Có một nữ tu hỏi con rằng : "Chúa rất hiền từ, rất bao dung đối với tội nhân. Thế nhưng tại sao PiôHậu 241
Có một nữ tu hỏi con rằng : "Chúa rất hiền từ, rất bao dung đối với tội nhân. Thế nhưng tại sao Chúa lại khinh ghét vua Hêrôđê và gọi ông ấy là con cáo già ?" Con cứng họng không trả lời được. Đành chịu thua 1-0. Qua hơn hai mươi năm rồi, con vẫn chưa san bằng được tỉ số. Hơi buồn một tí. Nhưng dù sao con cũng tìm được một số tài liệu đế thấy Thầy và Hêrôđê.
1- Cả ba thánh ký Tin Mừng Nhất Lãm đều cho biết Hêrôđê đánh giá Thầy rất cao. Thậm chí còn coi Thầy là một Gioan Tẩy Giả đã sống lại (Mc 6,16). Không những đề cao Thầy, ông còn tìm dịp để gặp Thầy (Lc 9,9). Khi được Philatô chuyển Thầy qua tòa án của ông, ông mừng quá (Lc 23,8)
2- Hêrôđê chưa gặp được Thầy, nhưng ông đã được nghe biết tất cả những lời Thầy nói và việc Thầy làm. Tại sao ông biết ? Con cho rằng bà Gioanna là người đã cung cấp cho triều đình Hêrôđê mọi thông tin về Thầy. Bà là vợ của ông Khu gia, quản lý của vua Hêrôđê. Bà đã từng tháp tùng truyền giáo với Thầy. Bà là mạnh thường quân của đoàn truyền giáo (Lc 8,3). Bà thấy, bà nghe, bà yêu, thì bà sẽ nói hết, không bỏ sót một chi tiết nhỏ. Đó là quy luật của con tim và cái miệng của phụ nữ.
3- Hêrôđê Antipas là con của Hêrôđê Cả, là em của tiểu vương Philíp. Khi Hêrôđê Cả đã chết thì quyền hành của ông bị chia nhỏ ra. Philíp là anh, nhưng không khôn khéo nên chỉ được chính quyền Lamã cho làm tiểu vương miền Hurê và Traconitiđê, hai tỉnh Đông-bắc nghèo nàn. Còn Hêrôđê Antipas thi khéo luồn lọt nên được nắm quyền hành chính hai tỉnh đông dân cư và trù phú, đó là tỉnh Galilê và Pêrê. Đúng là con cáo già thật.
Ngoài cái bẩm chất cáo già, Hêrôđê còn đểu cáng nữa. Lợi dụng thời gian ông anh (Phi líp) qua Rôma để khiếu nại về sự thua kém của mình, Hêrôđê đã phỗng Hêrôđia, vợ của ông anh đem về làm vợ của mình. Cứ tỉnh bơ như lượm của rơi ngoài đường. Trơ tráo thật ! Chuyện ngang trái này, bàn dân thiên hạ đều biết. Nhưng chẳng ai dám hé răng, chẳng ai dám dại mồm dại miệng để mang vạ vào thân. Nhưng... với sứ ngôn Gioan thì không có vấn đề vạ mồm. Là sứ ngôn thì lẽ phải và chân lý phải lớn hơn mạng sống. Thế là ông vào ngay triều đình, tuyên bố thẳng thừng : "Ông không được phép cướp vợ của người anh". Hêrôđê giận dữ. Hêrôđia giận điên lên. Thế là sứ ngôn khả kính lặng lẽ chui vào ngục thất, coi cái chết nhẹ hơn lông hồng.
Mátthêu bảo rằng Hêrôđê không dám giết Gioan, vì sợ dân (Mt 14,5). Máccô thì bảo rằng chỉ có Hêrôđia căm thù và muốn giết Gioan thôi; còn Hêrôđê thì nể sợ và muốn che chở Gioan (Mc 6,20). Con không đồng ý với Máccô. Con theo ý kiến của Mát thêu, vì nó gần với thực tế hơn. Hêrôđê là một chánh trị gia thủ đoạn, đểu cáng và bẩn thỉu. Ông nịnh bợ đế quốc để có được một cái nồi cơm to hơn và một cái ghế cao hơn so với ông anh. Ông đá đít ông anh để chôm cô chị dâu nạ dòng đã có một đứa con gái đương tuổi “ô mai”. Nhỏ mọn ! Đứa con gái này có tên là Salomê . Hắn được mẹ đạo diễn tài tình, đến mức độ, sau một màn múa tuyệt vời, hắn đã xin Hêrôđê cho hắn một phần thưởng kinh dị, đó là cái đầu của sứ ngôn Gioan Tẩy giả. Thế là cái đầu của Gioan đẫm máu nằm gọn trên mâm, được trao tặng cho diễn viên xuất sắc Salomê. Ôi, kinh tởm đến ói mửa ! Một ông vua ma quỷ coi cái đầu của nhân dân, cái đầu của một nhà tu hành không bằng một cái củ chuối. Phải có một ngàn đời để nguyền rủa! Một vạn thế hệ vẫn chưa hết buồn nôn!
4- Hôm ấy bọn Pharixêu nhân danh Hêrôđê để đuổi khéo Thầy. - Xin ông rời khỏi nơi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông đấy.
- Các ông hãy đi mà nói với con cáo già ấy rằng : hôm nay và ngày mai (tôi chưa đi đâu) tôi còn phải trị bệnh và trừ quỷ. Ngày mốt tôi mới hoàn tất (nghĩa là ngày mốt tôi mới đi. Tôi đi không phải vì tôi sợ các ông, mà vì tôi phải hy sinh tại thủ đô để hoàn tất công trình cứu độ của tôi).
Thầy gọi Hêrôđê là con cáo già. Chẳng biết Thầy có khinh dể ông ấy hay không. Nhưng chắc chắn một điều : ông ấy là cáo già thật, và còn hơn cáo già nữa. Chỉ tiếc một điều là từ điển của loài người chưa có hình dung từ nào diễn tả được cái bẩm chất ấy của Hêrôđê. Họa chăng phải biến đại danh từ Hêrôđê thành hình dung từ hêrođê thì mới vẽ được cái chân dung của Hêrôđê ấy.
5- Tổng trấn Philatô không dám ngồi toà xét xử Thầy, vì bà vợ có lời nhắn nhủ (nhắn nhủ như răn đe): "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người hiền thánh này, vì đêm qua tôi chiêm bao, tôi thấy mình phải khổ quá chừng vì ông ta" (Mt 27,19). Do đó Philatô tìm mọi cớ để đùa vụ này đi. May quá, ông biết Thầy là người Galilê, thuộc thẩm quyền hành chánh củ a vua Hêrôđê . Mà vua Hêrôđê lại đang có mặt ở Giêrusalem. Mừng quá ! ông cho dẫn độ Thầy qua tòa xử của Hêrôđê. Hêrôđê cũng mừng quá vì nay mới được gặp Thầy. Ông cũng vui quá vì được Tổng trấn đối xử tế nhị đến thế. Nhưng... ông bị hẫng, vì Thầy cứ đứng trơ ra đó như một người câm, như một người điếc. Bọn Do Thái tố điêu, Thầy làm thinh. Hêrôđê chất vấn, Thầy cũng làm thinh. Ông bị sốc. Ông cảm thấy bị coi thường. Ông thôi kính trọng Thầy. Ông thôi muốn gặp Thầy. Ông cho dẫn độ Thầy trả về cho Tổng trấn. Ông coi Thầy như một thằng khùng...
Thầy kính mến .
Đối với Philatô dường như Thầy có một chút kính trọng. Thầy im lặng hoàn toàn trước những lời xuyên tạc của người Do Thái, nhưng Thầy có nói vài ba câu với cá nhân ông Philatô. Còn đối với Hêrôđê thì Thầy "tịnh khẩu hoàn toàn. Tại sao lại có sự khác biệt này. Con ngẫm nghĩ.
*Philatô là một Tổng trấn. Tổng trấn là một quyền bính. Quyền bính do Trời ban (Ga 19,11) để phục vụ con người. Philatô chưa thực hiện được lý tưởng ấy, vì ông coi cái nồi và cái ghế quan trọng hơn chân lý và lẽ phải. Nhưng ông vẫn còn một chút lương tâm le lói. Ông xác nhận Thầy vô tội và muốn thả Thầy. Ông tìm cách để thả Thầy, nhưng ông bất lực. Ông yếu đuối và tỏ ra lúng túng trước sức mạnh của sự ÁC - Đáng khinh nhưng cũng đáng tội nghiệp.
* Hêrôđê là một Tiểu Vương. Tiểu Vương là một quyền bính. Nhưng quyền bính này chẳng có chút ý niệm gì về công lý và con người. Lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả để làm quà tặng cho một diễn viên có tài đã nói lên tất cả cái quyền bính sai lầm mà Hêrôđê chỉ là một bằng chứng. Thầy im lặng tuyệt đối trước tòa án của Hêrôđê. Thầy gọi Hêrôđê là con cáo già, thì Thầy không thèm nhắm cái cá nhân bé nhỏ của Hêrôđê. Thầy khinh dể và không thừa nhận cái quyền bính phi nhân bản. Hêrôđê chỉ tồn tại trên ngai từ năm 4 trước khi Thầy ra đời cho tới năm 39 sau khi Thầy sinh. Còn quyền bính phi nhân bản thì vẫn tồn tại từ thuở nào cho đến bây giờ và mãi mãi. Cái im lặng tuyệt đối của Thầy trước tòa án Hêrôđê phải tồn tại mãi mãi, để nói cho loài người biết rằng, quyền bính chỉ có lý do tồn tại, khi nó biết phục vụ cho chân lý và lẽ phải.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký tường thuật. Cả bốn ông cùng PiôHậu 242
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký tường thuật. Cả bốn ông cùng kể, nhưng chẳng ông nào nói hết lời. Con phải đọc cả bốn ông để có được một bức tranh tương đối sống động. Vui buồn lẫn lộn. Vui da diết. Buồn tê tái. Buồn rầu cũng có. Buồn cười cũng không thiếu.
1- Lúc ấy thời tiết đã sang xuân. Khí hậu ấm áp. Cỏ cây xanh rờn. Đẹp lắm. Nông dân vừa buông tay cày, kết thúc mùa gieo trồng. Thầy bung ra một chiến dịch truyền giáo. 12 đệ tử lên đường, chia thành 6 nhóm. Họ đặt tay trị bệnh, bệnh hết. Họ nhân danh Thầy để trừ quỷ, quỷ chạy te te. Họ hãnh diện và sung sướng vô cùng. Hí hửng như tân binh ôm súng ra chiến trường, rồi vác súng trở về lãnh huy chương. Ngày trở về, dân chúng đeo theo. Theo để tiễn chân người thương. Theo để thấy mặt ông thầy của người thương.
Trùng trùng điệp điệp. Tầng tầng lớp lớp. Cả thầy lẫn trò mệt khờ, không còn thời giờ để ăn. Ôi siêu sao, sướng quá mà cũng khổ quá. Sướng quá vì được yêu. Khổ quá vì bị yêu. Đành phải trốn thôi. Thầy nói nhỏ bên tai ai đó (có lẽ là Phêrô). Bỗng cả Thầy lẫn trò nhảy vội lên thuyền đánh cá. Cởi dây thật lẹ. Căng buồm thật nhanh. Con thuyền vọt ra khơi. Trên bờ, tiếng người kêu ơi ới... ơi ới. Con thuyền điếc không nghe... Bây giờ Thầy mới được nghỉ. Mồ hôi thôi nhểu lồm rộp. Gió mát lùa vào người, lau sạch từng mảng da thịt nhớp nháp. Sướng thật ! Còn các đệ tử của Thầy thì nhâm nhi, nhóp nhép. Đã quá !
2- Giữa rừng người đang kêu ơi ới, đang tiếc ngẩn ngơ, có một cánh tay vung lên :
- Theo tôi ? Thầy đi Bétxaiđa.
- Sao ông biết ?
- Nội bộ xì ra.
- Ai ? - Ông bạn nỏ mồm, ruột để ngoài da. Bật mí bấy nhiêu thôi. Cấm hỏi.
Một người đi. Trăm người đi. Ngàn người đi. Người đi đầu biết mình đi đâu. Người theo sau lẩm bẩm trong miệng: “Người ta sao, mình vậy”. Dòng thác người tuôn chảy. Chảy về đâu ? Không biết. Quần chúng là thế. Rất vô tâm. Rất vô tình. Rất buồn cười, nhưng cũng rất
đáng sợ.
3- Sau ba tiếng đồng hồ, thuyền ghé bến Bétxaiđa. Trời! Lại một rừng người, lại kêu ơi ới. Dòng người lại siết lấy siêu sao của mình. Rờ một cái. Vuốt một cái. Giành nhau rờ. Giành nhau vuốt. Khổ ơi là khổ ! Thương quá là thương! Thấy lòng dân quá ái mộ, Thầy thốt lên một lời làm não lòng mọi người : "Ta thương dân. Họ như những con chiên bơ vơ không người chăn dắt". Tội nghiệp dân, Thảy lại giảng, giảng thật nhiều. Hứng quá !
Nhưng con không thấy tín đồ Do Thái giáo bơ vơ như bầy chiến không chủ chăn. Con chỉ thấy họ bị các Kinh sư và Pharixêu chăn dắt quá kỹ, quá nghiêm khắc đến mức độ ngộp thở. Họ đang bị chăn dắt, còn khổ hơn là bơ vơ. Cứ hai trăm tín đồ thì có quyền lập một hội đường. Mỗi hội đường lại có một Kinh sư làm cha linh hướng. Đường lối mức vụ của họ biến con cái của Giavê trở thành tên nô lệ chỉ biết sợ mà không biết yêu. Họ chủ trương "luật vị luật" chứ không phải "luật vị nhân sinh". Đức Giáo Hoàng Phêrô, tại Công đồng Giêrusalem đã gọi luật ấy là cái ách mà chẳng ai vác nổi (Cv 15,l0). Thầy tội nghiệp dân là thậm phải.
4- Một rừng người chiếm hết một sườn đồi, năm ngàn cái đầu đàn ông nhấp nhô. Đàn bà, con nít thì ít hơn, nhưng cũng vài ba ngàn mái tóc óng ả... Trên là bầu trời. Dưới là đầu người.
Thầy bắt đầu giảng. Người ta lắng nghe. Nhưng chỉ dăm trăm người nghe được. Không micrô, không loa phóng thanh, cho dù Thầy hét lên, thì cũng chỉ bấy nhiêu người nghe. Tỷ lệ năm phần trăm. Con số nhỏ nhoi ấy chẳng làm nên niềm phấn khởi cho một nhà giảng thuyết siêu việt như Thầy. Con đánh giá là không tương xứng giữa công lao và kết quả. Âu cũng là số phận của kiếp thừa sai, của Thầy cũng như của mọi thời sai.
Biết thế mà Thầy vẫn giảng, giảng dài, giảng mãi cho tới lúc đệ tử giật mình, vì mặt trời chỉ còn nửa vành gác hờ trên sườn đồi hướng tây.
- Xin Thầy cho bà con giải tán, để bà con còn về. Xế dữ rồi.
- Các anh phải lo cho người ta ăn đã. Philíp, có cách nào lo cho người ta ăn không ?
- Thưa Thầy, 200 đồng cũng chẳng nhằm nhò gì. (Con phỏng đoán 200 đồng này tương đương với 700 USD bây giờ). - Có một thằng cu tí bán bánh. Nó còn trong rổ năm ổ bánh mì và hai con cá. Anrê vừa báo cáo vừa lắc đầu tuyệt vọng.
- Được rồi. Các anh bảo bà con tập trung vào các bãi cỏ ngồi chờ.
Thầy bưng rổ bánh, ngước mắt nhìn trời. Cặp mắt xuất thần chọc thủng cõi vô biên. Thầy thấy Cha của Thầy ở trong cõi vô biên ấy... Năm ổ bánh mì cỏn con được bẻ ra chia mãi, chia mãi cho hằng chục ngàn người ăn. ăn mãi, ăn mãi... vẫn còn... Thấy còn hoài, bà con bắt đầu kén ăn. Người già ăn ruột, bỏ vỏ. Người trẻ ăn vỏ bỏ ruột. Mảnh vụn bánh bị vứt bỏ một cách vô tội vạ. Thấy mà đau. Thầy ra lệnh gom lại hết, lắc đầu than thở: "Uổng phí quá".
Thầy ơi ! Thầy kẹo quá ! Những mảnh vụn ấy để cho chim ăn, cho kiến ăn. Thầy nỡ lòng nào bắt người ta đi gom. Gom được mười hai thúng. Gom lâu lắm đấy. Tội nghiệp người ta. Nhưng bây giờ con mới biết rõ lánh ý của Thầy : Việc lớn không bỏ, việc nhỏ không quên. Thầy hoàn hảo trong cái tổng quát. Thầy chu đáo cả trong các chi tiết. Và Thầy không cho phép chúng con hoang phí dù là một cắc, dù là một xu. Chuyện nhỏ ấy cũng là mạc khải của Chúa Cha, vì chính Ngôi-lời-làm-người đã xuýt xoa : "Uổng phí quá" (Ga 6,12).
5- Bỗng các tông đồ vội vã xuống thuyền để về Caphácnaum. Còn Thầy thì chuồn lên núi, lẹ như một con sóc Thế là có vấn đề .
* Có ai đó đang vận động quần chúng tổ chức nghi thức tôn Thầy làm vua. Thầy làm vua, thì dân có cơm no áo ấm. Ai cũng nghĩ vậy. Thế là lịch sử cứu độ đã bị chính trị và kinh tế hủ hóa. Thầy bỏ chạy để bảo toàn sự trong sáng của ơn cứu độ ấy.
* Không thấy Thầy đâu mà trời thì bắt đầu nhá nhem tối ai nấy chép miệng rồi lục tục ra về. Lại tầng tầng lớp lớp. Nhưng lặng lẽ như bầy ốc bươu.
* Trong bóng đêm nặng nề của rừng núi, chỉ có Thầy và Chúa Cha. Thầy day dứt vì bị rơi vào thế chẳng đặng đừng: Để dân đói bụng ra về thì không nỡ; làm phép lạ cho dân ăn, thì dân hiểu lầm Nước Trời là cái bụng no tròn. Không làm phép lạ thì là bất nhân. Bất nhân là tội. Làm phép lạ thì sai lầm ở hệ quả. Hệ quả sai lầm chỉ là thiếu sót. Đành phải chọn cái thiếu sót, để tránh cái tội. Khổ ơi là khổ ! Ôi thân phận làm người ! (dù là Thiên Chúa làm người).
Thầy kính mến.
Người loan báo Tin Mừng nào cũng phải thương giúp người nghèo. Đó là bổn phận của con người. Nhắm mắt trước nỗi thống khổ của người nghèo là một tội, tội với người, tội với Chúa. Nhưng được ăn no rồi, người nghèo có nguy cơ coi ĐẠO là cái nồi cơm. Biết thế mà không thừa sai nào tránh được vì... Chính Thầy cũng không tránh khỏi... Rồi sau đó là lương tâm day dứt. Day dứt cho đến chết.
Chuyện kể của Luca thì khá dài. Nhưng con chỉ ghi nhận bốn chi tiết thôi. Bốn chi tiết này vừa PiôHậu 243
Chuyện kể của Luca thì khá dài. Nhưng con chỉ ghi nhận bốn chi tiết thôi. Bốn chi tiết này vừa buồn cười, vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa thương Thầy quá chừng.
1. Một người đàn bà bị băng huyết 12 năm. Hổ thẹn quá chừng! Mặc cảm tội lỗi (mắc uế) đầy mình! Tán gia bại sản! Thương ơi là thương!
Bà tự biết mình mắc uế, mắc uế triền miên. Đó là luật. Bà cũng biết rằng bà đụng tới ai, thì người ấy cũng bị mắc uế . Đó là luật. Nhưng phải đụng vào Thầy thì mới hết bệnh. Thế là bà lén lút phạm luật. Bà len lén đến phía sau Thầy âm thầm rờ vào tua áo Thầy, không để ai thấy. Hết bệnh thật. Mừng quá ! Định bụng giấu kín chuyện này. Chuyện vui nhưng... hổ thẹn.
Chuyện đàn bà, đàn bà giữ bí mật. Thế mà Thầy là đàn ông lại bật mí chuyện đàn bà. Buồn cười quá ! Lẽ ra Thầy phải làm thinh, cho qua chuyện ấy. Thế mà Thầy lại hùng hổ hỏi : “Ai đụng vào tôi ?” Phêrô không hiểu ý Thầy, nên nói trớt đi : “Tại đám đông xô lấn đấy thôi”.
Thầy không chịu bỏ qua, cố tình day dí và truy tìm : "Có người đụng vào Thầy, vì Thầy biết có một năng lực từ nơi Thầy phát ra”.
Người đàn bà ấy run rẩy quỳ mọp dưới chân Thầy, khai tuốt luốt những điều muốn giấu nhẹm, khiến đám phụ nữ mặt đỏ như gấc, muốn độn thổ cho rồi.
Con tưởng Thầy sẽ la cho bà ấy một trận. Ai ngờ... Thầy kết thúc một câu gọn lỏn và ngọt xớt: “Đức tin của con đã chữa con đấy. Chúc con về bình an”.
Thế là chuyện mắc cỡ trôi qua hết. Đám phụ nữ thôi xấu hổ. Chỉ còn lại một niềm tin yêu lan tỏa khắp mọi cõi lòng. Thầy ơi, Thầy cao tay quá. Con phục Thầy sát đất. Người đàn bà ấy ra về, lòng vui phơi phới. Còn con thì muốn phủ phục dưới chân Thầy, để cảm nghiệm được ý nghĩa của một lòng tin. Chuyện buồn cười hồi nãy, thì con chả thèm cười nữa.
2- Mátthêu kể rằng: khi ông Giairô đến gặp Chúa thì trình rằng "Con gái tôi vừa mới chết..." Con không đồng ý. Con gái của ông ta chỉ sắp chết thôi, chứ chưa chết đâu.
Khi Thầy vừa chúc lành cho người phụ nữ khỏi bệnh băng huyết, thì ông Giairô được người nhà báo tin : "Con ông chết rồi. Đừng làm phiền Thầy nữa". Thế là hết. ông xụ mặt. Thất vọng. Thấy thế, Thầy vội an ủi : "Con ông sẽ được cứu Chỉ cần tin thôi". Thầy biết ông ấy chỉ thất vọng vài mươi phút nữa thôi. Vậy mà Thầy cũng không nỡ. Thầy nhạy cảm quá. Con thấy cái TÂM của Thầy, giống cái tâm của người mẹ hơn là của người cha. Thấy người ta khổ, thì cầm lòng chẳng đặng. Dễ thương quá à !
3- Khi Thầy đi tới nhà ông Giairô, thì người ta đã than khóc ầm ĩ rồi. Đám tang nào cũng làm người khách bàng quan phải não lòng. Hoặc rơi lệ, hoặc lặng lẽ cảm thông. Thế mà Thầy lại nói ngang nói ngược: "Đừng khóc! Con bé có chết đâu. Nó ngủ đấy". Chết là hết thở, là tim ngưng đập. Chỉ có người ngu mới không biết điều ấy. Vậy mà Thầy nói như thể người ta đều ngu không biết thế nào là chết. Cả Mátthêu, Máccô và Luca đều kể rằng: Họ chế giễu Thầy. Còn con thì muốn nói rằng họ chửi Thầy. Ai chửi ? Đàn bà chửi, vì thường thì thỉ có đàn bà khóc. Mà đàn bà chửi thì mới ghê .
Đàn bà chửi Thầy. Con tức quá. Con giận đàn bà. Con giận cả Thầy nữa. Thầy là người lớn, Thầy ăn nói ngang ngược làm chi để cho người ta chửi. Thầy lỡ lời chăng ? Không. Thầy đùa giỡn không đúng chỗ chăng ? Ngàn lần không. Thế thì tại sao ? Con thôi giận để suy nghĩ.
* Đúng là người ta chửi Thầy, đàn bà chửi Thầy, đua nhau chửi kiểu "bề hội đồng". Đau lắm ! Nhục lắm ! Nhưng chỉ hai phút thôi.
* Sau hai phút thì sao ? Khi bé gái ngồi dậy, ăn nhóp nhép thì... tình hình đảo ngược 180 độ. Những người chửi Thầy hồi nãy, bây giờ mắc cỡ quá chừng. Nhưng mắc cỡ chừng nào, thì cũng vui nhộn chừng nấy. Niềm tin của họ lớn lên như núi. Tình yêu của họ cao lên như non. Con tin chắc rằng những người đàn bà chửi Thầy nhiều nhất, thì sau này sẽ trở thành những nhà truyền giáo hăng say nhất. Bị chửi hai phút, để được tin yêu suốt đời. Ôi, tuyệt vời! Khôn quá là khôn! Con chỉ biết cúi đầu cảm phục Thầy.
- Ừ, tao già mồm, nhưng tao không chửi hỗn như mày. Mày bảo ông ấy khùng. Tao méc cho mày coi.
- Đứa nào chửi nhiều nhất, thì phải đứng đầu dẫn cả bầy lên nhà trên mà xin lỗi Thầy.
- Ổng hiền quá à ! Nếu tao là ổng, thì tao bẻ cổ tụi bay chết hết rồi.
- Cho ông ấy bẻ cổ. Tụi mình chết cũng vừa. - Thôi đi mấy bà. Càng nói càng sai. Nói nhiều, hớ nhiều. Im cho rồi.
4- Em bé sống tại làm náo động cả nhà, cả xóm, cả làng. Mừng quá! Bỡ ngỡ quá! Cám ơn rối rít. Cảm phục quá chừng ! Tâm tình của một người đã loạn lên rồi, huống hồ là tâm tư của một dòng tộc, của một khu xóm.
* Vợ chồng ông Giairô thì mừng quá, mừng như điên. Chẳng biết phải nói thế nào để cám ơn Thầy. Chỉ biết khóc mếu máo, nói nhệu nhạo.
* Những người chửi Thầy, chế giễu Thầy bây giờ chẳng biết phải lấy gì mà che mặt. Nhưng tất cả đều hối hận, đều vui mừng cực độ.
* Em bé phục sinh chẳng biết, chẳng hiểu gì. Chỉ thấy đói cồn cào. Lúc đau ốm thì không ăn được. Bây giờ cơ thể bình phục rồi thì thấy đói. Nhưng chẳng ai quan tâm, kể cả mẹ nó. Còn giờ đâu mà quan tâm. Tất cả cho niềm vui rồi.
* Chỉ có một mình Thầy quan tâm đến chuyện đói bụng của em. Thầy bảo mẹ của em cho em ăn.
Thầy kính mến.
Nếu con là Thầy, thì con chả thèm nghĩ đến chuyện vụn vặt ấy. Việc ấy là của người mẹ, của người đàn bà. Chỉ một phút nữa, em bé sẽ lên tiếng đòi ăn, mẹ em sẽ lo. Thầy không phải lo. Thế mà Thầy cứ lo. Buồn cười thật.
Thì ra Thầy là mẫu người "Việc lớn không bỏ, việc nhỏ không quên". Cho bé sống lại là việc lớn. Cho bé ăn là việc nhỏ. Thầy lo cả hai. Đàn ông lo chuyện tổng quát. Đàn bà lo việc chi tiết. Cả hai bổ sung cho nhau. Còn Thầy thì vừa là người đàn ông lý tưởng vừa là người đàn bà chu đáo. Thầy là tổng số ưu điểm của đàn ông và đàn bà. Ngộ quá ta !
Là Ngôi-lời-làm-người, giáng trần để cứu độ loài người. Ôi vĩ đại ! Vậy mà lại tỉ mỉ bảo: "Cho bé ăn". Ôi siêu-vĩ-đại! Chẳng biết nói thế nào bây giờ. Đừng nói gì hết. Cứ im lặng để cảm nghiệm thôi.
Văn hào Đôstôiépski đã đọc câu chuyện này và lấy câu chuyện này làm nền cho một tác phẩm PiôHậu 244
Văn hào Đôstôiépski đã đọc câu chuyện này và lấy câu chuyện này làm nền cho một tác phẩm lớn của ông. Đó là cuốn "Lũ Người Quỷ ám". Dưới cái nhìn của Đôs. thì :
1- Ma quỷ hung dữ quá chừng. Không một ai khuất phục được hắn. Xiềng xích nào hắn cũng bứt tung. Người ta đành thôi không chống cự hắn nữa. Không ai bén mảng đến chỗ hắn đang ở. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”
2- Hắn trần trụi như con nhộng. Quần áo nào trao cho hắn, hắn cũng xé thành giẻ rách. Hắn thích trần truồng vì hắn không còn là người, mà là người bị ám, bị chiếm đoạt. Hắn không ở trong nhà, mà ở trong những ngôi mộ trống. Hắn là Chúa của sự chết.
Cái "trần truồng", cái "vô gia cư" của hắn được Đôs. coi như tượng trưng cho cái “không có”. Cái “không có” ấy là một chủ thuyết, chủ thuyết của "không-làngười".
3- Đôs. rất thích cái cảnh người quỷ ám, người "không có", người hung dữ, người "không-là-người" ăn mặc đàng hoàng, hiền lành ngồi bên chân Chúa. Đôs. muốn tôn vinh Thầy như một lực lượng duy nhất thắng được ma quỷ, thắng được cả ma quỷ trong ngoặc kép, tức là thứ loài người dữ như ma quỷ. Thắng mà không đè bẹp, không bắt đầu hàng, mà biến hóa trở thành người thân. Thắng toàn diện. Thắng đẹp tuyệt vời !
Con đồng ý với Đôstôiépski về những suy tư ấy. Con cũng cảm phục và tôn vinh Thầy như ông ấy. Nhưng con còn rất nhiều điều phải ngỏ bày với Thầy. Con vẫn chưa hiểu. Con vẫn còn ấm ức. Con vẫn chưa hài lòng về Thầy.
1- Thầy trừ quỷ. Hắn xin nhập vào đàn heo. Thầy "Ừ". Thế là một đàn heo hai ngàn con ồng ộc xô nhau xuống hồ (Mc 5,13). Con thắc mắc :
+ Tại sao Thầy dễ dãi với hắn ? Hắn là quỷ thì không có chuyện nhượng bộ, không có chuyện bao dung. Nếu con là Thầy, con sẽ trả lời hắn: “Xuất ra ngay. Vô điều kiện. Chấm hết" .
Có một linh mục già kể chuyện. Chẳng biết chuyện có thật hay không. Thật bao nhiêu phần trăm. Nhưng con thích lắm.
"Có một thằng con trai bị quỷ nhập. Tôi mặc áo các phép, đeo dây Stola, đọc lời trừ tà... Cuối cùng tôi lên giọng:
- Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, nhân danh Mẹ Mắng, tao truyền cho mày phải ra khỏi người này.
- Vâng, con xin ra. Nhưng... xin cho con ra ở đàng đầu. - Không! Mày là quỷ, thì mày phải ra ở lỗ đ. Thằng con trai run rẩy sợ hãi. Bỗng... “bủm” một tiếng thật to. Ai nấy bịt mũi. Còn thằng con trai thì tỉnh lại như thường...” + Hai ngàn con heo nhào xuống hồ. Con lớn bù con nhỏ thì mỗi con cân nặng chừng 50kí. 2.000 con, thì xuýt xoát 100.000 kí thịt hơi. Mỗi kí thịt hơi giá 15.000 đồng, thì 100 000 kí giá một tỉ rưỡi, tức 100.000 đô Mỹ. Bằng ấy số tiền đổ xuống hồ ! Bao nhiêu mồ hôi nước mắt biến thành nước là ! Thầy không xót thương sao ? Bọn chăn heo thì hốt hoảng bỏ chạy. Các chủ heo thì đau xót quá chừng. Giận Thầy lắm, nhưng sợ cái uy của Thầy quá, nên chỉ dám đuổi khéo Thầy, mà không dám đòi bồi thường : "Xin Thầy vui lòng rời khỏi nơi này giùm" (Mc 5,17) + Người bị quỷ ám trần như nhộng, bỗng ăn mặc đàng hoàng. Vậy áo ấy lấy ở đâu ra ? Con biết Thầy vẫn mặc hai áo: áo dài bên trong , choàng thêm tấm vải bên ngoài (Ga 19,23). Con đoán mò là Thầy tung vội cái áo choàng cho hắn. Còn hắn thì chụp vội, để che ngay tức thời cái tô hô, cái mắc cỡ... Thầy vừa rao giảng những cái cao siêu trên trời vừa phải quan tâm đến cả cái “sự đời” ấy nữa sao ?! Ôi, sứ mạng loan báo Tin Mừng! Vừa mệt đứt hơi, vừa buồn cười đến rơi nước mắt.
2 - Thầy bị đuổi khéo. Thầy vội xuống thuyền để trở về Caphácnaum. Thấy Thầy lủi thủi xuống thuyền, con cảm thấy nhói trong tim. Đau quá ! Tủi quá ! Tức chết được. Phía "bên kia hồ" là phần đất của dân ngoại. Dân ngoại quý mến Thầy, bao bọc Thầy. Mỗi lần Thầy mệt quá, hoặc bị các Kinh sư tấn công ồ ạt quá, Thầy vẫn thường qua bên ấy để nghỉ ngơi dưỡng sức. Hôm nay Thầy bị họ đuổi khéo.
Chẳng biết Thầy có còn qua bên đó nữa không ? Chẳng biết bên ấy có còn thương Thầy nữa không ?
3 - Người bị quỷ ám, khi được chữa lành, xin theo Thầy để cùng loan báo Tin Mừng với Thầy. Hắn chỉ kể chuyện hắn được chữa lành như thế nào cũng đủ để đem lại niềm tin yêu cho bá tánh. Hắn là chứng tá của Tin Mừng. Nhưng Thầy từ chối. Một “ơn gọi” bị chối từ. Nếu con là người ấy, con sẽ khóc. Khóc vì thương Thầy quá mà phải xa Thầy. Khóc vì tủi thân. Khóc vì thấy mình không được như người ta. Hằng chục, hằng trăm người được đi với Thầy, mà mình thì... không.
Con thấy người ấy trở về làng, cúi mặt làm thinh. Hắn sẽ kể chuyện hắn được Thầy cứu. Nhưng...đơn thương độc mã giữa rừng người xa lạ. Biết bao giờ mới được gặp lại Thầy để lại được thấy, để lại được nghe ?...
Thầy kính mến .
Thầy đã về bên phía bờ tây. Con ở lại một mình bên phía bờ đông. Ngồi trên triền đồi, ngó xuống mặt hồ. Mặt hồ phẳng lặng che giấu hai ngàn con heo đang chìm dần xuống đáy hồ. Nhìn về phía tây. Làng Ghêraxa đang xôn xao như vừa trải qua một cuộc động đất. Lo âu. Sợ hãi. Chẳng biết rồi ngày mai sẽ ra sao. Người bị quỷ ám ấy nay đã trở lại bình thường, vừa mừng vừa sợ. Anh sợ ác chủ heo trả thù kiểu "giận cá chém thớt". Vui đấy mà buồn đấy. Sướng đấy mà cũng khổ đấy.
Bây giờ con cảm nghiệm được rằng:
- Xatan dù đang sa xuống như một lằn chớp (Lc 10,18), nhưng Thầy vẫn dành cho hắn nhiêu quyền hành để hắn sàng loài người như sàng gạo. Hắn vẫn còn khả năng gieo cỏ lùng vào giữa cánh đồng lúa im. Hắn vẫn dư khả năng xúi giục loài người ngu muội gây nên muôn ngàn tội ác. Hắn chỉ bị rút quyền hoàn toàn khi lịch sử loài người kết thúc.
- 2.000 con heo lao xuống hồ, hằng tỉ bạc tan thành mây khói vẫn là chuyện nhỏ so với động đất, sóng thần... Đó là những sự ác vật lý vẫn xảy ra miên man trong vũ trụ bao la. Chúa chịu trách nhiệm. Chúa có lý do để làm như thế. Chẳng ai hiểu được, vì càn khôn thì bao la, mà người ta thì là cát bụi... Chắc chắn một điều là vùng Ghêraxa nhìn Chúa bằng con mắt sợ hãi. Nhưng tương lai thì đó sẽ là cánh đồng truyền giáo mênh mông, lúa chín vàng bát ngát. Những chủ heo nghèo đi một chút. Nhưng hạt giống Tin Mừng lại thích mọc lên từ đống tro của cánh đồng mới qua mùa đất rừng.
- Người bị quỷ ám không được theo Thầy. Buồn cho hắn. Nhưng hắn lại là tông đồ đầu tiên được sai đến với dân ngoại. Trong lịch sử truyền giáo, người ta đề cao các tín hữu ở Antiôkia và gọi họ là “giáo dân đi hàng đầu, đến với lương dân” (Cv 11,19-27). Sau đó người ta lại quên công đầu của tín hữu ở Antiôkia, để gọi Phaolô là "Tông đồ dân ngoại". Nhưng người bị quên hoàn toàn chính là người bị quỷ ám ở Ghêraxa. Lịch sử ơi, đừng quên như thế !
Đoàn thuyền giong buồm ra khơi. Lòng nhẹ phơi phới như vừa trả xong một món nợ. Phía sau PiôHậu 245
Đoàn thuyền giong buồm ra khơi. Lòng nhẹ phơi phới như vừa trả xong một món nợ. Phía sau là mồ hôi, là nhọc nhằn. Quên đi ! Phía trước là gió lộng, là khung trời bao la, là chân trời xa tít mù khơi. Thảnh thơi. Những bóng dân chài lực lưỡng bụm tay làm loa, gọi nhau ơi ới. Những bầu rượu căng phồng chuyền từ tay này qua tay kia làm vang lên những tiếng cười dòn dã. Trời đẹp lạ ! Đời vui quá !
Thầy lủi thủi lui về phía sau, trao đổi vài câu với bác tài công, rồi lăn lưng ra ngủ ngay trên sàn. Ngủ như chết, vì mệt muốn chết.
Bỗng trời tối sầm. Gió im phăng phắc. Một vài giọt mưa thật to rơi lộp bộp trên sàn, quất vào mặt đau rát như bị tạt nước sôi. Một con trốt quay quay, vừa quay vừa chạy, chạy dích dắc như lên cơn khùng. Xoáy một cái. Cột buồm gãy. Cánh buồm rách tơi tả. Mưa đổ xuống xối xả. Con thuyền dềnh lên, hẫng bánh lái. Anh tài công kêu “trời” ôm mặt mà khóc.
Các tông đồ ướt mềm, đi kiếm Thầy để cầu cứu. Thầy vẫn ngủ.
+ Trời ơi là trời ! Chết đến đít rồi mà Thầy vẫn ngủ sao?
+ Thầy ơi ! Cứu chúng tôi với ! Sắp chết hết rồi !
Thầy mở mắt. áo ướt sũng. Vô tư. Từ từ đứng dậy. Hét một tiếng động trời "IM". Tiếng "IM" vọng lại từ những cụm mây chập chùng nghe như sấm vang, vô cùng vô tận... Mưa bỗng dứt hạt. Những con trốt chạy trốn vào bờ rồi biến dạng. Những đợt sóng lỡ trớn dập dềnh một lát rồi phẳng lặng như tờ. Những con thuyền xơ cờ mất phương hướng, nổi bập bềnh như vô định.
Thầy nhìn đám đệ tử đang quỳ mọp dưới chân, ướt sũng như bầy chuột lột. Vừa thương vừa giận. Người thì lớn cồ cồ mà đức tin thì nhỏ tí xíu. Thầy lại hét lên :
- Tại sao các người sợ ? Bọn hèn tin !
- ?!
"Bầy chuột lột" ghé miệng vào tai nhau, xù xì: "Thầy là ai mà sóng gió cũng phải tuân lệnh ?"
Thầy kính mến.
Con không phải là người trong cuộc. Con là khách bàng quan vô tư quan sát và nhận xét về Thầy và các đệ tử của Thầy.
1- Thầy ngủ như chết. Dễ hiểu, vì mệt quá thì phải ngủ như thế. Nhưng ngủ trên boong, mưa tầm tã, dông tố như điên cuồng, ướt mềm như chuột lột mà vẫn khò, thì phải đặt nghi vấn.
+ Có thể là Thầy ngủ thật. Nếu thế thì con thương cảm Thầy quá sức. Thầy lặn lội với quần chúng, "sống cho" đến cạn kiệt. Đàng khác, con xin chắp tay chào thua Thầy, vì Thầy ngủ giỏi quá. Ngủ để bù cho sức khoẻ đã tiêu hao đến tận cùng.
+ Có thể là Thầy giả vờ. Nói như thế không oan cho Thầy đâu, vì con bắt được quả tang Thầy giả vờ nhiều lần.
• Thầy giả vờ hỏi Philíp: "Ta mua bánh ở đâu để có đủ cho những người này ăn ?" (Ga 6,5-6)
• Thầy biết tỏng người đàn bà bị băng huyết đụng vào tua áo của Thầy, Thầy vẫn làm bộ không biết để hỏi: "Ai sờ vào tôi ?" (Lc 8,45)
• Maria Mácđala ngồi khóc trước ngôi "mộ phục sinh". Thầy giả vờ hỏi: "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ? " (Ga 20,15)
• Thầy giả vờ làm người lạ đồng hành với hai môn đệ đi đến Emmau. Khi đến lối rẽ vào Emmau, Thầy làm bộ đi xa hơn nữa, để họ phải nài ép Thầy lưu lại với họ. (Lc 24,13- 35)
Giả vờ là một chiến thuật của Thầy. Mục đích của nó là lượm hái kết quả dồi dào hơn, để gây ấn tượng sâu sắc hơn. Nếu Thầy ngủ thật, thì con thương cảm Thầy. Nếu Thầy giả vờ ngủ , thì con cảm phục Thầy.
2- Các tông đồ sợ là đúng. Đa số họ là dân chài. Họ thuộc lòng khí tượng trên biển Hồ. Kinh nghiệm sông nước của họ dày cộm như một cuốn từ điển. Khi họ phải hết hoảng kêu lên “Thầy ơi ! Cứu chúng tôi với” thì quả thật cái chết không phải là trò đùa. Lẽ ra Thầy phải an ủi họ. Thế mà Thầy lại mỉa mai họ, coi họ như bầy con nít khóc thét khi thấy con cọp giấy: “Hỡi người hèn tin, tại sao các người sợ ?” Sợ đúng mà vẫn bị mắng. Đau quá ! Người lớn mà bị mắng. Tức quá !
Nhưng thưa Thầy, chính cái giọng mỉa mai như vô lý ấy lại cho con cảm nghiệm được cái "TÂM" của Thầy. Thầy tối kỵ nỗi sợ. Thầy cấm chúng con sợ. Thầy bảo sợ là yếu tin, là hèn. Chúng con sợ là chúng con làm nhục tình yêu và uy quyền của Thầy. Có lẽ Gioan là người hiểu thấm thía cái tính mỉa mai ấy của Thầy, nên sau này ông đã nói một câu tuyệt vời: "Tình yêu loại trừ nỗi sợ. Ai sợ là chưa có tình yêu hoàn hảo" (l Ga 4,18).
Thầy kính mến.
Thầy ghét nỗi sợ. Thầy mỉa mai người sợ. Thầy muốn hủy bỏ động từ SỢ trong cuộc sống hằng ngày. Thầy cấm sợ và chống lại nỗi sợ trong niềm tin và trong quy luật yêu thương. Thế nhưng thế gian này vẫn đầy nỗi sợ. Có những cái sợ buồn cười đến chảy nước mắt: sợ chuột. Có những nỗi sợ làm rung động cả thế giới: sợ khủng bố. Có nỗi sợ thầm kín tưởng như có, lại tưởng như không, nhưng vẫn tràn lan qua cửa miệng của muôn người: sợ vợ. Có những cái sợ người ta cố tình gieo rắc để có một xã hội trật tự ngăn nắp và đẹp mắt: "Sát nhất nhân, vạn nhân cụ", giết một người để hàng chục ngàn người phải sợ. Còn có những nỗi sợ người ta cố tình rao giảng, để ngăn ngừa tội lỗi : sợ hoả ngục. Và... hỡi ôi, người ta còn dạy nhau sợ Chúa nữa ! Cả một dân tộc, cả một truyền thống tôn giáo dạy nhau sợ Giavê như một quan toà chí công, như một ông thần hẹp hòi đòi phạt tội của người cha đến ba bốn đời: "Án phạt Chúa đã dành, xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng, cả đàn con cũng được ăn thoả thích, phần còn lại, cho bầy cháu mai sau (Ty 16,14). Tội nghiệp Chúa Cha, tội nghiệp cho Thầy !
Còn bản thân con thì : 1- Chính con cũng đã sợ, sợ rất nhiều: sợ ma, sợ hoả ngục và... sợ Chúa. Sợ suốt thời thơ ấu. Sợ suốt thời niên thiếu. Bây giờ thì con thôi sợ rồi. Hạnh phúc vô cùng!
2- Con đã bị người ta lợi dụng để gieo nỗi sợ cho trẻ thơ. Một bà mẹ nọ dọa thằng cu tí đang khóc: "Mày mà không nín, tao méc “ông cố” , “ông cố” cắt chim mày. Thằng cu tí tái mặt, nín bặt, hai tay bụm lại làm lá chắn an toàn... Cả thằng cu tí lẫn con đã trở thành nạn nhân của một người mẹ vô tình. Buồn quá !
Thầy kính mến.
Suy bụng ta ra bụng người. Con thương thân mình, con lại thương Thầy. Vì thương Thầy mà con quyết tâm thôi sợ. Con không quên được hình ảnh Thầy: nghiêm nghị, mỉa mai, chế giễu các tông đồ là "bọn hèn tin" chỉ vỉ họ sợ. Thế thôi.
Máccô bảo rằng Thầy chỉ dùng dụ ngôn mà giảng cho dân (Mc 4,34). Dường như dụ ngôn "Người PiôHậu 246
Máccô bảo rằng Thầy chỉ dùng dụ ngôn mà giảng cho dân (Mc 4,34). Dường như dụ ngôn "Người gieo giống" là dụ ngôn đầu tiên được các thánh ký ghi lại. Hỏi tại sao Thầy chỉ dùng dụ ngôn mà giảng, thì Thầy mượn lời của Sứ ngôn Isaia mà trả lời ngang như cua: "Hãy làm cho lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa lành" (Is 6,l0). Như vậy là có nhiều vấn đề.
1. Thầy chỉ dùng dụ ngôn mà giảng. Ngày nay người ta đánh giá Thầy là một nhà lập đạo và truyền đạo tuyệt vời, vì Thầy biết dùng nhũng hình ảnh dân gian và cuộc sống đời thường để hướng dẫn tín đồ đi vào thế giới cao siêu và thần linh. Cây nho, cây vả, đồng lúa, con trừu, con lạc đà... là những vật liệu thông thường được Thầy sử dụng để mô tả mối tương quan kỳ diệu giữa Thượng Đế và con người, lòng sám hối là cần thiết và khẩn trương, lòng từ bi của Chúa Cha nhân từ đối với tội nhân, sự nguy hiểm khủng khiếp của tiền bạc...
Dụ ngôn là loại văn chương vừa rất hấp dẫn, vừa giúp thính giả dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ dai. Đặc tính của dụ ngôn rõ ràng là vậy. Thế mà...
2- Thầy bảo rằng: Thầy dùng dụ ngôn mà giảng để người ta không hiểu; sợ rằng người ta hiểu rồi sám hối, thì mất công tha thứ. Rõ ràng là hờn dỗi. Thầy mà cũng biết hờn dỗi sao ? Quê quá chừng ! Nhưng Thầy không hờn dỗi, ngàn lần không phải vậy, vì Thầy không phải là người phàm nhỏ nhoi, tẹp nhẹp như chúng con. Thầy chỉ muốn nói đến một sự thật đau lòng là dân Do Thái ngoan cố không muốn tin vào ơn cứu độ của Thầy. Buồn lắm ! Vậy thôi.
3- Dụ ngôn "Người gieo giống".
Thầy kính mến. Con đã đọc dụ ngôn này cho lớp giáo lý dự tòng. Chẳng ai hiểu ý của Thầy. Thậm chí còn có người chê : "Cái người gieo giống này khùng thấy mồ. Gieo gì mà cứ tùm lum, bạ đâu gieo đấy..." Mà trớ trêu thay, người gieo ấy lại chính là Thầy? Tội nghiệp ! Con xin được phép mổ xẻ cả tác giả lẫn dụ ngôn và thính giả.
+ Thầy giảng mà không ai hiểu. Cả các tông đồ cũng mù tịt. Những thính giả có trình độ mà không hiểu thì tự ái và tức tối lắm. Các tông đồ càng tự ái hơn... Tối đến, trò mới dám hỏi Thầy về ý nghĩa của dụ ngôn. Không dám hỏi công khai vì sợ mất mặt. Khi được Thầy khai sáng rồi, các ông sẽ hăng say đi cắt nghĩa cho bà con. Đi cắt nghĩa là đi khoe cái hiểu biết của mình. Thế là Tin Mừng được loan báo rộng rãi nhờ cái tánh hiếu thắng của người dốt nát. Trong công tác loan báo Tin Mừng cũng có những chuyện phù phiếm như vậy. Đó cũng là chiến thuật của bậc thầy cao tay. Trong thiên nhiên Chúa Cha cũng sử dụng chiến thuật ấy Ngài lấy phân dơ để tô điểm cho muôn hoa. Hoa thì đẹp mà phân thì dơ. Tuyệt vời ! Tuyệt diệu !
+ Hạt giống là LỜI của Thầy. Quý giá vô cùng ! Quý hơn cả "lời vàng ý ngọc". Thế mà... than ôi số phận của nó đáng buồn vô cùng. Chim trời đến lượm đi. Chân người đạp bẹp gí. Ngọc quý mà như cát bụi. Lòng người vô tâm vô tình.
+ Lời của Thầy lọt vào trong tim của nhiều thính giả. Mừng quá ! Lời của Thầy như nụ hoa mở cánh. Đẹp xinh. Lung linh. Nhưng... một cơn bão phũ phàng ập tới. Tan tành ! Hơn xác pháo. Cái căn "thiện" của con người mỏng manh quá yếu đuối quá không đủ sức để đương đầu với cái "ác". Người đang tốt đấy, bỗng dưng lại xấu đấy. Người đang hiền lành như bé thơ, thế mà bỗng dưng lại thành quỷ dữ. Ôi, nhân tình thế thái ! Đau quá !
+ Lời của Thầy vẫn còn ba chìm bảy nổi. Nó rơi vào lòng người chất chứAđam mê. Nào danh, nào lợi, nào thú. Có danh để kiếm lợi. Lấy lợi để mua danh. Danh - Lợi là một cặp vợ chồng không hôn thú, đẻ ra một dòng chảy lạc thú Tanh tưởi quá chừng ! Vô cùng vô tận !Danh, Lợi, Thú là kẻ thù ngàn kiếp của Lời. Lời đành chịu chết nghẹt như cây lúa không trổ bông. Hỡi ôi!
+ Nhưng hạnh phúc vô cùng khi LỜI của Thầy rơi vào lòng người thiện chí. Y như cây mai của ngày đầu xuân. Ngàn hoa. Rực rỡ. Người thiện chí là cái đập kiên cố chặn dòng thác lũ, biến lũ thành điện năng. Người thiện chí là triều thiên của LỜI. LỜI là nguồn sống vô biên nuôi người thiện chí. Sung sướng quá chừng ! Thầy quên hết ưu phiền.
4-Thầy là người rao giảng tuyệt vời. Vậy mà Thầy không thành công không thành công rạng ngời. Lạ thật !
Con quan sát thấy quần chúng theo Thầy lũ lượt, triền miên. Thấy mà ham. Nhưng...
+ Hằng bảy ngàn người đi nghe giảng. Nghe giảng thì ít, mà đi chơi thì nhiều. Thậm chí hôm ấy còn có một chú bé đi bán bánh mì. Chú đi để bán bánh, chứ đâu phải đi để nghe giảng. Còn có bao nhiêu người nữa đi để coi phép lạ, đi để dò xét và bắt bẻ, đi để giết thời giờ, đi để trốn việc nhà...
+ "Hội trường" của Thầy là một sườn đồi, một cánh đồng mênh mông. Gần chục ngàn người ngồi rải rác trên một diện tích rộng hằng chục ngàn mét vuông như thế thì làm sao Thầy chuyển ý và tâm đến thính giả được.
+ Không có loa phóng thanh, thì dù Thầy gào lên, cũng chỉ có thể nói lọt tai chừng bốn trăm người là cùng. Nghĩa là chỉ có chừng năm phần trăm thính giả chăm chú nghe và nghe được Lời của Thầy. Chẳng lạc quan chút nào.
+ Chính vì thế Thầy tự đánh giá lời của mình chỉ sinh hoa kết trái một cách thật khiêm tốn thôi. Có những hạt rơi trên lộ. Có những hạt rơi trên đá sỏi. Có những hạt rơi vào bụi gai. Tất cả đều có gieo mà không thu hoạch. Buồn chết được !
Thầy kính mến.
Thầy thì thế. Còn con thì sao ? Bi quan hơn nhiều. Thế mới biết công trình cứu độ loài người không dễ chút nào. Người gieo phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mà bó lúa vẫn không đầy tay. Đôi khi người gieo còn phải đổ cả máu đào, mà bó lúa trên tay vẫn chưa nặng trĩu. Tại sao vậy? Cũng chỉ vì :
+ “Con cái thế gian” khôn ngoan hơn “con cái của ánh sáng”. + Tinh thần thì nhẹ tênh mà thân xác thì nặng trịch. + “Cỏ lùng” thì nhiều hơn “lúa mì”. Thầy ơi, LỜI ơi, xin hãy cứu ĐỜI.
Luca, sử gia duy nhất cho biết ngoài nhóm 12, ngoài nhóm 72, Thầy còn có một nhóm phụ nữ PiôHậu 247
Luca, sử gia duy nhất cho biết ngoài nhóm 12, ngoài nhóm 72, Thầy còn có một nhóm phụ nữ nữa. Họ đồng hành với Thầy trên các tuyến truyền giáo. Có phụ nữ tháp tùng. Thế là có nhiều vấn đề khiến con phải suy gẫm.
1- Họ là ai' ? Họ là những người chịu ơn Thầy. Ơn nghĩa đầy tràn, vô vàn vô số.
+ Maria Mácđala: Có người bảo rằng bà là người miền Galilê, quê chính xác của bà là làng Mácđala. Người khác lại bảo rằng bà là người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Thầy trong nhà ông Simon. Có người khác nữa lại bảo rằng bà là Maria, em của Mátta quê ở Bêtania. Chính vì thế, có bà thánh Mátta, mà lại không có bà thánh Maria, em của bà. Cũng chỉ vì người ta bảo rằng: Maria Mácđala là một người của ba người, một thánh nữ thay cho ba bà đáng là thánh. Dường như Maria Mácđala không thể là Maria, em của Mátta. Nếu vậy thì bất công quá.
Nhưng có một điều chắc chắn rằng Maria Mácđala là một người đàn bà hư đốn có tầm cỡ. Luca chẳng biết phải nói thế nào, đành phải nói rằng bà là người được Thầy giải thoát khỏi những bảy thằng quỷ lận. Như vậy bà là một con “đi-ngã” từng làm vợ khắp thiên hạ. Nhưng khôn lắm, bà chỉ "bật đèn xanh" cho khách đại gia thôi. Hư lắm. Nhưng cũng giàu lắm.
Quá khứ như thế, hiện tại như thế, chắc chẳng ai ưa bà đâu. Chính vì thế sáng Chúa nhật Phục sinh, bà chẳng giống ai, cùng đi ra mộ với các bà phụ nữ khác, nhưng le te đi trước. Thấy mộ trống thì một mình le te chạy về, báo tin cho Phêrô và Gioan. Khi mọi người bỏ ngôi mộ trống mà về hết, thì bà ngồi lì trước mộ, khóc tỉ ti một mình, bất cần thiên hạ sự.
+ Bà Gioanna vợ của ông Khugia, quản lý của vua Hêrôđê. Người ta phỏng đoán rằng con trai của bà lâm bệnh nặng được Thầy chữa kiểu “remote” viễn khiển. Chuyện này được kể bởi Gioan (Ga 4,46-54). Đúng không
? Không biết. Nhưng chắc chắn bà Gioanna là một mạnh thường quân quan trọng của Thầy. Và cũng chắc chắn rằng nhờ bà mà vua Hêrôđê được biết hết mọi việc Thầy làm và mọi lời Thầy giảng (Lc 23,8; Lc 9,7-9; Mc 6,14- 16; Mt 14,l-2).
+ Bà Xudanna là ai ? Hỏi mà chẳng có ai trả lời. Con đoán mò bà là người đàn bà góa có đứa con trai độc nhất mà chết yểu, được Thầy cho sống lại ở Nain. Con nghĩ thế vì nếu con là bà góa ấy, con sẽ biết ơn Thầy vô cùng vô tận, con sẽ quý mến Thầy hơn mọi người đàn ông trên đời, con sẽ làm bất cứ điều gì có ích cho sứ nạng của Thầy. Mà sứ mạng ấy của Thầy là loan báo Tin Mừng cho mọi nơi mọi chốn.
+ Và các bà khác nữa. Ai đó ? Bao nhiêu ? Không thể biết chắc được. Nhưng con đoán mò là con số ấy phải đông hơn ba người đã được nêu danh. Trong số đó có thể có bà Mang, mẹ của Giacôbê và Giôxê, bà Salômê v.v... Họ đều là dân Galilê (Lc 23,49). Galilê của quê hương Thầy mài mại giống như “Bắc Kỳ" của quê hương con.
2- "Cùng đi với Người có mấy bà phụ nữ" Luca bảo thế. Nhưng họ có cùng giảng với Thầy, cùng trị bệnh và trừ quỷ với Thầy không ? Con nghĩ là không. Họ đi theo Thầy vì họ thích nghe Thầy giảng. Nghe bao nhiêu cũng không vừa. Họ còn đi theo Thầy để giữ sức khỏe cho Thầy nữa. Sự quan tâm của họ là rất đầy đủ. Đầy đủ quá đến mức độ thừa thãi. Thấy Thầy vất vả quá, họ chịu không nổi. Họ chăm sóc cho Thầy nhiều quá, Thầy cũng không chịu nổi. Ôi tình người. Đẹp quá mà cũng buồn cười quá !
Họ không theo Thầy triền miên như nhóm 12. Họ chỉ tháp tùng Thầy từng chuyến và mỗi chuyến chỉ vài ba ngày thôi. Nhưng khi họ trở về gia đình, thì họ lại mải mê kể chuyện về Thầy. Không kể thì chịu không được. Tin Mừng được loan đi, có khi phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt và bằng máu đào. Nhưng có khi Tin Mừng được loan đi không những không khổ không khó, mà còn nhẹ nhàng, lẹ làng sung sướng đến độ can không nổi. Đó là trường hợp các phụ nữ thừa sai của Thầy. Tuyệt vời ! Ôi nhân tình thế thái ! Buồn cười là thế ! Tuyệt vời là vậy !
3- Họ giúp đỡ Thầy và các môn đệ.
+ Họ giúp Thầy. Giúp gì ? Thầy chẳng cần gì hết. Chỉ cần cứu độ. Thầy chẳng thích gì cả. Chỉ thích thi hành ý của Chúa Cha. Nhưng Thầy vẫn chiều lòng các bà. Các bà không “cho phép” Thầy ăn mặc tuềnh toàng. Cái áo dài không có đường may, dệt liền từ trên xuống dưới (Ga
19,23) là bằng chứng của tình yêu tinh tế ấy. Như thế là "được yêu" hay "bị yêu" ? Nếu có ai hỏi Thầy như thế, chắc Thầy sẽ trả lời gọn lỏn : "Chuyện nhỏ". Chuyện to
của Thầy là Tin Mừng cứu độ phải được loan đi đến tận cùng trái đất.
Các bà còn tài trợ quỹ truyền giáo. Có lúc quỹ ấy lớn đến hoảng hồn. Vào lúc cao điểm của chiến dịch, con thiết tưởng Thầy phải chi mỗi ngày hơn một triệu đồng VN theo thời giá của quý I năm 2006. Đó là lúc nhóm 12, nhóm 72, nhóm phụ nữ gần một chục cùng lên đường. Gần một trăm miệng ăn. Ấy là chưa kể nhiều người nghèo cần được giúp đỡ .Lịch sử truyền giáo muôn đời phải ghi công các bà phụ nữ của Thầy và của mọi thời.
+ Họ giúp các môn đệ. Đã giúp Thầy là đã giúp tất cả rồi, thì còn giúp các môn đệ làm chi nữa ? Con tò mò và tự hỏi như thế, vì con biết chắc nếu hỏi Thầy, thì Thầy sẽ làm bộ điếc không nghe. "Chuyện nhỏ mà". Thầy không muốn nói ra, vì Thầy bao dung, quảng đại. Nhưng vì con xấu thói, nên con cứ nói toẹt ra. Con tin chắc như đinh đóng cột rằng: Các bà vẫn dấm dúi cho các ông tiền "cà phê cà pháo"; lâu lâu lại cho các ông nhậu một bữa, tủm tỉm dặn yêu: "Đừng méc Thầy nghen". Chả cần méc, Thầy cũng biết. Biết thì Thầy cũng làm thinh. Chỉ vì "Rượu mới mà đựng trong bầu da cũ, thì mất cả chì lẫn chài". Tâm và ý của Thầy là thế. Không muốn nương, nhưng đành phải nương.
4- Thầy đi truyền đạo mà có phụ nữ đi theo, thì có làm ngứa mũi các ông Kinh sư không ? Có hay không thì Thầy cũng chẳng quan tâm. Thầy từ "Vĩnh Hằng" mà đến trong “Thời gian”. Từ muôn thuở đàn ông là con trai của Chúa Cha toàn năng, đàn bà là con gái của Chúa Cha toàn ái. Mỗi đứa có "ơn gọi" riêng. Nhưng cả hai đều là con yêu. Vậy thôi. Còn gì khác nữa thì chỉ là chuyện bịa đặt của "Thời gian". Đã một lần Thầy ngồi nói chuyện với người phụ nữ thành Xykha bên bờ giếng Giacóp. Môn đệ của Thầy sượng sượng. Kệ. Thầy chẳng cần thanh minh. "Thời gian" chẳng hiểu được “Vĩnh Hằng”.
Thầy kính mến.
Có một điều con muốn hỏi Thầy : "Tại sao trong đoàn nữ thừa sai không có bóng dáng của Mẹ ?" Thầy làm thinh. Con không dám hỏi nữa. Đành để đấy...
Luca kể chuyện Thầy đi ăn cơm khách. Chủ nhà là ông Simon, thuộc nhóm Pharixêu, được dân PiôHậu 248
chúng kính trọng y như chúng con kính trọng các nhà thần học bây giờ. Khách được mời thì nhiều. Nhưng Thầy là thực khách số một. Cao quý như một thực khách duy nhất.
Chủ nhà chau mày tỏ vẻ khó chịu với "khách". Còn "khách" thì vuốt mặt chủ nhà không nể mũi. Tại sao chủ nhà lại bực bội với "khách" quý như vậy ? Tại sao "khách" được người ta mời ăn cơm, mà lại thiếu tế nhị đến như thế? Ôi, cũng chỉ vì... một con "đi - ngã".
Con xin Thầy cho phép con đóng vai ký giả vô tư, để con quay phim, con chụp hình, con thuyết minh. Ống kính bắt đầu ghi hình. Các nhân vật lần lượt xuất hiện.
1- Một con “đi – ngã”. Người ta bảo thế. Nhưng... dường như không phải thế. Đây là một bà mệnh phụ rất trẻ, rất đẹp, rất quý phái. Đúng là một viên ngọc quý của cung đình. Rất kiêu sa! Kiêu sa quá chừng! Tưởng như cánh tay dài của ông hoàng Salômon cũng chưa thể với tới được. Quả là một ngôi sao lấp lánh trên nền trời bao la.
Thế nhưng... dường như người ta nói đúng. Hắn là con "đi-ngã" thật. Từng sợi tóc, từng sợi mi, từng phân vuông trên cơ thể tha thướt của hắn dường như đều có trí khôn. Chúng nó biết lựa chọn. Chúng nó biết mời mọc. Chúng nó biết từ chối. Tất cả đều “on-off” như tự động vậy, mà rất chính xác. Chai dầu thơm bằng bạch ngọc kia là kết quả của một lần bật đèn xanh rất chính xác ấy... Có lẽ vậy.
Bà mệnh phụ ấy, con "đi - ngã" ấy đang làm tê dại thần kinh của mọi khách tiệc, thì bỗng đổ sụp xuống dưới chân Thầy. Khóc như mưa. Khóc thay cho cả một đời người ba chìm bảy nổi. Khóc vì tủi, khóc vì hận, khóc vì sám hối, khóc vì biết ơn, khóc vì yêu quá là yêu. Nước mắt ràn rụa. Nước mắt đầm đìa. Và... dường như có cả nước mũi nữa. Hắn giật mình vì đã làm lem luốc hai bàn chân thánh của Thầy. Hắn vội vàng quơ mớ tóc óng ả để chùi chân Thầy. Ý hắn muốn xin lỗi. Thấy chưa đủ, hắn ôm chân Thầy để hôn. Hôn như điên. Hôn để tạ lỗi. Tạ lỗi thì ít, mà yêu thương thì nhiều. Yêu quá, nên vội vã đổ hết chai dầu thơm lên chân Thầy. Thơm bát ngát !...
2- Ông Simon mời Thầy đến nhà ông dùng cơm. Là người biệt phái mà mời Thầy đến nhà là dễ mất quan điểm lắm. Nhưng có thể vì thấy Thầy sang mà ông muốn bắt quàng làm họ . Cũng có thể đây là thời cơ thuận tiện nhất để nhóm Phalixêu tha hồ rình mò, theo dõi và bắt bẻ Thầy. Nhất cử lưỡng tiện. Một công hai việc.
Là người lãnh đạo tinh thần Do Thái giáo, ông Simon trung thành với truyền thống chủ trương một đường lối mục vụ nghiệt ngã : Luật vị luật chứ không vị nhân sinh; vạ tuyệt thông là vũ khí tối tân của giới lãnh đạo; loại trừ tội nhân thì gọn nhẹ hơn là cứu vớt.
Sự xuất hiện của một bà mệnh-phụ-đĩ-thõa làm cho ông chới với trong giây lát. Vừa ước mơ xa xôi, vừa nuốt vội nước miếng để gìn vàng giữ ngọc. Với tư cách là một tôn sư, ông muốn tung hai chưởng để đánh gục Thầy trên sàn đấu trí tuệ Nhưng vẫn sợ sợ, vì ông chưa thấy ai thắng được Thầy trong lãnh vực này. ông chỉ tự vấn thôi.
2.1- “Giêsu này được quần chúng công nhận là một sứ ngôn. Nhưng sứ ngôn dỏm. Vì dỏm nên mới không biết con mẹ này là một con quỷ bị vạ tuyệt thông. Nếu biết thì đã phải đuổi nó đi cho khuất mắt rồi”
2.2- “Rất có thể là hắn biết lý lịch đen thui của con mẹ này rồi. Nhưng hắn cố tình phá luật. Hắn cố tình chống lại Môsê. Bằng chứng rất cụ thể : Môsê cho rẫy vợ, thì hắn cấm; Môsê cấm ăn đồ uế, thì hắn lại bảo rằng chả có đồ ăn nào là uế hết; Môsê không cho đụng vào người cùi, thì hắn cứ đụng, tỉnh bơ như không có luật... Phải ra vạ tuyệt thông cho hắn mới ổn được”
3- Thầy là đối tượng thứ ba mà ống kính của con muốn dừng lại thật lâu, dừng lại mãi mãi :
+ Một người tội lỗi trở về. Thầy mừng quá, sướng quá ! Những giọt nước mắt sám hối, nóng hổi rơi lã chã trên đôi bàn chân thánh của Thầy. Ấm áp quá chừng! Đôi môi mềm mại và hồng mọng mài trên da bàn chân của Thầy như gào thét, như van xin để được tha thứ, để được cứu độ. Cảm động quá chừng ! Cảm động đến thắt tim lại. Cứu được một sinh linh, Thầy thỏa mãn vô cùng. Bây giờ nếu cả vũ trụ sụp đổ, có lẽ Thầy cũng không biết. Chả cần biết.
+ Một người tội lỗi trở về. Một công trình vĩ đại mà Thầy đã trả giá bằng mồ hôi, bằng nước mắt và bằng cả máu nữa. Quý giá vô cùng. Quý giá vô tận. Vậy mà đang có những ánh mắt đục ngàu đòi xua đuổi linh hồn ấy. Họ nhân danh Luật để loại trừ. Họ nhân danh Giavê để tiêu diệt. Ngược đời đến thế là cùng !
+ Thầy ngọt ngào mời Rắpbi Simon ra sân đấu. Tưởng bở. Bất ngờ Thầy cho ông thi đấu với một con "đi- ngã". Chua quá chừng ? Nhưng đành cắn răng mà chịu. Thầy làm trọng tài, công bố điểm thắng liên tục. Điểm thắng luôn luôn nghiêng về cô "đi-ngã" làm vỡ mặt ông Phanxêu Simon.
Một – “Tôi vào nhà ông. Ông chưa lấy nước lã rửa chân tôi. Còn cô này đã lấy nước mắt tưới đẫm chân tôi (Con ghi trộm : l-0).
Hai – “Tôi vào nhà ông. Ông không hôn chào tôi. Còn cô này, từ nãy tới giờ hôn chân tôi không ngừng” (Con ghi vội : 2-0).
Ba – “Tôi vào nhà ông. Ông không lấy dầu ôliu xức trên đầu tôi. Còn cô này đã lấy dầu thơm xức lên chân tôi”. (Con ghi nhanh : 3-0).
+ Thầy âu yếm nhìn đứa con yêu vừa thắng tuyệt đối 3-0 trên đối thủ là bậc thầy của Do Thái giáo. Thầy nói lời cuối, ngọt như mía lùi : "Tội của con được tha hết rồi... Thôi con về đi Chúc con bình an".
(Chuyện kết thúc ở đây)
Thầy kính mến.
Bây giờ, con xin được ngỏ lời riêng với Thầy.
+ Ông Simon mời Thầy ăn cơm. Thầy là khách lẽ ra Thầy cũng nên nể mặt ông ấy một tí. Thế mà Thầy quất thẳng tay. Ngạn ngữ Việt Nam của con gọi thái độ ấy là “vuốt mặt không nể mũi” đấy.
+ Ông Simon là người có địa vị trong xã hội, là "Đấng Bề Trên" của một tôn giáo có lịch sử 13 thế kỷ. Ông đáng được Thầy nhẹ tay hơn một chút.
+ Nhưng Thầy khẳng định : “Thầy là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha”. Con hết ý.
Vâng, bây giờ con hiểu rồi. Cái TÂM của Thầy là thế. Ở đây là công bố ý của Chúa Cha. “Tế nhị” và “nể mặt” ở đây là làm lu mờ ý của Chúa Cha. Chúa là Cha nhân từ yêu thương người tội lỗi như thế đó và đến như thế đó . Ông to, ông lớn, ông đạo, ông đời không bao giờ được giảm thiểu cái TÂM ấy của một Ngôi-lời-làm- người. Tội lỗi thì phải ghét. Nhưng người tội lỗi thì phải được kính trọng và yêu thương Phải kính trọng và yêu thương thật nhiều, để mở một con đường rộng thênh thang cho người tội lỗi trở về. Và họ đã trở về thật nhiều (Lc 15,l).
Người ơi, Đời ơi, Đạo ơi, người tội lỗi vẫn là người, và vẫn còn nhân phẩm đấy nhé.
Con mở mắt chào đời vào lúc quê hương con đang bị người Pháp đô hộ. Nhưng con chẳng biết gì PiôHậu 249
Con mở mắt chào đời vào lúc quê hương con đang bị người Pháp đô hộ. Nhưng con chẳng biết gì. Mãi đến năm lên tám tuổi, con mới nứt mắt ra để thấy cái nhục của một dân tộc bị trị. Con bắt đầu biết ghét quân xâm lược từ đó.
+ Năm 1944, con chẳng thấy Tây, mà lại thấy Nhật lùn. Nhật lùn đeo kiếm, múa chân múa tay, la hét... Quê con làm ba vụ: hai vụ lúa và một vụ ngô. Ngô đang độ xanh tươi, cao quá tầm người. Bắp đang đọng sữa. Con đang ngông ngóng chờ đợi để có ngô nướng, thì... bố con bị lôi ra ruộng. Nhật lùn ra lệnh phát bỏ ngô để trồng đay. Bố con đứng trơ ra như người mất hồn. Nhật lùn nổi giận, vung tay gạt bố con qua một bên, rút kiếm lội xuống ruộng. Hắn vung lưỡi kiếm quạt bên phải, quạt bên trái. Hắn đi như bay. Chỉ loáng một cái ruộng ngô chỉ còn là bãi rác xanh. Con ngước mắt nhìn bố. Bố con khóc, khóc không thành tiếng. Lần đầu tiên trong đời con thấy bố khóc. Khóc ấm ức, khóc hậm hực. Con thương bố. Con tiếc ngô. Con ghét Nhật lùn. Con chỉ muốn làm ông thánh Gióng nhổ bụi tre, đánh bỏ mẹ bọn Nhật lùn.
+ Trong thời kháng chiến chống Pháp, có một lần bộ đội Cụ Hồ về đóng ở làng con. Nhà con cũng có một tiểu đội. Bộ đội đi đâu thì bọn trẻ con chúng con theo đấy. Bộ đội dạy chúng con bò, ném lựu đạn, hô xung phong... Vui quá chừng ! Tập trận vã mồ hôi rồi, thì ngồi chồm hổm nghe anh bộ đội kể chuyện chiến trường. Thích quá ! Con chỉ muốn lớn lên thật mau để đi bộ đội. Con còn muốn làm quân cảm tử ôm mìn ba càng lao vào xe tăng địch. Nhưng chờ mãi vẫn chả thấy mình lớn. Tức quá !
+ Hồi ấy, mỗi lần hát quốc ca, con thích nhất câu: “Thề phanh thây uống máu quân thù”. Đi chăn trâu, hay tập đánh trận giả, miệng lúc nào cũng nghêu ngao "Đoàn quân Việt Minh đi, chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa..." Đến câu "Thề phanh thây uống máu quân thù", thì thế nào cũng phải nắm tay lại và gào lên.
Thầy kính mến.
Đó là quê hương và tâm tư của con. Còn Thầy thì :
+ Khi Thầy ra chào đời, quê hương của Thầy đã bị đế quốc Lamã cai trị 63 năm rồi. Khi Thầy ra truyền đạo thì người Lamã vẫn còn đó, còn mãi cho đến năm 70 và còn lâu hơn nữa. Ítraen bị xoá trên bản đồ thế giới từ năm
70 ấy cho tới năm 1948.
+ Đồng bào của Thầy thì ghét cay ghét đắng đế quốc La mã. Ghét vì La mã là quân xâm lược. Ghét vì bọn xâm lược này là bọn "không cắt bì". Có một nhóm ái quốc cực đoan gặp người Lamã ở đâu cũng muốn đập cho một trận. Simon, một trong đoàn 12 cũng thuộc nhóm người này. Đồng bào của Thầy chỉ ngang ngóng chờ đợi Đấng Mêxia đến để đập nát bọn đế quốc Lamã. Chẳng biết mỗi ngày, mỗi người dâng lên Giavê bao nhiêu lời cầu nguyện tha thiết để Đấng Mêxia mau đến... Lúc nào đồng bào của Thầy cũng ở trong tình trạng sẵn sàng để phất cờ khởi nghĩa.
+ Bỗng xuất hiện một tên đại úy. Hắn là đầu sỏ của 100 thằng xâm lược và không cắt bì. Hắn có một tên đầy tớ yêu quý lâm trọng bịnh. Thầy thuốc chạy. Hắn nghĩ ngay đến Thầy, niềm hy vọng cuối cùng.
Hắn "đội nón" không cắt bì và xâm lược. Nhưng hắn tốt quá. Là người ngoại, nhưng hắn lại dâng cúng tiền để xây cất nguyện đường. Là người của đế quốc, nhưng lại yêu dân bị trị. Là sĩ quan có quyền bính, nhưng hắn lại rất khiêm tốn, rất tế nhị. Hắn nhờ niên trưởng Do Thái đến xin Thầy chiếu cố cứu đầy tớ của hắn.
Luật Do Thái không cho phép tín đồ quan hệ với người ngoại. Thầy bất chấp. Thầy vội vã đến nhà hắn. Hắn giật mình cho người ra cản Thầy, chỉ vì không muốn Thầy bị giáo quyền khiển trách. Hắn nói với người nhà và nhờ nói lại với Thầy: "Thầy chỉ phán một lời, đầy tớ tôi sẽ khỏi".
Thầy cảm động quá, thốt lên một lời ca tụng mà con cho là trật lất: "Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Ítraen". “Lời” của Thầy là không đúng. Không đúng tí nào. Con thấy trong dân Ítraen có vô số niềm tin lớn như thế, lớn hơn thế, lớn hơn thế ngàn lần. Đó là những niềm tin của Dacaria, Êlidabét, Gioan Tẩy giả, ông già Simêon, thánh Cả Giuse và nhất là của Mẹ.
Niềm tin của Mẹ là tuyệt vời ! Tại sao Thầy nói sai ? Thầy cố tình nói sai, vì đó là cách cường điệu hay nhất để diễn tả cái "tâm" của Thầy. “Lời” sai để đề cao cái “tâm”. Cái "tên xâm lược", cái "kẻ ngoại đạo" ấy của đồng bào Thầy đã trở thành "ông đại đội trưởng" và "người có niềm tin" yêu dấu của Thầy.
Thầy kính mến.
Ngay từ lúc vắt mũi chưa sạch, con đã quyết tâm cầm vũ khí để tiêu diệt quân xâm lược. Đồng bào của Thầy cũng một lòng một dạ cầm khí giới để phơi xác địch trên chiến trường, làm quà tặng cho bầy chó mải mê “liếm thây thù”. Dường như Phêrô cũng có một cây gươm. Để làm gì ? Để phòng thân ư ? Vô duyên ! Để chiến đấu ư ? Chắc vậy. Thế mà Thầy thì cứ vô tư. Không hề có một bài hịch nào để kích động dân chúng nổi dậy, mà chỉ thấy kinh Bát Phúc thấm đẫm lòng nhân từ và yêu thương. Không hề quyên tiền để mua vũ khí, mà chỉ nhận tiền để truyền giáo và giúp người nghèo. Không hề chỉ mặt quân xâm lược để kết án và thách đấu mà chỉ giới thiệu người tội lỗi để tha thứ. Không hề cúi xuống chân để tìm ranh giới mà chỉ đứng thẳng phóng tầm mắt nhìn về chân trời xa thẳm, để thấy mọi người là anh em.
Tình yêu của Thầy không có biên giới. Tình yêu mà có biên giới, thì không thể lồng lộng, không thể mênh mông, không thể vời vợi, không thể trùng khơi. Biên giới là kẻ thù của tình yêu. Vâng, đúng thế.
+ Tình mẫu tử đẹp là thế, nhưng vì có ranh giới, nên đã có những người mẹ vì yêu con mà đã chửi xóm giềng từ sáng đến tối.
+ Yêu tổ quốc yêu đồng bào cao quý là vậy, nhưng vì còn bị khoanh vùng, nên đã đẻ ra bao cuộc xâm lăng, đến độ lịch sử chiến tranh là một loại lịch sử dài nhất, tốn giấy mực nhiều nhất. Mà chiến tranh thì tàn bạo tự bản chất !
+ Yêu Chúa, yêu Thánh, yêu Thần: đạo đức quá chừng! Nhưng vì còn phân ranh, nên chiến tranh tôn giáo vẫn phảng phất đó đây. Mà chiến tranh tôn giáo bao giờ cũng xấu xa nhất, tàn bạo nhất. Xấu xa nhất vì nó dám nhân danh Đấng tối cao để làm điều đại ác. Tàn bạo nhất vì nó dám “nhân danh Chúa tôi trừ diệt chúng”. Gioan và Giacôbê đã nhân danh Thầy để xin lửa trời xuống thiêu hủy một thành Samari, chỉ vì nó không cho Thầy nghỉ trọ. Thầy mắng ngay: "Thầy đến không để tiêu diệt, mà để cứu độ".
Thầy kính mến.
Giacôbê và Gioan - hai môn đệ ưu tú của Thầy - đã yêu Thầy. Đáng quý vô cùng ! Nhưng yêu sai, nên bị Thầy mắng. Cũng đáng tội ! Con cũng yêu : yêu tổ quốc, yêu đồng bào... Nhưng con đã yêu sai. Con yêu Thầy. Nhưng con sợ quá. Chẳng biết con có yêu đúng hay không… Xin Thầy tha thứ cho con, vì con đã yêu sai. Xin Thầy uốn nắn con để con biết yêu đúng. Dường như “yêu người như mình ta vậy” cũng chưa đúng. Phải yêu người như Thầy yêu mới là đúng thật.
Máccô kể chuyện. Chuyện có đầu mà không có đuôi. Chuyện to như con voi mà chỉ kể tí xíu y PiôHậu 250
Máccô kể chuyện. Chuyện có đầu mà không có đuôi. Chuyện to như con voi mà chỉ kể tí xíu y như cái đuôi chuột.
"Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến.
Thế là cả Thầy lẫn trò không sao ăn uống được. Nghe tin ấy, thân nhân của Người đi bắt Người về, vì họ bảo rằng Người mất trí rồi".
Trước hết con thấy thân nhân của Thầy vô duyên quá chừng. Thầy là một siêu sao được dân chúng hâm mộ như thế thì thân nhân của Thầy phải hãnh diện mới đúng chứ. Thế mà không những không hãnh diện, lại còn cho người đi bắt Thầy về, coi Thầy như một người mất trí. Phi lý vô cùng. Chắc là có vấn đề, mưu mô gì đây.
Con muốn nhắm mắt lại, gởi hồn về Nadarét để điều nghiên sự cố đến nơi đến chốn.
1- Trưởng Hội Đường Caphácnaum mắng vốn Trưởng Hội Đường Nadarét: “Giê su, tín đồ của ông vi phạm luật Sabát như cơm bữa. Hắn ngồi ăn với bọn tội lỗi trong nhà của tên thu thuế Mát thêu. Môsê bảo phải phân biệt đồ ăn thanh với đồ ăn uế, thì hắn cào bằng và bảo rằng đồ ăn nào cũng thanh hết. Môsê cho ly dị, thì hắn lại cấm…!
2- Cứ đến ngày Sa bát, thì từ giảng đài của nguyện đường Nadarét lại vang lên những lời buộc tội như đanh như thép:
+ Giêsu, con bà Mang là một tên phản đạo.
+ Giêsu, cháu ông X. đáng bị vạ tuyệt thông.
+ Cha mẹ phải dạy con. Con hư thì cha mẹ phải chịu tội đồng loã. Thân tộc cũng là đồng loã.
3- Họ đạo Nadarét nhỏ xíu chẳng có nhiều chuyện để nói, bỗng nổ bùng lên một cơn lốc dư luận. Một trăm cái miệng là một trăm lưỡi rắn. Chú, bác, cô, dì của Thầy nghe đầy lỗ tai, nhức nhối chịu không nổi. Họ quay lại day dí và đay nghiến Mẹ.
+ Có con mà không dạy để nó làm xấu hổ cho dòng họ. + Con hư tại mẹ. + Đàn bà gì mà chỉ sánh được có một đứa con... mà con lại hư. + Có con trai lớn thì phải lo cưới vợ cho nó , để nó sinh con đàn cháu đống làm nở mặt nở mày với thiên hạ. Con cái gì mà ba mươi tuổi vẫn chưa lấy vợ. Cứ chùi lủi như cây cau đực .
4- Đòn dư luận đánh xuống đau quá, thân tộc của Thầy chịu không thấu. Chú, bác, cô, dì... phải họp đại hội để đối phó. Đối phó thế nào bây giờ ? Chú, bác thì đốp chát. Cô, dì thì xỉa xói.
+ Ngày Sabát mà nó cứ trị bịnh tưới hạt sen.
+ Nó nhập băng với bọn thu thuế.
+ Nó dám gọi các Rắpbi là cái mộ tô vôi, bên ngoài thì đẹp còn bên trong thì thúi hoắc.
+ Tội nào cũng rành rành. Bênh hết nổi.
+ Cho nó chết.
+ Nó chết thì được rồi. Nhưng còn uy tín của dòng họ cũng phải chết theo nó sao ? Tội phá luật Môsê là tội quá lớn. Dòng họ chúng ta không thể mang tội ấy được... Tôi đề nghị cho mấy thằng thanh niên xuống Caphácnaum lôi cổ nó về. Ai hỏi thì cứ bảo là nó khùng, nó loạn trí... Chỉ có cách đó mới chạy tội được thôi.
5- Mẹ được lệnh đi gọi Thầy về. Nếu Thầy không chịu về thì họ sẽ dùng biện pháp mạnh.
Đoàn thanh niên khoẻ mạnh lên đường. Cười cười, nói nói. Ruột để ngoài da. Vô tư. Có đứa kính cẩn gọi Thầy là "ông anh". Có đứa vai vế lớn gọi Thầy là "chú mày". Chúng nó trung lập, chẳng đứng về phe nào hết. Nhưng công bằng mà nói, chúng nó nể Thầy lắm. Dường như chúng nó cũng âm thầm mơ ước xa xôi một ngày nào đó Thầy sẽ phất cờ khởi nghĩa…
Mẹ và anh em Thầy đến Caphácnaum, hỏi Thầy đang ở đâu ? Cả thị trấn đều biết Thầy đang ở đâu và đang làm gì.
Thầy đang giảng. Một rừng người đang vểnh tai nghe. Im phăng phắc. Anh em của Thầy không đứa nào dám hó hé. Cũng vểnh tai để nghe. Cũng trố mắt để nhìn.
Có ai đó nói nhỏ vào tai Thầy: “Mẹ Thầy và anh em Thầy ở ngoài kia, muốn gặp Thầy”. Có vài người thính tai biết Mẹ tới. Họ vội vã đi tìm. Họ muốn thấy mặt Mẹ, một người đàn bà vĩ đại, một người đàn bà diễm phúc.
Thầy nói như xuất thần, chỉ tay vào quần chúng thính giả: “Bà con là mẹ tôi, là anh em tôi. Hễ ai nghe lời tôi thì tôi quý mến như ruột thịt vậy”.
Thầy nói thế, nhưng dường như chẳng ai nghe. Họ bận tâm đi đón Mẹ, người đàn bà mà họ vẫn mơ ước được thấy mặt một lần.
Thầy kính mến.
Mẹ không gọi Thầy về. Anh em của Thầy chẳng dám bắt Thầy về. Cũng chẳng ai dám bật mí ý đồ ấy. Lộ ra thì từ chết đến chết. Lòng dân ái mộ Thầy như triều dâng.
Hôm sau anh em của Thầy trở về Nadarét trả lời cho mọi người, từ người thân đến người dưng rằng: "Chẳng ai nói được như ông ấy. Tuyệt vời". Lòng căm phẫn của họ đạo Nadarét tàn lụi dần dần. Trên giảng đài của nguyện đường các Kinh sư dường như há miệng mắc quai.
Thầy kính mến.
Trình thuật của Máccô chỉ gọn lỏn có hai câu và không hề nói gì về Mẹ. Nhưng con lại thấy Mẹ thật nhiều
+ Mẹ bị Trưởng Hội Đường khiển trách vì có con trai bỏ nhà đi phá đạo. Mẹ chỉ im lặng, cúi đầu, trầm tư.
+ Ông chú, ông bác đến dạy dỗ, răn đe, thậm chí còn nạt nộ, dọa dẫm. Vạ tuyệt thông treo lơ lửng. Mẹ nhỏ nhẹ hứa sẽ đi thăm Thầy để xem dư luận đúng sai thế nào.
+ Bà thím, bà cô thì ngoa ngoắt, thích dằn mặt hơn là góp ý. Họ nhắc tới nhắc lui sự kiện Mẹ chỉ sanh được một con để minh chứng Mẹ không phải là người đàn bà đáng trọng vọng. Mẹ không đốp chát, nhưng không đầu hàng. Mẹ rỉ rả ôn tồn trả lời. Nhưng im lặng, lắng nghe vẫn là cá tánh của Mẹ .
+ Vài người đàn bà, ba hoa chích choè, đi qua trước cổng, nhỏng mỏ nói vọng vô vài câu bóng gió xa xôi. Mẹ làm bộ điếc không nghe. Chuyện nhỏ.
+ Trăm dâu đổ đầu tằm, Mẹ lãnh hết. Nhưng không ngã gục. Mẹ vẫn đứng, trầm tĩnh, vững tin. Người đàn bà ngót nghét năm mươi, khoanh tay trước ngực, đăm đăm nhìn về chân trời xa tắp tít. Ở đó có Thầy. Ở đó có Đấng Vô Biên. Mẹ là như vậy đó.
Thầy kính mến.
Con xin hỏi nhỏ Thầy một câu: "Tại sao Thầy không đưa Mẹ đi truyền giáo với Thầy ?" Thầy khỏi trả lời. Để con hỏi Mẹ .
Đại văn hào Lev Tolstoi đã say mê bài giảng Bát Phúc của Thầy. Ông ân cần giới thiệu bài giảng PiôHậu 251
Đại văn hào Lev Tolstoi đã say mê bài giảng Bát Phúc của Thầy. Ông ân cần giới thiệu bài giảng ấy cho hai người bạn Ấn Độ là thi hào Tagore và thánh Gandhi. Sau khi đọc bài giảng Bát Phúc, Gandhi tâm sự rằng : "Tôi rất an tâm tiếp tục cuộc đấu tranh bất bạo động của tôi để giành độc lập cho Ấn Độ", Bát Phúc được đánh giá là bài giảng quan trọng nhất của Thầy. Nó cũng được gọi là Bài Giảng Trên Núi, hoặc Hiến Chương Nước Trời. Đức Giáo Hoàng Gioan- Phêrôlô II thì khẳng định rằng: Chỉ sống bài giảng Bát Phúc thì đã là chứng tá của Tin Mừng rồi. Bởi vậy con xin cúi mình kính cẩn và ân cần suy gẫm bài giảng này. Qua bài giảng Bát Phúc, Thầy vẽ được chân dung của một Kitô hữu chân chính. Người Kitô hữu chân chính là người:
1- Coi tiền bạc và của cải vật chất chỉ là một tên đầy tớ chứ không phải là một ông chủ; là phương tiện chứ không phải là mục đích của cuộc đời. Họ làm ra tiền một cách lương thiện và xài tiền một cách hữu lý và hữu tình. Họ dùng tiền của để thăng tiến con người, thăng tiến bản thân và tha nhân. Khi nghèo khổ và túng thiếu, họ vẫn mỉm cười hạnh phúc. Khi họ dư ăn dư mặc, họ niềm nở chia cơm xẻ áo cho anh em túng thiếu, y như trả ơn cho ân nhân của mình. ăn xài sung sướng bên cạnh những người túng thiếu, họ cho là xúc phạm đến nhân phẩm. Có một người hành khất đã đặt vào tay con 50.000đ nhờ chuyển đến những người nghèo ở vùng sâu vùng xa.
Năm 1997, con đã nhận 5.000.000đ từ một nhóm bạn khuyết tật nhờ chuyển cho nạn nhân bão Linda.
Cũng năm ấy, một người giàu giấu tên nhờ con chuyển cho nạn nhân bão và học sinh nghèo gần một nửa tỉ đồng. Họ là những người đáng được Thầy khen ngợi : "vì Nước Trời là của họ". Tất cả họ đều là những người có tâm hồn thanh bần.
Thầy kính mến.
Con không đồng cảm với ký giả Luca khi ông trình thuật bài giảng Bát Phúc của Thầy. Lý do :
+ Ông chỉ kể lại bốn phúc. Thiếu 50%.
+ Ông đền bù bằng bốn lời chúc dữ. Không cần.
+ Cách lý luận và giải thích của ông dễ làm cho độc giả ngày nay hiểu lầm. Ông viết: "Khốn cho người giàu..." Tại sao người giàu bị chúc dữ ? ông giải thích : “Vì bây giờ được sướng rồi!” Cũng một lý luận như thế, ông trình thuật dụ ngôn “Người Phú Hộ và ông Ladarô Nghèo” : “Con ơi, suốt đời con nhận phần phước; còn Ladarô suốt đời bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi, còn con thì phải khốn khổ” (Lc 16,25).
Vậy thì : Hạnh phúc đời này là nguyên nhân của đau khổ đời sau ư ? Và muốn lên Thiên Đàng thì hôm nay phải đi ăn mày như ông Ladarô ư ? Eo ơi, con không chịu đâu.
Con không đồng cảm với Luca, nhưng lại rất thông cảm với ông. Ông sống vào thời cực thịnh của đế quốc La mã. Người giàu thời ấy có hằng trăm, hằng ngàn nô lệ. Người giàu là người chiến thắng trong chiến tranh. Họ trở nên giàu nhờ chiến thắng. Họ tiếp tục giàu có và sống phè phỡn là nhờ mồ hôi nước mắt của kẻ chiến bại. Thời ấy mà nói rằng “khốn cho người giàu”, thì đúng quá, không cần giải thích, vì đó là thực tế. Nhưng chỉ đúng một thời.
2- Sống hiền lành và khiêm nhu một cách cao thượng. Bị chơi xấu họ vẫn chơi đẹp. Không phải họ sợ đối thủ, nhưng họ sợ chưa yêu kẻ thù được như lời Thầy dạy. Họ mềm như nước, nhưng khoa học bảo rằng : “Nước không thể nén được”. Mềm đấy mà cũng bất khuất đấy. Nước khiêm nhu vô cùng. Chẳng có nhà vệ sinh nào mà không có nước. Nhưng nước bẩn nào cũng bốc hơi, bay lên trời, rồi rơi xuống đất. Tinh khiết quá chừng ! Dòng suối chảy róc rách. Dòng thác đổ ầm ầm. Cũng chỉ là nước đó thôi. Mà nước chảy thì đá mòn. Yếu đấy mà cũng mạnh lắm đấy.
Con đã thấy Thầy, căng thây trên thập giá, đau quá đi thôi .Thế mà Thầy vẫn dướn người lên, hít một hơi thật đầy ,để nói một lời ngọt như mía lùi : “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Cao thượng quá chừng ? Phước đức ngàn trùng ! Hiền lành là thế.
3- Người đón nhận đau khổ và biến đau khổ thành niềm vui. Đời là bể khổ. Đành vậy. Chạy trốn đến chân trời nào bây giờ ? Chân trời nào cũng vẫn là đời. Mà đời thì vẫn cứ là bể khổ. Trốn khổ không được. Chống khổ cũng không được. Bị đè bẹp ư ? Không ! Không thèm trốn, không thèm chống, nhưng hoá giải. Hoá giải được không ? Được ! Khó không ? Dễ thôi.
+ Có một con chuột chết trong kệ tủ. Thối đến buồn nôn. Giải quyết cách nào ? Bỏ chạy ư ? Không. Ở đó mà ngửi ư ? Không. Đem con chuột chết, chôn bên cạnh gốc cây cam. Rồi chờ con chuột chết ấy biến hóa thành hoa cam. Thơm phức ! Cũng con chuột chết ấy biến hóa thành trái cam. Ngọt lịm ! Vậy đó. + Có một người đàn bà mang tên Legrix. Là họa sĩ, là văn sĩ, nhưng... cụt chân, cụt tay từ ngày ra chào đời. Tận cùng bằng số ? Khổ ơi là khổ !
Ký giả tạp chí Pèlerin hỏi : “Bà có khổ không?” Bà cười như nắc nẻ. Cười đã rồi trả lời tỉnh queo : “Tôi không khổ, bởi tôi biết là Chúa yêu tôi".
4- Người ham sống tốt và ham làm việc thiện. Họ giống như người đói khát việc thiện. Không sống tốt, họ cảm thấy đời vô nghĩa. Không làm việc tốt, họ chịu không nổi. Họ giống như cây ngọc lan nở một bông, nở hai bông, nở một ngàn bông. Bông nhiều hơn lá. Hương thơm ngào ngạt.
5- Người biết xót thương. Thấy người khổ thì cầm lòng không được. Người khổ thì trùng trùng điệp điệp. Thương mãi, thương hoài, thương đến kiệt sức mà vẫn không thôi. Cho mãi, cho hoài đến độ chẳng còn gì nữa để có và để cho. Nhưng chính lúc cho là khi nhận, chính lúc quên mình là lúc thấy mình. Thầy thích thế và Thầy bảo thế. Phúc thay !
6- Người chân thật, không biết gian dối, không thèm nói dối. Đối với họ, nói dối là hèn, thủ đoạn mưu mô là của Satan. Chân lý tỏa ra từ đôi mắt của họ. Sự thật đậu trên môi của họ. Ai cũng thương. Ai cũng tin tưởng. Uy tín của họ cao vòi vọi. Thấy thế, Thầy thích quá và tuyên ngôn “Sự thật giải phóng anh em”.
7- Người yêu chuộng hòa bình. Họ sợ ánh mắt đục ngầu. Họ ghê tởm hai hàm răng nghiến ken két. Họ rùng mình khi thấy máu chảy. Họ dị ứng với hận thù. Họ là kẻ thù của chiến tranh. Họ thích sống chan hòa với mọi người. Họ sẵn sàng quỳ xuống van xin để người ta thôi đánh nhau. Và nếu bảo họ phải chết để có hoà bình, thì họ sẽ giơ hai tay đón lấy thần chết. Thầy gọi họ là "con của Thiên Chúa". Đúng quá! 8- Những người vì Thầy mà bị bắt bớ, lăng nhục. Ôi trùng trùng, điệp điệp ! Tầng tầng, lớp lớp ! Người ta ùn ùn vô tù, người ta rùng rùng ra pháp trường, nét mặt hân hoan như thái tử lên ngôi, như công chúa vào cung. Họ yêu Thầy, họ rao giảng Thầy. Họ sẵn sàng trả giá bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu đào. Đối với họ thì giá máu cũng còn rẻ quá. Mua được Thầy, thì nghìn giá máu vẫn còn rẻ mạt.
Thầy kính mến.
Đời là rừng hoa. Đời là ngàn hoa. Phúc đức chan hòa ! Nhưng đời phải biết Thầy, đời phải yêu Thầy. Thầy là đời. Thầy là hoa. Thầy là tất cả.
Có một lần con về thăm quê hương sau 37 năm xa cách. Con đến nhà thờ dâng lễ và giảng. Đồng hương PiôHậu 252
Có một lần con về thăm quê hương sau 37 năm xa cách. Con đến nhà thờ dâng lễ và giảng. Đồng hương đón tiếp con một cách vừa long trọng vừa thân thương đến mức tuyệt vời. Con phải ăn cơm khách suất hai tháng trời. Nhà nào cũng mâm cao cỗ đầy theo đúng nghĩa đen. Tình đồng hương sâu thăm thẳm, cao vời vợi, đầy tràn chan chứa. Hôm nay con nghe Luca kể chuyện Thầy về thăm quê hương Nadarét mà ngậm ngùi xót thương. Thầy tới nguyện đường cũng như con đến nhà thờ. Thầy đọc sách thánh, rồi thì giảng. Con cũng vậy. Nhưng Thầy bị la ó, bị hăm dọa và xém bị bỏ mạng. Tại sao nên nông nỗi ấy?
Có người cho rằng Luca hư cấu chuyện Thầy bị đồng hương đòi giết, để chuẩn bị tinh thần độc giả đón nhận những đau khổ mà Thầy sắp phải đương đầu. Đây là những lý do được viện dẫn:
1- Mátthêu và Máccô kết thúc câu chuyện ở chỗ bà con xầm xì, chế giễu Thầy; còn Thầy thì chỉ chữa vài bệnh nhân, rồi không hài lòng về niềm tin của đồng hương.
Tuyệt nhiên không đá động gì đến thái độ cực đoan của người Nadarét. (Mt 13, 53-58); (Lc 6, l-6).
2- Địa hình Nadarét ngày nay không hề có ngọn núi cao và không hề có vực thẳm như Luca kể.
3- Đồng bào với nhau, đồng hương với nhau, thì cùng lắm là giận, là ghét, là khinh... chứ đâu đến nỗi gì mà đòi giết nhau.4- Nếu có tội đáng chết, thì cũng phải do tòa xét xứ và luận tội. Thế mà Luca lại kể rằng quần chúng tự động lôi Thầy lên đỉnh núi để xô Thầy xuống vực. Như vậy là phi lý, là vi phạm luật và không thể xảy ra.
Thầy kính mến.
Con không đồng ý với những lý luận trên. Con có lý luận của con, để khẳng định rằng câu chuyện Luca kể là có thật chứ không hư cấu.
1- Nếu bảo Mátthêu hư cấu chuyện, thì có lý, vì ông viết sử với tư cách là nhà Thần học, hơn là với tư cách một sử gia. Còn Luca vẫn được coi là sử gia chân chính, thì không nên gán cho ông cái phong cách của người hư cấu chuyện lịch sử.
2- Địa hình ngày nay của Nadarét quả thật không giống với địa hình của Nadarét mà Luca kể. Điều đó không có gì là lạ, vì qua 2000 năm, một ngọn núi có thể mất đi và một vực thẳm có thể không còn nữa. Chính thiên nhiên và con người đã làm thay đổi địa hình của trái đất, để hôm nay không giống hôm qua và sẽ không giống ngày mai.
3- Thường thì đồng hương không nỡ tâm giết đồng hương. Nhưng đồng hương Nadarét thì quyết tâm giết Thầy thật. Tại sao ? Vì Thầy đã phạm những lầm lỗi mà họ không thể tha thứ được. Đồng hương của Thầy có truyền thống khinh dể và hận thù ngoại bang. Tác giả Thánh Vịnh 79 ghét người ngoại ngay trong lời cầu nguyện:
"Gốc nho ấy Chúa băng từ Ai Cập
Đuổi chư dân đi lấy chỗ mà trồng..."
Tác giả Thánh Vịnh 3 và 11 xin Chúa xẻo môi, cắt lưỡi, đánh vỡ mặt và bẻ gãy răng kẻ thù . Kẻ thù của dân tộc là "chư dân". Tác giả Thánh Vịnh 67 sung sướng khi Chúa cho mình được thấy chó liếm thây thù. Thù ấy là dân ngoại bang. Sứ ngôn Isaia mừng rỡ vì: “Ta khiến của cải chư dân chảy về (Thành Đô) như thác vỡ bờ” (Is 66,12).
Rõ ràng: người Do Thái nhân danh tín đồ, nhân danh công dân của Giavê để xác tín rằng mọi dân tộc trên thế giới chỉ là những bậc thang đưa họ lên hàng bá quyền. Thế mà Thầy lại đề cao người ngoại hơn người Do Thái. Không phải chỉ đề cao một lần mà những hai lần. Hai lần ở đây và nhiều lần ở chỗ khác.
+ “Thiếu gì bà góa trong nước Ítraen, thế mà ông (Êlia) không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xarépta miền Xi đôn”.
+ “Cũng vậy vào thời Êlisa, thiếu gì người phung hủi trong nước Ítraen, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người Xyria mà thôi".
+ Sau này, con còn thấy Thầy đề cao người ngoại thật nhiều. Thầy đã từng khen ông sĩ quan người ngoại ở Caphácnaum: “Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Ítraen” (Lc 7, 9). Một người cùi ở biên giới Galilê - Samari cũng được đề cao: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Tại sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có một người ngoại bang này" (Lc 17, 17-18).
+ (Lc l0, 29-37); (Mt 20, l-16); (Mt 21, 33-45)
Thầy kính mến.
Thầy đề cao người ngoại như thế là Thầy đi ngược với truyền thống dân tộc, là nguyền rủa dân của Giavê, là đáng giết bỏ. Giết mà không cần có tòa xét xử, vì tội phạm công khai trước mặt không phải hai người chứng, mà là hằng trăm chứng nhân.
Con tự hỏi: Tại sao Thầy bạo quá như thế và liều lĩnh quá như vậy ? Tại Thầy thương yêu người ngoại quá, quý mến người ngoại quá. Tại Thầy quyết tâm đập vỡ bức tường ngăn cách giữa "đạo" và "ngoại" đã tồn tại gần hai thiên niên kỷ.
Bức tường ấy đã sập. Tin Mừng cứu độ đã được công bố trên khắp năm Châu. Thậm chí có một hướng dẫn viên du lịch Ấn Độ đã nói với khách du lịch Tây phương rằng: “Không còn một ngõ ngách nào mà người truyền giáo không đặt chân đến”.
Nhưng thưa Thầy kính mến, Thầy yêu người "ngoại" như thế và đến thế. Vậy mà trên trường truyền giáo, các thừa sai của Thầy lại đang xây những bức tường phân cách khác. Người "đạo" và người "ngoại", lại xa nhau. Xa nhau trong ý thức hệ, xa nhau trong tình cảm. Sự xa cách này được biểu lộ qua sách vở, qua ngôn ngữ thông thường và qua cả kinh kệ.
+ Cha Đắc Lộ đã gọi Đức Phật là “tên gian dối” (Phép Giảng Tám Ngày, Bài 4). Phải chờ đến Đức Phêrôlô VI, Đức Phật mới được gọi là “Vị ân nhân vĩ đại của loài người”(Thông Điệp Ecclesiam Suam).
+ Trước năm 1952, các nhà thờ Việt Nam vẫn hằng ngày vang lên lời cầu : “Người ngoại sa xuống đầy dẫy hoả ngục, thì ố danh Chúa tôi là dường nào”
+ Những từ ngữ "Quân ngoại đạo", "Kẻ ngoại đạo", "Bụt, thần, ma, quỷ" mới chỉ được xóa bỏ sau Vaticăng II.
+ Người "đạo" chết rồi cũng không muốn được chôn bên người "ngoại" trong nghĩa trang công cộng.
Xin Thầy trở lại. Xin Thầy đập phá... để người "đạo" lại yêu người "ngoại" như thế và đến thế.
Con rùng mình đến nổi da gà, khi thấy Thầy chọn Giuđa làm môn đệ, làm tông đồ, làm giám mục PiôHậu 253
Con rùng mình đến nổi da gà, khi thấy Thầy chọn Giuđa làm môn đệ, làm tông đồ, làm giám mục. Gioan gọi Giuđa là một tên ăn cắp (Ga 12, 6). Còn con thì gọi hắn là một đệ tử đểu cáng, vô liêm sỉ và phản trắc. Nhưng phải công nhận là hắn rất thông minh, thấy xa, nhìn rộng. Chỉ tiếc một điều là hắn sử dụng sự thông minh của mình để làm điều xấu mà thôi.
1- Là một tên ăn cắp.
Hắn ăn bớt ăn xén tiền của tập thể. Thầy có rất nhiều mạnh thường quân. Họ giàu lòng và giàu của. Họ dâng cúng nhiều để đền ơn Thầy đã cứu sống thân nhân của họ. Giuđa biết lợi dụng người nghèo và nhân danh người nghèo để quyên tiền. Chẳng ai nỡ tâm từ chối. Thế là hắn vớ bẫm. Ba năm theo Thầy. Ba năm làm quản lý. Ba năm ăn cắp. Hắn giàu to!
Nhưng con không thấy Thầy sa thải, hoặc thu hồi công tác của hắn. Thầy chỉ nhắc khéo, nhắc xa xôi, ví dụ:
+ “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu” (Ga 13, l0). + “Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng để ứng nghiệm lời của Kinh Thánh” (Ga 17, 12) + “Có người trong anh em sẽ phản Thầy” (Mc 14, 17). + “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người” (Mc 14, 21). + “Người giàu vào Nước Thiên Chúa khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” (Mc l0, 25).
2- Một đệ tử đểu cáng.
Sau khi Ladarô được phục sinh, gia đình làm tiệc đãi linh đình. Để tỏ lòng biết ơn Thầy, Maria đã đổ hết trên chân Thầy một chai dầu cam tùng hảo hạng. Thơm bát ngát... Giuđa lên mặt dạy đời: "Tại sao không bán chai dầu lấy 300 đồng mà giúp người nghèo" (Ga 12, 5). Hắn trực tiếp dạy cô Maria bài học bác ái. Nhưng gió bên Đông, động bên Tây. Đó là cách hắn mắng xéo Thầy, hắn lên mặt dạy Thầy. Hỗn!
Hắn không thương người nghèo (Ga 12, 6), nhưng lợi dụng người nghèo để kiếm tiền. Dịch vụ ấy là dịch vụ đểu, làm nhục cả người giàu lẫn người nghèo.
3- Một người vô liêm sỉ.
Lương tâm của Giuđa đã chết rồi. Vì thế hắn trơ trẽn và vô liêm sỉ một cách lạ thường.
+ Trong phòng Tiệc Ly, Thầy bật mí nửa vời: "Thầy bảo thật: một trong anh em sẽ nộp Thầy" (Mt 26, 21). Tự ái của 12 ông bốc lên ngùn ngụt. Ai nấy đều thanh minh thanh nga rằng: Chẳng lẽ là con sao? Lẽ ra Giuđa phải giật mình đánh thót một cái, rồi "độn thổ" cho rồi. Thế nhưng hắn vẫn tỉnh bơ, mặt không biến sắc, hắn cũng đến hỏi Thầy như mọi người: Không lẽ là con sao? Thầy trả lời "Ừ". Hắn vẫn tỉnh queo như con vịt xiêm. Lương tâm hắn không hề cắn rứt. Lương tâm ấy chết rồi.
+ Trong vườn Cây Dầu, hắn dẫn lính đến bắt Thầy. Thầy đi guốc trong bụng hắn, Thầy biết hết lòng dạ hắn, thế mà hắn vẫn còn đóng kịch. Hắn đến chào và hôn Thầy để chỉ điểm. Đểu đến thế là cùng! Nếu là con, dù con có hư tới cỡ nào đi nữa, con vẫn còn một chút lương tâm để thưa thẳng với Thầy rằng: "Thưa Thầy, tôi cần tiền. Tôi đứng về phía địch để bắt Thầy. Xin Thầy thông cảm".
Thằng du côn vẫn có anh hùng tính. Còn Giuđa thì chỉ còn là một thằng đểu mạt rệp, một thằng hèn đến đốn mạt.
4- Một tên phản trắc.
Ở trên đời này, phản bội là tội nặng lắm. Vợ phản chồng, chồng phản vợ, con phản cha, trò phản thầy, dân phản quốc, bạn phản bạn đều bị xã hội nguyền rủa và lên án một cách nghiệt ngã.
Giuđa là một trong số những người đó. Có thể hắn là tất cả những người ấy cộng lại, vì hắn chỉ thờ tiền. Hắn sẵn sàng làm mọi việc, phạm mọi tội ác để có tiền. Chính tiền đã giết chết lương tâm của hắn. Hắn đã lợi dụng người nghèo để kiếm tiền. Bây giờ hắn lợi dụng chính Thầy để kiếm tiền. Hắn coi Thầy như một trò đùa. Ôi, tình đời ! Thế nhưng Thầy vẫn yêu hắn, bao dung với hắn, và cho đến giờ phút cuối cùng, khi hắn dẫn lính đến bắt Thầy, Thầy vẫn còn ôn tồn gọi hắn là bạn (Mt 26, 50).
5- Giuđa rất thông minh.
+ Là người đàn ông, sống ở dưới gầm sàn của xã hội thế mà hắn lại biết tỏng giá cả của một chai dầu thơm loại cam tùng hảo hạng. Loại dầu này chỉ có ở trong các lầu son gác tía. Con mơ ước được nhìn thấy một lần thôi mà cũng chưa được. Thế mà hắn nói vanh vách: "Tại sao không bán lấy 300 đồng..." Giỏi thế! + Là thường dân thấp kém, thế mà hắn lại đánh hơi được nỗi băn khoăn của lãnh đạo Do Thái. Họ muốn bắt Thầy, nhưng chưa biết làm thế nào để bắt Thầy, mà không làm dân nổi loạn. Hắn đến để hiến kế. Giỏi quá. Hắn có khả năng ngửi được tiền, trực giác được cách kiếm tiền. Tuyệt ! + Theo lưu truyền của Giáo Phụ, thì Giuđa hợp đồng bán Thầy từ sáng thứ Tư. Vậy mà tối thứ Năm, chưa ai biết, kể cả Gioan, một đệ tứ thân tín, một cây "ăng-ten" cực nhạy. Chắc chắn Giuđa phải dặn Thượng Tế không được để lộ kế hoạch cho Nicôđêmô. Nicôđêmô mà biết, thì Gioan được báo tin ngay. Giuđa đã nắm được quy luật của kinh tế lậu. Một trong các quy luật đó là kín miệng. Hắn lỏi tì đến thế là cùng.
6- Số phận nghiệt ngã.
Giuđa, một tông đồ, một giám mục, một Đức cha treo cổ toòng teng trên cành cây. Dây đứt, xác rơi, lộn đâu xuống, bể bụng, ruột gan lòi ra một đống... Bia miệng
nguyền rủa muôn đời.
Thầy kính mến.
Cái chết của Giuđa đau thương quá. Con không đủ can đảm để hình dung, nhưng vụ án Giuđa thắt cổ tự vẫn chưa thể khép hồ sơ được. Vẫn còn nhiều nghi vấn. Có hai nhân chứng. Nhưng hai chứng cứ lại không ăn khớp với nhau.
+ Mátthêu khai rằng: Giuđa thấy Thầy bị kết án tử hình, thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng đến trả lại cho Thượng Tế và minh oan cho Thầy. Thượng Tế không nhận tiền, không xét lại vụ án. Hắn ném tiền vào trong đền thờ, rồi đi thắt cổ. Thượng Tế lượm tiền đi mua mảnh ruộng của ông thợ gốm để làm nghĩa trang cho ngoại kiều (Mt 27, 3- l0).Ông gọi tiền ấy là tiền máu.
+ Phêrô lại khai khác với Mátthêu. Ông bảo rằng : Y nhận tiền rồi tậu một thửa đất... Làm thinh một hồi lâu, Phêrô đột ngột kết thúc câu chuyện : Hắn ngã lộn đầu
xuống, bể bụng, lòi ruột gan ra. Thế là dư luận quần chúng gọi nơi ấy là "đất máu" (Cv l, 15-19)
Thầy kính mến.
Con xin phép Thầy để con ngồi ghế Chánh án xét xử vụ án này.
+ Con phủ nhận lời chứng của Mátthêu cho rằng Giuđa hối hận. Dựa trên tâm lý học thì một người đểu cáng, trơ trẽn, vô liêm sỉ cỡ như Giuđa thì không thể có hiện tượng hối hận. Lương tâm đã chết rồi. Chính tiền bạc đã thắt họng lương tâm của Giuđa từ lâu rồi. Lương tâm còn sống đâu mà hối hận.
+ Lời khai của Phêrô có vẻ lúng túng. Một người tự tử mà đứt dây. Tại sao? Đứt dây thì tại sao lại ngã lộn đầu xuống trước? Thây người rơi xuống từ độ cao nào mà lại bể bụng, xổ ruột gan ra được?
+ Dựa trên hai lời chứng, dựa trên tâm lý tự nhiên, dựa trên tâm lý tôn giáo, con xin được phép kết luận:
a) Giuđa bán Thầy 30 đồng.
b) Đem tiền đi mua ruộng. Rất hí hửng. Không hề hối hận, không hề tự vẫn.
c) Giuđa bị bức tử, người giết Giuđa phải là người rất mến Thầy và rất trung thành với Luật Môsê: “Máu đền máu” .Người này cũng thấm nhuần tinh thần của Thánh Vịnh l01: “Quét sạch bọn làm điều ác, chẳng sót một tên”. Giết Giuđa là bổn phận thánh thiện.
d) Giết Giuđa thì phải có hai người. Bóp cổ xong thì phải dựng lên vụ tự tử để xoá đầu mối. Nhưng vì vội quá nên cột không kỹ. Dây tuột chứ không đứt.
e) Thây chỉ đổ xuống, chứ không lòi ruột gan. “Lòi ruột gan” là do dư luận ác độc tưởng tượng ra.
f) Nghi can : Phêrô và Gioan. (Ad: đọc đến đây không nhịn được cười!!!)
Thầy kính mến.
Nhóm 12 của Thầy là thế. Tại sao Thầy chọn họ? Con không biết. Con chỉ biết rằng Thầy yêu họ tha thiết. Họ vẫn yếu đuối nhưng họ vẫn là nền tảng của sự nghiệp cứu độ Thầy đã khởi sự. Ôi, một mầu nhiệm của tình yêu; một mầu nhiệm của ơn gọi; một mầu nhiệm của lịch sử Giáo Hội.
Thầy lên núi, thức trắng một đêm để cầu nguyện. Các môn đệ của Thầy thì ngủ lăn lóc đó đây PiôHậu 254
Thầy lên núi, thức trắng một đêm để cầu nguyện. Các môn đệ của Thầy thì ngủ lăn lóc đó đây. Vô tư. Thầy nghĩ gì, muốn gì, thì chẳng ai quan tâm. Sáng ra, mới biết là Thầy tha thiết cầu nguyện để chọn người cộng tác hôm nay và thừa kế mai sau.
Mười hai người được xướng danh. Mừng quá ! Còn vô số người vểnh tai nghe mà không thấy tên mình bèn thắc mắc: “Tại sao?” Không có câu trả lời. Máccô thì đoán mò vu vơ: "Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn" (Mc 3,13). Dĩ nhiên Thầy còn một nhóm đệ tử nữa: nhóm bảy mươi hai. Họ là cộng tác viên của Thầy, nhưng không phải là những người thừa kế. Nhóm này biến mất hồi nào không hay. Dường như họ bất bình ra đi sau bài giảng về Bí Tích Thánh Thể tại nguyện đường Caphácnaum (Ga 6,66). Vấn đề đáng thắc mắc vẫn là việc tuyển chọn Nhóm Mười Hai.
Chính con thắc mắc, vì trên đời này việc tuyển chọn nào cũng có tiêu chuẩn rõ ràng : Có tài lãnh đạo và có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Còn tiêu chuẩn chọn người thừa kế của Thầy thì kín như bưng. Nhưng về tài đức của các ông thì rất đáng nghi ngờ.
Nhìn danh sách 12 vị Tông Đồ, tức là 12 vị Giám Mục tiên khởi của Giáo Hội, con thất vọng quá chừng !
1- Phêrô, Thủ trưởng
+ Thiếu lập trường vững chắc, đức tính căn bản của người thủ lãnh. Tại Antiôkhia, ông đang ngồi ăn vui vẻ một cách bình đẳng với người Kitô hữu gốc ngoại giáo, thì bỗng tránh mặt, chỉ vì nể sợ nhóm bảo thủ. Thế là ngôn hành bất nhất, làm nản lòng anh em tân tòng gốc người ngoại (Gl 2,ll-13).
+ Nhiệt thành, phát biểu như đinh đóng cột. Nhưng đinh lại dòn và dễ gẫy. Ông vừa thề với Thầy: “Thầy mà rửa chân cho con ư ? Không đời nào !” Thế mà chỉ sau đó một phút, ông lại đổi giọng: "Xin Thầy rửa không những chân, mà cả tay và đầu nữa" (Ga 13,8-9).
+ Trong phòng Tiệc Ly, Phêrô thề già thề non với Thầy: "Con sẽ thí mạng vì Thầy" (Ga 13,37). Rồi trong vườn Cây Dầu ông tuốt gươm chém người ta để bảo vệ
Thầy (Ga 18,l0). Thế nhưng chỉ sau đó vài giờ đồng hồ, ông chối Thầy ba lần (Ga 18,17-27). Ông sợ một người đàn bà gác dan !
+ Chối Thầy ba lần rồi thì khóc hù hụ, khóc thảm thiết, khóc như không phải là đấng nam nhi.
+ Phêrô bị Thầy chê là tối dạ (Mt 15,15-16).
2- Gioan, môn đệ yêu dấu của Thầy.
Gioan hãnh diện khoe mình là người được Thầy yêu dấu và đã từng được tựa đầu vào ngực Thầy. Thì cũng đúng thôi. Nhưng... đã ba lần hành động nghịch lại ý của Thầy.
+ Gioan và Giacôbê được Thầy sai đi đến một làng thuộc xứ Samari để chuẩn bị cho Thầy đến. Làng ấy từ chối. Hai anh em về trình Thầy, xin Thầy cho phép họ lấy lửa trời xuống thiêu rụi làng ấy. Thầy mắng cho một trận, vì Thầy đến để cứu độ, chứ đâu phải để tiêu diệt (Lc 9,51-56).
+ Trên đường truyền giáo, Gioan thấy có người nhân danh Thầy để trừ quỷ, ông quyết liệt ngăn cản. Chỉ vì người ấy không phải là người theo Thầy. Ông tưởng là ông làm đúng ý Thầy. Ông khoe với Thầy. Lại bị Thầy rầy (Lc 9,49- 50).
+ Gioan đã phạm một sai lầm lớn khi hai anh em ông cùng với mẹ đến quỳ lạy Thầy để xin Thầy cho hai anh em được ngồi bên tả và bên hữu của Thầy, tức là một đứa làm Thủ Tướng, một đứa làm Tổng Tư Lệnh quân đội. Họ tưởng Thầy sắp làm vua, nên phải chạy chọt sớm, kẻo có ai phỗng mất cái chức Thủ Tướng. Xôi thịt quá chừng ! Thái độ của họ gây bất bình trong nội bộ nhóm Mười Hai (Mt 20,20-23).
+ Ấy là chưa kể đến cái gọi là vô tâm vô tình của Gioan trong vườn Cây Dầu. Ba lần Thầy năn nỉ ông tỉnh thức và cầu nguyện với Thầy. Ông và các bạn cứ ngủ khò. Thầy buồn sầu đến độ mồ hôi toát ra đầm đìa. Ông vẫn ngủ khò. Ôi, môn đệ được Thầy yêu dấu !
3- Mátthêu, một tín đồ bị vạ tuyệt thông.
Con chẳng biết ông truyền giáo ra sao, sống chết thế nào. Nhưng con biết chắc một điều là lý lịch của ông đen quá Cái quá khứ hành nghề thu thuế ghi một ấn tượng vừa sâu vừa bền trong tâm hồn mọi người Do Thái, khiến họ gần như không thể quên được. Lý lịch đen như thế, thì làm thường dân còn khó, huống hồ lại làm Tông Đồ. Lý lịch ba đời còn chưa quên được mà.
Làm nghề thu thuế là bán linh hồn cho quân xâm lược và cho ma quỷ. Từ chết đến chết, không có bị thương.
4- Tôma, một người thiếu xã hội tính.
Tôma được Gioan nhắc đến ba lần. Cả ba lần ấy đều chứng minh rằng Tôma là người cô đơn: Suy nghĩ không giống ai, ăn nói cũng chẳng như ai, đi truyền giáo cũng lủi thủi một mình, xa hẳn 11 đồng môn.
+ Khi Thầy ngỏ ý về miền Nam để "đánh thức" Ladarô thì các môn đệ giật mình sợ hãi. Họ khuyên can Thầy một cách dè dặt: "Mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao ?" (Ga 11,8). Thầy không lùi bước. Họ góp ý thêm: “Nếu Ladarô yên giấc được thì anh ta sẽ khoẻ lại”. Thầy càng tỏ vẻ quyết tâm hơn: “Nào chúng ta cùng đến với anh ấy”. Lúc ấy Tôma nói một câu, nghe qua tưởng là ông đầy thiện chí, nhưng nếu phân tích kỹ tâm lý của ông, thì phải hiểu là ông có ý mỉa mai, hờn dỗi: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy”.
+ Trong phòng Tiệc Ly, Thầy tâm sự với môn đệ: “Đừng xao xuyến... Thầy đi để dọn chỗ cho anh em... Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Tôma không hiểu, không cảm động, mà còn vặn vẹo một cách ngang ngạnh: “Thầy đi dâu chúng con còn chưa biết, thì làm sao biết được đường Thầy đi” (Ga 14,1-5).
+ Ngày Chúa nhật Phục sinh, Thầy hiện ra với môn đệ. Mười người có mặt. Chỉ thiếu một mình Tôma. Thiếu tinh thần “huynh đệ chi binh” trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế là không nên. Tuần sau khi Thầy lại hiện ra, Tôma vẫn khăng khăng đòi xác minh bằng ngón tay của mình hơn là lời chứng của anh chị em (Ga 20,19-29).
+ Người ta đồn rằng ngày Mẹ mất, mười một anh em tông đồ có mặt, lại chỉ vắng một mình Tôma.
+ Mười một tông đồ truyền giáo xung quanh Địa Trung Hải, còn riêng Tôma thì đi sang tận Ấn Độ.
Mátthêu kể chuyện mình được Thầy chọn làm môn đệ. Chắc ông sửng sốt bỡ ngỡ lắm. Cả thị PiôHậu 255
Mátthêu kể chuyện mình được Thầy chọn làm môn đệ. Chắc ông sửng sốt bỡ ngỡ lắm. Cả thị trấn Caphácnaum ngẩn ngơ. Các đệ tử của Thầy cũng không ngờ... Bản thân con cũng không thể tưởng tượng nổi. Chỉ có ba từ "Hãy theo tôi" của Thầy làm mọi người chới với. Chỉ vì Mátthêu là người thu thuế. Chỉ vì thái độ của Thầy lúc đó và sau đó.
1 - Mátthêu là người thu thuế.
Giáo Hội và xã hội Do Thái thời ấy coi người thu thuế là người vừa phản đạo vừa phản quốc, và cho họ đứng ngang hàng với gái điếm, người Samari và người ngoại. Bốn hạng người này bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội Đường. Mátthêu biết tất cả những điều ấy, nhưng ông vẫn bất chấp. Ông mất tất cả, nhưng được rất nhiều tiền. Chánh quyền Lamã nhắm mắt cho ông hà lạm và bóc lột đồng bào, để mua lấy sự trung thành của một con chó săn.
Mátthêu là người như thế đó. Thế mà Thầy đã vẫy gọi ông, chọn ông làm Tông Đồ, tức là Giám mục ngày nay. Không ai hiểu nổi.
+ Mátthêu không hiểu được, vì chính ông tự biết mình là gì rồi. Lý lịch của ông đen quá, đen hơn mõm chó nhiều. Đã lỡ đâm lao, ông đành theo lao, không bao giờ trở lại. Cũng chẳng ai cho ông trở lại. Người đạo đức nhất cũng phải nói rằng: "Những thứ ấy tôi đuổi cho khuất mắt". Toàn dân ghét bỏ ông. Bề trên trong đạo xua đuổi ông. Trẻ con nhổ nước miếng khi gặp ông. Chỉ còn "bọn
không cắt bì" niềm nở với ông. Chỉ còn đồng tiền La mã giơ tay chào ông... Tận cùng bằng số. Thế mà vị ngôn sứ cao quý lại tốt với ông như thế. Chẳng biết thật hay mơ.
+ Các môn đệ của Thầy thì bất bình quá lẽ. Đưa Mátthêu vào đoàn Tông Đồ, thì có khác gì cào bằng họ với tên phản quốc và phản đạo. Một con sâu làm rầu nồi canh, huống hồ là một con chuột chết thối tha. Nhục lắm! Ức quá !
+ Các đấng bề trên trong đạo thì bĩu môi khinh dể. Họ đánh giá Thầy là nhập băng với bọn đàng điếm, là phá luật phá lệ. Từ thời Môsê cho tới bấy giờ, họ chưa thấy có một vị ngôn sứ nào làm như vậy. Trên các toà giảng của Hội Đường, đặc biệt là tại Caphácnaum, các vị Kinh sư sẽ nguyền rủa Thầy về tội có quan hệ với người thu thuế.
+ Chính con cũng không tài nào hiểu được Thầy. Nếu con là Phêrô, con sẽ nói toạc ra với Thầy rằng: "Một là con,hai là hắn. Thầy phải chọn một trong hai đứa". Không phải chỉ một mình con, ngay cả Giáo luật hiện hành cũng không cho phép đưa vào hàng giáo sĩ và giáo phẩm một ứng sinh quá đáng như thế.
2 - Thầy đến nhà Mátthêu ăn tiệc.
Được Thầy vẫy gọi, Mátthêu cho là một vinh dự quá lớn. Ông phải làm tiệc mừng. Nhưng một điều đáng mừng hơn nữa đó là ông giải nghệ. Ông thôi thu thuế. Bữa tiệc ấy có ý nghĩa thứ hai là giã từ đồng nghiệp. Ông mời Thầy, Thầy không từ chối. Theo Luật thì đến nhà người thu thuế là mắc uế. Thầy không thèm biết luật ấy.
Điểm mặt những người dự tiệc, ai cũng phải lắc đầu: ngoại đạo, bọn thu thuế bị vạ tuyệt thông, bọn bợm nhậu vô lương tâm và... Thầy. Thầy ngồi ăn với bọn ngoại đạo và bỏ đạo! Thầy quên luật, hay Thầy áp dụng luật một cách linh động ? Hay là Thầy cố tình phá luật ? Luật và lệ Do Thái giáo không tha thứ cho Thầy vì bất cứ lý do nào. Bởi thế sau bữa tiệc là có vấn đề ngay.
+ Các ông Pharixêu hạch sách các môn đệ của Thầy: "Tại sao Thầy trò các anh lại ngồi ăn với bọn tội lỗi?”. Dĩ nhiên là các môn đệ của Thầy chỉ biết gãi đầu gãi tai, cứng họng không nói được một lời.
+ Dư luận quần chúng chắc cũng ồn ào lắm và không thuận lợi cho Thầy. Họ không thể đồng cảm với Thầy được. Đó là truyền thống, truyền thống ngàn đời, truyền thống thánh thiện, thấm sâu vào dòng máu của tín đồ. Đây mới là năm thứ nhất của đời truyền giáo. Theo sự tính toán của Daniel-Rops thì đây mới là tháng thứ ba của năm thứ nhất. Giáo lý của Thầy chưa thấm vào não tủy của quần chúng. Cuối năm thứ ba dư luận quần chúng cũng vẫn chưa thay đổi Bằng chứng là khi Thầy ngỏ ý với ông Dakêu đang ngồi vắt vẻo trên cây vả là Thầy muốn đến ở đậu nhà ông, thì Luca kể rõ rằng: "Mọi người xầm xì với nhau rằng: Ông này lại vào trọ nhà người tội lỗi" (Lc 19, 7). Ông Dakêu là trưởng ty thuế vụ thành Giêrikhô.
+ Có một điều khôi hài là các ông Pharixêu không thắc mắc với Thầy, mà lại nạt nộ môn đệ của Thầy. Họ kiềng mặt Thầy. Họ cãi không lại Thầy. Trăm trận trăm thua. Nếu có ai phỏng vấn họ: “Tại sao các thầy không trực tiếp nói với ông Giêsu ? Bọn học trò của ông ấy dốt thấy mẹ”, thì chắc các ông ấy sẽ chống thẹn: "Một thằng nói ngang, cả làng cãi không lại". Đó là cách bảo vệ
danh dự của bề trên. Cãi không lại thì chê là cãi ngang.
3- Các môn đệ chuyển đến Thầy lời nạt nộ của các đấng bề trên là Pharixêu. Thầy tuyên bố lập trường của mình: "Người đau ốm mới cần thầy thuốc. Thầy đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối". Thầy ví von hay quá. Lý luận kiểu đó thì vừa rõ vừa sâu thăm thẳm. Người dốt nghe cũng hiểu. Người giỏi thì cứ muốn ngẫm nghĩ. Càng nghĩ càng thấm. Thầy ơi, Thầy tuyệt vời.
Đến bây giờ thì con hiểu rồi. Con không còn tức Thầy nữa.
+ Đến với người thu thuế không có nghĩa là đồng loã với họ . Đến với họ , để mở cho họ con đường trở về . Loại trừ là thất sách, là mất sạch, là tiêu diệt, chứ không cứu vớt. Từ thời Môsê cho đến lúc ấy, loại trừ người tội lỗi là đường lối mục vụ thánh. Thầy đến, Thầy làm lại mọi sự. Hay quá ! Vaticanô II rất cảm kích đường lối mục vụ của Thầy, nên đã dõng dạc tuyên bố: "Người tội lỗi vẫn còn nhân phẩm. Làm nhục người tội lỗi là xúc phạm đến nhân phẩm".
+ Mátthêu trở về. Mátthêu đi truyền đạo với Thầy. Biến cố đổi đời của Mátthêu tạo nên một phong trào trở lại. Người thu thuế, gái điếm ùn ùn đến nghe Thầy giảng. Họ thích nghe lời Thầy không phải vì Thầy giảng hay mà thôi, mà còn vì được Thầy yêu thương và quý mến. Tình yêu của Thầy đã khuất phục người lỡ lầm trở về. Như vậy rõ ràng là Luật Môsê sai. Đường lối mục vụ loại trừ là sai, dù nó đã tồn tại và được trọng vọng suốt mười ba thế kỷ.
Thầy kính mến.
Con đã nặng lời với Thầy, vì con không hiểu. Bây giờ con hiểu rồi. Xin Thầy tha thứ cho con.
Thầy băng qua cánh đồng lúa đang chín vàng. Đoàn tùy tùng rất đông: 12 tông đồ, quần chúng hâm PiôHậu 256
Thầy băng qua cánh đồng lúa đang chín vàng. Đoàn tùy tùng rất đông: 12 tông đồ, quần chúng hâm mộ hoặc hiếu kỳ, Pharixêu từ nhiều nơi tựu về. Bấy nhiêu người không ai phạm luật, trừ một số tông đồ. Họ bứt lúa mì, vò trong tay, thổi bay lớp vỏ, ăn hột gạo trần.Ăn thì không có lỗi. Nhưng vò mà ăn thì có tội, vì nó tương đương với xay bột, nhồi bánh và nướng bánh, tức là lao động không được phép làm trong ngày Sabát. Thế là các ông Pharisiêu mắng vốn Thầy: Ông coi kìa ! Môn đệ của ông đang làm điều luật cấm làm trong ngày Sabát". Xấu hổ đến độn thổ được.
Thầy bênh các tông đồ. Rất nhiều người ngày nay cũng bênh, nhưng con thì không. Con kịch liệt chống các tông đồ, vì các ông làm cho Thầy bị mắng vốn. Vô duyên quá chừng! Tại sao vô duyên ? Vô duyên vì :
+ Nếu đói thì Thầy cũng đói và mọi người đều đói. Tại sao chỉ có các ông mới làm như thế? + Hôm ấy là ngày Sa bát, luật chỉ cho phép đi bộ tối đa 1800 mét, nếu đi mà không về. Còn nếu đi rồi về thì chỉ đi tối đa 900 mét và về 900 mét. Con giả thiết lần này là đi không về. Chỉ còn năm trăm mét nữa là tới chỗ nghỉ chân, tha hồ mà ăn. + Nếu có đói thì chẳng đến nỗi đói quá như Đavít năm ấy đâu + Tất cả 12 ông đều là người lớn, không phải là con nít để viện lý do đói mà phạm luật.
Thầy kính mến.
Đây không phải là lần đầu tiên các tông đồ làm cớ để Thầy bị mắng vốn đâu. Đã có lần chính môn đệ của Gioan Tẩy giả cũng phải đến để mắng vốn Thầy : "Tại sao chúng tôi và các người Pharixêu ăn chay, còn môn đệ của Thầy thì không ?" (Mt 9,14). Chính Thầy đã từng ăn chay bốn mươi ngày. Chắc chắn Thầy cũng ăn chay ngày thứ Hai và thứ Năm như các ông Pharixêu và nhóm Gioan Tẩy giả. Thế mà Thầy cũng bênh các tông đồ của Thầy : "Bao lâu chàng rể còn ở với họ thì họ không thể ăn chay được".
Tác phong của các tông đồ quá tệ, mà Thầy cứ bênh hoài. Tức lắm ! Tức quá nên mới phải moi móc xem cái ý cuối cùng của Thầy là gì ? Nhất là con còn muốn cảm nghiệm được tấm lòng của Thầy nữa kia.
Con “moi” vụ ăn chay trước rồi đến vụ bứt lúa mì.
1- Vụ ăn chay.
Nếu con là Thầy, con sẽ xấu hổ lắm. Con sẽ thành thật trả lời cho người mắng vốn thế này: "Xin cám ơn các bạn đã góp ý xây dựng. Môn đệ của tôi còn thấp kém lắm, chưa thể ăn chay hằng tuần như các bạn được đâu. Phải giáo dục tiệm tiến mới được. Uốn một cọng chì: dễ quá. Uốn một sợi dây đồng: khó hơn. Uốn một cây thép: rất khó. Uốn nắn một con người: khó hơn nhiều, khó vô cùng. Uốn cây sắt không được, thì nung đỏ nó lên, rồi lấy búa mà đập, đập cho tới khi nó cong theo ý mình muốn. Nhưng uốn nắn con người mà dùng bạo lực như thế là vi phạm nhân quyền, là xúc phạm đến nhân phẩm.
Các bạn thông cảm với tôi. Hai năm nữa thì họ sẽ ăn chay như các bạn, như nhóm Pharisiêu và như tôi. Còn bây giờ thì chưa. Ép họ ăn chay ngay bây giờ khác nào đổ rượu mới vào bầu da cũ. Mất cả chì lẫn chài!”
2- Vụ bứt lúa mì.
Nếu con là Thầy, thì con sẽ bảo Phêrô tập trung anh em lại, rồi mắng cho một trận. Vụ ăn chay thì nương được, vì ăn chay hai ngày một tuần, không phải là luật mà là tự nguyện. Còn bứt lúa mì ở đây là phạm luật. Phạm luật thì một là không biết luật, do sự ngu dốt mà ra; hai là biết luật nhưng cố tình phạm vì yếu đuối, hoặc vì ngoan cố. Mắng còn là nhẹ.
Làm mất danh dự một người đã là xấu hổ rồi.Huống hồ đây là làm mất danh dự của một tập thể. Không thể bỏ qua được .
Sau khi mắng công khai để "rửa mặt" cho tập thể, con sẽ nói với các ông Pharisiêu rằng : “Các đệ tử của tôi làm sai, tôi sẽ dạy tụi nó. Nhưng tôi cũng phải yêu cầu các ông không nên kết án ai, khi chưa hiểu được lý do phạm pháp của họ. Bối cảnh của tội phạm có thể gia trọng, giảm khinh, hoặc cho trắng án một tội phạm. Chắc hẳn quý ông còn nhớ chuyện Đavít và thuộc hạ được tư tế Akhimêléc cho ăn bánh trưng hiến dành riêng cho tư tế. Akhimêléc phá luật. Ông không có tội, Đavít cũng vô tội, chỉ vì bối cảnh của tội phạm. Đệ tử của tôi sai, nhưng quý ông cũng chưa đúng. Sai thì sửa. Chưa đúng thì nghĩ lại”. Nói thế, nhưng lòng vẫn đau như thắt. Đau quá ! Bị mắng vốn hoài, chỉ vì đệ tử chẳng được như ai. . .
Thầy kính mến.
Bây giờ thì con hiểu Thầy rồi.
1- Chính Thầy chọn các tông đồ từ tình trạng thấp kém ấy. Đó là ý của Chúa Cha và Thầy hãnh diện về điều đó. Thầy yêu thương họ đến mức độ hứng lên và gọi họ là "đoàn con bé nhỏ" (Ga 13,33). Thầy yêu họ không phải vì họ xứng đáng, mà vì bản chất của Thầy là yêu.
2- Thầy không muốn làm mất mặt tông đồ, dù họ xứng đáng là vậy. Thầy bao che họ một cách khéo léo, bằng chiến thuật tung hỏa mù để rút chạy. Thầy bảo nhóm Gioan Tẩy giả rằng: “Bạn của chàng rể không thể ăn chay khi chàng rể còn đó”. Chàng rể là ai? Cựu ước không có chỗ nào so sánh Đấng Cứu Thế với chàng rể. Và tại sao khi Đấng Cứu Thế còn ở tại thế, thì môn đệ không ăn chay? Vô nghĩa. Đúng là chiến thuật tung hỏa mù làm cho địch bối rối, để rút lui bảo toàn lực lượng.
3- Nhân dịp đối phương đang mất hướng, Thầy đánh trống lảng sang đề tài khác : giáo dục con người và cách đối xử với con người.
+ Giáo dục con người thì phải tiệm tiến, không thể nóng vội. Không thể ép tông đồ ăn chay như những tu sĩ thuần thành của nhóm Étxênoi, nhóm khổ tu kiểu Gioan Tẩy giả.
+ Giáo dục con người thì phải biết kính trọng con người trước đã. Lăng nhục con người, để con người sửa lỗi là một sai lầm. Thầy không làm nhục ai, kể cả Giuđa vẫn được Thầy đối xử dịu dàng cho tới giờ phút cuối cùng.
+ Không thể căn cứ theo luật để kết tội. Phải căn cứ trên tình huống của cuộc sống để xét xử một con người.
Chỉ có Chúa mới hiểu hết tình tiết của một tội nhân, và chỉ xét đoán của Ngài mới thực sự là công bằng.
Máccô kể chuyện Thầy chữa một ông cùi. Ông cùi quỳ mọp từ đàng xa. Thầy đến tận nơi, đụng PiôHậu 257
Máccô kể chuyện Thầy chữa một ông cùi. Ông cùi quỳ mọp từ đàng xa. Thầy đến tận nơi, đụng tay vào ông, ông được khỏi. Rất đơn giản. Nhưng không thể đơn giản như thế. Có rất nhiều vấn đề nảy sinh từ câu chuyện này và sau câu chuyện này. 1- Con đã từng gặp nhiều người cùi. Có một bà cùi lên xe buýt, khách trên xe trố mắt nhìn, bỏ chạy, để bà cùi ngồi một mình một băng ghế. Rộng rinh. Sướng mà tủi quá. Con cũng đã gặp một ông cùi người Lào bị chủ làng đuổi đi. Đi đâu thì đi miễn là không ở trong làng. Cứ đi lang thang mãi, bị đuổi mãi cho tới ngày gặp được Trung Tâm Tiếp Đón người bị loại trừ. Người mà phải đi lang thang như con chó hoang.. Nhưng trên thế gian này chẳng có người cùi nào khổ cho bằng người cùi Do Thái của Thầy. Khổ phần xác đã đẩy họ xuống vực thẳm rồi. Khổ do Luật còn đẩy họ xuống tận hỏa ngục nữa. Thân xác khổ. Linh hồn khổ. + Người cùi phải sống cách ly với xã hội. Sống lây lất trong những căn chòi xơ xác ở bìa rừng, hoặc trong những hang hốc tăm tối bên triền núi. Cha mẹ thăm nuôi cũng phải đứng từ đàng xa. Dặn dò âu yếm cũng phải hét lên như ghét bỏ. Đêm hôm nhớ nhà mà lén về, bị lộ thì bị người làng ném đá đuổi đi. Nếu muốn đi lang thang cho đỡ buồn, thì phải gõ chuông, hoặc hô to "cùi" để mọi người tránh xa, kẻo lây uế. Người mà không bằng con thú.
+ Người cùi là người mắc uế. Người mắc uế là người tội lỗi Mắc uế thì thanh tẩy. Thanh tẩy là hết tội. Ban ngày đạp phải xác con vật chết, thì mắc uế đến chiều. Thanh tẩy là xong. Bệnh cùi là bệnh nan y, đã cùi thì chỉ cho đến chết. Và …tội cũng phải mắc cho đến chết, không thanh tẩy được. Và…nữa: linh hồn cũng bị đày đọa như thân xác, còn hơn thân xác ngàn ngàn lần ! Ôi, luật vị luật!
+ Thần học Do Thái dạy rằng: bệnh tật là hậu quả của tội lỗi; tội lỗi là nguyên nhân của bệnh tật. Thấy người cùi thì nhà thần học kết luận ngay rằng: y đã phạm tội dữ dằn lắm, nên Chúa mới phạt như vậy. Nếu không do tội lỗi của hắn thì cũng do tội của ông bà, cha mẹ để lại. Bất công và bất nhân vô cùng! Chính người cùi cũng nghĩ về mình như thế. Khổ biết chừng nào! Ôi thần học! Thần học sai lầm! Thần học độc ác!
2- Thầy đi thẳng tới người cùi, đụng vào hắn, cứ tỉnh bơ như không biết Luật, như không có Luật. Thầy ơi, tại sao Thầy bạo thế? Thầy sẵn sàng mắc uế để cứu người, hay Thầy cố tình chống Luật để cứu cả thân xác lẫn linh hồn của con người? Đúng là Thầy giải phóng con người khỏi cái ách của bệnh tật và khỏi cái ách ngàn năm của Luật.
Luật là phương tiện để phục vụ con người: "Luật vị nhân sinh". Nhưng có biết bao người cứ khăng khăng bảo rằng: "Luật vị luật". Chỉ có ba chữ "luật vị luật" mà biết bao nhiêu kiếp người bị đày đọa, biết bao nhiêu nhà độc tài lên ngôi, ngồi giữa pháp đình, ngồi giữa thánh đường! ... Ôi “Luật vị Luật”!
3- Thầy nghiêm giọng ra lệnh cho người cùi: "Coi chừng, đừng cho ai biết… "Đừng cho ai biết" đó là một điệp khúc của Máccô và Luca. Cứ mỗi lần cứu nhân độ thế, kể cả trường hợp cho con ông Giaia sống lại, Thầy lại dặn dò, khi thì tha thiết, khi thì nghiêm nghị: "Đừng cho ai biết". Hơi lạ và hơi buồn cười, vì những chuyện tày trời như thế, thì giữ kín sao được. Đừng cho ai biết, nhưng ai ai cũng biết hết...
Thầy kính mến.
Lời nói của Thầy xem ra là vô ích. Nhưng con hiểu cõi lòng của Thầy. Quần chúng thì tung hô Thầy. Thầy thì chẳng thích được tung hô, mà hậu quả của nó thì khôn lường. Lòng căm thù của các Kinh sư và Pharixêu tăng lên theo nồng độ tình yêu của quần chúng. Các Hội Đường Do Thái liền ranh nhau, trùng trùng điệp điệp. Các Trưởng Hội Đường cấu kết với nhau để làm khó và hãm hại Thầy. Cạm bẫy giăng khắp nơi. Dân chỉ biết thương Thầy, mà không hiểu nỗi lòng của Thầy. Họ cũng không thấy nguy cơ luôn luôn chờ thời để chụp xuống trên đầu Thầy. Thầy là người yêu cô đơn của dân. Dân là người yêu ngu xuẩn của Thầy. Thầy đã gánh tội của trần gian. Bây giờ Thầy còn gánh thêm cả tình yêu ngu dại của dân nữa. Trăm dâu đổ đầu tằm. Khổ ơi là khổ!
Đúng y chang. Người chỉ vừa ra khỏi nơi đó, “liền bắt đầu tung tin ấy khắp mọi nơi, khiến Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoại thành”. Công việc rao giảng tạm ngưng. Luca cho biết nhân dịp này, Thầy đi cầu nguyện...
4- Thầy bảo người cùi đi trình diện tư tế. Hắn phải đến đó để được khám nghiệm, để được thẩm quyền xác nhận khỏi bệnh và cấp chứng minh thư. Sau đó mới được về sum họp gia đình. Ngoài ra hắn còn phải tuân theo thủ tục làm lễ thanh tẩy. Đối với hắn, mọi thủ tục rườm rà chỉ là chuyện nhỏ. Được khỏi cùi, là vớ được hũ vàng, là như từ cõi chết sống lại. Hắn thì sướng quá, còn Thầy thì khổ quá. "Sống cho" thì phải vậy. Thầy chẳng ân hận gì.
Máccô bảo Thầy "đuổi" ông cùi và bắt ông phải "đi ngay". Giọng văn đặc thù của Máccô giúp con hiểu thêm nỗi lòng của Thầy. Thầy thích sống âm thầm, khiêm nhu. Không thể không làm ơn làm phước. Nhưng làm xong rồi, thì chỉ ao ước được quên đi. Thầy là thế. Thương ơi là thương!
5- Tin Mừng bị khựng lại ở đây. Dân chúng ai về nhà nấy. Rồi ngày Sabát sẽ đến nguyện đường để nghe các Rắpbi mắng mỏ, nạt nộ. Thầy sẽ bị nêu đích danh trên các toà giảng. Thầy sẽ bị tố cáo là mắc uế, là phá luật. Ai ngờ... Máccô kể tỉnh queo: "Dân chúng từ khắp nơi lại kéo nhau đến với Ngài". Lãnh đạo Do Thái giáo phá Thầy, nhưng vô hiệu. Tin Mừng lại được loan báo, không phải ở trong các thành, mà ở nông thôn, ở những nơi hẻo lánh.
Tin Mừng bất khuất. Hạt giống Tin Mừng cũng bất khuất y như hạt giống của các loài thảo mộc.
+ Hạt cây gòn được gieo đi nhờ gió và “cánh dù”. Bay bay. Rơi rơi.
+ Hạt ké đi phương xa để truyền nòi, nhờ bám vào lông con thú. Dính vào. Rớt ra.
+ Hạt sao và hạt dầu bay đi xa nhờ gió và cánh, vừa bay vừa quay.
+ Trái mắm, trái đước đi tìm đất mới bằng cách trôi lềnh bềnh theo dòng thủy triều.
Cứ như thế thực vật tồn tại và phát triển. Cứ như thế Tin Mừng loan đi khắp nơi. Càng làm khó, nó càng phát triển.
Luca kể chuyện Thầy cho Phêrô trúng một mẻ cá kỳ diệu. Nội dung như sau: 1- Thầy đứng bên PiôHậu 285
Luca kể chuyện Thầy cho Phêrô trúng một mẻ cá kỳ diệu. Nội dung như sau:
1- Thầy đứng bên bờ hồ. 2- Dân chúng chen lấn nhau để nghe Thầy giảng. 3- Thầy mượn xuồng của ông Ximon để ngồi giảng. 4- Giảng xong, Thầy bảo Ximon đi thả lưới. 5- Ximon nể Thầy mà đi. Trúng một mẻ cá đầy ắp hai thuyền. 6- Ximon và các con nhà Dêbêđê bỏ mọi sự để theo Thầy.
Tình tiết của chuyện thì rất phong phú. Bối cảnh thì rất bao la. Thế mà Luca lại kể vắn tắt đến độ buồn cười. Mỗi tình tiết được vo tròn như một viên thuốc tễ. Viên nào cũng tròn tròn, nho nhỏ và lỏn nhỏn như cứt dê. Đáng tiếc vô cùng !
Biết làm gì bây giờ ? Con đành nhắm mắt lại, thả hồn về hồ Galilê, để tìm lại bóng dáng của Thầy.
Thầy đứng bên bờ hồ, cao to và uy nghi, nghiêm nghị mà vẫn hiền từ, ánh mắt xuyên không gian đi vào vô biên... Bỗng giật mình. Quần chúng ùn ùn kéo tới. Xô lấn, giành giật để tới gần Thầy. Thầy đã là một siêu sao. Đụng tới siêu sao là một vinh dự để đời. Vuốt vai, hôn tay, rờ bàn chân, kẻo tà áo, thậm chí còn hôn vội một cái lên má, lên lưng…của Thầy. Quần chúng thì như thế đó: thích lắm, sướng lắm. Còn Thầy thì dường như vô cảm. Không thích hưng không chống đối. Thầy muốn giảng chứ không muốn được ái mộ. Quần chúng thì thích rờ hơn là nghe. Quần chúng thắng, Thầy thua.
Phêrô đang giặt lưới. Thầy ngoắt một cái, ông chống xuồng tới ngay. Thầy nhảy vội xuống xuồng. Phêrô đẩy vội xuồng ra khỏi bờ. Quần chúng hết rờ. Quần chúng thua. Thầy thắng... Bài giảng bắt đầu. Mọi người há mỏ để nghe, trố mắt để nhìn, nuốt từng lời, từng lời... Đã quá chừng!
Giảng vừa xong, quần chúng lội ào xuống nước để ôm lấy siêu sao. Nhưng không kịp. Mũi xuồng đã quay ra khơi. Quần chúng gọi ơi ới. Thầy làm bộ điếc không nghe.
Thầy bảo Phêrô ra khơi thả lưới. Ông sụ mặt xuống. Suốt đêm qua ông hì hục thả lưới. Nhưng loài cá dường như có linh hồn, dường như có trí khôn: chẳng con nào mắc lưới. Chưa về tới nhà, bà vợ đã vội vàng ra đón. Nhìn mặt ông thộn ra, bà cụt hứng... Bây giờ ông chỉ muốn: ăn ba hột, uống vài xị, ngủ vùi cho tới tối luôn. Thế nhưng... một "ông thợ mộc" lại chỉ đạo cho một "ngư ông" đi thả lưới. Ngược đời! Dù vậy “ngư ông” vẫn vâng lời “ông thợ mộc” để ra khơi. Phêrô sợ Thầy buồn. Đơn giản chỉ có thế thôi. Ai ngờ cái ngược đời lại là ý trời. Hai xuồng cá đầy ắp làm rúng động dư luận làng chài. Chưa bao giờ dân chài được chứng kiến một mẻ cá như vậy. Nhưng chính mẻ cá kỳ diệu ấy lại chấm dứt cuộc đời đánh cá của Phêrô. Phêrô giải nghệ cùng với Giacôbê và Gioan. Họ bỏ mọi sự để theo Thầy.
Thầy kính mến.
Hai xuồng cá đầy ắp làm rúng động cả xóm chài và làm cho xóm chài mất đi một số ngư phủ quen thân. Nhưng con thì cứ thờ ơ. Mẻ cá ấy chỉ là chuyện nhỏ, không đáng để bàn tán um sùm.
Con muốn hỏi nhỏ Thầy một câu: "Thầy có lạm phát khi thực hiện phép lạ này không ?" Sở dĩ con hỏi hơi hỗn một tí như thế, vì phép lạ nào của Thầy cũng vì yêu thương hoặc vì niềm tin.
1- Thầy hoá bánh vì tội nghiệp quần chúng (Mc 6, 34) 2- Thầy phục sinh Ladarô "để họ tin là Cha đã sai Con" (Ga 11, 42). 3- Thầy dẹp yên biển động để đề cao niềm tin: “Sao nhát thế, hỡi người kém tin” (Mt 8, 26). 4- "Lòng tin của anh đã cứu anh" cũng là lời đề cao niềm tin của người khiếm thị (Mc l0, 52).
Còn phép lạ này, thì vì động cơ nào?
1- Để cứu nhân độ thế chăng? Không!
2- Để xây dựng niềm tin cho Phêrô và các bạn của ông chăng? Không cần nữa. Phép lạ hoá nước thành rượu ở Cana đã quá đủ rồi.
3- Để gây quỹ truyền giáo chăng? Ngàn lần không, vì Thầy không cho phép môn đệ lo lắng về vật chất (Lc 10,4; 10,7).
Để hiểu rõ tâm hồn của Thầy, con phải đặt lại vấn đề. Người ta vẫn bảo con rằng: sau mẻ cá kỳ diệu, Thầy có bốn môn đệ đầu tiên. Con không đồng ý. Phải lùi lại chừng ba tháng, sẽ thấy rõ vấn đề. Vào cuối tháng Ba, khi chưa công khai truyền đạo, Thầy đã có năm đệ tử rồi, đó là Anrê, Gioan, Phêrô, Philíp và Natanaen (Ga l, 35-51). Vậy tại sao đến cuối tháng Sáu, khi xảy ra phép lạ mẻ cá kỳ diệu, Luca mới đề cập đến việc Phêrô, Giacôbê và Gioan (hiểu ngầm là có cả Anrê) bỏ mọi sự mà theo Thầy?
Theo con hiểu thì:
1- Quả thật vào cuối tháng Ba (theo công trình nghiên cứu của Daniel-Rops), Thầy đã chọn năm môn đệ đầu tiên. Họ cùng Thầy đi ăn cưới ở Cana. Họ đã chứng kiến phép lạ đầu tay của Thầy. Họ đã tin vào Thầy (Ga 2,11). Thế nhưng họ vẫn đu đưa giữa hai công việc: truyền đạo và nuôi gia đình. Cụ thể là ông Phêrô. Theo Thầy đi truyền đạo, thì bà vợ nhăn nhó. Về nhà đi đánh cá nuôi vợ con, thì Thầy không hài lòng. Nếu Thầy năn nỉ bà, thì bà cũng chỉ gãi tai và cười trừ: "Xin Thầy thông cảm". Công việc truyền giáo thì cấp bách, mà người truyền giáo thì vừa quá ít, vừa đu đưa . Thầy thấy bức xúc quá chừng ! Mà Thầy thì muốn họ phải tự nguyện.
2- Sau ba tháng chờ đợi họ tự nguyện. Nhưng Phêrô vẫn cứ gãi đầu gãi tai. Vợ của ông thì vẫn cứ "xin Thầy thông cảm". Không ai tự nguyện cả... Thế là Thầy ra tay gây một cú sốc về tâm lý, khiến Phêrô thoát ly gia đình 100%, mà lòng không bâng khuâng. Nhẹ tênh. Vợ của ông cũng không còn kỳ kèo, tiếc xót. Thoải mái. Bên gia đình ông Dêbêđê cũng vậy. Hai thằng con trai, hai lao động chính cùng ra đi một lúc làm đảo lộn kế hoạch sinh nhai trong gia đình, ông Dêbêđê vẫn tỉnh bơ.
Thầy kính mến.
Thế là Thầy đã toại nguyện. Bốn người, rồi năm người, rồi mười hai người đã thoát ly gia đình 100% để phục vụ Nước Trời. Con số ấy cứ tăng lên mãi. Hằng triệu người đã tận hiến đời mình cho Tin Mừng qua suốt dòng lịch sử. Phép lạ mẻ cá kỳ diệu là khởi đầu cho những ơn gọi 100% cho Tin Mừng. Mãi mãi nó vẫn là mạc khai nỗi lòng trăn trở của Thầy.
Luca ghi lại cho chúng con một trang nhật ký về Thầy: Một ngày Sa bát tại Caphácnaum. Thầy PiôHậu 259
Luca ghi lại cho chúng con một trang nhật ký về Thầy: Một ngày Sa bát tại Caphácnaum. Thầy đến nguyện đường giảng và trừ quỷ. Thầy về nhà ông Phêrô chữa mẹ vợ ông khỏi cơn sốt, ăn cơm ở đấy. Khi mặt trời lặn Thầy lại trị bệnh: vô vàn vô số. Thầy nghỉ đêm ở đây. Sáng hôm sau Thầy đi cầu nguyện. Dân chúng đi tìm Thầy và cố giữ Thầy ở lại Thầy không chịu ở lại. Thầy đi và đi mãi...
Sau khi đọc trình thuật của Luca, con đọc thêm trình thuật của Máccô (Mc 1,21-39). Một ngày sôi động quá chừng, thế mà lời kể thì ngắn tũn. Tiếc quá ! Tức quá! Đành phải moi thôi. Moi móc, cuốc xới y như một chuyên viên khảo cổ.
1- Dân chúng sửng sốt về CÁCH Thầy giảng. Họ so sánh Thầy với các Kinh sư của họ. Các Kinh sư bắt họ phải thuộc và nhớ Luật - Mà Luật thì chằng chịt như mắt lưới - Thuộc và nhớ Luật đã khó. Giữ Luật còn khó hơn nhiều. Tín đồ giữ Luật cảm thấy mình là tên nô lệ hơn là người con của Giavê. Yêu Giavê thì chẳng ban nhiêu mà sợ Giavê thì quá nhiều. Nói theo kiểu của thánh Phêrô thì Luật ấy là cái ách quàng lên cổ. Mà chỉ có nô lệ mới mang ách... Nghe giảng như thế thì mệt quá, ớn quá...
Cách giảng của Thầy thì khác hẳn.
+ Thầy dùng những hình ảnh quen thân của giới bình dân để trình bày mầu nhiệm cao siêu của Nước Trời: Một cây vả; một vườn nho; một đám cưới; một bầy trừu... Ngày hôm nay có rất nhiều người đánh giá Thầy là một nhà lập đạo duy nhất của loài người đã khéo léo dùng cái thấp nhất để trình bày cái cao nhất.
+ Giáo lý của Thầy coi cái tâm là chính, còn cái trí thì đi sau và là phụ. Lý trí đóng một vai trò rất nhỏ bé trong cuộc sống đạo. Lý trí không thấu đạt được vĩnh cửu. Nhưng tình yêu thì rờ mó được Đấng Vĩnh Hằng. Khi người ta đã yêu rồi, người ta sẽ tin. Tin có thể không còn, nhưng yêu thì tồn tại mãi mãi.
+ Bài giảng của Thầy xoáy vào con tim của thính giả. Đặc biệt là nó được minh họa bằng chính cuộc sống của Thầy. Thầy hiền lành và khiêm nhu. Thầy yêu thương người bệnh hoạn, tật nguyền, nghèo khổ và tội lỗi.
2- Thầy cho mẹ vợ Ximon hết bệnh. Tối hôm ấy bệnh nhân kéo đến. Thầy chữa hết. Ai nấy đều mừng rỡ. Bệnh nhân mừng. Thân nhân của họ mừng. Láng giềng cũng mừng. Nhưng lãnh đạo Do Thái giáo thì nổi giận. Luật Môsê thì bất bình với Thầy. Luật không cho phép trị bịnh ngày Sabát. Còn Thầy thì cứ phớt lờ đi. Thầy bước qua lề luật để đến cứu bệnh nhân. Thầy bảo: "Luật vì con người". Một bài học ngắn gọn và thâm thúy dành cho mọi người, mọi thời. Nhưng đặc biệt dành cho những người lãnh đạo từ ngoài đời vô tới trong đạo.
3- Qua bài Tin Mừng này con phát giác ra chân tướng của Satan.
+ Hắn ngu lắm. Bây giờ hắn mới biết Thầy là Đấng Cứu Thế, là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Hắn biết chậm quá, trễ quá. Lẽ ra hắn phải biết sớm hơn.
+ Hắn là chuyên viên ăn gian, nói dối. Nói dối một cách trơ trẽn mà không mắc cỡ. Hắn đã phá công trình sáng tạo bằng cách lừa gạt Eva và Ađam. Thầy đến để đạp nát đầu hắn mà cứu loài người. Thế mà hắn chối phắt: “Chuyện chúng tôi có can gì đến ông đâu mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi” Đúng là vừa ăn cướp vừa la làng.
+ Hắn là một thằng đểu. Biết là mình phải thua và phải ra đi theo lệnh của Thầy rồi. Nhưng hắn còn hét lên một tiếng hãi hùng và còn đạp một cái cho người ấy ngã xuống đất đã ,rồi mới ra đi. Không được ăn thì đạp đổ. Đểu !
4- Mẹ vợ ông Ximon được khỏi bệnh. Mừng quá ! Bà muốn đãi Thầy một bữa cho thoả lòng. Nhưng cụt hứng... vì là ngày Sabát: không được chụm lửa, không được nấu nướng. Đành phải gãi đầu gãi tai. Con tưởng tượng thấy bà ỉu xìu, nhìn bàn ăn mà muốn rơi lệ. Toàn đồ nguội. Bánh mì nguội. Cá nướng nguội. Và... chỉ có thế. Bà muốn năn nỉ xin Thầy ở lại vài bữa nữa, để bà đãi Thầy một bữa ngon tối đa, cho vừa lòng biết ơn của bà.
Thầy chỉ cười dễ dãi và chẳng hứa hẹn gì.
5- Sáng sớm khi trời còn tối mịt (Mc1,35), Thầy đã ra khỏi nhà, đến nơi thanh vắng để cầu nguyện. Lúc ấy chưa hết giờ giữ luật ngày Sa bát, nên con hiểu rằng Thầy đi không quá 900 mét tính từ nhà ông Ximon. Cầu nguyện là một sinh hoạt bình thường của Thầy. Nhưng còn rất nhiều bí mật về sinh hoạt này.
+ Khi cầu nguyện thì Thầy ngồi, quỳ, hay đứng ? Con chỉ biết chắc một điều là khi Thầy cầu nguyện trong vườn Cây Dầu thì Thầy quỳ, rồi phủ phục. Còn các lần khác thì... mù tịt.
+ Thầy thường cầu nguyện vào lúc rất khuya hoặc vào lúc trời còn rất sớm. Có lần Thầy thức trắng một đêm để cầu nguyện cho việc tuyển chọn 12 tông đồ. Nhưng Thầy cầu nguyện bao lâu ? Thầy nói gì với Chúa Cha ? ánh mắt của Thầy lúc ấy ? Không thánh ký nào trả lời được, kể cả Gioan, vì dường như khi Thầy cầu nguyện thì họ ngủ khò. Họ đang tâm ngủ ngay trong vườn Cây Dầu lúc Thầy cầu nguyện, mồ hôi đầm đìa...
+ Con tò mò hỏi Thầy, mà không cần được trả lời: “Muỗi có chích Thầy không ?”
6- Dân chúng quá thương Thầy, nên khi vừa xả luật ngày Sabát, họ đến nhà Ximon để lại được nghe Thầy giảng. Nhưng Thầy không ở đấy. Họ đi tìm. Họ níu kéo Thầy ở lại. Họ năn nỉ. Họ van xin... Thầy từ chối. Họ buồn lắm. Kệ... Thầy và các đệ tử lại lên đường. Thầy đi và đi mãi, mà lòng vẫn còn ao ước. Ao ước được đi mãi cho đến tận cùng trái đất. Bức xúc quá chừng ! Đó là cái tâm của Thầy. Đó là cái tâm của mọi thừa sai.
Hôm nay con nghe Gioan thuật chuyện Thầy đàm đạo với một người phụ nữ Samari. Có rất PiôHậu 260
Hôm nay con nghe Gioan thuật chuyện Thầy đàm đạo với một người phụ nữ Samari. Có rất nhiều tình tiết được Gioan tường thuật một cách hào phóng. Phải chi các hoạt động của Thầy đều được Gioan và các thánh ký ghi lại tỉ mỉ như thế - Rất tiếc là đã không như thế - Buồn mãi cho đến muôn đời !
Có rất nhiều điều làm con sửng sốt bỡ ngỡ.
1. Từ năm 722 trước ngày sinh của Thầy, vua nước Babilon đánh chiếm quê hương của Thầy. Samari bị năm bộ lạc ngoại đến ở, thế chỗ những người đi lưu đày. "Đạo" bị ngoại hóa và "ngoại" được đạo hóa. Không còn thuần chủng nữa. Thế là họ bị anh em Ítraen coi như người ngoại. Samari bị vạ tuyệt thông trên người và trên đất. Chẳng người Do Thái nào chịu đi qua xứ Samari. Thế mà hôm nay Thầy cứ đi qua tỉnh bơ, không sợ mắc uế, bất chấp luật lệ. Mọi người là anh em và phải là anh em. Không ai được dựng lên bất cứ thứ hàng rào nào để phân cách người với người, kể cả hàng rào tôn giáo. Thầy đi qua xứ Samari là Thầy đang làm cách mạng, Thầy quyết tâm đập bể bức tường tôn giáo ngăn cách giữa người với người.
2. Giữa buổi trưa nắng cháy, chỉ có một người đàn bà ra giếng làng lấy nước. Chắc là có vấn đề.
Người ta bảo rằng trước đó vài tiếng đồng hồ các bà các cô trong làng ra giếng lấy nước, vừa đi vừa chuyện trò tíu tít .Đông lắm. Vui lắm. Họ về hết rồi, chị này mới dám ra. Chị cô đơn ở giữa cánh đồng nắng cháy chứng tỏ chị cũng cô đơn ở ngay trong làng, ở giữa rừng người. Chỉ vì lý lịch của chị không thơm. Chị đã có năm đời chồng rồi mà người chồng thứ sáu này chỉ là bạn đàn ông nhăng nhít. Đàn bà chẳng ai muốn nhìn chị. Nhưng dường như chị lại được cánh đàn ông dòm ngó. Có thế chị mới đắt chồng một cách kỳ lạ như vậy.
Và …Thầy đã ngồi nói chuyện với người đàn bà ấy ở giữa cánh đồng vắng vẻ , khiến chính các Tông đồ cũng phải ngạc nhiên. Có lẽ họ thấy ngường ngượng. Thầy không xét lý lịch. Thầy chỉ thấy chị ấy là người. Giả sử chị ấy là đĩ , thì đĩ cũng vẫn là người. Mà người thì phải được kính trọng. Đó là giáo huấn của Thầy .
Thầy kính mến.
Con xin ghi khắc bài giáo huấn của Thầy. Nhưng con xin thú thật với Thầy là con không dám ngồi nói chuyện với chị ấy đâu. Không phải vì con khinh cái lý lịch không thơm của chị ấy, mà vì con sợ cái lý lịch không thơm của chính con. Dường như chị ấy cũng tươi mát lắm. Một thứ dữ!
3. Đúng, hắn là thứ dữ thật.
- Thầy là một người đàn ông uy nghi cao lm80. Thầy là Ngôi Lời làm người. Mọi cái thánh đức cao siêu của một Ngôi Lời đều được biểu lộ qua tác phòng của một Giêsu Nadarét. Đáng kính vô cùng ! Dễ thương vô vàn ! Vậy mà hắn từ chối không cho Thầy một miếng nước : "Ông là người Do Thái, tôi là người Samari, tại sao ông lại xin tôi?". Ghê thật. Đanh đá quá !
- Khi Thầy nghiêm chỉnh hứa ban cho hắn nước hằng sống, hắn nạt lại liền : "Ông không có gầu, giếng thì sâu, vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống. Bộ ông ngon hơn tổ phụ Giacóp của chúng tôi sao ?" Hắn chơi trội với Thầy đấy.
- Thầy nhẫn nại giải thích rằng nước Thầy cho, thì khi uống rồi sẽ không khát nữa. Hắn nói kiểu thách thức : "Thì ông cho đi để tôi khỏi đến đây lấy nước nữa". Đỏng đảnh !
- Thầy cứ bình tĩnh yêu cầu chị mời chồng đến. Hắn trả lời cụt ngủn: “Tôi không có chồng” Chanh chua !
Khi Thầy khui hết đời sống riêng tư của hắn ra, hắn mới tạm đấu dịu: "Ông quả là một ngôn sứ". Nhưng liền sau đó hắn đổi chưởng, xoay sang thế công. Hắn chất vấn Thầy về việc có hai đền thờ : một ở Garidim; một ở Giêrusalem. Hắn muốn hỏi : nơi nào đúng. Hắn chơi kiểu cô giáo chất vấn học trò. Vừa né đòn, vừa tấn công. Khôn thế !
- Khi Thầy bảo rằng: "Từ nay không thờ Chúa Cha ở núi này, hay ở Giêrusalem, mà chỉ thờ trong Thần Khí và sự thật", thì hắn lại đứng ngang hàng với Thầy, coi cả hai là huề, chờ trọng tài là Đấng Mêxia. Cứng càng thật !
4. Thầy hiền từ quá, nhẫn nại quá, khiêm nhu quá. Thứ đàn bà ấy không xứng đáng được Thầy đối xử như vậy. Nếu con là Thầy, con sẽ tung chưởng “cả vú lấp miệng em” để khóa miệng hắn ngay từ đầu rồi.
Nhưng may quá, Thầy không phải là con. Thầy là Ngôi Lời nhập thể làm người. Vì thế, kết quả thu lượm thật tuyệt vời.
Người phụ nữ ấy đã trở thành vị thừa sai đầu tiên của Xykha. Người ta ùn ùn đến với Thầy, đón Thầy vào thành và Thầy lưu lại ở đó hai ngày. Hai ngày giảng, hai ngày chữa bệnh. Cả làng rộn lên niềm vui, xóa tan thành kiến Do Thái và Samari. Và con tin chắc rằng Thầy giảng ở đâu, thì người phụ nữ ấy cũng có mặt. Chẳng ai dám khinh dể chị ấy nữa, vì chị là người có công đầu trong việc rao giảng Tin Mừng ở Xykha và toàn cõi xứ Samari.
- Thầy tiên báo một mùa gặt bội thu : “Thầy bảo anh em: Hãy ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng, đang chờ ngày thu hoạch...". Quả vậy, khi Thầy đã về cùng Chúa Cha, thì Tin Mừng đã nở rộ ở Samari. Trong khi Saolô bắt bớ con cái của Thầy ở Samari, thì nhiều người ở Giêrusalem và xứ Giuđê vội vàng trốn lên Samari. Số người theo đạo càng ngày càng đông. Saolô không dám đặt chân đến đây để bắt bớ. Giáo hội Samari cứ lớn lên mãi. Bình an vô sự. Tuyệt vời !
Chị Samari mến.
(Tôi không biết tên của chị nên cứ tạm gọi như thế). Chị là hạt giống Tin Mừng đầu tiên Thầy gieo xuống cánh đồng Samari. Sáu năm sau hạt giống ấy đã trở thành một cánh đồng lúa chín vàng. Chắc chắn chị là một thừa sai vĩ đại . Nghĩ lại cuộc đời của mình chắc chị buồn cười lắm. Đanh đá, chanh chua, đỏng đảnh là thế mà bấy giờ thì... Tất cả chỉ nhờ Thầy mà thôi.
Ông Nicôđêmô, một người trí thức có địa vị và có thiện chí. Ông len lén đến gặp Thầy vào một PiôHậu 261
Ông Nicôđêmô, một người trí thức có địa vị và có thiện chí. Ông len lén đến gặp Thầy vào một buổi tối.
Lần đầu tiên con được thấy Thầy ngồi tâm sự rỉ rả với một người trí thức. Từ ngoài nhìn vô, người ta tưởng đó là một đôi bạn tri kỷ, hiểu thấu được tâm tư của nhau. Ai ngờ... ông chẳng hiểu gì hết, khiến Thầy phải thở dài thất vọng : “Ông là bậc thầy trong dân Ítraen mà không hiểu những điều ấy sao?”
Con coi đây là một sự kiện, sự kiện Nicôđêmô. Sự kiện này làm con sửng sốt bỡ ngỡ và bắt con phải suy nghĩ mông lung.
1- Chắc hẳn Nicôđêmô phải thuộc lòng bộ Cựu Ước. Và chắc chắn ông cũng trung thành với luật Môsê một cách tỉ mỉ, vì ông là người đáng kính và là bậc thầy của dân gian. Cựu Ước là con đường dẫn tới Thầy. Nicôđêmô là hướng dẫn viên đưa dân Do Thái đến với Thầy. Thế mà khi gặp Thầy và nghe Thầy thuyết giáo về ơn tái sinh, ông lại tỏ ra ngớ ngẩn đến độ buồn cười : "Không lẽ một người đã già rồi mà phải chui vào lòng mẹ để được tái sinh ư ?". Ông đã ngớ ngẩn như thế. Các kinh sư, các Pharixêu khác cũng ngớ ngẩn như thế và hơn thế. Tại sao vậy ?
- Vì họ tưởng rằng Cựu Ước là chân lý trọn vẹn. Đâu phải vậy. Chân lý chỉ được mạc khải trọn vẹn trong một mình Thầy mà thôi.
- Chẳng ai biết được Chúa Cha, trừ ra Chúa Con và những người được Chúa Con mạc khải cho. Thế nhưng họ lại tưởng rằng Môsê và các Sứ ngôn cũng được ơn mạc khải ấy .
- Họ tin vào truyền thống của cha ông để lại. Những giá trị của truyền thống chỉ là tương đối mà họ cứ tưởng là tuyệt đối .
- Họ tưởng họ có chân lý tuyệt đối, mà thực ra nó chỉ là tương đối và thay đổi theo không gian và thời gian.
- Cựu ước và Thầy khác xa nhau vời vợi, thậm chí có khi còn nghịch nhau nữa. Thánh vịnh 101 đòi tiêu diệt bọn làm ác không sót một tên. Còn Thầy thì đi tìm con chiên lạc, vác lên vai đem về chuồng, lại còn mời láng giềng đến chung vui (Lc 15). Thánh vịnh 3 và 11 xin Chúa đánh vỡ mặt, đánh gẫy răng, xẻo môi và cắt lưỡi kẻ thù. Còn Thầy thì dạy phải cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù. Môsê truyền ném đá người ngoại tình. Còn Thầy thì thách thức : “Ai trong các ông vô tội, thì lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7).
Thầy kính mến .
Thấy Nicôđêmô, một đứa con ưu tú được đào tạo bởi nền đạo đức Cựu Ước con thấy lo âu quá. Khi đọc Cựu Ước, đặc biệt là Thánh Vịnh, con không dám thả hồn theo tư tưởng đang đọc. Con thận trọng bước đi. Vừa đi vừa phát giác những điểm dị đồng với Thầy. Thành thật mà nói đọc Thánh Vịnh, con cảm thấy mình như người đi tìm vàng trên mảnh đất có gài mìn. Sợ quá! Những tư tưởng như "nhờ danh Chúa, tôi sẽ trừ diệt chúng", nếu không được thanh tẩy trong Tin Mừng, thì có thể dẫn đến “khủng bố”
2- Nicôđêmô, một thủ lãnh trong Do Thái giáo, mà không dám công khai đến gặp Thầy. Ông phải lén lút đến với Thầy trong bóng đêm. Tại sao?
- Ông sợ mất quyền lợi. Quyền thì cao, lợi thì lớn. Tất cả đều được xây dựng và củng cố bởi cơ chế Do Thái giáo. Cơ chế ấy nghiệt ngã vô cùng. Nó loại trừ để củng cố. Vạ tuyệt thông là cao điểm của đường lối mục vụ “loại trừ để củng cố” ấy. Người thu thuế bị loại trừ, thì giữ được lợi. Còn ông mà bị loại trừ thì quyền và lợi bay theo mây khói. Ôi, quyền và lợi ! Đáng sợ vô cùng!
- Ông không muốn theo Thầy, vì ông đã có thầy là Môsê. Luật Môsê đã un đúc nên con người của ông. Ông nghĩ rằng ông đang đi trên chính lộ, ông đang có chân lý : không nên đổi mới; không thể đổi mới. Những người tin rằng mình đã có chân lý, thì khó mà "có" được Thầy là CHÂN LÝ vĩnh cữu.
- Ông chỉ mới mến Thầy, chứ chưa yêu. ông mới chỉ tin Thầy là một tôn sư được Thiên Chúa sai đến, chứ chưa biết Thầy là Thiên-chúa-làm-người. Ông chỉ mới thấy việc kỳ diệu Thầy đã thực hiện, chứ chưa nghe và thấm lời giáo huấn của Thầy. Lời của Thầy mới là sự sống.
3- Dù Nicôđêmô không bỏ mọi sự mà theo Thầy, nhưng ông vẫn âm thầm bênh vực Thầy khi có thể. Ông dùng luật Môsê để chống lại những người kết án Thầy mà không theo Luật (Ga 7,50). Ông là người của Thầy âm thầm sống trong nội bộ những người chống Thầy. Người có thiện chí, thiện tâm thì ở trong cơ chế nào, cũng là môn đệ của Thầy.
Thầy kính mến.
Trong thời đại của chúng con, con vẫn thấy Nicôđêmô hiện diện ở khắp mọi nơi. Trong những lúc chúng con gặp khó khăn nhất trong sứ mạng loan Tin Mừng, thì ở ngay trong tổ chức "thế gian", con vẫn thấy "Ông Nicôđêmô". Rất lặng lẽ. Rất âm thầm. Nhưng rất tích cực che mưa che nắng để hạt giống nảy mầm và lớn lên.
4- Nicôđêmô không còn sợ hãi nữa. Ông đã mang đến một trăm cân mộc dược, trộn với lô hội, để tẩm liệm xác của Thầy. Ông công khai đứng về phía Thầy, chấp nhận mọi mất mát vì :
- Ông thấy rõ mọi âm mưu đen tối và bẩn thỉu của Thượng Tế và Công Nghị. Lố bịch quá !
- Ông thương cảm cái chết oan khiên và đau đớn quá đỗi của Thầy. Chịu không nổi !
- Lương tâm ngay thẳng của một người trí thức chân chính không cho phép ông sang hèn hơn nữa. Ông phải đến với Thầy trong giờ phút này để tạ tội vì đã hơi hèn.
Thầy kính mến.
Chết là cái giá cao nhất mà một người truyền giáo phải trả. Chính Thầy đã tâm sự như thế với ông Nicôđêmô trong buổi tối hôm ấy : "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời". (Ga 3,14- 15).
Hôm ấy Nicôđêmô không hiểu. Bây giờ ông mới thấm. Thầy đã chết cho mọi người và cho riêng ông ấy.
Gioan kể chuyện Thầy đi ăn cưới. Chuyện kể buồn cười quá. Đám cưới mà chả thấy cô dâu PiôHậu 262
Gioan kể chuyện Thầy đi ăn cưới. Chuyện kể buồn cười quá. Đám cưới mà chả thấy cô dâu đâu. Chú rể thì chỉ thấy thoáng một cái, rồi biến mất dạng. Khách mời thì đông như kiến cỏ, thế mà chẳng thấy mặt người nào. Con chỉ thấy Thầy, Mẹ và sáu chum rượu đầy ắp.
1 – CON CHỈ THẤY THẦY
Nếu tài liệu “Khăn Liệm ở Torino” có giá trị lịch sử, thì Thầy cao lm80 và chắc chắn phải cân nặng chừng 80 kílô. Người đàn ông 30 tuổi, cao lm80, nặng chừng 80 kílô : Tuyệt vời!
Khi từ Nadarét về Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, thì Thầy chỉ là một anh thợ mộc to khoẻ. Bây giờ từ miền Nam trở về Cana dự tiệc cưới, thì Thầy đã nghiễm nhiên là một sư phụ oai phong lẫm liệt. Có năm đệ tử tháp tùng.
Đàn ông lưng dài, vai rộng, 30 tuổi mà vẫn sống độc thân. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để thu hút dư luận quần chúng rồi.
+ Các cụ già thì coi tướng Thầy và tấm tắc khen ngợi, ngẫm nghĩ và phỏng đoán tương lai của Thầy giống như Saun thời sứ ngôn Samuel. Saun cao hơn toàn dân một cái đầu, được chọn làm ông vua đầu tiên của lịch sử Do Thái. Càng ngẫm càng mừng cho dân tộc.
+ Đàn ông, con trai thì ngưỡng mộ Thầy như Êlisa lẽo đẽo theo sứ ngôn Êlia. Họ đánh giá Thầy là một nazir, người của Chúa. Cách đi đứng và ăn nói của Thầy không phải là của người phàm. Có một cái gì đó cao quý lắm, thánh thiện lắm.
+ Đàn bà, con gái thì mê Thầy như điếu đổ. Thương lắm, thích lắm, nhưng không dám buông lời tán tỉnh. Chỉ dám mơ ước xa xôi. Các bà, các cô say mê chiêm ngưỡng dung nhan Thầy, quên bẵng cô dâu chú rể.
2- CON CHỈ THẤY MẸ
Lúc ấy Mẹ chừng 48 tuổi, nhưng ai cũng bảo là chưa tới 40. Đúng vậy. Mẹ trẻ hơn tuổi vì nhiều lý do: Mẹ chỉ sinh đẻ một lần. Tâm hồn của Mẹ lúc nào cũng an vui hạnh phúc. Lòng tin yêu và phú thác của Mẹ cao vời vợi, sâu thăm thẳm, rộng mênh mông. Nó bão hoà mọi thống khổ. Nó lan toả qua mọi người. Dường như có một nụ cười thầm kín luôn luôn đọng trong ánh mắt và trên khoé môi của Mẹ. Mẹ quan tâm tới mọi người và mọi việc. Mẹ ghé qua chỗ đàn ông mổ bò, mổ cừu; Mẹ nói chuyện vài câu với đám đàn bà nhồi bột, nướng bánh. Mẹ rảo qua các bàn tiệc để chiếu cố khách mời...
Con đoán mò là Mẹ cao chừng lm73, vì Thầy cao lm80 mà đàn bà thì vẫn thấp hơn đàn ông bảy phân. Vả lại Thầy không có cha ruột, nên chỉ giống Mẹ. Mẹ cao, thì con cao. Con cao chừng ấy, thì Mẹ phải cao như vậy. Đó là lẽ thường của khoa sinh học.
Con chẳng biết Mẹ có đẹp hay không, nhưng cái vóc dáng cao cao ấy là vóc dáng của hoa hậu ngày nay. Nhưng con khẳng định rằng đức tin cao cả của Mẹ được phát tiết ra ngoài qua ánh mắt, qua nụ cười, qua giọng nói... đã chinh phục được mọi người thuộc mọi lứa tuổi. Cái dáng dấp cao cao ấy lướt qua tới đâu, thì niềm vui lan toả tới đó.
Mẹ là người "sống cho", quên mình để lo cho người khác. Mọi người đang vui và niềm vui đang ngon trớn, thì... bỗng Mẹ tỏ vẻ âu lo. Nhà đám sắp hết rượu. Đám cưới đang dở dang mà hết rượu thì người tổ chức mất mặt, gia đình hai họ xấu hổ, cô dâu chú rể hờn dỗi và sợ đó là điềm gở...
Ngày nay cần bao nhiêu rượu thì chúng con ra tiệm là giải quyết xong ngay. Nhưng thời ấy ở quê hương Thầy thì rượu nho cho một đám cưới phải chuẩn bị trước cả năm trời, phải mua đủ số lượng nho trái vào mùa thu hoạch. Hết rượu vào lúc này là phải bó tay. Mẹ hiểu rằng chỉ có phép lạ mới cứu vớt được. Vì thế Mẹ phải đến xin Thầy ra tay cứu vớt Nhưng ... mặt Thầy lạnh như tiền, giọng nói của Thầy chắc nịch như đinh đóng cột: "Việc này không liên quan gì đến Mẹ và con hết. Vả lại thời giờ của con chưa điểm". Bế tắc. Không có lối ra. Không còn lối vào.
Mẹ có buồn, tủi và giận không? Không biết, vì Gioan không nói. Kín như bưng.
3- CON CHỈ THẤY SÁU CHUM RƯỢU ĐẦY ẮP.
Mẹ xin Thầy thực hiện phép lạ để cứu khổ gia đình nhà đám. Thầy từ chối quyết liệt. Nhưng sau đó Thầy lại không nỡ tâm thấy người ta khổ, không nỡ tâm thấy Mẹ khổ. Thầy đồng ý làm phép lạ, phép lạ đầu tay. Thầy biến sáu chum nước lã thành sáu chum rượu ngon. Con ước tính là 600 lít. Hào phóng vô cùng!
Thưa Thầy, sau phép lạ hoá nước thành rượu này, con có đôi lời muốn ngỏ riêng cùng Mẹ.
Mẹ thương mến.
Con theo dõi công việc của Mẹ trong vụ hoá nước thành rượu tại tiệc cưới Cana, con có hai suy nghĩ.
a- Thầy của con đã khẳng định là không làm phép lạ. Nhưng Mẹ đã vận động cách nào để Người đổi ý ? Con nghĩ mãi mà không có giải đáp. Con chỉ biết chắc rằng Mẹ là Mẹ trên tuyệt vời. Mẹ lật thế cờ 180 độ, từ tuyệt vọng sang thành công tuyệt vời. Con ví von rằng: "Thầy của con đã đóng cổng, khoá bằng hai ổ khoá to đùng, cứng ngắc; thế mà Mẹ cạy được. Cánh cửa mở toang. Tại sao? Bí mật vẫn còn đó. Cái tuyệt vời vẫn còn đó".
b- Mẹ là phụ nữ. Mọi phụ nữ đều ghét cay ghét đắng cảnh ăn nhậu và say xỉn của cánh đàn ông. Hễ có tiệc tùng là y như có say xỉn. Thế mà Mẹ lại vận động để có rượu và có tới 600 lít. Chum nào cũng đầy tới miệng.
Con suy nghĩ mãi mà không có đáp án. Nhưng con tin chắc rằng niềm vui thì chan chứa, niềm tin thì dâng cao vời vợi.
Riêng bản thân con thì cảm phục Mẹ quá chừng và xin tặng Mẹ danh hiệu “Người đàn bà lật thế cờ”.
Luca, Máccô và Mátthêu đều kể chuyện Thầy lên núi ăn chay và cầu nguyện 40 ngày, sau đó PiôHậu 263
Luca, Máccô và Mátthêu đều kể chuyện Thầy lên núi ăn chay và cầu nguyện 40 ngày, sau đó Satan xuất hiện... Các nhà dịch thuật và chú giải Thánh Kinh, các nhà thần học và các nhà tu đức đều nói rằng Satan cám dỗ Thầy. Từ cuộc cám dỗ này, chúng con tìm ra được những bài học sau đây :
1- Thầy là Con Thiên Chúa, nhưng lại có bản tính loài người nên vẫn bị cám dỗ, để chia sẻ thân phận yếu hèn với loài người.
2- Các chước cám dỗ của Satan đều quy về ba mục tiêu: danh, lợi và thú .
3- Thầy dùng lời Thánh Kinh để trả lời cho Satan. Nhờ Thánh Kinh mà Thầy đã thắng Satan. Thắng ba trận giòn giã. Do đó muốn vượt thắng mọi cám dỗ, thì phải yêu Thánh Kinh, đọc Thánh Kinh và sống Thánh Kinh.
Suốt 30 năm linh mục, con vẫn nghĩ là Thầy bị ma quỷ cám dỗ; các bài giảng của con về Chúa Nhật I Mùa Chay đều được soạn theo ba bài học trên. Cứ thế và cứ thế mãi cho tới một ngày kia..
Hôm ấy con đọc bài Tin Mừng này cùng với một người dự tòng. Người dự tòng ấy là một thiếu nữ cập kê . Hai cha con chia sẻ Lời Chúa với nhau.
- Nếu có ai đó bảo con quỳ gối, cúi mình, hôn chân người ta một cái, thì con sẽ được hưởng một ngàn cây vàng. Con chịu làm vậy không ?
- Không ! Nhục lắm !
- Nhưng nếu cha con bảo con hôn chân, thì đâu có nhục. Hôn chân cha, thì cha cho một ngàn cây vàng. Vừa không nhục, vừa lời lớn. Con chịu làm không ?
- Cũng không luôn ? Nếu cha con thương con, thì thiếu gì cách mà phải bắt con làm như vậy.
Con giật mình đánh thót một cái. Thì ra con bé 15 tuổi này cũng thắng cám dỗ một cách giòn giã như Thầy, mà nó chưa hề được nuôi dưỡng bằng Thánh Kinh. Như vậy chiến thắng của Thầy chẳng có gì là giòn giã như con vẫn nghĩ từ xưa đến đó . Vì thế con xin đặt lại vấn đề .
1- Satan không cám dỗ Thầy, vì cám dỗ là xúi người ta làm điều sai trái. Nếu Thầy hoá đá thành bánh mà ăn, thì có gì là sai trái đâu.
2- Satan thăm dò, tìm hiểu xem Thầy có phải là Đấng Cứu Thế hay không ? Hắn sử dụng ba kế :
+ Kế một. Nếu Thầy hoá đá thành bánh thì hắn kết luận ngay: Thầy là Đấng Cứu Thế. Nhưng Thầy không làm, nên hắn phải bày kế hai.
+ Kế hai. Nếu Thầy quỳ xuống lạy hắn, hắn sẽ kết luận ngay : Thầy chỉ là người phàm. Thầy không thèm quỳ lạy nó. Thế là nó vẫn phải tiếp tục thăm dò.
+ Kế ba. Nếu Thầy nhảy xuống từ nóc đền thờ, hắn sẽ phát giác ra Thầy chính là Đấng Cứu Thế. Thầy không nhảy xuống. Hắn đành chịu thua. Chờ một dịp khác thuận lợi hơn. Nghĩa là hắn chưa biết Thầy là Đấng Cứu Thế.
3- Hắn phải chờ mãi cho tới ngày Thầy chữa một người bị quỷ nhập tại nguyện đường Caphácnaum, hắn mới biết chắc Thầy là ai : “Ông Giê su Nadarét, chuyện chúng tôi có can gì đến ông đâu mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”(Mc 1,24).
Thầy kính mến.
Nếu phải chờ cho đến hôm ấy Satan mới biết Thầy là Đấng Cứu Thế, thì con xin phép Thầy để con nói chuyện với hắn.
Satan ơi!
Người ta bảo rằng mi thông minh lắm, thông minh như thiên thần vậy. Vừa thông minh, vừa quỷ quyệt. Vì thế người ta sợ mi quá. Sợ mi cám dỗ. Sợ mi nhập. Nhưng ta nói thật với mi rằng: Mi chỉ là một thụ tạo tầm thường và ngu xuẩn có tầm cỡ.
1- Khi sứ thần Gáprien báo tin cho Đức Maria thụ thai Đấng Cứu Thế, thì mi ở đâu mà không biết ?
2- Đức Maria đến Ainkarim thăm bà Êlidabét. Hai chị em chuyện trò, tâm sự với nhau suốt ba tháng. Chắc chắn các ngài nói rất nhiều về Đấng Cứu Thế. Thế mà mi chả biết.
3- Khi Đấng Cứu Thế sinh ra ở Bêlem, thì sứ thần nói rõ với mục đồng rằng: "Này tôi báo cho anh em một tin vui trọng đại, đó là hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong thành của vua Đavít..." Sứ thần nói rõ như thế, mà mi thì điếc không nghe.
4- Khi Đức Maria dâng Con cho Chúa ở Giêrusalem, thì cụ già Simêon xin được bồng ẵm Bé và gọi Bé là "Ánh Sáng của muôn dân", mi không biết !
5- Khi Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu ở sông Giođan, thì có tiếng từ trời phán : "Đây là Con Ta yêu dấu...". Mi cũng không biết.
Phải thú thật rằng trước đây ta cũng sợ mi lắm. Nhưng bây giờ thì không. Ta không sợ mi một tí nào. Mi có nhớ không, khi Đức Giêsu sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, họ đã làm gì mi ? Họ nhân danh Đức Giêsu để trừ mi, mi chạy te te. Họ kể chuyện đó cho Đức Giêsu, Ngài bèn phán: "Thầy thấy Satan từ trời sa xuống như một lằn chớp" (Lc 10 17-18).
Thầy ơi ! Xin ban cho con quyền năng đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực của Satan (Lc 10,19).
Con vẫn nghĩ rằng Phaolô là nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo Hội. Lòng nhiệt thành truyền giáo PiôHậu 264
Con vẫn nghĩ rằng Phaolô là nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo Hội. Lòng nhiệt thành truyền giáo thì quá cao. Sự nghiệp truyền giáo thì quá dày. Nhưng từ hơn mười năm nay con lại nghĩ khác. Gioan Tẩy giả mới thật sự là nhà truyền giáo vĩ đại nhất. Thành tích truyền giáo của Ông thì không đáng kể, nhưng phẩm chất thừa sai của ông thì tuyệt vời.
1- Con thấy Thầy là bản gốc, còn Gioan Tẩy giả là bản photocopy. Thầy rất nghiêm khắc đối với lãnh đạo Do Thái giáo và rất bao dung đối với người tội lỗi. Gioan Tẩy giả cũng y như vậy. Bọn thu thuế và gái giang hồ ùn ùn đến vớnn Gioan Tẩy giả để xin sám hối trong dòng nước sông Giođan. Sau này, đám người này cũng tuôn đến với Thầy như nước triều dâng.
2- Uy tín của Gioan đang lên như diều, bỗng ông tự cắt dây cho diều rơi xuống. Ông tự xoá bản thân để nhường chỗ cho Thầy.
+ Người ta bảo ông ấy là Đấng Cứu Thế. ông chối phắt, chối mãi (Ga l,19-34). Ông chỉ nhận mình là người đến trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế mà thôi.
+ Người ta than phiền với ông là quần chúng bỏ ông mà theo Thầy hết rồi. Gioan không buồn mà còn sung sướng trả lời: "Bây giờ niềm vui của tôi mới được trọn vẹn. Ấy là Người thì phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ đi" (Ga 3,29-30).
+ Ông đã tự nguyện chui vào bóng tối. Ông chỉ mong muốn đệ tử của ông quên ông mà theo Thầy.
+ Ông âm thầm ngồi trong nhà tù, sung sướng nghe tin Thầy nổi lên như cồn.
Qua thân thế và sự nghiệp của Gioan, con nghiệm ra rằng trong suốt dòng lịch sử 20 thế kỷ: khi Giáo Hội nhỏ đi, thì Thầy lớn lên; khi Giáo Hội lớn lên, thì Thầy nhỏ đi. Có những lúc người ta chỉ rao giảng Giáo Hội, lấy Giáo Hội làm trung tâm của công tác loan báo (Ecclésiocentrique). Giật mình đánh thót một cái, người ta mới thấy rằng Thầy mới là trung tâm của việc rao giảng (Christocentrique). Trễ mất mấy trăm năm rồi !
+ Gioan dâng hiến hết uy tín, danh dự và sự nghiệp cho Thầy. Thậm chí đến lúc chết, cũng không được chết công khai trên pháp trường, trước hàng ngàn người ái mộ, như Phêrôlô, như Inhaxiô Giám mục Antiôkia…Lính vào ngục chặt đầu ông như thằng đánh lén. Đầu của ông không được người ái mộ ôm về chôn, mà bị trao cho con đàn bà ác đức vày vò . Đau quá ! Nhục quá ! Nhưng phải như thế Gioan mới được mãn nguyện: "Bây giờ niềm vui của tôi mới được trọn vẹn.Ấy là Người thì phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ đi".
3- "Đứng giữa các ông đã có một người mà các ông không biết. Người ấy đến sau tôi, nhưng tôi không đáng xách dép cho Người" (Ga l,26-27).
Thưa Thầy, câu nói trên đây của Gioan làm con suy nghĩ mông lung mãi. Suy nghĩ về nhiều vấn đề.
+ Gioan Tẩy giả là Sứ ngôn cao trọng nhất của Cựu Ước mà tự nhận mình là không đáng xách dép cho Thầy. Thế thì Môsê và các Sứ ngôn khác sẽ xứng đáng xách cái gì cho Thầy ? Con hình dung một đoàn người rất đông: Gioan Tẩy giả dẫn đầu; sau lưng là Môsê, Êlia, Isaia.. các Sứ ngôn lớn nhỏ, các tác giả Thánh Vịnh, các tác giả của Sử thư và Thi ca. Tất cả đều phủ phục trước mặt Thầy và cùng thưa rằng: "Thầy đến sau chúng tôi, nhưng cao trọng hơn chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều không đáng xách dép cho Thầy. Tất cả những bài giáo huấn chúng tôi viết để dạy dân được gọi là Cựu ước cũng không đáng xách dép cho các bài giáo huấn của Thầy. Chỉ một mình Thầy mới là Thầy, vì chỉ một mình Thầy mới là mặc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Chúng tôi phải nhỏ đi, còn Thầy thì phải lớn lên. Xin muôn thế hệ hãy quên chúng tôi đi, để chỉ còn thấy Thầy mà thôi".
+ Một ni sư ở Bạc Liêu đã tâm sự với con thế này: “Tôi không thể đọc Cựu ước. Mỗi lần đọc Cựu ước, tôi lại thấy buồn nôn”. Ni sư là học trò của Phật Thích Ca thì quả thật không tài nào chịu nổi trước cảnh Êlia ra lệnh giết hơn 400 sãi thần Baal trên núi Carmel. Cũng không thể cầm lòng được trước cảnh Gioxuê gieo thần tru trên Giêrikhô, tàn sát toàn bộ người và vật, kể cả thằng cu tí chưa phân biệt tay phải với tay trái. Ni sư rùng mình khi kể lại cho con nghe câu chuyện hai cô gái ông Lót phục rượu cho bố say mèm để thay nhau đến lấy giống...
Bởi vậy, trong cuộc đời truyền giáo của con, con thề sẽ không bao giờ tặng Cựu Ước cho lương dân. Con chỉ kể cho họ nghe về Thầy mà thôi. Cựu Ước là con đường mòn dẫn đến Thầy. Gặp Thầy rồi thì nên quên con đường ấy đi.
+ Hồi còn là "chú tiểu" ở trong nhà xứ, có lần con nghe hai cha già tâm sự với nhau rằng: “Đọc Psalmo (Thánh Vịnh) nhiều chỗ lấn cấn khó chịu quá: xẻo môi, cắt lưỡi, đánh bể mặt, đánh gẫy răng, chó liếm thây thù,... khổ quá”.
Cầu nguyện mà "khổ quá" như thế ư ? Tội nghiệp ! Mà đúng thế thật. Con đến một nhà dòng kia, khi đọc Thánh Vịnh, con thấy các thầy bỏ luôn những câu "khổ quá" ấy đi. Bỏ như thế có đúng luật hay không thì không biết. Nhưng lương tâm của họ không cho phép họ thả hồn vào những tư tưởng phi Phúc Âm như vậy. Có một số Thánh Vịnh, khi đọc con thấy giống như đang nhai miếng cơm ngon, bỗng "cốp": một hột sạn. Hoặc đang ăn tô phở thơm phưng phức, bỗng phơi ra một con ruồi. “Khổ quá!”
Năm ấy Thầy lên 12 tuổi. Thầy theo Mẹ và Thánh Cả Giuse về dự lễ Vượt Qua ở Thủ Ðô. Ði PiôHậu 265
Năm ấy Thầy lên 12 tuổi. Thầy theo Mẹ và Thánh Cả Giuse về dự lễ Vượt Qua ở Thủ Ðô. Ði bốn ngày, ở dự lễ tám ngày, về bốn ngày. Có sử gia phỏng đoán số người về Giêrusalem dự lễ Vượt Qua năm ấy là hơn một triệu. Tín đồ hành hương. Thương buôn đi bán hàng. Lạc đà, lừa, ngựa trùng trùng điệp điệp. Lòng sùng đạo của người Do Thái hừng hực như rừng cháy. Lễ hy sinh, lễ đền tội, lễ tạ ơn... khói bốc nghi ngút. Mỡ bò, chiên, dê chảy lai láng như máy ép dầu. Mùi beo béo, khen khét bao trùm hết toàn khu vực đền thờ. Tiền dâng cúng nhiều đến hãi hùng. Rổn rảng. Ðó là niềm tự hào của mọi tín đồ Do Thái giáo. Thầy biến mất trong khối quần chúng khổng lồ ấy. Thầy sung sướng ca Hallêluia. Thầy gào lên như điên cuồng để thoả mãn lòng yêu thương Chúa Cha.
Sau tám ngày, quần chúng ùn ùn ra về. Lại trùng trùng điệp điệp . Mẹ về. Thánh Cả Giuse về. Nhưng Thầy ở lại. Cha mẹ không biết. Không thấy Thầy, cha mẹ vẫn bình tâm, cứ đi và cứ thế mà đi. Ði mãi cho đến tối. Dựng lều và sum họp gia đình. Chừng đó mới tá hoả tam tinh. Tức tốc đi tìm. Tìm mãi không thấy. Ðành quay trở lại. Bốn bàn chân bước đi lãng đãng như mộng du, tưởng như linh hồn đã ra khỏi xác.
Sau ba ngày, thì gặp Thầy ở ngay trong đền thờ, ngồi ở giữa các tiến sĩ. Rõ ràng là không thất lạc. Rõ ràng là Thầy cố tình ở lại và... dường như cố tình không cho cha mẹ biết. Thấy Thầy, Mẹ khóc nhệu nhạo: "Con ơi ! Tại sao con để cha mẹ vất vả tìm con?" Thầy trả lời tỉnh queo, như vô tâm vô tình: "Cha mẹ đừng tìm con làm chi, vì con phải phục vụ công việc của Cha Con ở trên trời".
Chuyện kể của Luca, nhưng là ký ức của Mẹ. Con mượn ký ức của Mẹ để kể lại cho thính giả lương dân của con. Con giật mình, vì họ linh cảm rằng Thầy không mấy mặn mà với cha với mẹ. Ðồng bào của con theo đạo Hiếu, nên họ rất nhạy cảm trước hành vi của con cái đối với cha mẹ.
Dường như chính con cũng linh cảm như vậy :
1- Một lần kia Mẹ đi thăm Thầy. Có ai đó trình Thầy :
- Thưa Thầy, có Mẹ và anh chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.
- Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ? Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, thì là anh chị em tôi, là mẹ tôi.
2- Một lần khác nữa, khi có một phụ nữ thấy Thầy giảng hay quá, bèn la lên :
- Phúc thay mẹ nào đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm. - Ðúng ra phải nói: "Phúc thay kẻ lắng nghe và thi hành Lời Chúa".
Cả hai lần, dường như Thầy muốn lờ Mẹ đi. Chắc Mẹ tủi lắm. Thưa Thầy, tại sao Thầy không muốn nhắc đến Mẹ? Thật ra thì chẳng phải Thầy phớt lờ Mẹ . Nhưng Thầy đề cao Chúa Cha hơn Mẹ. Ý Cha thì phải thi hành trọn vẹn. Ðành phải thế thôi. Mẹ cũng chẳng vì thế mà buồn tủi. Trọn đời của Thầy, trọn đời của Mẹ, trọn đời của con, trọn đời của vũ trụ đều phải thực hiện ý của Chúa Cha... Và sau đó là Thầy lại vâng lời cha mẹ. Khi Thầy không còn ở trần gian nữa, Thầy ân cần gửi gắm Mẹ cho môn đệ thân tín (Ga 16,26-27). Như vậy thì Thầy đâu có vô tâm với Mẹ.
Thầy kính mến.
Câu chuyện Thầy đi lễ Vượt Qua ở Giêrusalem hồi mới 12 tuổi là một đề tài rất hấp dẫn để con trao đổi với anh em Tin Lành. Anh em Tin Lành của con tin rằng Mẹ đồng trinh khi sinh ra Thầy. Nhưng sau đó Mẹ ăn ở với Thánh Cả Giuse và sinh thêm được bốn trai và ít nhất là hai gái. Bốn người con trai ấy là Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon (Mc 6,3).
Con chia sẻ với những anh chị em Tin Lành như sau:
1- Giacôbê và Giôxê trong Mc 6,3 thì không biết là em ruột hay em bà con của Chúa. Nhưng theo Mc 15,40 thì hai ông này là con của một bà Maria khác mà Gioan gọi là chị của thân mẫu Chúa (Ga 19,25). Như vậy thì Giacôbê và Giôxê là anh em bạn dì của Chúa.
2- Ðức Maria chỉ có một người con duy nhất là Ðức Giêsu. Nếu Ngài còn có thêm bốn trai, hai gái nữa thì không thể hiểu được câu chuyện Maria đi lễ Vượt Qua với Thánh Giuse và Chúa Giêsu 12 tuổi. Tạm hiểu rằng lúc ấy Giacôbê 10 tuổi, Giôxê 8 tuổi, Giuđa 6 tuổi, Simon 4 tuổi, hai em gái thì một đứa 2 tuổi, một đứa mới sinh. Không lẽ một người mẹ lại nỡ tâm bỏ sáu đứa con nhỏ ở nhà để đưa một đứa con cả đi vắng hơn một nửa tháng. Mà luật thì không bắt buộc phụ nữ phải về Thủ Ðô dự lễ như nam giới. Do đó về mặt tâm lý xã hội phải hiểu rằng Maria chỉ có một đứa con duy nhất là Ðức Giêsu.
3- Ðể bổ sung cho câu chuyện trên của Luca, Gioan kể rằng: "Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình yêu dấu đứng bên cạnh, Ðức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người nói với môn đệ: "Ðây là mẹ của con". Kể từ đó môn đệ rước bà về nhà mình" (Ga 19,26-27)
Theo luật pháp và tâm lý mà nói, nếu Maria còn có nhiều con khác, thì Ðức Giêsu không thể trối mẹ cho đệ tử Gioan. Maria cũng không thể bỏ các con ruột, để ôm đồ về ở với người dưng.
Thưa Thầy, con chia sẻ với anh em Tin Lành như thế. Chúng con mỉm cười nhìn nhau, rất thân thương. Một người hỏi con:
- Bốn ngày vắng cha mẹ thì trẻ Giêsu ăn ở đâu, ngủ ở đâu ?
- Cậu bé 12 tuổi ngoan như thế, thông minh như thế, xinh trai như thế... thì cứ lẩn quẩn trong khu vực đền thờ vài tiếng đồng hồ, là có tư tế đến rước về nhà ngay. Dễ thương quá mà! Cưng chết bỏ!
Hang đá Bêlem đang hực lên mùi nước đái bò lừa, thì bỗng trở nên vĩ đại. Ngày nay cả nhân PiôHậu 266
Hang đá Bêlem đang hực lên mùi nước đái bò lừa, thì bỗng trở nên vĩ đại. Ngày nay cả nhân loại đều biết. Cụ già biết. Trẻ con biết. Nghệ sĩ và doanh gia ùn ùn hướng về đêm Noel. Ánh sáng, màu sắc và âm thanh đua nhau mừng Noel. Nhưng trên hết và trước nhất của đêm Noel vẫn là hang đá Bêlem.
Trong hang đá có bé xinh xinh nằm một mình trong máng cỏ. Đó là Thầy. Mẹ và Thánh Cả Giuse quỳ hai bên, rất trầm tư. Một con bò, một con lừa và trăm con trừu nằm rải rác. Người ngoại đến coi, thấy hay hay, dễ thương, chụp một tấm hình làm kỷ niệm. Người đạo đến cầu nguyện, ngộ ra đây là logo của nhân đức khó nghèo, một bài học để đời cho muôn người.
Thầy kính mến.
Con vẫn làm hang đá mừng ngày sinh nhật của Thầy. Người ngoại cũng thích mời con đứng trước hang đá để chụp hình. Con thấy vui vui. Là người đạo, con cũng thích đến đây để cầu nguyện.
Đứng trước hang đá Bêlem,con chỉ thấy "Chú Bé “ là Ngôi Lời Nhập Thể, là Thiên Chúa làm người. Trong văn hoá Đông, Tây, Kim, Cổ ai cũng bảo Thượng Đế là Đấng Cao Cả, ngự trên chín tầng trời mây. Khi chìm ngập trong chuỗi đời đầy gian khổ, người ta lại oán Ông Trời và gọi Ông là "Con Tạo đa đoan", là "Trẻ Tạo đành hanh quá ngán", rồi chê ông là "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"...
Nhưng ở đây, Đấng Cao Cả ấy lại rất gần, rất thân thương. Chúa hoá thân làm người, vì yêu thương loài người quá đỗi. Chúa không phải là Con Tạo đa đoan, không phải là Trẻ Tạo đành hanh và không hề là Trời Xanh quen thói đánh ghen. Thiên Chúa yêu. Thiên Chúa là tình yêu. Lý trí không hiểu được điều này. Nhưng con tim lại cảm được, nên nó sung sướng vô cùng !
Thầy là Trời. Thầy là Người. Trời nằm trong hang đá, biến hang đá thành bầu trời... Lịch sử loài ng ười sang trang. Tương quan Thiên - Nhân - Địa thay đổi. Đổi 180 độ.
Ý niệm về ông Trời và con người bây giờ cứ xoắn lấy nhau đến độ yêu Trời và yêu người không thể tách rời ra được . Gioan bảo rằng: Yêu Trời mà không yêu người thì chỉ là nói dóc.
Thưa Thầy, Thầy có thể sinh ra trong gia đình giàu có , vì người giàu cũng là người và cũng được Thầy yêu thương. Làm người giàu, Thầy sẽ ban phát nhiều của cải cho người nghèo. Tuyệt ! Nhưng Thầy lại sinh trong hang đá thiếu thốn trăm chiều, vì :
1- Người nghèo bao giờ cũng vẫn đông hơn người giàu. Vào đầu thế kỷ 21 này, người nghèo vẫn chiếm ba phần tư dân số thế giới.
2- Thầy sinh ra nghèo NHƯ người nghèo và nghèo VỚI người nghèo, để nâng người nghèo lên ngang tầm cỡ với Thầy. Yêu người nghèo là yêu Thầy. Khinh dể người nghèo là khinh dể chính Thầy. Hang đá Bêlem là huy chương Thầy gắn trên ngực người nghèo.
Thầy kính mến.
Con đã viếng hang đá biết bao nhiêu lần. Con cũng đã lần biết bao chuỗi hạt Mân Côi. Cứ mỗi lần đưa hồn mình đến hang đá Bêlem, con lại "xin cho được lòng khó khăn". Mỗi năm có một mùa Giáng Sinh. Mỗi tuần có hai ngày suy gẫm "Mùa Vui", nghĩa là hai lần / một tuần con đặt mình trước hang đá Bêlem. Như vậy con đã “xin cho được lòng khó khăn” không dưới sáu ngàn lần.
Bây giờ thì con không còn xin như thế nữa, vì con không thấy Thầy nghèo như người ta nói. Người ta bảo rằng: "Chúa nghèo đến mức độ: sinh vô gia cư, tử vô địa táng; một hòn đá để gối đầu cũng không có". Thật không ? Con nghĩ là không.
1- Thầy sinh trong hang đá thiếu thốn mọi điều không ph ải vì nghèo, mà vì lỡ đường. Thánh Cả Giuse là thợ mộc, thì phải có một căn nhà ấm cúng. Căn nhà ấy ở Nadarét cách xa Bêlem 152 cây số.
2- Thầy chết ở Giêrusalem nên không có một tấc đất để làm mộ . Nhưng lại được chôn cất trong ngôi mộ của ông Giuse giàu sang (Mt 27,57-60). Cuộc mai táng của Thầy chẳng giống người nghèo một tí nào. Ông Nicôđêmô đã dùng 100 cân (32 kg) mộc dược, trộn với dầu thơm để tẩm liệm xác Thầy (Ga 19,39). “Tử vô địa táng” mà như vậy thì là nghèo sao được.
Con xác tín rằng: gia đình Nadarét của Thầy không nghèo và ba năm truyền đạo Thầy cũng chẳng thiếu gì.
1- Gia đình Nadarét không nghèo, vì không hề có những nguyên nhân nghèo sau đây:
+ Mất sức lao động.
+ Lười biếng.
+ Ăn xài vung vít.
+ Cờ bạc, rượu chè.
+ Gia đình đông con quá.
2- Ba năm truyền đạo Thầy không hề thiếu thốn:
+ Thầy mặc áo đẹp và quý (Ga 19,23).
+ Những mạnh thường quân giúp Thầy thì nhiều quá: Bà Gioanna vợ ông Khugia quản lý của vua Hêrôđê (Lc 8,3); gia đình Bêtania; bà Maria mẹ của Máccô.
Thầy không có nhà, nhưng mượn căn lầu rộng rãi để ăn lễ Vượt Qua (Lc 22,12).
+ Chính các môn đệ của Thầy lên đường tay trắng mà vẫn không thiếu thốn gì (Lc 22,35).
3 - Nhưng chắc chắn một điều là Thầy cảnh giác tiền bạc đến độ cường điệu tối đa:
+ Người giàu vào nước thiên đàng khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim (Lc 18,25).
+ Người giàu mà không giúp người nghèo là người ngốc (Lc 12,20), và còn thua con chó (Lc 16,19-21).
Rõ ràng là Thầy thương người nghèo, chúc lành cho người nghèo, dạy con phải yêu người nghèo và cảnh giác cao độ về tiền bạc. Nhưng không muốn con phải sống thiếu thốn .
Mẹ con kể chuyện cho con nghe. Con được sanh ra trong căn nhà thân thương của bố mẹ. Bác PiôHậu 267
Mẹ con kể chuyện cho con nghe. Con được sanh ra trong căn nhà thân thương của bố mẹ. Bác gái của con là bà mụ đến đỡ đẻ cho mẹ con. Bác săn sóc mẹ con, trìu mến như một người chị hiền. Bố con ngồi chồ m hổm, trầm tư và ngông ngóng chờ bà đỡ sai vặt. Hai chị của con cũng trầm tư và ngông ngóng chờ lệnh của bố con. Nghèo lắm, nhưng ấm cúng và thân thương quá chừng ! Con khóc oa oa. Chẳng biết gì. Nhưng bây giờ mới thấy thế là sướng.
Bây giờ Luca kể cho con nghe về ngày sanh của Thầy. Thầy khóc chào đời trong hang bò lừa hôi hám, cách xa mái nhà thân thương Nadarét những một trăm năm mươi hai cây số. Không bác sĩ, không y tá, không một cô mụ vườn, không bà nội, không bà ngoại, không một người thân thương.
Lúc ấy Thầy còn bé tí, nên chưa biết gì. Chưa biết gì, nên không thấy khổ. Mà có biết, thì cũng chẳng thấy khổ, vì có Mẹ. Nhưng con tội nghiệp cho Mẹ. Mới mười mấy tuổ i đời mà phải sanh con đầu lòng trong cảnh túng thiếu và cô đơn đến tận cùng như thế. Nếu con là Mẹ, con sẽ gào lên:
"Bớ ông sứ thần Gáprien ơi ! Ông bảo :
Con tôi sẽ ngồi trên ngai vua Đa vít,
Sẽ cai trị nhà Giacóp cho đến muôn đời.
Vậy mà bây giờ con tôi phải nằm trong máng cỏ, hèn hạ còn hơn con thú... Tôi khổ bao nhiêu cũng được. Nhưng còn con tôi... Hu... Hu... Con ơi là con..."
Nhưng Mẹ không phải là người phàm như con. Người không la, không khóc, không uất hận. Người trầm tư. Có lẽ Người cũng không ngờ sự thể là như thế. Nhưng Mẹ khôn lắm. Mẹ cứ ghi khắc trong lòng để suy đi nghĩ lại xem bàn tay Chúa quan phòng sẽ dìu dắt Mẹ đi tới đâu. Mẹ giống như con gà con có linh hồn biết chui vào dưới cánh gà mẹ, để trốn dông gió và để thưởng thức hơi ấm của mẹ gà. Còn bé mà đã khôn thế. Hoan hô Mẹ, Mẹ tuyệt vời !
Con lại thương cảm Thánh Cả Giuse. Là một người đàn ông, là chồng của một ng ười đàn bà vĩ đại, mà không tìm được một chỗ xứng đáng cho Đấng Cứu Thế ra chào đời. Mặc cảm đầy mình. Ân hận vô cùng. Chuyện lớn không làm được thì chớ, chuyện nhỏ cũng không làm được, vì không được làm. Ấy là bộ đồ dính máu củ a Mẹ đã bị mắc uế theo lu ật của Môsê. Ai muốn giặt giùm cũng không dám. Ai dám thì cũng mắc uế. Mắc uế tức là có tội. Và Thánh Giuse đã không dám... Mặc cảm vô dụng lại tăng lên. Tội nghiệp quá chừng !
Càng tội nghiệp Thánh Cả Giuse chừng nào, con lại càng bất bình với luật Môsê chừng nấy. Sanh con có chảy máu là chuyện thường, tại sao lại bảo là mắc uế. Luật ấy làm khổ Thánh Cả và làm nhục Mẹ của con. Con hận luật Môsê. Con ghét luật Môsê. Luật kỳ cục như thế mà suốt 13 thế kỷ chẳng ai dám hó hé phê bình. Lại còn gọi nó là thánh. Ngàn ng ười như một. Vạn người như một. Phải chờ mãi đến thờ i Công Vụ Tông Đồ mới thấy có một người dám nói huỵch toẹt ra. Người ấy là thánh Phêrô.
Tại Công Đồng Giêrusalem, để trả lời cho bọn bảo thủ cứ đòi bắt Kitô hữu phải giữ luật Môsê, thánh Phêrô đã thẳng thừng tuyên bố: "Tại sao anh em lại thử thách Thiên Chúa mà quàng vào cổ các môn đệ cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta vác không nổi (Cv 15,l0). Không biết vì tư tưởng của thánh Phêrô bạo quá, hay mạnh quá, mà "cả h ội trường nín khe" (Cv 15,12). May quá, nếu Thượng Tế mà biết chuyện này, thì thánh Phêrô đã bị vạ tuyệt thông rồi.
Thầy kính mến.
Có người hỏi con rằng: gia đình thánh của Thầy tạm trú ở hang đá Bêlem bao lâu ? Khi ba hiền sĩ phương Đông đến gặp Thầy, thì Thầy đang ở đâu ? Con chẳng biết Thầy tạm trú trong hang đá bao lâu. Nhưng con xác tín rằng ngày thứ tám là ngày Thầy được đặt tên và cắt bì, thì Thầy đã có mặt ở nhà Dì Êlidabét rồi. Chính Dượng Dacaria cắt bì cho Thầy. Gia đình thánh của Thầy cứ ở luôn đó cho tới ngày thứ 40 thì lên Đền Thờ Giêrusalem để Thầy được dâng cho Chúa Giavê theo luật của Môsê. Còn Mẹ thì được thanh tẩy, vì đã mắc uế khi sanh con.(Lại mắc uế nữa rồi! Lại lăng nhục Mẹ nữa rồi!).
Luca kể rằng : “ Sau khi thi hành xong mọi việc theo Luật Chúa, thì hai ông bà trở về Nadarét, xứ Galilê” (Lc 2,39). Lời kể của Luca, chính là hồi ức của Mẹ. Hơn một tháng trời ở Ainkarim, Mẹ và Dì lại được sống những ngày hạnh phúc vô cùng. Bây giờ chia tay. Ngậm ngùi khôn xiết.
Câu chuyện Luca kể chỉ có thế. Không hề nói đến việc ba Hiền Sĩ từ Đông Phương đến. Không đá động gì đến việc Hêrôđê tàn sát các hài nhi ở Bêlem. Cũng không đề cập đến chuyện Thầy trốn sang Ai Cập. N ếu bấy nhiêu chuyện là có thật, thì tất cả đều là những kỷ niệm in hằn trên màn ký ức của Mẹ. Mẹ sẽ kể lại cho Luca và Luca không thể bỏ qua.
Con hỏi nhiều giáo sư Thánh Kinh về vấn đề này, thì các vị ấy đều trả lời một cách dè dặt rằng : “ Mátthêu viết Tin Mừng với tư cách một nhà thần học, hơn là một sử gia”. Mátthêu viết Tin Mừng cho độc giả Do Thái. Thêm hay bớt một chút vào câu chuyện lịch sử, ông không lấy làm điều hệ trọng, miễn là độc giả của ông tin Thầy là Đấng Mêxia, mà Thánh Kinh đã tiên báo.
Quả thật Mátthêu kể nhiều chuyện không giống với Luca và Máccô: - Máccô và Luca bảo có một người quỷ ám ở Ghêraxa , thì Mátthêu bảo là có hai ( Lc 8,27; Mc 5,2 ; Mt 8,28). - Luca và Máccô bảo rằng khi ông Giairô đến gặp Thầy thì con gái ông sắp chết. Còn Mátthêu thì lại bảo là em bé vừa mới chết ( Lc 8,42;Mc 5,23;Mt 9,18).
- Luca bảo rằng hai tên đạo tặc cùng bị đóng đinh với Thầy, thì có một đứa ngạo Thầy, còn đứa kia thì bênh. Trong khi đó thì Mátthêu lại bảo rằng cả hai tên đều lăng nhục Thầy (Lc 23,39-43 ; Mt 27,44).
- Trình thuật ngôi sao lạ xuất hiện và dẫn ba Đạo Sĩ đến tôn thờ Thầy, Mátthêu đã sử dụng lối văn rất thần thoại. Ngôi sao ở cách trái đất hằng tỉ cây số mà nó lại dẫn đường y như một ngọn đèn cách xa trái đất vài trăm mét!
Con xin thưa riêng với Th ầy rằng con bán sát trình thuật của Luca. Còn trình thuật của Mátthêu nói về ba Hiền Sĩ, Hêrôđê tàn sát hài nhi Bêlem và Thầy trốn qua Aicập, thì con chỉ coi là chuyện hư cấu rất đẹp, rất vui và rất hữu ích cho độc giả Do Thái. Con thích nhưng con không suy niệm.
Hôm nay con nghe Mátthêu tường thuật một đoạn đời của Thánh Cả Giuse. Bứt rứt quá! Tức tối PiôHậu 268
Hôm nay con nghe Mátthêu tường thuật một đoạn đời của Thánh Cả Giuse. Bứt rứt quá! Tức tối quá! Nhưng thương quá là thương!
Xin Thầy cho phép con nhập vai một ký giả vô tư, để theo dõi, ghi nhận và bình luận nhân vật trong chuyện. Thánh Cả Giuse chỉ là anh chàng thợ mộc. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ.
1- Giuse, một anh chàng thợ mộc ngoan đạo hí hửng đi hỏi vợ. Vớ ngay được một cô gái tuyệt vời. Mừng quá! “Luật” bảo rằng sau lễ đính hôn thì đôi trẻ thành vợ chồng. Nhưng “lệ” lại bảo rằng phải chờ một năm nữa mới được rước dâu. Đành chờ đợi. Chờ chưa được bao lâu, thì cô dâu lại đi vắng. Cô đi về miền Nam xa tắp tít và ở lại đó tới ba tháng trời dài đằng đẵng. Giuse thương nhớ quá và ngông ngóng chờ đợi. Trong giấc mơ Giuse thấy Maria hiện ra như một nữ thánh: ngoan đạo quá hiền từ quá, duyên dáng quá, khôn khéo quá..., còn hơn cả Xudana trong sách Đanien nữa ! Thương quá đến... chịu không nổi.
Giuse đang vuốt ve cuộc đời của mình như thế, đang mỉm cười với tương lai rực rỡ như thế, thì...
2- Đùng một cái, cô Maria, một nữ thánh từ miền Nam trở về với cái bầu xuýt xoát bốn tháng. Cả làng đều biết.
Bà sui trai thì mừng lắm, vì chắc chắn trong dòng tộc của mình không vô phước rước về một cô dâu vô sinh. Thế nào bà cũng hí hửng rót vào tai bà sui gái một câu vừa khen vừa chê: “chúng nó ‘biết’ nhau hơi sớm đấy. Chỉ sai ‘lệ’ chứ không sai ‘luật’. Chúng mình sớm có cháu bồng”.
Hàng xóm láng giềng thì vô tư. Trước sau gì thì cũng có đám tiệc. Chỉ cầu mong cho thằng thợ mộc ngoan đạo có được con trai đầu lòng. Riêng Giuse thì điên cái đầu. Bối rối quá chừng ! Uất ức vô cùng ! Thà chết còn hơn. Anh bứt tóc giật râu cho rằng mình là người ngu dại phong thần phong thánh cho một con ‘đ. ngựa’. Anh nắm tay đấm mạnh vào vách tường và hét lên: "Nhân Danh Chúa tao diệt trừ mày..."; "Những thứ ấy tao đuổi cho khuất mắt". Anh mường tượng một trận ném đá sắp diễn ra trong xóm đạo. Maria quằn quại trên vũng máu, khóc thét lên như một người điên. Bỗng anh gục mặt xuống, rồi thảng thốt kêu lên: “Đừng! Đừng!”
Bản chất là con người hiền từ, bao dung, anh vẫn cảm thấy luật của Môsê là quá đáng. Anh chỉ thích tha thứ chứ không muốn trừng phạt. Vả lại anh vẫn tự thắc mắc: "Tại sao con Maria đã hư với người ta như thế mà nó lại dám vác mặt về làng, để chết nhục và chết đau? Đã lỡ thì tại sao không cho lỡ luôn? Thà đâm đầu xuống sông cho chết, hoặc đi làm bé người ta... còn hơn là về làng. Thế mà nó đã trở về, lại còn vui như sáo, đơn sơ như thiên thần. Hay là nó không hư? Nhưng không hư sao được? Rành rành ra đó".
Tố cáo Maria về tội ngoại tình, thì không nỡ. Nhận Maria làm vợ và cái thai vô danh kia làm con, thì tự ái chịu không nổi. Cuối cùng anh chịu ngậm đắng nuốt cay để cho Maria sanh con như một người vợ không vừa mắt chồng. Maria đáng chết thì ta cho sống. Còn ta đang sống mà như đã chết. Nhưng thôi, ta cứ chơi đẹp.
Thầy kính mến.
Con thấy tội nghiệp Thánh Cả Giuse quá. Ai đã tạo nên nông nỗi này? Tại Mẹ chăng? Không! Hoàn toàn không! Mầu nhiệm thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần này, Mẹ không thể ngỏ cùng ai, ngoại trừ Dì Êlidabét mà thôi. Vậy thì lỗi tại ai? Con điều tra và thấy người phạm lỗi là chính sứ thần Gáprien. Nếu sứ thần chịu khó quá bộ đến báo tin cho Thánh Cả Giuse, ngay sau khi báo tin cho Mẹ, thì câu chuyện Mẹ có bầu sẽ suôn sẻ biết mấy. Thương Thánh Cả Giuse bao nhiêu, thì con lại hận sứ thần Gáprien bấy nhiêu. Chờ cho đến khi Thánh Cả rầu thối ruột ra, bấy giờ sứ thần mới đến thanh minh cho Mẹ:
“Này Giuse con cháu vua Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về vì người con cô ấy cưu Maria là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Cô sẽ sanh con trai và anh phải đặt tên cho bé là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi...” Thánh Cả Giuse nghe tin này thì bàng hoàng đến thất thần. Mừng quá vì: Maria không hư tí nào. Trái lại đã trở thành người đàn bà vĩ đại nhất của lịch sứ. Mừng quá vì: Đấng Cứu Thế đã ra đời rồi. Hằng ngàn năm lịch sử chờ đợi; hằng tỉ người ngông ngóng, thì... bây giờ đã thực hiện.
Nhưng Thánh Cả lại cảm thấy xấu hổ quá, vì đã lỡ nghĩ quá xấu cho một người tuyệt vời như thế. Tội này đáng chết, vì là tội phạm thượng. Thánh Cả phải mang mặc cảm tội lỗi này cho đến chết. Đã một thời yêu quý Mẹ. Đã một lúc khinh dể và ghê tởm Mẹ. Bây giờ thì không còn dám yêu Mẹ như một người vợ, mà chỉ biết tôn sùng Mẹ như một Bà Hoàng cao sang.
Bây giờ con mới hiểu cái sơ sót của sứ thần Gáprien là một sơ sót cố tình, là một chiến thuật cao siêu có tầm cỡ chiến lược. Nhờ đó Mẹ được Thánh Cả Giuse đồng ý cho sống mới trọn đời đồng trinh. Mà chỉ cần phép thường, chứ không cần phép lạ. Giải quyết như thế là tuyệt vời. Bị hai cú sốc dồn dập, Thánh Cả đổi đời 180 độ.
Nhưng, thưa Thầy kính mến, con vẫn còn thắc mắc một điều chưa được giải đáp. Natan bảo rằng Đavít là tổ phụ của Thầy. Sứ thần Gáprien cũng bảo Thầy là con vua Đavít. Người người đều nói thế. Thậm chí người hành khất khiếm thị ở Giêrikhô cũng gọi Thầy là con vua Đavít.
Nhưng thực tế, thì cái vinh dự ấy của Đavít chỉ là ẢO. Nếu xét nghiệm ADN thì Thánh Cả Giuse là con cháu của Đavít. Còn Thầy thì không. Không một tí nào hết. Ôi cái hiểu truyền thống của 1000 năm! Trật lất! Nhưng tại sao? Con chờ ơn soi của Thầy.
Sau khi Mẹ nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế do quyền phép của Chúa Thánh Thần, thì Mẹ vội vã PiôHậu 269
Sau khi Mẹ nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế do quyền phép của Chúa Thánh Thần, thì Mẹ vội vã lên đường xuôi miền Nam để thăm Dì Êlidabét.
Người ta bảo rằng như sứ thần Gáprien báo tin Mẹ mới biết Dì Êlidabét được mang thai trong tuổi già. Mẹ vội vã đi là để thăm Dì và để hầu hạ Dì trong cảnh neo đơn.
Con thì nghĩ khác.
1- Tin Dượng Dacaria gặp thị kiến trong cung thánh, rồi bị câm là một tin động trời có tầm cỡ quốc gia. Mọi người Do Thái phải biết và bình luận tin này. Người biết trễ nhất cũng chỉ trong thời gian bốn tháng. Giêrusalem là nơi hành hương. Người Do Thái từ Bắc chí Nam, từ trong nước ra ngoài nước thường xuyên về đó để dâng lễ tạ ơn, lễ đền tội.
Cứ chừng bốn tháng lại có một lễ lớn: Lễ Vượt Qua rơi vào cuối tháng Ba hoặc đầu tháng Tư dương lịch; sau đó 50 ngày thì có Lễ Ngũ Tuần; cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 lại có Lễ Lều; tháng 12 thì có Lễ Cung Hiến Đền Thờ.
Người đi dự lễ thì trùng trùng điệp điệp. Người đi hành hương thì lai rai quanh năm suốt tháng. Tất cả họ đều là người thông tin và bình luận tin này tại mọi ngõ ngách của làng mạc và đô thị. Do đó Mẹ không phải chờ đến sáu tháng sau mới nghe được tin này.
2- Vấn đề son sẻ của Dì Êlidabét là niềm đau và nỗi nhục cho cả dòng họ. Khi được ơn mang thai, chính Dì đã phải tự nhủ lòng rằng: “chúa đã thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc l,25). Thoát cái nhục dai dẳng này rồi thì niềm vui của Dì phải bùng vỡ. Dì nhục, Dì mừng, thì dòng họ cũng phải nhục và mừng lây. Cả dòng họ nhà Thầy phải nhảy cỡn lên vì sung sướng. Cả dòng họ phải đua nhau báo tin này cho mọi người được biết. Con xác tín như vậy, vì đó là tính bùng vỡ của hiện tượng dồn nén.
3- Mẹ vội vã xuôi miền Nam không phải để chia vui với Dì. Đó là việc của người lớn. Mà Mẹ thì lúc ấy mới chỉ là con nít đang nứt mắt ra để chuẩn bị trưởng thành. Vả lại Mẹ là con gái, thì hẳng có quyền gì để làm đại diện cho gia tộc.
Vậy thì tại sao Mẹ vội vã ra đi (Lc l, 39) ? Và đi để làm gì?
Người suy niệm mầu nhiệm thứ hai trong Kinh Mân Côi bảo rằng vì Mẹ yêu người:
“Thứ Hai: Đức Bà đi viếng Bà Thánh Ixave:
Ta hãy xin cho được lòng yêu người”.
Con thú thật với Thầy là khi lần chuỗi Mân Côi, con không hề thấy Mẹ vì yêu người mà vội vã đi về miền Nam. Gia đình Dì Êlidabét không nghèo, vì Dượng là tư tế được toàn dân nuôi nấng cung phụng rất tương xứng. Mẹ vội vã đi vì nhu cầu tâm lý. Là phụ nữ, là thiếu nữ ở tuổi "teen", Mẹ không thể giữ kín trong lòng một tin mừng quá lớn lao như thế. Mẹ không thể chia sẻ tin mừng ấy với bất cứ người nào, trừ Dì Êlidabét.
Khi hai chị em gặp nhau, Mẹ nói ngay với Dì rằng: “Em sướng quá chị ạ. Hồn em như muốn nhảy lên. Em bé mọn như thế này, mà Chúa lại đoái thương ban diễm phúc... Để muôn đời phải khen ngợi...”
Còn Dì thì hết lòng kính trọng Mẹ. Dì là chị của Mẹ mà lại gọi Mẹ là Bà Nội: "Bởi đâu tôi được Mẹ của Chúa tôi đến thăm". Dì là người duy nhất hiểu Mẹ . Dì là nơi duy nhất để Mẹ giải toả niềm vui dồn nén. Thế là suốt ba tháng trời hai chị em tha hồ mà tâm sự với nhau về lịch sử cứu độ. Nói mãi cũng không hết. Nói ba tháng cũng chưa đủ...
Ba tháng sống ở nhà Dì Êlidabét là ba tháng hạnh phúc nhất của đời Mẹ. Ba tháng chỉ nghĩ về Chúa. Ba tháng chỉ nói chuyện về Chúa. Hai tâm hồn yêu nhau, trọng nhau và hiểu nhau như một cặp song sinh của Chúa Thánh Thần. Sướng ơi là sướng ! Sướng quá đi thôi ! Mẹ sướng quá, khiến con cũng sướng lây.
Thầy kính mến.
Luca kể rằng… Hay nói cách khác, Mẹ kể cho Luca rằng: Mẹ ở với Dì Êlidabét độ ba tháng, rồi trở về nhà (Lc 1,56). Con hiểu rằng Mẹ có mặt ở đấy khi Gioan khóc oa oa chào đời. Mẹ cũng có mặt ở đó khi Gioan được cắt bì và đặt tên. Chắc chắn Mẹ được chứng kiến cảnh Dượng Dacaria hết câm, rồi kể chuyện tía lia về sự nghiệp của Gioan:
"Con ơi ! Con là ngôn sứ của Đấng Tối Cao Con sẽ là người đi tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Con sẽ dạy cho dân biết Đấng Cứu Thế là Đấng tha tội..." (Lc l,76-77)
Thầy ơi ! Con thấy Dượng Dacaria là người duy nhất của thời Cựu ước nhận dạng chính xác về Đấng Cứu Thế. Trong khi người người đều nghĩ rằng Đấng Cứu Thế là một ông vua bách chiến bách thắng, nâng nước Do Thái lên hàng bá quyền, thì Dượng lại gọi Đấng Cứu Thế là Đấng tha tội. Bởi đâu? Phải chăng chín tháng câm nín đã giúp Dượng suy nghĩ đúng về sứ mạng của Thầy.
Dường như trong thử thách đau thương mà người ta đọc Lời Chúa thì hiểu ý Chúa rõ hơn. Và nếu thế thì Dượng Dacaria bị câm không phải là hình phạt của Chúa, mà là một hoàn cảnh tốt để Dượng cảm nghiệm được Chúa. Suy niệm Lời Chúa trong cơn thử thách là tuyệt vời?
Con đọc Tin Mừng. Luca kể chuyện về Mẹ. Nhưng con có cảm tưởng là chính Mẹ đang kể chuyện PiôHậu 270
Con đọc Tin Mừng. Luca kể chuyện về Mẹ. Nhưng con có cảm tưởng là chính Mẹ đang kể chuyện về đời mình.
Đức Maria là Mẹ của Thầy. Theo vai vế, thì con phải gọi Người là Bà Nội. Nhưng con không thích gọi như thế. Con cứ gọi Người là Mẹ. Gọi Người là Bà Nội thì đúng, nhưng không thấy thân thương. Gọi Người là Mẹ, con thấy ngòn ngọt ở đầu lưỡi, âm ấm ở trong tim. Vả lại Mẹ của Thầy cũng là Mẹ của con mà.
Đó là chuyện ngoài lề. Bây giờ con xin vào đề.
Sứ thần Gáprien đột ngột đến chào Mẹ: “Chào Cô đầy ơn phước. Chúa ở cùng Cô”. Tại sao không chào là "Sàlom, Maria" để Mẹ dễ dàng đáp lại là "Sàlom, Chú”? Cái lối chào dài thoòng và xa lạ ấy khiến Mẹ bối rối và sợ hãi. Tội nghiệp Mẹ!
Thấy Mẹ sợ, sứ thần vội vã an ủi: "Cô đừng sợ". Sau đó sứ thần tự giới thiệu mình là sứ giả của Thiên Chúa đến để báo một tin vui. Tin vui này được lịch sử Do Thái chờ đợi từ ít nhất là 1000 năm rồi. Đó là Đấng Cứu Thế sắp ra đời. Thiên Chúa chọn Mẹ làm Mẹ của Đấng Cứu Thế. Nghe tin vĩ đại ấy, lẽ ra Mẹ phải mừng lắm. Ai ngờ... Mẹ trợn tròn xoe đôi mắt, ngơ ngơ như người mất hồn...
Mọi người đàn bà Do Thái đều mót lấy chồng. Lấy chồng thật sớm, để sanh con thật nhiều. Có nhiều con, nhất là nhiều con trai, sẽ được gia đình nhà chồng và xã hội tôn trọng. Họ còn mơ ước xa xôi: may ra mình được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Đấng Cứu Thế là người đàn bà vĩ đại nhất của lịch sử, bỏ xa cả sứ ngôn Đêbôra, thư hùng Giuđita và hoàng hậu Étte. Cứ nghĩ thế cũng đủ sướng rồi.
Nhưng Mẹ lại không nghĩ thế. Một mình Mẹ, và chỉ một mình Mẹ thôi, lại quyết tâm làm người trinh nữ cho đến trọn kiếp. Mẹ cứ mơ ước được làm chú gà con, lông tơ vàng ánh, nép mình dưới cánh gà mẹ. Gà mẹ là Giavê ủ lấy con của mình là Maria. Ấm áp quá chừng? Sung sướng vô cùng!
Mẹ cứ tưởng tượng mình đang hành trình vào đời. Đường đời Mẹ đi đang nở đầy hoa. Hương hoa thì vương vương theo gió sớm. Sắc hoa thì lung linh với sương mai. Cô trinh nữ cứ như thiên thần đi mãi vào thế giới huyền linh như thế. Đẹp tuyệt vời! Đời đang tuyệt vời như thế, thì bỗng... sứ thần bảo Mẹ phải thụ thai và phải sanh con. Mộng đang xây chưa thành, thì đã vỡ tan tành. Mẹ như chú gà con hốt hoảng, chui mãi và chui thật sâu vào nách gà mẹ .
Thấy thế, sứ thần cảm thấy mình có lỗi, vội vã thân thưa với Mẹ: cô vẫn thụ thai, cô vẫn sinh con, nhưng bởi quyền phép của Chúa Thánh Thần. Con của cô cũng là con của Đấng Toàn Năng". Bây giờ Mẹ hiểu rồi. Mẹ mừng quá? Đời Mẹ đã đẹp, bây giờ lại đẹp hơn. Con gà con vẫn được ủ ấp trong cánh mẹ. Ngàn hoa vẫn nở trên con đường sâu hun hút đi vào cõi huyền linh. Trên tuyệt vời ngàn ngàn lần! Mẹ đon đả với sứ thần: "Nếu vậy, thì tôi xin vâng..."
Lịch sử Cứu Độ được mở màn như thế đó . Người đầu tiên đón nhận và thực hiện Tin Mừng này là Mẹ. Mẹ lúc ấy mới chỉ là cô gái ở tuổi "teen”. Tuổi "teen”là tuổi ăn chưa no, lo chưa tới. Thế mà, ngay từ tuổi ấy, Mẹ đã tuyệt vời rồi. Thầy kính mến: Con vô cùng sung sướng được chiêm ngưỡng một người Mẹ đầy ân sủng, một người Mẹ được Thiên Chúa trìu mến, một người Mẹ tuyệt vời. Người Mẹ ấy là Mẹ của Thầy, là Mẹ của con.
Sau những phút sung sướng vô cùng ấy, con lại thấy lấn cấn ở trên đầu và buồn buồn ở trong tim.
Từ thời vua Đavít, mọi người Do Thái đều tin rằng: Đấng Cứu Thế sẽ ra đời; Ngài sẽ là một ông vua vĩ đại; Ngài sẽ nâng nước Ítraen lên hàng bá quyền. Thánh Vịnh 79 nói rằng:
"Gốc nho ấy Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân đi lấy chỗ mà trồng. Chúa khẩn hoang bốn bề quang đãng, cho bén rễ sâu và lan rộng khắp nơi. Bóng um tùm phủ xanh đầu núi, cành lá sum suê rợp lá hương thần, nhánh vươn dài tới phía đại dương, chồi mọc xa tới tận miền sông Cả" (Tv 79,9-12)
Isaia thì khẳng định rằng: "Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông Cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ" (Is 66, 12). Thậm chí sứ thần Gáprien cũng khẳng định với Mẹ rằng, Đấng Cứu Thế là người ngồi trên ngôi báu Đavít và cai trị nhà Giacóp cho đến muôn đời.
Đó là một truyền thống ngàn năm. Đó là một chân lý của một dân tộc mà muôn người như một đều tin như đinh đóng cột. Vậy mà cuối cùng khi Đấng Cứu Thế đến thì Người không hề làm vua, không thèm làm vua.. Ngàn ngàn người lầm. Triệu triệu người hẫng. Tội nghiệp cho một tôn giáo. Tội nghiệp cho lịch sử của một dân tộc. Rõ ràng là thật mà thật chỉ là ảo. Buồn quá!
Thầy kính mến.
Về thân thế và sự nghiệp của Thầy, thì sứ ngôn trình bày sai, hay là dân tộc Do Thái hiểu sai? Và thưa Thầy, ngày hôm nay, trong sứ mạng rao giảng, con có hiểu Thầy và trình bày Thầy một cách đúng đắn hay không? Con sợ quá!
Tôi lên xe, ngồi băng giữa. Băng trên có hai người đàn bà cao niên. Một bà giàu, một bà nghèo PiôHậu 271
Tôi lên xe, ngồi băng giữa. Băng trên có hai người đàn bà cao niên. Một bà giàu, một bà nghèo, nhưng tâm sự với nhau như hai người bạn tâm phúc.
- Bây giờ chế ở với đứa nào? - Tôi ở với con Út. - Nó làm ăn đỡ không? - Nghèo quá! - Sao chị không ở với con Hai cho đỡ cực? - Đứa nào cũng là con, nhưng đứa nào nghèo thì mình phải thương hơn. Con Hai nó cho xe xuống rước, nhưng tôi từ chối. Tôi muốn gởi cho tụi nó một thông điệp về tình huynh đệ…
Cái lối ăn nói ấy, cái cách sử dụng từ ngữ ấy làm tôi giật mình. Tôi đứng lên, nhìn kỹ để xác định. Đúng là mẹ Em, một cô giáo dạy môn Văn của cấp ba từ mấy chục năm về trước. Tôi không lên tiếng, lẳng lặng ngồi xuống để nghe mẹ Em “đọc thông điệp”.
Mẹ Em nhỏ hơn tôi một nửa con giáp. Tôi quen bà vào cuối thập niên sáu mươi của thế kỷ hai mươi. Bà dạy môn Văn, vì thế giọng nói và cách sử dụng từ ngữ của bà lúc nào cũng nghiêm chỉnh, lúc nào cũng chải chuốt. Bà nói chuyện mà tôi cứ tưởng bà đang giảng bài. Tôi không thích cái tính hơi kênh kiệu ấy của mẹ Em. Nhưng tôi rất kính trọng cái tác phong đạo đức phi thường và nghị lực phi thường của bà. Đức Giêsu là thần tượng của bà. Bà muốn con cái của bà phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã dạy. Ước muốn ấy không thành đạt. Bà ray rứt và tự đay nghiến mình. Bà xổ ra hết lòng dạ cho người bạn cố tri giàu có. Bà diễn lại hết cuộc đời Em. 1. Vừa tốt nghiệp Đại Học thì Em lên xe hoa về nhà chồng. Chồng Em không giàu, không giỏi, nhưng có địa vị vững chắc. Em không giàu, nhưng rất giỏi và có nhan sắc. Hai đứa hùn hạp làm ăn. Làm kinh tế thì phải nhanh nhạy. Đó là khả năng của Em. Làm kinh tế trong thời chuyển mình, thì địa vị, quyền bính là điều kiện thuận lợi. Đó là khả năng của chồng Em. Thế là vợ chồng Em bốc lên như diều gặp gió. Mẹ Em khoe với bà bạn: Tụi nó làm giàu mau hơn “ăn cướp”. Mừng cho Em. 2. Em đón mẹ về chơi. Trong phòng khách sang trọng, hai mẹ con thù thì.
- Hai à, bây giờ giàu có quá rồi. Tiền của nhiều quá ngồi chơi không, ăn suốt đời cũng không hết. Em con đứa nào cũng đủ ăn. Chỉ có con Út, sao nó đận quá. Con có thể giúp nó được không? - Theo ý mẹ, thì con phải giúp thế nào? - Con sắm cho vợ chồng nó một cái xuồng tam bản hơi lớn một chút, có mui đàng hoàng, với một cái máy Honda sáu ngựa rưỡi. Chúng nó có thể đi bán hàng bông dài dài trong xã. Mỗi ngày cũng kiếm được dăm chục, đủ sống qua ngày. - Làm kinh tế kiểu đó là gà què ăn quẩn cối xay. - Thế con giúp nó một số vốn lớn hơn, để nó mở một tiệm tạp hoá. - Tung vốn cho nó làm ăn thì từ chết đến bị thương. - Vốn nhỏ thì con chê là gà què ăn cối xay. Vốn lớn thì con biểu là từ chết tới bị thương. Vậy con muốn giúp nó cái gì? - Giúp gì được! Mạnh ai nấy lo. Ai cũng có chân có tay hết. - Như vậy thì còn là gì chị em? - Con chỉ lo cho mẹ thôi. Còn chị em thì mạnh ai nấy sống. 3. Em tha thiết giữ mẹ ở lại. Mẹ Em nhất quyết ôm đồ ra đi. Mẹ Em buồn. Mẹ Em giận. Buồn và giận vì tình chị em lạt như nước ốc. Bà quyết tâm quay gót trở về sống nghèo với con. Út nghèo, vì “con nào chẳng là con, nhưng con nghèo thì phải thương hơn.”
Bà về, nhưng muốn gởi lại cho Em một bài học quan trọng mà bà gọi là thông điệp. 3.1
Ngày xưa gia đình không giàu có, nhưng không đến nỗi thiếu thốn. Chị em yêu thương nhau, đùm bọc nhau, ngủ chung giường, đắp chung chăn. Cái bánh nhỏ xíu cũng bẻ làm đôi. Bây giờ chị giàu sang quá chẳng dám đến thăm chị. Chị thăm em, em ngại ngùng chẳng biết lấy gì mà đãi. Em thăm chị, chị tưởng là nó muốn xin xỏ. Cứ thế, ngày tháng trôi qua, chị em thành người dưng nước lã. Mẹ Em nhắc lại lời của Chúa: “Kho tàng của ngươi ở đâu, thì lòng ngươi ở đó”. Rõ ràng là mẹ Em muốn nói rằng bây giờ Em chỉ biết yêu tiền, quên bẵng tình ruột thịt. Mà tình thì quý hơn tiền.
Em,
Em vẫn cứ làm giàu. Nhưng làm giàu để làm giàu, hay là để làm người một cách xứng đáng? Đồng tiền chỉ là phương tiện hữu ích, để gia đình Em có cơm ngon áo đẹp, để con cái Em có điều kiện phát huy mọi khả năng mà Chúa đã ban cho chúng. Cơm của Em đã quá ngon. Áo của Em đã quá đẹp. Con của Em muốn học tới đâu cũng được, muốn đi du lịch trên khắp thế giới, thì tiền vẫn còn dư vô vàn. Bây giờ Em hỗ trợ cho Út dăm cây vàng, thì kho tàng của Em vẫn đầy ắp. Dăm cây vàng đối với Em chỉ là tiền lẻ để tiêu vặt, không đáng để mở một quỹ tiết kiệm. Út thì bớt khổ. Mẹ thì sung sướng. Tình chị em thì chan hoà.
Đó là thông điệp một.
3.2
Mẹ Em khẳng định: người giàu có thì khó hạnh phúc. Đó là thông điệp hai. Mẹ Em kể một hơi những câu chuyện người giàu không hạnh phúc.
a) “Hai Sương mới xây một biệt thự sang trọng như dinh Thủ Tướng. Bông kiểng rực rỡ như động thiên thai. Con chó bẹc giê to như ông Hộ Pháp ngồi canh trước cửa, cặp mắt gờm gờm như muốn nuốt sống người ta… Vợ chồng đang sống phây phây, thì đùng một cái, đứa con trai duy nhât đi đua xe, bị xe tải cán nát thây… Cứ nhìn thấy con Sương là tôi muốn rơi nước mắt. Tiều tụy vô cùng”
b) “Vợ chồng thằng Năm Tiếng làm ăn đang bốc lên như diều gặp gió, thì bỗng dưng bỏ bê, không thèm làm ăn nữa. Vợ chồng đầu tắt mặt tối, lội ngược lội xuôi để xây dựng tương lai cho con cái. Đến khi có tương lai là một đống vàng, thì cả hai thằng con trai đều phải chui vào trung tâm cai nghiện. Cụt hứng đến tuyệt vọng”.
c) “Cặp vợ chồng Nguyên - Tuyền hồi còn nghèo thì thương nhau như keo dán gỗ. Đến khi có bạc tỉ, thì ông ăn chả, bà ăn nem. Gia đình nát như tương.” Em, Hãy nghiệm lại bấy nhiều lời của mẹ. Tâm huyết đấy. Thông điệp thật ấy.
Em mướn căn nhà bên trái. Tôi mướn căn nhà bên phải. Nhà tôi và nhà Em chỉ cách nhau một tấm PiôHậu 272
Em mướn căn nhà bên trái. Tôi mướn căn nhà bên phải. Nhà tôi và nhà Em chỉ cách nhau một tấm vách là buông. Bên nhà tôi có hai linh mục, lúc nào cũng lặng lẽ như hai con sò. Bên nhà Em có hai vợ chồng lúc nào cũng ồn ào như cái chợ nhỏ. Em đi đóng đáy. Vợ Em ngồi bán tạp hoá. Hễ Em về tới nhà là y như có tổ chức nhậu. Cua tôm thì Em xách từ hàng đáy về. Còn rượu thì vợ Em bán sẵn đó: vô cùng vô tận!
Mắt tôi không nhìn thấy vợ chồng Em. Nhưng tai tôi ghi nhận hết mọi sinh hoạt của căn nhà bên ấy. Vui buồn, sướng khổ của Em đều ghi hết vào cuộn băng ký ức của tôi. Em thở phì phì sung sướng, tôi biết. Em ngáy pho pho một cách mãn nguyện, tôi biết. Em bất mãn và chửi thề, tôi biết. Em uống bao nhiều cốc rượu, tôi cũng biết…
Đêm hôm ấy tôi không ngủ được, vì Em nhậu lu bù, nhậu cho tới hai giờ khuya. Khi bạn nhậu ra về, Em đóng cửa, tắt đèn chui vô mùng, nói lè nhè vài câu rồi im lặng tuyệt đối. Tôi đang dỗ giấc ngủ thì bỗng có tiếng chửi thề.
- Đ. M. - Vừa phải thôi chứ. - Cự hả. Đụi…đụi. - Mày đánh chết tao đi! - Bốp… bốp. - Mày đánh nữa đi! Đánh nữa đi! Đồ chó đ.
Một lát sau lại có tiếng ngáy pho pho, tiếng thở khò khò. Em ngủ ngon. Còn tôi thì không ngủ được nữa. Mở mắt nhìn vào bóng tối, tôi ngẫm nghĩ về tình đời. Tình đời đen như bóng đêm. Bóng đêm trùm lên cuộc đời của Em.
1. Em từ Trà Vinh xuống. Tứ cố vô thân. Em vô rừng đốn củi mướn cho bà Tư Hón. Củi về rồi thì Em cưa, Em bửa, Em bó, rồi đếm cho nghe. Bà Tư nuôi cơm, cho tiền hút thuốc, lâu lâu lại cho vài chục đồng (một chai bia Con Cọp giá 18 đồng). Gần ba mươi tuổi Em mới cưới được vợ. Đám cưới chỉ tốn hai con vịt. Khách khứa chỉ vỏn vẹn một chục. Toàn là bà con bên nhà gái.
Vợ Em từ Cái Chồn lên. Hắn trội hơn Em vì có cha và có mẹ. Nhưng cũng nghèo xơ xác như Em. Cả nhà ba khẩu chỉ có một cái giường và một cái mùng ám khói đen thủi đen thui. Hắn tròn như hột mít, khoẻ như vâm, mỗi tháng ăn hết ba mươi ký gạo. Vô rừng cưa củi, hắn xông xáo còn hơn đàn ông. Cột đước dài năm mét, hắn vác đi te te trên cầu khỉ không tay vịn. Đàn ông lắc đầu, le lưỡi. Họ nói đùa với Em:
- Mày dám mần nó không? Tụi tao không dám rồi đó. - Rồi. Hiền khô à.
Trong rừng đước bịt bùng và vắng lặng, hai cái xuồng be mười cặp sát vào nhau. Em nhìn hắn. Hắn nhìn Em. Đắm đuối… Hai đứa sáp vô như thế đó. Giản dị vô cùng.
Hai đứa coi nhau như vợ chồng từ hôm ấy.
Năm Căn là khu dồn dân. Dân từ tứ xứ trôi dạt về, không quen thân, không tục lệ, chẳng ai bắt lỗi chuyện ấy. Cứ tiền dâm hậu thú. Thật ra thì chẳng ai hiểu hôn thú là gì. Cứ ăn ở với nhau như cỏ dại. Nếu có chú thím nào phiền trách, thì chịu thú phạt bằng một mâm cơm đơn giản là xong.
2. Sau đám cưới chỉ tốn hai con vịt ấy, hai đứa ra riêng. Tổ uyên ương chỉ là căn chòi tự biên tự diễn. Một ngày vô rừng đốn cây đốn lá và một ngày dựng là xong. Nhà không có cột hàng ba. Bốn bề dừng vách lá. Cửa cái chỉ là tấm liếp hợp bằng lá buông, nhấc ra, đặt vô y như cửa chuồn vịt. Kệ, miễn kín đáo thì thôi. Thằng ăn trộm rình tiền, chứ không rình tình…
Em thôi làm mướn cho bà Tư Hón. Hai vợ chồng tất bật vô rừng đốn củi. Chỉ sáu tháng làm củi, Em sắm được một miệng đáy nhỏ. Sáu tháng sau Em sắm được một miếng đáy lớn. Kinh tế gia đình ổn định. Em ngẩng đầu lên nhìn đời, mỉm cười với đời. Và đời cũng đang thật sự mỉm cười với Em.
3. Đêm hôm ấy, 150 con cá đường nối đuôi nhau chui hết vào miệng đáy của Em. Em trở thành triệu phú trong một đêm ngắn ngủi. Em có số làm giàu, xóm giềng bảo thế. Em đổi đời từ đêm hôm ấy. Tình đời cũng bắt đầu nhuộm đen từ đêm hôm ấy.
Em mướn một căn nhà là ở trong xóm chợ. Vợ Em bán vài món hàng thông dụng như đinh, dây chì, nước mắn, xà bông… nói là tiệm tạp hoá cho oai, chớ vốn liếng chẳng đáng là bao. Có tiền thì vợ Em may sắm và ăn hàng như điên. Ăn và mặc là hai sinh hoạt nổi cộm nhất của hắn. Hắn háu ăn và còn háu “ấy” nữa. Cái thân bồ tượng ấy dường như chẳng bao giờ được no nê về tình dục. Khả năng của Em chỉ cung cấp được một phần ba nhu cầu ấy. Hai phần ba còn lại, hắn phải đi kiếm chỗ khác. Đối tác quan trọng số một là lính. Vì thế hắn vẫn hay ngồi hát tỉ tê một mình “Lính mà em”.
Còn Em thì đúng là mẫu người trưởng giả học làm sang, làm sang một cách lố bịch. Mỗi tháng Em ra Cà Mau mướn khách sạn ở chơi một tuần. Đồ ăn thì sang như của bậc đế vương. Nhưng cách thì lại hiện nguyên hình bọn phàm phu tục tử. Ăn xong thì xô chai cốc bát đĩa xuống sàn nghe loảng xoảng cho vui lỗ tai. Em lè nhè tuyên bố với chủ khách sạn: Tao thưởng bay đàng hoàng. Một triệu đối với tao chỉ là đồ bỏ. Em chơi sang như thế đó!
Em chơi gái ngày cũng như đêm. Thượng vàng hạ cám, điếm sang điếm hèn Em đều kinh qua. Chơi cho biết. Chơi để không ai dám qua mặt.
Thế là: Em ra Cà Mau ăn chả với gái làng chơi; còn vợ Em ở nhà thì ăn nem với lính. Chẳng ai rầy ai. Chẳng ai thèm bàn chuyện ghen tương. Huề. Mái ấm chỉ còn là quán trọ. Chuyện vợ chồng chỉ còn là ăn vặt cho đỡ buồn miệng. Em. Tôi chẳng biết nói gì với Em. Tất cả đều đã quá muộn. Tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy Em đang rơi xuống vực thẳm. Chỉ còn chờ một bàn tay vô hình vực Em dậy…
Em và tôi cùng lên xe ở Chợ Lớn. Em không biết tôi. Tôi không biết Em. Tôi ngồi ở băng ba PiôHậu 273
Em và tôi cùng lên xe ở Chợ Lớn. Em không biết tôi. Tôi không biết Em. Tôi ngồi ở băng ba. Em đứng xớ rớ như đang chờ ai. Chủ xe hối:
- Em lên ngồi kế bên ông già đó. Em nhìn tôi tỏ vẻ thất vọng. - Chị cho em ngồi ở băng trên đi. - Không được. Băng trên có đủ bốn người rồi. Người ra đi chung nhau mà. Lên lẹ đi, còn chần chừ gì nữa.
Em miễn cưỡng bước lên, gieo mình xuống ghế cái phịch. Hờn dỗi. Em giận dữ nhét balô xuống gầm băng, lấn sang địa giới của tôi. Tôi thu mình nhỏ lại. Em đùng đùng cởi áo gió. Cùi nhỏ Em gạt bay gọng kính của tôi. Không một lời xin lỗi. Tỉnh bơ, vô ý như võ sĩ múa gậy rừng hoang. Tôi làm thinh, ngó ngay phía trước. Cũng tỉnh bơ, cũng vô tư y như người quân tử không thèm chấp nhất bọn tiểu nhân.
Xe lăn bánh. Đèn trong xe phụt tắt. Đèn đường vẫn rực sáng. Em yêu cầu tài xế cho nghe nhạc Trịnh Công Sơn để thương nhớ một nhân tài vừa mới nằm xuống. Em hát tỉ tê theo tiếng ca của Khánh Ly, đang rên rỉ vì cuộc đời mãi mãi chỉ là cát bụi.
Bỗng Em ngó ngang, nhìn trân vào mặt tôi.
- Chú dạy ở trường Đại Học nào vậy? - Chú dạy ở trường học đại. - Thoáng nhìn, con đường chú là ông hai lúa. Nhìn gần mới thấy tướng chú sang quá à. Tướng của chú là tướng của giáo sư Đại Học. - Có lẽ là sang. Chắc chắn là nghèo. Ngày xửa ngày xưa chú có dạy học, nhưng bây giờ thì mất dạy rồi. - Chú dạy môn gì? - Chú dạy môn Văn. - Vậy thì con nhận xét đâu có sai. - Sai bét. Chú có dạy ở Đại Học bao giờ đâu.
Em xếp đồ gọn lại và ngồi nhích về phía tôi, y như đứa cháu gái ngồi sát bên ông nội, để chờ nghe chuyện cổ tích. Em tựa đầu vào vai tôi. Tin tưởng và trìu mến. Tôi không kể chuyện cổ tích cho Em nghe, nhưng Em kể chuyện về cuộc đời sinh viên.
- Con ở lưu xá. Lưu xá của con toàn là dân miệt ngoài. Tụi con chịu cực giỏi lắm. Mỗi đứa một tháng chỉ tốn ba chục ngàn tiền chợ. Gạo, mắm, chà bông, cà muối…thì cha mẹ gởi vô. Mỗi ngày mỗi đứa góp một ngàn đồng, mua một trăm gam thịt, một bó rau muống, xào lên rồi ăn chung với nhau.
- Còn con thì sao? - Con á hả! Ăn sáng không thôi cũng hết mười lăm ngàn rồi. Hai bữa cơm và ăn vặt thì chưa tính. - Con học giỏi không? - Ở tỉnh nhà, con học cũng có hạng. Nhưng lên thành phố, gặp tụi nó thì con chịu thua. - Gặp tụi nó thông minh, hay tại tụi nó cần cù? - Con cũng thông minh chứ bộ. Nhưng phải công nhận là tụi nó cần cù, học chết bỏ. - Con dám học chết bỏ không? - Hổng dám đâu. Con gái mà học kiểu đó thì…làm con ve sầu, cho sâu nó dè. Dè rồi thì nó…de. - Bộ con mót lấy chồng lắm rồi hả? - Cũng chưa gấp gáp làm gì. Nhưng…cuộc đời cũng phải dó điểm dừng. Học ngày học đêm, học thêm Chúa nhật. Học đến cằn cỗi để có một mảnh bằng. Có bằng rồi lại đôn đáo đi kiếm việc làm. Có việc làm rồi thì lại phải bon chen để có tương lai. Bon chen mãu đến chết vẫn chưa hết bon chen. - Nói vậy thì sao con không đi tu cho rồi. - Con có người yêu rồi, đi tu sao được.
Em bộc bạch hết cả tâm lẫn tư của một cô sinh viên con nhà giàu, ăn trắng mặc trơn: yêu thì da diết; học thì không tha thiết; ăn xài thì không tiếc; trau dồi về ngoại hình hơn nội dung; sống với hiện tại hơn là hướng về tương lai; thích hưởng thụ hơn là dâng hiến…
Em,
Em là một tác phẩm được hình thành, được thiết kế do một quá trình đào tạo ngẫu nhiên. Em đã là thế, thì Em sẽ là vậy, không dễ gì thay đổi. Tôi chỉ lắng nghe và không góp ý gì với Em.
Xe tới Cà Mau vào lúc hừng đông sắp ló rạng. Tôi bắt tay giã từ Em vào lúc tranh tối tranh sáng. Tôi trìu mến Em. Em quyến luyến tôi. Chẳng biết Em còn nhớ tôi hay không. Nhưng tôi suy nghĩ rất nhiều về Em. 1. Cha mẹ ngày xưa ở Năm Căn, nghèo khổ lắm. Vô rừng đốn củi chán, thì đi đóng đáy mướn. Đóng đáy chán, thì làm rẫy, trồng bí. Giá bí thì lên xuống theo tình hình an ninh địa phương. Bí thu hoạch về, chất một đống cao như núi, phải bán giá chết cho vựa. Giá chết thì rẻ mạt. Cầm xấp tiền trong tay mà lòng quặn đau như cắt.
Sau mùa xuân 75, cha mẹ Em ra thành nhận công tác. Lý lịch thơm như múi mít. Con đường tiến thân thẳng tắp. 2. Em ra mắt chào đời vào lúc cha mẹ Em vừa giàu sang, vừa có nhiều tiền, vừa có quyền cao. Em khóc oe oe để chào đời, y như chim hót véo von để chào bình minh.
Ôn lại cảnh nghèo khổ ngày xưa, cha mẹ Em tủi hận đến rơi lệ. Cả hai đều thề với lòng mình là sẽ làm cho Em được sung sướng. Con sung sướng để trả thù cái khổ của cha mẹ. Cha mẹ đã khổ chừng nào, thì con cái sẽ phải sung sướng chừng ấy. Thế là đời của Em trở nên cánh bướm, nhởn nhơ giữa ngàn hoa. Xinh đẹp và sang quý. Quên bẵng kiếp sâu lầm than. Quen hút mật hoa tinh khiết, ghê tởm con sâu gặm lá cây nham nhở. 3. Em yêu một chàng sinh viên đồng hội đồng thuyền. Cha mẹ chàng cũng nương theo dòng lịch sử mà vươn lên. Cũng giàu sang. Cũng phú quý. Cũng đang xây dựng tương lai để trả thù quá khứ.
Chàng và nàng vừa học vừa yêu. Yêu sướng hơn học. Yêu dễ như chơi. Học thì khó quá trời… Em và chàng hẹn thành hôn vào cuối năm thứ bốn. Đậu hay không là chuyện nhỏ. Sự nghiệp của cha mẹ là sự nghiệp của con. Chắc như đinh đóng cột. Cả hai cùng nhìn về tương lai, cùng giơ tay vẫy chào. Nhưng…Em ơi,
Tôi mường tượng thấy cha Em đang dìu Em lên đỉnh núi. Cả hai cùng mỉm cười đón chào bình minh đang ló rạng ở bên kia đại dương. Nhưng tôi lại mường tượng thấy Em đang dắt con của mình đi xuống triền núi. Còn mặt trời thì đang lặn xuống sau lưng Em. Đời phải là một cuộc chiến đấu không ngừng. Hừng đông không phải là của người đi ngủ.
Em đứng trước tấm gương lớn, để nhìn lại mình một lần cuối. Em bỗng giật mình, vì thấy mình PiôHậu 274
Em đứng trước tấm gương lớn, để nhìn lại mình một lần cuối. Em bỗng giật mình, vì thấy mình còn đẹp quá: đường nét thon thả da thịt nõn nà. Em thử liếc mắt đưa tình, cười duyên một cái, rồi vội vã ra xe hoa, tiễn cô em út về nhà chồng. Ngồi trên xe. Em mơ màng nghĩ về quá khứ, trải dài gần hai mươi năm đằng đẵng. Kỷ niệm dày như một pho sử. 1. Em và Hùng cùng thi vào Đại Học Sư Phạm. Em cao một mét bẩy mươi. Hùng cao một mét bảy mươi lăm. Hai đứa nhìn nhau một cái là thấy đỏ mặt liền. Em tự nghĩ Trời sanh ra Hùng để lấy Em làm vợ. Không lấy được Hùng, thì chẳng biết lấy ai bây giờ. Hầu hết nam sinh viên trong Đại Học đều thấp hơn Em năm sáu phân. Em cố tình đi dép cao gót, để tất cả thế giới đàn ông đều sẵn sàng nhường Em cho Hùng, để tất cả thế giới đàn bà đều vui lòng nhường Hùng cho Em. Chẳng ai ganh ghét. Chẳng ai ghen tuông.
Em lấy Hùng. Hùng lấy Em. Không cần suy nghĩ. Không cần cầu nguyện và bàn hỏi. Trời định thế rồi. 2. Vừa tốt nghiệp Đại Học xong, hai họ định tổ chức lễ đính hôn. Đính hôn xong, bên nhà trai mới đồng ý cho Hùng học giáo lý để làm phép hôn phối theo nghi thức Công giáo. Bên nhà trai nao nức sắm lễ. Vui như Tết. Bên nhà gái nôn nao sơn nhà sơn cửa để đón nhà trai. Nhộn nhịp như đại hội…
Đùng một cái, đại diện nhà trai đến xin ba em đình lại. Hỏi tại sao, thì ông đại diện trả lời: “Nội bộ chưa ổn”. Nội bộ nhà trai rối nùi như nồi canh hẹ. 2.1 Bác Hai của Hùng từ ngoài Bắc vào tuyên bố một câu chắc nịch: “Thuyền theo lái, gái theo chồng”. Ông yêu cầu con gái phải theo đạo chồng. Đối đế là đạo ai nấy giữ. Ông còn dằn mặt bố của Hùng: “Quyền huynh thế phụ”. Bố của Hùng chỉ còn biết gãi tai và hứa giải quyết theo yêu cầu thứ hai là “Đạo ai nấy giữ” 2.2 Bà nội của Hùng ngồi nhai trầu bỏm bẻm. Vừa nghe câu “Đạo ai nấy giữ”, bà vội ném bã trầu, lấy tay chùi mép, ngâm nga một câu ca dao giọng chua lè như giấm:
“Amen, lạy Đức Chúa Lời
Có cho bên đạo bên đời lấy nhau?” 2.3 Hùng phân bua với Bác Hai: “Cháu không thèm theo đạo của vợ, nhưng cháu cùng vợ theo đạo của Chúa”, “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Lời nói của Hùng làm Bác Hai nổi giận: “Họ nhà tôm, cứt để đằng đầu”. Bà nội đế thêm một câu: “Trứng khôn hơn vịt”. Thế là hết! Phe chống phe bênh đều im phắc. 3. Bác Hai của Hùng rước mẹ về Bắc, linh cảm rằng đại gia tộc họ Lê sắp mất đi một giọt máu: Lê Đức Hùng sẽ không được ghi vào gia phả. Bầu khí căng thẳng chùng xuống. Ba của Em và bố của Hùng lại chén thù, chén tạc, gật gù với nhau như vừa thoát được một món nợ. Hùng và Em vẫn gặp nhau đều đều, vẫn mỉm cười nhìn về tương lai, coi nhẹ “Quyền huynh thế phụ”, coi thường truyền thống cũ kỹ của đại gia tộc. Lại chuẩn bị một lễ đính hôn, không có mặt của Bác Hai. Lại rộn ràng. Lại nhộn nhịp. 4. Một tin sét đánh làm mọi người hết hồn hết vía, kêu trời kêu đất.
Trước ngày ăn trầu uống rượu, ba má Em chở nhau đi chợ. Chiếc Honda 50 vừa ra khỏi cổng, đang từ từ trườn xuống lòng đường, thì một chiếc xe đông lạnh, đang ngon trớn, bỗng chồm lên lề cán hai người chết một cách thê thảm…
Xóm giềng đứng đầy nhà. Không ai cầm được nước mắt. Chẳng ai nói lên lời. Hằng trăm người đứng đó để ngậm ngùi nhìn khói nhang mù mịt phủ kín hai cỗ quan tài nằm song song…mờ mờ, ảo ảo. Hằng trăm người đứng đó để quặn đau khi nghe trẻ thơ khóc thét lên một cách tuyệt vọng. Những tiếng gào “Ba ơi”, “Má ơi” làm tan nát lòng người. Nỗi đau lớn quá! 5. Em là Chị Hai, nhưng chỉ biết khóc vật vã. Em không đủ nghị lực để đứng vững. Mọi chuyện đều có người lo. Hùng luôn luôn ở bên Em, vững vàng như cây cổ thụ, sẵn sàng che mát cho Em, sẵn sàng bao bọc cho bốn đứa em của Em. Vết thương còn đó, nhưng được băng bó, chờ ngày mọc da non. Một ánh đèn vừa loé lên ở cuối đường hầm… Trong cõi chết vẫn còn mầm sống. Dưới sa mạc khô cháy vẫn có mạch nước ngầm. Sau ngày đoạn tang, sẽ có đám cưới. 6. Hôm ấy Em và Hùng tâm sự với nhau rất lâu. Út Tuyết dòm qua kẽ cửa, nước mắt ràng rụa. Nó cảm thấy cô đơn quá chừng. Nhìn lên bàn thờ, cha mẹ chỉ còn là hương khói. Nhìn vào căn buồng của chị Hai, chị Hai chẳng còn là chị của nó nữa. Nó sắp mất chị rồi.
Hùng vừa bước ra khỏi căn buồng của Em, thì Út Tuyết chạy vào, ôm chầm lấy Em gào lên một cách tuyệt vọng.
- Chị Hai ơi, chị đừng đi lấy chồng. Chị làm mẹ của em đi. - Chị lấy chồng thì em vẫn là em của chị mà. - Không! Em không cho chị đi lấy chồng. Chị là mẹ của em. Út Tuyết mới lên năm, chưa biết suy nghĩ, nhưng đã trực cảm được tương lai của mình đen tối, nếu không được Chị Hai dành trọn vẹn tình yêu cho mình. Tiếng khóc của nó làm Em bị sốc. Tình mẫu tử bỗng vùng đứng dậy. Em bồng Út Tuyết lên vỗ về nó và hứa với nó bằng giọng cứng như thép. - Chị thề với Em là chị không lấy chồng. Chị ở giá để nuôi em. Chịu chưa? - Chịu liền. Mẹ ơi! Mẹ…
Út Tuyết ôm cứng lấy đầu Em, cười sung sướng, sung sướng vô cùng.
Em quyết liệt từ hôn với Hùng để làm mẹ của Tuyết. Vài năm sau Hùng cưới vợ. Một mình Em tần tảo nuôi bốn đứa em. Ba thằng em trai đều có sự nghiệp riêng. Nghĩ đến ngày Út Tuyết lên xe hoa về nhà chồng. Em cảm thấy cô đơn quá chừng. Em lại nhớ đến Hùng. Trong một phút yếu đuối Em đã gọi điện thoại cho chàng: “Em chỉ có một mình. Anh đến chơi được không?” Em, Cú điện thoại ấy là một sai lầm lớn. Nó sẽ phá tanh bành cuộc đời của Hùng. Nó sẽ xé nát toàn bộ vinh dự mà Em đã xây dựng được trong suốt hai mươi năm qua. Em đã can đảm từ hôn với Hùng để làm mẹ của Tuyết, thì nay Em cũng hãy can đảm quên Hùng để mãi mãi giữ lấy hào quang của một cô giáo tuyệt vời.
Mây đen đùn lên che gần kín bầu trời. Tôi ngoắt một chiếc xe Honda ôm, chạy vội về hướng Nam PiôHậu 275
Mây đen đùn lên che gần kín bầu trời. Tôi ngoắt một chiếc xe Honda ôm, chạy vội về hướng Nam. Xe lướt qua trước nhà Em. Tôi thấy mâm cơm bày la liệt từ hành lang ra ngoài sân, lấn sang cả đất láng giềng. Bà con lối xóm ngồi ăn lố nhố. Đúng là đám giỗ nhà giàu. Về đến nhà tôi mới biết là không phải đám giỗ.
Hồi sáng sớm Em cởi dây chuyền đưa cho chồng.
- Anh giữ cái này giùm Em. - Em uống thuốc rầy hay sao mà hôi quá vậy?
Cả nhà hốt hoảng. Lôi xóm kêu trời. Người ta hối hả đi bao vỏ lãi đưa Em xuống Huyện... Không kịp. Em gục đầu vào vai chồng, phả một nơi nồng nặc cuối cùng, rồi tắt thở…
Người con gái mười chín tuổi đời, mới lấy chồng được bốn tháng, đang có thai được hai tháng, đã quyết định ra đi, không để lại một lời trăn trối. Bí mật bao trùm. Cả làng thắc mắc. Sui trai sui gái nhìn nhau bằng ánh mắt nghi ngờ và oán hận.
Tôi chẳng biết nói gì với Em nữa, vì Em đã về bên kia thế giới. Nhưng tôi muốn lắng nghe dư luận đang bàn tán sối nổi về Em, từ đầu làng đến cuối xóm. Tôi muốn suy nghĩ về Em. Em là một bài học quý giá cho muôn người.
1. Em là con gái út của một gia đình giàu có và gia giáo. Ăn rất ngon, mặc rất đẹp. Rất ngoan hiền và rất xinh xắn. Cha mẹ nuông chiều. Xóm giềng thương yêu. Suốt đời sung sướng. Chỉ cắp sách đến trường, không biết giặt đồ, chẳng biết nấu cơm. Mười ngón tay lúc nào mềm mại và thon thả, y như bàn tay ngọc ngà của cô tiểu thư đài các.
Đẹp người đẹp nết, chưa hết tuổi học trò, đã có người đến nói. Vừa đúng mười tám, Em đã xuống vỏ lãi có dán hai chữ song hỷ, để về nhà chồng. Chồng Em chỉ biết yêu, chứ không biết nuông chiều. Cha mẹ chồng chỉ thích dâu giỏi, chứ không ham dâu đẹp. Mà Em chỉ đẹp chứ không giỏi. Em gái của chồng thì không đẹp, nhưng lại rất đanh đá. Thế là Em bắt đầu nếm mùi cay đắng của cuộc đời. Những câu nói bóng gió xa xôi cứ xoáy mãi vào đầu Em. Những lời đay nghiến chua cay cứ chà xát mãi vào vết thương chưa lành của lòng tự ái. Đó là lẽ thường của bể khổ. Nhưng Em không quen chịu đau, nên bây giờ Em thấy đau quá chịu không nổi. Em là con nhà lành không quen chịu mưa nắng, đi nắng là cảm cúng. Em là bông hoa đẹp rung rinh trong phòng khách, nhưng chỉ đẹp trong phòng khách kín gió mà thôi. Em là người có đức, nhưng nhân đức của Em mền xèo. Hiền nhưng không khôn. Khôn nhưng không khéo. Khéo nhưng không bền… Thế là Em phải gục ngã trước một quả đấm không đáng một nửa kí lô. Tiếc thay cho nền giáo dục nhung lụa, chỉ đào tạo được người tốt, chứ không trui luyện được mẫu người can trường. Mà đời người lại là một cuộc chiến đấu không ngừng.
2. Chồng Em là con trai út bảnh trai nhưng không trải đời. Ham chơi chứ không ham lao động. Hôm ấy hai mẹ con nói chuyện với nhau, rồi sau này kể lại cho cả xóm cùng nghe.
- Mày cà nhõng tối ngày, chẳng lo làm ăn gì cả. - Có việc gì đâu mà làm. - Mày phải lấy vợ mới biết lo, mới hết cà nhõng. - Lấy thì lấy. - Đứa nào cũng được, nhưng phải đẹp và hiền. - Mày ưng con Thuý không? - Biết đâu à.
Chồng Em đã bước vào đời sống hôn nhân như thế đó. Y như một trò đùa. Và khi cưới Em về, hai đứa cũng chỉ biết đùa với nhau thôi. Mẹ Em kể: “Đêm hôm trước hai đứa chun vô mùng còn đùa giỡn với nhau, thì sáng hôm sau nó uống thuốc tự vận”.
Khi Em vui thì chồng Em mừng. Nhưng khi Em buồn, thì chồng Em chỉ biết thế rồi để đấy, không đủ khả năng để an ủi và giải quyết. Rất nhiều nỗi buồn Em không thể bộc lộ bằng lời nói, vì sợ đụng chạm người trên kẻ dưới. Những lúc ấy Em chỉ nói bằng ánh mắt, bằng cách thở dài não nuột. Người đàn ông không nhanh nhạy thì không thể bắt được tín hiệu ấy. Trước khi quyết định uống thuốc tự vận, vì không thể sống được nữa, Em đã đánh đi rất nhiều tín hiệu khẩn cấp. Nhưng cây ăng-ten của chồng Em quá thấp không bắt được tín hiệu. Em đành chịu chết.
3. Cô em chồng là bạn đồng trang lứa của Em. Cùng làng, cùng xóm nhưng chưa bao giờ thân thiết, vì nhan sắc và nết na không đồng đều. Em không thèm nhìn xuống. Cô ta chẳng dám nhìn lên. Nay Em làm chị, cô ta càng lép vế. Em có đôi có lứa, còn cô ta thì vẫn vườn không nhà trống. Vợ chồng Em quyến luyến nhau như cái gai chọc mãi vào mắt cô ta.
Dồn nén, ấm ức, rồi bùng vỡ. Lâu lâu cô ta lại xáng lên đầu Em một câu nói chua lè, khi thì xa xôi bóng gió, khi thì bốp chát nảy lửa.
- Chị dâu ơi, tôi mắc ủi đồ, chị nấu cơm nhá. Đừng trên sống, dưới khô, tứ bề nhão bét nha! - Chị dâu ơi, từ ngày chị làm bếp, mẹ chỉ ăn được vài lưng chén, ốm dữ rồi. - Chị dâu ơi, tôi đi xóm, để đôi uyên hủ rỉ, rù rì, hú hí…xả láng nhá. Hí… Hí… - Mẹ ơi, sao con heo nhà mình nuôi hoài mà không chịu lớn. Hổng biết có ai ếm bùa không nhỉ? - Mẹ ơi, tiền con để ở trong cái túi xách này mà sao mất tiêu. Mẹ có lấy không? Chắc nhà này có ma quá à. -………………………. Đời Em chưa bao giờ phải cực, chưa bao giờ phải khổ. Bây giờ thì vừa cực, vừa khổ lại vừa nhục. Bản chất hiền lành, Em chẳng biết đối đáp, chỉ biết khóc rấm rứt một mình. Em khóc với chồng, chồng làm thinh. Em khóc với mẹ ruột, mẹ khuyên “Một điều nhịn, chín điều lành”. Nói mãi, mẹ biểu “Xin ra riêng”. Em năn nỉ chồng, chồng Em gãi đầu gãi tai. Cùng dường. Thế là xong. Em là nạn nhân của nền giáo dục nhung lụa, của người chồng “con nít", của cô em chồng chằng lửa, và của ai ai nữa? Vô vàn vô số.
Tôi gặp lại Em sau mười lăm năm xa cách. Bất ngờ đến độ làm tôi ngẩn ngơ. Chiếc Mercedes từ PiôHậu 276
Tôi gặp lại Em sau mười lăm năm xa cách. Bất ngờ đến độ làm tôi ngẩn ngơ.
Chiếc Mercedes từ từ ghé trạm xăng. Khách nữ đua nhau mua khóm và mí ghim. Tôi cười thầm trong bụng và cố nặn ra một câu định nghĩa: “Đàn bà là hữu thể ăn vật”. Đang đắc chí về câu định nghĩa dí dỏm của mình, thì bỗng…có tiếng ồn ào ở đầu con hẻm. Mọi người im bặt, trố mắt nhìn. Tôi giật mình, vì tôi nhận ra Em. Trời! Tại sao Em nên nông nỗi này?
Hai anh công an đang xốc nách đưa Em về đồn. Bị dẫn đi như một tội nhân, nhưng tội nhân lại “rõ ràng trong ngọc trắng ngà". Rành rành sẵn đúc một toà nhà thiên nhiên”. Em cao một mét bảy, cao hơn hai anh công an bằng một nửa cái đầu. Hai cánh tay và bờ vai trắng nõn nà. Bộ ngực no tròn nhún nhảy theo nhịp đi, như muốn thách thức quyền bính. Đúng là cà cuống chết đến đít vẫn còn cay…
Châm xăng xong, chiếc xe 16 chỗ lại từ từ tìm về quốc lộ 1A, rồi rồ ga trực chỉ hướng Nam. Khách nữ thì đua nhau đay nghiến: “Đồ đ. ngựa”. Khách nam thì trầm tư, dường như thương tiếc. Còn tôi thì tựa đầu ra phía sau, giả vờ ngủ để được suy nghĩ thật nhiều về Em và về nhân tình thế thái.
1. Hôm ấy tôi đi thăm bạn. Chúng tôi đang uống nước trà, thì Em tới. Bạn của Em là con của bạn tôi. Tôi biết Em từ hôm ấy, Em xinh đẹp và hồn nhiên như một thiên thần. Rất thiên thần, nhưng cũng rất lẳng lơ. Rất nai tơ, nhưng cũng rất quỷ quyệt. Đàn ông thì không biết, nhưng đàn bà thì trực giác được điều đó.
Một bà mệnh phụ nhác thấy Em, bèn nguýt dài một cái, nói bâng quơ: “Đồ đ. ngựa”. Em lồng lộ: “Ai đ. ngựa? Ừ tôi đ. ngựa đấy. Rồi bà biết tay tôi”. Em thề với bạn: “Tao sẽ giật chồng nó, rồi đá đít trả về cho nó, để dạy nó một bài học”.
Chồng bà mệnh phụ ấy là một quan chức bề thế. Vừa có địa vị, vừa có đức độ. Thế mà đành rơi vào vòng tay Em như một trẻ thơ. Rồi lại bị đá văng đi như một trái banh tầm thường. Tôi liên tưởng đến vụ xì-căng-đan Bộ trưởng Profumo của nước Anh cách nay chừng một nửa thế kỷ. Chỉ vì mê cô Keeler mà ông Profumo phải từ chức. Một ký giả đã nhận xét về cô Keeler như sau: “Nhìn thấy da thịt cô, thì người đàn ông nào cũng nghĩ đến chuyện ấy”. Đáng sợ thật! Keeler là thiên thần của Em. Em là hậu thân của Keeler.
2. Em không muốn lấy chồng vì sợ “gái có chồng như gông đeo cổ”. Nhưng Em lại thèm đàn ông như trẻ thơ cần bú sữa mẹ. Em không ưa con trai cùng trang lứa. Em chê họ là con nít. Em chỉ thích đàn ông cao niên, vì họ có địa vị và tiền bạc. Em dư khả năng để giật chồng của mọi người đàn bà. Mặc nhiên Em trở thành kẻ thù bách chiến bách thắng của giới đàn bà. Đàn bà sợ Em. Đàn bà ghét Em. Đàn bà thua Em. Em làm vợ khắp thế gian. Và chính vì thế nên nông nỗi này! EM. Em sẽ vào trung tâm cải huấn. Mọi người đàn bà, mọi bà mệnh phụ sẽ vận động để đó là nơi cư trú vĩnh viễn của Em. Còn Em thì vẫn dư sức để ra, ra rất sớm, vì vũ khí của Em vẫn rất hiện đại và kho vũ khí của Em vẫn còn đầy ắp.
Dù Em ở đâu hay ra sớm, tôi cũng chẳng dám gặp Em. Tôi sợ Em quá thôi! Cái gì của Em cũng mời gọi. Cái gì của Em cũng chờ đợi. Tôi gởi Em cho Chúa. Chỉ một mình Chúa mới thuyết phục được Em. Chỉ một mình Chúa mới được Em kính nể và tôn thờ. Người sáng tạo ra Em, nên Người biết phải làm gì để cứu Em. Người đã chết để cứu độ Em, nên chỉ một mình Người biết đau xót, khi thấy Em ra đi mà không trở về.
Còn tôi, từ xa, từ rất xa gởi đến Em những cảm nghĩ của mình. Tôi muốn nghĩ về Em. Tôi muốn nghĩ về nhân tình thế thái. 1. Tôi thấy hai anh công an xốc nách Em dẫn về dồn. Chướng quá! Tại sao Em không đấu tranh để được làm việc với nữ công an. Đó là quyền lợi dành cho phụ nữ. Hay là Em muốn gài, để tương kế tựu kế? Có thể là Em muốn họ lợi dụng Em, để Em lợi dụng họ. Dù bị dẫn độ như tội nhân, Em vẫn ngạo nghệ, Em vẫn nõn nà. Dáng đi của Em, cặp mắt của Em vẫn như mời gọi, vẫn như chào hàng. Tín hiệu vẫn được đánh đi. Đáo để thật! 2. Đàn bà đứng hết về một phía để chống lại Em. Họ sợ Em quá: Sợ là phải. Họ ghét Em quá. Ghét cũng vừa. Nhưng họ dại lắm. Dại mồm dại miệng. Chỉ vì một câu bâng quơ “đồ đ. ngựa”, mà một bà mệnh phụ phải mất chồng một cách nhục nhã… Bà mệnh phụ ơi! Dù có người làm đĩ, thì đĩ vẫn là người. Làm người thì mãi mãi phải được yêu thương và kính trọng. “Làm người” là mẫu số chung. Mọi hình dung từ theo sau chỉ là phụ thuộc. Tình yêu là con đường rộng rãi nhất và an toàn nhất để người tội lỗi quay gót trở về. Hãy cứu nhân độ thế. Cứu chứ đừng diệt. 3. Ông quan chức bề thế và đức độ, thế mà lại sa ngã một cách thảm thương đến thế! Ôi nhân tình thế thái! Napoléon ngày xưa oai hùng là thế, bách chiến bách thắng là vậy, thế mà qua bức tâm thư đã thân thưa với người tình Joséphine như thần dân khấu đầu trước bệ rồng: “Anh muốn bỏ tất cả tướng tá và quân sĩ để được trở về quỳ dưới chân em…” Ôi, tu mi nam tử! 4. Em ơi, chỉ còm dăm năm nữa thôi, kho vũ khí của Em sẽ cạn kiệt. Chừng đó chẳng còn ai sợ Em nữa. Thậm chí chẳng còn ai thèm xót thương Em nữa. Dừng lại đi thôi. Không quá sớm đâu, có thể quá muộn rồi đấy. Chiến tích của Em chỉ là những thống khổ của người khác. Oán hận trùng trùng điệp điệp…
Em đi Sàigòn. Tôi cũng đi Sài Gòn. Em ngồi ở băng trên. Tôi ngồi ở băng dưới. Chiếc Mercedes PiôHậu 277
Em đi Sàigòn. Tôi cũng đi Sài Gòn. Em ngồi ở băng trên. Tôi ngồi ở băng dưới. Chiếc Mercedes 16 chỗ lăn bánh. Đèn phụt tắt. Tôi ngửa đầu ra phía sau để tìm giấc ngủ. Còn Em thì nói chuyện rù rì với người bạn. Tôi nghe không rõ, nhưng đoán là chuyện hấp dẫn lắm, vì hành khách băng trên, băng dưới đều góp ý nhiệt tình, cười hí hí, cười hố hố. Tôi vội gắn máy trợ thính để theo dõi. Thì ra đó là chuyện tình yêu đơn phương của em. Em yêu một linh mục. Yêu quá nên đành ở giá. Hành khách đua nhau góp ý chẳng giống ai.
- Yêu ông cha, thì thà là yêu gốc mít. - Cha hay sư thì cũng là xương thịt, chứ đâu phải là xi-măng cốt sắt. Cứ đánh tới đi em! - Không lấy người này, thì lấy người khác. Hơi đâu mà chờ. - Dễ gì. Mối tình đầu mà. - Thì xách valy vô nhà thờ ở đại. - Đồng ý! Đồng ý! Đánh tới luôn! Nếu thua thì còn tôi. Một chuyến đi vui vẻ hiếm có. Đàn ông đàn bà đều đua nhau góp ý. Em là cái đinh dễ thương của chuyến đi. Chỉ một mình tôi không hé răng, lặng lẽ suy nghĩ về nhân tình thế thái, ghi lại mọi kỷ niệm về đời Em. 1. Em là nữ sinh nghịch ngợm nhất lớp 12. Bạn bè khích Em: - Tao đố mày cua được thầy giám học đấy. - Chuyện nhỏ. Em cua thầy giám học… Dính… Thầy yêu Em hết mình. Còn Em thì chỉ yêu sương sương thôi. Nhưng vừa đủ để quyết định đi tới hôn nhân. Em không có đạo. Chàng đưa Em đến nhà thờ để thọ giáo với một linh mục trẻ. - Đây là vị hôn thê của con. Xin cha vui lòng dạy giáo lý giùm. - Rất sẵn sàng. Đã định ngày cưới chưa? - Thưa chưa. Cha cứ dạy, càng lâu càng tốt. - Tuyệt vời. 2. Em học giáo lý được một tháng, thì quyết định hồi hôn ông thầy giám học. Em dâng trọn tình yêu cho linh mục trẻ và đẹp trai: lưng dài vai rộng; cao lớn và lực lưỡng; giọng nói ôn tồn và truyền cảm phi thường. Gìơ giáo lý chỉ còn là thời cơ để Em nhìn ngắm người yêu. Cặp mắt của Em xoáy vào cặp mắt của ông linh mục, khiến ông mất bình tĩnh. Ông bị hớp hồn.
Em đã cua ông thấy giám học. Cua để đùa chơi. Bây giờ Em cua ông linh mục. Cua thật. Cua để chiếm đoạt.
Cứ mỗi lần đi học lại có một chút quà mọn, gọi là của ít lòng nhiều. Món quà nào cũng gợi ý, cũng gợi tình. Hôm nay quà là hai trái mận. Ngày mai quà là hai trái bưởi. Trái mận hay trái bưởi đều có cái núm nhọn nhọn và nằm sát bên nhau. Ngày mốt quà là hai cây viết, một cây to, một cây nhỏ. Cây nọ cọ cây kia. Em làm bộ đơn sơ, mà lòng thì đã… Ông linh mục trẻ thì muốn quá, mà lòng lại cứ sợ sợ.
3. Một lần nọ, Em đi học giáo lý thì không thấy nguời yêu đâu, mà chỉ thấy cha sở già.
- Cha phó đâu rồi ông cố? - Cha phó bận công chuyện. Từ nay cha sẽ dạy con. - Chúa ơi! Tại sao vậy? Em học gượng gạo một lần ấy. Vừa học vừa ngáp. Lần ấy là lần cuối cùng. Em đã tin Chúa, nhưng không theo đạo. Em giận Chúa, vì Chúa đã lấy mất người yêu của Em. Em quyết tâm giành lại người yêu. Và thời cơ đã đến. Em chặn người yêu ở ngay cửa nhà xứ: - Con muốn gặp cha một phút thôi. - Có thể lâu hơn thế. - Con…yêu cha. - Nhưng…cha không dám yêu con. - Con biết là cha không thể cưới con, vì cha là linh mục. Nhưng cha vẫn có quyền yêu chứ. - Hổng dám đâu. - Con chỉ xin cha nói một câu: “Anh yêu em”, rồi con không bao giờ làm phiền cha nữa. Con sẽ hy sinh ở giá suốt đời, để cha làm linh mục cho đến khi cha thấy mỏi mệt… - Quá một phút rồi đấy. Giã từ nhé. Đừng ở giá. Tội nghiệp!
Người Em yêu thoăn thoắt bước lên cầu thang. Tiếng đế giày nện cồm cộp, nghiền nát con tim của Em. Em cắn môi, nuốt nước mắt. Tuyệt vọng! Tàn nhẫn vô cùng! Em lủi thủi ra về, Ngôi giáo đường đứng sừng sững, đáng ghét quá chừng. EM. Chiếc xe khách thả tôi xuống ở Quận 1, Sàigòn. Còn Em thì về bên Bình Thạnh. Tôi chẳng quen biết Em, nhưng vẫn muốn ngẫm nghĩ về Em.
Yêu linh mục là một tổng số sai lầm lớn:
Sai lầm 1: Lý tưởng linh mục cao đẹp hơn tình yêu vợ chồng nhiều lắm. Em yêu linh mục, nếu linh mục đáp lại tình yêu của Em là bỏ cái cao để chọn cái thấp. Tình yêu ấy chỉ là yếu đuối và mãi mãi chỉ là hối hận, là nuối tiếc. Em sẽ không hài lòng. Em sẽ bất mãn. Em cho đi tất cả mà chỉ nhận được một phần rất nhỏ. Bât công!
Sai lầm 2: Nếu không lấy được linh mục người yêu, Em phải chọn một người yêu khác để sống tình vợ tình chồng. Liệu Em có quên được người yêu lý tưởng, để sống trọn vẹn cho người đến sau không? Nếu không, mà thường là không, thì Em có bất công với người sau không? Và như thế có phải là Em ngoại tình từ xa, ngoại tình trong tư tưởng không?
Sai lầm 3: Em ở giá để mãi mãi thuộc về linh mục, người yêu của Em. Thật không? Hay đó chỉ là không tưởng? Em có đủ khả năng để cưỡng lại những yêu cầu tự nhiên của con người như tình dục, tình mẫu tử?
Sai lầm 4: Em sẽ ở yên, hay Em sẽ quậy để chiếm đoạt tình yêu của linh mục ấy? Dù Em thắng hay Em thua cũng đều rơi vào trạng thái hối tiếc cho cả đôi bên. Em hãy chọn một lý tưởng cao hơn ở giá. Khó lắm. Nhưng không còn lối thoát nào tốt hơn đâu. Chúc Em thành công.
Em ngồi trên ghế đá trước cửa nhà tôi. Bụng vượt mặt. Áo quần cũ kỹ. Tôi qua lại nhiều lần. Lần PiôHậu 278
Em ngồi trên ghế đá trước cửa nhà tôi. Bụng vượt mặt. Áo quần cũ kỹ. Tôi qua lại nhiều lần. Lần nào Em cũng mỉm cười với tôi. Tôi không nghĩ rằng Em đến đó để gặp tôi. Ghế đá là chỗ dừng chân cho người đi bộ hành mệt mỏi. Giản dị vậy thôi. Ai ngờ…
Khi ghế đá không còn đủ kiên nhẫn để cho Em ngồi mãi một cách vô duyên như thế nữa, thì Em đứng dậy đến gõ cửa phòng tôi, gãi đầu gãi tai, ngỏ bày nỗi lòng ướt đẫm mồ hôi trước mắt.
1. Chẳng biết tên thật của Em là gì, nhưng cả xóm, cả làng gọi Em là Mai-Liên, tức là Miên lai. Gọi mãi thành danh. Em chẳng buồn, vì Mai-Liên cũng có nghĩa là hoa mai và hoa sen. Đẹp tuyệt vời! Mai–Liên còn là cách phiên âm tên bà thánh Mađờlen. Tuyệt vời hơn nữa!
Cha Em là người dân tộc Khơmer đi gặt lúa mướn cho ông ngoại Em. Là người dân tộc, nhưng đẹp trai và ăn nói có duyên, nên đã làm say mê mẹ Em, lúc ấy đang tuổi xuân thì, một cô nữ sinh say mê đọc tiểu thuyết tình cảm, lãng mạn như những nhân vật tiểu thuyết, lý tưởng hơn hiện thực. Sau mùa gặt, chàng thanh niên Khơmer ôm vòng hái về Trà Vinh. Biệt tăm. Mẹ Em ôm hận, cắn răng chịu trận. Đành ở giá để sanh ra Em và nuôi em. Ông ngoại Em, một thành viên của Hội Đồng Giáo Xứ, phải làm đơn xin nghỉ việc, vì có con chửa hoang. Ân hận suốt đời. Cắng đắng khôn nguôi.
2. Cha Em quất ngựa truy phong, biệt tăm biệt tích, nhưng để lại cho Em nhiều dấu ấn. Nước da ngăm ngăm: đen dòn. Cặp mắt sâu thăm thẳm. Cái miệng chún chím: có duyên.
Người lớn tuổi trong họ đạo không quên nguồn gốc của Em, nên chỉ nhìn Em bằng một nửa con mắt. Giới trẻ thì mê Em như điếu, vì họ chẳng thèm biết quá khứ. Quá khứ chỉ là lạc hậu, chỉ là lỗi thời. Họ đua nhau tán tỉnh Em, nhưng Em chỉ yêu một người. Người ấy là Tuấn, con trai ông Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ. Mối tình giữa Em và Tuấn gây nên một trận cuồng phong dư luận. Con gái thèm pha vì ghen. Con trai châm biến vì ganh. Người lớn chê bai vì óc kỳ thị chủng tộc. Người quyết liệt phá đám là mẹ của Tuấn. Chỉ có một người đứng ra bênh vực mối tình đầu giữa Em và Tuấn. Đó là cha xứ. Nhưng cha xứ đành giơ tay đầu hàng sau một trận tranh luận với mẹ của Tuấn.
- Bà có biết là theo giáo luật thì cha mẹ không có quyền o ép và cấm cản con cái kết hôn không? - Thưa con biết. - Thế tại sao bà không cho thằng Tuấn lấy con Liên? - Con không cấm cản chúng nó lấy nhau, con chỉ nói với tụi nó rằng: “Nếu bay quyết định lấy nhau, thì cứ lấy, tao cho tiền tổ chức đám cưới đàng hoàng. Nhưng tao không có mặt trong đám cưới. Sau này sanh con, tao không bồn, không nhìn cháy. Vậy hôi”… Hồi đó con bị giặc Miên rượt đuổi, chạy chối chết. Bây giờ lại cưới dâu Miên thì… Thôi cha cứ làm phép cưới cho tụi nó, con chẳng cấm cản đâu… Nhưng cháu Miên thì con dứt khoát là không bồng.
3. Không thể thuyết phục được cha mẹ, không muốn làm cực lòng cha xứ, Tuấn và Em rủ nhau đi trốn. Hai đứa trốn cha mẹ, y như cha mẹ chạy trốn giặc Miên ngày xưa. Chỉ có một bộ đồ dính da. Vốn liếng chỉ có một sợi dây chuyền và một chỉ vàng. Bán sợi dây chuyền may được hai bộ đồ lao động. Bán chỉ vàng được căn chòi. Bây giờ Em mới hiểu thế nào là “Hai trái tim vàng dưới túp lều tranh”. Nghèo quá chừng, nhưng thương yêu da diết.
Em đi làm cỏ mướn, mỗi ngày kiếm được 15.000đ. Một tháng 30 ngày thì 20 ngày thất nghiệp. Tuấn đi đào mương, sên đìa mỗi ngày kiếm được 35.000đ. Mùa khô thì làm không hết việc. Mùa mưa thì ngồi ngắm mây bay, và giọt mưa rơi rơi. Rầu thúi ruột!
Em có bầu được sáu tháng. Mất một lao động. Sắp thêm một miệng ăn. Bối rối quá chừng!
Em đến gãi tai với tôi, xin tiền để về Sóc Trăng, nhận lỗi với cha mẹ… Tôi không cho Em một xu nào hết, nhưng làm bộ thưởng Em 100.000đ, vì Em và Tuấn đã yêu nhau thật và đã dám trả giá cao cho tình yêu chân chính ấy. Nhưng Em vẫn bị trừ điểm vì đã coi nhẹ luật Giáo hội.
EM.
Qua đường dây điện thoại, cha xứ của Em đã báo tin vui. Em và Tuấn đã được cha mẹ tha thứ. Hai đứa sẽ được lãnh Bí tích Hôn Phối trong một ngày rất gần. Mừng cho Em. Bây giờ mọi chuyện buồn đã lùi về dĩ vãng. Nhưng Em đừng quên dĩ vãng, vì dĩ vãng vẫn là bài học quý giá cho tương lai. Tôi đang suy nghĩ về dĩ vãng ấy.
1. Mẹ Em đã yêu và thấy tình yêu đẹp như mơ. Bà vội vã hiến thân cho người bà yêu để tình yêu được trọn vẹn. Thế rồi bà vỡ mộng và thấy tình yêu chỉ là mơ. Mơ thì không thật. Bà ân hận. Có lúc bà muốn chết để khỏi thấy đời đểu cáng, để khỏi nghe cha mẹ đay nghiến. Nhưng vì thương đứa con vừa mới tượng hình trong dạ, nên bà cắn răng để sống. Một bài học quá đắt về tình yêu!
Tình yêu là sinh hoạt chính của con tim, nhưng phải được lý trí làm cố vấn. Có lý trí can thiệp, thì tình yêu mất hứng một tí. Nhưng phủ nhận lý trí, thì tình yêu rơi tõm xuống vực thẳm.
2. Mẹ của Tuấn là mẫu người phụ nữ rất phụ nữ. Những kỷ niệm đau thương trong quá khứ không thể phai mờ. Bà ôm con chạy giặc Miên, bán sống bán chết, quên hết ruộng vườn… Chuyện ấy xa xưa lắm rồi, tưởng như không có trong lịch sử. Vậy mà hôm nay nó trỗi dậy, phát sinh thêm thành kiến chủng tộc, dây dưa sang nhân quyền, quyền tự do hôn nhân, lây lan đến cả Giáo luật. Bà cãi ngang, cả làng cãi không lại. Cha sở phải giơ tay đầu hàng, vì đầu hàng đàn bà thì lợi hơn chiến đấu… Đặng chẳng đừng! Khổ thật!
3. Mẹ thương con, bà thương cháu. Dù miệng vẫn xoen xoét “cháu Miên thì không bồng”, nhưng hôm nay, dâu Miên trở về, ột ệt cái bầu sáu tháng, mẹ của Tuấn quên hết hận giặc Miên để yêu cháu. Bà tha thứ, vì không thể không tha thứ. Không tha thứ thì mất cháu sao. Bà thương cháu hơn mẹ thương con, người ta bảo thế.
Em, chuyện đời là như thế đó. Ngẫm mãi chẳng hết. Vô cùng vô tận. Em cứ yêu, nhưng hãy ngẫm. Vừa ngẫm vừa yêu.
Hôm nay ngày 8 tháng 3, ngày của phụ nữ, ngày của Em. Sướng quá! Chồng Em tặng quà, lại PiôHậu 279
Hôm nay ngày 8 tháng 3, ngày của phụ nữ, ngày của Em. Sướng quá! Chồng Em tặng quà, lại còn bao trọn gói mọi công việc trong gia đình, để Em được tự do đi dạo trong siêu thị suốt một ngày, y như nàng tiên thơ thẩn bên ngàn hoa, vui đùa với bầy bướm trong vườn thượng uyển.
Siêu thị là một rừng hàng hoá. Hàng hoá nào cũng rực rỡ và bắt mắt chịu không nổi. Tính không mua, nhưng rồi lại mua. Mua mãi. Mua hoài. Không chán…
Mới mười giờ Em đã về tới nhà, rinh theo một đống đồ. Chồng Em nấu cơm, trợn mắt, há mồm.
- Ủa, tại sao Em không tận hưởng hết hạnh phúc của ngày phụ nữ? Về sớm quá làm chi vậy? - Đi chơi chán chết. - Em mua đồ gì mà nhiều dữ vậy? Xài làm sao cho hết? - Thấy đẹp thì mua. Không xài thì để đấy… Anh nghỉ tay để Em nấu cơm cho. EM.
Em háo hức chờ ngày 8 tháng 3, để được chồng tặng quà, để được hưởng một ngày tự do, không bị ràng buộc bởi công việc nội chợ chán ngắt. Nhưng khi Em đang tận hưởng hạnh phúc ấy, thì Em lại quay trở về, đòi làm nội trợ. Hỏi tại sao thì bảo là “chán chết”. Làm nội trợ thì chê là chán ngắt. Đi chơi siêu thị, thì bảo là chán chết. Tại sao chán? Câu trả lời phải bắt đầu từ đó. 1. Từ hơn một nửa thế kỷ nay, người ta nói rất nhiều về vấn đề giải phóng phụ nữ. Đức Gioan XXIII đã đánh giá cao phong trào này và gọi nó là dấu chỉ của thời đại. Nhưng tại sao phải giải phóng phụ nữ? Người ta đã giải phóng phụ nữ như thế nào? Có rất nhiều chuyện buồn cười xoay quanh vấn đề này. Chuyện đến từ phía đàn bà cũng như từ phía đàn ông.
1.1 Bà Sue, một nhân vật trong bộ sách Anh văn Streamline cứ ta thán với chồng và rồi khóc một cách tuyệt vọng, chỉ vì cứ phải lẩn quẩn trong nhà với những việc lặt vặt như cho con ăn, cho con ngủ, giặt đồ, rửa bát, nấu cơm, dắt chó đi dạo, đi siêu thị mua đồ… Những việc ấy cứ lặp đi lặp lại hôm nay, ngày mai, tuần này, tuần sau, tháng này, tháng khác, năm nay, năm tới, mãi mãi… Bà phân bì với chồng, vì chồng được đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, làm nhiều việc khác nhau. Bà chê đời sống của bà tẻ nhạt. What a life! Bà muốn được giải phóng. Thật là sai lầm!
1.2 Một bà mệnh phụ nói nhỏ bên tai những bà đồng trang lứa: “Tao mà được lên Thiên Đàng, thì tao sẽ hỏi Chúa một câu, chỉ một câu thôi: Chúa bắt đàn bà chúng mình phải “có tháng” để làm chi vậy?” Mọi người đều cưởi tủm tỉm tỏ vẻ đồng cảm, đồng ý. Giải phóng phụ nữ là thế ư? Khôi hài thật!
1.3 Rất nhiều phụ nữ trí thức không lấy chồng, vì gái có chồng như gông đeo cổ. Họ quyết tâm không sanh con, vì mang bầu, sanh con, cho con bú…mất nhiều thời giờ quá, không theo đuổi được sự nghiệp… Họ không lấy chồng, nhưng vẫn lấy đàn ông để hú hí. Họ không sanh con, nhưng vẫn có con nuôi để đáp ứng nhu cầu tâm lý tự nhiên. Giải phóng phụ nữ là vậy sao? Lạc đề!
1.4 Một người đàn ông nọ quả quyết rằng đàn bà phải thấp cơ hơn đàn ông và phải vâng lời chồng, vì khi chắp cánh liền cành, thì đàn bà phải tự định vị ở tầng trệt, còn đàn ông thì ở tầng trên. Tầng trên thì cao hơn tầng trệt. Ngụy biện! 2. Em là phụ nữ, Em hãy tự giải phóng. Nhưng đừng hành động theo cảm hứng, đừng a dua theo phong trào. Em hãy tìm lại bản thiết kế mà Thượng Đế đã vẽ khi sáng tạo nên Em.
2.1 Em hãy đứng trước tấm gương lớn. Xoay 90 độ về bên phải, ngắm một vài phút. Xoay 180 độ về bên trái, ngắm một vài phút nữa. Em sẽ phát giác ra ngay kế hoạch của Thượng Đế khi Ngài sáng tạo ra Em.
Nước da của em mịn màng và tươi mát. Đường cong thanh thoát và dịu dàng. Thể khối tròn trịa và mời gọi. Thiên Chúa mời gọi Em làm vợ và làm mẹ. Chỉ một mình Em có khả năng mang thai, sanh con, nuôi con và âu yếm con. Không ai có thể thay thế Em được. Tôi khẳng định với em như thế.
2.2 Em được chồng yêu thương và kính trọng, coi Em như đối tác bình đẳng để cùng nhau sanh con và giáo dục con cái. Chính chồng Em là người đầu tiên tham gia phong trào giải phóng phụ nữ, giúp Em làm tròn sứ mạng làm mẹ mà Chúa trao phó cho Em. Chính vì thế Em chán nản lang thang trong siêu thị, để trở về gia đình và âu yếm ngỏ lời với chồng “Anh nghỉ tay để Em nấu cơm cho”.
2.3 Bao lâu Em còn nuôi dạy con thơ, thì đừng bao giờ nhờ người khác thay thế, dù là cô giáo mầm non giàu kinh nghiệm và giàu tình cảm. Chẳng có cô giáo nào yêu bé cho bằng người mẹ. Mẹ là tất cả của tuổi thơ. Chẳng có sự nghiệp nào lớn hơn sự nghiệp làm mẹ. Đừng chê là chán ngắt, vì quá đơn điệu.
Người ta kể rằng khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII còn là Hồng Y Roncalli, ngài về thăm mẹ. Để làm vui cho mẹ già, ngài khoe cái nhẫn Tổng Giám Mục của mình. Bà mẹ không chịu thua, giơ lên cái nhẫn cưới mỏng tanh của mình hãnh diện tuyên bố: “Nếu không có cái nhẫn cưới này, thì không có cái nhẫn Tổng Giám Mục ấy”. Thật chí lý!
2.4 Em chỉ nên rời mái nhà, bước vào xã hội khi con cái đã khôn lớn. Em cứ làm kinh tế, chánh trị và tất cả những gì phù hợp với khả năng của mình, nhưng không bao giờ vì thế mà con cái bị thiệt thòi vì sự thiếu vắng của tình mẫu tử.
EM,
Tôi muốn nói với Em lời cuối, dù đó chỉ là một ý kiến thật nhỏ bé và vụn vặt. Em mua đồ nhiều quá?! Mua đồ không phải vì nhu cầu, mà chỉ vì tánh hiếu kỳ, chỉ vì cảm hứng nhất thời. Chồng Em không hài lòng lắm đâu. Mỗi lần mua sắm Em nên tự hỏi: Mua để làm gì? Mua đồ mà không xài thì làm lợi cho ai và làm nghèo cho ai?
Bị cúp điện. Trong nhà tối om. Tôi ra sân nhà thờ ngồi hóng mát và xem trăng. Gió lồng lộng. Trăng PiôHậu 280
Bị cúp điện. Trong nhà tối om. Tôi ra sân nhà thờ ngồi hóng mát và xem trăng. Gió lồng lộng. Trăng vằng vặc. Nếu không cúp điện, thì chẳng bao giờ tôi nhớ ra có những đêm đẹp như thế. Đang mải mê thả hồn vào cõi vô biên của trăng và gió, thì bỗng giật mình, vì có tiếng chào ở ngay sau lưng.
- Chào linh mục. - Ai nhỉ? À…chào anh Tư. Anh Tư có chuyện gì mà đến vào giờ này? - Tôi đi qua đây, thấy linh mục rảnh thì ghé thăm. Cũng có chút chuyện muốn nói với linh mục. - Mời anh ngồi đây. Ở ngoài này vừa mát vừa đẹp. - Tôi muốn linh mục giảng dạy ở nhà thờ, răn các em trong xóm đạo. - Bộ mấy cháu trong xóm đạo nó phá anh Tư hả? - Hổng có. Tụi nó chơi trò tàn nhẫn, nhét pháo vào miệng cóc rồi cho nổ. Cóc tét miệng, giãy tê tê. Tụi nó không biết thương con vật, lại còn cười đùa, mà người lớn không ai rầy. - Anh Tư có biết đứa nào không? - Thằng đầu xỏ là thằng Quân, con của con Thắm. - Cám ơn anh Tư. Tôi sẽ lưu ý chuyện này. EM,
Thằng Quân là con của Em. Nó là con nít. Con nít chơi trò tàn nhẫn là chuyện nhỏ. Nhưng người lớn không rầy thì là chuyện lớn. Em là người lớn. Tôi là người lớn. Tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi mong rằng Em cũng phải mắc cỡ như tôi.
1. Ông Tư theo đạo Phật. Ông học được đức từ bi của Đức Thích Ca, lòng từ bi ấy lồng lộng như trời đầy sao, bao trùm trên muôn người, lan toả đến cả con sâu con bọ. Cao cả vô cùng! Con sâu con bọ còn không nỡ tâm hành hạ, thì làm sao dám đày đoạ kiếp người, thất đức ngàn trùng!
2. Con của Em chơi trò tàn nhẫn. Bạn bè của nó hưởng ứng nhiệt tình. Chắc hẳn người lớn trong xóm đều biết. Tôi nghi ngờ là Em cũng biết. Thế mà không một người nào lên tiếng răn đe. Đáng buồn!
Con thú bị hành hạ, đó là hình ảnh bạo lực. Hình ảnh bạo lực trở thành trò chơi tiêu khiển của tuổi thơ ư! Nhiều thiếu niên phạm pháp từng xả súng vào đám người vô tội. Hỏi tại sao, thì các em trả lời là bắt chước cảnh giết chóc trong phim. Thậm chí có em còn cho rằng, đó là trò chơi giật gân, tạo cảm giác mạnh. Thích giết thì giết, vậy thôi. Nguyên nhân là chuyện trẻ con, mà hậu quả thì khôn lường!
3. Tôi không chủ trương cấm sát sanh, vì sát sanh là quy luật sinh tồn của muôn thú. Cọp vồ nai, mèo bắt chuột, cá đớp cá… Thiên nhiên đã an bài như thế. Ngành y tế là ngành sát sanh nhiều nhất và thường xuyên nhất. Sát trùng đã trở thành phản xạ của ngành y. Cũng chỉ vì muốn loài người tồn tại.
Nhưng tôi vẫn miên man nghĩ về luật cấm sát sanh của đạo Phật và muốn tìm ở đó một bài học cho tôi, cho Em và cho con của Em.
3.1 Mọi sinh vật đều là những thụ tạo quý giá vô cùng, phải được bảo tồn một cách cẩn trọng.
3.2 Nếu cần mất mạng sống một con thú, một con côn trùng…để phục vụ lợi ích chính đáng của con người, thì hãy làm thế nào để con vật ra đi mà không đau đớn và không để lại dấu ấn tàn nhẫn trong ký ức của bất cứ người nào.
3.3 Đày đoạ con thú là tiền nhân của tội ác đày đoạ con người.
EM,
Chúng ta hãy tạm gác mớ lý thuyết xa vời để trở về căn nhà của Em. Ở đó Em sẽ thấy ngay con người cụ thể là thằng Quân, con của Em và Em sẽ biết phải làm gì.
1. Quân rất thông minh vì có vầng tráng rộng. Nhưng khuôn mặt của nó không vuông vức như những người trầm tĩnh và giàu óc tổ chức. Khuôn mặt của nó mài mại giống lưỡi cày. Đó là mẫu người quậy phá. Hắn thích tìm niềm vui trên nỗi khổ của người khác. Nó đã từng chọi đá lên mái thiếc nhà bà Tư lựu đạn để nghe bà chửi bới. Chính nó cũng đã từng lấy cục gạch lớn xáng lên con chó cái nhà tôi đến trụy thai, chỉ vì một lời thách thức của bạn bè. Cũng chính hắn đã lấy trái mắt mèo trét lên ghế bà phước để bà phải gãi ngứa đến chảy nước mắt. Gãi ngay những chỗ không nên gãi. Còn hứn thì bụm miệng cười hí hí. Đắc chí…một cách vô tư.
2. Người ta méc Em về hết mọi trò chơi quá ác của Quân. Em chỉ thở dài: “Cha mẹ sanh con, trời sanh tánh”. Đó là cách chạy tội đơn giản nhất.
Nhưng tôi lại khoái thằng Quân của Em. Nó rất lanh trí và rất ngay thẳng. Dám nhận lỗi và chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Khi con chó cái nhà tôi xẩy thai, tôi nghi ngay cho hắn. Tôi kêu hắn tới và mở cuộc thẩm vấn:
- Con có biết tại sao con chó cái của cha bị xẩy thai không? - Con biết. Tại nó bị xáng nguyên một cục gạch. - Đứa nào xáng? - Con. - Tại sao con xáng nó? - Tại tụi nó thách con. - Như vậy thì con khôn hay dại? - Con dại. - Dại thì phải làm sao? - Thì chừa. - Bộ chừa dễ lắm sao? - Dễ ợt, muốn chừa là được.
Đó là Quân, con của Em. Nghịch như quỷ, nhưng rất chân thành và rất giàu nghị lực. Em chỉ cần thuyết phục được hắn nhìn nhận cái sai, cái dại của mình, hắn sẽ trở nên người tốt ngoài sự ước lượng của Em. Nhưng thuyết phục được hắn không phải là chuyện dễ đâu.