Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng - Sách 71 - Mhtm 10

Thứ tư - 04/12/2024 20:32
Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng - Sách 71 - Mhtm 10
Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng - Sách 71 - Mhtm 10
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm

Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng
Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật
- Sách 10 (TN 17B – 34B)


Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 

--------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.


---------------------------------

Mục Lục:

Bài 1: Câu chuyện cầu sông Kwai 2
Bài 2:  Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng. 5
Bài 3: Một cảm nghiệm về Phép Thánh Thể của Steve Garwood, một nhà thầu tại tiểu bang South Carolina. 8
Bài 4: Chuyện các món ăn được tính trong vé tàu. 9
Bài 5: Phép lạ Lanciano về phép thánh thể. 12
Bài 6: Chuyện Đức Hồng Y giáo chủ ra lệnh tống giam Đức Giêsu. 14
Bài 7: Hỡi “tay áo”, ngươi có quyền dự tiệc. 17
Bài 8: Lạy Chúa, xin hãy sai con. 21
Bài 9: Câu chuyện hay về một vị tu sĩ già. 23
Bài 10: Chuyện cô gái điếm được vào Thiên Đàng. 27
Bài 11: Câu chuyện về 'Mother Hale' 30
Bài 12: Chuyện một vị đạo sĩ gặp Tử Thần. 33
Bài 13: Chuyện “Cái ghế” trong nước Thiên Chúa. 36
Bài 14: Sự bén nhạy trước thực tại vô hình. 38
Bài 15: Ba điểm mới lạ của tình yêu thương Kitô giáo. 41
Bài 16: Tại sao, 2 đồng tiền kẽm của người nghèo thì lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu ?. 43
Bài 17: Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết 47
Bài 18: Tiêu chuẩn để được cấp hộ chiếu Nước Trời 49

---------------------------------

 

Bài 1: Câu chuyện cầu sông Kwai

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 165
Thường Niên 17-B


Bạn thân mến,

Cách đây khá lâu, Earnest Gordon, thuộc trường đại học Princeton University, đã viết một bài báo với tựa đề: "Nó xảy ra bên dòng sông Kwai".

Bài báo tả lại một kỷ niệm của ông, trong khi ông là một tù nhân tại Thái Lan, bên dòng sông Kwai.

Dòng sông này, sau này đã trở nên một bối cảnh cho một cuốn phim nổi tiếng, tên "Bridge Over The River Kwai" (Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Kwai).

Gordon bị bắt làm việc, để xây một đường rầy xe lửa, dài 250 miles (khoảng 400 km), gọi là "Đường Rầy của Sự Chết", do người Nhật xây.

Gordon đã diễn tả:

"Chúng tôi phải làm việc từ rạng đông, đến mặt trời lặn... Chúng tôi lao động với đầu trần và chân không, dưới ánh nắng gây gắt. Nhiều người lính đã phải chao đảo vì những cơn bệnh sốt, nhưng vẫn phải làm công việc của mình.

Những người này, khi bị ngã qụy, thì phẳi nằm luôn ở chỗ đó và cho đến khi mặt trời lặn, mới được bạn đồng nghiệp khiêng về trại tù.

Nhưng, Gordon kể rằng, kẻ thù số một không phải là người Nhật, hoặc là cuộc sống khó khăn, nhưng chính là những tù nhân đối xử với nhau.

Các tù nhân đã bị mắc chứng bệnh hoang tưởng, do sự sợ hãi quá sức đối với người Nhật. Họ đã sống bằng luật rừng. Họ đã ăn cắp đồ của nhau. Họ không còn tin tưởng nhau.

Và để lấy một chút thiện ý, cảm tình với người Nhật, họ đã tố cáo nhau.

Những người lính Nhật nhìn nhau mà cười, khi nhìn thấy các tù nhân cắn xé lẫn nhau.

Nhuệ khí của các tù nhân đã đi đến chỗ kiệt quệ. Họ cần phải làm một điều gì đó để lấy lại nhuệ khí đó, nhưng họ có thể làm gì trong cảnh khó khăn như thế này?

Sau cùng, đã có hai người, được coi là còn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa, quyết tâm làm một việc gì đó để cứu vãn tình thế:

Họ tìm được một cuốn Thánh Kinh và tổ chức nhóm cầu nguyện vào mỗi tối. Nhóm cầu nguyện được phát triển, từ mười hai người, lên đến con số một trăm.

Qua những bài đọc và chia sẻ, họ đã dần dần biết Chúa Giêsu một cách sâu xa.

Những khó khăn trong cuộc đời của họ, cũng giống như những khó khăn, mà Chúa Giêsu đã từng trải qua:

Chúa Giêsu cũng đã trải qua những lúc đói bụng, mệt mỏi, bị phản bội, và những lằn roi đau đớn in vào sau lưng...

Tất cả những gì về Chúa Giêsu, về việc Ngài đã làm, những điều Ngài đã nói, Con Người của Ngài, đã trở nên ý nghĩa và thật sống động đối với họ.

Các tù nhân đã từ từ không còn nghĩ rằng mình là những nạn nhân trong một hoàn cảnh tàn bạo nữa.

Họ ngừng tố cáo và giết chết lẫn nhau.

Từ đó, cuộc sống của họ được biến đổi hoàn toàn thấy rõ:

Họ bắt đầu cầu nguyện, không cho chính bản thân, cho bằng cầu nguyện cho người khác. Và khi họ cầu nguyện cho chính họ thì chẳng phải là để lãnh một ơn gì, nhưng là để xin cho mình được biết chia sẽ những gì mình lãnh nhận được.

Họ tụ họp hát Thánh Vịnh. Những bài Thánh Vịnh đã làm cho đêm tối trở nên sống động và hy vọng.

Đây chính là sự khác biệt giữa những tiếng vui hân hoan, với những ngày tháng thinh lặng ngột ngạt, một sự khác biệt giữa cái chết và cái sống.

Câu truyện của hai người lính tiền phong đã biến đổi cả một doanh trại tù nhân, mang một ý nghĩa rất đặc sắc dẫn vào bài đọc Phúc Âm hôm nay.

*****

Cũng giống như hai người lính xung phong đã làm gì mình có thể, đó là em bé trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng đã làm điều mình có thể (TN 17-B: Ga 6, 1-15):

Em đã dâng cho Chúa Giêsu những gì mình có và để cho Chúa Giêsu làm tất cả.

Trong hoàn cảnh của em bé, Chúa Giêsu đã biến đổi vài chiếc bánh và con cá đơn sơ của em, thành lương thực nuôi ăn 5.000 người, ngoài sự tưởng tượng của mọi người.

Điều mà Chúa Giêsu đã làm cho đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay, và những gì Ngài đã làm cho những người tù nhân trong thời thế chiến, trong câu truyện trên, thì cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta làm hôm nay.

Ngài muốn nuôi sống hàng triệu người đang đói khổ trên thế giới.

Ngài muốn biến đổi hàng triệu người đang sống trong cảnh thù hận.

Nhưng Chúa Giêsu cần đến em bé để đưa cho Ngài mấy chiếc bánh đơn sơ và những con cá cỏn con, thì hôm nay Ngài cần có chúng ta cho Ngài những chiếc bánh và những con cá nho nhỏ, là những tài năng, những lời cầu nguyện hằng ngày, và những hy sinh, những việc từ thiện bác ái chúng ta có thể làm được.

Nếu chúng ta biết dâng những điều này cho Chúa Giêsu, thì Ngài sẽ lãnh nhận và chúc lành cho chúng, sẽ có phép lạ ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con nhận thức rằng: Tất cả những gì chúng con có là do hồng ân Chúa thương ban, chứ không phải do tài năng, hay công trạng gí của mình.

Vậy nên, xin Chúa giúp con biết mau mắn và quảng đại chia sẻ cho mọi người, những gì con đang có, để góp phần làm cho những người chung quanh con bớt nghèo đói và bớt đau khổ. Amen.

---------------------------------

 

Bài 2:  Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 166
Thường Niên 18-B


Bạn thân mến,

Vai chính trong cuốn phim về một nhóm ca sĩ "Damn Yankees" là một người đứng tuổi, tên là Joe Boyd.

Từ khi còn bé, Joe đã ước mơ một ngày nào đó, anh sẽ trở thành một cầu thủ nổi tiếng chơi banh baseball.

Bây giờ Joe đã lớn tuổi, giấc mơ không thể thực hiện được nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục mơ ước.

Rồi vào một buổi tối nọ, một điều kỳ lạ đã xảy ra:

Một người đàn ông tên Applegate đã đi vào cuộc sống của Joe.

Applegate đã nói với Joe rằng: ông có thể giúp Joe thực hiện giấc mơ của mình.

Ông có thể làm cho Joe, từ một người đàn ông đứng tuổi, trở thành một cầu thủ 22 tuổi, chơi cho đội banh Washington Senators.

Vào thời đó, đội Washington là một đội, trong liên hội Hoa Kỳ (American League).

Tuyệt vời hơn nữa, là Joe không những sẽ trở thành cầu thủ nổi tiếng, mà còn giựt được cờ vô địch New York Yankees.

Applegate là ai vậy?

Có lẽ chúng ta có thể đoán ra được câu trả lời rồi, đó là thằng quỉ đội lốt người.

Sau khi nói sơ qua những gì Joe sẽ được, thì Applegate ra một điều kiện là anh phải bán linh hồn mình cho nó để đổi lấy danh tiếng.

Joe đã không nghĩ ra được một lý do gì mà không đồng ý với thằng quỉ Applegate, để thực hiện giấc mơ của mình.

Sau cùng, Joe đã đồng ý với thằng quỉ, nhưng với một điều kiện là, nếu bất thình lình trước khi giựt được cờ vô địch, thì hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ.

Applegate nghĩ rằng: một khi Joe đã được nổi tiếng rồi thì chắc chắn anh sẽ bị danh tiếng làm cho ngu muội và sẽ không bao giờ hủy bỏ hợp đồng, và nó đã đồng ý.

Sau khi mọi sự đã được thỏa thuận, Joe đã hôn lên má người vợ đang ngủ của mình và để lại một tấm giấy với những lời tạm biệt. Joe bắt đầu một cuộc sống khác.

Joe đã gia nhập vào đội banh Senators như là một lính mới và dần dần anh đã được nổi tiếng trong nhóm.

Joe đã được nhiều người thích baseball mộ mến, và nhiều người trẻ đã coi Joe là một thần tượng.

Nhiều người già còn mơ ước rằng Joe là một trong những người con của họ.

Đó là những giây phút thật hào hứng. Anh không bao giờ dám nghĩ rằng cuộc sống của anh tràn đầy sự ngọt ngào như thế. Anh không bao giờ dám mơ rằng thế giới tuyệt vời đến thế.

*****

Tiếp tục cuốn phim, một điều không ngờ đã xảy ra cho Joe:

Mặc dù có danh tiếng và vận may, nhưng Joe vẫn cảm thấy chán nản.

Một buổi tối nọ, Joe đã ngồi và nhìn vào một bức tường, và trong thâm tâm của anh, anh đang nhìn thấy một sự trống rỗng.

Danh tiếng và vận may không có thể nào làm cho tâm hồn no thỏa được. Và Joe vẫn không hiểu tại sao.

Rốt cuộc, ngày hạn đã sắp đến để giao linh hồn mình cho quỉ. Còn danh tiếng, cờ hiệu, trong tâm trí của Joe chỉ là con số không.

Sau cùng, Joe đã quyết định một việc, mà anh không bao giờ nghĩ đến, đó là trước khi giựt được giải cờ hiệu, anh sẽ hủy bỏ hợp đồng với Applegate.

Có lẽ rằng: lý do mà Joe hủy bỏ hợp đồng, là bởi vì trong tâm trí của Joe, anh đã nghe được tiếng nói của Chúa Giêsu:

"Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn mình, thì được ích gì?" (Lc 9:25).

Cho dù là lý do nào đi nữa thì Joe đã biến khỏi thế giới của môn thể thao baseball một cách huyền bí, giống như lúc anh bước vào.

Một vài ngày sau, Joe đã trở về căn nhà của mình. Anh hôn vợ của mình và anh đã trở lại một người đàn ông đứng tuổi hồi trước, Joe Boyd, một người đã từng mơ ước để trở thành một cầu thủ baseball nổi tiếng.

*****

Câu truyện của Joe Boyd nói lên một tư tưởng, mà chúng ta gặp thấy trong bài Phúc Âm hôm nay (TN 18 B: Ga 6, 24-35)

"Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời... Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ."

Điều mà Chúa Giêsu phán có thể được tóm gọn trong một câu:

Không vật gì ở thế gian này có thể thỏa mãn được trái tim đói khát của con người.

Đó là bài học, mà chúng ta cần phải biết, nếu chúng ta muốn đi tìm sự hạnh phúc thật.

Danh tiếng và của cải sẽ hứa cho chúng ta được no thỏa về phần xác, nhưng đến cuối cùng, nó chỉ làm cho chúng ta càng thêm đói khát.

Với tâm tình này, chúng ta hãy thân thưa với Chúa, với lời nguyện của thánh Au-gus-ti-nô:

“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, để con hướng về Chúa. Và tâm hồn con sẽ vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

---------------------------------

 

Bài 3: Một cảm nghiệm về Phép Thánh Thể của Steve Garwood, một nhà thầu tại tiểu bang South Carolina

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 167
Thường Niên 19-B


Bạn thân mến,

Steve Garwood là một nhà thầu tại tiểu bang South Carolina và là một thừa tác viên Thánh Thể của giáo xứ.

Một hôm, sau Lễ Chúa Nhật, ông mang Mình Thánh cho bệnh nhân. Trong khi bệnh nhân chuẩn bị, thì Steve đặt Mình Thánh Chúa đang được đựng trong một cái hộp nhỏ bằng vàng trên bàn thờ.

Khi Steve đang quì và cúi đầu cầu nguyện thì bất chợt ông nhận ra rằng Chúa Giêsu đang ở bên. Sự nhận thức này đã làm cho ông thật sung sướng. Ông đã tả lại như sau:

"Máu đã dồn vào tai tôi, và tất cả những sợi tóc trên đầu tôi đều dựng đứng lên hết. Tôi đã cầu nguyện: 'Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương xót con, một kẻ tội lỗi. Ngài đang ở trước mặt con và Ngài hằng luôn chúc lành cho con'. (trích trong cuốn And You, Who Do You Say I Am?).

*****

Câu truyện trên thích ứng với bài Phúc Âm Chúa Nhật 19 TN-B hôm nay (Ga 6, 41-52), vì nó nói lên niềm tin và lòng tôn kính đặc biệt nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.

Thứ nhất, nó nhấn mạnh đến trung tâm mầu nhiệm của đức tin, đó là niềm tin mà người Công Giáo chúng ta tin rằng: Chúa Kitô Phục Sinh đang sống với chúng ta, cũng như Ngài đã sống trong thời xưa.

Giải thích rõ ràng hơn về mầu nhiệm này, Công Đồng Vaticanô II đã nói:

"Chúa Kitô vẫn hằng luôn hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong những khi cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người linh mục... và nhất là trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô hiện diện trong các bí tích bằng quyền năng của Ngài. Qua đó, khi một ai đó lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chẳng hạn, thì chính là Chúa Giêsu rửa tội cho người đó. Chúa Giêsu còn hiện diện qua những lời Phúc Âm. Khi Giáo Hội tuyên bố Phúc Âm thì những lời đó chính là Chúa Giêsu phán. Sau hết, Ngài còn hiện diện, khi Giáo Hội cầu nguyện và ca hát bởi chính Ngài đã hứa: "Ở đâu có hai ba người tụ lại cầu nguyện với Danh Ta, thì Ta ngự ở giữa họ" (Constitutin on the Sacred Liturgy).

Trong tất cả mọi cách, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Bí Tích Thánh Thể vẫn là cách đặc biệt nhất.

Điều này được giải thích trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Ta là bánh ban sự sống... Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống."

Và như thế, chúng ta thấy: câu truyện của Steve Garwood nhấn mạnh mầu nhiệm chính yếu của đức tin, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh, ngự giữa chúng ta, qua Bí Tích Thánh Thể một cách sống động như thời xưa.

Do đó, người Công Giáo có lòng tôn kính đặc biệt đối với Bí Tích Thánh Thể.

Cũng giống như Tôma, người môn đệ đã quì gối xuống trước mặt Chúa Giêsu Phục Sinh và thốt lên:

"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!" (Gn 20:28)

Nhiều khi, chúng ta cũng cần phải quì gối xuống một lát và nói với Chúa Giêsu Thánh Thể điều mà Tôma đã nói: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!"

Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm niềm tin, để chúng con có thể nhận ra Máu Thịt của Con Ngài, trong tấm bánh, mà chúng con sẽ cùng nhau cử hành trong thánh lễ này. Amen.

---------------------------------

 

Bài 4: Chuyện các món ăn được tính trong vé tàu

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 168
Thường Niên 20-B


Bạn thân mến,

Nhà văn James Co-lai-an-ni ghi lại một chuyện như sau:

Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ, một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục phó mát.

Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn những ổ bánh mì, mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố gắng ăn ít bao nhiêu có thể, hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.

Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em bé trai cảm thấy mệt mỏi, nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu nhìn ngắm cảnh vật.

Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng hồ, mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em.

Ông bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.

Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả cho những thức ăn, mà người con trai của ông đang ăn.

Khi người con trai nhìn thấy bố mình hoảng hồn như thế liền nói: "Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền. Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm, thì mọi người trên tàu này đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé tàu của mình rồi."

*****

Trong thế giới này có biết bao nhiêu người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó:

Họ hành trình trong cuộc sống, mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.

Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau:

"Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Gn 6:51).

Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi.

Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở nên thân xác chúng ta.

Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh, thì hiệu quả khác biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô.

Và đó chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.

Thật là một điều bất hạnh, khi phải hành trình trong cuộc sống, mà không biết gì đến món quà rất quí giá này.

Thật là một điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời này, mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.

Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng lại coi thường bữa tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy.

Có khi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh.

Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.

Chúng ta hãy xét xem: Chúng ta có biết cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không?

Điều gì đã ở trong trí óc của chúng ta trước và sau khi rước Chúa?

Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một người bạn không?

Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?

Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương, mà không biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa.

Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một số người trải qua đường đời này, mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ, cùng với cái vé cuộc đời.

Lạy Chúa, nhờ lời Chúa và Thánh Thể, mà chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa.

Xin giúp chúng con biết biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người. Amen.

---------------------------

 

Bài 5: Phép lạ Lanciano về phép thánh thể

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 169
Thường Niên 21-B


Bạn thân mến,

Năm 700, tại tu viện thánh Lougino ở Lanciano bên nước Ý, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm một phép lạ cả thể, còn được lưu giữ cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.

Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu.

Thịt máu Chúa đó còn được cô đọng cho tới ngày nay.

Năm 1713, bửu huyết Chúa đã được lưu giữ trong hào quang quí giá, được gọi là hào quang phép lạ Thánh Thể Lanciano.

Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết thịt đó là một thớ thịt từ trái tim và máu đó là máu của con người, thuộc nhóm AB.

Ngày nay thịt và máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.

*****

Tin mừng hôm nay (TN 21 B: Ga 6, 61-70) cho chúng ta thấy: Các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy:

Khi Chúa Giêsu tuyên bố: Ngài sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại:

“Lời này chói tai quá, ai mà nghe được”.

Thánh Gioan còn ghi thêm: Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa.

Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.

Tận hiến cho Đức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách đố từng ngày.

Trở nên Kitô hữu, không phải là bảo đảm sẽ trung thành đến cùng.

Bước theo Đức Kitô, là bước vào một cuộc mạo hiểm: Mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin.

Đã có những môn đệ không tin và đã bỏ đi.

Ngay cả trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.

Tại sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng ?

Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công ?

Có thể nói:

- Để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình.
- Để theo Đức Kitô, cần phải chú tâm đến Ngài hơn là bận tâm về chính mình.

Thánh Phêrô đã làm được điều đó, khi ông nói:

Bỏ Thày chúng con biết theo ai ?

Đứng trước lời tuyên bố của Đức Kitô xem ra có vẻ chói tai, thì Phêrô đại diện cho nhóm Mười hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ông chỉ nhìn thẳng vào Đức Kitô.

Đứng trước cuộc thử thách, ông vẫn một niềm tin tưởng, vì ông chỉ chú tâm vào Chúa:

Thày là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa.

Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với nhưng ý nghĩ của mình:

Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn ?

Hôm nay,

- vẫn có những câu Lời Chúa, bất ngờ làm cho chúng ta choáng váng,
- vẫn có những giây phút thử thách làm cho chúng ta chao đảo,
- vẫn có những cơn cám dỗ làm cho chúng ta bỏ cuộc.

Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin của mình vào Ngài, như thánh Phêrô đã làm ngày xưa.

Lạy Chúa, xin thêm lòng tin và lòng mến nơi chúng con. Amen.

-----------------------------

 

Bài 6: Chuyện Đức Hồng Y giáo chủ ra lệnh tống giam Đức Giêsu

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 170
Thường Niên 22-B


Bạn thân mến,

Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây:

“Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài, để thiêu sống những kẻ tà giáo.

Đức Kitô dịu hiền, đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville. Người về giữa loài người như một dân thường. Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố Phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo: “Ad majorem Gloriam Dei” (nghĩa là “Cho Vinh Danh Thiên Chúa Hơn”).

Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức Hồng Y giáo chủ.

Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đều nhận ra Ngài.

Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Ngài.

Ngài lặng lẽ đi vào giữ đám đông, với nụ cười và ánh mắt từ bi.

Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Ngài”.

Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được.

Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Ngài đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Ngài đi.

Đức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville, ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi.

Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nỡ.

Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh”.

Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Ngài xin hãy hồi sinh đứa con của con”.

Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” (nghĩa là: “Hỡi con, hãy trỗi dậy”  - Mc 5,41) và em bé đã ngồi lên.

*****

Đúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống đất, đứa bé hồi sinh.

Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt Ngài.

Thế lực ông quá lớn, nên ông khuất phục cả quần chúng.

Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu.

Ông vào ngục một mình gặp Ngài. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo Hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”.

Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Ngài là ai.

Hình như người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng phải lên giàn hỏa thiêu”.

*****

Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái.

Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy (TN 22-B: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23), Đức Giêsu đang ở Gialilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi: tại sao các môn đệ Ngài không rửa tay trước khi ăn.

Điều đó cho thấy: người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.

Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh, dành cho các tư tế.

Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo, để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa.

Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện.

Với suy nghĩ tương, tự họ cũng rửa tay trước khi ăn.

Ý tưởng này rất cao đẹp, vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.

Khốn thay, trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa, đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm  tội.

Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy, mà không một chút áy náy, vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”.

Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.

Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm gì đến chuyện tẩy rửa trái tim.

- Họ rửa tay để được an tâm.
- Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn.

Rửa tay thì dễ, chứ rửa tâm hồn mới thực là khó.

Nhưng cái ô uế thực, lại không từ bên ngoài vào, mà nó ở ngay trong trái tim mỗi người.

Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi. Michael Taeboit nói: “Khi cái dầm tội lỗi được trục xuất ra khỏi mắt ta, thì tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.

*****

Vậy, điều quan trọng là ta phải đổi mới trái tim.

Đổi mới được trái tim là đổi được tất cả.

Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta là những việc ấy.

Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, Làm việc bác ái… tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta đúng đắn.

Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa, khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.

Thánh Phaolô đã quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.

Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: Luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương.

Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: Là chúng con làm mọi sự, chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu").

-----------------------------------

 

Bài 7: Hỡi “tay áo”, ngươi có quyền dự tiệc

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 171
Thường Niên 23-B


Bạn thân mến,

Có một lần nọ, một người giàu có mời tất cả những người bạn ông, là những người dân thành phố đến dự tiệc.

Có một người đến bữa tiệc trong một bộ quần áo rách rưới, đó là bộ y phục duy nhất mà người ấy có.

Vừa đến cửa, người ấy bị đuổi về.

Không bị khuất phục, người ấy trở về nhà và mượn một bộ đồ sang trọng đắt tiền của một ông bạn láng giềng giàu có. Rồi người ấy trở lại nhà tiệc, trông có vẻ như một người sang trọng, có của.

Lần này người gác cổng tiếp đón với vẻ cung kính và chỉ cho ông ngồi chỗ cao nhất ở bàn trên.

Trong bữa ăn, lúc ông với tay để lấy miếng thịt chiên, bất ngờ cái tay áo của ông nhúng vào đĩa thức ăn.

Người khách ngồi kế bên nói nhỏ: “Kéo tay áo của ông lên”,

Ông nói: “Không, cứ để như vậy”.

Rồi ông giơ cánh ay lên và nói với cái tay áo: “Ăn đi, hỡi tay áo của tôi. Ăn đi cho no nê. Mày có quyền dự bữa tiệc này hơn tao, vì trong nhà này, người ta tôn trọng mày hơn tao”.

*****

Thánh tông đồ Giacôbê nói:

“Khi anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng có ai đối xử thiên tư (giữa các giai tầng xã hội)”. (Bài đọc 2 của thánh Giacôbê tông đồ 2,1-5)

Đoạn văn này của thánh Giacôbê có thể làm cho nhiều người không chấp nhận, bởi trong thực tế, xã hội chúng ta đang sống có đầy dẫy những sự phân biệt giai cấp:

Điều đó rất dễ thấy, khi chúng ta nhì các loại xe người ta lái, loại phi cơ người ta đi, khu đất người ta ở, câu lạc bộ người ta năng lui tới v.v… Có chỗ dành cho người giàu và có chỗ dành cho người nghèo.

Người ta gán giá trị xã hội cho số lượng tiền bạc, mà người ta có:

- Nếu bạn giàu có, bạn sẽ là một nhân vật nào đó.

- Nếu bạn nghèo, bạn sẽ chẳng là gì hết, và có thể không được đối xử như một con người nữa.

*****

Việc phân chia giai cấp sẽ không đến nỗi nào, nếu kết quả của nó không ảnh hưởng đến chúng ta. Còn việc phân chia giai cấp dẫn đến sự thiên vị, đến sự trọng phú, khinh bần, thì lại là chuyện khác hẳn:

Người ta thường có thói quen đóng khung, và cố giữ chặt mỗi người ở trong vị trí của họ, cho nên đã làm nhiều người bị tự ti mặc cảm. Nó đẩy người ta vào sống riêng tư, lặng lẽ cách ảm đạm. Đôi khi, người nghèo không được phép vào sống trong khu nhà của người giàu.

Nhưng người giàu cũng đau khổ không kém, bởi vì nó đã tạo nên cho họ một cảm giác giả tạo về sự quan trọng của họ và bị loại trừ.

Sự phân chia giai cấp, đã dẫn đến những tiêu chuẩn kép như trên và tất nhiên là không nên có giữa các Kitô hữu với nhau.

Cần phải loại trừ và xóa bỏ những rào cản giữa các giai cấp: Bởi khi gặp những nguy hiểm, hay gặp phải những đau buồn tập thể, hoặc khi có những niềm vui tập thể… thì những sự phân biệt ấy sẽ bị gạt sang một bên, và ai cũng thấy những phân biết đó chỉ là những điều ngớ ngẩn.

Trong những dịp như thế, mọi người đều sẽ nghĩ đến với nhau và làm phong phú cho nhau. Và lúc đó người ta sẽ nhận ra: Biết bao điều đã bị bỏ mất, do những phân chia giả tạo đó.

*****

Nếu Thiên Chúa có tỏ ra thiên vị, thì sự thiên vị cù Ngài lại dành ưu tiên cho những người nghèo và những người bị áp bức.

Việc Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo, không có nghĩa là Thiên Chúa yêu họ chỉ vì họ nghèo, nhưng sự nghèo khó có thể được coi như là một nhân đức.

Thiên Chúa đứng về phía những người nghèo và những người bị áp bức, bởi vì họ đã bị mọi người ruồng bỏ và xã hội đã đối xử với họ cách rất bất công.

- Kinh Thánh nhìn người giàu đang áp bức người nghèo. Và Thiên Chúa quyết định chứng minh chính nghĩa cho người bị áp bức.

- Là các Kitô hữu, chúng ta cần phải sống và đánh giá mọi sự theo tiêu chuẩn, sao cho phù hợp với các tiêu chuẩn của Thiên Chúa.

Sự cao thượng, lòng tốt, cùng lòng nhân hậu, không thể được xác định bởi giai cấp, thì điều xấu cũng thế.

Không có giai cấp nào được độc quyền tốt hoặc xấu, đau khổ hay vui mừng.

Nhưng khi đến với đức tin, thánh Giacôbê nói rằng: Chính những người nghèo đối với thế gian này, mới là người giàu có trong đức tin.

Người giàu, có khuynh hướng cậy dựa vào của cải của mình, trong khi người nghèo theo thì theo bản năng họ dễ quy chiếu và thích hướng về Thiên Chúa.

Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Chính ở đây, mà mọi rào cản phân chia giai cấp đều sụp đổ trong ngôi nhà của Thiên Chúa. Bởi ở đây, phẩm giá thật sự của con người được tỏ hiện. Nó không dựa trên những điều mà người ta vẫn thường dùng để phân chia con người và được xã hội đánh giá cao.

Ở đây, phẩm giá thật của con người sẽ dựa trên một điều rất sâu xa là bản chất của con người, theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa.

Nói cách khác chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em với Đức Kitô, nên bất cứ sự phân biệt nào khác, đều là vô nghĩa.

Khi chúng ta đến với Đức Kitô, thì những sự phân biệt khác đều sẽ tiêu tan đi như sương mù buổi sáng, trước ánh sáng mặt trời.

Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái trong đời sống thường ngày, mà không phân chia giai cấp, không phân biệt đối xử: Sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho những kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát, đem thuốc men cho những người đau ốm, mang áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem sự che chở cho những kẻ không nhà. Nhất là để con đem tình thương, khoan dung, tha thứ của Chúa đến cho mọi người. Amen.

---------------------------------

 

Bài 8: Lạy Chúa, xin hãy sai con

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 172
Thường Niên 24-B


Bạn thân mến,

Bà O’Reilly đã nhận được tin một người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà hay tin: “Hãy nói với bà ấy rằng: Tôi sẽ nhớ đến bà ấy trong lúc cầu nguyện và tôi hy vọng rằng bà ấy sẽ sớm bình phục”.

Và bà O’Reilly cũng tốt bụng như lời bà.

Tối hôm đó, khi bà đọc kinh tối như thường lệ, bà đã cầu nguyện chân thành và sốt sắng cho người láng giềng. Bà nói với Chúa:

“Lạy Chúa, con muốn cầu xin Chúa cho người láng giềng của con. Bà ấy bị bệnh rất nặng. Bà ấy cần được giúp đỡ, cần được an ủi”.

Khi cầu nguyện xong, bà cảm thấy tâm hồn nhẹ nhỏm.

Tuy vậy, có một điều làm cho bà băn khoăn, áy náy. Bà ngồi xuống và nghĩ về điều đó. Rồi bà rơi vào một tình trạng thiu thiu ngủ, trong đó bà nghe Thiên Chúa nói với bà: “Ta biết con rất quan tâm đến người láng giềng của con”.

“Vâng, thưa Chúa, con thật sự quan tâm”, bà đáp lại với không ít niềm tự hào.

“Và Ta cũng biết rằng người láng giềng con cũng rất cần sự giúp đỡ”, Thiên Chúa nói.

“Con cũng nghe nói như thế”. Bà O’reilly nói.

“Con biết đấy, điều bà ấy cần là một người dành cho bà ấy chút ít thời gian”. Chúa nói.

“Thưa Chúa, Chúa hoàn toàn đúng. Con cũng nghĩ như thế”. Bà O’Reilly đáp.

“Bây giờ, con xin Ta giúp đỡ bà ấy, con không chờ Ta từ trời xuống để thăm bà ấy đó sao ?”

“Không, thưa Chúa, con không mong Chúa làm thế. Cả người láng giềng của con cũng không mong điều đó. Bởi điều đó có thể làm cho bà ấy xúc động và chết mất”.

“Vậy, bà ấy không cần ai đến thăm sao ?”

“Thưa Chúa, cần ạ”

“Vậy, Ta có thể sai ai đến ?”

Sau một hồi lâu thinh lặng. Bà O’Reilly nói: “Thưa Chúa, xin Chúa hãy sai con !”

Khi bà tỉnh giấc, bà biết chính xác điều bà phải làm.

*****

Thánh Giacôbê nói: “Nếu như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hàng ngày” mà chúng ta chỉ nói: “Anh, chị đi bình an”. Như thế là không đủ.

Với một người đang cần giúp đỡ mà chỉ nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho anh”. Như thế là không đủ. Chúng ta không nên nghĩ rằng đã làm được một chút gì mỗi khi chúng ta chuyển giao vấn đề cho Chúa. Điều ấy nghe có vẻ như đùn đẩy mọi việc cho Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, thực ra chúng ta đang nói cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, này con đây. Xin Chúa hãy sai con”.

*****

Lời cầu nguyện của chúng ta phải dẫn chúng ta đến hành động tích cực nào đó, dù chỉ là một hành động nhỏ. Nhưng cho dù là một hành động nhỏ như một cuộc viếng thăm cũng chứng tỏ đó là một cử chỉ có giá trị, bởi vì nó đưa chính chúng ta đến gần bên người đau khổ. Và làm điều đó là đặt chính mình vào nỗi đau khổ của họ. Chúng ta sẽ không tránh được một phần nỗi đau khổ ấy xâm nhập chúng ta.

Cầu nguyện cho người khác, hoặc mong ước họ được tốt lành, là một điều tốt. Nó mang lại cho họ sự an ủi, vì họ biết rằng mình không cô độc. Nhưng chưa đủ. Đó là một đức tin chết.

Nếu đức tin của chúng ta sống động, chúng ta cũng cần diễn tả sự quan tâm của chúng ta bằng hành động.

Thánh Phêrô hoàn toàn đúng, khi nhận thức được căn tính của Đức Giêsu: “Thầy là Ðấng Kitô”. Đức tin của ông trở nên hoàn hảo trong Lời Chúa.

Nhưng đến lúc hành động, thì ông đã thiếu sót một cách đáng thương: Đó là khi ở vườn Giết-sê-ma-ni”, lúci Đức Giêsu yêu cầu ông canh thức với Người, lúc Người hấp hối ở trong vườn.

- Ông đã ngủ quên.
- Và cũng trong đêm đó, ông đã chối Đức Giêsu 3 lần.

Có một đức tin chủ yếu chỉ trong lời nói.

Và có một đức tin tuôn trào qua các công việc.

Chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, nhưng còn để sống đức tin ấy.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng luôn sống xứng đáng là con Chúa trong mọi  hoàn cảnh đời thường của chúng con, bằng cách biết can đảm từ bỏ mình, kiên trung vác thánh giá đời mình, để được hạnh phúc đích thực của Chúa và cho những người chung quanh con cũng được thông hạnh phúc này. Amen.

-------------------------

 

Bài 9: Câu chuyện hay về một vị tu sĩ già

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 173
TN 25-B


Bạn thân mến,

Trong cuốn sách nhan đề Thuật suy niệm (How to Meditate) của mình, Lawrence Leshan có kể lại câu chuyện sau đây:

Một vị tu sĩ già đã cầu nguyện nhiều năm, xin Chúa hiện ra, để củng cố niềm tin của ông. Nhưng điều đó đã chẳng bao giờ xảy ra.

Thế rồi, khi ông hoàn toàn không còn hy vọng điều đó xảy ra nữa, thì một ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông.

Vị tu sĩ già quá đỗi vui mừng.

Thế nhưng, ngay giữa lúc ông đang được diện kiến với Chúa, thì một hồi chuông của tu viện lại vang lên, báo hiệu đến giờ phát chẩn cho các kẻ nghèo khổ, hàng ngày vẫn tụ tập lại ở cổng tu viện để xin ăn.

Hôm nay, lại đến phiên vị tu sĩ già này ra phát chẩn cho họ. Và nếu ông chậm trễ, không ra kịp, thì đám dân bất hạnh kia sẽ lặng lẽ rời tu viện, bởi họ nghĩ rằng: ngày hôm nay tu viện chả có gì để cho họ.

Vị tu sĩ già bị xâu xé: giữa nhiệm vụ trần thế và cuộc diện kiến với Chúa.

Tuy nhiên, trước khi hồi chuông chấm dứt, ông đã quyết  định ngưng cuộc diện kiến với Chúa, cho dù lòng ông đang trĩu nặng, vì phải đi phát chẩn cho đám dân nghèo.

Sau một giờ đồng hồ, khi đã làm xong nhiệm vu, vị tu sĩ già trở về phòng mình.

Khi vừa mở cửa ra, ông không thể nào tin vào mắt của mình được nữa: Bởi Chúa vẫn tiếp tục ở lại trong phòng chờ đợi ông.

Thế là vị tu sĩ già quì gối xuống dâng lời cảm tạ.

Chúa liền nói với ông:

“Này con, giả như con đã không chịu đi ra phát chẩn cho đám dân nghèo, thì Ta đã không ở lại đây đâu!”.

***

Câu chuyện trên đây có ý nghĩa tương tự như bài Tin Mừng Chúa Nhật TN 25-B hôm nay (Mc 9, 30-37).

Cũng như các môn đệ, vị tu sĩ già đã từ bỏ mọi sự, để làm theo ý Chúa Giêsu.

Cũng như các môn đệ, vị tu sĩ ấy đã biết quay lưng lại với sự thịnh vượng tâm linh ở đời sau.

Và cũng như các môn đệ, sau khi đã làm tất cả những điều ấy, ông học được bài học tâm linh quan trọng nhất trong cuộc đời ông:

Ông đã học được rằng: phương cách tốt nhất để phụng sự Chúa, không nhất thiết là phải từ bỏ mọi sự, không nhất thiết là phải quay lưng với thế gian và ẩn mình vào một tu viện nào đó, không nhất thiết là phải cầu nguyện lâu giờ hay thị kiến những cảnh tượng trên trời.

Mà phương cách phụng sự Chúa tốt nhất, là thực hành điều cơ bản hơn những việc đó rất nhiều, đó là phục vụ anh chị em chúng ta, đặc biệt những người ít may mắn nhất.

Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài bài học này, qua câu nói:

“Ai muốn là kẻ cao nhất, thì hãy làm người thấp nhất để phục vụ tất cả mọi người”.

Điều này gợi lên một vấn đề rất quan trọng. Làm sao áp dụng thiết thực lời dạy của Chúa Giêsu vào đời sống riêng của mỗi người chúng ta?

Chúng ta nhận thức được ngay rằng: Câu trả lời sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào từng người, bởi vì mỗi người sẽ trả lời một cách, không ai có thể trả lời thay cho ai, nghĩa là mỗi người phải tự mình trả lời.

Tuy nhiên, câu trả lời của chàng thanh niên đầy can đảm và thiện chí sau đây, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ thêm vấn đề:

FB Ted Kennedy Junior, lần đầu tiên được cả nước biết đến, khi cậu bị cưa đi một chân, vì ung thư, ở tuổi 12.

Sau đó, thường xuyên báo chí đăng hình cậu trượt tuyết bằng một chân hoặc chơi đá banh với chiếc chân gỗ giả.

Tuy nhiên, giờ đây, người ta còn thấy được một khả năng khác nữa thật tuyệt vời nơi cậu, là:

Cậu thường đi khắp nơi trong vùng, để ngỏ lời với các kẻ tàn tật, nhất là những người còn trẻ.

Trước mặt gia đình và bè bạn, cậu luôn tỏ ra lạc quan với sự tật nguyền của mình.

Cậu nói: “Tôi không cảm thấy khác biệt với mọi người”.

Và cậu đã thẳng thắn nhìn nhận: Cậu đã được các bác sĩ giỏi nhất điểu trị.

Cậu vẫn thường thổ lộ:

“Một trong những lý do khiến tôi cố gắng giúp đỡ những kẻ tật nguyền khác, chính là tôi muốn đền trả món nợ ấy. Tôi chả mất công bao nhiêu để làm cho kẻ khác được tốt đẹp hơn, thế thì tại sao tôi lại không cố gắng làm”.

Câu sau cùng này rất đáng được lập lại: “Tôi chả mất công bao nhiêu để làm cho kẻ khác được hạnh phúc hơn, thế thì tại sao tôi lại không cố gắng làm?”.

*****

Trong chúng ta, ít người được rảnh rỗi như chàng Ted Kennedy và cũng ít người có được thời giờ và đảm bảo tài chánh, để làm công việc như cậu Ta.

Tuy nhiên, tôi vẫn thường thắc mắc tự hỏi: Giả như anh chị em và tôi, có được sự rảnh rỗi và đảm bảo về tài chính như Ted Kennedy, thì có được bao nhiêu người trong chúng ta, sẽ sử dụng những đặc ân này một cách quảng đại như anh ta?

Từ đó, chúng ta trở lại câu hỏi nguyên thủy, là chúng ta phải làm thế nào, để tự mình trả lời lời mời gọi của Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay:

“Kẻ nào muốn nên cao nhất, thì hãy làm người thấp nhất và làm tôi tớ cho mọi người”.

Như chúng ta đã biết: không ai có thể trả lời câu hỏi trên dùm cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời lấy.

Và như thế, bài Phúc Âm hôm nay vừa là  lời mời gọi, vừa là một sự thách đố:

- Trước hết nó mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống và tự vấn chính mình thường xuyên xem: Ngay lúc này đây, chúng ta đã làm việc với tinh thần phục vụ thế nào, cho dẫu chúng ta là một người mẹ đang chăm sóc lo lắng cho con cái còn nhỏ dại, hay là một công nhân đang làm việc tại một công sở hay một xí nghiệp nào đó?.....

- Thứ đến, bài Tin Mừng còn khuyên chúng ta: mỗi ngày nên dành ra ít phút để tự kiểm điểm mình xem, chúng ta có cách nào khác, để cho công việc chúng ta đang làm mang nhiều tinh thần lợi ích phục vụ, hơn hiện nay không?

Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc ở Âu châu, để trở thành một bác sĩ thừa sai, phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi Châu.

“Tôi không biết số phận bạn sẽ ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: “Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân, thì mới thực sự được hạnh phúc.”

Chúng ta hãy lập lại những lời này một lần nữa:

“Tôi không biết số phận bạn sẽ ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: “Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân, thì mới thực sự được hạnh phúc”.

Lạy Chúa, xin ban cho con ánh sáng đức tin, để con nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày, nơi những khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:

- những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa;
- những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
- những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
- những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này:

"Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta" Amen.

------------------------------------------

 

Bài 10: Chuyện cô gái điếm được vào Thiên Đàng

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 174
Thường Niên 26-B


Bạn thân mến,

William Porter là một nhà văn nổi tiếng, bút hiệu là O. Henry.

Trong tập chuyện, có một chuyện ông viết về một em bé gái mồ côi mẹ từ hồi còn bé. Bé gái này thường ngày phải ở nhà một mình và lúc nào cũng ngong ngóng, mong chờ ông bố đi làm về, để có thể ngồi lên trên đùi bố, thưởng đôi chút tình cảm cha con, và được nếm cảm chút ít sự ấm áp, trong vòng tay yêu thương của bố.

Nhưng đáng thương thay, mỗi buổi tối, sau khi người cha đi làm về. thì những việc tiếp theo ông vẫn thường làm là ăn, rồi đọc báo, xem TV, hút xì gà, rồi đi ngủ.

Khi người con gái nhỏ của ông lân la đến gần thì ông thường bảo: "Con không thấy cha đang mệt lắm sao? Con hãy ra ngoài tìm bạn mà chơi."

Người con gái thấy cha bảo vậy thì từ đó, ngày ngày cô cũng ra ngoài đường, để tìm bạn chơi và nó cố gắng nhí nhảnh bao nhiêu có thể, để có nhiều bạn chơi.

Chuyện đương nhiên đã xảy ra là khi cô con gái này lớn lên, đến tuổi dậy thì, cô cũng bắt đầu đi tìm những mối tình, đến bất cứ từ đâu, do bất cứ ai trao tặng cũng được. Và cô đã trở thành một cô gái điếm chuyên nghiệp.

Một ngày nọ, cô gái điếm này chết. Cô đang ung dung xếp hàng chung với mọi người, để tiến vào thiên đàng.

Vừa trông thấy cô, thánh Phêrô liền nói với Chúa Giêsu: "Cô ta là một người tội lỗi, Chúa ơi, là một cô gái điếm. Cô ta chỉ có thể đến một nơi khác thôi!"

Nhưng kết thúc của câu truyện, tác giả đã gây ngỡ ngàng ngàng, ngạc nhiên cho không biết bao người:

Chúa Giêsu quay sang bảo Thánh Phêrô: "Con hãy mở cửa thiên đàng cho cô ấy vào đi. Khi nào người cha của cô đến đây, con hãy bắt ông ta chịu trách nhiệm về tội này".

Tuy chỉ là một câu chuyện giả tưởng, nhưng cũng có chất lượng khá sâu sắc, để chúng ta tiếp tục suy nghĩ.

**********

Thiên Chúa rất nhân từ đối với những kẻ lầm lạc, mà không do lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa sẽ yêu cầu những kẻ nào đã gây ra, hay đã làm cho người khác bị lầm lạc, thì phải chịu trách nhiệm, thì phải chịu tội.

Xưa nay, chúng ta vẫn thường nghĩ: Tội, là khi chúng ta làm điều gì đó cho người ta rơi lầm lạc, làm cho người ta sai phạm luật… Còn việc những việc tốt, việc thiện… trong tầm tay, có thể làm được, để giúp người ta nên tốt hơn, mà chúng ta đã bỏ qua, đã không chịu làm, thì nó cũng là tội, mà nào ta có hay, có bao giờ ta nghĩ tới.

Tuy trước mỗi thánh lễ, khi đọc kinh “Tôi thú nhận”, Giáo hội có dạy chúng ta xưng thú: “Con đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”.

Những điều thiếu sót ở đây, chính là những điều tốt lành, đạo đức… có thể làm được, mà vì lười biếng, đã bỏ qua, đã không làm.

*****

Cách đây vài năm, trong cuốn 'Reader's Digest' có đăng tải một bài báo của Jane Lindstrom. Bài báo này có tên là "Làm Sao Bạn Biết, Nếu Tôi Không Nói?":

"Các trẻ em rất khát khao, thèm muốn sự yêu thương từ nơi cha mẹ. Nên nếu tình yêu bị khóa lại trong trái tim chúng ta là cha mẹ, không thể tới các em được, thì hậu quả thê thảm không thể lường. Nó cũng giống như là một lá thư đã viết, mà không đem đi gởi.

Nhưng nếu những đứa trẻ được tình yêu bao bọc chở che, như thường xuyên được nghe những lời nói của cha mẹ, như:

- “Con ngoan của mẹ Cha.
- Mẹ cha rất lấy làm hãnh diện về con.
- Cha mẹ hết sức lấy làm vinh dự có một người con như con...."

Nếu chúng ta từ chối không bày tỏ tình thương, chúng ta có thể làm cho người mình thương đi vào con đường ngọ cút và bị lầm lạc, thì Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta chịu tội, chịu trách nhiệm về những tội này,  như trong trường hợp trong câu truyện của O. Henry.

*****

Bài Phúc Âm hôm nay kêu gọi chúng ta tự vấn mình với câu hỏi quan trọng:

- Chúng ta có làm gì, hoặc không làm gì, để có thể gây cho người khác đi vào con đường lầm lạc?

- Hoặc là chúng ta đã quá lo lắng cho những sự đau thương và lo nghĩ riêng, mà bỏ đi những cách biểu lộ tình yêu. với những người chúng ta quí mến?...

Lạy Chúa, xin giúp con cố gắng sống quảng đại với hết mọi người, và sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí, để mưu ích cho mọi người, nhất là đối với những người thương mến mình vànhững người mình thương mên.

Xin Chúa hãy tỏ quyền năng của Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa, để tất cả chúng con được hòa hợp với tình yêu bao la của Chúa, hôm nay và mai sau trên Thiên Quốc. Amen.

------------------------------------

 

Bài 11: Câu chuyện về 'Mother Hale'

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 175
Thường niên 27 B


Bạn thân mến,

Lorraine Hale dừng xe khi đèn đỏ ở một ngã tư, bà nhìn thấy bên lề đường có một người phụ nữ, dáng như nghiền xì ke, đang bồng một đứa bé.

Sau khi đèn xanh nổi lên thì Lorraine đạp ga và bà lái tiếp. Nhưng có một cái gì đó đã nói với bà, là bà phải quay trở lại cái chỗ vừa rồi.

Bà liền quay trở lại và nói với người phụ nữ nghiền xì ke kia rằng:

"Này, chị đang có những vấn đề nan giải và chị cần sự giúp đỡ. Chị hãy mang baby của chị đến nhà mẹ của tôi. Bà ấy sẽ giúp chị."

Người đàn bà nghiện xì ke nhìn Lorraine một cách không hiểu.

Loraine lập lại lời bà nói tới ba lần. Sau đó, bà đã viết địa chỉ nhà của mẹ bà và nhét vào tay người đàn bà nghiện xì ke.

Sáng hôm sau, người đàn bà nghiện xì ke đã đến trước cửa gia đình bà Hale. Đứa con bà đang bồng trên tay run cầm cập, xổ mũi, và còn bị tiêu chảy nữa. Đứa bé đang chịu sự giày vò của sự thiếu thuốc xì ke.

Các trẻ em của những người mẹ nghiện xì ke, khi chào đời, thì thường là những đứa bé nghiện xì ke. Chúng đã bị nghiện xì ke từ khi còn trong lòng người mẹ.

Mẹ của Lorraine thường được hàng xóm gọi là 'Mother Hale' (bà mẹ tên Hale) đã ẵm lấy đứa bé, chữa trị nó trong thời gian chờ cho nó cai nghiện thuốc.

'Mother Hale' đã không biết rằng nghĩa cử của bà đối với một người đàn bà nghiện xì ke đó, đã biến đổi cuộc đời của bà.

*****

Dần dần, lời đồn đã vang đi và các bà mẹ nghiện xì ke khác đã mang con mình đến cửa của 'Mother Hale'.

Có lúc, 'Mother Hale' đã có đến cả hơn 20 em bé nghiện xì ke trong nhà bà. Một đôi lúc, bà hết cả tiền bạc để mua thức ăn và quần áo cho chúng. Nhưng bà đã cố gắng để thu xếp mọi sự sao cho ổn thỏa.

Trong vòng 16 năm, 'Mother Hale' đã giúp trên 600 em bé cai nghiện thuốc xì ke. 'Mother Hale' chia sẻ rằng:

"Thường là khoảng thời gian bốn đến sáu tuần để cai nghiện. Những đứa bé khóc lóc rất thảm thương và mình chỉ có thể làm một điều là ẵm chúng và yêu thương chúng."

Tiếp theo đấy, một chuyện không ngờ đã xảy ra cho 'Mother Hale' và đã biến đổi cuộc đời của bà.

Một người nào đó đã nói về 'Mother Hale' cho tổng thống Reagan. Tổng thống rất cảm động và ông đã nhắc đến 'Mother Hale' trong cuộc diễn thuyết toàn quốc rất quan trọng trong năm là 'State of Union'.

Sau đó, TV đã chiếu hình 'Mother Hale', một người đàn bà 81 tuổi đang chảy những giọt nước mắt trên gò má.

'Mother Hale' đã trở thành một nhân vật nổi tiếng qua một đêm. Các báo chí đã đăng tải các tin tức về bà. Đồng thời các chương trình TV đã mời bà đến để phỏng vấn và nói chuyện.

Qua đó, 'Mother Hale' đã được các nơi gởi tiền về để giúp bà thành lập thành một trung tâm, với tất cả những tiện nghi và người làm.

Nhiều thành phố khác đã cố gắng gặp bà, để xin bà cho biết ý kiến, hầu cũng thành lập các trung tâm để giúp những đứa bé nghiện xì ke.

*****

Câu truyện về 'Mother Hale' thật thích hợp với bài Phúc Âm hôm nay (Chúa Nhật TN 27 B: Marcô10,1-16), khi các bà mẹ đã đem các con trẻ của họ đến gặp Chúa Giêsu, để xin Ngài đặt tay chúc lành.

Và Chúa Giêsu đã nói: "Hãy để cho các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng bởi vì Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng." Chúa Giêsu đã "ôm chúng và chúc lành cho chúng" với tất cả tấm lòng yêu thương.

Và qua cách sống đó, chúng ta được truyền đạt, để muốn làm một điều gì đó trong cuộc đời chúng ta.

Khi 'Mother Hale' giơ tay ra để bồng ẵm lấy đứa trẻ nghiện xì ke đầu tiên, bà đã không có một ý nghĩ gì về việc làm này của bà sẽ gây ảnh hưởng tới muôn triệu người, do một hành vi tình yêu đó.

Bà đã không có một ý nghĩ gì về 16 năm trong tương lai, điều bà làm, sẽ trở nên một sự phản ứng để giúp đỡ cho muôn vàn trẻ em xấu số.

Bà đã không có một ý nghĩ gì về những hậu quả nối tiếp sẽ tiếp nối theo thành phố Harlem, đến những thành phố khác.

Bà đã không có một ý nghĩ gì rằng: Thiên Chúa sẽ dùng bà để bắt đầu một chương trình quan trọng mới, hầu giúp ích cho những đứa trẻ đau thương trong thời đại chúng ta.

Trung Hoa có câu ngạn ngữ như sau:

"Cuộc đời một đứa bé giống như một tờ giấy để các nét chữ được viết lên."

Dấu vết của 'Mother Hale' là một dấu vết tuyệt vời mà bà đã in trên cuộc đời của hàng ngàn đứa trẻ.

Điều đó thật là tuyệt vời và nó làm cho chúng ta cũng muốn để lại những dấu vết tương tự trên muôn ngàn con trẻ, mà chúng ta gặp hằng ngày trong cuộc đời chúng ta, nhất là trên con cháu chúng ta. Chúng ta mong muốn để lại trên chúng dấu vết của Chúa Giêsu, để chúng có thể sau này cũng sẽ để lại dấu vết ấy trên con cháu của chúng ta.

Lạy Chúa, chính Chúa đã tạo lập gia đình, để gia đình trở thành tổ ấm cho tình thương và cho sự phát triển. 

Xin ban cho hết mọi gia đình biết noi gương Thánh Gia Thất để lại, mà ăn ở theo lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình bác ái;  hầu được chung hưởng niềm vui vĩnh cửu.  Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho gia đình).

-------------------------------

 

Bài 12: Chuyện một vị đạo sĩ gặp Tử Thần

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 176
Thường Niên 28-B


Bạn thân mến,

Chuyện dân gian kể rằng:

Có ba người bộ hành, là bạn chí thân với nhau, trên đường đi tìm hạnh phúc. Bất chợt, họ nghe tiếng la thất thanh của vị đạo sĩ từ trong núi hới hải chạy ra:

- “Chết! Chết! Chết! Tôi đã gặp thần chết!”

Ba người bộ hành trên yêu cầu vị đạo sĩ dẫn họ vào trong hang, để diện kiến thần chết.

Vào trong huyệt đá sâu, vị đạo sĩ đã chỉ cho ba người thấy một kho vàng chôn giấu thật kỹ ở đây. Bỗng nhiên vị đạo sĩ lại kêu to lên:

- “Thần chết! Thần chết! Thần chết!” rồi bỏ chạy ra khỏi miệng hang.

*****

Ba người quá đỗi bàng hoàng vì kho vàng quá lớn. Họ cùng nhau hối hả đào.

Nhưng cần phải có lương thực để ăn, hầu đủ sức mà tiếp tục đào chứ.

Một người đã tình nguyện đi mua thức ăn.

Nhưng bất hạnh thay, khi ông ta đi mua thức ăn, thì hai người ở lại tìm cách để giết ông ta.

Quả nhiên, khi mang thức ăn về, ông đã bị giết như kế hoạch và số vàng ấy được chia đôi và cho vào bao cẩn thận.

Bấy giờ hai người cùng nhau ăn trước khi xuống núi. Nhưng không ngờ trong thức ăn ấy lại đã có thuốc độc của gã đàn ông kia, muốn số vàng ấy thuộc trọn về riêng mình thôi.

*****

Vị đạo sĩ trên đã thấy thần chết, vì ông có khả năng đề kháng lòng tham của mình.

Còn ba người lữ hành trên không có khả năng cảm nghiệm những điều vui khác, như tình bạn, lòng trung thành, sự độ lượng, mà chỉ thấy có một hạnh phúc duy nhất là tiền.

Vàng bạc hoặc của cải, tự nó không phải là xấu, tự nó không phải là con đường buồn rầu, chết chóc.

Phải chăng tất cả đều là do tự lòng mình mà ra cả.

*****

Người thanh niên, mà Mác-cô tường thuật trong Phúc âm hôm nay (Chúa Nhật 28 Thường Niên B: Mc 10, 17-30), đã sa sầm nét mặt và bước đi buồn rầu, vì anh ta tự chọn cho mình một trái tim khép kín, không tiếp nhận những vẻ đẹp nào khác ngoài tiền.

Anh đã đứng khựng lại tại chỗ, với những thành quả anh đang có, là đã giữ trọn lề luật Môisen và có nhiều tài sản.

Anh đã từ chối lời mời gọi của Đức Giêsu, để tiến thêm lên một bước nữa, là chia sẻ những gì anh có với người nghèo khó.

Bước thứ hai này mới thực sự là quan trọng, nó mới bảo đảm gia nghiệp đời đời của anh, nó mới thoả mãn được câu hỏi mà anh đã đặt ra.

*****

Trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh Lazarô (Lc 16: 19-31):

Ông nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.. .

Nhưng mà tiền của ông, ông xài chứ ông có lấy gì của ai đâu. Phúc âm cũng không hề nói ông đã làm điều gì sai trái cả. Vậy mà, tại sao ông phải xuống hoả ngục?

Thưa tại vì, ông không chia sẻ với anh Lazarô đói rách, bệnh hoạn, đang nằm trước cửa nhà ông kia kìa.

Lại thêm một ông nhà giàu nữa, mà Luca, đoạn 12, câu 16-20 đã viết:

Ông tự nhủ mình rằng: Hồn tôi ơi, mình bây giờ đã có ê hề của cải, dư xài trong nhiều năm. Thôi, hãy cứ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho thoả thích. Đời như thế nầy quá ư là đầy đủ, không còn ước mơ hạnh phúc nào khác nữa.

Nhưng Thiên Chúa bảo anh ta: Đồ ngu, nội đêm nay, ta đến đòi mạng ngươi, thì của cải của ngươi sẽ về tay ai?

*****

Hôm nay, tôi cũng xin đặt lại câu hỏi với Đức Giêsu:

- Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?

Đức Giêsu đưa mắt âu yếm nhìn tôi, như xưa đã nhìn người thanh niên trong Phúc âm và bảo:

- Con có giữ trọn 10 điều răn ĐCT cùng 6 điều răn Hội thánh không?

- Lạy Chúa, tất cả những điều đó con đã giữ trọn từ khuya.

Một lần nữa Chúa lại âu yếm nhìn tôi:

- Con đừng quên anh Lazarô, không tên, không tuổi, đói rách, bệnh hoạn đang nằm ngay trước cửa nhà con….

Lazarô đây chính là hình ảnh cho thấy tất cả những ai nghèo khó, về phần hồn, cũng như phần xác.

Anh Lazarô hàng xóm của tôi có khi không thiếu tiền bạc hoặc đói thức ăn, nhưng anh thiếu tình bạn, anh đói tình thương, anh cần sự độ lượng và tha thứ, anh cần sự nâng đở tinh thần. . .

Và như Phêrô đã nói với người ăn xin tại Cửa Đẹp đền thờ: Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi xin cho anh đây: Ấy là Đức Giêsu Kitô, với quyền năng của Người (Act 3: 4)

*****

Thánh Phanxicô Assisi, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta, vị đạo sĩ trong câu chuyện trên, là những mẫu gương cho chúng ta soi, mà bắt chước.

Chúng ta sẽ không sợ cái cảnh ngồi trên lưng con lạc đà chui qua lỗ kim không lọt. Vì Chúa ở đâu, thì ta cũng sẽ ở đấy với Người. Vì ta là môn đệ của Người, nếu ta biết sống chia sẻ, như lời Chúa đã dạy.

Trên bia mộ, trong một nghĩa trang kia, có khắc mấy giòng chữ sau đây, cũng rất đáng cho chúng ta suy nghỉ:

“Những gì tôi có, nay đã thuộc về người khác.
Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng.
Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi”.

Lạy Mẹ Maria, trong tháng 10, tháng Mân côi, tháng dành riêng để kính Mẹ, xin cho chúng con có được một tâm hồn rộng mở, để đón nhận và thực thi sứ điệp tình thương, mà Con Mẹ đã để lại cho chúng con. Amen.

--------------------------

 

Bài 13: Chuyện “Cái ghế” trong nước Thiên Chúa

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 177
Thường Niên 29-B


Bạn thân mến!

Trong nhân gian, “cái ghế” tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi.

Ghế là nỗi ước mơ của nhiều người: Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế thủ trưởng, ghế đại biểu..v..v.. Tất cả mọi nỗ lực của con người được dồn vào việc làm sao cho có được một cái ghế tốt, sau đó là tìm cách để giữ ghế, hay tìm cách đế lên ghế tốt hơn, cao hơn... 

Đó là bối cảnh của cuộc sống vật chất, mà chúng ta thường nhìn thấy trong xã hội ngày nay.

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (TN 29 B: Mc 10, 35-45) nhắc đến “cái ghế” trong nước Thiên Chúa.  Đó là cái ghế danh dự, cái ghế cao trọng nhất, mà hai môn đệ Gioan và Giacôbê xin được ngồi hai bên tả hữu của Chúa.

Hai ông là những môn đệ thân tín nhất của Chúa. Hai ông đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài, nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc, từ chính sự thâm tín và từ bỏ ấy.  Hai ông đã lên tiếng xin với Đức Giêsu:

"Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang" (Mc.10:37). 

Chúa trả lời:

"Các anh không biết các anh xin gì!” (Mc.10:38). 

Thực vậy, hai ông đâu có biết ai sẽ là người ở "bên phải và bên trái" của Đức Giêsu, khi Ngài ở trong "vinh quang" của Ngài trên thập giá? 

Họ đang xin cái chỗ, mà sau này mới biết, đó là chỗ của hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên Thập Giá.

Họ vẫn chưa hiểu gì về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu.

Và cũng chính lời cầu xin này đã tạo ra sự mất bình an trong nhóm Mười Hai, đã tạo ra thái độ bực tức và ganh tị giữa các anh em môn đệ còn lại. Bởi vô tình cũng lại cho chúng ta thấy: Nhiều môn đệ cũng đang ước mơ và có tham vọng được ngồi trên hai ghế tả hữu đó.

Theo họ, hai anh em Gioan và Giacôbê cố giành bước trước, là chơi xấu, là muốn chiếm ưu thế đối với họ. 

Lập tức, vấn đề tranh cãi xem ai sẽ là người lớn nhất, cao trọng nhất bắt đầu nổi lên dữ dội trong nhóm Mười Hai. 

Tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng, liên hệ giữa các ông có vẻ bị sứt mẻ, nếu Chúa Giêsu không kịp ra tay can thiệp, chỉ dạy cho họ con đường đích thực khi theo Ngài. 

Ngài đã kịp thời vạch rõ các tiêu chuẩn khác nhau, về sự cao trọng trong Nước Thiên Chúa và các nước trên trần gian:

Trong các vương quốc trần gian, tiêu chuẩn về cao trọng là quyền thế.

Người đứng đầu, người làm lớn, là người có quyền, thường có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách.  Chức vụ và quyền lực đã trở thành phương tiện để phục vụ bản thân.  Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.

Trong vương quốc của Chúa, tiêu chuẩn lại là phục vụ. 

Sự cao trọng không bao gồm việc bắt người khác phục vụ mình, nhưng là đặt chính mình vào việc phục vụ tha nhân.

”Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em;
ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc.10:43-44)


Đức Giêsu đã làm mẫu gương phục vụ cho ta noi theo. 

Phục vụ là động từ tóm kết toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu nơi dương thế, vì Ngài đến trần gian để phục vụ, sống như người phục vụ, và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ trong yêu thương:

"Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. (Mc.10:45)

***

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ, Thầy đã rửa chân cho chúng con như một người nô lệ…

Xin giúp chúng con biết noi gương Thầy, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn thân phục vụ anh em, như Thầy đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống, làm giá cứu chuộc chúng con. Amen

---------------------------------

 

Bài 14: Sự bén nhạy trước thực tại vô hình

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 178
Thường Niên 30-B


Bạn thân mến,

Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù từ bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”….

Dĩ nhiên, có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật, vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, ánh sáng… họ cũng không biết đến.

Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai:

- Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng chứng, là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt?

- Trong số những dân chơi cuồng quay, nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”,… ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không?

- Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy.

Có chăng, cũng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ, đều tường!!!

- Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm những người mù trong các trại giam, chắc chắn là ta sẽ thất vọng, vì nơi đó chỉ thấy toàn là những người có đủ cả hai mắt.

Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng?

Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho rằng: Người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh.

Hạnh phúc hay bất hạnh, không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.

*****

Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật 30 TN-B hôm nay (Mc 10, 46-52), ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường, ngoại thành Giêricô.

Không biết anh ta có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện:

Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ, con kia, không rượu bia các thứ….

Có lẽ, anh cũng chưa bao giờ phạm vào những “tội đội sổ” của con người thời đại hôm nay: Buôn gian, bán lận, lậu thuế, trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng…

Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai.

Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.

*****

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai. Đang khi đó, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là Con Vua Đavít.

Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia.

Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh.

Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí,… như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt.

Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế quyền năng, có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, thì anh đã không xin Ngài điều này.

Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn, do mù loà, là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu.

Có khi còn ngược lại nữa là khác.

Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình.

Bởi đó, người ta bảo rằng: Người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại.

Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.

Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; cũng chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin.

Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô.

Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin, nơi anh vốn đã sáng, nay lại sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui dâng trào.

Sẽ thật là hạnh phúc cho tôi, nếu tôi có đôi mắt thể lý, lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời.

Ngược lại, sẽ thật bất hạnh biết bao, nếu tôi có đôi mắt thân xác sáng tỏ, nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm ba mươi.

Hãy tạ ơn Chúa, vì Ngài đã ban cho tôi có đôi mắt thể lý, chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa.

Xin Ngài đã gìn giữ tôi, để đôi mắt đức tin của tôi cũng luôn được tinh tường sáng suốt.

Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng, để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương”, như người ta vẫn nghĩ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy những anh chị em túng thiếu bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con nghe được những tiếng khóc thầm của họ, để chúng con không nhắm mắt đi ngang qua. Vì chúng con thực ra, cũng là những người hành khất, nhưng Chúa đã làm cho nên giàu có. Chúng con cũng là những kẻ mù lòa, nhưng Chúa đã làm cho chúng con được sáng mắt…. Amen.

---------------------------

 

Bài 15: Ba điểm mới lạ của tình yêu thương Kitô giáo

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 179
Thường Niên 31-B


Bạn thân mến,

Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi: “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì ?”.

Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”.

Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.

Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề:

“Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo, cũng dạy người ta yêu thương nhau”.

Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ, vậy:

“1. Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;

2. Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”.

Và giáo lý viên có vẻ hơi bí !

*****

Chúng ta phải công nhận rằng: người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng.

- Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người.
- Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức.

Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người, ai ai cũng đều biết, đều trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương.

Nhưng,

- Chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao ?

- Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người, mà chẳng dạy điều gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao ?

Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:

1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa, thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.

2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.

3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa, như dâng hoa, hươn nhan, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương, mà ta có đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.

Xin trở lại với câu chuyện ban đầu.

Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo.

Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy.

Chắc chúng ta cũng vậy thôi: Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy, thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích thôi, dù là công giáo, nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con, để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và sống hết tình huynh đệ với mọi người chung quanh con.

Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người. Amen.

---------------------------------

 

Bài 16: Tại sao, 2 đồng tiền kẽm của người nghèo thì lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu ?

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 180
Thường Niên 32-B


Bạn thân mến,

Có một ông già giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi:

“Ông ngồi đây làm gì vậy ? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi. ông sẽ có tiền”.

Vị đạo sĩ trả lời: “Cám ơn ông, tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc là ở đó có tội ác”.

Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm, nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy”.

Vị đạo sĩ trả lời: “Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa, trừ cửa Thiên Đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: Tiền bạc mua được tất cả, nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử”.

Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ: Tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa, sung sướng không ?”.

Vị đạo sĩ trả lời: “Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó. Lịch sử cũng ghi rõ: Tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc”.

Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa, rồi bỏ đi.

*****

Cuộc đàm thoại giữa ông nhà giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận những điều, mà có lẽ tất cả chúng ta đều đã biết và công nhận như vậy.

Bởi vì, tự nó, tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ.

Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng giống như tờ 1 đồng, chỉ là một tờ giấy, có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền giấy và công in.

Nhưng theo giá trị định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần tờ 1 đồng.

Chính vì giá trị định ước này, mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó vẫn được quí trọng, dù đẹp, dù xấu, dù mới, dù cũ, nó vẫn được người ta dành cho nhiều cảm tình.

Nó được chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.

*****

Tiền bạc là phương tiện giúp cho người ta trao đổi, để dễ dàng sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự nó không xấu, mà trái lại là đàng khác.

Nhưng nó trở nên tốt hay xấu là do con người sử dụng nó.

Nó có thể được dùng vào những việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy hiểm và tai hại, cũng như được dùng vào những công việc từ thiện, bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình bạn, hay đem lại những lợi ích vật chất và tinh thần.

Như vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí rằng:

Tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá trị rất thực tế, theo như định ước người ta gán cho nó:

- Tờ 1.000 đồng chắc chắn phải hơn tờ 50 đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng.

Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 32 Thường Niên B hôm nay (Mc 12, 41-44 ), Chúa Giêsu lại nói hai đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần tư đồng xu Rô-ma của người đàn bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ, thì lại quí hơn những số tiền lớn của những người giàu ?

Xét về số lượng thì chắc chắn hai đồng tiền của bà góa, thua kém xa số tiền lớn của những người khác.

Nhưng xét theo tỷ lệ tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do, về mục đích, thì người đàn bà này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư thừa, mà dâng những cái rất cần thiết để nuôi sống bà.

Có thể số tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau, đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó.

Nhưng không, bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự, bà không biết lợi dụng tôn giáo hay lợi dụng Thiên Chúa.

Trái lại, có những người dâng cúng nhiều, chỉ đề khoe khoang, chỉ để tìm danh vọng tiếng khen. Số tiền họ dâng cúng tuy nhiều, nhưng so với cơ nghiệp và gia tài của họ thì nào có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc, nhưng lại được lời về danh giá và tiếng khen. Cho nên, thực sự họ chẳng cho, hoặc chẳng dâng hiến được bao nhiêu. Đó là một thứ đầu tư “một vốn bốn lời”.

Đó là một sự tôn giáo, lợi dụng việc từ thiện bác ái, chứ không phải là phục vụ.

Chính vì lý do đó, mà Chúa Giêsu đã đánh giá việc bà góa nghèo này là dâng cúng nhiều hơn mọi người.

*****

Hơn nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là với tất cả tấm lòng.

Ngài không ham của cải Ngài đã ban cho loài người, nhưng Ngài chỉ muốn lòng thành thực của con người mà thôi.

Cho nên, người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình, hay ít nữa những gì thuộc về bản thân mình, những gì liên hệ tới chính con người của mình, thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả.

Qua bài Tin Mừng với việc làm của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền bạc, đối với người sử dụng nó,.

Và qua đó, chúng ta rút ra được một bài học, đó là hãy biết cho đi.

Bởi vì thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành thực thiết tha.

Nhưng không phải chỉ cho những gì là vật chất, như của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có thể cho những gì là siêu nhiên, cao quí, như lời cầu nguyện; và cho những gì là tinh thần như một nụ cười, như một cái bắt tay thân thiện, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa, hay những lời an ủi, một sự chia  xẻ chân thành…

Lạy Chúa, nhiều khi con làm việc bác ái hay phục vụ tha nhân không do lòng mến Chúa thôi thúc, mà chỉ vì muốn được người khác biết đến và thán phục khen ngợi, nên con dễ nản lòng bỏ cuộc, khi không được ai quan tâm, động viên, khen ngợi…

Con đã vô tình trở thành “một người Pharisêu của thời đại ngày nay”, đáng bị Chúa nặng lời quở trách !

Xin Chúa thanh luyện ý hướng của con.

Xin cho con biết làm việc tốt trong sự âm thầm, để được Chúa ban thưởng ở đời sau.

Con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương”: Những việc con làm thực sự là tốt, thì dù có bị người khác ganh ghét nói xấu, thì nó vẫn tốt và có giá trị làm chứng cho Chúa như Chúa đã phán: “Anh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Amen.

---------------------------------

 

Bài 17: Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 181
Thường niên 33-B


Bạn thân mến,

Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người đều thiệt mạng. Chỉ tích tắc có một vài phút trước khi chiếc máy bay tông vô thành núi, thì các hành khách được báo là chiếc máy bay sẽ tận số. Ngay sau đó thì cái tai ương đã xảy ra.

Khi các nhân viên cấp cứu đến chỗ chiếc máy bay bị rớt thì họ tìm thấy một cuốn lịch nhỏ bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong cuốn lịch nhỏ đó, người thương gia đã ghi lại một vài hàng chữ vội vàng trong giây phút cuối cùng, trước khi chết. Đại khái:

"Chúng tôi không thể thoát nạn được rồi... tôi buồn quá!"

Hàng chữ của người khác gởi cho gia đình của ông ta:

"Tôi nghĩ rằng bữa tối hôm qua là bữa ăn cuối cùng với nhau."

Hàng chữ của người khác nữa ghi cho ba người con của ông:

"Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ mẹ các con." …..

Những hàng chữ viết vội vàng trên đây, là những hàng chữ của một người sắp chết.

Không có một điệu nhạc nào kéo dài cả giờ hay cả ngày, để báo trước cho người ta biết cái tai ương này. Nó đến bất chợt, giống như tên trộm cắp trong đêm.

*****

Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Nhật 33 TN-B (Mc 13, 24-32), diễn tả cho chúng ta cách Chúa Giêsu chuẩn bị cho con người bằng những tin tức xấu.

Ngài nói với họ rằng: một tai ương sẽ xảy ra vào thời đại của họ.

Hơn nữa, nó sẽ được báo trước bằng những dấu chỉ.

Theo như lịch sử thì cái tai ương, mà Chúa Giêsu nói đến đây, là sự sụp đổ của Đền Thờ Thành Giêrusalem. Cái tai ương này đã xảy ra 40 năm sau, tình từ lúc Chúa Giêsu chịu chết.

Điều này cũng nhắc nhở cho chúng ta đến cái ngày, mà toàn thể thế giới sẽ phải đến: đó là ngày tận thế.

Cái ngày này là cái ngày, mà Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta hôm nay.

Không một ai trên thế gian này có thể biết được ngày nào, hoặc giờ nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ có Chúa Cha.

Tuy nhiên, sẽ có những điềm báo trước về ngày tận thế.

Một số người cho rằng, những điềm báo trước đã xảy ra rồi, cho nên ngày tận thế sắp đến rồi.

Một trong những điềm đó là sự phát triển nhanh chóng của các loại vũ khí, đặc biệt nhất là một số quốc gia đang gặp chiến tranh.

Thí dụ, như trên thế giới ngày nay có đến cả hàng chục quốc gia, với những mưu toan chiến tranh, chất chứa những chất nổ nguyên tử, có thể làm cho thế giới trở nên tối tăm trong giây phút.

Chỉ cần một lầm lỗi nhỏ, hoặc một người nào đó tức giận…, thì cả hàng triệu triệu người, thậm chí là cả thế giới, có thể sẽ tan biến mất.

Tất nhiên, không một người khôn ngoan nào lại gây ra những điều điên khùng như vậy. Nhưng, trên thế giới này, chuyện gì mà lại không có thể xảy ra…

*****

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra trước mắt chúng ta hai chủ đề.

- Thứ nhất, cuộc sống của chúng ta có thể kết thúc bất chợt, và

- Thứ hai, hãy tích cực chuẩn bị cho sự kết cuộc đó.

Đó là lý do tại sao mà Giáo Hội lại đặt để những chủ đề này, vào ngày cuối năm Phụng Vụ.

Hai chủ đề trên nhắc nhở chúng ta, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ Ngài, trước khi Ngài rời bỏ thế gian, rằng:

- cuộc sống ở thế gian này ngắn ngủi.
- chỉ còn một cách là phải chuẩn bị cuộc sống vĩnh cửu sau này cho thật kỷ.

Vì thế, chúng ta không nên dính líu quá sâu vào vào cuộc sống thế gian này, mà đánh mất đi cái nhìn về cuộc sống mai sau.

Không một ai biết được lúc nào thì cuộc sống của mình sẽ chấm dứt, hoặc lúc nào là tận thế, nhưng chỉ có một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi.

Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn tỉnh thức chuẩn bị, để đón chờ giây phút tận cùng đó.

- Nó sẽ đến khi chúng ta không ngờ.
- Nó sẽ đến cách bất chợt, mà chúng ta chỉ có một ít thời gian hoặc là không có thời gian để chuẩn bị.

Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay.

Không một ai trong chúng ta có thể biết được khi nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng.

Lạy Chúa, xin cho con sống mỗi ngày, như thể là ngày sau hết của đời con. Amen.

---------------------------------

 

Bài 18: Tiêu chuẩn để được cấp hộ chiếu Nước Trời

Chuyện Minh Họa Tin Mừng Chúa Nhật Bài 182
Thường Niên 34-B Lễ Chúa Kitô Vua


Bạn thân mến,

Ngày xửa ngày xưa, có 2 anh em cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay.

Mỗi tối về, họ chia đều hoa lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người anh có vợ và nhiều con cái.

Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình, còn anh ấy phải nuôi cả vợ và các con nữa”.

Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình, đem đổ vào kho của người anh.

Gần như đồng thời, người anh cũng sực nghĩ: “Thật không không bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này”.

Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm thầm lấy bớt số lúa thóc của mình, đem đổ vào kho của người em.

Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai đều rất ngạc nhiên thấy phần lúa thóc của mình đã được bổ sung trở lại, không hề bị hao hụt. Song họ không hiểu tại sao.

Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường, khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.

Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy được loan lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đường cho thị trấn, họ đã quyết định chọn đúng chỗ, mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt móng cho thánh đường, bởi họ nghĩ rằng: Không thể  có chỗ nào khác trong thị trấn linh thánh hơn chỗ này.

*****

Vua Giêsu là Vua Tình Yêu, nên chỉ có những ai sống yêu thương, thì mới được ở trong vương quốc của Người.

Hai anh em trong câu chuyện trên đây quả xứng đáng là thần dân của Vua Giêsu Tình yêu.

Trong Tin Mừng hôm nay Thường Niên 34, Lễ Chúa Kitô Vua (Phúc Âm Năm A: Mt 25,31-46; Năm B: Ga 18, 33b-37; Năm C: Lc 23, 35-43), Đức Giêsu mô tả cho các môn đệ thấy trước về ngày cánh chung:

Lúc đó, Người sẽ ngự đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu. Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển. Muôn dân sẽ qui tụ trước mặt Người, Người sẽ tách biệt họ, như mục tử tách biệt chiên và dê. Chiên bên phải và dê bên trái.

Thế là quá rõ, Đức Giêsu vừa là Vua vũ trụ, vừa là thẩm phán thế gian. Người tuyển chọn các con dân của Người bằng một phương cách thật bất ngờ, đến nỗi những con chiên ngoan đạo của Người, cũng không thể ngờ tới:

“Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?”.

Hóa ra là, từ bấy lâu nay, Chúa hiện thân trong người đói khát, khách lạ, mình trần; trong kẻ đau yếu, tù đày, mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. 

Tiêu chuẩn để được cấp hộ chiếu Nước Trời thật đơn giản:

Hãy làm những nghĩa cử yêu thương cho anh em, nhất là những người cùng khổ, vì chính Chúa đã đồng hóa mình với họ.

Đức Giêsu nói:

“Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta”.

Người ta sẽ phải tách biệt ra, chiên hoặc là dê, người lành hay kẻ dữ, người thánh thiện hay kẻ tội lỗi.

Điều đó căn cứ vào việc “làm” hay “không làm” những nghĩa cử yêu thương cho những ai đang cần trợ giúp.

Người ta sẽ phải “ra đi chịu cực hình muôn kiếp” hay là “ra đi để hưởng sự sống muôn đời”, cũng chỉ dựa vào tiêu chuẩn duy nhất ấy, “làm” hay “không làm” những nghĩa cử yêu thương cho những kẻ bần cùng, bất hạnh.

*****

Nếu Vua Giêsu ở trong cung vàng điện ngọc, xa rời quần chúng, thì người ta có lý do để thoái thác không làm, không phục vụ anh em.

Nhưng Người luôn ẩn thân trong những người nghèo hèn, khốn khổ; mà họ đông vô số kể, lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta, thì việc “không làm một cái gì đó” cho anh em khi họ cần đến, lại là một án phạt muôn đời, cho những kẻ vô tâm, vô tình.

Nếu Vua Giêsu chỉ xét xử thần dân của Người dựa trên tình yêu, thì ai không biết động lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của anh em mình, không dám cho đi những gì mình có, để cứu giúp những kẻ khốn cùng, không dám xả thân phục vụ những con người bất hạnh, thì họ không thể nào là công dân của Nước Trời.

Chúng ta sẽ không giàu có, vì những gì mình đã nhận lãnh, mà chỉ vì những gì mình đã trao ban.

Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.

Nếu con tim chúng ta không đam mê tượng vàng rực rỡ, thì chúng ta sẽ có khả nămh yêu cuộc đời nhiều hơn, sẽ tha thiết sống trọn vẹn hơn cho anh chị em chung quanh mình. Và cỏ cây quanh ta lại xanh tươi, nắng chan hòa ấm cúng, con tim reo vui hạnh phúc.

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng loài người giống hình ảnh Chúa và cứu chuộc loài người bằng máu Ðức Kitô.

Xin dạy con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi người đói khát, vô gia cư, rách rưới, đau yếu, tù đầy.

Xin tha thứ những lần con bịt tai, nhắm mắt trước những nỗi thống khổ và rên xiết của người lầm than, bất hạnh, vì tính ích kỉ và lười biếng của con.

Xin ban cho con một trái tim biết rung động, để con biết đáp ứng nhu cầu con người của họ. Amen.

----------------------------------

Những sách cha Mễn đã in (71 cuốn):
như lương thực tinh thần hổ trợ bà con qua lại thời Covid
từ khi nhà thờ không có thánh lễ, không có giảng dạy, không có các lớp Giáo Lý và không có các sinh hoạt đoàn thể....

https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).

*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...

*** Và  bạn cũng có thể chép đường link trên: https://...  gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.


---------------------------------

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (10 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên  – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10


II. – Chuyện đời chuyện đạo: (17 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề  được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12

13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14

15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17


III. - Chuyện kể cho các gia đình: (30 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27

28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30


IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8


V. – Kho sách quý: (6 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6


----------------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây