Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 201-240

Chủ nhật - 24/09/2023 11:02
Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 201-240
Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 201-240
Suy tư Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 201-240
----------------------------------
Mục lục:

PiôHậu 201: XƯNG TỘI VỚI LINH MỤC LÀ CHUYỆN BUỒN CƯỜI 2
PiôHậu 202: MẦU NHIỆM LÀ TUNG HỎA MÙ ĐỂ CHẠY TRỐN.. 6
PiôHậu 203: 7 LỜI CUỐI CÙNG CỦA CHÚA GIÊSU TRÊN THÁNH GIÁ.. 8
PiôHậu 204: ĐỪNG GỌI AI LÀ CHA.. 17
PiôHậu 205: TRUYỀN GIÁO VÀ TỰ LỰC MƯU SINH.. 20
PiôHậu 206: ĐẠO CÔNG GIÁO ĐẸP QUÁ VÀ XẤU QUÁ.. 23
PiôHậu 207: ĐI LANG THANG.. 26
PiôHậu 208: Lá Thư Ngỏ Gửi Thánh Gioan Tẩy Giả. 30
PiôHậu 209: PHỤC SINH VÀ VINH QUANG.. 33
PiôHậu 210: NGÔI MỘ VẮNG.. 37
PiôHậu 211: NÚI SỌ TRƯA HÔM ẤY.. 40
PiôHậu 212: TÒA ÁN CHÁNH TRỊ 42
PiôHậu 213: TÒA ÁN TÔN GIÁO.. 46
PiôHậu 214: CHÚA BỊ PHẢN BỘI 49
PiôHậu 215: ĐÊM CÔ ĐƠN VÔ CÙNG.. 53
PiôHậu 216: BỮA ĂN CUỐI CÙNG.. 56
PiôHậu 217: BỮA ĂN CUỐI CÙNG.. 58
PiôHậu 218: ĐÊM ĐẾN, NGƯỜI VỀ VƯỜN CÂY DẦU.. 61
PiôHậu 219: THẢM HỌA ĐỔ XUỐNG GIÊRUSALEM... 64
PiôHậu 220: NGƯỜI DÂNG CÚNG NHIỀU NHẤT.. 67
PiôHậu 221: GIẢNG VÀ KHÔNG GIẢNG.. 70
PiôHậu 222: CHÚA MÀ CŨNG NỔI NÓNG.. 73
PiôHậu 223: NHƯ MỘT ÔNG HOÀNG LÊN NGÔI 76
PiôHậu 224: MỘT CHAI DẦU QUÝ GIÁ.. 79
PiôHậu 225: CHÚA CHA YÊU TA NHƯ THẾ ĐÓ.. 82
PiôHậu 226: CẢ BA NGƯỜI KHÔNG TẾ NHỊ 85
PiôHậu 227: MỘT TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI 88
PiôHậu 228: MÙ MÀ THẤY, THẤY MÀ MÙ.. 91
PiôHậu 229: AI SẠCH TỘI THÌ NÉM ĐÁ TRƯỚC.. 94
PiôHậu 230: TRUYỀN GIÁO MÀ CŨNG PHE PHÁI 97
PiôHậu 231: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI 101
PiôHậu 232: KHI NÀO CHẾT?KHÔNG AI BIẾT.. 104
PiôHậu 233: HÃY TRỞ NÊN TRẺ THƠ.. 107
PiôHậu 234: HÔN NHÂN VÀ ĐỘC THÂN.. 110
PiôHậu 235: ÔI, TIỀN BẠC.. 113
PiôHậu 236: TIN TƯỞNG TUYỆT ĐỐI VÀO CHÚA.. 116
PiôHậu 237: CHẾT LÀ GIÁ CAO NHẤT.. 119
PiôHậu 238: HỦY BỎ LUẬT THANH UẾ.. 122
PiôHậu 239: CẦU NGUYỆN LA GÌ?. 125
PiôHậu 240: TẤN CÔNG TỚI TẤP. 128

-------------------------------

 

PiôHậu 201: XƯNG TỘI VỚI LINH MỤC LÀ CHUYỆN BUỒN CƯỜI

 

Một người đàn ông đồ sộ vỗ vai vào một ông linh mục, vừa hỏi vừa cười hóm hỉnh: -Chỗ anh em PiôHậu 201


Một người đàn ông đồ sộ vỗ vai vào một ông linh mục, vừa hỏi vừa cười hóm hỉnh:

- Chỗ anh em với nhau, tôi hỏi thiệt tình, anh đừng giận tôi nha.
- Chuyện gì mà vô đề long trọng dữ vậy?
- Tôi nghe người ta nói: đạo của anh bắt tín đồ có tội phải đi xưng tội với cha cố và cha cố tha tuốt luốt. Cái đó có không?
- Có. Thì đã sao nào?
- Thì đạo của anh buồn cười quá à.
- Những gì làm anh buồn cười, thì kể cho tôi nghe coi.
- Nhiều lắm. Thứ nhất: linh mục các anh là người như người ta; cũng biết ăn gian nói dối; cũng biết ngoại tình… thì tại sao lại dám ngồi tòa tha tội cho người gian dối, gian dâm?

-Ông chánh án ngồi tòa: tha bổng, kêu án tử hình, kêu án tù chung thân…, thì ông chánh án là người hay thiên thần?
-Ông chánh án cũng là người nên cũng có thể phạm tội, nhưng ông ngồi tòa với tư cách là đại diện công lý, đại diện cho dân.
-Thì linh mục chúng tôi có tha tội cho tín đồ với tư cách của cá nhân mình đâu. Chúng tôi tha tội nhân danh Chúa và do yêu cầu của Chúa. Đức Giêsu trước khi về trời đã nói với các Tông đồ rằng: “Điều gì chúng con tha dưới đất, thì trên trời cũng tha”.
-Tội phạm tới Chúa thì xưng với Chúa và xin Chúa tha, hà cớ gì Chúa lại trao quyền ấy cho các anh?
-Để tôi kể cho anh một câu chuyện:
Có một người mẹ đang mổ cá, tay dơ quá. Thằng cu tí của bà đang chạy chơi trên sân sũng nước vì trời mới mưa, bỗng té ạch một cái. Bà không muốn bỏ rổ cá đang
dang dở, vì con mèo cồ đang ngồi liếm mép. Bà kêu cô chị của thằng cu tí: “Hai! Con đi tắm cho em!”. Cô chị cũng chẳng sạch sẽ gì, mới quét chuồng heo xong, thoang thoảng mùi cháo thiu, vội vàng dìu cu tí đi tắm. Cu tí sạch boong, thay quần áo mới, tóc rẽ ngôi láng coóng, thơm thơm mùi nước hoa của mẹ, nhảy tưng tưng, cười toe toét, thương chị quá chừng.

Vậy đó. Bây giờ tôi hỏi anh: Ở trên đời này, có thằng cu tí nào thắc mắc với cô chị nó rằng: “Chị lấy quyền gì mà tắm cho tôi? Chị có sạch sẽ gì đâu mà dám tắm cho tôi, chải đầu cho tôi, thay đồ cho tôi, lại còn lấy dầu thơm của mẹ mà xức cho tôi nữa. Bày đặt!”. Xin lỗi anh. Nếu trên đời này có thằng cu tí nào nói như thế, thì nó chính là anh đấy.

-Anh trả lời hay. Cho anh mười điểm.
-Còn thắc mắc gì nữa nào?
-Thắc mắc thứ hai: Có tội thì phải phạt. Còn các anh thì tội gì cũng tha tuốt luốt. Như vậy là các anh vẽ đường cho hươu chạy, lại xúi người ta cứ phạm tội tối đa.

-Linh mục chúng tôi là chị của thằng cu tí. Cô chị chỉ mong muốn một điều là thằng em hết dơ. Dĩ nhiên là thằng cu tí chẳng muốn té. Nhưng có thể là nó sẽ còn té nữa. Nếu nó té nữa, thì cô chị lại tắm cho nó, an ủi và khuyên nhủ nó. Như vậy đâu phải là cô chị vẽ đường cho hươu chạy. Nói cho vui vậy thôi, chứ vấn đề tha tội trong đạo không đơn giản như thế. Theo giáo lý, thì muốn được tha tội, thì phải có điều kiện.

Điều kiện một là phải thành tâm sám hối, mà thành tâm sám hối, thì bao hàm việc quyết tâm chừa tội. Điều kiện hai là phải đền tội xứng đáng. Nếu ăn trộm, phá hoại thì phải bồi thường. Bồi thường tiền của. Bồi thường danh dự,…vân vân… xét về mặt tâm lý, người Công giáo xưng tội xong cảm thấy tâm hồn sung sướng, giàu nghị lực để tránh tội, chứ không có ý đồ phạm tội lại, phạm tội thêm. Đó chính là tâm tư của thằng cu tí sau khi được chị nó tắm cho. Chị tắm và em được tắm nảy ra một tình cảm rất thân thương. Thằng cu tí thấy mình sạch quá, đẹp quá thơm quá và chẳng muốn ở dơ chút nào.

-Cho anh thêm mười điểm nữa. Không ngờ mà đạo của anh vừa có tình vừa có lý. Và… bây giờ là thắc mắc thư ba. Nếu tôi là tín đồ Công giáo, tôi chỉ dám xưng ba cái tội lặt vặt thôi, còn tội quan trọng…, thì tôi hổng dám đâu.
-Ví dụ tội gì nào?
-Ví dụ tôi xưng tội ăn cắp xe của bố anh, mà em của anh là trưởng ban công an xã , thì thế nào anh cũng móc điện thoại di động gọi cho em của anh ngay. Ví dụ tôi xưng tội tó tí với em dâu của anh, thì thế nào anh cũng bật mí cho thằng em trai của anh liền. Đúng không nào?
-Chà. Kẹt dữ ạ.
-Vậy là anh thua rồi phải không?
-Có thể thua thôi, chứ chưa thua đâu. Nếu tôi vì quá thương bố mất xe, vì quá thương thằng em làm công an đang bí lối và thương thằng em trai bị vợ cắm sừng, thì tôi có thể làm bật mí tội của anh. Trong trường hợp này, theo Giáo Luật, thì tôi phạm một tội rất nặng. Tội này có tên là “Lỗi ấn tòa xá giải”. Sau khi phạm trọng tội này, tôi không thể đi xưng tội với bất cứ một linh mục nào. Tôi phải xin ơn tha tội nơi Tòa Thánh.

-Đã có một linh mục lỗi ấn tòa xá giải rồi?
-Ai và ở đâu?
-Một tín đồ ở miền Tây theo cách mạng, rải truyền đơn chống Pháp, đi xưng tội. Thế là ông cha báo cò Tây đến bắt, đầy ra Côn Đảo.
-Rải truyền đơn chống Pháp thì tại sao lại bảo là tội, tại sao lại đi xưng làm chi? Người làm cách mạng không lẩm cẩm như vậy đâu. Về vấn đề “lỗi ấn tòa” tôi khẳng định với anh rằng: linh mục là người, thì có thể phạm lỗi ấy. Nhưng trên thực tế, thì tôi chưa thấy xảy ra điều đó, dù bên Tây hay bên Đông, dù thời xưa hay thời nay. Ngược lại có nhiều linh mục vì bảo vệ ấn tòa mà lâm nạn. Tôi kể cho anh nghe hai chuyện thôi:

Chuyện một. Sau thế chiến thứ hai ở bên Ý xảy ra một chuyện rất thương tâm. Một linh mục chánh xứ đang làm việc tại bàn giấy. Vào lúc 20 giờ 30 có người gõ cửa. Mở cửa ra thì gặp người khách lạ xin xưng tội. Hắn quỳ mọp xưng tội rất vội vã, rồi vội vàng rút lui như người bị rượt đuổi. Hắn vừa đi khỏi thì cảnh sát tới.

-Thưa linh mục, vừa có một vụ cướp của, giết người xảy ra ở nhà ga. Theo kinh nghiệm chuyên nghiệp của chúng tôi, thì hắn còn lẩn quẩn đâu đây. Vậy xin linh mục giúp chúng tôi chu toàn nhiệm vụ.

-Tôi không biết.
-Ủa, sao lại có khẩu súng lục trong sọt rác này?
-Tôi không biết.
-Nếu là súng của linh mục, thì xin vui lòng cho chúng tôi coi giấy chủ quyền. Nếu không phải của linh mục, thì xin vui lòng cho biết ai là chủ của nó. Khẩu súng này mới xài tức thời, vì nòng của nó có mùi khen khét.
-Tôi không biết.
-Chúng tôi sẽ khởi tố linh mục về tội sở hữu vũ khí bất hợp pháp. Linh mục còn phải trả lời trước tòa: tại sao súng mới nhả đạn lại nằm trong sọt rác, dưới gầm bàn của linh mục, ngay sau thời gian có vụ nổ súng tại nhà ga. Quả thật, linh mục chánh xứ ấy phải đứng trước vành móng ngựa. Quan tòa và công tố viên đặt ra rất nhiều câu hỏi. Nhưng câu hỏi nào cũng được trả lời y như nhau: “Tôi không biết” – Cuối cùng tòa buộc hai tội: cướp của-giết người và khinh dễ tòa án. Rồi tuyên án tù chung thân.

Một linh mục đi tù chung thân vì tội giết người cướp của. Buồn quá! Nhục quá! Mà cũng oan khiên quá! Nhưng linh mục ấy đã cúi đầu chấp nhận chỉ vì lương tâm không cho phép bật mí bất cứ điều gì mình biết trong tòa xá giải.

Mười ba năm sau, tên trộm ấy ra tự thú. Linh mục đi tù oan được trả cả tự do lẫn danh dự. Chua quá! Nhưng cũng vinh dự quá!

Chuyện hai. Chuyện này xảy ra trong một gia đình bất hạnh. Ông chồng thì đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái. Bà vợ thì cắn răng chịu đựng. Chịu đựng mãi thành hiện tượng dồn nén. Dồn nén mãi thì phải bùng vỡ. Hôm ấy ông chồng đi chơi mãi tới quá nửa đêm mới về. Ông gọi cửa. Bà mở cửa. Ông vừa đưa đầu vào, thì một lưỡi dao phập xuống…

Cơn điên qua rồi, bà vợ khóc lóc thảm thiết. Bà đến nhà thờ xưng tội với cha xứ, rồi đi thú tội với công an xã. Công an xã mời linh mục chính xứ tới để bổ túc hồ sơ.
-Bà Nguyễn Thị M. khai rằng bà đã đi xưng tội, kể lể hết mọi hành vi tội ác. Vậy yêu cầu linh mục cho chúng tôi biết bà M. đã khai gì với linh mục?
-Tôi không biết.
-Đương sự đã khai với linh mục thì linh mục có nhiệm vụ phải khai với chính quyền, vì đây là vụ án quan trọng.
-Tôi không được nói, vì theo Giáo Luật, tôi không được làm lộ những gì người ta xưng trong tòa.

-Như vậy là ông coi thường chánh quyền. Nếu ông ngoan cố, tôi sẽ còng tay ông. Ông trưởng ban công an xã đập bàn, giận giữ. Ông chủ tịch mặt trận phải vội vàng chạy qua góp ý.

-Luật của đạo Thiên Chúa như vậy đó. Các anh cứ ghi nhận những gì bà M. đã khai – Bà M. đã tự thú, thì bà con giấu giếm làm chi. Lời khai của bà là đủ rồi.

-Thôi, cụ đi về đi.

Anh công an hạ giọng, gấp hồ sơ, đứng dậy, đi tìm điếu cày…

Ông cha xứ 90 tuổi ra về, lòng buồn man mác. Anh công an rít một điếu thuốc lào, lòng nhẹ lâng lâng.

-Tôi giải đáp như thế là hết rồi, hết ý rồi đấy. Anh vừa lòng chưa?
-Mới vừa lòng 90 phần trăm thôi.
-90 hay 100 đã là “bên tám lạng bên nửa cân”. Tôi mừng lắm rồi. Chào anh.

Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://nguoisamarinhanhau.com/.../nhung-cau-chuyen-hay.../

-------------------------------

 

PiôHậu 202: MẦU NHIỆM LÀ TUNG HỎA MÙ ĐỂ CHẠY TRỐN

 

Anh sinh viên Công giáo bị bạn bè tấn công tới tấp. 1. Tại sao Đức Maria sinh con mà vẫn còn PiôHậu 202


Anh sinh viên Công giáo bị bạn bè tấn công tới tấp.

1. Tại sao Đức Maria sinh con mà vẫn còn Đồng Trinh?

2. Tại sao ngôi Cha, ngôi Con và ngôi Thánh Thần đều là Chúa như nhau, mà cuối cùng chỉ có một Chúa?

3.Ổ bánh mì vẫn rành rành ra đó, mà lại bảo là Mình Thánh của Chúa.

Câu hỏi nào cũng hóc búa quá, anh sinh viên Công giáo chỉ biết trả lời nhỏ nhẹ:

- Đó là mầu nhiệm.
- Mầu nhiệm là gì?
- Mầu nhiệm là chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của lý trí loài người.
- Không biết thì giơ tay đầu hàng cho rồi, lại còn đổ thừa cho mầu nhiệm. Như vậy mầu nhiệm chỉ là chiến thuật tung hỏa mù để chạy trốn.
- Khi tôi nói “đó là mầu nhiệm”, tức là tôi đã giơ tay đầu hàng rồi đấy. Tôi đầu hàng. Anh đầu hàng. Mọi người đầu hàng. Lý trí loài người đầu hàng, đó là lẽ thường của số phận loài người.
- Như vậy là anh đánh giá thấp lý trí của loài người.
- Thì nó thấp thật chứ đâu phải là tôi bảo nó thấp đâu.
- Minh chứng coi.
- Đồng ý. Đây nhé.

1. Ông A.Einstein, một bộ óc được đánh giá là thông minh nhất của thế kỷ hai mươi, đã thú nhận rằng:

“Khoa học thế kỷ XX đã giải đáp được rất nhiều bí mật của vũ trụ. Nhưng những giải đáp này so với những cái bí mật còn lại thì chỉ là một giọt nước so với đại dương. Một giọt nước so với đại dương. Ôi khả năng của lý trí loài người”.

2. Alexis Carrel, giải Nobel 1912, nhìn ngắm những kỳ diệu của vũ trụ cực tiểu là thân xác nhỏ bé của con người, ông đã thảng thốt kêu lên “Ôi, con người là một ẩn số”. Đó là tựa đề của cuốn sách thời danh của ông, L’homme, cet Inconnu. Alexis Carrel, là một bác sĩ vô thần, đã theo đạo Công giáo, vì ông chứng kiến một hiện tượng khỏi bệnh mà khoa học không thể giải thích được. Ông phụ trách một toaxe chở bệnh nhân từ Paris về Lộ Đức. Trong số bệnh nhân này có một cô gái chân cao chân thấp, phải đi vẹo vọ. Thế mà sau khi cầu nguyện, hai chân cô lại dài ngắn bằng nhau, đi lại bình thường. Alexis Carrel, ngẩn ngơ. Lý trí của ông đầu hàng đức tin. Ông theo đạo và viết một tác phẩm lấy tựa đề là “Cầu nguyện” (La Prière).

3. Lecomte du NoÜy là một nhà sinh vật học nổi tiếng. Ông đã theo đạo. Hỏi tại sao thì ông trả lời “Vì trong đạo có nhiều mầu nhiệm mà tôi không hiểu được. Nếu tôi hiểu được, thì những mầu nhiệm ấy chỉ là những triết thuyết, những định luật khoa học, không đáng để tôi thờ…”.

4. Louis Pasteur vừa là cha đẻ của vi trùng học vừa là tín đồ khiêm tốn trước các mầu nhiệm của đạo. Có một giai thoại của ông như sau.

Một ông lão già, mặc áo bành-tô ngồi xù xù một đống trên xe lửa. Ông ngồi lần chuỗi một mình giống như ông hai lúa, lạc lõng giữa thành phố. Thấy thế, một anh chàng sinh viên đến gạ chuyện.

- Chào bác. Thời buổi này mà bác lần chuỗi thì lỗi thời lắm rồi. Bây giờ là thời buổi khoa học.

- Ủa, tại sao cháu nói vậy?
- Cháu đọc sách báo nhiều lắm.
- Thế hả? Vậy thì cháu cho bác mượn sách ấy đi.
- Xin bác cho cháu địa chỉ, cháu sẽ gởi sách tặng bác.

Louis Pasteur rút trong túi ra một tấm danh thiếp, rồi trao cho chàng sinh viên. Anh chàng đọc nhanh: “Louis Pasteur, Hàn lâm viện nước Pháp”. Đọc xong tấm danh thiếp, anh chàng sinh viên mắc cỡ chuồn lẹ…

Có lẽ sau đó Louis Pasteur khẳng định như sau: “Khoa học tinh thông đưa con người tới gần Chúa. Khoa học nửa vời đẩy con người xa khỏi Thiên Chúa”.

5. Newton, cha đẻ của toán học hiện đại, một nhà thiên văn, một triết gia. Ông tự chia cuộc đời thành hai giai đoạn. Từ 42 tuổi trở về trước: ông nghiên cứu về khoa học. Từ 42 tuổi trở về sau: ông nghiên cứu về tôn giáo. Ông say mê nghiên cứu quên cả chuyện lấy vợ. Mẹ hối lấy vợ, ông trả lời: “Con không có thời giờ để lấy vợ”. Nhìn ngắm vũ trụ của các vì sao, nhìn ngắm vẻ đẹp của trái đất, ông bị hớp hồn và thốt lên: “Tôi không cần tin có Chúa nữa. Tôi đưa tay ra chỗ nào, thì tôi cũng thấy Chúa ở đó. Tôi thấy Ngài trong một bông hoa, trong một cánh bướm…”.

6. Ngay trong lãnh vực khoa học thực nghiệm còn có biết bao nhiêu bí mật khoa học chỉ thấy hiện tượng mà không cắt nghĩa được. Hiện tượng cá hồi đi đẻ là một trong những bí mật ấy.

Cá hồi từ cửa sông, lội ngược hàng vài ngàn cây số, phải nhảy thác để về tới nguồn, nơi “chôn nhau cắt rún” của nó. Nó phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nó đẻ trứng. Trứng nở con. Cá con xuôi dòng về cửa sông. Hai năm sau nó lại mở cuộc hành trình đầy gian khổ và nguy hiểm để về nguồn, để đẻ… Tại sao thế? Các nhà khoa học vẫn làm thinh, suy nghĩ mà không trả lời được. Đó là mầu nhiệm của khoa học. Khoa học thực nghiệm mà còn có bí mật giống như mầu nhiệm, thì còn lạ chi,khi thấy trong tôn giáo có rất nhiều mầu nhiệm. Chỉ biết tin nhận. Còn hiểu biết thì đành để đấy. Đó là số phận của lý trí loài người. Loài người bị giới hạn trong vòng nhỏ hẹp giữa vũ trụ bí mật bao la. Khiêm tốn chấp nhận. Đừng bất mãn với số phận của mình.

Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://nguoisamarinhanhau.com/.../nhung-cau-chuyen-hay.../

-------------------------------

 

PiôHậu 203: 7 LỜI CUỐI CÙNG CỦA CHÚA GIÊSU TRÊN THÁNH GIÁ

 

Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, một ngày buồn sầu bi đát PiôHậu 203


Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, một ngày buồn sầu bi đát trong cái chết tang thương của Ngài. Chúng mình cũng xin tạm dừng tuần này, thay vào đó, xin mời ACE cùng suy niệm cuộc thương khó qua bài chia sẻ về 7 LỜI CUỐI CÙNG CỦA CHÚA GIÊ-SU TRÊN THÁNH GIÁ. Ước mong những lời này sẽ ăn sâu vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta, để hiểu Chúa hơn, yêu Chúa nhiều hơn, và luôn được nhìn thấy Ngài trong đời sống mỗi người chúng ta. Amen!

Mỗi Mùa Chay Thánh đến, trong Giáo hội Công giáo có vô số những cuộc tĩnh tâm, vô số những bái viết, bài suy niệm về Mầu nhiệm Khổ Nạn. Tất cả giục lòng tín hữu sống tâm tình CẦU NGUYỆN - ĂN CHAY - CHIA SẺ. Ở các giáo xứ trên hầu khắp nước Việt Nam, còn có những buổi Ngắm Thương Khó, những Chặng Đàng Thánh Giá, giúp cho tín hữu đi sâu vào cuộc khổ nạn của Đấng Cứu Độ đã vì yêu thương chúng ta mà chết tức tưởi đau đớn trên thập giá. BẢY LỜI NÓI TRÊN THẬP GIÁ của Chúa Giêsu Kitô vì thế được coi như di chúc thiêng liêng Người để lại cho Giáo Hội và cho mỗi môn đệ. Mỗi tín hữu đều đã nghe, suy niệm nhiều lần những lời này, nhưng đi sâu phân tích mỗi lời và tổng hợp lại, thì Paul Regard đã làm hết sức tốt, để người đọc thêm hiều biết và yêu mến, cũng như đem áp dụng vào đời sống của mỗi người.

1. Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm (Lc 23,34)

2. Quả thật, Ta bảo với anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng (Lc 23,43)

3. Thưa Bà, đó là con Bà - Đó là Mẹ của con (Ga 19,26-27)

4. Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, sao Người đã bỏ con? (Mt 27,46; Mc 15,34)

5. Ta khát (Ga 19,28)

6. Mọi sự đã được hoàn tất (Ga 19,30)

7. Cha ơi, Con phó tâm hồn của con trong tay Cha (Lc 23,46)

DẪN NHẬP

7 lời này - 7 lời tuyệt diệu - đó là những lời của Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Chúng cấu thành một cách nào đó, Di Chúc Tinh Thần của Đấng Cứu Độ.

Kinh Thánh, đáng kể là trong Thánh vịnh 22, đã lưu lại kỷ niệm về một số khá lớn những lời đáng ghi nhớ, nếu không phải ở trên môi, chí ít cũng ở trong tim của Đức Chúa đang chịu đau khổ và hấp hối. Theo Sách Thánh, có những lời cầu nguyện đích thực, mà Đấng Thánh và Người Công Chính đã làm vào lúc chịu khổ nạn nhưng không được ghi lại. Và sự hiện hữu của những lời cầu nguyện như thế không quên nâng cao vẻ vĩ đại huy hoàng của khổ hình và cái chết của Con Người và Vua các vua.

Nhưng theo lời chứng chính thức của các Phúc Âm, có 7 lời quan trọng hàng đầu thật sự phát ra từ môi miệng oai nghiêm của Đấng Cứu Độ từ trên cao thập tự giá. Nội dung của bảy lời này lại cung cấp một bản tóm lược sáng ngời giá trị Kitô giáo. Sẽ thích hợp nếu chúng ta tập trung chú ý vào bảy lời này và cách mà Kinh Thánh giới thiệu chúng cho chúng ta, mỗi câu ở đúng vị trí của nó.

Có 4 Phúc Âm cũng như có 4 khía cạnh con người Đấng Cứu Độ. Mỗi một trong 7 lời của Đấng Cứu Độ được gìn giữ trong khung thích hợp với nó. Vì thế, phải tìm ra thứ tự thời gian 7 lời này trong 4 bản văn tách biệt nhau.

Phúc Âm theo Thánh Matthêu đưa ra cho chúng ta như là Phúc Âm của Vị Vua Thiên Sai. Bản văn này chủ yếu nói với con cái Israel. Phúc Âm theo Tháhh Máccô là Phúc Am của Người Tôi Tớ Hoàn Hảo và Vị Tiên Tri của Đấng Hằng Có. Phúc Âm theo Thánh Luca cho chúng ta thấy nhân tính thánh thiện và vinh quang của Đấng Cứu Độ. Bản văn này được dành cho mọi người, không có phân biệt rõ ràng, với Dân Ngoại và với người Do Thái. Phúc Âm theo Thánh Gioan chỉ cho chúng ta thấy trên hết thiên tính của Chúa Giêsu: Đấng Cứu Độ xuất hiện ở đó như một con người (Ga 1,30) nhưng con người này là Con của Thiên Chúa Cha, là Vị Thiên Chúa trên trời hiển thị bằng xương bằng thịt.

Cũng cần nhận xét rằng Sách Thánh trình bày cho chúng ta cái chết của Đấng Cứu Độ, khi thì như một tổng thể đầy đủ, khi lại như một tổng thể gồm những phần tách biệt nhau. Khi nói với chúng ta, ở chương 2 Thư gửi tín hữu Philipphê (Pl 2,8), rằng Chúa Giêsu Kitô “đã trở nên vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”, thì Thánh Phaolô Tông Đồ nói về Thánh giá như một tổng thể đầy đủ không bị phân chia ra. Ngược lại, các Phúc Âm trình bày chi tiết những thời khắc và những cảnh tượng thập giá. Từ góc độ này, thứ tự thời gian của 7 lời này chia ra làm 3 phần nhỏ: trước, trong và sau 3 giờ chiều.

Sách Thánh ghi lại với một sự chính xác tột bực, vị trí chính xác của tất cả những lời này. Một chút do dự dường như chỉ được dành cho những lời “Thưa Bà, đó là con Bà” và “Đó là Mẹ của con”. Bản văn của Thánh Gioan không cho thấy một cách sáng sủa tuyệt đối rằng những lời này được tách ra khỏi những lời “Ta khát”. Nhưng sự việc này chẳng làm ta ngạc nhiên. Nó hoàn toàn tự nhiên. Và chính sự việc ngược lại mới làm cho ta ngạc nhiên. Phúc Âm theo Thánh Gioan không mô tả nhiều những đau khổ của Chúa Giêsu trong vườn hấp hối: mô tả này liên quan tới khía cạnh nhân tính con người Đấng Cứu Độ và đó không phải là đề tài của Thánh Gioan. Vị Thánh sử thứ tư này trình bày cho chúng ta cách chung và đặc biệt nhất trong những cảnh tượng thập giá, thiên tính của Chúa Giêsu và những gì liên kết vào đó. Thánh Gioan cũng không nói về cơn hấp hối của Đấng Cứu Độ ở Vườn Gietsêmani. Sự việc này hết sức nổi bật. Nghiên cứu sâu xa những lời Chúa Giêsu trên thập giá đàng khác chứng minh rằng lời mà Thánh Gioan thuật lại trong Ga 19,26-27, trong khi vẫn có chỗ được ghi trong Phúc Âm thứ tư lại thuộc về cũng một phạm trù đạo đức như 2 lời đầu tiên lưu giữa trong Lc 23,34 và Lc 23,43. Như vậy, có thể kết luận với xác suất cao vị trí thứ ba của các câu “Thưa Bà, đó là con Bà” và “Đó là Mẹ của con”.

Còn lại là phải đừng để lẫn lộn cảnh tượng được thuật lại trong Ga 19,25-27 với cảnh tượng ít đặc trưng hơn được Thánh Matthêu (Mt 27,55-56), Thánh Maccô (Mc 15,40-41) và Thánh Luca (Lc 23,49) thuật lại. Trong Ga 19, các người nữ “đứng sát thập giá”. Trong Mt 27, Mc 15, Lc 23, các phụ nữ mà danh sách không hoàn toàn giống như danh sách trong Phúc Âm Gioan, “nhìn từ xa”.

Lời thứ tư, lời tóm tắt lại nỗi đau buồn khốn cùng buốt nhói của Đấng Cứu Độ sau 3 giờ chiều, nghĩa là tiếng kêu diễn tả tất cả những đau đớn và những đau khổ Người chịu lúc hấp hối, tìm thấy ở hai Phúc Âm. Sự hiện diện ở cả hai nơi tạo ra một ngoại lệ độc nhất trong loạt 7 lời, làm nổi bật tầm quan trọng của lời thứ tư. Trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu, những chữ “Thiên Chúa của tôi, Thiên Chúa của tôi” cho thấy được dịch từ tiếng Do Thái cổ (Hebreu), trong khi phần còn lại được dịch từ tiếng Aram, trước khi dịch sang tiếng Hylạp. Trong Phúc Âm theo Thánh Maccô, câu nói tiếng Dothái đi trước bản dịch Hylạp là hoàn toàn bằng tiếng Aram. Chúng ta sẽ thấy rằng không phải sự việc này sẽ không được giải thích. Cuối cùng cần lưu ý, giữa những cái chung chung này, rằng Chúa Giêsu ở trên thập giá, đã nói “Cha” khi Người nói với Thiên Chúa trước 3 giờ chiều (Lc 23,34) hoặc sau 3 giờ chiều (Lc 23,46). Nhưng vào lúc 3 giờ chiều, Đấng Cứu Độ chỉ có thể nói “Thiên Chúa của tôi” (Mt 26,46; Mc 15,34). Trong lúc 3 giờ chiều, “bị nên tội vì chúng ta” (2 Cr 5,21), “mang lấy tội lỗi của chúng ta nơi thân xác Người trên cây gỗ giá” (1 Ph 2,24), Đấng Thánh và Đấng công chính, bị Thiên Chúa Uy Hùng của Người bỏ rơi và xa lánh, đã bị lấy mất sự hiệp thông hạnh phúc với Cha Người, sự hiệp thông trong đó Người đã luôn sống và ngợi khen tôn vinh Chúa Cha. Sự khác biệt này chỉ cho biết lợi ích và sự cần thiết nếu sắp xếp 7 lời này của Chúa Giêsu thành 3 phạm trù: trước, đang và sau 3 giờ chiều. Với những cân nhắc suy xét trên đây, bây giờ chúng ta phải đi vào nghiên cứu chi tiết mỗi một trong 7 lời này của Chúa Kitô trên thập giá và bối cảnh nó thuộc về. Sau đó sẽ hợp nhất lại trong một tổng hợp rộng rãi cả 7 lời này và sẽ rút ra từ nghiên cứu của chúng ta kết luận thực hành.

Do điều kiện hạn chế về chủ đề và thời gian, không thể triển khai rộng rãi về TỪNG LỜI CHÚA GIÊSU NÓI TRÊN THẬP TỰ GIÁ, ĐỂ CHỈ GIỚI THIỆU TỔNG HỢP, xin thông cảm. Đa tạ.

TỔNG HỢP

Nghiên cứu riêng biệt mỗi một trong 7 lời của Đấng Cứu Độ chịu đóng đinh đem lại nhiều kết quả. Nhưng chỉ suy niệm từng lời một của Đức Chúa trên thập giá mà thôi, thì chưa đủ. Còn phải đưa ra ánh sáng sự hài hoà siêu phàm của mà chúng chung nhau tạo thành. Tiếp theo 7 chương dành cho việc nghiên cứu 7 lời tách riêng ra, phải có một chương tổng hợp kèm theo.

7 lời của Chúa Giêsu trên thập giá cấu thành một tổng thể tuyệt vời. Trong tổng thể này, vừa là một vừa là tất cả, vốn cung cấp một tóm lược hùng vĩ của Kitô giáo, mỗi một trong các lời này có đươc vị trí riêng của nó và còn hơn thế nữa, hợp thành nhóm với các lời nói khác thành những phạm trù riêng biệt.

Không cần phải quay lại 3 nhóm nhỏ theo thứ tự thời gian mà chúng ta đã nêu ra ở đầu công trình này (trước - đang - sau 3 giờ chiều - BTGH). Tầm quan trọng chúng trình ra đã được đặt vào chỗ hợp pháp của nó, trong phần Dẫn nhập. Và như đã thảo thuận, chính theo thứ tự lịch sử mà trong khi nghiên cứu, chúng at đã duyệt qua 7 lời nói, từng lời một.

Không có lợi để nhấn mạnh về sự việc là một số trong 7 lời nói này (lời thứ nhất, lời thứ tư và lời thứ bảy) đặc biệt hướng về Thiên Chúa, trong khi một số khác (lời thứ hai và lời thứ ba) nói với con người; những lời khác (nghĩa là lời thứ năm và lời thứ sáu) không có địa chỉ đặc biệt nào.

Điều quan trọng, ấy là phân chia theo nội dung thiêng liêng của chúng, 7 lời của Chúa Giêsu trên thập giá thành hai loạt lớn, mà sự hiện hữu và sự tách rời được xác định một cách rõ rệt và càng rạng ngời oai phong khi chúng hoà hợp với những dữ liệu theo thứ tự thời gian mà 7 chương đầu dựa vào. Hai loạt phải chịu áp đặt trật tự tinh thần và thiêng liêng đi theo trật tự lịch sử, không hoà trộn và không xung khắc loại trừ nhau. Một sự hoà hợp như thế đáng được nhấn mạnh, vì nó làm tăng một cách đặc biệt độ chính xác và sự mạch lạc của một chủ đề đáng ngưỡng mộ trong tất cả mọi chủ đề.

Được xem xét theo nhóm, từ góc độ chính yếu này, 7 lời Chúa Giêsu noi trên thập giá chia thánh nhóm nhỏ, và sau đó, hợp nhất lại theo cách sau đây: Những lời này tóm tắt lại những công trình sự sống và làm thành loạt thứ nhất. Những lời khác chỉ cho biết những tính chất sự sống và tạo thành loạt thứ hai. Kết hợp chung lại với nhau, cả hai loạt cấu thành kiến thức thực tiễn của cuộc sống Kitô giáo, mà Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đích thân biểu thị với đức tin của chúng ta như một kiểu mẫu hoàn hảo và như suối nguồn không bao giờ khô cạn.

Trong 7 lời này, thì 3 lời đầu tiên:

1. Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm (Lc 23,34)

2. Quả thật, Ta bảo với anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng (Lc 23,43)

3. Thưa Bà, đó là con Bà - Đó là Mẹ của con (Ga 19,26-27)

cho thấy những công trình cuộc đời tuôn trào một cách nào đó từ cái chết của Đấng Cứu Độ. Đó là những biểu hiện sinh lợi của ân súng. Sự tha thứ các xúc phạm, việc được vào thiên đàng, những mối liên hệ nối kết các tâm hồn xuất hiện với chúng ta như là 3 công trình siêu vời của Kitô giáo.

Trong 7 lời này, thì 4 lời cuối cùng:

4. Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, sao Người đã bỏ con? (Mt 27,46; Mc 15,34)

5. Ta khát (Ga 19,28)

6. Mọi sự đã được hoàn tất (Ga 19,30)

7. Cha ơi, Con phó tâm hồn của con trong tay Cha (Lc 23,46)

mô tả bản chất và những đặc tính của đời sống Kitô hữu.

Đau khổ - tuyệt đối trong trường hợp của Chúa Giêsu bị Thiên Chúa bỏ rơi trong 3 giờ hấp hối - cơn khát, công việc hoàn tất, sự lệ thuộc với Chúa Cha trên trời cho đến giờ cuối cùng trên thế gian làm thành một nguồn mạch các công trình đời sống.

Cần phải lưu ý rằng, trong dãy tiếp nối những lời Chúa Giêsu xướng từ trên cao thập giá, những lời liên quan đến sự sống đi trước những lời liệt kê những đặc tính của đời sống Kitô hữu.

Sự việc này, với tầm vóc đáng kể, đánh động chúng ta mạnh mẽ nhất, nhưng không gây cho chúng ta chút ngạc nhiên nào. Nó được giải thích ngay tức thì: hiển nhiên bản thân Chúa Giêsu không cần đến các nhân đức cái chết của người để hoàn tất các công trình sự sống. Hoàn tòan tự nhiên là sự biểu thị các công trình cuộc sống đi trước sự chỉ dẫn của thiên nhiên và của các đặc tính đời sống trong trường hợp độc nhất vô nhị của Đấng Cứu Độ. Chẳng phải Người là Con Người Thánh Thiện, hoàn hảo, hiển vinh, được miễn trừ mọi tội lỗi (x. 2 Cr 5,21; Dt 4,15) đó sao? Chẳng phải Người là Con Duy Nhất của Chúa Cha, Đấng Thiên Chúa nhập thể đó sao?

Với chúng ta, mà ân sủng Thiên Chúa kêu gọi, mặc cho sự mỏng giòn yếu đuối của chúng ta, để thể hiện lại một cách nào đó có thể, những nét riêng biệt đã chiếu sáng trong cuộc đời và trong hy lễ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, với sự tròn đầy không thay đổi của một vẻ sáng ngời khôn sánh, thì việc thực hành những công trình trong đời nhất thiết phải theo các tính cách cuộc đời và cái chết của Đấng Cứu Độ.

Đó chính là những gì sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy khi thuật lại cuộc tử vì đạo của Stêphanô:

Hai lời nói được chứng nhân trung thành của Chúa Giêsu Kitô xướng lên:

“Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn con” (Cv 7,59)

“Lạy Chúa Giêsu, xin đừng quy tội cho họ” (Cv 7,60)

nhắc nhở chúng ta một cách hết sức gần gũi 2 trong các lời Chúa Giêsu nói trên thập giá:

Lời thứ bảy: “Cha ơi, con phó tâm hồn của con trong tay Cha” (Lc 23,46)

Lời thứ nhất: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm” (Lc 23,34)

Vì lý do vừa nêu trên, những lời nói này được trình bày cho chúng ta theo thứ tự ngược lại.

Ngoài khác biệt về thứ tự, cũng cần để ý những khác biệt về chi tiết.

Khi thốt lên lời thứ nhất và lời thứ bảy, một lời trước, còn lời kia sau 3 giờ chiều, Đấng Cứu Độ chịu đóng đinh nói với Thiên Chúa Cha.

Thánh Stêphanô, cả trong 2 lần, cầu khẩn Đức Chúa.

Sự tôn kính mà Stêphanô dành cho Danh Vị Đức Chúa của Chúa Giêsu Kitô mang một vẻ đẹp hết sức cảm động. Đó mới chính là chết vì Đức Chúa và lệ thuộc vào Đức Chúa. Thánh Stêphanô cung cấp minh hoạ được nói trước cho lời giảng dạy về sau của Thánh Tông Đồ Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 14,7-9). Stêphanô một cách nào đó nhận ra rằng chúng ta thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,23). Stêphanô không phó linh hồn Ngài với sự làm chủ vĩ đại này vốn là đặc điểm tự nhiên của Con Người hoàn hảo. Ngài hết lòng khiêm nhường cầu xin Đức Chúa nhận lấy linh hồn Ngài.

Chúa Giêsu nói: “Xin hãy tha cho chúng” với sự thoải mái và với quyền uy chỉ có nơi kẻ mà ý chí hoàn hảo con người hoà hợp với ý chí hoàn hảo Thiên Chúa. Thánh Stêphanô thì khiêm nhường thưa: “Xin đừng trách phạt họ vì tội này” và để cho chính Đức Chúa quyền quyết định. Chữ nguyên thuỷ được dịch thành “trách phạt” (imputer) trong đạo này liên tưởng đến những cân nhắc của Chúa Giêsu.

Linh đạo cao cả và tinh khiết, trong sáng và rạng ngời dường ấy của Vị Tử Vì Đạo tiên khởi này là hoa trái của một sự hiệp thông ưu việt với Đức Chúa hiển vinh. Chứng từ của Stêphanô cho chúng ta thấy các nhân đức mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đem ra thực hành, mỗi người theo chừng mực của mình.

Gương sáng này và lời kêu gọi này rất long trọng. Là những người được hưởng sự sống của Chúa Kitô và những kết quả vẻ vang của cái chết trên thập giá của Người, chúng ta được kêu gọi ngày lại ngày trong cuộc sống trần gian, thể hiện những đặc tính ấy và hoàn tất những công trình đời sống Kitô hữu. Thiên Chúa còn để chúng ta sống trong thế gian này chính là để phản ánh những nét của Chúa Kitô, Đức Chúa và là Đấng Cứu Đô chúng ta, Con Một Yêu Dấu của Người (x. 2 Cr 2,14-36; 4,6-10). Và chính ví cứu cánh này mà “Thiên Chúa vĩ đại và Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Đô của chúng ta” (Titô 2,13) đã nói trước cuộc khổ nạn: “Hãy học với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).

Được nghiên cứu từng lời một dưới ánh sáng những dữ liệu chung vốn phối hợp chúng về mặt lịch sử, như trong nhóm công việc này; được quy tụ lại theo nguyên lý tinh thần và thiêng liêng - như trong chương 9 này - thành 2 nhóm, một chỉ cho biết các công trình, một còn lại chỉ cho biết những đặc tính và bản tchất của đới sống Kitô giáo; sau đó được hợp nhất lại và bằng việc nối lại mối quan hệ giữa 2 nhóm, làm thành một sơ lược lớn lao của Kitô giáo, 7 Lời Chúa Giêsu nói trên thập giá bằng nhiều cách, cấu thành một chủ đề được xác định một cách rõ ràng, một chủ đề có những đường nét riêng, tự nó thoả mãn cho mình và có tầm quan trọng hàng đầu.

Tuy vậy, bản tổng hợp còn có thể mở rộng thêm một cách nhất định. Trước Calvariô có Giêtsêmani và Con Đường Thương Đau.

Những Lời Chúa Giêsu nói trong Vườn Giêtsêmani và trên Con Đường Thương Đau, thực tình mà nói, không thể chỉ được đưa vào như là cộng thêm vào trong tổng thể tuyệt vời mà chúng ta vừa đánh dấu sự hiệp nhất và nhấn mạnh sự tròn đầy. Nhưng theo Kinh Thánh, có thể cho phép những lời ở Vườn Giêtsêmani và những lời trên Con Đường Thương Đau cung cấp một lời mở đầu kép cho 7 lời trên thập giá.

Hiển nhiên là những lời nói ở Vườn Giêtsêmani và những lời nói trên Con Đường Thương Đau cho phép học hỏi từ trường lớp của Chúa Kitô những điều kiện tiên quyết của cuộc sống Kitô hữu. Chúng bao hàm một loại chuẩn bị cho việc nghiên cứu học hỏi sự hiểu biết thực tiễn cuộc sống Kitô hữu phát xuất một cách rõ ràng từ 7 lời Chúa Giêsu nói trên thập giá và hình thành một tổng thể riêng ra. Chính với danh nghĩa này - và chỉ với danh nghĩa này mà thôi - mà ta có thể nói về một lời dẫn nhập kép cho 7 lời trên thập giá mà không trộn lẫn từ những chủ đề độc lập.

Tưởng cũng nên lưu ý rằng những lời nói ở Vườn Giêtsêmani hoặc trên Con Đường Thương Đau không được trình bày dưới hình thức ngắn gọn súc tích như 7 lời trên thập giá. Sự khác biệt này có tầm quan trọng và những lý do riêng của nó. Đó là những tính chất đặc thù chúng có được một cách rõ nét đến nỗi chúng làm cho 7 lời trên thập giá trở thành một đề tài độc nhất, một tổng thể tách hẳn ra.

Chắc chắn là những người được Chúa Giêsu cứu chuộc sẽ được lợi nhiều khi qua Giêtsêmani và Con Đường Thương Đau trước khi đứng suy gẫm trên Calvariô, dưới chân thập giá.

Nhưng không nên tìm kiếm trong công trình này một nghiên cứu sâu xa và đầy đủ những bản văn thuật lại cho chúng ta những lời của Đấng Cứu Độ ở Vườn Giêtsêmani hoặc trên Con Đường Thương Đau. Chúng ta chỉ giới hạn ở những nhận xét ngắn về các sự việc liên quan đến đề tài của chúng ta.

Ba Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại những lời của Đấng Cứu Độ ở Vườn Giêtsêmani (Mt 26,36-46; Mc 14,32-42; Lc 22,39-46). Câu chuyện được thuật ở 3 nơi này mời gọi phân biệt một đàng những liên lạc truyền đạt của Chúa Giêsu cho các môn đệ; đàng khác là những lời cầu khẩn của Con Người với Chúa Cha của Người.

Trong những lời của Đấng Cứu Độ nói với các môn đệ của Người, điều quan trọng hơn hết đối với công việc này, đó là câu 35 trong trình thuật Thánh Matthêu: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy”, cũng có câu tương tự trong trình thuật Thánh Maccô - c.34: “Linh hồn Thầy buồn đến chết; hãy ở đây và hãy thức”. Nhưng sau chữ “hãy thức”, bản văn của Thánh Maccô không có cụm từ “với Thầy”. Ở trong trình thuật Thánh Matthêu, nó lại là một nét đăc thù cần lưu ý đối với vấn đề chúng ta đang quan tâm, vì những chữ đó (cùng Thầy) đánh dấu một cách hết sức sáng sủa điều kiện mà Chúa Giêsu định cho chúng ta. Những chữ “cùng Thầy” diễn tả ý tưởng kết hợp và tham dự với Chúa Giêsu vào thời khắc gay go nhất, lúc mà linh hồn sầu khổ của Chúa Giêsu ý thức được hết nỗi kinh hoàng sắp đến gần của việc Người bị Chúa Cha bỏ rơi giữa những nỗi thống khổ của cực hình thập giá trong bóng tối hấp hối. Ở với Chúa Giêsu trong giờ cảm nhận trước, giờ buồn sầu, khắc khoải khổ đau và kinh hãi là một vinh dự mà cơn buồn ngủ nặng trĩu của các môn đệ, 3 lần liên tiếp, tỏ ra không thể nhận thấy được ân sủng và không thể nếm cảm được tính chất tuyệt diệu. Hậu quả của một thái độ như vậy là khi gần đến lúc bị đóng đinh, tất cả các môn đệ - kể cả Phêrô, Giacôbê và Gioan - đã bỏ Đấng Cứu Độ và trốn mất (Mt 26,56; Mc 14,50). Chúa Giêsu trong cơn khốn cùng đã tìm những người an ủi và đã chẳng tìm được (x. Tv 69,20).

Paul Regard (http://www.bibliquest.org/Regard/Regard-Sept_paroles.htm)
BTGH chuyển ngữ và giới thiệu

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://www.simonhoadalat.com/.../Mua.../53BayLoiCuoiCung.htm

-------------------------------

 

PiôHậu 204: ĐỪNG GỌI AI LÀ CHA

 

Một ông linh mục và một ông mục sự gặp nhau. Hai ông cùng hì hục loan báo Tin Mừng trên một PiôHậu 204-W


Một ông linh mục và một ông mục sự gặp nhau. Hai ông cùng hì hục loan báo Tin Mừng trên một cánh đồng truyền giáo bao la bát ngát. Hai ông thương nhau lắm, nhưng thỉnh thoảng cũng cắn nhau đau. Hai ông chia sẻ Lời Chúa, nhưng lâu lâu lại lấy Lời Chúa ra mà nhéo nhau. Bên này lấy Lời Chúa ra để đánh, thì bên kia lấy Lời Chúa ra để đỡ. Đánh - đỡ chan chát.

Ông mục sư trẻ thông minh với vầng trán cao, nhưng lại hiếu thắng với khuôn mặt tam giác lộn ngược. Ông tung chưởng trước.

- Tại sao bên Công giáo ông lại bắt giáo dân gọi linh mục là cha?

- Tôi bắt giáo dân gọi tôi là cha hồi nào?

- Già như ông thì gọi là cha, thì còn tạm được. Có những linh mục mới ra trường, mặt non choẹt, mà cũng để ông già gọi mình là cha, mà không mắc cỡ. Cứ tỉnh bơ…khiến tôi phải mắc cỡ giùm.

- Bố tôi lớn hơn thầy giáo của tôi những hai chục tuổi. Vậy mà bố tôi cứ gọi ông thầy là“Thầy” một cách rất tự nhiên. “Mời thầy vào nhà tôi uống nước”; “Khi nào rảnh, mời thầy ghé nhà tôi chơi”; “Cháu mỗ nhà tôi nghịch lắm, xin thầy cứ thẳng tay sửa trị nó”. Nghe cách xưng hô ấy của bố tôi, thầy giáo dạy tôi vẫn tỉnh bơ, không mắc cỡ, mà tôi cũng chẳng mắc cỡ giùm. Xã hội chấp nhận như thế.

- Xã hội chấp nhận, nhưng Chúa không chấp nhận thì sao?
- Chúa không chấp nhận hồi nào?
- Ông quên Lời Chúa rồi. Chúa dạy rằng: “Đừng gọi ai dưới đất này là cha, vì chỉ có một Cha ở trên trời mà thôi. Tất cả mọi người chỉ là anh em”.
- Chúa cũng dạy rằng: “Đừng gọi ai là thầy, vì chỉ có Đức Kitô là Thầy”. Vậy tại sao bên Tin Lành của ông lại gọi ông là thầy?
- Tín đồ Tin Lành gọi tôi là thầy hồi nào?
- Không gọi là thầy, nhưng lại gọi là mục sư. Sư chẳng là thầy, thì là cái gì?
- Thế thì cả Công giáo và Tin Lành đều sai. Huề
.- Cả hai bên đều không sai.
- Lời Chúa nói rõ như vậy mà không sai sao được.

- Lời Chúa là vậy. Nhưng ý của Ngài thì không phải như vậy…(ông linh mục im lặng một phút rồi nói tiếp). Tôi xin hỏi ông: “Chúa dạy ta đừng gọi ai là cha…”, vậy thì Chúa gọi Joseph là “anh” hay là “cha”; Chúa gọi bố của Joseph là “ông nội” hay là “anh”. Cũng vậy phải chăng Ngài gọi Maria, bà nội, bà ngoại, thím, cô, dì… đều là “chị” hết? Khi đến nguyện đường, phải chăng Ngài gọi các rắpbi là “anh” tuốt luốt?

- Thế mới kẹt đấy. Tôi chịu thua ông. Ông thắng tôi 1-0. Người già khôn thật. Ông thắng tôi vì ông già hơn tôi, chứ không phải Công giáo thắng Tin Lành đâu nha.

- Thôi, đừng đùa dai nữa. Chúng mình là anh em, nên không có chuyện “thắng - thua”, mà chỉ có chuyện đúng hay sai thôi. Chúng ta nghiêm chỉnh tìm hiểu Lời Chúa, Ý Chúa và Tâm của Chúa.

1. Lời Chúa dạy ta “Đừng gọi ai dưới đất là cha”; “Đừng gọi ai dưới đất là thầy”; “Tất cả chỉ là anh em” rõ ràng là cách nói cường điệu, không nên áp dụng theo nghĩa đen. Nếu trong thực tế, chúng ta gọi tổng thống, chủ tịch nhà nước, ông cố, ông sơ, giáo sư, thằng cu tí…là “anh” tuốt luốt như nhau, thì thế giới này sẽ loạn xà ngầu. Và… chẳng ai theo đạo Chúa đâu.

2. Ý Chúa muốn chống lại tánh tự cao tự đại của các ông kinh sư và Pharisêu thời ấy. Cái tính “cha chú” mới là đối tượng chống đối của Chúa, chứ không phải là cái từ cha và chú. Chúa cũng rất dị ứng với cái tính tự cao tự đại, cho mình là người nắm được chân lý. Không có mặc khải trọn vẹn trong Môsê và trong các đệ tử của ông ấy. Chỉ có mặc khải trọn vẹn trong Đức Kitô mà thôi. Bằng chứng cụ thể là Chúa đã nói “không” với Môsê nhiều lần.

a) Môsê cho phép ly dị. Chúa thì dạy rằng: “Điều gì Thiên Chúa nối kết thì con người không được tháo gỡ”. Còn tại sao Môsê cho phép ly dị, thì Chúa bảo rằng: “Vì sự cứng lòng của các ngươi, mà Môsê đã viết ra điều ấy”.

b) Môsê bảo phải kiêng đồ uế. Ông đã viết 43 câu trong sách Lêvi chương 11. Chúa hủy bỏ hết chương 11 ấy bằng một câu gọn lỏn: “Mọi đồ ăn đều thanh sạch hết” (Mc 7,19).

c) Môsê không cho trị bịnh ngày Sabát. Chúa phá luật này bằng một câu có vẻ châm biếm “Luật các ông cho phép dắt con lừa đi uống nước vào ngày Sabát. Nếu con lừa sa xuống hố vào ngày Sabát cũng được kéo nó lên. Vậy tại sao lại không được cứu người trong ngày Sabát”. Ý Chúa muốn nói rằng Luật coi con lừa hơn con người.

d) Môsê ra lệnh ném đá người ngoại tình. Chúa phản đối bằng một lời thách thức: “Ai trong các ông vô tội, thì ném đá trước đi”. Lời ấy thách thức các ông Kinh sư và Pharisêu. Nhưng cũng là thách thức cả Môsê nữa. Dứt dây động rừng là vậy.

Như vậy Môsê, các sứ ngôn chưa phải là thầy. Các ông kinh sư và Pharisêu càng không phải là thầy dạy chân lý. Cái đầu tương đối thì không thể dạy chân lý tuyệt đối được. Vậy mà các ông kinh sư cứ tưởng giáo huấn của mình là chân lý rồi. Chúa chống lại cái ý thức ấy.

3. Cái Tâm của Chúa là ghét cay đắng cái tính kiêu ngạo và đường lối mục vụ khắt khe của các ông kinh sư và Pharisêu. Ngài còn ghét hơn nữa cái tính giả hình của bọn họ. Ngài đã nặng lời với họ. Ngài đã dùng tới tám câu “khốn cho các ông, hỡi những người giả hình” để tố cáo họ. Lời nói nặng nhất của Ngài là: “Các ông đọc kinh cho dài, để nuốt trỏng tài sản của các bà góa”.

Tại sao Chúa nặng lời như thế? Đó là cái tâm của Ngài. Chính cái Tâm ấy đã khiến Ngài cường điệu mà bảo rằng đừng gọi ai là “Cha” , đừng gọi ai là “Thầy”.

Trong thực tế dưới trần đời ta vẫn có người để gọi là cha, vẫn có người để gọi là thầy. Nhưng tuyệt đối không hống hách, không có tinh thần cha - chú.

Cái Tâm ấy của Chúa cũng nhắn nhủ ta rằng giáo huấn của Môsê và các sứ ngôn chưa có mặc khải trọn vẹn đâu. Chỉ có mặc khải trọn vẹn nơi Người Con - Đấng từ trời mà đến. Môsê và các sứ ngôn chẳng là gì so với Đức Giêsu. Gioan Tẩy giả là sứ ngôn cao trọng nhất của Cựu Ước đã khẳng định điều đó: “Thầy đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Thầy”. Gioan nói như thế, thì Môsê và các ngôn sứ cũng phải nói như vậy. Bản thân các vị ấy không đáng xách dép cho Đức Giêsu, thì giáo huấn của các ngài cũng y như vậy.

Tiếc thay các ông Pharisêu và Kinh sư lại tưởng rằng giáo huấn của Môsê và các sứ ngôn đã có mặc khải trọn vẹn rồi. Buồn hơn nữa các ông ấy tưởng rằng mình đã nắm được mặc khải trọn vẹn và giáo huấn họ chuyển đạt đến các tín đồ Do Thái là chân lý tuyệt đối. Thầy kiểu đó, thì quả thật không phải là thầy.

Đừng gọi ai dưới trần gian này là “Cha” là “Thầy” chỉ là vậy.

À, xin lỗi mục sư, tôi nói hơi nhiều đấy.

- Không sao. Chúng ta hiểu Chúa nhiều hơn và chúng ta thương nhau nhiều hơn. Ông có lý hơn tôi, vì ông già hơn tôi. Nhưng tôi vẫn không gọi là “Cha” đâu nha.
- Tôi cũng chẳng thích được gọi là “Cha” đâu. Nhột thấy mồ. Nhưng “Là cha” hay “Không là cha” chỉ là chuyện nhỏ. “Làm cha” hay “Không làm Cha” mới là vấn đề.
- Thế ông còn gọi tôi là mục sư nữa không?
- Ông cứ là mục sư, nhưng đừng là “Sư hổ mang”.

Ông linh mục và ông mục sư giã từ nhau. Không bắt tay như thường lệ, nhưng ôm nhau tha thiết như hai anh em ruột. Vẫn là “Cha”, nhưng không “Cha - chú” . Vẫn là mục sư, nhưng không là “Sư hổ mang”. Đẹp vô cùng!

Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://nguoisamarinhanhau.com/.../nhung-cau-chuyen-hay.../

-------------------------------

 

PiôHậu 205: TRUYỀN GIÁO VÀ TỰ LỰC MƯU SINH

 

Một người không hề quen biết hỏi mình một câu: - Anh làm nghề gì? - Tôi làm linh mục - Có nghề PiôHậu 205


Một người không hề quen biết hỏi mình một câu:

- Anh làm nghề gì?
- Tôi làm linh mục
- Có nghề thì phải có sản xuất. Vậy nghề linh mục sản xuất cái gì? Các anh chỉ ăn bám giáo dân. Ăn thì trắng, mặc thì trơn. Giáo dân tát đìa, thì con cá lóc to nhất đem biếu ông cha. Đốn chuối, thì nải chuối lớn nhất đem tặng cha cố.

Chúng tôi không sản xuất lương thực và thực phẩm, nhưng chúng tôi giáo dục và đào tạo giáo dân để giáo dân sống “tốt đạo đẹp đời”. Thầy cô giáo không cày sâu cuốc bẫm, không sản xuất lương thực, nhưng chỉ giáo dục và đào tạo công dân. Thầy cô không ăn bám học trò. Nhưng thầy cô làm ơn cho học trò và học trò nuôi thầy cô để đền ơn đáp nghĩa. Đó là lẽ công bằng, công bằng giao hoán. Còn chuyện giáo dân tặng linh mục con cá to nhất, nải chuối lớn nhất, thì cũng chỉ là quy luật của tâm lý xã hội thôi: thương thì cho; thương nhiều thì cho nhiều; thương ít thì cho ít; không thương thì kít cũng chẳng cho.

- Kít là gì?
- Kít là vật thể thấp lắm. Kỹ sư nông nghiệp thì biết rành từ này.
- ?...

Một linh mục đàn anh, nổi tiếng là kinh bang tế thế ngồi đối diện với mình. Mình lắng nghe như thầy học trò giảng bài. “Thầy” hút thuốc, “trò” xin một điếu. Tình anh em thành tình bạn bè, thân thương và cởi mở. Chuyện lan man từ thời sự đến mục vụ, từ chuyện quốc tế đến chuyện quốc nội.

Mình khoe thành tích truyền giáo. Ông bạn cao niên hỏi:

- Anh xây được bao nhiêu nhà thờ?
- Chưa xây được một cái nhà thờ nào hết. Nhưng chòi thờ thì chừng bảy cái. Vừa là nhà thờ, vừa là trường học. Đúng nghĩa là nhà đa dụng.
- Anh có nghề gì để tự lực mưu sinh không? Thánh Phaolô vừa dệt vải lều, vừa giảng Lời. Ngài không muốn trở nên gánh nặng cho giáo dân. Anh có thể làm nghề hớt tóc, sửa Rađiô, hoặc làm y tá, để khỏi ăn bám giáo dân.
- ?...

Mình làm thinh không trả lời. Mình ghi khắc trong lòng để suy nghĩ. Suy nghĩ ra rồi, nhưng chẳng muốn nói ra. Sợ mất lòng lung tung. Mình chỉ nói với mình mà thôi!

Mình suy nghĩ rất nhiều về vấn đề tự lực mưu sinh của Thánh Phaolô. Ngài dệt lều chung với gia đình Pơrítkila và Aquila ở Côrintô và Êphêsô. Ngài thề chỉ sống bằng hai bàn tay lao động, nhất quyết không nhận sự giúp đỡ của giáo dân.

* Ngài tuyên bố với các niên trưởng của giáo đoàn Êphêsô rằng: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, thì đôi bàn tay này đã tự cung cấp”. Lý do tại sao, thì ngài trả lời: “Vì Chúa dạy: cho thì tốt hơn nhận” (Cv 20,33-35).

* Với giáo dân Thêsalôlica thì ngài tuyên bố: “Chúng tôi đã làm việc vất vả ngày đêm, để khỏi trở nên gánh nặng cho anh em” (1Tx 2,9). Trong Thư 2Tx ngài nhắc lại ý tưởng đó một lần nữa, rồi thêm một lý do khác, đó là để nêu gương lao động cho tín hữu bắt chước (2Tx 3,8-9).

Mình tự nghĩ nếu Thánh Phaolô cứ quần quật ngày đêm để tự lực mưu sinh như thế, thì còn giờ nào để rao giảng. Ấy là chưa kể những cuộc hành trình truyền giáo đòi hỏi ngài phải di chuyển liên tục. Cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất dài hơn ngàn cây số. Ngài phải đến, phải dừng chân và rao giảng tại tám giáo điểm, trong vòng chỉ vỏn vẹn có bốn năm! Cuộc hành trình truyền giáo thứ hai chỉ vỏn vẹn có ba năm mà ngài phải vượt qua hơn hai ngàn cây số, đến với mười sáu giáo điểm! Nếu tranh thủ tối đa thì cũng chỉ kiếm được mỗi ngày chừng mươi gram bột mì. Như vậy mà là tự túc sao?

* Nếu Thánh Phaolô tự lực mưu sinh, thì chỉ đúng trong thời gian ngài ở Êphêsô mà thôi. Ngài đã nhận sự giúp đỡ rất dồi dào, phát xuất từ nguồn tài trợ của giáo đoàn Philíp. Chính ngài đã tâm sự với tín hữu Philíp: “Tôi rất đầy đủ, kể từ lúc nhận được những gì anh em gởi đến cho tôi, qua tay anh Êpaprôđiô” (Pl 4,18). Nhận sự giúp đỡ, khen ngợi, cám ơn, đồng thời còn đề cao, cao vun vút: “Anh em biết trong thời gian tôi bắt đầu rao giảng Tin Mừng, khi rời khỏi Makêđônia, thì không một Hội Thánh nào đóng góp vào khoản chi thu của tôi, chỉ trừ có anh em đó thôi, hỡi người thành Philíp” (Pl 4,15).

* Thánh Phaolô thề không bao giờ nhận sự giúp dỡ vật chất từ phía Êphêsô, Côrintô, Thêsalônica, nhưng lại nhận và chỉ nhận từ phía Philíp. Trong Thư 2Cr ngài trình bày ý hướng ấy bằng một lối văn hằn học và chua chát: “Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác, ăn lương của họ, để phục vụ anh em. Hồi ở giữa anh em, những khi lâm cảnh túng thiếu, tôi đã chẳng phiền lụy ai, bởi vì các anh em từ Makêđônia đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần” (2Cr 11,8-10).

* Sau hai năm tù ở Xêdarê, Thánh Phaolô bị dẫn độ sang Rôma. Đến đảo Manta thì tàu bị chìm. Tài sản của ngài lúc đó chỉ còn là cái xàrông. Sau ba tháng lưu lại ở đảo, rồi tiếp tục hành trình Rôma. Tới Rôma ngài mướn một căn phố và ở đó hai năm. Chắc chắn tất cả bấy nhiêu chi tiêu ở đảo Manta và ở Rôma không do hai bàn tay lao động làm nên. Rõ ràng là Thánh Phaolô đã nhờ sự viện trợ mà rao giảng. Nhờ rất nhiều. Nhưng tại sao ngài cứ khăng khăng tuyên bố rằng mình vất vả ngày đêm (1Cr 4,11-12) để tự lực mưu sinh, vì chẳng muốn làm phiền giáo dân (1Tx 2,9; 2Tx 3,8-9), vì chỉ muốn thi hành lời Chúa “cho thì tốt hơn nhận” (Cv 20,35). Tại sao Thánh Phaolô lại tự mâu thuẫn giữa “ngôn” và “hành”? Đó là chuyện riêng tư của cá nhân ngài. Và ngài đã bật mí điều đó trong (1Cr 9,1-15).

* 1Cr 9, 1-15 cho mình thấy Thánh Phaolô có một nỗi đau ray rứt.

* Có ai đó đã hạch sách ngài và cho rằng ngài chẳng phải là Tông đồ, nên chẳng được hưởng quyền miễn lao động tự túc.

* Ngài còn bị hạch sách vì trong đoàn truyền giáo của ngài có sự hiện diện của phụ nữ. Mình đoán mò: người phụ nữ ấy là bà Lyđia, linh hồn của giáo đoàn Philíp, một người có ảnh hưởng đối với mọi người, được mọi người nể vì, kể cả Thánh Phaolô (Cv 16,15).

* Lòng tự trọng cộng với lòng tự ái bùng nổ. Thánh Phaolô xác nhận rằng Chúa truyền cho người rao giảng Tin Mừng thì phải sống nhờ Tin Mừng. Nhưng trong hoàn cảnh riêng tư và cá biệt ngài vẫn thề rằng thà chết còn hơn là nhận sự giúp đỡ của giáo dân (1Cr 9,15).

* Như vậy thì rõ ràng rồi. Mình không cần kiếm việc để tự lực mưu sinh trên đường truyền giáo. Trong lãnh vực này Thánh Phaolô không phải là mẫu mực để mình rập khuôn. Mình đã có khuôn rồi. Khuôn của Thầy Giêsu:

- Người rao giảng Tin Mừng, phải sống nhờ Tin Mừng (1Cr 9,14).
- Người làm thợ, thì đáng được trả công (Lc 10,7).
- Chúa làm thợ mộc, nhưng ba năm truyền đạo Ngài chẳng còn giờ để mà cưa, mà đục, mà bào.
- Chính các Tông đồ cũng bỏ nghề chài lưới, để theo Thầy (Lc 5,11) mà chẳng bao giờ phải thiếu thốn (Lc 22,35).

Nghĩ thế, mình yên tâm vô cùng. Đàn anh, bạn bè và ai đó không ưa mình cứ trách mình là ăn bám, thì mình cứ làm thinh, tủm tỉm cười trong bụng.

Lm.Piô Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://thanhcavietnam.net/forum/showthread.php?t=14132

-------------------------------

 

PiôHậu 206: ĐẠO CÔNG GIÁO ĐẸP QUÁ VÀ XẤU QUÁ

 

Một ông bạn đến thăm. Bạn mới toanh. Mình chỉ mới biết chứ chưa quen và chưa dám thân. Vừa PiôHậu 206


Một ông bạn đến thăm. Bạn mới toanh. Mình chỉ mới biết chứ chưa quen và chưa dám thân. Vừa ngồi xuống ghế, ông vô đề cái rụp:

- Anh là linh mục. Tôi là mácxít. Nhưng chúng mình cứ chân thành nói chuyện với nhau. Không ai ngại ai. Đừng ai sợ ai.
- Đồng ý. Tôi chỉ ước mong có bấy nhiêu thôi.
- Tôi công nhận đạo của anh có chân lý, vì nó tồn tại hai mươi thế kỷ. Tôi cố tìm hiểu đạo của anh, nhưng tìm hoài không ra. Tôi đọc Victor Hugo, tôi thấy đạo của anh rất mâu thuẫn. Đọc cuốn “Những Kẻ Khốn Cùng”, tôi thấy đạo của anh đẹp quá. Đọc cuốn “Nhà Thờ Đức Bà Paris”, thì lại thấy đạo của anh bẩn quá. Vậy thì đạo của anh là gì?
- Đọc Victor Hugo, anh chỉ thấy chúng tôi, chỉ thấy Giáo Hội, chứ chưa thấy ĐẠO. Chúng tôi không phải là ĐẠO. Đức Giêsu mới là ĐẠO. Chúng tôi hay Giáo Hội của chúng tôi, chỉ là những người tội lỗi đang lẽo đẽo theo sau Đức Giêsu, để tìm ơn cứu độ. Giữa Đức Giêsu và chúng tôi còn một khoảng cách xa vời vợi.
- Làm thế nào để hiểu biết Đức Giêsu?
- Phải đọc Thánh Kinh.
- Thánh Kinh bán ở đâu?
- Có đâu mà bán.
- Tại sao vậy?
- Anh hiểu rõ hơn chúng tôi. Nhưng hy vọng chánh sách sẽ mở rộng từ từ…

Mình và ông mácxít ngồi tâm sự rỉ rả với nhau từ tám giờ tối, đến mười giờ đêm. Tin tưởng và chân thành dìu cả hai người đi vào mọi ngóc ngách lịch sử của cả đạo lẫn đời.

Mình không ngại kể lại cho ông bạn sơ giao nghe những trang sử đen tối nhất của Giáo Hội. Thời Trung Cổ Giáo Hội đã phạm những sai lầm ngoài sức tưởng tượng của mình. Đó là chia rẽ Kitô giáo; tòa án tôn giáo; cuộc chiến dai dẳng giữa Công giáo và Hồi giáo; đời sống luân lý sa đọa ngay tại Vatican.

Mình kể chuyện Giáo Hội yếu đuối, mà lòng không e ngại. Dường như mình cảm thấy rằng khiêm tốn nhìn nhận lỗi lầm của Giáo Hội cũng là chứng tá của Tin Mừng. Thánh Phalô đã không giấu giếm cái quá khứ tội lỗi của mình. Ngài thấy mình yếu đuối bao nhiêu thì càng thấy ơn Chúa hùng mạnh bấy nhiêu. Thánh Phêrô trên đường truyền giáo, chắc chắn không quên kể lại chuyện mình chối Chúa ba lần. Kể chuyện mình chối Chúa, mà cả người kể lẫn người nghe đều cảm thấy lòng mình thương Chúa nhiều hơn.

Hôm nay ông bạn mácxít được nghe chuyện xấu xa của Giáo Hội nhiều hơn ông đã từng biết. Ông không ghét, ông không khinh Giáo Hội. Dường như ông thông cảm với Giáo Hội, y như ông thông cảm với thân phận yếu đuối chung của loài người và của chính ông. Dường như ông cũng bắt đầu thấy rằng dưới gầm trời chẳng có ai là thánh. Ai khoe mình là Thánh, thì chỉ là khoác lác, chỉ là cuồng si, chỉ là không tưởng…

Mình cảm thấy rằng khi hai người đối thoại với nhau mà không thành kiến, không hận thù, thì họ sẽ thấy những khuyết điểm của nhau chỉ là đáng tiếc, chứ không đáng khinh dể. Bây giờ ông bạn mácxít của mình không còn thắc mắc tại sao “đạo của anh bẩn quá”. Ông chỉ còn muốn biết Đức Giêsu là thế nào. Mình kể cho ông nghe ba câu chuyện của ba người.

Người thứ nhất là ông Philip.

Sau khi được Đức Giêsu mời gọi làm đệ tử, Philip vội vàng đi khoe với ông bạn Nathanael: “Đấng mà Môsê và ngôn sứ nói tới, thì chúng tôi đã gặp rồi, đó là Đức Giêsu con ông Giuse, người làng Nagiarét”. Nói tới Nagiarét một làng nổi tiếng quê mùa, Nathanael cả cười và phê một câu chắc nịch: “Chẳng có điều gì tốt mà lại xuất phát từ Nagiarét”. Philip đành chịu thua, nhưng khuyên bạn: “Anh hãy đến mà xem”. Nathanael đến gặp Đức Giêsu và đã tin Người là Đấng Cứu Thế.

Mình khuyên ông bạn mácxít của mình: “Anh hãy nuôi ước muốn tìm hiểu Đức Giêsu. Ngài sẽ trực tiếp giúp anh”.

Người thứ hai là đại danh hào Lep Tolstoi.

Tolstoi say mê kinh “Phước Thật Tám Mối”. Đó là bài giảng quan trọng nhất của Đức Chúa Giêsu. Đó là chân dung hoàn hảo nhất của một Kitô hữu chân chính. Tolstoi đã giới thiệu kinh này cho Thánh Gandhi của Ấn Độ. Thánh Gandhi đã phát biểu ý kiến của mình về kinh “Phước Thật Tám Mối” như sau:

“Sau khi đọc kinh phước thật tám mối, tôi rất yên tâm tiếp tục cuộc đấu tranh bất bạo động của mình để giành độc lập cho quê hương Ấn Độ”.

Người thứ ba là đại danh hào Dostoievsky.

Dostoievsky bất mãn với Giáo Hội thời Trung Cổ. Trong cuốn “Anh Em Nhà Karamasov” ông đã dựng nên một vở tuồng cực ngắn mô phỏng một vị hồng y ngồi ghế chánh án xử một tín đồ về tội không tin theo giáo huấn của Giáo Hội. Người tín đồ ấy bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Phần kết của vở tuồng, Dostoievsky cho đức hồng y chánh án đối chất với Đức Giêsu đang bị giam ở tầng hầm của tòa giám mục, “Xin Ngài nhớ là trước khi về trời, Ngài đã trao mọi quyền hành trên trời và dưới đất cho chúng tôi rồi mà. Tại sao bây giờ Ngài lại đến xía vào việc của chúng tôi…”.

Dostoievsky bất mãn với cái xấu của Giáo Hội, một tập thể yếu đuối đang đi tìm ơn cứu độ nơi Đức Giêsu. Nhưng ông lại tuyệt đối tin tưởng vào Đức Giêsu. Ông tuyên tín như sau: “Đức Giêsu là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối. Nếu có ai bảo rằng Đức Giêsu không có chân lý thì tôi, Dostoievsky, vẫn đứng về phía của Người”.

Mình hứa sẽ tìm cho ông bạn mácxít của mình một cuốn sách Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh để biết Đức Giêsu. Đọc Thánh Kinh còn giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về các tác phẩm văn chương của Châu Âu. Mình đan cử một ví dụ:

V.Gheorghiu tác giả của cuốn “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” kể chuyện: một người đàn bà nghèo tên là Aritiba có một người chồng mà dư luận cho là có dòng máu Do-Thái. Đó là thời điểm đang bùng vỡ phong trào bài Do Thái. Người đàn bà này sợ quá, nhưng không dám hỏi chồng. Bà cứ nom nóp lo sợ, cứ âm thầm thắc mắc. Cho tới buổi tối hôm ấy, chồng của bà hấp hối. Bà đứng khóc thút thít bên giường người chồng sắp ra đi. Khi ông vừa ngáp một cái rồi tắt thở, thì bà vội kéo quần ông xệ xuống một cái rồi kéo trở lại ngay. Bà hốt hoảng lấy tay làm dấu Thánh giá…

Mình hỏi ông bạn:

- Anh có biết tại sao bà kéo quần của chồng xệ xuống, rồi vội kéo lên ngay không? Anh có hiểu tại sao bà ta hốt hoảng và làm dấu Thánh giá không?
- Tôi chưa kịp hiểu. Anh hỏi tôi mới để ý.
- Bà kéo quần chồng xệ xuống mới phát giác ra rằng quả thật chồng bà là người Do Thái. Theo luật, thì mọi người Do Thái phải cắt bỏ da bọc quy đầu. bà đã thấy, bà sợ quá. Khi sợ quá người bên đạo chúng tôi thường làm dấu Thánh giá như một phản xạ. Nếu anh đọc Thánh Kinh, anh sẽ tìm hiểu ngay chi tiết có vẻ hơi bí mật này.
- Có lý. Anh kiếm cho tôi một cuốn Thánh Kinh nha.

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Nguồn: http://thanhcavietnam.net/forum/showthread.php?t=14136

-------------------------------

 

PiôHậu 207: ĐI LANG THANG


LM Piô Ngô Phúc Hậu
Sơn Tây 25.02.2012

 

Hôm nay mình dành trọn buổi sáng để đi dạo. đi dạo để tạo sức cho đôi chân già nua. Đi dạo PiôHậu 207


Hôm nay mình dành trọn buổi sáng để đi dạo. đi dạo để tạo sức cho đôi chân già nua. Đi dạo để thấy phía sau lưng của thi xã Sơn Tây, một thị xã đang hãnh diện vì mới được sáp nhập vào Hà Nội thủ đô của tổ quốc. Đi để may ra vớ được thời cơ mở một giáo điểm mới.

Giã từ phố Lê Lợi sầm uất, mình leo lên đê sông Hồng. đứng trên đê cao, để ngắm dòng sông – chả thấy dòng sông đâu. Chỉ thấy bãi cát và sương mù. Đi trên đê cao thấy mình cao hơn nóc nhà người ta. Lòng nhẹ lâng lâng, quên thế sự thăng trầm.

Mình đi, đi mãi về hướng Nam mải mê ngắm cảnh làng mạc với ruộng vườn và ao chuôm, mình quên hẳn bản thân. Chỉ còn thấy quê hương yêu dấu. yêu quá là yêu! Yêu con bò đang vô tư đứng giữa đường, nghếch mõm nhìn trời, bất chấp tiếng còi ô tô đang kêu inh ỏi. yêu con ngang trống đang khệnh khạng đuổi theo con ngang mái vừa bé vừa nhanh. Yêu cây đa cổ thụ đang lấy chùm rễ phụ ôm lấy một cá miếu cổ, sợ nó lùi dần vào quên lãng. Yêu bà cụ răng đen chít khăn mỏ quạ đang cười tươi với một cháu gái mặc đẹp như nàng công chúa…

Trời rét căm căm. Mưa bui bui. Hạt mưa nhỏ như nước đái muỗi, không đủ sức rơi xuống đất đành bay theo gió bấc. Rét quá, mình phải khoanh tay mà đi. So vai, rụt cổ, khúm núm y như đưa con gái đang ăn vụng bị mẹ bắt quả tang. Người người người khoanh tay. Người người khúm núm. Mùa rét miền Bắc là thế. Mưa phùn gió bấc là vậy. Buồn cười…

Mình đang đắc chí với câu “mùa đông là mùa lễ phép, là mùa khúm núm”, thì bỗng cụt hứng! một luồng gió lạnh buốt từ dưới sông thổi lên quật vào mặt tuồn vào cổ, luồn qua nách, lách vào mọi ngõ ngách của thân thể. Mình thôi khoanh tay, để lấy hai bàn tay bịt mặt. lạnh buốt xương sống, tê buốt hai chân.

Chẳng còn hứng thú gì để ngắm cảnh, mình đành dừng bước để thủ thế. Hai đường đùi khép khít khịt. hai bàn tay bịt chặt lấy mặt. Nhưng vẫn để hở một kẻ nhỏ, để thấy xe cộ lác đác vụt qua, để may ra gặp được một tình người ấm áp…

Bỗng thấy một ông già từ đàng xa đi tới. tay phải cầm roi tre, vừa đi vừa quất, y như một người vô công rỗi nghề. Râu bạc trắng, ngắn tủn và lưa thưa, mẫu người không cầu toàn. Mình thôi bịt mặt, chăm chắm nhìn ông. Ông dứng lại, chăm chắm nhìn mình. Mình toe miệng cười. Ông toét miệng đáp lễ. Mình vội vã chạy đến với ông. Hai bàn tay xoắn lấy nhau. Mình đon đả hỏi:

- Bác đi đâu đấy?
- Tôi đi chăn bò. Mới buộc nó vào nọc ở đàng kia. Tính về nhà nghỉ một tí.
- Nhà bác ở xa không?
- Ngay đàng kia kìa.
- Năm nay bác thọ bao nhiêu?
- Bảy mươi hai rồi.
- Thế là bác thua tôi bốn tuổi. Tôi bảy mươi sáu rồi.
- Tôi thua thì tôi xin làm em.
- Làm em thì phải ăn thêm vác nặng. còn tôi làm anh thì…đóng đanh vào đit.
Hai người cùng cười hể hả, y như bạn thân từ thuở thơ ấu. Chưa quen mà đã thân, mình dấn tới:
- Bác cho tôi theo về thăm nhà được không?
- Thế thì hân hạnh quá.

Hai ông già băng qua đường, xuống dốc đê, vừa đi vừa nhảy bậc y như hai thằng trẻ con. Từ chân đê về đến nhà ông chăn bò không tới 100m. Căn nhà gỗ ba gian cũ kỹ. Trang trí nội thất vừa chật chội vừa rườm rà, y như bà già đang níu kéo sắc đẹp một cách vô vọng.

Sau một tuần trà, hai ông già thi nhau dốc bầu tâm sự, mình mở màn:

- Bác tên là gì nhỉ?
- Em tên là Châu (tên tác giả đặt, không phải tên thật).
- Tại sao bác bảy mươi hai tuổi rồi mà còn lanh lẹ thế? Răng còn nguyên, mắt còn tinh, tai còn thính. Chỉ có cổ thì…như có dây leo…
- Em mồ côi cá cha lẫn mẹ, được Đến Và dem về nuôi, ai cũng bảo em sống được đến ba mươi lăm tuổi là cùng. Thế mà năm kia em mừng thất tuần rồi đấy.
- Nhắm chừng bác sống tới một trăm không?
- Sống chết là do trời định, có ai biết được đâu? Thế còn bác thì nhà ở đâu?
- Nhà tôi ở trong Nam. Tôi di cư vào Nam năm 1954. Sau ba mươi bảy năm tha phương cầu thực, bây giờ lá rụng về cội. Cội ở 70 Lê Lợi, Sơn Tây.
- Thế còn vợ con thì thế nào?
- Không vợ, không con. Cu ki chùi lủi. vì thế hôm nay mới rảnh mà đi lang thang. Nhờ đi lang thang mới gặp bác ở đây. Nhờ gặp nhau mà biết nhau và kết nghĩa anh em.
- 70 Lê Lợi là chỗ nào nhỉ?
- Là nhà thờ Sơn Tây.
- Thế thì em biết. Em đến đó hôm có đám tang ông giám mục. Thế bác đi tu ha?
- Ừ. Tôi là linh mục. Nhưng nghỉ hưu rồi. Sở thích của tôi là truyền giáo. Nếu bác muốn tìm hiểu vè đạo Công giáo thì tôi nối hết cho mà nghe.
- Đạo nào tôi cũng quý. Nếu được thì bác đến nhà tôi, dạy đạo cho tôi.
- Sẵn sàng. Để rồi chúng mình tính sau. Bây giờ tôi phải về, vì sắp tới giờ cơm. Chúng tôi ăn cơm tập thể. Mai mốt tôi sẽ tặng bác một cuốn sách do tôi viết. Bác đọc sẽ thấy tôi là ai và đạo Công giáo là gì… Thôi chòa bác nhá.
- Anh về. Nhớ trở lại thăm em nhá.

Hai ông già bắt tay nhau, vỗ vai nhau, cười với nhau, níu kéo nhau. Có vẻ thân thương lắm, may mà không có ai trông thấy. Nếu có ai thấy thì bia miệng lại dèm pha: “Già mà chơi trống bỏi. Già mà như trẻ con”.

Sáng nay mình lấy một cuốn Nhật Ký Truyền Giáo và một cuốn Viết Cho em bỏ vào túi sách, nhẩn nha đến bậc cầu thang, xuống văn phòng, bảo chú tu sinh:

- Con lấy xe máy chở cha đi dạo một tiếng đồng hồ.
Xe chạy với tốc đọ 40km/h. Gió thổi vù vù. Lạnh quá! Mình giấu mặt sau lưng chú tu sinh để tránh gió. Gó lạnh không quất vào mặt được, thì lại vuốt hai đường đùi. Đùi tê cóng, mình phải lấy hai bàn tay mà xoa. Hai đùi ấm lên. Nhưng hai mu bàn tay lại lạnh buốt. đúng là tránh hùm phải hạm. Buồn cười. đời là vậy.

Sau mười phút. Mình đã đứng trong sân nhà ông Châu. Căn nhà gỗ ba gian: cửa đóng im lìm. Căn nhà dưới: cửa mở kiểu e thẹn. Mình la to:

- Ông Châu có ở nhà không?

- Có! (Giọng the thé của đàn bà). Ông ơi! Về mau đi, có khách hỏi thăm ông đấy!

Ông Châu từ bên nhà đứa con cả, vội vã chạy về. Hai vợ chồng mừng qua đua nhau nói tíu tít, nói oang oang. Chồng nói nhiều, vợ nói nhiều hơn. Cuối cùng chồng nngồi yên để cho vợ nói một mình.

Bà khen chồng: “Ông nhà tôi lành lắm. Từ ngày lấy nhau đến bây giờ, tôi chưa hề nghe ông ấy nói ‘Đ…M…’ bao giờ”.

Bà khoe con: “Con cái nhà tôi đứa nào cũng có công ăn việc làm. Chỉ có đứa con gái thì nghèo. Chồng nó gặp khó khăn phải bán nhà bán cửa, ra Hà Nội làm mướn. Không đến nỗi thiếu ăn nhưng không dư dã được. Mà…nó có một đứa con học giỏi lắm. Tôi dặn nó phải học thật giỏi để được lên tivi… Con nhà tôi không biết nói tục, đứa nào chửi tục thì tôi bảo: dù anh hay em cũng được vã vào mồm nó”.

Bà tôn vinh ông thân sinh: “Ông cụ sinh ra chúng tôi dạy chúng tôi phải giúp đỡ xóm giềng. Ai không có cơm ăn, thì cho người ta một bát gạo. Ai hỏi vay, thì cho vay. Không được từ chối..”.

Bà tự khen mình: “Tôi nhớ mãi lời dạy của ông cụ. Thấy ai nghèo, tôi cũng giúp đỡ. Có những người xấu vay mà không trả. Tôi cũng bỏ qua luôn…”.

Thấy bà già nối muốn cụt hơi, mình ra tay tế độ. Mình vỗ vai bà già:
- Bà ơi, bây giờ bà cho tôi phỏng vấn nhá. Tôi không phải là nhà báo, nhưng tôi cũng có viết lai rai.
- Bác muốn phỏng vấn cái gì?
- Bà có bốn đứa con, vậy mỗi đứa bà chùi đít cho nó bao nhiêu lần?
- Tôi chả nhớ đâu.
- Tôi tính rồi. Mỗi đứa con được mẹ chùi đít ít nhất là 1.500 lần. Mẹ chùi đít cho con nhiều như thế, mà con thì chưa chùi cho mẹ được một lần nào. Thế mới thấy: công cha mẹ thì qua nhiều, mà con cái đáp đền chẳng có bao nhiêu.
- Có chứ. Tôi được chùi đít cho ông cụ tôi nhiều lần. Những ngày cuối đời, cụ nằm một chỗ, tôi phải lo hết, từ thay quần áo cho tới lau chùi…
- Bà hiếu thảo với cha mẹ: tốt quá. Nhưng còn người cha nữa mà chưa thấy bà hiếu thảo.
- Tôi có một cha một mẹ thôi. Còn cha mẹ nào nữa?
- Ông Trời là người cha cao nhất. Chúng ta vừa phải thờ cha mẹ, vừa phải thờ ông Trời nữa. Tôi là linh mục truyền giáo, tôi chỉ mơ ước được thấy bà thờ Trời, gọi Ông Trời là cha. Bà đã hiếu thảo với cha mẹ, bà đã yêu thương những người nghèo, bà đã làm đúng ý trời đấy. Tôi đề nghị với bà là, mỗi sáng bà chắp tay lạy Trời nhưng phải gọi Ông Trời là cha: “Lạy ông Trời là cha của con”. Khi nào rãnh tôi sẽ đến đây nói chuyện ông Trời là cha cho bà nghe.

- Thế bác là linh mục hả? Vâng con xin mời cha đến dạy con về đạo. Con đội ơn cha.
- Rồi, tôi về nhá. Tôi sẽ trở lại thăm hai bác hoài hoài.
Mình ra về, lòng vui phơi phới. Vui quá, quên cả mưa phùn, quên cả gió bấc. Mình thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa biến gia đình này thành gia đình Lyđia, con đầu lòng của giáo đoàn Philipphê”.

Trích BGCN, TGP SG số tháng 5.2012

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 208: Lá Thư Ngỏ Gửi Thánh Gioan Tẩy Giả


Như Trái Mắm

Bác Gioan kính mến,

 

Con xưng hô như thế, vì Bác là anh của Thầy con. Quá thân thương, nên con quên bẵng Bác là PiôHậu 208


Con xưng hô như thế, vì Bác là anh của Thầy con. Quá thân thương, nên con quên bẵng Bác là ngôn sứ cao trọng nhất của Cựu Ước, Bác thông cảm với con nhá.

Bác chả biết con, nhưng con lại biết rất nhiều về Bác. Con biết bố của Bác bỗng dưng bị câm. Câm gần mười tháng. Rồi bỗng dưng lại nói được. Cứ nói leo lẻo. Con cũng biết mẹ của Bác buồn héo hon suốt mấy chục năm trường. Buồn vì vô sinh. Thế rồi khi đã già héo hắt, lại có thai con trai. Niềm vui bùng vỡ. Một người vui, nhiều người vui. Cả nước cùng vui. Con cũng biết có một thời tên tuổi của Bác vang dội khắp ba miền đất nước. Dân lũ lượt đến với Bác để xin chịu phép rửa sám hối. Thậm chí các cô làm nghề "ấy" cũng lội xuống sông xin Bác xối nước cho. Thế rồi Bác vào nhà đá ngồi gỡ lịch treo tường. Đang gỡ lịch, thì bỗng đầu rơi. Rơi vào cái mâm để làm phần thưởng tặng cho một vũ nữ tuổi ô mai, nhưng lại có tài...

"Đời là phi lý". Camus nói thế, "Đời là buồn nôn". Sartre bảo vậy. Chả biết hai ông ấy có nói quá lời không. Nhưng ngẫm nghĩ về cuộc đời ngắn ngủi của Bác, con thấy đau xót quá, bất mãn quá. Xin Bác bình tĩnh lắng nghe con dàn trãi nỗi lòng.

Có rất nhiều sự cố trong cuộc đời của Bác con có thể nhớ, mà cũng có thể quên. Nhưng có hai biến cố làm cho con phải ngẫm nghĩ và ngậm ngùi suốt đời. Cảm phục Bác quá chừng, mà cũng tủi nhục cho Bác quá thể! Cao quý quá! Hèn hạ quá!
MỘT

Bác đang là một ngôi sao rực sáng, bỗng mờ dần, mờ dần rồi tắt lịm. Giới hâm mộ cảm thấy đau thắt. Cầm lòng không được, họ đến ngỏ bày tâm sự với Bác. Nước mắt tuôn trào. Giọng nói hậm hực

- Thưa Thầy, cái ông Giesu mà thầy đã làm phép rửa trên sông Giodan, bây giờ ông ta cũng làm phép rửa. Mà... dân chúng thì theo ông hết trơn rồi. Hự ... hự ...

- Bây giờ niềm vui của tôi mới được trọn vẹn. Người phải lớn lên còn tôi thì phải nhỏ đi.

Bác ơi, con muốn thay lời họ để la lên: "Trời ơi là Trời, Thầy ơi là Thầy, người ta cướp công của Thầy, mà thầy không thấy sao? Thầy thì "mồ hôi nước mắt". Người ta thì "ngồi chơi xơi nước" . Bất công quá chừng".

Không phải chỉ có thế mà thôi đâu, Bác còn xúi giục, năn nỉ để các đệ tử của Bác bỏ Bác mà đi theo Đức Giesu cho đến người cuối cùng. Con thấy hai người đầu tiên là Anre và Gioan. Chờ mải chả thấy ai nữa. Họ buồn. Họ tủi. Bác ra sức tạo điều kiện để họ mở mắt ra. Bác sai họ đến gặp Đức Giesu để họ thấy tận mắt. Bác giả vờ bảo họ hỏi: "Thầy có phải là "Đấng phải đến" hay chúng tôi còn phải chờ?". Hôm ấy , Thầy của con trả lời khéo lắm: "Các anh hãy về kể lại cho Gioan những gì các anh thấy. Đó là người què đi được, người mù được sáng mắt..." . Đó là bằng chứng cụ thể để Bác xác nhận Thầy của con là Đấng Cứu Thế, Bác sẽ dẫn lời Isaia để thuyết phục đệ tử. Cái đầu của họ thì Bác thuyết phục được. Còn con tim của họ, thì còn lâu. Họ mến Bác quá!

Cuối cùng Bác đã khẳng định như đinh đóng cột: "Người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người".

Giới hâm mộ của Bác buồn tủi rút lui. Buồn lắm! Tủi lắm! Giận lắm! Còn con thì mừng quá! Lời của Bác khiến mắt con bừng mở. Con thấy một chân trời mới : đẹp quá chừng! Chỉ một mình Đức Giesu mới là Thầy, là Chúa và là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha.

Bác là sứ ngôn cao trọng nhất của Cựu Ước mà không đáng xách dép cho Thầy của con, thì Mose, Elia... và các giáo huấn của họ làm sao sánh được với giáo huấn của Thầy con. Chính vì thế khi đọc Cựu Ước, con phải lấy Phúc Âm làm đèn pin để rờ, để soi. Những lời nào không phù hợp với Phúc Âm thì phải gạt ra một bên, y như nhặt hạt thóc, hạt sạn trong một bát cơm, trước khi vào miệng. Trong Cựu Ước, "thóc" và "sạn" còn vương vương nhiều lắm. Tác giả Thánh Vịnh 3 xin Chúa đánh vỡ mặt, đánh gẫy răng kẻ thù. Tác giả Thánh vịnh 11 xin Chúa xẻo môi cắt lưỡi bọn gian ngoa. Tác giả Thánh Vịnh 16 xin Chúa dành hình phạt bắt cả bố lẫn con nuốt cho đầy bụng. Chưa vừa lòng, tác giả con xin dành hình ảnh phạt cho cả bầy cháu mai sau nữa... Nhiều "sạn" lắm! Nhiều "thóc" lắm! Nhiều lắm!...

Bác kính mến,

Đã từ lâu lắm rồi, con vẫn nghĩ rằng Phaolo là nhà truyền giáo vĩ đại nhất lịch sử. Bây giờ thì con thôi nghĩ như thế rồi. Xét về sự nghiệp truyền giáo thì phải công nhận Phaolo là số một. Nhưng xét về phẩm chất của người truyền giáo, thì Bác là số một. Con thấy tác phong của Bác giống Thầy của con : y như bản photocopy với bản gốc vậy. Thầy của con rất bao dung với người tội lỗi và rất nghiêm khắc với giới lãnh đạo giả hình. Bác cũng y như vậy. Bác chỉ rao giảng một người : Thầy của con. Bác chỉ mong muốn một điều : mọi người tin vào Thầy của con. Để đạt được mục đích, Bác thấy không còn cách nào khác ngoài việc phải lùi vào bóng tối. Bác thực hiện ngay, Bác thành sao mờ, sao tắt. Còn Thầy con thì thành siêu sao. Bác mừng quá! Mừng như quả pháo hoa nổ... Bác là nhà truyền giáo sống trọn vẹn cho Đức Giesu nhất : chỉ VÌ Đức Giesu; chỉ CHO Đức Giesu mà thôi. Người truyền giáo như Bác mới là nhà truyền giáo chân chính và vĩ đại nhất.

HAI

Bác đi tù. Đó là chuyện thường tình của người loan báo Tin Mừng. Nhưng con phải điều tra cho ra lẽ. Mattheu, Macco và Luca đều nói rằng Herode nể Bác lắm, vì ai cũng coi Bác là ngôn sứ. Vừa nể Bác, vừa sợ dân. Thế thì tại sao Herode vẫn trói Bác lôi vào nhà tù? Tất cả chỉ vì một người đàn bà.

Con đọc Sứ Điệp Tin Mừng. Tác giả là Angelo Alberti đã làm thoả mãn tính tò mò của con.

Herode Cả có ba người con : Philip, Herode Antipat và Herodia. Cả ba đều là con cùng cha khác mẹ. Philip cưới em là Herodia, sinh được đứa con gái là Salome. Cưới em cùng cha khác mẹ là chuyện thường, vì bà Sara cũng là em cùng cha khác mẹ của Apraham. Khi Herode Cả qua đời, hoàng đế La Mã chia quyền của cha cho hai con. Herode dẻo mồm và khéo nịnh hót, nên được làm tiểu vương hai tỉnh trù phú là Galile và Pere. Còn Philip thì làm tiểu vương miền Itare, cực bắc của nước Do Thái, vừa nghèo vừa thưa dân. Philip sang Roma để khiếu nại. Thất bại, ông buồn và chưa muốn về. Lợi dụng thời cơ, Herode Antipat chôm vợ của anh. Herodia cũng chỉ mong có thế để thôi chồng. Theo luật, thì đây là vụ ngoại tình trắng trợn. Dân không dám nói, vì sợ "vạ mồm". Nhưng Bác là ngôn sứ, chỉ biết lẽ phải, chứ không sợ chết. Bác vào triều đình cảnh cáo Herode. Herode chỉ giận vừa vừa thôi. Còn Herodia thì giận điên lên. Hắn muốn xẻ thây Bác, nhưng vẫn phải đo lường tình cảm của Herode. Herode thì sợ dân, nhưng vẫn sợ vợ, nên chỉ dám bỏ tù Bác thôi. Thấy Bác ngồi tù, Herodia chưa hả giận đâu. Hắn quỷ quyệt lắm. Cắn răng để chờ thời. Phải công nhận hắn là một MC tuyệt vời lèo lái được cả vận mệnh con người...

Hôm ấy là ngày sinh nhật của Herode. Khách mời toàn là bá quan văn võ. Tiệc tùng linh đình. Văn công ca múa. Ca mãi, múa mãi, rồi uể oải. Đúng lúc ấy, Herodia tung chưởng ; Ngôi sao Salome toả sáng. Hắn múa hay quá khiến mọi người bừng tỉnh. Tiếng vỗ tay râm ran không muốn dứt. Herode hứng lên. Nhờ rượu ông càng hứng hơn, bèn gọi Salome tới và hứa: "Con xin gì bố cũng cho. Xin một nữa nước bố cũng cho luôn". Tưởng nó xin vàng, xin nhung gấm. Ai ngờ, nhờ mẹ mớm nó ngỏ lời: "Xin bố thưởng con cái đầu của Gioan Tẩy Giả". Herode lỡ lời. Rượu lỡ lời. Thế là nghệ sỉ Salome bưng cái mâm với cái đầu của Bác đem về cho mẹ. Mẹ hắn vày vò. Mẹ hắn lấy kìm cạy miệng Bác, lấy kim đâm nát lưỡi Bác. Hả hê! Không biết ghê...

Bác ơi! Trên đời này, con chưa thấy người đàn ông nào phải chết nhục như Bác. Là đàn ông, thì thà là bị bay đầu ngoài chiến trường, thà là bị bắn gục trên pháp trường. Vẫn thấy hãnh diện với lịch sử, vẫn thấy mát cái bụng nam nhi. Còn đầu Bác thì bị chém lén trong xà lim, bị dâng làm quà cho một con đàn bà trắc nết, bị nó vày vò như con mèo o chuột. Ôi thân phận của một thằng đàn ông, của một đấng tu mi nam tử!!!

Bác Gioan kính mến,

Mọi người đàn ông trên thế gian này không ai chịu hèn như Bác. Con buồn, con giận Bác quá lẽ. Nhưng tại sao Bác lại vô tư đến như thế? Nghĩ mãi con mới hiểu. Bác quên mình rồi. Bác chẳng thấy vinh. Bác chẳng thấy nhục. Bác chỉ thấy Đức Giesu lớn lên. Mừng quá mà quên nhục. Vậy thôi.

Con xin lạy Bác ba cái. Xin Bác vui nhận tấm lòng thành của con.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 209: PHỤC SINH VÀ VINH QUANG

 

Dấu chân 60


Mt 27,62-66; Mt 28,11-15

Thầy kính mến .

 

Thầy ngồi dậy, bứt tung dây cột xác, gom lại để vào một chỗ. Khăn che mặt thì xếp gọn ghẽ, để PiôHậu 209


Thầy ngồi dậy, bứt tung dây cột xác, gom lại để vào một chỗ. Khăn che mặt thì xếp gọn ghẽ, để riêng ra, rồi Thầy chậm rãi đi về hướng cửa mộ. Tảng đá lấp cửa mộ bật tung, lật ngửa ra phía ngoài. Đất rung chuyển. Bụi bay mù mịt. Bọn lính canh trố mắt để nhìn. Thấy Thầy đứng ở cửa mộ, cao to và đĩnh đạc, họ hốt hoảng bỏ chạy.

Thầy đã sống lại thật. Chỉ một buổi sáng Chúa Nhật, sự kiện này đã được loan đi đến tận cùng mọi ngõ ngách của Thủ Đô Giêrusalem. Dư luận quần chúng bùng vỡ. Khách hành hương dự lễ Vượt Qua lũ lượt ra về. Họ đi tới đâu, thì chuyện Thầy Phục sinh đi theo tới đó. Cả nước rúng động. Cả nước bàn tán. Kẻ tin người không. Cứ rối nùi lên như loạn cào cào. Người khách bàng quan vừa nhìn vừa nghe, vừa cười bể bụng, vừa cảm động đến rơi lệ và... có lúc muốn khạc nhổ vào "đời".

1- Bọn lính canh vừa thở hào hển vừa báo cáo với Thượng

- Thưa thầy, ông Giêsu sống lại thật !

- Thật không ?

- Thật.

- Hồi nào ?

- Hồi hừng đông. Cửa mộ đổ cái rầm. Ông ấy đứng sừng sững ở cửa mộ. Nếu thầy không tin, thì thầy ra mộ mà coi : trống phộc.

- Thế này thì từ chết đến chết. Chúng mày chờ đấy.
Cấm lép bép cái miệng...

2- Công Nghị họp khẩn. Gần một trăm cặp mắt nhìn xuống. Gần một trăm vầng trán nhăn nheo. Tiến thoái lưỡng nan. Uy tín của lãnh đạo bay tơi tả như xác pháo ngày Tết. Không lẽ gần một trăm nghị viên phải quỳ xuống mà xin lỗi nhân dân. Sự thật thì rành rành ra đó, làm sao mà lấy vải thưa để che mắt thánh. Mọi ông tai to mặt lớn ngồi câm như rổ hến. Họ không đủ can đảm để nói thật. Họ cũng không đủ lì lợm để nói dối. Họ phó mặc cho ông Thượng Tế lèo lái. Một vài ông khóc nức nở. Họ đã linh cảm được nỗi oan khiên của Thầy. Họ cũng đã tin lơ mơ về một ngày phục sinh của Thầy. Họ khóc vì hối hận. Họ rơi lệ vì xấu hổ, xấu hổ với lương tâm, xấu hổ với lịch sử, xấu hổ quá chừng !

3- Thượng Tế Caipha bưng một rổ tiền ra ngoài tiền sảnh để nói chuyện với lính.

- Tao cho tụi bay tiền. Muốn bao nhiêu thì cho bấy nhiêu. Nhưng... tụi bay phải ra quán xá mà nói với mọi người rằng: đang đêm lúc chúng tôi ngủ, thì môn đệ của Giêsu đến lấy trộm xác mà giấu đi... Ngôi mộ bây giờ trống phộc là vì thế.

- Lính gác mà ngủ thì... coi chừng mất đầu như chơi, một anh lính nói toạc ra như thế.

- Tụi bay yên tâm. Nếu Tổng Trấn thắc mắc về chuyện lính gác mà ngủ thì tao sẽ thương lượng. Tụi mày vô can. Nhưng nhớ... nếu đứa nào bật mí sự thật, thì cái đầu của nó sẽ bay...

4- Câu chuyện môn đệ lấy trộm xác Thầy được loan đi từ đầu đường tới cuối phố, rồi chui tọt vào dinh Tổng Trấn. Chuyện lính gác mà ngủ, thì dân ngu có thể nghe được. Nhưng đối với Tổng Trấn Philatô, kiêm chức Tổng Tư Lệnh quân đội Tỉnh Xyria, thì không thể ngửi được. Philatô muốn thổi phồng chuyện này lên, để trả thù đích đáng bọn thủ lãnh Do Thái giáo. Ông giận họ từ trưa thứ Sáu tuần rồi. Hôm ấy, ông muốn trả tự do cho Thầy, mà không dám. Ông bị họ dồn vào chân tường. Tức lắm, nhưng phải cắn răng chịu thua. Hận quá, chưa quên được. Có thể ông sẽ bắt Thượng Tế Caipha phải nộp bọn lính gác cho ông, để ông đưa ra toà án quân sự. Lính sẽ khai tuốt biết sự thật, để bảo vệ cái đầu. Lúc ấy Thượng Tế và Công Nghị không kiếm được đủ mo để che mặt. Chỉ còn một cách là độn thổ. Nếu không đủ can đảm để độn thổ, thì họ phải thương lượng. Mà thương lượng thì họ phải đứng vào thế hạ phong. Họ phải trả giá. Ông sẽ bắt họ phải trả giá cao nhất cho bõ ghét. Thế là nhất cử lưỡng tiện : vừa trả thù đích đáng, vừa thu về một đống vàng. Tuyệt vời !

5- Lính gác ra ngoài đường thì nói dối. Nói dối để kiếm tiền. Nói dối để cái đầu còn ngồi trên cái cổ. Nhưng về nhà thì lại nói thật. Nói thật, vì cầm lòng không được. Cầm lòng sao được, vì chuyện Thầy Phục sinh không phải là chuyện ngàn năm một thuở, mà là chuyện muôn đời chỉ có một lần.

Thế nhưng vẫn có người chỉ tin chuyện dối trá và phi lý. Chuyện phi lý đến buồn cười bể bụng. Nó phi lý vì:

- Lính gác mà ngủ .

- Ngủ mà lại thấy môn đệ của Thầy đến lấy trộm xác.

- Thấy người ta ăn trộm xác mà lính gác lại bỏ chạy. Không hề chiến đấu, vì không để lại trên chiến trường một dấu tích nào ?

- Ăn trộm cái kim, sợi chỉ thì giấu ở đâu cũng được. Ăn trộm cái xác to đùng, bầm giập, hôi thối (vì xác chết ba ngày rồi)... thì giấu ở đâu bây giờ. Ấy là chưa kể đến những buồng gan của các môn đệ của Thầy. Gan nào cũng nhỏ tí xíu như cái vỏ sò .

- Một chuyện phi lý như thế mà vẫn có người tin. Người này tin lại truyền cho người kia tin. Người ta tin mãi và phi lý mãi cho đến một nửa thế kỷ sau, người ghi chép chuyện lừa bịp này là Mátthêu. Ông ghi chép và kết luận rằng: “Chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay “. “Ngày nay” là vào khoảng năm

80.

Thế mới biết, trên đời này có biết bao nhiêu điều phi lý, phi lý nhưng vẫn tồn tại và được loài người giữ gìn cẩn trọng từ thời này qua thời khác. Buồn cười thật.

6- Trong khi kẻ thù và người vô tư là thế (nghĩa là lì lợm và buồn cười), thì con cái của Thầy cũng te tua, cũng buồn cười không kém.

- Các bà phụ nữ được Thầy đón gặp trên đường từ ngôi mộ trống trở về. Bà Maria Mácđala được Thầy tỏ hiện ngay bên ngôi mộ trống. Cánh phụ nữ thì tin Thầy đã sống lại. Họ tin không phải vì đức tin của họ lớn, mà vì họ là phụ nữ dễ tin.

- Cánh đàn ông thì bán tín bán nghi. Không phải vì đức tin của họ non kém, mà vì họ là đàn ông. Ông Phêrô ra tận ngôi mộ trống. Không thấy ông tin, mà chỉ thấy ông ngạc nhiên (Lc 24,12). Hai môn đệ đi Emmau biết tin ngôi mộ trống, đã nghe cánh phụ nữ kể chuyện gặp Thầy, họ vẫn cứ ngơ ngơ (Lc 24,13-26). Mười tông đồ gặp Thầy hiện ra, thì lại tưởng là ma (Lc 24,37). Khi mọi người đều thấy và tin Thầy sống lại, Tôma vẫn cứ một mực ngoan cố đòi rờ dấu đinh ở tay, ở chân và vết đâm ở sườn Thầy, thì mới tin. Ừ, thì họ có quyền không tin sự kiện Phục sinh, nhưng nếu thế thì phải bung ra mà đi tìm xác của Thầy chứ. Thấy mất xác Thầy, không tin Thầy sống lại, thế mà không đi kiếm xác, cứ ngồi lù lù một đống. Vô tâm đến thế là cùng...

Nhưng thưa Thầy kính mến,

Có một tông đồ tin Thầy đã sống lại. Ông tin trước cả bà Maria Mácđala. Tông đồ đó là Gioan. Sở dĩ ông tin sớm như thế, ông đã phát giác được tập tánh của Thầy, khi Thầy đích thân xếp gấp đống khăn liệm một cách ngăn nắp. Ông nhận xét rõ ràng như sau: "Khăn che đầu Đức Giêsu không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi" (Ga 20,7). Sau khi nhận xét một cách tinh vi như thế, ông tin ngay là Thầy đã sống lại (Ga 20,8).

Con khẳng định rằng Gioan không phải là người đầu tiên được thấy Thầy Phục sinh, nhưng là người đầu tiên tin Thầy sống lại. Và, thưa Thầy, còn Mẹ thì sao ? Con không cần Thầy trả lời.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 210: NGÔI MỘ VẮNG

 

Dấu chân 59


Mt 27,57-61; Lc 23,50-56; Ga 19,38-42

Thầy kính mến.

 

Mặt trời của ngày thứ Sáu vừa lặn xuống, thì luật Hưu lễ của ngày thứ Bảy bắt đầu. Đường sá vắng PiôHậu 210


Mặt trời của ngày thứ Sáu vừa lặn xuống, thì luật Hưu lễ của ngày thứ Bảy bắt đầu. Đường sá vắng hoe. Đồng áng không còn một bóng người. Núi Sọ và ngôi mộ của Thầy vắng lặng đến rùng rợn. Bằng trí tưởng tượng, con đi dạo một vòng từ núi Sọ, đến dinh Thượng Tế; từ tư gia đến công sở Con nhìn trộm, con nghe lén, con chiêm ngắm để cảm nghiệm được thế nào là nhân tình thế thái.

1- Ngôi mộ của Thầy chỉ là một tảng đá không lồ. Cô đơn và vắng lặng. Không có tiếng khóc nức nở của người thân thương. Không có tiếng kêu réo của bọn đầu trâu mặt ngựa. Bên trong ngôi mộ chỉ có một khoảng trống nhỏ hẹp. Tối đen như mực ! Thân xác bầm giập của Thầy nằm trên giường đá, cuộn cứng trong đống vải liệm, trông giống y như một cái kén khổng lồ. Vết thương trên thân thể của Thầy vẫn rỉ nước, thấm vào vải liệm. Con rờ thử thì thấy hơi ươn ướt ở đầu ngón tay. Con đưa tay lên mũi để ngửi, thì không thấy mùi tanh của máu, mà chỉ thấy mùi thơm của ba mươi hai kílô lô hội và mộc dược. Thơm quá. Thơm ngào ngạt, tưởng như có thể bể lỗ mũi được.

Ba năm lăn lộn giữa quần chúng. Ba năm quần chúng bám theo như một Siêu Sao. Ba năm làm việc cho đời đến mức độ không còn thời giờ để ăn uống. Thế mà bây giờ chỉ còn có thế: một cái xác không hồn; một cái miệng không nói; một đôi chân không đi; một quả tim không đập... Với một sự tối tăm và yên lặng tuyệt đối. Nhưng trong bóng tối mịt mù vẫn lan toả một mùi thơm ngào ngạt. Dường như…chưa phải là hết. Dường như… vẫn còn một cái gì đó. Lạ lắm!

2- Thượng Tế Caipha đang ăn bữa tối. Trên bàn chỉ thấy món ăn nguội của ngày Sabát. Không hấp dẫn nhưng vẫn ngon miệng. Ngon lạ lùng. Dưới ánh sáng bạch lạp, nét mặt của ông rạng rỡ hẳn lên. Trên bàn cờ lịch sử, ông đã mở tỉ số và ghi ba bàn thắng liên tục. Thắng đậm. Thắng tuyệt đối

- Sau sự kiện phục sinh của Ladarô, Caipha tưởng là mình bị phá sản. Thế mà ông đã lật ngược thế cờ. Giới trí thức thủ đô đang ùn ùn bỏ ông để theo Thầy, thì lại đùng đùng trở lại với ông. Nước cờ quyết định của ông chỉ là câu nói xuất thần: "Nếu cứ ùn ùn theo ông Giêsu thì người Rôma sẽ đến bao vây thủ đô, san bằng Đền Thờ và tiêu diệt dân ta". Tuyệt vời !

- Khi Tổng Trấn Philatô quyết tâm thả Thầy, thì Caipha dồn Philatô vào chân tường: "Nếu ông thả tên Giêsu, tự xưng là Vua Do Thái, chúng tôi sẽ đâm đơn thưa ông tới Hoàng đế Rôma". Philatô không thể hy sinh cái ghế Tổng Trấn để cứu Thầy. Thế là Caipha lại ghi bàn thắng thứ hai.

- Khi Caipha biết Philatô đang đu đưa giữa hai quyết định tha và giết Thầy, chỉ vì lý do dị đoan mê tín. Philatô sợ hồn người chết oan về quấy phá. Mà, Thầy thì rõ ràng là chết oan. Caipha bèn cam kết với Philatô rằng: "Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Còn ông thì vô can". Thế là xong. Ông ghi bàn thắng thứ ba, bàn thắng quyết định.

Miệng Caipha nhai nhóp nhép chậm rãi để thưởng thức cái chiến thắng vẻ vang của mình. Chiến thắng của sự gian trá, độc ác, nhưng... có lợi cho bản thân của ông và của tập đoàn lãnh đạo tôn giáo của ông. Sướng quá !

3- Căn nhà của bà Maria bây giờ dường như lại rộng hơn trước nhiều. Tối hôm qua, Thầy và các Tông Đồ ngồi ăn lễ Vượt Qua ở đây. Có Thầy hiện diện, ai nấy đều thấy an tâm quá, ấm cúng quá. Không gian như thu hẹp lại để bao bọc, để ủ ấp. Ấm áp vô cùng ! Nhưng tối hôm nay, cặn phòng vắng Thầy, khiến mọi người cảm thấy như không gian giãn nở. Nó đã rộng, bây giờ lại rộng quá, rộng đến mức độ phải sợ hãi. Không gian bao la là kẻ thù của người cô đơn.

Đàn ông đàn bà đều ngơ ngác nhìn nhau.

- Nhóm Mười Hai thì chỉ còn mười (Giuđa Ítcariốt thì phản Thầy. Tôma thì chém vè đi đâu không biết). Phêrô là thủ trưởng thì thang mặc cảm tội lỗi, chẳng dám nhìn mặt ai..

Tình hình chung là thất vọng. Ba năm theo Thầy tưởng Thầy làm nên sự nghiệp lớn, thì mỗi người có chút đỉnh chung... Ai ngờ Thầy lại chết thê thảm. Thế là mất cả chì lẫn chài. Bây giờ thì tiến thoái lưỡng nan. Về quê làm ăn như cũ, thì xấu hổ với vợ con, với xóm giềng. Đã lỡ huênh hoang khoe khoang với bà con nhiều quá bây giờ rút lời không kịp nữa. Nếu không về làng làm ăn thì vác mặt đi đâu bây giờ. Tiền thì không có một cắc. Trình độ văn hoá thì không đầy một lá mít. Đúng là dở sống dở chết.

- Các bà phụ nữ theo Thầy từ miền Bắc cứ đinh ninh lễ Vượt Qua này sẽ đánh dấu ngày Thầy thành lập Nước Chúa. Bây giờ họ chỉ biết ngồi khóc với nhau. Họ không thèm ăn. Họ không thèm ngủ. Họ hờn dỗi với lịch sứ, với bản thân và với cả Chúa Cha. Họ chỉ muốn chết. Chết để khỏi tức. Chết để khỏi thấy đời trớ trêu. Họ muốn ra mộ để được khóc bên xác của Thầy, nhưng lại không dám vi phạm luật ngày Sabát. Lại hận thêm cả ngày Sabát nữa.

- Giữa đám đàn ông ngơ ngác sợ hãi, nổi bật lên hai người đạo mạo, đĩnh đạc, bề thế. Đó là ông Giuse và Nicôđêmô. Hai ông là quan chức cao cấp trong giới lãnh đạo Do Thái giáo. Họ có thiện chí. Họ phát giác được Thầy là "Đấng phải đến". Họ tin Thầy mà không dám công khai theo Thầy. Cũng chỉ vì chữ THAM trong tim của họ vẫn còn đậm nét.

Nhưng khi Caipha và Công Nghị lên án tử cho Thầy một cách quá lố bịch, thì lương tâm ngay thẳng không cho phép hai ông đứng về phía Công Nghị nữa. Hai ông can đảm đứng ra công khai tổ chức nghi thức an táng cho Thầy. Họ bao thầu trọn gói, từ thủ tục hành chánh cho tới vải liệm, dầu thơm và ngôi mộ. Họ cảm thấy rất hãnh diện vì đã làm được cho Thầy những điều mà chẳng ai làm được. Họ đã sợ Công Nghị, nhưng bây giờ thì không thèm sợ nữa. Họ có thể hèn, nhưng không thể hèn quá mức như thế. Thái độ hiên ngang của họ đem lại cho mọi người một chút niềm hy vọng.

Thầy kính mến.

Thầy đã chết. Trong khi Thầy đang nằm trong mộ thì cả nước đang chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua. Niềm vui chồng lên nỗi khổ. Niềm vui của người này làm gia tăng nỗi đau của người nọ. Có những người quên Thầy để mừng lễ Vượt Qua. Có những người không thèm ăn lễ Vượt Qua để tưởng nhớ Thầy. Đời là như thế đó. Nhưng tất cả những chuyện ấy đối với Thầy chỉ là chuyện nhỏ. Thầy đang ôm ấp một chuyện lớn. Thời gian đang tính từng giờ để chờ Thầy ra tay...

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 211: NÚI SỌ TRƯA HÔM ẤY

 

Dấu chân 58


Lc 23,33-38 ; Ga 19,17-37

Thầy kính mến.

 

Mặt trời đứng bóng. Gió im phăng phắc. Trời nóng như đổ lửa. Núi Sọ trơ trụi không một bóng PiôHậu 211


Mặt trời đứng bóng. Gió im phăng phắc. Trời nóng như đổ lửa. Núi Sọ trơ trụi không một bóng cây. Không khí như loãng ra, ngộp thở quá chừng. Có mùi máu tanh tanh.

Bằng trí tưởng tượng con nhìn ngắm Thầy. Thầy quằn quại thở hổn hển. Mồ hôi đầm đìa, trộn với máu khô, máu tươi tạo nên một khuôn mặt lem luốc bẩn thỉu quá chừng. Thầy khát nước, miệng khô khốc. Đầu lưỡi khô ran liếm hai hàm răng bụi bặm, rồi lắc đầu tuyệt vọng. Bất giác Thầy phải kêu lên: "Khát quá". Tên lý hình lấy một cái que, quấn chất xốp vào đầu, nhúng vào giấm rồi kê vào miệng Thầy. Thầy nhấm nháp một tí, rồi nhăn mặt quay đi. Giấm chua quá ! Chết khát còn sướng hơn.

Con thấy Thầy ngước mắt nhìn lên thật lâu, rồi lại đưa mắt nhìn xuống. Nhìn xa rồi lại nhìn gần, miệng nói thì thào.

1- Thầy nhìn các đấng bề trên trong đạo. Họ nắm tay lại nguyền rủa Thầy như nguyền rủa một tên vô lại. Họ ngạo Thầy, họ thách thức Thầy: "Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống đi... Chúng ta sẽ tin liền". Ngạo cho đã, rồi cười hô hố. Đắc chí quá chừng ! Sung sướng quá lẽ ! Thầy nhìn họ thật lâu, rồi ngước mắt nhìn trời. Tưởng Thầy xin trời đổ sập xuống trên họ. Ai ngờ... Thầy dướn mình lên, hít một hơi thật đầy, rồi chậm rãi buông thả từng lời, rành rọt và tha thiết: “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không hiểu biết việc họ làm”. Con hơi bất bình vì thấy Thầy hiền quá.

2- Thầy quay mặt nhìn sang bên trái. Tên đạo tặc bị đóng đinh tru tréo vì đau quá. Hắn chửi trời, hắn chửi chánh quyền, hắn chửi cha mẹ, hắn chửi cả cái số kiếp khốn khổ của hắn. Bỗng hắn chửi cả Thầy: "Nếu mi là con ông trời, tại sao không tự cứu, rồi cứu chúng tao luôn". Thầy chỉ nhìn hắn bằng ánh mắt hiền từ. Không nói một lời .

3- Thầy quay mặt qua bên phải. Bên đó cũng có một tên đạo tặc bị đóng đinh. Hắn cũng rên la, cũng tru tréo như con thú bị sập bẫy. Bỗng hắn nhỏng mỏ chửi tên đạo tặc bên kia: "Tao với mày chịu khổ như thế này là đáng tội rồi. Vậy mà mày dám chửi Trời. Mày dám chửi cả ông này. Ông có làm điều gì sai đâu". Chửi bạn đồng cảnh xong, hắn ngó ngay mặt Thầy, tha thiết van xin: "Ông Giêsu ơi ! Khi nào ông về Thiên đàng, thì xin đừng quên tôi !" Thầy nhìn trân vào mặt hắn, mừng rỡ như vớ được báu vật. Thầy nói to và rõ: “Nội hôm nay, anh sẽ vào Thiên đàng với tôi”. Hắn cười sung sướng, chẳng biết đau là gì. Một tên đạo tặc được cứu rỗi. Ôi, quý giá vô cùng!

4- Thầy lại nhìn xuống. Mẹ đứng ngay ở đó, khóc nấc lên. Thầy kêu "Mẹ", rồi im lặng một hồi lâu. Dường như Thầy nghẹn lời, nói không được. Thương Mẹ quá. Một người Mẹ suốt đời phải khổ vì Con. Đời của Con như một lưỡi gươm xuyên qua tim Mẹ. ông già Simêon đã nói tiên tri như thế từ 33 năm về trước. Và giờ phút này, Mẹ mới cảm thấy lưỡi gươm ấy đang cắm phập vào tim. Đau quá ! Đau đến chết được. Thầy chờ Mẹ ngước mắt nhìn lên. Hai cặp mắt nhìn nhau, nhoà lệ. Thầy nói thật nhỏ: “Mẹ, Gioan thay Con làm con của Mẹ”. Thầy gọi Gioan, gọi thật nhỏ: “Gioan ơi, đây là Mẹ của anh”.

Thầy kính mến. Thầy ân hận, vì suốt ba năm truyền đạo, Thầy không có thời giờ để chăm sóc Mẹ. Thương quá là thương. Thương mà không được chăm sóc. Tội nghiệp quá chừng ! Thầy thấy Gioan gọi Mẹ là "Mẹ". Thầy thấy Mẹ khóc trên vai của Gioan. Mừng quá !

5- Thầy cảm thấy cơ thể như co quắp lại. Đau đớn quá chừng ! Giờ phút cuối cùng đang đến. Thầy ngước mắt lên, ánh mắt như xoáy vào không gian. Đau quá ! Tủi quá ! Trời xanh vẫn lồng lộng như vô tâm. Một cụm mây trắng lững lờ như vô tình. Dường như Chúa Cha không thấy và không biết. Bất giác Thầy phải thốt lên như phiền trách, như hờn dỗi: “Lạy Cha ! Tại sao Cha nỡ bỏ rơi con…”. Thầy cúi mặt xuống, lắc đầu. Dường như Thầy lỡ miệng. Dường như Thầy hối lỗi. Thầy lại nhìn lên, như nhìn thấy Chúa Cha. Thầy nói thì thầm như không còn hơi: "Lạy Cha, Con xin gởi hồn con trong tay Cha". Thầy ngước lên một lần cuối, lấy hết sức bình sinh để nói một lời sau hết: "Mọi sự đã hoàn tất".

Đầu Thầy gục xuống ngực. Mẹ khóc oà lên. Gioan nấc lên. Các bà phụ nữ cũng khóc oà lên. Thế là hết !

Trời đang trong xanh, bỗng tối sầm lại. Y như cả vũ trụ đều hối hận, đều tiếc xót. Viên sĩ quan chỉ huy vụ đóng đinh cúi đầu đấm ngực và nói một mình "Ông này là một người công chính". Dân chúng vô tình đến đây để thoả mãn tính tò mò, cũng gục mặt hối hận, lủi thủi ra về. Một kỷ niệm buồn không thể chịu được. Một ấn tượng dai dẳng cho đến chết vẫn chưa phai mờ. Muôn đời chỉ có một lần.

6- Đã ba giờ chiều rồi. Chỉ còn 3 tiếng đồng hồ nữa để vừa lo thủ tục giấy khai tử, vừa hạ xác, tắm xác và tẩm liệm. Và mọi người phải có mặt ở nhà trước sáu giờ chiều. ông Giuse Arimathia và ông Nicôđêmô phải vắt giò lên cổ để chạy về đồn Antonia, để yết kiến Tổng Trấn Philatô, để khai tử, để xin làm lễ an táng, để ra tiệm mua vải, mua lô hội và mộc dược... Ôi, một trăm công việc phải làm trong một thời gian ngắn tũn. Vừa làm vừa lo. Lo đến toát mồ hôi. Vừa lo, vừa buồn. Vừa buồn, vừa đau. Rối như tơ vò. Khổ ơi là khổ !

Thầy kính mến.

Thầy nằm yên trong mồ. Ai nấy vội vã về nhà. Chẳng ai thèm ăn. Chẳng ai muốn ngủ. Người cứ như cái xác không hồn. Đàn bà thì khóc hức hức. Đàn ông thì câm như hến. Chẳng ai an ủi được ai. Tuyệt vọng đến tận cùng của tuyệt vọng !

Thầy ơi, Thầy chết mà vẫn chưa hết chuyện. Bọn lãnh đạo Do Thái vẫn còn sợ. Họ sợ uy tín của Thầy chưa chết. Họ xin Philatô cho lính gác mộ. Philatô nổi quạu: "Các ông có lính đền thờ. Các ông tự lo lấy". Thì ra họ sợ đệ tử của Thầy ăn trộm xác Thầy rồi tung tin vịt là Thầy đã sống tại. Họ sợ quá hoá lú lẫn. Họ quên rằng đệ tử của Thầy đang run như cầy sấy, đang rời rạc như cám hấp. Bố bảo họ cũng chẳng dám mon men đến thăm mộ, huống hồ là đến cạy mồ để trộm xác.

Mặt trời lặn dần. Màn đêm buông xuống. Một đêm tối mịt mù. Đêm tối vật lý. Đêm tối tâm lý. Tất cả chỉ là đêm tối.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 212: TÒA ÁN CHÁNH TRỊ

 

Dấu chân 57


Ga 18,28-Ga 19,1-16;Lc 23,1-25

Thầy kính mến,

 

Sau khi ném án tử lên đầu Thầy, lãnh đạo Do Thái hỉ hả đi ngủ, ngủ ngon. Bây giờ đến lượt gia PiôHậu 212


Sau khi ném án tử lên đầu Thầy, lãnh đạo Do Thái hỉ hả đi ngủ, ngủ ngon. Bây giờ đến lượt gia nhân, cận vệ, lính bảo vệ Đền Thờ đua nhau dày vò Thầy. Chúng bắt Thầy chơi trò “Tiên Tri”. Chúng bịt mắt Thầy, vả mặt Thầy, rồi bắt Thầy phải nói xem đứa nào vả. Chúng khạc rồi nhổ toẹt vào mặt Thầy, rồi lại bắt Thầy làm thầy bói... Chúng chơi hạ cấp, vì chúng là hạ cấp. Chúng chơi đểu vì chúng là đầy tớ muốn làm vui lòng ông chủ độc ác. Đầy tớ thức trắng để nịnh chủ . Nịnh chủ cho tới sáng...

Thầy cứ ngồi yên, tay bị trói, mặt dính đầy đờm nhãi... không buồn, không giận, không hận, không ghét. Dường như Thầy muốn thương hại chúng, vì chúng ngu dại.

Trời vừa hừng sáng, sân Thượng Tế đã đầy người. Cứ nhốn nháo, cứ lao xao như cào cào phá lúa. Họ rùng rùng tiến về phía đồn Antonia. Họ lôi Thầy đi: vẫn bị trói, hốc hác và xơ xác đến thảm thê. Hậu quả của một đêm không ngủ, một đêm bị quỷ sứ sàng như sàng gạo.

Đoàn người biểu tình dừng lại trước cổng đồn. Họ không thèm vào vì đó là sào huyệt của bọn không cắt bì. Lính đồn báo động. Đồn lính dồn dập chuẩn bị chiến đấu. Tổng Trấn Philatô, cổ to như cổ bò mộng, lù lù đi tới, mặt lạnh như tiền, hất hàm hỏi một câu cộc lốc:

- Chuyện gì ?

- Chúng tôi giải nạp cho ngài một tên phản động. Hắn gây rối loạn từ Bắc chí Nam, xúi dân chống thuế Nhà Nước; tự xưng vương, âm mưu lật đổ chánh quyền.

Tổng Trấn nhìn Thầy một cái, hơi ngỡ ngàng, ngoắt tay một cái ra lệnh, rồi quay gót kiểu nhà binh. Hai tên lính lê dương ập tới, lẹ như phản xạ, kè hai bên, lôi Thầy vào tiền sảnh. Philatô quắc mắt nhìn Thầy từ đầu đến chân, rồi dừng lại một lát ở khuôn mặt và cặp mắt của Thầy. Ông nghĩ thầm trong bụng: “Dáng tu hành, mặt hiền khô như thế này thì biết gì mà xưng vương xưng tướng. Lại chuyện nội bộ tôn giáo lằng nhằng”. Ông mỉm cười hỏi đùa Thầy:

- Bộ ông là vua thật hả ?

- "Phải, tôi là vua. Nhưng Nước của tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì tôi phải có lính và lính tôi sẽ chiến đấu, không để cho lãnh đạo Do Thái bắt tôi mà nộp cho ngài. Tôi đến trong trần gian này là để làm chứng cho Chân Lý. Ai yêu Chân Lý thì theo tôi"

- Chân Lý là cái quái gì ! Philatô cười hô hố, rồi đi ra cổng đồn, dõng dạc tuyên bố: “Ta không thấy người này có tội gì hết”.

Đoàn biểu tình la lối om sòm. Philatô ra lệnh im lặng. Thượng Tế Caipha, áo mão chỉnh tề tiến lên, vung tay tuyên bố, âm lượng to như sấm, âm lực đanh như thép.

- Tên Giê su này tuyên truyền chống Hoàng đế Rôma. Nếu ông tha, chúng tôi sẽ thưa ông tới toà Rôma.

Philatô sa sầm mặt xuống, chậm chạp quay gót, chậm rãi đi về tiền sảnh. Ông trợn mắt đón “tối hậu thư” của bà vợ: "Ông đừng nhúng tay vào vụ án Người Hiền này, vì đêm qua tôi có một giấc mộng khủng khiếp về ông ấy". Philatô yêu cầu Thầy trả lời rành rọt về mọi tội mà người Do Thái đã tố cáo. Thầy không thèm trả lời. Philatô bị chạm tự ái, dằn giọng với Thầy :

- Tại sao ông không trả lời. Bộ ông không biết rằng tôi có quyền tha và có quyền giết ông sao ?

- Ông chẳng có quyền tha, cũng chẳng có quyền giết tôi, nếu Đấng ở Trên không ban quyền ấy cho ông. Vả lại nếu ông kết án tử cho tôi, thì tội của ông nhẹ hơn tội của người Do Thái.

Tiến thoái lưỡng nan, Philatô bước tới bước lui, bóp trán suy nghĩ, tìm cách gỡ bí. Là người Rôma, ông biết luật pháp là trọng. Ông muốn cứu Thầy, nhưng ông phải cứu cái ghế của ông trước. Bỗng ông sáng mắt lên, chạy ra cổng đồn hy vọng cứu được Thầy:

- Hằng năm, vào dịp lễ Vượt Qua, Nhà Nước ân xá cho một tử tội. Năm nay ta cho các người chọn: một là tên đạo tặc Baraba, hai là Giêsu Vua Do Thái.

- Tha Baraba. Đóng đinh Giêsu. Đoàn biểu tình la lên, la lên mãi, nghe điếc lỗ tai.

Thua keo một. Philatô bày keo hai. Không phải để cứu Thầy mà để tự cứu mình. Nghe giọng nói của Thầy hơi cứng; ông xun xoe hỏi :

- Ông là người Bắc hả ?

- Vâng.

- Vậy thì hay quá ! Tôi nắm quyền quân sự trên toàn tỉnh Syria. Nhưng về hành chính, thì miền Galilê thuộc quyền vua Hêrôđê. Vậy tôi sẽ chuyển vụ án của ông sang bên đó. Hiện ngài đang ở Giêrusalem, để dự lễ Vượt Qua.

Đùa được cái khó sang cho Hêrôđê, Philatô thở phào nhẹ nhõm. Ông chắc mẩm bà vợ của ông cũng sẽ mừng lắm. Nhất cử lưỡng tiện. Tuyệt vời ! Nhưng... chưa thưởng thức hết cái tuyệt vời ấy, thì ông lại dướn lông mày, há mồm bỡ ngỡ... Hêrôđê lục vấn Thầy.

Thầy không thèm trả lời Tức quá, ông cho dẫn độ Thầy trả về cho Philatô.

Philatô lại bóp trán suy nghĩ. Lại cười thầm trong bụng: “Bọn cáo già Do Thái này đòi giết ông Giêsu cũng chỉ vì uy tín của hai bên đi ngược chiều với nhau. Bên này lên, thì bên kia phải xuống. Bây giờ ta cho ông Giêsu này ăn một trận đòn thiếu sống thiếu chết, thì bọn cáo già sẽ vừa bụng liền thôi”.

Thế là một trận đòn tơi tả diễn ra. Roi da đua nhau quất vun vút. Da thịt của Thầy run lên bần bật, co giật như lên cơn động kinh. Máu tứa ra. Lưng của Thầy đỏ như tắm máu. Người nào còn một chút lương tri cũng phải quay mặt đi, để khỏi bị chóng mặt.

Tổng Trấn Philatô đứng đó , bình thản lượng định xem mức độ rách nát của da thịt Thầy đã đủ chưa để trả giá cho mạng sống của Thầy. Phải đau, phải thật đau mới mua được sự sống, ông nghĩ thầm trong bụng như thế... Ông ra lệnh ngưng đánh. Hai tên lính lê dương kè Thầy theo ông ra cổng đồn. Ông lượng định cái giá phải trả cho mạng sống của Thầy là quá hào phóng rồi. Ông mỉm cười nói đùa với đám biểu tình.

- Đây là Người (ngụ ý rằng không còn là người nữa)

- Đóng đinh nó vào thập giá ! Đoàn biểu tình la lên. Tiếng la dội lại từ các toà nhà nghe như sấm rền.

- Thì các người đem đi mà đóng đinh (Philatô tuyên bố với giọng hờn dỗi). Nhưng phải nhớ là tôi vô can nhá.

- Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi, chúng tôi chịu. Ông đừng lo.

Philatô ra lệnh cho tên lính. Hắn bưng đến một thau nước. Ông rửa tay, vừa rửa vừa quay đầu ngó đám biểu tình, tuyên bố một lần cuối cùng :

- Tôi vô can trong vụ giết ông này.

Nói xong, ông hỉ hả vô dinh. Đoàn biểu tình lôi Thầy đi ra pháp trường. Tiếng la ó nhỏ dần. Đồn Antonia yên lặng như căn nhà chỉ có người ngủ .

Thầy kính mến,

Bao nhiêu cái bất công, bao nhiêu cái đểu cáng của tình đời đều đổ hết lên đầu Thầy. Bao nhiêu cái đau đớn của thân xác con người đều thấm hết vào từng mạch máu li ti, từng sợi thần kinh nhỏ tí của Thầy. Ôi ! Thương Thầy quá. Mọi con tim thương Thầy đều phải ngưng đập, vì còn sức đâu nữa mà đập. Chết với Thầy có lẽ còn sướng hơn.

Vụ án của Thầy, cái bất công và tàn nhẫn này, mãi mãi cho đến muôn đời phải là một bài học đau đớn cho ngành tư pháp, phải là một sự giằng xé lương tâm cho mọi người cầm quyền từ trong đạo ra tới ngoài đời. Thầy đưa thân rách nát và đỏ lòm của Thầy ra để làm bài học dạy lương tâm loài người và... để mặc khải trọn vẹn về một tình yêu vượt quá tầm hiểu biết của loài người.

Thầy ! Như vậy đó ư ? Con chỉ biết chắp tay lạy Thầy.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 213: TÒA ÁN TÔN GIÁO

 

Dấu chân 56


Lc 22,54-71 ; Ga 18,12-27

Thầy kính mến.

 

Thầy là một nhà truyền đạo vĩ đại, là một nhà giảng thuyết lẫy lừng, là một siêu sao của quần chúng PiôHậu 213


Thầy là một nhà truyền đạo vĩ đại, là một nhà giảng thuyết lẫy lừng, là một siêu sao của quần chúng. Ba năm vẫy vùng từ Bắc chí Nam y như võ sĩ múa gậy rừng hoang. Kinh sư phải kiềng. Pharixêu phải nể. Thế mà tối hôm nay Thầy bị lôi ra toà, tay bị trói quặt cánh khỉ, bị tên vệ sĩ của Thượng tế đánh vào mặt... Tội tình gì ? Bởi đâu nên nông nỗi này ? Oan ức lắm Thầy ơi ! Tức quá chịu không nối, con phải tìm cho ra lẽ .

1- Lãnh đạo Do Thái giáo ghét Thầy quá sức. Ghét cay ghét đắng. Ghét đến độ họ muốn giết Thầy nhiều lần. Lần cuối cùng là sau sự cố Ladarô được Thầy gọi ra từ trong ngôi mộ. Họ lên án tử cho Thầy từ hôm ấy rồi. Hôm nay chỉ là một vở tuồng diễn dở mà thôi. Nhưng Thầy đã làm gì để họ phải ghét ? Có nhiều lý do lắm.

- Họ tố cáo Thầy phá luật Môsê. Mà Môsê là sứ ngôn cao cả của Giavê. Thầy bảo là Thầy không phá luật. Thầy chỉ điều chỉnh để luật trở nên hoàn hảo. Nhưng, theo ý của con, thì Thầy có phá luật thật, vì luật ấy không vị nhân sinh, không phục vụ con người.

- Luật cấm trị bệnh vào ngày Sabát, Thầy cứ trị bệnh tưới hạt sen. Thầy bảo rằng: ngày Sabát luật cho phép cứu con lừa sa xuống hố, tại sao lại không cho phép cứu người. Bộ con người thua kém con lừa sao.

- Môsê cho phép ly dị. Thầy nói không với Môsê. Hỏi tại sao thì Thầy bảo: từ thuở ban đầu không có như vậy. Còn Môsê cho phép ly dị, chỉ là một sự nhượng bộ trước sự cứng lòng của người dân mà thôi.

- Môsê cấm ăn đồ uế. Thầy bảo đồ ăn nào cũng thanh hết. Đồ ăn vào trong bụng không thể làm cho tâm
hồn ra uế được

- Môsê ra lệnh ném đá người ngoại tình. Thầy nói không rất mạnh mẽ với Môsê. Thầy không muốn giết tội nhân. Thầy muốn thấy tội nhân hối cải.

Thầy ơi ! Họ tố cáo Thầy, nhưng tố sai, sai hoàn toàn.

- Đường lối mục vụ của lãnh đạo Do Thái có cơ phá sản, vì bị Thầy công kích liên miên.

- Họ khinh dể người ngoại đến mức độ gọi người ngoại là bọn không cắt bì. Ai bước chân vào nhà người ngoại thì mắc uế. Còn Thầy thì yêu thương người ngoại, đề cao người ngoại nhiều lần. Có một lần Thầy bị đồng hương Nadarét la ó, đòi giết Thầy, chỉ vì Thầy đề cao người ngon (Lc 4,28-29).

- Họ ra vạ tuyệt thông cho người thu thuế và các cô điếm. Nhưng Thầy vẫn tiếp xúc và thương yêu những người ấy . Thầy tìm kiếm họ như chủ chăn đi tìm một con chiên lạc .

- Họ khinh dể người tàn tật vì họ bảo rằng bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Thầy phản đối tư tưởng ấy, để người bệnh tật vẫn được tôn trọng và yêu thương.

Thầy kính mến.

Lãnh đạo Do Thái muốn giết Thầy không phải vì muốn bảo vệ truyền thống cổ hủ mà chỉ vì muốn bảo vệ cái ghế và cái nồi. Họ chỉ thích quyền và lợi mà thôi. Họ sai hoàn toàn. Thầy oan trăm phần trăm.

2- Nhưng, thưa Thầy, con vẫn còn tức. Tại sao người tội lỗi lại ngồi ghế chánh án ? Tại sao người vô tội lại lãnh án tử? Phải chăng đời là bất công ? Phải chăng công lý không có chỗ đứng trên trần gian này ? Và tại sao Chúa Cha lại bắt Thầy phải chịu khổ đến thế ?

Con suy nghĩ mãi mà không tìm được câu trả lời. Dường như các nhà tư tưởng lớn cũng chỉ biết thắc mắc mà không tìm được câu giải đáp. Có người thắc mắc rồi chửi đời: “Đời là phi lý”. Có người tức quá thì chửi ông Trời: “Con Tạo đa đoan”; “Trẻ Tạo đành hanh”; “Có ông Trời không ? Ông Trời có mắt không?”… Thì ra đời là thế. Nhưng công bằng mà nói thì đời chỉ CÓ đầy dẫy bất công, chứ đời không phải LÀ bất công.

Và Thầy ơi, Thầy vào đời và ở VỚI chúng con, Thầy cũng sẵn sàng chấp nhận bất công VỚI chúng con, để trở nên NHƯ chúng con và để yêu chúng con đến tận tình tận nghĩa. Chúa Cha cũng muốn Thầy phải chịu chết oan khiên như thế để tình yêu của Ngài được mặc khải trọn vẹn.

Nhìn Thầy đứng đó, bị trói, bị vả vào mặt, bị kết án tử bất công... con cảm thấy uất hận dâng lên, chặn ngang ở cổ. Nhưng khi thấy nét mặt Thầy bình thản quá, con lại cụt hứng. Có một cái gì đó cao cả lắm, linh thiêng lắm, cần được chiêm ngắm và tôn thờ. Uất hận chỉ là chuyện nhỏ.

Thầy kính mến.

Án tử của Thầy kết thúc buổi họp bất thường của Công Nghị. Những ngọn bạch lạp phụt tắt. Thượng Tế Caipha và các nghị viên ra về. Hỉ hả. Có vài người tỏ vẻ trầm tư, lắc đầu thất vọng...

Ở trong hội trường, các nhân vật vị vọng đùa giỡn với pháp luật, nắn bóp luật pháp y như bọn trẻ chăn trâu lấy đất dẻo nắn thành hình nộm. Ở ngoài sân bọn người hạ cấp đang ngồi lố nhố xung quanh đống lửa, vừa sưởi ấm vừa nói chuyện tục tĩu. Họ chuẩn bị vày vò Thầy để mua vui, giống như con mèo no cành bụng đang vờn con chuột sống sót...

Có một người đàn ông giống như Phêrô đang thập thò ở ngoài cổng. Muốn vô nhưng lại sợ. Muốn chuồn nhưng lại vương vấn. Gioan vội chạy ra nói nhỏ gì đó với cô gái giữ cổng. Phêrô đi vào, lẽo đẽo theo sau Gioan, lấm lét sợ hãi y như thằng cu tí năm tuổi theo mẹ đi vào trường mẫu giáo mầm non. Sợ là phải, vì đây là dinh của ông lớn nhất nước. Sợ là phải, vì Thầy của ông bị bắt, bị trói và đang bị xét xử ở trong kia. Phêrô chen vào vòng người lố nhố để ăn mày chút hơi ấm. Cái dáng đi chữ bát của dân chài, cái giọng cứng ngắc của người Galilê, khiến Phêrô bị lộ lý lịch. Đàn bà nghi ngờ ông. Đàn ông vặn vẹo ông. ông sợ tái mặt. Ba câu hỏi ở ba mức độ khác nhau dồn Phêrô vào chân tường.

- Câu hỏi một: "Dường như anh cũng là đệ tử của ông ấy"

- Câu hỏi hai : “Đúng. Anh là môn đệ của ông ấy. Giọng Galilê nghe là biết liền. Đúng không ?”

- Câu hỏi ba : "Đúng không nào ? Hồi nãy tôi thấy anh ở trong vườn Cây Dầu mà”.

Phêrô chỉ còn cách cãi bướng “Tôi không biết ông ấy”. Vừa nói vừa tìm đường chuồn. Nhưng con gà trống lại cản chân ông. Nó gáy một hơi dài khiến ông giật mình đứng lại. Ông mắc cỡ nhìn Thầy. Thầy lặng lẽ nhìn ông. ông khóc hụ lên, rồi bỏ chạy. Ông xấu hổ quá, vì Thầy đã cảnh báo ông: "Đêm nay khi gà chưa gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần". Ân hận quá ! Ân hận suốt đời !

Thầy kính mến.

Bên cạnh những nỗi thương đau vì Thầy, bên cạnh những nỗi ưu tư về sự yếu đuối của Phêrô, con lại có một thắc mắc dai dẳng về Gioan. Gioan là một dân chài sống lẩn quẩn trên hồ Galilê. Thế mà anh ta lại là người quen thân của Thượng Tế, nhân vật số một của dân tộc. Anh ở trong dinh Thượng Tế như ở nhà của mình. Anh quen thân với cả cô gái giữ cổng. Thậm chí anh còn biết tên vệ sĩ bị Phêrô chém trong vườn Cây Dầu có tên là Mancô. Anh còn ghi chú rõ ràng là người thứ ba hoạnh hoẹ Phêrô, là bà con với Mancô. Hoàn cảnh nào đã đưa Gioan từ thằng dân ngu đến địa vị của người thân quen với ông lớn nhất nước như thế ? Và hoàn cảnh may mắn ấy có ảnh hưởng gì đến lịch sử cứu độ của Thầy không ? Con suy nghĩ từ lâu lắm rồi mà vẫn chưa tìm được một tia hy vọng. Con chờ ơn soi sáng của Thầy.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 214: CHÚA BỊ PHẢN BỘI

 

Dấu chân 55


Mt 26,47-56; Mc 14,43-52; Lc 22,47-53; Ga 18,2-11

Thầy kính mến.

 

Vườn Cây Dầu đang tối đen như mực, bỗng rực sáng lên dưới ánh đuốc bập bùng. Một rừng đàn PiôHậu 214


Vườn Cây Dầu đang tối đen như mực, bỗng rực sáng lên dưới ánh đuốc bập bùng. Một rừng đàn ông nối đuôi nhau đi ngoằn ngoèo, theo đường mòn quanh co. Tiếng chân thậm thịch. Tiếng gọi nhau ơi ới. Người dẫn đầu là Giuđa, tên học trò phản bội của Thầy. Cặp mắt của hắn hau háu nhìn vào bóng tối, y như con mèo sắp vồ một con chuột.

Mười một ông tông đồ nằm tròn vo, ngáy pho pho, bỗng giật mình thức giấc. Ngơ ngơ. Họ đưa mắt hỏi Thầy. Thầy bảo: "Kẻ nộp Thầy đấy... ngủ nữa đi!". Nói rồi, Thầy dõng dạc đếm bước ra đón đối phương. Giuđa quay đầu lẹ về phía sau, nói một câu thật ngắn: "Tôi hôn ai thì là ông ấy. Bắt lấy nghen!" Hắn phom phom rời khỏi hàng ngũ, chạy vội đến ôm hôn Thầy. Thầy nói nhỏ bên tai hắn: "Giuđa, anh nỡ tâm dùng cái hôn để nộp Thầy ư ?" Hắn như điếc không nghe, xoay gót chui vào bóng đêm. Hí hửng dự tính mua một thửa ruộng. Hắn vừa lui gót, thì đoàn người mang vũ khí tiến lên. Thầy đứng giữa vòng vây, chỉ thấy mũi giáo và ánh đuốc. Nhìn lâu mới thấy trong đám người bừng bừng sát khí có nhiều ông tai to mặt lớn của Đền Thờ. Thầy dõng dạc hỏi: “Hằng ngày tôi giảng trong Đến Thờ, thì các ông không bắt, tại sao bây giờ lại đến đây bắt tôi như bắt một tên cướp ? Nhưng thôi, bây giờ đã đến thời của các ông, thời của Đêm Đen".

Có tiếng ra lệnh "trói". Bỗng loé lên một ánh gươm. Thầy vội la to: "Xỏ gươm vào bao! Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm". Nhưng trễ mất rồi.

Mancô, tên vệ sĩ của Thượng tế bị thương. Máu tuôn chảy. Rối loạn bùng vỡ. La hét. Chửi thề. Rượt bắt. Thầy âu yếm chữa vết thương cho tên vệ sĩ. Trật tự vãn hồi.

Thầy làm ơn cho kẻ thù. Kệ. Kẻ thù vẫn trói Thầy, điệu Thầy đi. Ánh đuốc vẫn bập bùng, soi đường dẫn lối cho bọn đầu trâu mặt ngựa tiến về Thủ đô... Vườn Cây Dầu lại im phăng phắc, lại tối đen như mực. Không còn tiếng cầu nguyện thổn thức. Không còn tiếng ngáy khò khò. Không còn tiếng hét của con cú mèo. Im lặng đến rùng rợn.

Thầy kính mến.

Con muốn ngồi trong bóng đêm vắng lặng hôm nay để ngẫm nghĩ về nhân tình thế thái. Mà Thầy là Ngôi Lời đã đến và sống với cái thế thái nhân tình ấy.

1- Thầy đã thức trắng một đêm để cầu nguyện, để tuyển chọn 12 môn đệ nòng cốt, mà Thầy gọi là Tông Đồ. Thầy tự chọn và đích thân đào tạo họ, để sau này họ thừa kế sự nghiệp của Thầy. Sau ba năm yêu thương, đùm bọc và dìu dắt, thì kết quả hôm nay là :

- Mất đứt 8,3%. Mất một cách đau đớn. Giuđa không bỏ Thầy. Hắn phản Thầy. Hắn chỉ điểm cho địch bắt Thầy chỉ vì ba mươi đồng bạc. Đau quá ! Đau đứt ruột!

- Còn lại mười một ông, thì là mười một cái đầu trống rỗng, mười một quả tim đặc sệt. Thầy dạy họ phải vác cây khổ giá, thì họ lại ôm cái ghế. Thầy bảo : "Mọi thức ăn đều sạch" (Mc 7,19), .thì họ không hiểu, khiến Thầy phải than lên : "Chúng con mà cũng tối dạ như thế sao ?" (Mc 7,18) Gần mười năm sau họ vẫn còn tối dạ như thế (Cv lo,14).

- Ấy là cái đầu của họ. Quả tim của họ còn tồi tệ hơn nhiều. Thầy buồn đến chết được. Thầy năn nỉ họ tỉnh thức đến ba lần, mà họ vẫn ngủ khò. Vô tâm đến thế là cùng. Vô tư đến lạnh lùng.

- Thầy bị bắt. Họ bỏ chạy tán loạn. Thậm chí có ai đó hốt hoảng bỏ tấm vải che thân mà chạy... tồng ngồng như con nhộng.

- Có một lưỡi gươm trung thành vung lên, phập xuống một cái rồi biến dạng. Đó là một lưỡi gươm vô duyên của một ông tông đồ nhát hít như thỏ đế. Lưỡi gườm ấy bị Thầy cự tuyệt và kết án cho đến muôn đời:.”Ai dùng gươm, thì sẽ phải chết vì gươm”.

2- Thầy vẫn nói rằng Thầy không cô đơn, vì Thầy luôn luôn có Chúa Cha ở bên cạnh. Vậy tại sao, trong vườn Cây Dầu Thầy lại cảm thấy cô đơn đến thế ? Thầy cô đơn đến mức độ phải đi van xin ba ông tông đồ vô tâm một phút thông cảm: "Thầy buồn đến chết được". Thầy năn nỉ xin họ thức với Thầy. Năn nỉ một lần. Năn nỉ hai lần. “Anh em không thức được với Thầy lấy một giờ sao?” . Năn nỉ mãi không được, Thầy đành phải hờn dỗi với họ: "Ngủ nữa đi. Nghỉ nữa đi. Còn gì nữa đâu. Đã đến "Giờ" Con Người bị trao nộp vào tay bọn ác nhân rồi đấy".

Thầy kính mến.

Thầy là Ngôi Lời. Vì yêu loài người mà Ngôi Lời làm người. Nhưng đêm nay Ngôi Lời muốn tìm một chút an ủi nơi loài người, mà loài người chẳng cho. Chẳng cho một tí nào hết. Từ tên học trò tráo trở là Giuđa cho tới anh môn đệ yêu dấu là Gioan đều khép lòng lại, để Thầy buồn rầu một mình. Buồn rầu đến toát mồ hội lạnh. Không một lời an ủi. Không một ánh mắt cảm thông. Giuđa vô tư, vì hắn chỉ thích tiền. Gioan vô tình, vì anh buồn ngủ quá... Cuối cùng Thầy đành một mình ngậm đắng nuốt cay. Tội nghiệp Thầy quá chừng ! Con thương Thầy quá đỗi!

Thầy ơi ! Con ghét Giuđa, con hận Gioan và... con giận cả Thầy nữa. Thầy xuống thế làm người để làm chi ? Thầy yêu loài người để làm gì ? Tình đời bạc như vôi. Tình người lạnh như băng. Nó chẳng đáng được Thầy yêu đâu.

Nhưng Thầy vẫn cứ yêu, yêu để phải cô đơn, yêu để bị phản bội. Tại sao vậy ? Tại vì Thầy là sự mặc khai trọn vẹn về một tình yêu lớn lao vô cùng của Chúa Cha. Nếu Thầy không yêu như thế, không cô đơn như thế, không bị phản bội như thế, không chết đau chết nhục như thế, thì Thầy không thể trình bày được tình yêu lớn lao của Chúa Cha. Ôi, tình yêu của Chúa Cha ! Cao quá ! Lớn quá ! Ôi, sự mặc khải của tình yêu ấy ! Đau quá ! Thương quá! !

3- Vườn Cây Dầu đêm hôm ấy, có những câu chuyện buồn làm se thắt lòng người. Nhưng cũng có một tình tiết mà người tò mò muốn biết. Biết để cười chơi. Người tò mò hỏi rằng: Cái anh chàng thiếu niên chạy tồng ngồng như nhộng đêm hôm ấy là ai vậy ? Người không tò mò trả lời một cách thờ ơ rằng:

- Hắn chính là Máccô con bà Maria, bây giờ là thánh Máccô, tác giả cuốn Tin Mừng thứ hai.

- Bà Maria này là chủ căn lầu rộng rãi mà Thầy đã mượn làm nơi mừng lễ Vượt Qua.

- Bà cũng là sở hữu chủ của vườn Cây Dầu và căn trại Ghếtxêmani mà Thầy đến cầu nguyện thổn thức...

- Máccô không phải là một trong nhóm 12. Hắn theo Thầy về trại. Thầy cầu nguyện ở ngoài vườn, thì hắn ngủ trong trại. Hắn lè phè nằm trong mền như con nhộng nằm trong kén.

- Là con nhà giàu sang, hắn không biết sợ cả giáo quyền lẫn chánh quyền. Vì thế khi thấy lính tráng ồn ào thì hắn ra coi.

- Khi Phêrô vung gươm chém, thì bọn lính phản ứng, rượt bắt. Các tông đồ chạy tán loạn. Máccô lớ ngớ bị chộp. Hắn vùng chạy bỏ lại cái mền. Phần còn lại chỉ như con nhộng, cắm đầu chạy. May quá vì trời tối thui.

Thầy kính mến .

Con hẹn gặp lại Thầy ở dinh Thượng tế Caipha.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 215: ĐÊM CÔ ĐƠN VÔ CÙNG

 

Dấu chân 54


Mt 26,36-46; Lc 22,39-46

Thầy kính mến.

 

Khuya lắm rồi. Mọi ánh bạch lạp đã phụt tắt. Giêrusalem im lìm như sự chết. Thầy lặng lẽ đi PiôHậu 215


Khuya lắm rồi. Mọi ánh bạch lạp đã phụt tắt. Giêrusalem im lìm như sự chết. Thầy lặng lẽ đi ra khỏi thành, hướng về phía vườn Cây Dầu. 11 tông đồ lẽo đẽo theo sau. Thầy không nói gì, vì tâm tư ngổn ngang trăm mối. Trò không nói gì, vì chẳng có gì để nói. Chỉ còn nghe tiếng bàn chân đạp trên lá khô: xào xạc, xào xạc…

Vườn Cây Dầu âm u vắng lặng. Chỉ có vài ánh sao may mắn xuyên qua kẽ lá thưa, chiếu nhạt nhoà trên mảng đất trống. Có một con cú mèo khát máu lâu lâu lại hét lên một tiếng, nghe rùng rợn như tiếng kêu của thần chết...

Con tò mò theo dõi.

1- Ở chỗ này có tám người đàn ông đang ngủ như chết. Họ lấy lá khô làm nệm, lấy áo khoác làm mền, hai tay kẹp bánh lái. Có người ngáy giọng trầm : khò khò. Có người ngáy giọng trung : pho pho. Nhưng tất cả đều phả ra mùi rượu hôi hôi. Có hai người không nằm gần anh em để nhờ hơi ấm, mà lại co quắp một mình, nhích xa ra một chút. Nhìn kỹ mới thấy. Đó là Mátthêu, mặc cảm đầy mình, vì quá khứ là người thu thuế, người bị vạ tuyệt thông cách ly. Đó là Tôma, một người thiếu xã hội tính, thích sống một mình, suy nghĩ chẳng giống ai.

2- Ở chỗ kia có ba người ngủ lăn lóc, gác giò gác cẳng lên nhau y như ba anh em ruột của một gia đình nghèo. Có lẽ là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhìn kỹ một tí, thì... đúng bóc. Họ đang ngủ say sưa như chưa bao giờ được ngủ vậy...

3- Đi xa thêm chừng bốn mươi bước nữa, thì... có ai đó đang quỳ lom khom, rồi bỗng gập mình xuống, hai tay bưng lấy mặt, phủ phục sát đất, giọng nói thổn thức...

Thầy ! Có phải Thầy đấy không ? Tại sao Thầy khổ đến thế ?

- Mùa đông lạnh buốt đã qua đi rồi. Nhưng đêm xuân vẫn còn lạnh lắm. Vậy tại sao mồ hôi Thầy lại vã ra như tắm. áo dài dính như dán vào da. Mồ hôi trên mặt nhễ nhãi, tưới đẫm râu ria, nhểu xuống tồm tộp.

- Thầy cầu khẩn như than như khóc: "Lạy Cha, nếu được thì xin Cha cho con khỏi phải uống chén đắng này. Nhưng... Cha ơi ! Xin Cha đừng chiều theo ý con. Xin Cha cứ làm theo ý Cha mà thôi..."

- Than thở với Chúa Cha chán rồi, Thầy lại đến than thở với ba đệ tử vô tâm vô tình, ruột để ngoài da: "Thầy buồn đến chết được"; "Hãy tỉnh thức mà cầu nguyện"; "Các anh không thức được với Thầy lấy một giờ sao?" Ba lần Thầy xin họ cầu nguyện. Ba lần Thầy năn nỉ họ thức với Thầy. Nhưng họ vẫn vô tâm vô tình. Họ vẫn ngủ khò. Ngủ như chết. Ngủ như không có chuyện gì liên quan đến họ. Người lớn mà như con nít vậy. Có trí khôn mà không suy nghĩ. Có tình cảm mà không rung động. Ôi ! Nhân tình thế thái !

Thầy kính mến.

Thương Thầy quá sức, con muốn chửi học trò của Thầy một trận cho bõ ghét. Người gì mà vô tâm vô tình như khúc gỗ vô tri... Nhưng thôi, con không thèm chửi nữa, vì chửi, thì còn giờ đâu mà ngắm, mà thương Thầy.

Thầy ơi, vì thương Thầy con muốn cùng Thầy cô đơn giữa trời và đất. Đất không thương. Trời không nương.

1- Đất không thương.

- Ba năm truyền đạo: Bao nhiêu người được khỏi xụi, khỏi cùi, khỏi quỷ ám ? Trùng trùng, điệp điệp, đếm không hết. Ngày Thầy cưỡi lừa đi vào Thủ đô, bao nhiêu áo khoác trải xuống đường cho Thầy đi qua ? Bao nhiêu cành ôliu được vung lên ? Bao nhiêu miệng hô “Vạn tuế con vua Đavít” ! Thế mà bây giờ: miệng câm như hến, tay run lẩy bẩy, chẳng dám nhìn thẳng vào mặt Thầy. Chỉ vì... sợ vạ tuyệt thông. Dân Galilê, dân đầu gấu, ở miền Bắc lẽo đẽo theo Thầy từng trăm, từng nghìn, từng vạn. Thế mà suốt tuần lễ vừa qua, tại Thủ đô, người nào người nấy lấm la lấm lét y như... chả biết Thầy là ai. Đời !

- Nhóm 72 cũng được sai đi, cũng được ơn trị bệnh và trừ quỷ .Thế nhưng sau bài giảng về Bí Tích Thánh Thể, họ đã bỏ Thầy mà đi, ném lại sau lưng một câu nói khiến Thầy trò chỉ còn là người dưng nước lã: “Lời gì mà chói tai như vậy Ai mà nghe cho nổi”. Học trò nói với Thầy như thế đó. Hết tình. Hết nghĩa. Tình đời bạc như vôi.

- Nhóm 12, nhóm đệ tử ruột của Thầy thì như thế đó: nằm lăn lóc, ngủ như chết, bỏ Thầy cô đơn giữa muôn ngàn đau đớn đến toát mồ hôi lạnh mà vẫn... vô cảm.

- Thượng Tế, Công Nghị, Pharixêu là các đấng bề trên của Giáo Hội
Do Thái. Họ theo dõi, họ lên án vắng mặt, họ bắt bẻ, họ tìm mọi cách để giết Thầy. Họ dùng vạ tuyệt thông để cô lập Thầy với quần chúng. Họ đã quyết tâm giết Thầy rồi. Bây giờ chỉ còn là thời gian. Mà đơn vị thời gian chỉ còn tính bằng phút.

- Một nỗi đau ray rứt và giằng xé nhất, đó là sự phản bội của Giuđa. Chính trong giây phút này hắn đang dẫn vệ binh đến để nộp Thầy. Hắn là học trò của Thầy, được Thầy tuyển chọn và đào tạo, được Thầy yêu thương và bao bọc. Hắn sắp đến đây. Hắn sẽ xun xoe đến hôn chào Thầy. Hắn hôn chào không phải vì kính yêu Thầy, mà để chỉ điểm. Đểu cáng đến thế. Nham nhở đến thế. Ôi, tình người !

2- Trời không nương.

Con đã từng nhìn lên Trời và từng được nghe Chúa Cha phán về Thầy: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Chúa Cha yêu Thầy. Thầy là người Con tuyệt hảo của Chúa Cha. Nhưng không phải vì thế mà Chúa Cha nương nhẹ cho Thầy. Cuộc thọ nạn là quy luật muôn thuở của Chúa Cha. Ngài đã quyết định Thầy phải uống cạn chén đắng: Thầy phải bị bắt, bị đánh đòn, bị đóng đinh. Không thể làm khác được.Không thể yêu khác được. Đau quá ! Khắc nghiệt quá ? Ôi tình yêu của một người Cha ! Ôi tình yêu mầu nhiệm của một Thiên Chúa toàn năng !

Thầy sợ quá ! Sợ toát mồ hôi ! Vì thế Thầy đã phải thốt lên như năn nỉ, như van nài: "Lạy Cha, nếu được thì xin cho Con khỏi uống chén đắng này". Đắng quá ! Nhưng Thầy là người Con tuyệt vời của Chúa Cha. Thầy chấp nhận tất cả , kể cả cái chết đau thương trên khổ giá, vì Chúa Cha muốn như thế. Ý Cha phải được thực hiện. Vì thế, dù mồ hôi lạnh còn đang đầm đìa, Thầy vẫn can đảm xin Chúa Cha cứ thi hành ý của Ngài: "Lạy Cha, xin Cha đừng chiều theo ý của con. Xin Cha cứ làm theo ý của Cha mà thôi".

Thầy kính mến.

Con giận Thầy, vì Thầy không hắt bỏ chén đắng đi, mà lại còn uống cho đến giọt cuối cùng. Nhưng... thôi, xin Thầy cứ uống đi, vì đó là ý của Chúa Cha. Con xin được uống với Thầy để ý Cha được thể hiện trọn vẹn. Đắng quá ! Đau quá! Nhưng xin vâng.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 216: BỮA ĂN CUỐI CÙNG

 

Dấu chân 53bis


Ga 13, 1-38; Lc 22 , 14-20

 

Con trở lại phòng Tiệc Ly, quan sát một lần chót những gì xảy ra trong đêm thứ Năm cuối cùng PiôHậu 216


Con trở lại phòng Tiệc Ly, quan sát một lần chót những gì xảy ra trong đêm thứ Năm cuối cùng ấy của đời Thầy. Thật là trăm chuyện. Đặc biệt là Thầy ngỏ bày tâm sự rất lâu. Lâu cả tiếng đồng hồ. Thầy tâm sự với các tông đồ. Thầy tâm sự với Chúa Cha. Nào là thương. Nào là tiếc. Nào là nhớ. Cứ nghe thôi cũng đủ nẫu cả ruột.

Nhưng giữa muôn chuyện ngổn ngang ấy, thì chuyện ăn thịt và uống máu của Thầy làm cho con suy nghĩ mông lung nhất. Ghê tởm quá ! Nhưng dường như có một cái gì quan trọng lắm, bức xúc lắm. Ánh mắt, nét mặt và giọng nói của Thầy đã nói lên điều đó. Bởi vậy con phải quay về quá khứ, một quá khứ không xa lắm, để tìm tài liệu giải mã chuyện lạ này.

1- Hôm ấy chỉ có năm ổ bánh mì mà Thầy nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Mảnh vụn rơi rớt đây đó gom lại được mười hai thúng. Uy tín của Thầy lên như diều. Dân muốn tôn Thầy làm vua. Thầy bỏ chạy. Dân giải tán, mạnh ai nấy về nhà. Nhưng có những ai đó không chịu về. Họ đi tìm Thầy, thấy Thầy ở Caphácnaum. Họ đon đả: "Ủa, Thầy về đây từ hồi nào vậy?" Thầy không thèm niềm nở, xán một câu chua lè : “Tôi biết các ông tìm tôi không phải vì một dấu lạ mà vì được ăn no bụng". Thầy nhấn mạnh đặc biệt vào từ dấu lạ. Như vậy phép lạ hoá bánh còn là một dấu lạ. Nó ám chỉ một cái gì đó còn lớn hơn thế nhiều. Phải theo dõi. Phải điều nghiên. Phải giải mã. Để đấy.

2- Chừng một tuần sau, tại nguyện đường Caphácnaum, trước một cử toạ đông như kiến cỏ (hiệu quả của phép lạ hoá bánh), Thầy lại nói đến chuyện bánh mì. Thầy muốn tặng dân một thứ bánh mì lạ, khác với manna ngàn trùng. Nói xa mãi, rồi Thầy nói gần: "Bánh ấy là thịt tôi". Đã nói mấp mí tới đó rồi, thì cho bật mí luôn: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì sẽ được sống muôn đời". Cả hội trường xôn xao. Cả rừng người nhao nhao phản đối. Rồi bỏ đi cho bõ ghét.

Thấy dân bỏ đi, Thầy không hối tiếc, mà còn dấn thêm một bước nữa: "Ai không ăn thịt tôi và không uống máu tôi, thì KHÔNG có sự sống đời đời". Đến đây thì chính các môn đệ của Thầy (không phải nhóm 12) cũng bỏ đi, ném lại sau lưng một câu nói không còn tình nghĩa thầy trò gì nữa: "Lời gì mà chói tai như vậy, ai và nghe cho nổi". Thế là hết ? Uy tín của Thầy đang lên như diều gặp gió, thì bỗng dưng diều đứt dây, rơi xuống cái bịch. Tan tành còn hơn xác pháo. Một nhà giảng thuyết lẫy lừng bị phá sản!

Con dòm Thầy. Thương quá ! Nhưng Thầy vẫn tỉnh bơ. Không hối tiếc. Không ân hận. Dường như Thầy vẫn đang ôm ấp một lý tưởng gì cao siêu lắm mà nói ra chưa được. Lại phải theo dõi. Lại phải tìm tòi.

3- Đến đêm thứ Năm cuối cùng này, Thầy mới thực hiện được giấc mơ nhiệm mầu. Thầy lấy quyền phép của Ngôi Lời để biến ổ bánh mì thành thân thể của Thầy, biến ly rượu nho thành ly máu của Thầy. ăn "bánh" ấy, uống "rượu" ấy dễ như ăn bánh mì và uống rượu thường. Không ghê sợ, không rùng rợn như ăn thịt và uống máu tươi. Mà kết quả là siêu tuyệt vời vì :

- "Người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy . Nghĩa là người ấy và Thầy trở nên một. Nghĩa là Thiên Chúa và con người trở nên thân thương, gần gũi như đôi bạn tâm phúc. Tình yêu này may ra chỉ có Thiên thần mới hiểu được.

"Người ấy sẽ được sống đời đời". Nghĩa là người ấy mãi mãi ở bên Thầy, hôm nay cũng như ngày mai, đời này cũng như đời sau.

Thầy ơi ! Đây là mầu nhiệm của tình yêu. Đây là tình yêu mầu nhiệm. Con chỉ hiểu và chỉ cảm được một tí thôi. Chỉ một tí ấy thôi cũng đủ sướng lắm rồi. Xin Thầy đừng cho con hiểu hết, kẻo con chết mất.

Thầy kính mến.

Con rời phòng Tiệc Ly, đi vào đời thường, tình yêu mầu nhiệm ấy vẫn vương vương. Dường như trong đời thường cũng có một cái gì mài mại như thế. Mẹ yêu con muốn hai thành một. Mẹ ôm con, ôm thật chặt. Mẹ hôn con, hôn thật nhiều và còn cắn một cái nữa. Mơ ước thành một. Mơ mãi mà mơ vẫn chỉ là mơ. Đành chịu thua. Khả năng con người chỉ có thế.

Thầy yêu con muốn hai thành một. Thầy không cần ôm, Thầy không cần hôn. Thầy chỉ muốn. Muốn là được, vì Thầy là Ngôi Lời toàn năng.

- Mẹ yêu con muốn con mãi mãi bên mẹ. Muốn quá nhưng không được. Có những lúc mẹ phải xa con. Thương thương nhớ nhớ. Giọt lệ rơi rơi. Rồi... một ngày nào đó mẹ con phải chào vĩnh biệt. Người ở bên này, người ở bên kia, ở giữa là vĩnh hằng. Chỉ còn biết khóc. Khóc đến khô mắt.

Thầy yêu con, muốn con mãi mãi ở bên Thầy, ở trong Thầy. Dễ thôi, vì Thầy tự biến thành lương thực thần thiêng. Con ăn thần lương ấy, con biến thành Thầy, con ở trong Thầy, trong Đấng Vĩnh Hằng. Thầy và con mãi mãi bên nhau, đến vô cùng vô tận.

- Người ta nhờ ăn mà sống và lớn lên. Chính cơm ăn đã làm nên xương thịt của người. Râu tóc xén đi rồi lại mọc ra. Do đâu ? Do cơm. Móng tay hớt đi, ba ngày sau lại dài được hai li. Do đâu ? Bởi cơm mà ra.

Phải chăng từ kinh nghiệm đó mà Thầy lập ra Bí tích Thánh Thể. Thầy tự biến mình thành lương thực để lương thực là Thầy lại trở thành xương thịt của con. Phải chăng vì thế mà Thầy bảo con phải ăn Thầy.

Con cũng muốn trở thành lương thực cho bạn thân, để con và bạn thân trở nên một. Con muốn lắm, nhưng làm không được, vì con không có quyền phép như Thầy.

- Bây giờ thì con cảm nghiệm được rằng Thầy đã trở thành xương thịt của con. Có lúc con rất lãng mạn: rờ tóc mình, mà cứ tưởng là tóc Thầy; rờ da thịt mình, mà cứ ngỡ là da thịt của Thầy. Cảm nghĩ như thế chẳng biết có buồn cười hay không. Con chỉ biết rằng cảm nghĩ như thế thì sung sướng lắm, hạnh phúc lắm.

4- Thầy kính mến. Con cứ mải mê nghĩ như thế, nên suýt nữa quên một lời nói và một giọng nói tha thiết của Thầy: "Anh em hãy làm việc này để nhớ Thầy". Giọng trầm trầm, buông thả từng lời, cẩn trọng vô cùng. Đó là tấm lòng của Thầy. Thầy không quên con. Nhưng Thầy không cho phép con quên Thầy. Quên là vô tâm. Quên là bạc bẽo.

Bánh rượu mãi mãi phải được hoá thành thân xác và máu Thầy. Máu thịt của Thầy phải mãi mãi thành thân xác của loài người. Thầy muốn thế. Thầy tha thiết muốn vậy "Anh em hãy làm việc này để nhớ Thầy".

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 217: BỮA ĂN CUỐI CÙNG

 

Dấu chân 53


Ga 13, 1-38; Lc 22 , 14-20

Thầy kính mến .

 

Đêm thứ Năm, đêm cuối cùng, Thầy mừng lễ Vượt Qua cuối cùng. Lễ Vượt Qua, lễ lớn nhất, long PiôHậu 217


Đêm thứ Năm, đêm cuối cùng, Thầy mừng lễ Vượt Qua cuối cùng. Lễ Vượt Qua, lễ lớn nhất, long trọng nhất và thánh thiêng nhất. Người người mừng. Nhà nhà mừng. Cả nước mừng.

Nhưng bữa Vượt Qua này của Thầy thì chỉ trang trọng và thánh thiêng. Không vui chút nào. Buồn hiu hắt. Lý do thì vô số.

1- Đang ăn vui vẻ, thì Thầy bưng thau nước đi rửa chân cho các đệ tử. Chỉ có đầy tớ rửa chân cho chủ. Chỉ có đệ tử rửa chân cho sư phụ. Hôm nay Thầy làm ngược, khiến mọi người cảm thấy sượng sùng quá. Phêrô co giò chối phắt. Ông còn thề là không bao giờ để Thầy rửa chân cho ông. Thầy phải năn nỉ, Thầy phải hù dọa: “Nếu Phêrô không để Thầy rửa chân, thì không được chung phần với Thầy..." Chừng đó ông mới chịu thua. Nhưng vẫn chưa vui đâu.

Ông nào cũng buồn buồn. ông nào cũng sượng sần, mãi cho tới khi Thầy giải thích: "Thầy là sư phụ, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải làm cho nhau như thế. Nếu con mà ở trong nhóm 12 ấy, con sẽ độn thổ ngay. Xấu hổ đến chết được.

Thầy chỉ thích khiêm tốn và phục vụ. Còn đệ tử của Thầy thì chỉ thích xôi thịt. Suốt ba năm, họ cứ bàn tán xem ai sẽ làm thủ tướng, tức là người lớn nhất trong "Nước" của Thầy. Ngay trong phòng ăn bữa Vượt Qua này, họ vẫn còn tranh luận sôi nổi về điều ấy (Lc 22,24).

Mác cô kể có một lần họ bàn tán xem ai làm thủ tướng. Họ biết Thầy không ưa điều đó, nhưng không chừa được. Bởi vậy khi về tới nhà, Thầy hỏi: "Hồi nãy anh em bàn tán chuyện gì", thì họ làm thinh ( Mc 9,33-34). Làm thinh là biết mình làm sai ý Thầy rồi. Tội cố chấp.

Thầy rửa chân cho họ, theo con hiểu, thì đó là một cách dằn mặt. Nói không nghe, thì phải làm một cử chỉ để cho họ nhớ đời. Người lớn mà phải dạy bằng cách đó, thì xấu hổ vô cùng.
Khiêm tốn và phục vụ là bài học tối quan trọng, nên Thầy mới nhắc lại vào giờ phút cuối cùng này. Đúng là một lời trăng trối.

2- Đang ăn vui vẻ, Thầy lại tố cáo một người phản bội: "Một người trong anh em sẽ nộp Thầy". Y như cho nổ một trái bom giữa siêu thị.

Thầy chỉ nói trống lổng, không nêu rõ tên ai hết. Thế mới độc. Ai nấy đều tự ái. Ai nấy đều tự hỏi: "Thằng nào?" Nếu chưa vạch mặt được tên phản bội, thì người nào cũng xấu hổ, cũng tức tối.

Tại sao Thầy không nêu đích danh tên phản bội ? Tại sao Thầy lại để một người ẩn danh làm xấu hổ cho cả một tập thể như thế ? Tại sao Thầy nói ỡm ờ, để người này nghi ngờ người nọ, sinh ra bao nhiêu thứ tội ?

Tức quá, Phêrô khều vai Gioan và bảo: "Cậu hỏi Thầy xem là thằng nào". Thầy vẫn không nói rõ, vẫn ỡm ờ: “Thầy lấy bánh chấm nước thịt, rồi trao cho ai thì là người ấy”, Thầy vừa trao cho Giuđa miếng bánh chấm nước thịt, bèn ra lệnh cho hắn phải đi cấp tốc: "Việc anh định phải làm, thì làm mau đi”.

Bây giờ thì con hiểu Thầy rồi. Sở dĩ Thầy không nói rõ tên của Giuđa, kẻ phản bội, vì nếu Thầy nói rõ, thì hắn sẽ bị ăn đòn hội chợ ngay. Hắn sẽ chết không kịp ngáp. Thầy không can nổi đâu. Lòng đạo đức tôn giáo, cộng thêm lòng căm thù nhân loại sẽ tạo nên một sự tàn nhẫn khôn lường.

Tác giả Thánh Vịnh 100 thề quét sạch thành đô, bọn làm điều ác không sót một tên. Đó là tư tưởng thánh thiện của người thánh thiện.

- Luật dạy rằng: Răng đền răng, mắt đền mắt, máu đền máu. Luật là thánh.

- Bỏ vợ con theo Thầy ba năm trời, hy vọng Thầy làm vua, thì trò làm quan. Nay hắn phản Thầy, thì có khác gì hắn đập bể nồi cơm của anh em. Hắn phải chết. Chết để đền tội. Chết là xứng đáng.

Giuđa phản Thầy. Thầy biết hết mưu kế của hắn từ đầu đến cuối. Thầy biết hắn đi hợp đồng với Thượng Tế từ sáng hôm qua. Thầy biết lát nữa đây, hắn sẽ dẫn vệ binh đền thờ đến vườn Cây Dầu để bắt Thầy. Nhưng Thầy không muốn hắn bị hại. Thầy sẵn sàng chết vì người ác, mà không muốn người ác phải chết. Đó là cái tâm của Thầy. Cái tâm ấy cao lắm, lớn lắm, loài người không hiểu thấu được đâu.

3- Đang vui vẻ ăn bánh mì không men với thịt trừu nướng và uống rượu, thì Thầy lại chuyển hướng, y như lạc đề Thầy cầm bánh mì, nghiêm nghị nói chuyện lạ hoắc: "Đây là thân thể của Thầy, sẽ bị nạp vì anh em. Hãy cầm lấy mà ăn". Chả ai hiểu gì. Chưa hiểu chuyện ấy, Thầy lại bồi thêm một chuyện ghê sợ hơn nữa: Thầy bưng ly rượu nói như xuất thần: "Đây là chén máu của Thầy, máu sẽ đổ ra để cứu chuộc mọi người. Anh em hãy bưng lấy mà
uống".

Eo ơi ? ăn thịt và uống máu của Thầy ! Ghê quá ! Thật hay đùa ? Đùa sao được, vào một lúc thánh thiêng và trang trọng như thế này. Thật sao được, khi phải ăn thịt và uống máu của Thầy. Máu của Thầy thì phải đổ ra, thân thể của Thầy thì phải bị phản bội. Nghĩa là Thầy sắp bị bắt, sắp bị giết. Không thể hiểu được. Nếu hiểu được, thì không thể chấp nhận được.

Thắc mắc quá chừng ! Buồn đến chịu không nổi !

Anh em môn đệ của Thầy chia nhau ổ bánh mì và ly rượu. Họ ăn, họ uống, nhưng con nghi ngờ là họ chưa hiểu được tâm và ý của Thầy đâu. Họ đang vui với lễ Vượt Qua, một đại lễ của dân tộc. Họ đang buồn trăm mối. Nào là bị Thầy rửa chân một cách khó hiểu. Nào là có một tên phản bội trong nhóm mà chưa vạch mặt được. Bây giờ lại được lệnh ăn thịt và uống máu Thầy. Hiểu sao thấu. Nhưng vẫncảm thấy có một cái gì cao siêu lắm. Ánh mắt và giọng nói của Thầy nói lên điều đó. Cuối cùng là lời trăng trối tha thiết. Tha thiết vì giọng nói và ánh mắt của Thầy:

"Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy".

Thầy kính mến.

Đêm cuối cùng của Thầy là thế. Buồn vui đắp đổi. Nhưng cái ý của Thầy thì quá cao, cái tâm của Thầy thì quá lớn. Anh em tông đồ sẽ chỉ hiểu được và cảm được qua dòng thời gian cộng với ơn soi sáng mà thôi.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 218: ĐÊM ĐẾN, NGƯỜI VỀ VƯỜN CÂY DẦU

 

Dấu chân 52


Lc 21 ,37-38

Thầy kính mến.

 

Chỉ còn vài ngày nữa Thầy sẽ kết thúc cuộc đời trần thế của mình. Tâm hồn Thầy đầy ắp suy PiôHậu 218


Chỉ còn vài ngày nữa Thầy sẽ kết thúc cuộc đời trần thế của mình. Tâm hồn Thầy đầy ắp suy tư và cảm xúc. Phe đối phương thì đã quyết định giết Thầy. Nhưng làm thế nào để giết được Thầy mà không bị quần chúng làm loạn, thì vẫn chưa nghĩ ra.. Quần chúng thì bàn tán xôn xao về tin đồn. Tin đúng thì ít mà tin vịt thì nhiều.

Tình thế ở Thủ đô đang căng thẳng như thế. Vậy mà Luca chỉ ghi lại gọn lỏn có hai câu : Ban ngày Thầy giảng ở Đền Thờ, dân chúng đến nghe từ sáng sớm; ban tối Thầy về nghỉ đêm tại vườn Cây Dầu. Chấm hết...

Chuyện kể mà chỉ có phần mở, không có phần thân và phần kết. Nghe kể chuyện như thế, thì tức không chịu được. Tức quá, con đành thả hồn về Giêrusalem để rà lại mọi chuyện có liên quan đến Thầy.

1- Thầy lên Đền Thờ thật sớm. Dân chúng lên đó còn sớm hơn Thầy. Họ đến sớm để giành chỗ, để nuốt hết mọi lời của Thầy, không bỏ sót một mảnh vụn. Họ đến sớm để hóng tin sất dẻo rỉ ra từ giới lãnh đạo. Họ đến sớm để rỉ tai nhau: sẽ phải làm gì, nếu Thầy phất cờ khởi nghĩa.

- Do Thái kiều không thích nghe chuyện khởi nghĩa. Họ không thích có chiến tranh, vì chiến tranh không thuận lợi cho nghề thương mại của họ. Nhưng họ muốn có một siêu sao Giêsu, thu hút quần chúng, uy tín vang dội ra tận hải ngoại. Uy tín của Giêsu siêu sao lan tới đâu, thì nghề nghiệp của họ cũng mở rộng tới đó.

- Dân Galilê thì hau háu nghe chuyện đảo chính. Họ sẵn sàng chiến đấu. Thua cũng đánh cho bõ ghét. Họ không biết sợ khổ vì đời của họ chưa bao giờ được nếm mùi sung sướng. Người Galilê là thế.

Họ đi nghe Chúa giảng để xem Chúa có nói bóng nói gió về một cuộc khởi nghĩa hay không.

- Có một số người ngoại, tuy chưa cắt bì, nhưng vẫn giữ luật Mô sê. Họ được nghe đồn nhiều về Thầy. Hôm nay về đây họ muốn đến để được nhìn thấy Thầy tận mắt, được nghe lời Thầy bằng chính tai của mình. Họ là những người có thiện chí, nên họ say mê nghe lời Thầy. Say mê nhất. Mê như điếu...

- Giới lãnh đạo thì không sợ Thầy nữa, vì họ đã lật được thế cờ đã giành được cán dao. Họ đang ở thế thượng phong. Nhưng họ cũng lẩn quẩn trong đám thính giả, để bắt bẻ lai rai. Nhưng mục đích chính của họ là đến để quan sát và đánh giá sức mạnh của quần chúng. Quần chúng giống như lá cờ. Cờ là hồn thiêng của một tập thể, của một quốc gia. Nhưng cờ bao giờ cũng bay theo chiều gió. Quần chúng mạnh đấy, mà cũng yếu đấy. Giới lãnh đạo ở Giêrusalem đã từng đi guốc trong bụng quần chúng rồi. Để đấy. Chẳng sợ đâu

2- Vào thời điểm này, Thầy không còn nói úp mở nữa. ý của Thầy cứ như đinh đóng cột. Giọng của Thầy cứ như chém đinh chặt sắt.

-"Giờ đây thủ lĩnh thế gian sắp bị tống ra ngoài. Phần tôi khi được giương lên cao, tôi sẽ kéo mọi sự lên". Y như một lời thách đấu.

- "Ai phục vụ tôi, thì Cha tôi sẽ quý trọng người ấy". Thầy công khai xưng mình là Con của Chúa Giavê. Hết né tránh rồi.

- Thầy xưng mình là ánh sáng của thế gian. Thầy kêu gọi mọi người theo Thầy để khỏi đi lạc trong bóng tối sai lầm. Thầy là TÔN SƯ bậc nhất.

-Thầy khẳng định: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi thì có quan toà xét xử người ấy".

- Thầy cũng khẳng định rằng lời Thầy nói chính là lời của Chúa Cha. Nói như thế là nói hết lời rồi. Bây giờ chỉ còn là tin hay không tin, nghe hay không nghe, thuận theo hay chống đối, và sống hay chết.

3- Ban tối, Thầy về nghỉ đêm ở vườn Cây Dầu. Thật không ? Có người bảo rằng Thầy vẫn thường về nghỉ đêm ở nhà chị Mátta, làng Bêtania. Cả hai người đều nói đúng. Nhưng chắc là những đêm cuối cùng, thì Thầy về nghỉ ở vườn Cây Dầu. Tin đó là tin chính xác do Giuđa cung cấp.

Theo những nguồn tin có uy tín và theo cách phân tích tin tức của giới chuyên môn về tình báo, con ghi nhận như sau:

- Từ đêm thứ Hai sau "lễ lá", Thầy không còn về nghỉ đêm ở nhà chị Mátta nữa. Vào thời điểm này, gia đình chị Mátta không còn yên tĩnh nữa. Đó là đối tượng theo dõi của Công Nghị. Anh Ladarô đã bị ghi vào sổ đen của đám cận vệ Đền thờ rồi.

- Thầy về nghỉ đêm ở vườn Cây Dầu. Ai trong nhóm 12 cũng hiểu ý của Thầy là đêm nào cũng về đó mà ngủ. Giuđa hiểu như thế, nên sáng thứ Tư, hắn đã đến hợp đồng với Thượng Tế để trao nộp Thầy. Theo hợp đồng, thì thời gian nộp là đêm thứ Năm, địa điểm giao nộp là vườn Cây Dầu; cách thức chỉ điểm là nụ hôn.

- Cách bố trí chỗ ngủ của đêm thứ Năm có thể áp dụng cho mỗi đêm.

+ Không ai ngủ trong lều vì không cần lều... Thời tiết lúc ấy là đầu tháng Tư, ấm áp và khô ráo. Nếu có lạnh một chút, thì cái áo choàng đủ để thay thế cho cái chăn và cái chiếu.

+ Thầy ngủ ở một chỗ cách xa đệ tử chừng một công đất tức 36 mét (tầm ném một hòn đá). Thầy cần một nơi thanh vắng để cầu nguyện.

+ 12 đệ tử nằm rải rác mỗi chỗ vài ông, có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan nằm gần nhau. Anrê, Philíp và Natanaen cũng làm thành một nhóm. Mátthêu nằm xa, vì mặc cảm thu thuế. Tôma cũng nằm riêng một nơi vì tánh tình kỳ cục chẳng hợp ý với ai... Giuđa cũng thích ngủ một mình vì hắn có những tính toán, suy tư riêng.

Buồn thì ngủ ngay, vui thì đấu láo một hơi rồi mạnh ai nấy ngủ, mạnh ai nấy ngáy.

+ ở gần đó, có trại ép dầu và trữ dầu, bất động sản của bà Maria mẹ của Máccô. Sáng dậy thì ai nấy cũng đến đó để súc miệng và rửa mặt. Nếu có gì ăn thì tráng miệng qua loa. Nếu không có thì nhịn đói mà đi. Chuyện nhỏ. Dường như có một lần nào đó, Thầy đem bụng chạy đi lên Đền Thờ. Vì thế mới có chuyện Thầy đi tìm trái vả để ăn. Tìm không thấy, Thầy rủa nó, nó chết queo... Chẳng phải vì giận mà rủa. Nhưng rủa để dạy một bài học.

Thầy kính mến.

Con hiểu về cuộc đời của Thầy trong mấy ngày cuối đời là thế. Thương lắm. Lo lắm. Sợ lắm. Nhưng con chẳng biết làm gì hơn để giúp Thầy, ngoại trừ sự đồng hành và chia sẻ Xin Thầy chấp nhận.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 219: THẢM HỌA ĐỔ XUỐNG GIÊRUSALEM

 

Dấu chân 51


Lc 21 ,5-24

Thầy kính mến.

 

Thầy và 12 môn đệ quây quần bên nhau. Chuyện trò nhỏ to. Vì tính tò mò, con muốn dùng trí PiôHậu 219


Thầy và 12 môn đệ quây quần bên nhau. Chuyện trò nhỏ to. Vì tính tò mò, con muốn dùng trí tưởng tượng banh mắt để nhìn, vểnh tai để nghe... Bỗng tay con nổi da gà.

1- Thầy ngồi thật ngay, cặp mắt ưu tư nhìn về một không gian xa mờ. Thầy thấy Giêrusalem bị bao vây. Nội bất xuất. Ngoại bất nhập. Suối Siloác cạn khô, không còn nước để uống. Kho lương thực trống rỗng. Người ta phải ăn dép da, ăn thằn lằn và... ăn thịt người chết để chiến đấu một cách tuyệt vọng. Đền Thờ Giêrusalem bốc cháy. ánh lửa bập bùng. Thành Giêrusalem sụp đổ. Bình địa. Tan hoang. Xác người chết nằm la liệt. Người sống sót gầy giơ xương, không còn hơi để gào, không còn nước mắt để khóc, y như một khúc cây khô có linh hồn.

Bỗng Thầy thấy thấp thoáng bóng dáng những người đàn bà bụng mang dạ chứa, những người mẹ còn đang cho con bú. Họ lệt bệt đi theo đoàn người chạy giặc. Ai không kịp, bị bỏ lại phía sau. Dường như Thầy cảm thấy đau nhói trong tim. Thì ra bây giờ con mới hiểu rằng đàn bà mang thai, đàn bà nuôi con thơ được Thầy quan tâm một cách khác thường. Giữa những nỗi đau ngổn ngang của nhân thế, con tim của Thầy chỉ co thắt lại khi thấy ở đấy có đàn bà mang bầu và người mẹ bồng con. Ôi con tim của một Thiên-Chúa-làm-người ! Đẹp thay ! Và hạnh phúc thay những người mang thai và cho con bú !

2- Thầy vẫn cứ ngồi ngay như thế, cặp mắt ưu tư lại nhìn về một thời gian xa lắc. Xa lắm ! Thời gian ấy là khi nào? Không ai biết. Thầy biết, nhưng hỏi Thầy, thì Thầy bảo: Chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi. Nghĩa là Thầy chẳng muốn cho chúng con biết. Thầy không muốn cho biết, thì muốn biết làm chi. Bỏ đi !

Nhưng có rất nhiều điều Thầy muốn chúng con phải biết.

- Có những tiên tri giả xuất hiện tự xưng mình là Mêxia. Đừng tin.

- Khi có loạn lạc, chiến tranh, thì đừng sợ.

- Sẽ có chia rẽ trong nội bộ gia đình, vì lý do Tin Mừng. Đừng lấy làm lạ, vì chính Thầy cũng bị ghét và bị ghét trước.

- Sẽ bị chánh quyền và giáo quyền bắt bớ. Cứ tỉnh bơ, vì đó là dịp may mắn để Tin Mừng được loan báo.

- Khi đứng trước toà, không mặc cảm dốt nát, vì có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, để biết phải đối đáp thế nào. Chỉ có thắng chứ không có thua.

- Số phận được Chúa Cha an bài hết rồi. Cứ phú thác. Cứ an vui.

Thầy kính mến.

Nỗi kinh hoàng đổ xuống trên Giêrusalem thì đã xảy ra vào năm 70 rồi. Khủng khiếp quá ! Một quốc gia bị xoá trên bản đồ thế giới từ đó đến năm 1948, tức là 1878 năm. Gần 19 thế kỷ ! Tại sao có một dân tộc phải khổ sở đến thế ? Thầy bảo đó là hình phạt, vì dân tộc này không “biết” ngày được Chúa viếng thăm. Nói huỵch toẹt ra là vì dân Do thái đã loại trừ Thầy, đóng đinh Thầy...

Thầy thì nói thao thao như bất tận. Còn trò thì cứ ngồi trơ ra đó như những khúc cây. Họ không hiểu, họ không muốn hiểu. Họ chỉ thích vinh quang mà không muốn 7đi qua cây thập giá. Họ chưa đủ sức để hiểu...

Con cũng không hiểu. Con muốn thắc mắc nhiều điều lắm.

- Trên cây thập giá Thầy đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Thầy muốn tha thứ. Thầy xin Cha tha thứ. Nhưng Chúa Cha vẫn không tha sao?

- Thượng Tế, Công nghị, Pharixêu và Kinh sư chống Thầy, loại trừ Thầy, đóng đinh Thầy. Còn đại đa số quần chúng vẫn tin Thầy. Tội ai, nấy chịu. Tại sao tội ấy lại là tội của một dân tộc ?

- Lãnh đạo Do Thái phạm tội, mà mãi đến 40 năm sau hình phạt mới giáng xuống. Lúc ấy họ đã chết gần hết rồi. Người chịu trận lại là người vô tội. Trong đó có những trẻ thơ chẳng biết ông Caipha là ai. Và trong đó lại có vô số những người phụ nữ đang mang thai và đang nuôi con thơ.

- Nước Ítraen bị xoá trên bản đồ thế giới vào năm 70 và được tái sinh vào năm 1948. Phải chăng 1878 năm lưu vong ấy là thời gian đền tội của người Do Thái. Và phải chăng năm 1948 là năm họ được ân xá ?

- Khi Thầy nói: "Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước...", thì Thầy có cảm thấy chết trong lòng một tí, hai tí... nhiều tí, rồi thậm chí chết điếng trong lòng hay không?

Thầy ơi, con không hiểu được, con không thể hiểu được. Vấn đề lớn quá, thuộc lãnh vực càn khôn rồi. Con chỉ là hạt bụi trong càn khôn ấy mà thôi.

Thầy kính mến.

Dù tay con đang nổi da gà vì sợ; dù đầu óc con đang rối nùi lên vì thắc mắc, con vẫn không quên lời căn dặn của Thầy: "Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc".

Con hiểu cả tâm cả ý của Thầy rồi.

- Khi biến cố năm 70 sắp xảy ra, con cái của Thầy bỏ Giêrusalem và Giuđê mà đi tản mác khắp nơi, mang theo hạt giống Tin Mừng. Họ đi tới đâu thì gieo vãi tới đó. Tin Mừng phát triển mạnh mẽ cùng nhịp với sức tàn phá của Giêrusalem.

- Đền Thờ Giêrusalem bị thiêu hủy, con cái của Thầy không còn bám vào cơ chế Do Thái nữa. Kitô giáo của Thầy tung cánh bay. ơn cứu độ đến với mọi dân tộc. Dân ngoại không còn là "bọn không cắt bì" nữa. Người ngoại gia nhập Kitô giáo của Thầy không còn bị cắt bì, không còn phải quàng trên cổ cái ách của luật Môsê mà Phêrô bảo rằng: “cả ông cha chúng ta và chúng ta vác không nổi" (Cv 15,lo).

- Can đảm đón nhận khổ đau, thì khổ đau lại là bàn nhún để tiến bộ xa hơn. Nụ cười là thuốc hoá giải khổ đau, là khả năng biến cây khổ giá thành vinh quang.

Thầy ơi !

Đây là giáo huấn của Thầy áp dụng cho cả đạo lẫn đời. Tuyệt vời Thầy ạ.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 220: NGƯỜI DÂNG CÚNG NHIỀU NHẤT

 

Dấu chân 50


Mc 12, 41-44

Thầy kính mến.

 

Thầy ngồi một mình, thơ thẩn, lơ đãng coi tín đồ bỏ tiền dâng cúng vào thùng... Một hình ảnh PiôHậu 220


Thầy ngồi một mình, thơ thẩn, lơ đãng coi tín đồ bỏ tiền dâng cúng vào thùng... Một hình ảnh xa lạ vô cùng.

Còn đâu nữa quần chúng trập trùng theo Thầy như theo một siêu sao. Họ giành nhau, đạp lên chân nhau để được rờ vào áo của Thầy một cái.

Còn đâu nữa những người cùi được Thầy cứu chữa, quỳ mọp dưới chân Thầy để tỏ lòng tri ân. Ơn Thầy ban còn lớn hơn ơn sinh thành.

Còn đâu nữa cảnh một rừng người tay vẫy cành lá ôliu, miệng tung hô "Vạn tuế con vua Đa vít".

Còn đâu nữa những cặp mắt cú vọ của Pharixêu và Kinh sư, lúc nào cũng theo dõi, lúc nào cũng lườm lườm, nguýt nguýt. Ganh ghét mà chẳng làm gì được.

Phải chăng bây giờ Thầy chỉ còn là một anh hùng sa cơ lỡ vận ? Và bởi đâu nên nông nỗi ấy ?

Thầy ơi ! Con thương Thầy quá ! Lòng con như se thắt lại. Bất giác con thở dài não nuột: “Tận cùng bằng số”.

Nhưng... không lẽ lại thế. Con vùng đứng dậy, ngó trước nhìn sau, để lượng định nhân tình thế thái.

1- Kể từ hai biến cố Ladarô phục sinh và quần chúng tung hô Thầy là con vua Đa vít, thì giới lãnh đạo Do Thái giáo ở thủ đô co rúm lại. Họ bất lực hoàn toàn. Bỗng... họ lật được thế cờ. Giới trí thức lại đứng về phía họ. Quần chúng thì lấm lét sợ hãi. Nhờ ai và do đâu ? Con điều tra ngầm, mới biết rằng:

1.1- Thượng tế Caipha hỏi giới trí thức đã bỏ ông mà theo Thầy rằng: "Đồng ý là Giê su có chân lý. Nhưng nếu cứ theo ông ta trùng trùng điệp điệp như thế, thì quân La mã sẽ đến tiêu diệt nhân dân ta, sẽ phá huỷ Đền Thờ của Giavê... Như thế thì được gì ? Dân Ítraen của Chúa sẽ đi về đâu ? Đền Thờ của Giavê sẽ bị bọn không cắt bì chà đạp và bôi bẩn sao?"

Caipha lập luận hay quá. Phải nói là tuyệt vời. Không một người Ítraen chân chính nào có đủ can đảm để nhìn thấy Đền Thờ của Giavê bị xúc phạm. Ai muốn phá hủy Đền Thờ, thì phải bước qua xác của họ.

Thế là giới trí thức đành hy sinh Thầy để cứu Đền Thờ và dân tộc. Họ tin Thầy. Họ thương Thầy. Nhưng họ phải miễn cưỡng bỏ Thầy.

1.2- Uy tín và uy quyền của Caipha cũng như của Công nghị đã sụp đổ nay lại đứng vững như bàn thạch. Họ chỉ coi Thầy bằng một nửa con mắt. Họ lờ Thầy đi. Họ coi Thầy như cái bong bóng bể. Họ công khai ra vạ tuyệt thông cho những ai tin và theo Thầy. Dân vẫn tin và

thương Thầy, nhưng vì sợ vạ tuyệt thông quá, nên chỉ dám lấm lét liếc mắt nhìn Thầy một cái, rồi vội vàng bỏ đi.

1.3- Vả lại quần chúng thì vô tâm vô tình. Thương đấy mà cũng quên đấy. Hoan hô đấy mà cũng đả đảo đấy. Họ thay lòng đổi dạ y như con kỳ nhông đổi sắc vậy. Cũng chính vì thế mà: mới hôm qua, hôm kia Thầy oai phong lẫm liệt như một ông hoàng lên ngôi; thì hôm nay, phải ngồi thơ thẩn một mình, cô đơn như một cánh chim lạc bầy. Tội nghiệp quá đi thôi !

Thầy kính mến .

2- Thầy đang thất thế. Thầy đang cô đơn. Nhưng…dường như Thầy có vẻ bất cần, vì Chúa Cha luôn luôn đồng hành với Thầy. Thầy không buồn, không lo, lòng thanh thản vô cùng. Thầy đang thả hồn theo dòng suy tư của quần chúng hành hương đang đổ về Giêrusalem như một dòng thác. Họ bỏ tiền vào thùng thật nhiều. Rổn rảng. Thầy thấy hết. Nhưng vô cảm.

- Những tín đồ Do Thái từ khắp miền đất nước trở về đây. Họ đông lắm. Đông hằng triệu. Người giàu, người nghèo đều móc hầu bao lấy tiền chẵn, tiền lẻ bỏ vào thùng dâng cúng. Cũng rổn rảng không dứt. Thầy thấy hết. Thấy cả số tiền. Thấy cả tấm lòng. Nhưng Thầy vẫn vô cảm.

-Những vệ binh của Đền Thờ đứng kế bên thùng tiền để canh gác. Họ sáng mắt lên khi thấy người giàu bỏ tiền vào thùng, bỏ hoài, bỏ mãi không dứt. Họ lắc đầu bĩu môi khi thấy những người nghèo chỉ bỏ vào thùng những đồng tiền có mệnh giá nhỏ nhất. Thầy thấy hết. Thầy vẫn vô cảm. Nét mặt lạnh tanh.

- Có một người đàn bà vô danh, trôi theo dòng người, cầm sẵn trong tay một đồng tiền có mệnh giá nhỏ nhất. Chỉ nhìn thoáng một cái cũng biết bà ở giá và nghèo kiết xác. Bà ân cần nhét đồng tiền vào khe. Dường như đồng tiền chỉ kêu cạch một cái thật nhỏ. Bà chắp tay trước ngực, cúi đầu, rồi lẹ bước, nét mặt sùng kính. Dường như bà cảm thấy con tim của mình đã rơi vào thùng tiền thánh thiện ấy rồi.

Thầy thấy hết. Thấy từ đầu đến cuối. Thấy từ đồng tiền rơi nhẹ vào thùng cho tới con tim đập rộn ràng trong lồng ngực. Thầy không vô cảm. Thầy nhảy nhổm lên. Thầy vội vàng tập trung các đệ tử đang đứng xớ rớ đâu đó về . Thầy vội vã lấy tay chỉ về phía người đàn bà đang khuất dần trong đám quần chúng đông như chợ. Lòng Thầy hân hoan vô cùng. Giọng nói của Thầy dõng dạc quá chừng: "Bà goá ấy là người đã dâng cúng nhiều nhất đó..." Dường như mấy người bảo vệ Đền Thờ cũng nhìn theo phía ngón tay Thầy chỉ và cũng nghe lọt tai lời tôn vinh của Thầy. Họ bĩu môi khinh bỉ. Các môn đệ của Thầy thì ngơ ngác chưa kịp hiểu ý và tâm của Thầy.

Thầy kính mến.

Mười hai tông đồ chưa hiểu Thầy cứ ngơ ngơ. Nhưng con thì hiểu rõ lắm.

- Lúc nào Thầy cũng quan tâm đến người nghèo và những tâm hồn bé mọn. Chỉ có một lần Tin Mừng ghi nhận Thầy hớn hở vui mừng. Mà lý do là vì Thầy thấy các tâm hồn bé mọn được Chúa Cha thương ban ơn mặc khải về mầu nhiệm Nước Trời. Trong khi ấy, các bậc thông thái lại không được ơn ấy. Người nghèo, người bé mọn nằm gọn trong tim của Thầy rồi.

- Người đời thì chỉ vui mừng khi thấy Đền Thờ có nhiều tiền. Còn Thầy thì chỉ mừng khi thấy Nhà Chúa có nhiều con tim. Tấm lòng mới quý. Tiền bạc có là chi.

Thầy ơi ! Thầy của con là thế. Thương quá là thương.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 221: GIẢNG VÀ KHÔNG GIẢNG

 

Dấu chân 49


Lc 20, 1-8

Thầy kính mến.

 

Con đã từng thấy Thầy đôn đáo, háo hức trong công tác loan báo Tin Mừng. Dân Caphácnaum đã PiôHậu 221


Con đã từng thấy Thầy đôn đáo, háo hức trong công tác loan báo Tin Mừng. Dân Caphácnaum đã từng níu áo Thầy để Thầy ở lại với họ. Nhưng Thầy không chịu. Thầy cứ đi, đi mãi, để rao giảng. Thầy bảo đó là thiên mệnh (Lc 4,43).

Quả vậy, con thấy Thầy ở thành thị đứng giảng trong đền thờ, đứng trên toà giảng của các nguyện đường. Thoáng một cái, Thầy lại biến mất. Con lại thấy Thầy ngồi giảng trên thuyền. Thoáng một cái nữa, con lại thấy Thầy đang đứng giảng trên triền núi. Thoáng một cái nữa, con lại thấy Thầy ngồi ăn trong nhà ông Si mon, vừa ăn vừa giảng.

Đúng là tranh thủ tối đa. Tà tà thì không chịu nổi.

Vậy mà hôm nay con lại thấy Thầy tà tà: không muốn giảng; tìm cách để không giảng: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm những điều ấy". Lạ thật !

Con không hiểu được, tức quá, bèn đứng lại, dòm thật kỹ, nghĩ thật lâu xem sự thể như thế nào.

1- Sau sự kiện Ladarô phục sinh và quần chúng nồng nhiệt tung hô Thầy như một ông vua, giới lãnh đạo Do Thái quýnh quáng không biết phải làm gì nữa. Họ đành thúc thủ. Nhưng khi thấy Thầy ngang nhiên giảng ngay trong Đền Thờ, ăn nói tự do y như võ sĩ múa gậy rừng hoang, thì họ tức khí chịu không nổi. Họ quyết tâm chống đối Thầy cho đỡ tức. Nhưng vẫn còn sợ uy tín quá cao của Thầy, nên họ phải vận động từ Thượng Tế đến Kinh sư, từ Kinh sư đến Kỳ mục, cùng nhau kéo đến như một đơn vị chiến đấu. Toàn là người tai to mặt lớn, nhưng vẫn còn sợ Thầy, nên họ chỉ dám cật vấn một cách khiêm tốn: "Xin ông cho chúng tôi biết : ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy ? Hay là ai đã ban cho ông quyền ấy?" Hai câu hỏi rất vắn tắt nhưng bao hàm nhiều vấn đề có tính pháp lý, mà dường như Thầy đã hành động một cách bất hợp pháp.

- Thầy cỡi lừa y như một ông hoàng lên ngôi. Vậy ai là vua cha để truyền ngôi ? Không ai hết.

- Nếu là lễ tôn vương, thì phải có Thượng tế xức dầu ôliu. Vậy Thượng tế có được mời không ? Nếu không, thì là vô lý là đùa giỡn với thánh luật. Tội phạm thượng.

- Dân chúng lũ lượt đi theo Thầy, tung hô Thầy là con vua Đavít. Vậy ai tổ chức cuộc rước này? Ý đồ của người tổ chức là gì? âm mưu lật đổ chánh quyền chăng?

- Đuổi bò, đá lồng chim câu, xô đổ bàn đổi tiền... là phá rối an ninh trật tự công cộng. Làm hư hỏng, thất thoát tài sản của người công dân đang phục vụ đại lễ là chống đối quyền bính cả đạo lẫn đời. Tội hình sự.

- Chỉ có vua và Thượng tế là hai thẩm quyền tối cao mới có thể cho phép làm những việc trên. Chẳng vua nào cho phép. Chẳng Thượng tế nào được thông báo về những việc này.

Chỉ có Giavê mới có quyền trên vua và Thượng tế. Nhưng lấy gì để minh chứng là có sự can thiệp của Giavê. Vô phương.

2- Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa. Suốt đời từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn của Thầy đều bởi ý của Chúa Cha mà ra. Thầy coi việc thi hành ý của Chúa Cha y như cơm ăn nước uống thường ngày. Thầy là mặc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Vì thế chẳng ai biết được Chúa Cha mà không qua Thầy. Bởi vậy trả lời hai câu hỏi của đối phương là quá dễ :

+ "Tôi lấy quyền của Giavê mà làm những điều ấy".

+ "Chính Chúa Cha đã ban cho tôi quyền ấy".

Câu trả lời rất dễ, rất đúng. Vậy mà Thầy có vẻ né tránh. Để né tránh có hiệu quả, Thầy sử dụng hai chiến thuật.

- Chiến thuật 1: là gài thế để đối phương há miệng mắc quai. Thầy hỏi họ như đặt một điều kiện tiên quyết: “Tôi hỏi các ông : phép rửa của Gioan là bởi trời hay bới loài người?” Trả lời kiểu nào thì cũng từ chết đến chết. Tiến thoái lưỡng nan. Đối phương giơ tay đầu hàng.

- Chiến thuật 2: là tung hoả mù làm cho đối phương mất thế chủ động. Lợi dụng lúc ấy, Thầy đánh bài chuồn: "Thế thì tôi cũng không cho các ông biết..." Rút êm. Tuyệt vời !

Nhưng khách quan mà nói, thì cả Thầy lẫn đối phương đều rơi vào tình thế bất lợi. Đối phương của Thầy có thể dựa trên luật pháp để kết tội Thầy. Nhưng uy tín của Thầy lớn quá. Đụng đến Thầy là mất hết quần chúng. Rõ ràng mạnh mà lại yếu. Rõ ràng thắng mà lại thua.

Còn Thầy thì nắm được chân lý, vì Thầy là chân lý, là đường đi và là sự sống. Nhưng trên pháp lý Thầy vẫn chỉ là con ông Giuse thợ mộc, quê ở làng Nadarét. Một anh thợ mộc, con của ông thợ mộc mà xưng mình là Con Thiên Chúa, thì chỉ là lộng ngôn, là đáng chết. Mà... thời giờ phải chết theo ý của Chúa Cha thì chưa tới. Bởi thế Thầy không thể công bố sự thật khi thời giờ chưa đến. Đành phải làm thinh, lặng lẽ rút lui thôi. Rút thật êm. Rút thật khéo.

Thầy ơi ! Thầy tuyệt vời !

Nhưng có ai đó bảo rằng: rút lui là hèn; im lặng là nhát; chân lý phải được công bố tại mọi nơi, vào mọi lúc; người loan báo Tin Mừng phải coi mạng sống nhẹ như lông hồng.

Thầy kính mến.

Ai nói gì thì nói, còn con thì mãi mãi vẫn đứng về phía Thầy. Thầy mãi mãi vẫn là chân lý tuyệt hảo, là mặc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Từ câu chuyện Thầy tung hoả mù để đánh bài chuồn, con nghiệm ra rằng đời truyền giáo của Thầy linh động khôn lường, thiên hình vạn trạng.

- Có những ngày Thầy giảng không biết mệt. Nhưng cũng có lúc Thầy rảnh rang đi bách bộ trên hành lang Xalômon, hoặc giả ngồi chơi coi bá tánh bỏ tiền vào hòm của đền thờ. Cũng có những lần Thầy trốn quần chúng để đi tạm nghỉ, y như ăn vụng vậy.

- Có những thời gian Thầy tranh thủ từng phút để giảng. Thầy giảng ngay trong bữa tiệc. Thầy giảng về lòng khiêm tốn khi thấy người ta giành nhau chỗ ngồi ưu tiên. Thầy giảng về lòng thương dành cho người tội lỗi. Thế nhưng lại có những lúc Thầy len lén mà đi, không muốn cho ai biết.

- Hôm nay Thầy né tránh để không tuyên bố mình bởi Thiên Chúa Cha mà ra. Nhưng cũng tại đền thờ này, Thầy lại mạnh dạn tuyên bố "Ta và Cha Ta là một". Thậm chí có lần Thầy bị hăm ném đá về tội phạm thượng. Đặc biệt là trước Công nghị, Thầy dõng dạc tuyên bố “tôi là Con Thiên Chúa”. Vì câu nói ấy, Thầy lãnh án tử.

Thầy im lặng không nói. Thầy nói và nói thật nhiều. Thầy nói rõ như ban ngày. Thầy chỉ nói ỡm ờ... không phải vì hèn mà không dám nói. Không phải vì hứng mà tuyên bố lung tung. Tất cả chỉ vì có lợi hay không có lợi cho Tin Mừng. Tất cả chỉ vì ý Chúa Cha muốn thế.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 222: CHÚA MÀ CŨNG NỔI NÓNG

 

Dấu chân 48


Mc 11, 15 -19

Thầy kính mến.

 

Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan cùng kể chuyện : Thầy vào Đền Thờ Giêrusalem. ở đó có thương PiôHậu 222


Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan cùng kể chuyện : Thầy vào Đền Thờ Giêrusalem. ở đó có thương gia bán chiên, dê, bò, bồ câu và có cả dịch vụ đổi tiền nữa. Thấy vậy, Thầy nổi tam bành lên, đằng đằng sát khí, lượm dây luộc bện lại thành roi rồi đuổi chiên bò chạy tứ tung. Thầy vung tay lật nhào bàn đổi tiền. Tiền văng khắp nơi. Tiện chân, Thầy đá lồng chim câu. Lồng lăn long lóc. Các thương gia cự nự. Thầy chỉ mặt họ mà la lên: “Nhà Cha Ta là nơi cầu nguyện mà các ngươi biến thành sào huyệt của bọn cướp”.

Nghe chuyện này thì con vô tư. Nhưng một ni sư thỏ thẻ nhỏ nhẹ với con rằng: "Linh mục ơi ! Đức Giêsu thì không "THAM", cũng không "SI", nhưng mà Ngài còn "SÂN" quá. Ngài không biết tự chủ, làm hung làm dữ với người ta. Đức Phật thì hoàn toàn không "THAM", không "SÂN", không "SI" Đức Phật hơn Đức Giêsu tới bảy điểm lận".

Nghe vậy, con thấy nhột quá. Bây giờ con xin tạm thôi làm đệ tử của Thầy, để làm một người khách bàng quan phân tích và nhận định sự việc một cách vô tư.

1- Thương gia hoạt động ở đây là hợp pháp, hợp lý và hợp tình.

- Hợp pháp vì họ hợp đồng với Thượng Tế. Thượng Tế chia lô cho họ để họ buôn bán và nộp thuế cho đền thờ. Họ làm đúng và họ phải được pháp luật bảo vệ .

- Hợp lý vì khách thập phương đến đây mang theo ngoại tệ. Mà Đền thờ không nhận ngoại tệ. Vì thế khách hành hương phải đổi lấy tiền đền thờ mà dâng cúng. Đổi tiền ở đây là một dịch vụ tuyệt vời !

- Hợp tình vì lễ vật dâng trên bàn thờ là chiên, dê, bò, bồ câu. Rất nhiều người Do Thái kiều từ khắp các nước xung quanh miền Địa Trung Hải về Giêrusalem để dâng lễ tạ tội, dâng lễ tạ ơn. Không lẽ họ phải đôn đáo đi đây đó để mua lễ vật. Buôn bán chiên dê bò bồ câu ở đây cũng là một dịch vụ làm vừa lòng mọi người. Tuyệt vời !

- Nơi buôn bán thuộc khuôn viên gọi là sân dân ngoại. Sân này không phải là nơi cầu nguyện. Mà nếu có nhậu nhẹt và ca múa ở đây cũng không hề làm cho người cầu nguyện phải lo ra, vì qua sân dân ngoại mới tới sân phụ nữ, qua sân phụ nữ mới tới sân Ítraen, qua sân Ítraen mới tới sân Tư tế là nơi dâng lễ vật. Hương khói nghi ngút là ở đấy Thánh nhạc thánh ca là ở đấy, chứ không phải ở đây : vì đây là sân của người ngoại, của bọn không cắt bì.

- Bảo rằng nơi đây là nhà cầu nguyện thì không đúng. Bảo rằng biến nơi cầu nguyện này thành sào huyệt trộm cướp là xuyên tạc, là quá quay quắt.

2- Thầy nóng quá. Thầy đấm đá. Thầy xô đẩy.

- Nhà tu hành không bao giờ đánh đấm, không bao giờ đằng đằng sát khí. Nét mặt của họ lúc nào cũng trầm tĩnh. ánh mắt của họ lúc nào cũng hiền từ. Cử chỉ của họ lúc nào cũng khoan thai. Môi họ lúc nào cũng như nụ hoa
đang hé mở...

- Nóng quá thì hoá dại. Giận thì mất khôn. Tiền nhân bảo thế. Quả thật đập bể nồi cơm của thương gia, thì không thể ra về mà thân thể vẫn toàn vẹn được. Họ sẽ đập. Đập không được, thì họ sẽ mướn du côn đâm lén sau lưng. Đồng tiền nó liền khúc ruột mà, tiền nhân nói vậy đó.

- Đập bể nồi cơm của thương gia là đánh vỡ nồi cơm của Thượng Tế và tập đoàn tư tế. Đánh vỡ nồi cơm của lãnh đạo thì đồng nghĩa với đánh vỡ mặt của bề trên.

Sự trả thù sẽ vô cùng vô tận và khôn lường.

Thầy ơi ! Tại sao Thầy lại hành động như thế, khiến một ni sư dù hiền từ cũng phải nhăn mặt; khiến con dù vô tâm cũng phải gục mặt xấu hổ ? Thầy là Ngôi Lời mà còn "Sân" sao ? Không lẽ. Thầy là Con Thiên Chúa mà còn dại sao ? Không thể. Vậy thì là thế nào ?

+ Thầy đã từng dạy chúng con rằng: "Hãy học với Thầy, vì Thầy khiêm nhường và hiền lành thật, thật từ trong thâm sâu của cõi lòng".

Chính Mátthêu xác nhận điều đó và còn ví von rằng: "Một cây sậy đã gãy, Thầy cũng không nỡ chặt đi. Một tim đèn đã tắt còn đang bốc khói, Thầy cũng không nỡ dập bỏ".

Suốt ba năm truyền đạo, chưa bao giờ Thầy trừng phạt ai. Thầy chỉ biết yêu thương và tha thứ. Bị đóng đinh đau đớn oan ức và nhục nhã như thế, Thầy vẫn ôn tồn cầu nguyện: "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ". Họ là ai ? Là Thượng Tế, Pharixêu và Kinh sư còn đang đứng gần đó, nắm tay và thách thức: nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá, chúng ta sẽ tin". Họ là ai ? Họ là bọn lính La mã đầu trâu trán khỉ, chỉ biết đâm chém và đóng đinh tử tội. Họ là ai ? Họ còn là tên đạo tặc đồng cảnh sắp chết mà vẫn còn đùa giỡn vô duyên : "Nếu ông là Kitô, thì hãy tự cứu và cứu chúng tôi với". Hiền như thế mà bảo là "SÂN" sao được.

+ Thầy không dại, Thầy chẳng mất khôn.

Thầy không dại, vì Thầy biết rằng hằng trăm ngàn người vừa mới tung hô Thầy là con vua Đavít. Đụng tới Thầy, là đụng đến hằng trăm ngàn người ấy. Mà trong số ấy có hằng hà sa số người Galilê. Đụng tới người Galilê, thì bỏ mạng là chuyện thường.
Thầy cũng chẳng mất khôn đâu, vì Thầy biết rằng giới lãnh đạo Do Thái giáo đang bủn rủn chân tay. Giới trí thức đã xây lưng lại với họ hết rồi. Ladarô sống lại từ cõi chết đã làm tê liệt uy tín của tập đoàn lãnh đạo Do Thái. Bố bảo họ cũng chẳng dám đụng đến một sợi lông chân của Thầy. Họ chỉ dám vặn vẹo sơ qua: “Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ ông có quyền làm như thế ?”Nói thế rồi thôi, chẳng thấy bắt bớ gì.

Thầy kính mến .

Bây giờ thì con hiểu rồi :

1-Thương gia buôn chiên bò... và đổi tiền là hợp pháp, hợp tình và hợp lý thật. Nhưng tất cả đều đã biến chất hết rồi. Bên ngoài là dịch vụ tôn giáo. Nhưng bên trong là kinh doanh tôn giáo. Chính tôn giáo đã trở thành món hàng trao đổi Chính tôn giáo đã trở thành phương tiện kinh doanh. Tôn giáo đã bị thương mại hoá. Thượng Tế và thương gia là những đối tác của một tổ chức thương mại. Đối với Chúa Cha thì đó là một trọng tội, một sự xúc phạm nặng nề.

2- Thầy là mặc khải trọn vẹn ý của Chúa Cha. Thầy không có lựa chọn nào khác để mặc khải ý ấy. Thầy đành tạm đóng kịch trong giây lát, để ý của Chúa Cha được ngỏ bày rõ nét. Sau đó, Thầy lại trở về căn tính của mình là hiền lành và khiêm nhường tự sâu thẳm của cõi lòng.

Xin Thầy chuyển ý của con đến ni sư mà con đã “chia sẻ Lời Chúa” hôm ấy. Cám ơn Thầy.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 223: NHƯ MỘT ÔNG HOÀNG LÊN NGÔI

 

Dấu chân 47


Lc 19,28-38

Thầy kính mến.

 

Luca, Mátthêu, Máccô và Gioan đua nhau kể chuyện Thầy long trọng tiến vào Thủ đô Giêrusalem như PiôHậu 223


Luca, Mátthêu, Máccô và Gioan đua nhau kể chuyện Thầy long trọng tiến vào Thủ đô Giêrusalem như một ông hoàng đi lãnh vương miện.

Con chú ý theo dõi từ đầu đến cuối. Tường như lịch sử sắp sang trang. Ai ngờ... chỉ là chuyện “Đầu voi đuôi chuồn”; “Đánh trống bỏ dùi”. Mà người đánh trống bỏ dùi lại chính là Thầy.

1- Chính Thầy sai hai môn đệ đi mượn con lừa tơ dẫn về để Thầy cỡi. Cỡi ngựa thì sang và oai phong lẫm liệt. Nhưng cỡi lừa thì mới đúng quy cách của lễ quân vương ra một quần chúng.

Như vậy là Thầy cố tình làm vua. Quần chúng thì háo hức chờ Thầy phất cờ khởi nghĩa. Dân Galilê đổ về thủ đô như thác vỡ bờ. Tin đồn khởi nghĩa lan tràn từ con tim này đến con tim khác. Lòng dân phấn khởi vô cùng.

Chẳng ai bảo ai mà trăm người như một : tay thì phất cành lá ôliu; miệng thì hô "vạn tuế con vua Đavít"; áo choàng thay thảm từng từng lớp lớp trải xuống dưới chân thủng thỉnh bước của chú lừa con ngơ ngơ.

Giới trí thức của thủ đô bắt đầu thức tỉnh. Họ chứng kiến cảnh Thầy phục sinh Ladarô từ cõi âm dài bốn ngày. Họ rùng rùng kéo nhau đứng về phía Thầy: bênh vực Thầy; tin Thầy là Đấng Cứu Thế. Mà Đấng Cứu Thế của họ phải là một ông vua vĩ đại ngồi trên ngai của vua Đavít vĩ đại.

Thế là đám rước trở thành một cuộc biểu dương sức mạnh của quần chúng, một cuộc biểu tình đòi độc lập. Bầu khí căng thẳng vô cùng. Giới lãnh đạo Do Thái thì chán nản đến tột cùng. Chánh quyền La mã thì án binh bất động, im lặng theo dõi tình hình, nhưng lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu và đè bẹp cuộc nổi loạn.

Dường như Thầy cũng phấn khởi lắm, y như một ông thái tử dõng dạc bước từng bước vững vàng, trước khi long trọng hạ bàn toạ xuống ngai rồng của vua Cha. Bọn Pharixêu đuối sức hạ mình năn nỉ xin Thầy ra lệnh cho các môn đệ thôi hô "vạn tuế con vua Đa vít", Thầy khinh dể ra mặt, đốp chát vào mặt họ, y như thách đố:
"Nếu họ im lặng, thì đá sỏi sẽ lên tiếng".

Thế thì rõ như ban ngày: cuộc khởi nghĩa chỉ còn tính bằng giờ và phút. Máu sẽ đổ. Nhưng chiến thắng sẽ vẻ vang. Con hồi hộp chờ đợi. Nín thở chờ đợi...

2- Khi đoàn biểu tình tới triền dốc nhìn về phía Đông của thủ đô, thì bầu khí bắt đầu thay đổi.

- Những tảng đá cấm thạch trắng loá của đền thờ phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ của lúc gần trưa khiến lòng người như bừng dậy. Có ai đó cầm lòng không nổi đành phải thốt lên: "Thầy coi kìa. Tường thành kiên cố biết bao Giêrusalem là vinh dự của Ítraen, là hào quang của Gia vê. Nguồn phú túc của chư dân: vàng bạc, châu báu sẽ chất trên lưng những con lạc đà một bướu, trùng trùng điệp điệp đổ về Giêrusalem như thác vỡ bờ. Ôi ! Giêrusalem ! Tuyệt vời !

- Lòng dân thì phấn khởi như thế, còn Thầy thì... buồn tê tái. Ánh mắt của Thầy dường như mờ đi, nét mặt của Thầy chùng xuống, giọng của Thầy trầm buồn đến độ như muốn lặng đi. Thầy nghĩ về một tương lai không xa lắm: Đền Thờ và thành thánh Giêrusalem chỉ còn là một đống tro tàn, dân Ítraen không còn tổ quốc, nước Ítraen bị xoá trên bản đồ thế giới. Buồn đến chết được?

- Ánh mắt của Thầy, giọng nói của Thầy, lời nói của Thầy làm mọi người cụt hứng. Con “vi khuẩn cụt hứng” lây lan nhanh như dịch cúm gia cầm. Một người cụt hứng. Người người cụt hứng. Mọi người cụt hứng. Cuộc mít-tinh đầy hứng khí bỗng xẹp xuống như một cái bong bóng bể. Ai nấy lủi thủi về lều, ưu tư nặng trĩu. Vài người nhổ nước miếng, chửi thề một câu để gọi đời là trò đùa, để gọi lịch sử là sân khấu diễn kịch hài.

Thầy kính mến.

Thầy dựng nên vở hài kịch này để làm gì ? Tại sao Thầy đánh trống bỏ dùi ? Tại sao Thầy lại biến đầu voi thành đuôi chuột ? Con nghĩ mãi không ra. Rồi thôi không thèm nghĩ nữa. Con quay sang dòm các đệ tử của Thầy. Họ cũng chẳng hiểu gì. Cứ ngơ ngơ như người mất hồn. Chờ một tuần sau, khi Thầy đã Phục sinh, họ mới hiểu rằng Thầy là Đấng mà sứ ngôn Dacaria đã tiên báo: "Hỡi thiếu nữ Xion, đừng sợ ! Này Đức Vua của ngươi ngư đến, ngồi trên lưng con lừa con". Thế là Đức Tin của họ được củng cố. Họ xác tín rằng Thầy quả là Đấng Cứu Thế mà Cựu ước đã loan báo. Họ chỉ cần ôn lại Cựu ước cũng đủ để minh chứng cho đồng bào của mình thấy rằng Thầy quả là Đấng Cứu Thế. Nhưng Đấng Cứu Thế không phất cờ khởi nghĩa, rồi dõng dạc leo lên ngai vàng cai trị muôn dân. Đấng Cứu Thế chân chính chỉ cỡi lừa một lúc rồi thôi.

Thầy chỉ cỡi lừa một lúc thôi, vì quả thật Thầy là một ông Vua như Thầy sau này sẽ khẳng định với Tổng Trấn Philatô: "Đúng như lời ngài nói : tôi là Vua. Nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này". Thầy chê nước trần gian, nên Thầy đã bỏ chạy khi hằng chục ngàn người sau khi ăn bánh lạ ở Bétxaiđa đã toan tính tôn Thầy làm vua. Nhưng Thầy vẫn là vua, là vua thật, nên nó cứ ẩn hiện, cứ thấp thoáng, cứ như có như không. Nước của Thầy ở trong tinh thần và chân lý. Còn Thầy thì là ông vua ngự trong tâm hồn của những người chỉ yêu chuộng tinh thần và chân lý.

Thầy kính mến.

Hằng tỉ tỉ con tim chân chính qua suốt dòng lịch sử đã tôn vinh Thầy là Vua, nhưng họ cũng quyết tâm không xây dựng cho Thầy một nước thuộc về trần gian này.

+ Họ vẫn sống trong cơ chế. Nhưng cơ chế ấy không thuộc về thế gian này. Họ không lấy quyền hành để cai trị, nhưng lấy tình thương để chinh phục.

+ Họ có cơ sở vật chất. Nhưng họ không thích hoành tráng và không muốn lưu truyền cho hậu thế như một tác phẩm văn hoá, nghệ thuật. Cơ sở vật chất có thể tồn tại, có thể mất đi. Nhưng nó phải củng cố tình yêu và lẽ phải.

+ Họ cũng chẳng muốn để danh lại cho hậu thế. Họ chỉ muốn biến đi để tình yêu và chân lý lớn lên. Thầy xuống lừa, trả lừa cho chủ, rồi chuẩn bị cho cuộc thọ nạn gần kề. Vậy thôi.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 224: MỘT CHAI DẦU QUÝ GIÁ

 

Dấu chân 46


Ga 12,1-11

Thầy kính mến.

 

Gioan kể chuyện Thầy đến dự tiệc ở nhà chị Mátta. Bừa tiệc linh đình, rất linh đình, vì Ladarô mới PiôHậu 224


Gioan kể chuyện Thầy đến dự tiệc ở nhà chị Mátta. Bừa tiệc linh đình, rất linh đình, vì Ladarô mới được phục sinh sau khi nằm trong mộ bốn ngày. Mừng quá ! Con không thích tiệc tùng. Con không thích chỗ đông người. Vì thế con không quan tâm đến bữa tiệc. Con cũng không quan tâm đến đám đông khách tiệc đứng ngồi lố nhố. Nhưng trong cái rừng người ấy. Con phát giác được ba ánh mắt : ánh mắt trầm tư của Thầy; ánh mắt rực sáng của Maria và cặp mắt vừa hau háu vừa gian xảo của Giuđa.

1- Ánh mắt trầm tư.

Chỉ còn một tuần nữa, Thầy sẽ thọ nạn và phục sinh. Trong trí tưởng tượng của Thầy, ánh mắt đang đăm đắm nhìn về ngôi mộ. Người ta sẽ an táng Thầy ở đấy. Thầy cũng sẽ phục sinh từ đấy.

Chẳng ai thích ngôi mộ. Chẳng ai muốn có ngôi mộ. Chính định mệnh đã bắt con người phải miễn cưỡng đi đến ngôi mộ. Con cũng vậy. Còn Thầy thì chỉ mong cho ngày ấy mau tới. Ngày ấy Thầy hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó. Chết, an táng và phục sinh. Thầy chỉ nghĩ có bấy nhiêu. Rất hứng thú. Rất say mê đến độ như xuất thần.

Bỗng Maria đổ hết lên chân Thầy một chai dầu thơm, loại cam tùng hảo hạng. Căn nhà rộng mênh mông như đại sảnh bỗng chìm ngập trong mùi thơm quý phái và nồng nàn. Ai nấy đều giật mình và tự hỏi: dầu ở đâu mà thơm thế; tại sao lại hào phóng đến thế... Con tưởng Thầy cũng sẽ rầy cô Maria là lãng phí. Con đoán vậy vì con biết tính ý của Thầy. Thầy tiết kiệm kinh khủng. Con nhớ lại hôm ấy, trên sườn đồi ở Bétxaiđa, Thầy làm phép lạ nuôi hơn 5000 người với vỏn vẹn năm ổ bánh mì và hai con cá. Hào phóng đến thế. Vậy mà sau đó, Thầy cầm lòng không nổi, và thấy những mảnh vụn bánh và cá rơi rớt một cách vô tội vạ trên các bãi cỏ. Thầy bảo “gom lại kẻo uổng phí đi” Thế mà hôm nay, một chai dầu trị giá ba trăm đồng (nuôi được một gia đình nghèo sống qua một năm) đổ hết trên chân Thầy mà Thầy lại khoái. Không ngăn cản. Không tiếc xót. Tại sao ? Chỉ vì "Cô ấy đã giữ dầu thơm này là để dành cho ngày mai táng của Thầy".

Thế mới biết Thầy say mê cái ngày mai táng của Thầy biết chừng nào ? Thầy hứng, Thầy khoái cái chết của Thầy, vì nó đem lại sự sống và sự sống lại. Nó là hạt lúa mì thối đi để mọc thành bụi lúa sản sinh gấp trăm.

2- Ánh mắt rực sáng.

Ladarô được Thầy cho phục sinh sau bốn ngày nằm trong mộ. Đó là một hồng ân Thầy ban cho gia đình cô Maria. Hạnh phúc quá. Ơn cứu sống lớn quá. Đền ơn suốt đời cũng không hết. Lòng tri ân đã quá lớn. Lòng thương mến lại còn lớn hơn. Thầy coi ba chị em như người ruột thịt. Ba chị em cũng coi Thầy là ruột thịt. Thương nhau quá Cô Maria chẳng biết lấy gì để đền đáp, chẳng biết lấy gì để diễn tả tấm lòng, bèn đổ hết chai dầu quý giá lên chân Thầy. Chưa vừa bụng. Cô lấy tóc mà chùi chân Thầy. Yêu quá ! Yêu đến chịu không nổi ! phải cho bùng vỡ. Bùng vỡ như thế đó.

Thầy kính mến .

Con xin hỏi nhỏ Thầy : Cô Maria mua chai dầu thơm này từ hồi nào? Tại sao cô lại nỡ tâm mua nó để chuẩn bị cho cuộc mai táng của Thầy ? Thầy mới ba mươi ba cái xuân xanh, mà cô đã dám nghĩ đến cái chết của Thầy sao ? Còn hơn là trù ẻo. Có nghi vấn. Phải mò cho ra.

- Chai dầu quý trị giá tới ba trăm đồng, tương đương với lương một năm của một công nhân, lại ở trong tầm tay của cô Maria. Nhưng con vẫn nghi ngờ rằng đây là món quà tặng của một đại gia nào đó. Vinh dự lắm. Nhưng dường như cũng xấu hổ lắm.

- Cô cất chai dầu quý để xài trong trường hợp rất đặc biệt. Hôm nay cô đổ dầu trên chân Thầy là do tình cảm bộc phát, trong một hoàn cảnh bất ngờ của gia đình.

- Chắc chắn cô không hề có ý để dành chai dầu ấy để sử dụng trong ngày mai táng Thầy. Thầy nói thế để nói lên cái ý của Thầy thôi. ý của Thầy chứ không phải là ý của cô ấy.

3- Cặp mắt hau háu.

Giuđa Ítcariốt, một vị tông đồ của Thầy. Nói theo kiểu ngày nay, thì đó là một Đức Giám mục.

Khi thấy cô Maria đổ hết chai dầu lên chân Thầy, thì anh ta phiền trách: "Tại sao không bán chai dầu lấy ba trăm đồng để giúp người nghèo ?" Câu nói của Giuđa liên quan đến nhiều vấn đề và bộc lộ khá nhiều tâm kinh của ông.

Phiền trách Maria là lãng phí, là không biết thương người nghèo. Như vậy là ông lên mặt dạy đời, dạy cả Thầy nữa. Nếu cần phải phiền trách, thì người ấy là Thầy chứ không phải là Giuđa. Con cho rằng cái cách ăn nói ấy của Giuđa là hỗn, là chơi trèo... xúc phạm đến Thầy. Nếu anh ta thương Thầy, thì anh ta không thể nói lời ấy.

- Giuđa nói như để khoe mình là người vẫn biết lo cho đời sống của người nghèo. Nhưng đó chỉ là cái miệng chứ không phải là cái tâm. Giuđa bị Gioan tố cáo là người ăn cắp, ăn bớt, ăn xén tiền của tập thể. Gioan cũng moi ruột Giuđa cho mọi người thấy: "Hắn không thương người nghèo đâu" Giuđa chỉ lợi dụng người nghèo, lợi dụng công tác xã hội để làm giàu cho bản thân. ông ta kinh doanh người nghèo. Đểu cáng vô cùng.

- Giuđa là tông đồ đã từng được sai đi truyền giáo.Vậy: ông đi truyền giáo với ai làm bạn đồng hành ? Và trên đường truyền giáo, ông đã phạm bao nhiêu lầm lỗi ? ông có lợi dụng công tác truyền giáo để kiếm tiền không?

- Một tông đồ xấu xa như.thế, vậy mà Thầy không sa thải . Tại sao? Con không thể hiểu được. "Muối không mặn thì đổ ra ngoài đường cho người đạp lên trên". Vậy mà Thầy không áp dụng lời ấy vào Giuđa ! Con chờ xem Thầy sa thải Giuđa. Chờ mãi. Chờ mãi. Cuối cùng, trong vườn Cây Dầu, Giuđa bỏ Thầy chứ Thầy không bỏ anh ta. Cho đến hôm nay, vào giờ phút này con vẫn không hiểu được tại sao: Thầy chọn Giuđa; Thầy không sa thải Giuđa và Giuđa vẫn loan báo Tin Mừng như mọi thừa sai chính cũng? Không hiểu được bấy nhiêu điều, tức là còn nhiều điều về Thầy mà con vẫn chưa hiểu.

Thầy vẫn là một người yêu chưa được hiểu hết, chưa được yêu đủ. Con vẫn còn phải mò mẫm và dò dẫm sau lưng Thầy. Hiểu Thầy chưa hết, yêu Thầy chưa đủ.

Tức quá !

Thầy kính mến.

Chỉ còn một tuần nữa thôi, Thầy sẽ thọ nạn, sẽ nằm trong mộ, sẽ sống lại, sẽ trở về với Chúa Cha. Giuđa sẽ chết tức tưởi . Gia đình của Maria sẽ điêu đứng. Ladarô đã bị các Thượng Tế kết án tử vắng mặt. Con âu lo. Con tò mò theo dõi số phận của Mátta, Maria và Ladarô. Nhưng tuyệt nhiên không có một tin tức nào. Một sự im lặng khủng khiếp. Ôi số phận của những người yêu Thầy và được Thầy yêu dấu !

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 225: CHÚA CHA YÊU TA NHƯ THẾ ĐÓ

 

Dấu chân 45


Lc 15,11-32

Thầy kính mến,

 

Thầy kể chuyện về một gia đình không bình thường. Không hề thấy thấp thoáng bóng hồng. Chỉ PiôHậu 225


Thầy kể chuyện về một gia đình không bình thường. Không hề thấy thấp thoáng bóng hồng. Chỉ có một người cha già và hai thằng con trai. Mỗi người mỗi ý. Người này làm khổ người kia. Người kia đem lại hạnh phúc cho người này. Hạnh phúc gia đình không bao giờ được tròn vẹn.

1- Người con cả cần cù lao động và hiếu thảo với cha. Nhưng lại hẹp hòi đối với em. Rồi từ đó lòng hiếu thảo bị lu mờ. Hắn tiêu biểu cho lớp người giữ đạo tốt trong các nguyện đường ngày xưa và trong các giáo xứ ngày nay.

- Giữ luật cặn kẽ. ăn chay một tuần hai ngày. Đọc kinh một ngày ba hoặc năm lần. Đó là tín đồ thuần thành của Giavê. Còn người tín hữu của Chúa hôm nay thì đọc kinh sáng tối chu đáo. Chạy kiêng kỹ càng. Lễ trọng và lễ Chúa Nhật không bao giờ bỏ. Các phong trào đạo đức đều có tham gia. Những người này được đánh giá là giữ đạo sốt sắng.

- Nhưng lại kết án khe khắt những người lầm lỗi. Người tội lỗi trở về vẫn phải chịu hình phạt theo lẽ công bằng thì họ mới chịu. Đúng vậy: người con cả phản đối cha vì ông tha thứ quá nhiều cho đứa con đi bụi. Hắn còn phản đối cha, kết án cha là bất công khi bản thân hắn không có được một con dê con để đãi bạn. Còn đứa con hư trở về lại được mổ bò để ăn mừng.

- Người tội lỗi trong các họ đạo của Do Thái giáo hay của Khô giáo đều chỉ được xót thương, chứ chưa bao giờ được kính trọng và yêu thương. Như vậy có nghĩa là người anh cả trong dụ ngôn vẫn còn có chỗ đứng trong suốt dòng lịch sử 20 thế kỷ và vẫn còn đứng ngạo nghễ, thách thức người cha già đáng thương.

2- Đứa con trai đi bụi thiêu rụi sự nghiệp mà ông bố xây dựng bằng mồ hôi nước mắt. Hắn được chia gia tài và nhận một phần ba. Phần ba thứ hai dành cho anh cả. Phần ba thứ ba được trao cho anh cả quản lý để nuôi dưỡng cha già. Ôm một phần ba sự nghiệp của cha mẹ ra đi, hắn chơi bời trác táng, không còn một chút lương tâm tối thiểu.

Hắn chỉ thức tỉnh khi hắn thấy mình còn thua con heo ô uế. Khi đi đến tận cùng của hố thẳm, hắn mới nghĩ đến việc trở về. Gần như mọi người sa đọa chỉ sám hối và trở về khi họ đã đi đến tận cùng của nỗi khổ. Lịch sử loài người, lịch sử của mỗi cá nhân, lịch sử của chính Giáo Hội cũng đều đi theo một quy trình như thế. Phêrô chỉ khóc hụ lên khi ông đã chối Chúa ba lần. Thời Trung cổ, Giáo Hội chỉ canh tân khi đã tự thấy mình giống như một “thây ma bị băm vằm” (Lời của Đức Phaolô IV)

Khi trở về, đứa con hư chỉ xin được làm đầy tớ của bố, vì hắn tự thấy mình không xứng đáng là con. Bố "điếc" không thèm nghe. Hắn không thể ngờ được rằng hắn vẫn là con của bố, vẫn được bố yêu, yêu hơn bất cứ lúc nào. Không thể hiểu được. Nhưng vẫn cảm được. Cảm thấy hạnh phúc vô cùng.

3- Tình yêu của Chúa Cha được mặc khải qua hình ảnh của một ông bố già nua và lẩm cẩm.

Chia gia tài cho con mà không lường được hậu quả. ông trao tiền vào tay thằng con lười biếng mà không hề hay biết. Và quả thực hậu quả là khôn lường. Mồ hôi nước mắt của mấy chục năm cần cù nay đã thành tro bụi. Lẩm cẩm đến thế là cùng.

- Cứ chiều chiều ông già chống gậy đi ra ngoài làng đứng nhìn về xa xăm, nơi con ông đã đi. Nhìn mà chẳng thấy gì. Cứ nhìn. Nhìn mãi. Lẩm cẩm quá cỡ.

- Rồi thằng con mất dạy của ông đã về. Thất thểu. Te tua. Ông ôm chầm lấy nó. Không đay nghiến: "Mày lấy tiền của tao mà cho con đ. nào ?" ông cứ hô đầy tớ lấy áo mới, giày dép và cà rá... để làm đẹp cho đứa con hư. Thương con quá hoá ra bố khùng.

Thầy kính mến .

Thầy đã mặc khải cho chúng con về tình yêu của Chúa Cha như vậy đó. Không thể làm hơn được. Không thể làm khác được Tình yêu của Chúa Cha lớn quá, diễn tả không được . Một ngàn tình phụ tử cộng lại cũng không đủ để nói về tình yêu của Chúa Cha. Đành phải lấy tình khùng của một người cha lẩm cẩm mà mặc khỏi tình yêu của Chúa cha đối với tội nhân.

Thầy ơi ! Con đã theo Thầy. Con đã tin Thầy. Con đã được Thầy mặc khải tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu lớn quá đến mức độ loài người không có ngôn ngữ, không có hình ảnh, không có ý niệm tương xứng để diễn tả. Nếu con không theo Thầy thì con nghĩ gì về tình yêu này ? Con sẽ giống như :

- Thần thoại Hy lạp và La mã mô tả “ông trời” Giupite cho con quạ mổ bụng, moi ruột thần Prêmêtê mà ăn... muôn đời muôn kiếp. Tội gì mà nên nông nỗi ấy ? Chỉ vì Prêmêtê thương loài người mà ăn cắp lửa trời đem xuống trần gian. Có lửa để loài người nướng thịt, luộc cá. Có lửa để nhân sinh ấm áp trong mái nhà lạnh lẽo... “Trời” đày đọa kiếp người ."Trời" đày đọa cả kiếp Thần yêu người. Trời ơi là Trời !

- Văn chương Việt Nam của con gọi "Ông Trời" là "Con Tạo đa đoan", là "trẻ Tạo đành hanh quá ngán". Chả thấy "Ông Trời” thương. Chỉ thấy "Ông Trời đánh". Muốn được thương thì phải "Tôi cắn cỏ, tôi lạy ông Trời, xin ông Trời thương tôi". Ông Trời xa quá. Lòng của ông cũng xa cách loài người như thế. Hết ham !

- Thi hào Nguyễn Du đánh giá "Ông Trời" thấp lắm, nhỏ nhoi lắm :
"Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen".

Cô Kiều đẹp quá. Vì đẹp quá nên kiếp người phải long đong. Đẹp vừa vừa như Thúy Vân, thì cuộc đời đâu đến nỗi hoa giập, bèo trôi.

Trời ơi ! Trời tầm thường thế ư ? Thèm vào !

Thầy kính mến.

Con trở về với Thầy, ngồi dưới chân Thầy, để được Thầy mặc khải Chúa Cha là Người Cha nhân từ yêu thương người tội lỗi còn hơn người không tội lỗi (chẳng bao giờ có). Nhưng thưa Thầy, người tội lỗi vẫn chưa được yêu thương như Chúa Cha yêu thương, yêu quá, yêu như điên như khùng... Không được yêu thương mà còn bị hắt hủi. Mà hỡi ơi ! Ngay trong ĐẠO, người tội lỗi cũng vẫn chưa được yêu thương. May mắn lắm thì cũng chỉ được tội nghiệp mà thôi.

Thầy ơi ! Đến bao giờ "Chúa Cha nhân từ" được ngỏ bày cho toàn thế giới ? Đến bao giờ cả ĐẠO lẫn ĐỜI đều trình bày tình yêu khùng của Chúa Cha. Mong thay !

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 226: CẢ BA NGƯỜI KHÔNG TẾ NHỊ

 

Dấu chân 44


Lc 10,38-42

Thầy kính mến.

 

Luca kể chuyện Thầy đến thăm gia đình chị Mátta. Chuyện được xếp vào loại cực ngắn: trên dưới PiôHậu 226


Luca kể chuyện Thầy đến thăm gia đình chị Mátta. Chuyện được xếp vào loại cực ngắn: trên dưới 100 từ. Chuyện ngắn quá nên chẳng nói hết lời. Vì thế con phải dàn dựng thêm.

Bêtania là một làng ở ngoại vi thành Giêrusalem. Trong làng có một gia đình giàu có mà Thầy coi như ruột thịt. Mỗi năm Thầy xuống miền Nam dự bốn lễ lớn. Sau mỗi lễ Thầy ở lại một thời gian ngắn để giảng đạo. Trong thời gian này, Thầy chọn gia đình ấy làm nơi tá túc.

Gia đình có ba chị em là Mátta, Maria và Ladarô. Hai gái, một trai. Gioan nói rằng cả ba chị em đều được Thầy quý mến (Ga 11,5). Riêng Ladarô thì được Thầy và các môn đệ coi như bạn thân (Ga 11,11).

Hôm ấy Thầy đến. Đoàn của Thầy gồm mười ba người. Chủ nhà gồm ba người nữa là mười sáu. Chú bác cô dì và bạn bè ở thủ đô nữa thì vô vàn vô số. Khách đầy nhà. Mátta tất bật dọn bữa. Maria ngồi nghe giảng, tỉnh bơ y như không có chuyện gì để lo, để làm. Thế là chuyện nội bộ gia đình bùng nổ.

1- Chị Mátta xăm xăm đi tới, giận tái mặt, nói một hơi không nghỉ : "Thầy thấy con vất vả một mình mà Thầy không quan tâm sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay chứ..." Thầy ơi, ghen đấy, ganh đấy.

Nếu con là Mátta, con sẽ đến nói nhỏ bên tai Thầy thế này : "Xin Thầy cho con gặp riêng em con một tí". Rồi hai chị em vào buồng riêng, đóng cửa lại, nạt cho Maria một trận : “Mày ham nghe giảng? Tao cũng ham chứ bộ. Nhưng công việc ngập mặt đây này. Xuống bếp với tao. Xong việc đã rồi hàng nghe giảng. Nghe giảng đến tối cũng được nữa”. Thế nhưng Mátta không tế nhị như con. Con cho là chị đã đối xử quá đáng đối với Thầy. Con muốn nói là chị ấy hỗn với Thầy. Tại sao một người đàn bà quý phái và duyên dáng như thế mà bỗng dưng lại "chằng lửa" đến thế ? Để đấy. Con còn phải ngẫm nghĩ.

2- Maria là một người đàn bà có nhiều cá tính. Cô tức vì Thầy giảng ở miền Bắc nhiều quá như thể quên miền Nam. Cô muốn được nghe lại hết tất cả các bài giảng ở miền Bắc. Cô nghe mãi mà không chán. Cô biết bà chị đang tất bật ở dưới bếp. Nhưng làm bộ không thấy. Dường như cô cũng cứng đầu lắm, không dễ nghe lời chị. Chính vì thế Mátta mới nói rằng : "Xin Thầy bảo nó giúp tôi một tay", hàm ý rằng : “Chỉ Thầy bảo, nó mới nghe".

Theo nhận xét của con, thì Maria đối xử với chị như thế là không đúng. Nếu con là cô, thì con sẽ thưa với Thầy rằng: “Xin phép Thầy cho con xuống bếp giúp chị con. Xin Thầy đi nghỉ một chút cho khỏe. Ăn cơm xong xin Thầy giảng cho chị em con nghe. Giảng thật nhiều, giảng thật lâu, Thầy nha” Tiếc quá, Maria đã làm cho Mátta ngứa mắt, giận dữ. Đáng tiếc ! Tại sao một người phụ nữ thông minh như vậy mà lại vụng về như thế ? Con chưa có giờ để suy nghĩ. Để đấy.

3- Thầy thì ham giảng, vì đó là sứ mạng của Thầy. Thầy muốn lời của Thầy phải được loan báo đến tận cùng trái đất. Thầy giảng, các Tông đồ giảng và mọi người phải giảng. Thầy giảng thật nhiều cho cô Maria nghe. Con còn muốn Thầy giảng nhiều hơn thế nữa.

Nhưng... con thấy Thầy cũng quá thiếu tế nhị đối với chị Mátta. Tội nghiệp chị ấy. Nếu con là Thầy, thì con sẽ nói với chị Mátta thế này: "Mátta ơi ! Con đừng bận rộn quá làm chi. Ăn đơn sơ thôi. Vài món là đủ rồi. Nghe giảng thì quan trọng hơn ăn tiệc.. " .

Rất tiếc là Thầy không tế nhị như thế. Nói chuyện với phụ nữ mà Thầy cứ bộc trực, làm mủi lòng ai : "Mátta. Con lăng xăng nhiều chuyện. Chỉ có một việc quan trọng, thì em con đã làm". Rõ ràng là hắt hủi cô chị. Rành rành là bênh vực cô em. Buồn tủi đến chết được.

Thầy kính mến.

Nhìn lại từ đầu đến cuối câu chuyện để có một cái tổng quan con thấy rằng cả ba người đều không tế nhị.

+ Mátta không tế nhị với Thầy. Có thể nói là hỗn...
+ Mana không tế nhị với chị. Vô tâm, vô tình.
+ Thầy không tế nhị với Mátta. Có thể nói là bất công.

Nhưng tại sao ? Cũng chỉ vì LỜI. Vì Maria ham nghe LỜI mà quên không giúp chị. Vì Mátta không được nghe LỜI nên mới ganh và ghen với em. Vì phải bảo vệ và đề cao giá trị của LỜI, nên Thầy không thể nhẹ nhàng với Mátta được. Chân lý phải được công bố trọn vẹn. Vì nể, vì tế nhị mà làm nhẹ giá trị của chân lý, thì chân lý không còn là chân lý .

Thầy kính mến.

Sau khi LỜI được Thầy đề cao đúng mức như thế, thì mọi chuyện đều được xoay chiều. Hai chị em cùng xuống bếp phục vụ bữa tiệc. Sau bữa tiệc, cả hai chị em cùng ngồi nghe Thầy giảng. Và sau này cứ mỗi lần Thầy đến thăm, thì Mátta chỉ dọn bữa đơn sơ, tranh thủ tối đa, để cả nhà cùng được nghe giảng. Chú bác cô dì và bạn bè của gia đình đến thăm Thầy, thì chủ yếu vẫn là để nghe LỜI.

Thầy kính mến.

Ngẫm nghĩ như thế, con tưởng là đã xong. Ai ngờ lại còn biết bao chuyện phải suy nghĩ thêm về ngôi nhà Bêtania này.

- Bêtania là một gia đình thân thương của thầy. Thân thương đến mức độ như ruột thịt. Vì thân nên mới thành thật bộc lộ tâm tư của mình. Tâm tư trần trụi, không che đậy. Con còn nhớ câu chuyện Ladarô bệnh nặng, chết rồi sống lại.

Khi Ladarô đau nặng, hai bà chị cho người ra tận ngoài Bắc báo tin để Thầy đến cứu, Thầy không đến. Chắc là hai bà chị giận lắm. Khi Ladarô chết và chôn được bốn ngày, Thầy mới tới. Bà chị ra đón Thầy ở ngoài cổng làng. Bà nói móc một câu : "Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đâu có chết". Hàm ý rằng : "Nếu được tin Thầy đến ngay thì đâu đến nông nỗi này. Người dưng bệnh thì Thầy chữa ngay. Còn người thân thì... cứ như người dưng". Khi Thầy bảo Ladarô sẽ sống lại, Mátta lại nói mỉa : "Vâng, đến ngày tận thế em con mới sống lại". Cô em lại còn đáo để hơn. Biết Thầy đến, nhưng không thèm ra đón. Khi bà chị bảo "Thầy gọi em đấy", thì cô mới chịu đi. Gặp Thầy cô lại nói móc một câu y như bà chị: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đâu có nên nông nỗi thế này” Hàm ý rằng: “Bây giờ Thầy mới đến thì còn gì nữa đâu”.

Thương quá mà cũng giận quá. Giận đấy mà cũng thương đấy .Có thân có thương, thì mới hờn giỗi như vậy. Thân lắm. Thương lắm. Điều đó cũng chứng tỏ rằng Thầy đối xứ với ba chị em này một cách rất thân tình, rất giản dị, rất gần gũi, như bạn hữu. Thầy là Ngôi Lời, nhưng vẫn là người. Vẫn cao xa ngàn trùng. Nhưng cũng vẫn ở đâu đây, rờ được và cảm được.

- Ladarô được Thầy coi là bạn. Mặc nhiên anh là bạn của "sếp". Bạn của "sếp" thì coi đệ tử của “sếp” chỉ là đàn em, là lính lệ. Nhưng Ladarô cũng coi đệ tử của Thầy là bạn. Đó là người cao cả. Cao cả lắm. Vậy mà Giáo Hội sơ khai không hề tôn sùng anh. Có thánh Mátta, nhưng không có thánh Ladarô.

- Maria được đề cao hơn Mátta. Vậy mà chỉ có thánh Mátta chứ không có thánh Maria. Tại sao ? Tại vì người ta vẫn không rõ ba vị sau đây là một hay là ba. Đó là người đàn bà tội lỗi xức dầu thơm trên chân Thầy trong nhà ông Simon (Lc 7,36-50). Đó là Madalêna, người được Luca gọi là người được trừ khỏi bảy quỷ (Lc 8,2). Đó là Maria, người ngồi nghe lời Chúa hôm nay. Nếu ba bà là một thì đã có thánh Mađalêna rồi. Thế là đủ. Nhưng nếu Mađalêna không phải là Maria ở Bêtania thì quả là một điều đáng tiếc. Một nỗi oan khiên muôn đời ! Lịch sử đã ỡm ờ, lại còn vô tâm, làm mất đi một vị thánh nổi nang hơn những vị đã làm thánh.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 227: MỘT TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI

 

Dấu chân 43


Lc 10,29-37

Thầy kính mến.

 

Thầy soạn một vở tuồng. Ba nhân vật chính là ông tư tế, ông trợ tế và một người xứ Samari. Ba nhân PiôHậu 227


Thầy soạn một vở tuồng. Ba nhân vật chính là ông tư tế, ông trợ tế và một người xứ Samari. Ba nhân vật phụ là tên cướp, người bị cướp đánh và ông chủ quán. Chỉ có một khán thính giả là ông Kinh sư. Còn con thì xin nhận công tác thuyết minh và bình luận.

1- Con đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô là một đường đèo dài hơn 20 cây số. Vào những ngày lễ hội thì khách hành hương trùng trùng điệp điệp, thương gia tầng tầng lớp lớp Nhưng trong năm, có nhiều ngày đường đèo heo hút, người đi lại thưa thớt... Có một hành khách vô tư, một mình đếm bước, vừa bước vừa ngắm trời mây nước. Bỗng một tên cướp xuất hiện. Chỉ trong một nháy mắt, người hành khách đổ xuống, thở hoi hóp...

Một thầy tư tế, áo choàng chỉnh tề, trang trọng đi qua. Thấy máu. Theo luật thì máu là đồ uế. Ông giữ luật, nhưng quên tình người. Ông tránh qua bên kia, tiếp tục đi. Tỉnh bơ.

Rồi lại có một ông trợ tế. Cũng y như thế. Tránh qua bên kia mà đi. Luật là trên hết, trên cả tình người. Người bị cướp đánh cứ nằm đó, thở hoi hóp và chờ chết.

2- Mảnh đất Samari in đầy dấu chân của các tổ phụ Abraham, Ixaác và Gia cóp. Nhưng người Samari đã bị đồng bào Do Thái loại trừ, ra vạ tuyệt thông truyền kiếp. Một trong những người bị loại trừ ấy cũng đi qua con đường này. Ông cưỡi lừa. Móng lừa đang gõ lốc cốc thì bỗng im bặt. Một thây người đẫm máu. Không. Một sinh linh đang hoi hóp. Người Samari nhảy phóc xuống, không thấy máu uế của luật, quên nỗi thù truyền kiếp, chỉ thấy người và chỉ nhớ tình người. "Người bị vạ tuyệt thông" xé áo mình để lấy vải mà băng vết thương cho người hấp hối, nhẹ nhàng bồng và đặt trên lưng con lừa, đưa về quán trọ . Nạn nhân không còn một đồng xu dính túi. Không sao. Vẫn được cứu chữa miễn phí, vì tình yêu trong tim người Samari ấy là không biên giới.

3- Ông Kinh sư là bậc thầy của người Do Thái nghe Thầy kể chuyện mà lòng buồn tê tái. Ông buồn vì thấy những thành phần ưu tú của dân Do Thái lại thiếu lòng bác ái đến như thế. Ông càng buồn hơn nữa vì thấy “người bị vạ tuyệt thông truyền kiếp” mà lại có tấm lòng quảng đại đến như vậy. Nhưng ông lại phân vân chẳng biết "luật" và lòng nhân thì cái nào lớn hơn. Ông xấu hổ quá sức khi phải thú nhận với Thầy rằng người Samari đã là người thân cận của nạn nhân. Thật ra ông né tránh từ "người Samari". ông chỉ nói trống lổng “chính là kẻ đã thi hành lòng thương xót...” Nghĩa là ông vẫn còn kỳ thị người Samari. Người Samari vẫn là kẻ thù truyền kiếp của người Do Thái.

4- Con không dám bình luận về Thầy. Con chỉ nhìn ngắm thôi. Nhìn ánh mắt, nghe giọng nói và theo dõi lối hành văn của Thầy, con ghi nhận được những điểm sau đây:

- Thầy quyết tâm phá hủy bức tường ngăn cách giữa người Do Thái và người Samari. Người Do Thái từ Galilê xuống Giuđê và từ Giuđê lên Galilê chẳng bao giờ thèm đi qua Samari, dù đó là con đường vừa ngắn vừa có nhiều di tích lịch sử thân thương. Họ chấp nhận con đường bên kia sông Giođan, vừa xa vừa phải qua hai lần đò, để khỏi đặt chân lên mảnh đất bị vạ tuyệt thông. Hằng vạn, hằng triệu người từ thời này qua thời khác cứ đi như thế. Còn Thầy thì không. Thầy xuống miền Nam dự lễ, thì đi qua Samari. Đi dự lễ về, Thầy lại đi qua Samari nữa. Có lần Thầy ngồi đàm đạo với một người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp. Sau đó Thầy lưu lại hai ngày để rao giảng. Chẳng hề có dấu hiệu phân biệt đạo-ngoại.

- Nhân vật lý tưởng trong vở tuồng của Thầy không phải là ông tư tế, không hề là người Do Thái, mà lại là người Samari. Thầy cố tình xây dựng nhân vật cho vở tuồng như thế, để hôm nay chúng con đặt tên cho vở tuồng là "người Samari tốt lành". Người Do Thái đè người Samari xuống tận vực thẳm. Còn Thầy thì lại bốc người Samari lên tận trời xanh.

Kết thúc vở tuồng, con thấy ông Kinh sư mặt đỏ như gấc. Xấu hổ vô cùng. Ông muốn độn thổ mà không tìm được hố. Cứ đứng trơ ra đó để muôn thế hệ dòm ngó. Ông là bậc thầy của dân, ông là cha linh hướng của nguyện đường. Thế mà Thầy lại bảo ông phải làm học trò của người Samari: "Ông hãy về và làm y như thế". Như thế là như người Samari. Người Samari là người bị vạ tuyệt thông truyền kiếp. Chua quá Thầy ơi ! Nhưng phải chua hơn thế ngàn ngàn lần, để đền cái tội ra vạ tuyệt thông cho người Samari từ năm thế kỷ về trước.

Con ôn lại lịch sử thì thấy rằng vào thế kỷ thứ 6 trước khi Thầy chào đời, vua Babilon đến chiếm quê hương của Thầy. Ông cho lưu đày những thành phần ưu tú. Ông đưa năm bộ lạc ngoại giáo vào làm kinh tế ở miền Samari. 70 năm đạo và ngoại sống bên nhau, xây dựng hôn nhân với nhau. Dòng máu pha tạp, nhưng đạo vẫn còn đó. Chỉ có thế thôi mà đồng bào phía Bắc và phía Nam nỡ tâm loại trừ họ và coi họ như người ngoại. Oan khiên và bất công ấy vừa lớn vừa dài. Dài hơn năm thế kỷ !

Thầy kính mến.

Ai cũng nghĩ rằng qua vở tuồng “Người Samari tốt lành” .Thầy muốn dạy loài người về một lòng bác ái không biên giới không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, văn hoá, ý thức hệ... Qua cách dàn dựng vở tuồng, con còn thấy Thầy lên án gắt gao óc phân biệt và kỳ thị này. Con cảm nghiệm rằng phân biệt và kỳ thị tôn giáo là ghê tởm nhất, xấu xa nhất và đáng lên án nhất.

Nhưng trong chỗ riêng tư giữa Thầy và con, con lại thấy rằng dụ ngôn "Người Samari tết lành" còn cho con một bài học tuyệt vời về sứ mạng và phương pháp truyền giáo. Phải là người Samari, phải làm người Samari mới cảm nghiệm được điều đó.

Người Samari rất đau lòng khi muốn hợp tác với người Do Thái hồi hương để xây lại đền thờ Giêrusalem, mà bị hắt hủi. Họ phải xây đền thờ ở Garidim để thay thế đền thờ ở Giêrusalem. Hai bên ghét nhau, mà họ là kẻ thua thiệt. Bị người Do Thái gọi là quân ngoại đạo và bị xếp hàng ngang với người thu thuế và đĩ điếm. Tức lắm, nhưng chẳng làm gì được để trả thù.

Nay được Thầy tôn vinh họ là bậc thầy của cả các ông Kinh sư. Họ mừng lắm. Họ thương Thầy lắm. Chắc hẳn mọi người Samari phải học thuộc lòng dụ ngôn "Người Samari tốt lành" này và coi nó là một trang sách Ngôn sứ.

Kết quả của dụ ngôn ấy là gì ? Khi Giáo Hội sơ khai bị bắt bớ ở Giuđê, thì con cái của Thầy sơ tán tứ tung. Người giàu thì ra nước ngoài. Người nghèo thì lên miền Samari tá túc .Người Samari ghét người Do Thái. Nhưng người Do Thái mang nhãn hiệu Kitô, thì người Samari lại dang tay đón nhận, kiếm nhà cho mà ở, kiếm đất cho mà canh tác. Và người Samari ùn ùn theo đạo Kitô, tạo nên một giáo hội phồn vinh và an bình.

Xin Thầy dạy chúng con biết yêu thương và đề cao "người Samari" để lại có một giáo hội phồn vinh và an bình nữa.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 228: MÙ MÀ THẤY, THẤY MÀ MÙ

 

Dấu chân 42


Ga 9,1-41

Thầy kính mến.

 

Gioan kể chuyện Thầy cho một người hành khất mù bẩm sinh được sáng mắt. Chuyện kể khá PiôHậu 228


Gioan kể chuyện Thầy cho một người hành khất mù bẩm sinh được sáng mắt. Chuyện kể khá dài và có nhiều chi tiết hấp dẫn.

1- Các môn đệ thấy anh mù, thì tò mò hỏi Thầy một câu có tính thần học: "Thưa Thầy, hắn mù là do tội của hắn hay là do tội của cha mẹ hắn ?"

Có một nền thần học sai lầm dạy rằng :

- Bệnh tật là hậu quả của tội. Hễ cứ thấy ai đui, cùi, què thì hiểu ngay đó là người tội lỗi. Nếu không, thì bố mẹ nó, ông bà nội nó đã làm điều ác. Do đó người bệnh hoạn tật nguyền thì phải cúi mặt xuống mà sống với đời.

- Hậu quả của tội có thể xảy ra cho đương sự, mà cũng có thể xảy ra cho đời con cháu mai sau. “Đời cha ăn nho xanh, đời con sẽ ê răng” là vậy. Các sứ ngôn cũng nghĩ như thế. Đavít kiểm tra dân số. Sứ ngôn bảo đó là trọng tội. Sứ ngôn cũng bảo rằng Giavê giáng hình phạt trên con cái Ítraen vì tội này của Đavít. Thế là một cơn dịch giáng xuống. Con dân chết tá lả. Chết chùm chết đấng như kiến bị xịt Mytox. (2Sm 24,l0-17). Salômon thờ các thần ngoại bang. Nhưng ông không bị phạt, vì nhờ công đức của cha ông là Đavít. Nhưng khi ông chết, thì con ông phải lãnh hậu quả. Đất nước bị phân chia. Nội bộ xào xáo (V 11,9-13).

Nền thần học ấy đã xô đẩy người bệnh tật xuống tận vực thẳm của khổ đau và ô nhục. Thân xác đã khổ, linh hồn lại khổ hơn. Người bệnh tật phải xuống hai hoả ngục: hoả ngục sinh học và hỏa ngục thần học. Tàn nhẫn đến thế là cùng!

Bằng một lời ngắn gọn, Thầy đã minh oan cho người mù ấy và minh oan cho ngàn ngàn người bệnh tật của muôn thế hệ: "Không phải tại tội của anh ta. Cũng không phải do tội của cha mẹ anh ta". Thế là có một cái ĐÚNG truyền thống có tính thần học đã bị Thầy phán quyết là SAI. Người mù mừng. Người người mừng. Mừng cho đến muôn đời.

2- Thầy nhểu nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, bôi vào mắt người mù, bảo hắn đi rửa ở ao Siloác... Hắn được sáng mắt. Hắn được sáng mắt là do nước miếng, do bùn, hay do nước ao ? Thầy có thể cho hắn thấy đường mà không cần những thứ ấy. Đó chỉ là cách dàn cảnh nhiêu khê của Thầy mà thôi. Nhưng tại sao Thầy phải làm như thế ? Con không trả lời được. Nhưng con "cảm thấy" là Thầy phải làm như vậy. Con biết chắc rằng bầu khí Giêrusalem lúc ấy đang lên cơn sốt. Các vị lãnh đạo tối cao ở thủ đô đã quyết định ra vạ tuyệt thông cho bất cứ ai tin nhận Thầy là Đấng Mêxia. Do đó phép lạ gây ấn tượng này phải được diễn tiến một cách lặng lẽ, âm thầm tối đa.

+ Anh mù phải lần mò mãi mới tới hồ Siloác.

+ Rửa mắt xong rồi, anh ta lại phải lần mò mãi mới
về tới nhà .

+ Về tới nhà rồi, anh ta mới thấy đường.

+ Thấy đường thì mừng lắm, nhưng không bùng vỡ.

Như thế là Thầy đã cố gắng kiềm chế dư luận quần chúng ở mức độ có thể. Theo thiển ý của con thì đó là lý do khiến Thầy đã dàn cảnh một cách nhiêu khê như vậy. Người mù vẫn thấy đường mà dư luận không um sùm. Còn chuyện Thầy nhổ nước xuống đất luyện thành bùn thì con ghê tởm quá. Nhưng đối với đồng bào của Thầy vào thời ấy thì lại là chuyện bình thường. Nước miếng được coi là có dược tính.

3- Dư luận không um sùm lắm, nhưng cũng đủ để làm phật ý các "đấng" Pharixêu. Người mù bị gọi đến để thẩm vấn .Thẩm vấn người mù là để kết án Thầy. Nhưng cuộc thẩm vấn lại biến thành cuộc tranh cãi tay đôi giữa một thằng ăn mày và một tập thể các vị lãnh đạo trí thức. Ngoạn mục quá chừng !

- Các vị lãnh đạo thì quả quyết rằng Thầy là một người tội lỗi vì đã vi phạm luật cấm trị bệnh vào ngày Sabát.

- Anh mù thì cãi lại. Anh bảo rằng người tội lỗi thì không thể cho người mù sáng mắt được. Anh còn dẫn chứng lịch sử: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù bẩm sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì".

- Cãi không lại thằng ăn mày mù lòa, tập thể trí thức bèn tung chưởng "cả vú lấp miệng em": "Mày sinh ra đã ngập đầu trong tội lỗi, mà còn dám đòi làm thầy chúng tao ư ?"

- Đòn phép cuối cùng của tập thể trí thức giáng trên đầu anh mù là vạ tuyệt thông. Thế là anh mù tuy được sáng mắt, nhưng không còn được làm tín đồ của đạo Giavê nữa, không còn được làm con dân nước Ítraen nữa. Cô đơn tuyệt đối giữa dòng đời. Đời ơi là đời !

4- Cha mẹ là nơi nương tựa cuối cùng. Nhưng tình mẫu tử cũng đang run sợ trước vạ tuyệt thông đang treo lơ lửng. Họ không dám tri ân Thầy, không dám vui mừng đón nhận đứa con vừa bị vạ tuyệt thông. Tình mẫu tử đã không thắng được nỗi sợ. Chính cha mẹ đã không dám bênh vực đứa con xấu số nên đã né tránh khai sự thật trước toà. Họ chỉ dám khai rằng con của họ được sinh ra mù loà, còn tại sao nó được thấy đường thì họ không dám biết...

Thấy con mù loà được sáng mắt thì mừng quá. Nhưng chưa kịp mừng, thì nỗi sợ đã ập tới. Nỗi sợ như bức màn đêm chụp xuống giập tắt vầng sáng còn đang chói chang. Nỗi sợ vạ tuyệt thông còn lớn hơn cả tình mẫu tử, che lấp cả tình cha con. Thật là khủng khiếp ! Yêu mà chẳng dám yêu . Làm cha mẹ mà phải coi con như người dưng nước lã. Ôi vạ tuyệt thông! Mi hãy chết đi, để cho linh hồn người sống khỏi chết.

5- Một ngày... hai ngày... trôi qua. Người mù được sáng mắt say mê nhìn ngắm vạn vật, màu sắc, thể khối, cây cối, muông chim, đàn ông, đàn bà... Đẹp quá ! Nhưng còn một người hắn ao ước được thấy mà chưa thấy. Người ơi ! Người ở đâu ?

Hắn chưa tìm ra Thầy, thì Thầy đã đến với hắn. Mừng ơi là mừng ! Hắn quỳ mọp dưới chân Thầy, nước mắt ràn rụa. Nước mắt của tình yêu, nước mắt của niềm tin, nước mắt của lòng tri ân. Sung sướng vô cùng ! Phải có một biển nước mắt để khóc cho vừa lòng. Con tin chắc là Thầy đã ôm hắn vào lòng. Thương quá. Thương thật nhiều để bù đắp cho kiếp mù loà và nghèo đói, để bù đắp cho cái vạ tuyệt thông nghiệt ngã. Thầy thì thào bên tai hắn: "Thầy đến để... người mù được thấy, để người thấy lại trở nên mù".

Câu nói cao siêu ấy chẳng biết có lọt vào tai anh mù hay không, nhưng lại xoáy vào tai các ông Pharixêu. Họ cự nự. Họ chống đối. Thầy nói rõ hơn: "Nếu các ông mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng vì các ông bảo các ông thấy, nên tội các ông vẫn còn".
Người ơi ! đừng tưởng mình đã thấy", vì "thấy là “mù” đấy.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 229: AI SẠCH TỘI THÌ NÉM ĐÁ TRƯỚC

 

Dấu chân 41


Ga 8,1-11

Thầy kính mến.

 

Gioan kể chuyện một người đàn bà sắp bị "luật Môsê" ném đá vì bị bắt quả tang đang ngoại tình PiôHậu 229


Gioan kể chuyện một người đàn bà sắp bị "luật Môsê" ném đá vì bị bắt quả tang đang ngoại tình... thì được Thầy cứu sống. Chuyện hồi hộp đến thế mà Gioan chỉ sử dụng chừng hơn hai trăm từ. Đã ít lời quá đáng rồi, mà Gioan lại còn vừa kể chuyện, vừa đánh đố. Vừa bật mí, vừa bí mật. Tức chết được. Nhưng tức với Gioan, thì cũng chẳng ích lợi gì. Đành để đó để "ăn ốc nói mò". Trong khi chờ đợi đoán mò, con xin kể cho Thầy nghe một câu chuyện tương tự như thế. Chỉ khác một điều là không có Thầy ở đó để "cứu sống".

Hồi con còn bé tí, quê hương của con có xảy ra một chuyện “hoảng chưa”… (chửa hoang). Một người đàn bà góa chồng ở tuổi U 30 và chửa hoang ở tuổi U 40. Cả họ đạo bàn tán xôn xao. Bọn nhí của tụi con chẳng hiểu chửa hoang là gì nhưng cũng hau háu chờ ngày xét xử. Chúng con đua nhau học vè và đọc ra rả như tiếng ve vào buổi trưa hè... Và ngày xét xử đã tới.

Ông Trùm, ông Chánh Trương thì ngồi uy nghi ở bộ tràng kỷ. Người đàn bà chửa hoang thì ngồi khép nép bên mép cái phản gỗ không trải chiếu. Anh con cả của bà thì đứng bên cạnh ông Chánh Trương. Còn bà con trong họ đạo thì ngồi lố nhố từ trong nhà ra tới ngoài sân. Con ngồi chồm hổm, vênh mặt lên như con ếch, để nghe hóng chuyện người lớn.

Ông Chánh Trương e hèm lấy giọng, rồi sang sảng phán quyết: "Mỗ! Mày là con trưởng nam của nhà này. Mày làm chủ chứ không phải mẹ mày. Mày phải đuổi mẹ mày ra khỏi nhà này, để giữ lấy cái gia phong". Người mẹ chửa hoang ôm mặt khóc nấc lên một hồi, rồi vô buồng trong dọn đồ...

Cha xứ của con không hề có một lời phiền trách ông Chánh Trương. Dường như ngài cũng quý cái gia phong hơn cái nhân phẩm.

Còn anh con cả, bụng dạ thế nào thì chẳng ai biết, nhưng trước mắt mọi người, thì anh chỉ quý gia tộc, mà coi rẻ tình mẫu tử. Ai đúng ai sai, thì xin mời Thầy xét xử... Còn con thì xin trở lại câu chuyện "người đàn bà ngoại tình" của ký giả Gioan. Chuyện kể không hết, nên có nhiều nghi vấn.

1- Người đàn bà bị bắt quả tang đang ngoại tình.

Ai cũng biết ngoại tình thì phải ném đá cho chết. Bởi vậy người ngoại tình thì phải cảnh giác cao đến tột độ. Vậy mà vẫn bị bắt quả tang. Tại sao? Vì có người rình mò. Ai rình? Có lẽ là các ông Kinh sư và Pharixêu. Rình mò để làm gì ? Để "Những thứ ấy con đuổi cho khuất mắt"; để “Mỗi buổi mai con lại diệt trừ, cho hết phường ác nhân trong xứ, hầu quét khỏi thành đô Chúa, bọn làm điều ác chẳng sót một tên”. Vì lòng nhiệt thành với luật Môsê, mà các đấng bề trên cao cả như thế lại đi rình mò những chuyện không nên thấy như thế! Rình mò đã là xấu. Rình mò chuyện ấy lại càng xấu biết chừng nào ! Vậy mà... các đấng vẫn...

Đó là giả thuyết. Có thể không đúng. Nhưng cũng có thể đúng. Nếu đúng thì cũng rất logic. Các đấng nói rành rẽ với Thầy rằng: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang ĐANG ngoại tình. Theo luật Môsê thì..." Từ ĐANG được nhấn mạnh một cách hữu ý. Từ Luật Môsê cũng được nhấn mạnh như thế.

2- Thầy cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất, lờ đi như không biết, như không thèm biết. Con muốn hỏi Gioan xem Thầy viết gì ? Gioan không trả lời. Con không thèm hỏi nữa. Lại phải đoán mò thôi.

Trong đời Thầy, con thấy có hai lần người ta hỏi mà Thầy không trả lời. Lần này là lần thứ nhất. Lần thứ hai là khi Thầy ra trước toà án của vua Hêrôđê. Im lặng là khinh dể. Im lặng là không đồng ý, là phản kháng. Thầy viết gì con không cần biết, nhưng con hiểu đó là cách tỏ thái độ của Thầy. Có thể là Thầy chỉ viết vu vơ để lờ đi như người điếc không biết nghe. Nghĩa là Thầy không đồng ý với luật Môsê và cũng không đồng ý với thái độ ham trừng phạt của các Kinh sư. Thầy viết chữ Hípri. Con chỉ thấy gạch, phết, kẻ thước thợ... Con không đọc được. Nhưng con đọc được ý của Thầy qua thái độ. Thái độ của Thầy đã là nội dung của giáo huấn rồi.

3- Thầy đã không thèm nói, mà các ông Kinh sư lại cứ ép Thầy nói. Thế là Thầy choảng cho một câu sắc lẻm như lưỡi dao Gillette: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Đó là một lời thách thức ném vào mặt những người lãnh đạo Do Thái giáo chỉ thích loại trừ mà không biết cứu sống; chỉ thích trừng phạt mà không ưa tha thứ. Và... "dứt dây thì động rừng" : Môsê cũng không tránh khỏi lưỡi dao sắc lẻm ấy.

Thầy ơi, Thầy có quá nặng lời không ? Con thấy là Thầy có quá nặng lời đấy. Nhưng đó là cái tâm của Thầy. Đó là mặc khải của Chúa Cha. Thầy nặng lời để học trò của Thầy biết giật mình mà xét lại đường lối mục vụ của mình: Tiêu diệt hay cứu sống ? Yêu thương hay ghét bỏ ?

4- Gioan cho chúng con một nhận xét tuyệt vời. Đó là sau câu nói "Ai trong các ông sạch tội...", thì "các đấng" rút lui hết, vị cao niên đi trước, bọn trẻ tuổi đi sau. Đến bây giờ các vị ấy mới ngộ ra rằng không phải chỉ những ai bị bắt quả tang ngoại tình mới đáng bị ném đá. Còn biết bao người ngoại tình, mà chẳng bắt được quả tang. Ai? Các vị ấy tự biết. Xấu hổ lắm, chẳng dám đứng đó để chịu ánh mắt xuyên tim của Thầy soi rọi vào tận nội tạng còn rõ hơn là rọi X -quang. Đành chuồn thôi. Đào vi thượng sách. Ông già hiểu đời hơn ông trẻ là vậy... Ôi nhân tình thế thái !

5- Khi "các đấng các bậc" chuồn mất tăm, thì Thầy thôi viết vì không cần "viết" nữa, Thầy đứng dậy nói với người đàn bà ngoại tình đôi lời. Lời của Thầy ngọt lịm như đường phèn. Dù con không phải là người đàn bà ấy, mà cũng cảm thấy ngon ngọt ở đầu lưỡi. "Tôi không lên án chị đâu. Chị cứ về đi và đừng phạm tội nữa".

Người đàn bà ôm mặt khóc hụ lên và đổ gục dưới chân Thầy. Chị ấy khóc quá chừng. Khóc vì sung sướng. Sung sướng vì không phải chết. Sung sướng vì được sống. Sung sướng quá nên chỉ biết khóc nấc lên, mà không biết nói một lời để cám ơn Thầy. Nhưng lời cám ơn Thầy thích nhất, đó là chị ấy không bao giờ dám phạm tội nữa.

Hỡi ông Kinh sư thời ấy, hỡi ông Pharixêu ngày nay, xin hãy nhớ rằng người đàn bà ấy không bị ném đá và không bao giờ dám phạm tội nữa.

6- Thầy bảo “Chị cứ về đi".

Nhưng thưa Thầy, chị ấy về đâu ? Về với chồng con, hay về với cha mẹ ? Về đâu thì cũng bị từ chối, bởi vì Thánh Vịnh 101 đã thấm vào dòng máu và tuôn chảy trong huyết quản của mọi người.

“Mỗi buổi mai con lại diệt trừ,
cho hết phường ác nhân trong xứ,
hầu quét khỏi thành đô Chúa,
bọn làm điều ác chẳng sót một tên”

Người đàn bà ấy sẽ trở lại gặp Thầy. Chị lại khóc nấc lên. Khóc vì tủi nhục. Khóc vì tuyệt vọng. Thầy sẽ làm gì nữa để cứu chị ấy ? Đánh trống bỏ dùi ư ? Chắc chắn là không. Ngàn lần không. Vậy Thầy sẽ làm gì ?

Con đoán mò rằng Thầy sẽ đến gặp cha mẹ, chồng con, cô cậu chú dì... của người đàn bà ấy để giúp họ biết yêu thương và đón nhận. Cũng phải giúp họ can đảm đương đầu với dư luận quần chúng có tổ chức, có quy mô, có truyền thống từ mười mấy thế kỷ rồi.

Thế là lại "trăm dâu đổ đầu tằm". Một mình Thầy phải đứng mũi chịu sào, phải chịu trăm thương ngàn khó... để cứu lấy một người và hy vọng cứu lấy muôn người.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 230: TRUYỀN GIÁO MÀ CŨNG PHE PHÁI

 

Dấu chân 40


Mc 9,38-41

Thầy kính mến.

 

Thầy sai các môn đệ lên đường truyền giáo. Con bắt được quả tang có một ông đã truyền giáo sai PiôHậu 230


Thầy sai các môn đệ lên đường truyền giáo. Con bắt được quả tang có một ông đã truyền giáo sai mà không biết. Ông ấy đơn sơ về kể công với Thầy. Tưởng được Thầy khen, ai ngờ lại bị Thầy chê. Quê quá trời !

Con xin làm người khách bàng quan đứng ngoài cuộc để ghi nhận diễn biến câu chuyện một cách vô tư.

1- Gioan lên đường truyền giáo. Dĩ nhiên ông không đi một mình, vì Thầy ra lệnh mỗi toán thừa sai phải có hai người. Vậy người thứ hai đó là ai ? Máccô không nói. Nhưng con đoán mò là Phêrô, vì hai ông này là một cặp bài trùng đã xuất hiện nhiều lần trên các trang Kinh Thánh.

Hai ông cùng được sai đi dọn bữa Vượt Qua (Lc 22,8). Dường như cũng hai ông này được Thầy sai đi mượn con lừa ở gần Bétphagiê và Bêtania (Lc 19,91).

- Gioan đưa Phêrô vào dinh Caipha, nơi Thầy đang bị xét xử (Ga 18,15-16)

- Hai ông cùng chạy ra thăm "ngôi mộ phục sinh" (Ga 20,3)

- Khi Gioan phát giác được Thầy đang đứng trên bãi, thì nói với
Phêrô: “Chúa đó” (Ga 21,7)

- Hai ông cùng lên đền thờ, tình cờ gặp người què
bẩm sinh (Cv 3,l)

- Hai ông cùng bị lãnh binh bắt giam (Cv 4,l)

- Hai ông được các tông đồ cử đi kinh lý giáo đoàn Samanri (Cv 8,14)

Hai ông cùng đi. Hai ông cùng giảng. Hai ông cùng làm sai …

2- Hai ông thấy có người bị quỷ ám. Các ông nhân danh Thầy để trừ, quỷ chạy te te. Có một người thấy thế, bèn bắt chước. Quỷ cũng xuất y như thế. Mừng quá ! Mừng chưa xong, thì bị Gioan và Phêrô chặn lại. Hai ông quyết liệt cấm đoán, không cho bất cứ người nào mượn tên của Thầy để trừ quỷ Hai bên cãi qua cãi lại. “Bên kia” ban đầu thì to tiếng. Rồi nhỏ dần. Rồi cúi đầu làm thinh. Thua. “Bên này” hứng chí, ra vẻ ta đây với "bên kia"... Gioan thắng vì được "ăn theo" uy tín của Thầy. Oai lắm ! Thích lắm ! Đi truyền giáo mà cũng có phân biệt phe phái. Trừ quỷ mà cũng giữ "bản quyền". Cũng chỉ vì Gioan thương Thầy... Cũng chỉ vì ông muốn bảo vệ quyền lợi cho Thầy... Tưởng như vậy là đúng qua đi chứ ! Ai ngờ...

3- Trở về nhà, Gioan báo cáo công tác. Hai cặp mắt rực sáng. Gioan sang sảng : "Thưa Thầy, có người mượn danh Thầy để trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta… " Thầy chằm chằm nhìn Gioan bằng cặp mắt phiền trách : "Đừng ngăn cản người ta". Gioan cụt hứng, cúi mặt nhìn hai bàn chân. Hai bàn tay vô duyên chẳng biết để đâu cho hết...

Rõ ràng là Gioan yêu Thầy. Nhưng yêu sai. Rõ ràng là Gioan bênh vực Thầy. Thầy không thèm. Rõ ràng là Gioan truyền giáo sai. Ông rao giảng không giống Thầy. Thầy không khen mà còn chê. Dễ sợ thật.

Thầy kính mến.

Gioan truyền giáo sai. Chắc chắn Phêrô cũng cùng sai với Gioan. Các ngài truyền giáo sai bao nhiêu lần ? Còn các tông đồ khác thì sao ? Còn Phaolô vị tông đồ truyền giáo vĩ đại thì sao ? Và lịch sử truyền giáo hai mươi thế kỷ qua, còn có bao nhiêu sai lầm nữa ?

Cuối cùng là chính bản thân con, trên đường truyền giáo con cũng đã sai phạm vô vàn vô số. Truyền giáo chỉ là giới thiệu Thầy, chỉ là vẽ lại chân dung của Thầy. Con giới thiệu Thầy mà như giới thiệu ai đó . Con vẽ chân dung Thầy mà chính Thầy nhìn không ra… Con đành cúi mặt nhìn hai bàn chân. Ân hận quá chừng ! Ân hận vì mình. Ân hận vì muôn ngàn nhà truyền giáo.

Khi cúi mặt nhìn hai bàn chân, con giật mình khám phá ra biết bao sai lầm in hằn trên đường truyền giáo dài hai mươi thế kỷ. Con xin được nhắc lại để làm một bản kinh sám hối dâng lên Thầy và gửi cho lịch sử thay cho một lời xin lỗi. Xin lỗi Thầy. Xin lỗi loài người.

- Thầy dạy phải yêu và chúc lành cho kẻ thù để xứng đáng được làm con Cha trên trời. Thế mà Gioan đòi Thầy sai lửa từ trời xuống thiêu hủy một thành xứ Samari. Tại sao ? Chỉ vì họ không đón tiếp Thầy. Sai quá chừng !

- Phêrô còn làm sai hơn nữa, khi ông vung gươm chém bay vành tai của tên vệ binh đền thờ. Tại sao ? Chỉ vì muốn bảo vệ Thầy. Nhưng dùng gươm để bảo vệ Thầy là làm nhục cho Thầy.

- Thầy hủy bỏ luật "Thanh-Uế", được ghi trong sách Lêvi (Lv 11). Nhưng Phêrô không hiểu ý của Thầy. Ông vẫn giảng và vẫn sống theo luật Lêvi, ngược lại ý của Thầy. Dường như ông giảng sai như thế gần mười năm trời (Mc 7,19; Cv 10,9-15).

- Toàn thể Giáo Hội sơ khai, kể cả các tông đồ đều nghĩ rằng tận thế, ngày quang lâm của Thầy sẽ xảy ra ngay trong thời của các ngài. Cũng chỉ vì mọi người đều hiểu lầm câu nói sau đây của Thầy: "Trong số những người có mặt ở đây có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị" (Mt 16,28). Bây giờ chúng con mới hiểu rằng "Ngày Con Người hiển trị" là ngày Tin Mừng đến với lương dân.

- Hai nhà truyền giáo Phaolô và Barnaba đã cùng nhau “nằm gai nếm mật” suốt bốn năm truyền giáo. Bốn năm đầm đìa mồ hôi. Bốn năm ròng ròng nước mắt. Và trong mồ hôi, nước mắt có màu đỏ của máu. Thế mà cuối cùng tình "huynh đệ chi binh" đã bị xé toạc. Hai anh em nổi nóng với nhau một trận to lớn đến mức độ "anh đi đường anh, tôi đi đường tôi". Tại sao ? Chỉ vì một chuyện nhỏ tí xíu đó là đoàn truyền giáo tuyến hai, có hay không có Máccô đi theo. Chuyện bé xé thành chuyện to. Buồn hai ngàn năm !

- Thầy yêu thương và đề cao người ngoại hai lần trong một bài giảng ở Nadarét. Suýt chết. Thế mà trên đường truyền giáo, thừa sai của Thầy lại coi thường dân ngoại y như tác giả Thánh Vịnh 79: "Gốc nho ấy Chúa bứng từ Ai cập, đuổi chư dân đi lấy chỗ mà trồng". Thừa sai De Rhodes đã sai cực kỳ khi gọi Đức Phật Thích Ca là một tên gian dối (Phép Giảng tám ngày. Bài thứ Bốn). Và đã có rất nhiều De Rhodes trên lịch sử truyền giáo Việt Nam trong suốt 453 năm qua.

- Thời Trung cổ, lịch sử Giáo Hội của Thầy đã để lại những trang vừa dày vừa đen như một đêm tối triền miên.

+ Thầy tha thiết cầu nguyện: “Xin cho chúng trở nên một”, thì nay “chúng” đã thành bốn: Công giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành và Anh giáo. Cả bốn "chị em" cùng biết mình sai mà chưa biết phải sửa sai thế nào.

+ Thầy bảo Phêrô xỏ gươm vào bao, thì "Phêrô" lại hô hào Công giáo Âu châu tuốt ra một rừng gươm…

+ Thầy bảo tội nhân: “Hãy về và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Còn người đại diện của Thầy thì lại ra lệnh cho "người lạc đạo" bước lên giàn hoả thiêu. Trong số những "người lạc đạo" ấy có một cô gái 19 tuổi, tên là Jeanne d'Arc. Cô bước lên giàn hoả thiêu năm 1431 và được phong thánh năm 1920 !

Thầy ơi ! Con là một thừa sai bất xứng. Anh em của con cũng bất xứng. Chúng con cùng sai. Trùng trùng điệp điệp. Cũng chỉ vì Thầy là Đấng Thánh, còn trò chỉ là phàm nhân. Khoảng cách giữa Thầy và trò là xa vời vợi. Khám phá được điều đó, chúng con đành cúi mặt nhìn hai bản chân. Còn Thầy thì vẫn yêu trò da diết. Yêu cả cái bất xứng của trò. Yêu đến mức độ lịch sử truyền giáo trở thành lịch sử yêu thương và tha thứ. Vì biết rằng Giáo Hội không thể không yếu đuối, nên Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phải khéo léo xoay xở, để Tin Mừng vẫn được rao giảng bằng sự khiêm tốn nhìn nhận lỗi lầm của mình: “Khiêm tốn nhìn nhận lỗi lầm của Giáo Hội... là chứng tá của Tin Mừng” (SVĐCĐ, 43).

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
 
-----------------------------------

 

PiôHậu 231: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI

 

Dấu chân 39


Mc 8,31-33

Thầy kính mến.

 

Thầy đang trụ ở vùng Xêdarê-Philíp. Nhìn về hướng Đông Bắc thấy dãy núi Hermon cao hút PiôHậu 231


Thầy đang trụ ở vùng Xêdarê-Philíp. Nhìn về hướng Đông Bắc thấy dãy núi Hermon cao hút tầm mắt. Nhìn về hướng Nam thì có vùng Biển Hồ xa mịt mờ. Thời gian này na ná giống như tuần tĩnh tâm hoặc thường huấn của chúng con ngày nay. Ông Daniel-Rops còn cho biết thời gian này là tháng Tám năm truyền đạo thứ hai của Thầy. Như vậy có nghĩa là chỉ còn tám tháng nữa thì Thầy bị bắt, bị đánh đòn, bị giết và Phục sinh.

Trong thời gian này có xảy ra ba sự cố: Thầy hiển dung trên núi; Thầy khen ông Phêrô; Thầy mắng ông Phêrô là “Đồ Quỷ”. Con muốn theo dõi từ đầu đến cuối.

1- Thầy hiển dung trên núi.

Núi nào ? Ngày xưa con vẫn nghe người ta nói là núi Taborê. Ngày nay người ta lại đoán là núi Hermon. Con theo ý kiến sau.

Thầy đem ba đệ tử ưu tú lên núi. Nhưng con chẳng thấy họ có gì là ưu tú cả. Thầy thì cầu nguyện. Còn họ thì ngủ lăn lóc. Ông Môsê và ông Êlia hiện đến đàm đạo với Thầy. Hai ông là đại diện của Cựu ước (Luật và Sứ Ngôn). Cựu ước đến chào Thầy. Có tiếng phán của Chúa Cha: "Hãy nghe LỜI Người". Chúa Cha phán với Cựu Ước. Chúa Cha phán với Tân Ước. Mọi người, mọi thời phải nghe LỜI Thầy, vì LỜI Thầy là LỜI của Chúa Cha, vì chỉ một mình Thầy mới là THẦY mà thôi. Sau đó thì :

- Môsê và Êlia rút lui. Con linh cảm rằng Các Ngài thấy mình không còn xứng đáng để làm thầy dạy dân nữa. Các Ngài chỉ là hướng dẫn viên đưa dân Do Thái đến với Thầy. Thầy đến rồi thì sứ mạng của Các Ngài chấm dứt. Họ mừng rỡ lui vào bóng tối, để cùng mọi người, mọi thế hệ ngắm nhìn và lắng nghe Lời Thầy: “Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đó là lời Chúa Cha phán dạy không phải chỉ chúng con mà thôi, mà còn dạy cả Môsê và các Sứ ngôn nữa. Các tác phẩm của Cựu ước cũng phải nghe Lời Thầy mà hiệu đính lại...

- Ba đệ tử ưu tú của Thầy lăn đùng ra chết. Chết giấc nhưng tưởng là chết thật. Họ sợ quá. Sợ cái gì ? Sợ Giavê. Có một niềm tin lưu truyền từ thời này qua thời khác. Niềm tin ấy dạy rằng: Ai thấy Giavê, ai trực tiếp nghe tiếng của Giavê thì phải chết. Nỗi sợ Giavê bao trùm trên suốt dòng lịch sử của dân Do Thái. Thậm chí người hiền nhân của Cựu Ước chỉ dám kính sợ chứ chưa dám mến yêu Giavê . Bởi vậy các ngài mới chỉ dám nghĩ rằng kính sợ Giavê là khởi đầu của sự khôn ngoan. Gioan môn đệ yêu dấu của Thầy đã cảm nghiệm được điều đó nên đã ngỏ bày tâm tư của mình trong 1 Ga 4,18: "Tình yêu loại trừ nỗi sợ... Ai sợ thì không đạt được tình yêu trọn hảo".

2- Thầy nức nở khen ngợi Phêrô :

“Anh thật là người có phước, vì chính Cha Thầy mặc khải cho anh, chứ không phải người phàm đâu”. Ôi vinh dự ấy lớn quá ! Sung sướng quá chừng ! Nếu có ai đặt tay lên ngực Phêrô để đo đạc tình cảm, thì sẽ thấy tim của ông đập rộn ràng, đập hàng trăm nhịp trong một giây. Tại sao Phêrô được Thầy khen quá như thế ? Chỉ vì ông tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.

Thầy kính mến.

Nếu Phêrô được Thầy khen, thì con cũng phải được Thầy khen. Con không chịu thua Phêrô, vì con cũng tin Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống. Không những con tin mà còn loan báo niềm tin ấy cho hằng ngàn, hằng nhiều ngàn người nghe. Xin Thầy nói riêng với con lời ấy: "Con thật là người có phước vì chính Cha Thầy đã mặc khai cho con điều ấy". Hạnh phúc vô cùng ! Sung sướng quá lẽ !

3- Phêrô bị mắng tưng bừng :

"Đồ quỷ, dang ra đàng sau..." Thầy ơi, chưa bao giờ con thấy Thầy nặng lời với Phêrô như thế. Tức là có vấn đề. Vấn đề rất quan trọng.

- Phêrô theo Thầy hơn hai năm rồi. Ông tin Thầy, Ông yêu Thầy. Nhưng tin sai, yêu trật.

Ông vẫn đinh ninh rằng Thầy là Đấng Mêxia, nghĩa là một ông vua chinh Đông chinh Tây, xây dựng một đế quốc Ítraen siêu cường. Các đế quốc lớn như La mã, Hy Lạp cũng phải về Giêrusalem để triều cống.

Còn bản thân ông nếu không được làm Thủ Tướng, hoặc Tổng Tư Lệnh quân đội, thì ít ra cũng làm Đô Trưởng Thủ đô Giêrusalem.

Thế mà Thầy lại bảo rằng Thầy sẽ bị bắt và bị giết... Thế thì xôi hỏng bỏng không. Ông không cầm lòng được. Ông phải can Thầy. Ông cản Thầy bằng mọi giá. Có lẽ ông cũng có quá lời với Thầy. Nhưng quá lời cũng chẳng sao. Bát cơm ngon đã kê vào miệng rồi mà bị hất đi, thì không cự sao được. Đó là ý nghĩ của Phêrô, ý nghĩ của một học trò "bé nhỏ". Học trò còn xa Thầy vời vợi...

- Kế hoạch "Cây khổ giá cứu độ" đã có từ muôn thuở. Thầy đến trong trần gian để thực hiện kế hoạch ấy.

Thầy yêu cây khổ giá, gắn bó với nó như người yêu không thể xa lìa… Thế mà Phêrô nỡ tâm chống đối, nỡ tâm phá vỡ kế hoạch muôn thuở của Chúa Cha. Phải mắng và mắng nặng lời để Phêrô chừa cái thói thọc gậy bánh xe, bánh xe của càn khôn.

Chống cây khổ giá không chỉ là một sai lầm thuộc phạm vi chiến thuật mà còn có tầm cỡ chiến lược. Sai một ly chiến thuật sẽ đi một dặm trong chiến lược. Cái sai của Phêrô có nguy cơ làm sụp đổ tất cả công trình cứu độ của Thầy. Và, thưa Thầy, dường như "Cây khổ giá cứu độ" cũng áp dụng cho cả thiên nhiên nữa. Cây mai phải trải qua hai tuần đau đớn vì bị ngắt trụi lá thì ngày Tết mới trổ bông rực rỡ. Cây mai vàng cũng phải thọ nạn để phục sinh Thầy ạ. Ngộ thật !

- Thầy ơi, con tưởng bị Thầy mắng là “đồ quỷ” thì Phêrô phải mở mắt ra. Ai ngờ cái nghĩ sai và yêu sai của ông vẫn vững như kiềng ba chân.

Ông vẫn quyết tâm phá cho bằng được kế hoạch "Cây khổ giá cứu độ" của Thầy. Bằng chứng là khi Thầy tự nộp mình trong vườn Cây Dầu, Phêrô đã vung gươm chém vệ binh Đền thờ để cứu Thầy. Thầy không còn giờ để mắng, nên chỉ vội la lên: "Xỏ gươm vào bao". Kế hoạch thánh không bị vỡ. Phêrô bỏ chạy. Ơn cứu độ bằng cây khổ giá vẫn được tiến hành suôn sẻ .

Thầy kính mến.

Phêrô đã tin sai và yêu trật. Gioan và Giacôbê cũng tin trật và yêu sai như Phêrô. Mẹ của hai ông cũng sai trật, nên cả ba mẹ con rủ nhau đến quỳ mọp để "xin Thầy cho hai con tôi, được một đứa ngồi bên hữu, một đứa ngồi bên tả trong nước của Thầy".

Một người tin sai và yêu trật. Ba người tin trật và yêu sai. Còn bao nhiêu người sai và trật như thế nữa ?!

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 232: KHI NÀO CHẾT?KHÔNG AI BIẾT

 

Dấu chân 38


Lc 12,35-48

Thầy kính mến.

 

Thầy kể chuyện về một đám cưới, được tổ chức theo văn hoá của quê hương Thầy. Đám cưới tổ PiôHậu 232


Thầy kể chuyện về một đám cưới, được tổ chức theo văn hoá của quê hương Thầy. Đám cưới tổ chức về đêm. Đám cưới mà không ai biết được giờ nào rước dâu. Người ta thả nổi cho hai họ kèn cựa nhau. Rước dâu sớm là vinh dự nhà trai. Rước dâu trễ là vinh dự nhà gái. Do đó khách tiệc khi đi đám thì dặn đầy tớ :

- Thắt lưng để kéo áo cao lên, chứng tỏ là người cần cù lao động.

- Cầm đèn trong tay và kiên nhẫn chờ đợi. Ông chủ có thể về rất trễ vào canh tư, tức là sau ba giờ sáng.

- Nếu chủ về, gõ cửa mà cửa mở ngay thì chủ làm đầy tớ: dọn bữa hầu hạ đầy tớ. Nếu chủ gõ cửa mà không mở ngay, thì... ăn đòn.

Gió bên đông, động bên tây. Thầy vừa kể xong câu chuyện thì ông Phêrô cảm thấy nhột. Ông nhỏ nhẹ hỏi Thầy : "Thầy dùng dụ ngôn này để dạy chúng con, hay là dạy mọi người ?" Thì nhất cử lưỡng tiện, một dụ ngôn vừa dạy mọi người, vừa dạy riêng các tông đồ. Nhưng Thầy cố tình so sánh tông đồ, tức là mục tử, tức là giám mục với mọi người: "Mọi người" mà sai thì bị đòn ít, vì họ được cho ít. Tông đồ mà sai thì bị đòn nhiều, vì được cho nhiều.

Thầy kính mến.

Con hiểu ý của Thầy và dường như con cũng cảm được đôi chút nỗi lòng của Thầy.

1- Ý Thầy muốn dạy mọi người rằng trên đời có một bí mật mà loài người chưa phát giác được. Đó là giờ chết. Các bác học, các bác sĩ đều bó tay. Chiêm tinh gia, nhà tướng số cũng chỉ trả lời ỡm ờ cho những người tò mò muốn biết về số mệnh của mình. Khoa học biết rõ ngày giờ giây phút nào có nhật thực và nguyệt thực. Người làm ruộng biết trước ngày nào sẽ thu hoạch lúa, ngô, khoai. Những em bé tò mò và thính tai cũng đoán được ngày nào mẹ sẽ sanh em bé... Tuyệt nhiên chẳng ai biết được ngày nào mình sẽ lìa đời. Một nhà tư tưởng nào đó đã phải thốt lên rằng: "Không có gì chắc chắn cho bằng sự chết. Nhưng chẳng có gì mơ hồ cho bằng giờ chết".

Cho tới đầu thế kỷ 21 này, Chúa Cha vẫn độc quyền giữ bí mật về giờ chết của mỗi người. Dường như Người sẽ chẳng bao giờ bật mí điều ấy. Chính vì thế Thầy dạy chúng con phải luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng. Nhưng thế nào là sẵn sàng ?

+ Có một ông thầy dòng cố gắng trả lời bằng câu chuyện sau đây.

"Các em học sinh đang chơi. Bỗng có tiếng còi tập họp khẩn cấp: tích, tè... tích, tè... tích, tè. Thầy giáo hỏi các em: “Nếu Chúa cho các em biết ngày mai các em sẽ chết, thì bây giờ các em sẽ làm gì ?”. Ba em lần lượt trả lời :

- Em 1 : Thưa Thầy, em sẽ vô nhà thờ cầu nguyện xuyên suốt cho đến chết ! Thầy giáo cho em ấy 5 điểm trên 10.

- Em 2 : Thưa Thầy, em sẽ đi xưng tội ! Em này cũng được thầy giáo cho 5 điểm.

- Em 3 : Thưa Thầy, giờ nào việc nấy. Em đang chơi thì cứ chơi. Chơi xong thì đi tắm, ăn cơm tối, đọc kinh tối và đi ngủ . Chơi tốt, tắm tốt, ăn tốt, ngủ tốt... Cứ thế và cứ thế. Thầy khen: Tuyệt vời, rồi ghi điểm 10 trên 10.

Đó là sống tốt. Sống tốt luôn luôn là mãi mãi ở trong tình trạng sẵn sàng. Tốt đấy, nhưng chưa tuyệt vời. Con đề nghị cho điểm 8 trên 10 thôi.

+ Có rất nhiều người cho rằng sẵn sàng là phải lập nhiều công. Mà lập công theo ý của họ là đọc kinh nhiều, siêng năng lãnh bí tích, lãnh nhiều ân xá, đặc biệt là ơn đại xá… Theo thiển ý của con, thì chỉ nên cho những người này 5 điểm trên 10 mà thôi.

+ Theo ý ông Dakêu trong Lc 19,1-10, thì sẵn sàng là giúp đỡ người nghèo. Ông đã hứa với Thầy: "Tôi xin hiến một nửa gia tài của tôi để giúp người nghèo". Thầy nức nở khen ngợi: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này”. Thế là con hiểu ý của Thầy rồi. Đối với Thầy thì sẵn sàng là vừa sống tốt vừa làm nhiều việc từ thiện bác ái.

Anh chàng thanh niên nọ sống rất tốt, khiến Thầy phải âu yếm đưa mắt nhìn. Nhưng Thầy vẫn chưa hài lòng. Thầy bảo: "Anh vẫn còn thiếu một điều... là hãy bán những gì anh có mà giúp người nghèo..." (Mc 10,19-21)

Thầy kính mến.

Ý Thầy là thế: phải sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu bằng cuộc sống tạm bợ hôm nay; sống tốt từng phút từng giây là hành trang vừa đủ để nhập cảnh Nước Trời; nhưng hành trang tuyệt vời phải là công tác từ thiện bác ái.

2- Nỗi lòng của Thầy.

Trước hết con xin phép được hỏi Thầy: Tại sao Thầy nói chuyện với các tông đồ, tức là các giám mục ngày nay, mà Thầy lại cầm cây roi trong tay ? Tự ái lắm Thầy ạ. Không lẽ trong hàng ngũ giám mục mà cũng có những vị bị ví von với những tên quản lý chè chén say sưa, đánh đập tôi trai tớ gái, để rồi sau đó bị đánh đòn nhiều hơn "mọi người", nhiều hơn chúng con. Có lẽ tại Thầy buồn. Buồn lắm !

Con lại tự hỏi : khi Thầy ví von như thế thì Đức Giáo Hoàng Phêrô và Giám mục đoàn đầu tiên ấy có cảm thấy bị xúc phạm không ? Nếu có thì cũng phải ráng mà chịu. Càng cao thì càng lao. Quy luật là vậy.

Con xin hỏi Thầy một câu nữa: khi Thầy ví von như thế, thì Đức cha Giuđa Ítcariốt có giật mình không ? Con nghĩ là không, vì lương tâm của người đã chết rồi. Chính vì thế mà Thầy buồn lắm và buồn da diết. Buồn đến chết được. Mà không buồn sao được, khi Thầy vẽ chân dung một tên quản lý bất trung, chè chén say sưa, đánh đập tôi trai tớ gái, rồi bị trận đòn tơi tả... là Thầy muốn cho nổ một trái mìn cực mạnh làm rung chuyển cái lương tâm chai đá của Giuđa. Nhưng trái mìn ấy chỉ làm rung chuyển trời đất, chứ không hề làm sứt mẻ cái núi lương tâm chết của Đức cha Giuđa Ítcariốt. Đã buồn lại buồn hơn.

Thầy kính mến.

Con xin chia sẻ nỗi buồn da diết của Thầy. Nó là tổng số của những nỗi buồn muôn mặt của trần ai. Nó là nỗi buồn của những người nhà nông trồng cây mà không được hái trái. Nó là nỗi đau của những người mẹ đẻ ra quái thai. Nó là nỗi tủi nhục của những bậc thầy bị trò đá đít. Nó là nỗi thất vọng của ông chủ nhà máy dệt đứng nhìn rừng lửa đang thiêu rụi gọn nhẹ toàn bộ tài sản đồ sộ của mình... Chính Thầy tuyển chọn Giuđa làm giám mục. Chính Thầy đào tạo và trao công tác mục vụ cho Giuđa. Thế mà... mất cả chì lẫn chài. Đau quá! Cũng chính vì thế mà dụ ngôn cũng chua quá.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 233: HÃY TRỞ NÊN TRẺ THƠ

 

Dấu chân 37


Mc 10,13-16

Thầy kính mến.

 

Máccô kể chuyện Thầy yêu trẻ thơ. Máccô tiết kiệm lời quá, con xin phụ họa thêm một tí. Hôm PiôHậu 233


Máccô kể chuyện Thầy yêu trẻ thơ. Máccô tiết kiệm lời quá, con xin phụ họa thêm một tí.

Hôm ấy Thầy đi truyền đạo về. Cả Thầy lẫn trò mệt đừ. Áo dài thấm đẫm mồ hôi. Hơi nóng hầm hập từ ngực bốc lên, lùa qua cổ áo, phả vào mặt. Chua lè. Ai nấy chỉ mơ ước được tắm một cái, xả hơi mươi phút, ăn qua loa, rồi đi nghỉ. Còn Thầy thì mơ ước thêm : đi cầu nguyện trên sân thượng. Nhưng... nhìn ra ngoài sân đã thấy lố nhố đầu người: đầu đàn bà, đầu con nít. Ai nấy đều tíu tít đòi gặp Thầy. Có tiếng đàn ông nạt nộ, xua đuổi...

Đầu người vẫn lố nhố. Không buồn, không giận, không chịu ra về. Vẫn hau háu chờ Thầy. Vẫn cười tươi như hoa. Họ cố đấm ăn xôi. Có tiếng trẻ thơ kêu "Thầy ơi!”

Thầy vội vã đi ra, tỏ vẻ tức giận với các môn đệ và nói với họ một cách cứng cỏi: "Không được cấm trẻ thơ đến với Thầy". Thầy dằn mặt họ thêm một câu nữa: "Nếu không trở nên giống như trẻ thơ, thì đừng hòng vào “Nước Trời”.

Các môn đệ của Thầy mắc cỡ, lỉnh đi tắm. Các bà mẹ được đà ào tới bao quanh Thầy. Bà nào cũng bồng con giơ lên để xin Thầy đặt tay chúc lành. Thầy hớn hở bồng ẵm hết bé này đến bé khác. Thương quá là thương !

Sau đó, các bà mẹ bồng con đi về. sung sướng quá chừng! Một kỷ niệm không thể quên. Các bà sẽ nhắc lại cho con mình nhớ mãi, nhớ mãi. Còn Thầy thì đi tắm. Vừa đi vừa tủm tỉm cười sung sướng. Sung sướng vì được sống những giây phút thần tiên bên cạnh những thiên thần bé thơ.

Thầy kính mến.

Con làm khách bàng quan để thấy và suy nghĩ về Thầy, về các Tông đồ, về các bà mẹ và về các bé thơ.

1- Thầy đề cao trẻ thơ. Từ bé đến lớn con chỉ thấy người ta khuyên trẻ thơ bắt chước người lớn. Khi con còn bé, bố con bảo: "Lớn lên mày phải đi "ở nhà thầy" (đi tu) như hai anh mày". Khi con đi tu, thì thầy giáo chủng viện bảo con: "Chú phải bắt chước thánh Jean Vianney mà sống nghèo khó và khiêm tốn". Khi con làm linh mục, thì bạn con lại bảo: "Cậu phải bắt chước thánh Phanxicô Xaviê mà đi truyền giáo". Từ ông thánh trong đạo cho tới anh hùng ngoài đời đều là những người mẫu mà trẻ thơ phải noi theo mà vươn lên. Mọi trẻ em trên thế giới, từ Đông sang Tây, cứ được dạy như thế mãi.

Phải chờ đến Thầy, loài người mới được nghe: "Phải trở nên như trẻ thơ mới được vào Nước Trời"- Thế là người lớn phải bắt chước trẻ con. Người mẫu Thầy muốn không phải là người lớn mà là tâm hồn trẻ thơ. Thầy là nhà cách mạng nhân văn. Thầy chủ trương : muốn có một thế giới tốt đẹp, thì phải làm cho thế giới ấy giống trẻ thơ. Giống trẻ thơ không có nghĩa là khóc nhè, mà là :

- Trẻ thơ sống rất thật. Khi các em khóc, cười, giận, ghét, yêu thương thì là thật, không ẩn ý. Người lớn đã đánh mất cái thật ấy. Khi người lớn cười thì có thể là cười mỉa. Khi người lớn khóc thì có thể là khóc mướn. Khi người lớn bảo buông súng xuống, thì có thể là cầm súng lên. Khi người lớn nâng niu, chiều chuộng, thì có thể là mua chuộc, hoặc gài bẫy... Chỉ người lớn mới có thủ đoạn. Vì thủ đoạn, nghĩa là không chân thật, mà tình người phôi pha. Thậm chí người với người mà như chó sói với chó nhà. Vì không chân thật mà chiến tranh bùng vỡ từ cấp gia đình đến cấp quốc tế. Thậm chí có cả chiến tranh giữa tôn giáo với tôn giáo. Phi lý vô cùng !

- Trẻ thơ tin tưởng tuyệt đối vào cha mẹ. Có cha mẹ ở bên cạnh, trẻ em không biết sợ hãi. Đôi cánh tay của cha mẹ là toàn năng. Thầy muốn loài người phải tin tưởng tuyệt đối vào Cha trên trời y như thế đó.

Người lớn đánh mất niềm tin nơi nhau, nên cũng không còn niềm tin nơi Đấng Tối Cao. Ông Trời là một nỗi sợ bao trùm khắp vũ trụ, gói gọn cả không gian lẫn thời gian: "Thiên võng khôi khôi", lưới trời lồng lộng. Thế thì chạy đâu cho khỏi ông Trời.

Con xin méc nhỏ với Thầy là khi con còn bé, giảng viên giáo lý vẫn đem Chúa ra mà hù dọa con: “Chúa phạt chết tươi ăn năn tội chẳng kịp”; “Chúa bỏ xuống hỏa ngục, lửa đốt đời đời”; “Ai nói dối thì ma quỷ cắt lưỡi”... Hồi ấy con chỉ biết sợ Chúa, mà chẳng biết yêu. Đó là hậu quả của một nền sư phạm giáo lý sai lầm. Đáng tiếc vô cùng ! May quá, bây giờ thì con hiểu ý Thầy rồi. Đố ai làm cho con sợ Chúa được đấy.Thách đấy !

2- Các tông đồ nạt nộ. Tại sao ?

- Tại vì họ thương Thầy, muốn Thầy được nghỉ ngơi một chút. Họ biết Thầy mệt quá rồi, vì chính họ cũng đã quá mệt rồi, huống hồ là Thầy. Nhưng họ yêu Thầy mà không hiểu Thầy. Họ yêu sai. Tình yêu ấy là tình yêu mù lòa. Thầy tỏ vẻ bất bình.

Nhưng cũng tại vì họ ích kỷ. Họ chỉ nghĩ đến cái mệt của mình, mà quên nỗi khát khao của các bà mẹ muốn cho con của họ được Thầy chúc lành. Thầy không nghỉ, mà họ nghỉ thì... chướng quá ! Thương Thầy chỉ là bức bình phong để thương chính mình. Bị Thầy rầy thì cũng vừa.

3- Đàn bà yêu con, cố đấm ăn xôi.

Thầy đã mệt quá rồi, mà còn đưa con đến quấy rầy Thầy thì quả là thiếu tế nhị. Bản chất của phụ nữ là tế nhị, thế mà ở đây lại không tế nhị. Tại sao ?

- Biết Thầy mệt đấy, nhưng họ thương con của họ hơn là thương Thầy. Người đàn bà nào cũng thấy và chỉ thấy con của mình là trên hết. Họ sẵn sàng chịu khổ vì con. Họ bắt Thầy cũng phải khổ vì con của họ . Tình mẫu tử là thế. Thầy biết hết và Thầy cũng sẵn sàng hy sinh cho cả con lẫn tình mẫu tử ấy. Tất cả cũng vì trẻ thơ mà thôi.

- Bị các tông đồ nạt nộ, xua đuổi... các bà vẫn tỉnh bơ, không buồn, không giận, nhưng không chịu rút lui. Nhất định cố đấm ăn xôi. Chịu nhục vì con, các bà không thấy nhục. Chịu khổ vì con, các bà thấy sướng. Ôi, tình mẫu tử ! Ôi đẹp tuyệt vời ! Thái độ niềm nở của Thầy chính là để tôn vinh tình mẫu tử tuyệt vời ấy.

Thầy kính mến.

Con mượn lời nhà văn Lê Lựu để méc với Thầy một chuyện đau thương. Có một người đàn bà tên là Đất (hèn hạ như Đất) suốt đời nuốt nhục, suốt đời chịu cực vì con. Thậm chí bà sẵn sàng gian dối để con bà được nhờ. Con của bà tên là Hiếu, mà chẳng hiếu chút nào. Vì quyền vì lợi, hắn chửi mẹ là "con lợn" là "con súc vật", là “bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ”, là “bà có chết cũng không yên với tôi đâu” Bà Đất đã chết, chết trôi. Ôi nhân tình thế thái ! Ôi tình mẫu tử ! Thầy ơi, xin hãy cứu tình mẫu tứ ! Xin hãy cứu trẻ thơ !

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 234: HÔN NHÂN VÀ ĐỘC THÂN

 

Dấu chân 36


Mt 19,1-12 // Mc 10,1-12

Thầy kính mến .

 

Bằng trí tưởng tượng, con xách túi, lẽo đẽo theo Thầy xuống miền Nam. Thầy dừng chân ở phía PiôHậu 234


Bằng trí tưởng tượng, con xách túi, lẽo đẽo theo Thầy xuống miền Nam. Thầy dừng chân ở phía bờ đông sông Giođan. Dân chúng lại nô nức đến với Thầy. Nhóm Pharixêu cũng háo hức mò đến. Dân đến để nghe giảng và xin chữa bệnh. Pharixêu đến để rình mò và bắt bẻ.

Máccô kể rằng : "Như thường lệ người lại dạy dỗ họ" (Mc 10,1). Nhưng Thầy dạy dỗ về đề tài gì, thì Máccô bỏ qua. Đúng là đánh trống bỏ dùi. Tức đến chết được. Nhưng tức thì được gì con đành phải “ăn ốc nói mò” thôi. Con mò ra rằng hôm ấy Thầy giảng về Hôn Nhân. Hôn nhân đơn nhất : một vợ một chồng. Hôn nhân vĩnh viễn : không được ly dị.

Cả hai đặc tính này đều không có trong Luật Môsê. Môsê không cấm đa thê. Môsê cho phép ly dị. Rõ ràng là bài giảng của Thầy phạm hai sai lầm : chế giễu tổ phụ và chống lại Môsê.

1- Chống đa thê là chế giễu các tổ phụ. Tổ phụ nào cũng năm thê bảy thiếp. Đa thê để có nhiều con, làm cho dân mau đông chóng mạnh. Thủ lãnh Ghiđêon có tới bảy mươi người con, vì có nhiều vợ (Tl 8,30). Đa thê là thước đo sức mạnh của một lãnh tụ. Khi Đavít còn đang trụ quân ở Hêbron để giành dân với hậu duệ của Saun, thì tác giả sách 2 Samuen đã nhận định : "Vua Đavít càng ngày càng mạnh". Liền sau đó ông dẫn chứng Đavít sinh được sáu con trai do sáu bà vợ (2Sm 3,l-5). Số vợ của Đavít không dừng lại ở đó. Và sáu bà vợ ấy cũng không phải là sáu vợ đầu tiên. Đến thời Xalômon, ông vua cực thịnh, cực mạnh của lịch sử Do Thái, thì sự cực thịnh và cực mạnh ấy được mô tả một cách giản dị bằng con số “một ngàn vợ”(1V 11,3). Một ngàn vợ: quyền thế vô lường; hãnh diện vô cùng !

Tổ phụ nào cũng đa thê. Tổ phụ nào cũng huênh hoang tự đắc nhìn đời, rồi mỉm cười nhìn về quần thể phụ nữ đang bao quanh mình. Đó là bằng chứng của một nguồn khí lực tuyệt vời. Đó là cái số đào hoa mà trời chỉ ban cho những người đàn ông rất đàn ông... Thế mà Thầy nỡ tâm bảo rằng: “Không được !” Tại sao ? Tại vì từ muôn thuở Chúa Cha đã an bài như thế. Cũng chính vì thế mà Chúa Cha đã sáng tạo chỉ có một nam và một nữ. Thầy nói "không" với các tổ phụ, chỉ là nhắc lại ý của Chúa Cha mà thôi.

2- Cấm ly dị là nói ngược với Môsê. Nói ngược với Môsê là chống lại Thánh Luật. Chống lại Thánh Luật thì phải chết. Chính vì thế mà các ông Pharixêu mừng quýnh y như lượm được đá quý. Họ có hơn hai người để làm chứng theo luật. Mà lời của Thầy thì vi phạm luật rành rành. Không cho ly dị là nói “không” với Môsê, sứ ngôn trực kiến Giavê (Đnl 24,1).

Con tưởng Thầy sa bẫy. Hết hồn ! Thương quá là thương! Ai ngờ... Thầy lật thế cờ.

Pharixêu trích dẫn Đệ Nhị Luật để minh chứng Môsê cho phép ly dị, thì Thầy trích dẫn Sáng Thế Ký để bảo rằng vợ chồng là một xương một thịt. Vợ chồng là do Chúa nối kết. Mà Chúa nối kết thì loài người không được phân ly.

- Thầy chơi gác Môsê một cái, vì Thầy trách Môsê đã bẻ chỉa luật của Giavê mà cho phép ly dị. Nguyên nhân bởi đâu ? Tại sao Môsê bẻ chỉa luật của Giavê ? Thầy quy trách cho các ông Pharixêu "Vì lòng chai dạ đá của các ông mà ra". Thầy còn bồi thêm một đòn nữa : "Ai ly dị mà lấy người khác là ngoại tình". Ôi biết bao nhiêu người đã phạm tội ngoại tình! Cũng chỉ vì nghe lời Môsê mà ra nông nỗi ấy !

- Dường như Mátthêu và Máccô có bỏ qua một dẫn chứng của Thầy. Thầy dẫn chứng câu chuyện Giavê cho Ađam buồn ngủ (ngủ vì buồn), ngủ như chết, rồi bẻ lấy một xương sườn của ông, đắp thịt vào, và làm ra một Eva tuyệt vời. Ađam thức giấc, thấy Eva thì bốc đồng hô lên : "Đây là xương của tôi. Đây là thịt của tôi". Rồi ông tuyên ngôn như xuất thần: "Từ nay người nam sẽ giã từ cha mẹ để kết hợp với người nữ và cả hai chỉ còn là một xương một thịt". Thầy dẫn chứng chắc như đinh đóng cột khiến các ông Pharixêu đứng ớ ra một lúc, rồi nháy nhau mà chuồn.

Thầy kính mến .

Tưởng chuyện đến đó là kết thúc. Ai ngờ đứt dây thì động rừng. Về đến nhà trọ, các môn đệ của Thầy mới lòi cái đuôi của mình ra. Họ thích Môsê hơn Thầy. Họ đồng cảm với Pharixêu hơn là nhất từ với Thầy. Họ thở dài thườn thượt: "(Nếu thế thì )... thà đừng lấy vợ là hơn Vợ-chồng là một vấn đề trọng đại do Chúa Cha an bài. Vậy mà các môn đệ của Thầy lại phát biểu như thế đó . Y như là trò đùa. Như vậy chẳng phải là lộng ngôn sao ?

Chuyện vợ-chồng dài lê thê, nói mãi đến tận thế cũng không hết. Đàn ông thì cằn nhằn bảo rằng đàn bà là hữu thể không thể hiểu được, bực bỏ xừ. Đàn bà thì rên rỉ rằng đàn ông là ông thần sấm muốn đấm đâu thì đấm, ghét thấy mồ . Văn hóa Đông Tây Nam Bắc, đặc biệt là văn hóa Trung Đông của Thầy, có một cái nhìn rất xa lạ với mạc khải của Chúa Cha. Dường như trên sa mạc ngút ngàn của vùng Trung Đông vẫn vang vọng lời của ai đó : "Đàn bà là sinh vật trung gian giữa đàn ông và con thú. Đàn bà là cái bẫy ông Trời giương lên để trừng trị đàn ông là giống kiêu ngạo". Ôi, tương quan vợ - chồng là như thế ư ?

Chắc rằng nhân dịp này các tông đồ xổ ra một đống tâm sự về chuyện vợ-chồng giống y như thế. Thầy nghiêm nghị kết thúc bằng cách nhắc lại lời khẳng định của Chúa Cha: "Ai ly dị vợ chồng mà lấy người khác, thì là ngoại tình". Chấm hết. Thầy chuyển nhanh sang đề tài độc thân.

- Có những người không lấy vợ lấy chồng, vì không thể lấy được. Con không biết Thầy có khai triển câu nói "vì không thể lấy được" không. Con cũng không biết là các tông đồ có hiểu ra ngay không. Còn con thì hiểu ngay (...) “Vì không thể lấy được” có nghĩa là "cái ấy" không bình thường. Luân lý thần học nói rõ lắm. Rõ tới mức độ cả giáo sư lẫn sinh viên cứ nhìn nhau mà cười tủm tỉm.

- Có những người không thể kết hôn, vì đã bị người ta hoạn rồi. Có những người bị hoạn vì ghen. Người khác bị hoạn, vì có một viên đạn nghịch ngợm nào đó làm bộ vô tình lướt qua. Rõ ràng nhất là các ông thái giám, cố đấm để ăn xôi.

- Có những người không kết hôn vì Nước Trời. Ôi vấn đề độc thân vì Nước Trời ? Ôi cao quá, cao lút trời mây, vượt xa kinh nghiệm bình thường của loài người ! Vì thế Thầy bảo rằng nếu không có ơn soi của Chúa Cha thì chẳng ai hiểu được.

Thầy ơi ! Thầy sống độc thân vì Nước Trời : Tuyệt vời. Con cũng sống độc thân vì Nước Trời. Nhưng chưa tuyệt vời. Dường như còn chơi vơi. Xin Thầy cứu con với. Xin Thầy ban hai chữ "tuyệt vời" cho mọi người độc thân vì Nước Trời.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 235: ÔI, TIỀN BẠC

 

Dấu chân 35


Lc 16,1-15

Thầy kính mến.

 

Hôm nay con được nghe Ngôi-Lời-Làm-Người nói chuyện về tiền bạc. Nét mặt đăm chiêu. Giọng PiôHậu 235


Hôm nay con được nghe Ngôi-Lời-Làm-Người nói chuyện về tiền bạc. Nét mặt đăm chiêu. Giọng nói trầm buồn. Cặp mắt cảnh giác cao độ. Tiền bạc là một vấn đề lớn. Tiền bạc là những nấc thang đưa người ta đi lên, nhưng cũng là những cầu thang đưa người ta đi xuống. Đi lên tới đâu thì không biết, nhưng đi xuống thì tới tận đáy vực thẳm. Nhìn những cầu thang đi xuống, sâu thăm thẳm, rồi nhìn lên 12 cái đầu lố nhố, lòng Thầy thổn thức, lo âu. Tương lai đi về đâu ?! Nào ai biết được. Chỉ biết chắc rằng:

- Mátthêu đã có một dĩ vãng say mê tiền bạc. Ông đổi danh dự của một công dân Do Thái, vinh dự của một tín đồ Do Thái giáo để có thật nhiều tiền. Ông bị vạ tuyệt thông cách ly, vì làm nghề thu thuế. Nghề thu thuế có nhiều tiền, nhưng phải chịu mang tiếng là phản quốc và phản đạo. May quá chuyện ấy đã đi vào dĩ vãng. Hôm nay ông ngồi ở đó, thấm thía sự đời. Mừng ơi là mừng !

- Giuđa Ítcariốt đang làm nô lệ cho tiền bạc. Anh làm quản lý của đoàn truyền giáo. Anh ăn cắp tiền của tập thể. Anh kinh doanh từ thiện. Anh kinh doanh Tin Mừng. Anh kinh doanh cả Thầy nữa. Tiền là trên hết. Danh dự là trò đùa. Thầy cũng là trò đùa của anh ta. Nhìn thấy anh ngồi đó mặt trơ như đá, mà lòng Thầy quặn đau. Anh đang chạy nhanh trên các bậc thang dẫn xuống vực thẳm. Chỉ nhìn thấy thôi, cũng đủ hết hồn hết vía rồi. Vậy mà anh ta vẫn tỉnh bơ ! Tuyệt vọng !

Thầy kính mến.
Sau khi nhìn đoàn tông đồ, đặc biệt là nhìn Mátthêu và Giuđa, con quay lại để nhìn Thầy và để nghe Thầy. Trong tâm tư của Thầy, trong ánh mắt của Thầy, đồng tiền được đánh giá như thế nào ?

1- Tiền là bạn.

Thầy kể chuyện về một ông quản lý bất trung, tung tiền của chủ để mua bạn bè. Biết mình sắp bị đuổi việc, anh sửa lại “biên nhận” làm lợi cho con nợ. Người nợ 100 thùng dầu, anh sửa lại là 50. Người nợ 1.000 giạ lúa, anh sửa lại là 800. Kết quả là sau khi mất chức quản lý, anh vẫn còn được phe phảy bên các con nợ.

Anh quản lý nham nhở được Thầy dùng để đưa đến hai kết luận :

- Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng. Chua!
- Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Khó quá !

Theo con hiểu thì Thầy muốn người ta dùng tiền của để làm việc thiện. Việc thiện hôm nay là vốn dành cho đời sau. Tiền làm việc thiện là bạn. Việc thiện không chỉ là đem cơm áo đến cho người nghèo, nhưng là tham gia mọi sinh hoạt có mục đích phát triển con người toàn diện : nâng cao dân trí, làm đẹp dân sinh, phát huy dân đức...

2- Tiền là thước đo mục tử

"Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai dám tín nhiệm mà trao phó của cải chân thật cho anh em ?".

Mục tử nhiệt thành, mục tử lem nhem, làm sao để biết ? Cứ xem cách sử dụng tiền bạc của mục tử ấy. Con chẳng dám dòm ngó anh em, vì đó là việc của Chúa Cha. Nhưng con có quyền dòm ngó Đức cha Giuđa Ítcariốt, vì ngài đã quá vãng và đã được Thầy đánh giá là "thà đừng sinh ra thì hơn (Mt 26,24). Đức cha Giuđa là một mục tử tồi tệ, khiến con phải “ăn cò nói leo” Thầy một câu : "Thà hắn đừng làm giám mục thì hơn". Sở dĩ con nói như thế vì:

- Giuđa là một Đức cha ăn cắp, một giám mục tham nhũng. Ngài là một tên quản lý bất trung: ăn bớt, ăn xén. Chính Gioan đã làm chứng điều ấy (Ga 12,6).

- Giuđa là một mục từ kinh doanh người nghèo. Người nghèo là công cụ rất tốt để ngài "chấm mút", để ngài "ăn bớt cơm chim". Ngài không thương người nghèo, nhưng lại nhân danh người nghèo để tố cáo Maria về tội lãng phí : “Tại sao không bán chai dầu thơm ấy lấy 300 đồng mà cho người nghèo?” (Ga 12,5-6)

- Giuđa là một tông đồ kinh doanh Thầy. Lợi dụng chức quản lý để ăn cắp, lợi dụng công tác xã hội để chấm mút, bây giờ lại lợi dụng chính mạng sống của Thầy để kiếm chác. Mátthêu kể chi ly như sau : "Bấy giờ một trong nhóm Mười Hai là Giuđa Ítcariốt đi gặp các Thượng Tế mà nói : Tôi nộp ông ấy cho quý vị, quý vị sẽ cho tôi bao nhiêu ?" (Mt 26,15).

- Giuđa là người truyền giáo, nhưng lại biết kinh doanh địa ốc. Phêrô nói rõ ràng rằng: "Con người ấy đã dùng tiền công của tội ác mà tậu một thửa đất". (Cv 1,18)

Thầy kính mến.

Giuđa bất trung trong việc sử dụng tiền bạc thì chắc chắn anh cũng bất trung trong công tác truyền giáo. Con chẳng hiểu khi đi công tác, thì anh nghĩ gì và làm gì. Thì cũng giảng Lời, nhưng thực chất là kinh doanh "Lời". Tại sao một người bất trung trong việc sử dụng tiền bạc như thế mà Thầy vẫn trao công tác mục vụ ? Con không “ăn ốc nói mò” đâu. Chính Phêrô đã công khai tuyên bố điều ấy: “Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi” (Cv l,17). Con không hiểu được điều này. Đành cúi đầu ngậm ngùi, lo âu. Hôm ấy là thế, thì hôm nay cũng có thể là vậy. Sợ quá !

3- Tiền bạc là một Ông Thần.

Chính Thầy, bất giác đã phải thốt lên: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được". Thầy phong thần cho tiền bạc là đánh giá tiền bạc quá cao. Nó đứng ngang hàng với Chúa Cha, để loài người chỉ còn là thần dân của hắn, hoặc là con của Chúa Cha. Dĩ nhiên là Thầy cường điệu để cảnh giác cao các môn đệ trước vấn đề tiền bạc. Tất cả mọi cái ác ở trên đời này đều do tiền mà ra.

- Con phản cha, trò phản thầy, dân phản quốc... nếu truy cho đến tận cùng, thì bị cáo đầu tiên chính là tiền.
- Một chế độ bị thoái hóa rồi sụp đổ, thì nguyên nhân căn bản là tiền.

- Một tôn giáo, một tổ chức từ thiện bị tai tiếng, bị phá sản, thì nguyên nhân chính là tiền.
- Buôn lao động, buôn con nít, buôn phụ nữ... đều là những tội ác tày trời. Cũng chỉ vì tiền mà ra.
- Buôn cần sa, buôn hêrôin, buôn vũ khí... mạng sống như trứng treo đầu gậy, con buôn vẫn nhào vô như những con thiêu thân. Tại sao ? Cũng chỉ vì tiền.

Thầy kính mến.

Con chia sẻ với nỗi đau của Thầy, vì tiền đã cướp mất một Giám mục do chính Thầy tuyển chọn và đào tạo. Khóa Giám mục đầu tiên bị thất thoát 8,3%. Cũng chỉ vì tiền. Đau quá ! Nỗi đau của Thầy xin là nỗi đau của toàn thể Giáo Hội, cho hôm nay và mai sau.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 236: TIN TƯỞNG TUYỆT ĐỐI VÀO CHÚA

 

Dấu chân 34


Lc 12,22-31 // Mt 6,25-34

Thầy kính mến.

 

Con tò mò theo dõi buổi nói chuyện của Thầy. Chỉ có Thầy và trò. Bầu khí thân thương và bình PiôHậu 236


Con tò mò theo dõi buổi nói chuyện của Thầy. Chỉ có Thầy và trò. Bầu khí thân thương và bình lặng. Thầy rỉ rả nói. Trò chăm chú đón lời.

Sau buổi nói chuyện, con ghi khắc hai lời của Thầy: một lời đắng nghét; một lời ngọt lịm. Đắng nghét hay ngọt lịm đều là tấm lòng của Thầy, đều là những nhịp đập của một con tim, con tim của Ngôi-lời-làm-người.

1- “HỠI NHỮNG NGƯỜI YẾU TIN”

Giọng nói của Thầy đang ôn tồn rỉ rả, bỗng đanh lại làm mọi người trố mắt nhìn. Đó là giọng nói của người vừa buồn vừa giận, vừa tức, vừa tủi: "Hỡi những người yếu tin". Tại sao Thầy phải la lên như thế ? Tại vì những lời ngọt ngào của Thầy, những hình ảnh tươi đẹp của Thầy không có tác dụng.

- Con chim kia không gieo không gặt. Vậy mà không con nào bị bỏ đói . . .
- Bông huệ ngoài đồng sớm nở chiều tàn, không canh không cửi. Vậy mà Chúa Cha đã tô điểm cho nó còn
hơn long bào của vua Xalômôn...

Lời và ý đẹp như thế. Hình ảnh tươi mát đến như vậy. Thế mà mười hai cái đầu cứ lúc lắc, mười hai cặp môi cứ tủm tỉm kiểu bất đồng. Trên đường truyền giáo họ chẳng thiếu gì (Lc 22,35). Nhưng họ không yên tâm, khi chỉ có hôm nay mà không có ngày mai. Họ là những người đàn ông, lao động đầu tắt mặt tối, để có bát cơm manh áo cho vợ cho con, cho hôm nay, cho ngày mai và cho một tương lai rất dài. Nhìn vào bầy con lúc nhúc như chùm ô liu, không người cha nào có thể vô tư đến mức độ "ngày mai để cho ngày mai lo"

Bỏ vợ con sau lưng, nhấc gót theo Thầy, cũng chỉ là để lo cho ngày mai. Ngày ngày cứ hy vọng Thầy làm vua, trò làm quan, võng điều lọng vàng, vợ con sung sướng... Ai ngờ... một đồng xu dính túi cũng không có. Mỗi lần về thăm nhà... : một cục kẹo cho con cũng không có. Đứa bé.ngước mắt nhìn bố, chờ đợi... rồi hẫng. Tình cha con lỏng lẻo, lạnh tanh. Mặc cảm tự ti đầy mình. Ấy là tình cha con. Còn tình vợ chồng thì : "Về nhà gặp vợ, vợ không nói gì". Vợ im lặng là phản đối, là từ chối, là cấm vận... Mặc cảm tội lỗi đầy mình. Ôi thân phận đàn ông, những thằng đàn ông theo Thầy chỉ có hôm nay mà không có ngày mai !

Nếu con là một trong số 12 môn đệ, thì con cũng thế : lắc lắc cái đầu mỉm cười kiểu bất đồng... Con là đàn ông mà Thầy. Đàn ông thì phải nhìn sau, thấy trước; phải tính trước, lo sau. Vô ăn vô lo, thì còn gì là đàn ông.

Nếu cử tọa 12 người đàn ông này được thay thế bằng 12 người đàn bà, thì Thầy còn rầu rĩ hơn nữa. Bản chất của đàn bà là dành dụm, là chắt chiu, là bóp chắt. Tất cả chỉ vì ngày mai. Chính Chúa Cha đã sáng tạo ra những điều ấy. Bởi vậy, có một bà phước lên đường truyền giáo, hai tay xách hai túi đồ căng phồng như hai bụng heo nái. Bà chống thẹn với linh mục trưởng đoàn : "Chúa bảo đi truyền giáo thì không mang bị, không lận tiền đai lưng... nhưng con cứ mang hai bị, vì con là đàn bà. Chúa nói gì thì kệ Chúa..." Hai túi xách căng phồng ấy là của ngày mai, của ngày mốt và của cả một mùa hè xanh đấy. Con tin chắc rằng Thầy chả dám nặng lời với bà phước ấy đâu.

Nhưng... thưa Thầy kính mến, tại sao một chuyện bình thường và giản dị như thế lại làm Thầy nổi nóng và nặng lời ? Phải có vấn đề. Vấn đề phải quan trọng lắm.

- Thầy không tuyệt đối cấm lo cho ngày mai. Chính Thầy cũng đã khuyên họ tùy cơ mà ứng biến, tùy lúc mà lo hay không lo cho ngày mai: "Nhưng bây giờ ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị thì cũng vậy" (Lc 22,36). Nhưng chắc rằng có nhiều môn đệ cứ âu lo cho ngày mai, đến mức độ quên cả việc rao giảng của ngày hôm nay. Không những họ lo mà còn sợ ngày mai không có cơm mà ăn. Đi truyền giáo mà sợ không có cơm áo là làm nhục cho Chúa Cha, Đấng biết lo cho con chim ngoài đồng, thì không thể không lo cho đứa con yêu dấu của mình. Quá lo cho cơm áo thì còn giờ đâu mà rao giảng. Thầy phải nặng lời cảnh cáo vậy cũng vừa.

- Chắc chắn một điều là ông quản lý Giuđa Ítcariốt luôn mồm than thở về nguồn tài chính cho ngày mai và ngày mốt. Tiền thì chẳng bao giờ thiếu, nhưng Giuđa thì cứ tả oán, để có cớ đi xin mạnh thường quân mở hầu bao. Thế là lại có dịp để chấm mút. Chấm mút hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Thầy phải nặng lời như thế để may ra thức tỉnh được một lương tâm đang chết.

2- “HỠI ĐOÀN CHIÊN NHỎ BÉ, ĐỪNG SỢ”

Hồi nãy Thầy mắng các môn đệ là những người

yếu tin. Bây giờ Thầy lại vội vàng đổi giọng, ngọt ngào gọi họ là đoàn chiến nhỏ bé. Thầy an ủi họ như mẹ an ủi bé thơ "Đừng sợ". Một mệnh đề ngắn tủn mà hàm xúc vô cùng. Nó vừa là tâm, vừa là ý. Tâm thì dạt dào. Ý thì rất cao. “Đừng sợ” : một lời dặn dò, một vòng tay bao bọc. Y như một bé thơ được ủ ấp trong lòng của mẹ. Thầy ơi, Thầy là đàn ông mà sao Thầy ngọt ngào đến thế ?! Sự ngọt ngào ấy lại dành cho người loan báo Tin Mừng.

Thầy là người loan báo Tin Mừng, nên không còn làm thợ mộc, không còn lãnh mỗi ngày một đồng lương nữa. Thời giờ để ăn uống và nghỉ ngơi cũng còn chưa có, thì còn giờ đâu mà đục đẽo, cưa bào...

Các môn đệ của Thầy cũng không còn ra khơi thả lưới nữa. Họ dành trọn thời giờ để học với Thầy, để được Thầy sai đi. Nhưng họ vẫn chẳng thiếu gì. Vẫn có cơm ăn. Vẫn có áo mặc. Vẫn có một căn nhà nào đó để dừng chân. Họ không ăn bám. Họ là người làm công thì đáng được trả lương. Họ cho LỜI thì họ nhận sự giúp đỡ về vật chất (1Cr 9,14).

Cơm ăn, áo mặc đã đành, ngay cả phương tiện truyền giáo, Chúa Cha cũng ban hết cho họ. Thầy cần cái thuyền để ngồi giảng, thì có ai đó sẵn sàng cho mượn. Thầy cần một con lừa để vào thủ đô, thì ai đó không dám từ chối. Thầy cần một phòng rộng rãi để ăn bữa Vượt Qua cuối cùng, thì cũng có ai đó tình nguyện dâng hiến. Thậm chí khi Thầy cần một ngôi mộ để "an nghỉ" ba ngày..., thì cũng có ngay: ngôi mộ của ông Giuse Arimathia.

Người truyền giáo không phải lo, không phải sợ về sự thiếu thốn phương tiện truyền giáo. Phần ấy là của Chúa Cha. Tâm hồn của họ cứ nhẹ tênh, dành trọn vẹn cả tâm lẫn trí cho việc giảng LỜI. Họ đi giảng LỜI trên khắp nẻo đường mà y như có một bàn tay dịu dàng nào đó vừa dìu dắt, vừa vuốt ve. Không phải là bàn tay sần sùi của người cha, mà là bàn tay mềm mại của người mẹ. Sướng thật !

Nhưng chỉ một giây phút nào đó người truyền giáo lại ưu tư về vật chất : lại lo, lại sợ... không có cơm ăn áo mặc, không có phương tiện để LỜI được loan báo, thì lại phải nghe Thầy mắng "Hỡi người yếu tin". Chua lè ! Thì ráng mà chịu.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 237: CHẾT LÀ GIÁ CAO NHẤT

 

Dấu chân 33


Lc 11,29-32 // Mt 12,38-42 // Mc 8,11-12

Thầy kính mến.

 

Nhóm Pharixêu ùn ùn kéo đến. Họ bao vây Thầy. Họ chất vấn Thầy. Một tập thể tự thức quyết tâm PiôHậu 237


Nhóm Pharixêu ùn ùn kéo đến. Họ bao vây Thầy. Họ chất vấn Thầy. Một tập thể tự thức quyết tâm đánh gục một anh chàng thợ mộc, thông minh, nhưng không được
đào tạo qua các trường lớp.

Thầy nói gì, họ đều nghe hết. Thầy làm gì, họ cũng đều thấy hết. Thầy hóa nước thành rượu, họ biết. Thầy cho người què, câm, đui, điếc... được khỏi, họ biết. Nhưng họ không chịu tin. Sự thật là họ không muốn tin. Tin thì phải sám hối, phải từ chối quyền và lợi, phải thay đổi toàn bộ đường lối mục vụ đã có tính truyền thống. Họ làm bộ xin Thầy một phép lạ trên không gian để... tin. Nhưng... chẳng bao giờ tin.

Thầy thở dài não nuột, buồn tê tái.

Lịch sử của một quốc gia dài mười ba thế kỷ, bắt đầu từ Môsê; đang mở ra mênh mông trước ký ức thần thánh của Thầy. Một dân tộc cứng đầu và phản trắc, khiến Môsê phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Ông rên siết với Giavê. Ông phiền trách Ngài vì đã chất trên vai ông một gánh nặng mà ông vác không nổi. Các ngôn sứ nối tiếp nhau đay nghiến và trừng trị họ về tội bỏ Giavê để đi "đánh đĩ " với các thần ngoại bang. Dường như tất cả những cái thối tha trôi trên dòng lịch sử đều tích tụ trong cơ chế Do Thái giáo thời đó, khiến Thầy vừa buồn, vừa giận, vừa như thất vọng. Thầy bất giác thốt lên một câu chua lè như giấm, chát xít như mít dái:

“Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi một dấu lạ.

Nhưng chúng sẽ không được thấy một dấu lạ nào,

ngoài dấu lạ ngôn sứ Giona...”
Gọi một dân tộc là gian ác, là ngoại tình, thì là chua chát đến tận cùng rồi. Vẫn chưa hết. Thầy còn đưa cả thành Ninivê sa đọa ra tòa làm chứng nhân tố cáo tội lỗi của cơ chế Do Thái giáo. Cũng vẫn chưa hết. Thầy còn "mời" thêm một nữ hoàng da đen từ Trung Phi lên để thêm chứng nhân tố cáo đường lối mục vụ sai lầm của các ông Pharixêu.

Thầy kính mến.

Tại sao Thầy phải chua chát đến thế ? Tại sao Thầy phải day dí mãi như thế ? Đó là mạc khai ý của Chúa Cha. Đối với một cơ chế tôn giáo, một đường lối mục vụ chỉ biết phục vụ quyền và lợi của giới lãnh đạo như thế, thì không thể nhẹ lời hơn được. Nó không có lý do để tồn tại nữa. Nhìn ánh mắt nẩy lửa của Thầy, nghe giọng nói đanh thép của Thầy, con hiểu tâm tư của Thầy là vậy. Nhưng con vẫn cứ lo lo : lo rằng dòng lịch sử vẫn cứ lặng lẽ trôi, vô tư mang theo những cái thối tha của thời xa xưa ấy. Lịch sử của Giáo hội là một dòng sông. Đời của con cũng là một dòng sông. Dòng đời của con thì... rác rến vô vàn. Rồi suy bụng ta ra bụng người... Nỗi lo thật là lớn !

Thầy kính mến.

Thầy đã khẳng định là "không cho thế hệ gian ác và ngoại tình một dấu lạ nào", vì điều đó là vô ích. Thế nhưng Thầy lại vẫn cho họ một dấu lạ, dấu lạ Giona. Nói như thế có khác gì nói rằng : "Để đem lại niềm tin cho các ông, tôi sẵn sàng chết nhục nhã, đau đớn và oan khiên, rồi sau ba ngày tôi sẽ sống lại. Chết là cái giá cuối cùng mà tôi phải trả cho mỗi niềm tin. Tôi không tiếc, nhưng hy vọng dường như rất mỏng manh..."

Thế mới biết công trình cứu độ của Thầy vừa gian khổ, vừa khó khăn vô cùng. Mồ hôi là giá thấp nhất, rẻ rề. Nước mắt tưởng là giá cao lắm, nhưng cũng chỉ hơn giá mồ hôi một chút thôi. Giá máu là cao nhất tưởng chừng như có thể mua được vạn sự. Nhưng trong thực tế: máu của Thầy, máu của các Tông đồ, máu của các Thánh Tử đạo... cũng vẫn chưa đem lại được bao nhiêu niềm tin. Con theo dõi Thầy và thấy rằng:

1- Thầy lặn lội suốt ba năm trường để rao giảng. Từ thành thị đến nông thôn. Từ nguyện đường đến đồi núi hoang vu. Ngủ trên sàn tàu cũng được. Nằm co quắp dưới gốc cây cũng tốt. Ăn cơm khách một năm 365 ngày. Ăn những gì người ta dọn cho, chứ không phải là ăn những gì mình tự chọn. Cơm ăn, áo mặc, nhà ở, tiện nghi... tất cả chỉ là chuyện nhỏ. Rao giảng là tất cả. Con không biết khối lượng mồ hôi của Thầy mỗi ngày thấm vào áo là bao nhiêu và bốc thành hơi là bao nhiêu. Chắc chắn là nhiều lắm và nhiều nhất. Đó là cái giá Thầy trả để mua ơn cứu độ. Không tính toán. Không dè sẻn. Không tiếc xót. Nhưng... mua được bao nhiêu niềm tin ? Chả biết. Nhiều hay ít ? Chắc chắn là ít hơn là nhiều.

2- Cực đã nhiều, khổ lại nhiều hơn. Mồ hôi đã nhiều, nước mắt lại nhiều quá. Cực thì do dân. Khổ thì do lãnh đạo Kinh sư và Pharixêu thì rình mò , bắt bẻ và làm khó . Thượng Tế và nhóm Xađốc thì ít đụng độ, nhưng đã đụng, thì quyết liệt đến độ sẵn sàng ra vạ tuyệt thông cho bất cứ ai tin vào Thầy.

Nhìn lại đoàn đệ tử yêu dấu thì... cũng chan hoà “nước mắt”. Tác phong đạo đức của họ, thì chỉ là cớ để Thầy bị mắng vốn. Thầy bị mắng vốn nhiều lần. Nói đến cây khổ giá, thì họ "điếc" không nghe. Anh nào cũng hau háu chờ miếng thịt, nắm xôi. Thậm chí ngay trong phòng Tiệc ly, họ vẫn còn cãi nhau sôi nổi về cái ghế Thủ Tướng (Lc 22,24).

Ấy là chưa kể đến tác phong của Giuđa Ítcariốt. Chắc hẳn các bà mệnh phụ thừa sai cũng đã trực giác được cái tội ăn cắp liên miên của Giuđa. Các bà biết, thì các bà phải nói, nói mãi vào tai các tông đồ khác. Nội bộ lại xầm xì, ganh ghét. Và... trăm dâu lại đổ đầu tằm. Thầy lại phải khổ Khổ vì Tin Mừng. Nhưng Tin Mừng thì ít, mà tin buồn thì nhiều. Nước mắt thì chan hòa, nhưng kết quả thì là bao nhiêu ? Không nhiều.

3- Đổ mồ hôi, sôi nước mắt, Thầy cho là chuyện nhỏ . Thầy sẵn sàng trả giá một cách hào phóng. Tỉnh bơ. Bây giờ đến giá máu, Thầy cũng trả tỉnh bơ như vậy: "Chỉ cho dân này một dấu lạ, dấu lạ Giona".

Thầy ơi ! Thầy coi cái chết nhẹ như vậy sao ? Chết là cái giá cao nhất, cực chẳng đã mới phải trả. Phải cân đo, phải tính toán, phải cẩn trọng. Thế mà Thầy cứ trả nhanh như phản xạ. Chết cho Tin Mừng là một định mệnh của những người loan báo Tin Mừng. Cũng chỉ vì ơn cứu độ quý giá vô cùng. Chính vì thế, trong sứ mạng cứu độ, Thầy nói về cái chết cứ tự nhiên như nói về hơi thở. Chẳng biết Thầy đã nói với các Tông đồ bao nhiêu lần rằng : "Thầy sẽ bị bắt, bị giết, rồi sẽ sống lại" ? Giá máu thì Thầy đã trả. Nhưng kết quả thì vẫn chưa lạc quan. Số người không tin vẫn nhiều hơn số người tin. Bóng tối vẫn chiếm một diện tích lớn hơn vùng ánh sáng nhiều.

Lịch sử cứu độ nghiệt ngã đến thế ! Như vậy có nghĩa là cái giá máu vẫn còn phải được trả, trả một cách hào phóng để mua lấy niềm tin của mỗi người. Giá máu can chừng nào, thì thái độ trả giá phải nhanh nhạy chừng
nấy.
Thầy kính mến.

Tin Mừng cứu độ phải được trả giá bằng máu. Đó là Ý của Thầy.

Thái độ của người trả giá là nhanh nhạy. Đó là TÂM của Thầy.

Đáng phục và đáng mến vô cùng !

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 238: HỦY BỎ LUẬT THANH UẾ

 

Dấu chân 31


Mc 7,14-23

Thầy kính mến

 

Môsê dành trọn chương 11 của sách Lêvi, dài 47 câu để nói về đồ ăn thanh và uế. Sau đó, trong PiôHậu 238


Môsê dành trọn chương 11 của sách Lêvi, dài 47 câu để nói về đồ ăn thanh và uế. Sau đó, trong sách Đệ Nhị Luật, ông lại viết thêm 18 câu nữa để nhắc lại (Đnl 14,3-21). Chương 11 của sách Lê vi được trình bày rất trang trọng như sau:

"Giavê phán cùng Môsê và Aaron rằng"

Sau đó ông kê khai một danh sách dài thường các loài động vật, chim cá, cái trùng... mà Giavê bảo là uế không được ăn. Môsê phân loại và giải thích một cách rất tỉ mỉ. Chỉ nhìn ông viết thôi cũng đủ thấy mệt rồi... Vậy mà để diễn ý của Thầy về luật “Thanh-uế” này, Máccô chỉ buông nhẹ một câu:

"Như vậy, Người tuyên bố mọi đồ ăn đều là thanh hết" (Mc 7,19)

Thế là lời trang trọng của Giavê, và công lao cực khổ của Môsê đều rơi tõm xuống sông. Chìm nghỉm. Mất
dạng.

Khi các đệ tử không nắm được ý của Thầy, Thầy đã nặng lời với họ: "Anh em mà cũng tối dạ như thế sao ?"

Không những Thầy hủy bỏ luật “thanh-uế” của Giavê, Thầy còn vặn vẹo và dường như có vẻ chế giễu
nữa:

“Những gì từ bên ngoài mà vào
trong người ta, thì không thể làm cho
người ta ra ô uế được, vì nó không vào
trong thâm tâm, mà chỉ vào trong bụng,
rồi tuồn xuống hố xí” .

Thầy kính mến.

Con theo dõi từ lời đến ý và cả giọng nói của Thầy nữa. Theo nhận xét của con thì không những Thầy nặng lời với 12 môn đệ, Thầy còn nặng lời với cả Giavê nữa. Giavê làm luật. Môsê công bố luật. Thầy phá luật. Dứt dây động rừng là vậy. Nhưng tại sao Thầy đã hành động như thế ? Con nghĩ thật lâu và thấy được nhiều điều.

1- Luật "Thanh-Uế" là luật của Môsê, chứ không phải là luật của Giavê. Nhưng Môsê mượn danh Giavê để vẽ hào quang cho luật, để dân giữ luật một cách cẩn trọng tới mức cao nhất. "Giavê phán cùng Môsê và Aaron rằng" chỉ là lối hành văn trang trọng của Môsê, một nhà làm luật, một vị lãnh tụ đầy kinh nghiệm trên một dân tộc bướng bỉnh và gai góc chưa từng có trên thế giới này... Chính Thầy đã cho con biết rằng khi Môsê "hạ bút" cho phép ly dị, thì không phải vì đó là ý của Giavê, mà chỉ là sự nhượng bộ của Môsê mà thôi: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên Môsê đã cho phép các ông ly dị vợ, chứ từ ban đầu đã không có như vậy đâu" (Mt 19,8).

Bởi vậy, khi Thầy vặn vẹo và hủy bỏ luật "Thanh-Uế" thì Thầy không hề quá lời đối với Giavê, như con đã nghĩ. Thầy và Chúa Cha là một. Thầy tùng phục Chúa cha đến mức độ sẵn sàng chết oan, chết đau, chết nhục, để ý của Chúa Cha được thực hiện. Thầy coi ý của Chúa Cha như cơm ăn nước uống thường ngày.

2- Bảo rằng Thầy phá luật của Giavê là sai. Con xin rút lại lời ấy. Nhưng bảo rằng Thầy phá luật "Thanh-Uế" của Môsê thì rất đúng. Bảo rằng Thầy đã vặn vẹo và chế giễu luật ấy, thì cũng chẳng sai chút nào. Thầy chế giễu: Đúng. Nhưng chế giễu tới mức độ nào, thì con chưa nắm vững. Mức độ cao thấp của sự chế giễu tùy thuộc vào từ ngữ Thầy sứ dụng để chỉ nơi mà đồ ăn vào trong bụng rồi thoát ra. Con đã đọc tám bản dịch mà không tìm được đúng từ ngữ mà Thầy dùng. Nhóm "Giờ Kinh Phụng Vụ" lần thứ nhất dịch là “Đi ra xuống cầu tiêu”, lần tái bản dịch là “Thải ra ngoài”. Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn thì dịch là “Bài tiết ra nơi kín đáo”. Linh mục Trần Văn Kiệm dịch là "Thoát ra cầu tiêu" . Linh mục Nguyễn Thế Thuần dịch là "Xuất ra nơi cầu tiêu". Linh mục An Sơn Vị dịch là "Tống ra ngoài". Nhóm TOB dịch là "fosse" (cái hố). Trường Thánh Kinh Giêrusalem dịch là: “lieu d'aisance” (cầu tiêu). Con không phải là chuyên viên về Thánh Kinh, nên không được phước đọc bản gốc. Con chỉ đọc bản dịch. Mà dịch giả thì không được ơn linh hứng. Tội nghiệp cho con, vì con chưa hiểu hết được cái TÂM của Thầy trước luật “Thanh-Uế” này. Đành vậy .

3- Tại sao Thầy phá luật “Thanh-Uế"? Con chưa biết hết ý của Thầy. Nhưng con biết chắc là Thầy muốn mở một con đường để đến với dân ngoại. Chiến thuật “mở đường” này, ngày nay chúng con gọi là hội nhập văn hóa. Con tin chắc như thế vì hai lý do.
3.1 – Khi sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, Thầy đã dặn họ : “ Vào bất cứ thành nào…, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho”. Nghĩa là người ngoại cho ăn thịt heo, thì cũng ăn. Linh mục Angelo Alberti, sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng, đã quả quyết rằng 72 môn đệ được Thầy sai đi vào cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 dương lịch, nơi truyền giáo là tỉnh Pêrê, bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại. Do đó, lời Thầy dặn : “ Hãy ăn những gì người ta dọn cho” là hội nhập văn hóa, là bỏ luật Môsê để đến với dân ngoại.

3.2- Để chuẩn bị cho Phêrô đến với ông Cornêliô, một sĩ quan người ngoại ở Xêdarê, Thầy đã nhắc lại cho ông ý thức về Luật “ Thanh – Uế”. Điều gì Thiên Chúa bảo là thanh, thì ngươi đừng bảo là uế (Cv 10,15)

Luật “Thanh-Uế” là một trong những hàng rào cản khiến Tin Mừng khó đến được với dân ngoại. Cũng chính vì thế mà Thầy bực bội và chế giễu luật này.

4- Thầy nặng lời với luật “Thanh-Uế”. Các tông đồ ngơ ngơ không hiểu, bị Thầy mắng là “tối dạ”. Bị mắng là "tối dạ" thì chẳng oan chút nào. Nhưng con rất thông cảm
với họ vì :

4.1- Luật ấy là luật thánh được truyền tụng suất 13 thế kỷ. Nó trở thành văn hoá ăn sâu vào tâm tư, thấm sâu vào cả thịt máu của người Do Thái. Thậm chí chỉ ngửi thấy mùi mỡ heo thôi, thì nhiều người Do Thái đã buồn nôn rồi. Ông Êlêada đã thà chết chứ không ăn thịt heo, dù là thịt heo giả (Mcb 6,18-28). Chính vì thế mà họ dị ứng với ý kiến của Thầy.

4.2- Bị mắng là “tối dạ”, tưởng rằng họ sẽ sáng dạ ra. Ai ngờ... chính Tông Đồ Trưởng Phêrô cũng còn tối dạ lâu lắm, tối dạ mãi cho tới thị kiến ở Gióppê (Cv l0,3-29). Thời gian "tối dạ" ấy của Phêrô có thể kéo dài suýt soát mười năm. Trong thời gian mười năm ấy, dù đã là Giáo Hoàng, Phêrô vẫn không hiểu lời giáo huấn của Thầy về luật "Thanh- Uế". Dĩ nhiên không hiểu đúng, thì rao giảng và thi hành cũng không đúng. Trong thị kiến, Thầy bảo Phêrô: "Hãy đứng dậy, làm thịt mà ăn", làm thịt mà ăn những con vật mà Môsê bảo là uế. Phêrô run sợ thưa: "Lạy Chúa, không được đâu vì con không bao giờ ăn những gì ô uế".

Thầy ơi, đến bao giờ con mới hết “tối dạ” để hiểu Thầy?!

5- Thầy nặng lời với luật "Thanh-Uế" chính là Thầy nặng lời với lối giữ đạo vụ hình thức của các ông Pharixêu. Họ quá chú ý vào cái vỏ, nên bỏ mất cái ruột. Họ không ăn "đồ uế" tưởng thế là đã có cái tâm sạch. Họ rửa tay lại tin rằng cái lòng được sạch rồi. Họ giữ đạo như thế và dạy tín đồ như thế, tạo nên một tập thể, một truyền thống giả hình. Một cá nhân giả hình : đáng chê. Một tập thể giả hình : càng đáng chê hơn nữa. Một tôn giáo giả hình : đáng chê biết dường nào.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 239: CẦU NGUYỆN LA GÌ?

 

Dấu chân 30


Mt 6,9-13

Thầy kính mến.

 

Con đọc trình thuật của Mátthêu. Con đọc thêm một loạt ba trình thuật của Luca: Lc 11,2-4; Lc PiôHậu 239


Con đọc trình thuật của Mátthêu. Con đọc thêm một loạt ba trình thuật của Luca: Lc 11,2-4; Lc 11,5-13; Lc 18,1- 8. Con thấy mình đang đi lạc trong rừng rậm. Có tiếng hú ở hướng phải. Con quẹo phải. Đi mãi. Chẳng thấy gì. Có tiếng hú ở hướng trái. Con quẹo trái. Đi hoài. Vẫn chẳng thấy gì. Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo xương sống. Không tìm được lối ra. Màn đêm đang buông xuống...

Giáo huấn của Thầy về vấn đề cầu nguyện thì y như thế. Ở chỗ này thì Thầy bảo "Đừng lải nhải như người ngoại" (Mt 6,7). ở chỗ kia thì Thầy lại bảo phải bắt chước bà goá đi thưa kiện. Bà cứ lải nhải, cứ kêu mãi, thế là thắng kiện (LC 18,l-8).

Đi lạc trong rừng, chẳng biết nên quẹo phải hay quẹo trái, con đành đứng lại. Cũng vậy, khi nghe Thầy dạy về việc cầu nguyện, con chẳng biết nên lải nhải hay đừng lải nhải, con đành làm thinh. Con bịt tai để không nghe lời của Thầy. Nhưng con mở mắt thật to để thấy Thầy cầu nguyện thế nào.

1- Không nghe LỜI, vì LỜI có vẻ tiền hậu bất nhất.

Lời thứ nhất : Thầy vẽ chân dung Chúa Cha đẹp vô cùng. Một người Cha yêu con, biết hết mọi nhu cầu của con, sẵn sàng ban cho con mọi điều cần thiết, ngay cả những điều cần mà nó chưa biết. Thầy còn minh họa hình ảnh của mọi người cha trên đời, để con thấy rõ và tin tưởng Cha trên trời. Người cha trần gian chẳng nỡ tâm cho con cái hòn đá, khi nó xin ổ bánh; chẳng nỡ tâm cho con cái con rắn, khi nó xin con cá... Huống hồ là... Cha trên trời... Thích quá ! Sướng quá ! Thế là con chẳng thèm xin gì hết. Nếu xin, thì chỉ xin cho “ý Cha thể hiện”. Nếu có xin gì nữa, thì chỉ xin hằng ngày dùng đủ ; “xin tha nợ chúng con” và “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Thế nhưng...

Lời thứ hai : Thầy kể hai dụ ngôn, dụ ngôn nào cũng đề cao tính lải nhải.

Một người đàn ông có khách đến bất ngờ vào lúc đóng cửa tắt bếp. Nồi niêu sạch boong. Anh đành qua gõ cửa nhà người láng giềng. Ông láng giềng đang ôm con, ngủ khò khò. Bị quấy rầy thì bực quá, bèn từ chối ngắn gọn. Người đứng ngoài cửa cứ lải nhải, cứ năn nỉ mãi. Ông láng giềng đành đi lấy bánh cho mượn. Đó là một cách đuổi khéo... Nhục thấy mồ. Con không thèm bắt chước.

Một bà goá bị bức hiếp. Tức quá, bèn đi thưa kiện. Quan toà làm bộ điếc không nghe. Bà cứ ngày ngày đến cửa công, kêu mãi, kêu hoài làm điếc lỗ tai ông quan toà. Ông quan toà sợ điếc lỗ tai, nên xử thắng cho bà. Xử thắng cho bà, không phải vì thương người, vì công lý, mà vì khổ lỗ tai. Thắng kiện như thế, thì vẫn thấy tức. Tức đến chết được. Con không thèm bắt chước.

2- Nghe LỜI của Thầy, con chưa tìm được lối đi. Con đành thôi nghe để chỉ nhìn thôi. Nhìn và ngắm để thấy Thầy cầu nguyện. Con trố mắt nhìn, nhìn không chớp mắt, để hiểu biết bài học cầu nguyện của Thầy. Con có hiểu hết hay không, thì hạ hồi phân giải.

2.1- Con thấy Thầy lên núi, ăn chay và cầu nguyện bốn mươi ngày. Mỗi ngày hai mươi bốn giờ. Vậy thời khoá biểu tĩnh tâm của Thầy là thế nào ? Chủ đề tĩnh tâm là gì ? Tư thế cầu nguyện của Thầy là quỳ, là ngồi, hay là gì ? Không thánh ký nào trả lời. Đáng tiếc vô cùng ! Nhưng dù sao, con cũng hiểu được rằng Thầy dành rất nhiều thời giờ để cầu nguyện và cầu nguyện là một sinh hoạt quan trọng nhất của Thầy.

2.2- Con thấy vào một buổi sáng, lúc trời còn tối mịt, Thầy đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc l,35). Máccô chỉ nói bấy nhiêu. Còn tư thế và nội dung buổi cầu nguyện của Thầy thì Máccô không nói. Có thể là ông cũng mù tịt như con. Tiếc lắm, nhưng đành chịu vậy.

2.3- Con lại thấy Thầy cầu nguyện. Luca kể rằng Thầy vô cùng phấn khởi trong Thánh Thần. Có lẽ Thầy ngước mắt lên trời, giơ hai tay cầu nguyện rằng: "Con ngợi khen Cha là Chúa của trời đất, vì Cha đã mạc khai cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết". (Lc lo,21).

2.4- Một lần nữa con lại thấy Thầy cầu nguyện. Lần này Gioan nói rõ là Thầy ngước mắt lên, Thầy tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-42)
2.5- Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Thầy đã ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự Thầy ngỏ với Chúa Cha rất nhiều, rất tha thiết. Gioan phải dành trọn chương 17 cho bài cầu nguyện ấy. Con đoán chừng là Thầy nói trên 500 từ.

2.6- Trong vườn Cây Dầu, Luca nói rõ là Thầy quỳ gối và cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu được thì xin cho con khỏi uống chén này". Dường như chỉ một tích tắc sau đó Thầy đổi ý: "Xin đừng theo ý con. Xin chỉ thực hiện ý của Cha" (Lc 22,42)

2.7- Lần cuối cùng con thấy Thầy cầu nguyện, đó là lúc Thầy hấp hối trên cây khổ giá. Thầy chỉ gởi lên Chúa Cha ba lời tâm sự vừa tha thiết, vừa vắn tắt :
+ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.

+ Lạy Cha, sao Cha bỏ con ?

+ Lạy Cha, con xin phú thác hồn con trong tay Cha.
Sau khi nhìn ngắm Thầy cầu nguyện, con hiểu như sau:

1- Tư thế cầu nguyện thì rất linh động: có thể quỳ, có thể đứng, có thể ngồi.. Nhưng cặp mắt thì có thể ngước lên xoáy vào không gian để cảm nghiệm được Chúa Cha trong cõi vô biên. Cũng có thể nhắm mắt lại, để cho hồn xoáy vào vô biên ấy...

2- Nội dung cầu nguyện là ngỏ bày tâm tình của mình cho Chúa Cha. Tâm tình thì có thể là ngợi khen, cảm tạ, sám hối, tả oán, kêu trách, xin xỏ... Nhưng bao giờ cũng kết thúc bằng hai tâm ý :

"Xin đừng theo ý con, mà chỉ theo ý Cha thôi" và

"Con xin phú thác hồn con trong tay Cha".
3- Vị trí cầu nguyện có thể là một nơi thanh vắng mà cũng có thể là ngay trong chỗ đông người. Tâm tình giữa người với người cũng y như thế : có thể thỏ thẻ bên tai nhau ở một nơi riêng tư, cũng có thể hét lên ở giữa đám đông ồn ào như hội chợ.

4- Thời gian cầu nguyện thì ban đêm là tuyệt vời. Nhưng không loại trừ mọi thời gian khác.

5- Trình độ cầu nguyện cao nhất là: "Xin đừng theo ý con, mà chỉ theo ý Cha thôi". Nhưng không loại trừ việc xin xỏ, năn nỉ, lải nhải. Lải nhải với Chúa Cha cũng là cầu nguyện, nhưng ở bậc thấp nhất.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------

 

PiôHậu 240: TẤN CÔNG TỚI TẤP

 

Dấu chân 29


Lc 11,37-54

Thầy kính mến.

 

Con đọc trình thuật của Luca, rồi đọc thêm trình thuật của Mátthêu (Mt 23,l-36). Đọc xong, con PiôHậu 240


Con đọc trình thuật của Luca, rồi đọc thêm trình thuật của Mátthêu (Mt 23,l-36). Đọc xong, con phải gục mặt xuống và muốn độn thổ. Nhột quá ! Sượng quá ! Người ta mời Thầy ăn cơm. Thầy vào bàn ăn mà không rửa tay theo tục lệ như mọi người vẫn làm. Người ta tỏ vẻ ngỡ ngàng. Thế là Thầy chửi người ta một trận, như tát nước vào mặt. Chửi một người. Chửi một tập thể. Chửi nhóm Pharixêu. Chửi luôn cả các ông Kinh sư. Thầy giống như võ sư nổi giận, tung hết chưởng đánh tới tấp, đánh cho địch bò lê bò càng mà vẫn chưa buông tha. Vẫn cứ đánh tiếp . Đánh mà khôi cho đỡ. Tàn nhẫn quá chừng!

Con xấu hổ. Con muốn thôi không yêu Thầy nữa. Nhưng vì Thầy là Thiên-chúa-làm-người, nên con không thể bỏ được. Con lại nhìn, con lại ngắm và suy nghĩ về Thầy. Thầy là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Vậy Chúa Cha mạc khải gì qua thái độ ấy của Thầy?

1- Kinh sư và Pharixêu là bậc thầy của toàn dân Do Thái. Họ là cha linh hướng của mọi tín đồ Do Thái giáo. Họ là các thần học, các luật gia của cả đạo lẫn đời.(Đạo và Đời là một). Đi đâu cũng được mọi người chào “Rắpbôni” (chào Thầy, chào sư phụ) Đến đâu cũng được mời vào chỗ danh dự . Mọi thắc mắc về luật đều được các Thầy giải thích và kết luận. Các Thầy thuộc nằm lòng từng lời, từng chữ, từng chấm phết trong bộ Luật dày như bộ từ điển bách khoa. Các Thầy yêu mến Lời Chúa đến độ lên khăn phủ trán cũng đính một túi nhỏ đựng một câu nào đó trích từ Sách Thánh.

Tác phong của các Thầy thì không ai chê trách được điều gì.

- Mỗi tuần các Thầy ăn chay hai ngày : thứ Hai và thứ Năm. Các Thầy ăn chay tức là các Thầy xám hối, là các Thầy đền tội và linh hồn các Thầy sạch boong.

- Mỗi ngày các Thầy đọc kinh ba lần. Lòng các Thầy mến Chúa Giavê được ví như keo, như sơn.

- Các Thầy dâng cúng vào đền thờ mười phần trăm thu nhập hằng ngày, hằng tháng, hằng năm…
- Các Thầy luôn luôn rửa tay trước khi vào bàn ăn. Nếu đi xa về, các Thầy tắm rửa toàn thân. Tắm rửa thân xác, cũng là thanh tẩy cả tâm hồn. Nhất cử, lưỡng tiện. Tuyệt vời !

2- Sống đạo đức như thế, thì ai mà không thương, ai mà không trọng. Con cũng trọng vọng các Ngài và mơ ước xa xôi sống được như thế.Đang mơ ước như vậy, thì bỗng thấy Thầy nổi cơn thịnh nộ. Thầy lột phăng cái mặt nạ lấp lánh để lòi ra các mặt thật ghê tởm. Con giật mình đánh thót một cái. Giận Thầy một lúc rồi tỉnh ngộ.

+ Thầy gọi họ là bọn giả hình. Thầy ví von gọi họ là cái mộ tô vôi : bên ngoài thì đẹp quá; bên trong thì thối quá. Bản chất của giả hình là lừa gạt. Lừa gạt cả một dân tộc, cả một tôn giáo. Lừa gạt những tâm hồn đạo đức để thu lợi: lợi về danh vọng, lợi về tiền bạc.

+ Thầy gọi họ là lãnh đạo đui mù để cả hai lăn cù xuống hố. Họ thuộc lòng 613 khoản luật. Giỏi lắm, nhưng họ không biết lấy "con người" làm mục tiêu để "luật" phục vụ. Ngược lại họ biến "con người" thành công cụ phục vụ “luật” . Thế là luật bỏ tù "con người", nghiền nát "con người". Họ bắt tín đồ giữ "luật" để làm nô lệ cho "luật". Còn họ thì lấy ba tấc lưỡi để cắt nghĩa luật sao cho phù hợp với sở thích của mình. Vừa lỏi vừa độc.

+ Thầy mô tả họ giống như bọn người mà văn hóa dân tộc con gọi là "Nịnh trên, đá dưới". Họ xun xoe dâng cúng tiền bạc cho đền thờ, nhưng lại bóc lột dân. Họ bảo lấy của báo hiếu cha mẹ mà dâng cho Chúa, thì được miễn bổn phận hiếu thảo. Bóc lột con người, để lấy lòng ông Trời. Trời ơi là Trời !

+ Thầy tố cáo họ là "đọc kinh cho dài, để nuốt chửng tài sản của các bà góa". Đó là kinh doanh tôn giáo. Đó là kinh doanh đạo đức. Đó là kinh doanh Đấng Tạo Hóa. Y như Giuđa đã kinh doanh người nghèo (Tại sao không bán chai dầu lấy 300 đồng để giúp người nghèo) và kinh doanh Thầy (bán Thầy lấy 30 đồng). Tội này lớn lắm. Nặng lời tới cỡ đó cũng chưa vừa. Phanh phui tới cỡ đó cũng chưa đủ.

+ Tập thể Pharixêu và Kinh sư tạo nên một cơ chế, một đường lối mục vụ sai từ nguyên tắc. Nó đưa cả một dân tộc, cả một tôn giáo đi vào con đường lạc hướng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Làm tôn giáo mà sai lầm thì sai lầm ấy lớn hơn mọi sai lầm. Nó đáng bị đập phá cho tan tành để xây dựng một cái mới, chứ không phải chỉ sửa chữa vài chi tiết vụn vặt.

Thầy kính mến.

Bây giờ thì con hoàn toàn đồng tình với Thầy về cách chống đối và về nồng độ chống đối của Thầy đối với các ông Pharixêu và Kinh sư. Cá nhân của họ không hề là đối tượng của sự chống đối này. Nhưng cơ chế của họ, nếp sống của họ, đường lối mục vụ của họ mới là mục tiêu chống phá tận tình của Thầy.

Nhưng, thưa Thầy kính mến.
Trên thế giới này, từ muôn thuở về trước đến muôn thuở về sau đã có và sẽ có bao nhiêu sai lầm về tôn giáo như thế ? Đã có và sẽ có bao nhiêu vị lãnh đạo tôn giáo giống như ngôi mộ tô vôi? Đã có và sẽ có bao nhiêu bà góa bị nua trọng tài sản, chỉ vì bị lóa mắt trước những mẫu người sùng đạo giả tạo?

Con mường tượng thấy tôn giáo và công tác từ thiện vẫn bị thương mại hóa và chính từ hoá từ thời này qua thời khác từ nơi này tới nơi kia, từ mức độ thấp đến mức độ cao.

Con cũng mường tượng thấy nhiều lãnh tụ chính trị biết lợi dụng “ông Trời” để phục vụ tối đa cho danh và lợi của cá nhân. Họ đang nịnh "ông Trời" bằng cách tiêu diệt con người, y như ông Giéptê sát tế đứa con gái cưng của mình để đền ơn Giavê (Thẩm phán 11,29-40).

Con linh cảm rằng trên thế giới có những lãnh tụ tôn giáo đang có ảo tưởng rằng mình là Đạo, rằng mình đang nắm gọn thánh ý của Đấng Tối Cao trong lòng bàn tay bé nhỏ của mình. Họ sẽ nhân danh Đấng Tối Cao để lên án mọi luồng tư tưởng. Họ cũng sẵn sàng sử dụng mọi phương tiện giết người để "cứu" Đấng Tạo Hóa. Nhưng cuối cùng vẫn chỉ là kinh doanh tôn giáo, vẫn chỉ là Pharixêu hóa tôn giáo của mình. Thật đáng sợ ! Và... hỡi ông Pharixêu, vận mệnh thế giới sẽ đi về đâu ?

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-----------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây