Hôm nay thầy trò chúng con tập trung ở đây, cách xa quần chúng ồn ào, cách xa bọn tò mò PiôHậu 161
Hôm nay thầy trò chúng con tập trung ở đây, cách xa quần chúng ồn ào, cách xa bọn tò mò và xét nét. Con thì có nhiều giờ để cầu nguyện, còn môn đệ của con thì có nhiều giờ để ngủ. Họ nằm lăn lóc đây đó, quấn mền tròn vo như cái kén.
Con sẽ cầu nguyện với Cha suốt đêm nay. Xin Cha chọn cho con mười hai tông đồ, những người sẽ thừa kế sự nghiệp của con, khi con đã trở về với Cha.
Thần Khí của Cha đã thấm nhập vào tâm trí của con. Và con đã tuyển chọn mười hai tông đồ theo ý của Cha. Bây giờ nhìn lại danh sách nhóm mười hai, con cảm thấy ngỡ ngàng.
Dưới cái nhìn của loài người, thì việc tuyển chọn này có nhiều điều nghịch lý:
+ Simon – Phêrô, một con người chỉ có bề rộng mà thiếu bề sâu. Anh phản ứng mau lẹ nhưng thiếu chính xác, vì lý trí nhẹ hơn tình cảm. Anh không có lập trường vững chắc, nên hay thay đổi ý kiến. Khả năng của anh không phù hợp với vai trò lãnh đạo. Thế nhưng Cha đã dạy con phải đặt anh làm thủ lãnh. Ngay từ buổi sơ ngộ, con đã linh cảm được ý của Cha. Ngay từ hôm đó con đã cố ý đổi tên cho anh là Phêrô, vì anh sẽ là “đá tảng” của Giáo hội tương lai.
Theo thiển ý của con, thì vai trò lãnh đạo phải trao cho Natanaen, một người có tác phong đạo đức và biết nhận định về nhân tình thế thái. Anh đã nắm vững lịch sử của dân tộc này, nên đã cả quyết rằng Đấng Mêsia và ngay cả ngôn sứ không thể xuất thân từ Nadarét được. Đó là sự thật. Đó là kinh nghiệm của lịch sử dân tộc. Lý luận này của Natanaen đã làm Philíp cụt hứng, khi Philíp khoe với Natanaen:
– Đấng mà Môsê trong Lề Luật, cùng các tiên tri chép đến, chúng tôi đã gặp rồi: Đức Giêsu con ông Giuse, người làng Nadarét.
– Trời đất ơi! Từ Nadarét thì chẳng có điều gì tốt cả! – ?! … Thì anh đến mà xem.
Cũng theo thiển ý của con, nhân vật thứ hai có thể lãnh sứ mạng “đá tảng” này là Gioan. Anh là người vừa có tâm vừa có trí. Cả trí lẫn tâm đều sâu thăm thẳm. Với cái tâm ấy, anh thu hút được tình cảm của quần chúng. Với cái trí ấy, anh chinh phục được suy tư của mọi người. Thủ lãnh Gioan là tuyệt vời! Thủ lãnh Gioan chỉ có một nhược điểm là quá trẻ. Nhưng trẻ người, mà không non dạ. Vả lại thời gian sẽ cho anh tuổi tác.
+ Giuđa Ítcariốt, một tín đồ của thần tài không phù hợp với bất cứ một tôn giáo nào. Với anh ta, thì tiền là mục đích; tất cả đều là phương tiện… Anh ta còn là người phản trắc. Rồi đây anh ta sẽ coi con như món hàng để đổi chác. Con vẫn thương và lo cho anh ta, nhưng lại không muốn chọn anh ta làm tông đồ.
+ Giáo hội con thiết lập là Giáo hội phổ quát, nhưng Tôma lại là con người cục bộ. Anh thiếu hẳn xã hội tính: thích sống lủi thủi một mình; tự cho mình là đúng, là đủ. Đời là tương đối. Cha sáng tạo muôn loài và muôn người đều có khuyết điểm, để phải nương tựa vào nhau, hỗ trợ cho nhau và kính trọng nhau. Ai tự thấy mình là đủ, thì đã thiếu tất cả và sẽ thiếu mãi mãi. Ai tự cho mình là đúng, thì đã sai ngay từ nguyên tắc rồi. Sống là chấp nhận nhau, kính trọng nhau và dìu nhau đi tìm sự hoàn hảo. Tôma thiếu tất cả những đức tính ấy.
+ Simon là con người cực đoan. Anh gia nhập nhóm ái quốc quá khích. Lúc nào họ cũng muốn diệt kẻ thù. Gặp kẻ thù ở đâu thì đánh đấy, thua cũng đánh, đánh cho bõ ghét, đánh cho thỏa mãn lòng căm thù. Mẫu người này không phù hợp với giáo lý bao dung của con, lại càng không thể dung hòa được với sứ mạng mục tử. Mục tử mà không bao dung, thì chiên ngoan nghẹt thở, chiên lạc bị loại trừ. Chiên nào cũng khổ.
Cha kính mến,
Cha đã trao cho con mười hai tông đồ này. Đó là ý cha. Mà ý của Cha thì hoàn hảo và phải được thi hành. Con yêu thương họ như Cha yêu con. Con sẽ hiến mạng sống của con để cứu họ. Con tin rằng họ sẽ làm vui lòng Cha, trừ Giuđa, con người phản trắc mà ý mầu nhiệm của Cha đã tuyển chọn. Con gửi gắm tất cả nhóm mười hai này cho Cha. Xin Cha thánh hóa họ.
Hôm nay, một tiếng sét nổ làm rung chuyển cả thành Naim và vùng phụ cận. Bây giờ tiếng dội PiôHậu 162
Hôm nay, một tiếng sét nổ làm rung chuyển cả thành Naim và vùng phụ cận. Bây giờ tiếng dội vẫn còn đang rền rĩ…
Trời bắt đầu sang thu. Con rời trung tâm Caphácnaum đi dần về thủ đô Giêrusalem để mừng lễ Lều. Tới đây thì con gặp đám tang từ trong thành đi ra. Chỉ nhìn thoáng một cái thôi, qua bộ tang phục, người ta cũng có thể nhận định được đây là đám tang của một chàng thiếu niên, con trai duy nhất của một người đàn bà góa. Con xúc động vô cùng. Một ý chí mãnh liệt xâm chiếm toàn bộ tâm hồn và thể xác của con. Con ra lệnh cho đạo tỳ đứng lại. Tiếng khóc của đám đông bỗng im bặt, làm nổi bật lên tiếng gào thét của người mẹ bạc phước. Tiếng khóc của bà làm tan nát cõi lòng người.
- Chị ơi, thôi đừng khóc nữa!
- Hức… hức… Chị nấc lên vài tiếng, rồi im lặng và trố mắt nhìn. Ánh mắt của người bị hớp hồn.
Im lặng tuyệt đối. Im lặng của cõi chết.
Con đặt tay lên xác chết. Con muốn chuyền sức sống của con qua xác chết. Ý chí ấy mạnh như ý chí toàn năng của Cha. Bỗng con xuất thần.
- Này con, ngồi dậy.
Xác chết ngồi dậy, cục cựa để chui ra khỏi cái kén bằng vải bó cứng xung quanh mình. Đạo tỳ thảng thốt hạ chõng xuống. Xác chết kêu “mẹ” một tiếng. Người mẹ ôm chầm lấy con. Chị lại khóc gào lên. Tiếng khóc của người điên. Điên vì sung sướng.
Quần chúng chết trân trong giây lát, bây giờ lại nổi cơn lên. Họ vò đầu thằng bé. Họ bẻ cành lá và hoa dại bên đường tung đầy lên đầu nó. Họ nhảy cẫng lên và rước nó trở lại cổng thành, giống như rước một ông tướng chiến thắng trở về.
Bữa cơm hiu hắt của nhà hiếu đã biến thành đám tiệc liên hoan linh đình. Con rút lên sân thượng để tâm sự với Cha. Còn ở dưới kia, những người quá vui chưa chịu giải tán, đang tiếp tục “chén anh chén tôi” với đám đệ tử của con. Khi niềm vui quá lớn, thì thường ăn mừng quá trớn. Con đành nhắm mắt bỏ qua. Giáo dục tiệm tiến.
Suốt tuần lễ con bị cột chân ở đây. Khách thập phương ùn ùn kéo đến để nghe giảng. Không còn PiôHậu 163
Suốt tuần lễ con bị cột chân ở đây. Khách thập phương ùn ùn kéo đến để nghe giảng. Không còn thời giờ để nghỉ ngơi. Từ sáng đến chiều, từ chiều đến khuya, con mãi miết vẽ lại chân dung của Cha: Một người Cha nhân từ, chứ không phải một quan tòa chí công; một người say mê tha thứ, chứ không phải một người đam mê trừng phạt.
Quần chúng rất vui mừng được thấy đạo là một vòng tay ấp ủ và loại trừ nỗi sợ. Họ cảm thấy được giải phóng khỏi đường lối mục vụ “chủ tớ” của các luật sĩ.
Nhưng trong đám thính giả ồ ạt này, có một cụ già đạo mạo tỏ vẻ lo âu.
- Các ngôn sứ không nói như Thầy. Các luật sĩ không giảng như Thầy. Phải chăng Thầy rao giảng một tôn giáo mới?
- Các ngôn sứ, các luật sĩ và tôi đều vẽ chân dung của Giavê. Nếu ông thấy tôi vẽ khác, thì chỉ vì người con bao giờ cũng tả chân dung của Cha mình đúng hơn người hàng xóm láng giềng...
- Thầy ví von quá, tôi chưa hiểu.
- Ông sẽ hiểu, nếu ông đừng coi quá khứ là đủ.
Cha kính mến,
Hôm nay là ngày cuối cùng ở đây và chỉ có hôm nay con mới có thời giờ để tâm sự với chủ nhà. Chủ nhà là ông nội của người phục sinh.
- Mẹ nó là Xudanna, con dâu của tôi. Tội nghiệp nó. Chồng nó chết từ mười ba năm nay rồi. Lúc ấy nó mới mười tám tuổi. Còn con nó thì mới lên hai. Tôi bảo nó tái giá, nó nhất định không chịu. Nó muốn mãi mãi thuộc về gia đình nhà chồng. Vợ chồng tôi thương nó còn hơn con gái. Nó giống hệt nàng Rút , con dâu của bà Noêmi ngày xưa. Tội nghiệp nó còn trẻ quá, không biết có giữ mình được không?
- Một người đạo hạnh như thế, được yêu thương như thế và được Chúa ban hồng ân lớn lao như thế… thì ông đừng ngại. Nàng sẽ giữ mình được và còn làm được nhiều điều lớn lao hơn thế nữa.
- Ý nó muốn đi truyền giáo với Thầy.
Cha kính mến,
Con cảm tạ Cha vì hôm nay Cha đã ban cho con một mạnh thường quân và một nhà truyền giáo có nhiều uy tín. Chỉ thoáng nhìn ánh mắt của Xudanna thôi con đã hiểu tất cả thánh ý của Cha rồi. Xudanna sẽ là người nữ truyền giáo đầu tiên của con.
Lẽ ra giờ phút này con đang ở Ghêraxa để nghỉ xả hơi một thời gian. Caphácnaum ngạt thở quá PiôHậu 164
Lẽ ra giờ phút này con đang ở Ghêraxa để nghỉ xả hơi một thời gian. Caphácnaum ngạt thở quá rồi: quần chúng thì đeo đẳng; giáo quyền thì theo dõi; chánh quyền thì nghi ngờ. Sống với lương dân ở bên kia hồ, con cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Sáng nay con đã qua bên đó, nhưng ý Cha không muốn, nên con phải trở về đây. Số là thế này… Thuyền vừa ghé bến thì một người đàn ông, trần như nhộng từ trong hang huyệt chạy ào tới quỳ dưới chân con. Hắn run rẩy và kêu lên:
- Bớ ông Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng tôi có làm gì ông đâu mà ông đến hành hạ chúng tôi?
- Tên mày là gì?
- Là đạo binh.
- Vậy thì câm miệng lại và xuất ra ngay!
- Chúng tôi xin vâng lời ông. Nhưng xin ông đừng đày chúng tôi xuống hỏa ngục. Xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo ở đàng kia.
- Ừ, thì xuất ra cho lẹ.
Hắn ra đi. Một bầy heo hồng hộc nhào xuống hồ. Người bị nhập tỉnh lại, mắc cỡ vì thấy mình khỏa thân. Hắn chụp lấy cái áo choàng của con, quấn vội vào người, ngồi bệt xuống đất.
- Cám ơn Thầy! Cám ơn Thầy! Tôi đi theo Thầy luôn, không về nhà nữa đâu.
- Tốt lắm, nhưng cứ về nhà thì tốt hơn. Anh hãy kể lại hồng ân Chúa đã ban cho anh, để bà con tin Chúa như anh. Đó là một Tin mừng mà anh phải loan báo. Đi theo hay ở lại thì cũng thế, miễn là Tin mừng được rao giảng thôi…
Con ngồi nán lại để nghe hắn kể lể tâm tình, bụng bảo dạ: mình sẽ ở lại đây ít bữa. Chuyện tâm tình chưa vơi, thì bà con trong vùng đã ùn ùn kéo đến. Họ mừng rỡ vì thấy tên quỷ nhập hung dữ như thế, mà bây giờ hiền khô như cục đất. Họ kể rằng hắn bẻ xiềng, xé quần áo, hăm dọa mọi người. Còn hắn thì cúi mặt, cười e lệ. Các chủ heo thì tỏ vẻ bất bình.
- Xin Thầy đi nơi khác giùm chúng tôi. Thầy làm ơn cho người này, mà đày đọa người khác. Nhất bên trọng, nhất bên khinh, như vậy không phải là công bằng.
- Nếu các ông có niềm tin, thì hai ngàn con heo chỉ là bụi đất.
Con xuống thuyền trở về Caphácnaum, để lại sau lưng một quần chúng yêu thương và một đám người giận ghét. Lời hay lỗ? Thời gian sẽ trả lời.
Nhưng quả thực lòng con nặng trĩu ưu tư.
1- Cha vẫn còn dành cho Xatan nhiều quyền hành để chúng phá rối lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ. Hắn chỉ bị xiềng xích hoàn toàn khi lịch sử loài người kết thúc vào ngày thế mạt. Ngày ấy còn xa vời vợi mà chỉ một mình Cha biết và quyết định. Chính con không muốn cho hắn nhập vào đàn heo. Nhưng vì ý Cha muốn như thế… Ý của Cha phải được thi hành trọn vẹn. Ác và Thiện hiện diện bên nhau suốt dòng lịch sử giống như cỏ lùng mọc xen kẽ với lúa mì…
2- Niềm tin là kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng. Ai hiểu được giá trị của niềm tin, thì sẵn sàng đánh đổi bằng mọi giá. Nhưng hỡi ôi, có được bao nhiêu người có niềm tin!
Vui buồn lẫn lộn. Con xin gởi gắm tất cả niềm vui và nỗi buồn của con hôm nay trong tay Cha.
Bài giảng chiều nay đã làm con mệt đứt hơi. Dân thì đông, gió thì lộng, nên con phải nói thật PiôHậu 165
Bài giảng chiều nay đã làm con mệt đứt hơi. Dân thì đông, gió thì lộng, nên con phải nói thật lớn. Cuống phổi nóng ran như lửa đốt. Không thể kéo dài tình trạng này được nữa. Con ra lệnh căng buồm và ra khơi. Một vài con thuyền khác cũng dong buồm đuổi theo. Quần chúng đứng trên bờ ngơ ngác nhìn, rồi lắc đầu thất vọng.
Đám đệ tử háu đói của con xục xạo đi tìm bánh mì, rồi mỗi anh kiếm một chỗ, vừa ngồi hóng gió, vừa nhai nhóp nhép. Còn con thì, lúc này, giấc ngủ quan trọng hơn bánh mì. Con ra phía sau, lấy cái nệm của anh tài công cuộn tròn lại làm gối đầu, lăn lưng ra sàn mui, rồi chìm ngay vào giấc ngủ…
Bỗng có người lay mạnh vai con. Con giật mình thức giấc. Một cảnh náo loạn không thể tưởng tượng được.
- Chết đến nơi rồi Thầy ơi!
- Xin Thầy cứu chúng tôi!
- Đức Chúa ơi! Tại sao bỏ rơi chúng tôi!
Ai nấy ướt nhẹp như chuột lột. Sóng gió như điên cuồng. Trời tối đen như mực. Con thuyền nhồi lên nhào xuống như con kình ngư giãy chết. Không còn biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, anh tài công buông tay lái ôm mặt khóc một cách tuyệt vọng.
Cha ơi, chết là số phận của loài người. Con biết thế và chẳng có gì phải lo âu. Nhưng con xác tín rằng giờ chết của con chưa tới. Con còn phải sống, nên sóng gió không có quyền dìm chết con ở đây. Con phải chống lại hắn. Cả cơ thể con rung chuyển. Con nắm tay đấm vào gió và thét lên: “Im ngay!”. Tiếng hét toàn năng của con xé toạc không gian, quét sạch mây bão. Trên kia, những vì sao lại le lói. Dưới này con thuyền đánh đu một hồi với làn sóng lỡ trớn, rồi lặng lẽ trôi theo làn gió nhẹ…
Các đệ tử quỳ dưới chân con. Họ sửng sốt vì quyền năng của Giavê đã chuyển sang loài người. Họ đang mơ màng cảm thấy con bởi Cha mà ra… Con vực họ dậy. Họ ngồi xung quanh con và dỏng tai lắng nghe, bất chấp quần áo ướt sũng và râu tóc đang nhểu nước tồm tộp.
- Tại sao các anh sợ quá như thế?
- Chết tới nơi rồi mà không sợ sao Thầy?
- Không! Người có niềm tin không có quyền sợ. Sợ là dấu hiệu của niềm tin yếu đuối. Giavê là Cha nhân từ và toàn năng vẫn hằng ở bên cạnh anh em. Người yêu thương và bao bọc anh em. Sợ hãi bên cạnh Người là xúc phạm đến tình thương của Người. Không có động từ sợ trong cuộc đời của người có niềm tin.
- Xin Thầy ban niềm tin cho chúng tôi.
Cha kính mến,
Trời đã khuya lắm rồi, mà ở dưới sân kia, dân vẫn còn nườm nượp kéo tới, để bàn tán về trận bão bị dẹp yên cách kỳ lạ. Các đệ tử của con đua nhau kể chuyện và đua nhau giảng về niềm tin và nỗi sợ. Còn con thì cũng chưa thể ngủ được, vì con phải cảm nghiệm lại sức mạnh mà Cha đã ban cho con để con khống chế bão tố. Sức mạnh của Cha đang lan tỏa trong mạch máu của con, trong hơi thở của con. Toàn thân con ướt sũng quyền năng của Cha…
Hôm nay, một ngày đầy mâu thuẫn, một ngày cô đơn đến tột cùng. Niềm tâm sự này con chẳng PiôHậu 166
Hôm nay, một ngày đầy mâu thuẫn, một ngày cô đơn đến tột cùng. Niềm tâm sự này con chẳng biết ngỏ cùng ai, ngoài một mình Cha ra mà thôi.
1- Buổi sáng hôm nay thầy trò chúng con mệt phờ với quần chúng tại Caphácnaum: chăm sóc bệnh nhân, mà bệnh nhân thì hằng hà đa số; an ủi người đau khổ, mà đau khổ thì trùng trùng điệp điệp; tình cảm của quần chúng thì lê thê, mà tình cảm thì không biết thời gian… Đành phải trốn họ để nghỉ ngơi một chút. Con kín đáo ra lệnh cho các đệ tử rút lẹ xuống thuyền, căng buồm vọt ra khơi, trực chỉ Bétxaiđa.
Thuyền vừa cập bến, thì bến đã đông nghẹt người ta. Người từ đâu đến mà đông thế? Từ Caphácnaum. Tại sao họ biết con đến đây? Có một người nào đó đã tiết lộ bí mật…
Quần chúng lẽo đẽo theo con không chịu buông tha. Trong số này có những người con đã gặp mặt liên tục từ ba ngày nay. Bỏ nhà cửa và công ăn việc làm để đi nghe trình bày về tình thương của Cha. Họ giống như những con chiên không người chăn dắt. Bơ vơ. Ngơ ngác. Họ giống như cát khô gặp mưa. Háo hức. Thèm khát.
Thật là mâu thuẫn. Họ là con cái của Cha. Họ được các kinh sư hướng dẫn thật tỉ mỉ. Mỗi ngày Sabát đều được nghe đọc bài giảng Thánh Kinh. Ra đồng vô tình gặp phải xác chết, chiều về được kinh sư hướng dẫn thanh tẩy. Nghi thức hôn nhân, tang chế đều được kinh sư chỉ dạy: Thánh vịnh được mọi người đọc thuộc lòng trên môi miệng. Lời Chúa đã trở thành ca dao ngạn ngữ thấm vào tâm can của dân gian…
Thế nhưng người dân vẫn cảm thấy bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt. Thực ra họ đã được chăn dắt, nhưng chăn dắt bằng một đường lối mục vụ sai lầm, đến mức độ chăn dắt còn tệ hơn là không chăn dắt. Đạo thì vụ hình thức. Luật lệ thì chỉ là cái vỏ không ruột. Đạo chỉ còn là cái cũi giam hãm linh hồn. Giavê, người Cha nhân từ đã được mô tả như một ông quan tòa nghiêm khắc. Đứa con yêu thương của Cha lại cảm thấy mình là tên nô lệ nơm nớp lo sợ… Nỗi đau thương của một tín đồ đã trở thành mãn tính. Thấy quần chúng bơ vơ, con không nỡ tâm bỏ đi. Thế là con lại giảng, giảng cho đến xế chiều.
2- Khi mặt trời đã gác đỉnh núi phía tây, anh em đệ tử mới yêu cầu con ngưng giảng. Trễ quá rồi ! Chỉ một giờ nữa, mặt trời sẽ khuất hẳn, màn đêm sẽ buông xuống. Hàng chục ngàn thính giả kia sẽ đi đâu để kiếm được một ổ bánh mì. Trời đẹp như thế này thì ngủ dưới gốc cây cũng được, nhưng bụng mà đói thì hai chân lết không nổi. Con tập họp đệ tử.
- Bà con đói lắm rồi. Các anh đi kiếm bánh cho họ ăn, rồi mới giải tán họ được.
- Thưa Thầy, bây giờ có 200 đồng, thì cũng phải thua.
- Giả sử có mua được bánh, thì 200 đồng cũng chỉ cho mỗi người được một khúc nhỏ, không bõ công xỉa răng.
- Thưa Thầy, có một em bé bán bánh, hiện còn được năm cái.
Bưng rổ bánh mì trên tay, lòng con xao xuyến bồi hồi. Con âu yếm ôm rổ bánh vào lòng, ngước mắt nhìn lên Cha… Con chìm vào lòng Cha. Con ngất lịm đi trong giây lát. Quyền phép của Cha ở trong tay con. Vũ trụ đang bao la lồng lộng bỗng trở nên bé nhỏ, tầm thường. Từ không, Cha đã tạo dựng vũ trụ. Từ vũ trụ vật chất, con sẽ làm ra bánh mì. Năm ổ bánh mì phải nhân thừa thành năm ngàn, mười ngàn ổ để nuôi dân chúng.
Nhìn quần chúng ăn, con thấy thương đến trào lệ.
Nhưng quần chúng thì vô tâm vô tình. Ban đầu thì ăn ngấu nghiến, ăn cả đầu thừa đuôi thẹo. Khi thấy bánh cứ nhân thừa hoài, thì bắt đầu mè nheo. Người già thì móc ruột bánh mà ăn, còn vỏ cứng thì vứt bỏ. Đám thanh niên thì ăn vỏ bánh vừa giòn vừa thơm, còn ruột mềm thì chê chua, liệng bỏ. Hoang phí một cách vô tội vạ!
Quần chúng thì nông cạn. Họ bàn nhau để tôn con lên làm vua, để con nuôi họ suốt đời. Chính các đệ tử của con cũng có ý đồ đó. Lập tức con ra lệnh cho các đệ tử của con phải xuống bến lấy thuyền về Caphácnaum gấp. Còn con thì lẻn đến đây, để tâm sự với Cha. Quần chúng không ai lãnh đạo, thì tự động giải tán.
Dân đói mà không cho họ ăn, thì con đau lòng đến đứt ruột. Cho họ ăn, thì họ lại muốn biến lịch sử cứu độ thành kế hoạch kinh tế và chính trị. Tiến thoái lưỡng nan. Nhưng đành phải thế. Đó là lẽ tương đối của thế sự. Cha ơi, phép lạ hóa bánh này đã đẩy con vào thế cô đơn tột cùng. Ngoài Cha ra, không có một người nào hiểu được nỗi lòng của con. Quần chúng thì thương con nồng nhiệt đấy, nhưng chính họ đã bóp méo lý tưởng cứu độ của con. Họ chỉ coi con như công cụ cao quý để phục vụ nhu cầu dạ dày của họ mà thôi…
Sáng nay có một chiếc đò bao từ Bétxaiđa tới: Đò ghé ngay bến nhà của Simon – Phêrô. Ai nấy PiôHậu 167
Sáng nay có một chiếc đò bao từ Bétxaiđa tới: Đò ghé ngay bến nhà của Simon – Phêrô. Ai nấy đều mừng rỡ.
- Thưa Thầy, Thầy về đây hồi nào? Chúng tôi đi kiếm Thầy đến hụt hơi.
- Các ông đi kiếm tôi để tôn tôi làm vua, để tôi nuôi các ông suốt đời chứ gì? Hóa bánh không phải chỉ là một phép lạ, mà là một dấu lạ, để từ đó các ông suy nghĩ mà tìm ra chân lý. Các ông coi trọng bao tử mà coi nhẹ con tim. Chân lý của các ông chỉ là cơm áo.
Ai nấy đều cụt hứng. Họ là những người có máu mặt trong đám quần chúng ăn bánh ở Bétxaiđa hôm qua. Chính họ là linh hồn của kế hoạch tôn vương. Đêm qua họ ngủ trọ tại bến đò. Sáng nay họ bao đò về đây tìm con. Họ vẫn chưa bỏ ý đồ biến đạo thành mưu đồ chính trị. Con tiếp họ một cách lạnh nhạt. Con chẳng muốn thế, nhưng con phải hành động như thế, để cảnh tỉnh họ và để bảo vệ sự trong sáng của đạo, hôm nay và mãi mãi.
Sự nghiệp truyền giáo của con đang lên như diều, thì hôm nay con diều bỗng bị đứt dây. Uy tín PiôHậu 168
Sự nghiệp truyền giáo của con đang lên như diều, thì hôm nay con diều bỗng bị đứt dây. Uy tín của con đã rơi vỡ tan tành, không còn hy vọng hàn gắn. Hôm nay con phải lãnh một thất bại ê chề chưa từng thấy, đến mức độ con muốn độn thể để không còn ai thấy mặt con và để con đừng bao giờ thấy mặt ai nữa. Đau không thể chịu được! Con ẩn mình trong thâm cung của lòng Cha. Ở đây con mới cảm nghiệm được bàn tay mầu nhiệm của Cha vẫn đang rà rà trên cuộc đời của con. Và ở đây con ôn lại diễn biến của sự cố.
1- Con đã tham dự nhiều đám tang. Mỗi đám tang đều gieo vào lòng con một nỗi buồn tê tái. Cha mẹ thương con là thế, vợ chồng yêu nhau là vậy… Tình yêu nào cũng đòi hỏi quyết liệt để hai người yêu thành một, tan hòa trong nhau, biến hóa trong nhau, và mãi mãi không xa lìa. Nhưng cái chết cứ lù lù đi tới, không khoan nhượng, không thương xót. Nó giết chết mọi thứ tình yêu. Nó khước từ nguyên tắc của tình yêu “Yêu nhau thì hai thành một và mãi mãi là một”. Chết là kẻ thù dữ dằn nhất của tình yêu! Nhưng con lại quyết tâm chiến thắng sự chết để bảo vệ nguyên tắc của tình yêu!…
2- Cha đã yêu thương trần gian đến nỗi đã sai con đi vào trần gian. Hiện nay con đang sống giữa trần gian và con đã yêu tha thiết trần gian. Con và trần gian phải trở nên một và phải mãi mãi là một…
Nhưng con biết Cha muốn gọi con trở về cùng Cha. Mà cái chết của con thì đã gần kề…
3- Cách đây một tuần lễ, Cha đã ban quyền vạn năng của Cha cho con, để con hóa năm ổ bánh mì cỏn con thành lương thực dồi dào làm no lòng thỏa dạ một đám quần chúng trùng trùng điệp điệp, tầng tầng lớp lớp… Phép lạ vĩ đại này gieo vào lòng con một cảm nghiệm sâu sắc rằng chính bản thân con phải trở thành bánh đề nuôi sống trần gian từ thời này qua thời nọ. Như thế, con trở về cùng Cha mà vẫn ở lại trong trần gian. Như thế, con chết mà con vẫn sống, đi rồi mà vẫn hiện diện. Nhưng làm thế nào để con thành bánh nuôi sống trần gian? Con sẽ biến hóa bánh thành thân thể của con. Khả năng tuyệt vời này đang ở trong tay Cha và con tin rằng Cha sẽ ban quyền ấy cho con.
4- Sáng nay con đứng giảng trước một rừng người. Một rừng người là một rừng con tim, một rừng tình yêu. Họ yêu thương con và con yêu thương họ… Con yêu họ da diết, yêu đến nỗi nếu phải chết một ngàn lần để minh chứng tình yêu này, thì con lại sẵn sàng chết đến nhiều ngàn lần.
Thần Khí của Cha thấm nhập vào con khiến con giảng như xuất thần. Không phải là con giảng, mà là chính Cha đã giảng trong con. Ý tưởng được gói ghém như sau:
+ Tôi là Bánh-bởi-Trời, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.
+ Bánh tôi sẽ cho anh em ăn là chính thân thể của tôi.
+ Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì được sống muôn đời.
+ Ai không ăn thịt tôi và không uống máu tôi, người ấy không được sống đời đời.
Đó là bốn dòng tư tưởng Cha đã mạc khải cho con và con đã quyết liệt công bố cho bằng được, không lùi bước. Nhưng cũng chính vì thế mà hôm nay con đã trở thành nhà giảng thuyết thất bại chưa từng có trong lịch sử loài người. Cái rừng người đang hau háu nghe con giảng bỗng bất bình ra về. Thậm chí nhóm đệ tử 72 người đã từng gắn bó với con trong suốt nhiều tháng truyền đạo cũng bỏ con mà vĩnh viễn ra đi, ném lại sau lưng một câu nói chua chát không có được một chút tình người: “Lời gì mà chói tai thế?!…”.
Chỉ trong chốc lát, ngôi nhà nguyện đang đầy cứng người bỗng biến thành ngôi nhà hoang với hai hàng cột chơi vơi. Nhóm mười hai thân tín của con đứng xớ rớ, mỗi anh một góc, nửa muốn ở nửa muốn đi. Họ chưa ra đi, vì họ ngại giáp mặt quần chúng. Họ còn đứng đó, vì chẳng biết đi đâu bây giờ. Nếu họ bỏ con mà đi thì con cũng không tiếc. Cái con phải tiếc chính là họ chưa hiểu được tấm lòng yêu thương của con. Con tập trung mười hai người lại để được nói một lời cuối.
- Các anh cứ việc bỏ Thầy mà đi như mọi người nếu các anh thấy lời của Thầy là chói tai. Thịt Thầy là của ăn, máu Thầy là của uống. Đó là nguyện vọng tha thiết nhất của Thầy!
- Bỏ Thầy thì chúng con theo ai bây giờ. Chúng con chưa hiểu lời của Thầy, nhưng chúng con tin lời của Thầy là lời hằng sống. Phêrô nói thế, nhưng mặt của anh vẫn còn ngơ ngác, chứng tỏ anh chưa hiểu gì.
Mười ba Thầy trò chúng con rời nguyện đường trở về căn nhà của Phêrô. Quãng đường không xa mà đi mãi không hết. Ai nấy đều cảm thấy cụt hứng và trơ trẽn. Quần chúng dòm chúng con bằng ánh mắt miệt thị. Có lẽ từ nay họ chẳng còn bao giờ đến nghe con giảng nữa… Họ có thể không đến nữa; nhưng con vẫn yêu thương họ da diết, thịt máu của con sẽ nuôi sống họ hôm nay, ngày mai và mãi mãi, để con và họ mãi mãi là một.
Sáng nay con đến hồ Bêdata. Tim con sẽ thắt lại. Bêdata quả là nơi tập trung, tích lũy và triển PiôHậu 169
Sáng nay con đến hồ Bêdata. Tim con sẽ thắt lại. Bêdata quả là nơi tập trung, tích lũy và triển lãm mọi nỗi thống khổ của loài người. Bêdata, chính là hỏa ngục của trần gian.
Hàng trăm, hàng ngàn những thân xác tả tơi, từ những làng mạc xa tít mù khơi nào đó đã lần mò đến đây, với một hy vọng mỏng manh là được khỏi bệnh, nhờ nhanh chân lết xuống hồ trước tiên, khi có thiên thần bất ngờ xuống quậy nước hồ. Niềm tin ấy là mơ hồ, nhưng lại tạo nên một chút hy vọng. Hy vọng viễn vông, nhưng có vẫn còn hơn không. Khi người ta rơi vào nỗi tuyệt vọng, thì một sợi hy vọng mỏng manh lại trở nên một vị cứu tinh vĩ đại. Chính vì thế mà Bêdata đã ra đời và vẫn tồn tại cho đến bây giờ.
Những thây ma còn biết cụ cựa ở đây là có thật. Quần áo, mùng mền, chăn chiếu dơ dáy hôi hám là có thật. Sự thật thì hiển nhiên và cứ ngồn ngộn ra đó. Bọn trục lợi chẳng kiếm chác được gì nơi những thây ma chưa chết này, nên tình trạng Bêdata sẽ không bao giờ được cải thiện. Và đó cũng là một sự thật hiển nhiên. Có một tin đồn vu vơ: lâu lâu thiên thần xuống quậy nước, ai nhanh chân xuống nước trước nhất thì bệnh gì cũng khỏi. Người tạo ra tin đồn ấy, người loan truyền tin đồn ấy và người tin vào tin đồn ấy đều là những người vô trách nhiệm, đẩy cho thần thánh một bổn phận mà con người phải cùng nhau gánh vác.
Con muốn hét lên một tiếng, để trả lại sức sống và hạnh phúc cho muôn người đau khổ. Thế nhưng, có một sức mạnh vô hình đã dẫn con đến trước một ông lão già bại liệt đã ba mươi tám năm. Ba mươi tám năm nằm bất động trên chõng: thật là khủng khiếp!
Con trao đổi riêng với ông:
- Ông có muốn khỏi bệnh không?
- Thưa Ngài, tôi muốn quá đi chứ. Nhưng khổ một nỗi là tôi không có người thân nào để đưa tôi xuống hồ khi nước sôi động.
- Ông hãy chỗi dậy, vác chõng mà về.
Nói vừa xong, con lỉnh ngay vào đám quần chúng, lánh ngay về khu vực Đền thờ. Còn ông ta thì đứng ngơ ngác, tìm con một cách vô vọng…
Ngày mai con sẽ trở về miền Bắc. Ở đây người ta đang tìm cách giết con. Họ kết con ba tội:
1- Chữa ông bại liệt vào ngày Sabát.
2- Xúi ông bại liệt vi phạm ngày Sabát. Quả thật chính con đã bảo ông “vác chõng mà về”.
3- Lộng ngôn vì tự coi là ngang hàng với Thiên Chúa. Quả thật chính con, trong cuộc tranh luận với kỳ mục, con đã gọi Cha là Cha của con.
Sáng nay con đến bờ hồ Xêdarê – Philíp, sau một tuần hành trình chậm rãi, vừa đi vừa ghé, vừa PiôHậu 170
Sáng nay con đến bờ hồ Xêdarê – Philíp, sau một tuần hành trình chậm rãi, vừa đi vừa ghé, vừa đi vừa dừng chân. Chỉ trong vòng một tuần lễ ngắn ngủi mà thầy trò chúng con đã ghé biết bao nhiêu nơi. Anh nào cũng tự cảm thấy mình lớn hơn, khôn hơn.
Nhờ những chuyến đi như thế mà cả tâm lẫn trí của họ được mở rộng ra. Đi là tới, là gặp gỡ, là trao đổi, là yêu thương. Đi là bài học đầu tiên mà con đòi hỏi mọi đệ tử của con phải thực hành. Đi là khởi đầu của mọi sự nghiệp loan báo Tin mừng.
Sau bữa cơm tối, thầy trò quây quần bên nhau. Chưa bao giờ các đệ tử của con ham phát biểu như hôm nay, vì chưa bao giờ cái đầu của họ lại có nhiều tư tưởng đến thế.
Con hỏi họ:
- Các anh đã đi từ Bắc chí Nam, các anh nghe bà con nhận xét thế nào về Thầy?
- Một vị tiên tri lớn tầm cỡ Êlia, Isaia, Giêrêmia…
- Có người đánh giá Thầy là Gioan Tẩy giả phục sinh, vì chưa có tiên tri nào làm được những dấu lạ Thầy đã làm.
- Có người nói rằng, ít nhất Thầy cũng là một sứ ngôn cỡ Ôxê….
- Đó là dư luận của bà con đây đó. Bây giờ Thầy hỏi thật các anh: Các anh đánh giá Thầy như thế nào?
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
- Phêrô, tại sao anh khám phá ra điều này? Chính Cha Thầy đã mạc khải cho anh đấy. Nhớ giữ bí mật nhá!
Cha kính mến,
Phát giác này của Phêrô châm ngòi cho mọi sự ham muốn và tranh chấp. Đấng Kitô của họ là một ông vua cưỡi ngựa hồng chinh đông chinh tây, trả thù đế quốc Ai cập, Babilon, Ba Tư, Hy Lạp và La Mã, đưa dân Do Thái lên hàng bá quyền, biến Giêrusalem thành thủ đô quang vinh, tiếp nhận nguồn phú túc từ muôn phương đổ về như thác vỡ bờ…
Đấng Kitô chỉ còn là công cụ thực hiện tham vọng của cá nhân họ, quyện với mưu đồ chính trị của một dân tộc cực đoan. Mỗi anh đệ tử của con đều nuôi một giấc mộng lớn: tư lệnh quân đội như Gioáp bên cạnh minh quân Đavít. Cái chức tư lệnh này sẽ là miếng mồi để họ chầu chực và tranh giành nhau.
Thế là từ hôm nay, mục tiêu giáo dục của con sẽ là trình bày một Đức Kitô chân chính: Đức Kitô đau khổ, chết và phục sinh. Xin Cha hỗ trợ con.
Chiều nay con ra lệnh cho Phêrô. - Tập trung anh em lại. Thầy sẽ cho biết tin quan trọng nhất. - Mời PiôHậu 171
Chiều nay con ra lệnh cho Phêrô.
- Tập trung anh em lại. Thầy sẽ cho biết tin quan trọng nhất.
- Mời anh em tập họp. Chuẩn bị chiến đấu. Thầy sắp phất cờ khởi nghĩa.
Thầy trò chúng con ngồi xếp bằng thành một vòng tròn. Mười hai đệ tử, anh nào cũng nhấp nhổm ngồi không yên, cặp mắt nào cũng háu háu chờ tin sốt dẻo. Họ thích tuốt gươm và đâm chém. Họ muốn ngồi bệ vệ và làm cha thiên hạ. Hiếu chiến, hiếu thắng và kiêu ngạo từ móng chân đến sợi tóc. Tốt với thần thánh nhưng tệ với đồng loại. Xun xoe với Giavê để chà đạp lân bang. Lịch sử dài hay ngắn cũng chỉ có bấy nhiêu tâm địa.
Thái độ lạnh lùng và im lặng của con làm cho họ cụt hứng. Không còn hau háu. Mười hai người thành mười hai pho tượng buồn. Bây giờ con mới rỉ rả bộc bạch hết nỗi lòng của mình.
- Dân tộc ta, từ thời Đavít đến bây giờ, ngàn người như một đều mong đợi Đấng Cứu Thế. Ngàn người như một đều nghĩ rằng: Đấng Cứu Thế là một ông vua vĩ đại bách chiến bách thắng, biến mọi đế quốc thành chư hầu của Giêrusalem. Thầy nói thật với các anh rằng: nghĩ như thế là sai lầm hoàn toàn.
- Đấng Cứu Thế là chính Thầy đây. Nhưng Thầy sẽ không phất cờ khởi nghĩa, sẽ không làm vua… Và các anh sẽ không ai làm quan, làm tướng… Chỉ còn chừng bảy tháng nữa là đến lễ Vượt Qua. Thầy sẽ về Giêrusalem. Thầy sẽ bị bắt, bị tra tấn, bị đóng đinh như một tên tử tội. Nhưng ba ngày sau Thầy sẽ sống lại.
Mười hai cánh tay giơ lên, mười hai cái miệng la bai bải:
- Không được!
- Không phải vậy?
- Thầy nói thật hay Thầy nói ẩn dụ?
- Thầy nói thật hay Thầy nói đùa?
- Thế là công dã tràng!
Con đứng dậy, lẳng lặng bỏ đi. Mười hai người vẫn ngồi lì ở đó, huơ tay tỏ vẻ bất bình… Con đi mãi, đi thật xa.
Bỗng có tiếng bàn chân đạp trên lá khô, ngay phía sau lưng.
- Gì đó Phêrô?
- Thưa Thầy, thế là công cốc. Ba năm theo Thầy tôi cứ tưởng là sẽ được chia sẻ vinh quang với Thầy. Ai ngờ… thầy lại bẻ chỉa. Làm sao tôi dám vác mặt về mà nhìn vợ con, xóm giềng. Tôi cắn cỏ lạy Thầy, xin Thầy nghĩ lại. Đức Giavê không nỡ tâm để Thầy phải khổ cực và nhục nhã như một tên tội lỗi như vậy. Ở hiền thì gặp lành Thầy ạ. Tôi van Thầy, Thầy đừng căng với các rắpbi, thì các ngài chẳng chống đối Thầy đâu. Thầy cứ ngọt ngào, một “kính thưa quý vị luật sĩ “, hai “kính thưa quý vị biệt phái”, thì ai mà bắt, ai mà giết Thầy.
- Đồ quỷ, dang ra chỗ khác! Trong đầu mi không có lấy một chút tư tưởng thần linh, nhưng lại đặc sệt những tư tưởng phàm tục.
- Thầy nặng lời với tôi quá vậy sao?
Phêrô bưng mặt mà khóc. Con bỏ anh ta ở đó và tiếp tục đi nữa, đi vào tận sâu thẳm của lòng Cha, ở đây tâm hồn con dịu lại và ngất lịm trong vòng tay của Cha.
Hôm nay là ngày kết thúc tuần lễ Lều, con lên đền thờ một lần chót kết thúc những ngày sôi bỏng PiôHậu 172
Hôm nay là ngày kết thúc tuần lễ Lều, con lên đền thờ một lần chót kết thúc những ngày sôi bỏng ở miền Nam này, rồi ngày mai sẽ trở về miền Bắc. Nhưng tình cờ lại có một biến cố xảy ra khiến con còn phải ở lại đây thêm một thời gian nữa. Dứt dây thì động rừng. Đành vậy.
Hành lang Xalômon chật cứng người ta. Con đang hùng hồn minh chứng con bởi Cha mà ra thì các luật sĩ và biệt phái đến phá đám. Hàng trăm con mắt đổ dồn về một người phụ nữ đang khóc nức nở.
- Thưa Thầy, mụ này bị bắt quả tang ngoại tình. Chiếu theo thánh luật của Môsê, thì chúng tôi sẽ ném đá hắn cho chết. Nhưng chúng tôi lại muốn lãnh cao kiến của Thầy.
Chỉ nhìn thoáng một cái, con lượng định được ngay:
1. Người phụ nữ này dù đang ở trong tình trạng tiều tụy, thì thân xác của chị: từ đường nét đến thể khối, từ sợi tóc đến làn da đều quảng cáo nhiệt liệt cho thú tính của chị.
2. Các ông biệt phái và luật sĩ: một mặt thì nhân danh thánh luật để kêu án tử cho người phụ nữ này, một mặt thì vẫn nuối tiếc một trái chín mọng ngọt đang trôi theo dòng thác lũ. Những cặp mắt thèm thuồng của họ đã nói lên điều đó.
3. Ngoại tình là một trọng tội, nhưng khinh dể người ngoại tình thì tội nặng hơn. Loại trừ người tội lỗi là vô ích. Cứu vớt người tội lỗi là tất cả.
Con làm bộ điếc không nghe, không hiểu, lấy ngón tay vẽ nguệch ngoạc trên đất…
Họ không biết xấu hổ, cứ nhằng nhằng đòi con phát biểu ý kiến. Con đứng thẳng lưng, nhìn ngay vào mắt từng người rồi dõng dạc tuyên bố:
– Ông nào sạch tội thì ném đá chị này trước đi.
Không có ông nào vô tội cả, thậm chí có nhiều người đã từng tằng tịu với chị này rồi. Ánh mắt xuyên tim của con đã làm cho họ thức tỉnh. Họ sượng sùng rút lui lần lần… Chỉ còn trơ lại một người bị cáo và đám thính giả ngơ ngác của con.
- Này chị, những người tố cáo chị đi đâu hết rồi? Không ai kết án chị nữa sao?
- Thưa Thầy… tôi không biết.
- Tôi cũng không kết án chị. Thôi, chị đi về đi và nhớ từ nay đừng tái phạm nữa.
- Thưa Thầy, tôi về đâu bây giờ?
Người phụ nữ ôm mặt khóc òa lên một cách tuyệt vọng. Phải, về đâu bây giờ? Về với chồng con ư? Về với cha mẹ ư? Không! Vì danh dự của dòng tộc, vì sự thánh thiện của luật, mọi người sẽ loại trừ chị ấy: "Những thứ ấy, tôi đuổi cho khuất mắt”, tác giả Thánh vịnh 101 đã hãnh diện thề hứa với Giavê như thế. Đó là linh đạo của dân tộc này. Đó là chân lý ngàn đời của dân tộc này.
Thế là con quyết định ở lại. Con sẽ đến gặp cha mẹ, chồng con và anh em của người phụ nữ này. Chị phải được tha thứ, đón nhận, yêu thương và kính trọng… ngược lại với linh đạo truyền thống ngàn đời. Công việc này không dễ chút nào và thời gian cũng không thể ngắn gọn được. Con chấp nhận mọi giá để cứu vớt một linh hồn.
Giêsu, Con yêu của Cha.
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu Nguồn: http://www.cgvdt.vn/…/nhat-ky-c…/nhat-ky-duc-giesu-p15_a1859
Hôm nay, vì con mà một tín đồ Do Thái bị vạ tuyệt thông. Vạ tuyệt thông tức là bị đuổi ra khỏi PiôHậu 173
Hôm nay, vì con mà một tín đồ Do Thái bị vạ tuyệt thông. Vạ tuyệt thông tức là bị đuổi ra khỏi cộng đồng Giáo hội và Dân tộc .Vạ tuyệt thông là tiếng nói mãnh liệt nhất của uy quyền tôn giáo, nhưng cũng là số phận cay đắng nhất của một tín đồ.
Người bị vạ chỉ là một hành khất, đui mù bẫm sinh.Con người khốn khổ ấy, ngồi ở Cổng Suối, tự xóa nhân phẩm để duy trì sự sống tồi tàn. Lương tâm đạo đức của dân tộc này đã xô hắn xuống vực thẩm, còn tăm tối hơn cả cảnh đui mù và nghèo đói. Lãnh đạo Do Thái chửi hắn là "Đồ sinh ra đã ngập đầu trong tội lỗi".
Chính các đệ tử của con cũng nghĩ rằng: vì tội mà hắn mù như thế. Và chính hắn cũng tự nghĩ như thế, vì đó là niềm tin lưu truyền từ thuở xa xưa và được các rápbi dạy đi dạy lại trong các giờ giáo lý. Thân xác hắn mù lòa, linh hồn hắn mù lòa. Hắn mù lòa hai lần! Chính tôn giáo làm cho hắn đã mù, lại trở nên mù hơn! Con ôm hắn vào lòng để hắn cảm thấy được yêu thương và kính trọng. Con lấy ngón tay lần mò trên đôi mắt mù lòa của hắn. Hắn khóc, vì chưa bao giờ được yêu thương đến thế. Con thỏ thẻ bên tay hắn:
- Đừng buồn nghe em. Chẳng phải vì tội mà em mù đâu. Em sẽ thấy đường và em hãy tôn vinh Đức Chúa. Thầy sẽ bôi chút bùn vào mắt, em đến suối Xi-loác mà rửa, thì sẽ được sáng .
- Thầy thương em là em sung sướng rồi. Thấy đường hay không thấy đường thì cũng được.
Và thưa Cha kính mến, hôm nay là ngày sabat. Một người mù thấy đường trong ngày Sabat. Một người mù được thấy đường trong ngày Sabat: Tuyệt vời!
Vậy mà các đấng bề trên ở Giêrusalem đã nhất loạt giật râu,xé áo,vò đầu,bứt tóc… để tỏ vẻ đau đớn, đau đớn vì Gia-vê đã bị người phàm xúc phạm! Cả thủ đô Giêrusalem nháo nhào lên như có loạn .
- Ngày Sabat, tại sao lại trị bệnh?
- Ném đá đứa nào làm ô uế thành thánh.
- Thủng thẳng, không chừng có đứa nào khác giống thằng như nó chứ chẳng phải là nó đâu?
Người khỏi đui chưa kịp báo tin vui cho thân nhân, thì đã bị lôi ra tòa. Cha mẹ hắn sợ co rúm lại. Niềm vui thấy con mình hết mù lại nhỏ hơn nổi sợ bị vạ tuyệt thông. Không ai dám bênh vực hắn. Hắn đơn thương độc mã đương đầu với các đấng bề trên. Hắn quên mình là thằng ăn mày mạt rệp, cải lý ngang hàng với tập thể tôn sư.
- Ông ấy là người tội lỗi, vì đã vi phạm luật ngày Sabat .
- Người tội lỗi thì làm sao cho người mù thấy đường được? Thiên Chúa không thể nhậm lời người tội lỗi mà ban cho họ quyền làm phép lạ lớn như thế.
Các tôn sư thấy không thể thắng thằng ăn mày bằng lý luận, bèn tung chưởng "cả vú lấp miệng em” để kết thúc trận đấu .
- Mày sinh ra đã ngập đầu trong tội lỗi, mà dám lên mặt thầy đời với chúng tao sao? Tụi tao nhân danh Gia-vê trục xuất mày ra khỏi Giáo hội.
Kẽ lảnh vạ tuyệt thông ra đi, nghênh ngang như vỏ sĩ múa gậy rừng hoang. Hắn đang thưởng thức niềm vui của người mù được thấy. Hắn cũng đang cười thầm trong bụng vì có những người rỏ ràng có hai mắt mà lại không thấy đường.
Xin chào Thầy! - Thầy! Đó là hai lời chào con nhận được sáng nay,trong căn nhà quý phái này PiôHậu 174
- Xin chào Thầy! - Thầy!
Cha kính mến,
Đó là hai lời chào con nhận được sáng nay, trong căn nhà quý phái này,từ hai cá tính khác nhau vời vợi. Matta hiền từ và khiêm tốn, Maria hồn nhiên và kiêu sa. Cô chị nết na và tế nhị. Cô em ngỗ ngáo và bất cần đời. Nhưng cả hai đều sống hết mình cho sự nghiệp truyền giáo của con.
Cứ mỗi lần đoàn truyền giáo dừng chân ở đây, thì Matta lại hăng hái phục vụ, còn Maria thì cứ thảnh thơi ngồi nghe giảng. Hôm nay cũng vậy, trong khi Matta đầu tắt mặt tối ở dưới bếp thì Maria trải đệm ngồi kế bên ghế của con, Cô muốn nghe giảng lại hết mọi bài con đã giảng ở miền bắc.
Có tiếng đằng hắng của Matta. Maria lờ đi. Có bóng dáng Matta thấp thoáng ở đâu đó. Maria lại lờ đi. Bây giờ thì Matta đứng sừng sững ở đó, hiên ngang như một nam nhi, giọng chua lè như giấm.
- Trăm dâu đổ đầu tầm Thầy ạ! Thầy thấy tôi đầu tắt mặt tối mà Thầy chẳng hề quan tâm chút nào. Em tôi nó cà nhõng từ sáng tới giờ. Thầy phải bảo nó tiếp tôi một tay chứ!
- Matta, đừng bận rộn quá như vậy. Dọn cơm đơn sơ thôi, để có thời giờ nghe giảng. Không phải em con cà nhõng đâu, nó muốn tranh thủ thời gian để nghe Lời Chúa. Lời Chúa là kho tàng không ai lấy mất được… Maria, đi giúp chị đi. Ăn cơm xong, cả hai chị em cùng được nghe giảng.
Matta quay ngoắt một cái.Vẫn còn giận.
Cha kính mến,
Con thông cảm với Matta, một người chị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ vì em. Maria có nhan sắc và thông minh hơn chị. Hai ưu điểm này đã đưa Maria xuống vực thẳm của sự hư hỏng. Được thế giới đàn ông nuông chiều, nhưng lại bị thế giới đàn bà ganh ghét. Nuông chiều hay ganh ghét đều là niềm tự hào của cô. Lòng tự ái của cô được vỗ béo cho tới cực điểm: khinh dễ đàn ông coi thường đàn bà; coi trời bằng vung…
Nhưng vừa tới cực điểm ấy, thì cô gặp Tin Mừng. Những bài giảng của con đã làm cô mê say và sám hối. Nước mắt của cô trào ra như triều dâng quét sạch quá khứ nhơ bẩn. Con thương cô như người mục tử trìu mến con chiên lạc. Con kính trọng cô như cô chưa bao giờ hư hỏng… Thái độ này của con đã làm cho người lương thiện bất bình và ganh ghét. Nhưng đó là chân lý của Tin Mừng…
Để làm sáng tỏ chân lý này, hôm nay con đã đứng về phía Maria và làm tủi lòng Matta. Rồi mai ngày con sẽ trình bày chân lý này bằng dụ ngôn "Đứa con đi hoang". Dụ ngôn này vừa đề cao lòng thương xót của Cha, vừa tố cáo lòng dạ hẹp hòi của những tín đồ gọi là đạo đức. Sẽ lại có vô số người buồn và giận như Matta hôm nay. Nhưng không sao vì Matta giận đấy, mà vẫn thương đấy.
Hôm nay con tung 72 cán bộ truyền giáo vào vùng Pê-rê. Thời điểm này rất thuận lợi, vì nông PiôHậu 175
Hôm nay con tung 72 cán bộ truyền giáo vào vùng Pê-rê. Thời điểm này rất thuận lợi, vì nông dân vừa mới thu hoạch lúa hè thu xong. Nông thôn rãnh rỗi. Lòng người nhẹ phơi phới. Làng Bêtania nhộn nhịp hẳn lên. Giếng làng không lúc nào ngớt người. Gia đình của chị Matta, kẻ ra người vào như cái chợ. Tiếng dao thớt kêu kếch kếch dòn giã.
Nhìn đoàn truyền giáo ngồi la liệt, con vừa phấn khởi, vừa băng khoăn, mà băng khoăn thì nhiều hơn phấn khởi.
1. Hành trang của họ lép kẹp. Tác phong đạo đức thì chưa bằng ai. Kiến thức về Kinh Thánh thì không đáng làm học trò của luật sĩ và biệt phái. Đẩy họ lên đường, con có mặc cảm là đem con bỏ chợ, là đút đầu chiên vào mõm chó…
2. Miền Pê-rê có rất nhiều người ngoại, mà đệ tử của con chưa có một chút kinh nghiệm để tiếp cận với người ngoại. Cái khó khăn lớn nhất khi tiếp xúc với người ngoại là LUẬT, đặc biệt là luật về đồ ăn thanh và uế. Con đã hủy bỏ luật nầy khi nói rằng “Những gì từ bên ngoài mà vào trong bụng thì không thể làm cho người ta ô uế…”. Nhưng họ ngơ ngác không hiểu gì. Nóng lòng quá, con cứ phải nặng lời với họ: "Các anh mà cũng tối dạ như vậy sao?" .Lòng dạ họ vẫn tối mịt! Ôi, hậu quả của linh đạo sai lầm!
3. Là những người xuất thân từ giai cấp thấp hèn. Nay được quyền trừ quỷ và trị bệnh, họ dễ bị cám dỗ về tính tự cao tự đại. Đúng thế, họ không tự cao tự đại sao được khi thấy ma quỷ phải vâng lời họ mà xuất ra, và khi thấy người ta quỳ dưới chân họ mà cảm tạ tri ân…?! Người lớn được kính trọng quá mức cũng sẽ hư hỏng như con nít được nuông chìu quá lẽ.
Nhưng Cha ơi, Tin Mừng thì khẩn trương, biết sao bây giờ. Con đánh liều ra lệnh cho họ lên đường. Con xin gửi gắm số phận của họ cho lòng nhân ái của Cha. Và con tin rằng Cha hằng ở với họ.
Chúng con vừa về tới nhà, bụi bám đầy người, mồ hôi nhễ nhại, ai nấy vội vàng nhảy xuống hồ PiôHậu 176
Chúng con vừa về tới nhà, bụi bám đầy người, mồ hôi nhễ nhại, ai nấy vội vàng nhảy xuống hồ để tắm và giặt, rồi sẽ ăn và nghỉ. Không muốn làm gì nữa… Thế nhưng bà con lại ùn ùn kéo nhau tới. Các bà mẹ bồng con đến. Họ bắt con của họ nắm lấy tay con, rờ vào áo con, thậm chí còn hối:
- Hôn Thầy một cái đi con! Mau lớn con ạ.
Cơm đã dọn ra đó rồi mà vẫn chưa được ăn. Bởi thế các đệ tử của con cằn nhằn:
- Thầy dể dãi quá như thế, thì tới bao giờ mới được ăn.
Phê-rô đuổi thẳng thừng:
- Các bà bồng con về, để cho người ta thở một chút.
Dù nặng lời với các bà, các bà vẫn điếc không nghe. Các bà chịu đấm, miễn con cái bà được ăn xôi. Phê-rô bắt đầu nổi khùng. Con phải can thiệp ngay:
- Phê-rô cứ để trẻ em đến với Thầy. Chính người lớn các anh phải noi gương các em mà sống mới được vào Nước Trời/
Phê rô cụt hứng chuồn thẳng xuống bếp. Lẩm bẩm. Cằn nhằn. Các bà được trớn lại bồng con trở lại, xin cho chúng được bồng, được đặt tay lên đầu… Bà nào cũng cười hớn hở. Không buồn không giận Phê-rô nữa.
CHA kính mến
Trẻ thơ nào cũng dể thương. Ai cũng yêu trẻ thơ, nhưng tuyệt nhiên chưa ai kính trọng trẻ thơ. Người ta dạy trẻ thơ phải bắt chước người lớn. Nhưng con lại yêu cầu người lớn phải bắt chước trẻ thơ.
Người lớn đã đi xa khỏi phương hướng của Tin Mừng, thì lại hướng dẩn trẻ thơ đi vào con đường ấy, bằng một nền giáo dục tùy tiện. Đã biết bao lần con chứng kiến cảnh người mẹ dạy con trả thù.
- Người ta chửi cha mày thì mày chửi mẹ người ta. Tại sao lại nín thinh?
- Cái ghế làm con té hả? Để mẹ đánh cái ghế. Nín đi con.
Và than ôi, chính tác giả Thánh Vịnh 3 cũng yêu cầu Chúa đánh bể mặt và đánh gãy răng kẻ thù của mình. Cha ơi, trẻ thơ được giáo dục như thế, thì lớn lên làm sao có thể đón nhận Tin Mừng của con: "Hãy cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù”.
Nghĩ đến hàng ngàn, hàng triệu trẻ em đang bị đầu độc như thế,con cảm thấy đau xót vô vàn . Chính vì nỗi đau xót này mà đã có lần con nặng lời với người lớn: "Ai làm cho một trẻ thơ hư đi, thì đáng buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển".
Nguyện xin Cha cho trẻ thơ mọi nơi và mọi thời được yêu thương, được kính trọng và được giáo dục một cách cẩn trọng.
Hôm nay con được tin người bạn Ladarô của con đau nặng. Matta và Maria cho người báo tin PiôHậu 177
Hôm nay con được tin người bạn Ladarô của con đau nặng. Matta và Maria cho người báo tin khẩn và tha thiết mời con về Bêtania để cứu sống Ladarô. Con không đi. Chắc chắn gia đình gia đình của Ladarô sẽ giận con. Kệ, mọi chuyện sẽ tốt đẹp, vì con đã hiểu ý Cha rồi.
P.S. Hôm nay giáo phận Vinh sẽ tổ chức "Ngày vì Môi trường", Xin quý ÔBACE cùng hiệp ý cầu nguyện cho ĐGM Phaolo Nguyễn Thái Hợp luôn được soi sáng trước những "búa rìu" mà Ngài đang đối mặt, cùng toàn thể người dân GP. Vinh đang lao đao trước thảm họa Formosa. Nguyện cho Thánh ý và Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện. Amen.
Đêm nay con nghỉ tại nhà ông Dakêu. Trong khi con đang cầu nguyện với Cha ở trên sân thượng PiôHậu 179
Đêm nay con nghỉ tại nhà ông Dakêu. Trong khi con đang cầu nguyện với Cha ở trên sân thượng này, thì ở dưới sân kia, khách tiệc vẫn chưa về, và ở ngoài phố kia vẫn có người lãng vãng có ý rình mò. Ở đây, người ta yêu thương con, ở ngoài kia, người ta ganh ghét và xuyên tạc con. Ở đây, người ta nhân danh tình người để yêu thương, ở ngoài kia người ta nhân danh Thánh luật để ghét ghen…
Sáng nay con đi qua Giêrikhô để tiến về Giêrusalem cùng với đoàn hành hương tầng tầng lớp lớp. Bỗng con thấy có một chú bé ngồi lắt lẽo trên cành cây vả. Nhưng… chú bé lại có râu!
Con dừng lại. Ánh mắt của ông lùn và con gặp nhau. Ánh mắt ấy bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: Một người thu thuế; một người bị vạ tuyệt thông cách ly; một người say mê giáo thuyết và con người của Giêsu Nadaret; một con chiên lạc đang tìm lối về…
Xung quanh con bắt đầu có tiếng xầm xì:
-Thằng cha lùn này là trưởng ty thuế vụ ở đây.
- Thằng Dakêu đó: chịu nhục để có tiền, chịu đấm để ăn xôi, giàu lắm! - Đồ liếm gót thực dân!
- Kệ hắn Thầy ơi! Thầy nói chuyện với hắn là mất hết uy tín đó, là mắc uế đó!
Lòng con xao xuyến. Tội nghiệp quá chừng. Thương mến vô vàn. Bất giác con thốt lên:
- Ông Da kêu ơi, xuống đi! Hôm nay tôi đến trọ nhà ông đấy. Chúng ta tha hồ mà hàn huyên.
Ông Dakêu cười sung sướng, nhảy bụp xuống đất, loóc toóc chạy về nhà. Có tiếng thở dài thất vọng:
- Thầy lại vào nhà người tội lỗi nữa rồi!
Ông Dakêu đãi tiệc linh đình. Có một số người La Mã tham dự. Có ca nhạc và nhảy múa:
- Ông làm gì rình rang quá vậy?
- Mừng quá Thầy ạ. Tôi nghe người ta nói về Thầy từ lâu, đặc biệt là tôi biết Thầy thương bọn thu thuế chúng tôi. Trong khi người ta coi tụi tôi như những con chó ghẻ, thì Thầy lại yêu thương và quý mến tụi tôi. Tôi chỉ ao ước được nhìn mặt Thầy một cái thôi, thế mà Thầy lại đến nhà tôi. Tôi nhớ ơn Thầy suốt đời.
- Tại sao ông làm nghề thu thuế này, làm cớ cho đồng bào khinh dể?
- Đời mà Thầy. Có tiền thì mua tiên cũng được. Tôi cố chịu đấm để ăn xôi… Không ngờ xôi lại hẩm. Có tiền chưa là hạnh phúc đâu Thầy ạ. Có nhiều lúc tôi muốn bỏ nghề, nhưng lỡ mất rồi. Dù trở về cũng bị khinh dể.
- Ông hãy dùng tiền phi nghĩa để đền tội.
- Vâng, để tỏ lòng biết ơn Thầy, tôi xin hiến một nửa gia tài của tôi để giúp người nghèo. Còn nếu tôi hà lạm của ai, tôi xin đến một thành bốn.
Lời tuyên bố hứng khởi của Dakêu làm nhiều người lắc đầu một cách thất vọng: vợ của ông, thân nhân của ông, bạn bè của ông.
- Đồ khùng! - Ngu! Của mồ hôi nước mắt chứ đâu phải của trời cho.
- Ông cho hết đi, rồi lấy gì mà nuôi con…
Ông Dakêu vẫn tỉnh bơ. Nụ cười vẫn nở trên môi.
Có biết bao tâm hồn quảng đại trong hành ngủ “tội nhân”! Có biết bao tâm hồn sám hối mà cơ chế chẵng cho sám hối. “Luật” không là con đường cứu độ, mà là cánh cửa sắt khóa chặt muôn thuở! Con nguyện sẽ phà banh cánh cửa sắt lỗi thời này.
Hôm nay con đi dạo phố để nhìn, để thấy và để cảm nghiệm cuộc sống của người dân thành Giêrikhô PiôHậu 180
Hôm nay con đi dạo phố để nhìn, để thấy và để cảm nghiệm cuộc sống của người dân thành Giêrikhô, một thành phố du lịch, thương mại và là trục giao thông quan trọng. Lạc đà và lừa ngựa dập dìu trên đường phố. Hàng hóa tràn ngập cùng với bụi bập và xú khí. Rất nhiều người nghèo ngồi la liệt bên vệ đường… Bỗng có tiếng gào lên:
- Lạy ông Giêsu, con vua Đavit, xin thương xót tôi.
- Bartimê, câm miệng lại, um sùm làm điếc lỗ tai!
Thế đấy; kêu cứu cũng bị cấm đoán, chỉ vì hắn là người hành khất. Con đứng lại để mọi người chú ý đến hắn.
- Bảo anh ta lại đây!
- Đứng dậy đi. Người gọi anh đấy.
- Anh muốn gì nào?
- Xin cho tôi được thấy.
- Anh hãy thấy! Lòng tin của anh đã chữa anh.
Bartimê đứng ngẩn ra . Anh nhìn trời, nhìn đất, nhìn hai bàn tay, nhìn mọi người, nhìn nhà cửa, nhìn phố xá, nhìn lạc đà và lừa ngựa… Bây giờ anh mới cảm nghiệm được hạnh phúc của người có đôi mắt. Anh quỳ xuống hôn chân con. Con nâng anh dậy, ôm vào lòng và hôn lên trán anh. Anh khóc nhệu nhạo:
- Tôi cám ơn Thầy. Con cám ơn Thầy. Ơn nầy không kém gì ơn cứu sống Thầy ạ.Tôi đền ơn Thầy suốt đời cũng không hết.
CHA kính mến,
Bartimê đã nghe biết về con từ lâu rồi. Anh đã tin vào con và hôm nay niềm tin ấy bùng lên. Chính niềm tin đã cứu anh. Xin CHA cho mọi người có niềm tin.
Hôm nay có một chuyện chướng tai gai mắt làm con buồn nẫu ruột. Cũng vì thế mà nội bộ xì PiôHậu 181
Hôm nay có một chuyện chướng tai gai mắt làm con buồn nẫu ruột. Cũng vì thế mà nội bộ xì xào.
Mẹ của Giacôbê và Gioan từ đâu bỗng xâm xâm đi tới sắp mặt xuống dưới chân con. Con giật mình hỏi:
- Cái gì vậy?
- Tôi biết sau chuyến hành hương thủ đô lần nầy Thầy sẽ làm vua. Xin Thầy cho hai đứa con tôi được ngồi bên tả, bên hữu của Thầy. Thằng Gioan có thể làm cố vấn. Còn thằng Giacôbê thì có thể làm tổng tư lệnh quân đội. Tôi thấy hai đứa giống như Natan và Gioáp dưới triều đại của vua Đavít ngày xưa.
- Các anh dám chịu chết không?
- Thưa Thầy, chúng con dám.
- Muốn chịu chết thì Thầy cho liền, còn ngồi bên tả bên hữu thì để chờ Thầy hỏi ý kiến Cha Thầy đã…
Thế đấy! Chỉ còn có một tháng nữa thôi con sẽ thụ nạn, thế mà các đệ tử của con vẫn còn xôi thịt, vẫn còn giành giật nhau cái “đỉnh chung”. Cây khổ giá của sự nghiệp cứu độ thì chẳng ai hiểu, chẳng ai chấp nhận. Họ chỉ thấy quyền và lợi.
Quyền lợi là một cám dỗ suốt đời. Nó len lõi vào trong triều đình của vua chúa, khiến trên dòng lịch sử; bạo chúa thì vẫn nhiều hơn minh quân. Nó len lõi vào trong đền thờ của Giavê, khiến các tư tế tham tiền vẫn nhiều hơn các tôn sư trọng đạo.
Cha ơi! Xin hãy Thánh hóa các đệ tử của con, bây giờ ngày mai và mãi mãi, để quyền lợi không làm hư ĐẠO mà Cha đã trao cho con.
Ngày mai con sẽ đi Giêrusalem. Ở đó bầu không khí đang sôi sục. Tin lành thì ít. Tin dữ thì PiôHậu 182
Ngày mai con sẽ đi Giêrusalem. Ở đó bầu không khí đang sôi sục. Tin lành thì ít. Tin dữ thì nhiều. Nhưng chắc chắn là Thượng tế và Công nghị đã treo vạ tuyệt thông cho những người tin nhận con là Cứu Chúa. Họ cũng đã quyết tâm thanh toán con rồi. Dư luận trong đoàn hành hương thì chia hai:
1. Một số thì lo ngại cho số phận của con. Họ yêu cầu con nên dừng chân ở Giêrikhô để nghe ngóng tin tức từ thủ đô.
2. Một số khác thì cả quyết rằng ngày khởi nghĩa đã điểm. Dịp lễ vượt qua này sẽ chấm dứt thời nô lệ, dân tộc Israel sẽ trở nên bá quyền… Có nhiều người đã thủ sẳn gươm để tham gia cuộc khởi nghĩa.
Còn con thì …thời giờ hy sinh đã gần tới . Mọi sự đã được Cha mạc khải. Con xin cuối đầu lãnh nhận.
Đêm nay con chiếm trọn sân thượng để cầu nguyện với Cha, vì chỉ còn sáu ngày nữa con sẽ PiôHậu 183
Đêm nay con chiếm trọn sân thượng để cầu nguyện với Cha, vì chỉ còn sáu ngày nữa con sẽ bị giết. Vả lại trong bữa tiệc tối nay cũng có nhiều chuyện buồn vui cần được ngỏ bày cùng Cha.
Bữa tiệc linh đình. Khách dự tiệc đông đảo. Tất cả đều nói lên niềm vui Ladarô phục sinh. Trong niềm vui không giới hạn, cộng với lòng biết ơn và yêu mến, Maria đã đổ hết một cân dầu thơm lên chân con. Mùi thơm lan tỏa đến tận ngóc ngách của căn phòng rộng thênh thang. Lãng phí chăng? Đó là mồ hôi nước mắt của một công nhân quần quật lao động suốt một năm. Maria không nghĩ đến điều đó. Cô chỉ biết phải làm hết mình để đền bù công ơn mà con đã dành cho cô và cho gia đình cô. Con cũng không nghỉ đến điều đó. Con chỉ mãi mê nghĩ đến ngày mai táng của con sắp tới. Con muốn lấy cái chết của mình để mua lấy sự sống cho mọi người. Có một người nghĩ đến chuyện lãng phí này là Giuđa Ítcariốt.
- Tại sao không bán số dầu thơm lấy ba trăm đồng mà giúp người nghèo?
- Các anh còn dư thời gian và khả năng để lo cho người nghèo. Còn bây giờ phải nghĩ đến cái chết của Thầy.
Rất tiếc là Giuđa không thật tình thương người nghèo. Anh ta chỉ lợi dụng người nghèo và công tác từ thiện để làm giàu. Anh trách Maria là lãng phí, nhưng thực ra là anh mắng chính con. Gió bên đông, động bên tây. Chỉ có con người tham tiền mới hỗn với tôn sư của mình như thế. Con chấp nhận thái độ hỗn xược và cả con người phản trắc của anh ta. Con sinh ra là để cứu độ, nên con chẳng kết án và loại trừ. Con hy sinh mạng sống của mình để mọi người được sống.
Vườn cây dầu im phăng phắc. Nhưng bên kia thung lũng Xêrông cả thành Giêrusalem náo PiôHậu 184
Vườn cây dầu im phăng phắc. Nhưng bên kia thung lũng Xêrông cả thành Giêrusalem náo động. Trong đồn Antonia, Philatô cùng với sĩ quan cao cấp đang ngồi nhâm nhi rượu nho và lượng định tình hình chính trị trong ngày lễ Vượt qua sắp tới. Trong dinh Thượng tế công nghị đang tìm cách ám hại con. Trong các quán rượu, trong các gia đình quý phái bọn đàn ông đang tụm năm tụm ba bàn luận về một ngày đẫm máu sắp xảy ra. Bên lề đường, trên vỉa hè và ở bất cứ xó xỉnh nào, bọn thanh niên, bọn lang thang và khách hành hương dự lễ Vượt qua đều phấn khởi bàn tán và chờ đợi ngày phất cờ khởi nghĩa giải phóng dân tộc. Tất cả chỉ vì:
1. Con đã cho Ladarô phục sinh từ thân xác sình thối. Theo nguồn tin từ ông Nicôđêmô, thì hầu hết giới trí thức ở Giêrusalem đã tin con bởi Cha mà ra. Cũng ông Nicôđêmô cho biết rằng nội bộ công nghị đang chia rẽ trầm trọng. Chính vì thế Thượng tế đã đã vội vã tặng con án tử hình vắng mặt.
2. Sáng nay con cưỡi lừa vào Giêrusalem như một ông hoàng mới được phong vương. Hàng ngàn người miền Nam, hàng vạn người miền Bắc tầng tầng lớp lớp hô to khẩu hiệu:
- Vạn tuế vua Đavít!
- Hoan hô đấng Thiên sai!
Người ta trải áo xuống đường, người ta cầm cành ôliu trong tay phất như phất cờ. Vườn ôliu của bà Maria, mẹ của Máccô đã bị phá xơ xác. Quần chúng sôi sục, không cách nào cản nổi…
Sự kiện Ladarô sông lại đã loan đi tời tận hang cùng ngõ hẻm. Đó là động cơ chính của đám rước cuồng nhiệt hôm nay.
Các Răpbi chửi mắng quân chúng một cách vô hiệu. Lính La Mã trong tư thế sẵn sàng tác chiến, hàng ngủ chỉnh tề, đứng nhìn đoàn rước. Họ không can thiệp, vì thấy quần chúng không mang vũ khí.
Ngồi trên lưng lừa con cảm thấy cô đơn lạ thường. Quần chúng thì vô tâm vô tình. Ủng hộ đấy mà cũng đả đào đấy.Thương đấy mà cũng ghét đấy. Thượng tế và công nghị hay Philatô và quân đội đều phục vụ cơ chế hơn là nhân vị, bảo vệ quyền lợi hơn là chân lý. Mà con thì chỉ có chân lý.
3. Khi đoàn rước tới khuôn viên đền thờ thì tự động giải tán. Ngồi trên lưng lừa, con quán xuyến hết khu chợ. Các thầy Thượng tế chia lô và cho mướn. Hàng hóa ở đây rất hợp tình hợp lý. Khách hành hương cần mua chiên, dê, bò, bồ câu và chim gáy để dâng cúng. Người nước ngoài cần đổi tiền để bỏ thùng. Nhưng các Thượng tế đã lợi dụng cái hợp tình hợp lý này để làm giàu. Nhu cầu tôn giáo chỉ còn là phương tiện để đạt mục đích kinh tế. Lần đầu tiên con đến đây vào năm 12 tuổi, con đã cảm được điều đó và con đã quyết tâm phá cái chợ này…
Con giơ cao tay hét lớn:
- Các ngươi không được phép biến nhà cầu nguyện của Cha ta thành sào huyệt trôm cướp.
Không ai quan tâm. Các quầy hàng không nhúc nhích. Con nhảy phóc xuống, lượm dây luộc đánh đuổi chiên dê bò, đá lồng chim câu, xô bàn đổi tiền. Chiên dê bò chạy tán loạn. Vài con chim sổ lồng bay vút lên nóc đền thờ. Tiền cắc bắn tung tóe… Cả thương buôn lẫn lãnh đạo đền thờ đều nổi sung lên:
- Ông lấy quyền gì mà làm như thế?
- Các ông cứ phá đền thờ này đi, tôi sẽ xây lại trong ba ngày. Mọi người há hốc miệng, nhìn nhau, không hiểu gì…
Cha kính mến,
Mọi biến cố trên đều là những bậc thang đưa con tới cái chết vào ngày lễ Vượt qua sắp tới. Con cảm thấy hồi hộp lo âu. Con cũng cảm thấy vui mừng phấn khởi. Chỉ mong sao cho ý của Cha được thực hiện trọn vẹn.
Hôm nay Nicôđêmô cho hay quần chúng lại ngã về phía thượng tế; giới trí thức vẫn tin con là PiôHậu 185
Hôm nay Nicôđêmô cho hay quần chúng lại ngã về phía thượng tế; giới trí thức vẫn tin con là thiên sai, nhưng đã chấp thuận ý kiến của Thượng tế: “Một người chết, để dân tộc và đền thờ tồn tại”. Thượng tế đã lật được thế cờ như một phép lạ. Ông lý luận tuyệt vời như sau:
- Quý vị nói rằng Giêsu là người công chính, tôi đồng ý. Nhưng tin theo Giêsu rồi dân tộc ta bị người La Mã tiêu diệt và đền thờ Giavê bị phá hủy, thì lời hay lỗ? Hãy hy sinh Giêsu để bảo vệ đền thờ.
Không một người Do Thái nào đang tâm thấy nhà thờ bị tàn phá. Họ sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ đền thờ. Thế là cái đám quần chúng trải áo lót đường cho con đi hôm qua, hôm nay đã trở cờ. Họ vẫn thương con, nhưng họ thương bản thân họ hơn là thương con. Họ hy sinh con chứ không hy sinh bản thân của họ. Chân lý nhỏ hơn lợi lộc, họ vẫn nghĩ như thế.
Cha kính mến,
Con chấp nhận định mệnh mà Cha đã an bài cho con. Con phải chết để nhân loại được sống. Đó là niềm vinh dự cho con.
Sáng nay Giuđa đã đến hợp đồng với Thượng tế để nộp con. Khi trở về hắn vẫn tỉnh bơ. Hắn PiôHậu 186
Sáng nay Giuđa đã đến hợp đồng với Thượng tế để nộp con. Khi trở về hắn vẫn tỉnh bơ. Hắn đã giết chết lương tâm. Hắn có đủ mọi khả năng để làm giàu một cách bất hợp pháp.
1. Hắn rất kín đáo trong việc làm ăn bất chính. Hắn gặp Thượng tế và lĩnh 30 đồng. Không ai biết, kể cả Nicôđêmô và Giuse ở trong Công nghị. Kín miệng là một yếu tố thành công trong mọi việc bất chính.
2. Là một người dân tầm thường, thế mà hắn ngửi thấy mùi tiền ở trong túi giới quyền quý nhất. Hắn đánh hơi được nỗi lo âu của Thượng tế; “Làm thế nào để bắt tên Giêsu mà quần chúng không hay biết?”. Hắn nhào vào và kiếm chác. Hắn vớ được 30 đồng là mồ hôi nước mắt của một người thợ dầm mưa dãi nắng trong suốt 30 ngày.
3. Hắn là một người đàn ông quê mùa, vậy mà hắn chỉ nhìn thoáng một cái đã lượng giá được số dầu thơm mà Maria đã xức trên chân con: "Trị giá 300 đồng".
4. Hắn biết lợi dụng lòng đạo đức để làm giàu. Trên đường truyền giáo hắn đã moi được nhiều tiền trong túi những người hằng tâm hằng sản. Hắn đã quyên tiền cho công tác truyền giáo để có thời cơ ăn chận, ăn bớt. Chính hắn đã mắng con khi con để cho Maria đổ chai dầu quý giá trên chân con: “Tại sao không bán lấy 300 đồng mà giúp đỡ người nghèo”.
Hắn lợi dụng người nghèo để kiếm chác!
5. Hắn đóng kịch rất tài tình. Hắn đã nộp con để lấy 30 đồng. Đó là hành động phản trắc xấu xa, thế mà hắn vẫn tỉnh bơ, khiến không ai nghi ngờ và phát giác được, kể cả Gioan, một thiên tài trực giác.
6. Lương tâm hắn đã chết, nên không còn liêm sỉ. Hắn vẫn cứ cười cười nói nói dù hắn biết rằng con đã thấy hết ruột gan của hắn. Hắn làm nô lệ cho tiền bạc. Hắn sẵn sàng hy sinh tất cả và làm tất cả, miễn là có tiền. Nếu các đệ tử của con biết được hắn đã phản Thầy, thì chắc chắn có đổ máu. Phêrô và Gioan sẽ “nhân danh Chúa, tôi bóp cổ hắn”. Giết hắn đối với linh đạo Do Thái, là một bổn phận, là lẽ công bằng, là sự thánh thiện. Vì thế con giữ kín hành động xấu xa của hắn. Và con sẽ còn tiếp tục đối xử tốt với hắn cho đến giây phút cuối cùng.
Đêm nay sẽ là đêm cuối cùng. Ngày mai con sẽ thọ nạn để hoàn tất công trình cứu độ mà Cha PiôHậu 187
Đêm nay sẽ là đêm cuối cùng. Ngày mai con sẽ thọ nạn để hoàn tất công trình cứu độ mà Cha đã trao phó cho con. Con quyết tâm tổ chức bữa tiệc vượt qua tại nhà bà Maria. Con sai Gioan và Phêrô đến đó để chuẩn bị. Bữa ăn đêm nay là bữa ăn vui nhất của toàn dân Do Thái. Nhưng lại là bữa cơm buồn nhất của 13 thầy trò chúng con. Ngoài những mẫu tâm sự buồn tê tái, con quyết tâm thực hiện hai việc:
1. Dạy đệ tử bài học quan trọng nhất: người lớn nhất phải là người nhỏ nhất, khiêm tốn và phục vụ mọi người. Đây là bài học làm con nhức nhối suốt ba năm qua. Cho đến giờ phút này bài giáo huấn ấy đối với đệ tử của con vẫn chỉ là nước đổ đầu vịt. Họ tham quyền, tham lợi từ móng chân đến sợi tóc.
Nói mãi rồi mà vẫn không có kết quả. Đêm nay, con sẽ lấy nước rửa chân họ, để họ chột dạ mà nhớ đời cái bài học khiêm tốn và phục vụ này…
2. Đã đến giờ phút chia ly. Con không chấp nhận chia ly với những người thân mà Cha đã ban cho con. Con vâng lời Cha mà về với Cha, nhưng con vẫn phải ở lại với người thân thương của con. Con sẽ biến bánh mì và rượu nho trở thành thịt con và máu con. Con sẽ ra lệnh cho các người thân yêu của con: “Hãy cầm lấy mà ăn… Hãy bưng lấy mà uống…”. Thế là xong. Ra đi mà vẫn ở lại. Con sẽ trở nên MỘT với người thân yêu của con. Và con sẽ ở với họ MÃI MÃI. Thời gian như ngưng đọng. Không gian như mất thể tích…
Dù có bị bắt, dù có bị hành hạ, dù có bị giết… Con vẫn ở TRONG người yêu và ở MÃI MÃI với người yêu mà Cha đã và sẽ trao ban cho con.
3. Sân dinh Thượng Tế không còn nhộn nhịp nữa. Các rắpbi đi ngủ. Các gia nhân đi ngủ. Các ngọn PiôHậu 188
3. Sân dinh Thượng Tế không còn nhộn nhịp nữa. Các rắpbi đi ngủ. Các gia nhân đi ngủ. Các ngọn đèn vụt tắt. Chỉ còn lại bếp lửa nổ tí tách ở giữa sân. Bọn vệ sĩ không còn ham thích trò chơi “mèo vờn chuột” nữa. Chúng tụ tập quanh bếp lửa, nhấm nháp ly rượu nồng và cười đùa nói chuyện tục tĩu… Con ngồi một mình trên bậc thềm. Gió khuya lạnh buốt, thấm qua áo, thấm vào gia thịt, làm ê ẩm những chỗ bị đánh…
Gioan khoác nhẹ lên mình con một tấm mền dầy. – Thằng Giuđa nó phản Thầy. – Biết. – Nó mới lãnh 30 đồng tiền thưởng. – Biết. – Đồ phản phúc. – Chỉ là yếu đuối. – Con sẽ giết nó. – Không. – Máu đền máu. – Không. – Con sẽ trả thù cho Thầy. – Không. – ?!… Thầy không khôi phục được Ítraen sao? – Có. – Chừng nào? – Anh sẽ hiểu… – Để con ra cổng dẫn anh Phêrô vào.
Tội nghiệp Phêrô, anh ta đi theo Gioan lẽo đẽo và lấm lét như đứa con nít đi theo mẹ vào chợ. Nhiệt thành nhưng nông nổi. Bạo phát nhưng bạo tàn. Hồi nãy anh tuốt gươm chém người ta, rồi bỏ chạy mất dạng. Bây giờ anh làm gan đến đây để an ủi con, nhưng rồi sẽ chối con như người dưng nước lã. Anh là biểu tượng của tội – lỗi – và – ơn – thánh… Con yêu anh ta da diết và gửi gắm “đoàn chiên” cho anh. Anh sẽ ngã, nhưng anh sẽ chổi dậy, sẽ khiêm tốn phục vụ và xây dựng niềm tin cho anh em.
4. Sáng thứ sáu. Trời còn nhá nhem, sân dinh Thượng tế dã dầy người. Toàn là bậc vị vọng. Vầng trán ưu tư. Ánh mắt dò hỏi.
– Kết án tử hình cho hắn, tưởng là xong, ai ngờ… còn nhiêu khê quá. Tội lộng ngôn là tội nội bộ tôn giáo, Philatô không chịu xử đâu.
– Thì tố cáo nó phạm tội chính trị: chống thuế, xưng vương…
– Nó làm chính trị hồi nào?
– Thì chụp mũ – Thì hù dọa…
– Như vậy thì sai LUẬT.
– ? … Ừ thì sai LUẬT, miễn là đền thờ không bị tàn phá, cơ chế chúng ta còn tồn tại. Chúng ta phải nhân danh Chúa mà giết nó. Nó sống thì chúng ta chết… Công lý là của lịch sử còn cái ghế và cái nồi mới là của chúng ta.
Núi Sọ, trưa thứ sáu. Trời nắng như đổ lửa, không một làn gió. Không một gợn mây. Miệng khô khốc, họng nóng ran….Cha ơi, xin cứu con với!
Cây khổ giá độc ác đang nằm chình ình ở kia. Nó nôn nóng chờ con. Không xót thương…
Con bị treo toòng teng giữa trời và đất. Đất không đỡ nâng, trời không che chở. Đau ở tay, đau ở chân. Dướn mình lên để đỡ đau ở tay, thì lại đau quá ở chân. Đu thân lên để đỡ đau ở tay, thì lại đau quá ở chân. Vết đinh ở tay và chân cứ tét mãi ra. Con quằn quại, co quắp. Con gồng lên để chịu đựng, càng gồng, càng đau. Ngực bị ép lại, thở không được. Hổn hển. Hoi hóp…
Con ngước mắt nhìn lên. Chỉ thấy bầu trời cao xanh: xanh thăm thẳm, cao vời vợi… Con không thấy Cha… Cha ơi! Tại sao Cha nỡ bỏ con?! Con cứ nhìn mãi vào bầu trời cao xanh. Và… con đã thấy Cha. Con thôi quằn quại. Con thôi co quắp. Con quên cả đau đớn.
Con nhìn xuống mặt đất… loài người ác độc hơn thú dữ. Người trói người. Người đánh người. Thú dữ giết người thì chẳng có bao nhiêu. Người giết người thì tầng tầng lớp lớp, chất đầy không gian, lấp đầy thời gian. Muông thú ăn thịt người vì đói. Người giết người vì hận thù. Hận thù chồng chất – Hận thù khoác áo tôn giáo. Hận thù mặc áo pháp đình. Hận thù đội lốt tình yêu… “Nhân danh Chúa, tôi diệt chúng”. “Nhân danh…”, “Nhân danh…”. Cuối cùng vẫn chỉ là Người giết Người.
NGƯỜI ơi, thôi đừng giết nữa! Hãy yêu thương và tha thứ!
Cha kính mến,
Cha đã yêu thương loài người đến độ cho con làm người, bắt con hy sinh để cứu loài người. Chính loài người lại trói Con, hành hạ Con và đóng đinh Con. Nhưng lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ là người mà Cha đã yêu thương, mà con đã cứu độ.
Cha ơi, Con yêu Cha, Con yêu loài người – Người ơi, tạm biệt. Cha ơi, xin đón nhận hồn con…
Sáng nay con giật mình thức giấc, mùi lô hội thơm ngào ngạt, mở mắt ra, trời tối như mực. Con PiôHậu 189
Sáng nay con giật mình thức giấc, mùi lô hội thơm ngào ngạt, mở mắt ra, trời tối như mực. Con ngồi dậy, nhưng toàn thân bị bó cứng như con nhộng bị giam trong tổ kén. Con lần mò gỡ từng nuộc vải, gom lại thành mớ. Mỗi nuộc là một kỉ niệm quý giá… ngồi trong bóng tối, con tưởng niệm về Cha.
Bỗng đất rung lật bật dưới gan bàn chân. Rầm một cái, cửa mộ bật tung. Bụi cát bay mù mịt trong ánh sáng bình minh nhạt nhòa. Con bước ra ngoài. Đội lính đền thờ cùng hét lên một tiếng, rồi chạy biến mất trong làn sương mai dày đặc.
Con đứng trước cửa mộ, nhìn ngắm vết đinh còn ghi trên cổ tay và trên bàn chân. Một vết đâm thật rộng còn ghi trên sườn trái. Một cảm giác lạ lùng chạy rần rần trên khắp cơ thể. Con đang đi vào một thế giới mới, một thế giới bồng bềnh giữa linh hồn và thể xác. Thể xác giãn nở trong không gian vô tận và trong thời gian vĩnh cửu. Vĩnh cửu và vô biên đang đọng lại trên đầu ngón tay giữa của con…! Không gian vô tận đều nằm trong tầm tay với. Quá khứ vĩnh hằng cũng như tương lai vô biên đều đang sờ sờ trước mắt. Con thấy tất cả, con hiểu tất cả. Con cảm nghiệm rằng đó là thân xác mà Cha đã cho sống lại. Thân xác bị đóng đinh và thân xác phục sinh giống như con sâu và con bướm. Con sâu ăn lá của cây, con bướm hút mật của hoa. Con sâu bò lồm cồm trên mặt lá xanh biếc, con bướm bay chập chờn trên ngàn hoa muôn sắc. Con sâu là tiền thân của con bướm. Con bướm là hậu thân của con sâu. Tuyệt vời!
Lạy Cha con cảm tạ Cha, vì Cha đã cho con phục sinh từ cõi chết, vì Cha đã nâng thân xác con lên ngang tầm với linh hồn.
Cha kính mến,
Ngày hôm nay có nhiều biến cố xảy ra.
1/ Bọn lính gác đã hoảng hồn khi đất rung chuyển. Họ hết hồn khi thấy con từ trong mộ bước ra. Họ ba chân bốn cẳng chạy về đền thờ.
-Thưa các Thầy, ông GIÊSU sống lại thật!
- Đồ ngu! Chết là hết, chứ làm sao mà sống lại được.
- Xin các thầy ra mộ mà xem. Cửa mồ lật ngữa ra. Và ông ta ra đứng ở cửa mộ. Đúng là ông ta trăm phần trăm.
- Chết cha rồi! Ông ta mà sống lại, thì tụi mình phải độn thổ hết. Cơ chế này phải sụp đổ…
- Đã đâm lao thì phải theo lao. Đây tiền đây, cầm lấy. Không được nói là nó sống lại. Ai nói nó sống lại thì bị vạ tuyệt thông tức thì. Cứ nói đại thế này: "Môn đệ của hắn đã đánh cắp xác hắn mang đi rồi! Chúng tôi không ngờ, nên ngủ quên hết“.
- Nói thế không được đâu. Lính gác mà ngủ, thì ông Philatô chém đầu tụi tôi hết.
- Các anh yên tâm. Chúng tôi sẽ thương lượng với Ngài Tổng trấn. Dù tốn một chục cân vàng, chúng tôi cũng phải lo.
Quả vậy, Philatô là nhà quân sự lão luyện, ông không thể bỏ qua lính gác mà ngủ quên. Ông cho mời thượng tế tới dinh để thẩm vấn. Ông cũng muốn nhân dịp này để trả thù Thượng tế và công nghị, vì ông bị họ dồn vào thế phải trao con cho họ để đóng đinh. Nhưng cuối cùng thì vàng đã giải quyết tất cả.
+ Philatô thì được một đống vàng mà không mất một giọt mồ hôi. Ông ôm vàng, nhưng là vàng của đền thờ. Lấy vàng của đền thờ để che lấp tội ác của mình. Nhất cử lưỡng tiện. Cơm còn, ghế còn, chỉ mất chân lý thôi. Cả thượng tế lẫn Philatô đều một quan điểm: "Chân lý là cái quái gì?"
2/ Maria Mác-đa-la thò đầu vào cửa mộ. Thất vọng! Cô chạy về báo tin khủng khiếp này cho Phêrô và Gioan.
- Xác Thầy không còn ở trong mộ nữa! Hu… Hu…
- Tại sao chị biết?
- Cửa mộ toang hoác hà! Trời ơi là Trời! Thế này là thế nào? Các anh đi kiếm ngay đi! Đàn ông gì mà…
Mác-đa-la là mẫu người cực đoan: sa đọa đến tận cùng, thì hoàn lương cũng đến tột đỉnh; thương đến nơi mà ghét cũng tới chốn; đã làm thì không ai cản được. Và cô cũng chẳng thèm sợ ai. Bây giờ lại đến đây. Ngồi đó mà than. Bất cần đời . Cô chửi từ Caipha cho tới Philatô. Cô trách Nicôđêmô là bất lực. Cô chê hết bọn đàn ông là hèn nhát đã không cứu được mạng của con…
Để chấm dứt tình trạng nổi loạn của Mác-đa-la, con hiện hình và hiện hình từ từ để cô ấy không bị "sốc".
- Này bà sao bà khóc? Bà tìm ai vậy?
- Thưa ông, tôi cắn cỏ lạy ông, nếu ông dời xác Thấy tôi đi đâu, thì xin cho tôi hay để tôi đưa Người về. Tôi xin đền ơn ông: bao nhiêu cũng được, cái gì cũng được…
- Maria, Thầy đây!
- Thầy!… Mác-đa-la ôm ghì lấy chân con, như để không còn bao giờ lìa xa nữa.
- Maria, buông Thầy ra! Thầy đã sống lại rồi, chẵng bao giờ chết nữa đâu mà sợ. Hãy về báo tin mừng này cho các anh em. Thầy được Chúa Cha cho sống lại. Người là Chúa của Thầy và là Chúa của anh em hết thẩy …
Nói rồi con biến đi. Maria đứng ngơ ngác một lúc rồi hớt hãi ra về – vừa đi vừa chạy…
Con tạm biệt ngôi mộ thân thương, ghi khắc đầy kỷ niệm, để đi vào nội thành. Phố xá tối om PiôHậu 190
Con tạm biệt ngôi mộ thân thương, ghi khắc đầy kỷ niệm, để đi vào nội thành. Phố xá tối om. Nhà chị Maria: cổng đóng kín mít, cửa đóng im ỉm. Cô Rôđê đang ngồi bên thềm, nhai kẹo nhóp nhép. Các đệ tử của con ngổi phệt trên nền nhà! Bơ phờ, chán chường, uống rượu giải sầu. Rượu vào thì lời ra.
- Tớ theo Thầy suốt ba năm, trước các cậu hết thảy. Cứ tưởng bở, ai ngờ xôi hỏng bỏng không. Không một đồng lương dính túi – Không một cái kẹo cho con. Hôm Thầy cưỡi lừa vào thủ đô, tớ cứ tưởng là Thầy phất cờ chiến thắng. Tớ thề với đồng hương Bétxaiđa và Capharnaum rằng tớ sẽ kéo quân về, san bằng cái đồn Capharnaum, làm cỏ bọn không cắt bì… Bây giờ tớ không dám vác mặt về đó nữa. Độn thổ còn hơn…
- Cậu nói nhiều quá. Đúng là cái vạ mồm, nhưng tớ biết là thế nào cậu cũng lại về Capharnaum và lại đi khơi. Cậu xấu hổ ba bữa là cùng. Cậu giống hệt cái chong chóng. Thề theo Thầy, rồi bỏ trốn. Vung gươm chém người ta, rồi vứt gươm bỏ chạy. Làm gan vào dinh Thượng tế, rồi đi ra, khóc hù hụ như bà…
- Thôi đừng chế giễu nhau nữa. Tất cả chúng ta đều lỡ trớn, tiến thoái lưỡng nan. Bây giờ về sống với hội đường, thì sẽ bị các luật sĩ loại trừ, các đồng đạo sẽ nhìn mình bằng một nữa con mắt. Cơm ăn áo mặc thì mình gầy dựng lại được, còn uy tín thì… coi như tiêu tùng. Nhục suốt đời !
- Em cho rằng chúng ta đi đúng đường, nhưng chúng ta lại suy nghĩ sai. Chúng ta theo Thầy là đúng. Chúng ta nghĩ Thầy sẽ làm vua là sai. Em tin chắc là Thầy đã sống lại. Còn gì nữa thì em chưa hiểu. Sáng nay em thấy ngôi mộ trống không, nhưng cách xếp cái khăn liệm là của Thầy…
Con hiện hình, vén áo ngồi xếp bằng trước mặt họ. Mọi người hốt hoảng ôm choàng lấy nhau.
- Ma, mày ơi!
- Thầy đây, đừng sợ! Chúc bình an… Ma không có xương thịt như vậy đâu. Này, lại đây rờ xem. Đưa bánh đây Thầy ăn cho mà coi…
Gioan vụt chạy xuống nhà bếp. Các bà phụ nữ ùa lên, phá tan bầu khí ảm đạm. Tíu tít. Lăng xăng.
- Thầy!
- Thầy!…
Con kéo Mẹ ngồi xuống bên cạnh. Các bà giành hết chỗ trước, đẩy lùi các ông về phía sau các bà giành nhau nói. Còn các ông chỉ im lặng. Các bà tố cáo các ông là cứng lòng tin. Các ông chỉ mỉm cười độ lượng. Bầu khí cởi mở và yêu thương tràn ngập căn phòng lớn. Chưa bao giờ Thầy trò cảm thấy thân thương đến thế.
- Thầy chúc anh chị em có một tâm hồn bình an. Bình an của Thầy là niềm vui bất khuất trước mọi nghịch cảnh. Anh chị em sẽ cảm nghiệm lần lần thứ bình an này của Thầy. Thầy sẽ còn gặp anh chị em và sẽ nói về Thần Khí… Chào Mẹ, chào anh chị em, hẹn gặp lại.
Con biến đi và trở về ngôi mộ lịch sử. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Tiếc hùi hụi… Tất cả mọi người tràn ngập niềm vui, cùng hướng về Mẹ. Chìm lắng và ngây ngất… Ôi thương Mẹ vô vàn!
Đoàn thuyền của Simon đã gần cập bến. Trên mũi thuyền về đầu vẫn là Simon, đứng hiên ngang PiôHậu 191
Đoàn thuyền của Simon đã gần cập bến. Trên mũi thuyền về đầu vẫn là Simon, đứng hiên ngang và anh dũng… và có Gioan đứng bên cạnh.
Con hiện hình trên bãi.
- Này các bạn, có đồi mồi không đấy?
- Không có lấy một bữa nhậu…, mệt nhưng vui lắm ông ạ!
- Ráng thêm một chút đi. Thả lưới bên phải thì sẽ có cá.
Họ lại ra đi, vui thì không biết mệt. Thương nhau thì không biết nản lòng. Chỉ vài giờ sau họ đã trở về, sung sướng như vớ được vàng. Con vẫn đứng chỗ cũ, nhìn ngắm đoàn người chiến thắng trở về. Simon ở trần trùng trục. Cơ bắp nổi lên như rễ cây, cười đắc thắng.
Bỗng Gioan phát giác ra con.
- Anh Simon, Chúa đấy, Thầy đấy!
- Thiệt hả mày?
Simon nhảy tùm xuống hồ để che giấu cái trần trụi. Từ ngày con phục sinh, Simon không còn sống hồn nhiên với con như trước nữa. Cả Simon lẫn Gioan không còn muốn gọi con là Thầy nữa, họ bắt đầu gọi con là Chúa.
Tất cả đều lên bờ quây quần bên bếp lửa đang nổ tí tách. Cá nướng vàng rộm. Bánh mì thơm thơm, béo béo. Họ vừa ăn vừa nhìn trộm con. Vừa thương vừa mến. Vừa thân vừa kính. Và… mỗi người vẫn có một chút mặc cảm tội lỗi, nên tuy thương mà vẫn nem nép sợ hãi.
- Ăn xong rồi, thì các anh đi gom cá, giặt lưới. Thầy muốn nói chuyện riêng với Simon và Gioan.
- Dạ.
Con dẫn hai đệ tử ưu tú này đi dạo trên bãi cát.
- Phêrô, anh có mến Thầy hơn những anh em khác không?
- Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy.
Con hỏi ba lần câu này, khiến Phêrô chột dạ. Anh đã lột xác. Trước kia anh bạo phổi chừng nào, thì bây giờ anh dè dặt chừng nấy. Chính anh đã chối từ con ba lần. Đã ngã ba lần, sa ngã nhiều lần đã biến Phêrô thành con người khiêm tốn. Một người lãnh đạo khiêm tốn, đó là điều con hằng mong muốn. Người lãnh đạo khiêm tốn là người lãnh đạo đúng đắn nhất.
Sau khi anh tỏ lòng khiêm tốn, dè dặt, con mới trao sứ mạng lãnh đạo cho anh:
- Anh hãy chăn chiên con và chiên mẹ của Thầy.
- Thưa Thầy, rồi tương lai của chúng con sẽ ra sao?
- Tương lai hả? Hãy phó thác cho Cha Thầy. Nhưng chắc chắn một điều là đời con sẽ là vào tù ra khám và… cuối cùng thì con sẽ phải chết như Thầy vậy.
- Còn thằng này thì sao Thầy?
- Gioan hả? Đó là chuyện của nó, anh đừng sen vào. Nếu Thầy để nó ở lại cho tới ngày Thầy tái lâm, thì chẳng mắc mớ gì tới anh. Phần anh, anh cứ theo Thầy leo lên cây khổ giá là được rồi.
Cả Phêrô lẫn Gioan bây giờ đã hiểu thế nào là khổ nạn, thế nào là phục sinh. Họ im lặng đi bên con – Yêu thương thắm thiết – An vui diệu vợi – Phó thác tuyệt đối.
- Thôi hai anh trở lại với anh em và dặn họ phải về Giêrusalem gặp Thầy lần chót trước lễ Năm mươi chừng 10 ngày. Chúc bình an!
Sáng nay mình tới UBND xã để trao đổi về việc sửa chữa khẩn cấp của ngôi trường bị sập. Bốn PiôHậu 192
Sáng nay mình tới UBND xã để trao đổi về việc sửa chữa khẩn cấp của ngôi trường bị sập. Bốn trường trong ấp bị sập hoàn toàn. Hơn sáu trăm học sinh bơ vơ như trẻ thơ không mái ấm. P.P. giúp 20 triệu, xã phụ thêm 7 triệu. Thế là một ngôi trường đầu tiên được phục hồi sau cơn bão số 5. Mái trường sẽ đẹp hơn và ấm hơn. Ông Chủ tịch tâm sự:
- Hôm qua có một phái đoàn cứu trợ đến tặng quà. Bà con giành giật mất trật tự quá xá. Người thì được hai ba bọc, người thì chẳng được tí gì, chửi bới um sùm. Mất thể diện quá!
Đó là quy luật. Cung-cầu không cân bằng thì gây xáo trộn.
Cầu quá lớn mà cung quá nhỏ thì gây nên đại họa. Luật cung-cầu này không chỉ đúng trong lãnh vực kinh tế mà còn đúng cả trong lãnh vực tôn giáo và đạo đức nữa.
Năm 1989 mình đến thăm một họ đạo thuộc tỉnh Phú Thọ. Cha xứ mời mình ngồi tòa. Tòa giải tội rung rinh như có động đất. Mình đứng dậy ra quan sát tình hình. Thật là khủng khiếp. Thật là quái gở. Một rừng người chen lấn nhau một cách hổ lốn. Tại tòa có ba người cùng quỳ: người ở giữa thì xưng tội, người ở bên tả bên hữu thì lấy ngón tay trỏ thọc vào lỗ tai, để khỏi lỗi ấn tòa. Cả hai đều ở thế tấn công để chiếm ngay vị trí của người vừa xưng tội xong...
Có một người đàn ông bốc vội thằng cu tí bỏ ra ngoài, để chiếm chỗ của nó: "Mày là trẻ con. có tội gì nặng đâu mà xưng. Mười năm nay tao chưa được xưng tội” .
Giận quá! Nhưng suy cho cùng thì đó cũng chỉ đơn giản là luật cung cầu. Linh mục ngồi toà thì quá ít, mà giáo dân muốn xưng tội thì quá nhiều. Có người trong suốt hai thập niên chỉ được giải tội tập thể mà thôi.
Mình vẫn còn ghi khắc một kỷ niệm nữa về luật cung-cầu, ở bến xe Cà Mau, trong thời xe cộ khan hiếm. Chỉ có mỗi chiếc xe cà tàng sửa soạn đi Cần Thơ, thế mà hành khách thì đông như hội chợ. Bộ đội có, ông già có... thậm chí bà bầu cũng có. Trập trùng. Lố nhố. Bỗng có một ông thầy tu khoẻ mạnh len lỏi, luồn lách, lạng bên phải, lạng bên trái, bất chấp ông già, bà bầu. Ổng lọt vào được cửa xe, chạy vội ra khung cửa sổ kêu ơi ới:
- Dì Tám ơi! Lại đây nè!
Thế là ông lôi bà phước chui qua cửa sổ, chiếm gọn ngay một băng hai, rồi cười sung sướng như kẻ vừa chiến thắng vẻ vang. Đấy khi cầu quá lớn mà cung quá nhỏ, thì một ông thầy tu, một bà phước... cũng sẵn sàng "mất nết” một cách vô tư như thế.
Hôm nay mình gửi cho xã 500 phần quà. Mỗi phần quà gồm có một bọc quần áo cũ, mới, vài ba bao mì ăn liền... và một bọc 5 ký gạo. Bảy ấp cho người đến nhà thờ lấy về phân phối cho nạn nhân. Riêng ấp Cái Rắn A thì phát tại chỗ.
Khi bọc quần áo thứ 73 được trao cho ông trưởng ban thì trong kho có tiếng la: - Hết. - Như vậy là thiếu 27 bọc quần áo. Bọc gạo thì còn dư nhiều lắm. Bây giờ tính sao đây ông cố?
- Bây giờ ai đồng ý thì lãnh một bọc gạo nữa thay cho bọc quần áo. Ai không đồng ý thì chờ ít ngày nữa.
- Tôi cần quần áo: rách hết, bay hết rồi. Gạo thì tôi chưa cần. Ở nhà tôi còn năm giạ lúa nữa.
- Còn tôi thì đồng ý lấy hai bọc gạo.
Có tiếng trẻ con khóc oà lên. Dòm lại, mình thấy một thằng cu tí chừng sáu tuổi đang khóc thổn thức. Mình hỏi mẹ nó:
- Tại sao nó khóc vậy?
- Nó khóc vì không được lãnh quần áo. Nó chỉ có một cái áo này là coi được.
Tiếng khóc của trẻ thơ làm mình xót xa. Mơ ước của nó thật là nhỏ bé... thế mà bỗng trở thành không tưởng. Tại sao trẻ thơ phải khổ đến thế nhỉ? Mình không ngăn được giọt lệ. Chạy trốn về phòng, đóng cửa lại, khóc một mình.
Bão số 5 giật sập nhà thờ, lột mái nhà xứ..., mình không hề nao núng. Thế mà hôm nay mình không cầm lòng được khi thấy những người đàn bà kẹp ở nách một cái bao ni-lông xẹp lép, ra về một cách tuyệt vọng, giận hờn... Vết chém của bão số 5 nhanh quá, không kịp đau. Bây giờ mới thấm.
Đức cha Mẫn đã đến Cà Mau từ chiều hôm qua. Mình buột miệng nói với ngài:
- Muốn mời Đức cha vô thăm Cái Rắn quá sức mà vẫn cứ phân vân.
- ? …
- Sợ một ảo tưởng. Người ta nghĩ rằng Đức cha sẽ cho nhiều tiền lắm. Người ta sẽ bu quanh Đức cha, kéo áo Đức cha và… Đức cha không có đường rút…
Mình liên tưởng đến một con cò mẹ có một bầy cò con. Cứ mỗi lần cò mẹ mỏi cánh tha mồi về tổ, thì cả bầy cò con há mỏ chờ đợi. Quạc, quạc. Nhưng chỉ có một đứa được toại nguyện. Cò mẹ lại bay đi. Những cái mỏ mở toang hoác vẫn còn đó. Hy vọng và tuyệt vọng.
Ngồi nói chuyện lan man với Đức cha, mới thấy bão số 5 đẻ ra vô số vấn đề.
- Có một người đàn bà than thở với bạn: "Bên Công giáo các chị được Ông Chúa báo trước, nên không ai chết chìm. Bên đạo chúng tôi chết nhiều quá!"
- Chuyện gì nữa vậy?
- Ở vùng Duyên Hải, Vũng Tàu, Phước Tỉnh... giáo dân đi khơi đều kéo nhau về hết từ ngày 1-11 để dự lễ Các Thánh Nam Nữ và Các đẳng Linh hồn. Nhờ đó mà thoát chết.
- Ở Cái Rắn cũng có tiếng đồn: "Trời thương bà phước hơn ông cha. Mái nhà ông cha lợp bằng fibro thì bể hết. Mái nhà bà phước lợp bằng lá thì còn nguyên. Hai cây me mọc ở hai góc nhà bà phước đều đổ ra phía ngoài".
- Bão mà cũng biết phân biệt đối xử sao ta? Sở dĩ cây me đổ ra phía ngoài, vì theo bản năng sinh tồn, nó đưa hết rễ ra phía ngoài, vùng đất có nhiều muối khoáng và nước. Nhất nước, nhì phân mà. Đất nền nhà vừa khô vừa chua. Thế là mạnh phía ngoài và yếu phía trong. Hai cây me này giỏi về mặt kinh tế và dở về mặt quốc phòng. Nhờ thế mà bà phước thoát chết.
Bão số 5 ơi, mi đã đến và mi đã đi, không kèn không trống. Mi không nhiều lời, mà tại sao loài người nhiều lời đến thế?!
Mình vội chạy ra bến. Áo thun cụt tay. Có ai đó đang kè Đức cha từ dưới vỏ lên.
- Đêm qua mưa, khí hậu ẩm thấp, chân tôi lại sưng lên và đau khớp.
Đức cha chỉ kịp ăn cơm trưa. Bữa cơm giản dị dưới mức trung bình. Ăn xong Đức cha lại xuống vỏ đi thăm Khánh Hưng và Thời Hưng. Ngài nói thật nhỏ bên tai mình:
- Tôi có chút quà gởi cho bà con. Mai cha ra Cà Mau mà lấy.
Tình yêu của một người cha nhưng lại khéo léo như tình yêu của một người mẹ. Tình yêu âm thầm. Tình yêu dấm dúi.
Chiều hôm nay mình đang dâng lễ thì có khách: khách Sàigòn, khách Vườn Xoài. Toàn là phụ nữ, trừ một người vừa to vừa cao. Nghỉ đêm. Muỗi như trấu, lì như trâu, cắm vòi xuyên qua quần jean, xuyên qua chiếu dày. Người đẹp mất ngủ.
Sáng nay, các bà nhao nhao lên:
- Cha cho tụi con đi thăm bé Linda, bé ra đời vào đúng lúc bão giật sập nhà.
- Nhà nó ở xa lắm.
- Ông cố ơi, mẹ con nó về ở nhà ông nội rồi. Gần lắm rồi, con đưa các bà đi thăm mẹ con nó.
Các bà đua nhau bồng Linda và khen bé xinh. Tặng quà lia chia. Thăm hỏi rối rít và... le lưỡi vì Linda là đứa con thứ tư của một người mẹ trẻ như con gái!
Chiều nay khách đến rất đông: Mặt trận xã, Liên hiệp Phụ nữ xã, Dân chính ấp... Đề tài trao đổi là cứu trợ. Chuyện ngoài lề là những tiếng than: than vì chưa được cứu trợ; than vì được cứu trợ ít quá; than vì kẻ được người không. Cán bộ oán trách dân. Dân oán trách cán bộ. Người cứu trợ oán trách nạn nhân. Nạn nhân xâu xé người cứu trợ... Khổ ơi là khổ!
Cũng chỉ vì thiên tai của một thế kỷ; thống khổ của một trăm năm!
Vết thương của bão số 5 vẫn còn lở loét, nhưng rồi sẽ khép miệng và mọc da non. Bĩ cực rồi thái lai. Cứ chịu đựng và chờ đợi.
Lớp Thần học Nguyễn Văn Bình đến đây từ tối hôm qua, nhưng vì tối tăm và lấm lem, nên sáng nay chủ và khách mới nhìn rõ mặt nhau. Xơ Thảo ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa trao cho mình một lá thư và một gói quà cứu trợ. Bao giờ mình cũng nhận quà cùng với nụ cười của người trao tặng. Hôm nay thì không. Mình chờ nụ cười duyên dáng của xơ Thảo. Tuyệt vọng! Dường như xơ Thảo đang ấm ức điều gì đó. Giận mình chăng? Không. Hận đời chăng? Có lẽ thế. Lá thư nhảy nhảy trong bàn tay run run của xơ Thảo:
Ngày 4-12-1997
Kính gửi cha,
Thưa cha, chúng con là một nhóm bạn trẻ khuyết tật, vào đời với đôi chân khập khễnh. Sau hơn bốn năm phấn đấu sống tự lập nuôi bản thân. Hằng ngày chúng con sống bằng nghề may, thêu, buôn bán nhỏ, dạy học.
Chúng con có dành dụm được một số tiền để chống dột căn nhà chúng con đang ở. Nhưng vào thời điểm này, chúng con biết được một số lớn đồng bào ở Hậu Giang bị cơn bão số 5.
Đứng trước cảnh đau thương đó, chúng con cũng là những người bất hạnh. Chúng con ước mong có thật nhiều tấm lòng hảo tâm cùng góp sức để xoa dịu nỗi đau của đồng bào Hậu Giang, giúp họ sớm ổn định cuộc đời.
Chúng con xin kính nhờ cha chuyển giúp số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu chẵn) chúng con có, đến quý đồng bào đó.
Chúng con cám ơn cha và kính chúc cha một cuộc sống bình an.
Kính chào cha,
Thay mặt nhóm trẻ khuyết tật
Nguyễn Thị Mai
Đọc xong lá thư và nhìn năm triệu đồng nằm trần trụi trên bàn, mình cảm thấy tim thắt lại. Bây giờ mình mới hiểu cái ấm ức của xơ Thảo.
Các xơ đồng trinh, không sinh con, nhưng lòng mẹ của các xơ vẫn dạt dào như biển Thái Bình. Lòng mẹ ấy đùm bọc, nâng niu và nuôi nấng hàng trăm, hàng ngàn những đứa trẻ bất hạnh “vào đời với đôi chân khập khễnh . Dành dụm, chắt chiu mãi vẫn chưa sửa lại được mái nhà dột nát thì... đùng một cái, bão số 5 ập tới. Số người bất hạnh lại tăng lên hàng vạn, hàng triệu.
Những đứa con bất hạnh của các xơ lại phải quên cái bất hạnh ngổn ngang của chính mình, để cứu vớt những kẻ bất hạnh khác. Đau khổ thì trùng trùng điệp điệp. Bất hạnh thì tầng tầng lớp lớp. Thế mà vẫn có những người thờ ơ và tỉnh bơ... ném tiền qua cửa sổ. Lòng mẹ bao la đối với con cái, nhưng lại nhỏ hẹp đối với những người lòng chai dạ đá.
Hiền như ma-xơ, nhưng cũng ấm ức và hậm hực như ma-xơ, vì đời trớ trêu, vì đời bất công và vì… con của ma-xơ đã quá khổ, mà nay lại phải khổ thêm.
Hôm nay mình đi Sàigòn. Lá thư của Nguyễn Thị Mai vẫn được cất kỹ một cách trang trọng trong cuốn Giờ kinh Phụng vụ. Đọc kinh tối xong, mình lại đọc lá thư của Nguyễn Thị Mai, đại diện cho nhóm bạn trẻ khuyết tật "vào đời với đôi chân khập khễnh". Hôm qua đọc lá thư này, mình thấy xơ Thảo hậm hực, ấm ức. Hôm nay đọc lại thư này, mình thấy Nguyễn Thị Mai bừng lên như ngọn đuốc. Hôm qua đọc lá thư này, mình thấy đời là đống đổ nát, tàn tạ. Hôm nay đọc lại thư này, mình thấy trên đống hoang tàn bỗng mọc lên một bông hoa lạ, hương thơm ngào ngạt, tỏa lan theo làn gió mơn man.
Cám ơn Nguyễn Thị Mai. Cám ơn các bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Ngợi ca các bạn, vì các bạn không còn khập khễnh vào đời, mà đã dẫn đời vào con đường trơn nhẵn của tình yêu. Xin tặng các bạn "bông hoa lạ trên đống hoang tàn".
Mình tản bộ tà tà về phía đường Kỳ Đồng ngang qua nhà ga Hòa Hưng. Một chiếc xích lô lách vội một cái để tránh vũng nước, quệt vào cánh tay mình. Ui da! Cái đụng hơi đau ấy lại do một cái hang đá to đùng chất đầy chiếc xích lô... Thì ra Noel đã gần tới rồi!
Đã qua hai tuần Mùa Vọng mà mình chưa hề nghĩ đến lễ Giáng Sinh. Cả tâm lẫn trí cứ lang thang từ cứu trợ đến cứu trợ. Có một ông bạn hỏi mình:
- Lễ Giáng sinh năm nay anh chọn chủ đề nào?
- Chưa có trong trí khôn.
- Vậy năm nay anh tổ chức lễ Giáng sinh như thế nào?
- Chưa biết. Chỉ biết chắc là không có văn nghệ. Ông thầy và bà phước bù đầu vào công tác cứu trợ, không còn giờ nào để tập ca, tập múa.
- Vậy thì năm nay Giáng sinh sù?
- Không sù. Giáng sinh năm nay là bác ái: dựng nhà giùm cho nhau, tặng cho nhau những cây tràm cụt đầu, những cây so đũa bị chém treo cành, những tàu lá xác xơ, chia sớt cho nhau những lon gạo vơi đầy… Họ đạo Cái Rắn đã chuyển đến nạn nhân bão số 5 hơn 2.000 phần quà, 50 triệu tiền mặt, dựng lại hai ngôi trường trị giá mỗi ngôi trường là 20 triệu. Chánh quyền địa phương phụ vào mỗi ngôi trường 7 triệu... Và công tác cứu trợ vẫn còn tiếp tục, vì những tấm lòng quảng đại từ khắp nơi vẫn chưa cạn nguồn… Đó là Giáng sinh 1997 của chúng tôi... Được chưa?
- Tạ ơn Chúa.
- Và Giáng sinh 1997 của chúng tôi còn có nhóm bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Tuyệt vời!
Sáng nay mình đi làm lễ an táng cho ông Tư ở khu nhị tỳ, một khu bê bối và trễ nải nhất. Chỉ có PiôHậu 193
Sáng nay mình đi làm lễ an táng cho ông Tư ở khu nhị tỳ, một khu bê bối và trễ nải nhất. Chỉ có mấy gia đình mà gia đình nào cũng rối từ cha đến con. Chỉ ở cách nhà thờ từ hai đến ba cây số mà họ chẳng đi lễ bao giờ. Cách đây hai năm, vào một dịp Tết, mình đi thăm họ. Mình thả bộ theo ven sông. Thấy một gia đình có bàn thờ Chúa, bèn mò vô, cười cười nói nói như gặp lại người thân sau nhiều năm xa vắng. Cả nhà nhìn mình ngơ ngác, làm mình tẽn tò.
- Chú kiếm ai vậy ? - Tôi là linh mục, ngày Tết đi chúc tuổi bà con. - Cha hả? Cha "ngồi" họ nào vậy? - Tôi là cha sở ở đây nè. - Chúa ơi!...
Hôm nay mình lại bị tẽn tò một lần nữa. Họ mời mình tới làm lễ an táng. Thế mà mình vừa tới nơi, thì đã thấy động quan. Đạo tỳ khiêng hòm ra tới giữa sân. Ông địa cười toe toét, mặt tròn vành vạnh như trăng rằm, phe phẩy, phe phẩy. Những ngọn đuốc bốc khói khét lẹt đảo qua đảo lại. Bập bùng. Bập bùng. Bọn trẻ nít cười hí hí. Những vành khăn tang quên khóc, há miệng nhìn theo ngọn đuốc bập bùng lùa vào gầm quan tài, chui qua giữa hai cẳng đạo tỳ...
Sau giây phút tẽn tò, sau giây phút tò mò, mình quay gót. Tự ái bập bùng như ngọn đuốc của đạo tỳ...
Phải có biện pháp chế tài để chấm dứt những chuyện dị đoan mê tín. Cấm hẳn việc muớn đạo tỳ đốt đuốc đuổi quỷ. Ông địa không được phép phe phẩy và cười vô duyên bên cạnh nỗi thống khổ của chúng sinh...
Hôm nay cha phó đi làm lễ an táng cho ông Ba P. Trong bữa cơm tối ông kể chuyện.
Hôm nay sau thánh lễ, thì có múa lửa đuổi quỷ. Thằng quỷ chun vô gầm quan tài. Bị lôi ra đấu kiếm một hồi, hắn bỏ chạy...
Bà con coi đã hết sức!
- Có gì là dị đoan mê tín trong đó không?
- Biết đâu à ... Nhưng mà vui... Tánh anh Năm là vậy đó.
Thích làm nổi. Thích làm khác thiên hạ.
Mình không phát biểu gì, vì ý kiến tản mạn, không chịu đồng quy. Mình suy nghĩ xem phải đối phó thế nào. Phải cân nhắc để nếu có áp dụng biện pháp chế tài, thì lời phải nặng hơn lỗ. Mà lỗ thì chắn chắn phải có rồi.
Mình đi vắng một tuần. Bữa cơm tối hôm nay mình nghe báo cáo về sinh hoạt họ đạo.
- Bà Sáu đỡ chưa?
- Bà Sáu chết rồi. Lần nào ông cố đi vắng, thì ở nhà cũng có chuyện buồn, không chuyện này, thì cũng chuyện kia. Ông cố cứ đi vắng hoài, riết rồi người ta dị đoan mê tín như người ngoại.
- Ví dụ...
- Thì đám tang bà Sáu đó. Gia đình toàn là người trong Hội đồng giáo xứ mà đi rước đạo tỳ đến đuổi quỷ đuổi ma...
- Phải nghiên cứu kỹ đã rồi mới kết luận được. Có thể là dị đoan mà cũng có thể là văn hóa. Hội nhập văn hóa là khẩn cấp, nhưng không dễ đâu...
Nói đến đạo tỳ múa lửa đuổi quỷ là mình thấy nổi da gà lên rồi. Nhưng hôm nay mình thấy bình tĩnh hơn. Mình đang có điều kiện để tìm hiểu. Chỉ cần gặp ông Hai Hạo, Chi hội trưởng Chữ Thập đỏ xã là biết liền.
Hôm nay ông Hai Hạo đến chơi. Ông khoe đội mai táng của Chi hội Chữ Thập đỏ đã lập được nhiều thành tích trong xã. Rồi ông thở dài:
- May đồ cho đạo tỳ, mướn thầy về tập múa... hết hơn hai triệu. Còn mắc nợ đó mà chưa trả được. Linh mục có quỹ nào giúp cho Chi hội một mớ không?
Nói đến đạo tỳ tập múa, mình nghĩ ngay đến chuyện đuổi quỷ, đuổi ma. Không thèm nói chuyện nợ nần, mình bập ngay chuyện ma quỷ.
- Đạo tỳ múa lửa đuổi quỷ, có dị đoan mê tín không?
- Cái này là tích chuyện đời xưa mà.
- Chuyện gì?
- Nhan Quan là một ông quan có tài và có hiếu, nhưng trực tánh. Ông chống lại triều đình nhiễu nhương, nên bị truy nã. Nhan Quan trốn lên núi cùng với hai người bạn chí cốt. Ngày luyện võ, đêm nấu sử. Có lần ba anh em đánh cướp đoàn xe chở lương thực của triều đình đem chia cho dân nghèo. Thế là được dân yêu mến, ông tụ họp thêm được mười hai đệ tử nữa.
Ngày kia, cha của Nhan Quan chết. Triều đình biết rằng thế nào Nhan Quan cũng về thọ tang cha, nên cho tướng La Hầu mai phục để bắt Nhan Quan. La Hầu mặt mũi xấu như quỷ. Hắn về làng và ẩn nấp dưới gầm quan tài...
Quả vậy, đêm khuya tối mịt mù, Nhan Quan về làng theo ánh đuốc bập bùng của mười hai đệ tử. Được dân làng mật báo, Nhan Quan chuẩn bị chiến đấu. Hai võ tướng là Tả Hoàng và Hữu Hoàng thay phiên nhau vào nhà tìm La Hầu để đấu kiếm. La Hầu ra mắt. Không phân thắng bại. Cuối cùng Nhan Quan vào cuộc. La Hầu phải bỏ chạy. Mười hai đệ tử của Nhan Quan tiến vội vào khiêng quan tài đi chôn...
- Sự tích này là ở bên Ta hay ở bên Tàu?
- Không biết.
- Nhan Quan là quan của vua nào?
- Không biết.
- Nhan Quan là ông quan họ Nhan hay tên là ông Quan ? Quan có "g" hay không có "g"?
- Không biết.
- La Hầu là tên thật của y hay vì y có bộ mặt giống khỉ mà bị đặt tên là Hầu? Hầu là con khỉ. Con khỉ họ La.
- Biết đâu à.
Như vậy là vấn đề chưa được sáng tỏ. Nhưng mình thấy múa lửa trong đám tang là có tình và có lý. Trong múa lửa có HIẾU và có DŨNG. Nó vừa là văn hóa, vừa là đạo lý. Mình nói với ông Hai Hạo :
- Khi tôi chết, ông cho đạo tỳ đến múa lửa nhá!
- (Cười) Có một câu hỏi, linh mục chưa trả lời. Nhắm chừng linh mục có thể giúp Chi hội Chữ Thập đỏ một mớ để trả nợ cho hội Miễu Bà Chúa xứ không?
- Làm sao tôi dám hứa. Tôi chỉ là cái ống máng, chứ không phải là cái hồ. Trong ống máng chỉ có nước khi trời mưa. Mà khi nào trời mưa thì chỉ có trời biết. Xin hỏi trời, đừng hỏi ống máng.
Kính gửi đến ÔBACE cuộc phỏng vấn với Cha Pio Ngô Phúc Hậu về chủ đề Hôn nhân và hiện PiôHậu 194
Kính gửi đến ÔBACE cuộc phỏng vấn với Cha Pio Ngô Phúc Hậu về chủ đề Hôn nhân và hiện trạng Giới trẻ ngày nay của ban Truyền thông Hội SVCG TGP Hà Nội nhân dịp Ngài chia sẻ cùng Lễ truyền thống Hội SVCG TGP Hà Nội lần thứ 17 tại giáo xứ Nỗ Lực – Hưng Hóa.
Cha Piô Ngô Phúc Hậu: "TÔI THẤY LO LẮNG CHO GIỚI TRẺ BÂY GIỜ!"
LTS: Cha Pi-ô Ngô Phúc Hậu là một tác giả nổi tiếng với nhiều cuốn sách, bài chia sẻ rất được bạn đọc khắp nơi quan tâm, ngưỡng mộ. Nhân dịp cha đến tham dự, chia sẻ cùng Lễ truyền thống Hội SVCG TGP Hà Nội lần thứ 17 tại giáo xứ Nỗ Lực – Hưng Hóa, ban Truyền thông Hội SVCG TGP Hà Nội đã có cuộc phỏng vấn với ngài về chủ đề Hôn nhân và hiện trạng Giới trẻ ngày nay.
Khác với vẻ ngoài điềm tĩnh, nhân hậu như chính cái tên của Ngài, nhưng có mấy ai hiểu được bên trong tâm tư của Ngài luôn mang một nỗi niềm lo lắng cho thế hệ trẻ ngày nay.
Ban Truyền Thông đã có cuộc gặp gỡ và phỏng vấn ngắn với Cha Pio Ngô Phúc Hậu về nội dung mà Cha chia sẻ tại Lễ truyền thống Sinh Viên Công Giáo Tổng Giáo Phận Hà Nội (SVCG TGP HN) lần thứ XVII. Mặc dù tuổi Cha đã cao, tóc đã bạc, nhưng khi Cha chia sẻ lại rất trẻ trung, gần gũi với các vấn đề mà giới trẻ cần phải quan tâm, tìm hiểu và rất có ích cho cuộc sống.
+ Vâng, thưa Cha, con được biết Cha mới về chung vui Lễ Truyền thống SVCG TGP Hà Nội, sức khỏe của Cha thế nào rồi ạ?
_ Tôi cũng về được một lúc rồi. Vừa vào đến quảng trường thấy các bạn sinh viên năng động, bao nhiêu mệt mỏi của tôi đều tan biến. Tôi rất vui khi được về chung vui với các bạn.
+ Thưa Cha, đứng với cương vị một người lớn tuổi, Cha thấy thế nào về giới trẻ nói chung, sinh viên Công giáo nói riêng bây giờ thế nào về vấn đề tình yêu, hôn nhân?
_ Các bạn giới trẻ bây giờ được tiếp xúc với nền văn minh hiện đại, tất cả mọi tri thức. Nhưng với sinh viên Công giáo nói riêng phải sống theo một hướng tích cực, một xu hướng phát triển của những người trẻ, chứ không phải đi theo hướng đi xuống. Tôi nghĩ, các bạn sinh viên Công giáo sống có cái nhìn vừa phải. Tôi không nói các bạn sống đúng vì chính tôi cũng không dám khẳng định thế nào phải là “Đúng”. Nhưng cũng có một số bạn thì vẫn còn lối sống lệch lạc.
+ Chúng con được biết Cha sẽ chia sẻ về ” Tình yêu, hôn nhân trong Đức Kitô “, Cha có thể bật mí cho chúng con một chút về những điều mà Cha sẽ chia sẻ được không ạ?
_ Tình yêu, hôn nhân là những đặc ân thiêng liêng nhất mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Với thực vật, chúng có thể đơm hoa, kết trái, sinh sôi, nảy nở giống nòi là chúng có sự tình cờ giao phối, giữa chúng không có tình yêu. Nhưng đây cũng là sự an bài của Chúa dành cho thực vật. Sang đến động vật, động vật thì sống theo bản năng. Chúng giao phối với nhau theo những bản năng định sẵn trong cơ thể chúng. Giữa chúng thì không có tình yêu, và cũng không thể có sự ràng buộc của Hôn nhân, vì chúng đơn giản sống theo bản năng của chúng. Nhưng Chúa cũng đã an bài cho chúng để chúng có thể sinh sôi, nảy nở, di truyền giống nòi và phát triển như vậy.
Còn riêng với con người, tình yêu, hôn nhân là điều thiêng liêng, là hồng ân, có nghĩa phải có sự tương tác giữa Thiên Chúa và con người. Chúa đã an bài cho con người có ơn gọi hôn nhân, một vợ một chồng. Người con trai thì phải lìa xa cha mẹ của mình để mà kết hợp với người nữ trở nên một thân thể, để phát triền giống nòi. Tình yêu và tình dục luôn có mối liên hệ chặt chẽ và tương tác hai chiều với nhau, tình yêu của con người bao gồm cả tình dục.
Tình yêu có tình dục thì tình yêu thăng hoa. Nhưng nếu không có tình yêu mà chỉ có tình dục thì đó không phải là tình yêu mà là do bản năng của giống loài.
Vì vậy, thực vật thì tình cờ mà phát triển, động vật thì có tình dục, nhưng con người mà muốn phát triển thì phải có tình yêu lẫn tình dục. Tất cả mọi sự của con người, Thiên Chúa đã an bài, không thể thay đổi được nữa.
+ Vâng, vậy thưa Cha trong trường hợp có một đôi bạn trẻ có tình cảm với nhau và muốn tiến tới hôn nhân, nhưng một bạn theo Công giáo, còn một bạn thì không . Theo Cha, gia đình của bạn theo Công Giáo có được phản đối hay không?
_ Không được phép phản đối. Ngay cả Giáo Hội cũng không được phép ngăn cản bất cứ trường hợp nào như vậy hoặc tương tự. Tuy nhiên, gia đình cũng như Giáo Hội sẽ phải có trách nhiệm khuyên bảo không nên. Vì khi một người nam và một người nữ đã có sự khác nhau rất nhiều, đặc biệt, khi hai người khác nhau về tôn giáo, thì cuộc hôn nhân đó sẽ không được đảm bảo. Khi hôn nhân không được đảm bảo thì có nghĩa, nạn nhân sẽ có thể là những đứa trẻ (lẽ ra là thành quả tốt đẹp của cuộc hôn nhân) nhưng lại thành nạn nhân và có thể kéo theo nhiều hệ lụy khác nữa. Nói như vậy, không phải Giáo Hội đang can ngăn, mà phân tích cho các bạn hiểu. Giáo Hội vẫn sẽ chuẩn hợp hôn nhân nếu đôi bạn trẻ thực sự vẫn muốn đến hôn nhân.
+ Thưa Cha, nói đến hôn nhân, thì có một vấn đề hết sức quan trọng hiện nay với giới trẻ, đó là vấn đề sống thử của giới trẻ. Cha nghĩ thế nào về vấn đề này?
_ “Tôi thấy lo lắng cho giới trẻ bây giờ” tôi thấy các bạn tự quyết quyền tội lỗi cho các bạn. Sống thử không bao giờ đúng. Các bạn phải hiểu rằng : Khi các bạn tự ý sống thử, hợp thì các bạn sẽ kết hôn, không hợp thì các bạn chia tay. Các bạn đã từng sống như vợ chồng, rồi như các bạn li dị. Chúng ta có thể chấp nhận một người li dị một lần, nhưng khi đã li dị quá hai lần thì có nghĩa, người đó không có tư cách, không đủ nhân phẩm để mà đến với hôn nhân.
+ Có một trường hợp như sau: có một đôi bạn trẻ tiến tới hôn nhân, cùng công giáo, cũng đã có những đứa con. Sau một khoảng thời gian, cả hai đều có những mâu thuẫn, cãi vã và không còn tình yêu nữa. Họ lo lắng sự mẫu thuẫn, cãi vã đó ảnh hưởng đến tâm lý của những đứa trẻ đó. Và họ quyết định li dị. Theo Cha, trường hợp này có được chấp nhận hay không?
_ Con người làm cái bát có thể hỏng, cái đũa có thể cong nhưng với Thiên Chúa, đã an bài hôn nhân thì không bao giờ hỏng được. Như tôi đã nói, Thiên Chúa đã an bài cho tình yêu, hôn nhân của con người. Trường hợp này không được chấp nhận, lý do họ đưa ra chỉ là cái cớ ngụy biện. Sự thiếu sót trong trường hợp này là quá trình chuẩn bị tâm lý hôn nhân. Khi học giáo lý hôn nhân, Giáo hội còn chú trọng nhiều đến kinh sách mà chưa đi sâu vào tâm lý của đối tượng. Người này phải hiểu cho người kia thì hôn nhân mới bền lâu và vững chắc.
+ Vâng, con cảm ơn Cha đã cho bớt chút thời gian cho cuộc phỏng vấn này. Chúc Cha luôn mãi bình an và tràn đầy hồng ân Chúa. Xin Cha thêm lời cầu nguyện cho chúng con luôn biết tìm đường đi cho đúng trong cuộc sống tương lai.
_ Sinh viên bây giờ năng động quá. Tôi thấy các bạn chủ động hơn nhiều rồi. (Cười). Cảm ơn các bạn. Chúc các bạn luôn can đảm vượt qua mọi thử thách, để tìm thấy chân lý cuộc sống. Mira – BTT
Trên trang Văn hóa của Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 974 ra ngày 4-9-1994, linh mục Ngô PiôHậu 195
Trên trang Văn hóa của Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 974 ra ngày 4-9-1994, linh mục Ngô Phúc Hậu cho rằng từ giáo lý viên đã được “sáng chế một cách tùy tiện”. Trên trang Bạn đọc của Tuần báo Công Giáo và Dân Tộc số 975 ra ngày 9-10-1994, “một nhóm giáo dân thuộc Giáo phận thành phố HCM” đã đề nghị tìm “một danh từ thích hợp để thay thế cho danh từ giáo lý viên”.
Theo thiển ý của chúng tôi, danh từ giáo lý viên là một danh từ đã được cấu tạo đúng qui tắc ngữ pháp, và chẳng có lý do gì để phải miễn cưỡng chấp nhận nó hoặc thay thế nó bằng một từ khác.
Cũng như các danh từ giáo viên, học viên, phát ngôn viên, thuyết trình viên, hội viên, đảng viên, chính trị viên, kỹ thuật viên, chuyên viên... , danh từ giáo lý viên là một danh từ nằm trong nhóm danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp được cấu tạo theo quan hệ hạn định có yếu tố "viên". Có thể chia nhóm danh từ này thành ba nhóm nhỏ :
1- Nhóm một: gồm những từ được cấu tạo theo mô hình (1) [(động từ) + “viên”] ,
Ví dụ: giáo viên, học viên, phát ngôn viên, thuyết trình viên, cổ động viên, quan sát viên...
2- Nhóm hai: gồm những từ được cấu tạo theo mô hình (2) [(danh từ) + “viên”]. Nhóm này lại có thể chia đôi thành:
a. Những từ mà yếu tố đứng trước "viên" vốn là một danh từ chỉ một tổ chức, một đoàn thể. Mô hình của những từ này là: (2a) : [x + “viên”]
Ví dụ : hội viên, đảng viên, đoàn viên, đảng ủy viên, chi ủy viên, nghị viên...
b. Những từ mà yếu tố đứng trước "viên” vốn không phải là một danh từ chỉ một tổ chức, một đoàn thể. Mô hình của những từ này là (2b) : [y + “viên”]
Ví dụ: kỹ thuật viên, giáo lý viên, chính trị viên, điện báo viên, điện thoại viên...
3- Nhóm ba: gồm những từ được cấu tạo theo mô hình (3)
[(tính từ) + “viên”] :
Ví dụ: chuyên viên...
Những từ thuộc nhóm một, trong đa số trường hợp, có thể bỏ yếu tố "viên" ở cuối và thay bằng yếu tố "người” ở đầu mà nghĩa vẫn không đổi.
Ví dụ: phát ngôn viên - người phát ngôn; hướng dẫn viên - người hướng dẫn; cộng tác viên - người cộng tác; học viên - người học... (Ở đây chúng tôi không bàn đến vấn đề "người phát ngôn", "người cộng tác"... có phải là các danh từ hay không). Những từ thuộc nhóm hai không có tính chất đó. Chúng ta không được hiểu chính trị viên là người chính trị, kỹ thuật viên là người kỹ thuật… Do đó, đúng như linh mục Ngô Phúc Hậu đã viết, "nếu hiểu giáo lý viên là người giáo lý thì chẳng có nghĩa gì” (bài đã dẫn).
Những danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp được cấu tạo theo mô hình (2b) có nét nghĩa chung là: chỉ một người làm việc và/hoặc phụ trách, có trách nhiệm... trong/về lãnh vực mà yếu tố y đứng trước “viên” biểu thị. Ví dụ: kỹ thuật viên là người phụ trách về kỹ thuật, chính trị viên là người phụ trách công tác chính trị (trong quân đội)... Các từ này không có nghĩa là "người học...": không ai hiểu kỹ thuật viên là người học kỹ thuật, chính trị viên là người học chính trị... Cũng tương tự như vậy đối với các từ điện thoại viên, điện tín viên...
Vì thế chúng ta không có lý do gì để hiểu giáo lý viên là người học giáo lý cả.
Theo cách hiểu thông thường hiện nay, chính trị viên là cán bộ phụ trách công tác chính trị, kỹ thuật viên là cán bộ phụ trách công tác kỹ thuật trong một tổ chức nào đó, điện báo viên là nhân viên làm điện báo, điện thoại viên là nhân viên làm việc ở tổng đài điện thoại... (xem Từ điển Tiếng Việt 1994 - giáo sư Hoàng Phê chủ biên - Hà Nội : Trung tâm Từ điển Học và Nxb Giáo Dục, 1994). Cũng vậy, hiểu giáo lý viên là cán bộ làm công tác giáo lý trong xứ đạo là cách hiểu hết sức bình thường.
Trong thực tế hiện nay, làm công tác giáo lý trong xứ đạo là làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo. Cách hiểu giáo lý viên là cán bộ làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo (hay hiểu nôm na là người dạy giáo lý) do đó là cách hiểu rất hợp lý.
Rõ ràng việc sáng chế từ giáo lý viên không hề có tính chất tùy tiện, mà trái lại, đã tuân theo một cách nghiêm túc những qui tắc cấu tạo danh từ trong tiếng Việt hiện nay. Chính cách hiểu giáo lý viên là người học giáo lý mới có tính chất tùy tiện.
Hôm nay mình thảo lá thư ngỏ gởi Nguyễn Ngọc Huỳnh để làm sáng tỏ thêm về từ Giáo lý viên. Đây là yêu cầu của Tư Vinh.
THƯ GỬI ANH NGUYỄN NGỌC HUỲNH
(Xin được tạm xưng hô với Nguyễn Ngọc Huỳnh là ANH, vì chưa được biết N.N.H. là ông hay bà, anh hay chị.)
Anh Huỳnh mến,
Tôi đã đọc bài "Giáo lý viên là người học giáo lý?" của Anh đăng trên CGvDT số 982. Tôi mừng quá, vì đã có thêm một người tham gia vào công việc đi tìm ngôn ngữ cho nhà đạo.
Phải có tranh luận như thế thì vấn đề mới sáng ra được.
Cám ơn Anh đã có công nghiên cứu viết một bài có giá trị khoa học (nhận xét của một linh mục bạn của tôi) giúp tôi có thêm kiến thức về vấn đề ngôn ngữ.
Dưới đây là những mẩu tâm tư của tôi, xin được gởi tới Anh, mà từ hôm nay tôi coi như một người bạn.
1- Chúng ta đang có và đang sử dụng từ giảng viên giáo lý và học viên giáo lý. Tự nó đã có nghĩa là người dạy giáo lý và học giáo lý. Bỗng dưng xuất hiện từ giáo lý viên. Tôi nghĩ rằng có ai đó đã rút ngắn từ giảng viên giáo lý thành giáo lý viên cho gọn. Đó cũng là cách tạo từ ngữ thông thường. Vào thời kháng chiến 9 năm người ta đã đổi từ “Ủy ban Kháng chiến Hành chính” thành “Ủy ban Hành Kháng”. Từ “Hành Kháng” chẳng có nghĩa gì, nhưng cấp trên bảo rằng: nó là Ủy ban Kháng chiến Hành chính đấy. Ngày nay người ta cũng đã đổi từ “Khối Văn hóa Xã hội” thành “Khối Văn Xã”. Từ văn xã, tự nó có nghĩa là nhóm làm văn cũng như thi xã là nhóm làm thơ (Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An), nhưng cấp trên bảo rằng: nó là văn hóa xã hội đấy. Như vậy là cấp trên đã tạo ra một từ ngữ và gán cho nó một nội dung không hợp lý, nhưng lại hợp pháp. Trong trường hợp này ngôn ngữ là một quy ước.
Còn từ giáo lý viên, nếu được rút ngắn theo nguyên tắc vừa kể, thì tự nó có thể hiểu theo hai nghĩa: giảng viên giáo lý, hoặc học viên giáo lý. Phải chi có bề trên bảo rằng: giáo lý viên là giảng viên giáo lý đấy, thì khỏi thắc mắc làm chi.
2- Nhưng như Anh cho biết: từ giáo lý viên không được cấu tạo theo cách rút gọn, mà được cấu tạo theo mô hình [danh từ + “viên”] để chỉ chức vụ, nghề nghiệp. Do đó giáo lý viên có nghĩa là người chuyên trách về giáo lý, cũng như chính trị viên là người chịu trách nhiệm về quan điểm chính trị trong một đơn vị quân đội. Tôi đồng ý với Anh như thế.
Nhưng tôi lại không đồng ý với Anh rằng: "Trong thực tế hiện nay, làm công tác giáo lý trong xứ đạo là làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo. Cách hiểu giáo lý viên là cán bộ làm công tác dạy giáo lý trong xứ đạo... là rất hợp lý”. Điều anh cho là hợp lý và hết sức bình thường, thì tôi lại cho là chưa hợp lý và chưa bình thường.
Đây là ý nghĩ của tôi: Từ giáo lý viên có thể hiểu nhiều nghĩa khác nhau. Nói cách khác nó có một nội dung rất rộng.
1- Nếu hiểu giáo lý viên là người chịu trách nhiệm về nội dung và sinh hoạt giáo lý trong họ đạo, cũng như chính trị viên là người chịu trách nhiệm về quan điểm chính trị trong một đơn vị quân đội, thì giáo lý viên chính là cha xứ. Cha xứ có nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của đức tin, có nhiệm vụ tổ chức cho mọi người tín hữu được học giáo lý, có nhiệm vụ tuyển chọn giảng viên giáo lý, huấn luyện họ, hoặc cho họ đi học sư phạm giáo lý, có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm điểm và khích lệ các giảng viên giáo lý.
2- Nếu hiểu giáo lý viên là người có khả năng chuyên môn về giáo lý và sư phạm giáo lý, thì người ấy là người được cha xứ trao trách nhiệm tổ chức các lớp giáo lý trong họ đạo. Người chuyên trách ấy có thể là cha phó, tu sĩ hoặc một người tín hữu nào đó trong họ đạo.
3- Giáo lý viên cũng là những người dạy giáo lý trong họ đạo. Họ là người cộng tác viên của cha xứ, cùng chia sẻ trách nhiệm của một giáo lý viên với cha xứ. Họ là giáo lý viên hiểu theo nghĩa rộng nhất. Cũng như cha xứ là giáo lý viên hiểu theo nghĩa hẹp nhất.
Khi một từ có ba nội dung, mà chỉ hiểu về một trong ba nội dung thôi, thì phải có sự nhất trí chung và rộng rãi. Hoặc giả phải có một chỉ thị của một cấp có thẩm quyền nào đó.
4- Nếu một ngày nào đó những từ quen thuộc và rất rõ nghĩa như giáo sư Thánh Kinh, giáo sư Thần học... được đổi thành Thánh Kinh viên, Thần học viên thì sao ? Người sáng chế những từ ngữ ấy cũng sẽ lý luận rằng: Những từ ngữ mới này được cấu tạo đúng quy tắc ngữ pháp: một danh từ + viên; danh từ trước "viên" biểu thị nghề nghiệp, khả năng chuyên môn. Thánh Kinh viên lúc đó sẽ có nghĩa là người dạy Thánh Kinh, giáo sư Thánh Kinh.
Cũng được thôi, miễn là nó được quảng đại quần chúng chấp nhận.
5- Chuyện đã rồi, nhưng tôi ước mong rằng phải chi người ta cứ dùng từ giảng viên giáo lý mà không đổi thành giáo lý viên. Từ giảng viên giáo lý, tự nó đã nói hết cái nội dung là người dạy giáo lý rồi. Còn từ giáo lý viên phải được lý luận là người chuyên trách về giáo lý trong họ đạo, rồi phải lý luận thêm rằng người cán bộ chuyên trách giáo lý viên trong họ đạo chính là người dạy giáo lý vậy. Sau hai lần lý luận như thế kết quả vẫn là cái vỏ và cái ruột không khít với nhau: Từ giáo lý viên là cái vỏ thì quá rộng, mà cái ruột là người dạy giáo lý thì chiếm chưa hết một phần ba dung tích của cái vỏ.
Anh Huỳnh mến,
Đó là vài ý kiến thô thiển góp thêm vào cuộc bàn luận. Mong anh có thêm ý kiến khác nữa, để ý kiến trao đổi được thêm phong phú.
Mình mở lớp giáo lý dành cho người chỉ tầm đạo chứ chưa muốn theo đạo. Bài đầu tiên là “Có PiôHậu 196
Mình mở lớp giáo lý dành cho người chỉ tầm đạo chứ chưa muốn theo đạo. Bài đầu tiên là “Có Thiên Chúa và Thiên Chúa là Cha của chúng ta”. Tay thì vẽ tranh. Miệng thì thuyết minh. Tay và miệng như hai dòng nước cứ cuồn cuộn chảy. Thính giả cứ trợn mắt mà dòm, cứ vểnh tai mà nghe. Quá đã! Bỗng có một ông xồn xồn giơ tay chặn họng mình.
- Không thấy Chúa mà tin có Chúa là mơ hồ.
- Rất đúng, nhưng chưa phải là duy nhất đúng.
- Tại sao?
- Xét về một mặt nào đó, thì câu nói của anh là tuyệt vời. Nhưng xét về mặt khác, thì câu nói ấy chả đúng tí nào.
- Xin linh mục nói rõ hơn.
- Câu nói của anh là tuyệt vời, vì chúng ta đang sống trong một thế giới đầy sự gian dối. Ông cha chúng ta đã phải thốt lên rằng: “Lưỡi không xương nhiều đường lắc léo”. Quả vậy gian dối tràn lan từ vua chúa quan quyền cho đến hàng lê thứ.
* Người làm chính trị nói dối để củng cố địa vị. Tào Tháo là mẫu người tiêu biểu vào hạng nhất.
* Nhà quân sự có thể dùng người đẹp để chuyển trái bom giết người đến cho đối phương.
* Người làm thương mại chú tâm tạo mẫu mã hấp dẫn để thu hút khách hàng hơn là tăng giá trị của phẩm chất. Đó cũng là một cách gian dối.
* Vợ chồng yêu nhau là thế: “Ta với mình tuy hai mà một”, vậy mà cũng giấu giếm nhau. Chồng có vợ bé mà cứ thề độc: “Tôi mà có vợ bé thì bà Thủy bắt tôi, xe hủ lô cán tôi…” Vợ xúc lúa một bồ đem bán lấy tiền để ghi số đề. Chồng thắc mắc: “Tại sao bồ lúa nhà mình mau vơi thế?”, thì vợ trả lời tỉnh queo: “Biết đâu à”.
* Báo chí là tiếng nói đáng tin cậy như thế, vậy mà vẫn bị bịa miệng chế giễu: “Nhà báo nói láo ăn tiền”. Sống trong một xã hội đầy gian dối như thế thì ai cả tin là bị lừa ngay. Bởi vậy, khi chưa thấy, thì cứ để đấy, đừng vội tin. Lập trường ấy là khôn ngoan tuyệt vời.
Nhưng xét về mặt khác, thì câu nói của anh chả đúng tí nào.
- Không dám đâu. Linh mục phải phân tích cụ thể, thì tôi mới chịu.
- Đồng ý. Tôi sẽ nói chuyện khoa học, rồi tôi sẽ dẫn chứng bằng đời sống thực tế.
* Khoa học khẳng định rằng: “Vật chất không thể tự hữu”. Nếu vậy thì vật chất hiện hữu phải xuất phát từ một siêu vật chất. Siêu vật chất ấy ở ngoài tầm tay của khoa học. Khoa học chỉ làm việc với những gì có thể “Cân - đo - đong - đếm” ấy khoa học đã xác nhận là nó không thể tự hữu. Vậy nếu ta bảo cái siêu vật chất ấy là Chúa thì chẳng có gì là mơ hồ. Khoa học không thể phủ nhận ý kiến ấy, vì nó ở ngoài tầm tay của khoa học.•
* Chuyện đời thường cho phép ta tin khi ta không thấy.
1. Anh ngồi ở đây. Tôi thấy. Tôi tin có anh. Nhưng tôi không thấy cha của anh. Dù vậy tôi vẫn có quyền khẳng định rằng anh có cha. Không những thế, tôi còn biết rõ cha anh là đàn ông, mà không cần dựa trên bất cứ tài liệu nào.
Trong phòng lớp này có bàn, ghế, bảng, đèn điện, quạt điện. Ai làm ra những thứ này, thì ta không thấy. Nhưng chẳng ai trong chúng ta dám bảo rằng: “Chẳng có ai làm ra chúng”. Nếu có ai đòi thấy tác giả đã rồi mới dám tin, bàn ghế do thợ mộc đóng, đèn điện và quạt điện do thợ nào đó lắp ráp, thì e rằng người ấy không bình thường.
Câu nói lỡ miệng của mình làm cho bầu khí lớp học trở nên căng thẳng, mình vội lái sang chuyện tiếu lâm:
“Khi chưa có siêu âm, cô y tá hộ sản phải dòm cái “ấy” của đứa bé sơ sinh, rồi mới chạy ra hành lang báo tin cho thân nhân của đứa bé đang nôn nóng chờ đợi: “con trai… con gái”. Dòm và thấy trong trường hợp này là rất khoa học, rất chính xác.
“Nhưng nếu ông thanh tra giáo dục hỏi thầy cô đứng lớp rằng: tỉ lệ trai gái trong lớp này chênh lệch bao nhiêu, thì thầy cô đừng dòm, đừng thấy cái “ấy” của các em, để trả lời cho ông thanh tra một cách khoa học và chính xác. Thầy cô cứ căn cứ trên Giấy Khai Sinh mà trả lời. Chính anh công an xã khi làm Giấy Khai Sinh, đến mục giới tính, anh cũng chỉ tin cha mẹ của bé, chứ không cần dòm và thấy”.
Có rất nhiều trường hợp, không cần thấy mà vẫn tin được. Ông Newton, một nhà toán học vĩ đại đã nói lên điều đó: “Tôi không cần tin có Chúa nữa, vì tôi thấy Ngài quá rõ. Tôi thấy Ngài trong một bông hoa. Tôi thấy Ngài trong một cánh bướm”.
2. Theo sự suy đoán của tôi, thì 99% kiến thức ta đang có chồng chất trong đầu là do tin chứ không phải do thấy.
* Tất cả quý vị đang ngồi ở đây đều chưa bao giờ ra tới Hà Nội. Nhưng chúng ta vẫn tin có Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam yêu dấu. Ta tin lời dạy của thầy cô môn Sử - Địa. Mà chính thầy cô của chúng ta cũng chưa bao giờ thấy Hà Nội.
* Tám mươi sáu triệu dân Việt Nam hiện đang sống, chưa một ai thấy ông Trần Hưng Đạo chiến thắng trên sông Bạch Đằng, chưa ai thấy vua Quang Trung vẻ vang với trận Đống Đa, nhưng tất cả đều tin và đều hãnh diện về Lịch Sử của dân tộc mình. Nếu đòi phải thấy mới tin, thì môn Lịch Sử và Địa Lý của thế giới và của các dân tộc sẽ bị xóa sổ trước nhất. Các trường học từ Mẫu giá
o, Mầm non cho tới các Đại học, Cao đẳng sẽ bị đóng cửa dần dần cho đến hết.
* Nếu chỉ thấy rồi mới tin, thì tình nghĩa gia đình cũng phôi pha và tự hủy diệt. Cha mẹ kể chuyện về đời ông cố ông sơ, con cái vặn vẹo: “Cha mẹ đã thấy ông sơ chưa?... Con không thấy, con không tin”.
* Trên đời có biết bao ông bà tiến sĩ, kiến thức cồng kềnh. Nhưng kiến thức ấy do thấy hay do tin? Khỏi trả lời.
Alô, nhà thờ Chánh Tòa tôi nghe. - Cha Hậu đó phải không ? - Thưa Đức cha, vâng. - Cha lên Tòa PiôHậu 197
- Alô, nhà thờ Chánh Tòa tôi nghe. - Cha Hậu đó phải không ? - Thưa Đức cha, vâng. - Cha lên Tòa Giám mục gặp tôi ngay bây giờ. - Dạ.
Cầu thang Tòa Giám Mục làm bằng đá mài màu xanh trông thật mát mắt. Nhưng sao lòng mình chẳng dịu mát chút nào. Mình bước lên thật chậm như muốn níu kéo thời gian lại. Mình rón rén đến trước cửa phòng Đức Giám mục và gõ thật nhẹ. Hôm nay lần đầu tiên mình phải đối diện với Đức Giám mục. Chuyện gì sẽ xảy ra ? Chuyện vui thì chắc không phải, còn chuyện buồn thì là chuyện gì, tại sao?
Có tiếng dép lê trên nền gạch bông, cánh cửa mở toang. Đức Giám mục cười vui vẻ:
- Ờ, Cha Hậu, ngồi xuống đây. Thuốc đây, cha hút đi. Cha hút thuốc lào thì thuốc này nhằm nhò gì.
Ngài đẩy cho mình gói Bastos xanh rồi e hèm lấy giọng. Thấy ngài cởi mở, nhịp tim mình bắt đầu trở lại bình thường.
- Cha xin đi truyền giáo thì tôi cho cha được toại nguyện. Có hai nơi tôi chọn làm thí điểm truyền giáo : một là Cái Tắc , hai là Năm Căn. Cha muốn đi nơi nào tùy ý cha.
Cái Tắc thì mình biết, vì chỉ ở cách nhà thờ Chánh Tòa 16 cây số và ở ngay bên quốc lộ. Còn Năm Căn thì mình không biết nó ở đâu. Máu anh hùng và máu giang hồ bốc lên ngùn ngụt. Mình trả lời ngay:
- Thưa Đức cha, con xin đi Năm Căn, nhưng thưa Đức cha, Năm Căn ở đâu?
- Tôi cũng chưa biết, mới chỉ thấy nó trên bản đồ, cha ra ngoài này mà xem.
Ngài đưa mình ra coi cái bản đồ lớn bằng cái chiếu đôi, dựng ở ngoài hành lang. Ngài cúi xuống miền cực Nam, lấy ngón tay gí vào một vòng tròn nhỏ:
- Nó đây này. Tôi được báo cáo cho biết ở đây rất đông dân cư. Dân chúng rất nghèo và thất học. Cha xuống đó xem tình hình thế nào rồi mới tính được.
Hai cha con trở lại phòng khách. Lần đầu tiên mình được ngồi nói chuyện tâm tình với Đức Giám mục. Gói thuốc Bastos cứ vơi dần đi, còn tình cha con thì lại cứ cao đầy lên. Đức Giám mục kể chuyện đời mình, đời chủng sinh, đời linh mục, đời làm nhà giáo, đời làm Giám mục...
Năm Căn, đêm 19-10-1971
Giấc ngủ bị cắt đứt và chấm dứt bởi một giấc mơ.
Mình mơ thấy mẹ đang dúi vào tay mình một nắm tiền lẻ. Bà nhìn mình không nói một lời. Mẹ mình nghèo lắm. Thân hình bà tiều tụy và bé nhỏ. Cứ mỗi lần tựu trường, bà lại dúi vào tay mình một số tiền lẻ như thế. Có lẽ bà ki cóp cả năm trời mới có được ngần ấy tiền. Bà xấu hổ vì số tiền ấy quá nhỏ bé so với lòng thương lớn lao mà bà vẫn dành cho mình, một đứa con mà bà đã đặt nhiều kỳ vọng nhất.
Hình ảnh tiều tụy và bé nhỏ của mẹ, thái độ rụt rè đầy mặc cảm tự ti của bà làm mình khóc òa lên. Thế là giấc mơ chấm dứt. Nhưng dòng nước mắt lại tiếp tục trào ra, trào ra mãi không ngưng.
Có lẽ mình đã quên khóc từ trên hai chục năm rồi. Mình vẫn tự hào về điều đó. Thế mà hôm nay mình lại khóc và khóc quá chừng. Phải chăng cuộc đời của mình đã chuyển hướng? Mình quen sống với lý trí và ý chí. Hôm nay con người mình đã nhão ra và buông theo tình cảm. Quả thế, khi đến với Năm Căn, mình đã tự nguyện chọn phần nhỏ nhất, hiên ngang húc đầu vào mọi thiếu thốn và thử thách. Nhưng từ ít lâu nay, con tim mình bắt đầu nhỏ lại, ti tiện và hẹp hòi. Mình bắt đầu so đo và phân bì với anh em về đời sống vật chất:
+ Nào là người ta có nhà cao cửa rộng, còn mình thì chỉ có túp lều lúp chúp.
+ Nào là người ta được ăn uống đầy đủ, còn mình thì cứ hát mãi cái điệp khúc “khô kèo chấm nước tương”.
+ Nào là người ta có đủ thứ ngân quỹ. Lộ phí đi tĩnh tâm hằng năm cũng được trích từ quỹ nhà xứ, còn mình thì cứ “trăm dâu đổ đầu tằm”, từ một viên thuốc cảm cho tới cái mùng, cái chiếu đều lấy từ trong túi rách mà ra.
+ Nào là người ta ở ngay trung tâm thành phố, muốn mua sách báo thì chỉ 5 phút sau là có, còn mình thì cả tháng trời mới có được một tờ báo cũ mèm.
+ Nào là ban đêm người ta ngồi coi tivi tỉnh bơ, còn mình thì phải đứng ngắm ánh hỏa châu, nơm nớp lo sợ.
+ Nào là người ta thì được giáo dân cung phụng đủ thứ : từ món "đết-xe" ngọt lịm trên bàn ăn, cho tới chiếc xe "ếch-bà" chạy phom phom trên xa lộ, còn mình thì phải đi xin từng lon gạo để nuôi cán bộ truyền giáo. Ôi lon gạo truyền giáo, mi đày đọa ta biết bao nhiêu!
Bây giờ mình mới hiểu thấm thía câu nói của Đức Giám mục : “Tôi không dám sai các cha đi truyền giáo, vì cuộc đời truyền giáo gian khổ lắm” . Mình không sợ gian khổ, nhưng mình không ngờ rằng gian khổ đang gặm nhấm đời mình và đang biến mình trở thành con người ti tiện và hẹp hòi. Mình thoáng nảy ra ý nghĩ “đào ngũ”, thì bỗng có tiếng ú ớ ở trong mùng bên cạnh. Mình lấy đèn pin rọi sang, thì Mai, người bạn đồng hành của mình đang cụ cựa trở mình, rồi lại chìm vào giấc ngủ yên lành.
Mai là người bạn đồng hành bất đắc dĩ. Mình còn nhớ cuộc đối thoại hôm ấy ở Tòa Giám mục. Đức cha Quang nói:
- Tôi cho cha chọn bất cứ Cha nào hợp tánh với cha để đi truyền giáo ở Năm Căn.
- Thưa Đức cha, con biết đi Năm Căn là phiêu lưu lắm, xin Đức cha cho con đi một mình để thử xem sao đã.
- Không được. Phải có hai cha mới được.
- Vậy thì xin Đức cha cho con cha Mai. Con thấy cha Mai hiền, có thể hợp với con. Nhưng thưa Đức cha, cha Mai mắc bệnh bao tử.
Mình quí mến Mai, một người anh em linh mục hiền hòa và trầm tĩnh. Nhưng mình lại không muốn Mai đi với mình, sợ rằng mình sẽ trở thành kẻ mang bất hạnh đến cho anh em. Mình cố tình khai bệnh bao tử của Mai để dồn Đức cha vào chân tường mà cho mình "đơn thương độc mã". Thế nhưng Đức cha vẫn liều mạng cho Mai đi Năm Căn với mình. Bây giờ thì Mai đang ở đó, đang ngủ yên lành, còn mình thì đang manh nha tư tưởng “đào ngũ”.
Mai mến,
Tôi xin lỗi anh, bởi tại tôi mà anh phải sống khốn khổ giữa mảnh đất "khỉ không dám ho, cò không dám gáy" này! Nhưng tôi xin cám ơn anh bởi anh đang là đề tài suy nghĩ lớn cho tôi. Để hiểu thế nào là giá trị của sự hiện diện của anh, tôi tự đặt câu hỏi : “Nếu không có anh, thì tôi sẽ ra sao?".
Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta đã sai từng hai người lên đường truyền giáo. Chắc hẳn Thầy của chúng ta nhắm nhiều mục đích khác nhau:
1- Hai người cùng rao giảng một lời, lời ấy là sự thật. Đó là luật và luật ấy đã đi vào văn hóa dân tộc Do Thái.
2- Hai người cùng làm một việc, việc ấy là việc của tập thể. Giáo hội là một tập thể. Giáo hội là phổ quát. Nếu chỉ có một người lập giáo điểm, người ấy sẽ múa gậy rừng hoang, sẽ biến giáo điểm thành tư hữu, hay ít nhất người ấy sẽ có cảm tưởng mình là mọi sự. Như vậy Giáo hội mà người ấy xây dựng sẽ đánh mất tính phổ quát là một đặc tính quan trọng của Giáo hội.
Mai mến,
Nếu không có anh, tôi sẽ là anh hùng cát cứ một cõi; tôi sẽ độc đoán; tôi sẽ biến giáo điểm thành tôi và tôi thành giáo điểm. Như thế thì còn gì là truyền giáo.
3- Sách Chiến quốc nói : “Khi hai người cùng lo một việc, họ sẽ yêu nhau; khi hai người cùng hưởng một quyền lợi, họ sẽ ghét nhau”. Anh và tôi cùng chia nhau kiếp sống gian khổ, cùng chia nhau trách nhiệm nặng nề. Gian khổ ấy và trách nhiệm ấy bỗng trở nên êm ái hơn, nhẹ nhàng hơn. Còn quyền lợi thì chúng ta chẳng có để mà giành giật, để mà ghét nhau.
Mai mến,
Nếu không có anh ở đây, liệu tôi có đủ sức tiếp tục sứ mạng mà Chúa Thánh Thần trao phó hay không ? Nếu không thấy anh nằm ở đó, đang thở đều đều trong một giấc ngủ yên lành, liệu tôi có đủ can đảm để bỏ đi cái ý nghĩ “đào ngũ” vừa mới manh nha không ? Thấy anh trong giáo điểm, tôi cảm thấy yên tâm. Thấy anh ở đó, lòng tôi vơi đi bao nỗi phiền muộn giày vò. Thấy anh ở đây, dòng nước mắt tủi hận không còn tuôn trào nữa.
Đêm nay tôi thao thức không ngủ, nhưng đêm mai tôi sẽ ngủ một giấc thật ngon, bởi vì tôi biết rằng anh vẫn ở đó, ở ngay bên cạnh tôi…
Mai mến,
Trời gần sáng rồi. Anh có biết không, nước thủy triều đã tràn vào nhà chúng ta. Đôi dép của anh, đôi dép của tôi đều đã theo nhau trôi dạt về một góc. Lát nữa khi anh thức dậy, anh sẽ ngẩn ngơ vì mất dép; anh sẽ bàng hoàng vì phải lội bì bõm ngay trong nhà của chúng ta. Nhưng cả hai chúng ta sẽ hưởng một trận cười giòn giã, để đón chào một ngày mới.
Lúc đầu mới lập pages chỉ tính đăng những bài trong cuốn Viết cho em, vậy mà giờ đã bước sang PiôHậu 198
Lúc đầu mới lập pages chỉ tính đăng những bài trong cuốn Viết cho em, vậy mà giờ đã bước sang cuốn thứ 4: Nhật ký truyền giáo của Cha Pio rồi! Trước khi gửi đến quý ÔBACE bài đầu tiên: Giáo xứ Caphacnaum, xin được trích dẫn đôi lời giới thiệu về Cha Pio và tác phẩm Nhật ký truyền giáo như sau:
NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
* Ngày Sinh: 9-5-1936 * Nơi Sinh : Hiền Quan, Phú Thọ, Giáo Phận Hưng Hoá * 1955-1961: ĐCV Thánh Tôma và học viện Lê Bảo Tịnh * 1961-1964: ĐCV Thánh Giuse , Sàigòn * Thụ phong linh mục: 10-05-64 tại Cần Thơ * 1967-1971: Giám Đốc Trung Học Cần Thơ * 1971-1975: Truyền giáo Tại Năm Căn, Cà Mau * 1979-1994: Chánh xứ Bảo Lộc, Cà Mau * 1994-2012 : Chánh xứ Cái Rắn, Cà Mau * 2012-nay: nghỉ hưu ở miền Bắc
Địa chỉ liên hệ với Cha: Toà Giám Mục Hưng Hoá, số 70 Lê Lợi, Sơn Tây, Hà Nội
là "Anh Tám Hậu." Suốt 42 năm qua, linh mục Ngô Phúc Hậu đã đi rao giảng Tin Mừng cho những con người thật thà miền Tây, bao gồm cả miền nam của sông Hậu Giang, từ Cà Mau trở xuống với những địa danh nghe thật lạ tai như : Cái Rắn, Cái Nước, Đồng Cùng, Chà Là, Bà Hính, Cái Keo, Năm Căn (Hàm Rồng), quanh quẩn trong vùng sông Bẩy Hạp. Linh mục đã sống với giáo dân của ngài trong những cơn bĩ cực nhất của cuộc đời qua sự tàn phá tàn nhẫn của cơn bão số 5 (Linda) gần cuối năm 1997.
Những mẩu chuyện tuy nhỏ nhưng đã đặt ra rất nhiều vấn đề quan trọng cho người tín hữu, giáo dân cũng như giáo sĩ, phải suy nghĩ:
* Linh Mục Của Ai * Vatican II * Canh Tân Giáo Hội từ dưới lên trên * Chòi thờ và Nhà thờ * Vai trò Giáo Dân trong việc truyền giáo * Vai trò của người phụ nữ trong Giáo Hội * Công Bằng Xã Hội * Hội Nhập Văn Hoá * Thờ cúng tổ tiên * Cây roi của mục vụ * Ăn chay và kiêng thịt * Cộng đồng cơ bản * Những căn bản của đạo lý
Tác phẩm đầu tay (ad: vậy mà giờ mới có thể post được) của linh mục Ngô Phúc Hậu là tập hợp những suy tư, khắc khoải của một nhà truyền giáo Việt Nam ở vùng Cà Mau từ năm 1971. Những chuyện buồn vui hằng ngày, những khó khăn, thử thách được ghi lại trung thực. Những vấn đề căn bản của việc truyền giáo ở Việt Nam được tác giả thẳng thắn đề cập tới như đi tìm thợ gặt, tìm chiên lạc, áo thầy tu, giữ chay, hội nhập văn hoá, công bằng xã hội, đến với người nghèo, nhà thờ, linh mục của ai… khiến người đọc bị đánh động và suy nghĩ. Tác giả có một cái nhìn xác thực và nhân bản về truyền giáo: Phải xây dựng con người trước!
Trong khi nhiều giáo sĩ truyền giáo bằng cách xây dựng những nhà thờ lộng lẫy, nguy nga, đồ sộ để Thiên Chúa có nơi thờ phượng xứng đáng, thì linh mục Ngô Phúc Hậu truyền giáo bằng cách âm thầm xây dựng con người để họ có cơ hội có một đời sống xứng đáng với con người hơn. Những câu chuyện thực tế cộng với lối hành văn giản dị đã tạo nên sức hút mãnh liệt khiến nhiều người khi đã bắt đầu đọc Nhật Ký Truyền Giáo cứ muốn đọc tiếp cho đến trang cuối cùng.
Phải nói NKTG có sức kết hợp lạ kỳ. Nhiều anh chị em chưa gặp tác giả, cũng không quen biết nhau, nhưng nhờ có duyên đọc NKTG mà kết hợp lại để yểm trợ và quảng bá công tác truyền giáo của tác giả.
"Mình đã đọc cuốn " Dấu chân của Thầy". Nó là một cuốn Phúc âm không chỉ để đọc mà là để sống." (Teresa Hiền)
Công Tác Truyền Giáo
Tác phẩm/sách là đứa con tinh thần hình thành sau nhiều năm tháng cưu mang. Nhưng đối với nhà truyền giáo, chính những mảnh đời tan vỡ trở nên lành, những người khốn cùng, tuyệt vọng được nâng đỡ làm lại cuộc đời, những con chiên lạc tìm gặp mang về… mới thật sự là những tác phẩm tuyệt vời.
Linh mục Ngô Phúc Hậu bận rộn suốt ngày với các công tác dạy giáo lý, rửa tội, thêm sức, thăm viếng, giúp đỡ người nghèo khó, tật nguyền, xây cất nhà cho dân nghèo, xây cầu, đắp đường, cất trường học… Những công tác xã hội, từ thiện, bác ái… anh Tám Hậu làm cho tất cả mọi người, không phân biệt lương giáo…
Khi linh mục Ngô Phúc Hậu nhận bài sai đến Cái Rắn năm 1994, cả vùng chỉ có 501 người công giáo lớn nhỏ. Hiện nay con số đã hơn 2500 và lúc nào cũng có đông người dự tòng đang theo học đạo, trong số đó có cả cựu chiến binh ở địa phương.
"Nhiều người ngoại xin mở khóa để họ đi học. Có một số thân hào nhân sĩ rủ nhau đến xin cho họ một ngày để tìm hiểu đạo." (Thư ngày 25-12-2005, Phụ Trang, sđd)
Như lời vị Hồng Y Bỉ Leon Joseph Suenens, một trong những nhân vật lãnh đạo tài ba của Công Đồng Vaticano II, đã nói: "Ngày trọng đại nhất trong cuộc đời của một giáo hoàng không phải là ngày được bầu chọn để lãnh đạo giáo hội, nhưng chính là ngày ngài được rửa tội", nhà truyền giáo Ngô Phúc Hậu đã thật sự mang lại ngày trọng đại đó cho nhiều người ở vùng Năm Căn, Cái Rắn. Ngày 10 tháng 8 vừa qua, khoảng 200 em thiếu nhi từ các kinh xung quanh Cái Rắn đã lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy. "Mùa gặt" mới đích thực là niềm vui to lớn nhất của người đi truyền giáo.
Cụ già quê mùa thân thương này được bà con ở Cái Rắn gọi bằng cái tên thương lắm: Ông Cố. Già, trẻ, lớn bé gì cứ gọi ông là Ông Cố tuốt. Chẳng phải ông làm ông cố rồi ăn trên ngồi chốc, chuyên ngồi "chiếu trên" người ta đâu. Ông chỉ là ông cố sở một họ đạo bé nhỏ nghèo hèn. Suốt cuộc đời ông cứ mãi lầm lũi, lặng lẽ để làm chút gì đó cho Cái Rắn và rồi lặng lẽ và lầm lũi ấy mang về cho ông những bó lúa mộc mạc, đơn sơ và chân thành...
Ông Cố Pi-ô hay tâm sự: khi nào Cái Rắn có người cộng tác, có người kế nghiệp, thì ông sẽ đi tiếp vào những dòng kênh, những con rạch, ở đó vẫn còn rất nhiều người chưa thấy, chưa nghe được Tin Mừng. Biết điều này, lắm kẻ lắc đầu cho Ông Cố là dở hơi, là... man man, ai cũng muốn "ngồi mát ăn bát vàng", còn Ông Cố lại làm chuyện ngược đời. (Trích "Cái Rắn, Mùa Gặt Trái Mùa," An Mai, Ephata 278, tháng 8-2006)
Dưới đây là một số thành quả hơn 10 năm truyền giáo ở địa điểm Cái Rắn, Cà Mau: • 1994 – 2006: Rửa tội khoảng 2000 người • Làm lộ bê-tông cho trẻ em có thể đạp xe đi học: 4.790m • Xây 20 cây cầu bắc qua rạch, đào gần 200 giếng nước • Xây "nhà tình thương" cho người nghèo khổ: 60 căn nhà • Xây một tổ y tế: chi phí hàng năm 100 triệu đồng Việt Nam, khoảng $6.700 USD. • Cấp học bổng cho học sinh nghèo: 200 triệu đồng Việt Nam, khoảng $13.400 USD/năm.
Là môn đệ trung thành với lời dạy của Thầy Chí Thánh, linh mục Ngô Phúc Hậu đi, đi mãi, đi không ngừng nghỉ... Đến bất cứ đâu, mối quan tâm hàng đầu của linh mục cũng là xây dựng con người trước, làm nền tảng cho hạt giống Tin Mừng nẩy mọng, kết hoa, sinh trái. Và nhờ sống hòa đồng với quần chúng, giáo dân, Anh Tám Hậu có những nhận xét rất tinh tế về những bất công xã hội, về đời sống lao động nhọc nhằn của những người tay làm hàm nhai để cảm nhận ra giáo hội Chúa Giêsu không có con đường chọn lựa nào khác hơn là giáo hội của những người nghèo khó, bị áp bức, thế cô..., không phải qua lời rao giảng mà bằng chính hành động và đời sống của những người chọn con đường theo Thầy.
Cà Mau, … 1984
Reng… Reng… Reng…
Ba hồi chuông thật dài làm náo động cả nhà xứ. Người bấm chuông kiểu này phải là người thân nhất. Vậy chắc là anh Ba Hiến và anh Mười Râu rồi. Mình vội vàng chạy xuống cầu thang nhanh như đá chuồi. Cánh cửa mở toang...
- …???
- Ông cha cho tôi ít trăm mua cơm ăn. Đói quá rồi!
- Số của anh là số xui! Nếu hôm qua anh tới đây thì tôi còn có chút ít cho anh. Hôm nay thì tôi không còn một đồng xu dính túi.
- Đ. m. làm cha mà không có tiền hả?
Người đàn ông ném cho mình một cái nhìn hận thù rồi quay gót.
Bị chửi quá bất ngờ, mình không kịp cảm thấy tủi nhục, cứ đứng ra như trời trồng.
Mình không có tiền, đó là sự thật, nhưng một sự thật khó tin. Trong túi không còn một đồng xu, nhưng mình vẫn mang kiếng gọng Đức trị giá gần hai trăm ngàn; trên cổ tay vẫn ngự trị một cái đồng hồ Seiko 5 trị giá hơn một chỉ vàng; mình vẫn đang sống trong biệt thự cổ có nhiều tiện nghi… Mình vẫn thương người nghèo và vẫn giúp đỡ người nghèo, khi thì một bộ quần áo, khi thì một vài ngàn, khi thì vài chục ngàn…, nhưng chưa bao giờ mình phải nhịn ăn, nhịn mặc vì người nghèo. Như vậy có nghĩa là mình chỉ mới cho người nghèo những cái dư thừa, chứ chưa dám chia sẻ những cái cần thiết. Mình chỉ mới dám SỐNG CHO người nghèo mà chưa đủ can đảm để SỐNG VỚI người nghèo. SỐNG VỚi người nghèo mới là SỐNG CHO đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Chỉ khi nào mình SỐNG VỚi người nghèo, mới cảm nghiệm được thân phận của người nghèo và mới cảm thấy cần phải giải phóng người nghèo khỏi tình trạng nghèo. Ba phần tư nhân loại vẫn sống nghèo. Và nghèo vẫn là một trọng tội, vì nghèo sinh ra dốt nát, vì nghèo sinh ra bần tiện và tình trạng mất nhân phẩm.
Mình sẽ không bao giờ có nhiều tiền để chấm dứt tình trạng nghèo. Mình cũng không đủ can đảm đề SỐNG VỚI người nghèo. Mình không phải là linh mục CỦA người nghèo, không phải là linh mục CHO người nghèo và không là linh mục VỚI người nghèo. Vậy mình là linh mục của ai? Có lẽ lương tâm mình sẽ cắn rứt cho đến chết. (" Linh Mục Của Ai? " sđd, tr. 52-53)
Một con én không làm nên mùa Xuân! Nhưng con én Ngô Phúc Hậu đã và đang đem lại mùa Xuân cho nhiều mảnh đời kém may mắn, sinh ra dưới ngôi sao xấu trên vòm trời Năm Căn, Cái Rắn… ở Cà Mau. Lúa chín đầy trên cánh đồng truyền giáo. Dự định của anh Tám Hậu còn nhiều… Anh Tám không thể làm một mình…
Nói theo lời linh mục Phêrô Trần Thế Tuyên, linh mục Piô Ngô Phúc Hậu "có số truyền giáo" và chúng ta "có số ngắm truyền giáo." Ngắm hoài, nhìn mãi…nếu chán, xin mời nhập cuộc, mỗi người một tay, góp gió thành bão…
Xin nhại ý lời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong bài "Diễm Xưa" gởi bạn đọc đồng cảm:
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng Để người truyền giáo quên mình cô đơn. Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng Để người nghèo khó quên mình khổ đau. Cầu Thiên Chúa cho anh Tám Hậu sức khỏe của con trâu cui, kéo cày không biết mệt trên cánh đồng truyền giáo mênh mông… Cánh đồng truyền giáo mênh mông… Cầu Thiên Chúa ban cho Giáo Hội thật nhiều con trâu kéo cày khỏe như anh Tám Hậu. Trích SỨ MỆNH GIÁO DÂN
Một ông linh mục tuổi tứ tuần, đang lang thang dạo phố, thì có người vỗ vai từ phía sau. Quay lại PiôHậu 199
Một ông linh mục tuổi tứ tuần, đang lang thang dạo phố, thì có người vỗ vai từ phía sau. Quay lại thì thấy anh công an phường nhà. Tay bắt mặt mừng, kéo nhau vào quán cà phê gần nhất.
Hai ly cà phê đá. Ba điếu thuốc Jet. Chuyện con cà con kê: từ chuyện an ninh trong phường, đến chuyện sinh hoạt nhà thờ. Hết chuyện rồi, thì im lặng nhả khói. Bỗng … anh công an cúi mình về phía trước, hỏi nho nhỏ:
- Bộ anh không có vợ thật hả? - Bộ anh không tin linh mục sống độc thân hả? - Tôi không tin. Anh giấu vợ ở đâu đó. Tôi thấy anh đi thành phố hoài à. - Anh đã đi Sài Gòn bao giờ chưa? - Lâu lâu mới đi một lần? - Anh đi Sài Gòn để thăm vợ bé phải không? - Tôi đi công tác chứ bộ. Anh đừng nói bậy. Bà xã tôi mà nghe được, thì từ chết đến bị thương. - Tôi cũng đi công tác. Anh đừng nghĩ bậy. Giáo dân trong họ đạo tôi mà nghe được, thì anh sẽ từ chết đến chết, chứ không bị thương đâu nhá.
- Thiệt tình mà nói, tôi vẫn cứ thắc mắc: • Một: Linh mục các anh có sống độc thân thật không? • Hai: Sống độc thân là không có vợ, nhưng có chơi bời không • Ba: Làm đàn ông mà không “biết” đàn bà, thì có bị stress không? • Bốn: Giáo Hội các anh bắt linh mục phải sống độc thân thì có vô nhân đạo không? • Năm: Hàng năm linh mục các anh đi cấm phòng. Phải chăng là ông giám mục thưởng các anh: mỗi linh mục một phòng và một người đàn bà. Tha hồ hú hí… Ông linh mục được hưởng một trận cười quá đã. Cười cho đã, rồi ông rỉ rả tâm sự.
Nếu anh thiệt tình thắc mắc, thì tôi cũng xin chân thành giải đáp.
• Một: Trước khi lãnh tác vụ linh mục, chúng tôi phải tuyên hứa sống độc thân. Chúng tôi đã có một thời gian rất dài để suy nghĩ, để luyện tập, để thấy mình có thể sống độc thân. Thời gian dài ấy của riêng tôi là: tám năm học ở Tiểu Chủng Viện; bảy năm học ở Đại Chủng Viện và hai năm đi thực tế. Tôi lãnh tác vụ linh mục ở tuổi 28, không phải là chuyện “nhắm mắt đưa chân”, mà là việc làm có tính toán trước.
Dĩ nhiên luật linh mục sống độc thân là luật của Giáo Hội Công Giáo Rôma – Linh mục Chính Thống Giáo và Anh Giáo đều có thể lấy vợ. Luật này là luật của “hôm nay “. Thời Giáo Hội sơ khai không có luật này. Còn “ngày mai”, thì luật này có thể tồn tại hoặc có thể được bãi bỏ. Hãy để “ngày mai” trả lời.
• Hai: Anh thấy chúng tôi không có bà xã, nhưng vẫn nghi ngờ chúng tôi có thể chơi bời nhăng nhít. Thì dĩ nhiên anh có quyền nghi ngờ. Nói thiệt với anh là nếu tôi có nhăng nhít, thì anh biết liền, vì họ đạo tôi có 5.000 tín đồ, tức là gần 10.000 con mắt theo dõi. Tôi có thể qua mắt anh, nhưng tôi không thể qua mắt 5.000 tín đồ của tôi được…
- Cho tôi ngắt lời anh, vừa rồi anh nói họ đạo anh có 5.000 tín đồ, 5.000 người nhân với hai thì là 10.000 con mắt chứ. Tại sao anh lại nói là gần 10.000 con mắt. Anh có ý đồ gì không?
- Thì tại họ đạo tôi có một số người khiếm thị. - Trời! Anh cân nhắc kỹ quá làm chi vậy? - Rồi. Tôi tiếp tục giải đáp.
• Ba: Sex là một yêu cầu thúc bách đến độ có người cho rằng loài người và loài vật đều không thể cưỡng lại được. Chính vì thế, dù Đại Hồng Thủy, dù chiến tranh khốc liệt trai gái vẫn yêu nhau, vẫn phối hợp để loài người sinh tồn. Có ai đó kể rằng: trong một hầm trú ẩn có một anh và một cô du kích, với hai nòng súng cùng lăm lăm hướng về chiếc máy bay cán gáo. Đạn ở dưới bắn lên. Đạn ở trên nhả xuống. Mùi thuốc súng khét lẹt. Sự sống và sự chết chỉ cách nhau bằng một sợi tơ nhện. Thế mà chính ngày hôm ấy, trong chính căn hầm ấy, anh du kích được làm cha, cô du kích trở thành người mẹ.
Anh có kinh nghiệm về điều đó, nên phỏng đoán rằng người độc thân bị dồn nén bởi sex. Từ đó anh có thể kết luận rằng người độc thân như chúng tôi mà không được xả xu-páp thì sẽ bị stress và sẽ không bình thường. Anh có lý vì lý luận của anh có cơ sở khoa học. Nhưng xin anh coi người làm xiếc. Họ đi trên dây cáp ở độ cao chóng mặt. Anh cứ tưởng họ sắp té xuống, nhưng họ không té, vì họ có cây sào giữ thăng bằng và họ đã luyện tập lâu dài. Và họ có năng khiếu cộng với lòng tự tin.
Làm trò xiếc là rất khó, nhưng không khó quá. Sống độc thân cũng vậy: rất khó, nhưng không khó quá đâu. Anh tin tôi đi.
• Bốn: Nếu bảo Giáo Hội là vô nhân đạo, khi bắt các linh muc phải sống độc thân, thì cũng phải bảo rằng ông bầu xiếc là vô nhân đạo, khi bắt đàn em mình phải đi trên dây cáp, phải đúc đầu vào mõm sư tử… Ông bầu xiếc đã tuyển chọn, đã huấn luyện đàn em như thế nào, thì Giáo Hội cũng tuyển chọn và đào tạo ứng viên linh mục như thế. Và dĩ nhiên số người làm trò xiếc không nhiều vì nghề làm xiếc không dễ. Số người làm linh mục cũng vậy: không nhiều, vì sống độc thân không dễ.
Người làm trò xiếc chỉ cần năng khiếu và kỹ năng, còn linh mục ngoài năng khiếu và kỹ năng, còn có ơn phù trợ của Đấng thiêng liêng nữa. Anh không tin có Đấng thiêng liêng, nhưng chúng tôi tin và đó là sức mạnh tinh thần của chúng tôi. Ngoài ra, về mặt tâm lý, khi người ta say mê một cái gì, thì có thể quên cái kia. Anh mê nhậu với bạn, quên về với vợ. Anh mê coi đá bóng, quên cả giấc ngủ cần thiết. Chúng tôi cũng phải chọn một cái say mê nào đó để quên sex. Quên được đấy.
• Năm: Hằng năm linh mục chúng tôi đi cấm phòng. Cấm phòng theo nghĩa đen là chỉ ở trong phòng để cầu nguyện, để tự kiểm công tác trong năm, để phác họa một chương trình hoạt động cho năm tới. Thực tế, thì chẳng ai vô phòng riêng – ăn cơm trong nhà ăn tập thể. Đọc kinh chung trong nhà thờ. Kiểm điểm và trao đổi ý kiến trong hội trường. Nếu anh, hoặc ai đó hiểu rằng chúng tôi cấm phòng là vô phòng, đóng cửa lại, hú hí với đàn bà con gái, thì tôi không thèm giải đáp…
- Buồn hả?
- Ừ. Nhưng tôi không buồn cho tôi. Tôi chỉ buồn cho ai đó lãnh đạo tôi, mà chả hiểu tôi là gì. Y như cô giáo lớp mầm non mà không học sư phạm, cứ tưởng học trò của mình là bầy vịt con, ăn giun, ăn dế. Y như một ông tài xế ngồi ôm vô-lăng mà chả biết lái xe, cứ ngồi mân mê hộp số, sang số, rồ ga, rồi kêu”trời ơi là trời”.
- ?! Thôi chúng mình tạm giã từ nhau. Sau này còn nhiều chuyện để bàn.
Hai người xiết tay nhau. Hai người cùng cười. Một người cười đắc thắng. Một người cười trừ. Một người nhìn về quá khứ. Một người hướng về tương lai. Nhưng cả hai người vẫn giữ lại một cái gì đó cho nhau. Đó là tình người.
Một ông Cao Đài đang dán mắt vào cuốn Thánh Kinh dày cộm, bỗng cười hô hố: - Bà ơi! Châm PiôHậu 200
Một ông Cao Đài đang dán mắt vào cuốn Thánh Kinh dày cộm, bỗng cười hô hố:
- Bà ơi! Châm cho tôi ấm nước trà. Có khách quý tới nè. - Khách quý nào vậy? - Ông linh mục bên nhà thờ. - Chào linh mục. Linh mục đến thăm là Chúa đến thăm. Nhà tôi thiệt có phước. - Hổng dám. Ông bà Tư mạnh giỏi cả chứ? - Trời Phật độ. Vợ chồng chúng tôi mạnh hoài à – Bà Tư đon đả, cười duyên, ngoe ngoảy đi vô nhà trong. Ông Tư Cao Đài gấp cuốn Thánh Kinh, nhìn trân ông linh mục, muốn ngỏ lời, nhưng lại “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Ông linh mục đon đả mở màn.
- Ông Tư nghiên cứu Thánh Kinh dữ quá ta. Ông Tư thấy thế nào? - Nói chung thì hay quá. Nhưng … tôi thấy Chúa của ông “Tham-sân-si” quá à. - Ví dụ! - Chúng tôi là người phàm, vậy mà khi thấy “con hơn cha” thì biểu là “nhà có phước”. Thế mà Chúa của ông thì không được như thế. Thấy Evà ăn trái cấm để bằng Chúa, Chúa không mừng, lại còn phạt te tua. Te tua từ đời cha đến đời con. Te tua cho đến hôm nay và cho đến tận thế luôn.
- Ông Tư có ý nghĩ hay đấy. Tôi chưa bao giờ khám phá ra tư tường này… Chúa của tôi còn “Tham-sân-si” gì nữa nào?
- Còn nhiều lắm:
+ Ađam và Evà trốn trong bụi rậm, Chúa không biết. Chúa phải đi tìm và gọi ơi ới: “Ađam đâu? Ađam đâu?”.
+ Chúa không biết lòng của Apraham ra sao, nên bảo ông sát tế đứa con duy nhất là Isaác. Đến khi ông Apraham giơ con dao lên sắp đâm phập xuống, Chúa mới biết và tin tưởng vào lòng trung thành của ông: “Thôi dừng tay lại đi. Bây giờ Ta biết lòng ngươi rồi". Như thế là không toàn tri.
+ Thấy Dân Do Thái cứng đầu quá, Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt họ trên sa mạc. May quá, nhờ ông Môsê khuyên bảo và “quạt mát” cho, Chúa mới nguôi ngoai và thôi bừng bừng sát khí. Môsê còn hiền lành hơn cả Giavê!
+ Chúa chỉ yêu một Dân Do Thái. Ngài sẵn sàng giết hết các con đầu lòng của Ai Cập để Dân Do Thái được hồi hương. Chúa sẵn sàng dìm binh tướng Ai Cập chết ngộp trong Biển Đỏ xác trôi lều bều… để người Do Thái được thong thả đi trên lòng biển ráo chân. Rồi sau đó lại có ý đồ đuổi hết các dân tộc từ bờ Địa Trung Hải cho tới sông Hổ Giang để làm cái nôi cho con của mình là Dân Do Thái. Để tôi đọc câu này cho linh mục nghe nhá: “Gốc nho ấy Chúa bứng từ Ai Cập. Đuổi chư dân đi lấy chỗ mà trồng. Cành lá vươn dài tới phía Đại Dương. Chồi mọc xa tới tận miền Sông Cả”.
- (Vỗ tay) Hoan hô ông Tư, ông Tư thuộc Thánh Kinh hơn cả tôi nữa. Tôi xin ghi nhận mọi ý kiến của ông Tư để suy gẫm. Tôi sẵn sàng góp ý với ông Tư, nhưng phải nói chuyện lâu đấy.
- Càng lâu càng tốt. Ăn cơm tối với chúng tôi luôn.
- Khỏi cần cơm làm chi. Một điếu thuốc, một tách cà phê là đủ rồi.
- Bà ơi, cho tôi và ông cha nhà thờ một gói thuốc Jet và hai tách cà phê. Rồi bà ra đây mà nghe tụi tui bàn chuyện Thánh Kinh.
Cà phê đắng lắng xuống. Khói thuốc cay bay lên. Ông linh mục lim dim cặp mắt. Ông Tư Cao Đài ngong ngóng chờ. Bà Tư Cao Đài làm duyên làm dáng.
Ông linh mục bắt đầu nhỏ nhẹ:
- Một điều đáng buồn là loài người từ Đông sang Tây, từ Cổ chí Kim đều không nghĩ tốt về Thượng Đế.
+ Chuyện cổ Hy Lạp và La Mã coi thần Jupiter như một ông Trời ích kỷ và độc ác. Thần Prêmêtê ăn trộm lửa trời đem cho loài người, để loài người được ngủ ấm và được ăn chín. Thế mà ông Trời Jupiter đã nỡ tâm phạt Prêmêtê bị quạ mổ bụng, moi ruột đời đời kiếp kiếp.
+ Văn chương bình dân Việt Nam ta gọi ông Trời là “Con Tạo đa đoan”. Đa đoan chẳng phải là bận rộn công việc, mà là điều hành vũ trụ một cách tùy tiện, không tình không lý. Con Tạo bắt cặp vợ chồng này phải vô sinh để họ buồn hiu hắt. Ông lại bắt cặp vợ chồng kia đẻ sòn sòn năm thằng con trai, tức ngũ quỷ, để thiên hạ cười chơi…
+ Văn chương còn gọi ông Trời là “Trẻ Tạo đành hanh quá ngán. Chết đuối người trên cạn mà chơi?”. Ông Trời đày đọa kiếp người, để mà chơi thôi. Trời ơi là Trời!
+ Thi hào Nguyễn Du giận ông Trời quá đến mức độ phải thốt lên rằng:
“Lạ gì bỉ sắc, tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Ông Trời ngự trên chín tầng trời mây thăm thẳm, mà còn ghen tương với tài sắc của cô Kiều ư. Ông Nguyễn Du ơi! Ông ơi là ông!
Các tác giả Cựu Ước không đi ra ngoài quỹ đạo suy tư ấy. Họ là người phàm, họ nhìn Thiên Chúa theo cặp kính màu của họ. Họ được Chúa mạc khải chân lý, nhưng cách trình bày của họ vẫn còn “tham-sân-si” như mọi người.
Mạc khải chính mà Chúa muốn cho loài người biết, đó là có một Thiên Chúa Duy Nhất và có một Lịch sử Cứu Độ cho mọi dân tộc, nhưng khởi đầu từ Dân Do Thái. Nhưng cách trình bày của sứ ngôn thì không thể như Chúa muốn được.
Ta lấy một ví dụ: Để đưa Dân Do Thái trở về thờ một Chúa duy nhất, thì Êlia đã sử dụng phương pháp “tham-sân-si” của ông. Đó là ông ra lệnh giết hơn bốn trăm sãi thần Baal trên núi Cácmen. Mục đích thì đã đạt được nhưng phương tiện để đạt được mục đích ấy thì ghê quá, “sân” quá. Loài người thời nào cũng thế. Ôi, nhân tình thế thái.
Điều tôi muốn tâm sự với ông Tư, đó là chỉ một mình Đức Giêsu mới cho ta một mạc khải trọn vẹn về Đấng Thượng Đế mà Người gọi là Cha. Những giáo huấn của Môsê và của các sứ ngôn chỉ là con đường dẫn đến Đức Giêsu. Chỉ có một mình Đức Giêsu cho ta thấy chân dung chân thật của Thiên Chúa, vì chỉ có một mình Người mới là người Con từ Chúa Cha mà đến. Chỉ có con mới nói hết lời hết ý về Cha của mình.
Cũng chính vì thế tôi đề nghị với ông bà Tư là ta nên đọc về Đức Giêsu trước, tức là đọc Phúc Âm. Hiểu Đức Giêsu rồi, yêu Đức Giêsu rồi, mới đọc Cựu Ước và mới thấy cái nào là cái “Tham-sân-si” của loài người và cái nào là toàn tri, toàn ái của Đấng Giavê.
Tôi kể cho ông bà Tư một câu chuyện để minh họa lý luận trên. Có một cặp vợ chồng rất cần cù và tiết kiệm. Con trai thì không ăn nhậu. Con gái thì không se sua. Họ có vựa củi và than. Vậy mà trong bếp chỉ chụm miểng vụn của củi. Nhà lá thì sập sệ và trống hoang. Tôi hỏi một ông láng giềng:
- Tại sao nhà ông Hai cần cù, tiết kiệm như thế mà không giàu là thế nào? - Cần cù lắm. Tiết kiệm lắm. Nhưng... không giàu, vì phải có số giàu mới giàu cha ạ. - Có lý nhưng không có sức thuyết phục.
Tôi hỏi đứa con Út của ông Hai.
- Tại sao cha con thì cần cù, tiết kiệm, tụi con thì không ăn chơi, không se sua, mà sao vẫn nghèo thế?
- Cha con có nhiều vàng lắm. Cha con đem chôn ngoài nhị tì, sợ bị đánh tư sản mại bản.Đúng thế thật, sau Đại hội VI của Đảng năm 1986, ông Hai phá nhà lá, xây nhà lầu…
Thế mới biết chỉ có người con mới nói đúng và nói hết về cha của mình. Chỉ có mạc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu mà thôi.