Ông già Noel không mặc đồ đỏ - Ckgđ sách 26

Thứ năm - 21/12/2023 01:50
Ông già Noel không mặc đồ đỏ - Ckgđ sách 26
Ông già Noel không mặc đồ đỏ - Ckgđ sách 26
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)


Ông già Noel không mặc đồ đỏ
Ckgđ sách 26

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/

---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.


---------------------------------

Mục Lục:

Bài 1: Chuyện một gia đình khuyết tật đi lễ Chúa Nhật thật kỳ lạ. 2
Bài 2: Chuyện hối hận của hai người con. 4
Bài 3: Những chuyện phi lý trong cuộc sống. 7
Bài 4: Chuyện một Rabbi Do Thái trong một nhà tù. 10
Bài 5: Chuyện đồng tiền vàng duy nhất cuối cùng. 12
Bài 6: Chuyện người phụ nữ khác thường tại sân ga. 14
Bài 7: Hellen Keller, một nhân tài vừa bị mù, lại bị câm điếc. 22
Bài 8: Chuyện Vua Chosroes và những viên ngọc giả. 26
Bài 9: Chuyện ghen tương của một nhân tài 28
Bài 10: Chuyện pho tượng quý. 32
Bài 11: Chuyện cây chỗi của nữ tu Bernadette. 34
Bài 12: Chuyện xỏ kim cho bà ngoại 37
Bài 13: Mù và sáng mắt, ai mới là người bất hạnh. 41
Bài 14: Một vấn nạn của người dự tòng. 44
Bài 15: Ba cuốn sách giúp cụ già nổi tiếng. 47
Bài 16: Ông già Noel không mặc đồ đỏ. 49
Bài 17: Chút kỷ niệm thú vị trong mùa Giáng Sinh. 51
Bài 18: Những dòng chữ viết trên tường dịp Giáng Sinh. 54

----------------------------


 

Bài 1: Chuyện một gia đình khuyết tật đi lễ Chúa Nhật thật kỳ lạ

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 616)


Bạn thân mến,

Một linh mục truyền giáo tại Uganđa, ở châu Phi, kể lại chuyện đi dự thánh lễ ngày Chúa nhật của một gia đình, thật kỳ lạ như sau:

Hai vợ chồng Benedetto và Filomena bị mù. Họ sống cạnh một thiếu nữ bị bại hai chân, tên là Formosa.

Mỗi sáng Chúa nhật, ba người này đi dự thánh lễ tại nhà thờ cách xa khoảng hai cây số.

Cách họ đi dự lễ như sau:

- Formosa thấy đường, nhưng không đi được, nên phải bò hai tay.
- Filomena đui, đi sau Formosa, cầm chân của Formosa lên.
- Còn Benedetto thì vừa vịn vào vai vợ, vừa đi.

Cả ba người, hai đui, một bại, giúp nhau đi dự thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật như vậy!

*****

Trong khi những khát vọng và bao nỗ lực của con người, qua những cuộc cách mạng trong dòng lịch sử, đã không đem lại sự tự do, công bằng hoàn toàn cho con người.

Nhưng có một người đã vượt lên trên tất cả, vượt lên trên mọi cuộc cách mạng, vượt lên trên không gian và thời gian, để đem lại sự tự do và bình đẳng cho mọi người, ở mọi nơi và qua mọi thời đại, đó chính là Đức Giêsu Kitô.

Chính Ngài giải phóng con người khỏi đau khổ, tù đày, áp bức và dẫn đưa con người đến một xã hội công bình, bác ái viên mãn.

Đức Giêsu, với tước hiệu Kitô luôn là niềm hy vọng vĩnh cửu của nhân loại, mà thánh sử Luca đã trình bày với lời của ngôn sứ Isaia:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm, cho biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19).

Ðức Giêsu được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần.

- Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo: Những kẻ nghèo tiền, nghèo bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói, nghèo cả trong thân phận cùng đinh của họ.

- Đức Kitô cũng được sai đến với những kẻ bị giam cầm: Giam cầm bởi cảnh tù đày, áp bức, do chính anh em đồng loại gây nên. Giam cầm trong chính bản thân mình, do sự tự ti mặc cảm và loay hoay mãi để tìm lối thoát, mà vẫn không tìm ra.

- Ngài đến trong đời để giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh tù đày: Tù đày bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.

- Ngài đem đến cho người mù niềm tin, người mù hy vọng, mù ‎lý trí và ý chí được thấy ánh sáng trong tâm linh với niềm tin.

- Đức Kitô đem lại tự do cho người bị áp bức và cả người gây áp bức bóc lột bằng tinh thần hối cải trong đức ái.

Những trang Tin Mừng đã chỉ cho ta thấy rõ sứ mạng giải thoát của Ngài, cùng với những lời rao giảng là những dấu lạ: người què đi được, người mù được thấy, kẻ tội lỗi được ơn trở lại…

Như Đức Giêsu đã khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).

Từ “hôm nay” diễn tả hành động trong hiện tại về sứ mạng giải phóng của Đức Kitô, không chỉ là trong quá khứ, mà luôn được thể hiện trong lòng nhân loại, qua muôn thế hệ.

Tác động giải thoát không phải trong bạo lực, như cuộc cách mạng của con người đã sử dụng, mà là trong tác động của Thánh Thần.

Nếu chúng ta biết để cho Ngài hành động trong niềm tin và sự phó thác, thì những lo âu, những khốn khó của chúng ta sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác.

Như thế, chúng ta đã được giải thoát ngay trong chính niềm tin của chúng ta vào Ngài, như câu chuyện của gia đình trên đây.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện.

Xin cũng ban cho con trái tim của Chúa, để con có thể vượt qua được mọi ranh giới và những giới hạn của cuộc sống, ngõ hầu con đến được với Chúa và đến với những anh chị đang cần sự giúp đỡ của con. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 2: Chuyện hối hận của hai người con

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 617)


Bạn thân mến,

Có một câu chuyện kể rằng:

Một ông địa chủ nổi tiếng là giàu có ở một vùng ngoại ô của một thành phố nọ. Ông có hai người con trai và ông đã chia cho mỗi người con một thửa đất rộng lớn, đều nhau, làm tài sản riêng.

Thế nhưng, vì nghe theo lời bạn bè rủ rê, hai người con xin phép cha được bán đất, để lấy tiền, đi lên thành phố làm ăn, với ước mơ đổi đời.

Không may, chuyện làm ăn của cả hai anh em đều bị thua lỗ và cuối cùng thì cả hai đều phải trắng tay.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, cả hai quyết định cùng nhau trở về nhà cha mình, vì chẳng còn một xu dính túi và cũng không còn nơi để nương thân.

Hai anh em trở về nhà và quỳ xuống trước mặt cha xin tha tội.

Người cha đồng ý tha thứ, với điều kiện là cả hai con phải ra tạm sống trong chiếc chòi ngoài ruộng, và mỗi ngày phải ra đồng làm việc với những người làm thuê trong thời gian một năm, rồi mới được phục hồi vị trí là con trai của một địa chủ.

Không còn cách nào khác, hai người con trai đành phải làm theo ý cha muốn: 

Họ sống trong chiếc chòi cũ, ngoài ruộng, ngày ngày ra đồng làm việc, để được gia nhân phát cơm cho ăn, ngày ba bữa.

Sau một năm sau, cho gọi hai người con đến. Và người cha thật ngỡ ngàng hết sức, vì bộ dạng quá khác nhau hiu74a 2 đứa.

- Người anh thì ốm o, gầy mòn, gương mặt hốc hác, xác xơ.
- Còn người em thì sắc diện hồng hào, sức khỏe dẻo dai và vui vẻ, hoạt bát hơn trước.

Khi được hỏi, người anh trả lời:

– Thưa cha, suốt một năm qua, ngày nào con cũng nhớ đến cái tội của con đã làm khổ khổ cha, đã bán đất và đã ngu dại ghe theo bạn bè, để phải thua lỗ trắng tay. Con cứ tự trách mình đến mức ăn không ngon, ngủ không yên và con lo làm việc đêm ngày, để mong kiếm lại được đồng nào hay đồng đó.

Còn người em thì vui vẻ trả lời:

– Thưa cha, suốt một năm qua, con luôn sống trong tâm tình biết ơn cha, vì cha đã tha thứ cho con. Niềm hy vọng của con là sẽ được trở về làm con của cha. Đây là hy vọng lớn nhất đã làm cho con luôn cảm thấy hạnh phúc. Con hăng say làm việc và tạo những mối tương quan tốt với mọi người, vì con là con của cha, con không thể làm mất mặt cha được.

Người cha nghe xong những lời giải thích của hai người con, thì ngậm ngùi nói:

Thì ra, su một năm, ta chỉ mới nhận lại được một đứa con. Đứa còn lại chỉ là một người làm công.

*****

Sự dằn vặt bản thân, vì lầm lỗi đã qua, khiến cho người anh trong câu chuyện trên đây phải sống trong đau buồn, vô vọng và tinh thần, thể lực phải sa sút.

Anh trở về nhà với tâm trạng là một người xa lạ với tình yêu của cha anh.

Khi không nhận ra được ơn tha thứ của cha, để có thể sống trong niềm hân hoan của lòng biết ơn, nên anh chỉ sống như một người làm công, và mối tương quan của anh và người cha đã trở nên xấu đi.

Trái lại, lòng biết ơn, vì đã cảm nghiệm được sự tha thứ của cha, nên người em luôn sống trong vui sướng, hạnh phúc tràn đầy, trong tình yêu thương này.

Và đây chính là động lực giúp cho người em có được niềm vui để sống và nổ lực  làm việc hết mình trong tâm tình của một người con.

Nhờ vậy, mà tương quan của anh và cha đã được cải thiện hoàn toàn và chắc chắn mỗi ngày sẽ trở nên tốt đẹp hơn nữa.

Lòng biết ơn cũng có thể giúp con người cải thiện, làm tốt hơn nữa các mối tương quan với tha nhân.

*****

Xuyên suốt chiều dài lịch sử ơn cứu độ, lòng biết ơn là sợi chỉ đỏ, để nối kết mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa.

Lòng biết ơn được diễn tả bằng những bài ca chúc tụng quyền năng Chúa của dân Israel, sau khi được Chúa dẫn dắt vượt qua Biển Đỏ, cụ thể như bài Benedictus của ông Dacaria, và bài Magnificat của Mẹ Maria.

Những bài ca ấy đều được cất lên từ đáy lòng của những con người luôn sống trong ân tình và niềm tri ân Thiên Chúa, nên họ có thể cất lên những giai điệu thật tuyệt vời, để ca ngợi quyền năng và lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Một nhà tư tưởng nổi tiếng người Mỹ, tên là Henry Ward Beecher, đã phát biểu như sau:

“Trái tim không biết ơn, sẽ không tìm được hạnh phúc. Nhưng khi chúng ta có lòng biết ơn, thì sẽ tìm thấy được hạnh phúc từng giờ.”

Mỗi ngày, chúng ta nhận được biết bao điều từ Thiên Chúa, từ cuộc sống và những người đang sống xung quanh ta:

- Từng hơi thở, những cơn gió mát, ánh nắng mặt trời, những cơn mưa, và vẻ đẹp của mọi loài trong vũ trụ… tất cả đều là quà tặng của Thiên Chúa.

- Những nụ cười, lời hỏi thăm, sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ… tất cả cũng là quà tặng của những người đang sống cùng với chúng ta, trong lịch sử cuộc đời này.

Ước gì chúng ta luôn biết đón nhận tất cả, trong tâm tình biết ơn, để có thể cảm nhận được là mình đang hiện hữu trong vòng tay chở che, quan phòng của Chúa và được sống trong tình yêu thương của mọi người.

Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã thương ban cho con, qua những gì con đã nhận được trong cuộc sống, và qua những người đang cùng sống với con.

Xin Chúa cho con đừng có những giây phút sống vô ơn đối với Chúa, hay đối với bất cứ ai, nhất là đối với những ân nhân trong cuộc đời của con.

Xin cho con luôn biết sống thân tình với Chúa và vun đắp các mối tương quan của con với mọi người sao cho thật tốt đẹp, như Chúa đã dạy con và đã làm gương cho con. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 3: Những chuyện phi lý trong cuộc sống

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 618)

Bạn thân mến,

Từ trước đến giờ chắc chắn chúng ta đã từng đi tham dự nhiều đám tang. Nếu nhớ lại, chúng ta sẽ thấy, không chỗ nào giống chỗ nào. Có nơi chôn ban ngày, có nơi chôn ban đêm.

Nhưng tôi cũng nhận thấy có những điều hơi là lạ ở một số nơi:

Người chết được đưa đi đến nơi an nghĩ cuối cùng vào lúc ban đêm, có đèn đuốc để thấy đường, để thấy lối mà đi, thì đó là lẽ tự nhiên.

Nhưng tôi lại cũng hơi ngạc nhiên, là vì có khi quan tài được mang đi giữa ban ngày, mà vẫn thấy có những bó đuốc dẫn đường.

Lại còn bất ngở hơn nữa, là khi mọi việc lo cho người chết đã xong, cho dù vẫn còn là đêm tối, nhưng không một ánh lửa nào được đốt lên, để rồi mọi người cứ cực khổ, mãi phải lần mò dò dẫm trong trong bóng đêm dầy đặt, khi trở về nhà.

Điều ngạc nhiên này có người đã giải đáp như sau:

- Việc đưa người chết đến nơi an nghĩ cuối cùng, thì dù ngày hay đêm, củng đều cần có bó đuốc dẫn đường, để người chết biết đường mà đi đến nơi mình đến.

Còn việc những người làm xong nhiệm vụ chôn cất, thì cho dù ban đêm, vẫn không được phép có một ánh lửa nào để soi đường về nhà, là vì sợ người chết sẽ lần theo ánh sáng đó, mà quay trở về phá rối những người còn sống.

*****

Sợ người chết quay trở về, vậy mà có rất nhiều người, sau khi chôn người chết được ba ngày xong , đã quay trờ lại mở cửa mả.

Mà một trong những món đồ người ta đem đến để mở cửa, đó là một cái thang, để cho người chết dùng mà leo lên, khi trở về nhà mình.

Tôi nhận thấy đó là một việc làm vô lý, phi lý vô chừng:

Sợ người chết trở về, nhưng rồi lại tìm phương tiện để cho người chết trở về. Vậy mà trải qua biết bao nhiêu thời đại, rất nhiều người đều thực hiện cái phi lý đó.

*****

Chúa Giêsu nhìn thấy những điều phi lý trong xã hội của Ngài thời bấy giờ (Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23: Giữ tập tục của tiền nhân, rửa tay trước khi ăn), Ngài đã không thể lặng thinh ngồi nhìn những người, mà Ngài thương yêu phải nô lệ cho những điều phi lý đó.

Ngài muốn những việc làm của con người không chỉ là những cử chỉ vô tri, chỉ hình thức bên ngoài, nhưng nó cần phải được thực hiện bằng cả tâm tình thật sự của một con tim nồng cháy bên trong.

Để việc làm có giá trị, thì không hệ tại ở hình thức bên ngoài, nhưng là do tấm lòng, do tâm tình bên trong.

Chúng ta đang sống trong một xã hội gọi là văn minh khoa học, con người luôn chạy đua, tìm kiếm những tiện nghi vật chất cho cuộc sống. Con người luôn tìm những hào nhoáng bên ngoài, dể khoe khoang, để khẳng định chỗ đứng của mình trong xã hội, để rồi khi nhìn lại, họ không còn thấy được con tim của mình đang ở đâu.

Thử nhìn lại xem, biết bao lần chúng ta khó chịu với những người có những hành động và những ý tưởng không giống như mình, thế là, chúng ta tìm đủ mọi thứ lý do để phê bình, để chỉ trích, để phê phán, để kết án họ: nào là vô lễ, không lịch sự, không có giáo dục, kém văn minh, vô đạo đức…. lạc hậu.

Nếu khi đó, có Chúa Giêsu nhìn thấy, thì Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào?

Tôi thiết nghĩ, chắc Ngài sẽ không quá khắc khe như chúng ta đâu.

Phần chúng  ta thì khác, những việc chúng ta làm, được gọi là những việc đạo đức, tốt lành, mà thực chất chỉ là để khoe khoang, để phô trương, để trình diễn… chúng ta lại bắt mọi người phải công nhận, phải làm theo, mà nếu có người nào có ý kiến phê bình, chỉ trích, hay có hành động trái ngược lại, thì chắc là chúng ta không vui, hay tệ hơn nữa, chúng ta tìm mọi cách loại trừ kẻ ấy.

Nếu khi đó có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào ?

Nếu giờ đây, chúng để ra một ít phút để suy tư, để nhìn lại những việc làm đã qua của mình, thì chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy: Đâu là những việc làm phát xuất từ con tim biết yêu thương, còn đâu là những việc làm hào nhoáng, chỉ để thỏa mản những tham vọng, như Chúa Giêsu đã nói: "Từ bên trong con người, mới phát ra những ý tưởng xấu."

Biết bao nhiêu điều vô lý chúng ta đã và đang làm trong cuộc sống, nhưng nào máy khi chúng ta mở mắt để nhìn thấy ?

Trái lại, chúng ta chỉ nhìn thấy những điều người khác làm. Có những lúc chúng ta cho là vô lý, là không đúng, chỉ vì theo ý muốn riêng tư của mình thôi, chứ không hề không theo một nguyên tắc chung nào cả.

Lạy  Chúa,  xin cho con biết hành động theo lương tâm, với một con tim chân thật, để con cũng biết tôn thờ Chúa, không chỉ bằng môi, bằng miệng, mà còn bằng cả con tim biết yêu thương, đúng như Thiên Chúa mong chờ nơi con. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 4: Chuyện một Rabbi Do Thái trong một nhà tù

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 619)

Bạn thân mến,

Có một Rabbi Do Thái, tên là Agiba, bị giam trong một trại tù ở Rôma. Ông rất trung thành với lề luật và truyền thống tổ tiên để lại.

Tù nhân vẫn được cho ăn uống tử tế và đầy đủ, nhưng chỉ một thời gian ngắn, sức khoẻ ông lại bị giảm sút nghiêm trọng.

Sau một thời gian theo dõi, giám thị trại giam đã tìm ra được nguyên nhân:

Lý do đơn giản, là vì phạm nhân đã dùng hầu hết số nước được cấp phát, thay vì uống, thì lại dùng để rửa tay trước khi ăn. Do đó, cơ thể ông ta đã thiếu nước một cách trầm trọng.

Vị Rabbi Do Thái này đã cương quyết tuân thủ lề luật bằng bất cứ giá nào.

*****

Giai thoại trên do tác giả Barlay kể lại, dẫn chúng ta đi vào bối cảnh câu chuyện được thánh Marcô trình thuật trong Tin mừng hôm nay (Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23):

Những người biệt phái đã tỏ ra rất khó chịu, khi thấy các môn đệ Đức Giêsu dùng bữa, mà không rửa tay trước.

Đối với họ, phải giữ lề luật cách cẩn trọng và tỉ mẩn, con người mới trở nên công chính và thánh thiện.

Câu trả lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải canh tân nội tâm, để thực hiện những giới luật của Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ tỏ ra xơ cứng, chỉ thỏa mãn trên việc thực thi lề luật cách máy móc, theo hình thức bên ngoài.

*****

Kiểu cách của những ngưởi biệt phái đã bị Chúa kết án xưa kia, coi chừng vẫn còn đang tiếp diễn nơi từng mỗi giáo dân, nơi anh em linh mục và tu sĩ chúng ta ngày nay:

- Chúng ta giữ ngày Chúa nhật bằng việc lê xác tới nhà thờ cho có lệ, nhưng tâm hồn vẫn để ở đâu ở đâu.

- Chúng ta vẫn ăn chay kiêng thịt vào ngày hội thánh buộc, bao tử có thể trống rỗng và đói cồn cào, nhưng tâm hồn lại chất đầy hận thù và tham lam bẩn thỉu.

- Chúng ta đến nhà thờ đấm ngực thật mạnh và cùng đọc với mọi người thật to: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi.., nhưng vừa bước chân ra bên ngoài, là chúng ta lại đấm ngực người khác, bằng những chỉ trích, kết án, phê phán hết người này, đến người kia.

*****

Cha Anthony de Mello, một tu sĩ dòng Tên đã viết một câu chuyện khá ý nghĩa như sau:

Một ông vua nọ chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu.

Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già, khuôn mặt nhợt nhạt, xanh xao, áo quần lôi thôi, lếch thếch.

Nhà vua dừng xe lại và trịch thượng chào vị tu sĩ, với giọng điệu mỉa mai:

“Xin chào ông tu sĩ. Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”.

Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào.

Một lát sau, vỉ tu sĩ ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ:

“Thần xin cám ơn bệ hạ, còn bề tôi thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh”.

Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn, cũng chẳng giận, lại còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?.

Vị tu sĩ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn thấy ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh”.

Nói xong vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi, còn nhà vua đứng chết lặng.

Lạy Chúa, xin nhắc cho nhớ rằng: Luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa, đó là yêu thương.

Xin nhắc nhở con cố gắng làm mọi sự, chỉ vì mến Chúa và yêu thương anh em. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 5: Chuyện đồng tiền vàng duy nhất cuối cùng

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 620)

Bạn thân mến,

Tại một vương quốc nọ, ngày thành hôn của hoàng tử, cũng là ngày hoàng tử đăng quang lên nối nghiệp Tân Vương.

Hôm ấy Tân Vương và tân hoàng hậu ngự trên một ngai hoa lộng lẫy, do bốn con ngựa bạch kéo đi oai vệ, giữa đại lộ, tiến vào cung điện.

Hai bên đường dân chúng đông đảo giăng hàng đón rước, vừa phất cờ, vừa đàn ca xướng hát.

Xe ngựa vừa tiến đến công trường trước cung điện nhà vua, thì bỗng mọi tiếng đàn hát đều trở nên im bặt, mọi người nín thở nhớn nhác nhìn xem, kìa giữa công trường, trên đoạn đầu đài, một tội nhân đang sẵn sàng lãnh án tử hình, đầu của tội nhân đã kề sẵn dưới lưỡi dao khổng lồ, chỉ còn đợi một hồi trống, là đầu hắn sẽ rời khỏi cổ.

Kinh hoàng trước cảnh tượng hãi hùng đó, hoàng hậu nức nở khóc, giơ tay khẩn khoản xin Tân Vương ân xá cho tội nhân.

Ðể an ủi hoàng hậu, Tân Vương xin quan tòa ân xá cho tội nhân, như món quà, nhân dịp lễ thành hôn của vua.

Nhưng phép vua thua lệ làng, quan tòa vẫn cố chấp từ chối.

Một vệ quân đến gần thưa với Tân Vương, là theo thói quen rất cổ xưa của thành phố ấy, thì bất cứ tội nhân nào đều có thể chuộc mạng sống mình, với điều kiện là phải trả một giá rất cao là 1,000 đồng tiền vàng.

Quả là một số tiền khổng lồ, làm sao có thể tìm đủ số tiền đó được.

Lập tức Tân Vương dốc cạn túi tiền và tìm được 800 tiền vàng, hoàng hậu cũng đổ hết cái ví đẹp trên tay và thêm được 50 đồng tiền vàng nữa.

Tân Vương quay sang hỏi quan tòa:

- Với 850 đồng có đủ để chuộc sinh mạng một tội nhân chăng?

Quan tài vẫn phân khăng khăng không chịu, đòi cho đủ 1,000 đồng theo luật cũ.

Nghe vậy, hoàng hậu liền bước xuống xe và bắt đầu cuộc lạc quyên giữa hàng quý tộc, cũng như giữa thường dân, họ đếm được tất cả là 999 đồng tiền vàng, chỉ còn thiếu 1 đồng duy nhất.

Hoàng hậu lên tiếng hỏi:

- Phải chăng, chỉ vì một đồng tiền, mà người này phải chết ư?

Quan tòa vẫn khăng khăng lạnh nhạt đáp:

- Luật là luật, không có miễn trừ cho ai cả.

Một tia sáng lóe lên trong tâm trí hoàng hậu tốt lành.

Bà ra lệnh: Hãy tìm trong túi tội nhân, có thể hắn còn có đồng nào chăng.

Lính xử vâng lời, và quả thực, trong túi của tội nhân có 1 đồng tiền vàng duy nhất, đồng tiền còn thiếu để chuộc chính sinh mạng của hắn.

*****

Bạn thân mến,

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn mỗi người một viên ngọc quý, một đồng tiền vàng, có đủ giá trị để cứu vãn đời sống mình, đó là tình yêu, là tấm lòng tốt, là khát vọng hạnh phúc.

Nhưng tiếc thay, nó khác nào như cái bóng đèn tắt lịm, chỉ cần một que diêm, một tia lửa, cũng đủ thắp sáng lên lại.

Ðồng tiền vàng đó còn có thể ám chỉ quyền tự do lựa chọn của bạn. Bạn có thể tự chọn cho mình sự sống hay sự chết.

- Thiên Chúa tạo dựng con người với trí thông minh và quyền tự do.

- Thiên Chúa ban cho mỗi người ơn Thánh và mọi cơ hội cần thiết để được cứu rỗi.

- Nhưng Ngài cũng tôn trọng quyền tự do sử dụng của mỗi người. Ngài không ép buộc ai phải chấp nhận ơn Thánh Ngài ban, để được cứu rỗi.

Cha mẹ, gia đình, những người thân thương, có thể tìm mọi cách để giúp đỡ ta, nhưng không ai có thể lựa chọn, hoặc sống thay cho ta được.

Họ có thể ban tặng ta 999 đồng tiền vàng, nhưng đồng tiền cuối cùng vẫn là ở trong tay mỗi người.

Lạy Chúa, Chúa cư xử với mỗi người chúng con thật tế nhị biết bao:

Chúa biết rõ Phêrô sẽ chối Chúa, Giuda sẽ phản bội bán Chúa với giá 30 đồng bạc, nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương và kén chọn họ, cho đến giờ phút cuối cùng.

Chúa vẫn tận tình yêu thương mọi người:

- Phêrô đã nhận ra tình thương trong ánh mắt của Chúa.

- Trái lại, Giuda đã cố chấp, thất vọng, ra đi vào con đường hư mất.

Xin Chúa hãy khơi lại ngọn lửa tình yêu của Chúa trong chúng con, những khi nó bị tắt ngủm.

Xin giúp chúng con biết giữ lửa tình yêu Chúa cháy sáng trong chúng con. Nó là niềm hy vọng, là đồng tiền vàng cuối cùng cần thiết, để cứu vãn sự sống của chúng con.

Lạy Chúa, xin đừng để con đánh mất đồng tiền vàng duy nhất, là niềm hy vọng và cậy trông vào tình thương vô biên của Chúa. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 6: Chuyện người phụ nữ khác thường tại sân ga

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 621)

Bạn thân mến,

Buổi trưa, tại sân ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi, đang mướt mồ hôi, để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình.

Trên khuôn mặt của người phụ nữ ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động từ xa đến tỉnh này.

Chị đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga, như để tìm kiếm một thứ gì đấy, nhưng sau đấy, lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.

Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị một cái nhìn ái ngại và thương cảm.

Thế nhưng không ai có ý định dừng lại, để giúp đỡ chị. Đặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ: nếu đi chậm lại, thì chắc chắn người đàn bà đó sẽ níu họ lại để lạy lục, để nhờ vả việc gì đó.

Một người phụ nữ ăn mặc, trông có vẻ sang trọng nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình: “Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền, hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình, để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi, bằng những câu chuyện vừa dài, vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi, mà lau xong thì mình không dám xin lại, hay như mượn bình nước uống, rồi tu ừng ực, thì vài ngụm đã hết veo. Đúng là một người nhà quê !”

"Xin chào… xin…"

Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu, nhanh chóng lảng ra chỗ khác.

Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát.

Đi đến toa nào, chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương, và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi…”

Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì khoát tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa, vội lấy tờ báo che mặt, giả vờ ngủ.

Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản, xót xa nghĩ: “Mình đâu phải là một tên ăn cắp mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ ?”

Chị lại rảo qua các toa tàu, nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình.

Đúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo.

Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú, dường như không để ý đến bất cứ chuyện gì xung quanh.

Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói: "Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không ?"

Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc, rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ: "Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ ?"

Người phụ nữ gật đầu: "Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc thì lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê, nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi trở về quê không ?"

Vừa nghe xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó.

Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ: "Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê, nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay, thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy nhé !"

Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn”.

Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ.

Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói: "Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em để về".

Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi: "Thế còn cậu thì sao ?"

– "Số tiền em vừa đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không còn xa lắm, nên em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em lại mớ tiền lẻ nào !"

Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa cho chị chính tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng xuống khỏi toa tàu và đến quầy bán vé.

Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi: "Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à ?"

Chàng trai lắc đầu: "Không, chị ạ !"

Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói: "Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát…"

Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai: "Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi !"

Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nổi tiếng.

Để đi tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt 3 ngày qua.

Chị nói rằng: “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch, khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng.

Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra rằng: Tìm được một người thật sự tốt trong cuộc sống xô bồ này, quả là khó.

Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, không hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa.

Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất, là cậu ấy có được cái "tâm".

Có cái "tâm" trong cuộc sống, thì mới có cái "tâm" trong công việc được.

Đấy là thứ mà công ty chúng tôi đang rất cần”.

*****

Các bạn thấy đấy,

Một tấm vé, để đổi lấy cả một sự nghiệp sáng lạn.

Có thể nhiều người nghĩ: đây chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó, lại có tính tất yếu của nó.

Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy.

Không phải ngẫu nhiên, mà anh ta có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế, mà điều quan trọng là anh đã biết chia sẻ chữ ‘tâm’ của mình cho mọi người xung quanh.

Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật mà tôi đã nghe được từ giám đốc của tôi.

(nguồn: saigonecho.com ).

*****

Đọc câu chuyện trên nghe vọng lại lời thơ của thi hào Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Trong trường đời, trái tim lại quan trọng hơn cái đầu.

Sống ở đời và giao tiếp với người đời, "được việc" mà thôi chưa đủ, còn phải "được người" nữa.

Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người, không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật, mà là văn minh của tình thương.

Tâm nghĩa là trái tim, biểu tượng của tình yêu.

Chữ Hán tượng hình, nên nét bút vẽ ra hình trái tim.

Có lẽ từ xa xưa, có ai đó cỡ thần y Hoa Đà, Biển Thước đã phẫu thuật cơ thể con người, thấy tỏ tường trái tim nên mới viết, mới vẽ được bức tranh chữ đẹp như vậy.

*****

Trang Tin Mừng hôm nay (Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23) kể lại cuộc tranh luận giữa Ðức Giêsu và nhóm Pharisêu về vấn đề sạch và dơ.

Nhóm Pharisêu bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch, cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân, chén dĩa...

Ðức Giêsu nói: đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.

Luật lệ chỉ là hình thức, để diễn tả tấm lòng. Cái tâm mới quan trọng.

Bởi vì dơ, hay sạch, là do tự cõi lòng. Nếu lòng dạ xấu xa, thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy, cũng chỉ là giả hình.

Đức Giêsu cho thấy cái ô uế thực sự, không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ, là nằm ngay trong cái tâm mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ bên trong ra.

Đức Giêsu kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ cõi lòng: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế.

*****

Hàng ngày, chúng ta xem Tivi, thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa... Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể... nhưng đều là bề ngoài.

Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến phẩm chất của những thức ăn và thức uống... Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng.

Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.

Nhưng xem ra, người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong, cái tâm của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội.

Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu hãm mình kiêng khem để tạo vẻ đẹp tâm hồn.

Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu, hơn là trái tim.

Người ta cho rằng: cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó, người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi, hơn là những đứa trẻ tốt.

Tương lai của công việc và nghề nghiệp rất cần đến tấm lòng.

Kết quả của lối giáo dục về một nền văn minh khoa học, kỹ thuật như ngày nay, là rất cần và rất có hiệu quả, nhưng cũng tạo nên một xã hội rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn nữa.

“Thế giới tri thức đã thình lình tái khám phá ra rằng: con người là nơi chỗ của sự xung đột. Marx đã tìm thấy sự xung đột trong xã hội, Kierkegaard tìm thấy trong linh hồn, Heidegger tìm thấy trong con người, và những tâm lý gia, thì tìm thấy trong tâm trí” ( x. Bình an trong tâm hồn, Đức Cha Fulton J. Sheen ).

*****

Đối với Đức Giêsu, cái tâm mới là yếu tố quyết định.

Từ cái tâm tốt, mới có những hành vi yêu thương cao thượng.
Từ cái tâm xấu, sẽ phát sinh ra tội lỗi thấp hèn.

Tâm, nói lên nhân cách của một con người:

- Tâm xấu xa sản sinh ra những suy nghĩ xấu, chọn lựa xấu, lời nói xấu, hành động xấu.
- Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngả đảo điên.
- Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
- Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
- Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
- Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá…
- Tâm tốt lành luôn nở hoa nhân đức.
- Tâm nở hoa yêu thương, nên không có bóng dáng hận thù nào.
- Tâm nở hoa bác ái, nên luôn quan tâm giúp đỡ người khác.
- Tâm nở hoa phục vụ, nên nhiệt thành làm việc thiện nguyện vô vị lợi.
- Tâm nở hoa khiêm nhường, nên luôn biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình.
-,Tâm nở hoa tha thứ, nên không cầm giữ bất cứ một xúc phạm nào người khác gây ra cho mình.
-,Tâm nở hoa hòa bình, nên chỉ biết kiến tạo sự hiệp nhất, vun trồng tình thuận hòa.
-,Tâm nở hoa xây dựng, nên không khi nào phá đổ các công trình chân thiện mỹ của những người thành tâm thiện chí.
- Tâm nở hoa công chính, nên can đảm khước từ những gì đi ngược với công bình bác ái, không tham lam những của bất chính.
- Tâm nở hoa chân thật, nên dứt khoát loại bỏ các thứ dối trá, gian tà.
- Tâm nở hoa ánh sáng, nên cố gắng bước ra khỏi bóng tối của tội lỗi, không ẩn mình trong cám dỗ của ma quỷ, không để chúng giam hãm, nô lệ hóa mình.
- Tâm nở hoa cao thượng, nên biết nâng mình lên trên mọi ti tiện tầm thường, không tính toán nhỏ nhen, không cư xử theo lối tiểu nhân.
- Tâm nở hoa vui mừng, nên biết đem lại niềm vui an ủi cho những kẻ buồn sầu, tủi phận, khóc than cho định mệnh nghiệt ngã, cho tương lai đen tối, cho đường đời thử thách.
- Tâm nở hoa hạnh phúc, nên luôn sống bình an và chan chứa niềm vui.

Sự thánh thiện hệ tại nơi cái tâm.

Lời dạy của Đức Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta phải lo tu tâm, dưỡng tánh, để luôn có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, tôn trọng công lý, yêu thương mọi người.

Khi đã có cái tâm tốt, thì những việc làm sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa, vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. Xin cho quả tim con đủ lớn, để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở, để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.

Lời nguyện RABBOUNI

------------------------------------------

 

Bài 7: Hellen Keller, một nhân tài vừa bị mù, lại bị câm điếc

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 622)

Bạn thân mến,

Nữ văn sĩ Hellen Keller (1880-1968) nổi tiếng của Hoa Kỳ ở thế kỷ XX, là một người khuyết tật: vừa mù, vừa câm, lại điếc. 

Thuở nhỏ, vì không thể nhận biết các âm thanh, nên cô không phát âm được, cho dù thanh quản và miệng lưỡi của cô vẫn hoạt động bình thường.  Cô thường hay nổi loạn và phá phách, nhất là trong những bữa ăn. 

Gia đình mướn nhiều gia sư để kềm cặp, dậy dỗ cô, nhưng chẳng ai chịu đựng nổi được tính tình của cô bé này.

Đến năm 7 tuổi, nhờ sự kiên nhẫn của cô giáo Anne Sullivan, mà Hellen học nói bằng ngôn ngữ dành cho người câm điếc, đánh vần trên lòng bàn tay. 

Lần đầu tiên Hellen phát âm được chữ “wa” - “ter”  (water: tiếng Anh nghĩa là nước), cô thật sự sung sướng, vì có thể giao tiếp được với thế giới bên ngoài. 

Dần dần, cô học đọc học viết bằng chữ Braille dành cho người khiếm thị. 

Sau đó, cô tiếp tục học lên đại học, và trở thành nhà văn.

Hellen Keller tâm sự rằng: bị câm điếc thì khổ hơn bị mù rất nhiều, vì bị câm điếc không nghe được, không nói được, nên mình không hiểu người, mà người cũng không hiểu mình. 

Người ta dễ cảm thông với người mù hay người què cụt, hơn là với người câm điếc, vì người câm điếc bề ngoài trông không giống người tàn tật.  Chỉ khi nào tiếp xúc với họ, ta mới biết họ cô đơn lẻ loi đến chừng nào.

Những người lần đầu tiên ra nước ngoài sinh sống, hay học tập, đều có một kinh nghiệm tương tự như bà Hellen Keller.  Vì không quen với ngôn ngữ mới, thì có tai cũng như điếc, có miệng như câm: nghe không hiểu, nói không được. Không nghe được, không nói được cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Hàng rào ngôn ngữ đã tạo khoảng cách, làm ta cảm thấy cô đơn và lẻ loi.

*****
Trong câu chuyện tin mừng hôm nay (Mc 7, 31-37), Đức Giêsu đi về vùng của dân ngoại, miền Thập Tỉnh, là vùng của mười thị trấn (dekapolis) ở phía đông sông Giođan. 

Ở đó, Ngài đã chữa lành cho một người điếc và ngọng. 

Có lẽ câu chuyện này cũng tương tự như bao câu chuyện khác chúng ta đã từng nghe. Nhưng điểm làm chúng ta phải chú ý nhất, là cách chữa bệnh của Đức Giêsu. 

Có một chút gì đó là lạ trong cách Ngài chữa bệnh lần này:

-  Thay vì chỉ đơn giản truyền lệnh, như Ngài đã nói với người phung cùi: “Ta muốn, con hãy được sạch!” (Mc 1,41), hoặc với người bại liệt: “Đứng dậy, vác chõng mà đi!” (Mc 2,11), hoặc với người bại tay: “Giơ tay ra!” (Mc 3,5), hoặc với cô bé con ông chủ hội đường: “Ta-li-tha-kum, dậy đi con! (Mc 5,41),… thì Ngài lại “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”, rồi mới kêu lớn tiếng bằng tiếng Aram: “Ep-pha-ta! hãy mở ra” (Mc 7,33-34). 

Chưa hết, sau khi sự kiện xảy ra là người vừa điếc vừa ngọng ấy nghe được, nói được, thì Ngài lại “truyền bảo họ không được nói với ai” (Mc 7,36).  Úp úp, mở mở, bí bí, mật mật, không giống như thái độ của vị tôn sư danh tiếng vang lừng.

Thế thì tôi phải hiểu câu chuyện Maccô ghi lại như thế nào đây? 

Đức Giêsu không phải là một pháp sư làm ma thuật, nhưng là một thầy thuốc đến chữa lành. 

Có lẽ Đức Giêsu phải kéo người khuyết tật ra riêng, để tránh óc hiếu kỳ của đám đông. 

Ngài chạm lấy đôi tai, cái lưỡi của người điếc và ngọng ấy, để gợi ý cho anh ta biết rằng: anh rất có thể được chữa lành.  Đây là cách duy nhất, Ngài có thể tiếp cận được với anh ta. Vì nếu Ngài có nói, thì anh ta cũng không nghe được, Có ra hiệu anh ta cũng không hiểu. 

Nhưng với một cử chỉ thân tình, Ngài chạm đến anh, để anh được chữa lành:  Xỏ ngón tay vào lỗ tai, để anh hiểu rằng anh sẽ được nghe, chạm tay vào lưỡi, để anh biết rằng lưỡi anh sẽ được tháo cởi. 

Xỏ tay vào tai và chạm tay vào lưỡi để anh thấy rằng: Tình yêu chẳng phải lời nói suông, nhưng được thể hiện qua hành động. 

Và tình yêu đó cho đi nhưng không, không cần ghi công, không cần tán tụng. 

Việc chữa lành của Đức Giêsu cho người điếc và ngọng ở vùng Thập Tỉnh diễn tả lời ca của ngôn sứ Isaia, khi nói về triều đại của Thiên Chúa (Is 35, 4-6). 

Khi mắt người mù được mở, tai kẻ điếc được nghe, khi kẻ què nhảy cẫng lên và người câm cất tiếng hát, là hình ảnh của một thời đại của lòng thương xót, của chữa lành và hoà giải. 

Khi Đức Giêsu nói Ep-pha-ta, “Hãy mở ra”, Ngài đang khai mở một thời đại mới, xoá đi sự phân biệt đối xử, xoá đi hàng rào ngăn cách giữa Israel và dân ngoại. 

Khi đến với kẻ tật nguyền, Ngài lấp đi hố sâu mặc cảm, nối kết lại truyền thông giữa người và người.

Có thể chúng ta và nhiều người khác ngày nay không bị điếc bị ngọng về mặt thể lý, nhưng bị điếc, bị ngọng về mặt tinh thần:

- Khi tôi bỏ ngoài tai những giáo huấn của Tin Mừng, của giáo hội,

- Khi tôi cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác, mà làm những điều xằng bậy, không biết hổ thẹn, là tôi đang bị điếc.

- Khi tôi không dùng miệng lưỡi để nói những lời yêu thương và chân thật, đem lại bình an và hoà thuận, mà lại dùng miệng lưỡi để bỏ vạ cáo gian, nói những lời dối trá, xuyên tạc, gây chia rẽ hận thù, là tôi đang bị ngọng. 

- Khi tôi giả điếc làm ngơ, trước những bất công của xã hội, trước những tệ nạn nhan nhản chung quanh,

- Khi tôi im lặng thoả hiệp với sự dữ, an phận với quyền lợi nhỏ nhoi của mình, thì tôi có tai mà chẳng nghe, có lưỡi mà chẳng nói.

Trong một xã hội, mà con người vẫn chưa bình đẳng về nhiều mặt, mơ ước bình đẳng là điều chính đáng. 

Nghèo đói, kỳ thị, bất công, phân biệt đối xử, dễ làm cớ vấp phạm cho nhiều người. 

Trước những nghịch cảnh của cuộc đời, khi người nghèo bị bỏ rơi, phụ nữ bị buôn bán, người khuyết tật bị lợi dụng, người liêm chính bị bịt miệng, những bào thai vô tội bị phá huỷ, đất đai bị cưỡng đoạt, cơ sở thờ tự bị di dời, để cho một thiểu số tham lam trục lợi,… thì người Kitô hữu không thể dửng dưng cho rằng: đây là chuyện của xã hội, để người khác lo, còn mình, mình chỉ lo phần thiêng liêng của mình thôi.

Chúa Giêsu luôn trân trọng những người bệnh hoạn, tật nguyền và luôn bênh vực những mẹ góa con côi. 

Là những người theo Chúa, chúng ta có trách nhiệm phải yêu thương họ và tỏ tình liên đới gắn bó với họ. 

Thói thường, người ta hay trọng giầu, khinh nghèo, tham danh vọng, bỏ nhân nghĩa. 

Chính thánh Giacôbê đã nhắn nhủ tất cả những người tin vào Chúa Giêsu đừng đối xử thiên vị, đừng tham phú, phụ bần, đừng phân biệt giầu nghèo, bởi vì những người xem ra kém may mắn, khó nghèo, lại được Chúa hứa ban nước Trời. (Gc 2, 5).

Hôm nay Lời Chúa thách đố chúng ta: hãy để Chúa Giêsu mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. 

Nói cụ thể hơn, có một cử chỉ rất quen thuộc, mà mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta đều thực hiện. 

Đây là lúc nghe công bố Tin Mừng thí dụ như “Bài trích Phúc âm theo thánh Maccô,” và chúng ta đáp lại: “Lạy Chúa, vinh danh Chúa” và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực.  Đấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong: “Hãy mở ra.”  Ý muốn nói: Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói Lời của Chúa. 

Một cử chỉ rất quen thuộc, nhưng vì quá quen nên dễ bị xem thường.

Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá, chúng ta ý thức được: Tôi phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để thoát khỏi cảnh câm điếc.

Ước gì hôm nay, chúng ta được chính Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi cảnh điếc và ngọng, để có thể lắng nghe những thao thức của con người trong thời đại chúng ta, và cất tiếng nói thay cho những kẻ thấp cổ bé miệng. 

Im lặng trước bất công là đồng loã với tội ác. Cho dù những lời của chúng ta chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, chúng ta vẫn có thể thực hiện lời nói đó bằng những hành động cụ thể để tỏ lòng yêu thương và gắn bó với người nghèo, thất học, bị xâm phạm, bị bỏ rơi.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Amen. (Lm. Nguyễn Công Đoan).

------------------------------------------

 

Bài 8: Chuyện Vua Chosroes và những viên ngọc giả

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 623)

Bạn thân mến,

Truyện kể rằng:

Vua Chosroes, nước Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống của mình. 

Sau khi bình phục, vua triệu tập các cận thần và hỏi họ:  "Trẫm muốn biết những gì các khanh đang chờ đợi nơi trẫm. Các khanh có nghĩ rằng trẫm là một quân vương tốt không?  Đừng sợ, cứ nói lên hết sự thật, trẫm sẽ thưởng cho mỗi người một viên ngọc quí". 

Thế là các quan thay nhau lên tiếng ca ngợi vua. Người nào cũng tìm những lời tốt  đẹp nhất khen lao tâng bốc vua.

Khi đến lượt Elim, vốn là một người khôn ngoan và chính trực, ông tâu:  "Thưa bệ hạ, thiết tưởng thần nên giữ thinh lặng thì hơn, vì sự thật không thể mua bằng tiền bạc". 

Vua tuyên bố:  "Được. Trẫm sẽ không thưởng cho ngươi vật gì cả.  Nào, hãy nói những gì khanh đang suy nghĩ trong lòng". 

Elim thưa:  "Tâu bệ hạ, vì bệ hạ muốn biết những điều hạ thần đang nghĩ trong lòng.  Hạ thần nghĩ rằng bệ hạ cũng chỉ là người, như mọi người khác, cũng có những lầm lỗi và tật xấu. Nhưng những lầm lỗi và tật xấu ấy lại đè nặng trên dân chúng, vì siêu cao thuế nặng... Thần nghĩ rằng bệ hạ đã tiêu xài quá nhiều, để tổ chức tiệc tùng, để xây cất dinh thự, và nhất là để theo đuổi chiến tranh".

Nghe những lời ấy, nét mặt vua bỗng trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Rồi vua sai tặng cho các cận thần mỗi người một viên ngọc như đã hứa. 

Riêng Elim thì được bổ nhiệm lên chức tể tướng.

Ngày hôm sau, các quan nịnh bợ trở lại triều  đình tâu vua: "Tâu bệ hạ, kẻ nào bán ngọc quý cho bệ hạ đáng phải treo cổ.  Những viên ngọc ấy toàn là ngọc giả". 

Bấy giờ vua lên tiếng: "Trẫm biết đó toàn là ngọc gỉả, cũng như những lời tâng bốc giả dối của các ngươi".

*****

Tin mừng theo Thánh Marcô (Mc 8:27-33) cũng tường thuật việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Người ta bảo Thầy là ai?" 

Các ông lần lượt thưa:  "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác thì nói đó là một tiên tri" (27-28). 

Nhưng Chúa Giêsu chưa hài lòng về những câu trả lời đó, Ngài đã thấu rõ lòng các ông thế nào rồi, chẳng cần phải nói ra, nhưng để các ông khám phá Ngài là ai trong cuộc sống các ông, nên Ngài hỏi tiếp: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" 

Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô" (29). 

Vì được trời cao mạc khải, nên Phêrô đã trả lời đúng.

Tuy nhiên, trong thâm tâm của Phêrô và các môn đệ, cũng như những người Do thái thời đó đều mong ước một Đấng Kitô đến để giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị của Rôma, làm cho nước Israel nên cường thịnh. 

Một Đức Kitô họ nặn ra theo ý họ, hơn là một Đức Kitô do Thiên Chúa Cha sai đến. 

Vì thế, khi Chúa hé mở cho các môn đệ thấy Ngài lên Giêrusalem và phải chịu đau khổ nhiều, phải chết đi rồi sống lại, Phêrô đã kéo Ngài ra ngoài can ngăn.

*****

Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ xưa, Ngài cũng muốn hỏi từng người chúng ta hôm nay. 

Chúng ta không thể chỉ trả lời theo như điều chúng ta học biết trong sách vở hay nghe người khác nói. 

Nếu như thế, chúng ta theo Chúa chỉ mới hời hợt mà thôi. 

 Nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhận thức: Ngài là ai, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. 

Vậy để trả lời đúng, chúng ta phải sống như Ngài đã sống. Chúng ta phải Kitô hoá đời sống mình, nghĩa là phải cố gắng tập nhìn bằng mắt của Chúa, nghe bằng tai của Chúa, nói năng bằng miệng của Chúa, hành động bằng tay của Chúa, suy tưởng và phán đoán bằng tâm trí của Chúa. 

Nói cách khác, phải xin Chúa cho tinh thần Ngài thấm nhập vào mọi hành vi cử chỉ của chúng ta. 

Thế nhưng  để nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải siêng năng chiêm ngắm cuộc  đời Chúa Kitô, Đấng đã tận hiến mình trọn vẹn cho Cha, hoàn toàn vâng phục Cha’ đến nỗi sẵn sàng chết và chết một cách nhục nhã đau thương trên thập giá, để làm trọn ý Chúa Cha.

Lạy Chúc Giêsu, chúng con nài xin Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, xin ban tràn đầy Thánh Thần cho mỗi người chúng con,  để soi sáng và hướng dẫn lòng trí chúng con, luôn biết theo sát gương của Chúa, trong từng giây phút của cuộc sống, nhờ đó, chúng con thực sự đáng được gọi là Kitô hữu, là người bạn thân của Chúa, đáng được hưởng vinh phúc Thiên Đàng đời đời sau này bên Thiên Chúa. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 9: Chuyện ghen tương của một nhân tài

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 624)

Bạn thân mến,

Những ai đọc tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đều biết đến nhân vật Chu Du.

Ông là một vị tướng giỏi, túc trí đa mưu, nhưng lại có tính ghen tương, đố kỵ.

Đối thủ của Chu Du là Gia Cát Lượng.

Khi bị thua trận cách bẽ bàng, trước khi hộc máu miệng và chết, Chu Du đã thốt lên câu cảm thán và câu này đã trở thành kinh điển: “Trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng!”.

Thật là thê thảm cho thân phận một con người, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngó đâu cũng thấy tai hoạ!

Hậu thế không khỏi xót xa cho một nhân tài, mà không thắng nổi tính ghen tương của chính mình.

*****

Ghen tương là sợ người khác hơn mình. Ghen tương có từ khi con người hiện hữu trên trái đất.

Quả vậy, Cain ghen với Aben là em ruột, nên đã ra tay đoạt lấy mạng người em cùng huyết nhục.

Tính ghen tương cũng hiện hữu nơi mỗi con người, ở mọi thời đại, và đó là nguyên nhân gây nên biết bao đổ vỡ, thậm chí án mạng.

Tác giả sách Khôn ngoan (2,12.17-20) đã ghi lại những lời hằn học, đố kỵ, của những người, mà ông gọi là “phường vô đạo”.

Họ ghen tức với những người sống ngay chính, và những người không a dua theo thói sống mưu mô của họ.

Họ bàn mưu tính kế để kết án và giết chết những người công chính.

Các nhà chú giải Kinh Thánh, dưới nhãn quan Kitô giáo, đã nhận ra đây là hình ảnh của Đức Kitô khổ nạn. Người đã cam lòng chịu chết cách bất công, để nêu gương bài học khiêm nhường, kiên nhẫn và phó thác nơi Thiên Chúa, như chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,29-36) là lời loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai của Chúa Giêsu.

Cũng như các ngôn sứ và những người công chính thời Cựu ước, Chúa sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị giết chết, nhưng Người sẽ sống lại.

Lời loan báo này, xem ra không gây chút ấn tượng nào nơi các môn đệ.

Thánh Mác-cô đã làm cho độc giả ngạc nhiên, khi ghi lại cuộc tranh cãi giữa các môn đệ, xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất”, chinh ngay lúc Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn thập giá sắp tới của Ngài.

Người ta đặt câu hỏi:

Làm sao các môn đệ lại vô tâm đến như thế, trước những điều Đức Giêsu vừa nói?

Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương, mà Người sắp trải qua, thì các ông vẫn còn mơ về thời thiên sai huy hoàng, theo nhãn giới rất phàm tục.

Vì vậy, khi nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”.

Trong tâm trí các ông lúc đó, việc bình bầu ai là người lớn nhất, còn đáng quan tâm hơn nhiều, so với những gì mà Thày mình vừa nói về những đau khổ và về thập giá.

 “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.

Đó là lời khẳng định của Chúa, cũng là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này:

Là Thiên Chúa uy quyền, cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình, mặc lấy thân phận con người, để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ.

Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác, để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người.

Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người:

- Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình, thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ.

Chúa Giêsu cũng đã là nạn nhân của sự ghen tương của con người, và Người đã phải chết trên thập giá.

Trong Bài đọc II ,Thánh Giacôbê hôm nay (3,16 – 4,3) đã nói đến sự ghen tương giữa các thành viên trong cộng đoàn tín hữu.

Theo tác giả, ghen tương và tà ý, là nguyên nhân gây nên mọi điều xấu xa.

Điều tác giả đề cập, vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, kể cả trong những cộng đoàn đức tin.

Ghen tương đến, từ việc người ta không bằng lòng với khả năng và vị trí của mình.

Cũng có khi, vì thấy người khác thành công, nên muốn “dìm hàng”, phê phán và hạ bệ người khác.

“Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình”

Lời khẳng định trên đây của Thánh Giacôbê cho thấy, những gì chúng ta làm với thiện ý và với trái tim chân thành, sẽ đóng góp vào việc xây dựng hòa bình nơi trần thế, đồng thời làm cho Vương quốc vĩnh cửu được hình thành ngay trong cuộc sống chúng ta.

“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thày, là đón tiếp chính Thày; và ai tiếp đón Thày, thì không phải là tiếp đón Thày, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thày”.

Thật không ngờ, những việc nhỏ mọn, lại có ý nghĩa cao cả đến thế.

Nhờ những nghĩa cử bác ái đơn sơ, mà chúng ta được gặp Đấng cao cả, là Thiên Chúa và là Cha của chúng ta.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để chúng con nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày, nơi những khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:

- Những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa;
- Những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
- Những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
- Những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: "Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta",

Lạy Chúa, xin giúp con tích cực thực hiện những suy tư, mà Chúa vừa gợi ý cho con hôm nay. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 10: Chuyện pho tượng quý

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 625)

Bạn thân mến,

Một ni cô nọ, có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng này lắm, đi đâu cô cũng mang theo.

Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng phật, nhưng cô lại dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt.

Lúc đốt hương trước tượng phật của mình, ni cô không muốn cho làn khói hương bay sang các tượng khác, cô xoay trở làm sao để cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình.

Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô, vì đón nhận khói hương mỗi ngày, nên mũi tượng trở thành đen xì, xấu xí.

*****

Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên chuyện nhỏ mọn, khó coi.

Trong Tin Mừng hôm nay (Mc 9, 37-42. 44. 46-47), chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các tông đồ.

Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ nói riêng với người đồng đạo, người Công Giáo.

Nhưng các tông đồ chưa thấm nhuần bài học này.

Chúng ta thấy chính Gioan, một tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu đã phát biểu:

“Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cấm anh ta, vì anh ta không theo chúng ta”.

Đọc câu chuyện này, có lẽ ai trong chúng ta cũng đều thấy cái tính hẹp hòi của các tông đồ, không hề thích hợp chút nào với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.

Chúng ta đừng quên rằng: trong thực tế ngày nay, tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi, vẫn bộc lộ trong tư duy của cá nhân, có khi của cả tập thể.

Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu, khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta, mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường.

Những người không phải kitô hữu, mà cũng nhận được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính, mà người Công giáo ra công gắng sức tập luyện, mà vẫn chưa đạt tới.

Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết xả kỷ, vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, nên cho rằng: những hành vi kia, chỉ là vẻ bề ngoài, hoặc giả tạo.

Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những suy nghĩ sai lầm ấy. Người cho các tông đồ thấy rõ:

Ai không chống lại Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm, hay một cơ chế nào.

Giáo lý và Tin Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương.

Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả vấn đề này, bằng kiểu nói khác:

“Thần khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga. 3,8)

Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh cũng ngự xuống trên cả dân ngoại (Cv. 10, 44).

Chúa thông suốt mọi sự, Người đã giải thích cho các môn đệ:

“Không ai vừa nhân danh thầy làm phép lạ, mà lại vội nói xấu Thầy”.

Nghĩa là, có những lúc: Chúa tỏ uy quyền của Ngài trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô.

Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng: những hành động tốt, thì luôn luôn là do Chúa soi sáng, thúc đẩy.

Hiểu như thế, chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí, để hợp tác, để đón nhận bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người, theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra chân lý” (1 Tm, 2, 4)

Lạy Chúa, xin giúp con biết sống quảng đại với hết mọi người, và sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí, để mưu ích cho mọi người.

Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và trên những người đang tìm về với Chúa, để cho “danh Chúa được cả sáng”, để cho mọi người sớm nhận biết Chúa. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 11: Chuyện cây chỗi của nữ tu Bernadette

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 626)

Bạn thân mến,

Chị Bernadette, là người được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều lần, tại hang đá Lộ Đức, Nước Pháp.

Để được ẩn mình ở nơi thanh vắng, chuyên lo việc chay tịnh, cầu nguyện và sống trọn cuộc đời cho Chúa và Đức Mẹ, chị đã thánh hiến đời mình trong chốn tu viện Dòng Kín ở Nevers.

Một ngày nọ, vào năm 1876, một Chị Nữ Tu đưa cho Bernadette xem bức ảnh người ta đã chụp Chị, ở hang đá Lộ Đức trước đây, để xem phản ứng của Chị thế nào.

Đang khi chăm chú nhìn bức ảnh của mình, đột nhiên Chị Bernadette hỏi:

- Người ta dùng cây chổi để làm gì Chị nhỉ?

- Để quét nhà.

- Quét xong, họ để cây chổi ở đâu vậy Chị?

- Để ở góc nhà, sau cánh cửa, chỗ cư trú thường lệ của nó.

- Đời em cũng thế Chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi.

*****

Phần thứ hai của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe (Mc 10, 2-12), sau khi Chúa đã minh xác lập trường của Chúa với những người biệt phái, về mục đích của Hôn Ước, mà Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu, khi tạo dựng con người, người ta đưa các trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu, để được Chúa chúc phúc, nhưng họ lại bị các môn đệ khiển trách, ngăn cản .

Thấy thái độ của các môn đệ, Chúa Giêsu không bằng lòng, nên đã bảo các ông:

"Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những kẻ giống như chúng".

Rồi Chúa còn nhấn mạnh thêm:

"Thật, Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước đó". Rồi Chúa âu yếm ôm hôn chúng và chúc lành cho chúng.

Căn cứ vào thái độ thương mến Chúa dành cho các trẻ thơ và lời quả quyết của Chúa: "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng", cho chúng ta thấy con đường thơ ấu thiêng liêng của Tin Mừng là cần thiết, để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa.

*****

Chính Chúa Kitô đã tự trở nên mẫu gương bé nhỏ, khiêm hạ, cho chúng ta noi theo bắt chước, như một hấp lực lôi cuốn, chinh phục và cảm hóa chúng ta.

Nhiều nơi trong Tin Mừng được Chúa nhắc đi nhắc lại sự khẩn thiết này, khi thôi thúc kêu gọi chúng ta noi theo:

"Các con hãy học cùng Cha, vì Cha dịu hiền và khiêm hạ trong lòng".

Chúa còn tự hạ mình xuống như một người tôi tớ, khi quì xuống rửa chân cho các Tông Đồ tại nhà Tiệc Ly, để như một mẫu gương sống động, có sức đè bẹp tâm trí kiêu căng tự phụ, chỉ muốn trồi mình lên trên kẻ khác, chiếm địa vị ưu tiên, đoạt chỗ nhất trong cộng đồng, vì các ngài luôn tranh dành nhau xem ai là người cao trọng hơn...

Tấm gương ấy đã làm rung động con tim, khuất phục ý chí và cảm hóa tâm hồn các ngài.

Sau khi chiếm được lòng cảm mến sùng mộ, Chúa mới lên tiếng âu yếm nhắn nhủ:

"Hỡi các con nhỏ của Thầy, các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì rất phải. Thầy có như vậy thật; vậy nếu Thầy là Chúa và là Thầy, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy bắt chước mà rửa chân cho nhau".

Vậy:

"Ai trong các con là Thủ Lãnh thì hãy tự hạ làm tôi tớ mọi người; cũng như chính Thầy đã không đến để được người ta phục vụ, nhưng để trở nên tôi tớ, phục vụ mọi người và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28).

Thánh Tông Đồ Phaolô đã đề cao mẫu gương khiêm hạ của Chúa Cứu Thế, khi viết cho các Tín Hữu Giáo Đoàn Do Thái trong bài đọc hai hôm nay: "Anh chị em thân mến, Đấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần là Đức Giêsu Chúa chúng ta" và "Người đã không hổ thẹn gọi chúng ta là anh chị em của Người", mặc dầu chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi.

*****

Để đạt tới đích Thánh Thiện của ơn gọi đặc biệt, được Chúa tuyển chọn và thánh hiến cuộc đời chúng ta cho Chúa. Vậy chúng ta hãy sống theo con Đường Thơ Ấu của Tin Mừng Chúa đã dạy và nhất là hãy sống theo mẫu gương khiêm hạ Chúa đã thực hiện.

Mặc dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, toàn năng, thánh thiện, Chúa đã nhập thể làm người, mặc xác phàm nhân như chúng ta, trở nên con thơ bé nhỏ, làm con Đức Trinh Nữ Maria, là một thụ tạo chính Ngài tạo dựng. Sống cuộc đời làm con, hằng suy phục Mẹ, như một người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Mẹ.

Thánh Montfort đã ngây ngất, sung sướng kêu lên, trước tấm gương khiêm nhu bé nhỏ của Chúa Cứu Thế và cái diễm phúc của các linh hồn bé thơ được Chúa hài lòng:

"Ôi linh hồn nào noi theo gương mẫu Chúa Giêsu trong sự thuần phục Mẹ Maria, thì làm vinh danh Chúa đến chừng nào!" (T.T.S.K.M.)

Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình.

Xin Chúa thương luôn trợ giúp, để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người, nhờ đó nhiều người sẽ nếm cảm được tình yêu thương của Chúa. Amen.
------------------------------------------

 

Bài 12: Chuyện xỏ kim cho bà ngoại

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 627)

Bạn thân mến,

Khi còn bé, cái thú nhất của tôi là được bà ngoại nhờ xỏ chỉ cho bà, mỗi khi bà may vá.

Vì tuổi già, mắt kém, nên bà không thể, hoặc khó lòng xỏ những sợi chỉ qua chiếc lỗ kim nhỏ xíu.

Mỗi lần như thế, tôi phải lấy lưỡi liếm, vê tròn cho nhọn đầu sợi chỉ, rồi mới cẩn thận xỏ qua lỗ kim.

Và phần thưởng, mà bà dành cho tôi, là lời khen: “Thằng này khéo tay và mắt sáng thật”.

Nay, thì mắt của tôi đã không còn sáng như xưa, bởi 2 lần giải phẫu võng mạc, 1 lần thay võng mô, 2 lần tẩy mộng mắt. Tất cả gồm 5 lần giải phẫu mắt.

Tuy vậy, tôi vẫn còn nhìn được lỗ kim, và do đó, tôi đoan chắc rằng: không thể nào một con lạc đà, lại có thể lọt qua được lỗi kim được.

Đây cũng là một nhận xét phù hợp với lý luận và tri thức của con người.

Tóm lại, sự hiểu biết thông thường, không cho phép tôi tin rằng: một con lạc đà lại có thể chui lọt qua lỗ kim.

Nhưng điều mà trí khôn con người và khả năng con người không chấp nhận ấy, lại vẫn còn là một so sánh, có thể dùng để dẫn đến một kết luận khác, còn khó hiểu và khó chấp nhận hơn:

“Lạc đà chui qua lỗ kim, còn dễ hơn người giàu có vào Thiên Đàng” (Mc 10: 25).

Chúa có bất công và kỳ thị người giầu không?

Như vậy, thì trên Thiên Đàng chỉ toàn là những người nghèo khó, khố rách, áo ôm thôi sao?

Người giàu, nếu không ở trên Thiên Đàng, thì ở đâu?

Thế nhưng, nếu đọc kỹ Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng: Chúa chỉ hứa nước trời cho những người nghèo:

“Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về những người ấy” (Mt 5:3).

Vậy, “tâm hồn nghèo”, hay cái nghèo theo Phúc Âm là thế nào ?

Người nghèo tiền của, nghèo danh vọng, nghèo sức khỏe, nghèo tài năng, không phải là những người nghèo thật sao?

Chúa Giêsu, khi dùng từ ngữ giàu có, hiển nhiên Ngài nhấn mạnh đến của cải vật chất, tài nguyên, và tiền bạc như trường hợp người thanh niên, mà Máccô đã ghi:

“Người ấy, khi nghe những lời đó xong, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10: 22).

Nhưng, khi Ngài dùng đến chữ nghèo, không những Ngài nói đến sự túng thiếu vật chất, mà đặc biệt, Ngài còn có ý đề cao tinh thần nghèo.

Vì chỉ có tinh thần nghèo, mới làm nên giá trị của cái nghèo Phúc Âm.

Nghèo, mà có thể mua được Nước Trời.

Cái nghèo làm nên sự khác biệt: giữa những người tham lam, chôn bám vào vật chất, và những người thanh thoát, vượt trên những ràng buộc của vật chất.

Thật vậy, tuy Chúa hứa Nước Trời cho những người nghèo, nhưng chắc chắn không phải ai nghèo cũng được vào Thiên Đàng.

Rất nhiều người nghèo một cách miễn cưỡng:

- Nghèo, mà ham.
- Nghèo, mà vẫn còn đi Las Vegas.
- Nghèo, mà vẫn còn hy vọng vào vé số Lotto.

- Nghèo, mà vẫn còn đi cày hai job, rồi làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm quên luôn cả Chúa Nhật.

- Nghèo, mà thấy ngứa mắt, khi nhìn người khác lái chiếc xe mới mua ở dealer về.

- Nghèo, mà thấy khó chịu với người bạn mới mua căn nhà 5 phòng ngủ, 2 lầu….

Những người như thế thì sao gọi được là nghèo?

Đúng ra, họ là những người rất giàu có và sung túc. Một sự giầu có của lòng ham muốn và ước muốn vật chất.

Đối với họ, nếu hoàn cảnh đưa đẩy bắt họ phải chịu cảnh nghèo, thì chỉ là chuyện xui xẻo, bất đắc dĩ. Cái nghèo bị bắt buộc.

Đó là cái nghèo của một người nọ, anh có một cái giường, mà anh cho là quý. Anh không dùng nó, nhưng cất kỷ vào một góc của garage, bạn bè thấy vậy đã đề nghị, nếu không dùng hoặc không cần đến, anh nên cho những người nghèo khổ, bệnh tật, đang cần đến cái giường, hơn là để ở một xó, choán chỗ, và sẽ bị hư hao theo thời gian. Nhưng anh đã từ chối, mặc dù anh biết là anh sẽ chẳng bao giờ cần đến nó nữa.

Thực tế cũng đã chứng minh, là nhiều người nghèo, mà lòng đầy tham lam vô độ:

- Những giấc mơ giầu sang, đã làm cho nhiều người tan gia, bại sản, mất đi luôn những gì họ có tối thiểu. Họ là những con nợ, vì cờ bạc.

- Những người nghèo mạt rệp: Nghèo đến nỗi phải bán luôn chiếc xe, chiếc đồng hồ đeo tay, hoặc cầm cố căn nhà của mình, để mong làm giầu trên chiếu bạc.

Con số những người nghèo kiểu này không phải là ít.

Cũng có những người nghèo trí tuệ, nghèo kiến thức.

Tiếc là, trong nhiều và rất nhiều trường hợp, họ không nhận mình kém và cần được học hỏi, được nâng đỡ.

Ngược lại, họ là những người rất ưa khoác lác, khoe khoang, chuyên lo phê bình, chỉ trích, hoặc bắt bẻ người này, người khác.

Một hình thức nghèo khác, là nghèo quyền lực: Những cuộc chiến đó đây, những cảnh tranh giành ngôi thứ, mà ta gọi là trò chơi chính trị, đang hằng ngày diễn ra trước mắt mọi người.

Sự tham lam quyền lực này, là căn nguyên đưa đến những cuộc chiến tranh đẫm máu, đưa đến cái chết của hàng triệu truệu sinh linh.

Và sau cùng, nghèo đói dục vọng và đam mê. Hậu quả cái nghèo này, là gia đình tan vỡ, hạnh phúc hôn nhân tan vỡ, luân lý và đạo đức suy đồi.

Tận cùng của những nghèo đói ấy, là thái độ con người không bằng lòng với chính mình.

Không khiêm nhường đủ để nhận ra những giới hạn của mình, và sống với chính mình.

Hình ảnh cuộc chiến giữa Satan và con người. Giữa cuộc sống bình thản, hạnh phúc và những sục sôi, tham lam của vườn Địa Đàng ngày xưa, vẫn luôn luôn tái diễn.

Người ta vẫn như Evà hôm xưa, muốn biết lành và biết dữ. Muốn bằng Thiên Chúa. Muốn vượt quá giới hạn của mình.

Tinh thần nghèo của Phúc Âm, do đó, là một thái độ dứt khoát và loại bỏ mọi hình thức nô lệ, và làm tôi tiền bạc, giầu sang, hoặc danh giá, là những thứ được ban cho từ bàn tay Thiên Chúa, nhưng con người lại cứ tưởng do tài năng mình, do khôn ngoan của mình, và do sức lực mình mà có.

Tất cả những thứ đó, Thiên Chúa muốn con người đặt dưới chân Ngài, trong bàn tay quan phòng của Ngài, để không vướng bận nào có thể làm cản bước chân họ trong hành trình đi về nhà Cha. Đó là sống tinh thần nghèo Phúc Âm.

*****

Tóm lại, cốt lõi của chữ nghèo và đời sống nghèo theo tinh thần Phúc Âm, không hẳn là sự đói khổ, túng thiếu, và chật vật về kinh tế và vật chất.

Chúa Giêsu đã dạy con người cầu xin “hằng ngày dùng đủ” trong Kinh Lạy Cha, điều này chứng tỏ: Cha trên trời luôn quan tâm, lo lắng và không muốn con cái mình phải nghèo đói, túng thiếu; nhưng nó cũng nói lên rõ ràng ý Ngài là không muốn con người quá lệ thuộc hoặc chôn bám vào những của cải vật chất.

Nghèo tâm linh hay tinh thần nghèo, còn là thái độ sống bằng lòng với chính mình, khiêm tốn, đơn sơ, và hạnh phúc với những gì mình đang có.

Một người ý thức như vậy, chấp nhận như vậy, và sống như vậy, là một người hạnh phúc, một người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm.

Người ấy, không những luôn được bằng an, vui sống với chính mình, mà hơn thế nữa còn chiếm hữu được Nước Trời, bởi vì họ luôn có Thiên Chúa ở trong tâm hồn, và trong cuộc sống của họ.

Mà đã có Chúa là có Thiên Đàng. Họ không cần phải đợi đến đời sau, hoặc vất vả tìm kiếm lối để vào Thiên Đàng.

Không cần phải tìm cách chui qua lỗ kim, như con lạc đà để vào Thiên Đàng. Vì Thiên Đàng ở đây, ngay trong tâm hồn họ:

“Hởi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn hơn người giàu có vào Thiên Đàng” (Mc 10:25).

Lạy Chúa, chúng con biết rằng: sống đúng theo Lời Chúa dạy thì quả là rất khó, nhưng chúng con tin rằng: nếu loài người không thể được, thì Chúa lại làm được mọi sự:

Xin Chúa giúp con luôn biết sống theo tinh thần nghèo khó của Tin mừng, để con có được Chúa là gia nghiệp, là Thiên Đàng của con ngay từ đời này. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 13: Mù và sáng mắt, ai mới là người bất hạnh

Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 628

Bạn thân mến,

Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, thì ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”.

Dĩ nhiên, bản thân người mù, họ cảm thấy bất hạnh thật, vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.

Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai, chưa chắc ai đáng thương hơn ai.

Có khi, vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà.

- Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình, giết người…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù đâu. Họ toàn là những người sáng mắt đó chớ.

- Trong số những dân làng chơi, cuồng quay nơi các vũ trường, ngập nghiện ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”…  ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào, bên cạnh những người mắt sáng ở đó không?

- Trước vành móng ngựa, xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy. Họ toàn là những người có cả hai mắt đều tỏ, đều tường!!!

- Và nếu ta thắp đuốc, đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng, vì nơi đó, chỉ thấy toàn là những người có đủ cả hai mắt.

Vậy thì, ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng?

Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan hãy cho rằng: người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh, không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.

*****

Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay (Mc 10, 46-52), ta thấy Bar-ti-mê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường, bên ngoài thành Giê-ri-cô.

Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng, anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được, từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư, giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ, nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế, trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bar-ti-mê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai.

Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Na-za-reth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia.

Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh.

Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh một ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là xin cho được sáng mắt.

Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho người mù bẩm sinh, thì anh đã không xin Ngài điều này.

Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà, là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá, như vùng bắc cực đâu.

Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy, với những thực tại vô hình.

Bởi đó, người ta bảo rằng: người mù thường cảm nhận rất sâu xa, về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén, trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại.

Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bar-ti-mê hôm nay.

Dẫu chưa một lần được gặp gỡ, hay diện kiến Đức Kitô; cũng chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô.

Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh, vốn đã sáng, nay lại càng sáng tỏ hơn.

Từ đây, đời anh hoàn toàn đổi mới.

Còn hạnh phúc nào bằng?

Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.

Sẽ thật hạnh phúc cho tôi, nếu tôi có đôi mắt thể lý, lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời.

Ngược lại, sẽ thật bất hạnh biết bao cho tô, nếu tôi có đôi mắt thân xác sáng tỏ, nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm ba mươi.

Hãy tạ ơn Chúa, vì Ngài đã ban cho tôi có đôi mắt thể lý, chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa.

Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con, để đôi mắt đức tin của con luôn được tinh tường, sáng suốt.

Đặc biệt, xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng, để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như người ta vẫn nghĩ. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 14: Một vấn nạn của người dự tòng

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 629)

Bạn thân mến,

Có một anh dự tòng đã hỏi một giáo lý viên như sau:

- “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì ?”.

Giáo lý viên đáp:

- “Là yêu thương”.

Người dự tòng là một thanh niên, đang ở tuổi yêu đương, nên đã gật gù, tỏ ra rất tâm đắc với câu trả lời của giáo lý viên.

Nhưng, sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề:

“Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều:
- Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau;
- Những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương;
- và ngay cả những tổ chức không có đạo, cũng dạy người ta yêu thương nhau”.

Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:

1. Vậy thì, đạo Công giáo cũng chẳng có gì hơn những đạo khác, và Người Công giáo cũng chẳng có gì đặc biệt hơn những người không có đạo.

2. Vậy thì, đâu cần phải vào đạo Công giáo, thì mới biết yêu thương”.

Vì một vấn nạn khó, lại bất ngờ, nên giáo lý viên xin khất một thời gian để suy nghĩ và sẽ trả lời sau.

*****

Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng:

- Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim của mọi người, ở mọi thời đại.
- Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức.

Vì thế, không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người, ai ai cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương.

Nhưng, chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta, lại không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao ?

Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời, xuống thế làm người, mà chẳng dạy điều gì hay hơn những điều mà mọi người đã biết hết rồi hay sao ?

*****

Tuy nhiên, nếu đọc lại Tin Mừng cho thật kỹ, chúng ta sẽ thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương, trong Kitô giáo như sau:

1. Chúng ta yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Nhưng Chúa cũng dạy chúng ta phải yêu thương mọi người, yêu như Chúa đã yêu thương chúng ta, và đã làm gương cho chúng ta. Bởi vì yêu, mà Ngài đã dám hy hinh mạng sống, dám chấp nhận cái chết thật nhục nhã, thật đau thương, đề đền tội cho cả nhân loại, cho từng người chúng ta, để tất cả được làm hòa lại với Chúa, được làm con Chúa.

Thánh giá luôn là mẫu gương của tình yêu thương, mà hằng ngày chúng ta cố gắng noi theo, bắt chước.

2. Chúng ta yêu thương những người thân của chúng ta, như ông bà, cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái… Nhưng chúng ta cũng phải coi tất cả mọi người đều là những người thân và yêu thương họ.

Chúa còn dạy chúng ta phải yêu thương những kẻ thù ghét chúng ta, những kẻ làm lại chúng ta, và cầu nguyện cho họ nữa.

3. Chúa còn coi việc yêu thương còn quan trọng hơn của lễ trên bàn thờ.
Chúa dạy

Xin trở lại với câu chuyện ban đầu:

- Giáo lý viên này đã bí, không trả lời được, khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo, là vì giáo lý viên này đã không thấy được ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng,

- Và nhất là, Giáo lý viên này xưa nay đã không thực hiện ba điểm ấy, cho nên mới bí, khi gặp câu hỏi của người dự tòng này.

*****

Nếu bình tâm suy nghĩ một chút, thì chắc chúng ta cũng sẽ như vậy thôi, nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy.

Mà nếu như thế, thì danh nghĩa công giáo của chúng ta, cũng sẽ là vô ích, và chúng ta cũng chẳng hơn gì một người ngoại đạo.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con, để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và để chúng con cũng biết san sẻ tình yêu thương đó cho hết mọi người sống chung quanh chúng con.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn giới luật yêu thương, yêu Chúa và yêu người, như Chúa đã dạy và đã làm gương cho chúng con, nhất là mỗi khi nhìn lên  thánh giá Chúa, chúng con sẽ nghiệm thấy đỉnh cao tuyệt vời nhất của tình yêu thương, mà Chúa đã dành cho chúng con. Amen.

------------------------------------------

 

Bài 15: Ba cuốn sách giúp cụ già nổi tiếng

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 630)

Bạn thân mến,

Có một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng.

Tuy trình độ văn hóa của ông mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực, như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học...

Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông, để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về các vấn đề cuộc sống.

Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho ý kiến.

Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ: nguyên nhân khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc.

Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ đã trả lời như sau:

"Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học...

Hằng ngày, tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách, mà bất cứ ai cũng có thể đọc được:

- Cuốn sách thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người.

- Cuốn sách thứ hai là những việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm, sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ.

- Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành hằng ngày. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế".

*****

+ Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta: Đúng như ông lão có kiến thức uyên bác trong câu chuyện trên đã nói:

"Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta, mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều kỳ diệu ấy".

Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa, là do đã không biết mở mắt ra để nhìn xem, mở tai ra để lắng nghe, mở lòng ra để đón nhận, mở trí khôn ra để khám phá và thi hành theo thánh ý Chúa.

"Ép-pha-ta": Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng, mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình người với tha nhân.

+ Xin Chúa mở miệng lưỡi chúng ta: Trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7, 31-37), Đức Giê-su đã chữa một người vừa ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn, khi không thể diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, giống như bị một sợi dây vô hình trói buộc miệng lưỡi, làm cho họ không nói ra được điều muốn nói. Nhiều người thiếu sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu, hay đành nín thinh, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác miệt thị, khinh thường... Ngòai ra còn có những mối đe dọa, buộc người ta phải câm nín, không dám nói ra suy nghĩ trung thực của mình.

"Ép-pha-tha": Xin Chúa mở miệng chúng con, để sẵn sàng làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ do tai nạn, do bị ngược đãi bất công, hay phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.

+ Xin Chúa mở đôi tai chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai, do không nghe được những lời kẻ khác. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày.

Chúng ta thường chỉ lắng nghe điều mình muốn nghe, hoặc dù có nghe người khác nói, nhưng lại chỉ hiểu theo ý rịêng chủ quan của mình. Vì thế, gây ra hiểu lầm, tranh cãi, mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim. Chỉ khi biết nghe bằng trái tim yêu thương, chúng ta mới hiểu đúng và hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng trong lớp vỏ ngôn từ bên ngoài.

"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con, để lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những nỗi đau của tha nhân và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ, với hết khả năng cùa mình.

+ Xin Chúa mở lòng trí chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu cảm thông và đối thoại, vì quá nhiều người đang bị câm điếc tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo giữa đại dương nhân lọai bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, sống khép kín, vì tâm hồn hóa thành sơ cứng, khi không trao tặng cho ai cái gì và cũng không muốn đón nhận của ai điều gì. Cuối cùng con người sẽ chết trong nghèo nàn, về hiểu biết và tình thương.

"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở tai, mở miệng và mở lòng, để chúng con dễ dàng giao lưu với Chúa và với tha nhân, để được biến đổi nên người mới, sống có tình người hơn. Nhờ đó, chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội trở nên thiên đàng tình thương, đúng theo ý Chúa muốn.

Lạy Chúa Giêsu, "Ép-pha-tha!", xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở thành tay chân cho người tàn tật, trở thành đôi mắt cho kẻ đui mù, để con biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho nhưng kẻ ngọng câm, để con trở thành tiếng kêu cho những ai bị áp bức...

Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn sàng mở hầu bao chia sẻ cơm bánh vật chất cho kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho người ốm đau, chia sẻ áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem lại chỗ trú thân cho những kẻ không nhà... Nhất là để con chia sẻ tình thương bao dung của Chúa, để tha thứ, hòa giải với những kẻ đang thù ghét và làm hại con.

Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.
------------------------------------------

 

Bài 16: Ông già Noel không mặc đồ đỏ

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 631)

------------------------------------------

Bạn thân mến,

Hai bố con lái xe xuống khu đô thị, để mua sắm.

Cô bé học lớp 4 hỏi bố:

- Nhiều bạn trong trường nói: không có ông già Noel. Các bạn nói: con là đồ ngốc, khi tin rằng ông ta có thật, nhưng con tin vào những gì bố nói với con, phải không bố?

Xe ghé vào bên lề đường, rồi tắt máy.

Cô con gái bé bỏng vẫn đang ngổn ngang trong đầu bao suy nghĩ.

- Các bạn ở trường đã sai, con yêu ạ! Ông Noel là có thật. Nhưng bố cần kể cho con nghe thêm về ông Noel. Bố nghĩ con đã đủ lớn, để hiểu những gì bố sẽ chia sẻ với con bây giờ (người cha trìu mến nhìn con).

"Ngày xưa, có một người đàn ông đi khắp thế giới, thưởng quà cho những đứa trẻ ngoan hiền trên đường ông đi qua.

Ông được biết đến ở nhiều nơi trên thế giới, với nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tình thương ở trong tim ông thì giống như nhau, dù đến từ bất kỳ ở đâu. Ông chính là tâm hồn yêu thương tuyệt đối và mong muốn chia sẻ tình yêu đó, bằng cách tặng quà, với tất cả con tim của mình.

Khi con đến độ tuổi nào đó, ông Noel thật sự không hẳn phải là người vào nhà bằng ống khói, trong đêm lễ Giáng Sinh.

Tinh thần và cuộc sống thật sự của ông già thần thoại đáng yêu này, mãi mãi nằm trong tim của con, tim của bố, tim của mẹ, cũng như tim của tất cả những người mang lại niềm vui cho người khác.

Tinh thần thật sự của ông Noel, là những gì con mang tặng, thay vì những gì con nhận được.

Khi con nhận thức được điều này và khi nó trở thành một phần trong con, Lễ Giáng Sinh sẽ trở nên thú vị hơn và huyền ảo hơn.

Con có hiểu những gì bố nói không?

Cô bé gật gù, nhìn hàng cây phía trước. Cô sợ nhìn vào bố, người từng bảo với cô rằng ông Noel là có thật. Cô muốn tin như cô đã tin hồi năm ngoái rằng ông Noel là một ông già vui tính, to béo, mặc đồ đỏ. Cô không muốn phải hiểu khác đi.

- "Nhìn bố này", người bố gọi con và cô bé quay sang nhìn ông.

Người bố khóc, những giọt nước mắt sung sướng. Khuôn mặt ông ngời sáng bằng ánh sánh của cả giải Ngân hà và cô bé như thấy trong mắt ông, đôi mắt của ông Noel.

Ông Noel thật sự, người đã bỏ nhiều thời gian chọn lựa những món quà đặc biệt, mà cô mong ước, trong những mùa Giáng Sinh đã qua, kể từ khi cô có mặt trên đời này.

Ông Noel đã dùng món bánh mì, mà cô đã bỏ công trang trí, cũng như đã uống cốc sữa nóng do chính tay cô pha.

Cô đã nhận ra niềm hạnh phúc, sự chia sẻ, và tình thương.

Người bố ôm ghì con trong vòng tay ấm áp của mình và cứ ôm như thế khá lâu. Cả hai đều khóc.

- Từ giờ thì con đã thuộc về một nhóm người đặc biệt. Kể từ bây giờ, con sẽ được chia sẻ niềm vui Giáng Sinh mỗi ngày của năm, chứ không phải chỉ một ngày trong năm.

- Từ giờ, ông Noel đã sống trong tâm hồn con. Đây là điều quan trọng nhất xảy ra với con, trong cuộc đời mình. Vì bây giờ, con đã hiểu rằng ông Noel không thể nào tồn tại, nếu không có những người như con và bố, những người khiến ông được tiếp tục sống mãi.

Con có thể chu toàn việc này được không?

Tim cô bé muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Cô đáp:

- "Thưa bố, con muốn ông sống mãi trong tim con, cũng như ông đã sống mãi trong tim bố. Con yêu bố. Bố là ông Noel tuyệt vời nhất trên thế giới này."

------------------------------------------

 

Bài 17: Chút kỷ niệm thú vị trong mùa Giáng Sinh

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 632)

Bạn thân mến,

Tháng mười hai, trời ở miền Bắc mưa rả rích, kèm theo cái lạnh như cứa vào da thịt.

Khoảng không gian chật hẹp của căn gác nhỏ nhà trọ, không làm dịu được nỗi buồn và cảm giác nhớ nhà.

Noel này cả lớp tôi lại lên kế hoạch đi chơi, nhưng giờ mẹ vẫn chưa gửi tiền lên. Chắc mùa này, quê mình lại bão lụt nhiều, nên gia đình không thu hoạch được gì.

Sáng qua, mấy đứa cùng xóm trọ, mách nhau chuyện đi làm thêm cho các tổ chức từ thiện.

Mấy đứa rủ nhau đi kiếm việc.

Công việc cũng không nặng lắm, nhưng khá mất thời gian, bởi tôi và Hải, được chọn vào vai hai ông già Noel.

Chúng tôi xuất phát từ nhà lúc 6 giờ tối, và về thì cũng phải sau nửa khuya. Có hôm làm ở trung tâm bảo trợ trẻ em nghèo, có hôm làm ở hội người tàn tật, cũng có khi làm ở các trại mồ côi.

Những ngày cận kề Giáng Sinh, chúng tôi lại càng phải đi nhiều.

Hôm đang đứng ở cổng trường tiểu học vùng ven ngoại thành, trời thì đã khuya lắm rồi, nhưng có một cô bé vẫn chưa chịu về. Bé nhìn tôi chằm chằm, nhưng không dám tiến lại gần.

Tôi bèn tiến đến cạnh bé, và hỏi nhỏ: “Cháu sao vậy?”.

Bé cười, đôi mắt vẫn còn nhiều niềm vui:

“Ông già Noel ơi, có phải những đứa trẻ nào học giỏi, thì mới nhận được quà không? Sáng nay, cháu bị điểm kém môn toán, cháu sợ không có quà”.

Tôi cười nhẹ: “Không đâu, ông cho tất cả. Nhưng nếu cháu nào ngoan thì ông sẽ vui hơn”.

Bé ngạc nhiên, nhìn sang tôi: “Vậy là cháu đã làm cho hai ông buồn rồi à?”.

Bé khóc, những giọt nước mắt nóng hổi, rớt đầy trên tay tôi.

Hình như trong suốt buổi tối qua, vì quá mệt nhọc, mà chúng tôi quên mất nở nụ cười với nhiều đứa trẻ, trong đó có bé.

“Thôi, cháu nín đi. Hai ông già này không buồn đâu, nhưng cháu phải cố gắng hơn nhé”.

Bé cười lên, nhưng đôi mắt vẫn còn ngân ngấn nước:

“Vậy đi phát quà cho trẻ em, hai ông có nhận được quà của ai không?”.

Hải bước tới nói:

“Không, hai ông chỉ đem quà và giúp các cháu thực hiện ước mơ thôi. Là ông già Noel rồi thì cần gì nữa”.

Bé đi lại gần tôi, lại gần Hải: “Cháu tặng quà cho hai ông nhé”, rồi hôn nhẹ nhàng lên má của chúng tôi.

Hai đứa cứ ngớ người ra, nhưng vẫn không quên nở nụ cười với bé, trước khi bé đi mất.

*****

Cảm giác ấm áp lan tỏa trên má tôi, rồi tràn sang cả người.

Một chút vị ngọt ngào, xen lẫn niềm thích thú.

Tôi chợt nghĩ: Chưa bao giờ mình ước gì cho bản thân, hay một món quà gì đó.

Hình như tuổi thơ của tôi đã qua rồi và chuyện ông già Noel đã chìm vào trong quá khứ, cũng đã từ lâu lắm rồi.

Thì ra, không phải cứ mặc bộ trang phục đỏ trắng, phát quà cho trẻ em, là mình đã tròn vai ông già Noel.

Ông già Noel chỉ hiện hữu thật sự, khi chúng ta được giao cảm với nhau.

Sự chia sẻ tình người, không chỉ là những hộp quà phát vội, mà còn là những nụ hôn hồn nhiên và giàu ý nghĩa.

Cảm ơn cô bé dễ thương đã cho những “ông già Noel” làm thuê như chúng tôi một kỷ niệm thú vị trong mùa Giáng Sinh.

Tác giả: Trần Văn Việt

------------------------------------------

 

Bài 18: Những dòng chữ viết trên tường dịp Giáng Sinh

Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình  Bài 633

Bạn thân mến,

Lễ Giáng Sinh đã gần kề, và chỉ còn vài ngày nữa là đón mừng năm mới đến.

Người ta thấy một người mẹ, tỏ ra hết sức mệt mỏi, khi từ cửa hàng trở về nhà, sau một ngày làm việc thật dài, và đầy căng thẳng.

Vừa khi bước vào nhà, với những bước kéo lê thật mệ mõi, và trên đôi tay lại đầy ắp những thức ăn, chuẩn bị cho buổi tiệc Rê-vây-dong (réveillon) tối hôm ấy.

Đang trong tinh thần mệt mỏi, không thoải mái, thì đứa con trai, tên David, đã lên 8 tuổi, vừa trông thấy mẹ, đã xông tới, liên hồi, tíu tít, kể cho bà nghe đủ mọi thứ chuyện xảy ra ở nhà trong ngày, làm cho bà hơi bục mình, nhất những chuyện mà đứa em nghịch ngợm của nó đã làm:

“Lúc con đang chơi ngoài sân, còn bố đang gọi điện thoại, thì Tom lấy bút chì màu viết lên tường, viết lên chính tờ giấy mà mẹ mới dán lên tường, trong phòng làm việc của mẹ! Con đã nói với nó, là coi chừng mẹ sẽ bực mình lắm đó!”

Người mẹ thở dài, có vẻ ngao ngán, rồi nhướng lông mày lên, lên tiếng hỏi:

“Bây giờ nó đâu rồi?”.

Thế rồi, bà bỏ tất cả túi hàng xuống đất tại chỗ, sải những bước thật dài, bước vào phòng của đứa con trai nhỏ, nơi nó đang lẫn trốn.

Bà gọi nó, bằng cả tên lẫn họ của nó.

Ở các nước phương Tây, khi người ta gọi cả tên lẫn họ một lúc kiểu như vậy, là thường biểu hiện sự phẫn nộ và tức giận.

Khi bà bước vào phòng, đứa bé đang run đến chết được vì sợ, bởi nó biết những chuyện ghê gớm, không lành, sắp xảy ra.

Trong 10 phút, người mẹ nguyền rủa, trách móc con cách rất thậm tệ, bởi bà rất trân quí tờ dán tường đó, bởi bà đã phải tiết kiệm thế nào để có được tờ giấy dán tường đó và tờ giấy dán tường giá đắt ra sao!

Sau khi rên rỉ, bà nghĩ  đến những việc cần làm, phải làm, để chỉnh sửa lại tờ giấy đó. Bà liên hồi kết tội con là nghịch phá, là trách không thương mẹ, hay làm phiền mẹ.

Càng mắng mỏ con, bà càng thấy bực mình, cuối cùng bà ra khỏi phòng con. Bởi càng mắng mỏ, càng phiền trách, thì bà lại phát cáu lên đến phát điên!

Rồi bà chạy vào phòng làm việc, để xác minh nỗi lo lắng của mình.

Nhưng khi nhìn lên bức tường, đôi mắt bà tràn ngập nước mắt. Những gì bà đọc được, như một mũi tên xuyên qua tâm hồn bà, là một người mẹ.

Dòng chữ viết: “Con yêu mẹ”, được viền bằng hình một trái tim!

*****

Sau khi đọc những dòng chữ viết và trông thấy biểu tượng nó vẽ, bà ngồi bệt xuống đất, như hối hận về những việc vừa làm, sao quá vội vàng, sao quá hấp tấp, sao quá tàn nhẫn, sao quá nóng nảy với con như vậy ???

Đã qua bao Mùa Giáng Sinh riồi, mà bà vẫn không sao quên được sự nóng nảy, vội vàng… của mình năm xưa, đã làm cho con mình quá sợ hãi, quá đau đớn.

Mỗi mùa Giáng Sinh về, và bà lại tự nhắc nhớ mình bài học này: Hãy bình tĩnh, đừng khó tính và cáu gắt với những đứa con của mình, hãy dành một chút thời gian, để đọc những dòng chữ viết trên tường!

------------------------------------------

Những sách cha Mễn đã in (59 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (6 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên  – Sách 6

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (13 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề  được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 13

13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (26 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 13
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (6 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6


----------------------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây