, Mai, ông Ba Ninh và ông Ba Chữ qua bến đò Kinh 16. Bốn người khom lưng chui vô tàu Hiệp Mậu đang nổ máy xình xình. 8 giờ 20 tàu rời bến, quay mũi 180o, trực chỉ hướng Nam. Chừng năm chục khách ngồi hai hàng dựa lưng vào mạn tàu, quay mặt nhìn nhau, nhưng chẳng thấy nhau, vì hàng hóa chất đầy lòng tàu, từ sàn tới mui. Người nhìn người mới thích. Nhìn bức tường hàng hóa từ giờ này qua giờ khác, chẳng có gì hứng thú cả. Mình trèo lên mui, ngồi phơi nắng để thấy người và trời mây nước.
Con nước mồng một dềnh lên đầy ắp. Mênh mông. Xuồng chèo nhiều hơn xuồng máy. Đàn bà nhiều hơn đàn ông. Người này chèo xuồng đi bán, người kia chèo xuồng đi mua. Lâu lâu lại xuất hiện một bóng đàn ông mặc quần áo màu cứt ngựa, đứng sừng sững ở đầu xuồng. Chắc là lính địa phương quân, quá giang xuồng, đi về một đồn nào gần đó.
Con tàu đang ngon trớn thì bỗng có tiếng nổ “pòm”. Người tài công sang số. Ống pô xịt khói đen. Tiếng máy rú lên rồi xìu xuống. Mũi tàu từ từ ghé bờ. Mặt tài công ỉu xìu như bánh bao thiu, thò đầu qua cửa sổ.
– Có gì không sếp?
– Ngày mai mày về thì mua giùm tao hai ký tôm khô nha. Rồi ngày mốt thì mua giùm tao một thùng dầu lửa. Nhiêu mày?
– Có nhiêu đâu mà sếp phải hỏi. Để tụi em lo.
Con tàu lại sang số de, nhả một bụm khói, rồi lao đầu vào kinh xáng Đội Cường. Anh tài công chửi thề rồi nói lầm bầm gì đó, mình nghe không rõ.
Kinh xáng Đội Cường dài 9 cây số, thẳng tắp, nối liền sông Gành Hào với sông Bảy Háp. Hai bờ rậm rịt. Vườn cây ăn trái màu xanh bát ngát lâu lâu lại thấy thấp thoáng một bóng nhà tường. Êm ả quá chừng! Cảnh sắc tuyệt vời!
Hết 9 cây số thẳng băng, con tàu cụt hứng chui vào sông Bảy Háp ngoằn ngoèo như con rắn bò. Có một ai đó nói bâng quơ: “Chỗ này dám có Việt cộng lắm đó nha”. Vài người giật mình, nhéo đùi nhau, rồi cười nhạt, gởi gắm đời mình cho Trời Phật và số mạng.
“Giô giô”. “Pin, pin”. Tiếng người hô. Tiếng còi hụ. Tàu ghé bến chợ Chà Là. Xuồng ghe như lá tre. Người lên kẻ xuống nườm nượp. Hàng hóa được cu li khuân xuống hết một phần ba tàu. Trẻ con bán cà rem, chuối chiên, mía ghim, bánh mì và xôi… rao hàng chí chóe như bầy chim vỡ tổ.
Chà Là là một thị tứ sầm uất, là giao điểm giữa Năm Căn và Cà Mau, giữa vùng giải phóng và vùng quốc gia. Tàu Năm Căn đi Cà Mau ghé Chà Là để lấy khách. Tàu Cà Mau đi Năm Căn ghé đây để xuống hàng. Mình ghi khắc hai chữ Chà Là vào trong tim. Mình quyết tâm sẽ đặt chân lên đây để xây trường học, để xây nhà thờ.
Tàu hụ còi, sang số de. Mình chào Chà Là, hẹn ngày tái ngộ. Vừa rời Chà Là được một quãng thì hai nòng đại bác đen ngòm xuất hiện bên tay phải. Người ta bảo đây là đồn Giá Ngựa. Có người khoe sự thông minh bảo rằng nó là Giá Ngự, vì vua Gia Long ngày xưa trên đường bôn tẩu đã ngự giá đến đây. Nghe thế thì biết thế, chứ mình chưa tin. Điều mình muốn tin đó là hai nòng 105 kia đã khạc ra biết bao nhiêu khói lửa. Nó là tên tử thần có khả năng kiểm soát sự sống trên một diện tích 380 cây số vuông. Nó đang nhỏng mỏ nhìn trời. Rất vô tư. Nó đang tham chiến một cách vô tội vạ, vì nó là công cụ vô tri của một cuộc chiến không vô thức. Buồn đến chết được!
Không thèm nhìn hai khẩu pháo 105, mình quay sang phía bờ trái. Một lát sau, lại một địa danh buồn cười: đập Bà Hính. Quán xá lưa thưa. Bóng người thấp thoáng. Dân Bà Hính chẳng quê mùa hơn ai. Nhưng hễ cứ thấy ai quê quê một tí, thì bia miệng lại thì thào “Dân Bà Hính”. Oan khiên quá chừng!
Bỏ đập Bà Hính chừng ba cây số, thì tàu đò lại hụ còi, chuẩn bị ghé bến. Chợ Cái Keo cũng rất sầm uất, chỉ thua Chà Là một bậc. Người ra đón tàu có cả lính lẫn thường dân. Khách lên ùn ùn. Hàng hóa bốc lên dập dìu. Lại om sòm tiếng rao bán bánh cam, cà rem và bánh bao. Anh tài công rên rỉ: “Tàu gãy láp rồi. Bà con vui lòng chờ”.
Mình coi đồng hồ: hai giờ chiều. Trễ quá rồi!
Hai chiếc tàu của hải quân: một Alpha; một Tango cặp sát tàu đò. Một anh trung úy hải quân nhảy sang mũi tàu đò, tiến lại sát bên mình. Anh giơ tay chào kiểu nhà binh, rồi nghiêm nghị vào đề:
– Chúng con được lệnh chờ hai cha ở đây từ 11 giờ trưa, để hộ tống hai cha về Năm Căn. Tàu cây gãy láp rồi, chưa biết bao giờ mới sửa xong. Nếu hai cha quyết định đi tàu cây, thì chúng con cũng phải chờ. Nhưng sợ trễ quá. Khúc kinh Cái Nháp nguy hiểm lắm, Việt cộng xuất hiện thường xuyên. Nếu được, xin hai cha bỏ tàu cây qua tàu sắt, để chúng con đưa hai cha về Năm Căn ngay bây giờ.
– Khó nghĩ quá. Đi tàu sắt thì sợ Việt cộng hiểu lầm. Đi tàu cây thì tội nghiệp các anh phải chờ… và có thể bị ăn B40.
Mình cúi mặt nhìn hai bàn chân vài giây, rồi vỗ vai anh trung úy: “Thôi mình qua tàu sắt, để đi ngay”. Mình ngoắc cha Mai và hai ông Ba, biểu xách đồ nhảy vội sang chiếc Alpha. Hai tàu sắt nối đuôi nhau đi vào vàm kinh Cái Nháp. Bốn khẩu đại liên 50 đua nhau sủa vào hai bên rừng đước bịt bùng. Đạn bay chéo chéo. Cành đước gãy răng rắc, lá rơi lả tả. Kinh Cái Nháp hồi ấy chỉ rộng bằng một phần ba bây giờ. Vừa ngoằn ngoèo vừa bịt bùng. Mình tưởng tượng có một cặp ống nhòm nào đó đang ghi nhận hình ảnh hai bóng áo dòng đen, đứng trên tàu sắt, bên cạnh khẩu đại liên 50. Oan khiên vô cùng!
Sau này mình mới biết là cha Phước gọi điện cho Trung tá Tuyên yêu cầu cho tàu sắt hộ tống tàu cây từ Cái Keo về Năm Căn. Không những thế Biệt động quân cũng được lệnh nằm đường để bảo vệ cả tàu sắt lẫn tàu cây. Vô tình mình bị lọt vào quỹ đạo chánh trị của cha Phước. Rõ ràng là “được” yêu thương, nhưng thực tế chỉ là “bị” yêu. Đúng là tránh vỏ dưa, đạp vỏ dừa. Mình cứ ân hận mãi về chuyến đi không ngờ này.
4g20 mình đặt chân lên đất Năm Căn, mở màn cho một đời truyền giáo bồng bềnh trôi nổi như một trái mắm. Hôm nay đầy bất trắc. Ngày mai chưa biết là gì.
Trời mưa lất phất. Mình và cha Mai xách túi đi theo ông Ba Ninh và ông Ba Chữ vào nhà anh Tư Quang, thợ may, ở ngay trước nhà lồng chợ. Anh Tư có đạo, còn vợ con thì không. Mình ở đậu nhà anh Tư một tháng, ngủ chung với cha Mai trên một bộ ván. Nằm nghiêng thì dư một tí. Nằm ngửa thì vừa đủ. Nằm co thì thiếu. Cắn răng chịu.
Cuộc đời truyền giáo của mình được khởi đầu như thế đó. Cực lắm, nhưng không thấy khổ. Chỉ thấy hôm nay. Không bao giờ thấy ngày mai. Có một bàn tay vô hình cứ dắt mình đi, y như cái GPS (định vị toàn cầu) nhắc nhở và chỉ đường cho anh tài xế lái xe đi vào một thành phố xa lạ.
Hôm ấy triều đình tổ chức đại tiệc mừng sinh nhật của Vua Hêrôđê Antipát. Chị là khách được mời PiôHậu 92
Hôm ấy triều đình tổ chức đại tiệc mừng sinh nhật của Vua Hêrôđê Antipát. Chị là khách được mời. Vinh dự quá! Chưa bao giờ Chị được tham dự một bữa tiệc hoành tráng đến như thế. Bá quan văn võ của toàn tỉnh Xyri về tham dự. Các bà mệnh phụ xinh đẹp rực rỡ như rừng hoa. Văn nghệ được trình diễn bởi những ca sĩ, vũ nữ thượng thặng. Đầu bếp được tuyển chọn từ ba nền văn hóa Âu, Á, Phi. Thức ăn làm thỏa mãn cả khứu giác lẫn thị giác đến mức độ tuyệt vời…
Chị đang chậm rãi nhai và thưởng thức một miếng thịt trừu nướng: thơm thơm; ngọt ngọt, mặn mặn…, thì bị nôn một cách bất ngờ. Xấu hổ vô cùng! Chị phải vội lấy khăn bịt mặt, đi nhanh ra tiền sảnh. Biến lẹ.
Xalômê ơi, em có biết tại sao không? Chị thấy em đang hí hửng bưng một cái mâm, tưng tửng đi vào hậu cung. Trên cái mâm đồng có một cái đầu người. Mặt mũi râu tóc đằm đìa máu tươi. Ghê rợn đến tận cùng!
Chị mất ngủ suốt một tuần lễ. Đêm nào cũng trằn trọc và giấc ngủ chỉ thoảng đến và chập chờn. Một tháng trôi qua, một năm trôi qua, cái đầu người bê bết máu vẫn còn in hằn trên màn ảnh ký ức của Chị. Khủng khiếp quá!
Bây giờ Chị đã trở lại bình thường. Chị dành gần hết thời gian để suy gẫm về cuộc đời của em. Đời của em là một bài học quý giá cho muôn người, của mọi thời.
1. Vua Hêrôđê Cả được Hoàng Đế Lamã cho nắm quyền hành chính trên cả ba miền Galilê, Samari và Giuđê.
Ông có ba người con là Philíp, Hêrôđê Antipát và cô con gái út là Hêrôđia. Ba người này là ba anh em con cùng cha khác mẹ.
Ông anh cả là Philíp cưới cô em Hêrôđia làm vợ. Luật Do Thái cho anh em con cùng chac khác mẹ được kết hôn với nhau. Ông bà tổ phụ của dân Do Thái là Ápraham và Sara cũng là anh em con cùng cha khác mẹ. Hai người này có đứa con đầu lòng chính là em đó. Như vậy vua Hêrôđê Cả vừa là ông nội vừa là ông ngoại của em. Còn ông Philíp thì vừa là cha ruột vừa là bác ruột vừa là cậu ruột của em. Bà Hêrôđia thì em muốn gọi là mẹ đẻ hay cô ruột cũng được.
Khi vua Hêrôđê Cả băng hà, thì Hoàng Đế La Mã tổ chức hành chính lại như sau:
- Tổng trấn Philatô nắm quyền quân sự trên toàn tỉnh Xyri, đồng thời nắm quyền hành chính trên hai miền Samari và Giuđê.
- Ông Hêrôđê Antipát, cậu ruột của em, thì nắm quyền hành chính trên hai miền Galilê và Pêrê. Hai miền vừa đông dân vừa tương đối trù phú.
- Ông Philíp là cha của em thì chỉ được nắm quyền hành chính trên miền Iturê, một mảnh đất cực bắc nhỏ tí xíu, vừa thưa dân, vừa nghèo xác xơ.
Cha của em giận lắm và tủi lắm. Ông sang Rôma để khiếu nại. Nhưng thất bại. Ông bèn ở lại, không thèm về. Lợi dụng thời cơ này, cậu Hêrôđê Antipát của em cưới mẹ em làm vợ. Thế là Hêrôđê Antipát vừa là chú vừa là cậu, vừa là cha ghẻ của em. Còn mẹ đẻ của em bây giờ lại được thêm mọt chức cô nữa. Hai lần làm cô của em.
Theo pháp luật thì Hêrôđê Antipát và Hêrôđia phạm tội ngoại tình công khai. Dân chúng chẳng ai dám nói, vì sợ “vạ miệng”. Nhưng ông Gioan Tẩy Giả thì vào tận triều đình, để cảnh cáo vua Hêrôđê: “Ngài không được phép cưới vợ của ông anh”. Cha của em giận ông Gioan lắm, nhưng vẫn phải nể, vì toàn dân vẫn tôn trọng Gioan như một ngôn sứ, như một “Đấng phải đến”.
2. Mẹ em thì muốn giết ông Gioan ngay tức khắc. Bà coi ông Gioan như một tên phá đám, phá hạnh phúc, phá tương lai của bà. Bà hiểu rằng nếu ông Gioan còn sống, thì một ngày nào đó Hêrôđê sẽ nghe ông mà bỏ bà. Vì thế bà tạm chấp nhận giải pháp bỏ tù ông Gioan. Còn cái đầu của ông, thì bà tính sau.
Bà cúi đầu suy nghĩ mông lung. Suy nghĩ nhiều ngày, nhiều tháng. Bỗng bà ngửa mặt nhìn trời, giang tay cười hô hố. Bà đã tìm ra một giải pháp. Với giải pháp này, bà nắm chắc trong tay cái đầu của Gioan Tẩy Giả. Giải pháp đó chính là em.
Em là cây kiếm hai lưỡi: vừa có sắc, vừa có tài. Sắc thì nghiêng nước, nghiêng thành, bà không cần trau chuốt. Tài của em là ca múa, bà sẽ mài giũa cho thật bén. Bà mướn thầy cao tay nhất để rèn luyện em…
Ngoài ra, bà còn vận động hành lang để em được toàn triều đình ái mộ. Bà thỏ thẻ, vuốt ve để nắm gọn trong tay cả tâm lẫn ý của người chồng vẫn còn đang đu đưa giữa bà và ngôn sứ Gioan.
3. Bữa tiệc sinh nhật hôm ấy có một MC đại tài dìu dắt khách tiệc đi đến đỉnh điểm là tôn sùng vua Hêrôđê như một thần tượng. Nhưng MC đại tài này chỉ là linh hồn của bữa tiệc. Mẹ em mới là MC chính, coi bữa tiệc chỉ là phương tiện để đạt mục đích là lấy cái đầu của Gioan Tẩy giả.
Khi những màn văn nghệ đã giải nhiệt, khi khách tiệc đã bắt đầu uể oải, thì bà tung lên sân khấu một ngôi sao rực sáng. Ngôi sao đó là em. Em làm say mê mọi người. Em ca, em múa. Đường nét và thể khối trên thân thể của em đã là một bông hoa rực rỡ. Bông hoa di chuyển nhịp nhàng tạp thành một rừng hoa rung rinh. Khách tiệc quên cả ăn. Những hàm răng đang nhóp nhép bỗng quên nhai. Những cặp mi đang chớp chớp làm duyên bỗng mở tròn xoe và quên khép lại.
Màn ca múa vừa kết thúc với nụ cười duyên dáng của em, thì một trận vỗ tay vang lên, một rừng khăn tung lên. Niềm vui bùng vỡ!
Màn ca múa của em làm cho vua Hêrôđê hứng lên. Men rượu trong dạ dày làm cho ông càng hứng hơn. Ông quên mình là một đấng thiên triều, ông nhảy tưng tưng lên sân khấu, giang tay tuyên bố như đọc pháp lệnh:
“Con là siêu sao của cha.
Cha phải tặng con một phần thưởng cao quý nhất.
Vậy con muốn phần thưởng gì.
Nếu con xin một nửa nước, thì cha cũng cho”
Cả hội trường vỗ tay như sấm và ngong ngóng chờ em ngỏ ý.
Em liếc mắt hỏi ý mẹ. Mẹ ra dấu gọi em tới, đưa cho em cái mâm bạc bà ghé tai nói thật nhỏ. Em giơ cái mâm lên trước mặt vua cha và nói thật rành rẽ: “Xin cha cho con cái đầu của Gioan Tẩy giả đặt trên mâm này.”
Cả hội trường im phăng phắc. mọi người bịt mặt, nhún vai. Vua Hêrôđê cúi mặt một lát, rồi trao cái mâm cho tên lính cai tù…
Tưởng là chuyện đùa không thể thành hiện thực. Mọi khách tiệc tạm quên để tiếp tục ăn. Ai ngờ… Một nửa giờ sau, em tưng tửng bưng cái đầu của Gioan Tẩy giả trao cho mẹ!!!
Xalômê ơi!
Chị không còn đủ can đảm để nói thêm nữa… nhưng dư luận thì còn bàn tán nhiều lắm. Người ta đồn rằng vua Hêrôđê thì hối hận quá, vì đã là mất lòng dân quá. Nhưng lỡ mất rồi, đành cắn răng chịu đựng. Há miệng thì mắc quai. Còn mẹ em thì tha hồ vày vò cái đầu đẫm máu. Hận quá hóa điên. Điên quá hóa thành con ác quỷ. Lịch sử loại người không thể quên chuyện này.
Chị buồn, chị sợ, chị bị mất hồn vía một thời gian lâu lắm. Khi nghe tin có ngôn sứ Giêsu ra truyền đạo, Chị bắt đầu tạm quên chuyện cũ, để đi nghe thử xem ngôn sứ này có mang lại cho quần chúng cái gì mới mẻ không. Đi một lần, hai lần rồi bị ghiền hồi nào không hay. Bây giờ chị thấy vui đời, thôi buồn, thôi giận. Thậm chí chị quên cả những hành động độc ác của mẹ em.
Chị mong rằng em cũng bỏ quên chuyện cũ ấy, đi nghe ngôn sứ Giêsu giảng, để làm lại cuộc đời, để chuộc tội ca múa mua lấy cái đầu của ông Gioan Tẩy giả.
Bây giờ Chị đã nhận ngôn sứ Giêsu làm Thầy. Chị chỉ còn mong một điều là em cũng gọi người là Thầy nữa. Mong thay.
Trưa hôm ấy: trời nắng chang chang, gió im phăng phắc. Thầy tôi ngồi một mình trên thành giếng PiôHậu 93
Trưa hôm ấy: trời nắng chang chang, gió im phăng phắc. Thầy tôi ngồi một mình trên thành giếng. Hai bàn tay cài răng lược đặt hờ trên hai đùi khép kín. Mắt nhìn về xa xăm. Cánh đồng lúa đang vào thời con gái: xanh bát ngát. Thế mà Thầy tôi lại thấy nó chín vàng. Đàn bà đàn ông kéo nhau ra đầy đồng để thu hoạch...
Bỗng có tiếng động. Thầy tôi giật mình quay lại. Thấy chị đang kéo nước. Sực nhớ mình đang khát đến khô cổ họng, Thầy tôi ngỏ lời.
- Chị làm ơn cho tôi xin ngụm nước.
- Ông là người Do Thái, tôi là người Samari. Tại sao ông lại xin tôi nước uống làm chi vậy?
- Nếu chị biết người xin nước là ai, thì chị sẽ xin người ấy và người ấy sẽ cho chị một thứ nước uống vào là thôi khát luôn.
- Giếng thì sâu, gầu thì không, thế mà lại khoe cho nước uống không khát. Bộ ông ngon hơn tổ phụ Giacóp đã đào giếng này cho chúng tôi sao?
- Nước tôi cho, tự nó là mạch nước rồi.
- Vậy thì ông cho tôi đi, để tôi không phải ra đây lấy nước mỗi ngày. Mệt muốn chết!
- Nói cho là cho, nhưng vẫn phải có điều kiện.
- Điều kiện gì?
- Chị cứ về gọi chồng ra đây là tôi cho ngay.
- Tôi có chồng đâu mà gọi.
- Đúng vậy. Chị đã có năm đời chồng rồi. Còn người này chỉ là đàn ông, chứ không phải là chồng.
- Như vậy thì ông là Ngôn Sứ hả? Thôi, chuyện nhỏ, bỏ đi... Bây giờ tôi hỏi ông nha: người Do Thái các ông thì thờ Chúa ở Giêrusalem; còn chúng tôi thì thờ Chúa ở Garidim. Vậy thì các ông làm đúng hay là chúng tôi làm đúng?
- Người Do Thái làm đúng. Ơn cứu độ phải phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng... từ nay người ta không thờ Chúa ở Giêrusalem, cũng không thờ Chúa ở Garidim, mà chỉ thờ Người trong thần khí và trong chân lý.
- Thôi đi ông ơi. Chừng nào Đấng Cứu Thế đến, thì Người sẽ dạy chúng ta về điều ấy.
- Đấng Cứu Thế là người đang nói với chị đây.
Nghe vậy, chị lấy tay ôm mặt, trợn mắt, so vai, co rúm người lại, rồi... chạy ù về làng.
Một giờ sau, dân làng kéo ra gặp Thầy tôi chuyện trò tíu tít. Vui vẻ và thân thương đến cuồng nhiệt. Thầy tôi được mời vào làng. Thầy tôi ở lại hai ngày. Tình nghĩa chan hòa...
Chị Samari mến.
Bây giờ xin chị ngồi yên, lẳng lặng nghe tôi nói. Trước hết tôi nói với chị về chị. Sau đó tôi sẽ nói với chị về Thầy tôi.
1. NÓI VỚI CHỊ VỀ CHỊ
Theo trình thuật của Gioan, chị chỉ xuất hiện bên bờ giếng Giacóp chừng mười phút, rồi biến mất trong ngôi làng vô danh. Biệt tăm. Biệt tích. Mọi người sẵn sàng quên chị. Nhưng tôi thì... đừng hòng. Tôi vẫn miệt mài theo dõi chị. Theo dõi bằng phân tâm học, bằng óc tưởng tượng phong phú trời cho, bằng cả thính giác, thị giác và trực giác nữa.
Thầy tôi bảo chị đã có năm đời chồng và một đời đàn ông. Còn tôi thì khẳng định rằng chị chỉ thích lấy đàn ông, chứ không muốn có chồng. Đàn ông nối đuôi nhau để đến rồi đi. Y như một định mệnh. Chẳng biết tại sao mình đến; chẳng biết tại sao mình đi.
Cặp mắt của chị sắc quá, sắc như dao cau vậy! Lưỡi dao ấn xuống, thì quả cau nào dù già dù non cũng bị tách ra thành hai, thành bốn, thành tám. Mặt miếng cau nào cũng nhẵn thín, tươi rói. Thấy là thèm. Người đàn ông nào nhìn vào cặp mắt ấy đều bị bắt làm tù binh ngay. Khi bị bắt làm tù binh rồi, thì ai cũng chỉ mong được trả tự do. Chị đẹp quá, khôn quá, mà cũng ranh quá! Đẹp như tranh, ranh như quỷ! Bởi thế nên chị mới ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh.
Chị là mẫu người vừa ranh vừa chảnh. Thầy của tôi là một bậc hiền nhân quân tử. Tài trí và thánh đức của Người thì ngàn trùng. Trí đức từ trong tâm thấm qua da thịt, hiện ra trên ánh mắt, bắt mọi người phải thương phải kính. Thế mà chị dám nạt nộ Thầy tôi, khi Thầy tôi nhỏ nhẹ xin chị một ngụm nước. “Ông là người Do Thái, tôi là người Samari. Tại sao ông lại xin tôi nước uống làm chi vậy?” Chua!
Thầy tôi đang trình bày về một thứ nước mà ai uống thì không còn khát. Chị không hiểu. Không hiểu thì hỏi. Không hỏi thì làm thinh. Thế nhưng chị lại vặn vẹo và chọc quê Thầy tôi: “ Nước thì sâu, gầu thì không. Bộ ông ngon hơn tổ phụ Giacóp, người đã đào giếng này cho chúng tôi hả?”. Bà chằng!
Khi Thầy tôi phanh phui quá khứ “thơm tho” của chị ra, chị mới bớt chảnh được tí tẹo. Nhưng liền sau đó, chị né đòn, đánh trống lảng sang chuyện khác. Vừa né đòn vừa chơi trèo. Trèo cao kiểu cô giáo “chơi đố” với các bé mầm non: “Bây giờ tôi hỏi ông nha. Người Do Thái các ông thờ Chúa ở Giêrusalem. Còn chúng tôi thì thờ Chúa ở Garidim. Vậy thì các ông đúng hay là chúng tôi đúng?” Láu cá quá chừng!
Thầy tôi trả lời dứt điểm “Người Do Thái đúng”. Sau đó Người mở ra một chân trời mới: “Từ nay chỉ còn thờ Chúa trong thần khí và chân lý”. Tôi cứ tưởng chị phải cúi đầu xá Thầy tôi ba cái. Ai ngờ... chị cào bằng, coi Thầy tôi như một người bạn đồng môn: “Chừng nào Đấng Cứu Thế đến Người sẽ dạy chúng ta về điều ấy”. Đại danh từ “chúng ta” chị nói nghe cứ ngọt sớt như đường phèn. Hỗn thật!
2. NÓI VỚI CHỊ VỀ THẦY TÔI
Thầy tôi ngồi nói chuyện với chị giữa đồng không mông quạnh. Chị có hiểu được tấm lòng của Thầy tôi không? Nền văn hóa Trung Đông của chị đánh giá đàn bà thấp tè tè. Có một nhà tư tưởng Ả Rập nào đó đã tuyên ngôn rằng: “Đàn bà là hữu thể trung gian giữa đàn ông và con thú”. Các đệ tử của Thầy tôi cũng nghĩ như thế. Họ buồn lắm khi thấy Thầy tôi ngồi nói chuyện với chị như với một đấng nam nhi. Thầy tôi chỉ thấy chị là một hữu thể được Chúa Cha trìu mến và ban Con Một của mình giáng trần để cứu chuộc bằng cái giá cao ngất trời. Trong cái gọi là văn hóa của Thầy tôi, không có bậc cấp cho “Đấng mày râu” và “Thân phận liễu yếu đào tơ”. Tất cả chỉ là một trong Đức Kitô.
Chị ngồi nói chuyện với Thầy tôi, một tôn sư cao quý, mà cứ lanh chanh, loi choi ra vẻ ta đây. Tôi thấy chị giống y như con chim chào mào bị nhốt trong lồng. Đi tù mà không biết thân biết phận. Cứ nhảy lên rồi nhảy xuống, nhảy xuống rồi nhảy lên. Vừa nhảy vừa cong cái đuôi, để khoe mình một cách vô duyên.
Nếu chị gặp tôi, thì tôi không thèm nói với chị lấy một nửa lời. Nhưng Thầy tôi thì chị thấy đấy: khiêm nhu và nhẫn nại vô cùng. Cứ bình tĩnh cho chị chơi trội, rồi từ từ lái chị vào quỹ đạo chân lý.
Không một người Do Thái nào nói chuyện với người Samari. Không một người Do Thái nào đặt chân lên mảnh đất Samari, mảnh đất bị vạ tuyệt thông không thành văn. Chỉ có một mình Thầy tôi không phân biệt Do Thái với Samari. Chỉ có một mình Thầy tôi cứ đi qua Samari để đến Giêrusalem và để về Caphácnaum, trung tâm truyền giáo. Thầy tôi yêu quý dân Samari của chị đến mức độ đã dựng lên một vở kịch ngắn, trong đó người Samari đóng vai nhân vật lý tưởng. Vở kịch đó hôm nay chúng tôi gọi là “Dụ ngôn người Samari nhân từ”.
Chị Samari thân mến.
Khi chị chạy về làng báo Tin Mừng, thì Thầy tôi vẫn ngồi trên thành giếng, lặng lẽ suy tư. Thầy tôi nghĩ về một Giáo hội Samari trong tương lai, một giáo hội thịnh vượng và bình an vô sự. Yêu thương vô vàn! Tôi tin rằng chị là người đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng Giáo hội Samari ấy.
Trong lịch sử truyền giáo chẳng ai nhắc đến chị. Nhưng tôi vẫn gọi chị là nhà truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội.
Chị Samari ơi! Nhà truyền giáo đầu tiên ơi! Tôi không quên chị. Chị đừng quên tôi nhá. Tôi mãi mãi thấy chị chạy ù về làng và cả làng ra đón Thầy.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi sống xa anh gần mười ngàn cây số. Tôi sinh ra sau anh gần hai mươi thế kỷ. Giữa anh và PiôHậu 94
Tôi sống xa anh gần mười ngàn cây số. Tôi sinh ra sau anh gần hai mươi thế kỷ. Giữa anh và tôi có một khoảng cách xa vời vợi. Xa về không gian. Xa về thời gian. Cái xa nào cũng là ngàn trùng.
Tôi quý mến anh và muốn biết thật nhiều về anh. Nhưng lịch sử thế giới không biết anh. Tôi mải mê đọc cuốn Tin Mừng thứ bốn, để may ra lượm được một nắm kỷ niệm về anh. Nhưng Gioan chỉ cho tôi một vài chi tiết thật nhỏ, nhỏ tí ti và mỏng tanh mỏng tang. Buồn quá và giận quá.
Đang buồn, đang giận, bỗng tôi mở choàng mắt ra. Tôi thấy anh rất rõ, rất to nhờ vài lời nói và vài cử chỉ của Thầy Giêsu của tôi.
1. Lúc anh vừa nhắm mắt lìa đời, Thầy tôi giục giã môn đệ: “Chúng ta hãy về miền Giuđê, để đánh thức bạn của chúng ta…”.
Thầy Giêsu của tôi là một sứ ngôn cao cả, là một siêu sao của thời ấy. Thế mà anh không khúm núm, không “kính nhi viễn chi”. Anh chơi thân với Thầy tôi như bạn bè. Anh ngồi ăn với Thầy tôi. Anh chuyện trò và trao đổi với Thầy tôi về thời cuộc, về nhân tình thế thái. Thầy của tôi cô đơn giữa chợ đời. Đệ tử và quần chúng chỉ quý trọng Ngài, chứ không hiểu Ngài. Thấy quần chúng đói, thì thương và cho họ ăn. Ăn xong họ tôn Ngài làm vua. Ngài phải trốn lên núi. Buồn tê tái! Thầy thì say mê cây khổ giá, trò thì hau háu chờ mâm xôi đĩa thịt. Chán vô cùng!
May quá, Thầy tôi gặp anh, một người bạn tâm phúc. Anh hiểu Thầy tôi. Anh chia sẻ tâm tư với Ngài. Tôi cám ơn anh về điều đó.
Tôi mường tượng thấy anh là một mẫu người cao to và bề thế. Ở đời chẳng ai dám bắt nạt anh. Còn anh thì chẳng thèm ăn hiếp ai. Người ta ở đời mà có được phần số như anh, thì chỉ chơi với Thầy tôi, còn đệ tử của Ngài, thì chỉ nhìn bằng một nửa con mắt.
Thật vậy, cái đám đệ tử của Thầy tôi hầu hết là dân ngu cu đen. Trình độ hiểu biết thì chẳng bằng ai. Tác phong đạo đức thì chỉ làm cho Thầy phải hổ ngươi. Thế mà anh không khẳng định đẳng cấp, không coi thường họ, vẫn coi họ như là bạn. Anh vẫn niềm nở với họ, vẫn cười đùa với họ...
Anh là mẫu người có tài và có đức, được người lớn kính trọng, được người nhỏ mến thương. Mừng cho anh.
2. Thầy Giêsu khóc nức nở trước ngôi mộ của anh khiến dư luận bàn tán: “Coi kìa. Ông ấy thương Ladarô biết dường nào!”.
Hai bà chị của anh cũng xác nhận điều đó, khi cho người ra ngoài Bắc báo tin về bệnh tình của anh: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đau nặng”.
Gioan, tác giả cuốn Tin Mừng thứ bốn cũng thấy như vậy: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô”.
Còn tôi thì khẳng định rằng Thầy của tôi quý anh, trọng anh, mến anh và yêu anh. Anh Ladarô ơi, anh phải là người như thế nào mới được Thầy của tôi thương mến đến như thế? Tôi chỉ biết lẳng lặng chắp tay xá anh ba cái, để tỏ lòng kính trọng anh và thương mến anh.
Tôi tin chắc rằng anh yêu kính và thương mến Thầy của tôi vô cùng vô tận. Anh lắng nghe và nuốt từng lời giáo huấn của Thầy tôi. Anh sẵn sàng trả giá cao nhất để làm vui lòng Thầy của tôi. Thấy anh yêu Thầy tôi như thế, tôi cảm động vô cùng. Cám ơn anh vô vàn!
3. Luca, tác giả cuốn Tin Mừng thứ ba kể cho tôi rằng: “Ban ngày Đức Giêsu giảng dạy trong đền thờ; nhưng đến tối, người đi ra và qua đêm tại vườn Cây Dầu”. Tôi sững sờ đến ngẩn ngơ. Tại sao vậy?
Tôi vẫn yên trí rằng: mỗi năm Thầy tôi về miền Nam bốn lần để dự các lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, lễ Lều và lễ Cung Hiến Đền Thờ. Lần nào Thầy của tôi cũng tạm trú tại nhà anh. Ban ngày lên đền thờ để dự lễ và để giảng. Tối đến lại về ăn và nghỉ tại nhà anh. Tại sao tuần lễ Vượt Qua cuối cùng này Ngài lại không trọ ở nhà anh? Chắc là phải có sự cố lớn lắm. Tôi tò mò. Tôi thăm dò. Tôi đoán mò... và tôi hiểu.
Anh đã chết. Đám tang của anh lớn chưa từng có. Chôn cất anh được bốn ngày rồi, mà khách chia buồn vẫn còn nườm nượp. Có lẽ hình ảnh của anh đã ghi khắc vào con tim của hàng ngàn cư dân ở thủ đô. Người giàu sang mến anh, người nghèo khó trọng anh. Và bây giờ họ luyến tiếc anh vô cùng.
Anh nằm trong mộ bốn ngày rồi. Thối rữa ra rồi.
Thế mà Thầy tôi bảo anh đi ra. Anh đi ra thật. Giải băng còn quấn cứng ngắc...
Sự hoảng hốt bao trùm. Niềm vui bùng nổ. Hàng ngàn người lại nườm nượp tuôn đến. Đến để xem người chết sống lại. Anh trở thành thần thánh của ngàn người, của ngàn ngàn người. Anh là hiện thân của một biến cố lịch sử ngàn năm một thuở. Uy tín của anh lên tới tận trời mây. Uy tín của Thầy tôi lên đến tận chín tầng trời mây thăm thẳm. Cả thủ đô từ bần dân đến hạng quyền quý đều khẳng định Thầy Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Thượng tế Caipha và Công nghị phải họp khẩn cấp để đối phó với tình hình khẩn trương. Họ kết án tử hình vắng mặt cho Thầy của tôi. Họ kết án tử hình cho cả anh nữa. Họ ra vạ tuyệt thông cho bất cứ ai tin nhận Thầy của tôi là Đấng Cứu Thế. Bầu khí căng thẳng kinh khủng! Chính vì thế Thầy của tôi không muốn đến trọ ở nhà anh nữa. Cũng chẳng dám đến nhà ai nữa. Đến vườn Cây Dầu ngủ đêm, để khỏi làm phiền cho bất cứ ai. Tôi thương Thầy quá! Nhưng chẳng biết làm gì, chỉ cúi đầu làm thinh, chỉ biết khóc một mình...
4. Còn số phận của anh thì sao? Tôi tiếp tục đọc Tin Mừng. Không có một tin tức gì về anh. Biệt tăm. Tôi lại tò mò. Tôi lại thăm dò. Tôi lại đoán mò. Và tôi lại thấy anh.
Tôi theo dõi thân phận của nhà văn Rushdy, tác giả của cuốn “Vần Thơ Quỷ”. Vị lãnh đạo cao cấp nhất của Hồi giáo ở Irăng là Khumêni. Ông đã tuyên bố công khai rằng: “Mọi tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới có nhiệm vụ phải giết Rushdy vì cuốn Vần Thơ Quỷ của hắn xúc phạm đến Đấng Mahômét”. Thế là cảnh sát nước Anh phải bỏ ra hằng triệu bảng Anh để bảo vệ mạng sống của công dân Rushdy.
Từ đó tôi hiểu rằng thân phận của anh cũng giống như thân phận của Rushdy. Hàng ngàn tín đồ Do Thái giáo cuồng tín sẵn sàng ăn thề để giết anh theo lệnh của Thượng tế Caipha. Rushdy thì được cảnh sát nước Anh bảo vệ. Còn anh thì... chỉ còn một cách là vượt biên. Nhưng anh vượt biên đến nước nào? Tôi lại đoán mò.
Vào thời Saolô bắt đạo, nhiều tín đồ của Chúa vượt biên trốn lên đảo Sip, đảo Crét. Có người đi xuống tận Kyrênê, thuộc nước Lybia bây giờ. Cuối cùng họ kéo nhau về Antiôkia.
Anh có đến những nơi đó không? Tôi tin là không, vì ở nơi nào cũng có nguyện đường Do Thái. Do đó nơi nào có người Do Thái thì mạng sống của anh vẫn chỉ như trứng treo đầu gậy.
Tôi tin chắc nịch là anh trốn lên Samari. Dù người Do Thái biết anh ở đó, thì cũng chẳng dám đến mà ám sát anh. Chính Saolô biết ở Samari có nhiều người theo Chúa, thế mà anh ta có dám đến đó để bắt đâu. Anh ta phải lên tận Đamát, phải mua hết tám ngày đường: gian khổ, tốn kém!...
Anh sống thế nào và làm gì để sống ở Samari?
Tôi biết anh rõ lắm. Anh hiểu hết tâm và tư của Thầy tôi. Anh yêu Người bằng tất cả tâm và tư của anh. Anh không sợ chết đâu. Anh còn muốn được chết vì Thầy của tôi nữa là đàng khác. Nhưng anh chưa cần phải chết. Anh muốn dành hết thời giờ còn lại để loan báo Tin Mừng. Tiền bạc, cơm áo... thì anh không thiếu. Hai chị Mácta và Maria chu cấp cho anh thừa mứa, đến độ anh phải la lên: “Thôi! Đừng lo cho em nữa”.
Anh yêu Thầy của tôi, nên anh cũng yêu tha thiết người nghèo. Anh hiểu tấm lòng của Thầy tôi nên anh rất yêu mến và kính trọng người Samari.
Luca kể lại trong cuốn Công vụ Tông Đồ rằng: “Miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa”. Tôi hiểu thêm rằng: Giáo hội Samari vừa phát triển mạnh, vừa bình an vô sự. Đó là công lao của những tín hữu trốn cuộc bắt bớ của Saolô. Nhưng tôi nghi ngờ rằng anh là người có công nhất và là linh hồn của Giáo hội Samari. Cũng chỉ vì anh là bạn thân của Thầy tôi.
Anh Ladarô mến.
Anh là bạn thân của Thầy tôi. Anh yêu Thầy tôi. Tôi cũng yêu Ngài như anh. Vậy chúng ta là anh em. Và Thầy Giêsu là Thầy của chúng ta.
Thương anh vô vàn!
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc Ẩn bớt
Hôm ấy Thầy tôi vừa về tới nhà anh Simon, thì bà con kéo nhau đến. Dập dìu. Tíu tít. Bỗng tôi PiôHậu 95
Hôm ấy Thầy tôi vừa về tới nhà anh Simon, thì bà con kéo nhau đến. Dập dìu. Tíu tít. Bỗng tôi thấy ông từ xa, vội vã đi tới. Đi như bơi. Đi như bay. Nhìn khăn áo xênh xang của ông, tôi biết ngay ông là ai rồi. Ông là thủ lãnh Hội Đường. Ông đến để theo dõi, để bắt bẻ Thầy tôi. Thấy mặt ông là tôi ghét rồi.
Nhưng không… Tôi thấy ông phủ phục dưới chân Thầy tôi. Tôi chạy vội tới. Ông nghẹn ngào, ông nhệu nhạo: - Con gái tôi sắp chết rồi. Xin Thầy thương đến cứu nó. - Mời ông đứng dậy. Chúng ta cùng đi.
Ông Gia-ia ơi, từ giờ phút này, tôi không còn có thành kiến về ông nữa. Tôi thương mến ông quá chừng. Tôi lẽo đẽo đi theo Thầy. Tôi ghi khắc từng thái độ, từng cử chỉ nhỏ nhặt của ông.
1. Ông rảo bước bên cạnh Thầy tôi. Hai chân bước thoăn thoắt, nhưng hai bàn tay vẫn đan nhau và cúi đầu mà đi. Có vẻ kính trọng, lắng nghe và suy nghĩ. Dân chúng xô lấn dẫm đạp lên nhau. Ông lấy vai đẩy quần chúng ra để bảo vệ Thầy. Nhưng nhiều lần tôi thấy ông cố tình lợi dụng sức xô lấn của quần chúng, để chạm mạnh vào cánh tay của Thầy tôi một cái. Dễ mến quá, mà cũng đáng kính quá! “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”.
2. Tôi thấy ông đang đi, bỗng đứng khựng lại, dang tay, trợn mắt:
- Cái gì đấy mày? - Thưa ông, Bé chết rồi. Đừng phiền Thầy nữa. Ông lấy hai bàn tay bưng lấy mặt, hự lên một tiếng. Tuyệt vọng!
Thầy tôi ôm lấy vai ông, an ủi,vỗ về: - Không sao đâu ông ạ. Cứ tin là được. - Hu… hu… Xin Thầy thương cứu con tôi với.
Ông ơi, tôi chưa bao giờ thấy một người đàn ông mà khóc hù hụ như thế. Ông bị sốc. Đang hy vọng tràn trề, thì tuyệt vọng. Nếu Bé còn thoi thóp, thì còn hy vọng. Bây giờ nó đã tắt thở, Thầy cũng phải bó tay.
Thầy tôi nhìn thẳng vào mặt ông. Ánh mắt đầy quyền lực. Ánh mắt đầy tình thương. Tôi thấy ông ngước mắt nhìn Thầy tôi. Thầy tôi khẽ mỉm cười. Ông vui vẻ nắm lấy tay Thầy tôi và dìu nhau đi. Quần chúng ngơ ngác một lúc, rồi lại ồn ào và xô đẩy nhau đi, y như một dòng thác…
3.Nhà ông kia rồi. Đàn ông thì lố nhố, chạy tới chạy lui, dựng cái lều, buộc sợi dây, khiêng cái bàn… Đàn bà thì xõa tóc, bò lê bò càng, vừa than vừa khóc. Người khóc thì gào lên, xé áo, giật tóc. Người than thì vừa gật gù, vừa kể lể nỉ non, có vần có điệu.
Vừa về tới sân, ông lao ngay vào chỗ Bé nằm. Ông làm gì trong đó, thì tôi không biết. Tôi đứng với Thầy ở ngoài sân. Dân chúng chỉ biết nhìn, chả biết phải làm gì. Thầy tôi đứng thẳng băng, giơ tay vỗ bốp bốp, làm hiệu cho mọi người im lặng, để lắng tai nghe: “Bà con ơi, đừng khóc nữa. Bé có chết đâu. Nó ngủ đấy mà”. Giọng Thầy có chút khôi hài.
Thế là đám tang biến thành đám biểu tình. Đàn bà đang than khóc thảm thiết, bỗng chùi khô nước mắt, đổi giọng, để chửi tơi bời hoa lá.
- Nó chết mà bảo là nó ngủ. Vô duyên!
- Ông tưởng chúng tôi ngu cả hay sao mà không biết thế nào là ngủ, thế nào là chết. - Đùa không phải chỗ. Chết mà bảo là ngủ.
- Người lớn mà ăn nói như trẻ con.
- Dân Nadarét nó vậy đấy.
Đàn bà thì đua nhau chửi. Đàn ông thì đứng nhìn, khều nhau, tủm tỉm cười. Vô tư. Thầy tôi thì đứng thẳng, khoanh tay, nhìn các bà nổi tam bành, không buồn, không giận. Dường như có chút hóm hỉnh. Bỗng Ngài lập nghiêm, tuyên bố chắc nịch: “Xin bà con đứng hết ở ngoài sân, không ai được vào trong nhà”. Nói xong Ngài làm hiệu bảo Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng Ngài đi vào chỗ Bé đang nằm chết. Hai vợ chồng ông thì đã ở trong ấy rồi.
Tôi chạy vội đến ô cửa sổ để nhìn trộm. Tôi thấy Bé nằm trên giường, da mặt xám ngoét. Vợ ông gục mặt trên ngực Bé, khóc nức nở. Ông đứng phía bên kia, hai tay bịt mặt, đứng lặng như một pho tượng. Thầy tôi dang tay, ngước mắt nhìn lên. Y như xuất thần. Im lặng bao trùm, mọi người nín thở chờ đợi. Lâu lắm, lâu lắm. Bỗng Thầy tôi bước ba bước tới chỗ ông đứng. Vẫn im lặng. Thầy tôi im lặng nhìn Bé. Mọi người im lặng nhìn Thầy tôi. Trên khung cửa sổ chỉ còn có những cặp mắt không chớp, nhìn lom lom.
Bé ngồi phắt dậy, nhảy xuống nền đất, chạy lại ôm lấy Thầy tôi. Ông chạy lại ôm cả Thầy tôi lẫn con của ông. Vợ ông cũng chạy lại ôm lấy Bé. Dân chúng ở ngoài sân chạy vào, thi nhau xoa đầu Bé. Một cơn mừng điên bùng vỡ…
Khi cơn mừng điên dịu xuống, Thầy tôi bảo vợ chồng ông: “Bé đói. Cho Bé ăn đi”. Vợ ông đưa bé vào nhà bếp. Còn ông thì đứng chết trân, chẳng biết nói gì, chỉ biết khóc. Khóc vì biết ơn. Khóc vì yêu mến. Khóc vì mừng quá. Bỗng ông quỳ xuống, ôm chân Thầy tôi và thốt lên: “Thầy”. Thế là từ giây phút này, chúng ta có chung một Thầy. Chúng ta là anh em.
4. Mọi người đều mừng, mừng như điên. Nhưng dường như Thầy có một nỗi lo. Thầy nói to cho mọi người đều được nghe: “Đừng cho ai biết chuyện này nhá”. Ai nấy đều trợn mắt hỏi nhau. Chẳng ai hiểu tại sao. Dường như ông cũng chẳng hiểu gì. Mặt ông nghệt ra. Thấy mà tội nghiệp…
Ông Giaia thân mến!
Thầy chúng ta không còn ở đó nữa. Niềm vui điên đã lắng đọng. Nhưng dư âm vẫn còn phảng phất về lâu về dài. Gia đình ông hạnh phúc hơn xưa nhiều. Vợ chồng ông cứ xoắn lấy hình ảnh của Thầy. Cháu Bé của ông cứ nhắc đến Thầy hằng ngày, hằng đêm. Hình ảnh của Thầy, ánh mắt của Thầy, giọng nói của Thầy lúc nào cũng đầy ắp trong ký ức của ông. Một kỷ niệm không phai mờ. Một hồng ân không bao giờ quên.
Ông Giaia ơi, chuyện về gia đình của ông đến đây là tạm ngưng. Bây giờ tôi muốn cùng ông trở về những kỷ niệm quá khứ, để nhìn ngắm Thầy kỹ hơn, để yêu Thầy nhiều hơn.
1. Khi ông tuyệt vọng vì nghe tin con ông đã chết, tôi thấy Thầy bị xúc động. Ngài ôm vai ông, vỗ về như một người mẹ. Ánh mắt của Người, giọng nói của Người như thấm vào tim, như ngấm vào ruột gan. Tôi không ngờ: Thầy là đàn ông mà cũng nhạy cảm như phụ nữ; Thầy là nam nhi mà cũng hiền từ như một người mẹ. Cao to như thế, uy nghi như thế, vậy mà cũng dịu dàng, cũng ngọt ngào đáo để. Đáng kính là thế. Dễ thương là vậy. Nếu tôi là Thầy thì tôi chẳng vỗ vai ông, chẳng an ủi ông đâu. Kệ. Đàn ông cứng rắn, vỗ về làm chi. Nhưng may quá, Thầy không phải là tôi, Thầy là quả tim, nên ông được trìu mến, được cảm nghiệm Thiên Chúa là tình yêu.
2. Anh nghĩ gì về đám phụ nữ đến khóc thương con anh hôm ấy? Đang khóc như thế, mà bỗng dưng quên bẵng. Quên khóc để chửi. Y như khóc mướn. Y như khóc giả. Buồn cười thật!
Anh nghĩ gì về Thầy? Thầy lỡ lời, nên bị đàn bà chửi? Hay là Thầy cố tình nói ngang, để cho đàn bà chửi? Tôi nghĩ rằng lúc đó anh chẳng quan tâm gì đến việc này. Con tim của anh đang tê dại về cái chết của con Bé, thì còn lòng dạ nào, để đánh giá thái độ của Thầy và của đám đàn bà ấy. Nhưng tôi thì theo dõi và nắm bắt mọi chi tiết.
Thấy đàn bà thi nhau chửi, tôi chỉ cười thầm trong bụng, vì tôi thấy Thầy rất bình tĩnh. Thầy tủm tỉm cười, hấp háy cặp mắt, tiên báo một chiến thắng dòn dã… Đúng thế thật. Khi Bé ngồi dậy thì mọi người chen nhau vào trong nhà để chứng kiến phép lạ. Còn đám đàn bà thì trốn hết xuống bếp, vừa cười vừa nói chí chóe:
- Tao lỡ mồm chửi ông ấy. Bậy quá! Tao xấu hổ muốn chết.
- Đứa nào già mồm nhất, thì phải thay mặt chị em mà đi xin lỗi ông ấy.
- Ừ, phải đấy. Ông ấy không giận đâu.
- Tao sẽ xin làm đệ tử của ông ấy, để đền tội.
- Phải rồi, nhờ chị Mácđala nói giùm cho. ...
Anh thấy Thầy cao tay chưa. Làm bộ dại để cho đàn bà chửi. Chửi hai phút rồi yêu suốt đời. Khôn ơi là khôn. Mấy bà phụ nữ ấy sau này đi truyền giáo, thì mạnh miệng hơn ai hết.
3. Khi con bé của anh sống lại, ai nấy đều mừng. Mừng quá mà quên rằng nó đang đói. Chỉ có một mình Thầy nghĩ ra điều đó và bảo vợ chồng anh lấy cơm cho nó ăn.
Thầy là mẫu người rất lạ: chuyện lớn không bỏ, chuyện nhỏ không quên. Cho Bé sống lại là việc lớn. Lo cho Bé ăn là chuyện nhỏ. Cái nào Thầy cũng chu toàn. Tôi nghiệm ra rằng Thầy là một người đàn ông hoàn hảo nhất, cộng với một người đàn bà chu đáo nhất. Trên đời chỉ có một người như thế thôi. Xin anh cùng tôi chắp tay xá Thầy một ngàn cái.
4. Thầy căn dặn rất kỹ: “Đừng cho ai biết việc này”. Tại sao kỳ vậy? Việc này quá lớn, ai cũng biết cả rồi. Vậy tại sao Thầy lại không cho nói? Tôi hiểu tâm và ý của Thầy. Ý Thầy muốn nói là đừng đề cao Thầy, kẻo làm xấu mặt các ông Pharisêu và kinh sư. Uy tín của Thầy lên, thì uy quyền của họ xuống. Thế là họ gây khó, để trả thù. Kết quả là việc loan báo Tin Mừng bị ngưng trệ.
Thầy không nghĩ đến bản thân, chỉ lo cho Tin Mừng. Dân chúng yêu Thầy, nhưng yêu sai, làm khổ cả Thầy lẫn Tin Mừng.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi là dân Galilê về thủ đô dự lễ. Tình cờ tôi thấy Thầy Giêsu ca tụng tấm lòng to lớn của bà PiôHậu 96
Tôi là dân Galilê về thủ đô dự lễ. Tình cờ tôi thấy Thầy Giêsu ca tụng tấm lòng to lớn của bà. Vì thế tôi mạn phép đặt tên cho bà là Đại Tâm. Bà hiểu tôi rồi chứ. Bây giờ xin mời bà nghe tôi kể chuyện.
Ở ngoài Bắc, dân chúng say mê thầy Giêsu như một siêu sao. Người đi đến đâu, thì dân đeo theo tới đó. Người ta chen lấn nhau, để được Người đặt tay trị bệnh. Lắm lúc Người không còn thời giờ ăn uống và nghỉ ngơi. Có khi vừa ăn vừa giảng. Giảng mải mê đến mức độ ổ bánh mì cầm ở tay, mà lâu lắm mới cắn được một miếng. Khi nào đuối sức quá, thì Người phải trốn sang bên kia sông Giođan, hoặc lên tận miền cực Đông Bắc, vùng núi Hermon để nghỉ ngơi đôi chút.
Vừa về tới thủ đô, tôi vội vã đi tìm Thầy Giêsu. Tìm mãi chả thấy. Bỗng thấy Người ngồi trên bậc thềm. Rất đăm chiêu. Thấy người nghiêm nghị quá, tôi không dám lại gần, chỉ đứng xa xa mà chiêm ngưỡng. Người quan sát thiện nam tín nữ bỏ tiền vào thùng công đức. Dường như Ngài hiểu hết tâm tư của người dâng tiền.
Có những người Do Thái kiều từ nước ngoài trở về. Quanh năm họ sống trên mảnh đất của người ngoại. Hằng ngày họ giao tế với người không cắt bì. Họ giàu lắm, nhưng lương tâm họ không lúc nào mà không cắn rứt. Họ mang mặc cảm tội lỗi đầy mình. Hôm nay về quê hương, họ bỏ tiền vào thùng công đức thật nhiều, vừa có ý đền tội, vừa có ý khoe: khoe đạo đức; khoe giàu sang. Thầy Giêsu nhìn họ bằng nét mặt vô tư.
Có những bà mệnh phụ giàu sang: vòng vàng đeo rủng rỉnh; lại có vài cô hầu đi theo. Họ đứng bên thùng tiền, nói chuyện với nhau thật rôm rả, moi tiền trong bóp ra một cách chậm rãi, bỏ tiền vào thùng một cách trang trọng và nhiều lần. Khách bàng quan nhìn họ bằng cặp mắt thèm thuồng và kính trọng. Nét mặt của Thầy Giêsu cứ vô tư.
Có những chàng thanh niên tay này cầm ổ bánh mì, miệng nhai nhóp nhép; tay kia cầm đồng tiền bỏ vội vào thùng, rồi quay ngoắt một cái. Vừa chạy đi vừa cười toe toét, y như một trò chơi vô duyên. Không ai nói gì, vì đấy là chuyện bình thường. Thầy Giêsu cúi đầu, cắn môi tỏ vẻ buồn phiền.
Có một ông trung niên, khăn áo chỉnh tề, dõng dạc đi tới trước thùng tiền. Mọi người lui ra để nhường chỗ. Ông moi từ hầu bao ra bảy đồng tiền bóng láng, xếp một hàng ngay ngắn trên mặt thùng, rồi nhón từng đồng, nhẹ nhàng bỏ vào thùng. Bỏ xong đồng tiền thứ bảy, ông dang tay cầu nguyện một lúc lâu, rồi trang trọng lui gót. Mọi người cúi đầu chào. Ông mỉm cười, giơ tay vẫy chào. Thầy Giêsu xòe hai bàn tay bưng vội lấy mặt. Dường như Ngài thổn thức...
Có một người đàn bà rụt rè đi tới. Khăn áo lùng bùng, cũ kỹ, nhưng không tồi tàn. Bà cầm giữa hai ngón tay một đồng xu mỏng dính, nhét vào kẽ thùng công đức, rồi thẹn thùng rút lui. Thầy Giêsu đứng bật dậy, tập trung lập tức mười hai đệ tử đang đứng xớ rớ xung quanh đó. Người dang tay chỉ về phía người đàn bà đang lủi vào đám đông, phấn khởi tuyên bố: “Đó là người dâng cúng nhiều nhất. Người giàu có bỏ vào thùng nhiều tiền lắm, nhưng dù nhiều thì cũng chỉ là tiền lẻ trong sinh hoạt của gia đình thôi. Còn bà góa ấy tuy chỉ bỏ vào thùng một đồng xu thôi, nhưng đồng xu ấy là tất cả những giọt mồ hôi của một ngày tất bật lao động, là nồi cơm mỏi mắt trông chờ của một gia đình”.
Mười hai đệ tử kiễng chân và rướn người để tìm người đàn bà ấy. Còn tôi thì ba chân bốn cẳng, rượt theo người đàn bà ấy. Người đàn bà ấy chính là bà đấy...
Tôi lặng lẽ và lẽo đẽo theo bà cho tới tận xóm ổ chuột. Bà chui vào căn chòi tồi tàn. Còn tôi thì đi từ đầu đến cuối xóm. Nhà nào tôi cũng vào, để điều tra lý lịch của bà. Tôi phải hiểu thật nhiều về bà, để hiểu thật nhiều về Thầy Giêsu của tôi.
Bà Đại Tâm kính mến!
Bây giờ bà đang lúi húi bên bếp lửa, trong cái chòi tồi tàn ở xóm ổ chuột. Còn tôi thì đang ngồi xếp bằng trên giường nệm của một nhà trọ. Tôi không muốn ăn, vì không thấy đói. Tôi không muốn ngủ, vì lòng trí tôi không chịu ngưng đọng. Tôi muốn nghĩ thật nhiều: nghĩ về Thầy Giêsu trong bối cảnh đại lễ tại thủ đô; nghĩ về bà, một người “Bần cư trung thị, vô nhân vấn” (người nghèo ở giữa chợ, chẳng ai thèm hỏi), thế mà lại được sư phụ Giêsu tôn vinh như một hoa hậu, như một siêu sao. Ở ngoài Bắc dân chúng đeo theo Thầy Giêsu trùng trùng điệp điệp. Thế mà hôm nay về thủ đô tôi thấy Ngài ngồi thơ thẩn một mình. Ngài rảnh rỗi đến độ ngồi xem người ta bỏ tiền vào thùng. Quần chúng đi lại nườm nượp, đi qua ngay trước mặt Ngài, mà cứ phớt lờ như không biết. Tức quá, tôi mở ngay một cuộc điều tra. Ra ngoài phố, gặp ai tôi cũng hỏi. Hỏi từ ông kinh sư, đi đứng đàng hoàng như ông thiên triều, cho tới người hành khất ngồi co ro, dúm dó như con khỉ già sắp chết. Chừng đó tôi mới hiểu.
Sau sự cố Thầy Giêsu cho ông Ladarô chui ra từ hầm mộ, nơi ông được an táng đã bốn ngày, thì uy tín của Thầy bao trùm trên mọi tâm tư của toàn thể dân cư ở thủ đô Giêrusalem. Uy tín của Ngài lên cao bao nhiêu, thì uy quyền của thượng tế Caipha và Công nghị xuống thấp bấy nhiêu. Bị dồn vào chân tường, Caipha ra vạ tuyệt thông cho bất cứ ai tin theo Thầy Giêsu. Bị vạ tuyệt thông đồng nghĩa với bị truất quyền tín đồ và công dân Do Thái. Một nỗi sợ bao trùm. Mọi lương tâm áy náy. Thương Thầy Giêsu quá, nhưng lại sợ vạ tuyệt thông quá thể. Đành cắn răng, cúi mặt làm thinh.
Thầy Giêsu cô đơn giữa một rừng người hâm mộ. Chuyện ngược đời. Nhưng đời là thế và vẫn thế. Tức quá, tôi đi tìm Thầy Giêsu và phỏng vấn Ngài. Ngài không buồn không tủi, trả lời một cách bình thản: “Chúa Cha đã an bài hết rồi. Tôi sẽ bị bắt, bị hành hạ, bị giết. Nhưng ngày thứ ba tôi sẽ sống lại”. Tôi nghe Thầy tâm sự mà như vịt nghe sấm. Không dám hỏi, vì không muốn tỏ ra là mình dốt. Tôi để đấy, để ngẫm nghĩ từ từ. Sau chừng mười giây im lặng, tôi chuyển đề tài phỏng vấn sang hướng khác.
Tôi hỏi: “Tại sao một người đàn bà nghèo mạt chỉ bỏ vào thùng công đức một đồng xu quèn, mà Thầy hứng chí và ca tụng rùm beng làm chi vậy?” Thầy âu yếm nhìn tôi và tâm sự rất lâu. Giọng nói ôn tồn và ánh mắt trìu mến của Thầy làm tôi xúc động đến ứa lệ.
Bây giờ tôi mới biết Thầy yêu người nghèo da diết. Thầy sống nghèo như người nghèo và với người nghèo để chia sẻ kiếp sống lầm than của họ. Thầy tự đồng hóa với họ để dạy loài người một bài học: yêu người nghèo là yêu Chúa, khinh dể người nghèo là xúc phạm đến Chúa. Ngài quyết tâm nâng đạo yêu người lên ngang tầm với đạo yêu Chúa. Ngài kể lại cho tôi nghe dụ ngôn “Ngày thẩm phán cuối cùng”.
Con Người ngự trên ngai phán với người lương thiện rằng: “Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc...” Mọi người lương thiện đều trợn mắt lên tỏ vẻ bỡ ngỡ cực kỳ: “Chúa ơi, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, thấy Chúa khát mà cho uống đâu...” Đức Vua từ trên ngai vui sướng dang tay, niềm nở giải thích ngay tức thời: “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, thì là làm cho chính Ta”. Người lành kéo nhau vào thiên đàng vừa đi vừa bỡ ngỡ nhìn nhau.q
Sau đó Đức Vua dòm sang bên trái, gay gắt phán với bọn ác nhân rằng: “Hỡi quân bị nguyền rủa, hãy cút đi mà vào lò lửa đời đời dành sẵn cho Ác Quỷ. Ngày xưa Ta đói mà không cho ăn; Ta khát mà không cho uống...” Hàng ngàn cánh tay vung lên phản đối ầm ĩ: “Chúng tôi có thấy Chúa bao giờ đâu mà Chúa bảo chúng tôi không cho Chúa ăn, không cho Chúa uống? ...” Chúa nghiêm nghị trả lời: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những kẻ nhỏ nhất đây, thì là đã không làm cho Ta...” Bọn ác nhân khóc òa lên một cách tuyệt vọng.
Bà Đại Tâm ơi, sau khi Thầy Giêsu ngỏ bày hết nỗi lòng của Ngài đối với người nghèo, Ngài xúc động nhắc đến bà, quý mến bà như cục vàng trong hũ, như ngàn hoa trên rừng Xuân. Chỉ vì cái tấm lòng của bà: cao quý quá, chân thành quá. Đối với Thầy Giêsu, cái tâm ấy là tuyệt vời. Cái tâm ấy mà ẩn chứa trong thân phận nghèo khổ như bà, thì là trên tuyệt vời.
Bà Đại Tâm ơi! Mừng cho bà!
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi không biết tên Chị. Tôi mạo muội gọi Chị là Lệ Sa, vì hôm ấy, khi đến Nain, tôi thấy Chị PiôHậu 97
Tôi không biết tên Chị. Tôi mạo muội gọi Chị là Lệ Sa, vì hôm ấy, khi đến Nain, tôi thấy Chị đang khóc như mưa, khóc là chuyện buồn, chẳng nên nhắc đến làm chi. Nhưng kỷ niệm buồn của Chị hôm ấy đã trở thành tuyệt vời. Tôi muốn nhớ mãi. Nhớ suốt đời. Chị thông cảm nhá.
Đoàn hành hương của chúng tôi đến Nain vào lúc mặt trời đứng bóng. Nóng như nung. Mồ hôi nhễ nhãi. Thầy trò chúng tôi ngồi nghỉ xả hơi dưới bóng cây ôliu cổ thụ. Đàn ông đàn bà tranh nhau nói. Đàn ông thì đua nhau khoe với Thầy về lịch sử và địa lý thành Nain. Đàn bà thì thi nhau giới thiệu với Thầy về hoa quả và bánh kẹo của làng quê hẻo lánh. Thầy chỉ đáp lễ bằng nụ cười đồng cảm. Cười thay cho lời nói, vì chẳng biết nói với ai bây giờ.
Tôi là mẫu người không thích bọn lắm mồm, không ưa thói hay bép xép, bèn đứng thơ thẩn một mình, suy nghĩ mông lung. Tôi thương hại cho quê hương Nain của Chị, vì: nhìn về hướng Bắc, chỉ thấy núi Tabo đứng sừng sững, che khuất hết miền Galilê thân thương; nhìn về hướng Nam, thì chỉ thấy xứ Samari, miền đất của đồng bào lạc loài, của người đồng đạo ly khai.
Tôi đang bùi ngùi nghĩ về địa thế bất lợi của Nain, thì bỗng… có tiếng kèn não nề của đám ma. Người đưa đám thì thưa thớt. Người để tang thì chỉ có một. Tôi đánh giá ngay: đây là đám tang của một người chưa trưởng thành. Một nỗi buồn nho nhỏ thoáng hiện trong con tim của tôi. Chết là chuyện buồn, nhưng là chuyện bình thường của thế sự. Buồn mãi rồi sinh ra chai lì. Nhưng Thầy chúng tôi thì không vô tư như tôi. Người thảng thốt đứng bật dậy, vội vã đi về phía đám tang. Chúng tôi miễn cưỡng lẽo đẽo chạy theo. Người giơ tay bảo đô tùy đứng lại. Họ đứng sững, ngơ ngác nhìn Người. Người đi vội ra phía sau, đặt tay lên vai Chị, một người đàn bà xõa tóc, áo rách te tua, đang khóc nức nở, khóc như người mất trí. Người dịu dàng an ủi Chị: “Chị ơi, thôi đừng khóc nữa!” Chị nhìn Người. Người nhìn Chị. Ánh mắt của Người xoa dịu nỗi đau. Chị thôi khóc, lấy vạt áo rách lau nước mắt, ngong ngóng chờ một hồng ân kỳ diệu. Người quay sang phía người chết. Người chết chỉ là đống vải liệm, bó chặt như một cái kén khổng lồ. Người đặt tay lên đống vải gọi lớn tiếng: “Em ơi! Ngồi dậy đi!” Cái kén khổng lồ giãy giụa. Đạo tì đặt vội giàn khiêng xuống, bu lại giật đứt dây buộc xác. Xác chết ngồi dậy. Mọi người kêu òa lên: “Nó sống lại rồi. Trời ơi là trời!” Thằng con trai của Chị ngơ ngác nhìn xung quanh, rồi nhảy chồm lên, ôm lấy Chị, vừa kêu vừa khóc: “Mẹ ơi! Cái gì vậy?” Mẹ con ôm nhau, cười trong nước mắt. Bà con xúm lại, vừa cười vừa vỗ bịch bịch vào vai vào lưng hai mẹ con. Mừng quá! Mừng như điên.
Thầy chúng tôi giơ hai tay yêu cầu đám đông dãn ra. Người đến đặt hai tay lên vai Chị và thằng con trai. Ba cặp mắt nhìn nhau. Đắm đuối! Hai mẹ con quỳ thụp xuống, ôm chân Thầy mà khóc. Khóc như mưa. Khóc vì mừng. Khóc vì biết ơn. Thương mến vô cùng vô tận!
Chị mời Thầy về nhà. Đám tang buồn trở thành đám tiệc vui. Cả thành kéo nhau đến nhà Chị. Ngồi đầy trong nhà. Đứng đầy ngoài sân. Xóm giềng tự nguyện đem gà vịt đến. Đàn bà đàn ông đua nhau làm bếp. Tiếng cười nói, tiếng dao thớt cứ vang lên như hội chợ. Trẻ con thì tíu tít kéo áo người lớn, vừa hỏi vừa liếc mắt nhìn trộm Thầy: “Ngôn sứ Giêsu đấy hả? Ngôn sứ là gì? Sao mà giỏi thế!”
Đang là một người đàn bà bạc phước bỗng dưng Chị trở thành một nhân vật quan trọng. Người người quý mến. Người người khen ngợi. Ai cũng muốn hỏi Chị một câu. Người nào cũng muốn kéo áo Chị để chia sẻ niềm vui. Có vài người nhìn Chị đắm đuối, mơ ước xa xôi…
Chị tất bật tiếp khách một buổi chiều và một đêm trắng. Không còn giờ để ăn. Không có giờ để nghỉ. Nhưng vui quá mà quên mệt. Còn Thầy chúng tôi thì mệt gấp đôi Chị. Ông già bà cả, thanh niên và trẻ con đua nhau nhìn ngắm, thi nhau hỏi han, tranh nhau kéo áo. Thương Thầy quá, chúng tôi khuyên bà con cho Thầy nghỉ xả hơi một chút. Nói mà chả ai nghe. Y như nói với người điếc. Vừa thương Thầy vừa tội nghiệp bà con quá ái mộ. Đành chịu thua.
Sáng hôm sau, Thầy trò chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về thủ đô Giêrusalem. Bà con tò mò đi theo khá đông. Nhưng khi thấy Thầy chúng tôi tiến vào xứ Samari, thì mọi người dừng lại, lắc đầu và đánh mất gần hết thiện cảm đối với Người. Chị cũng đứng sững lại, nuối tiếc nhìn theo. Tôi biết Chị vẫn thương Thầy, nhưng không khỏi có chút giận lẫy.
Chị Lệ Sa ơi! Từ hôm ấy tôi không còn gặp nữa. Nhưng từ một phương trời xa tắp tít, tôi muốn gửi về Chị một chút tâm tình.
Tôi là đệ tử của Thầy Giêsu. Chị cũng đã trở thành môn đệ thân tín của Người. Từ nay chúng ta coi nhau như chị em nhá. Tôi theo Thầy trước Chị, nhưng thấy Chị thương Thầy hơn tôi nhiều, nên tôi xin được làm em của Chị.
Với tư cách là một người em, em nói chuyện tâm tình với Chị. Với tư cách là một đệ tử thâm niên của Thầy, em góp ý với Chị.
1. CHUYỆN TÂM TÌNH
Trong quá khứ, Chị là người đàn bà bạc phước, chẳng ai thèm dòm ngó. Vừa lấy chồng, thì chồng đã vĩnh viễn ra đi. Đẻ được một đứa con trai, chưa kịp vào đời, thì đời đã ngoảnh mặt làm ngơ. Nỗi buồn chồng chất làm Chị héo hắt. Duyên sắc cuốn gói ra đi. Thằng quỷ xấu xí, lù lù bước tới. Đời của Chị kể như đã tàn.
Thế rồi bỗng dưng Chị gặp Thầy. Thầy cho con Chị sống lại. Thầy cho hạnh phúc của Chị bị chôn vùi qua bao nhiêu năm tháng, nay bùng trỗi dậy, lại rực rỡ, lại rung rinh. Ánh mắt của Thầy như liều thuốc thần diệu giúp Chị mãi mãi chìm ngập trong niềm hạnh phúc bất diệt. Dư luận trên toàn quốc đang hướng về Chị. Đàn bà ngưỡng mộ Chị. Đàn ông say mê Chị.
Niềm vui không biên giới biến Chị thành bông hoa: rực rỡ ban ngày, rung rinh ban đêm, không thèm đếm thời gian. Thời gian ngưng đọng. Thời gian chết.
Là đàn ông, em hiểu biết tâm lý đàn ông. Vì thế em xin Chị hãy cảnh giác. Đừng quá hãnh diện mà sinh ra kiêu ngạo. Đừng quá vui sướng mà vẫy tay chào đón mọi người. Hoa đẹp thì để cho đời ngắm ngó, nhưng đừng để cho người rờ mó. Chị nhớ giùm em nhá.
Vì quá thương Chị mà em nói thế, chứ thật ra thì em vẫn tin rằng ở trên đời này Chị chỉ còn biết một mình Thầy mà thôi. Ánh mắt của Thầy đã gửi vào tâm tư của chị những gì là cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Trong tim của chị chỉ có Thầy mà thôi.
2. LỜI NHẮN NHỦ
Chị ơi! Thầy của chúng ta rất dị ứng với tinh thần bài ngoại của truyền thống dân tộc. Từ hơn năm trăm năm qua, dân tộc ta đánh mất chừng một phần ba dân số. Người Samari cũng là con cái của Ápraham, thế mà ta coi họ như người ngoại. Khinh dễ nhau, ghét bỏ nhau đến nỗi từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc chúng ta không thèm đi qua xứ Samari. Tôi nghĩ rằng chính chị cũng ghê tởm người Samari, như mọi người Do Thái chúng ta. Nhưng tôi xin nói thẳng với chị rằng: kỳ thị người Samari là xúc phạm đến Thầy đấy; là làm đau lòng Thầy lắm đấy. Nếu chị muốn làm vui lòng Thầy, chị hãy đặt chân lên mảnh đất Samari, hãy mỉm cười chào đón đồng bào Samari như người ruột thịt. Chỉ cần thấy Thầy chúng ta ngồi ăn với người Samari một lần thôi là chị sẽ quên hết lòng hận thù, ghen ghét của năm trăm năm lịch sử sai lầm. Em mời chị, em năn nỉ chị đi truyền giáo với Thầy một chuyến, chị sẽ thấy Thầy rõ hơn, sẽ yêu Thầy đúng hơn và nhiều hơn. chị đồng ý nhá. Em biết rồi, thế nào chị cũng nghe lời năn nỉ của em, vì cứ nói đến Thầy là mắt chị lại sáng ra, mặt chị lại tươi lên và chân tay chị lại nhúc nhích, lại muốn làm một cái gì đó cho Thầy được vui.
Chị Lệ Sa rất thân mến của em. Sau đây là những lời tâm huyết của em gửi về chị:
1. Em xin chị đừng tái giá. Em xin chị dành hết thời gian còn lại của cuộc đời, để loan báo Tin Mừng. Chị hiểu loan báo Tin Mừng là gì không? Loan báo Tin Mừng chỉ là kể chuyện về Thầy Giêsu để mọi người được biết Thầy, được yêu Thầy như chị vậy. Đọc đến lời này, em xin chị nhìn vào không gian, mỉm cười với em một cái. Hai chị em mình cứ thương nhau như thế và cùng nhau loan báo Tin Mừng nhá.
2. Em xin chị coi xứ Samari cũng thân thương y như xứ Galilê vậy. Dĩ nhiên chị sẽ bị đồng bào phản đối. Nhưng nhan sắc của chị, uy tín của chị dư sức để trả lời cho những người bảo thủ ấy. Em khẳng định với chị rằng xứ Samari sẽ yêu Thầy, tin Thầy theo Thầy và sẽ tạo được một trung tâm loan báo Tin Mừng trên tuyệt vời. Mong rằng chính chị sẽ là người khởi đầu sự nghiệp ấy. Chị đồng ý với em không? Nếu chị nói “không” với em, thì Thầy buồn đấy.
Thân mến chào chị và cùng chị yêu Thầy.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc.
Trong khi thầy Giêsu đang “bị” bao vây bởi đám quần chúng ái một cuồng nhiệt, thì bọn đệ PiôHậu 98
Trong khi thầy Giêsu đang “bị” bao vây bởi đám quần chúng ái một cuồng nhiệt, thì bọn đệ tử chúng tôi lỉnh ra vườn, ngồi đấu láo với nhau. Một bầu rượu và một chùm nho xanh đang được chuyển từ tay này qua tay kia, chưa hết một vòng, thì… bỗng thấy tiếng ồn ào đổi âm sắc và âm lượng, một cách khác thường. Tôi tò mò chạy ra phía trước để xác minh.
Đám quần chúng ái mộ dãn ra thật nhanh. Một người đàn ông lao tới, quỳ mọp dưới chân Thầy Giêsu, chắp tay xá lia lịa, vừa khóc vừa nói nhệu nhạo. Tôi đánh giá ngay: đây là một người điên, hoặc là một tên quỷ ám. Tôi không có một chút thiện cảm nào đối với những người đàn ông như thế. Hạ cấp! Đốn mạt! Nhưng nhìn kỹ một tí, tôi lại đánh giá khác. Đây là một người phong cùi, vì ngoại hình được thực hiện đúng y như luật đã ấn định. Đó là tóc để xõa, râu ria bịt kín, quần áo rách rưới. Nhìn kỹ thêm một tí nữa, tôi nhận ra Anh, người mà Thầy tôi đã bảo phải đi trình diện với thầy tư tế, Anh đi cùng với chín người nữa. Đang đi thì bệnh cùi biến mất. Thầy tư tế khám nghiệm và tuyên bố “Hết uế”. Chín người kia thấy mình được hết bệnh cùi, thì mừng quá, về sum họp với gia đình, quên trở lại cám ơn đại ân nhân.
Còn anh thì vừa mừng như điên, vừa cám ơn như điên. Vừa cám ơn vừa khóc hụ hụ. Khóc như trẻ con. Khóc như thằng khùng. Khóc đến mức độ đánh mất tất cả tư cách của một đấng nam nhi. Tôi khinh anh là vậy. Tôi coi thường anh là thế. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu anh và thương anh quá chừng.
Để hiểu được cái mừng như điên và cái cám ơn như khùng này, tôi phải trở về với quá khứ dài dằng dặc của anh. Quá khứ đau khổ ngàn trùng.
1. Cách đây hai mươi năm, anh là một thanh niên sáng giá nhất làng. Đẹp trai quá! Vui tính quá! Trò chơi nào anh cũng tham gia. Lễ hội nào anh cũng có mặt. Trai làng gọi anh là công tử. Gái làng thì liếc mắt đưa tình. Thế rồi bỗng dưng anh trốn biệt tăm. Hỏi anh ở đâu, thì chẳng ai biết. Người biết, thì không dám trả lời.
Anh nằm lì trong căn buồng tối tăm mịt mù. Anh rơi xuống vực thẳm của tuyệt vọng. Anh cảm thấy tê buốt ở các khớp xương. Da mặt da tay như chai như chết…
Ai cũng bảo đó là dấu hiệu của bệnh phong cùi. Ai trong gia đình cũng bảo anh phải đi gặp thầy tư tế, để xin khám nghiệm. Anh muốn chết. Thà chết còn hơn là bị thầy tư tế tuyên bố công khai là mắc bệnh cùi. Mắc bệnh cùi là xô hết cả gia đình xuống vực thẳm của nỗi nhục. Bệnh cùi là hậu quả của tội lỗi. Tôi lỗi cá nhân. Tội lỗi tập thể. Bệnh cùi là bệnh nan y. Mắc bệnh cùi là “mắc uế” suốt đời, là vĩnh viễn bị loại trừ khỏi sinh hoạt loài người.
2. Mọi bí mật trong căn buồng tối tăm mù mịt cuối cùng bị công khai hóa. Xóm giềng bao vây nhà anh, la hét và nguyền rủa anh, đòi đốt nhà anh. Anh đành phải cuốn gói ra đi, ra đi đúng theo luật của Môsê.
“Người mắc bệnh phong cùi
phải xé áo tả tơi,
phải xõa tóc tơi bời,
phải bịt kín râu ria
(đi đâu) phải hô: “Tôi mắc uế, mắc uế”
(để mọi người tránh xa)
(Lv 13,45-46)
Cha mẹ và anh chị em của anh trốn hết trong nhà vì sợ nhục nhã. Anh đi tới đâu, thì láng giềng chạy dạt ra tới đó, vì sợ “mắc uế”. Anh thất thểu đi như một con ma cô đơn. Sau lưng là một rừng người vô tâm. Trước mắt là một rừng cây vô cảm. Bao trùm trên rừng cây và rừng người là luật đạo và luật đời. Luật đạo và luật đời liên kết với nhau, để bỏ tù anh, để đày đọa anh, để giẫm đạp anh. Giẫm đạp trên thân xác. Giẫm đạp trên cả linh hồn.
3. Trong căn chòi xơ xác, anh đang chậm rãi nhai miếng bánh mì cuối cùng, thì có tiếng phụ nữ réo gọi.
Sam ơi! Mẹ đây!
Mẹ! Con ra ngay.
Hai mẹ con vừa nắm được tay nhau, thì mẹ anh vội vàng lùi lại bốn bước.
Chết rồi! Mẹ “mắc uế” rồi. Con đừng đi tới nữa. Tối hôm nay mẹ lại phải đến nhà thầy tư tế để xin thầy làm lễ thanh tẩy.
Con xin lỗi mẹ. Mừng quá làm con lú lẫn, quên cả luật.
Hai mẹ con đứng cách nhau bốn bước. Vừa nói chuyện vừa khóc. Khóc nhiều hơn nói. Mẹ muốn nhào tới ôm lấy con, nhưng lại sợ tội. Sợ quá nên lại thôi. Con muốn phá luật để được đến ngồi kế bên mẹ. Nhưng sợ mẹ bị mắc uế, nên đành ngồi xuống. Cay cú nhìn khoảng cách bốn bước. Có tiếng cú kêu. Người mẹ giật mình dặn con.
Thịt và bánh mì mẹ để ở gốc cây đằng kia. Mẹ về rồi, con đến mà lấy. Mẹ … ẹ … ẹ!
Hai người quay lưng vào nhau, cùng đi vào bóng đêm.
4. Có tin đồn Thầy Giêsu sắp đi qua Samari để về dự lễ ở thủ đô. Thế là người người chờ đợi, làng xóm chờ đợi. Và Thầy Giêsu đã tới thật. Quần chúng xô lấn nhau, để được rờ vào tà áo của Ngài một cái. Sung sướng quá! Hạnh phúc quá!
Mười người phong cùi đứng ở đằng xa, lấy vạt áo rách che miệng, rồi gào lên như người sắp bị cọp vồ.
Lạy Thầy Giêsu, xin cứu chúng tôi với!
Được rồi. Yên tâm. Các anh cứ đi gặp thầy tư tế đã.
Mọi người cúi dìu nhau đi. Đi tới đâu, người ta dạt ra tới đó. Đi mãi. Đi mãi. Mất hút.
Quần chúng lại bám lấy siêu sao Giêsu. Lại chen lấn. Lại rờ tà áo. Lại sung sướng quá chừng!
Anh Phong mến.
Quá khứ của anh là một hỏa ngục khủng khiếp. Sau khi nhìn thấy anh từ hỏa ngục ấy mà đi lên, tôi mới hiểu hết được ý nghĩa của cái mừng điên và cái biết ơn khùng của anh. Nhưng có thể vì anh mừng quá mà quên nghe một lời phát biểu của Thầy chúng ta. Sau khi Thầy khen anh là người duy nhất biết cám ơn Chúa, Thầy con nhấn mạnh: “Mà anh này lại là người ngoại”. Như vậy là Thầy khen anh hai lần đấy.
Công bằng mà nói: anh là người Samari, thì cũng là con cái của Ápraham. Vậy mà người Do Thái đã coi người Samari là người ngoại. Oan ức vô cùng! Bất công quá chừng! Thầy Giêsu đã quyết tâm xóa bỏ tinh thần kỳ thị ấy. Người Do Thái không thèm đặt chân lên mảnh đất Samari. Còn Thầy Giêsu thì cứ đi qua Samari như đất của người thân. Thầy Giêsu con yêu thương và đề cao người Samari, đến độ người Do Thái phải xấu hổ mà gục mặt xuống. Trong dụ ngôn “Người Samari nhân từ”, Ngài cho người Samari đóng vai người lý tưởng. Cuối cùng Ngài bảo ông kinh sư rằng “Ông hãy về và làm như thế”. Làm như thế là thực hiện một đức bác ái không biên giới theo gương mẫu của nhân vật Samari.
Người Samari các anh được Thầy yêu quý như thế đó. Sướng quá đi thôi!
Anh Phong ơi!
Từ hôm ấy tôi không gặp lại anh một lần nào nữa. Nhưng tôi biết anh vẫn không thể quên được Thầy Giêsu. Hình ảnh của Thầy, lời nói của Thầy, nhất là ánh mắt của Thầy ghi khắc thật sâu trong ký ức của anh. Không thể quên được. Phải ghi nhớ mãi đến muôn đời. Và… cũng phải yêu mãi đến ngàn đời.
Ôi, Thầy Giêsu!
Chào Anh. Chúng ta cùng nhau yêu Thầy Giêsu và cùng nhau làm cho mọi người biết và yêu Thầy.
Tái bút: Tôi đặt tên cho anh là Phong, tức là phong cùi. Tôi biết anh không giận tôi, vì bệnh phong đang là một kỷ niệm đẹp tuyệt vời của đời anh.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi là người ngoại, tôi không biết phải xưng hô thế nào với Quý vị cho phải phép. Xin Quý vị PiôHậu 99
Tôi là người ngoại, tôi không biết phải xưng hô thế nào với Quý vị cho phải phép. Xin Quý vị thông cảm và tha thứ cho tôi.
Là thương gia, tôi phải bôn ba từ Bắc chí Nam. Đi đến đâu tôi cũng thấy Quý vị: thấy ở nguyện đường; thấy ở các ngã tư đường phố; thấy ở các lễ hội và thấy ở các đám tiệc tư gia. Ở nguyện đường, thì Quý vị được mọi người coi như bậc tôn sư. Ở ngoài đường, thì Quý vị được coi như giới thượng lưu. Ở các đám tiệc, thì Quý vị là khách quý thượng thặng. Khăn áo của Quý vị lúc nào cũng trang trọng: tua áo dài hơn và đẹp hơn áo của dân gian.
Ở quê hương tôi không có đẳng cấp nào được nhân dân tôn kính như thế. Tôi thắc mắc, tôi tò mò, tôi phỏng vấn, thì mọi người từ già tới trẻ, từ nông thôn đến thành phố đều mô tả đời sống của Quý vị giống hệt như nhau:
Mỗi ngày Quý vị đọc kinh tới năm lần: kinh sáng (lúc mặt trời mọc); kinh Ba (giữa sáng và trưa); kinh Sáu (lúc mặt trời đứng bóng); kinh Chín (giữa trưa và lúc mặt trời lặn); kinh Chiều (lúc mặt trời lặn). Đến giờ đọc kinh, thì dù đang đi đường, Quý vị cũng dừng chân, dang tay và đọc kinh lớn tiếng.
Mỗi tuần Quý vị ăn chay hai ngày: thứ Hai và thứ Năm. Ăn chay là nhịn ăn uống tuyệt đối từ lúc mặt trời mọc cho đến khi nó lặn xuống ở ngoài khơi Địa Trung Hải.
Những ngày ấy, ai gặp Quý vị ở ngoài đường, thì nhận ra ngay. Hễ Quý vị ăn chay, thì áo xống bèo nhèo, nét mặt rầu rầu…
Bộ Thánh kinh dày cộm, một con lạc đà chở không hết, thế mà Quý vị nhớ từng lời từng chữ trong ấy, y như chúng tôi nhớ mười ngón tay trên hai bàn tay. Luật của Môsê nhiều như tóc trên đầu, thế mà Quý vị trích dẫn câu cú đâu vào đấy. Một trăm năm mươi Thánh vịnh, mỗi Thánh vịnh có bao nhiêu câu, mỗi câu có bao nhiêu từ, Quý vị đều thuộc nằm lòng. Ngày nào Quý vị cũng đọc Thánh vịnh, y như chúng tôi ngày ngày nhai và nuốt bánh mì. Trên ve áo của Quý vị đều có thêu một câu Thánh vịnh mà Quý vị quý yêu như bé thơ yêu quý sữa mẹ.
Quý vị tôn kính Đền thờ y như chúng tôi tôn kính cung đình của thần Giupite. Hằng năm Quý vị đổ vào đấy mười phần trăm công sức của mồ hôi nước mắt. Sùng đạo đến thế là cùng!
Sau khi nhận được những thông tin đầy đủ về cuộc đời của Quý vị, tôi muốn quỳ xuống để hôn mãi hai bàn chân và hai bàn tay của Quý vị. Quý vị không còn là người phàm như chúng tôi, mà đã trở thành những ông tiên từ trời giáng thế. Đáng kính vô cùng! Đáng mến ngàn trùng!
Tôi đang than thân trách phận cho quê hương tôi, vì không có diễm phúc được tiên thánh giáng trần như ở đây, thì… bỗng có tin đồn về một sứ ngôn siêu phàm. Tôi lại tò mò tìm hiểu. Tôi nắm lý lịch người ấy trong tay. Đó là một anh thợ mộc tên là Giêsu, xuất thân từ Nadarét. Là người nước ngoài, chúng tôi cũng biết rằng Nadarét là làng lạc hậu nhất của nước Do Thái. Chúng tôi vẫn thường mỉm cười nói với nhau rằng: “Thằng đàn ông nào mà ông trời ghét nhất, sẽ cho nó một con vợ Nadarét. Thế là đời nó tàn”. Tôi đem chuyện anh chàng thợ mộc Nadarét này ra để lãnh ý kiến của Quý vị, thì Quý vị chỉ cười mỉa. Thế là tôi đánh giá rất đúng về ngôn sứ buồn cười ấy.
Biết chắc chắn hắn là một ngôn sứ dỏm rồi, tôi vẫn tò mò đi nghe hắn giảng, để xem hắn dỏm tới mức độ nào. Tôi có vựa cá ở Caphácnaum, nên có điều kiện được thỏa mãn tính tò mò của mình. Caphácnaum là trung tâm sinh hoạt của hắn.
Nhưng mà… thưa Quý vị Pharisêu, ông Giêsu Nadarét ấy là một ngôn sứ cao cả thật. Hôm ấy tôi đi nghe Ngài giảng. Ngài ngồi ở trong xuồng còn thính giả thì ngồi ở trên bờ. Tôi lén đến ngồi ở sau lưng quần chúng để Ngài đừng thấy tôi. Nhưng tôi vừa ngồi xuống, thì ánh mắt của Ngài đã chiếu thẳng vào tôi. Tôi cảm thấy ánh mắt ấy xoáy vào tận thâm tâm của tôi. Ánh mắt ấy rờ vào được cả quá khứ lẫn hiện tại. Ánh mắt ấy đếm được từng hành động thiện ác trong đời của tôi… Tôi bị hớp hồn.
Từ hôm ấy, tôi cứ lẽo đẽo đi theo Ngài. Đi để thấy. Đi để nghe. Thấy ánh mắt và nghe giọng nói của Ngài. Ánh mắt thì hiền hiền. Giọng nói thì âm ấm.
Thế rồi, bỗng dưng hôm ấy, tôi không dám nhìn mặt Ngài. Mặt đỏ bừng. Mắt trợn trừng. Giọng đanh như thép. Ngài gằn giọng tuyên án: “Khốn cho các ông, hỡi nhóm pharisêu giả hình”. Tuyên án một lần, nghe nhột nhạt quá chừng! Tuyên án hai lần, rồi ba lần, rồi… tám lần. Nhột đến chết được! Tôi bị sốc, ôm đầu ra về, thức trắng một đêm. Suy nghĩ miên man. Suy nghĩ mãi, rồi mới thấy rằng:
1. Hễ ngôn sứ Giêsu ở đâu, thì các ngài có mặt ở đấy. Hễ Ngài mở miệng nói, thì các ngài vểnh tai nghe. Các ngài chăm chú nghe không thua tôi là bao. Nhưng tôi nghe, thì như đứa bé bú sữa mẹ. Còn Quý vị nghe, thì y như anh thợ săn rình mồi.
Sau bài giảng nào, Quý vị cũng bắt bẻ, cũng tranh cãi. Lúc nào Quý vị cũng dựa vào Thánh kinh để lý luận, để lên án. Nhưng lần nào tôi cũng thấy Quý vị sụ mặt quay gót, vừa đi vừa chửi thề. Tôi tự hỏi: tại sao Quý vị am tường Thánh kinh như thế mà không qua mặt được một ông thợ mộc? Tôi suy nghĩ mãi và ngộ ra rằng: Quý vị đang đứng trên cái bệ tương đối, mà cứ tưởng nó là tuyệt đối. Quý vị cứ tưởng Môsê là thần tượng cao cả nhất, trong khi chính Môsê và các ngôn sứ lại nôn nóng chờ đợi vị thần tượng ấy. Tôi nghe nhiều người nói rằng Gioan Tẩy Giả còn lớn hơn Môsê. Thế mà chính Gioan Tẩy Giả đã khẳng định rằng ông không đáng xách dép cho Đức Giêsu.
2. Đi theo Đức Giêsu, nghe Đức Giêsu giảng, riết rồi tôi thấy Quý vị không theo chân lý, mà chỉ theo Danh và Lợi. Để có danh và lợi, Quý vị phải mượn cái đức làm màn che. Người thường không thấy, nhưng cặp mắt thần của Đức Giêsu xuyên thủng cái màn che ấy, để thấy cái rỗng tuếch ở bên trong. Ngài rất dị ứng với sự giả dối này. Chính vì thế mà Ngài rất nặng lời với Quý vị.
Nhờ theo Đức Giêsu và nghe lời giảng của Ngài, tôi mới biết ghét tính giả hình và biết ghét đến nơi đến chốn. Tôi cũng được nghe Ngài cảnh giác các môn đệ đừng lây nhiễm tính giả hình của Quý vị. Thế là chính bản thân tôi từ nay không còn trọng vọng Quý vị nữa. Ôi Quý vị Pharisêu giả hình, xin chào vĩnh biệt.
Tái bút. Khi Đức Giêsu về trời rồi, tôi thấy rất nhiều người trong nhóm Pharisêu trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Tôi mừng cho Quý vị. Nhưng dường như Quý vị là những nhà truyền giáo bảo thủ cực kỳ. Tại sao vậy? Theo thiển ý của tôi, thì sở dĩ Quý vị bảo thủ quá đáng là vì các vị quá tin tưởng vào truyền thống ngàn năm của Do Thái giáo; Quý vị coi truyền thống ấy là chân lý tuyệt đối trong khi nó chỉ là tương đối thôi. Một lý do nữa đó là Quý vị coi giáo huấn của Môsê và các ngôn sứ là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Thật ra thì chỉ có mạc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu mà thôi. Giáo huấn của Môsê và các sứ ngôn chỉ có mảnh vụn mạc khải. Cụ thể là Môsê cho phép ly dị, còn Đức Giêsu thì không. Hỏi tại sao, thì Đức Giêsu bảo: “Vì sự cứng lòng của cha ông các ngươi, mà Môsê đã viết ra điều đó”. Rõ ràng là điều đó không phải là mạc khải của Chúa Cha.
Nhưng dù sao, thì tôi cũng rất vui mừng, vì nhờ Quý vị mà Đức Giêsu đã được loan báo rộng rãi. Bảo thủ thì đáng tiếc. Nhưng sự việc cũng đã qua rồi. Lịch sử sẽ nhìn vào đấy mà đổi mới. Phần riêng tôi, thì tôi đã hối hận vì đã kính trọng Quý vị quá đáng. Nay vì thấy Quý vị hăng say lao động trên cánh đồng truyền giáo, thì tôi lại có thiện cảm với Quý vị. Mong Quý vị đón nhận và hiểu tấm lòng tôi.
Luca kể chuyện về Cụ. Chuyện kể vừa đầy một trang sách khổ nhỏ, không quá hai trăm từ. Đọc PiôHậu 100
Luca kể chuyện về Cụ. Chuyện kể vừa đầy một trang sách khổ nhỏ, không quá hai trăm từ. Đọc đi đọc lại như nhai mãi một miếng thịt thơm ngon. Thơm ngon, nhưng chỉ bé tí tẹo. Thèm quá! Thèm mãi!
Gấp sách bỏ đấy, tôi nhắm mắt để tìm Cụ trong một quá khứ xa mịt mù. Hình ảnh của Cụ vẫn còn in mờ mờ trên không gian. Lời nói của Cụ vẫn còn vang vọng đâu đó.
Tôi thấy Cụ đứng trước tiền sảnh của Thánh Đường. Hai bàn tay úp hờ trên đầu gậy. Cặp mắt nhìn về xa xăm. Thẫn thờ như đang chờ ai... Mẹ tôi ẵm con đi tới. Cụ thảng thốt kêu lên: “Ôi, ánh sáng của muôn dân”. Cụ vứt gậy, giơ hai tay xin ẵm Hài Nhi, miệng thì thầm: “Muôn Lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Chính mắt con đã được thấy ơn cứu độ mà Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ítraen dân Ngài”.
Cụ nhìn ngắm Hài Nhi, chăm chắm như xuất thần. Nhìn mãi. Nhìn lâu lắm. Rồi Cụ trao Hài Nhi cho Mẹ tôi. Cụ nhìn Mẹ tôi. Mẹ tôi ngước mắt nhìn Cụ, chờ cụ già khả kính, trải đời cho một lời khen ngợi: khen bé xinh; khen bé giống mẹ; tiên báo một tương lai rực sáng. Bỗng Cụ nghiêm nét mặt, dướn chân mày, nói sang sảng: “Bé này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải ngã xuống, hoặc được đứng dậy. Bé sẽ là dấu hiệu để cho người đời bổ báng...”. Im lặng một lúc lâu, Cụ lại nói sang sảng và nhấn mạnh từng câu, từng chữ: “Vì Bé này mà đời cháu sẽ phải khổ lắm. Khổ như một lưỡi dao đâm thấu tim của cháu”. Mẹ tôi không hiểu Cụ muốn nói gì, chỉ biết siết chặt Hài Nhi vào lòng.
Cụ Simêon ơi! Tôi thương Mẹ tôi quá. Tôi muốn giật râu Cụ để trả thù. Mẹ tôi còn bé tí, còn đang mộng mơ, thế mà Cụ nỡ tâm đổ xuống trên đầu Mẹ tôi một thùng nước lạnh như thế. Câu nói gở mồm, độc miệng của Cụ làm cho Mẹ tôi đau đớn còn hơn là bị dao găm đâm vào tim. Chỉ nghĩ đến câu nói của Cụ cũng đủ khổ suốt đời. Độc ác đến thế là cùng. Tại sao Cụ không chết đi cho rồi.
Nhưng, thưa Cụ Simêon kính mến, tôi tưởng Mẹ tôi khóc hụ lên, ngất xỉu, lăn đùng ra, đè lên Hài Nhi vẫn còn ôm chặt trong vòng tay. Ai ngờ Mẹ tôi vẫn đứng đó, vẫn ẵm Hài Nhi trong tay. Nét mặt vẫn bình thản. Chỉ suy nghĩ thôi. Tôi mừng quá! Tôi thôi giận Cụ. Tôi xin lỗi Cụ. Tôi bắt chước Mẹ để ngẫm nghĩ về lời tiên báo kỳ bí của Cụ. Tôi đọc, tôi nghe, tôi ngẫm nghĩ và theo dõi từng bước đi của Mẹ tôi trên suốt đường đời dài thăm thẳm, sâu hun hút. Vì đời Mẹ tôi gắn bó với đời của Thầy tôi, nên cứ mỗi chặng đường lại có một mũi dao nhọn thò ra, nhọn hoắt, xoay xoay rồi cắm phập vào ngực. Mẹ tôi chỉ ôm lấy ngực, nhắm mắt, suy tư. Còn tôi thì khóc òa lên, giãy giụa và chết ngất.
Bây giờ tôi đã tỉnh trí, tôi kể cho Cụ nghe về những mũi dao nhọn hoắt cắm phập vào quả tim của Mẹ tôi. Tôi kể cả mũi dao Mẹ tôi bị đâm trước khi gặp Cụ.
MŨI DAO MỘT
Sau khi được mang thai Đấng Cứu Thế bởi quyền phép của Chúa Thánh Thần, Mẹ tôi vào Nam thăm chị Êlisabét. Mẹ tôi ở đấy ba tháng, rồi trở về với cái bầu gần bốn tháng. Bố Giuse giận lắm. Nhưng là người công chính, Bố không nỡ tâm tố cáo để Mẹ tôi bị ném đá. Nhưng Bố không rước Mẹ về, tức là âm thầm từ hôn. Được sứ thần thanh minh, Bố Giuse mừng quá, tổ chức rước dâu “chạy”. Rước cô dâu đã có bầu. Quê ơi là quê! Kệ. Chuyện của Chúa chẳng phải của mình. Bố Giuse thì nghĩ thế. Nhưng có ai đó vẫn thắc mắc, vẫn nghi ngờ.
Sáu tháng sau, Mẹ tôi sinh con. Đứa con chẳng giống Bố một tí nào. Số người thắc mắc gia tăng. Nghi ngờ được khẳng định: “ Nó hư với thằng nào ở miền Nam rồi. Đem ra cổng thành mà ném đá cho rồi. Nhưng khổ một nỗi... chồng nó cứ bênh nó”.
Mẹ tôi không bị giết, nhưng vẫn phải nghe người ta “bóng gió xa xôi”, nói móc nói xéo, từ ngày này qua ngày khác. Đau quá! Đau quá! Nhưng chỉ biết cắn răng làm thinh.
MŨI DAO HAI
Truyền thống Do Thái dạy rằng: đàn bà có phúc thì “sinh năm đẻ bảy”, “con cái xúm xít xung quanh bàn ăn như chùm ôliu”!... Thế mà Mẹ tôi chỉ đẻ một con. Bố mẹ chồng, bác chú, cô dì... ai cũng ngong ngóng chờ đợi. Chờ mãi. Nhưng vẫn chỉ có thế. Thất vọng. Con gái lấy chồng mà chỉ đẻ một con, thì là nỗi nhục cho gia đình. Ai cũng lắc đầu bảo rằng: “Con đàn bà bạc phước, bị Giavê thắt dạ... Nhục ơi là nhục”. Từ người thân đến người dưng, ai cũng nhìn Mẹ tôi bằng nửa con mắt. Khổ quá!
MŨI DAO BA
Con trai nào lớn lên cũng lấy vợ. Lấy một vợ, hai vợ... thậm chí một ngàn vợ. Lấy vợ để sinh con cho gia đình, để thực hiện lời hứa của Giavê. Giavê hứa cho Apraham có một hậu duệ đông như sao trời và cát biển. Ai cũng nhắc Mẹ tôi phải cưới vợ cho con. Bố mẹ chồng nhắc. Chú bác cô dì nhắc. Nhắc mãi. Nhắc hằng tuần, hằng tháng, hằng năm. Nhắc mãi cho tới khi Thầy tôi ba mươi ba tuổi đời, mà vẫn không thấy có hiệu quả. Nhắc bảo không được, thì phải mắng mỏ. Mắng như tát nước vào mặt. Ví dụ:
- Mày lì như trâu. Tao nhắc mày hằng trăm lần rồi mà mày có nghe tao đâu.
- Thím chỉ đẻ có một đứa con, tôi đã thấy nhục quá rồi. Thế mà thím không lo cưới vợ cho nó, thì lấy ai nối dõi tông đường. Sao thím không lấy mo mà bịt mặt lại. Mặt thím cứ trơ như mặt thớt.
- Tôi nói mợ nghe này. Từ thuở nào đến giờ dòng họ nhà tôi chưa có ai mới rước dâu được sáu tháng đã đẻ. Mà lại đẻ một đứa con không giống bố lấy được một cái lông chân. Vậy mà mợ không biết thân, không lo lấy vợ cho nó. Ít con mà nhiều cháu cũng gỡ được cái nhục “đẻ con giống ông hàng xóm.”
MŨI DAO BỐN
Khi Thầy tôi được ba mươi tuổi, Người đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cứu độ. Quần chúng thì hâm mộ Thầy tôi như một siêu sao. Nhưng các kinh sư của mọi hội đường đều coi Thầy tôi như một tên phá đạo. Cứ mỗi ngày sabát, Mẹ tôi đến hội đường để nghe đọc và dạy về Thánh Kinh, thì đồng thời cũng được nghe từ giảng đài những câu chua lè như dấm:
- Hội đường chúng ta có một tên thợ mộc bỏ nghề đi phá đạo tơi bời hoa lá. Các đấng bề trên khắp nơi kêu ca quá trời.
- Mẹ mà không biết dạy con, để nó đi phá đạo làm xấu hổ cho cả hội đường Nadarét. Người đó là ai thì chắc bà con biết rồi.
Khi từ giảng đài phán ra những lời như thế, thì cả dòng họ, cả hội đường đều đay nghiến Mẹ tôi. Đay nghiến hằng ngày. Đay nghiến hằng tuần. Tôi cầu mong cho Mẹ tôi được chết đi cho đỡ khổ. Chết là khổ. Nhưng sống còn khổ hơn chết.
MŨI DAO NĂM
Hôm ấy Thầy tôi về thăm Mẹ và thăm quê hương. Thầy tôi đến nguyện đường và được mời đọc sách thánh. Thầy tôi đề cao người ngoại hai lần. Đó là điều rất dị ứng đối với người Do Thái. Thầy tôi bị đả đảo quá chừng. Nhiều người còn đòi giết Thầy tôi. Người bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Thầy tôi đi, nhưng Mẹ tôi vẫn ở lại. Ở lại để hằng ngày nghe người ta chửi. Thân tộc chửi. Người dưng chửi. Kinh sư chửi. Cả hội đường chửi. Chửi hội đồng. Mẹ tôi nghe điếc cả lỗ tai. Thấy Mẹ khổ quá, tôi chỉ biết khóc.
MŨI DAO SÁU
Hôm ấy là ngày thứ sáu. Thầy tôi bị đóng đinh. Oan khiên quá! Đau đớn quá! Nhục nhã quá! Con đau chừng nào, mẹ đau chừng nấy. Mẹ tôi ngước mắt nhìn lên. Đau đớn quá. Lại cúi mặt xuống. Thầy tôi thở hổn hển. Mẹ tôi co vai, rụt cổ và nấc lên. Thấy thế, tôi muốn nắm tay lại đấm thẳng vào mặt bọn thượng tế và kinh sư. Tôi muốn chết gục dưới chân khổ giá của Thầy tôi, vì tôi bất lực chẳng cứu được Thầy, chẳng cứu được Mẹ.
Cụ Simêon kính mến.
Bây giờ thì mọi sự đã qua. Thầy tôi đã phục sinh và đã về trời, tôi muốn quỳ gối bên Mẹ tôi, để cảm nghiệm lại tất cả mọi nỗi đau của Mẹ bắt đầu từ câu nói tiên tri của Cụ, cho tới lúc Mẹ tôi đứng dưới chân thập giá. Tôi cảm phục Mẹ tôi vô cùng. Tôi muốn chắp tay lạy Người một ngàn lần. Cứ mỗi lần mũi dao sắc đâm phập vào tâm hồn Mẹ tôi, chỉ có một mình tôi khóc. Mẹ tôi chỉ lặng lẽ ngẫm nghĩ và thầm thì trên môi hai chữ “Xin vâng”. Rồi Người đặt tay trước ngực, vuốt nhẹ, vuốt nhẹ. Dường như Người muốn ghi khắc vào con tim mọi kỷ niệm đau đớn để thấy có một bàn tay vô hình đang xoa dịu, đang vuốt ve, đang trìu mến.
Mẹ tôi là thế đấy: đáng kính vô cùng; dễ thương quá chừng!
Em tình cờ gặp chị trong cuốn Tin Mừng thứ ba (Lc 8,2). Luca giới thiệu chị là một người được Thầy PiôHậu 101
Em tình cờ gặp chị trong cuốn Tin Mừng thứ ba (Lc 8,2). Luca giới thiệu chị là một người được Thầy giải thoát khỏi bảy quỷ. Em không hiểu Luca muốn nói gì. Nghĩ mãi. Nghĩ mãi... Bây giờ thì em hiểu rồi.
Quá khứ của chị đã lùi vào bóng tối. Nhưng em vẫn thấy rõ mồn một. Em thấy từng phân vuông trên da thịt của chị nõn nà. Em thấy từng nhịp đập của quả tim hồng. Phập phồng. Em ngắm nhìn, em cảm nghiệm, em xót xa và em thương chị quá chừng! Âu cũng chỉ vì “suy bụng ta ra bụng người”.
Bây giờ em xin chị im lặng, lắng nghe em kể chuyện đời mình.
Em vào đời hiên ngang như một bà hoàng lên ngôi. Em kinh doanh địa ốc với hai bàn tay trắng. Kiến thức chuyên môn thì do cố vấn cung cấp. Làm ăn thua lỗ, thì có đại gia “cứu bồ”. Cố vấn thì vô số. Đại gia thì vô tận. Em mải miết đi du lịch. Nay đi Singapore với đại gia này. Mai đi Hồng Kông với tỷ phú kia. Cứ mỗi chuyến đi, thì thu nhập của em lại tăng lên vùn vụt. Cánh đàn ông giàu có nâng em như nâng trứng, hứng em như hứng hoa, chẳng qua cũng chỉ vì cái “vốn” tự có mà thôi. Trước mặt em, thì cặp mắt của họ hấp háy tôn em lên hàng siêu sao. Nhưng sau lưng em bọn họ gọi em là “con đi ngã”. Đểu! Họ đểu và đời đểu. Em không đểu. Nhưng em tự thấy mình có đi và có ngã thật. Em xấu hổ. Em hận đời. Em chán đời.
Một ngày chán đời, em đi lang thang. Đi lang thang đúng nghĩa: không dừng chân; không ghé quán. Em đi mãi, cho tới khi gặp một dòng thác người đang chảy vào nhà thờ. Em bị dòng thác cuốn đi.
Vào nhà thờ, em đứng trơ trơ. Vô cảm. Bỗng có tiếng hát. Hát rất truyền cảm. Bỗng mọi người cùng nói “Amen”. Amen vang vọng. Trên bàn thờ. Cái gì cũng lung linh. Đèn lung linh. Hoa lung linh. Có một khoảnh khắc im lặng tuyệt đối. Tim em thót lại...
Sau lần ấy, em nghiện đi lễ. Đi mãi. Đi hoài. Và... bây giờ em gọi Đức Giêsu của chị là Thầy. Thầy của chị. Thầy của em.
Chị Mácđala quý mến.
Bây giờ em lần mò đi tìm chị.
Chị sinh ra và lớn lên bên bờ hồ Galilê. Làng quê của chị là Mácđala. Vốn liếng của gia đình chỉ là con thuyền và hai mái chèo; chỉ là dăm tay lưới và diện tích mênh mông của hồ Galilê. Kiến thức chuyên môn không quan trọng bằng sự cần cù và sức khỏe. Cơm lúc nào cũng đầy nồi. Áo ấm lúc nào cũng giăng mắc. Nhưng thế thôi...
Lớn lên, chị vào đời. Chị đổi đời: cơm quá ngon; áo quá đẹp... Vốn liếng, tài ba: tất cả chỉ là cái “vốn” trời cho. Chị giao du với quân đội viễn chinh. Chị vén áo thật cao, leo lên từng bậc thang. Leo mãi. Leo mãi. Rồi dừng lại ở tư dinh những ông đại tá, đại tướng. Chị nhìn xuống bằng nửa con mắt. Người ở dưới nhìn lên. Nhìn đăm đăm, nhìn hau háu, nhưng đành cúi mặt nuốt nước miếng. Chị đã thành cao lương của giới thượng lưu rồi. Đời chị bốc lên như diều gặp gió. Vừa giàu vừa sang. Tuổi ba mươi lù lù đi tới. Cánh hoa sắp tàn, nhưng vẫn rực rỡ, nhờ thuốc bảo trì. Kinh nghiệm về tình trường thì đầy ắp. Càng ngày càng đầy. Chị cứ phe phẩy. Đàn ông sập bẫy, run lẩy bẩy. Đàn ông trong quân đội. Đàn ông trong công nghị. Đàn ông trên chính trường. Đàn ông trong đạo và ngoài đời. Tất cả đều sợ chị. Sợ chị công khai hóa chuyện phòng the. Thế là chị lại tăng thu nhập một cách khủng khiếp.
Nắm được đại tá và đại gia trong tay, chị chưa thỏa mãn. Chị muốn bước lên cao hơn nữa. Lại vén áo. Lại dõng dạc đếm bước. Bước lên để khẳng định đẳng cấp.
Chị nghe đồn có một siêu sao vừa xuất hiện. Một anh thợ mộc, sống độc thân, đẹp trai, lưng dài, vai rộng... đang làm say mê lòng người. Chị nổi máu anh hùng, quyết tâm đánh gục siêu sao. Vũ khí hiện đại nhất của chị vẫn là cái “ấy”.
Chị lên đường. Rất tự tin. Chị đi thẳng vào nguyện đường Caphácnaum. Hằng trăm bộ râu vểnh lên. Hằng trăm cặp mắt mở banh ra, hau háu nhìn. Chị lờ đi, tỏ vẻ khinh bỉ. Chị tiến thẳng đến trước giảng đài. Không còn chỗ nào trống. Người ta đua nhau đứng lên nhường chỗ. Chị gật đầu nhẹ để chào Thầy. Thầy vừa giảng vừa đưa mắt nhìn khắp hội trường. Dường như Thầy không thấy chị. Chị tự ái, ngồi phịch xuống, nhìn lom lom vào mặt Thầy. Chị gác tréo chân. Tà áo rộng thùng thình được vén lên thật khéo: vừa kín vừa hở; vừa mở vừa đóng. Cặp chân dài nõn nà cứ thấp thoáng ẩn hiện. Chiến trường sắp kết thúc. Chị đang chờ Thầy ngã gục.
Bỗng Thầy nhìn vào mắt chị. Ánh mắt của Người như ngọn roi lửa quất vào vai chị. Chị vội thả chân xuống, khép lại và khoanh tay trước ngực. Chị cúi đầu để tránh cặp mắt tóe lửa của Thầy. Nhưng chị vẫn lắng nghe lời giảng của Người. Bài giảng kết thúc. Chị lủi thủi ra về. Không dám nhìn Thầy, không dám nhìn người ta. Chỉ nhìn hai bàn chân.
Đêm hôm ấy chị không ngủ. Ánh mắt của Thầy cứ xoáy mãi vào con ngươi, vào não và vào tim của chị. Chị cảm thấy xấu hổ quá lẽ. Quá khứ và hiện tại phơi bày ra trước mặt Thầy. Ánh mắt của Thầy vừa khiển trách vừa an ủi, vừa giận vừa thương. Từ hôm đó chị lẽo đẽo theo Thầy. Thầy giảng ở đâu, thì chị có mặt ở đấy. Chị ghi khắc từng lời của Thầy.
Rồi một ngày kia, chị khép nép đến gặp Thầy.
- Thưa Thầy. Con xin đi theo Thầy. Con học với Thầy rồi con kể lại cho mọi người nghe. Cơm ăn thì con tự lo. Thầy cần gì, thì con xin phép bao.
- Thấm đòn rồi phải không?
- Xin Thầy quên quá khứ của con đi. Con hổ thẹn quá rồi.
- Mừng cho chị. Mừng cho mọi người sẽ được gặp chị.
Chị Mácđala quý mến.
Chị là chị của em. Em là em của chị. Chúng ta cùng yêu Thầy, chúng ta yêu nhau và chúng ta cùng nhau loan báo Tin Mừng. Vậy nhé.
Chị ơi! Em hiểu chị rất rõ. Nhưng trong cuộc đời của chị vẫn còn vài chỗ bị bóng tối che khuất, em nhìn không được. Đó là chuyện sáng Chúa Nhật Phục Sinh. Sáng sớm hôm ấy, trời còn tối mịt, các chị em phụ nữ ra thăm mộ Thầy. Nhưng chị le te đi trước. Đến nơi thấy cửa mộ đã bật tung. Ngó vào thấy trống hoác, chị vội vàng chạy về báo tin cho ông Phêrô và Gioan. Sau đó chị lại chạy ra mộ ngồi khóc tỉ ti. Các chị kia bỏ mộ trống mà về. Hai ông Phêrô và Gioan cũng bỏ về. Về là phải, vì ngôi mộ trống đang là điểm nóng. Thượng tế Caipha và công nghị đang cho người theo dõi sát những người có dính dấp đến ngôi mộ trống này. Đàn bà sợ. Đàn ông sợ. Một mình chị không sợ, cứ ngồi lì ở đấy, khóc một mình.
Dường như giữa chị và các bà phụ nữ kia vẫn có một khoảng cách không thu hẹp được. Quá khứ của chị đen quá, luật đạo không cho phép họ tiếp cận. Chỉ một mình Thầy mới dám đạp đổ bức tường phân cách của luật, để đến với chị. Chỉ một mình Thầy mới quên được quá khứ của chị. Chỉ một mình Thầy mới dám bỏ mạng để cứu người tội lỗi, để cứu chị và cứu em.
Từ xưa tới nay, từ đông sang tây, dù người đạo đức cũng chỉ nhìn người tội lỗi bằng một nửa con mắt. Nếu không có ánh mắt bao dung của Thầy, thì chị em mình mãi mãi không có ngày trở về.
Chị ngồi lì một mình, chẳng sợ ai. Tại sao thế? Gioan bảo: “Tại chị yêu Thầy quá. “Tình yêu loại trừ nỗi sợ” (1Ga 4,18). Đúng. Nhưng em cũng đoán mà rằng các ông tai to mặt lớn đều sợ chị như sợ sét đánh. Họ đã lỡ “ấy” với chị. Họ đã lỡ gọi chị là con “đi ngã”. Họ biết chị hận họ lắm. Họ cũng dư biết khi chị ra tay thì gạo xay ra cám. Cùi không sợ lở phải không chị. Họ có quá nhiều quyền và lợi để sợ mất. Còn chị thì mất hết rồi, còn gì nữa đâu mà sợ.
Mất hết. Mất tất. Nhưng may quá, lại có tất cả. Chị và em cùng cúi đầu để cảm nghiệm.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Hôm ấy Thầy Giêsu đi hành hương Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Ngài ghé Giêrikhô, trạm dừng PiôHậu 102
Hôm ấy Thầy Giêsu đi hành hương Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Ngài ghé Giêrikhô, trạm dừng chân cuối cùng. Quần chúng đi theo Ngài trùng trùng điệp điệp, trong đó có tôi, một người đang hâm mộ Ngài như một siêu sao. Tôi đang len lách để đến gần Siêu Sao, thì nhác thấy trên cành cây có một thằng bé có râu. Tôi thầm nghĩ: thằng này là tướng nghịch. Nó đeo râu giả để làm trò hề. Nó sẽ bẻ lá để rắc lên đầu các bà, các cô... Bỗng Thầy Giêsu ngước mắt nhìn lên, cười nói vui vẻ: “Ông Dakêu ơi, xuống đi thôi. Đêm nay tôi sẽ nghỉ trọ tại nhà ông đấy”. Eo ơi, tôi lầm to rồi. Không phải là thắng bé tinh nghịch, mà là ông Trưởng Cục Thuế Vụ thành Giêrikhô! Tôi xin lỗi ông.
Tôi xấu hổ quá, lẩn vào đám đông, để không thấy ông và để ông không nhìn thấy tôi. Trong niềm hổ thẹn, tôi suy nghĩ và theo dõi ông sát sạt.
1. Tôi thấy ông buồn cười quá. Địa vị thì cao, mà thân xác thì lùn. Người ta làm quan thì đi đứng bệ vệ. Còn ông thì cứ lũn chũn như củ khoai biết đi. Tôi thì buồn cười, còn ông thì buồn tủi. Âu cũng là số phận. Đành vậy.
2. Ông là người lớn mà leo lên cây để nhìn trộm, y như một thằng trẻ con. Tại sao ông lại có thể đánh mất mình một cách dễ dàng như thế? Nghĩ mãi tôi mới ngộ ra rằng khi người ta quá say mê một cái gì, thì dễ trở thành bất bình thường.
Thomas Edison, một nhà khoa học vĩ đại, sở hữu 1093 bằng phát minh, cha đẻ của đèn điện. Ông say mê làm việc đến mức độ đầu tóc lúc nào cũng bù xù, quần áo lúc nào cũng nhếch nhác. Ông chỉ ăn mặc sạch sẽ và đẹp đẽ được một năm. Đó là năm sắp lấy vợ, lấy vợ xong ông lại bù xù, ông lại nhếch nhác.
Một lực sĩ nổi danh nọ quá say mê “tòa thiên nhiên” của người yêu, đến mức độ phải đưa nàng đi mỹ viện, vá lại hai trái đào nứt nẻ và rỉ máu.
Có một anh nông dân quá mê cờ bạc đến mức độ thức trắng đêm thứ bảy, chơi suốt ngày Chúa nhật, thức trắng thêm một đêm nữa. Sáng thứ hai, xách máy cày ra đồng, báo cáo với vợ: “Anh đi cày mướn”. Nhưng thực ra hắn ngủ li bì trên máy cày cho tới xế chiều mới về. Vợ lườm một cái. Xấu hổ đến chết được.
Từ những hình ảnh trên, tôi nghiệm ra rằng vì quá say mê Thầy Giêsu, ông mới vong thân, mới quên bẵng mình là một đấng nam nhi, là Trưởng Cục Thuế Vụ của một thành phố giàu có là Giêrikhô. Ông chưa gặp Thầy Giêsu lần nào, nhưng ông lại được nghe nói rất nhiều về Ngài. Đặc biệt là ông được biết Ngài không những không kỳ thị giới thu thuế, mà còn chọn một trong những người đồng nghiệp với ông là Mátthêu làm đệ tử của Ngài. Ngài sẵn sàng bước qua luật lệ, để đến tận nhà những người thu thuế. Đến vì yêu. Đến để cứu độ.
3. Khi Thầy Giêsu ngỏ lời sẽ đến nghỉ trọ ở nhà ông, ông mừng quá. Vì mừng quá, nên ông không để ý nghe tiếng nói xầm xì của quần chúng. Quần chúng bất bình với Thầy Giêsu, chỉ vì Ngài ngỏ ý đến nhà ông. Đang ái mộ Ngài như siêu sao, bỗng dưng đổi thái độ: “Nhà người tội lỗi, mà ông ta cũng vào nghỉ trọ!”. Tại sao quần chúng ghét ông, thì ông biết rồi. Ông làm nghề thu thuế, thì bị vạ tuyệt thông cách ly, bị coi như bọn phản quốc và phản đạo. Nhưng điều tôi muốn nói với ông, đó là Thầy Giêsu, vì thương mến ông, mà bị quần chúng phản đối. Đó là cái giá quá đắt, mà Ngài phải trả, khi Ngài bước chân vào nhà ông. Mừng cho ông một phần, thì tội nghiệp cho Ngài một trăm phần!
4. Thầy Giêsu vào nhà ông, cánh cổng khép lại. Chẳng ai thèm dòm. Không ai thèm ngó. Ở trong đó có gì xảy ra, chúng tôi không thèm biết. Ai nấy lo đi dựng lều để ngủ.
Ngày hôm sau, tin tức bùng vỡ. Người nghèo kéo nhau đến nhà ông, nườm nượp như đi hội chợ. Người này xin tiền mua mùng mền. Người kia xin tiền mua chăn chiếu... Ai nấy ra về, cười tươi như hoa. Cả đời mới có một lần như thế. Chừng đó chúng tôi mới biết điều gì đã xảy ra trong bữa tiệc chiều hôm ấy.
Bữa tiệc đang vui; Chuyện đang như pháo rang, thì bỗng im phăng phắc. Mọi người trố mắt nhìn ông. Ông quỳ dưới chân Thầy Giêsu, khóc nấc lên.
- Thầy ơi, tôi nhục quá rồi. Cả cái dân tộc này nó coi tôi như con chó ghẻ. Cả bà con ruột thịt nó cũng coi tôi như người dưng nước lã... Cũng chỉ vì ba cái đồng tiền, mà tôi phải khổ nhục như thế này. Vậy mà tôi lại được Thầy chiếu cố đến thăm, ăn cơm và ngủ nghỉ trong nhà tôi. Hạnh phúc cho tôi biết chừng nào. Tôi phải cám ơn Thầy thế nào mới xứng đáng. Tôi không biết phải lấy gì mà đền ơn Thầy đây...
- Ông muốn cám ơn tôi hả? Ông muốn đền ơn tôi phải không? Tôi thấy không cần như thế. Chúng ta hiểu nhau và thương nhau là đủ rồi. Còn nếu ông muốn có một chút quà gì cho tôi, thì tôi nhờ ông chuyển cho bà con nghèo, cho người nghèo là cho tôi đấy. - Vậy thì tôi xin cưa đôi gia tài, cho người nghèo một nửa...
Mặt Thầy Giêsu bừng sáng. Hai ánh mắt long lanh. Hai cánh tay dang thật rộng. Ông chạy đến cúi đầu vào ngực Ngài. Hai cánh tay Ngài khép lại...
5. Thầy Giêsu đi rồi, tòa nhà êm ả của ông bỗng ồn ào như cái chợ. Kẻ ra người vào. Vào ra nườm nượp. Tin vui đồn đi nhanh như chớp. Sóng người nghèo đổ về càng ngày càng đông. Ông mệt đờ, nhưng nụ cười vẫn nở. Vợ ông vẫn cười, nhưng nụ cười cứ héo dần.
Chỉ một tuần sau, gia đình ông biến thành cái hỏa ngục. Người nghèo thì thưa dần. Người thân thì xuất hiện. Chú bác cô dì, anh chị em bên nội bên ngoại đua nhau mắng, đua nhau chửi.
- Mồ hôi nước mắt, ky cóp suốt đời mới có được cái gia sản này. Vậy mà ông nỡ lấy một nửa chia cho bọn khố rách áo ôm. Chỉ có khùng mới làm như thế.
- Tao vay một chỉ, nó cũng không cho. Thế mà nghe cái ông Giêsu nào đó, nó dám đổ ra một đống vàng để nuôi những bọn du côn, du thực. Khùng ơi là khùng!
- Ruột rà đói khát, nó không cho ăn. Người dưng nước lã, thì nó cho ăn ngập mặt. Chỉ có người điên mới hứng khí vô lối như vậy.
- Làm nghề thu thuế là cố đấm ăn xôi, chịu nhục để có tiền. Bây giờ thì đã bị đấm, mà xôi lại hẩm. Công cốc! Ngu ơi là ngu!
Ông Dakêu ơi!
Ông bị thân nhân chửi như tát nước vào mặt, tôi tưởng ông sẽ buồn lắm, hận lắm. Ai ngờ... ông lại cứ vui, cứ cười. Ông đổi đời 180o. Tại sao vậy? Thú thật với ông là hôm ấy, khi Thầy Giêsu ngỏ ý vào nghỉ trọ tại nhà ông, tôi không chống đối ra mặt, nhưng tôi buồn lắm. Lòng hâm mộ của tôi đối với Ngài tự động tụt xuống 50 phần trăm. Bây giờ thì tôi hiểu rồi. Tôi hiểu Ngài và tôi hiểu ông.
Ông là mẫu người hư hỏng. Ông bán rẻ cái danh dự của một tín đồ và của một công dân. Ông tự nguyện làm chó săn cho bọn đế quốc xâm lược để có tiền. Tiền nhiều như nước. Nước chảy như thác, cuốn trôi cả lương tâm con người. Nhưng trong cái “ác” mênh mông như sa mạc, vẫn ẩn núp một hạt giống “thiện”. Hạt giống ấy chưa xuất hiện, chỉ vì thiếu một trận mưa...
Thầy Giêsu đến với ông, bị bề trên kết án là phá luật, bị giới hâm mộ trừ đi 50 phần trăm thiện cảm. Đau xót quá chừng! Oan khiên vô cùng! Đó lại cái giá quá đắt, cái giá cao ngất trời. Nhưng Ngài vẫn sẵn sàng móc hầu bao. Nhờ vậy Ngài đã cứu được ông. Ngài coi ông như ngọc trai dưới đáy biển. Phải hụp lặn, phải ngộp thở để mò tìm.
Ông Dakêu thân mến.
Bây giờ tôi không còn nhìn ông bằng một nửa con mắt nữa. Tôi muốn ngắm nhìn ông, chiêm ngưỡng dung nhan của ông. Ông đã là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của Thầy Giêsu. Kinh sư, Pharisêu, không ai đáng xách dép cho ông. Tôi cũng hiểu rằng bây giờ ông yêu Thầy Giêsu hơn hôm ấy hàng ngàn lần.
Ôi, Thầy Giêsu! Ôi, ông Dakêu!
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi là Giuđita, láng giềng của chị đây. Mấy chục năm qua, chúng ta rất gần mà như rất xa. Tôi PiôHậu 103
Tôi là Giuđita, láng giềng của chị đây. Mấy chục năm qua, chúng ta rất gần mà như rất xa. Tôi không thèm ngó sang nhà chị. Còn chị thì không dám ngước mắt nhìn sang nhà tôi. Bên tôi thì đông con nhiều cháu, tiếng trẻ con ríu rít như chim hót trong vườn thượng uyển. Bên chị thì hiu hắt, quạnh hiu và vắng lặng như mảnh vườn có ma.
Ra đường thì tôi ngước mắt nhìn trời, mở miệng chào cười với thiên hạ. Còn chị khi ra đường thì cúi mặt làm thinh; mỗi lần thấy người mẹ bồng con, thì nước mắt tủi hờn trào ra, cùng với tiếng nấc nghẹn ngào…
Ông trời đã xòe tay ra với tôi như thế. Ông trời đã nắm tay lại với chị như vậy. Đó là số phận. Đó là ý trời. Chỉ còn ngước mắt lên để cảm tạ. Chỉ còn cúi mặt xuống mà sám hối. Đành vậy. Tôi cứ tưởng tôi sẽ suốt đời nhìn lên; còn chị thì sẽ mãn đời nhìn xuống. Ai ngờ…
1. Hôm ấy chồng chị trúng thăm vào cung thánh để niệm hương. Dân chúng trùng trùng điệp điệp đứng ở bên ngoài, trong đó có tôi. Ai nấy nôn nóng chờ đợi. Chờ mãi không thấy ông đi ra. Lo quá!… Đến khi ông ra, thì ú ớ không nói nên lời. Chúng tôi bu lại quanh ông để tìm hiểu. Ông không nói được, nhưng nét mặt rất phấn khởi. Tôi đoán là ông có tin vui. Mừng cho chị…
Một tháng sau, tôi thấy chị ra đường thường xuyên. Không còn cúi mặt làm thinh. Chị ngước mắt nhìn lên và cười dòn dã với đàn bà bồng bé thơ. Tôi đoán là chị có bầu. Mừng cho chị. Nhưng tụi tôi cứ nháy nhau mà cười lén, cứ nhéo nhau mà thù thì: “Bà già tóc bạc phau phau Nhăn nheo teo tóp, có bầu ai ơi!”
2. Cái bầu đã vượt mặt. Cánh đàn bà chúng tôi đến thăm chị nườm nượp. Đến để xem “bà cụ mẹ” sắp đẻ ra một “cháu ngoại”. Đến để giải mã những cử chỉ, những dấu hiệu kỳ lạ của một ông già vừa cười, vừa câm. Đến để chứng kiến mảnh vườn quạnh hiu đang biến thành ngàn hoa, dập dìu ong bướm…
Thế rồi một hôm kia, chúng tôi đang nhóp nhép nho xanh, đang đua nhau rờ cái bụng ột ệt của chị, thì … bỗng chị vùng đứng lên, chạy ào ra sân, vừa cười vừa khóc nhệu nhạo.
- Em chào chị.
- Chị chào em. Bởi đâu tôi được Mẹ của Chúa đến thăm thế này? Em ơi! Em là người phụ nữ có phước nhất trên trần gian này.
- Vâng, cám ơn chị. Em sung sướng quá chị ạ, chỉ vì Chúa đã đoái thương chiếu cố thân phận bé nhỏ này …
Hai chị em cứ ôm miết lấy nhau, quên cả không gian và thời gian, quên cả bạn bè xóm giềng. Chúng tôi buồn tủi, lủi thủi ra về. Nhưng không quên ngẫm nghĩ mãi về những lời phát biểu của cô bé xứ Bắc, mà chị kính cẩn gọi là “Mẹ của Chúa”. Tôi mơ hồ nghĩ về một tương lai đầy huyền bí.
3. Chín tháng lẻ trôi qua. Chị cho ra đời một bé trai. Một tin vui bùng vỡ. Ngày thứ tám bà con kéo nhau đến đầy nhà chị, để dự lễ đặt tên. Theo luật thì cha đặt tên cho con. Nhưng cha thì nói không thành lời. Thế là bà con nhao nhao đòi phá lệ.
- Chuyện hi hữu ngàn năm một thuở, tôi đề nghị lấy tên cha đặt cho con. Chúng ta sẽ gọi nó là Dacaria-Con. Một ông già râu dài đến rốn giơ tay vừa phát biểu, vừa nói to, vừa cười hô hố.
- Đồng ý. Ai nấy đều giơ hai tay và cười há há.
Tôi cũng đồng ý và thấy là rất hợp lý. Nhưng vợ chồng chị tuy vẫn vui cười, nhưng không đồng cảm với bà con. Chồng chị, miệng thì cười toe toét mà hai bàn tay thì cứ lắc lắc. Cô em xứ Bắc của chị, thì chỉ cười nhạt, vô tư. Còn chị thì chống đối một cách thật dễ thương.
- Thưa các bác, thưa bà con, xin đặt tên cháu là Gioan ạ.
- Ô … ô … Gioan! Tên lạ hoắc! Dòng họ nhà ta từ thuở nào tới giờ, chưa bao giờ nghe cái tên ấy. Ông già râu dài đến rốn phản bác như vậy. Vẫn vui. Vẫn cười. Không làm mất lòng ai.
Mọi người nhìn nhau cười. Không ai thắng. Chẳng ai thua. Chồng của chị vừa cười vừa lấy ngón tay viết lên miếng ván: “Tên cháu là Gioan”. Ngón tay vừa buông xuống thì ông hét lên: “Tôi nói được rồi”. Cả nhà như nổi cơn điên. Đàn ông đàn bà xô nhau đến ôm hôn ông chồng của chị. Ôm hôn xong rồi thì chạy ra sân nhảy cẫng lên với nhau. Vui quá hóa điên. Vui như điên. Chỉ có người nói, mà không có người nghe. Người điên cũng có lúc cắt cơn. Quần chúng vui như điên cũng có lúc im lặng như tờ. Chồng của chị ôn tồn kể lại câu chuyện từ đầu đến cuối. Quần chúng vểnh tai để nghe, nín thở để nghe. Tôi cũng vậy, không dám chớp mắt, không dám nuốt nước miếng, sợ bỏ sót một lời…
Bây giờ tôi mới sực nhớ ra rằng suốt mấy chục năm qua vợ chồng của chị bố thí cho người nghèo rất nhiều cơm áo, để cầu có một mụn con. Vô vọng. Hai vợ chồng mỗi ngày năm bảy lượt quỳ gối chắp tay cầu nguyện, chu chu chắm chắm. Cũng chỉ vì mong mỏi có được một mụn con. Ngày tháng trôi qua, công đức chồng chất. Vẫn vô vọng.
Hôm ấy sứ thần Gáprien báo tin anh chị sẽ có một đứa con trai, để dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp tới. Mừng quá, nhưng lại hờn giỗi. Ăn chay cầu nguyện mấy chục năm mà Chúa không đoái nhận. Bây giờ mới xòe tay ban ơn, thì đã quá muộn rồi. Già cóc đế mà sinh con. Con chưa kịp trưởng thành, thì cha mẹ đã mục xương. Buồn gần một nửa thế kỷ, ngước mắt đợi chờ hồng ân gần hết một cuộc đời, chồng chị đáp trả sứ thần rằng: “Tôi già như vậy này; vợ tôi nhăn nheo như thế kia, thế thì còn con cái gì nữa”. Ý anh ấy muốn nói: “Mùa đông xin chăn mền, thì không cho. Bây giờ sang mùa hè nóng như nung, thì lại cho mùng mền chăn nệm một đống. Vô duyên”. Ông sứ thần nghiêm giọng phán: “Vì ông không tin tôi, nên ông sẽ phải câm cho tới khi ông có con và đặt tên cho bé là Gioan”. Đau quá! Nhưng mừng quá, mà quên đau.
4. Từ ngày chồng chị thôi câm, tôi được biết quá nhiều về lịch sử cứu độ. Bản thân tôi vẫn nghĩ rằng Đấng Cứu Thế phải là một ông vua nâng nước Do Thái của chúng ta lên hàng bá quyền. Nhưng hôm ấy tôi được giác ngộ. Chồng chị giang tay nói với bé Gioan rằng:
“Hài nhi hỡi con sẽ mang tước hiệu
Là ngôn sứ của Đấng Tối Cao.
Con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người
Báo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ
Là tha cho họ hết mọi tội khiên…”
Tôi tự hỏi: tại sao mọi ngôn sứ, mọi sư phụ từ đời này đến đời kia cứ dạy rằng: “Đấng Cứu Thế là con vua Đavít, sẽ ngồi trên ngôi báu và cai trị nhà Giacóp cho đến muôn đời”. Nay tôi mới được biết Đấng Cứu Thế đến để “tha cho họ hết mọi tội khiên”. Phải chăng vì bị câm hơn chín tháng mà ông xã của chị đã khám phá ra được cái chân lý ấy? Vui sướng trong thử thách là môi trường tuyệt vời để tìm gặp Chân Lý. Đúng không chị?
Chị Êlisabét mến.
Bây giờ tôi không còn nhìn chị bằng một nửa con mắt nữa. Bây giờ tôi muốn cúi đầu chắp tay chào chị, để nói lên lòng ngưỡng mộ của tôi đối với một người đàn bà được Đấng Giavê giơ cánh tay bao bọc và chở che. Tôi đang ngẫm nghĩ về chị. Tôi hiểu biết khá nhiều về chị. Nhưng… vẫn có một điều tôi muốn được chị bật mí. Chị có một cô em xứ Bắc vào thăm và ở với chị ba tháng. Tôi không thích nói chuyện với cô ấy, vì tôi vẫn dị ứng với dân Galilê, đặc biệt là dân Nadarét. Cô ấy trở về Bắc sau ngày cắt bì và đặt tên cho bé Gioan. Cô ấy đi rồi, tôi mới hối tiếc.
Là dân Galilê, là người làng Nadarét, nhưng cái dáng đi và cách ăn nói vẫn có cái gì rất thanh cao khó tả. Khi hai chị em chị ngồi nói chuyện với nhau, tôi thấy có cái gì đó rất cao quý mà tôi vừa ghen vừa thèm.
Tại sao chị là người lớn, vừa lớn về tuổi tác, vừa lớn về vai vế, mà chị vẫn có vẻ như vừa yêu vừa kính cô em ấy? Tôi linh cảm cô ấy đang ôm ấp một ước mơ lớn lắm.
Tôi sẽ không chết yểu. Tôi sẽ sống rất thọ. Tôi còn dư thời giờ để theo dõi và để thấy một trang sử mới. Trang sử này sẽ bắt đầu từ bé Gioan và sẽ hoàn tất trong cậu con của cô bé Nadarét ấy.
Mến chào chị Êlisabét.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc.
Con buông cây bút và ngồi mơ màng thật lâu. Bây giờ con đã hoàn hồn, con lại cầm bút để kính PiôHậu 104
Con buông cây bút và ngồi mơ màng thật lâu. Bây giờ con đã hoàn hồn, con lại cầm bút để kính dâng Cha những hình ảnh và những suy tư nối tiếp.
5.Những ngày an vui ngắn ngủi
Cô Maria về làm dâu bên nhà chồng, được mẹ chồng chăm bẵm như bé thơ. Cứ thấy mặt cô dâu, bà lại niềm nở nhắc nhở: “Cố gắng giữ sức khỏe, nghe con”; “Ăn ngon ngủ kỹ để bé mau lớn”; “Con chỉ được quét nhà, lặt rau, còn việc nặng, thì để mẹ làm cho”; “chừng nào thì đẻ? Nhớ đẻ con trai nha” ...
Chàng trai Giuse, từ ngày có vợ, đi làm đầu tắt mặt tối. Hừng đông chưa ló dạng, thì đã ôm đồ mộc ra đi. Đi đâu thì chẳng ai biết. Đi làm miết cho tới chiều tà vẫn chưa thấy về. Về tới nhà, thì gà đã gật gù trong chuồng. Xác thân nằm trên giường, mà lòng thì cứ vấn vương đến một chân trời xa tắp tít nào đó...
Cha rất đáng kính của con. Bốn năm tháng trời: ngày tháng cứ trôi qua như thế. Êm đềm lặng lẽ. Mẹ con thì như vậy: đáng yêu quá chừng! Ai cũng thấy, ai cũng yêu, nên chẳng ai thắc mắc gì. Còn Cha thì tất bật ở tít mù khơi. Nơi ấy là ở đâu, ai nào có biết. Không ai biết, nhưng con lại biết, biết rõ như ban ngày. Cha là một anh thợ mộc có tay nghề cao vời vợi, có tâm đức sâu thăm thẳm, hiền lành như cục đất, chân thật như chú thiên thần con. Đang đóng tủ cho nhà này, thì nhà kia đã ngong ngóng chờ để nhờ sửa cho bộ bàn ghế. Người này rỉ tai người kia. Tin đồn từ làng này bay sang làng khác. Làm hoài, làm mãi không hết việc. Chủ nhà cho ăn ngon như đãi khách, trả tiền lương xong, lại dấm dúi thêm một tí. Thương quá, cầm lòng không được...
6. Một tin khủng khiếp Cả nhà đang ngong ngóng chờ ngày em bé ra chào đời. Maria thì úp hai tay lên ngực, tính nhẩm ngày tháng. Cặp mắt thì lim dim, mà linh hồn thì ngây ngất đắm chìm. Mẹ chồng, cha chồng, anh chị em trong gia đình. Chú bác, cô dì trong thân tộc thì đua nhau đoán mò: em bé giống cha hơn giống mẹ; em bé giống mẹ hơn giống cha; em bé là con trai kháu khỉnh; em bé là con gái thật xinh. Còn Giuse thì làm thinh và cười thầm. Sinh hoạt gia đình đang rộn ràng như thế, thì bỗng... đoàng một cái, y như tiếng sét nổ.
Hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ kiểm tra dân số trên toàn đế quốc. Theo pháp lệnh, thì ai gốc gác ở đâu, phải về đó mà kê khai gia phả. Giuse đang thường trú ở Nadarét, nhưng nguyên quán thì ở tận Bêlem xa tít mù khơi. Cả gia đình lo quýnh quáng cả lên.
Cô dâu trẻ đang sắp đẻ mà phải đi xa như thế. Đi cực khổ đã đành, còn phải về kịp trước ngày sinh, để có hai bà mẹ cùng chăm sóc. Đi được không? Về kịp không? Ai biết đâu mà lường?
Đi đường thì ăn làm sao, ngủ làm sao ? Nếu có gì bất trắc xảy ra, thì ai lo?
Nếu mọi việc suôn sẻ, thì cũng phải mất đứt một nửa tháng. Ấy là thời gian, còn tiền bạc thì phải chi bao nhiêu cho đủ?
Cả nhà hướng về cặp vợ chồng trẻ, hỏi: “Chúng mày tính làm sao?”
Maria úp tay lên ngực, trả lời nhỏ nhẹ: “Có Chúa lo”. Giuse lặng lẽ nhìn vào không gian. Không trả lời, nhưng vẻ mặt tự tin.
Cha ơi! Con hồi hộp quá! Con chẳng biết số phận của Cha và của Mẹ ra sao ? Nhưng chỉ một chốc lát thôi nỗi lo ấy bốc hơi, bay lên không gian, tan theo mây gió. Cứ nhìn vào hai cặp mắt của Mẹ và của Cha là con yên tâm vô cùng. Dường như Mẹ và Cha thấy rõ có một bàn tay xoa nhẹ, có một vòng tay ủ ấp của một ĐấngVô Hình...
7. Cô đơn đến tận cùng
Cô vợ trẻ mang bầu con so dãi dầu bốn ngày trên lưng con lừa: kiệt sức quá rồi! Nối tiếp là hai tuần lễ ăn chực nằm chờ trong căn lều tuềnh toàng dựng tạm bên lề đường: quá sức bà bầu!
Cô vợ trẻ thỏ thẻ với chồng: “Em chuyển bụng rồi”. Anh chồng chạy đôn chạy đáo: vào nhà trọ mướn phòng, thì chủ nhà lắc đầu, ngoắt tay: “Hết chỗ rồi”. Vào nhà dân ăn mày lòng trắc ẩn, thì ông bà nào cũng thương cảm: “Tội nghiệp!”, nhưng lại từ chối vì sợ mắc uế. Đành quét dọn vội vàng cái hang đá, “nhà trọ” của bò lừa. Quét dọn xong, anh ra ngoài hang, nhóm lửa, nấu một nồi nước, rồi đứng khoanh tay nhìn trời, miệng thì thầm cầu khấn và chờ tiếng khóc oe oe của bé thơ...
Bé thơ ra chào đời như thế đấy: chỉ thấy người mẹ kiệt sức ủ rũ như tàu lá héo; chỉ thấy người cha sẵn sàng đội đá vá trời xanh, nhưng đành khoanh tay đứng nhìn trời, nôn nóng chờ tiếng khóc oe oe. Mặc cảm tự ti đầy mình. Cúi đầu làm thinh. Ôi thân phận đàn ông!
Kính lạy Cha ngàn trùng thương mến!
Con thấy Cha đứng khoanh tay bên nồi nước sôi, ngước mắt nhìn trời ..., con thương cảm Cha quá chừng! Là thân trai, vai u thịt bắp. Cha sẵn sàng dâng hiến hết cả cuộc đời của mình, để đem lại an vui hạnh phúc cho Mẹ con và cho Đấng Cứu Thế. Thế mà thực tế phũ phàng như vậy đó.
Mẹ Đấng Cứu Thế mà phải sinh con như thế này:
- Không mẹ chồng, không mẹ ruột, không dì, không thím, không một bàn tay phụ nữ ân cần chăm sóc.
- Không cô đỡ, không cô mụ vườn, không một người đàn bà vô danh chờ đón bé thơ ra chào đời, để tắm rửa, để quấn tã.
Đấng bé thơ sẽ ngồi trên ngai vua Đavít mà bây giờ phải nằm trong máng cỏ, y như con gà mái đang nằm trong ổ để ấp trứng.
Biệt thự cho mẹ con bà Hoàng Thái Hậu mà chỉ là cái hang đá sực mùi hôi hám của súc vật.
Một sứ mạng lớn lao, một trách nhiệm nặng nề đang đè lên vai của Cha. Cha thấy mình bất lực hoàn toàn. Đau quá! Nhục quá! Nhưng biết làm thế nào bây giờ.
Cha chỉ biết quỳ gối tạ tội với Đấng Cứu Thế. Cha chỉ biết liếc nhìn Mẹ con, để xin Người tha thứ. Mẹ con cúi mình ẵm lấy Bé Thơ, âu yếm nhìn Cha. Ánh mắt của Mẹ con như có linh hồn, truyền sang cho Cha một thông tin ngắn gọn “Xin Vâng”. “Xin Vâng” là phó thác cả cuộc đời, trao phó cả lịch sử loài người vào vòng tay an bài của Thiên Chúa Toàn Năng. Không hiểu thì cứ ghi khắc trong lòng mà suy đi nghĩ lại. Không buồn. Không lo. Không sợ.
Ánh mắt xuyên tim của Mẹ con làm cho Cha hoàn hồn. Hết mặc cảm tự ti. Chỉ còn tin và yêu.
8. Lại chan hòa niềm vui Hai cặp mắt đang say đắm nhìn Bé Thơ, bỗng ngước nhìn lên, ngơ ngác...
Có tiếng hát văng vẳng từ trên cao vọng xuống. Réo rắt. Dìu dặt. Không phải tiếng hát của loài người, mà của một đoàn thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Đôi vợ chồng trẻ đang ngây ngất thả hồn theo tiếng hát dìu dặt của Thiên Sứ, thì... một bầy mục đồng chạy vào, ào ào như gió. Họ quỳ mọp bên máng cỏ, nhìn ngắm Bé Thơ, vừa tôn thờ, vừa âu yếm. Cả chủ lẫn khách ngồi hàn huyên ấm áp trong hang đá vô chủ. Thân thương và kính trọng nhau quá chừng!
Khách ra về để nhường bầu khí yên tĩnh cho Bé Thơ.
Vừa vui vừa tiếc. Họ về chưa được bao lâu, thì bầu khí yên tĩnh lại vỡ tan tành. Quần chúng nườm nượp kéo đến. Niềm vui bùng vỡ. Niềm vui của 10 thế kỷ chờ đợi “Con Vua Đavít”. Niềm vui vì 63 năm nô lệ sắp chấm dứt. Niềm vui vì “Chúa biến nguồn phú túc của chư dân chảy về thành đô tràn lan như thác vỡ bờ”.
Trăm người như một, ngàn người như một, ai ai cũng muốn rờ Bé Thơ một cái để lấy lộc, ai ai cũng muốn rước Đấng Cứu Thế về nhà mình để lấy lộc.
Kính lạy Cha đáng kính vô vàn.
Từ thuở Cha sinh mẹ đẻ cho đến bây giờ, chưa bao giờ Cha được quần chúng trọng vọng đến như thế. Đáng hãnh diện quá chừng! Thế nhưng... con không thấy Cha dang tay, niềm nở đón chào quần chúng. Cha vẫn cứ buồn buồn, tủi tủi, vì mình chẳng làm được gì cho Đấng Cứu Thế và bà Hoàng Thái Hậu của Người. Vẫn có một cái gì huyền bí lắm mà Cha chưa hiểu được...
9. Một lễ Vượt Qua chan hòa buồn tủi Cậu bé 12 tuổi theo bố mẹ về thủ đô dự lễ Vượt Qua. Đường xa ngàn trùng. Đi bộ ròng rã bốn ngày. Người ngựa trùng trùng điệp điệp. Mệt mà vui.
Ở thủ đô 8 ngày để dự lễ. Người đông như kiến. Khói hương nghi ngút. Sáng thì lên đền thờ. Tối thì về lều. Lên đền thờ để cầu kinh, để dâng lễ vật, để bỏ tiền vào thùng công đức, để đặt tiền vào bàn tay khô khẳng của những người nghèo thê thảm... Ngày nào cũng như thế, từ ngày này qua ngày khác. Hết tám ngày lễ, người ngựa lại trùng trùng điệp điệp ra về. Y như nước chảy; y như thác đổ. Cậu bé 12 tuổi bịn rịn với thánh đường, quên cả ra về. Bố mẹ của cậu không hề hay biết, cứ để dòng người cuốn đi, vừa đi vừa hát thánh ca với dòng người, cứ vui phơi phới, với điệu nhạc râm ran.
Khi màn đêm bắt đầu buông, thì rừng lều trập trùng bắt đầu dựng. Gia đình nào cũng có lều riêng. Dựng lều xong, đôi vợ chồng trẻ Giuse và Maria chờ con về để dùng bữa. Chờ mãi mà chả thấy con đâu. Hốt hoảng đi tìm. Tìm mãi, tìm mãi, vẫn chả thấy. Tìm suốt một đêm: tuyệt vọng!
Ngày hôm sau, dòng người lại tiếp tục chảy, chảy về làng quê, chảy về gia đình mình. Vừa đi vừa ngong ngóng chóng về tới nhà để đoàn tụ gia đình. Giuse và Maria đành bỏ đoàn hành hương đang đi ngược về miền Bắc, để lủi thủi đi xuôi về thủ đô. Vừa đi vừa hỏi thăm: hỏi thăm khách hành hương; hỏi thăm dân cư ngụ ở hai bên đường; hỏi thăm về đứa con trai 12 tuổi. Hỏi ở trăm nơi: nơi nào cũng không thấy. Hỏi một trăm người, thì một trăm cái đầu lúc lắc. Một ngày tìm, không thấy con: tim muốn ngừng đập. Hai ngày tìm, không thấy con: hết hồn hết vía! Ba ngày tìm, thấy con đang ngồi nói chuyện với các kinh sư ngay trong đền thờ. Mừng quá! Tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Maria ôm lấy ngực, đứng lặng một lúc, chờ cho nhịp tim trở lại bình thường, rồi mới nói nên lời.
- Con! Sao con để cha mẹ vất vả tìm con như vậy?
- Mẹ ơi! Cha ơi! Cha mẹ vất vả tìm con làm chi vậy? Thế cha mẹ không biết là con phải lo việc cho cha con ở trên trời sao?
Cả cha lẫn mẹ của cậu bé 12 tuổi đều ngơ ngác không hiểu cậu con muốn nói gì...
Kính thưa Cha đáng kính của con.
Thấy Cha và Mẹ lo âu đến đứt ruột, để đi tìm Thầy của con, con thương Cha và Mẹ quá chừng! Thấy Cha và Mẹ không hiểu ý của Thầy con, chỉ biết cúi đầu ngẫm nghĩ, con càng thương Cha và Mẹ nhiều hơn nữa. Thương quá Cha ơi!
Con đường cứu độ của Thầy con đầy những mầu nhiệm khôn lường. Cha và Mẹ là những người đầu tiên đi vào con đường đó. Cứ không hiểu, rồi lại không hiểu. Nhưng cuối cùng thì cả Cha lẫn Mẹ yêu dấu của con đều đồng tâm nhất trí trong một lời “Xin vâng”. “Xin vâng” hóa giải mọi nỗi khổ đau và soi sáng cho thấy mọi mầu nhiệm của lịch sử cứu độ.
Cha và Mẹ đi trước trên đường “Xin vâng”, thì xin Cha và Mẹ cùng dìu con đi vào con đường ấy. Mong thay!
Tái bút. Người ta hỏi con: “Tại sao vắng con ngoan một ngày mà bố mẹ vẫn tỉnh bơ. Có phải là loại người vô tư, vô tâm, ruột để ngoài da không?”. Con trả lời “KHÔNG” thật to. Lý do:
1. Con mình là con ông trời: khôn ngất trời, ngoan nhất đời, thì không thể đi lạc, không thể đi bụi. Yên tâm!
2. Đứa con này được mọi người yêu quý. Thường xuyên được xóm giềng mời đến chơi, để làm gương cho con mình. Cha mẹ thấy thế thì mừng lắm. Chuyện bình thường.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc.
Con đang sống vào đầu thế kỷ 21: xa cách Cha ngàn trùng. Xa về thời gian là 20 thế kỷ. Xa PiôHậu 105
Con đang sống vào đầu thế kỷ 21: xa cách Cha ngàn trùng. Xa về thời gian là 20 thế kỷ. Xa về không gian là chừng 60.000 cây số. Vì yêu mến Cha, con mần mò đi tìm thân thế và sự nghiệp của Cha. Tìm mãi, tìm mãi mà chẳng thấy gì. Con đường lịch sử dài thăm thẳm ghi chằng chịt những kỷ niệm vui buồn của ngàn vạn kiếp nhân sinh. Thế mà dường như lịch sử cố tình bỏ quên Cha. Con lại đi tìm, tìm mãi, tìm mòn mỏi, mới thấy một vài mảnh vụn tư liệu, gom lại thì chưa đầy một muỗng cà phê. Buồn quá thể ! Nản quá chừng ! Nhưng buồn thì được gì? Nản thì được cái chi chi. Nghĩ thế, con lại mần mò, mò mãi mới có được một trang lý lịch ngắn tũn như sau:
Tên: Giuse
Phái tính: Nam
Năm sinh: Không rõ
Thường trú: Nadarét
Nguyên quán: Bêlem
Quốc tịch: Do Thái
Nghề nghiệp: Thợ mộc
Hộ khẩu: Có vợ là Maria và con trai là Giêsu
Cha kính mến.
Cầm tờ lý lịch của Cha trong tay, con cảm thấy vô tư, y như tình cờ đọc tấm bia mộ của ai đó trong nghĩa trang thành phố. Bất mãn về sự hiểu biết quá ít về Cha, con lại tiếp tục tìm tòi, moi móc kho tàng lịch sử của loài người. May quá, con lại có thêm một số tư liệu về cuộc đời của Cha. Chỉ tiếc một điều là những tư liệu ấy chỉ cho con thấy thấp thoáng hình ảnh của Cha. Tuyệt nhiên không cho con nghe Cha nói một lời nào, dù một từ gọn lỏn cũng không. Như vậy, có khác gì một đứa con yêu bố mà chỉ thấy bố đi ra đi vào trong căn nhà thân thương chứ chẳng được nghe bố nói một lời nào dù là một tiếng “ừ”, một tiếng “hứ” gọn lỏn. Tiếc quá!
Cha ơi, trong tâm tình yêu mến, trong nỗi buồn man mác con xin ghi lại tuần tự những tấm hình kể về vài sự cố trong đời của Cha. Sau đó con sẽ dâng lên Cha những suy nghĩ và tâm tình của con đính kèm theo mỗi tấm hình ấy.
1. Cha đi hỏi vợ
Vừa chạm ngõ tuổi 18, Cha nghĩ ngay đến việc lập gia đình để sinh con đẻ cái, xúm xít xung quanh bàn ăn, như một chùm ôliu. Đó là vinh dự của dòng tộc. Đó là bổn phận trọng đại đối với tổ quốc. Nhưng ai sẽ là bạn đường trăm năm? Trong làng Nadarét có một cô gái tên là Maria. Dưới ánh mắt của các bậc phụ mẫu từng trải, thì cô Maria là cô dâu trên tuyệt vời. Dưới cái nhìn của bọn đàn ông con trai, thì cô Maria là món quà Ông Trời dành riêng cho người đàn ông nào tuyệt vời nhất. Trong làng Nadarét thì chẳng có người đàn ông nào được như thế. Bởi vậy, trai làng chỉ biết nhìn trộm, chỉ biết thèm thuồng và tiếc hùi hụi...
Thế rồi bỗng dưng bùng vỡ tin cô Maria sắp lấy chồng. Anh chồng lại là anh chàng thợ mộc Giuse. Bọn trai làng ngẩn tò te. Chúng nó đồng thanh nhận định: “Tư cách của chú rể thì cho “mười cộng” (10+) gia thế của chú rể thì cho “âm không” (-0). Có vài đứa ganh ghét và nói hỗn: “Ông Trời mù”.
Chàng rể ấy là Cha. Cô dâu ấy là Đức Maria, Mẹ yêu dấu của con. Cha thì vui lắm: Niềm vui của dòng tộc, cộng thêm niềm hãnh diện của cá nhân. Mẹ của con thì không vui không buồn. Người đang hướng tâm về một nơi xa xôi nào đó...
2. Tan nát cõi lòng
Sau lễ cầu hôn có giá trị như một lễ thành hôn, cô dâu khăn gói lên đường. Cô vào tận miền Nam xa tắp tít. Đi để làm gì, thì cô bảo là để thăm chị Êlidabét, một bà già vô sinh mà mới được Chúa cho có thai. Ở chơi mút mùa trong Nam tới ba tháng, cô dâu mới trở về Nadarét. Cô đi một mình, bây giờ về, thì mang theo một thai nhi ba tháng.
Bà mẹ ruột và bà mẹ chồng của cô nhìn nhau và tủm tỉm cười một cách bí hiểm. Hai bà rất sợ con mình vô sinh. Bây giờ nỗi sợ ấy đã biến thành chuyện buồn cười. Bà này nháy bà kia: “Chúng nó ấy hơi sớm đấy. Nhưng mà: kệ... miễn là có cháu bồng thì thôi”. Xóm giềng ai cũng bảo thế. Chỉ có một người vừa buồn tê tái, vừa giận như điên. Đó là chú rể. Chỉ một mình chú biết cái bầu ấy là kết quả của tội ngoại tình, của tội gian dâm, của tội phản bội. Người phản bội, thì phải ném đá cho chết. Người bị phản bội thì cũng chẳng còn gì để mà sống trên đời này nữa... Ôi thê thảm quá chừng!
Cha kính mến.
Người con trai đang nghiến răng, trợn mắt và đấm nắm tay vào không khí ấy là Cha đấy. Cha vừa phải lãnh vào đời cái nhục nhã lớn nhất của một kiếp mày râu. Cha hướng về tác giả Thánh vịnh 100 để hỏi ý kiến. Ông ấy trả lời nhanh như phản xạ: “Những thứ ấy phải quét sạch thành đô, không sót một tên”. Cha quay sang hỏi ông Môsê, ông ấy ra lệnh: “Ném đá cho chết”. Cha đưa mắt thăm dò ý kiến của mọi người từ trong thân tộc ra tới người dưng nước lã, thì mọi người đều trả lời cái rụp: “Giết !”.
Cha bưng mặt suy nghĩ:
+ Nếu nó hư với người ta, thì nó phải trốn biệt tăm. Tại sao nó lại dám vác mặt về làng để chết đau, chết nhục?
+ Biết chắc phải chết đau chết nhục, thì tại sao mặt nó cứ tỉnh bơ, cứ đơn sơ, cứ hồn nhiên như thiên thần, cứ vui vẻ, cứ ríu rít như con sáo?
+ Tại sao loài người lại độc ác, lại ném đá như mưa trên một nữ nhi yếu đuối như thế kia? Nàng phải gào thét lên một cách tuyệt vọng và ngã gục trên đống đá đỏ lòm như máu? Và còn một thai nhi vô tội...
+ Tại sao thấy người sa ngã mà không cứu vớt, lại còn xô đẩy và loại trừ.
Cha nghĩ, nghĩ mãi, rồi thiếp ngủ hồi nào không hay. Cha ngủ mà vẫn ngồi. Bỗng... có sứ thần hiện đến, đặt tay lên vai Cha và nói: “Giuse ơi! Maria thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Cô ấy sẽ sinh một con trai, anh phải đặt tên cho bé là Giêsu. Người sẽ là Đấng Cứu độ muôn dân. Anh yên tâm rước Maria về đi nhá!”.
Cha bàng hoàng, đứng dậy, dang thẳng cánh tay, la lên một tiếng như sét nổ: “Trời!”.
3. Cõi lòng lại nát tan Chàng rể đang mừng như điên, bỗng sụ mặt xuống. Xấu hổ quá chừng! Hối hận quá thể!
+ Tại sao một nàng tiên tuyệt vời như thế mà mình nỡ tâm bảo là ngoại tình, là gian dâm, là phản bội. Chúa ơi! Con tội lỗi quá, xin Chúa tha cho con! Maria ơi! Anh tội lỗi quá, anh bất công quá! Xin em tha cho anh! Nhưng liệu tội này có tha được không? Anh đáng bị ném đá, chứ không phải là em...
+ Tôi không xứng đáng là một người chồng của một thiên thần cao quý như thế. Ôi Mẹ Đấng Cứu thế! Ôi bà Hoàng Thái Hậu của một Đấng ngồi trên ngôi báu vua Đavít! Tôi không đủ can đảm để rước Người về làm vợ đâu. Tôi xin chui vào bóng tối, để sám hối suốt đời.
+ Nhưng Sứ thần của Chúa lại bảo tôi: “Hãy rước Maria vợ của Anh về”. Chúa ơi ! Xin tha cho con. Con không dám đâu. Nhưng... làm sao tôi dám cưỡng lại lệnh của Đấng Toàn Năng. Chúa ơi! Con xin vâng. Nhưng xin Chúa phù hộ con với...
Đó là tâm tư của Cha sau khi được Sứ thần thanh minh cho Mẹ đáng yêu của con. Con hiểu Cha rất rõ, nên con thương Cha vô vàn, mà cũng kính trọng Cha vô cùng.
4. Một đám rước dâu chẳng giống ai Theo Luật, thì sau đám nói: đôi trai gái thành vợ chồng. Nhưng theo lệ, thì một năm sau mới rước dâu. Thế mà mới làm đám nói được hơn ba tháng, thì đã rước dâu rồi, mà cô dâu thì đã có bầu. Cả làng chẳng ai chống đối. Khách mời chẳng ai từ chối. Tiệc mừng vẫn chan hòa niềm vui. Nhưng ánh mắt nào của khách mời cũng hấp háy; nụ cười nào của người cụng ly cũng hàm hai ý. Bạn trai thì nhéo chú rể, vừa nhéo vừa chọc: “Nôn nóng thế”. Bạn gái thì ghé tai cô dâu, cười hí hí. Cô dâu đi bên chú rể: hồn nhiên và đẹp xinh. Chú rể đi bên cô dâu: oai phong như vệ sĩ.
Tiệc tàn: khách mời ra về; thân nhân dọn dẹp. Cô dâu kéo áo chàng rể. Hai người đi nói chuyện riêng.
- Anh thông cảm cho em sống khiết tịnh suốt đời nha.
- Khỏi nói. Anh đã quyết định như thế rồi. Đó là ý Chúa, ý nhiệm mầu vô cùng.
Lạy Cha đáng kính của con.
Nhìn lại bốn sự cố, con cảm phục Cha vô cùng. Cha được giáo dục và lớn lên trong tinh thần của Cựu Ước và của đường lối mục vụ khe khắt và cứng ngắc của các ông kinh sư. Thế mà Cha lại mang tinh thần bác ái vị tha như Thầy Giêsu của con. Thầy con không đồng ý ném đá người ngoại tình. Thầy con còn thách thức các ông kinh sư rằng: “Ai trong các ông thấy mình sạch tội, thì ném đá người này đi”. Cha giống Thầy của con như đúc.
Thầy con tuyên bố với các ông Pharisêu rằng: “Tôi đến để cứu người tội lỗi...”. Cha cũng nghĩ thế nên không tố cáo Mẹ con để Người khỏi bị ném đá. Lòng của Cha bao dung như lòng của Thầy Giêsu của con.
Thầy Giêsu của con chịu đóng đinh một cách oan khiên và đau đớn, để cho người tội lỗi như con được cứu thoát. Cha cũng thế. Cha bỏ qua mọi chuyện để Mẹ con được sống, được sinh con, mà không ai dám kết án. Còn Cha thì đành chịu âm thầm tủi nhục một mình. Cha ơi! Sao Cha giống Thầy của con quá như vậy?
Cha ơi! Cha cho con quỳ xuống để xá Cha một ngàn cái, để nói lên hết tấm lòng của con đối với Cha: Tội nghiệp quá! Đáng thương quá! Đáng kính quá! “Cái đáng” nào cũng vô cùng vô tận!
Con còn rất nhiều điều muốn thân thưa cùng Cha, nhưng lúc này con tim của con rộn ràng quá, con không cầm nổi cây bút nữa. Xin hẹn gặp lại Cha trong lá thư sau.
Kính yêu vô vàn!
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Con hau háu nghe đọc trình thuật Luca kể chuyện ngày Mẹ cho Thầy của con ra chào đời. Bố PiôHậu 106
Con hau háu nghe đọc trình thuật Luca kể chuyện ngày Mẹ cho Thầy của con ra chào đời.
Bố Giuse và Mẹ đi bộ từ Nadarét vào Bêlem để làm thủ tục kiểm tra dân số. Chờ mãi, chờ mãi mà vẫn chưa đến lượt mình. Thế rồi đến giờ khai hoa. Không một mái ấm. Không một tấm chiếu manh. Mẹ đành đặt Thánh Nhi vào máng cỏ. Trên trời văng vẳng tiếng hát của các thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Ngoài đồng những người chăn chiên được sứ thần báo tin Đấng Cứu Thế đã giáng sinh. Các ngài chỉ điểm, bảo đi tìm “Một trẻ sơ sinh, quấn tã, nằm trong máng cỏ”. Họ kéo nhau đi tìm. Họ thấy đúng như thế. Họ mừng rỡ trở về báo tin cho bà con. Ai nấy đều ngạc nhiên. Còn Mẹ thì ghi nhớ kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại...
Ngày thứ tám, Thầy của con được cắt bì và đặt tên.
Ngày thứ bốn mươi. Bố Giuse và Mẹ dâng Thầy con cho Chúa Giavê tại đền thờ Giêrusalem.
Sau đó Bố và Mẹ đưa Thầy con về quê hương Nadarét. Con đang muốn nghe nữa, thì trình thuật kết thúc. Tức quá con muốn đấm vào lưng Luca một quả. Nhưng chỉ là đấm vào không khí... Thua!
Mẹ ơi! Con muốn biết thật nhiều, chỉ vì con quá yêu. Con yêu Thầy của con. Con yêu Mẹ. Con yêu Bố Giuse. Vì yêu, con không chịu thua. Con suy nghĩ. Con tìm tòi. Con moi lịch sử. Và bây giờ thì... con thấy Mẹ rất rõ. Con thấy từ kẽ tóc đến chân tơ. Con kể cho Mẹ nghe nha.
1. Bố quê ở Bêlem, nên theo pháp lệnh, Bố và Mẹ phải về đó mà làm thủ tục kiểm tra dân số. Khổ lắm, nhưng phải đi, vì đó là lệnh của Hoàng đế Rôma. Ông nội, bà ngoại, chú thím, cô dì... mỗi người cho một tí tiền và dặn đi dặn lại: “Tranh thủ tối đa để kịp về nhà, trước ngày sinh con”.
Hành trang gọn nhẹ. Hành trình thăm thẳm. Mẹ ngồi trên lưng lừa, ôm chặt bọc đồ, lòng miên man nghĩ về cái thai thánh đức, quên bẵng đường xa. Bố Giuse đi bộ, mồ hôi lã chã, mà chẳng thấy vất vả. Cũng chỉ vì đang được dấn bước vào một giai đoạn lịch sử vĩ đại.
2. Hành trình bốn ngày kết thúc. Bố dựng lều. Đó là mái ấm của những ngày tha hương. Ngày hôm sau, Bố lên ủy ban thị trấn để làm thủ tục. Nhìn sân ủy ban, Bố lắc đầu thất vọng. Lạc đà, lừa ngựa trùng trùng điệp điệp. “Người cưỡi lạc đà” vào văn phòng ủy ban, vừa đi vừa nắn túi. Vào một lúc, rồi ra ngay. Cười toe toét. “Người cưỡi ngựa” đi vào. Vào thật nhanh; chờ thật lâu; đi ra chậm chậm, có vẻ tiếc xót. “Người dắt lừa” đi vào: vừa đi vừa lách; lách mãi mới vào được; vừa vào tới nơi, thì đã đi ra; mặt tiu nghỉu... Chờ mãi, chờ mãi, rồi lại về.
Ngày nào Bố cũng lên ủy ban. Cứ về đến cửa lều, thì Bố lại dang tay, lắc đầu. Mẹ thì cúi đầu, chắp tay, suy nghĩ.
Ngày nào cũng thế. Tuần nào cũng vậy. Não lòng!
3. Mẹ ngồi xếp bằng trên chiếu. Hai tay đặt lên bụng. Miệng thì thầm: “Anh ơi, ngày của Bé tới rồi”. Bố chạy vọt ra khỏi lều, vào thị trấn, gõ cửa nhà trọ. - Vợ tôi tới giờ đẻ. Cho tôi mướn một phòng.
- Hết phòng rồi. Nhưng nếu thêm tiền gấp đôi thì tôi nhường phòng cho. Chúng tôi ngủ ngoài hành lang cũng được. -!!
Bố hốt hoảng chạy vào nhà dân. - Vợ cháu sắp đẻ. Nhà trọ hết chỗ. Xin hai bác thương cho vợ cháu đẻ nhờ. Chúng cháu đội ơn.
- Thấy mặt mày hiền, thì tao thương đứt ruột. Nhưng cho đàn bà đẻ trong nhà, thì nhà mắc uế. Không được. Hay là... thế này. Mày đưa vợ ra đẻ ở trong cái hang đá ngoài đồng. Đẻ xong rồi thì vào đây, tao mới dám chứa. Tội nghiệp!
4. Hang đá quạnh hiu. Tối tăm và hôi hám. Chúa Hài Nhi, Thầy của con nằm trong máng cỏ. Mắt lim dim. Ngực phập phồng. Mẹ lặng lẽ nhìn ngắm. Sung sướng vì có một người con vĩ đại. Nhưng buồn tủi đến vỡ mộng. “Con vua Đavít” mà như thế sao?! Ôi mầu nhiệm của lịch sử cứu độ. Mẹ chẳng hiểu tại sao. Đành cúi đầu và thì thầm “xin vâng”.
Bố Giuse thì mặc cảm đầy mình. Là thân phận đàn ông chẳng biết làm gì để phục vụ người mẹ vĩ đại sinh con tuyệt vời. Chỉ biết cúi đầu ngẫm nghĩ. Bố bắt chước Mẹ thì thầm “xin vâng”.
Mẹ ơi! Thấy Mẹ khổ sở quá, con chỉ biết khóc. Bất giác, con nhệu nhạo trong tiếng nấc: “Chúa ơi. Tại sao Mẹ con phải khổ quá như vậy? Mẹ con đang ở tuổi ô mai, tuổi chưa biết lo, mà phải sinh con trong cảnh thiếu thốn cực kỳ. Không có mẹ, không có dì, không có một cô mụ vườn giúp đỡ. Mẹ con phải ngủ trong chuồng bò. Mẹ con tắm giặt ở đâu?”. Ôi, thân phận của “Bà Hoàng Thái Hậu”!
Mẹ ơi! Con thương Mẹ quá! Con chẳng biết làm gì để giúp Mẹ. Con chỉ biết khóc. Khóc mãi. Khóc hậm hực...
5. Bỗng có tiếng hát văng vẳng. Mẹ ngước mắt nhìn lên. Mẹ chắp tay. Hai dòng lệ tuôn chảy. Dường như Mẹ thấy Chúa Cha. Mẹ mỉm cười. Nhưng lại khóc nhiều hơn. Khóc vì yêu. Khóc vì được yêu...
Ngoài cửa hang, bỗng có tiếng ồn ào. Bọn chăn cừu đứng lố nhố. Họ chen nhau vào. Họ chào Mẹ. Họ chào Bố. Họ quỳ mọp lạy Thầy Hài Nhi của con. Vui quá là vui! Họ ra về. Họ trở lại. Họ dẫn theo một đoàn người đông như chợ. Đàn ông, đàn bà, già trẻ, lớn bé. Niềm vui của ngàn năm trông chờ nay bùng vỡ. Đấng Cứu Thế đã ra đời. Dân tộc sắp được giải phóng. Họ hô to “Halléluia. Halléluia”. Họ đua nhau rờ Bé xinh một cái, rồi vuốt vai Mẹ một cái, đập vai Bố một cái.
Người nào cũng đòi rước Bé xinh về nhà mình. Vinh dự quá chừng! Bất ngờ, một vị cao niên lên tiếng “Để tôi rước Đấng Cứu Thế về nhà tôi”. Mọi người im phăng phắc, tiếc hùi hụi. Không ai dám cãi. Không ai dám giành. Ông là người được mọi người công nhận là người được Đức Chúa chúc phúc, vì con cháu ông xúm xít như chùm ôliu, tuổi ông cao nhất làng, vàng bạc nhà ông phải chứa bằng hũ.
6. Sáng hôm sau, đại gia cho Bố mượn ngựa đi báo tin gấp cho Dì Êlisabét. Chỉ có 19 cây số. Bố phóng ngựa một tiếng đồng hồ là tới Sinkarim. Tin vui bùng vỡ. Dượng Dacaria ôm chầm lấy Bố, vỗ vai Bố bùm bụp. Dì Êlisabét ôm con chạy đến khóc òa lên. “Tao đoán đúng mà! Tao đếm từng tháng từng ngày mà...” Gia đình sum họp. Vui hơn ngày đại lễ Vượt Qua.
Bố Giuse và dượng Dacaria phóng ngựa đi như bay về hướng Bêlem. Uy tín của dượng Dacaria đã vang dội khắp ba miền. Làng Bêlem kéo nhau đến để chào dượng: “Rápbôni! Chào Thầy”. Uy tín của dượng đã cao, bây giờ thì cao vút. Dượng yêu cầu được rước cháu về ngay Sinkarim. Chẳng ai dám cãi, nhưng cứ năn nỉ: “Chờ cho Mẹ và Con cứng cáp đã”. Chờ đến ngày thứ bảy, dượng và Bố mới đưa Mẹ và Bé về Sinkarim được. Đó là tình. Đó là lý.
7. Nhà dì Êlisabét bỗng trở nên ấm cúng, thân thương vô cùng. Bé Gioan được sáu tháng tuổi. Bé Giêsu được 7 ngày tuổi. Hai bà mẹ hiểu nhau như đi guốc trong bụng của nhau. Yêu nhau, trọng nhau, quý nhau.
Bố Giuse và dượng Dacaria thì mải miết bàn chuyện lịch sử dân tộc: lịch sử vòng vo; lịch sử thăng trầm; lịch sử xán lạn đang tới...
Hôm sau là ngày thứ tám của Bé Giêsu. Gia đình, xóm giềng sum họp. Dượng cắt bì cho Bé. Bố đặt tên cho Bé là Giêsu. Tiệc tùng. Chén thù chén tạc. Vui ơi là vui!
Ngày thứ bốn mươi của Bé và của Mẹ. Cả gia đình bao xe ngựa lên Giêrusalem. Chỉ có bảy cây số. Ngựa chạy lóc cóc không đầy một tiếng đồng hồ. Mọi thủ tục, mọi lễ nghi... dượng Dacaria thuộc lòng như đếm mười ngón tay. Bố Giuse khỏe re. Mẹ và dì tha hồ mà tâm sự. Đền thờ nguy nga, hoành tráng... Mẹ và dì chả quan tâm. Hai cái đầu cứ nghiêng nghiêng gần đụng vào nhau. Hai cặp môi thì thầm y như hai bà phước lần hột. Hai Bé lấy tay khều nhau, cười toe mà không thành tiếng.
Mẹ yêu dấu của con. Đó là trình thuật của con. Xin Mẹ chúc phúc cho nó. Tất cả chỉ vì yêu Mẹ mà thôi.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân Tộc
Gioan kể chuyện Mẹ đi ăn cưới. Chuyện kể xong mà lòng con vẫn chưa động tĩnh; tim vẫn vô PiôHậu 107
Gioan kể chuyện Mẹ đi ăn cưới. Chuyện kể xong mà lòng con vẫn chưa động tĩnh; tim vẫn vô tư đập 67 nhịp một phút. Đám cưới gì mà chả thấy cô dâu chú rể. Thực khách trùng trùng điệp điệp mà im phăng phắc y như chợ phỗng. Phép lạ hóa nước thành rượu là trung tâm của câu chuyện, thế mà: hai nhân vật chính chỉ xuất hiện mỗi người không tới mười lăm giây đồng hồ; sáu chum nước đầy ắp biến thành rượu ngon mà chả thấy ai uống, chỉ thấy ông MC nhắp nhắp vài cái rồi thôi... Nghe mà buồn. Nghe rồi tức.
Con gấp cuốn Tin Mừng, đè cánh tay lên trên, rồi ngồi suy nghĩ. Vừa nghĩ vừa ngẫm. Ngẫm nghĩ thật lâu để thấy Mẹ thật rõ và để biết Thầy con thật nhiều...
Có một đám cưới ở Cana. Mẹ được mời. Thầy con cũng được mời. Mẹ từ Nadarét đi xuống. Thầy con từ thủ đô đi lên. Lúc ấy Thầy con chưa nổi tiếng, vẫn chỉ là anh thợ mộc lưng dài vai rộng, không vợ không con. Thầy con ngồi ăn với đám đàn ông sồn sồn, chả ai để ý, y như cá mè một lứa... Thầy con chỉ uống cầm chừng. Uống để mua vui. Uống để không ai bị cụt hứng.
Còn Mẹ thì... để con mô tả nhá.
Mẹ đã ngót nghét năm mươi, nhưng vẫn tươi như người bốn chục. Thần dược “xin vâng” giúp Mẹ trẻ lâu và đẹp mãi. Đàn bà ngũ tuần vừa từng trải vừa tháo vát. Người già thì kính nể, người trẻ thì thương mến. Mẹ là khách được mời, nhưng cứ đi tới đi lui như người thân trong nhà. Mẹ cúi chào khách đến với nụ cười tươi thắm, khách thấy ấm lòng. Mẹ dừng chân bên đám hậu cần, khen tặng vài câu, bọn họ quên bẵng nhọc nhằn. Mẹ đứng sau lưng các bà mệnh phụ, làm duyên một tí, chắp tay cúi đầu tỏ vẻ mến phục, các bà sung sướng quá thể. Mẹ tạt qua phía đàn ông. Vừa nhìn món ăn vơi đầy, vừa vẫy tay gọi các em phục vụ. Đi như lướt. Lướt như bay. Vẫy tay, nhưng không dừng chân. Đàn ông vừa thấy được chiếu cố, vừa không dám lả lơi...
Ánh bạch lạp đang giăng mắc, đang lung linh theo làn gió nhẹ. Đẹp như mơ. Bỗng như có linh tính báo tin buồn. Mẹ lướt nhanh xuống khu nhà bếp. Hai ông thông gia đang im lặng nhìn nhau. Hai bà thông gia đang cúi đầu nhìn ngón chân cái vừa day vừa dí trên nền gạch đầy rác rến. Cô dâu bé tí đang gục đầu lên ngực chú rể, khóc thút thít, sợ không thể ăn đời ở kiếp, vì có điềm gở.
Mẹ ân cần trao đổi.
- Có chuyện gì vậy?
- Hết rượu rồi. Mất mặt cả lũ.
- Có cách nào giải gỡ được không?
- Từ chết đến chết.
- Để em tính.
Mẹ ôm mặt, suy nghĩ mười giây, rồi lướt đi như bay. Mẹ nói nhỏ bên tai Thầy con:
- Nhà đám hết rượu rồi. Thảm thê vô cùng! Trăm sự nhờ vào quyền phép của con thôi.
- Chuyện này không liên quan gì đến Mẹ và Con. Vả lại thời giờ của Con chưa tới mà.
Nói xong Thầy con ngoảnh mặt nhìn hàng bạch lạp, y như vô tâm vô tình. Còn Mẹ thì vẫn đứng ở đấy. Hai tay khoanh trước ngực. Cặp mắt long lanh y như có linh hồn, y như đang thì thầm. Bỗng như đọc được ý của Thầy con, Mẹ nở một nụ cười đắc thắng, quay ngoắt một cái, lướt như bay về phía bọn con trai chạy bàn. Mẹ bá vai tụi nó, ân cần dặn dò: “Tụi con chờ lệnh của anh Giêsu. Anh ấy bảo thế nào, thì tụi con cứ thế mà làm”.
Thầy con lướt sau Mẹ, xởi lởi với bọn con trai đang trố mắt chờ đợi.
- Chúng mày múc nước đổ đầy hết sáu cái chum này. - Dạ. Tụi em làm ngay.
- Đầy rồi, thì lấy cốc múc đem mời bác MC uống. Rượu đấy chứ không phải là nước đâu.
Ông MC nhắp nhắp rồi trợn mắt.
- Chúng mày làm ăn dở như cục c... Rượu ngon phải uống trước, rượu nhẹ phải uống sau. Thế mà chúng mày giấu rượu ngon cho tới giờ này mới đem ra. Ngu ơi là ngu!
- Tụi con không biết. Bác hỏi anh Giêsu ấy. Hoặc hỏi thím Maria thì biết.
Nước lã biến thành rượu, một tin vui bùng vỡ. Chuyện thiếu rượu trong tiệc cưới là điều ô nhục, thì lại được nhà đám hãnh diện khoe um lên: khách tiệc bao vây sáu chum đá, chen nhau múc uống thử. Các bà chắp tay lạy Mẹ. Các ông nâng ly, nhìn Thầy bằng ánh mắt chỉ dành cho thần tượng. Cô dâu lẽo đẽo theo Mẹ, vừa theo vừa chùi nước mắt, khóc vì mừng. Mừng quá quên cả chàng rể, đang đứng xớ rớ, chẳng biết làm gì. Bị vợ bỏ quên mà lòng nao nao sung sướng...
Uy tín của Mẹ và của Thầy con bốc lên như diều gặp gió. Thầy con thành ngôn sứ. Mẹ biến thành Bà Hoàng. Đàn bà ôm lấy Mẹ mà khóc. Thương quá là thương! Đàn ông tôn sùng Mẹ như thiên thần từ trời rơi xuống. Phúc đức ngàn trùng! Chắp tay cúi đầu. Chào xong rồi đi múc rượu để uống. Uống như điên, vì mừng như điên.
Sáu chum rượu vơi dần, vơi dần. Niềm vui của đám phụ nữ cũng vơi dần, vơi dần, biến thành nỗi lo. Một bà mệnh phụ khều vai Mẹ.
- Chị xem kìa, chồng tôi say rồi đấy. Lại khổ vợ con. Em bắt đền chị đấy.
- Em đừng lo. Để chị lo cho.
Cái dáng cao cao của Mẹ lại lướt, lại bay, chập chờn dưới hàng bạch lạp giăng mắc. Đàn ông giơ tay chào, nâng ly mời Mẹ. Mẹ lập nghiêm, không thèm chào, không thèm cười. Đàn ông cụt hứng, kéo áo nhau: “Bà giận kìa”; “Thôi không uống nữa”...
Canh tư thì tiệc tàn. Ai nấy ra về. Ánh đuốc bập bùng chảy theo đường mòn ngoằn ngoèo giống như suối nham thạch từ núi phun lửa chảy xuống. Ánh đuốc chảy tới đâu, thì tên của Mẹ và của Thầy con chảy theo tới đó. Giêsu, Maria và sáu chum rượu trở thành một kỷ niệm không quên.
Sân nhà đám trống vắng, nhưng ánh đèn bạch lạp vẫn giăng mắc, vẫn lung linh. Cứ cháy mãi cho tới lúc tàn lụi, không ai muốn tắt. Dưới mái ấm của gia đình, hai họ và cô dâu chú rể vây quanh Mẹ và thầy con. Không ai buồn ngủ, không ai muốn ngồi yên. Hàng chục ánh mắt nhìn Mẹ và Thầy con. Kính trọng vô cùng! Biết ơn quá chừng! Thương mến vô vàn!
Còn Mẹ thì sung sướng quá. Ánh mắt long lanh như ngôi sao lấp lánh. Đôi môi chúm chím như hoa quỳnh đang mở cánh. Còn Thầy con thì chả nói gì. Cứ nhìn Mẹ và cười khúc khích. Cười như để chia sẻ. Cười như để trêu chọc. Chọc vui. Chọc yêu. Trong cái cười của Thầy con vẫn phảng phất một cái gì khó hiểu. Dường như Thầy con đang ân hận lắm...
Phép lạ hóa nước thành rượu hôm nay là một cách đền ơn đáp nghĩa đối với một người mẹ quá khổ vì con. Mẹ đã chịu mang tiếng là người đàn bà bạc phước, bị Giavê khép dạ chỉ cho đẻ một con. Mà... đứa con một lại không giống bố được lấy một cái lông mi. Oan khiên quá chừng! Oan khiên suốt ba mươi năm ròng rã!
Đứa con một ấy lớn cồ cồ rồi mà vẫn cứ chùi lủi một mình. Không tình không duyên, thiên niên vạn đại, tông đường ra tro. Dư luận nghiệt ngã đổ xuống hết trên đầu Mẹ. Trăm dâu đổ đầu tằm. Thầy con cũng đau lắm. Vì Con mà Mẹ phải khổ.
Những vết thương của ba mươi năm chưa khép miệng, chưa mọc da non, thì... những nỗi đau của ngày mai đang sầm sập đi tới. Thầy con sẽ bị các ông kinh sư và pharisêu chụp mũ “phá đạo”, “phá luật Môsê”. Hằng tuần, trên các giảng đài, tên của Mẹ và tên của Thầy con bị lôi ra để bêu rếu. Mẹ lại khổ vì Con. Vì Con mà Mẹ lại khổ.
Mẹ ơi! Phép lạ hóa nước thành rượu, niềm vui bùng vỡ ở tiệc cưới Cana là món quà vĩ đại Thầy con tặng Mẹ để đền ơn Mẹ và cũng để ... “đền tội” nữa đấy. Đây là ý nghĩ của riêng con. Mẹ giữ bí mật dùm con nhá.
Con đọc trình thuật của Luca nói về việc sứ thần Gáprien báo tin Mẹ thụ thai Đấng Cứu Thế. Trình PiôHậu 108
Con đọc trình thuật của Luca nói về việc sứ thần Gáprien báo tin Mẹ thụ thai Đấng Cứu Thế. Trình thuật ngắn tũn. Con đếm được 303 từ. Còn lời phát biểu của Mẹ, thì chỉ vỏn vẹn có 33 từ mà thôi.
Thiên Chúa nhập thể mở màn lịch sử cứu độ. Đó là một biến cố vĩ đại, xé đôi lịch sử loài người. Tại sao một biến cố lớn lao như thế mà lại diễn ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy? Con cũng thắc mắc mãi: tại sao Mẹ lại ít lời quá như vậy? Tức quá! Con nghĩ mãi không ra.
Nếu con là Mẹ, con sẽ nói với sứ thần Gáprien rằng: “Chú ngồi xuống đây. Tôi có rất nhiều điều phải nói với chú:
1. Chú biết rồi đấy, đứng về phương diện pháp luật thì tôi đã là vợ của anh Giuse. Theo tục lệ, thì năm tới gia đình anh ấy mới tổ chức rước dâu. Nhưng vài ba tháng nữa anh ấy thấy tôi có bầu, thì sẽ xử trí ra sao?
Trước hết anh ấy sẽ đau khổ đến chết được. Anh ấy yêu tôi và coi tôi như thần tượng. Sự cố này sẽ làm cho anh ấy vỡ mộng. Một người đàn ông thấy mình bị phản bội, thì giống như thấy mình bị đâm lén. Nhục vô cùng... Tôi không nỡ tâm chứng kiến sự cố ấy.
Chú cũng biết rằng theo luật Môsê, thì người ngoại tình bị ném đá. Ai thanh minh cho tôi về việc mang thai bởi phép mầu của Chúa? Tôi nói thì ai mà tin. Như vậy tôi vừa bị chết oan, vừa bị chết nhục, vừa bị chết đau. Một trận mưa đá sẽ đổ xuống trên thân tôi. Mặt tôi rách nát. Trán tôi vỡ vụn. Cả thân tôi chỉ còn là một cục máu khổng lồ.
Ấy là chưa kể đến việc bố mẹ tôi, dòng họ nhà tôi không còn đủ can đảm mà đi ra đường. Đi lấy nước giếng thì phải đi ban đêm. Đi làm ngoài đồng, thì phải cúi mặt nhìn đất...
Bởi vậy đây là điều kiện tiên quyết, đó là chú phải báo tin này cho anh Giuse biết ngay lập tức. Chú phải báo tin. Nếu anh ấy không tin, thì chú phải làm cho anh ấy tin. Sau đó trở lại báo cáo cho tôi mọi tình tiết.
2. Chú đã nói: Con tôi sẽ làm vua và triều đại ấy vượt lên trên mọi triều đại, kể cả triều đại của vua Đavít và vua Salômon. Chính vì vậy chú phải trình báo cho tôi hay ba điều.
Một là con tôi phải ăn uống và ăn mặc như thế nào? Mọi Nazir của Chúa phải được chuẩn bị như thế. Nazir Samson được dặn trước là tóc không bị dao kéo đụng tới. Nazir Samanuen được khuyên là không đụng đến chất say. Con tôi là một siêu Nazir, thì phải được chuẩn bị kỹ hơn thế nhiều.
Hai là con tôi phải có một biệt điện ở Giêrusalem, vừa hoành tráng, vừa đầy đủ tiện nghi, mà xưa nay loài người chưa ai có.
Ba là Hoàng Thái Hậu của một Hoàng đế vĩ đại, thì cũng phải được chăm sóc một cách xứng đáng. Ăn thế nào? Mặc ra sao? Có bao nhiêu người phục vụ dưới trướng? Cần có bao nhiêu quan tiền để chi phí thường xuyên.
Những lời tôi vừa nói với chú, không phải là một gợi ý, cũng không phải là một đề nghị, mà là một mệnh lệnh từ bà Hoàng Thái Hậu của Đấng Cứu Thế. Chú nhớ nhá.
Mẹ kính yêu.
Đọc Thánh Vịnh 79. Con thấy Con của Mẹ cai trị một đế quốc rộng mênh mông khởi đi từ bờ biển Địa Trung Hải và tạm dừng ở sông Ơ Phát. Đọc Isaia chương 66, con thấy hằng năm, vàng bạc châu báu từ khắp các quốc gia trên thế giới chảy về thành đô để triều cống, y như thác vỡ bờ. Con của Mẹ vĩ đại như thế đó. Còn cái huy hoàng của Mẹ so với cái hào quang ấy, thì cũng “bên tám lạng, bên nửa cân”. Con xin cúi đầu chắp tay lạy Mẹ.
Mẹ ơi, con nói hơi nhiều, nhưng không nói sai. Mọi ý nghĩ của con đều bắt nguồn từ Kinh Thánh. Thế mà con thấy Mẹ có vẻ không quan tâm. Mẹ cứ chăm chú nhìn vào vô biên, quên bẵng đứa con của Mẹ đang hùng hồn tuyên ngôn.
Con cảm thấy xấu hổ, trơ trẽn. Con vội cúi đầu suy nghĩ lại. Suy nghĩ mãi. Suy nghĩ thật lâu. Bây giờ con mới hiểu tại sao Mẹ ít lời như thế. Mẹ không nói nhiều vì những điều Mẹ nghe biết không thể diễn tả bằng lời, mà chỉ cảm nghiệm bằng nhịp đập của con tim. Mẹ cảm thấy mình nhỏ tí xíu đang được bồng ẵm trong vòng tay vô biên của Đức Chúa ngàn trùng. Mẹ không thắc mắc. Mẹ không đòi hỏi. Mẹ tin tưởng và phó thách mọi sự cho Đấng Toàn Năng và Toàn ái. Chúa muốn gì, Mẹ cũng chỉ “xin vâng”. Cái gì Mẹ không hiểu, thì cứ ghi khắc trong lòng, để suy đi nghĩ lại mà khám phá ra việc an bài kỳ diệu của Đức Chúa.
“Xin vâng” và “ghi khắc trong lòng” là hai đức tính nổi bật trong đời của Mẹ. Dù trải qua biết bao thử thách đau thương, Mẹ vẫn vui, vẫn khỏe và vẫn đẹp. Nếu con gặp hoàn cảnh như Mẹ, thì con sẽ mất ăn mất ngủ. Từ đó mỗi tháng sút dăm mười ký, rồi điên điên khùng khùng mà chết. Con xin đan cử một số trường hợp như sau.
1. Nếu con là Mẹ mà phải sinh con trong hang đá, hôi hám, bẩn thỉu, con sẽ gào lên thế này: “Bớ ông sứ thần Gáprien ơi, ông đến đây mà xem. Ông bảo con tôi sẽ ngồi trên ngai Đavít... thế mà bây giờ như thế này đây. Ngai vua Đavít mà là cái máng cỏ. Ôi, mười voi không được một bát xáo ông ạ...”. Con thì um sùm lên thế. Còn Mẹ thì cứ lặng lẽ, ghi khắc mọi kỷ niệm buồn vui này để suy đi nghĩ lại. Không thèm buồn. Không thèm giận...
2. Con gái đi làm dâu muốn được bên chồng quý mến, thì điều kiện đầu tiên là phải sinh nhiều con, nhiều đến mức độ “xúm xít xung quanh bàn ăn như một chùm ôliu”. Thế mà Mẹ chỉ sinh được một đứa con. Một điều cắc cớ nữa gây biết bao nghi vấn, đó là sau khi nhận đám nói, Mẹ vào Miền Nam chơi ba tháng. Sau ba tháng đi chơi xa mịt mù, khi về thì có bầu. Vì có bầu thì phải rước dâu sớm. Rước đâu vừa được sáu tháng, thì sinh con. Đứa con không giống bố một tí nào. Người ta không thèm nghi ngờ mà cả quyết là có vấn đề. Không ai kết án Mẹ được, vì thánh Giuse bênh... Kệ bênh thì bênh, nhưng cả làng, cả dòng họ vẫn coi Mẹ như một người tội lỗi.
Nếu con phải sống trong tình huống ấy của Mẹ, thì chắc là con phải... cắn lưỡi mà chết. Còn Mẹ thì không. Cứ “xin vâng”. Cứ “ghi khắc trong lòng” để suy đi nghĩ lại. Vẫn vui. Vẫn khỏe.
Mẹ kính yêu.
Mẹ của con là như thế đấy. Đáng kính, đáng mến vô cùng.
3. Mẹ ơi. Còn một nỗi buồn ghê gớm nữa, mà nếu con là Mẹ, thì con chẳng biết phải đối phó thế nào.
Người mẹ nào cũng phải nghĩ đến việc phát triển dân số cho gia đình. Mình lỡ chỉ đẻ được một đứa con, thì phải lo lấy vợ cho nó, để có kẻ nối dõi tông đường. Đó là luật. Đó là văn hóa của dân tộc.
Con nghĩ rằng: hằng tháng, hằng năm... mọi người đều nhắc Mẹ phải cưới vợ cho con. Bố mẹ chồng nhắc. Chú nhắc. Cô dì nhắc. Nhắc mãi mà Mẹ như điếc không nghe. Như vậy có nghĩa là hằng ngày, hằng tuần... người ta đay nghiến Mẹ. Đay nghiến một năm. Đay nghiến mười năm. Đay nghiến mãi cho tới năm Chúa của con thụ nạn và phục sinh. Bị cả dòng họ đay nghiến triền miên, suốt mười lăm năm trời. Thế mà Mẹ vẫn vui, vẫn khỏe, vẫn trẻ và đẹp. Cũng chỉ vì Mẹ biết “xin vâng” và “ghi khắc trong lòng” để suy đi nghĩ lại.
Mẹ ơi, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để con cúi đầu lạy Mẹ một trăm cái. Đáng trọng, đáng quý vô cùng!
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi là môn đệ của Thầy Giêsu. Thầy của tôi là em. Là cháu của quý vị. Tôi không hề biết quý PiôHậu 109
Tôi là môn đệ của Thầy Giêsu. Thầy của tôi là em. Là cháu của quý vị. Tôi không hề biết quý vị, vì giữa chúng ta có một khoảng cách xa ngàn trùng, xa vời vợi. Xa ngàn trùng về không gian. Xa vời vợi về thời gian. Nhưng trên dòng lịch sử, tôi vẫn thấy vài dấu vết quý vị để lại. Dấu vết nhỏ lắm và mờ lắm. Nhưng vì tôi có quan hệ dây mơ rễ má với quý vị nên tôi phải kiên trì nghiên cứu và nghiền ngẫm, để có cơ sở mà thân thưa với quý vị.
1. Máccô kể chuyện
- Máccô kể rằng: Sau một chuyến công tác mệt nhọc, Thầy tôi về Caphácnaum để thư giãn. Được tin Thầy tôi về, bà con bảo nhau tuôn đến. Thế là cả Thầy lẫn trò mệt đứ đừ, vì không còn thời giờ ăn uống và nghỉ ngơi. Nghe tin ấy, quý vị cho người đi bắt Thầy tôi, lôi cổ về. Quý vị bảo rằng: “Nó mất trí rồi”.
Chuyện kể của Máccô vắn tắt quá, có đầu mà không có đuôi. Chính vì vậy để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin hỏi quý vị hai câu:
- Một: Em, cháu của quý vị được quần chúng quý mến và hâm mộ như một siêu sao, lẽ ra quý vị phải lấy làm hãnh diện lắm mới phải; thế mà lại bảo là “Nó mất trí”.
- Hai: Quý vị có cho người đi bắt Thầy tôi, lôi cổ về không? Nếu có thì những người nào đi bắt; bắt ở đâu và có bắt được không?
Tôi hỏi thế, nhưng quý vị có mặt ở đây đâu mà trả lời. Tôi đành phải nghiên cứu, nghiền ngẫm và tự trả lời.
Luật, Tiên tri và Thánh vịnh là luật đạo, là luật đời, là văn hóa của dân tộc Do Thái. Đó là những tác phẩm mà tôi đọc hằng ngày. Vì thế, tôi chỉ đọc những tác phẩm ấy mà thôi thì cũng đủ để hiểu tâm tư của quý vị, ít nhất là 50%. Phần còn lại là những suy nghĩ về tâm lý thường tình mà tôi gọi là nhân tình thế thái.
Tôi hiểu và thông cảm với quý vị nhiều lắm. Quý vị có hãnh diện vì em cháu của quý vị được quần chúng khắp nơi tôn sùng như một vị sứ ngôn. Nhưng quý vị cũng phải chịu khổ vì Thầy tôi nhiều quá. Các ông Pharisêu, các ông kinh sư ở bất cứ hội đường nào cũng coi Thầy tôi như một tên phá đạo. Tiếng đồn “phá đạo” của Thầy tôi từ khắp nơi dội về Nadarét làm quý vị đau đầu quá. Ấy là chưa kể các ông kinh sư ở Nadarét mắng xéo Thầy tôi hằng tuần trên giảng đài vào các ngày Sabát. Cứ mỗi lần như thế, quý vị phải gục đầu xuống mà chịu trận. Tội nghiệp!
Tôi đoán chừng có một lần nào đó ông trưởng hội đường Nadarét gặp riêng ông trưởng tộc của quý vị. Hai bên có trao đổi về vấn đề của Thầy tôi.
- Bác Hai ơi! Thằng cháu của bác nó coi luật Môsê không ra gì. Ngày Sabát mà nó trị bệnh tưới hạt sen. Nó dám bỏ hết luật thanh – uế của Môsê. Môsê bảo là uế, nó bảo là sạch. Môsê cho phép ly dị, nó bảo là từ muôn thuở không có như thế … Tại sao bác không dạy nó?
- Thưa Thầy, dòng tộc nhà tôi chưa có ai phá đạo đâu. Thầy đừng nói thế, tội nghiệp cho chúng tôi. Còn thằng cháu này của tôi, nó mất trí đấy, chứ nó không phá đạo đâu. Để chúng tôi cho người đi lôi cổ nó về.
Đó là cách chạy tội hay nhất. Nhưng tôi vẫn tự hỏi: quý vị nói khéo như thế hay là nghĩ thật như thế?
- Máccô kể tiếp: Hôm ấy Thầy tôi đang giảng, thì có người đến nói nhỏ bên tai: “Mẹ Thầy và anh em Thầy muốn gặp Thầy”.
Thưa quý vị, phải chăng đó là những người mà quý vị sai đi, để lôi cổ Thầy tôi về? Nếu đúng như thế, thì quý vị sai lầm hoàn toàn. Những người này sẽ về với hai bàn tay trắng và sẽ trả lời cho quý vị rằng: “Không ai giảng được tuyệt vời như thế. Ai bảo chú ấy mất trí, thì người ấy mới là người mất trí. Từ nay đừng ai sai chúng tôi đi làm việc này nữa. Chúng tôi không muốn làm người mất trí đâu...”
Kính thưa quý vị. Tôi rất thông cảm và tội nghiệp quý vị. Nhưng tôi không thể kính nể quý vị được. Quý vị chỉ đủ khôn khéo để bảo vệ danh dự của dòng tộc, chứ không đủ can đảm để bênh vực chân lý.
Lẽ ra quý vị phải trả lời cho ông trưởng hội đường Nadarét rằng: “Đừng kết án ai sau lưng người ấy. Đó là Luật. Muốn kết án cháu chúng tôi, em chúng tôi, thì cứ việc đối chất với nó”. Tiếc quá, quý vị đã không dám nói đúng như Luật dạy.
2. Gioan kể chuyện Hôm ấy, gần tới lễ Lều, quý vị nói với Thầy tôi rằng:
- Anh nên bỏ Galilê mà lên Giuđê, vì không ai muốn nổi danh mà cứ hoạt động âm thầm. Anh hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết.
- Thời của tôi chưa đến.
Sau đó Gioan nói thêm một câu làm tôi bất bình với quý vị: “Anh em của Người chỉ nói vậy thôi, chứ họ không tin vào Người đâu”.
Thầy tôi đã thực hiện biết bao phép lạ trên con người và trên cả thiên nhiên nữa. Vậy tại sao quý vị không tin? Tôi suy nghĩ mãi và tôi thấy có hai lý do khiến quý vị không tin vào Thầy tôi, không nhận Ngài là Đấng Cứu Thế.
- Một: Đấng Cứu Thế của quý vị là người phải làm vua và nâng nước Do Thái lên hàng bá quyền. Nước Do Thái của quý vị sẽ bá chủ thế giới. Các nước của chúng tôi chỉ là những nước chư hầu của quý vị, hằng năm cứ chất vàng bạc châu báu lên lưng những con lạc đà khổng lồ rồi trập trùng đổ về Giêrusalem của quý vị mà quỳ xuống, mà kính dâng ông vua của quý vị.
Thế mà Thầy của tôi không thèm làm vua kiểu đó. Ngài đến để cứu loài người khỏi tội lỗi, không phân biệt Do Thái hay chư dân. Ngài còn cố tình đề cao người ngoại, để quý vị mở mắt ra mà biết nhìn nhận mọi người trên thế giới là anh em của nhau.
Thế là quý vị thất vọng. Thế là quý vị cố tình không tin. Quyền lợi của một dân tộc kiêu ngạo và ích kỷ đã khiến quý vị quay lưng không thèm nhìn mặt Thầy của tôi. Hình ảnh ấy Thầy tôi bảo là “có mắt mà không thấy”. Khi đã cố tình tự bịt mắt để không thấy chân lý, thì không phải là chuyện riêng của quý vị đâu. Chính các Đấng bề trên của quý vị ở thủ đô cũng làm như vậy. Họ biết rõ là Thầy tôi đã phục sinh và ra khỏi mộ, nhưng vẫn cố tình dùng tiền bạc để bịt miệng lính canh là những người đã đích thị thấy Thầy tôi sống lại. Quyền lợi của một dân tộc đã biến những công dân ái quốc cực đoan thành những người đui mù nguy hiểm của cả loài người.
- Hai: Quý vị chỉ muốn lợi dụng Thầy tôi, biến Thầy tôi thành công cụ phục vụ gia tộc của quý vị. Quý vị chỉ mong Thầy tôi phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi bọn thực dân Rôma, rồi lên ngồi trên ngai vàng. Còn quý vị thì chia nhau các chức tước từ trung ương về tới thôn xóm, từ quyền hành chính đến quyền quân sự. Nói tóm lại, quý vị chỉ muốn Thầy tôi bưng tặng cho quý vị trong thân tộc mỗi người một mâm xôi, một mâm thịt.
Khổ một nỗi là Thầy của tôi rất dị ứng với “xôi thịt”. Người chỉ biết yêu thương và phục vụ. Suốt ba năm truyền đạo, Ngài chỉ ân cần chăm sóc người nghèo, người bệnh tật, người lỡ lầm. Ngài không đá động đến tiền bạc, vũ khí và quân đội. Điều đó làm quý vị thất vọng và coi Thầy tôi như người dưng nước lã. Quý vị loại Thầy tôi ra khỏi gia phả của quý vị, mà quý vị bảo là để giữ lấy danh dự cho dòng tộc.
Đó là suy nghĩ của tôi về quý vị. Tôi hiểu rõ quý vị lắm, vì đó là tâm lý chung của lịch sử nước Do Thái được mô tả trong suốt dòng lịch sử 18 thế kỷ. Chỉ cần đọc Thánh vịnh thôi cũng đủ để thấy hết ruột gan của quý vị rồi.
Kính thưa quý vị.
Tất cả những gì quý vị đã nghĩ và đã làm đều đi vào quá khứ của hai ngàn năm. Đúng hay sai, thì cũng là sự đã rồi. Bây giờ thì Đức Giêsu mà quý vị gọi là mất trí, thì đã được cả thế giới biết đến. Hàng tỉ người đã tôn thờ Ngài và gọi Ngài là Đấng Cứu Thế, trong đó có tôi. Tôi không biết dòng họ của quý vị hiện nay đã sinh sản ra được bao nhiêu và có bao nhiêu người còn đang sinh sống ở Nadarét, bao nhiêu người đang sống tản mát trên các nước ở Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu? Trong số đó có bao nhiêu người đã giác ngộ và nhìn nhận Đức Giêsu là Chúa ? Chắc chắn là chưa nhiều. Nhưng tôi vẫn hy vọng rằng dân tộc Do Thái của quý vị và riêng dòng tộc của quý vị dần dần sẽ giác ngộ và thấy rằng Đấng Cứu Thế không phải là một ông vua, nâng nước Do Thái lên hàng bá quyền. Ngài chỉ là một ông vua của chân lý, một ông vua của tình yêu phổ quát, một tình yêu không có làn ranh, không có biên giới.
Tôi rất vui ghi vào ký ức của tôi hình ảnh một bậc thầy của triết lý hiện sinh là triết gia Bergson. Ông mang dòng máu Do Thái của quý vị. Nhưng ông đã tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Ông đã lãnh nhận phép Thánh Tẩy, đồng thời lại muốn được chôn cất như một tín đồ Do Thái giáo. Ông vẫn thương dân tộc Do Thái của mình, nhất là trong thời bị Đức Quốc Xã kỳ thị và tàn sát. Ông xin được chôn cất như một người Do Thái là vì vậy.
Tôi mong rằng quý vị cứ là người Do Thái, cứ là người gốc gác Nadarét, nhưng đồng thời tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà các Sứ ngôn tiên báo, mà cha ông quý vị hằng mong đợi. Chừng đó quý vị vừa là anh em của hàng tỉ người Kitô hữu, vừa là dòng tộc của Đấng Cứu Thế. Vinh dự biết chừng nào!
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tối hôm ấy chúng mình đang cụng ly hào hứng, thì bỗng sụ mặt xuống hết. Thầy loan tin giật PiôHậu 110
Tối hôm ấy chúng mình đang cụng ly hào hứng, thì bỗng sụ mặt xuống hết. Thầy loan tin giật gân: “Nội trong anh em có một đứa phản Thầy”. Ai nấy ngơ ngác và tự hỏi: “Thằng nào?”. Giận quá lẽ! Tức quá chừng! Sau đó Thầy nói nhỏ với cậu: “Việc anh định làm, thì đi mà làm cho mau”. Cậu vội lẻn ra ngoài, đi như bay. Trời tối om om. Tụi tớ tưởng cậu có công tác khẩn. Ai ngờ... Sau đó vài ngày, chúng tớ mới vỡ lẽ.
Sáng thứ tư, cậu vào dinh Thượng Tế để ký hợp đồng. Nội dung như sau:
- Bắt Thầy vào đêm thứ năm, sau bữa Vượt Qua.
- Bắt tại vườn Cây Dầu, do cậu đích thân hướng dẫn.
- Bắt người nào cậu chào và hôn.
- Tiền thưởng là 30 đồng.
Khi Thầy bị bắt, tớ giận cậu quá chừng. Tớ định giết cậu để trả thù. Nhưng vì sợ quá, nên lại thôi. Bây giờ Thầy đã sống lại, đã về cùng Chúa Cha, tớ thôi giận, thôi sợ. Tớ thảnh thơi ngồi chơi, ngẫm nghĩ về cậu. Tớ mổ xẻ cơ thể của cậu, để tìm hiểu từng đường gân, từng mạch máu. Tớ soi mói bộ não của cậu để biết cậu nghĩ gì. Tớ cầm quả tim của cậu trong lòng bàn tay, để thấy nó phập phồng ra sao. Tớ thuộc lòng bản đồ suy nghĩ và hành động của cậu y như thuộc lòng bàn tay năm ngón của tớ.
1. Tuần lễ Vượt Qua cuối cùng này, thầy trò chúng mình không ăn và nghỉ ở Bêtania nữa. Bạn Ladarô bị kết án tử hình vắng mặt, trốn biệt tăm. Hai bà chị thì đờ đẫn như người mất hồn. Thầy trò chúng mình đành rủ nhau ra vườn Cây Dầu, lấy gốc cây làm nhà trọ.
Chúng mình thì tụm năm tụm ba: đấu láo, nhâm nhi. Chán rồi thì lăn lưng ra ngủ. Vô tư. Thầy thì đi thật xa, không còn nghe tiếng ồn ào. Thầy cầu nguyện một mình. Có lúc Thầy dang tay nhìn trời. Có lúc Thầy quỳ mọp sấp mặt xuống đất. Thổn thức. Tha thiết.
Tớ để ý thấy cậu không ngủ. Đi tới đi lui. Vừa đi vừa đếm bước. Tớ có cảm tưởng là cậu thích vẽ bản đồ. Cậu muốn thuộc lòng mọi gốc cây, mọi ngõ ngách của vườn Cây Dầu. Cậu đứng ngắm thành thánh. Suy nghĩ một hồi lâu. Cậu quay về phía Thầy đang quỳ. Vừa nhìn Thầy, vừa bấm đốt ngón tay, như để xác định khoảng cách.
Cậu đang chuẩn bị cho một kế hoạch lớn. Rất khẩn trương. Phải rất chính xác. Thua thắng đều rất lớn.
2. Tới và cậu đều là “dân ngu cu đen”. Nhưng cậu vượt trội tớ, vì cậu biết “chơi trèo” và trèo rất cao. Ngồi ở dưới gầm sàn của giới bình dân mà cậu biết được ở trên đỉnh cao, thượng tế Caipha và công nghị đang bối rối khôn lường, đang tìm đường thoát hiểm mà chưa thấy. Bảo tớ tới cổng nhà thượng tế để lãnh quà, tớ còn chưa dám. Thế mà cậu dám lóc tóc vào tận văn phòng thượng tế, để hiến kế và để ký hợp đồng.
Tớ xin chắp tay lạy cậu ba cái.
Bây giờ tớ mới nhớ và hiểu ra. Suốt tuần lễ Vượt Qua năm nay, tớ thấy cậu làm quen với rất nhiều thầy Kinh sư và Pharisiêu. Khi thì khúm núm xum xoe; khi thì xởi lởi thân thiết; khi thì ngó trước dòm sau; khi thì ngước mắt nhìn nhau, rồi cúi đầu nhìn đất... Có vẻ tính toán. Có vẻ bí mật.
3. Kế hoạch bắt Thầy tại vườn Cây Dầu và vào đêm tối là tuyệt vời. Dân chúng tuy sợ vạ tuyệt thông, nhưng vẫn âm thầm tin Thầy và thương Thầy. Nếu bắt Thầy một cách công khai, thì không ai lường được thái độ của quần chúng. Dân Galilê là dân bốc đồng, không nhìn xa thấy rộng, họ có thể làm loạn. Làm loạn trong phạm vi tôn giáo có thể lây lan sang chính trị. Lính La Mã sẽ “mượn gió bẻ măng”: lục soát và cướp bóc đền thờ. Một đại họa!
Nếu cậu dẫn lính đến bắt Thầy giữa thanh thiên bạch nhật, thì đầu tóc và mặt mũi của cậu chỉ còn là bãi đờm nhãi của đàn bà. Giới phụ nữ hâm mộ Thầy thì trùng trùng điệp điệp. Mà khi đàn bà nổi giận, thì cậu biết rồi đấy. Từ chết đến chết, không có bị thương.
Tớ biết cậu vẫn gờm chị Mácđala lắm. Gờm là phải, tránh voi chẳng xấu mặt nào. Cậu khôn là vậy. Vừa khôn vừa khéo.
Tớ lại chắp tay, lạy cậu ba cái nữa.
4. Cậu chỉ điểm bằng cách ôm hôn Thầy là trên tuyệt vời! Ban đêm trong rừng cậy rậm rì, ánh đuốc dù có bập bùng, thì cũng vẫn chập chờn. Mười hai người đàn ông, ai cũng áo dài thùng thình, ai cũng áo khoác lùng bùng. Người nào cũng râu ria lồm xồm, người nào cũng sồn sồn trên dưới ba mươi. Chẳng biết ai là thầy, ai là trò?!... Bắt lầm là chuyện dĩ nhiên. Công cốc!
Cậu làm bộ xum xoe chào Thầy, kính cẩn ôm hôn Thầy, để địch bắt Thầy ngay chóc. Một sáng kiến của một tay gián điệp chuyên nghề.
Tớ cứ suy nghĩ mãi về cái tướng của cậu, của bố cậu và của anh cậu. Tướng của cái nòi Ítcariốt. Chân mày thì to và đen phủ kín cả mi mắt. Mũi thì dòm mồm như mỏ con cú vọ. Cằm thì vênh ra như muốn chửi vào mặt thiên hạ. Khôn, lanh, nhưng quỷ quyệt.
5. Cậu móc túi thượng tế được ba mươi đồng, tương đương với một mảnh vườn. Không tốn một giọt mồ hôi và chỉ lao động trong hai tiếng đồng hồ, mà có được một sự nghiệp như thế! Y như trúng số vậy. Cậu phải tính kỹ lắm. Cậu phải dẻo mồm và lẻo mép lắm mới thành công được như vậy. Cậu mà đi buôn lậu, thì sở thuế vụ cũng phải giơ tay đầu hàng.
Bây giờ tớ mới sực nhớ ra rằng trong suốt ba năm theo Thầy đi truyền đạo cậu cũng đã dẻo mồm lẻo mép như thế. Cậu đã moi được biết bao nhiêu tiền từ túi từ thiện của chị Gioanna, của chị Mátta... Chị Mácđala cảnh giác cậu cao lắm, thế mà cuối cùng vẫn phải chịu thua cái lưỡi mật ngọt của cậu. Lại mở hầu bao. Lại mở từ tâm...
Thấy vậy tớ chỉ mỉm cười và mừng cho những thân phận nghèo khổ. Bà góa neo đơn, trẻ mồ côi bị bỏ rơi đều coi cậu như vị ân nhân vĩ đại. Ai ngờ... chỉ vợ cậu mới hiểu rõ điều này.
Tớ hỏi Gioan, thì hắn bảo rằng: “Nó không thương người nghèo đâu. Nó là thằng ăn cắp quỹ truyền giáo đấy”. Tớ biết vậy... và để tâm suy nghĩ.
Giuđa mến.
Mười hai đứa chúng mình lẽo đẽo theo Thầy suốt ba năm trường. Đứa nào cũng xôi thịt. Đứa nào cũng hau háu chờ Thầy phất cờ khởi nghĩa, để chia nhau làm quan làm tướng. Chẳng đứa nào hiểu Thầy. Chẳng đứa nào làm vui lòng Thầy. Nhưng chúng tớ chỉ yếu đuối chứ không dối trá. Chúng tớ chỉ háo danh, chứ không thủ đoạn. Vì thế chúng tớ vẫn được Thầy trìu mến và ban Thánh Thần đề xoay thế đứng 180 độ. Tất cả chúng tớ đều lên đường loan báo Tin Mừng.
Thầy không bỏ cậu, nhưng chính cậu đã bỏ Thầy. Ở trên đời này, cái phản bội nào cũng là đểu. Vợ chồng phản nhau: đểu. Con phản cha: đểu. Trò phản thầy: đểu. Bạn phản bạn: đểu. Nhưng tớ chưa thấy có cái đểu nào giống như cái đểu của cậu. Cậu là một thằng học trò siêu đểu.
Tại sao nên nông nỗi này? Tại tiền. Cậu thờ tiền nên cậu sẵn sàng làm mọi thứ, kể cả bán Thầy, để có tiền.
Tớ vẫn thương cậu, nhưng tớ không thể quên được hình ảnh cậu ôm hôn Thầy để nộp Thầy. Tiền đã biến cậu thành một tên siêu đểu của lịch sử.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đang ngồi tù ở thủ đô Rôma. Ngồi tù mà y như ngồi giảng. Nhà tù lại là ngôi nhà mà chính PiôHậu 111
Anh đang ngồi tù ở thủ đô Rôma. Ngồi tù mà y như ngồi giảng. Nhà tù lại là ngôi nhà mà chính Anh thuê mướn. Người lính có nhiệm vụ quản lý Anh, thì kính trọng và quý mến Anh như một chú tiểu đồng chăm sóc sức khỏe cho tôn sư. Cả cộng đoàn Rôma đang tất bật lo cho Anh, y như một ngàn đứa con đang tíu tít xung quanh một ông bố già. Đặc biệt là anh chị Aquila và Prítkila đôn đáo ngược xuôi để lo cho Anh từ miếng cơm manh áo cho tới an ninh chính trị.
Có một bàn tay toàn năng của một người cha đang rà rà trên cuộc đời của Anh. Có một bàn tay mềm mại của một người mẹ đang vuốt ve trên nỗi khổ trập trùng của Anh. Nghĩ đến thân phận của Anh hôm nay, tôi không hề buồn, tôi không hề lo. Tôi chỉ biết khoanh tay, cúi đầu, khép hờ đôi mi, để cảm tạ vòng tay yêu thương của Chúa. Tôi muốn lãng mạn một tí để ví von: Anh đang là một cành lá xơ xác bỗng biến thành một bông hoa rực rỡ trong tay ngọc ngà của một mỹ nhân; Anh đang là một đấng nam nhi hào hùng bỗng trở thành một bé thơ, đơn sơ như thiên thần, được mẹ ủ ấp trong vòng tay vô vàn thương mến.
Khi bộ não không còn căng thẳng, khi con tim không còn hồi hộp, tôi thảnh thơi đọc lại những lá thư Anh gửi cho giáo đoàn Galát, Philíp và Corintô. Đọc đi đọc lại, đọc mãi đọc hoài, bỗng… tôi cảm thấy bớt thương Anh một tí, chỉ một tí thôi. Anh có biết tại sao không? Anh không thèm biết đâu, nhưng tôi yêu cầu Anh hãy biết.
1. Đọc lá thư Anh gửi giáo đoàn Galát, tôi thấy có ba chỗ làm tôi nhột nhạt quá thể.
1.1. Anh gọi giáo đoàn Galát là những người NGU – XUẨN. Tại sao Anh nỡ tâm nặng lời với họ như vậy? Dĩ nhiên là tại họ nghe bọn bảo thủ quá khích: đòi người ngoại trở lại phải cắt bì. Ơn cứu độ không đến từ phép cắt bì, mà đến từ niềm tin vào Đức Giêsu. Họ có nhẹ dạ, họ có lầm đường lạc lối, nhưng đừng gọi họ là đồ NGU XUẨN. Vì quá nhiệt thành mà Anh nặng lời với họ như thế. Mong rằng Anh có lời xin lỗi họ.
1.2. Anh nói tục: “Tại sao bọn họ không tự thiến quách đi cho rồi”. Tôi không bênh bọn họ đâu. Họ vừa quá khích, vừa dai như đỉa. Tại Công đồng Giêrusalem, ông Giacôbê đã tuyên bố rõ ràng rằng: “Từ nay người ngoại trở lại khỏi cắt bì”. Thế thì hà cớ gì mà họ cứ day dí mãi về cái miếng da bọc quy đầu làm chi vậy. Rõ ràng là họ cố chấp. Nhưng thái độ cố chấp ấy bắt nguồn từ truyền thống của nhiều ngàn năm. Tổ phụ Ápraham cắt bì, tổ phụ Ixaác và Giacóp cắt bì, Môsê cắt bì và ngàn ngàn người, triệu triệu người cắt bì, nối tiếp nhau suốt dòng lịch sử một nghìn tám trăm năm. Họ là nạn nhân của truyền thống. Mong Anh bỏ qua cho họ.
1.3. Anh gọi ông Kêpha là người không ngay thẳng trên con đường loan báo Tin Mừng. Tôi không nghĩ như thế. Chắc Anh chưa quên câu chuyện tranh cãi trong Công đồng Giêrusalem giữa Anh và nhóm bảo thủ. Tôi thấy chưa ai thắng ai. Thế mà phần thắng bất ngờ nghiêng hẳn về Anh. Do đâu? Do ông Kêpha. Ông Kêpha tuyên bố một câu nặng như búa tạ: “Chúng ta không được thách thức Thiên Chúa mà quàng trên cổ anh em tín hữu cái ách mà cả ông cha chúng ta lẫn chúng ta không ai vác nổi”. Ông Kêpha nói như thế với tất cả tâm tư và kinh nghiệm sống của ông. Rất chân thành. Rất nhiệt thành.
Nhưng khổ một nỗi là ông hay cả nể. Vì vậy mà lập trường của ông dễ bị chao đảo. Chỉ có thế thôi. Đâu đến nỗi là không ngay thẳng trên con đường loan báo Tin Mừng. Mong Anh nghĩ lại.
2. Đọc lá thư Anh gửi cho giáo đoàn Philíp, tôi thấy có hai chỗ làm tôi bị sốc.
2.1. Anh gọi nhóm bảo thủ lì lợm là “Bọn chó má”. “Bọn thợ xấu”. “Bọn giả danh cắt bì”. Đứng vào vị trí của Anh, tôi cũng nghĩ như thế, nhưng không nỡ tâm nói như vậy. Bọn họ là ai? Hầu hết bọn họ là các ông kinh sư và Pharisêu đã từng theo dõi và làm khổ Chúa suốt ba năm trời. Nhưng sau khi Chúa cho ông Ladarô phục sinh, thì họ bắt đầu suy nghĩ. Khi bọn lính canh mồ về báo cáo là họ thấy Chúa phục sinh, thì họ tin và chịu phép rửa. Rất đáng trân trọng!
Nhưng khổ một nỗi là họ chưa dám khẳng định Đức Giêsu là Thầy trên hết mọi thầy và chỉ có mạc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu mà thôi. Họ được giáo dục trong mục vụ Do Thái giáo vào thời sa đọa đến tận cùng. Đạo chỉ còn là cái vỏ, ruột thì rỗng tuếch. Đạo chỉ còn là danh và lợi. Họ là nạn nhân của mục vụ sai lầm, chứ họ không phải là chủ thể. Họ là đối tượng cần được cứu vớt, hơn là đối tượng để kết án. Dường như Anh cũng nghĩ như thế, khi Anh viết: “Miễn là Đức Giêsu được rao giảng”. Chí lý lắm thay!
2.2. Anh cám ơn giáo đoàn Philíp, vì họ đã gửi viện trợ rộng rãi cho Anh, đến mức độ không còn túng thiếu, mà còn dư dật nữa. Nhân tiện Anh tuyên bố với họ rằng: “Từ khi rời khỏi xứ Makêđônia, không một Hội Thánh nào đã đóng góp vào các khoản chi thu của tôi, chỉ có anh em đó thôi”. Có thật không đấy? Giáo đoàn nào cũng nhiệt tình đóng góp vào quỹ truyền giáo của Anh. Còn có nhận hay không là do Anh mà thôi. Tại sao nhận, tại sao không, thì Anh tự biết.
Tôi lấy nguồn tin từ các giáo đoàn. Tôi lắng nghe, tôi ngẫm nghĩ, tôi phân tích để hiểu Anh và thương Anh.
- Ở Êphêxô, bà con cho gì Anh cũng không nhận. Anh hì hục lao động trong xưởng dệt của anh chị Aquila - Priskila. Hỏi tại sao, thì Anh bảo rằng: “Chúa dạy: cho thì tốt hơn nhận”.
- Ở Thêxalonica Anh cũng đầu tắt mặt tối để tự lực mưu sinh. Hỏi tại sao thì Anh bảo là để làm gương lao động cho một số người cứ ăn không ngồi rồi và cứ xía vào chuyện nội bộ của người khác. Anh cũng cho biết có rất nhiều người túng thiếu cần sự giúp đỡ của Anh và của mọi người.
- Ở Côrintô, Anh cũng hì hục lao động. Hỏi tại sao, thì Anh bảo là Anh không muốn làm phiền ai hết, Anh không muốn trở nên gánh nặng cho bất cứ người nào.
Tôi suy nghĩ, tôi phân tích và tôi thấy rằng sự thật không phải như vậy. Với các giáo đoàn Êphêxô, Thêxalonica, Galát và Corintô thì Anh không nhận sự giúp đỡ về tài chính. Anh không muốn làm phiền một số người nào đó thôi. Bằng chứng là trong thư gửi cho giáo đoàn Côrintô, Anh đã không ngần ngại nói rằng: “Tôi bóc lột các giáo đoàn khác, để giảng không công cho anh chị em”. Anh cũng không giấu giếm một sự thật này là: “Hồi ở giữa anh em, những khi lâm cảnh túng thiếu, thì tôi đã chẳng phiền lụy ai, bởi vì các anh em từ Makêđonia đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần”.
Sự thật là như thế, thì tại sao Anh cứ nói rằng: “Tôi tự lực mưu sinh” ; “Tôi không muốn làm phiền lòng ai hết”; “Từ ngày tôi rời Makêđonia không giáo đoàn nào giúp tôi về tài chính??”.
Tôi lại phải ngẫm nghĩ và nghiên cứu. Tất cả sự thật đều được giải bày trong thư thứ nhất Anh gửi cho giáo đoàn Corintô.
3. Thư I Côrintô. Đọc khúc giữa của thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô tôi cảm thấy như mình đang đi dưới trời mưa tầm tã, có sấm chớp đì đùng. Vừa đọc tôi vừa so vai, rụt cổ để né tránh những cú đánh của ông thiên lôi.
- Cú đánh một: “Đây là lời biện hộ của tôi chống lại những kẻ hạch sách tôi”.
- Cú đánh hai: “Phải chăng chỉ có tôi và anh Bạcnaba không có quyền được miễn lao động?”.
- Cú đánh ba: “Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng thì phải sống nhờ Tin Mừng. Nhưng phần tôi thì… thà chết còn hơn”. Anh còn nhấn mạnh thêm: “Đó là niềm tự hào của tôi”.
Đọc đoạn thư này, tôi muốn giận Anh quá. Nhưng nghĩ mãi, tôi lại thương Anh và giận ai đó đang dày vò, đang hành hạ Anh một cách tàn nhẫn. Có hai vấn đề mà những ai đó đang hạch sách Anh. Đó là:
- Những ai đó không nhận Anh là Tông Đồ.
- Những ai đó ngứa mắt vì thấy những bà mệnh phụ vừa đẹp vừa giàu vẫn đến thăm và tài trợ công tác truyền giáo của Anh một cách hào phóng cực kỳ.
Anh Phaolô ơi! Bây giờ thì tôi hiểu Anh rồi. Tôi lại thương Anh quá chừng.
Tuy Anh không được trực tiếp học hỏi với Thầy Giêsu cùng với mười hai ông kia. Nhưng Anh đã được gặp Thầy trên đường đi Đamát, được học với Thầy qua những lần xuất thần. Là người đệ tử sau cùng, nhưng Anh hiểu Thánh Kinh hơn mười hai ông kia gấp hai ba lần. Trí thông minh của Anh thì vượt trội. Sự nghiệp truyền giáo của Anh thì chồng chất. Cái giá mồ hôi, nước mắt và máu đào mà Anh phải trả cho sự nghiệp truyền giáo thì hơn hẳn những ai đó. Cũng chỉ vì những cái vượt trội ấy, mà Anh bị ganh ghét. Thậm chí những ai đó còn độc miệng nói rằng Anh và ông Barnaba “không đáng được nuôi ăn”. Chính vì thế Anh không thèm nhận sự giúp đỡ của một số giáo đoàn, để những ai đó mở mắt ra mà thèm thuồng, vì Anh không những không thiếu mà còn dư dật là đàng khác.
Anh Phaolô rất thân mến.
Tôi đang giận Anh, bỗng lại thương Anh, thương Anh quá chừng. Đang thương Anh quá chừng, tôi lại buồn buồn. Buồn vì Đức Giêsu còn khổ hơn Anh. Người phải khổ vì những ai đó lòng dạ hẹp hòi. Người phải khổ vì chính miệng Anh vừa tuyên bố “Chúa truyền người rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng”, thì lại bẻ chỉa và tuyên bố ngược lại rằng: “Riêng tôi thì… (thèm vào)… thà chết còn hơn”.
Tôi mạn phép thay mặt Anh và thay mặt cả những ai đó để xin lỗi Thầy Giêsu. Tôi cũng mong rằng Anh lặp lại lời Anh đã viết cho giáo đoàn Philíp: “Dù thế nào đi nữa, với ý lành hay ý xấu, cuối cùng Đức Giêsu được rao giảng là tôi mừng rồi”. Tuyệt vời! Xin Anh hãy mãi mãi tuyệt vời như thế.
Thân ái chào Anh trong Đức Giêsu Kitô.
Tái bút: Những ai đó dị nghị về chuyện Anh có một tín nữ tháp tùng truyền giáo. Phải chăng người tín nữ ấy là chị Lydia, đứa con đầu lòng của Anh ở giáo đoàn Philíp? Phải chăng chị không thường xuyên có mặt trên mọi tuyến truyền giáo của Anh, mà chỉ lâu lâu một lần đi thăm và tài trợ Anh một cách hào phóng?
Nếu đúng như vậy, thì Anh bị ai đó dị nghị là chuyện bình thường của “Nhân tình thế thái”. Chị Lydia vừa đẹp gái, vừa giàu sang, vừa đảm đang, vừa mạnh tay mở hầu bao, thì bị ai đó ganh ghét là phải rồi. Anh bị vạ lây thì… cũng là thường tình rồi… Nên buồn cười hơn là buồn giận.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đang ngồi tù ở Rôma. Tù, nhưng tù tại gia. Tù, nhưng vẫn tiếp khách và loan báo Tin Mừng PiôHậu 112
Anh đang ngồi tù ở Rôma. Tù, nhưng tù tại gia. Tù, nhưng vẫn tiếp khách và loan báo Tin Mừng từ sáng đến tối. Anh không có giờ để nghĩ về quá khứ. Nhưng tôi vẫn tha thiết xin Anh dành một chút thời giờ, để đọc thư của tôi. Nó là tâm huyết. Nó là vòng tay ấp ủ. Vòng tay của tôi, vòng tay của muôn người, vòng tay của Chúa quan phòng.
Mỗi kỷ niệm về Anh trong chuyến đi từ Xêdarê đến Rôma được tôi và bạn thân đánh giá là bảo ngọc, là gia bảo mà chúng tôi có nhiệm vụ phải bảo trì một cách cẩn trọng tối đa.
Kỷ niệm 1. Anh kháng cáo lên tòa án tối cao:
Khi nhận được tin Anh kháng cáo lên tòa án Rôma, thì chị Gioanna, chị Lyđia và các thân hữu của Anh đều thở phào nhẹ nhõm. Bản kháng cáo của Anh giống như lưỡi kiếm sắc lẻm chém đứt vĩnh viễn cái vòi của con bạch tuộc là thượng tế và công nghị ở Giêrusalem. Mạng sống của Anh đã được trung ương của đế quốc quản lý. Nếu thượng tế và công nghị muốn ám sát Anh, thì phải bước qua danh dự và quyền bính của hoàng đế Rôma. Cứ mỗi lần nhắc đến cái bản kháng cáo của Anh chúng tôi lại xoa bụng sung sướng và cười hể hả với nhau.
Có vài người ra vẻ ta đây là người am tường luật pháp đã chê Anh là bị hớ: nếu đừng kháng cáo thì được trả tự do rồi; kháng cáo lên cấp cao thì vừa mất thời giờ vừa chưa chắc đã được tha bổng. Họ quên rằng nếu Anh được trả tự do, thì Anh sẽ bị ám sát ngay tức thời. Thượng tế và công nghị sẽ mừng lớn nếu Anh được tổng trấn tha bổng…
Kỷ niệm 2. Anh lọt mắt xanh đại đội trưởng Giuliô Tổng trấn Phétto trao Anh cho viên đại đội trưởng Giuliô dẫn độ Anh đi Rôma. Ông ta quý mến Anh. Đó là điều tôi lấy làm lạ: một thằng tù mà được cai tù quý mến. Theo tôi hiểu thì bà Gioanna đã gửi gắm Anh cho ông ấy và giới thiệu về Anh như một người của ông Trời. Bản thân ông cũng thấy Anh được cả vua Agríppa, tổng trấn Phêlích và Phéttô nể nang.
Anh xuống tàu ngày hôm trước thì hôm sau tàu cập bến cảng Xiđon. Tàu chờ lên và xuống hàng, chờ khách lên và khách xuống. Trong khi chờ đợi, ông Giuliô cho Anh được tự do đi thăm bạn bè và ân nhân. Đoàn tùy tùng của Anh đưa Anh đi về tạm trú tại nhà các tín đồ thân quen. Anh được đón tiếp và bồi dưỡng tưng bừng. Khi Anh xuống tàu để tiếp tục cuộc hành trình, thì quà cáp lu bù, tiền bạc rủng rỉnh. Tình cảm chan hòa. Nước mắt lã chã…
Khi con tàu bị lâm nạn: mũi tàu lao vào đụn cát không lùi lại được; đàng lái thì bị sóng đánh vỡ, tan tành; mọi người phải ngoi vào bờ. Trong thế bí đó lính nảy ra sáng kiến giết hết đám tù, để chúng khỏi trốn. Nhưng vì thương Anh, nên ông Giuliô cấm cản lính thực hiện ý đồ ấy. Thế là cả Anh lẫn các bạn tù thoát chết. Họ biết ơn Anh vô cùng. Họ nhìn Anh bằng ánh mắt cảm phục và thương mến vô vàn. Họ quý Anh còn hơn đấng sinh thành.
Kỷ niệm 3. Chuyên môn hàng hải phải bái phục Anh.
Khi con tàu chuẩn bị nhổ neo để rời cảng Bến Lành, thì Anh giơ tay góp ý: “Thưa các bạn, tôi thấy chuyến đi này sẽ gây nhiều thiệt hại, mất mát không những về hàng hóa, về con tàu mà nhất là về tính mạng của chúng ta nữa. Đề nghị neo tàu ở đây cho tới hết mùa đông”. Từ chủ tàu, cho tới hoa tiêu và hành khách không ai muốn lưu lại ở cảng Bến Lành. Họ thích cảng Phêních hơn. Cảng Phêních vừa đẹp, vừa văn minh, vừa hiếu khách. Hải trình cũng chỉ còn chừng một trăm dặm nữa thôi. Thế là con tàu quay mũi về hướng tây bắc. Ai nấy đều giang tay đón gió và vẫy chào đại dương. Một mình anh thở dài, buông thõng hai tay tỏ vẻ thất vọng.
Rời cảng Bến Lành, con tàu đang nhẹ lướt về hướng Tây – Bắc, thì một cơn cuồng phong nổi lên. Con tàu bị bão cuốn đi, y như một cọng rác trôi theo dòng thác lũ. Hoa tiêu và thủy thủ đành bó tay phó mặc cho định mệnh.
Một ngày, hai ngày, ba ngày trôi qua: ban ngày không một tia nắng; ban đêm không một ánh sao; chỉ nghe tiếng thét gào của thần chết. Thủy thủ ném hết hàng hóa xuống biển, để cứu con tàu: Không một tia hy vọng! Hai trăm bảy mươi lăm người từ hoa tiêu đến thủy thủ, từ chủ tàu đến hành khách đều nhìn Anh bằng ánh mắt thành khẩn. Anh nhìn họ bằng ánh mắt thương cảm, nhưng vẫn hờn dỗi: “Tại các anh không nghe tôi”.
Anh Phaolô ơi! Anh đã trở thành một thần tượng đang đứng sừng sững trước hai trăm bảy mươi lăm cặp mắt thần phục. Họ đang van xin Anh ra tay tế độ.
Kỷ niệm 4. Từ một thằng tù nhảy lên làm cha linh hướng.
Mười bốn ngày lênh đênh không biết đâu là bờ bến, không biết đâu là biên giới của sự sống và cái chết. Thủy thủ linh cảm là con tàu đang lao vào đá ngầm. Họ âm mưu bỏ trốn. Hoa tiêu và chủ tàu không hề hay biết. Ai cũng tưởng là bọn họ hạ xuồng xuống biển là để thả neo ở đằng mũi. Chỉ một mình Anh phát giác được. Anh ghé tai nói nhỏ với đại đội trưởng Giuliô: “Không phải chúng nó hạ xuồng xuống để thả neo đâu. Chúng nó trốn đấy. Tàu đang gặp sự cố mà không có thủy thủ, thì chúng ta không biết đường nào mà đối phó đâu. Chết cả lũ đấy”. Tin Anh như một vị cố vấn tối cao, đại đội trưởng Giuliô ra lệnh cho lính lấy kiếm chém đứt dây chảo: Xuồng rơi xuống biển trôi vèo đi như lá tre; bọn thủy thủ còn lại trên boong. Tạm êm.
Thấy mặt bọn thủy thủ nghệt ra, hoa tiêu mới vỡ lẽ. Một lần nữa ông ta muốn chắp tay xá Anh, để tôn vinh một vị thần hộ mạng. Chủ tàu ôm lấy Anh, cám ơn rối rít. Bọn thủy thủ xấu hổ, lấm lét nhìn Anh, rồi cùng nhau chuồn xuống lòng tàu. Hơn hai trăm hành khách chẳng hề biết chuyện này. Họ ngồi co ro, họ nằm la liệt, y như những cái xác không hồn. Họ chờ chết.
Đêm hôm ấy, đêm thứ mười bốn, con tàu phải vật lộn với giông tố. Đêm hôm ấy dài như một thế kỷ. Đêm để sống hoặc để chết. Hai trăm bảy mươi lăm người mặt mày hốc hác và xanh xao. Họ mệt quá, không thể ăn được. Họ thất vọng quá không còn muốn ăn nữa. Chỉ còn thở và chờ chết: chết đuối và chết đói. Thê thảm vô cùng!
Hơn hai trăm người đang nằm vật vờ bỗng ngồi bật dậy, trợn mắt nhìn, vểnh tai nghe. Họ nghe Anh giảng thuyết. Họ nghe Anh an ủi và khích lệ. Giọng nói của Anh vang vang. Ánh mắt của Anh xuyên tim. Một tay Anh cầm ổ bánh mì. Tay kia để trên ngực rồi dang ra như con đại bàng tung cánh.
Anh yêu cầu mọi người cùng ăn bánh như Anh. Giọng nói của Anh có lúc như ông tướng ra lệnh, có lúc như người mẹ vỗ về. Anh ăn ngấu nghiến, vừa ăn vừa cười, vừa cười vừa nhún nhảy. Thế là một rừng người làm theo. Một rừng người nhai nhóp nhép. Một rừng người cười toe toét. Một rừng người “chết” sống lại…
Anh dang tay trên rừng người như gà mẹ ủ ấp gà con. Một rừng người quây quần bên Anh và đồng thanh gọi Anh là “Bố”. “Bố ơi cứu con với”.
Và … đúng như Anh dự đoán: con tàu bị sóng đánh vỡ tan tành. Nhưng không một “đứa con” nào của Anh bị tử thần lôi đi. Tất cả đều đủ sức và đủ can đảm để lội vào bờ. Hai trăm bảy mươi lăm đứa con, ướt như chuột lột, quây quần bên bố. Bố con nhìn nhau. Thương quá là thương !
Kỷ niệm 5. Con rắn độc nâng Anh lên hàng thần thánh
Dân đảo tốt bụng quá chừng. Họ dang rộng tay đón nhận 276 nạn nhân. Họ mời ăn. Họ đốt lửa cho mà sưởi. Họ đem quần áo ra cho mà thay. Hơn một chục đống lửa cháy bập bùng, nổ tí tách. Anh đi lấy củi ném thêm vào đống lửa. Bỗng mọi người la ầm lên: “Trời ơi là trời! Bố ơi! Rắn kìa!”. Con rắn lục quấn vào cổ tay Anh, đuôi ngoe nguẩy, đầu dựng lên, phun phù phù… Ai cũng tưởng rằng con rắn đã mổ vào tay Anh rồi, chỉ năm phút nữa là Anh sẽ ngã gục. Anh giơ tay lên như để khoe con rắn lạ. Anh vụt mạnh cánh tay một cái: Con rắn lục rơi vào đống lửa, giãy giụa, rồi chết cháy. Có mùi khen khét, thơm thơm.
Dân đảo tưởng Anh là tên hải tặc, không chết vì sóng gió, thì cũng sẽ chết vì con rắn. Họ chờ hình phạt của ông Trời. Chờ mãi không thấy Anh gục, chỉ thấy Anh cười tươi, chỉ thấy mọi nạn nhân ôm lấy Anh mà cười hí hí. Họ bảo nhau rằng: “Ông này là một vị thần”. Họ tính xây cho Anh một cái miếu, miếu thờ thần hải đảo. Uy tín của Anh vươn lên tới tận trời xanh. Hai trăm bảy mươi lăm nạn nhân của con tàu vỡ yêu Anh như đấng sinh thành. Hàng vạn dân hải đảo tôn thờ Anh như một vị thần. Trên tuyệt vời ngàn ngàn lần!
Kỷ niệm 6. Phaolô: thần tượng của đảo Manta
Dân chúng ở đảo Manta gọi Anh là Thần Đảo. Tin này đồn đến tai ông đảo trưởng là Púpliô. Ông ta mời Anh và đoàn của Anh đến tạm trú tại nhà ông, dù ông ta cũng dư biết rằng Anh là một tên tù đang được dẫn độ qua Rôma. Làm thằng tù như Anh còn sướng hơn là làm giám đốc trại giam.
Ông cụ thân sinh của ông đảo trưởng đang nằm liệt trên giường. Anh được ông đảo trưởng mời đến thăm. Anh cầu nguyện và đặt tay. Ông cụ ngồi bật dậy, cười nói ríu rít như trẻ con. Anh và ông ấy ôm hôn nhau, quý mến nhau như anh em ruột thịt.
Tin đồn loan đi khắp hải đảo. Bệnh nhân trên khắp hải đảo kéo nhau đến. Anh lại cầu nguyện và đặt tay. Bệnh nhân nào cũng hớn hở reo vui. Bệnh nhân nào cũng mời Anh đến thăm họ, ăn cơm với họ và tạm trú tại nhà họ. Hải đảo Manta bỗng trở thành ngôi nhà thân thương của Anh. Anh tiếp khách suốt ngày. Anh giảng đạo từ sáng đến tối. Người ta đua nhau xin chịu phép rửa. Người ta đua nhau tặng quà.
Ba tháng tạm trú ở đảo Manta, người ta không thể ngờ được Anh là một tù nhân. Chính ông đại đội trưởng cai tù còn trọng Anh hơn một tôn sư. Chính ông đảo trưởng còn phải nhận Anh là đại ân nhân. Nhân dân thì tôn sùng Anh như thần thánh. Gần ba trăm đồng cảnh lâm hải nạn gọi Anh là bố. Tôi mơ ước mòn mỏi để được đi tù như Anh. Nhưng mơ ước vẫn chỉ là ước mơ, ngàn ngàn năm nữa cũng chưa thành hiện thực: Ôi tù nhân Phaolô! Ôi giấc mơ của tôi!
Anh Phaolô ngàn lần đáng kính và đáng yêu của tôi ơi ! Bây giờ Anh đang ở Rôma. Anh vẫn là tù nhân, nhưng Anh vẫn đang rao giảng lời Chúa. Tôi vẫn theo dõi Anh và vẫn đang chờ để thấy Tin Mừng bùng vỡ.
Hẹn gặp lại Anh trong lá thư sau. Kính mến vô vàn.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đang ngồi tù ở Xêdarê. Ngồi tù mà cứ rung đùi sung sướng y như đại gia đang thưởng thức cao PiôHậu 113
Anh đang ngồi tù ở Xêdarê. Ngồi tù mà cứ rung đùi sung sướng y như đại gia đang thưởng thức cao lương mỹ vị trong nhà hàng cao cấp. Trước hết Anh sung sướng quá chừng vì đã đạt được đỉnh điểm của tình yêu. Anh yêu Thầy Giêsu quá và không có cách nào nói lên được tình yêu ấy, ngoại trừ cây khổ giá. Bây giờ Anh đang ôm cây khổ giá ấy trong vòng tay. Thương quá là thương! Sướng ơi là sướng!
Thứ đến, Anh còn được sung sướng vì bản chất hiếu thắng của Anh đã được thỏa mãn một cách toàn vẹn. Anh đã nguyền rủa chánh án Khenania là bức tường tô vôi, mà ông ta đành ngậm tăm không nói được một lời nào. Là bị cáo mà anh biến đoàn thẩm phán thành bọn làm trò hề, làm hề mà không hề hay biết. Khi biết rồi, thì chỉ còn một cách là gục mặt xuống, để nhìn hai bàn chân. Rồi Anh lại còn được sung sướng cưỡi ngựa đi tù. Đi tù mà được 470 binh sĩ hộ tống, y như ông tướng chiến thắng trở về. Oai phong lẫm liệt quá chừng!
Anh còn sung sướng, vì đang được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt: được thăm nuôi tự do; được ông tổng trấn mời đến tư dinh để đàm đạo, y như một người khách quý, y như một người bạn thân. Ông tổng trấn mà kính nể Anh như thế, thì bọn lính cai ngục phải nể Anh, phải khớp Anh tới mức độ nào...
Anh Phaolô ơi! Tôi vui với Anh, hãnh diện với Anh và mừng cho Anh. Nhưng một nỗi lo sợ to như núi đang lù lù đi tới. Tôi ngộp thở. Tôi mất ăn mất ngủ. Sinh mạng của Anh giống như con cá đang nằm trên thớt. Số phận của Anh giống như con thỏ đang vô tư gặm cỏ trong tầm vồ của con sư tử. Tôi thương Anh quá mà chả biết phải làm thế nào để cứu Anh. Tôi chỉ biết gào lên, để xin Anh đề cao cảnh giác. Tôi chỉ biết năn nỉ, nài xin Anh đem hết trí thông minh siêu phàm của Anh ra, để đối phó với kẻ thù hung dữ đang thề nuốt sống Anh, để trả thù mối hận ngàn năm một thuở.
Anh cứ xuất thần, Anh cứ đê mê cảm nghiệm tình yêu kỳ diệu, nhưng xin Anh hãy dành ra vài phút thừa thãi để nghe tôi giãi bày tâm tư và gửi đến Anh những thông tin cực kỳ quan trọng.
1. Thượng tế bị Anh nguyền rủa công khai trước mặt đoàn thẩm phán: đau quá! Sau đó lại bị Anh phá thối vụ xử: đau hơn gấp mười lần! Ông quyết tâm trả thù ngầm bằng cách làm bộ yêu cầu đồn Antonia dẫn độ Anh ra tòa lần thứ hai để ám sát Anh dọc đường. Âm mưu bị lộ: Anh thoát nạn; họ bị hố. Tức lắm, nhưng đành chịu trận để chờ thời cơ.
2. Thượng Tế Khanania thân hành lên tận Xêdarê, kéo theo một luật sư và một đoàn kỳ mục. Họ yêu cầu tổng trấn Phêlích gọi Anh ra tòa. Anh bị điệu ra tòa. Luật sư của thượng tế kể tội Anh vanh vách như học trò trả bài cho thầy cô. Nhưng chỉ kể tội mà không dẫn bằng chứng. Anh phản pháo: Anh yêu cầu có mặt những người la lối tố cáo Anh hôm Anh bị đánh hội đồng ở đền thờ. Những người ấy vắng mặt. Thế là bất hợp pháp. Anh thách thức các kỳ mục hiện diện dẫn chứng tội của Anh. Họ ngồi câm như hến.
Tổng trấn Phêlích tuyên bố đình chỉ vụ xử cho tới khi có mặt vị chỉ huy Lixia, người đã cho dẫn độ Anh từ Giêruxalem đến Xêdarê. Thượng tế Khanania và đoàn tùy tùng sụ mặt xuống. Lại thua đau một trận nữa. Ba ngày nắng nôi và bụi bặm: công cốc.
3. Càng thua đau, họ càng quyết tâm trả thù: Họ đã mở cuộc họp. Rồi với tư cách là thượng tế và công nghị, tức là giới lãnh đạo trung ương của Do Thái giáo, họ yêu cầu tổng trấn Phêlích cho dẫn độ Anh về Giêruxalem và ra hầu trước tòa án tôn giáo. Tổng trấn sẽ không thể từ chối yêu cầu của họ. Nếu bị tổng trấn từ chối, họ sẽ mua chuộc bằng tiền. Số tiền lớn cỡ nào họ cũng sẵn sàng đáp ứng. Như vậy Anh sẽ rơi vào mê lộ. Tiến về phía trước: sập bẫy; lùi về phía sau: bẫy sập.
Nếu luật yêu cầu hai chứng nhân, thì họ sẽ có hai trăm. Hai trăm người cùng khai như nhau rằng Anh đã nói lộng ngôn. Anh không thể chối tội được, vì hai trăm lời khai giống nhau, thì tương đương với một trăm chân lý rồi. Anh sẽ bị ném đá, vì luật đã dạy như thế. Anh sẽ chết tức tưởi. Chết mà không nói nên lời.
Ấy là chưa nói đến một tin tuyệt mật tôi vừa mới nhận được từ một vị cán bộ cao cấp trong công nghị. Đó là lại có hằng trăm người tuyên thề xử đột kích và giết Anh trên đường dẫn độ từ Xêdarê về Giêruxalem. Một trăm thằng cuồng tín đó đòi giết Anh. Chúng nó không những không sợ chết mà còn sẵn sàng được chết, thì thử hỏi rằng: có đơn vị quân đội nào đủ sức để bảo vệ mạng sống của Anh không? Chỉ nghĩ thế thôi, tim tôi đã muốn ngưng đập rồi. Anh Phaolô ơi, đừng xuất thần nữa. Anh hãy suy nghĩ, hãy tìm kế để lại lật thế cờ một trăm tám mươi độ. Nếu không, thì: từ chết đau đến chết thảm!...
4. Anh Phaolô rất thân mến của tôi ơi! Tôi lại mới nhận được một tin tuyệt mật nữa: tin vui cực kỳ!
Tổng trấn Phêlích khẳng định với quần thần rằng: Anh không hề phá rối trật tự; Anh không hề liên can chính trị; Anh chẳng có tội gì; tất cả chỉ là chuyện tranh cãi nhau về từ ngữ tôn giáo. Ông tổng trấn tuyên bố: “Thả Phaolô ra thì cũng được rồi. Nhưng... chẳng nên chọc giận bọn thượng tế và công nghị làm chi. Để đó rồi giải quyết từ từ”.
Anh có biết tại sao tổng trấn Phêlích lại có thiện cảm với Anh như thế không? Tôi e rằng Anh không nghĩ ra, vì Anh suy nghĩ việc trên cao, mà quên chuyện ở dưới gầm sàn. Để tôi kể cho Anh nghe.
- Có thể Anh không biết chị Gioanna. Nhưng chị ấy biết Anh rõ lắm. Khi Thầy Giêsu còn đi truyền đạo thì chị ấy là một tay cộng tác đắc lực lắm đấy. Chị là vợ ông Khugia, quản lý của vua Hêrôđê. Dinh thự của chị ấy chỉ cách phòng giam của Anh chừng hai trăm bước thôi. Chị vẫn âm thầm theo dõi và giúp đỡ Anh. Năm nay chị ấy cũng suýt soát năm mươi rồi, nhưng vẫn còn duyên dáng, vẫn còn lanh lẹ lắm.
- Bà Druxila là vợ của tổng trấn Phêlích. Bà là người Do Thái rất sùng đạo. Bà hiểu đạo. Bà giúp chồng hiểu đạo và hiểu tâm lý của các ông kinh sư, pharisêu và công nghị. Vì là người Do Thái và là mệnh phụ, nên bà phải quen thân với chị Gioanna. Hai người đẹp cung đình gắn bó với nhau, thì chuyện gì cũng bay phơi phới...
- Dường như qua tình bạn giữa chị Gioanna và bà Druxila, mà tổng trấn biết rằng Anh có nhiều mạnh thường quân lắm. Có thể nói là ông ta ngửi được mùi tiền bốc ra từ những chuyến ân nhân thăm nuôi mà ông dành cho Anh một cách đặc biệt. Ông mời Anh đến thuyết giảng trong phòng khách của ông chẳng qua cũng chỉ là để thăm dò xem nguồn tài chính của Anh lớn tới cỡ nào đó thôi. Chính bà vợ của ông đã tiết lộ điều đó với chị Gioanna. Chị Gioanna có hỏi ý kiến tôi về chuyện này. Bây giờ đến lượt tôi hỏi Anh: “Có nên đút lót để đưa Anh ra không?” Khả năng của Anh thì dư rồi đấy. Kết quả thì chắc như đinh đóng cột. Vậy Anh nghĩ sao?
5. Chuyện ông tổng trấn chờ Anh đút lót đã phổ biến rộng rãi trong nội bộ cộng đoàn Kitô hữu. Giới đại gia phấn khởi sẵn sàng mở hầu bao rộng tối đa. Không ai tiếc tiền. Không ai chê trách ông tổng trấn. Tất cả mọi người đều ngong ngóng chờ đợi ngày Anh ra khỏi nhà tù. Ai cũng thương Anh. Ai cũng trọng Anh. Ngày Anh ra tù sẽ là ngày niềm vui bùng vỡ.
Thế mà lạ thay, có một số người vẫn hững hờ. Tôi đi thăm hầu hết các vị niên trưởng ở thủ đô. Gặp vị nào tôi cũng kể lể nỗi thương đau trăm chiều của Anh. Gặp vị nào tôi cũng than thở vì không kiếm đâu ra tiền, để đút lót tổng trấn, mà cứu Anh thoát khỏi kiếp tù đày. Tất cả các vị niên trưởng đều tiếp tôi một cách lạnh lùng. Nói về nỗi khổ đau của Anh, các ngài cứ dửng dưng, coi Anh như người dưng nước lã. Nói về việc quyên tiền để cứu Anh, thì các ngài chỉ chép miệng, ngó lơ đi chỗ khác. Nhắc lại việc Anh đã viện trợ dồi dào cho cộng đoàn Giuđê và thủ đô, thì các ngài tỏ vẻ ngỡ ngàng y như chưa nhận số tiền viện trợ ấy bao giờ. Tôi làm bộ xin các ngài cho tin tức về Anh, thì các ngài đều trả lời y hệt như nhau: “Biết đâu à!”.
Tôi buồn tủi quá! Tôi uất hận quá! Tại sao tình người lại có thể đen bạc đến thế?! Tại sao các niên trưởng là bậc thầy, là bậc cha chú của chúng tôi lại có thể ăn cháo đá bát một cách trơ trẽn đến như thế?! Đành chỉ biết than thở. “Ôi nhân tình thế thái”.
Tôi buông bút, thôi viết và ôm đầu khóc một mình.
6. Anh Phaolô quý mến của tôi ơi! Lá thư ngỏ bị bỏ quên một tuần. Hôm nay tôi bắt đầu vui trở lại. Tôi lại viết cho Anh. Anh có biết tại sao tôi tìm lại được niềm vui không?
Tôi mới gặp chị Lyđia ở hải cảng Gióppê. Tôi kể lể mọi chuyện về Anh cho chị ấy nghe. Chị ấy cứ cười tủm tỉm. Thì hóa ra chị ấy còn biết về Anh nhiều hơn tôi. Tôi thắc mắc với chị ấy rằng: tại sao Anh đã đi quyên tiền khắp nơi, để cứu đói giáo đoàn Giuđê và thủ đô, thế mà các niên trưởng ở đây chẳng hề biết ơn Anh, chẳng hề thăm nuôi Anh, chẳng hề lo lót để cứu Anh... Tôi thì bực bội, tôi thì giận hờn; còn chị ấy thì chỉ tủm tỉm cười. Chị ấy cứ cười hoài khiến tôi cảm thấy bị “quê”.
Chị ấy coi Anh như thần tượng, luôn miệng gọi Anh là “Bố”, “Bố Phaolô”. Chị ấy lý giải trơn tuồn tuột mọi thắc mắc của tôi có liên quan đến cách xử trí của Anh đối với ông Barnaba và anh Máccô. Chị ấy giải thích thật sáng sủa tại sao có nhiều người thương Anh như thế, mà cũng lại có nhiều người ghét Anh như vậy...
Tôi gửi Anh bản tóm kết những nhận xét của chị Lyđia về con người và sự nghiệp của Anh. Chị ấy vừa nhận xét vừa tủm tỉm cười. Tôi đoán mò rằng khi Anh đọc bản tóm kết này, Anh cũng tủm tỉm cười. Nhưng... chị ấy cười một cách thấm thía, còn Anh thì chỉ cười mỉa thôi.
- Bố em thông minh lắm. Kiến thức của bố cao như núi, rộng như biển. Ở trên đời này từ thượng vàng đến hạ cám, cái gì bố em cũng am tường. Vì thế, đứng trước hoàn cảnh khó khăn tưởng như tận cùng bằng số, thế mà bố lật thế cờ một trăm tám mươi độ. Êm ru.
- Bố em nóng tính lắm, hay làm mất lòng và mất mặt nhiều người. Nhưng bố khôn lắm: buồn giận gì thì cũng chấm dứt khi mặt trời vừa lặn. Vì thế chẳng ai nỡ tâm giận bố em đâu.
- Bố em đã làm là làm cho đến được. Vì thế những người lười và những người bi quan hay bị bố em mắng cho tới tàn mạt luôn. Do đó đám cộng tác viên của bố em toàn là người tài giỏi và cần cù thôi.
- Bố em có cái tật là hay ngạo đời. Bố mà châm biếm ai, thì cứ gục đầu xuống mà chịu trận. Cũng chính vì thế mà có nhiều người ghét và tìm cách trả thù. Nhưng bố cóc cần, cứ tỉnh bơ. Chó cứ sủa, lạc đà cứ đi và đi tới nơi tới chốn đàng hoàng.
- Bố em hơi cực đoan. Đã phá thì phá cho đến tàn mạt, quên cả cái hữu lý và hữu tình. Nhưng đã xây dựng, thì xây dựng cho đến hoành tráng mới thôi. Có khuyết, nhưng ưu thì vẫn trội.
- Bố em yêu Đức Giêsu như điên, như cuồng. Trong tâm thất của bố em chỉ có hình ảnh của Đức Giêsu thôi. Còn đám phụ nữ của tụi em thì bị đá ra rìa hết. Chính nhờ vậy mà chúng em đứa nào cũng hết mình với Đức Giêsu, đứa nào cũng lăn lưng vào sự nghiệp truyền giáo của bố, chẳng chịu thua đám mày râu một tí tì ti nào.
Thân ái chào Anh. Hẹn gặp Anh trong lá thư sau.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đang sung sướng thưởng thức những ngày được ngồi tù vì yêu. Đúng là cầu được ước thấy PiôHậu 114
Anh đang sung sướng thưởng thức những ngày được ngồi tù vì yêu. Đúng là cầu được ước thấy. Mừng cho Anh. Tôi đoán mò là giờ này Anh đang ngồi mân mê hai cái còng sắt siết hai cổ chân, Anh đang đếm những khoen sắt nối kết nhau thành một dây xích dài gắn liền với hai cái còng, để Anh không thể chạy, không thể đi. Anh mỉm cười. Nụ cười tươi như bông hoa vừa mới mở cánh chào ánh mặt trời ban mai.
Anh đang hạnh phúc trong nhà tù, thì tôi cũng đang thích thú ôn lại những kỷ niệm liên hoàn nối tiếp nhau diễn biến từ lúc Anh bị thộp cổ trong đền thờ Giêruxalem cho tới lúc Anh ngồi đếm thời gian trong nhà tù ở thủ phủ Xêdarê.
Kỷ niệm 1 – Anh bị thộp cổ ở ngay trong đền thờ.
Anh cùng với bốn ông bạn vừa kết thúc tuần lễ thanh tẩy và đang hồ hởi chuẩn bị dâng lễ tạ ơn, thì... có tiếng hô vang dội và hãi hùng: “Bớ bà con ơi! Thằng phá luật Môsê, thằng chống dân tộc ta và thằng làm ô uế đền thờ nó đang ở đây này. Bắt lấy nó! Giết nó đi...”.
Hàng chục người đàn ông rượt đuổi Anh. Anh chạy vòng vèo xung quanh các cây cột xếp thành hàng dài tắp tít. Anh đỡ cú đấm này, Anh gạt quả đấm kia. Anh hóa giải những quả đấm thôi sơn một cách thần kỳ. Bốn ông bạn của Anh nhào vào đỡ đòn giùm Anh, cản chân những người đòi đánh và giết Anh. Tiếng chửi thề, tiếng la hét làm rúng động cả ngôi thánh đường vừa cao vời vợi, vừa sâu hun hút. Quần chúng kéo đến càng ngày càng đông. Anh hết khả năng đối phó. Hai cánh tay vạm vỡ của Anh không còn gạt, không còn đỡ nữa, mà bị vô hiệu hóa bởi hai thanh niên lực lưỡng áp sát hai bên. Anh bị lôi ra ngoài. Tất cả chỉ còn là tiếng hét. “Giết! Giết!”. Anh sắp bị giết. Anh sắp bị ném đá.
Bỗng tiếng la hét tắt lịm. Quần chúng im phăng phắc. Mọi người trố mắt nhìn... Hằng trăm lính lê dương ào ào chạy tới. Một rừng gươm. Một rừng giáo. Vị chỉ huy xấn tới, lôi Anh ra, lấy hai xiềng còng chân còng tay Anh, rồi lôi về đồn. Quần chúng rùng rùng đi theo, vừa đi vừa chửi, vừa chửi vừa hét: “Giết nó đi!”.
Vừa tới cổng đồn Antonia, Anh dừng chân, đưa mắt tìm vị chỉ huy để ngỏ lời. - Xin lỗi, tôi có thể ngỏ đôi lời với ông không?
- Ông biết tiếng Hy Lạp hả? Vậy thì ông không phải là tên Ai Cập mới nổi loạn cách đây không lâu. Nó lôi kéo được bốn ngàn tên khủng bố đưa vào sa mạc.
- Tôi là người Do Thái, sinh trưởng ở Tạcxô xứ Kilikia, là công dân của một thành phố nổi danh đấy. Nếu được, xin ông cho phép tôi ngỏ đôi lời với đồng bào của tôi.
- Được, ông cứ nói.
Anh bước lên bậc thềm, đứng thẳng như cây thông, đưa cặp mắt sâu thăm thẳm quét một lượt trên đám quần chúng hung tợn, dõng dạc thuyết một bài bằng tiếng Hípri. Nghe Anh nói tiếng Hípri yêu dấu, mọi nét mặt hung dữ trùng xuống, mọi vành tai vểnh lên để nghe...
Anh hãnh diện khoe lý lịch thơm như mít tố nữ của mình:
- Là người Do Thái chính hiệu, sinh tại Tạcxô.
- Là đệ tử của sư phụ Gamalien.
- Là pharixêu trung thành tuyệt đối với Môsê.
- Là kẻ thù số một của đạo Kitô, đã từng bắt trói cả đàn ông lẫn đàn bà mà tống vào ngục. - Là người được thượng tế cấp giấy giới thiệu với cộng đồng Do Thái ở Đamát để truy nã các Kitô hữu mà dẫn độ về Giêruxalem.
- Là linh hồn của cuộc ném đá hội đồng giết chết ông Têphanô.
Giọng nói của Anh vang như sấm, thế mà thính giả cảm thấy ngọt ngào y như mật ong rót vào lỗ tai. Họ lắng nghe. Họ ghi khắc từng lời. Dường như họ quên giận và bắt đầu thương Anh...
Anh im lặng để nghỉ mệt. Hai vai trùng xuống. Hai vành mi khép hờ. Cặp môi mềm khẽ mở. Ngực và bụng phập phồng... Hàng ngàn con mắt mở to để chờ đợi.
Anh ngước mắt nhìn lên, hít một hơi thật dài, rồi tiếp tục kể chuyện.
- Chuyện Anh hung hăng đi bắt đạo bị ánh sáng lạ quất cho ngã ngựa và đui cặp mắt, chẳng còn biết đâu là đông, tây, nam, bắc.
- Chuyện ông Khanania được Đức Giêsu sai đến để cho Anh sáng mắt và làm phép rửa cho Anh.
- Chuyện Anh về Giêruxalem và được gặp Chúa trong thị kiến. Chúa truyền cho Anh phải bỏ Giêruxalem mà đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại.
Nghe đến đây, quần chúng nổi cơn điên, la hét ầm ĩ: “Giết nó đi! Giết nó đi!”. Viên sĩ quan phải ra lệnh lôi Anh vào đồn. Quần chúng chỉ còn biết chửi và tung bụi làm mù bầu trời. Họ không dám vào đồn để giết Anh, vì sợ mắc uế. Thế là êm. Quần chúng giải tán, vừa đi vừa chửi thề, tức anh ách.
Ông trưởng đồn ra lệnh tra tấn Anh, để bắt Anh thú tội. Anh nghênh mặt nhìn viên sĩ quan và hất hàm hỏi:
- Một công dân Rôma chưa được xét xử mà các ông dám đánh đòn sao?
- Bộ ông là công dân Rôma hả?
- Chứ sao!
- Tôi cũng là công dân Rôma đây, nhưng phải tốn bộn tiền mới mua được đấy. Còn ông thì tốn nhiều không?
- Không tốn một xu. Lọt lòng mẹ là có quyền ấy rồi.
Ông trưởng đồn le lưỡi bái phục và xun xoe xin lỗi. Còn Anh thì vừa đi vào phòng biệt giam vừa nhón gót nhún nhảy, vừa hát thánh ca, coi trời bằng vung...
Kỷ niệm 2 – Anh ra hầu tòa.
Ngày hôm sau, theo yêu cầu của trưởng đồn, thượng tế và công nghị họp khẩn để làm sáng tỏ vụ án của Anh.
Đoàn thẩm phán thì trùng trùng điệp điệp. Ông nào cũng áo mũ xênh xang. Ông nào cũng râu ria tỉa tót. Ông nào cũng nghiêm nghị như đức vua ngự triều. Còn Anh thì đứng trước vành móng ngựa: lưng thẳng băng như cột đá trong đền thờ; hai cánh tay vạm vỡ khoanh cứng trước ngực y như người đang bình tĩnh suy tư; cặp mắt sắc như dao cạo râu đang quét từ bên trái qua bên phải, từ bên phải qua bên trái, rồi dừng lại ở trung tâm. Anh dõng dạc tuyên bố: “Kính thưa anh em, từ thuở nào cho đến bây giờ, tôi vẫn hằng sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa”.
Anh còn đang lấy hơi để nói tiếp, thì thượng tế Khanania đã ra lệnh cho tùy viên vả vào miệng Anh một cái. Anh chiếu cặp mắt nảy lửa vào ngay mặt thượng tế, rồi tuyên bố với giọng đanh như thép: “Hỡi bức tường tô vôi kia, Thiên Chúa sẽ đánh ông! Ông ngồi tòa xử tôi theo Luật, thế mà ông lại dám ra lệnh đánh tôi trái với Luật!”. Cả đoàn thẩm phán rùng mình, ôm lấy mặt, rồi giật râu tỏ vẻ đau đớn.
Bọn tùy viên của thượng tế hét vào mặt Anh: “Tại sao mày dám nguyền rủa vị thượng tế của Thiên Chúa ?!”.
Anh nhoẻn miệng cười, mặt tỉnh bơ như bé thơ chẳng biết gì: “Thưa anh em, tôi không biết đó là thượng tế. Nếu biết thì tôi không dám nói như thế đâu, vì tôi biết có lời chép rằng: Ngươi không được nguyền rủa người đầu mục trong dân”. Mọi người im phăng phắc. Mặt thượng tế tái xanh tái xám mà vẫn phải ngậm tăm, vì há miệng, thì mắc quai...
Trong khi thượng tế và bồi thẩm đoàn còn đang bối rối, thì Anh vẫn bình tĩnh quan sát. Anh nhận định chính xác là bồi thẩm đoàn gồm hai phe: phe pharixêu và xađốc. Hai phe đối nghịch nhau về tín lý: Pharixêu thì tin xác loài người sẽ sống lại; còn Xađốc thì cho rằng chết là hết, là thành tro bụi cho đến muôn muôn đời. Anh nghĩ ra một diệu kế: vô hiệu hóa vụ án bằng cách chia rẽ bồi thẩm đoàn. Nghĩ là làm.
Anh khiêm tốn thân thưa: “Kính thưa anh em, tôi là người Pharixêu, Pharixêu từ đời cha đến đời con. Tôi tin và hy vọng kẻ chết sống lại. Chỉ vì niềm tin ấy mà hôm nay tôi bị đưa ra tòa”.
Đúng như Anh dự đoán. Hai phe cãi nhau om xòm. Phe Pharixêu thì bênh. Phe Xađốc thì chống. Cuộc tranh cãi trở nên gay gắt đến mức độ sắp sửa “thượng cẳng hạ tay” với nhau. Sợ “trâu bò đánh nhau thì ruồi muỗi chết”, vị trưởng đồn ra lệnh cho lính lôi Anh ra và đưa về đồn.
Đoàn thẩm phán tự động giải tán. Ông nào cũng cúi mặt, làm thinh. Xấu hổ quá chừng! Còn Anh thì chui vào phòng biệt giam, cười tủm tỉm một mình.
Kỷ niệm 3 – Đi tù như thái tử lên ngôi.
Thượng tế và công nghị bị Anh chọc quê một phát: đau quá! Họ quyết tâm trả thù. Họ yêu cầu đồn trưởng ngày hôm sau phải dẫn độ Anh ra tòa, để họ kết thúc vụ án. Họ quyết tâm giết Anh. Giết mà không cần án tòa. Hơn bốn chục tên cuồng tín ăn thề với nhau là sẽ phục kích để giết Anh trên đường dẫn độ. Họ thề độc là nếu không giết được Anh, thì họ sẽ nghỉ ăn luôn.
Âm mưu tuyệt mật, nhưng vẫn rò rỉ. Chị của Anh nghe được tin này, bèn sai thằng con xin vào đồn và báo tin khẩn cho Anh. Anh nhờ viên đại đội trưởng dẫn thằng cháu lên gặp ông đồn trưởng. Ông đồn trưởng được báo cáo rành rẽ. Ông mừng quá, ôm lấy vai thằng cháu của Anh: vừa dặn dò, vừa tỏ vẻ âu yếm và biết ơn. Nếu không được biết tin này, ông sẽ bị sa bẫy, để Anh bị ám sát. Uy tín, địa vị và nồi cơm của ông sẽ bay thành mây khói. Ông khẩn cấp tập họp 200 bộ binh, 200 khinh binh, 70 kỵ binh và ra lệnh dẫn độ Anh lên thủ phủ Xêdarê ngay trong đêm hôm ấy. Ông không quên ra lệnh cho thuộc hạ phải cung cấp cho riêng Anh một con ngựa.
Mới chín giờ tối, đoàn công tác đã lên đường. 200 bộ binh và 200 khinh binh phải đi bộ. Còn Anh là một thằng tù, thì lại được cưỡi ngựa. Ngựa đi nước kiệu, cứ nhẩn nha, không cần vội vã. Anh ngồi trên lưng ngựa, thảnh thơi như ông hoàng đi chơi dã ngoại. Oai ơi là oai! Sướng ơi là sướng! Anh là một thằng tù oai nhất và sướng nhất trong lịch sử của loài người. Chỉ có một, chứ không có hai!
Sáng hôm sau đoàn công tác tới Antipatri. Nhận thấy không có nguy cơ bị bọn Do Thái cuồng tín đột kích, 400 lính bộ binh và khinh binh quay về Giêruxalem, còn 70 kỵ binh thì tiếp tục lên đường đưa Anh đến Xêdarê để trao nộp cho tổng trấn Phêlích.
Anh Phaolô rất đáng kính.
Anh đang ngồi trong xà lim, không thèm nghĩ đến chuyện quá khứ, không thèm buồn, không thèm ghét. Anh chỉ biết sung sướng được ngồi tù vì yêu, yêu Thầy Giêsu, người Thầy đáng yêu đáng kính ngàn trùng. Anh có biết không trong khi Anh đang sung sướng, thì có biết bao nhiêu người phải khổ. Trăm sự cũng tại Anh đó thôi.
- Thượng tế Khanania mất ăn mất ngủ, vì bị Anh chửi cho như tát nước vào mặt, mà đành cắn răng cúi mặt nuốt trộm nuốt vụng trái bồ hòn đắng nghét.
- Công nghị đang thiếu mo bịt mặt, vì một tập thể trí thức như thế, khả kính như thế, mà để Anh lùa vào bẫy, y như bầy chuột ngu xuẩn.
- Hơn bốn mươi người cuồng tín phải nhịn đói cả tuần lễ vì lỡ thề độc: “Không giết được tên Phaolô thì không ăn, không uống”. Đói gần chết mới xin giải được lời thề.
- 400 lính lê dương phải cuốc bộ một ngày đi, một ngày về, chỉ vì một thằng tù. Vô duyên! Tức đến ói máu ra được.
Anh Phaolô ơi! Nghĩ đến Anh tôi vừa thương đến rơi lệ, vừa buồn cười đến bể bụng.
Chào Anh trong nụ cười. Chào Anh với dòng lệ. Mãi mãi yêu Anh và kính trọng Anh.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Lá thư này đến với Anh, thấm đẫm nước mắt. Tôi vừa viết, vừa ứa lệ. Thương Anh quá, cầm lòng PiôHậu 115
Lá thư này đến với Anh, thấm đẫm nước mắt. Tôi vừa viết, vừa ứa lệ. Thương Anh quá, cầm lòng không được. Đi đến đâu, ở chỗ nào, Anh cũng gặp trăm ngàn khổ đau. Người Do Thái theo Anh như đỉa. Theo để chống đối. Theo để sách động dân địa phương đả đảo và đánh đập Anh. Ở Philíp, chủ của một người đàn bà bị quỷ ám cũng đủ sức lôi anh ra tòa để ăn một trận đòn te tua. Ở Ephêxô, một anh thợ bạc cũng tạo được một cuộc biểu tình để chửi Anh suốt hai tiếng đồng hồ. Ở Corintô Anh bị tập thể Do Thái lôi ra tòa, tố Anh về tội xúi dân theo một thứ đạo trái với luật Môsê. May mắn là ông Galion, thống đốc tỉnh Akhaia cho tội này là không liên can chánh trị. Ông không xét xử và bắt đoàn biểu tình giải tán. Đoàn biểu tình nổi giận tóm cổ ông Xốtthênê, đập đánh túi bụi. Ông Xốtthênê là trưởng hội đường đã tin Chúa, nên bị vạ lây... Còn Anh thì người ta bảo là vô sự. Tôi không tin.
Anh Phaolô ơi! Những nỗi đau thương trên tuyến truyền giáo III dồn dập đổ xuống trên đầu Anh làm tôi khóc hết nước mắt. Thương quá là thương ! Nhưng những chuyện buồn khi Anh kết thúc tuyến truyền giáo này còn làm tôi đau đớn đến tan nát cõi lòng. Giờ này Anh đang ngồi tù ở Xêdarê, xin Anh dành hết thời giờ để nghe tôi kể lại từng kỷ niệm, từng suy nghĩ và từng cảm xúc của tôi.
Rời Philíp, Anh đáp tàu đi Trôa. Anh ở lại đó bảy ngày. Tình nghĩa chan hòa. Đêm cuối cùng Anh tập trung bà con lại để dặn dò, để khuyên lơn. Chẳng ai muốn chia tay. Anh giảng mãi cho tới nửa đêm. Êutikhô, một chú choai choai ngồi ở bệ cửa sổ để nghe. Nghe lâu quá thì ngủ gật, lật nhào từ lầu hai xuống sân, chết ngắc. Buổi nói chuyện tâm tình biến thành cuộc hoảng loạn. Từ trên lầu đi xuống, Anh bình tĩnh xốc người chết lên, ôm vào lòng và nhỏ nhẹ khuyên nhủ mọi người: “Đừng xôn xao, đừng um sùm. Nó sống rồi”. Có người dẫn chú thiếu niên ấy về nhà. Anh và bà con lại lên lầu, lại hàn huyên mãi cho tới tảng sáng mới chia tay.
Anh Phaolô ơi! Người ta bảo tôi rằng Anh là người đàn ông chỉ sống với vầng trán cao mà quên con tim phập phồng. Ai ngờ tình cảm của Anh lại lê thê đến thế. Giảng mãi cho đến nửa đêm, rồi lại tâm sự mãi cho tới tảng sáng. Bịn rịn quá! Thương mến quá! Ôi, Phaolô của tôi!
Kỷ niệm 2 – Bến tàu Milêtô. Đoàn của Anh rời Trôa đi đến Átxô bằng đường thủy, còn Anh thì đi bộ. Lại tình cảm lê thê nữa rồi! Từ Átxô Anh cùng đoàn đáp tàu đi Milêtô, có ghé Mitylen và Xamốt, nhưng không ghé Êphêxô. Không ai dám góp ý, vì đó là lệnh của Anh. Anh viện lý do là phải tranh thủ tối đa, để kịp dự lễ Năm Mươi ở Giêruxalem. Anh biết rõ là nếu ghé Ephêxô thì lại lê thê, lại bịn rịn... không thể dứt áo ra đi được. Thật không ngờ là một người nghiêm khắc và lạnh lùng như Anh lại được nhiều người thương mến đến thế. Rời bỏ nơi nào, thì cũng đằm đìa nước mắt. Ôi nhân tình thế thái!
Anh sai người lên Êphêxô đón các kỳ mục xuống gặp Anh ở Milêtô.
Anh em gặp nhau: tình nghĩa chan hòa; tình cảm chan chứa. Bây giờ tôi mới thấy Anh yêu thương giáo đoàn Êphêxô tới mức độ nào. Suốt ba năm trời Anh tưới lên cánh đồng này biết bao mồ hôi và nước mắt, chỉ còn thiếu máu đào nữa thôi. Anh linh cảm lần gặp gỡ này là lần cuối cùng. Thương quá mà cũng lo quá. Anh gửi gắm tất cả tương lai cho các kỳ mục. Anh dặn họ phải thận trọng tối đa, vì tiên tri giả sẽ xuất hiện, vì sói dữ vẫn rình mò. Nhìn Ánh mắt của Anh và nghe giọng nói của Anh, các kỳ mục cảm thấy đau nhói trong tim. Họ toàn là những thứ mày râu đội đá vá trời xanh thế mà giọt lệ vẫn lăn trên gò má...
Buổi họp cuối cùng kết thúc đầy ấn tượng. Mọi người quỳ gối, ôm ngực, cúi đầu để cầu nguyện. Cầu nguyện chưa xong thì đã khóc òa lên. Mọi người ôm cổ Anh mà khóc như mưa. Đàn ông mà cũng mếu máo và nhệu nhạo y như khách má hồng. Cảm động đến đứng tim, cảm động đến chịu không nổi...
Kỷ niệm 3 – Gặp gỡ ở Tia, Pơtôlêmai và Xêdarê.
Trên đường về thủ đô, thì Tia, Pơtôlêmai và Xêdarê là ba điểm dừng chân. Mỗi nơi Anh ở vài ba ngày, dăm bảy bữa. Chỗ nào cũng có gặp gỡ, thăm hỏi và trao đổi. Không có rình mò. Không có phá rối. Nhưng lại có một nỗi lo xa xôi.
Ở bất cứ giáo điểm nào, thì từ đàn ông đến đàn bà, từ ông bà già cho đến trẻ con đều nhìn Anh bằng ánh mắt lo ngại. Anh cũng nghĩ rằng Anh không nên về thủ đô. Ai nấy đều muốn quỳ xuống mà lạy Anh, van xin Anh đừng chủ quan mà về đó. Ông Agabô là người từ Giuđê lên. Ông nắm vững tình hình ở thủ đô nên cả quyết rằng: Phaolô mà về Giêrusalem thì từ chết đến chết, chứ không có bị thương. Ông lấy dây thắt lưng của Anh để tự trói tay và tuyên bố thẳng thừng rằng: “Ông Phaolô mà về thủ đô thì... thế này này”.
Bầu khí căng thẳng quá chừng! Ai nấy nín thinh, rưng rưng nước mắt. Còn Anh thì cứ tỉnh queo. Dường như Anh đang hứng. Anh muốn kết thúc sứ mạng đầy gian truân thử thách. Anh muốn lấy cái chết đẫm máu để làm thỏa mãn tình yêu của Anh đối với Thầy Giêsu. Chẳng ai cãi nổi Anh. Chẳng ai thuyết phục được cái trán dồ của Anh. Đành giơ tay đầu hàng và mỉm cười nói với nhau: “Xin cho ý Chúa được thể hiện”.
Kỷ niệm 4 – Tình huynh đệ tệ hơn nội thù.
Anh Phaolô ơi! Anh về Giêrusalem ngày hôm trước, thì ngày hôm sau cả đoàn của Anh kéo nhau đến nhà ông Giacôbê để chào thăm, để hàn huyên, để thông tin truyền giáo và đặc biệt là để gửi tiền viện trợ cho giáo hội xứ Giuđê mới bị hạn hán. Không biết số tiền ấy là bao nhiêu. Tôi đoán là nhiều lắm, vì Anh đã quyên tại tất cả các giáo điểm ở Makêđonia, Akhaia và Axia. Chỗ nào cũng có mạnh thường quân, chỗ nào người ta cũng hết tình đối với Anh. Hôm ấy có mặt đông đủ các kỳ mục của Giêrusalem. Ai nấy đều hớn hở vui mừng. Tình anh em đẹp như mơ. Thế mà bỗng dưng tình đẹp như mơ ấy lại tan đi như mây khói. Các kỳ mục xáng lên đầu Anh một bài huấn từ chua lè và đắng nghét như một lời dằn mặt.
Anh không tự ái, vì Anh đang hứng đón cây khổ giá. Nhưng tôi tự ái thay Anh. Anh hãy nghe tôi phân tích, để dù không chấp nhất, Anh vẫn thấy thế nào là tình đời, tình đời bạc như vôi. Tôi cũng muốn Anh hiểu thế nào là cục bộ, là bảo thủ ngay trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Anh cứ chơi đẹp. Còn tôi thì... cam đoan không chơi xấu. Tôi chỉ đấu tranh cho lẽ phải thôi.
- Để mở đầu huấn từ, các kỳ mục bảo Anh rằng: “Hàng vạn người Do Thái tin theo và tất cả đều nhiệt thành đối với luật Môsê”. Trong bối cảnh ấy, tôi hiểu rằng: người chống đối Anh đông như kiến cỏ. Một vạn người, tức là một sư đoàn đấy.
- “Thế mà họ đã nghe nói về Anh rằng: Anh dạy tất cả những người Do Thái sống giữa các dân ngoại phải bỏ ông Môsê, Anh bảo họ đừng cắt bì cho con cái và đừng giữ các tục lệ nữa”. Như vậy thì rõ ràng là họ coi Anh như một tên kết thúc sứ mạng . Tội chống Môsê thì đáng bị ném đá cho chết.
- “Thế nào người ta cũng nghe biết là Anh đã tới”. Nói như thế có nghĩa là “họ sẽ ùn ùn kéo nhau đến để xử Anh đấy”.
- “Vậy xin Anh làm như chúng tôi nói với Anh đây: chúng tôi có bốn người đang phải giữ lời khấn; anh hãy đem họ theo mà cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ, và đài thọ chi phí cho họ để họ có thể xuống tóc. Như vậy ai nấy sẽ biết rằng những điều họ đã nghe nói về Anh chỉ là chuyện không đâu”.
Ôi, quý vị kỳ mục ở Giêrusalem ơi! Lòng dạ của quý vị còn độc ác hơn con rắn hổ mang, còn hung dữ hơn con cọp rừng xanh. Xúi ông bạn Phaolô của tôi lên đền thờ vào lúc này thì có khác gì đẩy ông ấy vào hang cọp. Trẻ con ở Xêdarê, ở Tia và ở Pơtolêmai cũng biết điều này. Thế mà quý vị lại không biết? Tôi không tin đâu.
Quý vị đã nhận tiền viện trợ rồi, lại còn đẩy ông bạn tôi vào chỗ chết và trước khi chết còn móc túi ông ta một lần nữa. Quý vị biết rõ hơn tôi rằng chi phí cho bốn người có lời khấn để họ xuống tóc thì không phải là ít đâu. Tôi phỏng đoán là ông bạn tôi phải chi cho bốn người ấy một số tiền tương đương với bốn tháng lương của một công nhân đấy.
Quý vị cũng đã biết rõ mười mươi rằng ông Phaolô không hề xúi Do Thái kiều bỏ luật Môsê và không cắt bì cho con cái. Quý vị hẳn cũng biết rằng chính ông Phaolô đã bắt Timôtê phải cắt bì, vì mẹ anh ta là người Do Thái. Còn chuyện anh Titô không cắt bì, thì quý vị hiểu rồi. Anh ta là người ngoại trăm phần trăm. Theo lời tuyên bố của ông Giacôbê, thì khi người ngoại trở lại không phải cắt bì và giữ luật Môsê. Rõ như ban ngày nhá.
Tại sao quý vị không dùng uy tín của mình để thanh minh cho ông bạn Phaolô của tôi. Hà cớ gì phải bắt ông ta tự thanh minh bằng cách lên đền thờ làm lễ thanh tẩy, để rồi quý vị thấy đó... ông bạn tôi bị ăn đòn hội chợ và bị tống giam trong đồn Antonia... Ôi, tình đồng đạo!
Anh Phaolô rất thân mến của tôi ơi!
Tôi theo dõi từng bước đi của Anh trên suốt ba tuyến truyền giáo. Gian khổ và oan khiêng chồng chất. Anh bị quần chúng đánh đòn hội chợ, Anh bị chánh quyền tra tấn và bỏ tù. Tôi khóc thương Anh đến mờ cả mắt. Nhưng tôi chỉ khóc vì thương Anh, tuyệt nhiên không buồn giận ai. Chủ con đồng ở Philíp và anh thợ bạc ở Êphêxô sách động quần chúng bao vây Anh, chửi bới Anh, xâu xé Anh, tôi không hề chấp nhất. Đó là bọn hạ cấp bị đồng tiền mê hoặc. Ở đâu cũng có những người như thế.
Nhưng khi thấy Anh bị bọn Do Thái lôi bê bê từ trong Đền thờ đi ra, tôi uất hận đến nghẹt thở. Đau quá! Tôi không hận bọn Do Thái cuồng tín. Tôi hận chính các kỳ mục ở Giêrusalem. Họ cùng loan báo Đức Giêsu như chúng ta. Họ là anh em của chúng ta. Họ là những người lãnh đạo giáo đoàn. Họ vừa nhận quà viện trợ do chính Anh mang về từ các giáo đoàn xa tắp tít, thế mà nỡ tâm “ăn cháo đá bát” một cách trắng trợn như thế. Tức quá! Giận quá! Giận đến mất ăn mất ngủ. Tôi vẫn bắt chước Anh chỉ giận tối đa là một ngày thôi. Nhưng lần này thì tôi giận hơn một tuần. Bây giờ thì tôi đã nguôi ngoai rồi. Bớt giận rồi thì mới vỡ lẽ.
Các kỳ mục ở Giêrusalem cực kỳ bảo thủ. Họ cứ bám lấy Môsê và các Sứ Ngôn. Họ cứ tưởng rằng Môsê và các Sứ Ngôn là những bậc thầy tối cao. Họ chưa mở mắt ra được để thấy rằng chỉ có mạc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu mà thôi. Họ quên rằng chính Đức Giêsu đã tuyên bố rằng: “Anh em chỉ có một Thầy và một Đấng Chỉ Đạo là Đức Kitô”. Họ quên rằng chính Đức Giêsu đã không đồng ý với ông Môsê khi ông ấy cho phép ly dị, khi ông ấy ra lệnh ném đá người ngoại tình, khi ông ấy kê khai một chuỗi dài những thức ăn mà ông bảo là uế. Họ không đủ can đảm để nhận ra rằng Môsê chỉ là học trò của Đức Giêsu mà thôi. Luật Môsê vừa là luật đạo, vừa là luật đời, vừa là văn hóa của dân Do Thái. Luật Môsê thấm vào não, nhập vào tim và lan tỏa qua từng mạch máu của dân Do Thái, rồi truyền từ đời này qua thế hệ nọ. Họ đồng hóa lòng trung thành với Môsê và lòng trung thành với Giavê. Họ cứ ru rú sống trong diện tích nhỏ bé của xứ Giuđê, nên lòng dạ của họ cũng chỉ nhỏ bé như thế. Còn Anh thì bôn ba bốn biển. Anh thấy nhiều và hiểu rộng, nên Anh bao dung với người ngoại, tranh đấu để người ngoại gia nhập đạo Chúa mà không phải cắt bì, không phải giữ luật Môsê. Cởi mở như Anh không dễ đâu.
Nghĩ như thế, tôi thôi giận các kỳ mục. Nhưng vẫn thương Anh mà còn thương nhiều hơn, thương nhiều lắm. Tôi cũng dự đoán rằng công việc loan báo Tin Mừng trong tương lai cũng sẽ gặp những khó khăn như thế, những khó khăn mà tôi gọi là vô duyên. Đành vậy. Đó là vấn đề của lịch sử. Người loan báo Tin Mừng cứ vui như Anh, cứ nhìn phía trước mà đi, không chấp nhất, không hận thù. Nếu chấp nhất, nếu hận thù, thì còn giờ đâu mà loan báo Tin Mừng.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đã hoàn thành tuyến truyền giáo II và đang tạm nghỉ ở Antiôkia, để chuẩn bị cho tuyến truyền PiôHậu 116
Anh đã hoàn thành tuyến truyền giáo II và đang tạm nghỉ ở Antiôkia, để chuẩn bị cho tuyến truyền giáo III. Anh là mẫu người chỉ nhìn về phía trước và chỉ nghĩ về tương lai. Tôi biết thế, nhưng tôi vẫn năn nỉ Anh dành ra mươi phút để cùng tôi nhìn về phía sau. Phía sau ấy là một hành trình dài 1527 dặm (2260 km), một thời gian 3 năm và 15 giáo điểm mà Anh đã đi qua và để lại biết bao kỷ niệm vui buồn. Vui đến ứa lệ. Buồn đến tứa máu. Tôi chỉ xin Anh nhìn lại và ngẫm nghĩ về những kỷ niệm gây ấn tượng nhất mà thôi.
1. Tuyến truyền giáo I được mở màn bằng câu chuyện buồn tê tái: Anh và ông Barnaba nổi nóng và to tiếng với nhau đến mức độ phải “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi…” Nguyên nhân và hậu quả của biến cố, thì tôi đã nói với Anh trong lá thư trước rồi: nguyên nhân thì quá nhỏ, hậu quả thì quá to. Ở đây tôi chỉ gửi về Anh một bản thông tin ngắn về công việc truyền giáo ở đảo Síp.
Hai cậu cháu ông Barnaba đáp tàu về đảo Síp, vừa buồn vừa tủi. Buồn đến chết được. Tủi đến phải gục mặt xuống mà đi. Nhưng bây giờ họ đã quên chuyện quá khứ rồi. Vì Đức Giêsu, họ quên tất cả quá khứ để bắt tay vào việc rao giảng. Họ khởi đầu từ Xalamin và từ từ tiến tới Paphô. Lòng nhiệt thành của họ thì không thua Anh. Nhưng cách làm việc của họ thì không giống Anh. Anh thì ào ào đi tới, tranh luận thì đùng đùng như pháo nổ. Còn Barnaba thì cứ từ từ đi tới, tranh luận thì rỉ rả như kể chuyện, nhẹ nhàng như xoa bóp. Thành công của ông không rực rỡ như của Anh. Nhưng thất bại của ông không chua chát như của Anh.
Tôi không ngờ là chuyện buồn hôm ấy lại là khởi đầu cho hai tuyến truyền giáo: tuyến truyền giáo II của Anh và tuyến truyền giáo I của Barnaba. Tôi không thể ngờ được rằng một vết chém sâu như thế và tóe máu như thế, mà lại mọc da non nhanh đến như vậy. Tôi ngẫm nghĩ mãi và nhận ra rằng: tình yêu Thầy Giêsu đã cứu cả Anh lẫn ông Barnaba. Tình yêu ấy vừa là viên thuốc kháng sinh cực mạnh, vừa là chai sữa bồi dưỡng tuyệt vời.
2. Bà Lyđia, đứa con đầu lòng của giáo đoàn Philíp. Tôi nghe người ta kể rằng khi đoàn của Anh vừa tới Philíp, còn chân ướt chân ráo, chưa biết phải làm gì, các anh đi dạo lang thang ở bờ sông, để giết thời giờ, để chờ gặp may. Và dịp may đã tới.
Một số phụ nữ đạo đức đang ngồi phệt trên bãi cỏ, thỏ thẻ với nhau về giáo huấn của các Sứ Ngôn. Thế là các anh xin nhập cuộc. Anh làm chủ tình hình ngay lập tức. Đó là khả năng của Anh. Anh dẫn chứng Môsê và Sứ Ngôn để minh chứng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Các bà như bị hớp hồn, nín thở để nghe. Bà Lyđia cảm động đến nhòa lệ. Bà là người đầu tiên giơ tay xin gia nhập đạo Chúa. Thế là giáo điểm Philíp ra chào đời. Lyđia là đứa con đầu lòng của giáo điểm ấy. Bà mời đoàn truyền giáo đến ở tại nhà bà. Anh không đồng ý. Bà năn nỉ, bà nài ép. Thế là Anh cầm lòng không được, đành gật đầu chấp thuận. Anh thua. Bà ấy thắng.
Tôi chưa hề thấy mặt bà Lyđia, nhưng dựa trên những thông tin lẻ tẻ, tôi có thể vẽ chân dung của bà như sau: một người đàn bà trên dưới bốn mươi; vừa giàu sang vừa xinh đẹp; vừa đảm đang vừa giàu tâm huyết; được giới trẻ kính mến; được phụ nữ khâm phục; được giới mày râu nể nang. Bà sẽ là linh hồn của giáo đoàn Philíp và là hậu phương vững mạnh của sự nghiệp truyền giáo của Anh.
Bà sẽ luôn luôn nghe ngóng tin tức về đoàn truyền giáo của Anh. Bà lo lắng từ miếng cơm đến manh áo của các anh. Bà không hài lòng về tin tức đâu. Bà sẽ đích thân đến thăm để thấy tận mắt nồi cơm, tô canh… trên bàn ăn của các anh. Bà không cho phép các anh mặc áo cũ rách và không tươm tất.
Một người đàn bà lý tưởng như thế mà xuất hiện thường xuyên trên các giáo điểm, thì có thể là cái gai chọc vào mắt các bà mệnh phụ của địa phương đấy. Những cái lườm nguýt của các bà sẽ vương hệ lụy cho sự nghiệp lớn của Anh đấy. Tôi biết Anh là mẫu người chỉ biết lo chuyện lớn mà quên chuyện nhỏ, nên tôi tha thiết xin Anh cẩn trọng, đừng để chuyện nhỏ làm hư chuyện lớn.
3. Công tác truyền giáo ở Philíp đang đẹp như mây bay, thì bỗng phong ba nổi lên. Anh và Xila bị đánh một trận đòn tơi bời hoa lá, rồi bị tống ngục, bị xiềng cả chân lẫn tay trong một xà lim sâu hun hút của trại giam. Đầu đuôi câu chuyện là thế này.
Các Anh ra bờ sông để cầu nguyện. Có một người đàn bà tuổi xồn xồn cứ lẽo đẽo đi theo, vừa đi vừa léo nhéo: “Các ông này là tôi tớ của Đấng tối cao. Họ loan báo cho các người con đường cứu độ”. Ăn nói vô duyên. Bản mặt vô duyên. Vô duyên hai ba ngày liền, khiến Anh nổi nóng, quát vào mặt hắn: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, ta truyền cho mi phải xuất khỏi người này”. Quỷ xuất ra ngay. Người đàn bà ngẩn ngơ, tưởng mình đang mơ. Thì ra bà ta bị quỷ nhập. Quỷ biến bà ta thành “cô đồng”: gọi hồn, đoán mệnh, bói toán, phát lộc… làm giàu cho bọn đầu cơ. Bây giờ bà tỉnh lại rồi, bọn đầu cơ không còn lợi dụng được nữa, bèn trả thù các anh. Họ lôi anh và Xila ra tòa, tố các anh hai tội: làm mất trật tự và an ninh công cộng, đồng thời truyền bá những tập tục mà người Rôma không thể chấp nhận được. Thế là quần chúng thì la hét chửi bới. Còn chính quyền địa phương thì ra lệnh lột trần các anh và đánh cho đủ 39 hèo, rồi tống ngục. Đau quá ! Oan khiên quá ! Nhưng Anh và Xila thì cứ tỉnh bơ y như đi trong mơ. Dường như còn thích thú, vừa đi vừa nhún nhảy. Không ai hiểu được tâm tư của các anh.
Nửa đêm hôm ấy, trại giam đang im phăng phắc, thì Anh và Xila hát thánh ca um lên làm náo loạn cả trại giam. Tiếp theo là một cuộc động đất làm bật tung các cửa phòng trại giam. Viên cai ngục tưởng đây là cuộc trốn trại khủng, bèn rút gươm để tự sát. Anh vội la lên: “Đừng! Đừng! Chúng tôi vẫn còn ở đây, không ai trốn đâu”.
Tình thế xoay 180 độ. Viên cai ngục và gia đình xin theo đạo, rửa vết thương cho các anh và còn mới các anh dùng bữa nữa.
Sáng hôm sau các quan tòa ra lệnh thả các anh. Các anh không thèm ra, còn hạch sách họ, tố ngược họ là vi phạm luật pháp: tra tấn và bỏ tù công dân Rôma mà không hề xét xử tại tòa. Anh yêu cầu quan tòa phải đích thân xin lỗi Anh và mời Anh ra tù một cách công khai và long trọng.
Thế là quan tòa từ thế thượng phong tụt xuống thế hạ phong. Họ phải đích thân đến xin lỗi Anh và mời Anh ra tù. Anh và Xila ra trại giam một cách oai phong lẫm liệt, tiến về nhà bà Lyđia như một thượng khách. Anh công khai họp các tín đồ, dặn dò, khuyên lơn họ, rồi khăn gói ra đi…
Anh Phaolô rất thân mến. Trước hết tôi xin chắp tay lạy Anh ba cái, rồi vắt tay lên trán, ngẫm nghĩ. Phải nghĩ lâu lắm mới hiểu được con người của Anh.
1. Nếu là tôi, thì tôi xuất trình giấy chứng minh công dân Rôma ngay từ lúc sắp bị đánh đòn. Như vậy thì vừa thoát được trận đòn rách thịt, rướm máu, vừa được bọn quá khích trợn mắt nể vì. Thế mà Anh cứ ngặm tăm, cho đánh, cho tống ngục. Cứ tỉnh bơ, cứ tủm tỉm cười như thằng bé được ăn kẹo. Anh xử thế như vậy thì là khôn hay là dại? Bây giờ thì tôi hiểu rồi.
- Anh không sợ bị đòn, mà còn khoái là khác. Cũng chỉ vì Anh muốn đền tội. Anh đã làm khổ Thầy Giêsu quá đỗi, nay Anh muốn chịu đòn vì Thầy để đền bù. Đó cũng là quy luật của tình yêu. Yêu ai thì muốn khổ vì người ấy: “Không có tình yêu nào lớn hơn là chết cho người mình yêu”. Anh yêu Thầy quá, Anh muốn chết vì Thầy. Đánh đòn và tù đầy chỉ là chuyện nhỏ.
- Anh muốn cố đấm để ăn xôi. Anh chịu đòn để dồn đối phương vào thế kẹt. Anh tự nguyện chọn thế hạ phong, để nhảy lên thế thượng phong. Anh đã thành công. Anh chơi cao quá, vì Anh già tay ấn quá. Ban đầu tôi tưởng Anh chịu thua nhỏ để thắng lớn. Ngẫm nghĩ mãi tôi mới thấy Anh thắng lớn và thắng kép.
- Anh bị đòn đau, nhưng lại đau sướng. Sướng quá! Sướng quá, nên không thấy đau. Anh và Xila hát thánh ca um sùm lên là vậy. Bây giờ tôi mới cảm nghiệm được lời của Thầy: “Ách của Ta thì êm, gánh của Ta thì nhẹ”. Tôi chỉ cảm nghiệm được lời của Thầy ở trong tim. Còn Anh thì cảm nghiệm được cả trên da thịt của mình. Tôi ghen với Anh đấy.
Ngẫm nghĩ mãi, tôi lại thấy nước cờ “hạ phong – thượng phong” của Anh là quá cao. Bản chất của Anh là thích ngạo nghễ, là thích chọc tổ ong vò vẽ. Chọc để chơi thôi. Trong phạm vi này thì Anh thành công quá lớn. Anh bắt được quan tòa phải nhận lỗi và xin lỗi, thì quả là tuyệt vời. Anh có quyền sung sướng. Anh có quyền hãnh diện.
Nhưng tôi lại thấy rằng thắng lợi ấy vẫn còn là quá nhỏ so với một thắng lợi khác. Đó là khi Anh cuốn gói ra đi rồi, thì bà Lyđia và những anh chị em tân tòng không bị làm khó nữa. Chánh quyền địa phương mang mặc cảm tự ti đối với giáo đoàn. Họ không dám làm khó, họ không dám dòm ngó, vì họ đã bị hố một chuyện quá lớn rồi. Nỗi đau ấy còn ê ẩm lâu lắm. Ê ẩm một thế hệ, ê ẩm một thể chế cai trị của thành Philíp, một thành phố được hưởng chế độ dân chủ như thủ đô Rôma. Tôi khâm phục cái đầu có trán cao của Anh. Trán vừa cao, vừa dồ…
2. Cái vụ động đất đêm hôm ấy không do Anh tạo ra, nhưng chứng tỏ là Chúa đã ủng hộ Anh, đã thưởng Anh. Phần thưởng cụ thể nhất là viên cai ngục và gia đình của ông đã đón nhận đức tin. Ngày Anh đến Philíp thì Chúa ban cho Anh gia đình bà Lyđia. Ngày Anh ra đi, thì Chúa ban cho Anh gia đình viên cai ngục. Anh ra đi, thì hai gia đình này sẽ tiếp tục sự nghiệp của Anh. Tư cách của họ, gia cảnh của họ sẽ bảo đảm cho việc phát triển của giáo đoàn. Tôi dự đoán rằng trong tương lai giáo đoàn Philíp sẽ là hậu phương lớn của Anh, đồng thời họ chiếm một chỗ ưu tiên trong con tim của Anh. Anh không thích nhìn về quá khứ, nhưng tôi tin chắc rằng Anh không thể quên được giáo đoàn Philíp. Anh không thích để tình cảm lấn át lý trí, nhưng tôi vẫn tin chắc rằng Philíp sẽ làm Anh phải rớt nước mắt nhiều lần. Bề ngoài của Anh thì khô như ngói, nhưng mái ngói vẫn dầm dề nước mưa đấy. Anh đừng vì tự ái mà giận tôi nhé. Dù sao tôi vẫn là người bạn âm thầm yêu Anh, mến Anh, quý Anh và hiểu Anh như hiểu bàn tay năm ngón của tôi.
Thân mến. Hẹn gặp Anh trong lá thư sau.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đang tạm nghỉ xả hơi ở Antiôkia. Nhưng tôi chả thấy Anh nghỉ một tí nào. Người ta cho PiôHậu 117
Anh đang tạm nghỉ xả hơi ở Antiôkia. Nhưng tôi chả thấy Anh nghỉ một tí nào. Người ta cho tôi hay rằng: xác Anh thì ở xứ Xilixi mà lòng Anh thì ở xứ Pixiđia. Miệng lúc nào cũng nói đến Lýtra, Iconium và Đẹcbê... Anh không muốn nghỉ. Anh chỉ muốn lại lên đường truyền giáo nữa. Và...
Anh đã lên kế hoạch rồi. Kế hoạch của Anh là:
1. Trở lại các giáo điểm mới được thành lập trong tuyến truyền giáo I, để củng cố đức tin của họ đang bị rệu rạo do nhóm bảo thủ và nhóm quá khích tạo nên. Phải củng cố cơ chế, phải thổi lửa đức tin cho các ngôn sứ, phải tháo gỡ xiềng xích của luật Môsê cho các tân tòng.
2. Đoàn truyền giáo lên đường chuyến này phải có quốc tịch La Mã, để có chỗ đứng trong xã hội mà mạnh dạn loan báo Tin Mừng. Bước đầu Anh quyết định chọn ba người: Phaolô, trưởng đoàn; Barnaba và Xila, trợ lý.
3. Phải tranh thủ tối đa để Tin Mừng được loan báo đến tận cùng trái đất. Phải bất chấp gian lao thử thách. Nếu được chết vì Tin Mừng, thì đó là vinh dự lớn lao nhất. Tất cả cho Đức Giêsu.
Kế hoạch của Anh được công bố. Ai nấy đều hoan nghênh. Cộng đoàn Antiôkia nồng nhiệt đóng góp tiền bạc để Anh lên đường càng sớm càng tốt. Vui quá! Mừng quá!
Bỗng có một chuyện buồn xảy ra.
Gioan-Máccô, người đào nhiệm trên tuyến truyền giáo I hiện đang có mặt ở Antiôkia. Hắn không còn là công tử bột như bốn năm về trước nữa. Bốn năm hối hận, bốn năm xấu hổ đã biến hắn trở thành một người dạn dĩ và can đảm phi thường. Hắn thề với bạn bè là sẽ lên đường truyền giáo với Anh, bất chấp gian khổ, để đền bù cái tội đào nhiệm năm ấy. Vàng bạc thì hắn không thiếu. Quốc tịch La Mã thì hắn cũng đã có rồi. Tên Do Thái của hắn là Gioan. Bây giờ lại có thêm tên La Mã là Máccô nữa.
Hắn đang nôn nóng chờ ngày lên đường truyền giáo với Anh, thì bỗng bị hẫng: Hắn xin cậu Barnaba can thiệp hộ. Thế là chuyện buồn nho nhỏ bỗng bùng vỡ trở thành chuyện buồn quá lớn. Buồn đến chết được. Tôi chỉ nghe kể thôi, mà cũng buồn đến đứt ruột.
Hôm ấy tín hữu về họp đông lắm. Các niên trưởng về để nhận lệnh của Anh. Các chị phụ nữ về để nhận công tác bác ái. Các bà mệnh phụ về để tài trợ chuyến đi của Anh. Người nào cũng buồn buồn tủi tủi. Người nào cũng thương thương nhớ nhớ. Đàn ông thì trầm tư. Đàn bà thì ứa lệ. Nhưng mọi người đều phấn khởi vì Tin Mừng sắp bùng vỡ.
Anh là người vui nhất, cười nói luôn miệng. Lúc thì ôn chuyện quá khứ. Khi thì dự phóng chuyện tương lai. Hứng lên thì vạch áo khoe những vết sẹo chằng chịt trên lưng, quà tặng của trận ném đá ở Lýtra. Hứng lên nữa, thì vỗ vai ông Bạcnaba vừa nói vừa hấp háy cặp mắt: “Bác chuẩn bị hành trang chưa? Nhớ mang theo “Chứng minh Công Dân La Mã” nhá. Bác nhắc anh Xila hộ tôi với”. Chớp được thời cơ, ông Barnaba lên tiếng ngay: “Anh Phaolô ơi, cho thằng Máccô, cháu của tôi đi với”. Vừa nghe nhắc đến tên Máccô, Anh ưỡn lưng, trợn mắt, dựng cặp chân mày sâu róm lên, quát thẳng vào mặt ông Bạcnaba: “Máccô là một thằng hèn, không xứng đáng đi truyền giáo. Bác có nhớ không, nó đã bỏ chúng ta ở Pẹcghê, để trốn về với mẹ nó”. Lần đầu tiên trong đời, ông Barrnaba nổi nóng, quát thẳng vào mặt Anh: “Tôi cấm Anh không được gọi thằng cháu tôi là thằng hèn”.
Hai người nổi nóng với nhau, đốp chát với nhau, khiến các niên trưởng tái mặt bỏ chạy. Các bà phụ nữ trốn sang nhà hàng xóm, ngồi xù xì với nhau. Buồn ơi là buồn!. Sáng hôm sau, ông Barnaba và Máccô cuốn gói xuống cảng, đáp tàu về đảo Síp, không hẹn ngày tái ngộ.
Anh Phaolô ơi, tôi chả biết phải nói gì với Anh bây giờ? Bênh Anh và chống lại ông Barnaba ư? Không bao giờ. Bênh ông Barnaba và chống lại Anh ư? Cũng không bao giờ. Tôi vẫn luôn luôn quý mến Anh và mãi mãi kính trọng ông Barnaba. Nhưng sự cố Anh và ông Barnaba nổi nóng với nhau, nặng lời với nhau, để đi đến kết cuộc là “Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi”, thì quả là đáng tiếc vô cùng. Tôi buồn quá! Quả tim trong lồng ngực của tôi dường như muốn ngừng đập. Tôi đành gác bút, thôi viết cho Anh. Hẹn tái ngộ Anh trên trang thư này, khi tôi đã bình tĩnh trở lại.
Anh Phaolô thương mến.
Sau một tuần lễ tìm quên, quên Anh và quên Cú Sốc ở Antiôkia, hôm nay tôi đã ăn và ngủ bình thường. Tôi lại nhớ về Anh và lại ngẫm nghĩ về cuộc chia tay giữa Anh và ông Barnaba. Vẫn còn buồn, nhưng chỉ buồn nhè nhẹ như gió hiu hiu thổi. Vẫn thương Anh và thương Anh nhiều hơn. Vẫn yêu quý ông Barnaba như thuở nào. Bây giờ vừa yêu quý, vừa thấy thương thương.
Dù Anh đang trăm công nghìn việc trên tuyến truyền giáo II, tôi vẫn xin Anh hãy vui lòng dành ra một chút thời giờ để nghe tôi bộc bạch tâm tư. Tâm tư rất chân thành và rất khách quan.
1. Xin Anh cùng tôi nhìn ngắm chân dung của ông Barnaba. Đối với giáo đoàn Giêrusalem, ông là tấm gương xán lạn nhất. Ông là một trong những người đầu tiên sẵn sàng bán hết gia sản, rồi dâng cúng cho tập thể. Đối với xã hội, ông là hạt men hòa bình hóa giải mọi cuộc tranh chấp và bất hòa. Ở đâu có Barnaba, thì ở đấy có nụ cười và tình thương. Đối với sự nghiệp truyền giáo của Anh, thì ông vừa là cố vấn, vừa là bạn đồng hành, vừa là người trợ lý có một không hai.
Nhìn qua ống kính phân tâm học, thì ông là người trầm tĩnh; là mẫu người phản ứng chậm; là người nhẫn nhịn nhưng chỉ nhịn mà không bỏ qua.
Là người lớn tuổi đáng kính, nhưng lại thua Anh về mặt kiến thức nhất là kiến thức về Thánh Kinh, ông vẫn có một chút mặc cảm tự ti nào đó. Bốn năm đồng hành với Anh, những mặc cảm tự ti nho nhỏ cứ cộng lại và chồng chất lên, tạo nên hiện tượng dồn nén và bùng vỡ.
2. Máccô, người bị Anh hắt hủi và chê là không xứng đáng lên đường truyền giáo, thì tôi lại rất trọng vọng và rất yêu quý. Tôi tìm hiểu về anh ta rất kỹ.
Khi Thầy Giêsu bắt đầu sự nghiệp truyền đạo, thì anh ta còn là trẻ con. Nhưng vì mẹ anh ta là mạnh thường quân của Thầy, nên anh ta được biết rất nhiều về Thầy và quyến luyến Thầy như một đứa trẻ con. Chỉ yêu Thầy, quấn quýt bên Thầy, nhưng chẳng hiểu sứ mạng của Thầy.
Sự cố Thầy bị đóng đinh, an táng và phục sinh gây một ấn tượng rất sâu sắc vào đời anh ta. Gần như mọi kỷ niệm cuối cùng về Thầy đều xảy ra trong tòa nhà của mẹ anh ta. Buồn sầu, sợ hãi, yêu thương và Tin Mừng bùng vỡ đều để lại dấu ấn rất sâu sắc trong tâm tư của anh ta. Yêu Chúa nhiều lắm! Xót thương Chúa nhiều lắm! Và quyết tâm truyền giáo cũng lớn lắm! Chính vì thế, anh ta không ở Giêrusalem để níu váy mẹ, mà luôn luôn có mặt bên cạnh ông Barnaba để đôn đốc mọi người loan báo Tin Mừng. Gian truân và thử thách nhiều lắm, anh ta vẫn đứng vững không lùi bước. Cũng chính vì vậy, anh ta sẵn sàng theo Anh trên tuyến truyền giáo I. Anh ngồi tàu buồm vượt 370 dặm trùng dương, anh ta cũng ngồi ở đấy. Anh lội bộ hơn 120 dặm từ Xalamin đến Paphô, anh ta có kém cạnh gì Anh đâu. Anh say sóng, anh ta cũng say sóng. Anh vã mồ hôi, anh ta cũng vã mồ hôi...
Thế rồi, bỗng dưng anh ta lại đánh bài chuồn ở Pẹcghê: đáp tàu về Giêrusalem, quên hết tình bạn, quên hết sứ mạng truyền giáo. Tại sao vậy?
Lực bất tòng tâm. Lúc ấy anh ta mới được chừng hai mươi lăm tuổi. Sức khỏe thì tuyệt vời, nhưng kinh nghiệm ở đời, thì vẫn chưa bằng ai. Biết nhìn xa, nhưng chưa thấy rộng. Sống bằng mơ mộng nhiều hơn bằng kinh nghiệm thực tế.
Con nhà giàu ăn sung mặc sướng, không quen chịu gian khổ. Khổ vừa vừa thì vượt qua. Khổ quá thì lùi bước. Đi bộ từ Xalamin đến Paphô anh ta chịu cực được, vì đường dài nhưng an ninh bảo đảm. Còn đường từ Pẹcghê đi Antiôkia tuy ngắn hơn mười ba dặm, nhưng đường đi vừa phải lội suối vừa phải trèo đèo, nhất là có cướp đường thường xuyên, nên anh ta không đủ can đảm để tiến bước. Đành phải chuồn thôi. Gặp khó mà lùi bước, thì không xứng đáng là đấng nam nhi. Nhưng lùi bước trong hoàn cảnh ấy, thì đáng thương hơn là đáng khinh.
Máccô là người có tâm huyết, quyết tâm làm điều tốt. Yếu đuối là bước lùi để tiến lên. Máccô ngày mai không giống hôm nay. Máccô năm nay và bốn năm sau khác nhau vời vợi. Từ yếu đuối và hèn nhát, anh ta vượt lên để trở thành người đội đá vá trời xanh. Không thấy Máccô như thế, thì không thể đánh giá anh ta một cách công bằng và chính xác được.
3. Sau khi nhìn ngắm, phân tích chân dung của ông Barnaba và anh Máccô, tôi xin được nhìn ngắm và phân tích chân dung của chính Anh. Xin Anh bình tĩnh theo dõi công việc của tôi.
Anh là người có chí lớn, lớn hơn cả non cao. Đã bắt tay vào việc, thì đem hết khả năng ra để đi tới bất chấp khó khăn. Chính vì thế khi bắt đạo, thì bắt một cách tàn nhẫn. Bắt trói đàn ông, bắt trói cả đàn bà. Ghê quá! Nhớ lại chuyện Anh bắt đạo, tôi vẫn còn rùng mình. Chính Chúa cũng đã phải dằn mặt Anh: “Khốn cho ngươi, vì ngươi dám giơ chân đạp lên mũi nhọn”.
Anh đã hăng say bắt đạo, bây giờ lại hăng say truyền đạo. Truyền đạo hăng say hơn bắt đạo. Hăng say để đền tội. Hăng say để đền ơn đáp nghĩa.
Anh là mẫu người hăng say làm việc. Người hăng say làm việc rất ghét người lười và không ưa người phản ứng chậm.
Tôi tạm gọi Máccô là mẫu người lười và ngại gian khổ. Nhưng anh ta lười không phải vì bản chất, mà vì ảnh hưởng của nền giáo dục nhung lụa. Hậu quả của nền giáo dục ấy được thể hiện rõ nét khi anh ta đào nhiệm ở Pẹcghê mà về với mẹ. Phải chi Anh hiểu được điều đó, thì Anh sẽ nhẫn nại chờ đợi Máccô thay đổi tính tình theo đường lối giáo dục tiệm tiến của Thầy Giêsu: “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ”. Ban đầu môn đệ của Thầy không biết ăn chay, không biết cầu nguyện. Nhưng cứ từ từ, rồi cũng sẽ đâu vào đấy.
Còn ông Barnaba là mẫu người trầm tĩnh, chín chắn, nhưng phản ứng chậm. Anh và ông ấy cứ làm khổ lẫn nhau.
Anh khổ vì thấy ông ấy chậm quá. Ông ấy khổ vì thấy Anh nhanh quá. Hai cái khổ ấy cứ chồng chất lên trong suốt bốn năm trời. Anh nóng nảy, nhưng nóng xong thì nguội. Ông ấy nguội nhưng nguội âm ỉ. Anh khổ nhiều, nhưng đến chiều là quên hết. Ông ấy khổ ít nhưng không quên được.
Anh Phaolô ơi! Nếu Anh biết người và biết ta, thì Anh không nỡ tâm nặng lời với Máccô và không nổi nóng với ông Barnaba tại Antiôkia như thế. Tôi không bênh ông Barnaba đâu, nhưng tôi cũng không thể bênh Anh được. Cả hai bên đều có lỗi, nhưng Anh là thủ trưởng, thì trách nhiệm vẫn phải quy về Anh. Tôi vẫn thương Anh lắm, nhưng tôi không thể tha thứ cho Anh được. Mong Anh đền tội và xin lỗi cả ông Barnaba lẫn anh Máccô. Tôi xin thành thật hỏi Anh: “Sự cố Anh và ông Barnaba chia tay nhau ở Antiôkia, thì Đức Giêsu được gì và mất gì?”
Tôi vẫn yêu Anh và quý Anh. Chúc Anh thành công trên tuyến truyền giáo II này.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Anh đã hoàn tất hành trình truyền giáo I. Bây giờ Anh đang ở Antiôkia, xứ Xilixia để tạm nghỉ PiôHậu 118
Anh đã hoàn tất hành trình truyền giáo I. Bây giờ Anh đang ở Antiôkia, xứ Xilixia để tạm nghỉ xả hơi. Còn tôi thì đang ở Antiôkia, xứ Pixiđia để vùi đầu vào công việc đo lường, đong đếm và định giá công tác truyền giáo của Anh.
Anh chỉ đau đáu nhìn về phía trước, nơi Tin Mừng chưa được loan báo. Anh không còn thời giờ để nhìn về phía sau, nơi Anh đã gieo hạt giống Tin Mừng bằng mồ hôi, nước mắt và máu đào. Anh chỉ thích lao động, công xá thì lờ đi.
Còn tôi thì ngược lại: tài năng và thiện chí thì thua Anh, nên đành quay về quá khứ, ôn lại sự nghiệp của Anh, để bới tìm những bài học quý giá. Sau đây là những điều tôi ghi nhận được về cuộc hành trình truyền giáo I của Anh. Vì thương mến Anh mà tôi đã khổ công làm việc này. Xin Anh vì thương tôi mà chịu khó đọc lá thư này. Đọc chậm và ngẫm nghĩ. Đừng vứt vào xọt rác, rồi giậm chân, đứng phắt dậy, nhìn về xa xăm, miệng lẩm bẩm: “Chuyện tầm phào!”. Nhớ nhé!
1. Tổng kết hành trình truyền giáo I của Phaolô:
Hành trình trên biển: 371 dặm (550 km)
Hành trình trên bộ: 381 dặm (563 km)
Số giáo điểm được thành lập: 8
Thời gian hoạt động: 4 năm
Thời gian ở mỗi giáo điểm: 6 tháng
Rao giảng và tranh luận vào các ngày Sabát: > 188 lần
Thắng về lý luận: trăm trận, trăm thắng
Thua thắng về tình cảm: 50 – 50
Gian lao: chồng chất
Đoàn truyền giáo khi đi: 3 người
Đoàn truyền giáo khi về: 2 người
2. Những kỷ niệm đáng ghi nhớ:
Kỷ niệm một: Đoàn truyền giáo của Anh vừa tới Paphô, thì dư luận quần chúng đã bắt đầu sôi nổi rồi. Người ta muốn nhìn tận mắt tên Saolô phá đạo. Người thông thạo tin tức, thì muốn nhìn mặt ông Saolô mới trở lại và đang đi loan báo Tin Mừng. Ngày Sabát đầu tiên, Anh đến hội đường Do Thái rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Anh dẫn chứng Thánh Kinh rành rẽ không hở một kẽ. Người có thiện chí thì cúi đầu xin tin và xin chịu phép rửa. Bọn Do Thái cực đoan thì cắn răng chịu thua. Uy tín của Anh vang dội tới tận dinh ông thống đốc của đảo. Ông cho thuộc hạ mời Anh đến giảng tại nhà ông.
Êlyma, một tên phù thủy đang có uy tín với ông thống đốc, tìm mọi cách để không cho Anh gặp ông ấy. Anh trợn mắt lên, một tay chống nạnh, một tay chỉ thẳng vào mặt hắn, tuyên bố như sấm nổ: “Mi, tên lưu manh và xảo trá! Mi, con cái của ma quỷ và kẻ thù của sự công chính. Mi dám bẻ cong con đường ngay thẳng của Thiên Chúa sao? Quyền phép của Chúa sẽ giáng trên mi. Mi sẽ bị đui không thấy ánh sáng một thời gian”. Tên phù thủy bỗng hét lên “Ơ…ơ...”, giơ tay lần mò đi tìm người dắt…
Thấy thế, ông thống đốc quỳ gối, cúi đầu, hai tay đặt chéo trước ngực, miệng thì thầm: “Tôi xin tin. Xin cho tôi được làm con Chúa”. Mọi người có mặt đều quỳ gối tuyên xưng đức tin. Anh và ông Barnaba chạy đến ôm lấy ông thống đốc. Cảm động quá chừng!
Đây là kỷ niệm đẹp nhất trong đời truyền giáo của Anh. Từ hôm ấy, Anh đổi tên Saolô thành Phaolô, tên của ông thống đốc. Anh hãnh diện, Anh sung sướng mang cái tên Phaolô ấy như thế nào, thì tôi đã nói trong lá thư trước. Xin tạm ngưng ở đấy để chuyển sang kỷ niệm hai.
Kỷ niệm hai: Anh ở lại Paphô một thời gian khá dài. Anh đón nhận thêm nhiều tín đồ, củng cố đức tin của họ và chọn một số người thừa kế. Dù tình cảm rất lê thê, Anh vẫn giã từ giáo đoàn để tiếp tục cuộc hành trình truyền giáo. Người ở lại khóc như mưa. Người ra đi nghiến răng để giọt lệ yếu đuối không rơi.
Các Anh đáp tàu đi Áttalia, một chặng hải trình dài 121 dặm (180 km). Từ Áttalia các anh lội bộ lên Pẹcghê. Đoạn đường ngắn tũn, đi từ sáng đến trưa là tới. 12 dặm (18 km) đối với Anh chỉ là chuyện trẻ con. Thân xác Anh thì ở Pẹcghê, nhưng lòng trí của Anh thì đang bay phất phới trên nền trời Antiôkia. Giờ ăn cơm, hay giờ giải lao, Anh chỉ bàn kế hoạch đi Antiôkia.
Từ Pẹcghê lên Antiôkia phải đi bộ 108 dặm (160km). Nếu là đường bằng phẳng và nhẵn nhụi, thì chỉ đi bốn ngày là tới. Nhưng tuyến đường này nhà nước chưa làm xong. Còn nhiều khúc phải lội suối, trèo đèo. Đặc biệt là an ninh chưa được bảo đảm. Nhiều bộ lạc địa phương còn cướp giật hành khách.
Cứ nhắc đến Antiôkia thì mắt Anh sáng lên, còn mặt Anh chàng Gioan Máccô thì sụ xuống. Hắn là cháu gọi ông Barnaba là cậu ruột và là con cưng của bà Maria, đại gia ở Giêrusalem. Gia đình hắn là bạn thân của Thầy. Chính Thầy đã chọn tòa nhà của mẹ hắn làm nơi mừng lễ Vược Qua cuối cùng. Hắn biết rất nhiều về Thầy. Hắn yêu mến Thầy cũng như chúng ta. Hắn cũng tha thiết loan báo Tin Mừng cho lương dân. Nhưng vì là con nhà giàu, ăn trắng mặc trơn, nên không quen chịu cực. Hắn sợ trèo đèo. Hắn hãi lội suối. Hắn sợ dầm mưa, dãi nắng. Khi nói đến bọn cướp giật dọc đường, thì hắn le lưỡi, lắc đầu và chắp tay xá lia lịa.
Khi Anh đang dọn đồ để lên đường đi Antiôkia, thì hắn cũng gói ghém vàng bạc, để bao xe ngựa xuôi về bến cảng Áttalia. Hắn lầm lì. Hắn hờn dỗi, không thèm nói một câu nào với Anh. Còn Anh thì vừa giận, vừa nóng nảy, ném vào mặt hắn một câu cộc lốc: “Đồ hèn!” Thế là xong. Hắn thì về Giêrusalem để ôn lại cuộc đời nhung lụa. Còn Anh và ông Barnaba tiếp tục con đường loan báo Tin Mừng, thấm đẫm mồ hôi và nước mắt.
Khi viết đến đây, tôi thấy xuất hiện trên bộ não của tôi hình ảnh hai người bộ hành đi song song bên nhau. Một ông già, một ông trẻ; ông già thì tủi buồn không dám nói, ông trẻ thì bực tức không thèm nói. Hai người có chung một lý tưởng rất cao, nhưng cá tính thì chẳng giống nhau một tí nào. Ông già thì hiền từ và nhẫn nhục, lúc nào cũng chủ trương “Dĩ hòa vi quý”. Ông trẻ thì cứ ào ào đi tới, cứ đạp lên chướng ngại vật mà đi, không sợ chửi, không sợ ghét.
Anh Phaolô thương mến, tôi linh cảm rằng cặp đôi truyền giáo này sẽ có ngày tan rã. Nguyên nhân từ phía nào, thì tôi không dám quyết đoán. Tôi chỉ năn nỉ van xin Anh một điều là đừng bao giờ làm buồn lòng ông Barnaba. Ông xứng đáng là bố của Anh. Ông đã được toàn thể giáo đoàn Giêrusalem kính mến. Dân chúng ở Lýtra đánh giá ông ấy là thần Giupite. Còn Anh thì chỉ được coi như là thần Hécmét, phát ngôn viên của Giupite mà thôi. Anh cứ nhiệt thành loan báo Tin Mừng. Nhưng xin Anh bớt nóng nảy một chút, để tôi được yên tâm hai ba chút.
Kỷ niệm ba: Antiôkia là giáo điểm quan trọng nhất của Anh trong tuyến truyền giáo I. Anh ở đó lâu nhất. Ở đó có nhiều người theo đạo của Chúa nhất. Nhưng ở đó bọn Do Thái cực đoan cũng chống Anh mạnh nhất. Nhưng kỷ niệm đau thương nhất không xảy ra ở Antiôkia mà là ở Lýtra.
Tại Lýtra Anh cho một người liệt chân bỗng ngoe nguẩy chạy nhảy như một người bình thường. Thế là dân chúng Lýtra tưởng Anh và Barnaba là những vị thần giáng thế. Họ dắt bò đến để làm lễ tế thần. Họ gọi ông Barnaba là thần Dớt, thần cao cả nhất. Còn Anh, họ gọi là thần Hécmét, thần phát ngôn viên của thần Dớt. Anh và ông Barnaba phải toát mồ hôi để thanh minh với họ rằng các anh chỉ là người phàm mà thôi.
Sau khi quần chúng tôn các anh lên hàng thần thánh thì họ lại đè các anh xuống làm quỷ sứ. Họ tung diều lên đón gió, rồi cắt dây diều để diều rơi xuống gãy nát tan tành. Số là bọn Do Thái cực đoan từ Antiôkia và Iconium tới xúi giục dân chống lại Anh. Thế là họ ném đá Anh. Thấy Anh chết rồi, thì lôi xác Anh ra bỏ trên đống rác ngoại thành. Đời của Anh đến đây kể như đã kết thúc. Ai ngờ…
Ông Barnaba và các tân tín đồ ra đống rác ngoại thành để tìm xác Anh, mà lo mai táng. Thấy toàn là người của mình, Anh ngồi dậy, làm mọi người ngẩn ngơ, tưởng mình đang mơ. Mừng quá họ dìu Anh vào thành. Ngày hôm sau họ tiễn Anh và ông Barnaba xuống Đẹcbê.
Anh Phaolô rất thân mến.
Viết đến đây, tôi cảm động đến rơi lệ, rơi cả cây bút. Tôi ngồi yên lặng một mình. Thương Anh quá chừng! Vì Tin Mừng mà Anh phải lên voi xuống chó. Vì Tin Mừng mà Anh bị ném đá đến chết. Dù chưa chết, thì cũng như chết. Khổ đến thế là cùng …
Sau khi Anh đã bình phục và tiếp tục làm việc ở Đẹcbê, tôi bớt xúc động. Sau khi Anh đã về đến Antiôkia xứ Xilixia bình an vô sự, thì tôi bắt đầu lạc quan và có vài suy nghĩ về sự cố này.
1. Tại sao hai nhà truyền giáo cùng làm việc bên nhau như bóng với hình, thế mà chỉ có một người bị ném đá còn người kia thì bình an vô sự?
Anh Phaolô rất thân mến. Tôi không cố ý đề cao ông Barnaba và hạ thấp Anh đâu. Nhiệt tâm truyền giáo và sự nghiệp loan báo Tin Mừng của Anh thì cao như núi. Cái giá mà Anh phải trả cho Tin Mừng là mồ hôi, nước mắt và máu đào, thì chưa vị tông đồ nào qua mặt Anh được. Nhưng với tư cách là một người hâm mộ Anh, không muốn thấy Anh bị đày đọa quá đáng như vậy, tôi xin mạn phép được góp ý với Anh . Xin Anh cứ nhiệt tâm truyền giáo như thế và hơn thế.
Xin Anh cứ can đảm chịu khổ vì Thầy như thế và hơn thế.
Nhưng xin Anh giảm nhiệt cho cặp mắt mỗi khi Anh tranh luận với bọn quá khích. Anh cứ thắng, nhưng đừng để cho đối phương phải thua một cách quá nhục nhã. Cho họ thua trong danh dự, để tránh hậu họa Anh ạ.
Giọng nói của Anh chát chúa như chém đinh chặt sắt. Xin Anh hạ thấp giọng xuống một tí, nói chậm rãi rỉ rả hơn một tí. Một giọt mật bắt được nhiều ruồi hơn một thùng dấm Anh ạ.
2. Một người bị ném đá đến chết, rồi xác bị lôi bê bê ra ngoài thành, vứt vào đống rác … Thế mà lại ngồi dậy, đi vào thành. Ngày hôm sau lại xuống Đẹcbê. Chả biết đi bộ hay cưỡi ngựa. Nhưng dù đi ngựa cũng phải mất một ngày đường. Lộ trình không dưới 25 dặm (37 km). Một người bị ném đá như thế, mà vẫn còn khỏe như thế sao? Không phải một người ném đá, mà là một tập thể ném. Biết bao nhiêu hòn đá bay mà không có hòn đá nào đánh trúng đầu sao? Một hòn đá trúng đầu, thì đầu phải vỡ. Vỡ đầu thì phải chết ngay chứ.
Anh Phaolô ơi! Anh thoát chết, thì tôi mừng lắm. Nhưng tôi muốn hỏi: tại sao Anh lại thoát chết trong một hoàn cảnh lạ lùng như thế? Đó là một phép lạ? Hay đó là một trò ảo thuật, mà Anh là người trình diễn đại tài? Tôi cứ phải suy nghĩ mãi. Cuối cùng vẫn phải kết luận rằng: Anh là một người có nhiều tài từ tài lớn đến tài vặt. Anh là người có khả năng lật thế cờ 180 độ. Anh lật thế cờ ra sao, thì chỉ có Anh và Chúa biết mà thôi.
Thân mến chào Anh. Chắp tay bái phục Anh.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Bố Anh đặt tên cho Anh là Xaolô. Anh hãnh diện mang tên ấy ròng rã suốt một nửa thế kỷ. Bỗng PiôHậu 119
Bố Anh đặt tên cho Anh là Xaolô. Anh hãnh diện mang tên ấy ròng rã suốt một nửa thế kỷ. Bỗng chốc Anh đổi tên là Phaolô. Phaolô là tên của bọn đế quốc La Mã, chỉ nghe cách phát âm thôi cũng đủ để ngứa lỗ tai rồi. Thế mà Anh lại trìu mến nó, ôm nó trong lòng, ủ ấp nó như người mẹ ủ ấp bé thơ. Ai lỡ miệng gọi Anh là Xaolô, thì Anh làm ngơ như không nghe, như không biết. Thái độ quyết liệt của Anh bắt tôi phải suy nghĩ, suy nghĩ triền miên.
Suy nghĩ mãi thì phải vỡ lẽ. Lẽ là thế này:
1. Dòng máu của Anh là dòng máu Pharisêu: kiêu ngạo và cực đoan. Ái quốc cực đoan. Yêu Giêsu cũng cực đoan. Vì thế Anh mới bắt bớ đệ tử của Đức Giêsu một cách tàn nhẫn cực kỳ.
Đã kiêu ngạo và cực đoan thì phải chấp nhận sự đổ vỡ và tan hoang. Lịch sử vẫn khẳng định như thế. Vì kiêu ngạo và cực đoan, tên khổng lồ Gôliát đã gục ngã dưới chân thằng chăn cừu còn đang ở tuổi vô ăn vô lo. Cũng vì kiêu ngạo và cực đoan, Anh đã bị con ngựa trung thành hất xuống đất, đui hai con mắt, chẳng biết phương hướng nào mà đào tẩu. Đành phải chắp tay đầu hàng, khấu đầu thân thưa: “Lạy Ngài, con phải làm gì bây giờ?”.
Sự cố Đamát không nghiền nát Anh thành tro bụi nhưng đã xoay Anh một nửa vòng tròn, dìu Anh vào con đường khiêm tốn và yêu thương. Ba năm trời sống ẩn dật ở Tácxô, Anh thấy Đức Giêsu nhãn tiền. Anh thấy Ngài yêu thương người ngoại quá chừng. Anh yêu Đức Giêsu hết mình, để đền bù những năm tháng truy nã Ngài. Anh yêu người ngoại hết mình, để chứng minh mình đã yêu Đức Giêsu đến tận ngọn nguồn rồi.
2. Anh đang sống âm thầm lặng lẽ ở Tâscxô, thì bỗng Anh giật mình đến thót tim. Đó là ông Barnaba từ bến cảng đi lên, đứng lừng lững trước cổng nhà Anh. Hai người trợn mắt nhìn nhau, rồi ôm ghì lấy nhau…
Ông Barnaba kể chuyện về giáo đoàn Giêrusalem cho Anh nghe. Người kể thì rất bình tĩnh, giọng nói rỉ rả. Người nghe thì khóc hù hụ, nước mắt dầm dề. Khóc vì hối hận, khóc vì thương xót. Chiến dịch truy nã của Anh làm giáo đoàn Giêrusalem tan tác như xác pháo. Sau sự cố Đamát, anh em tín hữu từ khắp nơi lần mò trở về, làm lại cuộc đời. Cuộc đời làm lại chưa xong, thì vua Hêrođê lại ra tay bắt bớ. Hai cái đầu của ông Phêrô và của ông Giacôbê đang như hai quả trứng để đầu gậy. Thương quá là thương! Cay đắng ngàn trùng!
Kể hết chuyện buồn ở Giêrusalem, ông Barnaba chuyển sang kể chuyện vui ở Antiôkia. Tin Mừng đang bùng vỡ ở đây. Đặc biệt là người ngoại đạo ồ ạt theo đạo Kitô. Nghe tin người ngoại đang ồ ạt theo đạo, Anh nhảy nhổm lên, dang tay thẳng băng, ngước mắt nhìn trời, cười ha hả … Sướng quá! Sáng hôm sau Anh giã từ bố mẹ, không hẹn ngày tái ngộ. Ông Barnaba và Anh vui vẻ đi ra bến cảng, vừa đi vừa nói chuyện tíu tít, y như hai con chim sẻ vui vẻ chào bình minh.
3. Về tới Antiôkia, hai anh em bắt tay vào việc ngay. Anh say mê kể chuyện Đức Giêsu yêu người ngoại. Yêu đến mức độ đề cao người ngoại hơn cả người Do Thái. Yêu đến mức độ cho người ngoại đóng vai lý tưởng trong một dụ ngôn, rồi nói với ông kinh sư rằng: “Ông hãy về và làm như thế”. Người ngoại được đề cao, cao vời vợi. Người không cắt bì được bốc thơm, thơm ngào ngạt.
Giáo đoàn Antiôkia đang lớn lên như diều gặp gió, thì bỗng khựng lại. Tại sao vậy? Tại cái luật cắt bì. Lớp người ngoại đầu tiên, vì quá hăng say theo đạo, nên quên xấu hổ, khi phải moi “cái ấy” ra cho người ta cắt bỏ lớp da bọc quy đầu. Lòng hăng say nhập đạo chỉ giảm đi một tí, thì cái xấu hổ lớn lên vù vù. Lớn quá đến mức phải thốt lên: “Eo ôi! Lớn cồ cồ ra rồi mà vẫn phải phơi “ấy” ra như trẻ con sao? Yêu Chúa thì vẫn yêu, nhưng “ấy” thì không dám đâu”.
Thấy phong trào trở lại đang như bùng vỡ, bỗng khựng lại, chỉ vì cái miếng da bọc quy đầu, Anh nổi khùng lên và tuyên bố như điên: “Cắt bì hay không cắt bì, thì Đức Giêsu được cái gì?”.
Anh đấu tranh quyết liệt, để người ngoại trở lại mà không bị cắt bì, không phải giữ luật Môsê. Cả tâm lẫn tư của Anh đều hướng hết về người ngoại. Người ngoại dễ thương và dễ mến vô cùng! Anh muốn hiến cả cuộc đời Anh cho người ngoại!
Phong trào người ngoại nhập đạo lại bùng lên như trước và còn hơn trước nữa. Những người bảo thủ bắt người ngoại đạo phải cắt bì trước khi được thanh tẩy, bây giờ đều gục mặt xuống, hối tiếc quá chừng. Ai nấy đều thấy người ngoại đạo ở khắp nơi chưa được nghe loan báo Tin Mừng. Đó là một thực tế đang làm lương tâm Kitô hữu ở Antiôkia bứt rứt khôn nguôi…
4. Bỗng có một ngày đẹp trời: ai nấy đều có một cảm nghĩ như nhau, bức xúc như nhau. Mọi người đều nhất loạt đề cử Anh và ông Barnaba đem Tin Mừng đến cho người ngoại đang sống đông đúc trên khắp vùng Tiểu Á. Tin này được loan đi đến mọi nhà. Nhà nhà cầu nguyện. Người người quyên góp vàng bạc. Các niên trưởng, các giảng viên giáo lý đặt tay chúc lành cho Anh, cho ông Barnaba và cho Gioan Máccô, cháu gọi ông Barnaba bằng cậu. Các đại gia đua nhau tặng quà. Các bà mệnh phụ đua nhau nhét tiền vào túi các anh. Cảm động quá chừng! Ai nấy đều phấn khởi, nhưng vẫn không khỏi ngậm ngùi và rơi lệ!
5. Con tàu rời bến Xêlêukia. Hằng trăm cánh tay vẫy chào. Hằng trăm con tim co thắt. Thương nhớ vô vàn! Ai nấy đều thấy rằng Anh được Thánh Thần dẫn đưa. Anh đang mở màn cho một thế kỷ loan báo Tin Mừng. Tin Mừng đang cùng Anh đi đến tận cùng thế giới. Phấn khởi vô cùng!
Hành khách nào rời bến cũng ngong ngóng ngày trở về. Còn Anh thì chỉ ngong ngóng chờ ngày cập bến mới. Anh chỉ muốn đi mãi, đi mãi vào tương lai, đi mãi vào chân trời xa tắp tít. Đó là nguyện vọng của Thầy. Đó là lời trăng trối nóng bỏng của Thầy. Ôi Tin Mừng và không gian vô tận!
Sau một ngày cánh buồm căng phồng vì no gió, vượt qua một hải trình dài 189 dặm (280 km), con tàu ghé cảng Xalamin, cảng cực Đông của đảo Síp. Ông Bạcnaba thở phào nhẹ nhõm. Síp là quê hương thứ hai của ông. Nhờ ông thổ địa Bạcnaba, Anh tiếp xúc được với mọi hội đường Do Thái, Anh tranh luận được với mọi ông Kinh Sư. Anh dẫn chứng Ngôn Sứ, Anh trích dẫn Thánh Vịnh… để minh chứng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Không ai phản bác được Anh.
Anh cứ tưởng Tin Mừng sắp bùng vỡ như ở Antiôkia. Ai ngờ … Anh chỉ mở được cái TRÍ của họ, còn cái TÂM của họ thì vẫn kín như bưng. Số người xin chịu phép rửa chỉ lác đác như những tép lúa thợ gặt bỏ sót ở ngoài đồng. Anh buồn, Anh giận, Anh thất vọng. Anh muốn quên kiều bào Do Thái để hướng đến dân ngoại. Anh từ giã Xalamin, mở cuộc hành trình dài 121 dặm (180 km) xuyên qua đảo Síp, từ cực đông sang cực tây. Anh dừng chân ở Paphô và để lại ở đây một kỷ niệm không bao giờ quên…
6. Vừa đặt chân lên Paphô, Anh đụng đầu ngay với một kiều bào Do Thái. Hắn là phù thủy và tự xưng là ngôn sứ. Hắn là đối thủ của Anh và quyết tâm không cho Anh gặp mặt ông thống đốc của hải đảo. Nhưng Anh không phải là một tay vừa. Anh nguyền rủa hắn, bắt hắn phải đui một thời gian. Thế là hắn bị đui thật. Nhờ đó ông thống đốc tin và theo đạo. Tên ông ta là Xécghiô Phaolô. Anh mừng quá, hứng quá, bèn bỏ tên Xaolô để mang tên là Phaolô.
Tên Phaolô trở thành mốc lịch sử của đời Anh. Tôi xin ghi nhận và không bao giờ dám quên.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc
Tôi đang sở hữu một số thông tin nóng bỏng về Anh. Tôi biết Anh đã giã từ Tacxô để đến Antiôkia PiôHậu 120
Tôi đang sở hữu một số thông tin nóng bỏng về Anh. Tôi biết Anh đã giã từ Tacxô để đến Antiôkia. Hơn ba năm nghiên cứu và cầu nguyện ở Tacxô, Anh đã có một hành trang dầy cộm để đi vào đời sống hoạt động ở Antiôkia. Tôi viết lá thư này cho Anh để cùng Anh ôn lại những kỷ niệm thân thương về Tacxô. Sau đó cùng Anh suy nghĩ về công tác loan báo Tin Mừng mà Antiôkia mới chỉ là điểm nhấn của Anh mà thôi.
1. Tacxô và quá khứ
Thầy chúng ta cất tiếng khóc chào đời tại Bêlem, cách xa Nadarét thân yêu bốn ngày đi bộ. Còn Anh thì sau đó chừng tám năm, Anh mở mắt nhìn đời tại Tacxô, nơi đất khách quê người. Bố Anh là người Ítraen chân chính cứ ân hận mãi về điều đó. Vì miếng cơm manh áo mà phải lăn lộn giữa những người không cắt bì. Vì tương lai của con cái mà cứ phải mắc uế từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm nọ.
Vào nhà người ngoại: mắc uế. Giao dịch với người ngoại: mắc uế. Mượn con dao cái thớt của người ngoại: mắc uế … Mắc uế thì hằng năm có thể hành hương về Giêrusalem để dâng lễ đền tội và xin làm lễ thanh tẩy. Nhưng con cái của mình lớn lên giữa bọn trẻ không cắt bì, thì liệu chúng nó có còn giữ được truyền thống của cha ông hay không. Ray rứt quá chừng! Đau khổ khôn nguôi! …
Khi thấy Anh đã trưởng thành, nghĩa là biết đọc Thánh Kinh bằng tiếng Hybalai ở nguyện đường và biết giao dịch với thương buôn ở bến cảng, thì bố Anh cho Anh về thủ đô Giêrusalem thụ giáo với tôn sư Gamalien. Xa con thì nhớ, nhưng yên tâm vô cùng!
Nhưng đùng một cái, lại nghe tin Anh bỏ học để đi bắt bớ tín đồ của một tôn giáo mới. Bắt trói đàn ông, bắt trói cả đàn bà. Giam cầm và đánh đập. Kẻ thì khen, người thì chê. Bố Anh bứt tóc giật râu, mất ăn mất ngủ.
Và … đùng một cái, lại nghe tin Anh bị mù ba ngày ở Đamát, vì bị thần thánh nào đó trừng phạt, quật ngã trước cổng thành Đamát. Lại có tin báo là Anh đã theo “đạo ông Giêsu” và bị đồng bào truy nã đến độ phải ngồi trong thúng trốn ra khỏi tường thành. Toàn tin buồn. Toàn tin dữ…
Buồn khổ mãi cho đến ngày Anh mò về Tacxô. Cha con ôm lấy nhau, khóc như mưa, chẳng nói được lời nào. Mừng quá!
Bố con sống bên nhau hơn ba năm trời. Rất gần mà cũng rất xa. Thấy nhau thì nhiều, mà nói chuyện với nhau thì rất ít. Anh thì vùi đầu vào cuốn Thánh Kinh và say mê cầu nguyện. Đọc Thánh Kinh thì lấy ngón tay rà rà từng chữ. Ai gọi cũng chẳng thưa. Ai hỏi cũng không trả lời. Cầu nguyện thì như xuất thần. Bố Anh chẳng dám lên tiếng. Chỉ đứng lặng mà nhìn. Ngày tháng cứ thế mà trôi đi…
Bỗng bố Anh nổi hứng. Bữa cơm tối hôm ấy ông cười nhiều và nói nhiều. Ông nhìn hai mu bàn tay: da đồi mồi phủ kín. Ông thèm có một thằng cháu nội thông minh và tháo vát như Anh, nhưng … không cứng đầu như Anh. Ông cười xởi lởi:
- Xaolô ơi, năm nay con đã gần bốn mươi tuổi rồi đấy.
- Bố muốn nhắc khéo con… phải không? - Chứ sao! - Thế bố đã tìm được con dâu lý tưởng chưa?
- Thì bố đã giới thiệu với con rồi đấy. Con thấy nó thế nào?
- Đẹp tuyệt vời! Cho mười điểm cộng.
- Như vậy là con đồng ý lấy nó rồi phải không?
- Không! Con chỉ khen thôi, chứ con không yêu.
- Thế thì mày yêu con nào?
- Con chỉ yêu một mình Đức Giêsu và từ nay đến chết con chỉ rao giảng một mình Người mà thôi. - !!!
2. Antiôkia và tương lai:
Anh Xaolô rất thân mến của tôi ơi! Ông Barnaba đã đích thân đến tận Tacxô để đưa Anh về Antiôkia. Antiôkia là một điểm truyền giáo rất sôi động, nhưng cũng rất phức tạp. Vì mến Anh, vì thương Anh, tôi muốn phân tích, tôi muốn góp ý với Anh, để đề phòng những bất trắc có thể xảy ra.
Người sáng lập giáo điểm Antiôkia là những nạn nhân của Anh. Họ đang làm ăn phát đạt ở Giêrusalem và ở xứ Giuđê, thì bùng nổ cuộc bắt bớ tàn bạo của Anh. Họ phải bỏ ruộng vườn và cơ sở kinh doanh để trốn ra nước ngoài. Họ đi đảo Síp, đảo Krét, thậm chí xuống tận Kyrênê hoặc lên tận Antiôkia. Cuối cùng thì đa số rủ nhau về Antiôkia. Họ rao giảng Đức Giêsu cho đồng bào Do Thái kiều ở đây. Ngoài việc loan báo Tin Mừng cho đồng bào Do Thái, họ lại nảy ra sáng kiến loan báo Tin Mừng cho giới không cắt bì. Người ngoại hưởng ứng và đua nhau theo đạo của Chúa.
Theo tôi nghĩ, thì đây là hiện tượng Tin Mừng bùng vỡ. Đáng mừng vô cùng! Nhưng do đâu mà ra? Trước hết phải thành thật mà nhận rằng Chúa Thánh Thần đã dùng chính cuộc bắt bớ tàn bạo của Anh, để làm ngòi nổ cho cuộc bùng vỡ Tin Mừng này. Vì Anh mà những thành phần ưu tú của Giáo Hội di tản và tập trung về đây. Họ là những hạt giống tốt bị giông bão cuốn đi. Đi đến nơi nào, thì nó cũng mọc lên thành cây. Một hạt thành một cây. Một nghìn hạt thành một rừng cây. Nói như thế để Anh khỏi bứt rứt khôn nguôi, mà ngược lại: cảm tạ Chúa không cùng…
Nhưng đằng sau niềm vui vẫn có nỗi lo. Lo vì cộng đoàn dân Chúa ở đây có tới ba thành phần khác nhau.
Một: những người bảo thủ. Họ bám cứng vào luật Môsê và đòi hỏi anh em tân tòng phải cắt bì, phải giữ luật Môsê, rồi mới được thanh tẩy để gia nhập cộng đoàn Kitô hữu. Bảo thủ là một hàng rào cản kiên cố trên đường loan báo Tin Mừng.
Số người bảo thủ ở Antiôkia chỉ là thiểu số. Nhưng họ có hậu thuẫn rất hùng hậu ở thủ đô Giêrusalem. Đó là các niên trưởng, mà người che dù cho họ là ông Giacôbê. Uy tín của ông Giacôbê thì cao như núi, rộng như biển.
Hai: những người tiến bộ. Những người này thường là những người đi đây đi đó nhiều. Họ thấy nhiều, nghĩ nhiều, tiếp xúc nhiều. Họ không câu nệ. Họ chỉ biết Đức Giêsu và chỉ nhận Người là bậc Thầy tối ưu. Môsê và các sứ ngôn cũng chỉ là học trò của Đức Giêsu mà thôi. Họ sẵn sàng bỏ luật Môsê, để mở đường cho người ngoại gia nhập đạo Kitô. Họ cũng sẵn sàng đón nhận tục lệ của dân ngoại, nếu những tục lệ ấy không nghịch với giáo huấn của Đức Giêsu.
Anh là một trong những người tiến bộ ấy. Đáng mừng cho Anh. Nhưng tôi vẫn phải khuyên Anh một lời. Anh cứ cởi mở đón nhận người ngoại mà không bắt họ phải cắt bì và giữ luật Môsê. Anh hãy can đảm giữ vững lập trường ấy. Nhưng đừng nóng nảy, đừng đốp chát những anh em bảo thủ. Nhiệt thành thì không ai bằng Anh. Nhưng nổi nóng rồi, thì không ai bạo mồm bằng Anh. Nhớ nhá. Thương Anh nhiều lắm, tôi mới nói như vậy đấy.
Ba: nhóm tân tòng gốc người ngoại. Những người này vì quá nhiệt thành, vì quá yêu Đức Giêsu, mà đã chấp nhận cho cắt bì. Họ khổ lắm đấy. Họ cũng xấu hổ lắm đấy. Họ cũng e ngại loan báo Tin Mừng cho bà con người ngoại của họ lắm đấy. Họ cũng bị người ngoại chế giễu nhiều lắm đấy. Xin Anh quan tâm đến họ thật nhiều. Anh hãy tranh đấu mãnh liệt để không còn người ngoại nào đem chuyện cắt bì ra mà chế giễu anh em tân tòng nữa. Đây là vấn đề lớn có tầm cỡ chiến lược đấy. Nói cho vui vậy thôi. Về vấn đề này Anh còn biết rành rẽ hơn tôi, bức xúc hơn tôi. Có khi Anh còn đi quá xa mà tôi phải lôi Anh trở lại nữa là khác. Nói đùa mà hóa thật đấy…
Anh Xaolô ơi! Còn một điều cuối cùng tôi muốn nói với Anh. Đó là Anh phải kính trọng và yêu mến ông Barnaba như bố thiêng liêng của Anh. Ông được tất cả mọi người trong cộng đoàn Giêrusalem yêu kính. Chính các niên trưởng ở thủ đô đặt cho ông cái biệt danh Barnaba ấy, vì ông có tài an ủi, khuyên lơn. Ai buồn mà gặp ông là hết buồn ngay. Ai giận nhau mà gặp ông là bắt tay làm hòa liền. Tên khai sinh của ông là Giuse. Nhưng người ta cứ gọi ông là Barnaba. Gọi riết rồi quên luôn cái tên Giuse kia.
Chính ông đã đem hết uy tín của mình ra để bảo lãnh cái lý lịch đen thui như mõm chó của Anh. Nếu không có ông Barnaba, thì Anh chưa nói chuyện được với các niên trưởng ở thủ đô đâu. Nói đến Xaolô, ai cũng lắc đầu hết. Anh nhớ chuyện ấy chứ.
Tôi xin kết thúc lá thư ở đây. Hẹn gặp trong lá thư sau.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu Nguồn: báo Công giáo và Dân tộc