Cầu Cần Thơ bị sập là một thảm hoạ rất trầm trọng. Trước thảm hoạ này, đã xuất hiện ba thái Bùi-Tuần 1751
Cầu Cần Thơ bị sập là một thảm hoạ rất trầm trọng. Trước thảm hoạ này, đã xuất hiện ba thái độ trong đồng bào: Một là tự hỏi về trách nhiệm theo pháp luật. Hai là tự thức về tình liên đới đối với các nạn nhân. Ba là tự răn mình theo ánh sáng Phúc Âm. Cả ba thái độ đều đáng trân trọng. Ở đây tôi suy nghĩ nhiều hơn về thái độ tự răn mình theo ánh sáng Phúc Âm. Chọn lựa này là một cách sống Phúc Âm theo các dấu chỉ. Tôi rất đau đớn trước thảm hoạ. Tôi không vội quy tội. Tôi hoan nghênh mọi liên đới. Nhưng tôi đi xa, coi đây là một dấu chỉ khuyên răn.
1/ Khuyên răn về sự cần thiết sám hối Phúc Âm thánh Luca kể: “Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Ðức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Ðức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn những người Galilê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy. Cũng như 18 người kia bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội hơn các người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13,1-5). Chúa Giêsu rất thương các nạn nhân. Người đã lợi dụng dịp này để nói về sám hối. Sám hối là điều hết sức quan trọng. Thánh Gioan Tiền Hô đã nhấn mạnh. Chúa Giêsu luôn nhắc nhở. Các thánh tông đồ nhìn đó là bước đầu cần thiết để đón Tin Mừng, Ðức Mẹ ở Fatima coi sám hối là một sứ điệp khẩn thiết để cứu thời đại hiện nay. Hiện nay, các dấu chỉ thôi thúc việc sám hối càng ngày càng tăng. Tôi coi thảm hoạ sập cầu Cần Thơ là một dấu chỉ không nên coi thường. Sám hối cần hồi tâm, đòi khiêm tốn. Sám hối không phải chỉ vì các tội đã phạm, mà còn vì những não trạng xấu, thói quen xấu, nếp sống xấu đã được bình thường hoá.
2/ Khuyên răn về sự cần thiết thực thi Lời Chúa Phúc Âm thánh Matthêu kể lại lời Chúa Giêsu phán: “Ai nghe những lời Thầy nói, mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấp sẽ sụp đổ tan tành” (Mt 7,24-27). Lời cảnh báo trên đây là nghiêm trọng. Nó vang vọng khắp nơi và mọi thời. Thiết tưởng việc thực thi Lời Chúa quan trọng nhất hiện nay là gắn bó với Chúa Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ðáng tiếc là nhiều người vẫn giữ đạo theo kiểu xây nhà trên cát. Nghĩa là không trên nền tảng thực thi Lời Chúa. Hậu quả thực sự rất đau buồn. Chúa thương, nên đã gởi đến nhiều dấu chỉ để cảnh tỉnh. Có người đã đón nhận. Nhưng bao người chưa đón nhận. Thực đáng lo.
3/ Khuyên răn về tính cách bất ngờ Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rằng: “Ðang khi Ðức Kitô ra khỏi đền thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy xem đá lớn thật. Công trình kiến trúc vĩ đại thật. Ðức Giêsu đáp: Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, tất cả đều sẽ bị tàn phá” (Mc 13,1-2). Rồi Chúa nói trước về tính cách bất ngờ của những biến cố Chúa sẽ để xảy ra. Phúc Âm thánh Luca nói về tính cách bất ngờ trong quá khứ, như hồng thuỷ thời ông Noe, như mưa lửa thời ông Lót (x. Lc 17,26-30). Sẽ có những bất ngờ ập tới trong tương lai (x. Mc 13,33-37). Vì thế Chúa Giêsu hay nhắc đến việc phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tiện đây, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm đời tôi. Ðời tôi là chuỗi dài kinh nghiệm về những bất ngờ. Bất ngờ về sự sụp đổ những gì tưởng không thể sụp đổ. Bất ngờ về sự mất mát những gì tưởng không thể mất mát. Bất ngờ về sự phục sinh những gì tưởng không thể sống lại. Bất ngờ về sự đổi mới những gì tưởng không thể đổi mới. Ðời đạo đều có những bất ngờ. Ta cần tỉnh thức. *** Thời sự hiện nay có rất nhiều biến cố đáng suy nghĩ. Ta nên coi đó là những dấu chỉ. Chúa nói qua các dấu chỉ. Biết đọc được ý Chúa qua các dấu chỉ, thiết tưởng đó là một bổn phận đạo đức. Chia sẻ này của tôi thực là bé nhỏ. Nó được viết vội trong tâm tình thương đau thao thức. Như với một quốc nạn. Như trong một quốc tang. Như trước một dấu chỉ. Tôi cầu mong đừng sập niềm tin. Long Xuyên, ngày 27 tháng 9 năm 2007
Một trong những vấn đề đang được bàn tới nhiều hiện nay tại nước ta là vấn đề giáo dục. Cả đời Bùi-Tuần 1752
Một trong những vấn đề đang được bàn tới nhiều hiện nay tại nước ta là vấn đề giáo dục. Cả đời cả đạo cùng rất quan tâm. Vì đây là yếu tố rất quan trọng cho việc phát triển và tồn tại của đất nước và của tôn giáo. Trong bầu khí đó, tôi nhìn vào mình. Tôi xét mình xem nhân tố nào đã ảnh hưởng sớm nhất và sâu nhất trong hành trình giáo dục, mà tôi đã trải qua. Xét đi xét lại, tôi vẫn thấy nhân tố đó là bố mẹ tôi. Các ngài đã dạy tôi những điều đơn sơ. Chính những điều giản dị ấy đã cho tôi những định hướng rõ. Hành trình nền giáo dục công giáo trong tôi đã khởi hành từ việc đón nhận những điều giản dị ấy. Hôm nay, tôi xin chia sẻ như một chứng từ sống động riêng tư.
1/ Trước hết, xin nói về mẹ tôi Từ rất nhỏ, mẹ tôi hay nhắc cho tôi điều này: “Con hãy nhớ Chúa trước mặt con”. “Con hãy tin Ðức Mẹ ở bên con”. Lời khuyên đó đã đi kèm với những việc làm của mẹ tôi. Mẹ dạy tôi làm dấu thánh giá trước khi ăn, trước khi ngủ, trong những hoàn cảnh không biết cậy nhờ vào ai. Mẹ dạy tôi cầu nguyện bằng việc kêu lên Chúa những lời cầu vắn tắt, thốt ra từ đáy lòng. Nhất là mẹ dạy tôi cầu nguyện kinh Mân Côi. Mẹ dẫn tôi đi nhà thờ, để dự thánh lễ. Không phải chỉ lễ Chúa nhật, mà cả những lễ ngày thường, mặc dù phải đi xa và trong đêm tối. Lời khuyên “hãy nhớ Chúa trước mặt con” và “hãy tin Ðức Mẹ ở bên con” đã ảnh hưởng rất nhiều đến ơn gọi của tôi sau này. Ơn gọi của tôi được tóm lược vào mấy điểm sau đây: Chúa đã yêu thương tôi. Chúa đã kêu gọi tôi. Chúa đã thánh hoá tôi. Chúa đã sai tôi đi. Từng điểm và tất cả mọi điểm trên đây đều được sáng lên trong tôi, khi tôi nhận thức: “Chúa ở trước mặt tôi” và “Ðức Mẹ ở bên tôi”. Phong phú nhất là điểm: “Chúa đã sai tôi đi”. Tôi được Chúa sai đi, như người lữ khách và lữ hành tại một địa phương ở Ðất nước Việt Nam này (x. Dt 11,13). Tôi được sai tới những người khác nhau không ngừng di chuyển. Họ di chuyển trong dòng thời gian và trong không gian có những đoạn khác nhau. Tôi được sai đi để giới thiệu đức tin bằng việc rao giảng Lời Chúa và công việc bác ái. Tôi được sai đi vào những giai đoạn phức tạp. Trong đó Chúa và Mẹ dạy tôi hãy nhấn mạnh nhiều nhất đến sự hiện diện có Chúa trong mình. Tôi được sai đi như một người phải biết khiêm tốn nhờ vào người khác, cả trong Hội Thánh lẫn trong xã hội. Tôi được sai đi, như một người tạ ơn vì những khám phá thấy bao sự lạ lùng, Chúa làm trong các tâm hồn. Cho đến hôm nay, lúc tuổi đã già, tôi vẫn sống ơn gọi nói chung và ơn được sai đi nói riêng như một kho báu. Không bao giờ mình được phép cho mình là đã khám phá hết. Có lúc đi trong ánh sáng, có lúc chìm trong bóng tối. Có lúc thành công, có lúc thất bại với bao yếu đuối vụng về. Nhưng tôi luôn nhớ Chúa trước mặt và Ðức Mẹ ở bên tôi. Chúa vẫn cầm tay tôi. Ðức Mẹ vẫn an ủi nâng đỡ tôi.
2/ Cùng với mẹ tôi, bố tôi đã ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc đời của tôi Bố tôi hay kể lại rằng: Ông nội, trước khi tắt thở, đã gọi các con đến bên giường. Nội trối lại ba điều: - Các con hãy chịu khó làm ăn sinh sống một cách lương thiện. - Các con hãy thương yêu nhau và thương yêu đặc biệt những người nghèo túng. - Các con hãy có lòng kính thánh Giuse. Thánh Giuse là quan thầy của những người nghèo khổ. Với những lời khuyên trên đây, bố tôi dạy chúng tôi về những liên đới xã hội. Sống sao cho công bình yêu thương trong mọi liên hệ. Có lần mấy đứa chúng tôi đi câu cá về. Thấy con cá nào hơi to, bố tôi liền hỏi: Câu ở đâu? Nếu câu ở ao không phải ao nhà, thì bố bảo phải đem trả. Nhà chúng tôi nghèo, nhưng không người ăn xin nào tới xin, mà bố để họ ra về tay không. Tối nào, sau lần chuỗi, gia đình cũng đọc kinh thánh Giuse. Thói quen đó đã theo tôi mãi tới bây giờ. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Thánh Giuse luôn cứu giúp kẻ cơ hàn, khi họ biết chạy đến với Người trong cơn gian nan, khốn khó. Bố tôi biết vui trong cảnh nghèo, thích liên hệ với những người nghèo. Ngài coi cảnh nghèo, người nghèo là nơi đào tạo những người biết khiêm tốn đón nhận và biết khiêm nhường cho đi.
3/ Khi nhìn lại khởi điểm nền giáo dục công giáo trong đời tôi, tôi nhận ra gia đình công giáo là một quy tụ nhỏ những hơi thở đầu tiên của đức tin Quy tụ nhỏ đó có ba đòi hỏi này: a) Cần thấy mình có nguồn gốc là siêu nhiên. Từ Chúa, Ðức Mẹ, thánh Giuse, gia đình cảm thấy an vui. b) Cần nuôi một hứng thú về những giá trị cao cả nhưng gần gũi. c) Cần thấy mình phải có ơn Chúa, để giúp mình sớm biết phân biệt cái gì tốt, cái gì xấu, điều gì là đúng thánh ý Chúa, điều gì không hợp thánh ý Chúa. Gia đình là một quy tụ hơi thở ban đầu của đức tin. Từ quy tụ ban đầu đó, tôi bước sang nhiều quy tụ khác, như nhà tu, giáo xứ, giáo phận, Hội Thánh. Tuy với những hình thức khác nhau, mọi quy tụ trên đây đều được tôi coi như các gia đình. Trong đó, tôi được phát triển và thanh luyện. Tất cả đều được dòng tình nghĩa và tinh thần trách nhiệm chảy qua. Tất cả đều có Thiên Chúa là Cha chăm sóc. Tất cả đều có Ðức Mẹ Maria và thánh Giuse phù trợ. Trong tất cả, tôi luôn là người con bé nhỏ. Như vậy, giáo dục công giáo là một hành trình. Một hành trình của nội tâm, của đạo đức, của tâm hồn bé nhỏ nghèo khó tìm cộng tác với Chúa Thánh Thần hoạt động trong lịch sử, một hành trình mà gia đình thường giữ vai trò quan trọng. Long Xuyên, ngày 7 tháng 10 năm 2007
Bài phỏng vấn Ðức Giám mục GB. Bùi Tuần nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam (8-12-1960/8-12-2007) CGvDT:
Ba năm nữa, Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Bùi-Tuần 1753
Ba năm nữa, Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam (8-12-1960/8-12-2010). Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong kỳ Ðại hội lần thứ X hồi tháng 10 vừa qua, cũng đã có những chuẩn bị cho dịp kỷ niệm này. Nhưng trước hết, xin Ðức Cha cho biết đâu là ý nghĩa của việc thành lập một hàng giáo phẩm địa phương? ÐGM. GB. BT: Theo tôi, việc Toà Thánh thiết lập Hàng giáo phẩm công giáo tại một quốc gia mang ý nghĩa của một sự công nhận mức độ trưởng thành nhiều mặt của một Giáo Hội địa phương. Cho nên, thiết lập Hàng giáo phẩm tại một Giáo Hội địa phương là thiết lập một tổ chức mang sự sống vừa hữu hình vừa vô hình; hữu hình về mặt cơ cấu và vô hình về mặt sức sống của Ðức tin. Tổ chức này rất quan trọng cho Giáo Hội địa phương. CGvDT: Và nhìn lại lịch sử của gần 50 năm qua, Hàng Giáo phẩm Việt Nam đã mang sự sống đó một cách đặc biệt, trong một giai đoạn lịch sử khó khăn? ÐGM. GB. BT: Có thể nói như vậy, nhưng tôi nghĩ cũng không phải là không có những yếu tố mang ý nghĩa của hồng ân Chúa. Ngày 8-12-1960, Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thiết lập do Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum của Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Lúc đó Việt Nam đang còn trong tình trạng chia cắt Bắc, Nam. Bắc sống đạo theo tình hình miền Bắc; Nam sống đạo theo tinh thần miền Nam. Cả hai miền Nam Bắc đều có cùng chung một sự sống Ðức tin như nhau, nhưng mỗi bên có hoàn cảnh và đặc điểm riêng của mình. Sau biến cố 30-4-1975, Ðất nước thống nhất, hai miền Bắc Nam của Giáo Hội Việt Nam có thể chia sẻ cho nhau sự sống hữu hình và vô hình của mình. CGvDT: Và biến cố 30-4-1975 cũng là một cột mốc quan trọng về vị trí của Ðức Cha trong Hàng giáo phẩm Việt Nam. ÐGM. GB. BT: Vâng. Biến cố đó cũng là thời điểm tôi được Toà Thánh chỉ định làm Giám mục. Qua việc bổ nhiệm này, tôi được chính thức tham gia vào Hàng giáo phẩm Việt Nam. CGvDT: Là một người trong cuộc, Ðức Cha có nhận định gì về vai trò của Hàng giáo phẩm Việt Nam trong giai đoạn đó? ÐGM. GB. BT: Lúc đó, hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn thay đổi, đặc biệt đối với miền Nam. Có thể nói, rất nhiều tín hữu công giáo hoang mang trước thời cuộc mới. Nhưng Hàng giáo phẩm đã là nguồn ánh sáng soi dẫn cho họ. Hàng giáo phẩm không thay đổi được lịch sử. Nhưng Hàng giáo phẩm giúp cho các tín hữu thay đổi cái nhìn của mình. Cái nhìn được thay đổi không do sáng kiến tự ý, nhưng do nền tảng Kinh Thánh. Hàng giáo phẩm không đưa ra một lúc, nhưng dần dần tuỳ dịp, tuỳ vào những chuyển biến của thời cuộc, nhưng luôn đặt nền tảng trên Tin Mừng của Ðức Giêsu và Giáo huấn của Hội Thánh. CGvDT: Nhìn lại, trong giai đoạn mới mẻ và đầy khó khăn, đó, Hàng giáo phẩm Việt Nam có những khuôn mặt lớn đã góp phần rất quan trọng trong việc đề ra những đường hướng mục vụ cần thiết cho Giáo Hội Việt Nam? ÐGM. GB. BT: Tôi cũng nghĩ như vậy. Và, theo con mắt Ðức tin, chúng ta có thể coi đó là sự quan phòng của Chúa đối với cộng đoàn bé nhỏ của Người tại Ðất nước này. CGvDT: Xin Ðức Cha nêu lên một số những thay đổi cái nhìn mà Hàng giáo phẩm Việt Nam đã giúp cho các tín hữu của mình? ÐGM. GB. BT: Ðã có rất nhiều thay đổi. Nhưng theo tôi, có bốn thay đổi đáng được nêu lên. Ðó là: 1. Sám hối và bám chặt vào Chúa hơn trước. 2. Giới thiệu vinh quang của Chúa một cách khác trước. 3. Thực hiện việc nên thánh một cách khác trước. 4. Tìm nghị lực ở những nguồn khác trước. CGvDT: Xin phép Ðức Cha để đi sát hơn vào bốn thay đổi mà Ðức Cha vừa nêu lên. Trước hết, “Sám hối và bám chặt vào Chúa hơn trước”. Ðây là một thái độ sống Ðức tin của người công giáo phải luôn sống! ÐGM. GB. BT: Ðúng vậy, trước kia người theo đạo có quan tâm đến sám hối, đến đời sống nội tâm. Nhưng sau biến cố 30-4-1975, hai miền đạo Bắc Nam thấy mọi sự xảy tới không như mình tưởng, nên đã quay về với Chúa sâu hơn, trọn vẹn hơn. Họ thực hiện triệt để các lời Chúa Giêsu phán: “Hãy sám hối trở về, vì Nước Trời đã gần” (Mt 4,17); “Nước Trời không đến như điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này, hay: Ở kia kìa, vì này Nước Trời đang ở giữa anh em” (Lc 17,20-21). Tôi còn nhớ những cuộc tĩnh tâm cho linh mục giáo phận sau 30-4-1975. Hoàn cảnh vật chất lúc đó rất eo hẹp, nhưng tất cả các linh mục đều rất sốt sắng. Các ngài chỉ lo cầu nguyện, sám hối, bám chặt vào Chúa. Không đủ giường chiếu, nhiều linh mục trẻ về tĩnh tâm tình nguyện nằm đất. Lúc đó, tôi cảm thấy bầu khí tĩnh tâm chìm ngập trong lửa Chúa Thánh Thần. CGvDT: Và với một thái độ như thế, sẽ dẫn đến thay đổi thứ hai mà Ðức Cha nêu lên: “Giới thiệu vinh quang của Chúa một cách khác trước”, “Một cách khác trước” phải chăng là sự từ bỏ cơn cám dỗ triền miên về quyền và vinh quang bên ngoài mà Giáo Hội thường gặp? ÐGM. GB. BT: Trước đây, nhiều nơi có thói quen giới thiệu vinh quang của Chúa qua những hoành tráng, đắc thắng của Giáo Hội. Nhưng sau khi Giáo Hội Bắc Nam gặp gỡ nhau, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau, Hàng giáo phẩm Việt Nam đã không ngần ngại giới thiệu vinh quang của Chúa được tỏ hiện ở sự khiêm nhường, khó nghèo của Chúa tại hang đá Bêlem và sự hy sinh đau đớn của Chúa trên thánh giá tại núi Canvê. Mọi tín hữu được Chúa gọi hãy giới thiệu vinh quang Chúa qua đời sống khiêm tốn, khó nghèo và hy sinh. Tất nhiên, họ sẽ phải chịu nhiều đau khổ, hy sinh. Nhưng nhờ nhìn lại gương Chúa Giêsu xưa, họ được an ủi và bình an. CGvDT: Từ đó, người công giáo Việt Nam sẽ “Thực hiện việc nên thánh một cách khác”? ÐGM. GB. BT: Trước đây, không thiếu người cứ tưởng nên thánh là phải làm những việc lớn lao. Nhưng hoàn cảnh cụ thể của giai đoạn mới kêu gọi người ta nhớ lại việc nên thánh chỉ đơn sơ là thực thi ý Chúa. “Không phải những ai kêu 'lạy Chúa, lạy Chúa', là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thực thi ý Cha Ta là Ðấng ngự trên trời” (Mt 7,21). Thánh ý Chúa về mỗi người là chu toàn bổn phận bình thường của mình, nhưng một cách khác thường. Lúc đó, “Nước Chúa không phải là chuyện đồ ăn, thức uống, nhưng là công lý, bình an và hoạn lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17). Công lý, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần sẽ đến với ta, khi ta sống Tám Mối phúc. Ðây là những liên đới xã hội rất thường, nhưng rất khó. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, bao người sống Ðức tin trong giai đoạn khó khăn đã thực hiện được. Tôi đã chứng kiến rất nhiều cảnh sống vâng phục thánh ý Chúa trong đời thường. Ðời thường là cuộc sống làm ăn, cuộc sống gia đình, cuộc sống tham gia vào văn hoá và sinh hoạt xã hội, ngay cả những cảnh chịu bệnh tật, chịu oan ức, sỉ nhục. Họ đã vâng phục thánh ý Chúa một cách khác thường, nghĩa là với động lực thiêng liêng cao cả. CGvDT: ...và “Tìm nghị lực ở những nguồn khác trước”? ÐGM. GB. BT: Trước đây, nhiều tín hữu để mình trôi theo trào lưu tìm nguồn nghị lực ở những đối tượng khác nhau như: Thế lực chính trị, thế lực kinh tế, thế lực danh vọng. Nhưng sau những thử thách đau đớn, nhiều người đã tập trung tìm nguồn nghị lực ở cầu nguyện, thánh lễ, suy niệm và phục vụ yêu thương. Nói tắt là lúc khó, họ thực hiện triệt để hơn lời Chúa Giêsu phán xưa: “Hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho chúng con sau” (Mt 6,31). CGvDT: Vâng, nhưng theo Ðức Cha, những “ánh sáng thích hợp” cho tương lai của cộng đoàn Dân Chúa tại Việt Nam sẽ là gì? ÐGM. GB. BT: Tôi không ngần ngại đưa ra một hình ảnh trong Phúc Âm, mà Ðức Thánh Cha Bênedictô XVI đã dùng làm tựa đề cho một cuốn sách của Ngài: “Chúng con hãy là muối của đất” (Mt 5,13). Rõ ràng đất chiếm đại đa số. Muối luôn giữ một địa vị thiểu số rất nhỏ, rất âm thầm. Nhưng nó lại có sức mang lại sự sống cho đất. Người công giáo Việt Nam phải rất mặn về tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân. Chúa muốn như vậy, để họ có thể góp phần đem tình yêu cứu độ cho thế giới hôm nay. Theo hướng suy nghĩ đó, tôi thấy ánh sáng thích hợp cho Giáo Hội Việt Nam hiện nay sẽ là đào tạo người công giáo Việt Nam nên muối của đất. CGvDT: Cuối cùng, là một trong những Giám mục, tuy gia nhập Hàng giáo phẩm Việt Nam chỉ từ tháng 4-1975, nhưng lại là thời điểm khởi đầu của một giai đoạn đổi thay lịch sử quan trọng, và hiện nay đã về hưu và được nhiều người coi là một trong những trụ cột của Hàng giáo phẩm Việt Nam trong giai đoạn sau 1975, Ðức Cha nghĩ gì về vai trò của Hàng giáo phẩm Việt Nam hiện nay? ÐGM. GB. BT: Tôi luôn bé nhỏ. Bây giờ càng nhỏ bé hơn, do tình trạng về hưu và tuổi cao sức yếu. Cảm nghĩ của tôi đối với Hàng Giáo phẩm Việt Nam lúc này là: Mọi người trong mọi địa vị khác nhau đều hiệp thông trong sứ vụ “Kẻ được sai đi”. Là những nhà lãnh đạo, Hàng Giáo phẩm Việt Nam hôm nay luôn cố gắng nhìn sâu trong hiện tại và nhìn xa trong tương lai. Hiện tại không đơn giản. Tương lai không dễ dàng. Với tinh thần trách nhiệm cao, Hàng Giáo phẩm Việt Nam đi lên phía trước trong ý thức sâu xa về mầu nhiệm thánh giá: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Ðức Kitô. Nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta”. Năng động và khiêm tốn, Hàng Giáo phẩm Việt Nam hôm nay luôn làm chứng niềm tin nơi Thiên Chúa giàu lòng thương xót. CGvDT: Xin chân thành cám ơn Ðức Cha về cuộc phỏng vấn này. Long Xuyên, ngày 18 tháng 11 năm 2007
Lễ Noel có muôn màu sắc. Người thì lo mừng lễ. Người thì lo sắm quà lễ. Người thì lo ăn lễ Bùi-Tuần 1754
Lễ Noel có muôn màu sắc. Người thì lo mừng lễ. Người thì lo sắm quà lễ. Người thì lo ăn lễ. Người thì lo thăm bạn bè dịp lễ. Người thì lo đi nghỉ lễ. Người thì lo tổ chức lễ. Ðáng chú ý nhất là dịp lễ này nhiều người lo đến hang đá để có những gặp gỡ. Thực sự, nhiều gặp gỡ đã diễn ra. Nhưng không phải gặp gỡ nào cũng vì mến Chúa. Xưa, khi nghe Ðấng Cứu thế giáng trần, vua Herôde đã nôn nóng muốn gặp Người, nhưng với ý đồ xấu, đó là để sát hại Người. Xưa, dân cư ở Bêlem cũng đã gặp hai ông bà Giuse Maria đi tìm chỗ trọ. Nhưng vì thấy hai ông bà quá nghèo, nên họ đã từ chối đón nhận. Vì thế, kỷ niệm biến cố Ðấng Cứu thế giáng sinh cũng gián tiếp nhớ lại sự kiện Người bị chối từ và bị lùng bắt. Nay, lễ Noel, nhiều người coi như đến tìm gặp Chúa. Nhưng, có người chỉ tìm ngắm tượng ảnh, xem cảnh hang đá đèn sao nhấp nháy. Có người tìm đến hang đá, chỉ để quay phim chụp ảnh. Có người đi tham quan hang đá, chỉ để giải trí, để gặp bạn, để tham gia bầu khí lễ hội, để mua bán, để khoe áo quần. Thậm chí, cũng có người đến hang đá, để chỉ tìm ăn trộm ăn cắp. Thành ra, động lực đến hang đá ngày Noel rất tản mát. Tuy nhiên, số người đến hang đá, do động lực muốn gặp gỡ chính Chúa Giêsu vì tình mến, không phải là ít. Mỗi người có những kinh nghiệm riêng tư về sự gặp gỡ này. Ở đây tôi chỉ đề cập tới ba kinh nghiệm.
1/ Gặp gỡ Chúa trong chính tâm hồn mình, để sống nội tâm Với lòng khao khát, họ nhìn Chúa Giêsu là Ðấng Cứu thế của họ. Họ muốn được gặp Người. Họ cầu nguyện, hồi tâm, dự lễ. Và Chúa đã đến. Chúa đến trong lòng họ. Lòng họ là máng cỏ, mà Chúa ưa thích. Chúa biến đổi họ nên mới. Trong gặp gỡ nội tâm, họ như nghe được hơi thở của Hài nhi Giêsu, họ như thấy được một Ðấng vô hình, họ như nếm được sự ngọt ngào của tình yêu cứu độ, họ như chạm đến được dòng chảy sự sống thiêng liêng. Ngũ quan thiêng liêng của họ bỗng được đánh thức dậy. Họ cảm thấy lời Chúa phán sau đây đang thực hiện nơi họ: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến với họ và ở lại trong người ấy” (Ga 14,23). Việc Chúa đến trong nội tâm mở ra cho nội tâm con người một chiều kích thiêng liêng sâu thẳm. Con người cảm thấy sự hiện diện của một Ðấng yêu thương mầu nhiệm gọi mình. Và họ sẽ trả lời: “Lạy Chúa, Chúa đến gọi con. Này con đây”.
2/ Gặp gỡ Chúa Giêsu để đón nhận ơn bình an Rất nhiều người, lễ Noel, đã gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, và Chúa đã ban cho họ một quà tặng quý giá, đó là ơn bình an. Ơn bình an là ơn được nhắc đặc biệt trong lễ Noel. Những ai được ơn bình an đêm Noel sẽ cảm nghiệm được lời Chúa Giêsu phán hứa sau này: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy. Thầy ban cho các con không như thế gian ban” (Ga 14,27). Có thể nói: Ơn bình an Chúa ban trong lễ Noel sẽ được hiểu cùng với hình ảnh những người chăn chiên khó nghèo bé mọn, nhất là cùng với hình ảnh Hài nhi Giêsu khiêm hạ nghèo khó. Bé mọn, khiêm tốn, khó nghèo, chỉ cậy tin phó thác nơi Chúa. Ðó là nguồn gốc sự bình an Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói về ơn đó nhiều lần sau này. Như: “Thầy bảo thật các con, nếu các con không quay trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3). “Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26). Ðức Mẹ Maria cũng đã đề cao kẻ khiêm nhường, bé mọn. “Chúa nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư” (Lc 1,52-53). Ai nhận thức mình không có gì để tự mãn, không khao khát được giàu có hơn, được hưởng thụ hơn, được uy tín hơn, nhưng ý thức mình nghèo hèn về mọi mặt, chỉ vâng phục ý Chúa, chỉ đợi chờ mọi sự nơi Chúa, người đó sẽ được ơn bình an sâu xa của Chúa ban cho. Ai vui lòng chấp nhận sự mong manh của mình, sự nghèo hèn của mình, sự phục vụ âm thầm và sự chia sẻ bé nhỏ của mình, người ấy sẽ được ơn bình an. Ơn bình an này đòi nhiều phấn đấu.
3/ Gặp gỡ Chúa Giêsu, để biết tham dự vào vẻ đẹp cứu độ Khi gặp gỡ chính Chúa Giêsu trong hồi tâm thinh lặng, người ta sẽ thấy vẻ đẹp cứu độ của Thiên Chúa. Vẻ đẹp đó không phải là những vinh quang lẫy lừng trước quần chúng đông đảo, những cuộc đắc thắng uy phong lẫm liệt đè bẹp quân thù, nhưng là tình yêu với hy sinh. Con đường cứu độ Chúa đã chọn là tình yêu khiêm nhường, là tình yêu hy sinh, là tình yêu gánh đau khổ thay cho nhân loại. Tình yêu cứu độ của Chúa giáng sinh ở Belem là thế. Tình yêu cứu độ của Chúa tử nạn ở Calvê cũng vậy. *** Chia sẻ vắn tắt trên đây cho thấy: Lễ Chúa Giáng sinh là một kho tàng vô tận. Vẻ đẹp cứu độ là từ trên. Ơn bình an là từ trên. Sống nội tâm là từ trên. Ba ơn từ trên đó soi sáng cho thời sự sống đạo hôm nay. Ðạo Công giáo đang và sẽ còn là thiểu số ở Á đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ðiều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng đáng ta phải quan tâm, là mỗi người công giáo chúng ta phải thực sự đạo đức, theo gương Chúa Giêsu trong háng đá Belem. Ðược như vậy, chúng ta mới có thể đi về tương lai lịch sử, với hy vọng góp phần đáng kể vào việc phục hưng và phát triển đạo đức cho Quê Hương Việt Nam chúng ta. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết luôn tỉnh thức, để gặp được Chúa đi vào lịch sử của riêng ta, lịch sử của khắp Hội Thánh, và lịch sử chung của Ðất Nước chúng ta. Long Xuyên, ngày 29 tháng 11 năm 2007
1/ Sách đầu tiên Ðức Cha viết và xuất bản là cuốn nào? ÐGM. BT:
Hồi còn là Ðại chủng sinh, tôi đã viết và được phép xuất bản cuốn: Tôn sùng Ðức Thánh Cha, khoảng Bùi-Tuần 1755
Hồi còn là Ðại chủng sinh, tôi đã viết và được phép xuất bản cuốn: Tôn sùng Ðức Thánh Cha, khoảng năm 1950, tại Nam Ðịnh. Hồi di tản sang Hongkong và vào Nam, tôi không mang theo được cuốn nào. Thời làm Linh mục, cuốn đầu tiên được in ra là cuốn: Nói với chính mình. Thời làm Giám mục, sách đầu tiên được phát hành là: Nói với giáo dân.
2/ Tổng số sách Ðức Cha đã cho in khoảng bao nhiêu? ÐGM. BT: Khoảng trên 10 cuốn. 3/ Ðức Cha có nhận được phản hồi của độc giả không? ÐGM. BT: Có vài phản hồi khuyên tôi không nên viết nữa. Ý kiến đó làm tôi suy nghĩ nhiều. Nhưng vì số ý kiến tán thành, đợi chờ tôi vẫn rất đông. Nên tôi tiếp tục viết. Hơn nữa tôi nghĩ: Hoan nghênh hay chê trách là quyền tự do mỗi người. Còn tôi, tôi sẽ viết theo ơn gọi của tôi.
4/ Ðức Cha coi việc viết sách báo, là ơn gọi của Ðức Cha? ÐGM. BT: Ðối với tôi, tôi coi việc đó là một cách loan báo Tin Mừng, là một cách làm mục vụ.
5/ Ðức Cha có muốn nhiều Linh mục viết sách báo như Ðức Cha không? ÐGM. BT: Nói chung, viết sách báo là việc không phải hễ muốn là làm được. Phương chi viết về tôn giáo. Tất nhiên tôi rất muốn có nhiều linh mục viết về đạo. Nhưng cần có khả năng và say mê phục vụ.
6/ Ðể viết một bài báo, thường Ðức Cha bỏ ra bao nhiêu thời giờ? ÐGM. BT: Tuỳ đó. Viết ra thì tương đối mau, còn trước đó thời gian suy nghĩ và cầu nguyện thì lâu.
7/ Ðức Cha soạn bài bằng đánh máy hay viết tay? ÐGM. BT: Luôn luôn bằng viết tay. Nên nhiều khi tay đau và lưng nhức. Vì phải ngồi bàn viết lâu.
8/ Ðức Cha có hay đọc các sách báo do các linh mục viết không? ÐGM. BT: Có. Nói chung, tôi thích đọc những tác phẩm có hồn, và sát với cuộc sống. Ngoài sách báo đạo, tôi vẫn thích đọc những tác phẩm văn và thơ có những hình ảnh về nông thôn, nông dân, nông nghiệp. Cách riêng là về đồng bằng sông Cửu Long, nơi đã đang nâng đỡ tôi, và tôi rất gắn bó.
9/ Hiện tại, với tuổi tác và sức khoẻ yếu, Ðức Cha thích viết về đề tài nào? ÐGM. BT: Ðã lâu rồi, tôi luôn ý thức tôi đang đi về nhà Cha. Nên dù thức dù ngủ, tôi chỉ mơ ước dùng thời giờ còn lại, để chia sẻ những kinh nghiệm và những hoài niệm. Mơ ước quá bé nhỏ. Nó sẽ thành đạt tới mức nào, chắc chắn không chỉ tuỳ thuộc vào thiện chí của tôi, mà còn tuỳ thuộc vào nhiều điều kiện, nhất là lòng thương xót của Chúa. Dù sao, mơ ước này có lúc sẽ phải mờ đi và chấm dứt với sự suy tàn và ra đi của tôi. Ngay bây giờ, tôi xin hết lòng cảm ơn quý độc giả thân yêu xa gần. Long Xuyên, ngày 13 tháng 12 năm 2007
Long Xuyên, ngày 28 tháng 7 năm 2008 Kính gởi Anh Nguyễn Thanh Long Báo Công giáo và Dân tộc.
Tôi mới đọc cuốn “50 năm nhìn lại” của Linh mục Trương Bá Cần, do Công giáo và Dân tộc Bùi-Tuần 1756
Tôi mới đọc cuốn “50 năm nhìn lại” của Linh mục Trương Bá Cần, do Công giáo và Dân tộc tặng. Sách nói về dĩ vãng gần của Việt Nam, trong đó một thiểu số mang tên phong trào tiến bộ đã muốn góp phần nhỏ vào những chuyển biến của Công giáo tại Việt Nam. Sách viết công phu. Ở đây tôi không phê bình. Tiện dịp, chỉ xin trình bày vài tư tưởng, tôi đã dùng làm thước đo, để nhận ra điều gì là tiến bộ của một nếp sống đạo. Tất cả đều được rút ra từ Công Đồng Vatican II, trong Hiến chế mục vụ “Giáo Hội trong thế giới ngày nay”. 1/ Phục vụ trong yêu thương “Nhớ lại lời Chúa 'Nếu các con thương yêu nhau, thiên hạ sẽ cứ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy' (Ga 13,35). “Người Kitô hữu không thể tha thiết mong ước gì hơn là luôn luôn phục vụ con người trong thế giới ngày nay một cách quảng đại và hữu hiệu hơn. Không phải những ai nói “Lạy Chúa, lạy Chúa, sẽ được vào Nước Trời. Nhưng chỉ có những ai thực hiện ý Chúa Cha” (Mt 7,21) và can đảm làm việc. Thực thế, Chúa Cha muốn chúng ta nhận Chúa Kitô là anh cả trong tất cả mọi người và yêu mến Người cách cụ thể bằng lời nói cũng như bằng việc làm. Như vậy, chúng ta làm nhân chứng cho chân lý và truyền thống cho những kẻ khác mầu nhiệm của Chúa Cha trên trời” (Hc. Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 93). Nhìn nhận Đức Kitô trong tất cả mọi người và yêu mến Người một cách cụ thể. Đó là điều không phải mọi người công giáo Việt Nam đã thực hiện. Nhưng số người thực hiện không phải là quá ít. Họ đang phục vụ quê hương một cách can đảm trong sáng, làm chứng không phải cho một Giáo Hội quyền lực và đắc thắng, mà là cho một Giáo Hội phục vụ và hoà giải. Họ đáng gọi là người công giáo tiến bộ, với ý nghĩa cao đẹp của từ tiến bộ. 2/ Đưa phục vụ yêu thương vào nền văn hoá dân tộc “Trung thành với truyền thống riêng và đồng thời ý thức sứ mệnh phổ quát của mình, Giáo Hội có thể hoà mình vào nhiều hình thức văn hoá khác nhau, nhờ đó, chính Giáo Hội và các nền văn hoá ấy đều được phong phú hơn” (Hc. Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 58). Đưa tình yêu Phúc Âm vào nền văn hoá dân tộc trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là một việc làm tiến bộ. Chúng ta đang thấy sự kiện đó nơi không ít người công giáo tại Việt Nam, dù họ ở mức độ trí thức nào. Nền văn hoá dân tộc vốn đậm đà yêu thương phục vụ. Bác ái Phúc Âm chỉ có thể được đón nhận vào đó, khi có thực chất yêu thương, khiêm nhường, quảng đại và vị tha. 3/ Phát triển toàn diện con người từ tiềm năng nội tại “Các dân tộc đang phát triển cần phải chú tâm nhiều đến việc theo đuổi sự phát triển toàn vẹn cho người công dân. Một cách rõ ràng và cương quyết, họ phải theo đuổi việc phát triển này như mục tiêu của sự tiến bộ. Họ phải nhớ rằng sự tiến bộ phát sinh và gia tăng trước hết là ở sự làm việc và tài nghệ của chính dân tộc mình, nghĩa là sự tiến bộ không chỉ căn cứ vào viện trợ của ngoại bang, nhưng tiên vàn căn cứ vào việc khai thác đầy đủ những tài nguyên của xứ sở cũng như vào việc phát triển văn hoá và truyền thống riêng của mình (Hc. Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 86). Phát triển toàn diện con người, cả mặt đời mặt đạo với những tiềm năng nội tại một cách tự trọng và khôn ngoan, đó là một việc tiến bộ, vừa hợp Công Đồng vừa hợp tinh thần dân tộc. Nhiều người công giáo Việt Nam đang thực hiện điều đó trong nhiều lãnh vực. Khó khăn không ít. Nhất là khi phong trào thực dụng ngoại bang đang tràn vào cả đạo cả đời tại Việt Nam ta. Tôi thấy những gì Công Đồng Vatican II dạy trên đây vừa là xã hội vừa là tôn giáo. Có một cái gì rất tâm linh, với nhiều phấn đấu và đớn đau. Tới được đó là tiến bộ. Tiến bộ này đòi một tinh thần cầu nguyện ngoan ngoãn với ơn Chúa Thánh Thần. Tương lai Giáo Hội Việt Nam sẽ tốt đẹp nhiều hay ít là tuỳ ở những bước tiến bộ về: - phục vụ yêu thương, - đưa bác ái Phúc Âm vào nền văn hoá dân tộc, - phát triển toàn diện con người với tinh thần tự hào dân tộc chính đáng. Giống như một của lễ hiến dâng sống động.
Chúa nhật thứ IV sau Phục sinh được chọn là ngày cầu cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.Khi nói về Bùi-Tuần 1757
Chúa nhật thứ IV sau Phục sinh được chọn là ngày cầu cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Khi nói về việc cầu cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, chúng ta thường hiểu thế này: Xin Chúa thương ban cho Hội Thánh nhiều linh mục và tu sĩ thánh thiện. Nghĩa là chúng ta nghĩ đến lượng và phẩm. Lời cầu trên đây là chính đáng. Rất nhiều nơi thiếu linh mục và tu sĩ. Rất nhiều nơi có số linh mục và tu sĩ tương đối đông, nhưng không phải tất cả số đông đó đều thánh thiện. Ở đây, tôi xin phép giới hạn chia sẻ vào mặt thánh thiện. Trong thánh thiện, tôi để ý đến một nhân đức mà thôi, đó là đức khiêm nhường. Khiêm nhường cũng là lãnh vực rộng lớn. Nên, tôi chỉ xin nói thoáng qua về vài điểm, mà thực tế hiện nay thúc bách.
1/ Khiêm nhường nhận mình bất xứng với chức quyền được trao Thánh vương Ðavít đã rất khiêm nhường, khi nói mình chỉ là kẻ ngu si, như con vật. “Con quả ngu si chẳng hiểu, trước mặt Ngài, con như thú vật mà thôi” (Tv 72,22). Còn Ðức Mẹ Maria, khi được Chúa chọn, đã cúi đầu nhận mình chỉ là “người nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Trong Kinh Thánh và truyện các thánh có vô vàn gương khiêm nhường trước mọi chức mọi quyền được trao ban. Trên thực tế tại Việt Nam, rất nhiều linh mục và tu sĩ đã theo gương khiêm nhường các thánh để lại và Kinh Thánh đã dạy. Thế nhưng, cũng không thiếu trường hợp khiến những ai có trách nhiệm đào tạo nhân sự của Hội Thánh phải cảnh giác. Bởi vì: Ðã có những đấu tranh trong lãnh vục chức quyền. Ðã có những vận động để được địa vị. Ðã có những giới thiệu chính mình như ứng viên xứng đáng của những trọng trách. Ðã có những lễ tạ ơn và giới thiệu quá đáng sau khi được chức tước. Trong đạo những trường hợp đó bị coi là xa lạ với tinh thần khiêm tốn của Phúc Âm. Tuy hiện nay những trường hợp như thế không nhiều, nhưng nếu không cảnh giác, cứ để chúng tự do phát triển, thì chúng ta có lý do để sợ: Chức vụ linh mục và tu sĩ có thể bị tục hoá. Lúc đó, sẽ thực hiện lời Chúa phán: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Tình hình như thế sẽ đưa Hội Thánh về đâu?
2/ Khiêm nhường khi gặp thử thách Không linh mục, tu sĩ nào mà không bị thử thách. Các ngài bị thử thách là để được thanh luyện. Thử thách là một cách Chúa yêu thương. Có những thử thách đoán trước được. Có những thử thách xảy ra đột ngột. Có những thử thách thuộc thể xác. Có những thử thách thuộc tâm hồn. Có những thử thách hợp lý hợp tình. Có những thử thách bất công, vô lý, ngược tình. Thánh vương Ðavít đã tả cảnh thử thách bằng những lời bi đát như sau: “Mạng sống con bị chôn vùi như cát bụi Tấm thân này nằm bẹp dưới bùn đen” (Tv 44,26). “Thân sâu bọ, chứ đâu còn là người, Con bị đời mắng chửi, khinh khi, Thấy con, ai cũng chê cười Lắc đầu bĩu mỏ, nói lời mỉa mai” (Tv 22,7-8). Thử thách nhiều khi rất nặng nề. Cho dù đạo đức chấp nhận, con người vẫn cảm thấy đau đớn, nhọc nhằn. Lúc đó, phải rất khiêm nhường luôn kiên nhẫn. Như lời Chúa Giêsu phán: “Những kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24,13). Ai khiêm nhường cầu nguyện sẽ được Chúa ban ơn kiên nhẫn vượt qua được thử thách. Thường thì những thử thách đó thuộc loại lớn. Thế nhưng, những ai đã có kinh nghiệm trong đời sống linh mục, tu sĩ, sẽ thấy thử thách mà các ngài trải qua thường ngày là rất thường. Như những cám dỗ về tiền bạc, những thiên kiến, những ganh tỵ, những đòi hỏi của xã hội, những áp lực trong nội bộ, nhất là phải vâng lời chu toàn bổn phận hằng ngày. Chính vì những thử thách trên đây thuộc loại bình thường, xảy ra hằng ngày, nên nhiều linh mục tu sĩ không để ý lắm. Do đó mà dễ vấp ngã. Chúa Giêsu dạy: “Phải cầu nguyện và tỉnh thức” (Mt 26,44). Nhưng thực tế cho thấy: Về lâu về dài, người ta cũng dễ chểnh mảng với cầu nguyện và tỉnh thức. Thành ra, số người vấp ngã khi gặp thử thách lớn thì không nhiều. Nhưng số người đầu hàng trước những thử thách nhỏ lại khá đông.
3/ Khiêm nhường trước những biến chuyển của tình hình Ðời linh mục tu sĩ chúng ta là những biến chuyển lịch sử tiếp nối. Lịch sử đời biến chuyển. Lịch sử đạo chuyển biến . Trước những biến chuyển lịch sử đạo đời, tôi vừa phải trung thành với cội nguồn Phúc Âm, vừa phải hiện diện có trách nhiệm với từng chặng đường lịch sử, mà tôi không tránh được. Muốn được thế, tôi phải cố gắng tìm sống Phúc Âm trong từng chặng đường lịch sử một cách hữu hiệu nhất theo ý Chúa. Ðem chân lý đời đời áp dụng vào tình hình cụ thể nơi chốn và thời gian tôi được sai đến, đó là điều không dễ. Sẽ là ngây thơ, nếu tôi chỉ biết có cội nguồn Phúc Âm, mà quên hiện tại lịch sử. Sẽ là phản chứng, nếu tôi chỉ lo một phần hiện tại, mà quên giá trị đời đời của Phúc Âm. Ý thức tầm quan trọng của những biến chuyển trong tình hình, nhiều linh mục tu sĩ đã có những suy nghĩ và hành động sáng suốt, để việc phục vụ cộng đoàn, Hội Thánh và Ðất Nước được hữu hiệu theo ý Chúa. Và đó là khiêm nhường trước những biến chuyển của tình hình. Long Xuyên, ngày 31 tháng 3 năm 2008
Càng gần tới kỷ niệm ngày 30/4/1975, tôi càng sống hiệp thông sâu sắc hơn với Giáo Hội Miền Bùi-Tuần 1758
Càng gần tới kỷ niệm ngày 30/4/1975, tôi càng sống hiệp thông sâu sắc hơn với Giáo Hội Miền Nam. Bởi vì biến cố 30/4/1975 đã đụng tới Giáo Hội Miền Nam. Từ ngày đó Giáo Hội Miền Nam đã dần dần đi vào một đường hướng mới. Ðó là sống đức tin giữa lòng dân tộc. Giữa lòng dân tộc, Giáo Hội Miền Nam đã tích cực làm chứng cho Chúa bằng phong cách đồng hành và dấn thân. Nhìn vào Giáo Hội Miền Nam hôm nay, tôi xúc động trước một bộ mặt đẹp tươi. Ðẹp tươi ở chỗ nào? Thưa đẹp tươi cả về mặt hiện tượng, cả về mặt thực chất. Xét về mặt hiện tượng, Giáo Hội Miền Nam đã phát triển mạnh về những mảng sau đây: - a) Phượng tự. Số người tham dự thánh lễ luôn đông đảo sốt sắng. Số nhà thờ mới mọc lên đều khắp, hiên ngang. - b) Ðào tạo. Các ơn gọi linh mục, tu sĩ, tông đồ giáo dân tăng lên mỗi năm. Các lớp đào tạo được tổ chức dưới nhiều hình thức trong mọi hoàn cảnh. - c) Văn hoá. Ðã có những cuộc gặp mặt các nhà văn công giáo, các thi sĩ công giáo, các nhạc sĩ công giáo. Ðã có nhiều tác phẩm văn hoá của người công giáo được ấn hành. Ðã có nhiều con em công giáo đi vào các trường Ðại học và Cao đẳng, và xuất thân thành những người hoạt động tốt trong mọi ngành nghề. - d) Kinh tế. Nhiều nơi nhất là tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều người công giáo đã có mặt trong hội các doanh nhân nổi tiếng. Nhiều vùng công giáo đã vươn lên mạnh mẽ về mặt kinh tế, khiến dư luận phải kính nể. - e) Bác ái xã hội. Những hoạt động dấn thân vào tầng lớp người nghèo, bệnh tật, cô đơn, càng ngày càng phong phú, nhiệt tình. - f) Truyền giáo. Tôi đã được chứng kiến sức sống truyền giáo rất mạnh. Truyền giáo với đủ mọi hình thức, từ nhỏ đến lớn, từ âm thầm đến công khai. Số người theo đạo Công giáo ngày càng tăng. Trên đây là hiện tượng tươi đẹp. Ðàng sau hiện tượng tươi đẹp là thực chất. Thực chất nói đây là cái hồn của mọi đồng hành và dấn thân. Ðó chính là lòng mến Chúa yêu người. Ðược tiếp xúc với các nhóm hoạt động phượng tự, đào tạo, văn hoá, kinh tế, bác ái xã hội và truyền giáo, tôi thấy họ được nâng đỡ bởi cầu nguyện và sống Lời Chúa. Họ gặp nhiều đau đớn và phải trải qua nhiều thử thách. Nhưng chính Chúa đã là ánh sáng và sức sống của họ. Họ sống và hoạt động giữa đời như mọi người, nhưng họ vẫn có một cái gì khác. Cái khác đó là đức tin, là lòng mến Chúa, là tình yêu thiêng liêng đối với đồng bào, là tình gắn bó nồng nàn đối với quê hương. Một điều khiến tôi để ý nhất nơi họ, là họ hoạt động như những người được Chúa sai đi. Xác tín mình được Chúa sai vào đời, họ khiêm tốn và can đảm, phó thác và cầu nguyện tỉnh thức. Hôm nay, nhìn vào bộ mặt Giáo Hội Miền Nam, tôi vui mừng và hy vọng. Bởi vì tôi thấy: Chúng tôi đồng hành với dân tộc và đã được chính Chúa đồng hành với chúng tôi. Ðồng hành và dấn thân như thế vừa là làm chứng, vừa nêu gương sáng, cũng vừa là đối thoại có bản lãnh, đôi khi cũng là một cách đấu tranh có hiệu quả. Với tâm tình cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót, tôi nhớ tới những vị giám mục đã qua đời và đang sống. Các ngài đã nêu gương sáng đạo đức cho đoàn chiên. Tôi cũng nhớ tới nhiều linh mục và nhiều thành phần dân Chúa. Họ đã là những ngọn đèn lung linh giữa cuộc đời biến chuyển. Tôi đặc biệt nhớ tới các anh chị em ngoài công giáo đã chấp nhận chúng tôi trong tinh thần bao dung, tương thân tương ái. Họ đang nhìn nhận Giáo Hội Miền Nam đã có một địa vị đáng trân trọng giữa lòng dân tộc. Chính niềm an ủi đó đang giúp cho Giáo Hội Miền Nam nhận thức rằng: mầm phá hoại vẫn còn nhiều, ngay trong nội bộ Giáo Hội. Mầm phá hoại nguy hiểm nhất chính là tự mãn xa rời Ðức Kitô. Hãy khiêm tốn và trung thành với Ðức Kitô, để được Chúa ở cùng. Ngay lúc này, với lòng khiêm tốn, Giáo Hội Miền Nam cũng đang nhận thức sâu sắc về một thử thách mới, đó là tình hình cuộc sống chung của mình và của đồng bào. Một cuộc sống đang được báo trước sẽ gặp nhiều khó khăn, về lạm phát, về giá cả leo thang, về nguy cơ thiếu lương thực, về khả năng bùng phát bệnh tật, tội ác và thiên tai. Trước tình hình này, cách làm chứng cho Chúa sẽ cần phải sáng suốt, sát với thực tế cụ thể. Riêng tôi, tôi vẫn ca tụng Chúa vì bao công trình của Người. Tôi tin Chúa luôn ở với chúng ta. Niềm tin đó sẽ được khai triển rộng rãi hơn trong bài chia sẻ: “Ba hình ảnh sống động của Chúa Giêsu”. Long Xuyên, ngày 14 tháng 4 năm 2008
Cuối tháng 5 có lễ kính Thánh Tâm Chúa. Lễ đó sẽ là ngày cầu xin ơn thánh hoá linh mục. Nhân Bùi-Tuần 1759
Cuối tháng 5 có lễ kính Thánh Tâm Chúa. Lễ đó sẽ là ngày cầu xin ơn thánh hoá linh mục. Nhân dịp này, nhiều nơi tại Việt Nam sẽ tổ chức phong chức linh mục cho nhiều phó tế. Ngày 30 tháng 5 năm nay vì thế sẽ trở thành quan trọng. Quan trọng cho mọi thành phần Hội Thánh, nhưng sẽ quan trọng đặc biệt đối với các linh mục. Ðể tính cách quan trọng này gây được nhiều kết quả tốt, chúng ta nên gẫm suy nhiều hơn về thánh chức linh mục. Có nhiều đề tài để gẫm suy. Ở đây, tôi chỉ xin gợi ý về một đề tài đã giúp tôi rất nhiều trong đời linh mục. Ðề tài đó là: Nên biết trước.
1/ Linh mục nên biết trước những đau khổ chờ đợi mình Ðọc Phúc Âm, chúng ta thấy: Chúa Giêsu đã biết trước và đã loan báo trước về những đau khổ đợi chờ Người. Chúa Giêsu loan báo trước điều đó nhiều lần nhiều cách. Ở đây chỉ xin nhắc lại lần Chúa nói trước về thân phận của Người. Thân phận của Người là thân phận hạt lúa chôn vào lòng đất. Chúa nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, Mà không chết đi, Thì nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi Nói mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với hình ảnh hạt lúa được gieo vào lòng đất và chết đi, Chúa Giêsu loan báo trước về thân phận của Người và của các môn đệ. Hình ảnh hạt lúa được gieo vào lòng đất và chết đi không nói gì về vinh quang, trái lại nó nói nhiều về sự khiêm tốn, sự âm thầm của những từ bỏ và những hy sinh. Ðời sống linh mục phải luôn là như thế. Dù trong chức vụ nào, ở địa vị nào, với tuổi tác nào, người linh mục vẫn phải là hạt lúa gieo vào lòng đất và chịu chết đi. Thường xuyên phải là thế. Hằng ngày phải như vậy. Không phải thời bị bắt bớ mới gặp số phận đó. Nhưng thời bình cũng phải nêu gương hình ảnh đó. Nghĩa là ơn gọi linh mục coi đời sống từ bỏ là cái gì thuộc căn bản. Khi Mẹ Maria được Chúa chọn làm Mẹ Ðấng Cứu thế, Ðức Mẹ cũng đã được báo trước về những khổ đau sẽ gặp. “Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà” (Lc 2,35). Lời tiên tri Simon đã chúc phúc cho Ðức Mẹ bằng những lời tiên báo rất gợi hình về đau khổ lớn lao. Từ lâu nay, những lời báo trước trong các lễ thụ phong, lễ tạ ơn, đã có phần xa hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất, và cũng xa hình ảnh một trái tim bị lưỡi gươm đâm suốt. Thay vào những hình ảnh đó, người ta đưa ra hình ảnh ám chỉ chức cao quyền trọng. Chuyển hướng như thế muốn nâng linh mục lên, nhưng thực ra vô tình nó kéo linh mục xuống. Càng nâng lên kiểu đó, thì càng giới thiệu một con người linh mục bước xuống bậc thang tục hoá. Tinh thần tục hoá đang có khuynh hướng đề cao hình ảnh linh mục tốc độ. Nghĩa là một loại linh mục mau thành công về địa vị, về tiền bạc, về quyền bính, về đấu tranh. Ðó là cơn cám dỗ rất nguy hiểm cần phải cảnh giác.
2/ Linh mục nên biết trước về những yếu đuối của mình Phúc Âm thánh Matthêu đã ghi lại sự Chúa Giêsu báo trước về những yếu đuối của môn đệ như sau: “Bấy giờ Ðức Giêsu nói với các tông đồ rằng: Hôm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác... Phêrô liền thưa: Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây sẽ chẳng bao giờ vấp ngã. Ðức Giêsu bảo ông: Thầy bảo thật anh: Nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh sẽ chối Thầy 3 lần. Ông Phêrô thưa lại: Dù phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,31-35). Tất cả những gì Chúa Giêsu báo trước đều đã xảy ra đúng như vậy. Các tông đồ đã được Chúa báo trước về sự yếu đuối của mình, mà vẫn không tránh được cảnh tự mình rơi vào hố sâu tội lỗi. Phương chi những người không đón nhận ơn báo trước. Vì thế, người linh mục thực sự đạo đức sẽ rất biết ơn đối với những báo trước về sự yếu đuối của mình. Chính bản thân mình cũng hãy tự biết trước và tự báo trước về khả năng phạm tội nơi mình là rất lớn. Sự luôn biết trước về tình trạng yếu đuối của mình sẽ giúp cho linh mục biết sống khiêm nhường. Người khác sa ngã, thì chính ta cũng có thể sa ngã. Hôm nay ý chí ta khẳng định ta sẽ không xấu như người nọ người kia, nhưng biết đâu thực tế tương lai sẽ cho thấy ý chí đó sẽ không cứu được ta rơi vào đàng tội.
3/ Linh mục nên biết trước những biến chuyển kinh hoàng có thể xảy ra nhiều ít cho mình Phúc Âm thánh Matthêu, đoạn 24, cho thấy Chúa Giêsu báo trước sẽ có những biến chuyển xấu, như: - Ðền thờ sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào (Mt 24,2). - Sẽ có những giặc giã và tin đồn giặc giã (Mt 24,6). - Sẽ có những ngôn sứ giả xuất hiện và lường gạt nhiều người (Mt 24,11). - Sự tội sẽ gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi (Mt 24,12). - Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi (Mt 24,7). Những biến chuyển trên đây đã được báo trước. Nhiều người hiểu các biến chuyển đó theo nghĩa đen. Nhiều người cũng hiểu thêm theo nghĩa bóng. Và như thế, các biến chuyển đó luôn xuất hiện trong đời mọi người, không cách này thì cách khác. Riêng tôi, khi suy gẫm về những biến chuyển xấu, mà Chúa Giêsu báo trước, tôi đã có nghĩ tới những thiên tai, nhưng tôi nghĩ nhiều hơn đến những tai hoạ do con người gây ra. Những kẻ gây ra có thể là ở ngoài Hội Thánh, mà cũng có thể ở trong Hội Thánh. Dù xuất phát từ đâu, mọi tai hoạ Chúa báo trước đều làm tôi lo sợ. Lo sợ đó sẽ được coi là lành mạnh, khi nó giúp tôi biết khiêm nhường chạy đến với Chúa và bám vào Chúa. Kinh nghiệm cho thấy: Sống những biến chuyển đó với đức tin nhiều linh mục đã kết luận: Không phải tôi đã chọn Chúa, nhưng chính Chúa đã chọn tôi và sai tôi đi. *** Mấy nhắc nhở trên đây về sự nên biết trước sẽ giúp chúng ta cầu nguyện sốt sắng hơn cho các linh mục được nên thánh. Thời nay, các linh mục đang bị nhiều thử thách. Biết trước điều đó chính là một ơn Chúa ban. Xin hãy đón nhận ơn Chúa với lòng khiêm tốn cảm tạ. Long Xuyên, ngày 16 tháng 4 năm 2008
Bài chia sẻ trong thánh lễ Kim Khánh Linh mục của Cha Phêrô Nguyễn Trọng Quí
Hôm nay (06.6.2008), chúng ta mừng lễ Kim Khánh Linh mục của Cha Phêrô Nguyễn Trọng Quí Bùi-Tuần 1760
Hôm nay (06.6.2008), chúng ta mừng lễ Kim Khánh Linh mục của Cha Phêrô Nguyễn Trọng Quí. Cha Phêrô xin tôi giảng. Ðức Cha Giuse cũng hợp ý với Ngài. Tôi xin vâng. Ðây sẽ là một chút chia sẻ tâm tình hơn là một bài giảng. Tôi quen biết Cha Phêrô, từ khi chúng tôi còn học chung tại Ðại Chủng Viện thánh Albertô Nam Ðịnh. Liên hệ vẫn được duy trì trong những thời gian kế tiếp. Ðó là thời gian ngài đi du học, thời gian ngài dạy ở Ðại Chủng Viện thánh Tôma Long Xuyên, thời gian ngài phục vụ ở Pháp và bên Ðức. Sự hiểu biết về Cha Phêrô, tuy rất giới hạn, nhưng cũng giúp tôi tạ ơn Chúa về một số điểm cụ thể, trong lễ Kim Khánh này.
1/ Trước hết, xin tạ ơn Chúa, vì Chúa đã ban cho Cha Phêrô đức tính đón nhận mọi sai đi mục vụ một cách vui lòng. Thánh tông đồ Phêrô xưa đã khuyên các bậc kỳ mục rằng: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Chúa đã trao phó. Hãy lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng một cách vui lòng, như Thiên Chúa muốn” (1 Pr 5,2). Khi thánh tông đồ nói về sự trao phó đoàn chiên, Ngài hiểu sự trao phó là do Chúa và Hội Thánh. Trao phó là một sự sai đi. Linh mục nhận sự sai đi một cách vui lòng. Thái độ vui lòng không cấm có những trao đổi, bàn bạc, nhưng vẫn coi quyết định sau cùng là thuộc bề trên. Cha Phêrô đã luôn đón nhận mọi sai đi như thế. Do đó, người ta gọi Cha là người tốt lành. Chúng ta tạ ơn Chúa vì tinh thần khiêm tốn đó.
2/ Thêm vào ơn ấy, xin tạ ơn Chúa vì đã ban cho Cha Phêrô một đức tính khác, đó là thực hiện bổn phận một cách nhiệt tình tận tuỵ. Thánh tông đồ khuyên các kỳ mục rằng: “Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa trao phó, không phải vì ham hố tư lợi thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ” (1 Pr 5,2). Nhiệt tình tận tuỵ cũng là đức tính mục vụ khá nổi của Cha Phêrô. Ở đây, tôi chi xin nhắc đến việc Cha nhiệt tình tận tuỵ đối với những bệnh nhân, những người già yếu, những người nghèo túng, những người trong thử thách. Cha coi họ là đoàn chiên được Chúa trao cho Cha cách riêng. Vì thế, không thiếu người gọi Cha là mục tử nhân lành. Chúng ta tạ ơn Chúa vì tinh thần bác ái đó.
3/ Sau hết, xin tạ ơn Chúa vì đã ban cho Cha Phêrô đức tính biết hướng dẫn đoàn chiên bằng nêu gương sáng. Thánh tông đồ khuyên các vị kỳ mục rằng: “Ðừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã trao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,3). Cha Phêrô đã thực hiện lời khuyên đó một cách có lựa chọn. Tôi thấy Cha đã hướng đoàn chiên của Cha đi theo con đường hoà hợp, hoà giải, yêu thương và hy vọng. Gương sáng của Cha về con đường đó đã coi như một đường lối ngôn sứ, góp phần không nhỏ vào sự phát triển truyền giáo cho đồng bào Việt Nam trong nước và ngoài nước. Sự lựa chọn đó khiến nhiều người gọi Cha là mục tử hiền lành. Chúng ta tạ ơn Chúa vì tinh thần truyền giáo đó. Hiền lành, nhân lành, tốt lành là những đức tính được Phúc Âm đề cao. Ðể tạ ơn Chúa vì bấy nhiêu ân huệ, chúng ta cầu xin Chúa cho Cha Phêrô luôn biết nói với Chúa Giêsu lời mà thánh tông đồ Phêrô xưa đã nói: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga 21,27). Lời trên đây vừa là một tuyên xưng lòng mến, vừa là một sám hối chân thành, vừa là cách đối phó với mọi thử thách.
4/ Ðời linh mục, dù vắn, vẫn thường mang nặng yếu đuối, vẫn gặp nhiều thử thách, phương chi đời linh mục dài 50 năm. Thánh tông đồ Phêrô viết: “Anh em đang bị lửa thử thách. Ðừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Ðược chia sẻ những đau khổ của Ðức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1 Pr 4,12-13). - Xin tạ ơn Chúa, vì thánh chức linh mục cao quý. - Xin tạ ơn Chúa, vì cuộc đời linh mục làm chứng cho Chúa. - Xin tạ ơn Chúa, vì con người linh mục theo tinh thần thánh Phêrô. - Xin tạ ơn Chúa, vì Chúa là phần gia nghiệp của Cha Phêrô và cũng là phần gia nghiệp của tất cả chúng ta. Amen. Long Xuyên, ngày 06 tháng 6 năm 2008
Bài chia sẻ trong thánh lễ Kim Khánh Linh mục của Cha Phêrô Nguyễn Trọng Quí
Hôm nay, được mừng lễ Kim Khánh Linh mục của Cha Phêrô Nguyễn Trọng Quí, tôi thấy vui Bùi-Tuần 1761
Hôm nay, được mừng lễ Kim Khánh Linh mục của Cha Phêrô Nguyễn Trọng Quí, tôi thấy vui đặc biệt. Bởi vì đã khá lâu rồi, Cha ít liên lạc với giáo phận Long Xuyên nói chung và với tôi nói riêng. Cha Phêrô mời tôi giảng. Ðức Cha Giuse cũng hiệp ý với Cha. Tôi xin vâng. Ðây sẽ chỉ là một chút chia sẻ tâm tình. Tâm tình này phát sinh, khi tôi chiêm ngưỡng với Chúa Giêsu trong cao điểm Người truyền chức linh mục cho các tông đồ. Anh chị em thân mến,
I. Khi truyền chức Linh mục cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã làm những việc lạ lùng và nói những lời trối lạ lùng, để tỏ bày tình yêu của Người là một tình yêu hết sức đặc biệt. 1/ Nét đặc biệt thứ nhất của tình yêu Chúa Giêsu lúc đó là hết sức khiêm nhường Sự khiêm nhường của Chúa Giêsu được minh chứng bằng việc Người rửa chân cho các môn đệ sắp được lãnh chức linh mục. Khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Chúa muốn cho các môn đệ hiểu: Làm linh mục là hãy làm chứng cho Ðức Kitô khiêm nhường. Ðức Giêsu của các linh mục là Ðấng, mà thánh Phaolô diễn tả như người nô lệ: “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2,6-7). Các môn đệ sẽ làm chứng điều đó bằng đời sống khiêm nhường, hết sức khiêm nhường. Khi mặc lấy tinh thần khiêm nhường của Chúa Giêsu, các linh mục sẽ coi sự khiêm nhường như một áo lễ đẹp, nhắc nhở mọi người nhớ lại cội nguồn của chức linh mục là Ðức Giêsu khiêm nhường.
2/ Nét đặc biệt thứ hai của tình yêu Chúa Giêsu lúc truyền chức linh mục là đặt bác ái lên hàng đầu sự thánh thiện linh mục Trong giây phút trọng đại thiết lập chức linh mục, Chúa Giêsu đã trối lại điều răn yêu thương “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Thánh Phaolô quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr, 13,13). Yêu thương như Thầy đã yêu thương, nghĩa là sẽ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống, hy sinh mình trên thánh giá để cứu chuộc nhân loại. Tôi thấy: Tình yêu hy sinh, từ bỏ mọi sự, vác thánh giá và chết trên thánh giá suốt cuộc đời, đó là thánh lễ kéo nhiều ơn cứu độ nhất của đời linh mục.
3/ Nét đặc biệt thứ ba của tình yêu Chúa Giêsu lúc truyền chức linh mục là hứa chia sẻ sự sống thân mật của Người cho các môn đệ Chúa Giêsu nói về sự sống thân mật đó bằng hình ảnh cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy các con chẳng làm gì được” (Ga 15,52). Sự gắn bó này đã được thánh Phaolô diễn tả bằng câu nói sau đây: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Với câu nói đó, nhiều người coi một linh mục kết hợp mật thiết với Chúa là một thánh đường đẹp nhất có sức làm chứng cho Chúa giữa đời.
II. Linh mục tốt phải có ba nét đẹp đó. Nhưng thực tế cho thấy, chính các tông đồ đã là những người tách rời khỏi lý tưởng đó. Các ngài vốn yếu đuối. - Ông Giuđa đã tách rời bằng việc bán Chúa. - Thánh Phêrô đã tách rời bằng việc chối Chúa. - Các tông đồ khác đã tách rời bằng việc lùi xa Chúa, khi Người bị bắt. Thế nhưng, 11 người đã trở lại. Và các ngài đã làm chứng cho Chúa bằng sự sám hối, trở về với Chúa. Thưa anh chị em thân mến, Mấy gợi ý trên đây của tôi thực rất nghèo nàn. Nhân dịp này, tôi xin mỗi người sẽ một mình đối diện với Chúa Giêsu, để hỏi Người và lắng nghe Người về chức linh mục nói chung và về các linh mục nói riêng. Tôi nghĩ: Những sự ta sẽ biết cũng vẫn giới hạn. Mỗi ơn gọi linh mục là một mầu nhiệm. Mỗi sứ mạng linh mục là một huyền nhiệm. Chỉ mình Chúa mới biết rõ mà thôi. Phần chúng ta, hãy cầu nguyện cho Cha Phêrô, hãy tạ ơn với Cha Phêrô. Và thân ái cầu chúc Cha Phêrô luôn cố gắng làm chứng cho Chúa bằng: - Tình yêu khiêm nhường, - Tình yêu hy sinh từ bỏ, - Tình yêu kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Amen. Long Xuyên, ngày 6 tháng 6 năm 2008
Tôi rất vui, khi được nghe nói: “Người công giáo Việt Nam rất đáng tin, vì họ sống trong sự thực Bùi-Tuần 1762
Tôi rất vui, khi được nghe nói: “Người công giáo Việt Nam rất đáng tin, vì họ sống trong sự thực, lương thiện thật thà”. Tôi rất buồn, khi phải nghe nói ngược lại. Dư luận không luôn đúng. Nhưng ta nên biết, để mà cảnh giác. Cách cảnh giác tốt nhất là chúng ta hãy cố gắng luôn sống trong sự thực: Về Thiên Chúa của ta, Về bản thân của ta, Về Hội Thánh của ta, Về nơi chốn và thời điểm chúng ta được Chúa sai vào. Theo tu đức và kinh nghiệm, tôi xin nhấn mạnh đến 2 cách giúp ta sống trong sự thực. Ðó là: - Ði sâu vào việc cầu nguyện. - Ði sâu vào một nền văn hoá trí tuệ.
1/ Ði sâu vào việc cầu nguyện Việc cầu nguyện có nhiều bước. Nhiều người tưởng đọc nhiều kinh sẽ là đi sâu vào cầu nguyện. Tôi không nghĩ như vậy. Chính tôi vẫn hay cầu nguyện bằng cách lặp đi lặp lại vài kinh quen thuộc, với tâm trí tập trung vào việc xin Chúa đến cứu tôi. Nhất là khi tôi gặp khó khăn. Xác đau đớn, hồn đau khổ. Cả con người tôi như bị đày đoạ. Lúc đó, miệng tôi đọc kinh không ngừng, lòng trí nài xin Chúa ban ơn cho tôi biết chịu đau khổ theo thánh ý Chúa. Với kinh nghiệm đó, tôi thấy đọc nhiều kinh không phải là không tốt. Thà đọc nhiều kinh hơn là lao mình vào những việc làm xa Chúa. Nhưng tôi nghĩ: Ðọc kinh nhiều chưa phải là đi sâu vào sự cầu nguyện. Nhiều người tưởng đọc một số kinh nhất định là sẽ đi sâu vào việc cầu nguyện. Tôi không nghĩ như vậy. Nhưng chính tôi vẫn thích đọc một số kinh nhất định, như lần chuỗi Mân côi, đọc kinh Lòng thương xót Chúa, kinh kính thánh Giuse. Khi đọc những kinh đó với tâm hồn đơn sơ, nài van được gặp Chúa, tôi thấy mình luôn được đổi mới. Tuy nhiên, tôi nghĩ: Ðọc những kinh nhất định đó vẫn chưa phải là đi sâu vào sự cầu nguyện. Nhiều người tưởng suy gẫm là đi sâu vào việc cầu nguyện. Tôi không nghĩ như vậy. Chính tôi cũng hằng ngày suy gẫm. Tôi thích chọn những bài suy gẫm được hướng dẫn bởi các thánh và các nhà đạo đức đã đổi mới con người. Suy gẫm thì có trình bày lý lẽ, đào sâu một khía cạnh, rồi kết luận theo hướng nội dung. Nhờ suy gẫm, tôi được dẫn vào một thế giới tư tưởng đạo đức. Tôi cho rằng: Suy gẫm là một bước đi sâu. Nhưng bước đó vẫn chưa hẳn là đi sâu nhiều vào việc cầu nguyện. Bước đi rất sâu vào việc cầu nguyện chính là chiêm niệm. Xin đưa ra một cách cụ thể. Chúa Thánh Thần mở mắt tôi nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá, hoặc Chúa Giêsu ẩn mình trong phép Thánh Thể. Lúc ấy, tôi và Chúa Giêsu rất gần gũi, rất thân mật. Liên hệ giữa Người và tôi là rất thực, rất riêng tư. Người cho tôi thấy: Người thương tôi bằng tình yêu lạ lùng. Yêu thương là tặng tình yêu vô bờ và hy sinh không giới hạn. Liên lạc của tôi với Người, nếu muốn thành thực, cũng sẽ phải là dâng hiến tình yêu vô điều kiện và hy sinh không biên giới. Người đã cứu tôi bằng tình yêu với hy sinh như thế, thì tôi cũng cộng tác vào chương trình cứu độ của Người bằng tình yêu mang hy sinh như vậy. Với nhận thức như thế trong chiêm niệm, tôi thấy mọi hình thức cầu nguyện nên hướng về chiều sâu đó. Chiều sâu đó sẽ cho chúng ta thấy sự thực về Chúa, về Hội Thánh Chúa, về bản thân ta, về những linh hồn mà Chúa muốn cứu chuộc nhờ vào sự cộng tác của ta. Tất cả các liên hệ đúng sự thực giữa ta và Chúa, giữa ta và Hội Thánh Chúa, giữa ta và các linh hồn sẽ chỉ là tình yêu và hy sinh. Sự thực phải là thế. Chiêm ngắm Chúa Giêsu sẽ loại trừ những gì không phải là tình yêu và hy sinh trong chương trình cứu độ.
2/ Ði sâu vào một nền văn hoá trí tuệ Có những sự thực chúng ta chỉ nắm được bằng sự đi sâu vào việc cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện không thay thế được các việc tự nhiên phải làm trong việc tìm sự thực. Thực vậy, khi Chúa dùng chúng ta để phục vụ cho chân lý cứu độ, Chúa muốn chúng ta hãy là người đầy tớ khôn ngoan biết phát triển trí tuệ cho mục đích đó. Trí tuệ là tài năng kiếm tìm sự thực. Sự thực không bao giờ đơn giản. Ðể biết sự thực về một người, về một địa phương, về một thời điểm, về một tình hình, về một biến cố, tôi phải vận dụng trí tuệ một cách trí thức. Không phải những gì nghe được đã là tất cả sự thực. Không phải những gì xem thấy đã là sự thực đầy đủ. Không phải những gì biết được do các nguồn thông tin và dư luận đã cung cấp đúng và đủ sự thực. Tổng hợp những mảnh sự thực. Phân định cái đúng cái sai theo những tiêu chuẩn khoa học, triết học. Kết luận một cách khách quan tối đa, để phỏng đoán định hướng nội tâm vô hình. Bằng ấy công việc sẽ làm nên một nền văn hoá trí tuệ. Rất nhiều kinh nghiệm dạy tôi là sự thực đòi phải có một lý trí lương thiện. Tôi phải lương thiện nhìn nhận: Tình thế thay đổi, con người thay đổi, thì sự thực về tình hình và về con người cũng thay đổi. Sự thực của năm đó không thể còn đúng cho năm nay. Vì thế, các sách đạo đức khuyên chúng ta phải hết sức thận trọng khi phải xét đoán. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (Mt 7,1). Với lời Chúa phán trên đây, những ai có bổn phận xét đoán, sẽ phải hết sức thận trọng. *** Từ ít lâu nay, tại Việt Nam, trong đạo ngoài đời đã xảy ra nhiều sự kiện buồn về đời sống không thực. Trước diễn biến phức tạp đó, mỗi người chúng ta hãy lo cho phần rỗi mình bằng một đời sống toả sáng - Sự thực về tình yêu hy sinh, - Sự thực về bậc thang giá trị, - Sự thực về tính thực thà lương thiện. Chúng ta hãy cố gắng sống tình yêu và sự thực. Còn người ta có đón nhận chứng từ của ta hay không, thì việc đó không thuộc về ta. Xin hãy phó thác đời ta cho Chúa một cách khiêm nhường và yêu mến. Long Xuyên, ngày 10 tháng 6 năm 2008
Trong đạo có mấy địa chỉ nên biết. Vì ở mấy địa chỉ đó, mỗi người công giáo sẽ gặp được chính Bùi-Tuần 1763
Trong đạo có mấy địa chỉ nên biết. Vì ở mấy địa chỉ đó, mỗi người công giáo sẽ gặp được chính mình dưới nhiều diện mạo khác nhau. Mấy địa chỉ đó là của cảnh khổ. Tôi xin nêu lên một danh sách tạm.
I. Mấy địa chỉ nên biết 1/ Nạn nhân của những tai hoạ Tại hoạ trên đời này thì đa dạng. Như hoả hoạn, bão lụt, mất mùa, động đất, bệnh tật lâu dài, những cái chết thảm thương... Tất cả những tai hoạ đều gây nên tang tóc, mất mát, suy sụp. Nạn nhân của những tai hoạ đều đau khổ. Họ là những địa chỉ chờ đợi tình xót thương. Phúc Âm kể lại một số địa chỉ như thế đã được Chúa Giêsu đến cứu độ. Như trường hợp bà goá thành Nain. Con trai duy nhất bà chết. Bà theo xác con ra huyệt với nước mắt chan hoà và lòng tan nát. Chúa Giêsu động lòng thương, đã an ủi bà. Người đã làm phép lạ cho đứa con trai đó sống lại (x. Lc 7,11-17). Hai chị em Matta và Maria có một người em trai là Ladarô. Anh này chết. Hai chị em khóc thương thảm thiết. Nghe tin, Chúa Giêsu đã từ xa đến địa chỉ đám tang. Người đã khóc, và đã làm phép lạ cho Ladarô sống lại (x. Ga 11,1-44). Chúa Giêsu đã xót thương những người đau khổ, cho dù đau khổ đó là rất riêng tư, chỉ đụng tới một vài cá nhân. Còn chúng ta thì sao? Ðịa chỉ có thể rất gần ta. Nhiều người đã bén nhạy, coi địa chỉ đó là nơi làm chứng “Thương người như thể thương thân”, và là nơi tuyên xưng mình là người của Thiên Chúa tình yêu.
2/ Nạn nhân của những bất bình đẳng Trên đời này, tình trạng bất bình đẳng là bình thường. Ðối xử bất bình đẳng, thậm chí bất công, vẫn còn khá phổ biến. Nạn nhân của những bất bình đẳng thường mang theo mình một thứ khổ đau không dễ nói ra. Họ là những người già cô đơn, những người bệnh tật nan y, những người nghèo túng, những người bị vu khống, những người tội lỗi bị khinh khi. Họ làm nên một địa chỉ rộng. Người ta không muốn biết tới, nhưng Chúa lại tìm đến với lòng thương xót. Phúc Âm kể lại chuyện Chúa Giêsu trong đền thờ. “Người thấy những người giàu sang đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo túng kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: Thầy bảo thật anh em: Bà goá này đã bỏ nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà bỏ vào dâng cúng. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 21,1-4). Bà goá nghèo đó là một nạn nhân của phân biệt đối xử. Nhưng Chúa Giêsu đã tôn vinh địa chỉ đó. Dụ ngôn người chủ chiên bỏ 99 con chiên của mình, để đi tìm một con chiên lạc. Khi đã tìm được rồi, ông vác nó trên vai, về khoe với bạn bè. Chúa kết luận: “Tôi nói cho các ông hay, trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7). Con chiên lạc là một địa chỉ người ta không muốn nói tới. Nhưng Chúa Giêsu đã tìm đến địa chỉ đó. Người quan tâm đến một con chiên lạc trở về hơn 99 con luôn trung thành. Chớ chi những việc làm trên đây của Chúa Giêsu đổi mới cách đối xử của ta, để chúng ta biết tìm đến các địa chỉ bị loại trừ. Họ không xa chúng ta đâu.
3/ Nạn nhân của những tệ nạn xã hội Những tệ nạn xã hội đáng ngại nhất là những gương xấu. Những gương xấu về thói quen sử dựng thời giờ một cách thoải mái, cốt để thoả mãn những gì mình thích trong giây phút hiện tại. Tới đâu thì tới. Những gương xấu về sự chia rẽ, mất tình phản nghĩa, chỉ vì tiền. Thực rất đáng buồn khi đang xuất hiện những gương xấu đưa người ta đến các thứ bệnh nguy hiểm như Sida, nghiện ngập. Một tệ hại đang lây lan là nếp sống không lương thiện, muốn có tiền bằng bất cứ cách nào, như bài bạc, hụi hè, lường gạt, vay mượn liều lĩnh. Cũng không thiếu gương xấu về cách làm tiền, cả dưới những hình thức coi như đạo đức. Nạn nhân thường dễ rơi vào cảnh nghèo dưới nhiều hình thức kinh khủng. Chúa Giêsu phán: “Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây nên sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã” (Mt 18,7).
II. Sự phức tạp nên biết Khi đến với các địa chỉ của cảnh khổ, người ta có thể có những thái độ khác nhau, như: Thái độ giao tế xã hội, thái độ kết án, thái độ dửng dưng, thái độ cứu độ. Thái độ đáng có và phải có là thái độ yêu thương. Yêu thương một cách khiêm nhường. Yêu thương một cách hy sinh quên mình với mục đích cứu độ. Kinh nghiệm cho thấy: Ðể cứu người khổ, thì chính người khổ phải biết cộng tác vào ơn cứu độ. Sẽ là quá đơn giản, khi người ta tưởng: Tình xót thương sẽ là một nơi cho ta ỷ lại. Sẽ là quá đơn giản, khi người ta tưởng: Tình xót thương cứu độ sẽ miễn trừ cho người khổ khỏi phải phấn đấu. Nếu chính người khổ không tự cứu mình với tất cả khả năng mình có, thì lòng xót thương nhiều khi cũng phải bó tay. Cũng sẽ là quá đơn giản, khi người ta tưởng: Cảnh khổ sẽ chấm dứt với tình xót thương cứu độ. Bởi vì môi trường xã hội, môi trường văn hoá, môi trường gia đình, luôn có sức chi phối mạnh đến việc hình thành cảnh khổ dưới những hình thức mới. Cảnh khổ vẫn sẽ luôn là vấn đề cần phải đặt ra cho chúng ta. Bởi vì lịch sử rất phức tạp. Chính vì tính cách phức tạp của vấn đề, nên xin phép được giới thiệu một địa chỉ khổ để kết. Ðịa chỉ đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Hãy chiêm ngắm Người. Người rất nghèo của cải, nhưng rất giàu tình yêu. Tình yêu của Người là tình yêu dâng hiến cam chịu khổ đau. Chính tình yêu dâng hiến này đã cứu chuộc nhân loại. Chúng ta được cứu độ nhờ Chúa Giêsu dâng hiến chính mình với biết bao hy sinh. Xin hãy giải quyết vấn đề khổ đau trước nhan Chúa Giêsu đau khổ, với Chúa Giêsu đau khổ, trong Chúa Giêsu đau khổ. Bất ngờ, ta sẽ khám phá thấy chính bản thân ta rất nghèo rất khổ, cần được Chúa xót thương cứu độ. Long Xuyên, ngày 12 tháng 6 năm 2008
Loại người được trân trọng bậc nhất bây giờ là loại người “sống cho kẻ khác”. Tất nhiên, để “sống Bùi-Tuần 1764
Loại người được trân trọng bậc nhất bây giờ là loại người “sống cho kẻ khác”. Tất nhiên, để “sống cho kẻ khác” đáng được mến yêu thực sự, chúng ta quy chiếu vào mẫu gương Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã sống cho kẻ khác thế nào, thì những ai tin theo Người cũng sẽ sống như vậy. Suy gẫm của tôi sẽ vắn tắt. Chỉ nêu lên vài gợi ý quan trọng.
1/ Những hình ảnh về sống cho kẻ khác Sống cho kẻ khác là một lý tưởng. Lý tưởng này được thể hiện qua nếp sống. Nếp sống ấy là những liên đới với người khác. Những liên đới ấy là cho đi, là phục vụ yêu thương. Nơi Ðức Kitô, phục vụ yêu thương được diễn tả qua mấy hình ảnh dễ hiểu này: a) Con chiên hiền lành trên bàn sát tế. Tiên tri Isaia, ngay từ xa xưa, đã nói về Chúa Giêsu như một con chiên chịu khổ đau, để đền tội cho nhân loại (x. Is 53,7). Lời tiên tri đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đúng là con chiên bị sát tế, và còn hơn là con chiên được hiến tế. Vì Người tự hiến tế với tất cả ý thức và tự do của mình. Người biết Người chịu khổ hình để cứu chính những kẻ làm hại Người. Hy sinh đến cùng do yêu thương vô cùng. Sống cho kẻ khác là như thế đó.
b) Hạt lúa mì gieo vào lòng đất và để mình thối đi. Chính Chúa Giêsu đã tự ví mình như hạt lúa mì rơi vào lòng đất và bị thối đi, để sinh ra nhiều hạt khác (x. Ga 12,24). Chúa cắt nghĩa ngay liền đó. Bị thối đi là hy sinh mạng sống mình. Hy sinh mạng sống chính mình, để kẻ khác được sự sống đời đời. Hy sinh hết mình vì yêu thương đến cùng (x. Ga 12,25). Sống cho kẻ khác là như thế đó.
c) Tấm bánh nuôi người khác. Chúa Giêsu ví mình như tấm bánh, tấm bánh trường sinh (x. Ga 6,35). Tấm bánh này là của ăn ban tặng. Tấm bánh ban tặng này là chính bản thân Ðức Kitô suốt đời sống theo thánh ý Chúa Cha. Sống theo ý Chúa Cha là một phấn đấu đòi nhiều hy sinh. Hy sinh vì mến Chúa Cha trọn vẹn và yêu nhân loại tuyệt đối. Sống cho kẻ khác là như thế đó.
2/ Kinh nghiệm vì cuộc sống cho kẻ khác Sống cho kẻ khác theo ba hình ảnh nêu trên là một hướng đi cho đời sống của người môn đệ Ðức Kitô. Khi đã sống theo hướng đó, họ sẽ có một số kinh nghiệm nội tâm. Dưới đây chỉ là vài kinh nghiệm quen thuộc.
a) Có một cái gì phải từ bỏ trong họ. Ðiều họ phải từ bỏ hơn cả là cái tôi. Lời Chúa rất rõ ràng dứt khoát: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Từ bỏ mình nhất là bằng sám hối và chu toàn bổn phận. Từ bỏ mình là điều phải rất tỉnh thức và khiêm nhường. Nếu không, thì “sống cho kẻ khác” sẽ dễ trở thành một môi trường đạo đức giả, để cái tôi ngấm ngầm hoạt động và phát triển trong đó. Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đưa ra một hình ảnh dễ hiểu. Ngài biết, trước mặt Chúa, có những bàn ăn dành riêng cho những kẻ tội lỗi. Thánh nữ xin được ngồi chung với họ, để đồng cảm những khổ đau, tắm tối, cô đơn dành cho họ. Ngài từ bỏ niềm vui được ngồi chung bàn với những người đạo đức. Từ bỏ đó là vì hy sinh để cầu cho người tội lỗi.
b) Có một cái gì mới được sinh vào lòng họ. Họ khám phá ra những bước đi mới của Chúa. Chúa đến với họ từ những cái như nghịch với Chúa. Từ nơi tội lỗi, họ gặp Chúa xót thương đến. Từ cõi thất vọng, họ gặp Chúa hy vọng đến. Từ chốn khổ đau, họ gặp Chúa vinh quang đến. Từ cảnh thất bại, họ gặp Chúa thành công đến. Từ vùng nô lệ, họ gặp Chúa tự do đến. Từ đời bất ổn, họ gặp Chúa bình an đến. Thực sự, khi người môn đệ Ðức Kitô sống cho kẻ khác theo gương Ðức Kitô, thì Ðức Kitô sẽ dẫn họ vào một thế giới chỗ nào cũng có bóng tối. Họ sẽ cứu người khác bằng cách đi cùng với Ðức Kitô vào những bóng tối đó đễ dẫn họ về với Chúa Cha. Hành trình đó là hành trình phục sinh. Nghĩa là sống lại từ cõi chết, từ đau khổ. Hành trình phục sinh đó là từ những thực tại xung quanh họ.
c) Có một cái gì phải đi xa hơn các liên đới người với người. Cái gì phải đi xa hơn, đó là ơn Chúa. Chúa Giêsu quả quyết: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Lời đó được ứng nghiệm nơi những ai theo gương Ðức Kitô sống cho kẻ khác. Họ sẽ khám phá ra dần dần sự thực này: Mỗi khi họ yêu thương phục vụ đến hy sinh cho người khác, thì chính trong việc đó, họ cảm thấy có Chúa bên họ, có Chúa hành động với họ. Họ sẽ cảm thấy có một sự hiện diện nhiệm mầu trong họ. Họ sống cho kẻ khác. Kẻ khác là người khác, kẻ khác cũng là chính Chúa. Sự cảm nghiệm đó giúp họ có một cuộc sống như mọi người, nhưng cũng khác mọi người. *** Ðến đây tôi nghĩ đã kể lại đôi chút về những gì Chúa đã làm nơi những người sống cho kẻ khác theo gương Ðức Kitô. Họ đúng là những chứng nhân của Tin Mừng. Họ đang được Chúa dùng để mở Nước Chúa tại quê hương Việt Nam hôm nay. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót. Long Xuyên, ngày 01 tháng 11 năm 2008
Thiên Chúa giáng trần là một biến cố lịch sử. Ðể kỷ niệm biến cố trọng đại đó, chúng ta hằng Bùi-Tuần 1765
Thiên Chúa giáng trần là một biến cố lịch sử. Ðể kỷ niệm biến cố trọng đại đó, chúng ta hằng năm lo tổ chức lễ Giáng sinh. Tổ chức bằng những thay đổi bên ngoài, như dọn hang đá, trang trí nhà thờ, chuẩn bị lễ nghi, thay đổi hoàn cảnh. Tổ chức bằng những thay đổi bên trong, như sám hối, cầu nguyện, tĩnh tâm, thay đổi tâm hồn. Dưới đây là một chút gợi ý về thay đổi tâm hồn.
1/ Làm mới lại cái nhìn về Chúa giáng sinh Dựa trên Phúc Âm, chúng ta nhìn Chúa giáng sinh là Ðấng Cứu độ. Ngưới cứu độ bằng tình yêu. a) Tình yêu tự nguyện sống khiêm tốn khó nghèo. Tình yêu khiêm tốn và khó nghèo của Ngôi Lời xuống thế đã được thánh Phaolô mô tả như sau: “Ðức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Theo suy nghĩ trên đây của thánh Phaolô, thì vinh quang của Ðức Giêsu Kitô chính là hang đá khó nghèo, là hình thức trẻ thơ, là cảnh bần cùng của cánh đồng nuôi súc vật, là những khuôn mặt đơn sơ của các mục đồng dốt nát. Hoà mình vào môi trường đó là một chọn lựa của tình yêu. Ðấng cứu chuộc muốn giải cứu nhân loại bằng tình yêu khiêm tốn khó nghèo, chứ không phải bằng một tình yêu thích cao sang.
b) Tình yêu tự nguyện hy sinh mạng sống. Chính Chúa Giêsu đã nói về mình: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Thầy, là vì Thầy hy sinh mạng sống mình... Mạng sống của Thầy không ai lấy đi được, nhưng chính Thầy tự hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống mình ngay từ giây phút đầu tiên giáng trần. Ở chỗ “Người biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15), “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Cảm thương, chịu thử thách, trải qua nhiều đau khổ, vâng lời, đó là những bước đi của tình yêu hy sinh mạng sống mình.
c) Tình yêu dấn thân đi tìm con chiên lạc. Chúa Giêsu phán: “Người nào trong các ông có 100 con chiên, mà bị mất một con, lại không để 99 con chiên kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Tìm thấy rồi, người ấy mừng rỡ vác trên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè hàng xóm lại và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó'. Vậy, tôi nói thật với các ông: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,4-7). Chúa Giêsu giáng trần là để tìm những con chiên lạc. Người tìm bằng tình yêu âm thầm, mà đầy dấn thân. Chúa phán: “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Trên đây là vài nét chính về Chúa Giêsu, Ðấng Cứu thế của chúng ta. Hôm qua Người là thế. Hôm nay Người cũng vậy. Ngày mai và mãi mãi Người luôn là Tình yêu sống động. Người đến cứu ta. Nhưng ta phải cộng tác vào công việc cứu độ của Người. Cái nhìn trên đây sẽ giúp thanh luyện cái nhìn của chúng ta về Chúa giáng sinh. Cái nhìn được thanh luyện sẽ giúp cho chúng ta thấy: Chúa giáng sinh có liên hệ mật thiết với chúng ta. Chúa giáng trần là vì mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta sẽ gặp Người như gặp một tình yêu gần gũi. Chúa cứu thế là như vậy. Còn môn đệ Người thì sao?
2/ Thay đổi cái nhìn về người môn đệ Chúa Theo cũng một dòng suy nghĩ như trên, chúng ta sẽ dễ nhận ra đặc điểm của người môn đệ Ðức Kitô. Ðặc điểm đó là: Cùng với Ðức Kitô, họ góp phần cứu độ nhân loại bằng tình yêu: Tình yêu của người môn đệ Chúa chảy theo dòng thời gian. Thời gian thay đổi. Nhưng tình yêu cứu độ của người môn đệ Chúa Giêsu phải dựa trên Ðấng đời đời. Nhờ đó mà những khoảnh khắc mau qua của họ có được giá trị vĩnh cửu. Do đó, để tuyển chọn người làm môn đệ Ðức Kitô, những người có trách nhiệm trong Hội Thánh phải để ý nhiều đến khả năng yêu thương của họ. Khả năng yêu thương phục vụ trong Ðức Kitô. Không thiếu trường hợp, khả năng yêu thương đã không là tiêu chuẩn trong việc chọn lựa, trong việc đào tạo, trong việc đánh giá. Thành thực mà nói, nhiều người có khả năng trí thức và tổ chức cao, nhưng rất yếu về khả năng yêu thương cứu độ. Ðể đánh giá khả năng yêu thương, chúng ta không nên dựa vào hiệu năng trôi nổi, như thành công trong dư luận và trong thành tích bề ngoài. Chúa Giêsu xưa đã sống yêu thương để cứu đời, nhưng Người đã bị nhiều người từ chối. Thánh Gioan còn nói một câu thê thảm: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có. Nhưng họ lại không nhận biết Người. Người đi đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Chúa Cứu thế đã không được mọi người đón nhận ngay ở Bêlem. Những kẻ đón nhận Người là số ít. Người vẫn là tình yêu cô đơn. Người vẫn là tình yêu bị chối từ. Người vẫn là tình yêu bị truy đuổi. Số phận người môn đệ Chúa Giêsu cũng sẽ là như thế. Vì đầy tớ không trọng hơn thầy. Dù trong những hoàn cảnh cay đắng nhất, người môn đệ Chúa vẫn giữ được khả năng yêu thương. Hơn thế nữa, khả năng yêu thương nơi họ sẽ mãi mãi tăng lên, nhất là những khi bị thử thách. Khả năng yêu thương, đó là lời nguyện cầu dâng lên Chúa của chúng ta. Khả năng yêu thương, đó là lời mừng chúc chúng ta gởi cho nhau. Khả năng yêu thương, đó là điều làm vinh danh Chúa trong đời người môn đệ Ðức Kitô. Khả năng yêu thương, đó là điều chúng ta thấy mình thiếu sót, cần sám hối và phó thác nơi lòng thương xót Chúa. Long Xuyên, ngày 6 tháng 11 năm 2008
Mỗi năm đến mùa Vọng, tôi lại nhớ về những người đã dọn đường để Chúa đến. Chúa đến với Bùi-Tuần 1766
Mỗi năm đến mùa Vọng, tôi lại nhớ về những người đã dọn đường để Chúa đến. Chúa đến với chúng ta, Chúa đến trong chúng ta. Dọn đường như thế gồm nhiều việc, như xét mình, sám hối, cầu nguyện, vv... Ở đây, tôi xin nhấn mạnh đến một việc quan trọng. Ðó là dâng mình làm của lễ. Một chút kinh nghiệm xin phép được chia sẻ: Những việc cần để trở nên của lễ là những việc nào?
1/ Ðược lửa thiêng thiêu đốt Dù ở địa vị nào, người môn đệ Chúa luôn được mời gọi sống đời dâng hiến. Bản thân mình phải là lễ vật dâng lên Chúa. Ðời mình phải là một chuỗi dài những lễ tế trên bàn thờ cuộc sống. Ðể trở thành của lễ dâng lên Chúa, người môn đệ Chúa thường nói lại lời Ðấng Cứu thế nói với Ðức Chúa Cha, khi xuống trần: “Này con đây, con đến để thực thi ý Cha” (Dt 10,7). Không phải nói lời đó là đã thành của lễ, mà thành của lễ là khi Chúa chấp nhận lời đó. Một dấu chỉ của sự Chúa chấp nhận, là Chúa đổ một thứ lửa thiêng xuống thiêu đốt lễ vật. Lửa đó là lửa tình yêu. Lửa tình yêu đốt lòng người môn đệ Chúa, như xưa lửa Thánh Thần ngự xuống trên đầu các tông đồ và tràn vào lòng các ngài (x. Cv 2,2-4). Khi tràn vào lòng các ngài, lửa thiêng ấy đốt cháy các ranh giới trong lòng họ. Không còn ranh giới kẻ mình thương và kẻ mình loại trừ. Không còn ranh giới người đạo mình và người ngoài đạo mình. Lửa tình yêu tạo nên một lương tâm mở, một tình liên đới không biên giới. Họ cảm thấy mình có trách nhiệm với những kẻ khác. Càng khác thì càng phải yêu thương họ. Yêu thương của người được nhận làm lễ vật sẽ được thực hiện bằng sự họ đền tội thay cho kẻ khác và cho chính mình (x. Dt 5,3). Yêu thương của họ còn được thực hiện bằng việc khẩn khoản cầu nguyện cho kẻ khác. Cầu nguyện ấy đôi khi kèm theo những tiếng khóc lóc kêu van (x. Dt 5,7). Yêu thương của họ sẽ được thực hiện một cách đặt biệt bằng sự vâng phục thánh ý Chúa Cha, cho dù vâng phục ấy đòi nhiều đau đớn (x. Dt 5,8). Thánh ý Chúa Cha là người ta phải cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. “Nếu các con giữ các điều răn của Thầy, các con sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,10). Chúa phán “nếu”, nghĩa là người ta có thể vâng và có thể không vâng. Tuỳ tự do của họ. Họ chịu trách nhiệm về sự tự do đó.
2/ Chọn lựa tự do theo sát hoàn cảnh Khi tự do chọn cách cộng tác với thánh ý Chúa, người môn đệ Chúa sẽ nhìn vào Phúc Âm và nhìn vào tình hình cụ thể. Nhìn vào Phúc Âm, để biết ý Chúa muốn gì. Nhìn vào tình hình cụ thể, để biết phải áp dụng ý Chúa một cách khôn ngoan và thiết thực. Một tình hình cụ thể lúc đó quá nghiêng về đời sống hưởng thụ và ham của cải, Chúa đã gọi thánh Phanxicô Assisi làm chứng cho Chúa bằng đời sống khó nghèo. Một tình hình cụ thể tại nơi đó đầy những lối sống xa cách và loại trừ kẻ nghèo, Chúa đã gọi Mẹ thánh Têrêsa Calcutta làm chứng cho Chúa bằng đời sống nội tâm và dấn thân cho kẻ nghèo. Bây giờ cũng vậy, làm chứng cho Chúa thì phải chọn cái gì là thách đố của thời nay và của nơi này. Thách đố của thời nay và của nơi này là về ý nghĩa cuộc đời. Khắp nơi đang nổi lên những ý nghĩa khác nhau về cuộc đời. Như hưởng thụ, sống là để hưởng thụ. Như tranh chấp, sống là mạnh được yếu thua. Như trống rỗng, sống là vô ý nghĩa, tha hồ trầm mình vào những gì gặp được. Như người sao ta vậy, sống là đi theo lối mòn vốn có. Như phục vụ, sống là phục vụ người khác. Phục vụ đúng thì phải chọn đúng đối tượng, làm đúng việc, theo đúng cách, vào đúng thời đúng nơi. Như thế có nghĩa là phải rất sát với hoàn cảnh thực tế. Người môn đệ Chúa sẽ phục vụ một cách tự do theo sát thực tế. Một thứ cảm quan sắc sảo về thực tế được coi là rất cần cho họ. Cảm quan sắc sảo đó sẽ được ban cho họ, khi họ tỉnh thức và cầu nguyện theo lời Chúa dạy (x. Lc 21,36).
3/ Ðược đổi mới Người môn đệ Chúa sẽ trở thành của lễ, khi được đổi mới. Ðổi mới đẹp lòng Chúa nhất là được chia sẻ sự sống của Chúa Giêsu. Sự sống mới ấy, tới lúc cao đỉnh, là khi chính Chúa Giêsu sống trong họ. Thánh Phaolô quả quyết: “Tôi cũng chịu đóng đinh vào thánh giá. Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,19-20). Tôi không bao giờ được thấy Chúa Giêsu sống trong ai. Nhưng khi gặp ai, mà người đó mang lại cho tôi một chút sự sống thiêng liêng, một chút tình thương cứu độ, một chút ánh sáng soi về cõi sau, tự nhiên tôi cảm thấy trong họ có Chúa Giêsu. Họ như một quán trọ tình thương, để những ai mệt mỏi có thể nghỉ ngơi. Họ như một chiếc đèn le lói soi cho những ai đi trong tăm tối được biết đàng phải đi. Theo tôi, họ là những người mang Chúa Giêsu đi vào đời. *** Hành trình của những người môn đệ Chúa trên đường dâng mình làm của lễ là như thế đó. Hành trình đó là một hành hương. Phải đi mãi, đi hoài. Ðừng đặt vấn đề thành công hay thất bại. Nhưng chỉ là một lời xin vâng cho suốt đời mình. Long Xuyên, ngày 26 tháng 11 năm 2008
Năm mới có thể ngưng hoặc hoạt động này hoặc tổ chức nọ, nhưng không thể ngừng chiến đấu Bùi-Tuần 1767
Năm mới có thể ngưng hoặc hoạt động này hoặc tổ chức nọ, nhưng không thể ngừng chiến đấu. Vẫn còn nhiều chiến đấu cũ. Sẽ lại nẩy sinh nhiều chiến đấu mới. Ở đây chỉ xin nói đến chiến đấu nội tâm, một thứ chiến đấu ở trong mỗi người chúng ta, một thứ chiến đấu cực kỳ quan trọng, có liên quan đến số phận đời đời.
1/ Nói chung về chiến đấu nội tâm được nói đến trong Phúc Âm Chiến đấu nội tâm là trận chiến giữa thiện và ác trong chính bản thân ta. Thánh Phaolô tả cuộc chiến đó thế này: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi cứ làm... Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì tôi lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi” (Rm,18-23). Trên đây, thánh Phaolô nói trống về sự thiện và sự ác. Nhưng sự thiện là cả một chuỗi dài, sự ác là cả một khối lớn. Hai thế giới đó kình địch nhau. Thánh Phaolô kể tên một số thành phần của hai bên. Bên tiêu cực được gọi là bên xác thịt. Bên tích cực được gọi là bên Thần Khí. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... “Còn hoa quả của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,19-23). Mỗi bên, tuy là chuỗi dài, nhưng vẫn chỉ là một phần nhỏ. Chúa Giêsu, khi đề cập đến những gì xấu phải bỏ, đã kể đến cách sống lỗi thời của một giai cấp, cách suy nghĩ không hợp chân lý của một nhóm tự cao tự đại, cách bảo vệ sai những giá trị của một truyền thống. Những thứ đó, chưa hẳn là tội, nhưng dễ đưa con người đến tội. Phải phấn đấu loại trừ chúng. Chúa Cứu thế còn để ý đến một điều cũng không là tội, nhưng phải chiến đấu xoá bỏ, đó là những mặc cảm tự tôn và tự ti. Sau cùng, Chúa Cứu thế đưa ra một tiêu chuẩn đơn gọn, để phân biệt điều gì không nên làm, điều gì nên làm. Tiêu chuẩn đó là thánh ý Chúa Cha. Ðức Mẹ Maria cũng dựa vào tiêu chuẩn vâng phục thánh ý Chúa, để phấn đấu trên đường về với Chúa. Ðể biết vâng phục thánh ý Chúa, người ta phải cầu nguyện và biết phân định. Vì thế, càng ngày người ta càng hiểu ý Chúa một cách rộng hơn.
2/ Chiến đấu nội tâm được nói tới thời nay Thời nay, thánh ý Chúa soi sáng cho cuộc chiến đấu nội tâm phải đi vào khoa học về con người và về xã hội. Khoa học về con người. Như tác động của tiềm thức và vô thức đến các lựa chọn của con người. Như ảnh hưởng của sức khoẻ đến tình hình nội tâm của mỗi người. Khoa học về xã hội. Như tác động của những đúng sai trong nền văn hoá vây quanh con người. Như hay dở trong các phương tiện truyền thông tối ngày ùa vào lòng trí con người. Như phải trái lẫn lộn trong các dư luận đa dạng lôi kéo con người. Như tốt xấu của môi trường gia đình, bạn bè, học đường ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của mỗi người. Như vậy, chiến đấu nội tâm sẽ không đơn thuần là nhị nguyên, mà là một mặt trận mênh mông phức tạp.
3/ Chiến đấu chiều sâu Hơn nữa, khi suy nghĩ sâu hơn một chút, chúng ta sẽ thấy chiến đấu nội tâm cần phải truy tìm những kẻ thù giấu mặt. Có những mầm mống đưa người ta đến thói quen dùng thời giờ vào những giải trí phù du, những bận tâm vô bổ, những chăm sóc vô ích dành cho mình. Có những áp lực của những nhóm quyền lực đưa người ta đến việc bon chen, giả dối, đặt tư lợi trên công ích. Có những mưu mô của những thế lực phá hoại đưa người ta đến việc đảo lộn trật tự đạo đức, như trọng hình thức phô trương hơn nội dung bác ái, trốn tránh tình yêu và tình nghĩa chân thực, mà chỉ còn tiền và hưởng thụ là lẽ sống. Ði sâu vào thực tại hôm nay, người ta được phép nghĩ là có một khối óc độc ác quỷ ma đang là tác giả cả một hệ thống phá hoại đạo đức. Chúa Giêsu không ngại quả quyết “sẽ đến lúc thủ lãnh thế gian (tức Satan) sẽ bị tống ra ngoài. Và khi Ta được treo lên, thì Ta sẽ kéo mọi người đến cũng Ta” (Ga 16,32). Lời Chúa Giêsu phán trên đây cho thấy chìa khoá chiến thắng là thánh giá Chúa Giêsu. Ta phải để cho tình yêu Chúa kéo ta lên với thánh giá Chúa. Ở đó, ta sẽ gặp được Thiên Chúa là tình yêu. Với chút suy tư trên đây về bổn phận chiến đấu nội tâm, chúng ta cầu chúc cho nhau biết chiến đấu trong suốt năm mới này. Hãy khiêm tốn và tỉnh thức cầu nguyện đón nhận sự Chúa kéo ta lên. Hãy khiêm tốn và tỉnh thức phấn đấu để cộng tác với Chúa đẩy lùi sự ác luôn tìm phá hoại sự thiện. Hãy nhìn lên thánh giá Chúa, nơi đó là cửa dẫn ta vào trời mới đất mới. Long Xuyên, ngày 8 tháng 12 năm 2008
Chưa bao giờ tôi cần hy vọng cho bằng lúc này. Bởi vì lúc này đang có nhiều thử thách. Thế giới Bùi-Tuần 1768
Chưa bao giờ tôi cần hy vọng cho bằng lúc này. Bởi vì lúc này đang có nhiều thử thách. Thế giới có nhiều suy thoái mới. Ðất nước có nhiều khó khăn mới. Riêng cá nhân tôi những giới hạn mới xem ra lớn hơn trước nhiều. Giới hạn về sức khoẻ đang hẹp lại. Giới hạn về khả năng làm việc đang xuống thấp. Ðang khi đó xung quanh tôi, nhiều hạnh phúc đã trở nên mong manh. Nhiều may mắn đã trở thành tai hoạ. Nhiều mơ ước đẹp đã trở thành ác mộng. Trước tình hình như thế, tôi đi tìm hy vọng, một hy vọng có nền tảng, một hy vọng vững bền cho tôi và cho mọi người mọi nơi. Nói đúng hơn, tôi không đi tìm, mà là đón nhận. Hy vọng đó là Ðức Giêsu Kitô, Chúa Cứu thế của tôi và của mọi người.
1/ Chúa Cứu thế kêu gọi “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy và hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy thì êm ái và gánh của Thầy thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Lời Chúa là hết sức đáng tin. Nhưng khi tin vào Lời Chúa trên đây, tôi nhận ra một điều rất lạ ở lời Chúa phán: “Anh em hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường”. Tôi hiểu sở dĩ Chúa sẽ an ủi được những ai mang gánh nặng, chính vì Người hiền lành và khiêm nhường. Và cũng có nghĩa là hãy học sống hiền lành và khiêm nhường như điều kiện đầu tiên, để được Chúa ủi an bồi dưỡng. Như vậy, hiền lành và khiêm nhường là dấu chỉ người của Thiên Chúa, là đặc điểm của Ðấng Cứu thế. Hy vọng của chúng ta. Lời Chúa phán trên xác định lời các thiên thần đã nói với các mục đồng: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người (tức Ðấng Cứu thế): Anh em sẽ gặp thấy một hài nhi bọc tã, nằm trong hang đá” (Lc 2,12). Hiền lành và khiêm nhường một cách cụ thể, có thể thấy được như vậy, là dấu chỉ đầu tiên để nhận ra Ðấng Cứu thế. Chính Ðấng Cứu thế hiền lành và khiêm nhường sẽ an ủi nâng đỡ chúng ta. Tôi hiểu như vậy. Tôi tin như vậy.
2/ Ðến với Chúa Giêsu Với sự hiểu biết và niềm tin đó, tôi vâng nghe lời Chúa Giêsu kêu gọi, mà đến với Người. Ðến gần Chúa, tôi thấy Ðức Mẹ và thánh Giuse. Hai Ðấng rất hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành và khiêm nhường làm cho đức tin các Ngài toả sáng, làm cho đức ái các Ngài toả hương thơm. Tôi đứng chung với những người thu thế tội lỗi, lùi lại đàng xa, cúi mặt xuống, đấm ngực, chỉ nói vắn tắt lời này: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Nói xong, tôi cảm thấy lòng nhẹ nhàng. Gánh nặng tội lỗi được Chúa cất đi. Tôi hiểu sự hiền lành khiêm nhường là điều kiện Chúa ban cho trước, để Chúa cất đi gánh nặng tội lỗi của tôi. Kinh nghiệm bản thân trên đây là rất quý giá. Từ kinh nghiệm đó, tôi nhận ra rằng: Gánh nặng nhất đè nặng con người chính là những gì nghịch với khiêm tốn hiền hoà. Kiêu ngạo độc ác là đầu mối mọi tai hoạ. Luxiphe là thần dữ thông minh chuyên gieo rắc kiêu ngạo và độc ác. Hai thứ này là những cỏ lồng vực. Chúng gieo vào đồng ruộng của Chúa, sống lẫn lộn với lúa để hại lúa (x. Mt 13,24-30). Thực tế cho ta thấy: Có những việc mang vẻ đạo đức, nhưng đã ra hư, vì bị nọc độc kiêu ngạo pha vào. Có những việc mang vẻ bác ái, nhưng đã ra xấu, vì bị nọc độc ganh tỵ độc ác làm biến chất. Ðúng là kiêu căng luôn giữ địa vị đầu mối trong bậc thang tội lỗi. Và đúng là khiêm nhường luôn giữ vai trò nền tảng mọi nhân đức. Từ những cảm nghiệm trên đây, tôi thấy hy vọng mà tôi đón nhận là rất sống động. Chính Chúa Giêsu là hy vọng. Hy vọng ấy sẽ đổi mới những ai đón nhận Người. Hy vọng ấy sẽ được ban tặng, nhưng không áp đặt. Những ai muốn đón nhận cần phải cộng tác bằng khiêm nhường và hiền lành. Khiêm nhường và hiền lành sẽ không hoàn hảo trong bất cứ chặng đường nào của đời sống nơi bất cứ ai. Nhưng luôn luôn sẽ là những tập tành không ngơi nghỉ, của một tinh thần người môn đệ Chúa: - Khiêm tốn sám hối, - Khiêm tốn cầu nguyện, - Khiêm tốn tỉnh thức, - Khiêm tốn hành động. Như vậy hy vọng cứu độ sẽ không bao giờ là một thứ hàng rẻ. Nó rất quý và khó. Tuy nhiên, luôn luôn và chính lúc này, vẫn có những chứng nhân của niềm hy vọng. Họ ở xa ta. Họ ở gần ta. Họ là những ánh sáng, ngay ở cuối đường hầm. Phải chăng năm 2009 này sẽ là một câu hỏi lớn đặt ra cho những chứng nhân của niềm hy vọng? Long Xuyên, ngày 16 tháng 12 năm 2008
Từ ít năm nay, ngày lễ thánh Gioan tông đồ (27/12) được gia đình tín hữu Long Xuyên nhận là Bùi-Tuần 1769
Từ ít năm nay, ngày lễ thánh Gioan tông đồ (27/12) được gia đình tín hữu Long Xuyên nhận là ngày Ðền ơn Ðáp nghĩa các Cha hưu. Thánh lễ được cử hành tại Nhà thờ Cần Xây, nơi có Nhà Hưu Dưỡng các linh mục giáo phận. Năm nay, Cha Phêrô Mai Ðức Vượng, chánh sở Cần Xây, mời tôi tham dự thánh lễ và chia sẻ. Với tấm lòng liên đới sâu xa, tôi xin chia sẻ về đời người giáo sĩ hưu dưỡng. Tôi gọi đời hưu là thời gian tích cực chuẩn bị đón Chúa đến. Trong thời gian chờ đợi này, người giáo sĩ hưu thường xuyên tha thiết với các việc sau đây: Cảm tạ, cảm ơn, cảm nhận, cảm thương và cảm nghiệm.
1/ Chúng tôi cảm tạ Chúa, vì Chúa đã yêu thương chúng tôi cách đặt biệt, khi Người gọi chúng tôi, chọn chúng tôi, sai chúng tôi đi. Người yêu thương chúng tôi mặc dầu chúng tôi tội lỗi, yếu hèn. 2/ Chúng tôi cảm ơn giáo phận, vì giáo phận là gia đình thiêng liêng của chúng tôi. Khi các thành phần dân Chúa đền ơn đáp nghĩa chúng tôi, chúng tôi hiểu sâu xa về tình yêu giáo phận. Tình yêu này chủ yếu là dành cho những con người cùng được sống chung với nhau trên dòng sông lịch sử thăng trầm. Họ gắn bó với nhau trong tình yêu thương thăng tiến, tha thứ và trung thành. 3/ Chúng tôi cảm nhận rõ ràng những người nâng đỡ chúng tôi. Họ thuộc nhiều thành phần trong Hội Thánh và trong xã hội. Nâng đỡ của họ là thường xuyên, là tế nhị, là lặng lẽ, là vị tha. 4/ Chúng tôi cảm thương sâu sắc mọi mảnh đời trên Quê Hương. Có những ngọt ngào và có những đắng cay. Có những ánh sáng và có những bóng tối. Có những điều xảy ra như dự báo, và cũng có những bất ngờ đau xót. 5/ Chúng tôi cảm nghiệm một cách xác tín về ơn Chúa. Chúa phán: “Không có Thầy, chúng con không làm gì được” (Ga 15,5). Lời đó đã là sự thực trong suốt cuộc đời chúng tôi. Năm chi tiết trên đây đều được diễn tả qua một ngôn ngữ chung, đó là cảm tình. Vì tình cảm, đối với chúng tôi, là ngôn ngữ dễ hiểu nhất. Ðể kết, tôi xin mượn lời thánh Phaolô viết gởi giáo đoàn Côrintô: “Không phải vì tự chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được việc gì, nhưng khả năng của chúng tôi là do ơn Chúa” (2 Cr 3,5). Bài chia sẻ vắn tắt này cũng được gởi gấm trong tinh thần ấy. Xin hết lòng cảm ơn anh chị em. Xin vui lòng tiếp tục cầu nguyện cho chúng tôi luôn được biết sống theo thánh ý Chúa. Long Xuyên, ngày 27/12/2008
Thời gian từ đầu năm 2009 đến nay là thời gian vắn. Tuy tương đối vắn, nó vẫn đủ cho mỗi người Bùi-Tuần 1770
Thời gian từ đầu năm 2009 đến nay là thời gian vắn. Tuy tương đối vắn, nó vẫn đủ cho mỗi người chúng ta có một chút kinh nghiệm nào đó, để làm nền cho mong muốn của mình về tương lai. Riêng tôi, chút kinh nghiệm đó thuộc về tôn giáo. Kinh nghiệm tôn giáo của tôi là thế này: Thời thế càng khó khăn, người ta càng đến với Chúa. Kinh nghiệm này được hướng dẫn bởi một đoạn văn của Phúc Âm thánh Marcô. “Ðức Giêsu cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Galilê, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giuđê, từ Giêrusalem, từ xứ Iđumê, từ vùng bên kia sông Giođan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xidon, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm... “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông ấy đến với Người” (Mc 3,7-13). Ðến với Chúa Giêsu là một hiện tượng đã xảy ra từ xưa. Nay cũng đang xảy ra lúc này. Ðám đông từ nhiều lãnh thổ đến với Chúa Giêsu. Các người được Chúa Giêsu gọi cũng đến với Chúa Giêsu.
1/ Ðến với Chúa Ðến với Chúa Giêsu là một cụm từ khác với đi theo Chúa Giêsu. Ðến với Chúa diễn tả một hành vi thân mật. Ðến với Chúa chứng tỏ họ nhìn Chúa là một Ðấng cứu thế, là một Ðấng sống động. Hơn nữa, tất cả họ đều là những người nhận mình thiếu thốn. Họ đến với Chúa, vì họ tin Chúa thương cảm và thương xót. Thương cảm là Chúa đồng cảm nỗi khổ đau thiếu thốn của họ. Chúa sẽ không nhìn họ một cách lạnh lùng, nhưng sẽ gần gũi họ, như cùng đau với họ, cùng khổ với họ. Thương xót là Chúa sẽ cứu giúp họ. Hoặc bằng cách cất đi khỏi họ những gánh nặng thể xác và tâm hồn. Hoặc bằng cách đem lại cho họ những nâng đỡ thiêng liêng, giúp họ cảm nếm được một hé mở nào đó của thế giới vô hình. Ðược gần gũi, được thương cảm, được thương xót là những tình cảm nhận được một cách trực tiếp từ Chúa. Tình cảm đó rất nhẹ nhàng, thuộc về bản thân từng người, tuỳ theo hoàn cảnh riêng tư của họ.
2/ Cảnh giác Kinh nghiệm đó là rất quý giá. Vì thế, mà ta phải nâng niu. Hơn nữa, ta phải cảnh giác đối với những gì gọi là đến với Chúa mà thực ra không hẳn là đến với Chúa. Ðể dễ hiểu, tôi xin phép kể lại một ví dụ do một người bạn đã kể. Một chiếc cầu chiến lược mới được xây cất. Vì tính cách quan trọng của chiếc cầu, Nhà Nước phái một tiểu đội đến bảo vệ. Tiểu đội ấy xây dựng nhà cửa cho mình. Họ cảm thấy cần đưa vợ con đến cùng chung sống. Họ lại xây dựng nhà cửa cho gia đình họ. Họ làm nên một số đông. Số đông ấy cảm thấy cần thoả mãn nhu cầu sinh sống của mình. Do đó, nảy sinh ra những xóm chợ, những quán ăn uống, những nơi giải trí. Chuỗi dài nhu cầu càng ngày càng dài thêm. Họ cần đến nhau, họ quan tâm đến nhau, họ bảo vệ nhau. Hậu quả là họ không còn chú trọng đến chiếc cầu, mặc dù chiếc cầu là yếu tố chính. Khi xảy ra chinh chiến, họ lo cứu họ, mà bỏ cứu cầu. Xin trở lại Chúa Giêsu hôm nay. Chúa Giêsu hôm nay vẫn là Ðấng sống động, Ðấng gần gũi, Ðấng thương cảm, Ðấng xót thương. Có những người đã đến với Người một cách dễ dàng. Họ đã gặp được Người. Nhưng cũng có những người đã đến với Người một cách khó khăn. Thậm chí có những người đã không gặp được Người. Lý do một phần có thể là do họ không thực sự muốn gặp Chúa, mà chỉ muốn dừng lại ở những gì gọi là thuộc về Chúa, nhưng chưa phải là Chúa. Hoặc một phần có thể là do những gì gọi là thuộc về Chúa đã không giúp họ đến gặp Chúa một cách nhẹ nhàng, nhiều khi còn cản họ. Kinh nghiệm cho thấy: Biết bao người nói là đến với Chúa, nhưng đã dừng ở luật Chúa, ở môn đệ Chúa, ở đền thờ Chúa, ở tổ chức của Chúa, ở môn học về Chúa. Họ rất dấn thân và rất nhiệt tình trong đời sống đạo. Nhưng họ vẫn không vượt qua được hàng rào giới thiệu và bảo vệ Chúa. Chính những hàng rào đó cản họ đến gặp Chúa.
3/ Nhìn lại xưa và nay Thánh sử Marcô nói là thời đó rất đông người từ những vùng xa nhau, khác nhau về tôn giáo, sắc tộc, đã đến với Chúa Giêsu. Kinh nghiệm bản thân của họ đã thuyết phục họ. Và họ đã kể lại cho những người khác về kinh nghiệm đẹp đẽ đó. Thánh sử Marcô cũng nói là thời đó những người được Chúa Giêsu gọi, đã đến với Chúa. Với kinh nghiệm về sự gặp Chúa Giêsu, họ đã thấy Tin Mừng là chính Chúa, chính Người là Ðấng cứu độ. Thời nay cũng đang xảy ra như hồi đó. Ðông đảo dân chúng đi đến với Chúa. Họ đã gặp Chúa là Ðấng rất gần gũi, rất thương cảm và rất thương xót. Thời nay nhiều người được Chúa gọi cũng đang kể lại về sự họ sẽ đến với Chúa, đã gặp Chúa, đã được Chúa cho thấy Người là Ðấng sống động, Ðấng đồng hành với những người đau khổ, Ðấng thương xót họ, Ðấng đã giúp họ biết thương yêu mọi người, như Chúa đã thương yêu họ. Kinh nghiệm trên đây cho phép tôi nói lên điều tôi mong muốn nhất lúc này và trong tương lai là: Các môn đệ Chúa hãy giúp mọi người đến với Chúa và gặp được Chúa, vì Chúa xót thương. Ðám đông hãy cứ đến với Chúa và tìm gặp Chúa, vì Người là Ðấng cứu độ. Ðến với Chúa một cách khiêm tốn, đầy phó thác. Gặp Chúa một cách sống động, với tất cả thân phận đích thực của mình. Lạy Chúa, Chúa cho con đến với Chúa và gặp được Chúa, đó là một hồng ân cao cả, con xin hết lòng cảm tạ Chúa đến muôn đời. Long Xuyên, ngày 9 tháng 01 năm 2009
Tôi được thụ phong linh mục ngày 02/7 năm 1955, tại Hồng Kông. Tôi dâng lễ mở tay ngày 11.7.1955 Bùi-Tuần 1771
Tôi được thụ phong linh mục ngày 02/7 năm 1955, tại Hồng Kông. Tôi dâng lễ mở tay ngày 11.7.1955 tại Long Phước Thôn, Việt Nam. 2. Trước thánh lễ, tôi quỳ xưng tội với cha Minh Đăng. Ngài khuyên tôi một điều quan trọng, đó là ơn trở về, đại khái ngài nói: “Linh mục thường hay khuyên người ta trở về với Chúa. Nhưng chính linh mục cần ơn đó hơn cả. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau được ơn biết đón nhận ơn trở về. Bởi vì Chúa ban ơn đó, nhưng rất nhiều người đã không đón nhận. Riêng các linh mục chúng ta dễ rơi vào loại người khó trở về. Bởi vì không nhận biết mình cần trở về”. 3. Hôm nay, nhìn vào chính mình, tôi thấy lời cha Minh Đăng khuyên tôi thực là thấm thía. Vì thế, kỷ niệm ngày thụ phong linh mục, tôi thường cảm tạ Chúa đã ban cho tôi ơn trở về, và cũng xin Chúa tiếp tục ban cho tôi ơn trở về. 4. Thú thực là tôi không mấy khi cảm tạ Chúa, vì ơn Chúa đã chọn tôi. Bởi vì biết bao trường hợp, người được Chúa chọn mà vẫn ra hư. Như trường hợp ông Giuđa Ítcariốt, kẻ được Chúa chọn, nhưng rồi hư hỏng bán Chúa, mà không biết đón nhận ơn trở về, mặc dầu Chúa sẵn sàng ban ơn đó. 5. Khác với trường hợp thánh Phêrô, ngài được Chúa chọn, nhưng cũng có lúc đã ra hư vì chối Chúa. May mà ngài biết đón nhận ơn trở về, khi ngài nhìn thấy Chúa nhìn ngài với bao xót thương. 6. Trở về với Chúa là một ơn Chúa ban. Có người đón nhận, có người không. Chính tôi, nhìn lại chuyến đi đời mình, tôi thấy nếu thiếu ơn Chúa, tôi cũng có lúc dễ rơi vào tình trạng không biết đón nhận ơn trở về. Nhất là do chủ quan, quen theo ý riêng mình, đang khi trở về thực chất là trở về vâng phục thánh ý Chúa, chứ không phải bắt Chúa phải theo ý chúng ta. 7. Nguy hiểm hơn nữa, là khi kỷ niệm thụ phong linh mục, chúng ta lại quá chủ quan, xin tạ ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta ơn xác hồn trắng tinh. Điều đó thực là quá đáng và cũng mâu thuẫn, bởi vì ngày nào cũng thú nhận mình đã phạm tội nhiều. 8. Trở về với Chúa, đó cũng là những lời tâm sự, mà một vài linh mục khi hấp hối đã nói với tôi, và xin tôi cầu nguyện cho các ngài được ơn đó. Bởi vì các ngài cho biết là không thiếu trường hợp Satan tấn công các ngài dữ dội, nó cố gắng lôi kéo các ngài trở nên cứng lòng, không muốn trở về với Chúa. 9. Riêng tôi, tôi luôn coi đời mình là một chuyến đi trở về với Chúa. Phải trở về từng ngày, từng giờ, từng phút. 10. Trước đây, khi còn khỏe, mấy lần được đến Ars viếng cha thánh Gioan Vianney, tôi mới thấy cha thánh coi việc trở về với Chúa là quan trọng đến thế nào. Ngài khuyên người ta trở về với Chúa và chính ngài trở về với Chúa một cách khiêm nhường khôn tả. 11. Trở về với Chúa cũng là điều tôi học được nơi Đức cha cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ kính yêu. Đối với Đức cha cố Micae, trở về với Chúa là luôn hướng lòng mình về Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Tượng nhỏ bằng nhôm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá luôn để ở đầu giường ngài, ngài hay nhìn lên đó, để dọn mình chết trong tâm tình trở về với Chúa. 12. Tượng đó nay để ở đầu giường tôi. Tôi hay nhìn lên tượng nhỏ đó và cùng với Chúa Giêsu mà nói với Chúa Cha: “Con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”. Tôi cùng với Chúa Giêsu trên thánh giá, mà trở về với Chúa Cha, trong tâm tình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Vâng phục thánh ý Chúa không hề là chuyện dễ. Tôi cầu xin ơn đó hằng ngày. 13. Ơn trở về, đó là ơn tôi cảm tạ Chúa, và cầu xin Chúa, trong những ngày kỷ niệm thụ phong linh mục và giám mục. Tôi cũng cầu xin ơn đó cho mọi linh mục gần xa. 14. Tôi đang trở về với Chúa. Trở về với Chúa, thiết tưởng cũng sẽ là trở về với từng người anh chị em, mà tôi yêu thương gắn bó. Tất nhiên cũng sẽ là trở về với giáo phận, với Hội thánh địa phương, và với quê hương Việt Nam yêu dấu. 15. Ơn trở về, đó là ơn Đức Mẹ Maria đã, đang và sẽ luôn cầu bầu cho tôi là đứa con yếu đuối, hèn mọn. Mẹ cho tôi biết ơn trở về luôn đi kèm với yêu thương, đau khổ và sám hối. Tôi trở về, vì tôi yêu. Tôi trở về, mặc dầu tôi phải khổ. Khổ mà vui. Tôi trở về, vì tôi sám hối ăn năn. Tôi yêu, tôi khổ, tôi sám hối không chỉ một mình, mà luôn có Mẹ ở bên. Mẹ dành cho tôi một chỗ đặc biệt trong trái tim Mẹ.
ĐỀ TÀI KHÓA THƯỜNG HUẤN LINH MỤC TẠI LONG XUYÊN NĂM NAY LÀ ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN TÔI XIN ĐƯỢC GÓP Ý + GB. Bùi Tuần
Trước đây, đạo đức bình dân tại Việt Nam có một nét nổi, đó là lòng kính trọng các Đức cha và Bùi-Tuần 1772
Trước đây, đạo đức bình dân tại Việt Nam có một nét nổi, đó là lòng kính trọng các Đức cha và các linh mục. Nhưng nay nét nổi đó đang mờ nhạt đi. Giáo dân nhiều nơi không những không còn kính trọng các Đấng, mà còn khinh chê, chống đối ra mặt. Đó là một thảm họa. Vậy nên làm gì? Thưa các giám mục, linh mục chúng ta nên sửa mình, trở về với Chúa một cách chân thành hơn. Cách riêng, nên để ý bốn điểm này: 1. Cầu nguyện nhiều hơn. 2. Sống khổ chế. 3. Giảng Lời Chúa, chứ đừng giảng là thông tin này nọ. 4. Đem lại cho con người hiện nay lòng thương xót Chúa, giới thiệu Chúa giàu lòng thương xót bằng cách sống của chúng ta là biết thương xót con người đau khổ. Long xuyên, ngày 03.6.2019
Ngay từ đầu khóa thường huấn linh mục Long Xuyên, tôi đã được thu hút bởi đề tài của khóa thường Bùi-Tuần 1773
Ngay từ đầu khóa thường huấn linh mục Long Xuyên, tôi đã được thu hút bởi đề tài của khóa thường huấn là đạo đức bình dân. Đang khi tôi cao hứng ca ngợi những hình thức đạo đức bình dân, coi đó như những giá trị đạo đức quí giá cần duy trì và phát triển, thì đột nhiên, đêm vừa rồi, tôi được thị kiến khiến tôi bàng hoàng. 2. Tôi muốn giữ cho riêng mình thị kiến đó, nhưng để nhẹ lương tâm, tôi xin chia sẻ điều chính yếu. Qua thị kiến, Chúa cho tôi hiểu: Đạo đức bình dân gồm nhiều hiện tượng đạo đức phức tạp. Có thứ trong ngoài đều tốt, có thứ chỉ tốt phần nào bên ngoài, còn bên trong thì xấu. 3. Vì thế, cần phải biết phân định, xem thứ nào là thực tốt cả ngoài lẫn trong trước mặt Chúa. Theo Phúc âm, thì điều hay làm cho đạo đức bình dân trở thành xấu, đó là phô trương. Phô trương lẻn vào động cơ đạo đức. 4. Chúa Giêsu đã rất rõ khi Chúa cảnh cáo ba thứ đạo đức bình dân sau đây: “Khi bố thí, làm viêc từ thiện, thì đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội trường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen, Thầy bảo thật các con, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn các con, khi bố thí, làm việc từ thiện, thì đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí từ thiện được kín đáo. Và cha các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ thưởng công cho các con” (Mt 6, 2-4). 5. “Khi cầu nguyện, cũng đừng phô trương. Nhưng hãy kín đáo” (Mt 6, 5-6). 6. “Khi ăn chay, cũng đừng phô trương, nhưng hãy kín đáo” (Mt 6, 16-17). Sở dĩ Chúa Giêsu cảnh báo phô trương là tính xấu cần tránh trong đạo đức, bởi vì tính xấu đó rất phổ biến, rất mạnh trong dân hồi đó. 7. Thiết tưởng, hiện nay, tính xấu đó cũng không hề bớt. Vì thế mà chúng ta cần cảnh giác. Phải cảnh giác trước hết nơi chính bản thân mình. 8. Riêng tôi, nếu không tỉnh thức, cũng không tránh được tính xấu đó. Nhiều khi, nói là tổ chức các cuộc lễ lạy đạo đức trọng thể, để làm sáng danh Chúa. Nhưng, nếu không tỉnh thức, thì cũng có chút phô trương chính mình và các công trình của mình. 9. Để tránh phô trương trong các việc đạo đức, thánh Augustinh khuyên hãy luôn luôn để ý đến lửa mến trong mình. “Tôi có thực mến Chúa không?” 10. Để tránh phô trương trong các việc đạo đức, thánh Phanxicô Assisi luôn nhấn mạnh đến khiêm nhường. “Tôi có thực sự khiêm nhường không?” 11. Phô trương là điều Đức cố Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ rất ghét. Tôi đã nhiều lần chứng kiến cảnh nổi nóng của Đức cha cố, khi ngài thấy ai trong con cái ngài phô trương, Ngài rất nghiêm khắc với những ai có tính phô trương, rồi từ đó hay ghen tương, tranh chấp, vu khống theo tinh thần thế tục. 12. Trên đây là chút tâm sự sau cùng của tôi về đạo đức bình dân. Còn về thị kiến đêm rồi, thì tôi sẽ không bao giờ dám nhắc tới. Vì nó rất kinh khủng về phô trương. Xin Chúa thương xót chúng ta. 13. Tuy nhiên, lúc này tôi đang được an tâm, nhờ Đức Mẹ. Mẹ ở bên tôi. Mẹ an ủi tôi. Mẹ chia sẻ cho tôi lòng đạo đức của Mẹ: Mẹ làm gì cũng vì mến Chúa, cũng rất khiêm nhường. Mẹ chẳng bao giờ coi việc phải lên tiếng gay gắt chê bai, kết án là đạo đức, Mẹ chỉ tha thiết kêu gọi sám hối. Mẹ chẳng bao giờ khoe khoang mình là kẻ có công trạng này nọ. Mẹ coi mọi sự tốt mà Mẹ có được đều do ơn Chúa ban cho nhưng không. Mẹ chẳng bao giờ cho mình là một quyền lực để mà phô trương. Nhưng Mẹ luôn sống trong tâm tình tạ ơn khiêm tốn. Xin Mẹ thương giúp chúng ta sống đạo đức bình dân một cách trong sáng, đẹp lòng Chúa. 14. Thánh Giuse cũng là một gương rất sáng về đạo đức bình dân. Ngài không bao giờ phô trương và tranh chấp. Ngài luôn khiêm nhường, chôn vùi, và phục vụ như người hầu hạ. Long xuyên, ngày 05.6.2019
THÁNH LỄ MỪNG SINH NHẬT THÁNH GIOAN BAOTIXITA + GB. Bùi Tuần 1.
Trong bầu khí thân mật của thánh lễ mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita, tôi xin được chia sẻ Bùi-Tuần 1774
Trong bầu khí thân mật của thánh lễ mừng sinh nhật thánh Gioan Baotixita, tôi xin được chia sẻ với anh chị em ơn Chúa đang ban cho tôi, để theo chân thánh Quan Thầy Gioan Baotixita, mà dọn đường cho Chúa, lúc này và tại đây. Ơn Chúa ban gồm ba sự kiện sau này: Thứ nhất, Chúa khuyến khích. Thứ hai, Chúa nhấn mạnh. Thứ ba, Chúa tạo hình. Tôi sẽ nói vắn gọn về từng sự kiện. 2. Về sự kiện thứ nhất tôi được là Chúa khuyến khích. Rất nhiều người, nhất là thuộc các tôn giáo bạn và thuộc chính quyền hay nói với tôi: “Cụ giám mục là người của Chúa, bởi vì chúng tôi thấy cụ luôn thao thức về Chúa, đó là điểm chúng tôi nhận thấy trong những gì cụ viết và những gì cụ nói”. Khi được dư luận gần xa gọi mình là người của Chúa, hay thao thức về Chúa, tôi rất vui và rất được khích lệ. Tôi xin hết lòng cảm ơn tất cả những người đã khích lệ tôi. Người của Chúa là người Chúa sai đi, chính dư luận nhắc cho tôi điều đó, để tôi nhớ về ơn gọi của mình. Mà Chúa là Đấng lo cứu con người. 3. Về sự kiện thứ hai là sự Chúa nhấn mạnh. Chúa thường đưa ra một hai điểm, và đó là điểm nhấn. Điểm mà Chúa nhấn mạnh nhất và trước hết trong tôi là hãy sống mật thiết với Chúa: “Như Cha ở trong con, Và như con ở trong Cha Xin Cha cho họ ở trong chúng ta” (Ga 17, 21). Sống mật thiết với Chúa, đó là điều tôi sung sướng thực hiện mọi nơi mọi lúc. Một trong những cách tôi sống mật thiết với Chúa là hay thầm hát: “Thánh ý Ngài là gia nghiệp đời con”. Dần dần tôi hiểu thánh ý Chúa là muốn tôi cùng với Chúa đắp nên những con đường yêu thương vô hình trong các tâm hồn. Để được thế thì phải rất khôn ngoan, tận dụng những sự bé nhỏ cho dù như hạt cát. Con đường yêu thương vô hình được đắp nên trong các tâm hồn một cách kiên trì, âm thầm không do cố gắng, mà nhờ khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, đó là điều Chúa thường nhấn mạnh. 4. Về sự kiện thứ ba là sự Chúa tạo hình. Hình ảnh mà Chúa hay gợi ra trong tôi, là hình ảnh kẻ trở về. Chúa nói với tôi: Con là kẻ được sai đi, con là kẻ được kêu gọi sống mật thiết với Chúa. Nhưng con rất yếu đuối, hay sai lỗi, nên con hãy là kẻ trở về. Con người trở về, sống ơn trở về, với niềm cậy trông phó thác nơi lòng thương xót Chúa, để cùng với Chúa biết xót thương con người, đó là những bước đi của tôi lúc này; tại đây. 5. Những gì tôi vừa chia sẻ trên đây không dám là mô hình cho ai. Những người khác có thể có những cách khác, để dọn đường cho Chúa. Tôi chỉ chia sẻ, để cảm tạ Chúa trong tinh thần hiệp thông chân thành sâu sắc. 6. Thưa anh chị em thân yêu, tôi đang sống ơn gọi là như thế. Tôi cũng sẽ chết với ơn gọi đó. Kẻ trở về là tôi đây rất tập trung vào lòng thương xót Chúa. 7. Do vậy, dù sống dù chết, tôi vẫn dọn đường cho Chúa theo những ơn Chúa ban cho tôi, trong đó có ơn trở về. 8. Và tôi tin, sống như vậy sẽ là cách sống đẹp lòng Chúa và sống có ích cho anh chị em và cho Hội thánh và cho quê hương Việt Nam yêu dấu. 9. Và tôi tin, anh chị em, dù yếu đuối đến đâu, vẫn có thể dọn đường cho Chúa, nếu anh chị em coi sự trở về là con đường tốt nhất, thích hợp nhất cho anh chị em. 10. Tôi hết lòng cảm ơn Đức cha giáo phận, Giuse Trần Văn Toản và tất cả giáo phận vì thánh lễ bổn mạng của tôi được tổ chức đơn sơ mà ấm cúng. Chúng ta được gặp nhau, được xum họp bên Chúa, bên Đức Mẹ, và bên thánh Gioan Baotixita để trở về, thực là hồng phúc. Biết đâu đây là lần cuối cùng đối với một số người trong chúng ta. Do vậy, mà chúng ta phải biết quí trọng ơn Chúa ban từng phút hiện tại. 11. Riêng đối với tôi, trở về là một hình ảnh gợi lên sự ấm áp, sự thân thương, sự bình an, và hy vọng. Xin anh chị em cầu cho tôi được luôn sống ơn trở về, như một cách dọn đường cho Chúa. Tôi thường nhìn thấy Cha chúng ta trên trời âu yếm gọi tôi và đợi ôm lấy tôi là đứa con bé nhỏ tội lỗi yếu đuối trở về. Long xuyên, ngày 24.6.2019
Tỉnh thức”, đó là lời khuyên quan trọng Chúa Giêsu đã nhắn gởi các môn đệ của Người (x. Mc 14,38). Bùi-Tuần 1775
“Tỉnh thức”, đó là lời khuyên quan trọng Chúa Giêsu đã nhắn gởi các môn đệ của Người (x. Mc 14,38). “Tỉnh thức”, đó cũng là đức tính mục tử, mà tôi luôn học hỏi nơi Ðức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Ở đây, tôi chỉ xin được nói lên một chi tiết nổi bật về tinh thần tỉnh thức của Ngài. Chi tiết nổi bật đó là Ngài chọn những ưu tiên thích hợp trong nhiều tình hình phức tạp của Ðất Nước và của Giáo Hội.
1/ Ưu tiên cho việc đào tạo và chọn lựa nhân sự Trước hết là đào tạo các linh mục. Con đường đào tạo khá dài. 07 năm ở Tiểu chủng viện, 07 năm ở Ðại chủng viện, 02 năm đi giúp xứ. Ðạo đức, trí thức, tổ chức, đó là những mặt đào tạo. Ðào tạo lâu, chọn lựa kỹ. Số người được gọi lên chức linh mục thường rất ít. Số người còn lại sẽ sống ơn gọi giáo dân giữa đời với ý thức trách nhiệm cao. Cùng với việc đào tạo linh mục, Ðức Cha Micae đã có kế hoạch đào tạo các thầy giảng chuyên việc dạy giáo lý. Một chi tiết coi như nhỏ, nhưng lại rất lớn, đó là đào tạo và chọn những người để gánh trọng trách. Năm 1973, Ðức Cha hỏi ý kiến các linh mục trong địa phận về những ai mà lương tâm các ngài xét là có thể làm giám mục. Bổ phiếu kín, nhưng công khai tuyên bố kết quả. Sau cùng, hai vị đứng đầu danh sách được Toà Thánh trao trọng trách, một ở Xuân Lộc, một ở Long Xuyên.
2/ Ưu tiên cho việc phát triển giáo dục Ðức Cha Micae luôn cố gắng tham gia vào việc phát triển con người và đời sống con người. Ðặc biệt, Ngài đặt ưu tiên cho việc phát triển giáo dục. Tại các giáo xứ, Ngài thường khuyên: Xây nhà trường, trước, xây nhà thờ sau. Cuối cùng mới xây nhà xứ. Các trường học công giáo đã đem lại vô số lợi ích cho đồng bào, không phân biệt lương hay giáo.
3/ Ưu tiên cho việc nêu gương sáng Xưa, Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 9,23). Lời Chúa phán trên đây được đáp ứng một cách sống động nơi Ðức Cha Micae. Nếp sống khắc khổ, khắc kỷ của Ðức Cha Nguyễn Khắc Ngữ là một gương sáng không cần bàn cãi. Người ta cũng sẽ thấy lời Chúa dạy trên đây được rõ nét, nơi nếp sống tự đào tạo mình của Ðức Cha Micae với tinh thần kỷ luật thường xuyên. Người ta cũng sẽ thấy lời Chúa dạy trên đây được thực hiện quyết liệt, khi Ðức Cha Micae khước từ mọi hình thức phô trương, lãng phí. Với nếp sống khó nghèo, khiêm hạ, từ bỏ mình, Ðức Cha Micae luôn là một chứng nhân cho những giá trị vô hình của Ðức Kitô.
4/ Ưu tiên cho việc vâng phục thánh ý Chúa Thánh ý Chúa được tỏ hiện nơi Phúc Âm, nơi bổn phận mỗi người, nơi những dấu chỉ thời đại trong lịch sử. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã là một dấu chỉ được cắt nghĩa khác nhau. Ðối với Ðức Cha Micae, đó là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Nhìn nhận như vậy, Ngài đã thay đổi chương trình của Ngài. Ngài tự nguyện rút vào bóng tối, vẫn giữ nguyên vị, nhưng không giữ toàn quyền. Ngài trao hầu hết quyền cho một người, mà Ngài biết là yếu đuối về mọi mặt. Còn Ngài thì sống âm thầm, nâng đỡ âm thầm, cố vấn âm thầm. “Sao cho đúng nhưng đừng đụng” Ðức Cha Micae khuyên tôi như vậy. Lời khuyên đó chứng tỏ tinh thần ôn hoà, tìm ổn định và phát triển Nước Trời với những sáng kiến của tinh thần yêu thương. *** Khi tôi viết bài chia sẻ này, giáo phận Long Xuyên đã mừng kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của Ðức Cha Micae. Với tuổi 100, Ðức Cha Micae vẫn minh mẫn, vẫn khoẻ mạnh. Ðôi mắt sáng, nét mặt thanh thản, nụ cười hồn nhiên, tay ít khi rời chuỗi tràng hạt Mân Côi. Ngài vẫn là người cha canh thức cho đoàn chiên. Xin hết lòng tạ ơn Chúa giàu lòng thương xót. Xin tận tình biết ơn Ðức Cha rất đáng kính yêu của chúng con. Long Xuyên, ngày 22 tháng 02 năm 2009
Tôi yêu mến Hội Thánh Việt Nam của tôi. Tôi đã, đang và sẽ trung thành gắn bó với Hội Thánh Bùi-Tuần 1776
Tôi yêu mến Hội Thánh Việt Nam của tôi. Tôi đã, đang và sẽ trung thành gắn bó với Hội Thánh Việt Nam của tôi. Trong tình mến yêu tha thiết, tôi cầu mong cho Hội Thánh Việt Nam được tồn tại và phát triển đúng hướng. Do đó, tôi có những cầu mong sau đây:
1/ Hội Thánh Việt Nam hãy luôn là Hội Thánh của Ðức Kitô Một vài nơi đang có triệu chứng biến Hội Thánh Ðức Kitô thành Hội Thánh của giáo sĩ. Giáo sĩ kiểu đó cai trị giáo đoàn một cách tuỳ tiện. Ít dựa vào Phúc Âm, Công đồng, Giáo luật. Giáo sĩ như vậy dễ trở thành Pharisêu, mà Chúa Giêsu đã lên án gay gắt (x. Mc 7,1-7). Tính tự mãn sẽ làm cho những giáo sĩ ấy lười học hỏi, suy tư, tự đào tạo, dần dần dẫn tới chỗ suy giảm về trí thức và đạo đức.
2/ Hội Thánh Việt Nam hãy luôn sống tự do Ðó đây đang có dấu hiệu cho thấy Hội Thánh Việt Nam ở một số nơi đang bị dụ dỗ, bị khống chế bởi ba chước cám dỗ, mà Chúa Giêsu xưa đã trải qua trong hoang địa, đó là: - Ham mê tiền bạc của cải, - Ham mê danh vọng, quyền lực thống trị, - Ham mê quyền phép phi thường (x. Lc 4,1-13). Trong ham mê được quyền phép phi thường, có cơn cám dỗ thích trở thành người chiến thắng, Giáo Hội chiến thắng. Sa vào những cám dỗ là mất tự do tâm hồn, không làm chứng được cho một Hội Thánh tự do trong Chúa Thánh Thần.
3/ Hội Thánh Việt Nam hãy sống cho tương lai Một số người vẫn tiếc nuối quá khứ, khát khao chiếm lại quá khứ. Thiết tưởng Chúa muốn Giáo Hội ta hãy sống cho tương lai. Chúa Thánh Thần luôn tạo dựng những sự tốt đẹp mới. Sống cho tương lai là tham gia vào việc xây dựng tương lai của Hội Thánh và của Ðất Nước một cách tin tưởng nơi Chúa. 4/ Hội Thánh Việt Nam hãy là Hội Thánh hiện diện Nếu xã hội này muốn không cần đến Giáo Hội, thì không vì thế Giáo Hội chủ trương vắng mặt. Sự hiện diện một cách nhã nhặn vẫn có lợi hơn là vắng mặt. Hiện diện cần nhất là trong lãnh vực văn hoá và xã hội... Muốn sự hiện diện trở thành hữu ích, thì cần phải đào tạo nhân sự. Trong một xã hội vật chất, sự hiện diện của Giáo Hội mang những giá trị thiêng liêng là một cách làm chứng cho Chúa.
5/ Hội Thánh Việt Nam hãy là một Hội Thánh khiêm nhường thanh thoát, bạn của những người nghèo Thượng Hội đồng các Giám mục Á Châu đã lưu ý các Giáo Hội tại Á Châu hãy quan tâm đến những người nghèo một cách đặc biệt. Giáo Hội hãy nêu gương về sự thanh thoát trong cảnh sống bình dị, và về sự chăm sóc những người nghèo. Về mặt mục vụ, hãy biết sống nghèo khó, luôn cậy nhờ ơn Chúa, chứ không hãnh diện về các phương tiện tự nhiên của mình. Sống nghèo, lo cho người nghèo sẽ là những chọn lựa tốt để làm chứng cho Chúa trong xã hội hôm nay.
6/ Hội Thánh Việt Nam hãy là Việt Nam Không thiếu dư luận cho rằng: Giáo Hội Việt Nam bị ảnh hưởng hơi nhiều của Tây phương. Mong rằng quả quyết đó là sai. Nhưng Hội Thánh Việt Nam cũng nên để ý: Nếu người công giáo Việt Nam lúc này không “Sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc” một cách thiết thực với nhiều sáng kiến và dấn thân, cứ hướng về ngoại quốc một cách ngây thơ, thì chất “Việt Nam” sẽ giảm một cách đáng tiếc. Lúc đó, Giáo Hội sẽ không dễ tìm được một chỗ đứng, như mình mong muốn. *** Khi nói lên những cầu mong trên đây, tôi chỉ có ý chia sẻ những thao thức âm thầm của bao người trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Xin Chúa thương ban phúc lành cho sự chia sẻ bé nhỏ này. Long Xuyên, ngày 10 tháng 02 năm 2009
Giữa tháng 02/2009 này, Phái đoàn Toà Thánh sẽ sang Việt Nam. Ðược biết đây là tổ hỗn hợp Bùi-Tuần 1777
Giữa tháng 02/2009 này, Phái đoàn Toà Thánh sẽ sang Việt Nam. Ðược biết đây là tổ hỗn hợp của Toà Thánh sẽ gặp tổ hỗn hợp của Việt Nam, để làm việc về vấn đề thiết lập bang giao. Ðối với tôi, đây là sự kiện hứa hẹn mừng vui và hy vọng. Người ta có quyền coi đây là một dấu hiệu tích cực cho những bước đầu của một lộ trình dài. Ðối với những người canh thức của Nước Trời, thì sự kiện này không xảy tới lẻ loi, nhưng xen kẽ vào nhiều vui mừng và hy vọng đang có tại Việt Nam hôm nay. Ðối thoại sắp tới chỉ là một sự kiện nổi. Còn có nhiều đối thoại khác đang hằng ngày diễn ra âm thầm, mà hiệu quả thì rất lớn. Ở đây, tôi xin phép nhắc tới vài đối thoại âm thầm.
1/ Ðối thoại bằng đời sống phục vụ Tại Việt Nam hôm nay, Giáo Hội chú ý nhiều đến phục vụ yêu thương. Nhiều cá nhân và nhiều cộng đoàn đã và đang thực hiện tốt sứ vụ đó. Những việc phục vụ và đời sống yêu thương, tự nó sẽ là những tiếng nói. Tiếng nói tuy âm thầm, nhưng đầy thuyết phục. Xưa, thánh Gioan Baotixita sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu xem Người có phải là Ðấng phải đến không. “Ðức Giêsu trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5). Hôm nay, tại nhiều nơi, qua việc bác ái của nhiều người, Giáo Hội Việt Nam cũng có thể nói tương tự như thế. Cuộc đối thoại kiểu đó dựa vào những phục vụ bác ái yêu thương về nhiều mặt. Hiệu quả mang tính cách cứu người, cả về vật chất lẫn tinh thần, ở nhiều mức độ khác nhau. Người công giáo sống bác ái, làm việc bác ái, đó là một cách đối thoại tuy âm thầm, nhưng đã mang lại niềm vui và hy vọng không nhỏ cho đồng bào Việt Nam.
2/ Ðối thoại bằng sống đức tin dưới hình thức bé nhỏ, khiêm tốn, hiền hoà Trong Phúc Âm Chúa dạy: “Các con hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người hiền hậu và khiêm nhường là dấu chỉ của Chúa Cứu thế. Bao người đang sống như thế trong nếp sống bé nhỏ âm thầm. Trong một xã hội cạnh tranh, giữa những phong trào phô trương và loại trừ, họ là những người sẵn sàng đón nhận những người khổ đau cô đơn, để chia sẻ, để băng bó, để cùng đồng hành âm thầm với nhau. Họ giống như những tia sáng nhỏ trong mênh mông bóng tối. Họ tìm đến nhau, làm nên một sức sống thiêng liêng, mang lại tươi mát cho cuộc đời lữ khách. Cách sống của họ là một đối thoại không lời. Xưa Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong con người khiêm hạ của Ðức Kitô, thì nay, Chúa cũng đang tỏ mình ra trong những thân phận bé nhỏ, bị chôn vùi trong lớp người hèn yếu. Tuy nhiên, họ vẫn mang mừng vui và hy vọng. Bởi vì họ có Chúa trong họ.
3/ Ðối thoại bằng đời sống cầu nguyện, bí tích và Lời Chúa Tại Việt Nam hôm nay, phần đông người công giáo rất siêng cầu nguyện, lui tới các bí tích và học hỏi Lời Chúa. Những việc đó là những việc trở về với Chúa, gắn bó với Chúa. Qua những việc ấy, người công giáo cảm nghiệm được phần nào Thiên Chúa là tình yêu. Họ được Chúa biến đổi dần dần thành những con người mới. Biết bao người đã nhận rằng: Nhờ cầu nguyện, Lời Chúa và các bí tích, họ đã được ủi an, được giải cứu, được chữa lành các bệnh tật linh hồn. Ðời sống của họ là một cuộc đối thoại với Chúa, nhờ đó họ xây dựng liên hệ bác ái với mọi người, trở nên người biết phục vụ công ích. Người cầu nguyện, sống Lời Chúa, lui tới các bí tích có nhiều khả năng mang nhiều mừng vui và hy vọng cho những ai họ gặp gỡ. Ðó là những đối thoại phong phú.
4/ Ðối thoại bằng đời sống tham gia xây dựng lịch sử Ðất Nước Cũng như mọi nơi, tại Việt Nam, đạo và đời xen lẫn vào nhau. Người có đạo không tách mình ra khỏi đời. Trái lại, họ hân hoan tham gia vào việc xây dựng lịch sử Ðất Nước. Tham gia bằng sự hiện diện tích cực và bằng những hoạt động tốt trong mọi lãnh vực, mà họ được làm và làm được. Trong tham gia, họ biết phân định thiện ác, phát triển điều thiện, đẩy lùi điều ác. Như vậy, nhờ đức tin, họ sẽ là những người khám phá những giá trị cao đẹp, cả ngay trong những chặng đường suy thoái và khó khăn nhất. Ðối thoại của họ với xã hội là chân thành. Họ được chấp nhận và kính trọng. Một đối thoại tế nhị sẽ có sức đưa tâm hồn người ta về với chân lý của Chúa. *** Bốn cách đối thoại trên đây đang được thực hiện tại Việt Nam. Ðối thoại thường xuyên, đối thoại khắp nơi, đối thoại thiết thực, đối thoại gần gũi. Những đối thoại này vì thế phải được coi là rất quan trọng. Ðây không phải là thời sự của vài ngày, nhưng là thời sự của suốt dòng lịch sử. Tuy nhiên, tình hình hiện nay cho phép tôi nhìn cuộc đối thoại sắp tới giữa Toà Thánh Vatican và Việt Nam là sự kiện quan trọng khác thường. Chúng ta đợi chờ với tâm hồn cầu nguyện và lạc quan. Mừng vui và hy vọng sẽ được truyền đi từ cuộc đối thoại lịch sử sắp tới. Mừng vui và hy vọng cũng đã và đang được toả ra tại nhiều nơi từ những cuộc đối thoại chân thành thường xuyên giữa Ðạo và Ðời trên quê hương chúng ta. Mọi đối thoại đều là dụng cụ của Chúa. Chúa mới là chính. Người dùng mọi sự để phát triển Nước Trời. Nước Trời gồm tất cả những ai yêu chuộng hoà bình, chân lý và yêu thương. Nước Trời phát triển một cách huyền nhiệm, không lệ thuộc vào thành tích, thống kê, dư luận và ý riêng của con người. Vì Chúa đối thoại với từng người trong thẳm sâu tâm hồn họ. Long Xuyên, ngày 7 tháng 02 năm 2009
Hôm nay, giáo phận Long Xuyên mừng Ðức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ thọ 100 tuổi (02/02/1909 Bùi-Tuần 1778
Hôm nay, giáo phận Long Xuyên mừng Ðức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ thọ 100 tuổi (02/02/1909-02/02/2009). Ðể mừng Ngài, chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho Ngài vô vàn ơn thiêng. Ơn chung và ơn riêng. Trong những ơn riêng, tôi thấy có một ơn đặc biệt Ðức Cha đã và đang đón nhận, đã và đang dùng, để phục vụ Hội Thánh nói chung và giáo phận Long Xuyên nói riêng. Ơn đặc biệt đó là Ngài dùng chính đời sống mình, để: “Tuyên xưng việc Chúa tử nạn, - tuyên xưng việc Chúa sống lại, - và tuyên xưng việc Chúa đang đến”. Ba tuyên xưng đó là giáo lý căn bản, gắn liền với trung tâm thánh lễ. Ðức Cha Micae tuyên xưng không phải bằng lời nói mà bằng đời sống.
1/ Ðức Cha Micae tuyên xưng Chúa Giêsu chịu tử nạn Suốt đời Ðức Cha là một chuỗi tuyên xưng về Chúa tử nạn. Nhưng trong mấy chục năm nay, càng ngày Ngài càng đi vào mầu nhiệm thánh giá. Nhờ đó Ngài càng tuyên xưng ơn Ngài được tham gia vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Tham gia đó không là một lựa chọn bất đắc dĩ, nhưng là một vâng phục sáng suốt. Hơn nữa, đó là một ơn gọi đầy vinh dự. Thánh Phaolô viết: “Quả vậy, Ðức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng. Rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Ðức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa... Hồi còn ở với anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô, mà là Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 1,17-18;2,2). Thánh Phaolô đã viết về bản thân Ngài như thế. Thiết tưởng Ðức Cha Micae cũng đang theo thánh Phaolô viết cho chúng ta như vậy. Viết bằng chính đời sống thánh giá của Ngài. Một thánh giá có sức cứu độ, một thánh giá được chia sẻ từ thánh giá Ðức Kitô.
2/ Ðức Cha Micae tuyên xưng Chúa Giêsu phục sinh Ngài tuyên xưng Chúa Giêsu phục sinh bằng sự Ngài không ngừng trở nên con người mới, con người hoà giải. Thánh Phaolô viết: “Phàm ai ở trong Ðức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Ðấng đã nhờ Ðức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.... Vì thế, chúng tôi là sứ giả hoà giải thay mặt Thiên Chúa” (2 Cr 5,17-20). Như vậy, cầu nguyện cho mọi người được hoà giải với Chúa và được hoà giải với nhau, đó là một hiện diện sống động của Chúa phục sinh giữa thế gian này. Ðức Cha Micae đang tích cực tham gia vào sự hiện diện đó. Nhờ vậy, mà bao tâm hồn đã được phục sinh, để cùng nhau làm chứng cho một Nước Trời gồm những người góp phần xây dựng sự hoà giải và bình an trong Chúa.
3/ Ðức Cha Micae tuyên xưng việc Chúa đang đến Tác giả bức thư gửi Do Thái viết: “Vì chỉ còn ít lâu nữa, một ít thôi, Ðấng phải đến sẽ đến. Người sẽ không trì hoãn...” (Dt 10,37-38). “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Ðức Kitô là Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2). Mấy lời trên đây của thư gửi Do Thái nhấn mạnh đến niềm hy vọng và lòng tin vào lời Chúa hứa, đặc biệt là lời Chúa hứa sẽ được Chúa đem về quê hương trên trời. Ðức Cha Micae đang hy vọng và tin mạnh mẽ như thế. Hy vọng của Ngài, lòng tin của Ngài làm cho Ngài phấn khởi. Dù ở mãi một chỗ, nhưng Ngài vẫn như chạy đua đi đón Chúa đang đến với Ngài. *** Với vài suy nghĩ trên đây, chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta Ðức Cha Micae. Chúng ta cảm ơn Ðức Cha Micae vì bao cống hiến phục vụ hữu ích. Chúng ta cầu nguyện cho Ðức Cha Micae luôn được sống theo ý Chúa. Xin Ngài cũng cầu nguyện cho chúng ta vì chúng ta rất yếu đuối, rất mong manh, nhất là trong thời buổi khó khăn khác thường này. Long Xuyên, ngày 02/02/2009
Thánh lễ cuối năm tại Nhà nguyện Toà Giám Mục Long Xuyên Kính thưa các anh em linh mục thân mến,
Ðức Cha Giuse đau, tôi sẽ nói mấy lời. Không phải thay Ngài, nhưng sẽ là tâm sự của một người Bùi-Tuần 1779
Ðức Cha Giuse đau, tôi sẽ nói mấy lời. Không phải thay Ngài, nhưng sẽ là tâm sự của một người tiền nhiệm. Trước hết, tôi xin hết lòng cảm ơn Ðức Cha giáo phận và tất cả mọi anh em linh mục, vì đã thương tôi và nâng đỡ tôi bằng nhiều cách mọi ngày suốt đời tôi. Tiện đây, tôi có 3 điều xin được chia sẻ.
1/ Năm mới, tôi mong đừng ai cầu chúc tôi được sống lâu, nhưng hãy cầu cho tôi luôn biết vâng phục thánh ý Chúa mà thôi. Ðối với tôi, sống lâu là một trách nhiệm nặng nề, tôi thì yếu đuối, nên rất sợ. 2/ Năm mới, tôi xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết trở thành những cây thu lôi thiêng liêng, hầu cản mọi cơn thịnh nộ Chúa toan đổ xuống thế gian này. Ðể được như vậy, chúng ta cần bắt chước thánh tông đồ Phaolô, vui lòng chịu đóng đinh mình vào thánh giá Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ là người dâng lễ, đồng thời cùng là của lễ đền tội thay cho dân. 3/ Năm mới, tôi thấy sẽ có nhiều người nghèo túng bé mọn tự nguyện đến với Chúa. Họ đến với Chúa một cách đơn sơ hồn nhiên do lòng mình khát khao, chứ không do người ta tổ chức. Họ sẽ làm nên một lớp người đem lại một phần đáng kể cho mùa xuân thiêng liêng có sức cứu độ. Chúng ta nên quan tâm tới họ. Với 3 điều chia sẻ trên đây, tôi xin cầu chúc các Ðức Cha và linh mục đoàn tinh thần tỉnh thức Phúc Âm. Những dấu chỉ thời đại đang xảy ra báo hiệu sẽ có những bất ngờ. Sáng nay, được tin Ðức Cha Giuse đau, tôi cho đây là một bất ngờ đáng ngại. Những bất ngờ ấy sẽ được chúng ta đón nhận với niềm tin ở thánh giá của Chúa giàu tình yêu thương xót. Chúng ta cầu nguyện cho nhau, cho giáo phận, nhất là cho Ðức Cha Cố Micae và Ðức Cha Giuse của chúng ta. Long Xuyên, ngày 19/01/2009
Khi nói về ơn cứu độ, người ta thường hiểu là ơn giải cứu mình khỏi những tội lỗi, và biết sống Bùi-Tuần 1780
Khi nói về ơn cứu độ, người ta thường hiểu là ơn giải cứu mình khỏi những tội lỗi, và biết sống sao để được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời. Như vậy sẽ là đạt được mục đích đời người, theo lời Chúa Giêsu đã dạy. Ngoài ra, người ta cũng có thể hiểu: Ơn Cứu độ là ơn giải cứu khỏi mọi hình thức tha hoá, sao cho mình được triển nở trong tình yêu. Như vậy sẽ là đạt được mục đích làm người theo gương Chúa Giêsu đã để lại. Hai hướng hiểu ơn cứu độ sẽ gặp nhau. Nhưng cách thứ nhất khởi đầu bằng tin vào Kinh Thánh. Còn cách thứ hai khởi đầu bằng kinh nghiệm thân phận con người. Ở đây, tôi theo hướng thứ hai. Nghĩa là tôi bắt đầu bằng kể ra kinh nghiệm thân phận con người.
1/ Kinh nghiệm thân phận con người Cuộc đời là trường dạy. Trường đời dạy qua kinh nghiệm thường ngày. Kinh nghiệm đời người cho tôi thấy: Muốn nên người tốt, tôi phải vượt qua nhiều sức ép: a) Bản năng là một sức ép rất mạnh. Bản năng không là lý trí và ý chí. Nó không có chọn lựa tự do. Nhắm mắt theo nó, tôi sẽ không nên người. b) Những tính mê nết xấu trong tôi cũng là một sức cản rất mạnh. Chúng cản tôi làm điều lành. Chúng thúc ép tôi theo sự dữ. Chúng làm nên một dây chuyền, cái nọ xích vào cái kia, nhiều khi trói buộc con người quá chặt, khiến con người không thoát ra khỏi vòng xoáy sự ác. Nếu để chúng lôi đi, tôi sẽ không nên người. c) Bệnh tật, nghèo túng, những yếu đuối và các thứ nghịch cảnh cũng là những cản trở đáng kể. Nhiều khi chúng muốn dìm tôi xuống cảnh liều mạng mù quáng. Nếu không vượt qua, tôi khó nên người. d) Tập thể xô bồ là một sức ép cũng rất mạnh. Trong cái xô bồ và mơ hồ ấy có đủ thứ thần tượng được giới thiệu. Rất nhiều thứ thần tượng chỉ là những lợi dụng và lạm dụng. Chúng tha hoá con người. Nếu chạy theo chúng một cách cảm hứng nô lệ, tôi sẽ không nên người. đ) Ma quỷ là một đồng hành tinh quái. Chúng có thể là một số đông ác thần. Chúng thường trợ giúp con người thêm khả năng sinh sản sự ác. Ðể rồi chính con người phá con người. Nếu sa chước cám dỗ, tôi sẽ không nên người.
2/ Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu Kinh nghiệm về thân phận con người như trên mô tả là thực tế phức tạp. Nhưng con người sẽ tìm được ơn cứu độ, nhờ gặp gỡ Ðức Giêsu Kitô. Xin kể ra vài kinh nghiệm sống động Chúa Giêsu cho tôi khám phá: - Tôi khám phá thấy có một tiếng gọi sâu thẳm để đổi người đổi đời. Lời Chúa và gương Chúa cho tôi nhận ra con đường đổi người đổi đời, chính là phải can đảm chọn con đường tình yêu. Ðọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu đã dùng Lời nói và Việc làm, để làm gương về tình yêu như sau:
* Sống cho kẻ khác: Sống cho kẻ khác nơi Chúa Giêsu gồm hai thực tế: Một là luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Hai là luôn ưu tiên phục vụ những người nghèo khổ. Nghèo khổ nói đây không phân biệt phần thể xác và phần tâm hồn. Khi sống cho kẻ khác, Ðức Kitô không có gì gọi là đánh mất chính mình, nhưng là thể hiện sự tốt nhất của chính mình.
* Dấn thân cho kẻ khác: Dấn thân ở đỉnh cao nhất là chia sẻ sự sống mình. Sự sống của Người ví như tấm bánh. Người ban tặng tấm bánh đó cho mọi người. Tất cả sự sống Người, đều trở nên quà tặng và của ăn nuôi dưỡng con người.
* Giúp người khác đứng dậy: Bước đầu đứng dậy là tin cậy vào Ðức Kitô. Bước thứ hai là thương yêu những kẻ khác. Trên thực tế, Chúa Giêsu ban ơn để người ta thực hiện hai bước đó. Những bước đó chính là sự đứng dậy. Từ đây, người ta thấy rằng sự hoàn thiện chính mình hệ tại ở sự mở lòng mình ra, đón nhận Chúa và những người khác. Sự nhận biết như thế thêm sức cho việc đứng dậy mà đi. Sự hoàn thiện như thế đã được Chúa Giêsu nhắn nhủ một cách thân tình. Nhất là trong bữa tiệc ly. Những lời Người trăn trối, những việc Người làm tối hôm đó đều nhấn mạnh đến tình yêu. Rồi Người tóm lược tất cả vào một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 14,34-35).
3/ Kinh nghiệm Tuần Thánh Sau cùng, một kinh nghiệm khác đã dạy cho tôi một điều rất quan trọng, đó là phải phấn đấu. Ba ngày Tuần Thánh đã tường thuật những phấn đấu của Chúa Giêsu. Ðể trung thành với con đường cứu độ nhận được từ Chúa Cha, Ðức Kitô đã phải phấn đấu rất nhiều. Người phấn đấu với các tông đồ, đặc biệt là thánh Phêrô. Vị thánh giáo hoàng đầu tiên này đã cản Chúa Giêsu muốn cứu độ theo con đường tình yêu đòi hỏi hy sinh. Nhưng Chúa từ chối quyết liệt. Người phấn đấu với các vị đứng đầu thế quyền và giáo quyền một cách cao thượng, nhẫn nhục, hiền hậu. Người phấn đấu với các kẻ hành hạ Người bằng một thái độ thông cảm, thứ tha. Người phấn đấu với dân chúng bắng thái độ xót thương, nhẫn nhục, yêu thương đến cùng. Sau cùng, Người phấn đấu với chính mình, không muốn theo ý riêng, nhưng vâng phục ý Chúa Cha một cách trọn vẹn. Tất cả mọi phấn đấu đều trong tinh thần khiêm tốn yêu thương và cầu nguyện tha thiết. *** Mấy kinh nghiệm trên đây đang giúp tôi sống ơn cứu độ. Như thế vừa là đơn giản, vừa là thiết thực. Ðược Chúa soi sáng, dẫn dắt, nâng đỡ ủi an, tôi tin đường tôi đi là do Chúa và nhờ Chúa. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương cầm tay con trên suốt con đường sống ơn cứu độ. Hành trình không luôn dễ, nhưng có Mẹ, con tin sẽ đi tới đích sau cùng của đường tình yêu, mà Chúa đã đi và đã dạy chúng con phải chọn. Long Xuyên, ngày 10 tháng 3 năm 2009
Tại Việt Nam hôm nay, Tuần Thánh là những ngày tập trung đặc biệt vào Ðức Giêsu. Tập trung Bùi-Tuần 1781
Tại Việt Nam hôm nay, Tuần Thánh là những ngày tập trung đặc biệt vào Ðức Giêsu. Tập trung ở chỗ rất đông người tuốn đến với Người, lắng nghe Lời Người, suy gẫm gương Người, cầu xin với Người, đón nhận Người. Làm những việc đó, vì tin Người là Ðấng Cứu độ. Trong thâm tâm, mỗi người tín hữu đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng Cứu độ trần gian. Trong trần gian ấy có cá nhân từng người. Từng người là bạn, là họ, là tôi. Chúa Giêsu là Ðấng Cứu độ của tôi. Cái nhìn đó là cái nhìn tập trung. Xin phép kể ra vài nét thuộc nội dung cái nhìn tập trung đó.
1/ Chúa Giêsu cứu tôi khỏi tội lỗi Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15). Thánh Phaolô thì dạy: “Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta” (M 1 Cr 15,2). Thánh Gioan nói rõ: “Chính Ðức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 2,1). Thánh Phêrô khuyên nhủ: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ Máu của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Ðức Kitô” (1 Pr 1,18). Như vậy, Chúa Giêsu đã lập công đền tội cho tôi. Người đợi chờ tôi đón nhận ơn đó. Khi tôi sám hối, chịu phép giải tội, làm các việc lành, là lúc tôi đón nhận ơn ấy. Chúa Giêsu tha tội. Người cứu tôi khỏi tội. Cùng với việc tha tội, nhiều khi Chúa cũng thay đổi hoàn cảnh của tội. Bởi vì tội lỗi không đứng một mình. Nó ở trong một chuỗi hoàn cảnh. Có hoàn cảnh khách quan. Có hoàn cảnh chủ quan. Hoàn cảnh được thay đổi nhiều nhất thường là về phía chủ quan. Ðôi khi cũng về phía khách quan. Tội làm nên những vết nhơ, ơn tha tội tẩy xoá. Tội gây nên những vết thương, ơn tha tội chữa lành. Tội làm nên những mất mát, ơn tha tội bồi đắp. Chính vì, khi Chúa Giêsu tha tội, Người ban cho tôi một sự sống mới. Sự sống mới đó là chính sự sống của Người.
2/ Chúa Giêsu ban cho tôi sự sống của Người Thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi được cứu khỏi tội, mỗi người đều muốn nói lời trên đây của thánh Phaolô. Thực sự, Chúa Giêsu cũng đến ngự trong kẻ ấy, và chia sẻ sự sống của Người. Chúng ta tin điều đó. Chúng ta cũng có thể nhận ra điều đó, nhờ những dấu chỉ. Dấu chỉ đầu tiên là sự bình an đầy an ủi. Người được tha tội thấy mình vẫn còn trong nhiều vòng vây thử thách, nhưng nhờ sự Chúa ở trong họ, họ cảm thấy được an ủi. Họ có thể nói về mình phần nào lời thánh Phaolô xưa: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4). An ủi sâu lắng, bình an dạt dào. Bởi vì tất cả những cảm nghiệm đó đều phát xuất từ “Chúa ở trong tôi”. Dấu chỉ thứ hai là sự tự do tâm hồn. Khi còn mang tội lỗi trong mình, chúng ta cảm thấy như bị giam cầm trói buộc. Nhưng khi được ơn tha tội và được Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, chúng ta cảm thấy tự do. Sự tự do tâm hồn mà chúng ta cảm nghiệm được là do chính Ðức Kitô. Người giải thoát chúng ta. “Chính để chúng ta được tự do, mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Sự tự do ấy được cắt nghĩa là kết quả tất nhiên của sự chúng ta hoàn toàn thuộc về Ðức Kitô. Sự tự do ấy giúp chúng ta có những thái độ dè dặt trước mọi thứ dư luận. Nó cũng giúp chúng ta giữ được những khoảng cách cần thiết đối với những cơn cám dỗ. Sự tự do ấy giúp chúng ta sống phục vụ yêu thương một cách khiêm nhường, như người đầy tớ. Dấu chỉ thứ ba là bác ái không mệt mỏi. Khi có Chúa ở trong người nào, người đó cảm thấy bác ái là sự sống của mình. Lúc đó, họ hiểu một cách sống động lời Kinh Thánh “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Bác ái ấy sẽ rất kiên trì. Bởi vì “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến thì còn mãi” (1 Cr 13,13). Bác ái ấy là do Thiên Chúa ban. Nó được sinh ra bởi tình yêu Thiên Chúa. Vì thế nó sẽ kiên trì bền vững, cho dù gặp thử thách muôn bề. Bác ái ấy đề cao sự an ủi nhận được và cho đi. Như lời thánh Phaolô sau đây là một dẫn chứng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn lòng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1,3-4). Dấu chỉ sau cùng là khiêm nhường. Ai được Chúa ở cùng sẽ sống rất khiêm nhường. Khiêm nhường đối với chính mình là biết nhìn mình một cách đơn sơ, tự hạ, tự hối. “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Khiêm nhường đối với người khác là biết quan tâm phục vụ. Với nhân bản, với văn hoá, họ sống tế nhị, dễ mến, biết giúp đỡ người khác và kính trọng người khác. Khiêm nhường đối với Chúa là biết sống sự thực trước mặt Chúa. Sự thực là mình chẳng là gì, chẳng đáng gì, chẳng có gì. Tôi có gì mà đã không nhận lãnh. Nếu đã nhận lãnh, thì tại sao lại vênh vang như không nhận lãnh (x. 1 Cr 4,7). *** Lạy Chúa Giêsu là Ðấng Cứu độ con, con được tha tội là do ơn Chúa. Con được Chúa chia sẻ sự sống của Chúa, cũng là do ơn Chúa. Con xin tạ ơn Chúa. Con sẽ làm chứng về lòng thương xót Chúa suốt đời con. Và điều đó cũng sẽ lại nhờ ơn Chúa xót thương con. Long Xuyên, ngày 16 tháng 3 năm 2009
Tình yêu thương xót của Chúa là tin mừng cứu độ. Tin mừng này được đề cao một cách đặc biệt Bùi-Tuần 1782
Tình yêu thương xót của Chúa là tin mừng cứu độ. Tin mừng này được đề cao một cách đặc biệt trong ba ngày Tuần thánh. Ðối với mỗi người chúng ta, điều quan trọng khi tham dự ba ngày Tuần thánh, là đón nhận tình yêu cứu độ của Chúa. Muốn đón nhận thì phải thực tâm muốn đón nhận, phải tha thiết khát khao đón nhận. Tiếp đến là phải thực hiện một số điều kiện. Ở đây tôi xin được nhắc đến ba điều kiện, mà Phúc Âm Tuần thánh đã ghi lại với những mức độ quan trọng khác nhau.
1/ Chân thành sám hối Chân thành sám hối là việc lành nổi bật nơi thánh Phêrô sau khi lỡ chối Thầy. Chân thành sám hối cũng là việc lành nổi bật nơi kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa, sau khi ông nhận biết người bị đóng đinh bên mình là một Ðấng Thánh cứu độ. Hai nhân vật này đã sống trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng cả hai đã gặp nhau ở điểm chung này là sám hối. Cả hai đã nhận mình có tội. Cả hai đã nhìn nhận tội là điều xấu, gây nên hậu quả tai hại. Nó là xúc phạm. Nó là xáo trộn. Nó là mất mát. Cả hai đều khát khao được tha tội và tha hình phạt. Cả hai cùng nhận thức sự thực này: Bỏ đàng tội lỗi và trở về đàng lành là điều khôn ngoan nhất, để đạt được hạnh phúc đời đời. Cả hai lại đã thấy: Ðấng có quyền cứu khỏi tội vạ chính là Chúa Giêsu giàu lòng thương xót. Cả hai đều đã sám hối, cầu nguyện, van xin. Tất cả những bước đi trên đây đã được thực hiện trong khiêm nhường, tự hạ, tự hối. Như thế, sám hối mở rộng cửa lòng, để đón nhận tình yêu cứu độ. Hối nhân phạm tội, thì tình yêu cứu độ thứ tha. Hối nhân yếu đuối, thì tình yêu cứu độ nâng đỡ. Hối nhân sầu muộn, thì tình yêu cứu độ an ủi. Hối nhân bị thương tích, thì tình yêu cứu độ băng bó chữa lành. Sám hối càng khiêm nhường sâu sắc, tình yêu cứu độ càng tràn vào lòng hối nhân một cách mạnh mẽ. Nhiều khi nhờ tình yêu cứu độ mà sám hối được đào sâu hơn. Lúc ấy, tâm hồn sám hối được chìm vào biển cả tình yêu Chúa. Họ cảm thấy sự mình được Chúa xót thương là một ơn nhưng không, trọng đại. Bên cạnh sám hối chân thành là điều kiện tối quan trọng, Phúc Âm Tuần thánh còn nêu lên sự chia sẻ khổ đau như một điều kiện hỗ trợ để đón nhận tình yêu cứu độ.
2/ Chia sẻ khổ đau Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu tỏ ý muốn được các môn đệ Người chia sẻ nỗi cô đơn và những đớn đau của Người. Ý muốn đó đã được đáp ứng phần nào. Trên đường vác thập giá đã có những phụ nữ khóc than Chúa, cũng đã có ông Simon vác đỡ thập giá cho Chúa. Ðặc biệt là dưới chân thập giá khi Chúa bị treo lên, đã có một số người thân đứng đó trong thảm sầu chết lặng. Hầu hết mọi chia sẻ trên đây đều diễn ra trong trái tim. Nhìn Chúa Giêsu bị nhục mạ, những trái tim ấy cảm thấy chính mình bị bầm dập, đâm chém. Ðáng để ý nhất là họ nếm được vị đắng của tình yêu Chúa. Yêu mà không được đáp lại. Yêu nhân loại nên muốn thăng tiến nhân loại, nhưng bao người chối từ thăng tiến. Yêu loài người, nên muốn đưa mọi người vào Nước Chúa là nước tình yêu, nhưng bao người vẫn chọn con đường hận thù dẫn xuống ngục tù dưới quyền những ác quỷ hận thù. Sự vô cảm trước những khổ đau của Chúa là một cản trở khủng khiếp, không cho người ta đón nhận được tình yêu cứu độ. Sự dửng dưng lạnh lùng trước những khổ đau của các người xung quanh cũng là một cách đóng chặt lòng mình, không đón nhận được tình yêu Chúa cứu độ. Cho rằng hồi đó đa phần những người chứng kiến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã không biết Người là Thiên Chúa. Nhưng không phải vì thế mà họ được phép tham gia vào việc làm xỉ nhục, lăng mạ, khinh chê, nhạo báng Người. Tham gia vào việc làm khổ người khác, dù họ là ai, đều là chống lại tình yêu thương xót Chúa. Trái lại, ai thương xót người khác, sẽ được Chúa xót thương. Sau hết, Phúc Âm Tuần thánh còn nói đến một chi tiết hỗ trợ khác để đón nhận tình yêu cứu độ. Chi tiết đó là: Nhận trách nhiệm.
3/ Nhận trách nhiệm Trên Núi Sọ, Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho Ðức Mẹ là hãy nhận Gioan làm con mình, đồng thời cũng trao trách nhiệm cho Gioan là hãy đón nhận Ðức Mẹ làm mẹ mình. Trước đó, trong bữa tiệc ly, Chúa trao trách nhiệm cho các môn đệ Người, là hãy thực thi giới răn mới tức là yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ. Tình yêu kêu gọi tình yêu. Nhận lãnh để rồi cho đi. Cho đi để được nhận lãnh. Trách nhiệm là thế. Có tình yêu Chúa trong mình và khi cảm nhận được những gì tình yêu Chúa đã làm cho mình, người ta sẽ dễ chia sẻ tình yêu của Chúa cho người khác. Lúc ấy, tình yêu Chúa hướng dẫn tình yêu của ta, tình yêu của ta thuộc trọn về tình yêu Chúa và pha trộn vào đó. Như vậy, yêu là một tiếng gọi. Tiếng gọi của trách nhiệm trong tình yêu luôn cao cả. Yêu người như Chúa yêu ta. Chúa yêu ta đến nỗi đã tự hạ bước xuống bậc thang thấp hèn nhất là chịu khổ hình nhục nhã đớn đau trên thánh giá. Khi ta yêu người, để tham gia vào chương trình Chúa cứu họ, ta cũng sẽ phải sẵn sàng bắt chước tình yêu Chúa đã dành cho ta.
Ðể kết, xin chia sẻ một lời nguyện cầu. “Xin Chúa Giêsu cho con được ở trong trái tim Chúa. Một trái tim bị thương tích vì yêu thương cứu độ. Con tin được ở trong trái tim Chúa thì hơn ở giữa trăm ngàn thế giới phồn vinh. Trong trái tim Chúa, con sám hối ăn năn. Trong trái tim Chúa, con chia sẻ khổ đau của Chúa và của người khác. Trong trái tim Chúa, con đón nhận trách nhiệm làm chứng cho tình yêu cứu độ của Chúa giàu lòng thương xót”. Long Xuyên, ngày 24 tháng 3 năm 2009
Dịp lễ Phục sinh, rất nhiều tín hữu đã được ơn chỗi dậy từ cõi chết. Cõi chết thường được hiểu là Bùi-Tuần 1783
Dịp lễ Phục sinh, rất nhiều tín hữu đã được ơn chỗi dậy từ cõi chết. Cõi chết thường được hiểu là tội lỗi. Khi được tha tội, con người được ra khỏi cõi chết. Ðó là niềm vui Phục sinh, một niềm vui thiêng liêng lớn lao. Ðược niềm vui lớn đó, chúng ta hết lòng tạ ơn Chúa. Tạ ơn cho mình và tạ ơn cho tất cả những ai cũng đã được chỗi dậy từ cõi chết tội lỗi. Thiết tưởng, chúng ta không nên dừng lại ở đó, nhưng còn nên nhìn đến nhiều cõi chết khác có thể còn ở trong ta. Nếu được chỗi dậy từ những cõi chết đó, chúng ta mới thực sự đi sâu vào niềm vui Phục sinh. Với mục đích đó, ở đây tôi xin nhắc qua một số cõi chết tiềm tàng trong mỗi người chúng ta, để tiếp tục hành trình Phục Sinh.
1/ Những cõi chết tiềm năng a) Trước hết là trong những cơ năng. + Trí khôn, khi gắn bó với những điều sai trái lầm lạc, sẽ có những bước đi hướng về cõi chết, vì thiếu chân lý. + Tình cảm, khi buông thả vào những đối tượng xấu, sẽ là những dòng chảy đi về cõi chết, vì thiếu thăng tiến. + Ý chí, khi mải mê theo đuổi những điều tha hoá, sẽ là một cuộc chạy đua tới cõi chết, vì thiếu sự thiện. + Tự do chọn những gì thoả mãn ý riêng mình, sẽ là một đầu tư cho cõi chết, vì thiếu vâng phục thánh ý Chúa. Những tiềm năng cõi chết trong các cơ năng con người là một thực tế áp đảo. Ta muốn chối, cũng không được. b) Bây giờ, nhìn sang những nếp sống, ta thấy các tiềm năng cõi chết cũng rất nhiều. Phúc Âm ghi rõ: - Những người Pharisêu quen sống giả hình, chuộng hình thức đạo đức bề ngoài, ưa kể ra những con số, như ăn chay bao nhiêu, bố thí bao nhiêu, đọc kinh bao nhiêu. Nếp sống phô trương và giả hình đó đã là những lối thênh thang dẫn xuống cõi chết, vì mất lòng Chúa. - Những thầy luật sĩ chuyên cắt nghĩa luật theo nghĩa đen, thích áp dụng luật một cách khắt khe, cốt để lên án. Nếp sống đạo chỉ là chủ nghĩa luật đã là những cái khuôn dẫn tới cõi chết, vì nghịch với ý Chúa. Nếp sống kiêu căng của một giai cấp đã sản sinh những người như thế. c) Còn một yếu tố khác, tuy nhỏ nhưng cũng mang nhiều tiềm năng cõi chết, đó là cái nhìn. Có nhiều cuộc đời mùa loà về đàng đạo đức, bởi vì cái nhìn của họ bị tối tăm của cõi chết che phủ dày đặc. Ánh sáng chân lý luôn ở trong Lời Chúa. Nhưng họ không nhìn thấy. Ánh sáng tình yêu cứu độ ở trong bao nhiêu gương sáng. Nhưng họ không nhận ra. Ánh sáng phản ánh trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường vẫn sống động trong bao người xung quanh. Nhưng họ nhìn mà không thấy. Ánh sáng đền tội luôn ở trong phép Mình Thánh. Nhưng họ đứng trước mà không chút chuyển lòng. Họ mù loà, vì để tinh thần ích kỷ, kiêu căng thế tục che mắt linh hồn. Họ mù loà, vì họ để ma quỷ khống chế con mắt tâm hồn. Họ mù loà, vì họ để cho sự tự mãn làm hư con mắt tinh thần. Giữa những cuộc đời ồn ào vẫn có những cõi chết sâu thẳm tối tăm. Khi đã được chỗi dậy từ những cõi chết đó, chúng ta vẫn còn nhiều bước phải đi trong hành trình Phục sinh.
2/ Hành trình Phục sinh kêu gọi nhiều bước đi mới Ở đây, tôi đặc biệt chú ý đến lãnh vực tu đức. Thứ nhất là hãy xác tín Chúa Phục sinh luôn rất gần ta. Theo Phúc Âm kể lại, Chúa Phục sinh đã hiện ra với các môn đệ ở nhiều nơi khác nhau, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: Lúc nhóm đông đang cầu nguyện trong phòng khoá chặt, lúc vài ba ông đang đánh cá, lúc hai người đang đi trên đường Emmau. Những chi tiết trên đây cho thấy: Chúa Phục sinh rất gần gũi các môn đệ. Người cảm thương nỗi lòng của họ. Người quan tâm đến cuộc sống làm ăn của họ. Người đồng hành với những khát khao của họ. Ðối với chúng ta bây giờ cũng vậy, Chúa Phục sinh luôn gần ta. Người ở bên ta. Người không hiện ra, nhưng còn hơn là hiện ra, vì Người cảm thương mọi đau khổ của ta. Riêng tôi, tôi vẫn thường nói với Người: “Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con”. Thứ hai là hãy xin Chúa ban ơn cho ta được chỗi dậy từ cõi chết trong những việc rất thường, rất nhỏ, từng ngày. Mỗi ngày có nhiều điều cần ơn Phục sinh. Nhỏ thôi, thường thôi, đơn giản thôi. Chính trong những lúc âm thầm đó, ta nhận ra được Chúa ở gần ta, Chúa rất thương ta. Có những biến cố lớn của đời ta đợi chờ Chúa Phục sinh can thiệp. Nhưng nếu cứ đợi những biến cố lớn, mới tìm gặp Chúa Phục sinh, thì sẽ rất sai. Thứ ba là hãy biết đón nhận những đổi mới, mà Chúa Phục sinh đem đến cho từng thực tế. Chúa Phục sinh ban ơn cho ta được trung thành với truyền thống, đồng thời cũng ban ơn cho ta đón nhận những cái mới. Phục sinh không phải chỉ là làm sống lại những truyền thống tốt, nhưng còn là biết đổi thay và sáng tạo. Bởi vì ơn Chúa Phục sinh không phải là một khung lý thuyết, nhưng là một thực tế sống động với những giá trị mới. Tỉnh thức và cầu nguyện, để nhận ra những giá trị mới trong những hoàn cảnh mới, chính là những bước đi của hành trình Phục sinh. Như vậy hành trình Phục sinh vẫn tiếp tục sau lễ Phục Sinh. Long Xuyên, ngày 30 tháng 3 năm 2009
Tháng năm hằng năm, Giáo Hội Việt Nam có thói quen tổ chức dâng hoa kính Ðức Mẹ. Thói quen Bùi-Tuần 1784
Tháng năm hằng năm, Giáo Hội Việt Nam có thói quen tổ chức dâng hoa kính Ðức Mẹ. Thói quen tốt đẹp đó vẫn sống động qua những biến chuyển lịch sử. Hơn thế, nó đã phát triển về nhiều mặt, như mỹ thuật, tổ chức và liên đới. Phát triển đáng kể nhất là tấm lòng. Lòng con cái Mẹ không dừng lại ở những vẻ đẹp bề ngoài, mà còn đi sâu vào nội tâm. Một hướng nội tâm đang được nhiều nơi nhấn mạnh, đó là Sám hối, trở về. Trong chiều hướng đó, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ.
1/ Sự quan trọng của Sám hối, trở về Thánh Gioan Baotixita là vị thánh Chúa chọn để dọn đường cho Ðấng Cứu thế. Ðối với Ngài, cách dọn đường tốt nhất là sám hối, trở về... “Ngài đi khắp vùng sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, để được ơn tha thứ” (Lc 3,3). Ngài khuyên bảo và nhiều khi cũng răn đe: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Bất cứ cây nào không sinh quả đều sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3,9). Còn Chúa Giêsu, khi khai mạc cuộc đời công khai, Người cũng đã giảng sám hối: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,17). Cũng như thánh Gioan Baotixita, Ðức Giêsu đã khuyên nhủ và đôi khi cũng đã răn đe nghiêm khắc. Thí dụ: Khi nói về việc tháp Siloe đổ xuống đè chết 18 người, Chúa Giêsu liền áp dụng hình ảnh khủng khiếp ấy, để răn đe những ai không chịu sám hối. Người nói: “Tôi nói cho các ông biết: nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ phải chết hết như vậy” (Lc 13,5). Ấn tượng sâu sắc nhất Chúa Giêsu để lại, để thôi thúc người ta sám hối trở về là cuộc tử nạn của Người. Người chết đau đớn tột cùng, chỉ vì để đền tội cho nhân loại, và để kêu gọi mọi người sám hối trở về, hầu được ơn tha thứ. Từ những mạc khải trên, chúng ta có thể nói: Ðoá hoa thơm đẹp nhất, mà Chúa muốn con cái Chúa dâng lên Người, đó là tấm lòng sám hối ăn năn. Ðức Mẹ cũng đã tỏ ý như vậy. Trong những lần Mẹ hiện ra ở Lộ Ðức, ở La Salette, ở Fatima, Mẹ đã nhắc nhở con cái Mẹ hãy sám hối trở về. Có thể nói: sám hối trở về là thứ hoa thiêng liêng, mà Mẹ ước muốn con cái Mẹ dâng lên Mẹ. Ðến lượt Hội Thánh, trong phụng vụ thánh lễ và các bí tích, cũng thường mở đầu bằng sự khuyên con cái dọn mình bằng sám hối trở về, coi sám hối trở về là của lễ thơm tho đẹp ý Chúa. Như vậy, sám hối trở về nên được coi là đoá hoa quan trọng trong tháng dâng hoa. Ðó cũng chính là niềm vui lớn. Chúng ta nên nhớ lại lời Chúa Giêsu phán: “Tôi nói cho các ông hay: Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7). Ta thấy: niềm vui lớn nhất cho cả thiên đàng là sự người tội lỗi sám hối trở về, dù chỉ là một người. Do đó ta phải nhận niềm vui lớn nhất cho cả Hội Thánh và cho chính mỗi người chúng ta, sẽ là sự chính mỗi người chúng ta sám hối trở về. Nói như vậy là chúng ta đã hiểu phần nào sám hối trở về có nhiều cao quý và khó khăn.
2/ Những cao quý và khó khăn của sự sám hối trở về Sám hối trở về không đơn giản chỉ là ăn năn tội, ghét bỏ tội lỗi, mà còn phải là bỏ con đường tội lỗi, thay đổi nếp sống không hợp đạo đức. Thí dụ: thói quen lười biếng, lòng tự mãn với lối giữ đạo hình thức, cách suy nghĩ, phán đoán hẹp hòi, vv... Như vậy, sám hối trở về không thể là một lớp sơn mỏng bề mặt, mà phải là một sự thay đổi sâu xa trong tâm hồn. Nó tuỳ thuộc rất nhiều ở nhiều yếu tố khác nhau. Vì thế có trường hợp, cùng trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng người này thì sám hối trở về, người kia thì không. Một trường hợp khác. Cả hai người sám hối trở về, nhưng ít lâu sau, một người thì vững vàng trong ơn trở lại, một người thì bỏ ơn Chúa, lui dần về tình trạng cũ. Kinh nghiệm cho thấy, trong sám hối trở về, có những cao quý mình muốn có, mà không sao có được. Có những khó khăn mình muốn vượt qua, mà không sao vượt được. Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn cầu nguyện. Tôi luôn xác tín: Không có ơn Chúa, người ta không thể sám hối trở về một cách đích thực được. Nhưng với ơn Chúa, mỗi người sẽ sám hối trở về một cách chân thành. Chúa giàu tình thương xót sẽ bằng lòng với sự chân thành của mỗi người chúng ta, dù việc thực hiện sự trở về toàn vẹn của ta còn quá nhiều hạn chế. Ý thức được những cao quý và khó khăn của sự sám hối trở về, chúng ta dâng lên Mẹ đoá hoa khiêm nhường: - Khiêm nhường xin được ơn luôn sám hối trở về. - Khiêm nhường cảm tạ về những chặng đường sám hối trở về đã qua. - Khiêm nhường đón nhận những hồng ân cao quý của sự trở về. - Khiêm nhường cầu nguyện cho mọi người, dù ở đâu, cũng biết sám hối trở về một cách thích hợp trong hoàn cảnh cụ thể của họ. Lạy Mẹ rất khiêm nhường, xin đoái nhận đoá hoa khiêm nhường của những người con Mẹ đang sám hối trở về với Chúa. Chúng con tin khiêm nhường sám hối chính là đoá hoa Mẹ rất mong muốn chúng con dâng lên Mẹ, để góp phần vào việc Chúa cứu độ trần gian trong tình thế hiện nay. Long Xuyên, ngày 6 tháng 4 năm 2009
Biến cố 30/4/1975 đã qua lâu rồi. Thời gian 34 năm sau biến cố đã chứng kiến nhiều thay đổi Bùi-Tuần 1785
Biến cố 30/4/1975 đã qua lâu rồi. Thời gian 34 năm sau biến cố đã chứng kiến nhiều thay đổi. Một trong những thay đổi cần biết là thay đổi về não trạng. Não trạng là cách nhìn, cách suy nghĩ, cách đánh giá, cách đặt vấn đề, cách quan tâm bức xúc. Ở đây chỉ xin nói vắn tắt một số thay đổi về não trạng trong thời kỳ hậu 30/4/1975.
1/ Khiêm tốn hơn trong nhận định Ðã có một thời, đất nước ta chia thành nhiều khối. Mỗi bên coi mình là duy nhất đúng, duy nhất tốt. Nếu không duy nhất, thì ít ra cũng trội hơn. Nhưng thời gian sống chung bó buộc người ta phải khách quan hơn. Người ta phải nhận ra bên này cũng có nhiều cái đúng cái tốt. Bên kia cũng có nhiều điều không đúng không tốt. Thời gian làm nên nhiều biến chuyển. Xấu rồi ra tốt. Tốt rồi nên xấu. Nhận định đó khiến người ta khiêm nhường, bớt đi sự tự mãn, tự đắc, tự cao, dễ dẫn tới những hành động gây chia rẽ. 2/ Bao dung hơn trong phán đoán
Ðã có một thời, người ta sống trong một hệ thống đối kháng và kết án. Kết án người này là xấu xa trên đời này. Kết án người kia là phải mất linh hồn đời sau. Mọi kết án đó đều khẳng định. Mọi phân loại kiểu đó đã dựa trên thước đo chật hẹp về lý thuyết, ác cảm theo cảm tính và hiểu biết không đầy đủ. Nhưng, khi sống cọ sát bên nhau, người ta thấy phán đoán như vậy sẽ làm cho cuộc sống nặng nề thêm. Phải trở nên bao dung, để được bao dung. Bao dung là một nét đẹp của đạo đức. Riêng người công giáo, họ được nhắc nhở nhiều về bao dung. Bởi vì những lời Phúc Âm răn dạy về xét đoán là rất nghiêm trọng. Xét đoán sao sẽ bị đoán xét như vậy.
3/ Thiết thực hơn trong quan tâm bức xúc Có một thời, người ta tranh cãi về lý thuyết này, chủ nghĩa nọ, tôn giáo kia. Nhưng dần dà, người ta thấy thứ tranh cãi đó làm mất thời giờ. Họ quay về lo cho cuộc sống là thiết thực hơn. Làm sao cho cuộc sống của bản thân và của đồng bào được khá hơn, cao hơn. Vấn đề được đặt ra là: Tôi có được yêu thương, giúp đỡ không? Ai yêu thương giúp đỡ tôi? Tôi có lo cho cuộc sống người khác được tốt đẹp hơn không? Rốt cuộc, vấn đề thiết thực chính là yêu thương phục vụ trong các liên hệ, ngay từ những việc nhỏ. Họ sẽ bỏ ngoài tai những hồ sơ nặng về lý thuyết để phân biệt đúng sai. Ðúng sai bây giờ được xác định bằng thực tế yêu thương phục vụ, qua những việc làm vị tha khiêm tốn. Vì thế sẽ dễ trở thành lỗi thời những định kiến dựa trên lý thuyết suông và kinh nghiệm cũ kỹ.
4/ Chính xác hơn trong tỉnh thức Có một thời, người ta lo sợ chủ nghĩa của mình, tín ngưỡng của mình sẽ bị ám hại bởi những chủ nghĩa và tín ngưỡng, mà mình cho là nguy hiểm. Nên phải cảnh giác coi chừng. Nhưng họ bất ngờ bị đánh thức bởi những nguy cơ khác, mà họ không dè chừng. Ðó là những suy thoái đạo đức, mất ý thức về tội, nếp sống trọng hình thức, thói quen phô trương thành tích, óc thực dụng, ham hưởng thụ, tính lười biếng, kiêu căng, ích kỷ, khinh thường đời sống nội tâm. Những cái đó mới chính là những kẻ thù độc hại. Nhưng lại được cưng chiều, nâng niu trong chính mình, chứ không cảnh giác.
5/ Tế nhị hơn trong sự thực Có một thời, người ta diễn tả sự thực và bảo vệ sự thực một cách trịch thượng. Nhưng dần dà, những đối thoại và những liên hệ xã hội đòi người diễn tả và bảo vệ chân lý phải tế nhị nhã nhặn. Khiêm tốn là nền tảng của bậc thang giá trị. Khiêm tốn là điều kiện để tìm hiểu sự thực. Có nhiều điều về lịch sử người ta cho là sự thực, nhưng đúng ra đó chỉ là hiện tượng, chứ không là thực chất. Những gì mình biết không thấm vào đâu với những gì mình không biết. Có nhiều điều về người khác người ta cho là sự thực, nhưng trước mặt Chúa, thứ sự thực đó lại rất xa cái nhìn của Chúa. Tế nhị trong sự thực là một nét văn hoá, mà càng ngày càng thấy được chú ý trong đất nước Việt Nam ta. *** Những thay đổi trên đây về não trạng đang có chiều hướng phát triển. Phát triển không đồng đều. Người nhiều người ít. Nơi mau nơi chậm. Thiết tưởng, sự hiểu biết về những thay đổi trên đây sẽ không là dư thừa cho kỷ niệm ngày 30 tháng 4 năm nay. Long Xuyên, tháng 4 năm 2009
Bầu khí cầu nguyện của thánh lễ 30/4 năm nay là một hồng ân Chúa ban. Mỗi người chúng ta Bùi-Tuần 1786
Bầu khí cầu nguyện của thánh lễ 30/4 năm nay là một hồng ân Chúa ban. Mỗi người chúng ta đón nhận hồng ân này một cách sốt sắng với cảm nghĩ riêng. Nhưng tất cả đều muốn nhìn lại một biến cố đã qua, đồng thời cũng muốn nhờ đó nhìn về một tương lai đang tới. Với nhận thức như vậy, tôi xin phép chia sẻ hành trình ơn gọi giám mục của tôi. Kinh nghiệm về ơn gọi đó có thể sẽ gợi ý cho ơn gọi của anh chị em, nhất là các giáo sĩ, trong lịch sử Việt Nam hôm nay. Khi tôi được gọi làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên, Ðất Nước và Hội Thánh Việt Nam đang sôi động chuyển biến từng ngày, từng giờ. Tình hình thì rất nghiêm trọng, còn tôi thì rất hèn mọn, yếu đuối. Tôi vâng lời Toà Thánh trong muôn vàn lo âu. Với tâm tình phó thác, tôi nói với Chúa: “Này con xin đến, để thực thi ý Chúa”. Lúc đó, tôi được thấy rất rõ: - Ý Chúa là Chúa sai tôi vào giai đoạn mới của lịch sử, như một sứ giả hèn mọn. - Ý Chúa là Chúa trao cho tôi đưa vào tình hình mới điều răn yêu thương (mandatum novum) (x. Ga 14,34), như một sứ điệp không dễ. Sứ giả do Chúa sai đi. Sứ điệp là do Chúa trao cho. Tôi xin vâng. Nhưng làm thế nào để tình hình mới chấp nhận người được sai và sứ điệp được trao. Câu trả lời sẽ tìm được ở gương Chúa Giêsu. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu đã mặc lấy thân phận con người, với mọi chi tiết cụ thể của lịch sử. Gương sáng đó của Chúa Giêsu dạy tôi bài học thực thi ơn gọi, đó là đồng hành. Ðồng hành là kính trọng yêu thương những người mà Chúa sai tôi đến. Ðồng hành là cùng đi với họ trên đường lịch sử. Ðồng hành là chia sẻ đồng cảm mọi nỗi vui buồn, lo âu, đau đớn và hy vọng của họ. Ðồng hành là phục vụ yêu thương mọi người bằng mọi cách trong khả năng của mình. Ðồng hành là khám phá những sự tốt lành Chúa làm nơi Hội Thánh, quê hương và những người thiện chí. Ðồng hành là đón nhận khiêm tốn từ nhiều người xa gần những đỡ nâng lớn nhỏ. Ðồng hành là hợp tác chân thành với mọi người một cách tế nhị trong việc thăng tiến con người và Quê hương. Trong mọi đồng hành, tôi thường nhấn mạnh đến 3 điều sau đây: Một là: Mọi người hãy nhìn lên Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Hai là: Mọi người hãy yêu thương nhau, đặc biệt là gắng chia sẻ thân phận những người đau khổ, nghèo túng. Ba là: Mọi người nên sống tu thân, tìm về hạnh phúc thật, trong đó có đời sống nội tâm. Hôm nay, nhìn lại: Tôi thấy hành trình ơn gọi của tôi là một chuyến đi cùng với nhiều người. Chuyến đi vất vả với nhiều yếu đuối, nhưng luôn có Chúa ở cùng. Chúa là cây nho, tôi là cành nho (x. Ga 15,5). Tôi nhìn nhận đó là hồng ân Chúa ban nhưng không. Xin hết lòng cảm tạ Chúa. Tôi coi hành trình ơn gọi đó cũng là hành trình ơn gọi của hạt lúa gieo vào lòng đất (x. Ga 12,24), như bao ơn gọi khác tại Việt Nam ta. Giờ đây, cùng với tâm tình cảm ơn anh chị em, tôi xin thân ái nhắn nhủ anh chị em điều này: Hãy lắng nghe ý Chúa. Chúa sai mỗi người anh chị em đi như một sứ giả bé nhỏ, với một sứ điệp Phúc Âm. Không là sứ giả chung chung, nhưng là sứ giả cho một tình hình cụ thể. Không là sứ điệp chung chung, nhưng là sứ điệp cho một nhu cầu cụ thể. Ðể được như vậy, chúng ta phải cầu nguyện và tỉnh thức thực nhiều. Lịch sử luôn có những bất ngờ. Phúc Âm cũng cảnh giác như thế. Trong mọi trường hợp, chúng ta luôn bám chặt lấy Chúa và luôn luôn phó thác mình nơi Ðức Mẹ Maria là Mẹ yêu dấu của chúng ta. Amen. Long Xuyên, tháng 4 năm 2009
Xung quanh tôi có nhiều người công giáo nghèo. Họ nghèo về tiền của. Họ nghèo về sức khoẻ. Bùi-Tuần 1787
Xung quanh tôi có nhiều người công giáo nghèo. Họ nghèo về tiền của. Họ nghèo về sức khoẻ. Họ nghèo về uy thế. Họ nghèo về chức quyền. Nhưng họ lại là những chứng nhân về một sức sống thiêng liêng mãnh liệt. Hằng ngày, họ dâng lên Chúa thực tế đời họ. Ðời họ thực nghèo khổ. Hằng ngày, họ tạ ơn Chúa về những niềm vui và những đớn đau. Hằng ngày, họ cầu nguyện như hơi thở cần thiết cho liên hệ của đứa con bé nhỏ đối với Cha mình. Hằng ngày, họ đón nhận vô vàn ơn Chúa với lòng khiêm tốn vâng phục. Ở đây, tôi xin kể ra mấy ơn đặc biệt Chúa thường ban cho họ.
1/ Thuộc về Ðức Kitô một cách sâu sắc Thuộc về, đó là khuynh hướng nhắm đến yếu tố phân biệt. Có những người hãnh diện, vì mình thuộc về đoàn thể này, họ đạo kia. Có những người cố gắng hết sức mình, để người ta nhận ra mình thuộc về nhóm này, tổ chức nọ. Nhưng nhiều người nghèo tôi nói đây lại vinh dự ưu tiên xưng mình thuộc về Ðức Kitô, là kitô hữu. Thuộc về Ðức Kitô là tin mến Ðức Kitô, đi theo Ðức Kitô, vâng phục Ðức Kitô, nhất là được chia sẻ đời sống của Ðức Kitô. Sự sống, mà Ðức Kitô thường chia sẻ cho họ là sự sống của Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” (Ep 2,41). Nên đời sống của họ toả sáng tình Chúa xót thương. Họ thuộc về Ðức Kitô, như cành cây gắn chặt với thân cây. Thuộc về như thế là một cải đổi cái tôi cũ để nên cái tôi mới. Thuộc về như thế là công việc của Chúa Thánh Thần, Người đổi mới hằng ngày. Âm thầm mà sâu thẳm. Không một hội nghị nào, không một sinh hoạt đoàn thể nào, dù phong phú đến đâu, có thể sản sinh được sự thuộc về kỳ diệu ấy. Với sự thuộc về Ðức Kitô một cách mật thiết như vậy, những người kitô nghèo khó đã trở nên giàu có. Có Ðức Kitô trong mình, họ được hạnh phúc và bình an. Họ ra đi, mang theo kho tàng ấy, để phục vụ con người. Những người mà họ dễ gần gũi hơn chính là những người nghèo khổ như họ.
2/ Phục vụ những người nghèo khổ một cách gần gũi thân tình Họ đến với những người cùng số phận nhân danh Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Món quà họ tặng chủ yếu là tình yêu. Trong tình yêu Chúa, họ chia sẻ những đớn đau của người khác. Họ đau nỗi đau của người khác. Họ khổ nỗi khổ của người khác. Họ ở lại với cảnh khổ đau của người khác. Ở lại một cách nào đó, để tình yêu Chúa và tình yêu của họ luôn hiện diện bên người đau khổ. Người đau khổ rất cần đến tình thương. Tình thương của những người nghèo khổ chia sẻ cho nhau thường không gây nên mặc cảm. Từ thiện bác ái của những người giàu có, chức quyền, vẫn thường thực hiện trong một khoảng cách nhất định. Khoảng cách không những về tình trạng kẻ cho người nhận, mà nhất là về thực tế tình thương. Không thiếu trường hợp, ban phát mà không chia sẻ, coi từ thiện như một trang trí, đến rồi đi, như lướt qua những con số. Cảnh người nghèo thương giúp người nghèo, người bệnh, người cô đơn, thật là xúc động. Có nhiều cho nhiều, có ít cho ít. Nhiều lúc, họ nhịn ăn, để nhường cơm cho kẻ nghèo hơn họ hay như họ. Tại Việt Nam hôm nay, đang xuất hiện nhiều nhóm đạo đức, tình nguyện dấn thân phục vụ những người nghèo khổ. Họ sống với người nghèo, sống giữa người nghèo, sống như người nghèo, sống hoà mình vào cảnh nghèo. Họ cho đi rất nhiều. Và họ cũng đã nhận được rất nhiều. Nhiều người nghèo túng, bệnh tật, cô đơn, bị nhục nhã, bị loại trừ, đã là trường học Chúa dùng, để dạy tất cả mọi người về đức tin, tình liên đới và sự can đảm. Họ là Hội Thánh bé nhỏ đứng dưới chân Chúa Giêsu chịu treo trên thánh giá. Nhóm người mọn hèn ấy chỉ dùng sự hiện diện lặng thinh đồng cảm của mình, mà cùng với Chúa Giêsu góp phần cứu độ nhân loại.
3/ Thánh hoá những phương tiện mong manh, bé mọn Con người của họ là rất mong manh mọn hèn. Những việc họ làm là rất âm thầm bé nhỏ. Những bước đi của họ là rất khiêm tốn lặng lẽ. Nhưng họ được Chúa dùng, để đem Tin Mừng vào đời. Rất nhiều khi, những cuộc lễ quy mô hoành tráng, mang tính cách biểu dương lực lượng, phẩm trật và thành tích, lại chỉ đem về những hiệu quả nghèo về Tin Mừng. Ðang khi đó, một vài cuộc đời nghèo khổ không ngừng làm chứng cho Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót lại gây được ảnh hưởng rộng và sâu cho Nước Chúa. Theo một cách nhìn nào đó, người ta có thể nói: Những người nghèo là kho tàng của Hội Thánh. Họ đáng được Hội Thánh quan tâm một cách đặc biệt về thăng tiến và đào tạo. Rồi đây, việc xoá đói giảm nghèo sẽ tăng. Nhưng đồng thời sẽ lại sinh ra những cái nghèo đói mới. Ðó là nghèo đói về bình an và đạo đức. Vì thế, việc giúp cho những người nghèo biết sống thân phận mình một cách thánh thiện, luôn sẽ là bức xúc của những người có trách nhiệm mục vụ. Long Xuyên, tháng 4 năm 2009
Năm nay, trong Tuần Thánh, tôi được diễm phúc tham dự nghi thức đi đàng thánh giá. Nghi thức Bùi-Tuần 1788
Năm nay, trong Tuần Thánh, tôi được diễm phúc tham dự nghi thức đi đàng thánh giá. Nghi thức đã diễn ra tại Rôma đêm thứ Sáu (10-4-2009). Giờ Việt Nam là 5 giờ sáng thứ Bảy (11-4-2009). Tất nhiên tôi tham dự qua truyền hình trực tiếp. Hình ảnh và âm thanh rất rõ. Trong bầu khi thầm lặng, tôi hiệp thông với Ðức Thánh Cha và toàn thể dân Chúa quy tụ tại công trường Côliseô, để viếng đàng thánh giá. Xin phép cho tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của tôi, sau khi tham dự.
1/ Huyền nhiệm vô hình Tôi được thấy đám đông vô kể, gồm nhiều dân tộc và quốc gia, thuộc đủ mọi lứa tuổi và mọi thành phần trong Hội Thánh. Tôi được thấy một đoàn nhỏ di chuyển theo cây thánh giá lớn. Mỗi chặng đàng có một người cầm cây thánh giá lớn ấy giơ lên cao. Họ thay nhau cầm. Người ta có cảm tưởng họ tượng trưng cho các dân tộc trên thế giới và các thành phần khác nhau trong gia đình của Giáo Hội. Tôi được thấy Ðức Thánh Cha Bênêđíctô XVI. Với bộ tóc bạc phơ, Ngài quỳ tại chỗ suốt hơn một tiếng rưỡi đồng hồ. Nét mặt chiêm niệm sâu, hai bàn tay chắp lại cung kính. Tôi được nghe ở mỗi chặng đàng: một bài suy niệm nhỏ, một lời cầu nhỏ, một kinh Lạy Cha đọc chung, một bài hát về Mẹ sầu bi do ca đoàn đảm nhận. Quang cảnh những gì tôi thấy và nghe là rất trang nghiêm. Nhưng tôi được thu hút nhiều hơn bởi một sức thiêng đàng sau quang cảnh đó. Ðức Thánh Cha quỳ lặng. Ngài ở giữa gia đình dân Chúa và trước mặt Chúa như một người phục vụ. Chính vì không như kẻ có quyền, nên uy của Ngài lại rất lớn. Uy của Ngài là do sự hiền lành, khiêm nhường, thánh thiện. Nhìn Ngài cầu nguyện, người ta không ngại quả quyết: Ngài đang gặp Chúa. Chúa ở với Ngài. Ðó là một huyền nhiệm ở trong Ngài. Còn dân Chúa, tuy rất đông và rất khác nhau về quốc tịch, văn hoá và chức vị, tuổi tác, nhưng họ sát bên nhau, liên kết với nhau. Họ coi nhau là con cùng một Cha trên trời. Vì thế, sức mạnh của họ là vô hình, huyền nhiệm. Ði đàng thánh giá như thế không nói lên một Hội Thánh cơ chế, nhưng nói lên một Hội Thánh huyền nhiệm. Yếu tố chính làm nên huyền nhiệm, là Thiên Chúa ở giữa Hội Thánh.
2/ Thân phận con người Những đề tài được gợi lên, để suy niệm trong 14 đàng thánh giá, đều liên quan đến thân phận con người. Chúa Giêsu mang trên mình mọi thứ đau khổ của con người. Chúa chịu chết đền tội cho loài người sa ngã. Những gì là nhục nhã, là bất công, là phản bội, là vô ơn, mà người ta thường gặp trong chuyến đi cuộc đời, đều đã xảy ra cho Ðức Kitô. Người mang trọn thân phận con người. Chính vì thế, mà Người cũng rất nhạy cảm với những nâng đỡ ủi an do người đời mang lại. Ðêm đó, vị gợi ý suy niệm đã nêu lên ba chi tiết một cách chủ ý: - Một là ông Simon vác đỡ thánh giá Chúa. - Hai là các phụ nữ Giêrusalem khóc thương Chúa. - Ba là Chúa Giêsu trối môn đệ Gioan cho Ðức Mẹ và trối Ðức Mẹ cho môn đệ Gioan. Khi những chi tiết đó được nêu lên để suy niệm, tôi thấy tôi được gần gũi Chúa Giêsu. Bởi vì tôi cũng trong thân phận con người, rất lấy làm quý những đỡ nâng an ủi như vậy. Nếu tôi không nhìn lầm, thì tôi đã thấy Ðức Thánh Cha tỏ ra rất cảm động. Ngài cũng mang một thân phận con người cần được đỡ nâng. Có một chi tiết nên nhắc tới ở đây là: Ở một chặng gần cuối, thánh giá đã được trao cho một người bệnh tật. Người này vừa di chuyển bằng xe lăn, vừa giơ cao cây thánh giá. Nhìn cảnh đó, nhiều người đã xót xa, mủi lòng, lấy khăn lau nước mắt. Tự nhiên, tôi nghĩ đến những thân phận khổ đau xa gần. Họ đến gần bên Chúa. Chúa ở bên họ. Chúa cùng đau khổ với họ. Tôi cũng được chia sẻ đôi chút đau khổ của họ. Ðau khổ là quê hương chung.
3/ Thánh giá và ngọn lửa hồng Buổi viếng đàng thánh giá kéo dài một tiếng rưỡi. Trong đó hình ảnh được đài truyền hình chiếu nhiều lần nhất chính là thánh giá và ngọn lửa hồng. Thánh giá là biểu tượng tình yêu cứu độ của Chúa giàu lòng thương xót. Ngọn lửa hồng là hình ảnh tình yêu. Một quy tụ rất đông. Không biểu ngữ, không khẩu hiệu, không đồng phục. Tất cả đều trong trật tự, trang nghiêm, thinh lặng sốt sắng. Ai nấy ra về, như ngọn lửa hồng. Họ ra đi với vinh dự của cây thánh giá. Bước nhỏ thôi, nhưng tất cả là tình yêu và cho tình yêu. Ðời họ mang ý nghĩa cao đẹp. Lời chứng của họ chính là đời sống của họ. Ðôi khi thinh lặng khiêm tốn cũng là một thứ lời nói truyền cảm. Tôi tạ ơn Chúa đã dạy tôi nhiều điều trong buổi tham dự hiếm hoi này. Có những điều tôi chia sẻ được. Và có những điều tôi không chia sẻ được, do giới hạn của khả năng diễn tả. Long Xuyên, tháng 4 năm 2009
Chúng ta đang sống đạo trong một giai đoạn lịch sử sôi động. Một trong những cái làm sôi động Bùi-Tuần 1789
Chúng ta đang sống đạo trong một giai đoạn lịch sử sôi động. Một trong những cái làm sôi động là sự kiện tham dự, tham gia. Tham dự thánh lễ, lễ hội. Tham gia sinh hoạt cộng đoàn, và các tổ chức. Sự kiện tham dự, tham gia được coi như một giá trị để đánh giá lòng đạo, và tinh thần truyền giáo. Thực tế cho thấy những mục tiêu tốt đẹp ấy không luôn đạt được. Bởi vì tham dự tham gia nhiều khi bị chi phối bởi tinh thần thế tục mà không hay biết. Vậy, thế nào để nhận ra sự tham dự tham gia là đúng hướng, dẫn tới những mục đích thiêng liêng đích thực. Có nhiều cách. Ở đây tôi chỉ xin chia sẻ một cách mà thôi. Cách này nói lên sự đổi mới tâm hồn. Sự đổi mới này gồm ba yếu tố: - Khát khao về với Chúa Cha. - Bằng con đường của Chúa Giêsu. - Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Xin khai triển vắn tắt từng yếu tố.
1/ Khát khao về với Chúa Cha “Về với Chúa Cha” là tâm tình bình thường phải có nơi mọi người nhận Chúa là Cha. Mỗi khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, người con Chúa hướng về Cha, tìm về Cha, khao khát được về với Cha. Tâm tình đó sẽ được đốt nóng lên, trong nhiều trường hợp tham dự, tham gia. Những trường hợp đó không chỉ là tổ chức, lễ nghi, phát biểu, mà còn là lửa. Lửa thiêng này vô hình, nhưng được diễn tả ra bằng sự làm nóng lên các tâm hồn tham dự, tham gia. Nếu cần một vài hình ảnh, thì chúng ta có thể mượn trong Kinh Thánh và dân gian như: - Con nai khát tìm về suối nước. - Người lính canh đêm mong chờ rạng đông. - Người bệnh tật mong đợi thầy thuốc. - Ðứa con thơ ngóng đợi mẹ về. - Kẻ gặp khó mong gặp người giải cứu. - Người đi đường trông sớm về tới nhà. - Con tàu vượt biển ngóng trông về tới bến. “Về với Cha” là tâm tình căn bản của người con suốt cuộc đời mình. Tâm tình căn bản ấy có thể bị nguội đi do sự lấn át của những tâm tình không căn bản. Nhưng nó sẽ được nóng lên, nhờ cầu nguyện, suy niệm và tham dự những thánh lễ và tham gia những sinh hoạt thực sự có lửa thiêng liêng. Lửa thiêng liêng này không thể tạo nên được do những hoành tráng, ồn ào. Càng không thể tạo ra được do tinh thần thế tục, trống vắng sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa. Phải có Chúa hiện diện, rồi phải biết đón nhận Chúa. Khi lửa thiêng đã đốt lên niềm khao khát tìm về với Cha, thì niềm khao khát ấy sẽ thúc giục ta tìm về với Cha bằng con đường đúng nhất. Con đường đó là con đường nào?
2/ Bằng con đường của Chúa Giêsu Chúa Giêsu được Chúa Cha sai vào thế gian, để nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha, dùng chính mình để diễn tả Thiên Chúa là tình yêu và là sự thật. Sự diễn tả ấy được thực hiện bằng lời nói, việc làm. Lời nói việc làm của Chúa Giêsu có sức chữa lành và đổi mới. Chữa lành và đổi mới trong mọi lãnh vực nằm trong con người. Lãnh vực thuộc thể xác, lãnh vực thuộc cảm xúc tâm linh, lãnh vực thuộc tinh thần trí tuệ. Chữa lành và đổi mới dành cho mọi người, nhưng đặc biệt là dành cho những người cùng khổ. Ai cùng khổ, thì Người cũng cùng khổ và cùng khổ hơn, để gặp gỡ họ và chia sẻ với họ. Tình thương của Người là vô biên vô bờ. Chân lý của Người là giải cứu, tháo gỡ và dẫn về với Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa là chân lý, sẽ không là một ý tưởng, nhưng là những gặp gỡ sống động. Ðiều đó được thực hiện ở nhiều tham dự, tham gia. Tôi gặp gỡ những người sống với Thiên Chúa tình yêu và chân lý. Họ giúp tôi nhận ra Thiên Chúa là tình yêu và chân lý. Họ theo gương Chúa Giêsu hy sinh đời mình cho người khác, vì Thiên Chúa tình yêu và chân lý. Họ đi về với Cha bằng cách bước theo Chúa Giêsu phục vụ yêu thương con người, dù phải từ bỏ mạng sống. Sau một tham dự, tham gia, nếu tôi được như thế, và gặp được nhiều người như thế, thì tôi cho rằng tham dự, tham gia ấy là có chất lượng. Ðể được như vậy, tôi rất cần được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần.
3/ Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần Tôi khát khao về với Chúa Cha. Tôi về với Chúa Cha bằng con đường Chúa Giêsu. Nhưng, tôi cần nói thực một điều là tôi không dám tự hào có đủ sức đi theo con đường lý tưởng đó. Thực tế là tôi dâng mình cho Chúa Thánh Thần. Người dẫn dắt tôi, để tôi biết đón nhận Chúa Giêsu vào đời tôi. Tôi đón nhận Người. Quan trọng là biết đón nhận Chúa Giêsu. Rồi tôi phải cố gắng làm hết sức mình để cộng tác với ơn Chúa. Thái độ này khiến tôi vừa cậy tin vào Chúa, vừa nhận thức thấm thía thân phận hèn mọn của mình Thái độ này cũng sẽ cho tôi thấy những bất ngờ Chúa làm trong sứ vụ của những người Chúa sai đi. Mình chỉ là một dụng cụ yếu kém. Mình chỉ là một chiếc gương mờ. Nhưng Chúa lại cho thấy nhiều kết quả. Chỉ có sự khiêm tốn cảm tạ mới là cách làm chứng hợp lý cho hồng ân Chúa ban nhưng không. Tôi xác tín rằng: Nhờ Chúa Thánh Thần, mà chúng ta mới biết được thánh ý Chúa và biết thực thi thánh ý Chúa một cách cụ thể. Thánh ý Chúa rất khác ý riêng ta. *** Càng ngày tham dự tham gia càng mang nhiều hình thức. Càng ngày sự mời gọi tham dự tham gia càng được phát động dưới nhiều động cơ. Có thể đó là dấu chỉ của sự phát triển đạo đức. Nhưng, nếu không hợp ý Chúa, thì đó lại là dấu chỉ của sự suy thoái đời sống nội tâm. Long Xuyên, ngày 9 tháng 5 năm 2009
Ngày 14 tháng 5 năm 2009, giáo phận Long Xuyên tổ chức thánh lễ Tạ Ơn và mừng Ðức Cha Bùi-Tuần 1790
Ngày 14 tháng 5 năm 2009, giáo phận Long Xuyên tổ chức thánh lễ Tạ Ơn và mừng Ðức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ được: - 100 tuổi đời. - 75 năm linh mục. - 50 năm Giám mục. Thánh lễ được tổ chức long trọng tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. Nhà thờ được trang hoàng đẹp. Thành phần tham dự mang màu sắc gia đình và toàn quốc. Nghi thức trang nghiêm sốt sắng diễn tả một Hội Thánh hân hoan bước về hướng Nước Trời. Riêng đối với tôi, cái làm tôi suy nghĩ nhiều nhất hôm nay không phải là nhà thờ, thành phần tham dự, và các nghi thức, nhưng là nơi Ðức Cha Micae vốn sống đời âm thầm. Ðó là một căn phòng nhỏ. Thăm Ðức Cha trong căn phòng đơn sơ này, tôi nhớ lại đoạn sách Tông đồ Công vụ viết về thánh tông đồ Phaolô: “Suốt hai năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (Cv 28,30-31). Như thánh Phaolô, Ðức Cha Micae đã góp phần xây dựng Hội Thánh tại căn phòng mình ở. Không phải hai năm, mà hơn mấy chục năm. Trước kia, hoạt động truyền giáo của Ngài là những chuyến đi mục vụ trên một không gian rộng dài từng trăm cây số. Nay, hoạt động xây dựng Hội Thánh của Ngài thu hẹp lại vào một căn phòng. Từ căn phòng bé nhỏ này, Ngài vẫn là một tông đồ hoạt động theo khả năng của Ngài. Mục vụ đó có thể thấy dưới hai hình thức sau đây:
1/ Rao giảng về Chúa Giêsu Tại căn phòng nhỏ, Ðức Cha Micae tiếp đón gặp gỡ những ai đến thăm Ngài. Ngài coi những dịp gặp gỡ đó như những giờ phút mục vụ. Ngài thường nhắc đến việc cầu nguyện, đọc Phúc Âm. Ngài dẫn người ta đến với Chúa Kitô. Ðúng như khẩu hiệu Giám mục của Ngài là: “Christus in Vobis - Ðức Kitô trong anh chị em”. Ðức Kitô là Tin Mừng. Xây dựng Hội Thánh một cách đích thực là phải tập trung vào Tin Mừng Ðức Kitô. Ðức Cha Micae, khi dạy người ta về Ðức Kitô, thường kết thúc bằng việc khuyên cầu nguyện. Ngài khuyên mọi người năng cầu nguyện kinh Mân côi. Ngài để ý đến việc suy gẫm 15 mầu nhiệm của kinh đó. Ngài hay nói: 15 mầu nhiệm kinh mân côi là tóm lược Phúc Âm. Cách Ngài rao giảng về Ðức Kitô như thế dễ được mọi người tiếp thu. Ðặc biệt là các trẻ em, chúng gặp Ngài như nắm lấy một bàn tay hiền chỉ cho chúng đến gặp gỡ Ðức Kitô. Ði đôi với việc rao giảng về Ðức Kitô là nêu gương thánh thiện.
2/ Nêu gương thánh thiện Trong căn phòng nhỏ bé của đời âm thầm, Ðức Cha Micae đã luôn sống thánh thiện. Tôi hiểu sự thánh thiện như thế này: Mọi lãnh vực trong con người đều được Chúa Thánh Thần ngự trị, chi phối. Lãnh vực thân xác với những nhu cầu riêng của nó, như ăn uống, ngủ nghỉ. Lãnh vực tình cảm với những sinh hoạt đa dạng của nó, như nhạy cảm, cảm xúc, yêu thương. Lãnh vực trí tuệ như khái niệm, hiểu biết, phán đoán. Lãnh vực ý chí như khả năng chọn lựa, ước muốn. Những lãnh vực này có thể lành mạnh, có thể không. Một cách để tin sự lành mạnh của chúng là việc người ta khiêm tốn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa Thánh Thần như làn gió thiêng thường xuyên thổi qua mọi lãnh vực, để chữa lành những gì cần phải chữa, để đổi mới những gì cần phải đổi mới, tất nhiên là về phương diện đạo đức. Với nhận thức như trên, tôi nhìn vào Ðức Cha Micae trong căn phòng nhỏ hẹp. Tôi thấy mọi lãnh vực trong Ngài đều trong sáng đạo đức. Từ việc ăn uống, ngủ nghỉ, cho đến tình cảm, hiểu biết, chọn lựa đều toát ra sự thanh thoát, sự tự do của người con Chúa, tinh thần trách nhiệm của người mục tử, đặc biệt là sự khiêm nhường, nghèo khó và yêu thương của người môn đệ Ðức Kitô. Ðức Cha Micae là một nhà tu hành đích thực. *** Sách Tông đồ Công vụ viết về Hội Thánh của thánh Phaolô trong một thời hết sức khó khăn: “Hội Thánh được bình an, được xây dựng và sống trong sự kính sợ Thiên Chúa, và tiến triển nhờ ơn an ủi của Chúa Thánh Thần” (Cv 9,31). Lời trên đây có thể áp dụng cho giáo phận Long xuyên, nhìn từ căn phòng bé nhỏ, nơi Ðức Cha Già âm thầm sinh sống. Chúa Thánh Thần an ủi chúng tôi. Chúng tôi gồm ba thế hệ giám mục với toàn thể dân Chúa cùng nhau tiến bước trên đường về Nước Chúa trong an bình yêu thương, hiệp nhất. Vì thế, từ căn phòng bé nhỏ của Ðức Cha Micae, tôi coi lễ tạ ơn hôm nay (14-5-2009) là một thông điệp gởi cho khắp nơi. Thông điệp đó là: Hãy sống thánh thiện. Hãy loan báo Tin Mừng Ðức Kitô. Thánh thiện là điều rất cần, rất quan trọng, rất giúp ích cho Hội Thánh và Quê Hương Việt Nam chúng ta. Loan báo Tin Mừng Ðức Kitô là mục đích chính của Hội Thánh trong bất cứ hoàn cảnh nào. Không gì thay thế được việc căn bản đó. Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con biết đón nhận thông điệp nhỏ này cho thời sự phức tạp hôm nay. Long Xuyên, ngày 14-5-2009
Tôi được nâng đỡ bởi nhiều người. Họ gặp tôi qua nhiều cách. Như thư từ, sách vở, điện thoại, viếng Bùi-Tuần 1791
Tôi được nâng đỡ bởi nhiều người. Họ gặp tôi qua nhiều cách. Như thư từ, sách vở, điện thoại, viếng thăm. Dù tiếp xúc qua cách nào, họ vẫn hiện diện bên tôi. Thường thường đàng sau hiện diện của họ lại có những hiện diện khác. Ở đây, tôi xin phép được nói lên những hiện diện vô hình đó. Những hiện diện này tuy vô hình, nhưng cảm thấy khá rõ đối với những ai đã được Phúc Âm chỉ dạy. Thí dụ:
1/ Hiện diện của “hạt lúa gieo vào lòng đất” Thực vậy, sự hiện diện của nhiều người gợi cho tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Thật, Thầy bảo thật các con, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,34). Sự hiện diện của nhiều người là một thứ hiện diện toả sáng. Toả sáng tình yêu hy sinh quên mình. Họ đã trải qua nhiều đớn đau quên mình, giống như những chôn vùi, những thối đi, những cái chết. Nhưng chính nhờ vậy, mà họ nên như cây lúa nở sinh nhiều hạt, góp phần vào mùa lúa tốt nở rộ trên cánh đồng truyền giáo. Khi gặp ai, mà thấy nơi họ có sự hiện diện của hạt lúa gieo vào lòng đất, như Chúa phán, tôi cảm tạ ngợi khen Chúa vô vàn. Tôi tin Chúa sai họ đến với tôi, để nâng đỡ tôi, để dạy dỗ tôi. Ðiều họ dạy tôi sẽ rất khác với nhiều thứ mà thế gian thường ca tụng trong các loại mừng chúc. Ngoài hình ảnh hạt lúa, tôi thấy sự hiện diện của cành nho cũng đã rất sống động.
2/ Hiện diện của “cành nho” Nhiều người mang sự hiện diện của cành nho cũng đã giúp tôi rất nhiều. Có hai thứ cành nho đã được Chúa Giêsu nhắc tới một cách thiết tha trong bữa tiệc ly. Một là thứ cành nho gắn chặt vào thân cây nho: “Thầy là cây nho, các con là cành... Cũng như cành nho không thể tự mình sinh ra hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng thế... Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh được nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,4-5). Hai là thứ cành nho được cắt tỉa. Chúa Giêsu phán: “Cành nho nào sinh hoa trái, thì Cha Thầy sẽ cắt tỉa nó, cho nó sinh được nhiều hoa trái” (Ga 15,2). Tôi thấy đời thường này không thiếu những mẩu Tin Mừng. Những mẩu Tin Mừng ấy là về sự hiện diện của những cành nho gắn chặt vào thân cây nho và được cắt tỉa. Họ đã nâng tâm hồn tôi lên một cách nhẹ nhàng và huyền diệu. Tôi suy nghĩ nhiều, tôi đọc nhiều. Nhưng điều tôi cần hơn hết là sự hiện diện của những người có khả năng giúp tôi sống đời mình một cách có ý nghĩa nhất. Tôi gặp được những hiện diện đó nơi những người sống ơn gọi cành nho, như Chúa đã phán. Nhờ những hiện diện ấy, cái nhìn của tôi về đời mình được đổi mới dần dần. Trước đây, tôi coi đời sống nào để lại được nhiều công trình xây cất, nhiều dấn thân từ thiện, sẽ là những gương nên noi theo. Nhưng dần dà, khi gặp được sự hiện diện của những người là cành nho gắn chặt vào thân nho và được thử thách cắt tỉa, tôi mới nhận thấy rõ cuộc đời cao đẹp là gì. Ðó là sóng mật thiết với Chúa và được Chúa thanh luyện như những cắt tỉa. Lúc đó, đời tôi sẽ là một lời cầu nguyện dài. Cầu nguyện như vậy sẽ là ở lại trước sự hiện diện của Chúa. Ðể được Chúa tỏ cho tôi biết tình yêu và chân lý. Nhờ đó, tôi có thể phục vụ tha nhân với một chất lượng Phúc Âm hơn.
3/ Hiện diện của “muối” Có nhiều lúc, tôi rơi vào cảnh nhạt lạnh. Tôi có cảm tưởng lửa mến Chúa yêu người chỉ còn là một lý thuyết suông. Nhưng rất may là tôi gặp được những người là muối. Họ nhắc tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán xưa: “Chính các con là muối cho đời. Nhưng nếu muối mà nhạt đi, thì sẽ lấy gì ướp cho nó mặn lại được. Nó đã thành vô dụng. Chỉ còn việc quẳng nó ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5,13). Kinh nghiệm cho tôi thấy: Mình phải là muối, và là thứ muối thực sự mặn. Người ta có thể là người bận rộn để sống đúng giờ, làm đúng nghi thức, đọc đúng kinh, nhưng thực sự lại rất nguội lạnh trong nội tâm. Các người Pharisêu xưa thuộc loại đó. Chúa Giêsu cảnh cáo họ. Nhưng họ khó đổi cách sống ấy. Bởi vì sự nguội lạnh nội tâm của họ luôn được che giấu dưới một nếp sống bề ngoài có vẻ nề nếp. Thực sự, nề nếp bề ngoài tuy đẹp, nhưng không phải là căn bản của con người. Căn bản chính là yêu thương và khả năng yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu. Ðạo Chúa là mến Chúa yêu người. Bận rộn với nề nếp bên ngoài, mà nguội lạnh nội tâm, thiết tưởng cảnh đó không có sức làm chứng mình là muối đem lại cho đời sự mặn nồng của tình mến Chúa yêu người. *** Một hiện diện mang nhiều hiện diện, như hạt lúa, cành nho và muối. Hiện diện của một người như thế luôn là một thứ quà tặng quý Chúa ban. Câu hỏi nên đặt ra ở đây là: Mỗi người chúng ta có là một hiện diện mang nhiều hiện diện như thế không? Hội Thánh Việt Nam sẽ có một tương lai phát triển bền vững, khi lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống được thực hiện qua những con người là hiện diện của hạt lúa, của cành nho, của muối đất. Họ đang được Chúa sai vào tình hình Việt Nam hôm nay. Long Xuyên, ngày 23 tháng 5 năm 2009
Ðời tôi là một chuyến đi. Tới nay, chuyến đi đó có thể gọi được là khá dài. Suốt dọc chuyến đi Bùi-Tuần 1792
Ðời tôi là một chuyến đi. Tới nay, chuyến đi đó có thể gọi được là khá dài. Suốt dọc chuyến đi khá dài ấy, tôi đã nhận được nhiều thứ tin mừng. Trong đó có một tin mừng, đối với tôi, là thực sự căn bản, là thực sự lớn lao. Ðó là Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Chính Người là Tin Mừng cứu độ tôi. Tôi đọc trong đời tôi dưới ánh sáng Tin Mừng Ðức Kitô.
1/ Ðức Kitô trước cảnh nước mắt và nấm mồ Phúc Âm thánh Gioan ghi lại sự kiện ông Ladarô chết. Ðược tin ấy, Chúa Giêsu đến với hai chị ông. Chị Macta ra đón. Ðược gặp Chúa rồi, chị về gọi cô em là Maria và nói: “Thầy đến rồi. Thầy đang gọi em”. Nghe vậy, cô Maria vội đứng lên và chạy đến với Chúa Giêsu. Hai chị em dẫn Chúa Giêsu đến mồ Ladarô. Ở đây, chỉ còn là xác chết, đã được chôn cất bốn ngày. Bây giờ chỉ còn là nước mắt và khóc than. Giữa cảnh đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ, cho Ladarô sống lại (x. Ga 11,1-44). Ðời tôi cũng có những trường hợp tương tự. Nước mắt trên nấm mồ. Nhưng chính trong cảnh tang thương ấy, đã có những người tốt như Macta. Họ cho tôi biết là: Chúa Giêsu đến và Người gọi tôi. Nhờ đó, tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Người làm cho những gì đã chết trong tôi được sống lại. Người là Ðấng cứu độ tôi. Từ những sự kiện như thế, Chúa dạy tôi một bài học. Bài học về phục vụ con người. Phục vụ có nhiều cách. Nhưng tốt nhất là hãy phục vụ như cô Macta và những người như cô. Họ đến với những người đang khóc và nói với họ: “Chúa đang đến”. Họ tìm gặp những ai đang vật vã trên những nấm mồ cuộc đời, để nói với họ: “Chúa đang gọi”. Cách loan báo Tin Mừng của họ xuất phát từ những tang thương của thân phận thực tế cuộc đời. Từ đó họ đến gặp Chúa Giêsu một cách trực tiếp. Họ đang là thế nào, thì đến với Chúa Giêsu đúng là như vậy. Nghĩa là đến với thân phận con người cần được cứu độ. Nước mắt là lễ vật. Nấm mồ là lời nguyện. Chỉ thế thôi. Sau cùng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Ðấng cứu độ giàu lòng thương xót. Hãy là những người như cô Macta. Ði từ những cảnh khổ đau của cuộc đời. Xuất phát từ những kinh nghiệm bản thân về nước mắt và nấm mồ. Một số người, không theo lộ trình đó. Họ xuất phát từ những lý thuyết cao siêu. Bay bổng trên bầu trời cao thẳm. Kinh nghiệm cho thấy cách đó không gần gũi con người. Tôi nghĩ những người giới thiệu Chúa Giêsu nên theo mô hình Macta. Họ khóc với người khóc. Họ đau cùng với nỗi đau của người đang đau. Rồi, Chúa Giêsu mà họ giới thiệu, cũng đến như vậy. Người cùng khóc. Người cũng đau. Trên đời, chia sẻ nỗi đau của người khác một cách thiết thực bằng sự chính mình cũng chịu phần nào nỗi khổ của họ, đó là phục vụ quý và đáng tin cậy.
2/ Chúa Giêsu trước cảnh làm ăn vất vả Phúc Âm thánh Gioan thuật lại cảnh các tông đồ đi đánh cá ở biển hồ Tibêria. Suốt đêm vất vả chài lưới, mà không bắt được con cá nào. “Khi trời đã sáng, Ðức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Ðức Giêsu. Người nói với các ông: Này, các chú, không có gì ăn ư? Các ông trả lời: Thưa không. Người bảo các ông: Hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì sẽ bắt được cá. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên được. Vì lưới đầy cá. Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: 'Chúa đó'. Vừa nghe 'Chúa đó', ông Simon Phêrô vội khoác áo vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển, mà bơi đến với Chúa. Các môn đệ khác thì chèo thuyền vào bờ gặp Chúa” (Ga 21,4-8). Ðời tôi cũng không thiếu những trường hợp giống như thế. Mục vụ như đi thả lưới. Bao lần lầm lũi vất vả mà không thấy kết quả nào. Ðến một lúc nào đó, tôi được nghe một tiếng nhiệm mầu, bảo tôi phải đổi hướng. Tôi vâng theo. Trong nỗi vui mừng, tôi gặp được những người như môn đệ Gioan. Họ chỉ cho tôi thấy chính Chúa Giêsu đã giúp tôi. “Chúa đó”. Người đứng trên bãi biển mục vụ của tôi. Thế mà trước đó tôi không nhận ra. Những trường hợp như trên dạy tôi một điều cần thiết, là: Hãy sống như Gioan, loan báo rằng: Ðức Kitô ở giữa những cuộc đời đêm ngày làm ăn vất vả. Hãy nhận ra Người. Người ở giữa cuộc đời. Người gặp những con người làm ăn kiếm sống. Người là Ðấng cứu độ của họ. Lại một lần nữa, thánh Gioan đã đưa con người đến với Chúa Giêsu từ thực tế cuộc đời. Cuộc đời như chênh vênh giữa thành công và thất bại. Hãy nhận ra Chúa Giêsu ở giữa những chao đảo ấy. Chúa đó. Hãy vâng lời Người. Hãy tin cậy ở Người. Khi bám sát cuộc đời thực tế, người loan báo Tin Mừng sẽ biết bỏ đi những gì không cần thiết, chỉ làm cho cuộc đời thêm nặng nề một cách vô bổ. Thiết tưởng mục vụ hôm nay nên quan tâm hơn đến: Con người và đời người. Hãy đưa con người và đời người đến trực tiếp với Chúa Giêsu. Chúa đó. Chúa Giêsu sẽ trở nên Tin Mừng cứu độ cho mọi người và từng người. Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2009
Thánh Tâm Chúa Giêsu được tôn sùng đều khắp trong Giáo Hội Việt Nam. Một trong những tượng Bùi-Tuần 1793
Thánh Tâm Chúa Giêsu được tôn sùng đều khắp trong Giáo Hội Việt Nam. Một trong những tượng ảnh của Chúa Giêsu có sức hấp dẫn nhất chính là tượng ảnh Chúa Giêsu với trái tim bốc lửa. Trái tim Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người. Ðến với Người, mỗi người sẽ có những cảm nghiệm riêng. Tôi xin phép chia sẻ cảm nghiệm riêng của tôi.
1/ Gặp Chúa Giêsu trong ơn nhận biết mình Trước kia, có lúc tôi đến với Chúa trong tâm tình tự khẳng định một cách ngây thơ như: Dâng tiến Cha xác hồn trắng tinh, như ánh quang rạng ngời. Hay như: Tâm tư con là bài ca, tựa một bài ca tuyệt vời. Có thể là tôi đã vụng về áp dụng không đúng những hình ảnh gợi ý đó vào con người của tôi. Nên những hình ảnh quá tốt đẹp ấy làm tôi xấu hổ. Lúc ấy, trái tim Chúa gọi tôi hãy đến với Chúa với những hình ảnh thực tế hơn. Như hình ảnh người thu thuế đến cầu nguyện trước bàn thờ: “Ông vừa đấm ngực vừa than rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Hay như hình ảnh hai người mù tại Giêrikhô: “Và kìa, có hai người mù ngồi ở vệ đường. Vừa nghe Chúa Giêsu đi ngang qua đó, họ liền kêu lên rằng: Lạy Ngài, lạy con vua Ðavít, xin dủ lòng thương chúng tôi” (Mt 20,30). Khi tôi nhìn nhận tôi như người thu thuế và như người mù, đến xin Chúa xót thương, thì tâm hồn tôi lắng xuống và bình an. Bởi vì tôi trở về đúng chỗ của tôi. Chỗ đó là chỗ của người tội lỗi, yếu đuối, bệnh tật. Lúc đó, Chúa dạy tôi một bài học thiết thân. Ðó là bài học đến với Chúa. Dù đến để ca tụng ngợi khen Chúa, dù đến để dâng tiến lễ vật, dù đến để cầu xin ơn này ơn nọ, dù cách nào khác nữa, thì phải đến với tâm tình gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ một cách tư riêng. Gặp gỡ này có luật riêng của nó. Ðó là khiêm tốn nhận biết mình. Như vậy có nghĩa là tôi đến với Chúa không để xin được chữa lành, hầu sẽ nên người có uy tín hơn, giá trị hơn, nhưng là mong sẽ nên người biết mình. Ôi! Cái tôi đích thực sao mà phức tạp thế. Khiêm tốn, đợi chờ, kiên nhẫn, cậy tin, phó thác, đó là bầu khí tâm linh thuận lợi cho sự đón nhận ơn biết mình.
2/ Gặp Chúa Giêsu trong ơn đi theo Chúa Nhiều lần, tôi cùng Phụng vụ, gọi Chúa là Chúa các đạo binh. Rồi tưởng rằng Chúa các đạo binh là Ðấng chiến thắng, là Ðấng không ai dám đụng đến. Thế nhưng, khi gặp Chúa Giêsu, Người nhắc lại cho tôi những gì xưa Người đã nói với các môn đệ. Phúc Âm thánh Máccô viết: “Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Với những lời trên, tôi đón nhận Chúa các đạo binh với hình ảnh Con Người bị trao nộp và bị giết trước khi được phục sinh. Hiểu như thế làm tôi sợ. Nỗi sợ càng lớn dần, khi Chúa cho tôi hiểu, số phận của Người cũng sẽ là số phận của tôi. Nên, với nỗi sợ là nỗi băn khoăn, do dự. Nhưng Chúa dứt khoát: “Ai muốn theo Thầy, thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Nghe lời Chúa, tôi không còn chọn lựa nào khác, ngoài sự đón nhận Chúa và cũng đón nhận con đường Người đã đi. Chấp nhận trên lý thuyết thì tương đối dễ. Nhưng chấp nhận trên thực tế thì không dễ chút nào. Bị trao nộp cách nào cũng khổ, cũng nhục. Bị giết cách nào cũng là bị loại trừ, cũng là bị tiêu diệt. Nhưng tôi quá yếu đuối, nên tôi được thúc giục phải cầu xin Chúa giúp đỡ, để biết vâng phục thánh ý Chúa một cách khiêm nhường. Với ơn đó, tôi đã được khá nhiều người chia sẻ về sự họ bị trao nộp và bị giết bởi nhiều cách. Ðau khổ, dù do khách quan, dù do chủ quan, đều vẫn là đau khổ có thực. Tôi tạ ơn Chúa, vì họ khiêm nhường chia sẻ với tôi.
3/ Gặp Chúa Giêsu trong ơn được đỡ nâng Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy. Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Lời Chúa hứa trên đây đã được tôi cảm nghiệm sâu xa. Những khổ đau, lo âu, sợ hãi của tôi là những gánh nặng. Tôi mang gánh nặng đó một cách vất vả. Khi đến với Chúa, tôi đặt gánh nặng đó trong trái tim Người. Dần dần, Chúa cho tôi cảm thấy mình được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Chúa đã thương an ủi tôi bằng nhiều cách. Lạy Chúa, con không xứng đáng. Xin cảm tạ lòng thương xót Chúa. Càng phó thác nơi trái tim Chúa, tôi càng thấy việc sống đạo của tôi không là chuyện của quá khứ, nhưng là chuyện của hiện tại. Một hiện tại đầy sự hiện diện của Chúa Giêsu. Mọi sáng kiến do sự hiện diện đó đều thuộc về Chúa. Dù được ơn biết mình, Dù được ơn theo Chúa, Dù được ơn đỡ nâng, tôi luôn phải khiêm tốn, đợi chờ, kiên nhẫn và cậy tin, phó thác. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Xin thương xót con. Long Xuyên, ngày 5 tháng 6 năm 2009
Trên nguyên tắc giáo luật, cứ 5 năm, các giám mục trên thế giới phải về Rôma, viếng mộ hai Bùi-Tuần 1794
Trên nguyên tắc giáo luật, cứ 5 năm, các giám mục trên thế giới phải về Rôma, viếng mộ hai thánh cả Tông đồ, và bệ kiến Ðức Giáo Hoàng là đấng kế vị Thánh Phêrô, đứng đầu Hội Thánh. Chuyến đi đó quen gọi là ad Limina. Năm nay, các Ðức Giám mục Việt Nam tại vị sẽ thực hiện chuyến đi đó vào hạ tuần tháng 6-2009. Chương trình làm việc ở Rôma sẽ kết thúc vào đầu tháng 7-2009. Toàn thể dân Chúa thuộc Giáo Hội Việt Nam cầu nguyện cho các Ðức Giám mục của mình một cách đặc biệt suốt thời gian các ngài làm việc tại Vatican. Cùng với việc cầu nguyện, tôi muốn mở rộng tinh thần hiệp thông bằng một suy tư cũng hướng về hai thánh Tông đồ và Ðức Thánh Cha. Suy tư đó tạm gọi là nhìn về đặc tính tông truyền trong cách sống đạo của chúng ta. Ðọc kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Tông truyền là Hội Thánh được xây dựng trên đạo lý do các thánh tông đồ truyền lại. Ðạo lý do các thánh tông đồ truyền lại có những đặc điểm nào? Ở đây, chỉ xin nêu lên mấy điểm chính yếu một cách đơn sơ vắn tắt. Ðặc điểm thứ nhất là rao giảng Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô Thánh Phaolô nêu gương về đặc điểm đó. Ngài quả quyết: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả là rơm rác, để được Ðức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3,8). Từ kinh nghiệm đó, thánh Phaolô coi việc rao giảng Ðức Kitô là rất quan trọng của đời tông đồ, dù khi được tự do, dù khi bị bắt bớ. Các tông đồ khác cũng vậy: “Mỗi ngày, trong đền thờ và tại tư gia, các ngài không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Ðức Giêsu Kitô” (Cv 5,42). Các thánh tông đồ đã truyền lại cho chúng ta bổn phận phải rao giảng về Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là Ðức Kitô. Nền tảng đạo là Ðức Kitô. Ơn cứu độ là Ðức Kitô. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định: “Chính Thầy là đường, là sự thực và và sự sống” (Ga 14,6). Theo lý thuyết, thì phải rao giảng về Ðức Kitô. Nhưng thực tế cho thấy Ðức Kitô không luôn được rao giảng. Người ta rao giảng nhiều thứ quá. Trong nhiều trường hợp, cả trong nhà thờ, đến cả trong thánh lễ, Ðức Kitô bị lu mờ trong lời rao giảng. Thay vào đó, những đề tài về cơ chế, về sinh hoạt, về tổ chức, về tiền bạc, đôi khi cả về chuyện phiếm hài hước lại được đề cao. Nếu không chỉnh đốn lại, thì từng bước chúng ta sẽ xa rời tông truyền. Ðặc điểm thứ hai là truyền giáo Truyền giáo là rao giảng Tin Mừng Ðức Kitô cho những người ngoài công giáo. Thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1,16). Thánh nhân coi việc truyền giáo là một bổn phận bắt buộc. “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Còn thánh Phêrô, ban đầu còn do dự về việc đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, nhưng sau khi hiểu ý Chúa, nhờ thị kiến của ông Conêliô và thị kiến của chính Phêrô, Ngài đã mạnh dạn đến với dân ngoại. Nhất là khi Ngài thấy Chúa Thánh Thần cũng hiện xuống trên những người dân ngoại đang nghe Ngài giảng, Ngài đã hoan hỉ biện minh và quả quyết việc truyền giáo cho dân ngoại chính là việc Ngài được chính Chúa sai đi (x. Cv 10-11). Truyền giáo cho những ai chưa biết Chúa là một bổn phận được các tông đồ truyền lại. Lý thuyết là thế. Còn thực tế thì sao? Nhiều nơi bổn phận truyền giáo được thực hiện tốt với nhiều nhiệt tình và sáng kiến. Nhưng nhiều nơi bổn phận truyền giáo chưa được nhấn mạnh đủ. Giữ đạo chứ không truyền giáo. Nếu coi việc giữ đạo tốt như một cách truyền giáo, thì hỏi rằng giữ đạo của nhiều người có thực sự là tốt không? Nếu phải chân thành với lương tâm, thì chúng ta nên thú nhận là: Chúng ta đã thiếu sót nhiều trong bổn phận loan báo Tin Mừng Ðức Kitô cho những người ngoài công giáo. Nhiều khi, chúng ta lấy danh nghĩa truyền giáo, để kiếm tiền bạc, xây cất cơ sở, tổ chức lễ lạy vì ban bệ. Nhưng khi những phương tiện đó không trong sáng và không kèm theo việc cầu nguyện, hy sinh và gương sáng, thì các phương tiện đó không lôi kéo được ơn Chúa xuống các tâm hồn, không đổi mới được lòng ai. Nếu không sửa lại, chúng ta sẽ từng bước xa rời Tông truyền. Ðặc điểm thứ ba là yêu thương phục vụ “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Hơn bao giờ hết, tại Việt Nam, lời Chúa Giêsu trối lại trên đây đang được nhắc tới đều khắp một cách sốt sắng. Rồi, lại thêm: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Chúng ta không thể không biết bổn phận yêu thương phục vụ là bổn phận quan trọng do các thánh tông đồ truyền lại. Các ngài truyền lại bổn phận đó, bởi vì chính Chúa Giêsu đã truyền lại cho các ngài. Bổn phận tông truyền này đã có những bước thực hiện tốt ở nhiều người và tại nhiều nơi. Thế nhưng đây cũng chính là bổn phận còn thiếu sót nhiều. Tôi không nói dài về những thiếu sót ấy. Chỉ xin chia sẻ một suy nghĩ của tôi, đó là những thiếu sót về yêu thương phục vụ thường tuỳ thuộc khá nhiều vào nền văn hoá, môi trường xã hội, tình hình chính trị và thực trạng giáo dục. Những yếu tố đó chúng ta không dễ tự mình thay đổi được. Chúng ta chỉ nên tập cho mình và cho những người thuộc về ta biết đón nhận thánh ý Chúa. Xem trong những hoàn cảnh cụ thể như thế, chương trình yêu thương phục vụ nào Chúa cho là tốt hơn cả. Ðiều quan trọng là chúng ta đón nhận thánh ý Chúa. “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối của Chúa, xin Chúa cho chúng con biết đường đi của Chúa” (Tv 25,4). Thực tế cho thấy, dù bầu khí văn minh vật chất có ảnh hưởng mạnh đến đâu, mỗi người con Chúa vẫn có thể làm được nhiều việc tốt về yêu thương phục vụ theo thánh ý Chúa. *** Chia sẻ trên đây về tông truyền là một chút đóng góp vào chuyến đi ad Limina của các Ðức Giám mục Việt Nam, đồng thời cũng là chút gợi ý cho Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam đang tới. Long Xuyên, ngày 8 tháng 6 năm 2009
Ðức Cha Cố Micae đã ra đi. Ngài để lại nhiều hình ảnh đẹp. Một trong những hình ảnh đẹp đáng Bùi-Tuần 1795
Ðức Cha Cố Micae đã ra đi. Ngài để lại nhiều hình ảnh đẹp. Một trong những hình ảnh đẹp đáng là hình ảnh kỷ niệm sáng giá, đó là hình ảnh Ngài dâng thánh lễ. Theo nhiều người, hình ảnh đó là một đặc điểm rất nổi của Ngài. Trong thánh lễ từ biệt Ngài, tôi xin phép Ngài được trao hình ảnh kỷ niệm đó cho tất cả anh chị em. Hình ảnh đó có nhiều nét Kinh Thánh. Ðược cộng tác với Ðức Cha Cố Micae gần 5 chục năm, tôi thấy cái hồn của Ngài là sự dâng hiến. Dâng hiến cụ thể nhất và sâu sắc nhất, chính là dâng hiến trong thánh lễ.
I. Trong thánh lễ, Ngài đến bên Chúa với tâm tình rất mực khiêm tốn. Khiêm tốn ấy không phải chỉ là tự nhiên. Nhưng nhất là thấm nhuần lời Chúa đã phán: “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Lời Chúa giúp Ngài khiêm tốn vác trên vai gánh nặng tội lỗi của riêng mình, tội lỗi của đoàn chiên, và tội lỗi của bao người khác. “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Sự Ngài nhìn nhận tội lỗi luôn đi đôi với tâm tình sám hối, xin ơn thương xót. Cùng với lòng khiêm nhường sám hối và xin thương xót, Ðức Cha Cố đã đến bên Chúa với lòng mến yêu nồng nàn. Ngài tin vào lời Chúa đã nói về người phụ nữ tội lỗi xưa: “Tội của chị rất nhiều. Nhưng đã được tha. Bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7,47). Chúa cho Ngài thấy: Tội lỗi tuy nhiều, nhưng khi được tha, thì tình mến được tăng lên. Tội lúc đó coi như một dịp để đốt nóng lên tình yêu mến trong Ngài. Ngoài ra, Ðức Cha Cố đã đến bên Chúa với tâm tình cảm tạ. Vì Ngài tin vào lời thánh Phaolô: “Ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Thực vậy, Ðức Cha Cố Micae luôn nhận thức mình mang thân phận tội lỗi. Từ vực sâu tội lỗi, Ngài khiêm tốn đón nhận, ca ngợi và cảm tạ lòng thương xót Chúa.
II. Thánh lễ của Ðức Cha Cố Micae trên bàn thờ là như vậy. Thánh lễ đã được kéo dài trên suốt cuộc đời của Ngài. Suốt cuộc đời Ngài là một thánh lễ. Thánh lễ cuộc đời là một cuộc chiến đấu triền miên giữa tội lỗi và ân sủng. Trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã chân thành với lòng khiêm tốn trước sức mạnh thực tế của tội lỗi, đồng thời Ngài đã luôn tin cậy sức mạnh siêu nhiên của ơn thánh. Ngài không coi thường các giá trị trần thế và nhân loại, nhưng Ngài không hề ảo tưởng những giá trị đó có sức cứu độ. Ơn cứu độ là sức mạnh của tình yêu từ thánh giá Chúa. Xác tín đó được nhận thấy rất rõ ở tu đức, mục vụ và truyền giáo nơi Ðức Cha 100 tuổi của chúng ta. Ngài đặt ưu tiên tuyệt đối ở ơn thánh. Xác tín đó là của thánh Phaolô: “Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2,5). Trên đây là mấy nét của hình ảnh kỷ niệm nhỏ, mà Ðức Cha Cố Micae gởi lại. Chúng ta đón nhận, chiêm ngắm, nhất là để noi gương bắt chước. Giờ đây, Ngài được an táng, như “hạt lúa gieo vào lòng đất” (Ga 12,29). Chúng ta tin tưởng hạt lúa này sẽ góp phần sinh ra được một mùa màng thiêng liêng phong phú. Cúi xin Ðức Cha rất thương mến cầu nguyện cho tất cả chúng con. Cùng với Ðức Cha, chúng con xin dâng hiến cuộc đời chúng con lên Chúa giàu tình yêu thương xót. Long Xuyên, ngày 15 tháng 6 năm 2009
Những ngày đầu, sau khi Gioan được sinh ra, thầy cả Dacaria, thân phụ của Gioan, đã nói về Bùi-Tuần 1796
Những ngày đầu, sau khi Gioan được sinh ra, thầy cả Dacaria, thân phụ của Gioan, đã nói về Gioan: “Từ nay, con ơi, con sẽ là tiên tri của Ðấng Tối Cao” (Lc 1,76). Lời nói trên đây của thầy cả Dacaria là do ơn Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta sẽ suy gẫm lời đó. Hiểu về tiên tri Gioan thời đó, cũng sẽ là cách hiểu về sự được chia sẻ ơn tiên tri thời nay. Thời đó, Gioan đã thực thi ơn tiên tri thế nào? a) Thưa, trước hết Ngài thực thi ơn tiên tri bằng cách loan truyền cái nhìn của Chúa và ý định của Chúa về tình hình lúc đó. Tình hình lúc đó bề ngoài coi như ổn định. Nhưng Gioan được ơn Chúa, đã loan báo rằng: Chúa nhìn tình hình đó một cách khác. Ðó là một tình hình có nhiều tội lỗi. Tội lỗi phát triển đều khắp, bề rộng và bề sâu. Ðó là một tình hình nguy hiểm. Ý định của Chúa là người ta phải nhận thức về tội lỗi mình, phải sám hối ăn năn về tội lỗi mình. Hơn nữa, người ta phải sẵn sàng đón nhận Ðức Kitô. Người là Ðấng Cứu Thế. Gioan giới thiệu Chúa Giêsu thế này: “Ðây là Chiên Thiên Chúa. Ðây Ðấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Nếu không sám hối, người ta sẽ không tránh được hình phạt nặng nề. Thánh Gioan cho thấy hình phạt nặng nề đó đang tới. Như cái rìu đã kề sát cây không sinh trái (x. Mt 3,10). b) Loan báo những sự thực trên là điều cần. Nhưng chưa đủ. Thánh Gioan đã thực thi ơn tiên tri bằng một bước nữa. Ðó là đi trước mặt Chúa (x. Lc 1,76). Ði trước mặt Chúa là phải rất mực khiêm nhường. Thánh Gioan nói: “Tôi không đáng cởi quai giày của Người” (Lc 3,36). Ði trước mặt Chúa còn là tập trung đề cao Chúa Cứu Thế: “Người phải nổi bật, còn tôi thì phải lu mờ” (Ga 3,30). Ði trước mặt Chúa là biết tỉnh thức nhận ra Chúa và giới thiệu Chúa, cho dù Chúa đến dưới hình thức nào, kể cả dưới hình thức kẻ tội lỗi. Như xưa Chúa Giêsu đã đến với Gioan dưới hình thức một người sám hối, xin Gioan làm phép rửa (x. Mt 3,13). c) Ði trước mặt Chúa và loan truyền ý Chúa đã là những nét đẹp của tiên tri Gioan. Tuy nhiên, Gioan còn thực thi ơn tiên tri bằng một việc nữa, đó là giới thiệu cái hồn tiên tri của Ngài được đào tạo trong sa mạc. “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc” (Ga 1,23). Trong Cựu Ước và Tân Ước, sa mạc thường được hiểu là nơi thanh vắng. Tại đó, người ta cầu nguyện, suy niệm, lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Chúa. Thánh Gioan đã được đào tạo nhiều năm trong sa mạc mang những ý nghĩa thiêng liêng đó. Từ sa mạc như vậy, Gioan nhận được ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ở trong Ngài, giúp cho Ngài có những lời nói đúng ý Chúa, và giúp cho Ngài có những tâm tư và thái độ của người đi trước mặt Chúa. Ðến đây, chúng ta dễ thấy nơi thánh Gioan, tiên tri của Ðấng Tối Cao: - Có một sự sâu sắc trong loan báo, - Có một sự khiêm nhường và tỉnh thức trong việc đi trước mặt Chúa, - Có một sự trầm lắng của nội tâm được đào tạo trong sa mạc. Thánh Gioan đã thực hiện ơn tiên tri cho thời đó. Thiết tưởng ơn tiên tri vẫn được Chúa tiếp tục ban cho Hội Thánh, hoặc qua cá nhân, hoặc qua tập thể, hoặc qua cơ chế. Kẻ nhiều người ít. Hoặc cách này hoặc cách khác. Tình hình hiện nay là rất đáng ngại. Bởi vì đạo đức xuống cấp. Rất nhiều người mất ý thức về tội. Hoặc biết là có tội, mà không sám hối. Tội lỗi kéo theo hình phạt, đó là điều không tránh được. Kính xin thánh Gioan Baotixita cầu nguyện cho chúng ta được biết đón nhận và được thực thi ơn tiên tri. Quê hương Việt Nam chúng ta đang rất cần những hình ảnh sống động của thánh Gioan Baotixita, tiên tri của Ðấng Tối Cao. Long Xuyên, ngày 19 tháng 6 năm 2009
Năm Linh mục, xin chia sẻ đôi chút suy nghĩ về Linh mục trước vấn đề tội lỗi. Chia sẻ này là Bùi-Tuần 1797
Năm Linh mục, xin chia sẻ đôi chút suy nghĩ về Linh mục trước vấn đề tội lỗi. Chia sẻ này là một mời gọi hồi tâm. Một hồi tâm khiêm nhường. Một hồi tâm khát khao Chúa.
1/ Giúp con người bỏ đàng tội là một bổn phận quan trọng của Linh mục Tội lỗi là một thực tế đau buồn. Mọi tôn giáo đều nhắm mục đích giúp con người bỏ đàng tội. Riêng Kitô giáo, mục đích đó được thực hiện một cách đặc biệt. Ðó là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, để cứu nhân loại khỏi xiềng xích tội lỗi. Trong chương trình cứu độ, Ðức Kitô đã lập phép Bí tích Truyền Chức Thánh. Người trao cho Linh mục bổn phận cứu con người khỏi tội. Vì thế, món nợ của Linh mục đối với Chúa là phải làm hết sức mình để cứu đoàn chiên khỏi tội. Vinh quang của Linh mục là được chia sẻ vinh quang của Ðức Mẹ và các thánh, là những đấng đã cộng tác với Ðức Kitô trong việc cứu con người khỏi tội. Chúa phán với tiên tri Edêkiel: “Edêkiel, Ta đã đặt ngươi làm kẻ canh thức Israel. Nếu ngươi không khuyến cáo các người ác bỏ đàng tội, thì nó sẽ phải chết. Nhưng Ta sẽ hỏi tội ngươi về máu nó đã đổ ra” (Ed 3,17-18). Thiết tưởng Chúa cũng nói tương tự với từng Linh mục như thế. Về vấn đề này, người đời có trách nhiệm một, thì linh mục có trách nhiệm mười. Trong thánh lễ, Linh mục đọc lời truyền phép: “Ðây là chén Máu Thầy... sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”. Ðể nhiều người được tha tội, Ðức Kitô đã đổ máu ra. Ðể con chiên được tha tội, Linh mục cũng phải tham gia vào máu cứu chuộc của Ðức Kitô bằng những hy sinh đời mình. Có nghĩa là Linh mục có bổn phận cứu người ta khỏi tội, không phải chỉ bằng phép giải tội, mà còn bằng những khổ hạnh đời tu của mình, bằng gương sáng sám hối của mình.
2/ Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội phải nhận là rất phức tạp. Chỉ xin nêu lên vắn tắt một số đặc điểm: a) Hiện nay, phong trào hưởng thụ tạo ra khát vọng tìm khoái lạc. Nó dần dần xúi người ta nghĩ rằng: Cái gì đem lại khoái lạc đều được phép dễ dàng. Không cần xét cái đó là hợp đạo đức hay không. b) Hiện nay, phong trào tự mãn tạo ra một thái độ lẩn tránh sự biết mình, dù mình đầy tội. Thánh Gioan viết: “Ánh sáng đã đến trong thế gian. Nhưng người ta ưa thích tội lỗi hơn ánh sáng, bởi vì các việc của họ đều xấu. Ai làm sự xấu thì ghét ánh sáng, và không đến từ ánh sáng, vì sợ các việc của mình bị lộ ra” (Ga 3,19-20). c) Hiện nay, phong trào cá nhân chủ nghĩa dễ tạo nên một thái độ tự bảo vệ với bất cứ giá nào. Do đó, người ta thích đổ lỗi cho người khác hơn là khiêm tốn nhận lỗi về mình. d) Hiện nay, phong trào tục hoá tạo nên một tâm thức mới về tội, đó là tội chỉ là việc xúc phạm đến người khác, chứ không có quy chiếu nào về Chúa. Do đó, xưa, tội được hiểu là cái gì làm dơ bẩn tâm hồn trước Chúa, cần phải xin Chúa thứ tha. Còn nay, tội thường được hiểu là cái gì làm hư mối tương quan với người khác, nên cần phải hoà giải với con người mà thôi. e) Hiện nay, phong trào trốn tránh trách nhiệm khá mạnh. Nó tạo ra một tâm thức sai: Nghĩa là tội được tha, thế là xong. Còn việc đền tội và sửa lại những hậu quả của tội, thì không lo tới, đang khi nó là trách nhiệm lớn. f) Hiện nay, phong trào mục đích và phương tiện che giấu nhau đang dâng cao. Mục đích xấu được che giấu bằng phương tiện tốt. Phương tiện xấu được biện minh bằng mục đích tốt. Có những thứ nguỵ trang tinh vi. g) Hiện nay, có nhiều yếu tố tinh vi trói buộc con người vào ngục tù tội lỗi. Tự mình, con người xem ra không thể cởi gỡ được. Những chuyển biến lịch sử cho thấy có sự giảm bớt một số tội dữ dằn, nhưng lại nảy nở một số tội mới tinh vi. Theo tôi, tội nặng nhất thời nay là chối từ hy vọng vào tình yêu của Chúa. Vì thế, có một điều có thể nói, mà không sợ lầm, đó là tội lỗi vẫn tồn tại một cách khủng khiếp. Ðức Mẹ khi hiện ra ở Fatima đã nói rõ điều đó. Linh mục cũng thấy thực tế hiểm nguy ấy, biết đâu nơi ngay chính mình. Không ít người vẫn coi tội lỗi như là quê hương. Trước tình hình như thế, Linh mục giúp con người bỏ đàng tội bằng cách nào?
3/ Bỏ đàng tội thì phải thế nào? Những việc sau đây sẽ làm nên một bầu khí trở về. - Nhờ ơn Chúa, ta biết nhìn nhận mình là kẻ cần được phúc âm hoá, từ lý trí, ý chí, tình cảm, cho đến cách phán đoán, cách nhìn, cách ứng xử. - Nhờ ơn Chúa, ta biết ăn năn sám hối thực sự tận đáy lòng. - Nhờ ơn Chúa, ta biết chấp nhận đổi mới mình, bắt đầu từ những việc nhỏ. - Nhờ ơn Chúa, ta biết xưng mình không phải là những người không phạm tội, nhưng chỉ là những người tội lỗi được Chúa thứ tha. Vì thế mà chúng ta rất thương những người tội lỗi. - Nhờ ơn Chúa, ta biết cảm ơn những người tội lỗi đã trở về với Chúa, nêu gương sáng cho ta về tình Chúa xót thương vô hạn. Tôi nói “nhờ ơn Chúa” là muốn nói lên sự khiêm nhường cậy vào ơn Chúa. Chính sự khiêm nhường cũng đã là một ơn Chúa. Khiêm nhường có thể coi được là nền tảng của sự bỏ đàng tội trở về đàng lành. Lúc đó, Chúa sẽ ban cho chúng ta một trái tim mới và một tinh thần mới: “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Ta sẽ đặt vào các ngươi một tinh thần mới” (Ed 36,26-30). Bỏ đàng tội là việc không dễ dàng. Rất khó, mà lại rất quan trọng. Có thể nói là hết sức quan trọng. Vì thế rất cần khiêm nhường cầu nguyện tha thiết kiên trì. Lạy Chúa, Chúa là Ðấng cứu độ, xin thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 29 tháng 6 năm 2009
Tâm tư gởi ngày sinh nhật báo Công Giáo và Dân Tộc
Những bài tôi đăng trên Công giáo và Dân tộc hầu hết là những bài giảng, huấn đức và suy niệm Bùi-Tuần 1798
Những bài tôi đăng trên Công giáo và Dân tộc hầu hết là những bài giảng, huấn đức và suy niệm. Tôi chia sẻ những nội dung đó với gia đình tín hữu của tôi trước. Rồi, tôi mới đăng trên báo sau. Ðăng báo như vậy là một cách mở rộng phạm vi chia sẻ. Nội dung chia sẻ thường dựa trên nền tảng Phúc Âm. Mục đích chia sẻ luôn là để phục vụ Hội Thánh Chúa Kitô. Chính nhờ Ðức Kitô, cùng với Ðức Kitô và trong Ðức Kitô. Những bài tôi đăng báo đã gây nhiều phản ứng. Nhiều phản ứng đã giúp ích cho tôi. Tôi coi những phản ứng giúp ích đó như những lá thư Chúa gởi cho người tôi tớ mọn hèn của Chúa. Qua kinh nghiệm đó, tôi thấy tôi cho đi ít, mà lãnh nhận được nhiều. Từ những lãnh nhận ấy, tôi đối thoại với Chúa một cách khác. Ðó là đối thoại của một người tội lỗi với Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. Càng ngày, đối thoại như thế nghiêng về tỉnh thức lắng nghe Chúa nói. Chúa nói trong thinh lặng sâu thẳm của nội tâm. Ðôi khi, tôi chia sẻ những cảm nghiệm đơn sơ tư riêng như thế. Khát vọng của tôi là được thuộc về Chúa. Tôi xin được thuộc trọn về Chúa. Tôi cầu mong Hội Thánh Việt Nam được thuộc trọn về Chúa. Với chút tâm tình trên đây, tôi xin thân ái kính chúc quý độc giả Công giáo và Dân Tộc ơn luôn sống theo thánh ý Chúa. Long Xuyên, Tháng 6 năm 2009
Ðang có một phong trào khen và tự khen. Thí dụ: Giáo xứ này có nhiều phát triển bền vững. Giáo Bùi-Tuần 1799
Ðang có một phong trào khen và tự khen. Thí dụ: Giáo xứ này có nhiều phát triển bền vững. Giáo phận kia có một sức sống trưởng thành vững mạnh. Giáo Hội Việt Nam chúng tôi có một quá khứ và hiện tại sốt sắng, hào hùng, hứa hẹn một tương lai rực rỡ. Tôi đón nhận những lời khen và tự khen như thế với lòng cảm phục. Nhưng không dừng lại ở đó. Tôi tự hỏi: Những bền vững tốt đẹp ấy có dám tự khẳng định là sẽ không bao giờ bị chuyển biến đến chỗ sa sút không? Sự dè dặt và lo âu của tôi dựa trên lịch sử những Hội Thánh đó đây đã có một thời phồn thịnh.
1/ Một thoáng nhìn lịch sử Hội Thánh xưa tại Israel và Palestin là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, đã rao giảng, đã làm phép lạ, đã chịu chết và đã sống lại. Hội Thánh đó có một nền tảng vững, một nguồn ơn phong phú. Nhưng nay đã bị lu mờ, trước sự tái sinh của Do Thái giáo và sự lan tràn của Hồi giáo. Hội Thánh xưa tại Tiểu Á là đất hoạt động của thánh tông đồ Phaolô. Tiếp đó là quê hương của nhiều vị thánh giáo phụ như Inhaxiô thành Antiokia, Irênê, Basiliô, Grêgôriô thành Nixê và Grêgôriô thành Nazianxê. Ðồng thời, đó cũng là nơi đã tập hợp nhiều công đồng nổi tiếng, như Nicea, Êphêsô, Constantinôpoli, Calcêdonia. Miền đất công giáo phì nhiêu ấy nay đang là Hồi giáo, Công giáo chỉ là thiểu số khiêm tốn. Hội Thánh xưa tại Ai Cập đã cung cấp cho Công giáo toàn cầu một nền thần học xuất sắc. Với các vị như Clêmentê, Ôrigênê, Athanasiô và Cyrillô. Huy hoàng đó này còn gì đâu! Hội Thánh xưa tại Phi châu đã thấy mọc lên từng trăm Toà Giám mục, với từng trăm Giám mục sốt sắng, trong đó có thánh Augustinh và Cyprianô. Miền đất có thời là toàn tòng công giấy ấy nay chỉ là kỷ niệm đẹp, còn thực tế đang là nơi phát triển một Hồi giáo phồn vinh. Hội Thánh xưa tại Âu châu đã có một thời Công giáo sầm uất sốt sắng, với số người đi lễ gần trăm phần trăm. Nhưng nay phong trào thế tục đã làm giảm số người giữ đạo xuống một cách thê thảm. Tình hình trên đây có vẻ đúng như lời Chúa Giêsu đã phán xưa: “Khi Con Người trở lại, liệu Ngài còn tìm được đức tin trên trái đất này không?” (Lc 18,8).
2/ Nên áp dụng đúng Một thoáng nhìn trên đây về lịch sử cho phép tôi nghĩ rằng: Lời Chúa hứa về sự trường tồn cho Hội Thánh phải luôn luôn đúng. Nhưng Chúa hứa cho Hội Thánh toàn cầu, chứ không hứa cho các hội thánh tại địa phương. Các cửa hoả ngục chắc chắn không thể làm gì nổi Hội Thánh xây dựng trên nền tảng Phêrô (x. Mt 16,18). Lời hứa đó có giá trị đời đời cho Hội Thánh toàn cầu. “Ta sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Lời hứa đó là bảo đảm không hề lay chuyển. Nghĩa là Hội Thánh toàn cầu sẽ tồn tại như lời Chúa hứa. Nhưng, không được áp dụng lời hứa đó vào một giáo hội địa phương. Sự dè dặt trên đây giúp chúng ta khiêm tốn và tỉnh thức. Hội Thánh Việt Nam ta, giáo phận ta, giáo xứ ta luôn phải bắm chặt vào ơn thánh Chúa. Ðừng tự hào vịn vào những gì thế gian coi là hùng mạnh, vững bền. Ðức tin cũng không theo cha truyền con nối. Nhận mình là yếu, đâu có gì phải xấu hổ. Hãy nhớ lại lời thánh Phaolô: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Ðức Kitô. Vì khi tôi yêu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10). Luôn có những cám dỗ xúi ta tự hào theo kiểu thế gian. Những thách đố đó được hình thành trong các trào lưu kinh tế, văn hoá, chính trị. Nhưng không phải cái gì đúng ở các lĩnh vực ấy, cũng được áp dụng trong lĩnh vực đạo đức của đức tin công giáo. Phúc Âm kể lại: “Nhân mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Ðức Giêsu bảo: 'Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào'“ (Lc 21,5-6). Tôi suy gẫm lời Chúa phán trên, rồi tự nhiên liên tưởng tới những cơ sở và tổ chức hoành tráng của Hội Thánh Việt Nam, nơi này nơi nọ. Và tôi cầu nguyện trong niềm cậy trông phó thác với tinh thần tỉnh thức khiêm nhường, vâng phục thánh ý Chúa. Những tồi tệ có thể còn xa. Nhưng xa không có nghĩa là sẽ không thể xảy ra. Chúng ta nên đi về tương lai với tinh thần sám hối cầu nguyện và đổi mới đời sống; vâng lời Chúa mà đi vào đàng hẹp một cách thong dong, không để áp lực xấu nào chi phối. Long Xuyên, Tháng 6 năm 2009
Năm nay, từ tháng 6 đến cuối năm, đã và sẽ có ba biến cố quan trọng đối với chúng ta, về mặt Bùi-Tuần 1800
Năm nay, từ tháng 6 đến cuối năm, đã và sẽ có ba biến cố quan trọng đối với chúng ta, về mặt loan báo Tin Mừng. - Biến cố thứ nhất là việc khai mạc năm Linh mục. - Biến cố thứ hai là bài diễn văn của Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI dịp tiếp Hội đồng Giám Mục Việt Nam. - Biến cố thứ ba là lễ mừng các thánh tử đạo Việt Nam, khai mạc Năm thánh Việt Nam.
1/ Ban ơn đổi mới Tôi coi mỗi biến cố nói trên đều là những dịp Chúa đến, ban ơn đổi mới: - Ðổi mới bộ mặt Linh mục. - Ðổi mới bộ mặt Toà Thánh. - Ðổi mới bộ mặt thánh tử đạo Việt Nam. Tại sao đổi mới? Thưa, bởi vì các bộ mặt ấy đã và đang có vấn đề. Linh mục đang bị coi như một con người phức tạp. Toà Thánh đang bị coi như một quyền bính phức tạp. Các thánh tử đạo Việt Nam đang bị coi như nhân vật phức tạp. Phức tạp là vừa được khen và cũng vừa bị chê. Sự kiện phức tạp như thế tạo nên một bầu khí đang bị phong trào thế tục hoá lợi dụng. Ðược khen hay bị chê không do nền tảng Phúc Âm và đức tin, mà do những biến chuyển của lịch sử Ðạo Ðời, trên một miền đất cụ thể là Việt Nam đầy chuyển biến. Theo Phúc Âm và đức tin, thì linh mục luôn là đẹp. Nhưng trên thực tế, thì không luôn được thế. Theo Phúc Âm và đức tin, thì Toà Thánh luôn là đẹp. Nhưng trên thực tế, thì không luôn được thế. Theo Phúc Âm và đức tin, thì thánh tử đạo Việt Nam luôn là đẹp. Nhưng trên thực tế, thì không luôn được thế. Bởi đâu? Chính vì Linh mục, Toà Thánh, các thánh tử đạo Việt Nam đi vào lịch sử cụ thể của một đất nước cụ thể, của một giai đoạn cụ thể. Mà lịch sử thì chuyển biến phức tạp. Nên cái nhìn về Linh mục, về Toà Thánh và về các thánh tử đạo Việt Nam đều bị lịch sử chi phối, như bất cứ yếu tố nào của lịch sử. Vì thế, cái nhìn về Linh mục, Toà Thánh và về các thánh tử đạo cần được đổi mới. Tôi coi ba biến cố kể trên trong cả năm nay là những dịp Chúa ban ơn đổi mới một cách đặc biệt. Theo tôi, ơn đổi mới đã được Chúa ban cho Hội Thánh từ ít lâu nay qua làn gió đạo đức mới hướng về Thiên Chúa giàu lòng thương xót trong các bộ mặt mới. Phần ta, ta đón nhận ơn đổi mới và cộng tác vào ơn đổi mới ấy thế nào?
2/ Ðón nhận và cộng tác vào ơn đổi mới Ðón nhận và cộng tác bằng những cách sau đây: a) Khao khát ơn đổi mới. Quý trọng ơn đổi mới. Sự vô cảm, sự dửng dưng là tảng đá lớn ngăn chặn ơn đổi mới. b) Nhận ra ý Chúa muốn đổi mới như thế này: Hình ảnh đẹp nhất và hợp thời nhất về Linh mục là: Linh mục được nhìn như môn đệ của lòng thương xót Chúa, biết đào tạo con chiên trở thành những người con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Hình ảnh đẹp nhất và hợp thời nhất về Toà Thánh là: Toà Thánh được nhìn như một người mẹ, phục vụ cho tình yêu thương xót Chúa giữa các dân tộc. Hình ảnh đẹp nhất và hợp thời nhất về thánh tử đạo Việt Nam là: Thánh tử đạo Việt Nam được nhìn như một chứng nhân của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đang mời gọi Hội Thánh Việt Nam trở thành chứng nhân của lòng thương xót Chúa giữa Việt Nam hôm nay. c) Làm hết sức mình để những hình ảnh đẹp đó được thực hiện do cầu nguyện và có những hướng phục vụ mới.
3/ Tin Mừng hôm nay Tôi coi những hình ảnh phản ánh tình yêu thương xót Chúa là những yếu tố của Tin Mừng hôm nay. Vừa hợp Phúc Âm, Công đồng, giáo huấn Toà Thánh, vừa hợp tâm lý con người Việt Nam hôm nay. Ðể đưa ra những hình ảnh như thế, chúng ta dựa trên những tài liệu chính đáng: - Phúc Âm, những đoạn về thực thi liên đới yêu thương phục vụ. - Công đồng Vatican II về “Hội Thánh giữa thế giới hôm nay”. - Văn kiện Toà Thánh mới nhất, tức bài diễn văn Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI về Việt Nam. Bên cạnh phần lý thuyết, chúng ta làm chứng bằng thực tế đời sống đạo của chúng ta, và gương sáng người này nơi nọ. Linh mục chúng ta, tu sĩ chúng ta, giáo dân chúng ta là chứng nhân của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Không phải chỉ làm chứng bằng sự rao giảng, bằng sự tôn sùng lòng thương xót Chúa, mà bằng chính con tim của ta và việc làm thái độ của ta. “Rượu mới trong bầu da mới” (Mt 9,17). Cần đào tạo con tim mới. Cần đào tạo thái độ mới. Chúng ta cần loan báo Tin Mừng đó. Như Tin Mừng của hôm nay. Như một món quà đổi mới. Như một bàn tay hoà giải. Như một bước đi đồng hành với Chúa Thánh Thần. Như một hướng đào tạo mới. Như một dấn thân mới cho Nước Chúa giàu tình yêu thương xót. Long Xuyên, ngày 4 tháng 7 năm 2009