*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 409 -------------------------------------
Bạn thân mến,
Ở một ngôi làng nhỏ tại Ba Lan, có một nhà thông thái được nhiều người nể trọng. Dân làng thường tìm đến ông để tâm sự, để chia sẻ với ông những nỗi phiền muộn trong cuộc sống mình.
Hằng ngày ông lão nghe rất nhiều nỗi phiền muộn trong từng gia đình. Họ cho rằng, ông trời không công bằng, khi để cho họ mang quá nhiều gánh nặng, so với những người hàng xóm. Nào là:
- Tại sao ông ấy thảnh thơi hơn tôi?
- Tại sao chồng chị ấy lại chăm chỉ, còn chồng tôi lại ngày đêm nhậu nhẹt ?
- Tại sao vợ của tôi chỉ thích đi mua sắm, còn vợ của anh ấy thì lại đảm đang lo cho gia đình?
- Tại sao tôi phải mang căn bệnh nan y này, còn ông hàng xóm thì sống bê tha, mà lại tỉnh bơ phây phây?
- Dù tôi không làm gì sai trái, nhưng tại sao đời tôi vẫn không được bình an như ông kia?...
Đó là những nỗi phiền muộn trách cứ, mà dân làng tìm đến với ông, để nhờ ông lão giúp tìm câu trả lời.
Sau một thời gian, ông lão nảy ra một sáng kiến như sau:
Ông tổ chức một ngày hội. Trong ngày ấy, mỗi người hãy chuẩn bị một cái bao, với tên của mình được ghi ngoài bao.
Mỗi người dân trong làng hãy mang nỗi phiền muộn của mình, những khó khăn của mình, và “đặt” tất cả chúng vào trong cái bao ấy và treo chúng lên một cây, có tên gọi là “cây phiền muộn” ở giữa làng, nơi sẽ diễn ra lễ hội.
Sau khi chờ mọi người treo “bao phiền muộn” của mình lên cây xong, họ có quyền chọn bao của người khác và mang nó về nhà.
Việc tìm kiếm, trao đổi “bao phiền muộn” rất sôi nổi, vì ai ai cũng muốn bỏ đi cái bao của mình và tìm cái bao “nhẹ” hơn, “dễ chịu” hơn của người khác.
Sau một hồi tìm kiếm, ai cũng tìm được cho mình một cái bao mang về, mà theo họ là vừa ý nhất.
Nhưng khi về đến nhà, những “bao phiền muộn” mà họ ôm lấy từ người khác, cũng chẳng khác gì bao nhiêu, so với cái “bao phiền muộn” của họ.
Không ai bảo ai, người dân làng hiểu ra rằng: Ai ai cũng phải mang nỗi phiền muộn, không ai nặng hơn ai và không ai nhẹ hơn ai.
Cách tốt nhất là đừng tìm cách đổi chác hay chạy trốn khỏi chúng, nhưng chấp nhận nỗi phiền muộn của mình, như là phương cách giúp họ đồng cảm và chia sẻ thân phận làm người với nhau.
Họ cũng nhận ra rằng: Khi cảm thấy nỗi đau của đồng loại, là lúc họ trưởng thành hơn, biết yêu thương nhau hơn, và từ đó, họ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống nhiều hơn.
*****
Bạn thân mến,
Câu chuyện trên đây minh họa cho chúng ta thấy: Việc chạy trốn nỗi khổ đau, hay tìm phương cách để thay đổi chúng, không phải là cách tốt nhất để hóa giải sự đau khổ, sự phiền muộn trong đời mình.
Theo Đức Phật, đời người là biển khổ:
“Sinh khổ, hủy diệt khổ, chết khổ, và không sở hữu được điều mình muốn cũng khổ.”
Chúng ta có thể ví đau khổ và phiền muộn trong kiếp người, như con rắn rượt đuổi mỗi chúng ta.
Nếu chúng ta không dừng lại và can đảm đối diện với nó, thì một lúc nào đó, chúng ta sẽ bị kiệt sức, với trò rượt bắt này.
Chỉ có phương cách duy nhất là chấp nhận nó, đón nhận nó và sống chung với nó từng ngày, như là một phần của cuộc đời ta.
Với một cảm nghiệm siêu phàm, thánh Gioan Thánh Giá đã khuyên chúng ta, những ai đang gặp khó khăn đen tối trong cuộc đời, với những lời khuyên rất tâm huyết:
- Hãy tìm kiếm sự khó khăn lớn nhất, thay vì tìm sự dễ dàng thoái mái… - Hãy sẵn sàng mang lấy bất lợi, sự cô đơn, hơn là tìm sự thuận lợi, an ủi…”
Thật là nghịch lý và khó hiểu, khi chúng ta học hỏi những suy nghĩ và lối sống của các bậc thánh nhân, nhưng đó là con đường, mà họ đã đi qua, với bao kinh nghiệm xương máu.
Chính trong kinh nghiệm xương máu, với lòng can đảm đón nhận và ôm chầm lấy đau khổ muộn phiền, họ đã gặp được niềm vui vô cùng lớn lao, mà như thánh Gioan Thánh Giá gọi là: “Ôi đêm tối ngọt ngào và dịu êm.”
*****
Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về cái “bao phiền muộn” của chính mình.
Ngoài những phiền muộn do ngoại cảnh gây ra, chúng ta thường phải đối diện với sự phiện muộn xuất phát từ trong chính lòng mình.
Sự phiền muộn, mà mình đang gánh chịu, có thể là vì một điểm chuẩn hay một ước vọng xuất phát từ con tim của mình, mà mình chưa đạt được, hay chưa sở hữu được.
Cũng có khi sự phiền muộn của mình là do mình ước mong được như một người nào đó, với cung cách của một ai đó, với lối sống và suy nghĩ như một ai đó, mà ta lại không đạt được như ý.
Ta vô tình lấy họ làm điểm chuẩn cho đời ta. Ta mong muốn ta được như họ (về một khía cạnh nào đó). Bao lâu ta không được như họ thì ta phiền muộn, thì ta đau khổ.
Càng phiền muộn hơn, khi ta cứ nhìn những bất toàn của ta và ta đâm ra nản lòng, buông xuôi, bỏ cuộc, và thất vọng.
Thật ra, ta đâu có hiểu, những con người xem chừng như rất là lý tưởng ấy, cũng đang trăn trở và cũng đang phiền muộn một khía cạnh nào đó trong đời họ, mà ta không biết đó thôi.
Hiểu như thế, để ta cảm nghiệm được giá trị hiện tại đang có nơi chính con người mình.
Do đó hôm nay, ta hãy khẳng định với lòng mình rằng:
Giây phút này, hoàn cảnh này, vị trí này của ta, là hoàn cảnh tốt nhất, hoàn hảo nhất cho chính con người của ta, cho cuộc đời của ta. Ta không cần phải tìm kiếm ở đâu cho xa, hay bận tâm so sánh ta với ai khác, mà ta chỉ cần cố gắng hết sức mình phát huy những đức tính và những khả năng của ta đang có, để chúng được vươn lên và được tươi nở tốt đẹp hơn thôi.
Lạy Chúa, xin giúp con biết tự tin hơn, về số vốn liếng mà Chúa đã ban cho con khi con bước vào trần gian này, để trong mọi hoàn cảnh, con biết tận dụng chúng sao cho thật khôn khéo, sao cho thật tốt, để phát huy hết sức mình những tài năng và những vốn liếng Chúa ban, hầu có thể sinh ích lợi cho con và cho mọi người, như Chúa mong muốn con thực hiện.
Một tư tưởng ngồ ngộ của linh mục Jude Siciliano OP, khi viết bài suy niệm về bài Tin Mừng theo thánh Luca 15,1-32, nói về người con trai hoang đàng, đã làm cho chúng ta phải chú ý, đó là Ngài nói:
Cả “người con” lẫn “người cha" đều “hoang đàng”:
“Nếu từ ‘hoang đàng’ có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn Luca 15,1-32, cũng đều là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha thì hoang phí về tình thương, còn người con thì hoang phí về tiền bạc, về của cải vật chất.”
Người con hoang phí
Người con thứ hoang phí, hoang đàng như thế nào, thì dụ ngôn đã nói rõ: Nó đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ nhà ra đi, ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo, mà chủ không cho. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả: Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài cực kỳ hoang phí.
Người cha hoang phí
Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con trở về. Cuối cùng, đứa con đã trở về thật.
Nhưng nó quyết trở về chỉ vì chẳng có ai tiếp nhận nó, nó quyết trở về chỉ vì chẳng có ai là chỗ dựa để nó nương tựa tấm thân, nó quyết trở về chỉ vì chẳng còn có chỗ nào chấp nhận nuôi dưỡng nó, nó quyết trở về chỉ chẳng còn người bạn nào tiếp đón.
Nhưng không sao cả, nó trở về là cha nó vui mừng vui lắm rồi.
Nếu chúng ta là cha nó, người cha không chấp nhận hoang phí vì nó, thì người cha sẽ xử lý theo 1 trong 3 cách này:
1. Ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói thẳng với nó: “Mày hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại điều gì tốt cho gia đình, ngoài sự nhục nhã thôi. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi, mày đem cả gia đình này ra làm trò cười cho thiên hạ. bao nhiêu người bàn tán, đàm tếu, trêu chọc. Cả nhà không dám vác mặt đi đâu hết.”
2) Ông cũng có thể làm thinh, không thèm để ý đến sự có mặt của nó. Cách này là một hình phạt thật nặng nề nhất đối với đứa con trở về.
3) Ông có thể thử thách đứa con, bằng việc chấp nhận lại nó một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: “Xin hãy xử với con, như một người làm công trong gia đình.”
Nhưng người cha trong dụ ngôn đã đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên.
Thay vào đó, ông đã vui mừng sung sướng như một đứa trẻ nít, khi thấy mẹ đi chợ về. Ông còn trút như mưa trên đứa con, bao cử chỉ mạnh mẽ, rất tích cực, rất khác thường, để chứng tỏ tình yêu khoan dung tha thứ, mà ông dành cho con mình.
Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ đang bối rối còn bất động, thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn: Nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.
Ông quả thật là một người cha quá phung phí:
- Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. - Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. - Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng linh đình, với bê béo, với nhảy múa, đàn ca, múa hát vui nhộn, để đón tiếp đứa con đi hoang trở về.
Làm như thế, ông chẳng sợ hàng xóm cười chê sao!
Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương: Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý.
*****
Tin Mừng Gioan 3,16 có ghi:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian quá sức, đến nỗi đã tặng ban chính người Con Một yêu quý của mình cho thế gian…”
Yêu gì, mà đến nỗi đem con, mà là con một nữa, trao tặng cho người khác?
Giải thích có nổi không?
Mà có lý lẽ nào có thể giải thích được tình yêu ?
Chỉ có tình yêu, mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Nhiều người không chấp nhận lối hành xử một cách phung phí về lòng tốt của Thiên Chúa, theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”.
Nhưng lại có một dụ ngôn khác trong Kinh Thánh (Mt 13,4-9; Mc 4:3-9; Lc 8:5-8) giúp chúng ta hiểu thêm về lòng tốt của người cha này, đó là dụ ngôn người gieo giống. Ông này cũng đã phung phí quá sức.
- Ông tung gieo những hạt giống, hạt thì rơi xuống vệ đường, hạt bị kẹt trong bụi gai, hạt vươn vãi trên sỏi đá, rất phóng khoáng, rất phung phí, và chỉ có một số ít hạt rơi vào đất tốt.
Ta mà có gieo giống thì chắc là không dám phung phí như vậy đâu. Nhưng dưới góc độ lòng thương xót của Chúa đối với con người chúng ta, nhất là đối với những tội lỗi, thì Chúa bao giờ coi đó là hoan phí.
*****
Những kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng cho thái độ của chúng ta:
Như người anh cả, chúng ta cứ nghĩ rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ khen thưởng người có công, và nghiêm khắc phạt kẻ có tội.
Nhưng, như người anh cả, chúng ta không hiểu rằng: Thiên Chúa không thể đứng yên, mà nhìn cảnh con người bị hư mất, và chấp nhận sự thất bại trong ơn gọi làm người, do chính Ngài trao ban khi tạo dựng nên con người.
Ngài không có quyền gìn giữ, yêu thương, quí mến, nâng niu những tội nhân trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao?
Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ, để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Có một hội từ thiện kia xây dựng một trung tâm nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trung tâm, như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v. một hội viên phát biểu: "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi, thì tốn phí bao nhiêu cũng đáng".
Một người khác hỏi tại sao, thì ông này đáp: "Bởi vì một trong các thiếu niên hư hỏng ấy chính là con của tôi".
*****
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu, coi Chúa Giêsu như một người con phung phí, hoang đàng theo Phúc Âm, một cách thật thú vị:
"Sau khi đã hạ mình xuống, ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngôi Con đã phung phí hết thời giờ của Ngài, hòa mình với những người đau ốm, tật nguyền, với những người tội lỗi. Ngay cả với những bọn gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài.
Sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một tên bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria ngoại giáo, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; và sau khi đã phung phí tất cả mọi sự, ngay cả đến thân xác và máu của Ngài; và cuối cùng khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới tận đáy của sự tuyệt vọng, Ngôi Con này còn muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Chúa Cha, và sau khi đã phung phí hết tất cả, đến cạn kiệt, Ngôi Con đã phải thốt lên trên thập giá: 'Ta khát'.
Ngôi Con đã yên nghỉ trong bụi đất và trong bóng đêm của sự chết.
Ba ngày sau Ngài đã Phục Sinh, đã trỗi dậy từ chiều sâu của ngục tối, nơi Ngài đã xuống, để mang lấy những tội lỗi của chúng ta, để gánh hết những đau thương của chúng ta.
Cuối cùng, Ngài đã đứng thẳng, và kêu lên: 'Phải, Ta lên Trời với Cha Ta, cũng là Cha của các con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con'. Và Ngài đã trở về Thiên Đàng (như một người con hoang đàng trở về nhà cha trong dụ ngôn).
*****
"Trong sự thinh lặng, chiêm ngắm tất cả con cái loài người, trong Người Con (Ngôi Con), từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, thì Người Cha mới nói với các tôi tớ:
'Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người 'Con Hoang Đàng' của Ta, đã mang tất cả mọi người trở về... với Cha.
"Và tất cả họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài, đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”
Chúng ta nhắc lại câu nói của hội viên trong câu chuyện: "Đừng ngại phí tổn gì hết, bởi một trong những thiếu niên hư hỏng đó chính là con tôi”
*****
Chúa Cha rất hoang phí lòng thương xót, miễn là cứu được đứa con hoang đàng, là tất cả chúng ta trở về.
Hãy trở về với Chúa Cha, Đấng hoang phí lòng thương xót, và nhất là hãy bắt chước Chúa Cha, mà hoang phí lòng thương xót đối với những anh chị em khác, nhất là, đó lại là những người thân yêu trong gia đình chúng ta đang gặp khó khăn. Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con hiểu cho đúng về lòng thương xót của Chúa, để từ đó, chúng con biết quyết tâm tin tưởng, cậy trông, phó thác một cách tuyệt đối vào lòng thương xót vô biên của Chúa, để tất cả chúng con cũng được ơn cứu độ. Amen.
Mạnh Thường Quân là tay nhà giàu, đã cho rất nhiều tiền và đã cho rất nhiều người, ở rất nhiều nơi khác nhau vay mượn,.
Một hôm Mạnh Thường Quân sai Phùng Nguyên sang đất Tiết để đòi nợ.
Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”.
Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì mà nhà ta chưa có thì mua”.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi tất cả dân làng lại và bảo: “Bà con mắc nợ chủ tôi bao nhiêu, hôm nay Mạnh Thường Quân chủ tôi sẽ xóa nợ tất cả cho bà con”.
Rồi chẳng cần xem giấy nợ vốn lời, Phùng Nguyên đem tất cả các văn tự của bà con ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân:
“Thấy ở nhà ngài không thiếu cái gì hết, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa, cho nên, tôi đã đem tất cả số tiền bạc của ngài ở đất Tiết, mà mua ơn nghĩa hết rồi. Tôi chắc là đẹp như ý ngài”.
Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân làng ở đây nhớ ơn xưa, nên rủ nhau ra đón rước ngài đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
“Đây hẳn là cái ơn nghĩa, mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
******
Nghe câu chuyện này, có lẽ mọi người chúng ta đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng: Phùng Nguyên đúng thực là người quản lý Trung Tín và khôn ngoan.
Trung Tín, là vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ.
Khôn ngoan, là vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài.
Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, mà Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
*****
Người quản lý trong bài Tin Mừng theo thánh Luca 16,1-13, tuy được Chúa Giêsu khen là khôn ngoan, nhưng lại không Trung Tín.
Khôn ngoan, bởi chỉ trong một thời gian ngắn, mà anh ta đã khéo léo, nhanh nhẹn, ứng biến, để tìm ra phương thế thật tốt, để chuẩn bị cho mình trong tương lai thật an toàn.
Nhưng ông ta lại không Trung Tín, bởi vì ông đã phung phí, đã làm hại tài sản của chủ.
Tuy Chúa Giêsu khen người quản lý này là khôn khéo, thông minh, nhạy bén, nhưng Chúa đã không khen cái tính gian giảo, thủ đoạn, thiếu trung thực của ông.
Chúa ước mong tất cả chúng ta, những con cái của sự sáng, con cái của Chúa cũng phải biết thông minh, nhạy bén, khôn khéo trong việc tìm kiếm Nước Trời.
*****
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là do Chúa ban cho: Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc, thời gian… đều không phải của ta. Ta chỉ là người quản lý chúng thôi.
Một người quản lý Trung Tín, thì phải biết gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ, không phung phí, không làm thất thoát, mất mát, hay hao hụt.
Còn người quản lý khôn ngoan thì sẽ tìm mọi cách để làm sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản của chù ngày càng gia tăng.
Thí dụ: Về tiền bạc, thì cần phải làm cho sinh lợi ở ba mức độ này:
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo, có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc hơn về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu: Biến tiền của hay hư nát ở đời này, thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời.
Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán theo kiểu thế gian, để có thể đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén, đầy quảng đại, theo tinh thần Phúc Âm.
Ta nên nhớ: Tạo lập gia sản trên trời, thì khác sẽ với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng sự thu gom, tích lũy.
Ngược lại, gia sản trên trời được tạo lập bằng việc phân phát cho đi.
Để tích lũy tài sản nơi trần gian, thì ta phải tiện tặn, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân, hơn là nghĩ đến lợi ích cho người khác.
Để tích lũy gia sản trên trời, thì ta phải rộng rãi, hào phóng, nghĩ đến người khác, hơn nghĩ đến bản thân mình: Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời.
Người nghèo, như trong kinh thánh cho biết là chính Chúa Giêsu đã hóa thân thành người nghèo (Matthêu 18,5). Cho nên, khi ta giúp đỡ người nghèo, làta giúp Chúa, là ta chuyển tiền về Thiên Quốc.
Qua trung gian của người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát của ta sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu Trên Trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm.
Hãy xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan của Phúc Âm.
Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
Hai vợ chồng nhà kia làm ăn giàu có, song tính rất hà tiện.
Trong nhà còn có một cha già, đã ngót 80 tuồi. Ông cụ sức đã yếu, mắt đã mờ, chân tay run rẩy… nên lúc ngồi ăn thường làm rơi chén cơm, làm bể chén đĩa. Con dâu thấy thế bực mình, xúi chồng rầy cha đến nhức xương.
Báo hại, ông cụ tuy mắt mờ, nhưng tai thính, nên nhiều lúc ngồi ăn, mà nước mắt chan cơm.
Vì cụ cứ làm bể chén hoài như vậy, nên vợ bảo chồng đẽo một cái chén bằng gỗ cho cha dùng để đỡ khỏi tốn kém. Từ đó cho tha hồ mà rơi.
*****
Một ngày kia, vợ chồng đi xa về, thấy thằng con trai loay hoay đẽo cái gì, liền tới xem, thì thấy nó đang làm hai cái chén gỗ.
Vợ chồng hỏi: con đẽo hai cái chén gỗ làm chi vậy?
Thằng bé trả lời: Để sau này cha má về già, con cho ba má ăn, giống như cha má đã làm cho ông nội vậy.
Sững sờ và xấu hổ trước câu nói của con, từ đó hai vợ chồng hối hận, và đã nuôi nấng cha già rất tử tế.
Theo truyền thống của nền văn hóa Việt Nam và qua ảnh hưởng của các Đạo lớn như Khổng Giáo, Nho Giáo và Phật Giáo, cha ông tổ tiên của chúng ta đã tích lũy được những tinh hoa cốt lõi trong cách ứng xử ở đời.
Chúng ta có cách học làm người qua:
- Tam Cương (Sự liên hệ bổn phận giữa Vua với Tôi, Cha Mẹ với con cái và giữa Vợ với Chồng),
- Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín),
- Tam Tòng (Ở nhà theo cha mẹ, lấy chồng theo chồng và khi chồng qua đời thì theo con),
- Tứ Đức (Công, Dung, Ngôn và Hạnh).
Đạo Hiếu được đề cao, để giữ sự tôn ti trật tự trong đời sống gia đình.
Người Kitô hữu còn được học biết nền văn minh Kitô Giáo. Đặc biệt là các giới răn về thờ phượng Thiên Chúa và tôn kính mẹ cha.
Điều răn thứ tư trong mười điều răn được Thiên Chúa trao cho ông Moisen, dạy chúng ta là hãy thảo kính cha mẹ.
Sách Lêvi cũng nhắc nhở chúng ta: Thấy người đầu bạc, ngươi phải đứng lên, ngươi phải kính trọng người già cả: như vậy là ngươi biết kính sợ Thiên Chúa của ngươi (Lêvi 19:32).
*****
Truyện xưa kể:
Bá Du, đời Hán, nổi tiếng là chí hiếu. Mỗi khi có lỗi bị mẹ đánh. Bá Du vẫn tươi cười nhận lỗi.
Một ngày nọ, sau khi bị mẹ đánh đòn. Bá Du liền òa lên khóc. Bà mẹ ngạc nhiên hỏi: Tại sao mẹ đã nhiều lần đánh con để răn dạy, mà con không khóc, thế tại sao nay con lại khóc?
Thưa mẹ, những lần trước mẹ đánh con đau lắm, nhưng con không khóc vì biết sức mẹ còn mạnh. Lần này mẹ đánh con, tuy không đau nhưng con lại khóc, vì con biết là sức mẹ đã già yếu rồi. Con khóc là vì thương mẹ, chứ không có ý oán hờn.
Người ta thường nói: Con hơn cha là nhà có phúc. Cha mẹ nào mà không mong con khỏe mạnh, thông minh và thành đạt trong cuộc sống. Cha mẹ hy sinh tần tảo ngày đêm nuôi con và mong từng ngày cho con lớn khôn. Con khôn, con lớn và con ngoan là nguồn vui của cha mẹ.
Sách Châm Ngôn đã dạy: Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái chính là cha mẹ. (Cn. 17:6).
Dân gian truyền đạt rằng: Kính lão đắc thọ. Ông 70 vẫn phải học ông 71. Một ngày sống là có thêm một kinh nghiệm. Con cái có thông minh giỏi giang, học biết các khoa học xã hội, có các bằng cấp cao, học vị cao, nhưng để thành nhân, mỗi ngày đều phải học hỏi nhiều. Học biết cách sống từ kho tàng Lời Chúa, từ trường học, trường đời và từ người khác. Ai cũng có thể trở thành thầy dạy của chúng ta.
Người ta nói: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư là thế.
Có mẩu truyện xem ra tình cờ, nhưng mà cũng chẳng ai có thể ngờ tới được.
Số là, gia đình của một đôi vợ chồng trẻ, mới mua được một ngôi nhà mới, khá khang trang và rộng rãi. Bà mẹ rất vui mừng, vì ngôi nhà mới này sẽ là cơ hội để cho cả gia đình được thường xuyên xum họp, nhờ được sống tự do riêng rẽ, không bị phiền hà như cuộc sống ở chung cư như xưa nay.
Nhà mới có ba phòng trên lầu một, tầng trệt có phòng khách rộng, và tầng hầm khá rộng, dùng làm kho, để chất chứa những đồ đạc lỉnh kỉnh.
Gia đình thì có đông con và các con thì còn nhỏ, cho nên việc phân chia nhau phòng ốc sao cho phù hợp.
Hai vợ chồng muốn cho mẹ mình được tự do, ở một mình, không bị quấy rầy, không bị phiền phà, nên đã bố trí cho mẹ một phòng nhỏ ở tầng trệt, tiện nghi cũng tương đối tươm tất.
Ở tầng trệt, mẹ không phải leo thang và cũng dễ dàng ra vào tùy thích. Trước cửa phòng mẹ lại có phòng khách rộng rãi, có bộ salon nệm khá tiện cho mẹ nghỉ lưng khi mỏi mệt.
Vợ chồng và các con nhỏ thì ở lầu trên. Cha mẹ và con cái được ở cạnh bên nhau sẽ rất tiện tiện cho việc trông nom, chăm sóc, giáo dục dạy dỗ.
Con cái cháu chắc thì vui mừng bên nhau, nhưng lòng người mẹ già phải ở tầng trệt thì lại héo hon, và cảm thấy rất cô đơn, buồn tuổi vô chừng.
Rất nhiều lần người mẹ đã than thở:
Tụi con bỏ mẹ ở một mình dưới tầng trệt, còn tụi con tất cả thì lại ở trên lầu, cao ráo, thoáng mát.
Vì những lời thở than này được lập đi lập lại triền miên, nên người mẹ già đã ăn không ngon, ngủ không yên, và sức khỏe của bà ngày qua ngày đã xuống dốc trầm trọng ngó thấy…..
Phận làm con, phải xử thế nào cho đúng phép bây giờ ????
Ai trong chúng ta cũng mong muốn được sống khỏe và sống lâu. Thiên hạ tìm kiếm mọi nguồn bổ dưỡng để giúp kéo dài sự sống.
Các loại quảng cáo đi tìm cuộc sống thọ: nào là sâm bổ lượng, nhân sâm ngàn năm, thuốc bổ trường sinh, thuốc trẻ mãi không già…
Nhưng rồi tử thần chẳng trừ một ai, kẻ trước người sau, lần lượt phải ra đi. Chúng ta thử tưởng tượng: Nếu người già mà cứ sống mãi trên đời, thế giới này sẽ ra sao?
Sách Giảng Viên viết: Một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây (Gv 3:2).
Dù sống trong tuổi nào, chúng ta cũng đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chính Ngài mới là chủ của sự sống con người. Ngài rút hơi thở, là sự sống con người biến đi.
Tiên tri Isaia nhắc nhở rằng: Cho đến khi các ngươi già nua tuổi tác, trước sau gì Ta vẫn là Ta; cho đến khi các ngươi da mồi tóc bạc, Ta vẫn còn gánh vác các ngươi. Như xưa nay Ta vẫn từng đối xử: Ta đã nâng niu, gánh vác các ngươi, và ban ơn cứu thoát (Is. 46:4).
Đây là một kinh nghiệm và cũng là một câu truyện có thật trong cuộc sống đời thường.
Có gia đình kia, sau khi sang đất nước tự do, làm ăn khá giả và bảo lãnh cha mẹ sang xum họp với gia đình.
Thật tội nghiệp ông bà già, ngôn ngữ tiếng tăm chẳng rành, văn hóa cũng không thông, cách ăn mặc giao tế lại rất quê mùa, cách cư xử lại quá cổ hủ và không biết xử dụng các loại máy móc tân kỳ.
Ở với vợ chồng đứa con được ít tháng, và vì sự khác biệt lối sống và sự phiền hà trong cuộc sống, gia đình gây gỗ bất hòa. Không nhịn được nữa, con cái đành phải quyết định cho cha mẹ ra riêng.
Vào một chiều mùa đông giá rét, người con trai chở cha mẹ đến một cái nhà mới thuê. Mở cửa xe và thả ông bà cụ xuống với một va li quần áo, con đưa chìa khóa nhà cho Ba và rồ máy chạy mất hút.
Làm gì bây giờ, vắng vẻ và cô đơn, ba mẹ không biết than van cùng ai.
Ngoài trời thì lạnh lẽo, ông bà liền vội mở khóa cửa, bước vào nhà. Hai ông bà như rơi vào thế giới xa lạ, đèn điện thì không thông, bếp núc thì chẳng rành. Biết làm sao bây giờ? Ông bà chỉ biết ôm mặt khóc thương cho số phận hẩm hiu.
Ai có dịp vào thăm Viện Dưỡng Lão, thì sẽ thấy sao mà có quá nhiều người già ngồi trên xe lăn, mắt cứ hướng ra phía cửa vậy.
Hỏi ra mới biết: Các cụ đang trông ngóng con cháu đến thăm viếng.
Tuổi già và nỗi cô đơn đi liền với nhau. Con cái có thể lấy gì mà bù lấp vào trái tim của những mảnh đời cô đơn lạnh giá này.
Chúng ta vẫn thích nghe nói: Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Công cha nghĩa mẹ đâu hết rồi, mà để cha mẹ tủi thân một mình nơi quê người, xứ lạ.
Gia đình ông bà kia có đến 8 đứa con, nhưng con cái không thể chăm sóc và đành gởi bố mẹ trong Viện Dưỡng Lão.
Ai cũng có gia đình riêng để phải chăm lo và săn sóc.
Người ta thường nói: Cha chung, không có người khóc.
Cha mẹ là của chung, không ai muốn nhận cha mẹ về phần mình để nuôi nấng. Vì vậy Viện Dưỡng lão đã trở thành Viện Mồ Côi cho các ông cụ, bà cụ cô đơn.
Người đời thường nói: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
*****
Sống trên đời, cũng không tránh khỏi những gương mù gương xấu. Có những người đã lớn tuổi, nhưng cuộc sống vẫn bê tha trong lầm lạc. Họ có thể bị nghiện ngập, ma túy và rượu quấy phá.
Có khi họ đắm mình trong vui hưởng lạc thú.
Đôi khi họ bị rơi vào những cuộc vui chơi đen đỏ cờ bạc, làm lụn bại gia phong.
Cho nên ông Job đã chia sẻ kinh nghiệm này:
Không phải tuổi tác làm cho người ta được khôn ngoan, và cũng chưa chắc người già cả đã phân biệt được phải trái (Job 32:9).
Nghe truyện này tưởng đâu nói đùa cho vui, nhưng là câu truyện thật.
Ông bà cũng đã tới tuổi thất tuần và sống đời gia đình gương mẫu. Họ đã có dâu, có rể và có con cháu đầy đàn.
Thế rồi bỗng một ngày đẹp trời, bà vợ nghĩ đến mấy đứa cháu đang sống khổ sở ở quê nhà. Bà đề nghị với ông là tạm làm giấy ly dị, để về quê làm giấy kết hôn giả, đưa cháu của bà qua đất nước tự do này.
Nghe hơi lạ làm sao ấy, nhưng rồi ông cũng vâng lời bà.
Chuyến về quê hương suôn sẻ và thủ tục giấy tờ hợp lệ. Thế là ông đưa cháu qua tới Mỹ.
Lửa gần rơm mà, ông cầm lòng sao nổi, mà đứa cháu trẻ xinh đẹp quá. Thật là già, mà không nên nết.
Hôn nhân giả giữa ông và cháu, đã trở thành hôn nhân thật. Ông bà tuy đã làm giấy tờ ly dị giả, giờ đây đã trở thành ly dị thật rồi. Bà vợ chỉ còn cách kêu trời.
Tốt danh hơn lành áo, sống ở đời, ai mà không muốn để lại danh thơm tiếng tốt cho hậu thế. Nhất là trong đời sống gia đình, chúng ta biết rằng trông quả thì biết cây. Cây tốt sẽ sinh trái tốt. Cha mẹ nhân đức, đạo hạnh sẽ sinh hoa quả tốt lành nơi con cái.
Tục ngữ dạy rằng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Không phải tự nhiên, mà gia đình chúng ta có được những tấm gương thánh thiện và anh hùng. Vì rằng cây có cội, nước có nguồn. Nguồn trong thì nước mới sạch.
Thánh Vịnh diễn tả tâm tình của người chính trực như sau:
Người công chính vươn lên, tựa như cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Libăng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn (Tv. 92:13-15).
*****
Đời tận hiến, đôi lúc cũng có truyện không vui.
Nghe câu nói: Cha còn trẻ, cha thiếu kinh nghiệm. Cha già rồi, cha nên về hưu đi là vừa. Thật là đau lòng và bức xúc.
Tôi nghiệm thấy tuổi già thật không đơn giản, nhất là các vị tu hành sống đời độc thân.
Nếu về hưu dưỡng, được chung sống trong Nhà Dòng, thì đó quả là một hạnh phúc, vì có cộng đoàn nâng đỡ, chia sẻ, cầu nguyện cho nhau và cùng nhau cầu nguyện.
Mới đây, tôi chứng kiến ba linh mục già xấp xỉ tuổi về hưu, tôi cảm thấy thật cám cảnh.
Một linh mục chưa kịp tới tuổi về hưu thì đã ngã bệnh. Thế là tất cả những dự tính, những gom góp và những chắc chiu lâu nay đã bị rơi vào túi người khác. Nào có ai biết ? Thế là, cha phải nằm bệnh cô đơn một mình, chờ ngày Chúa gọi.
Một linh mục khác, đã hưu được vài năm, nhưng vì không có gốc gác, do rời bỏ giáo phận gốc, không qua giáo quyền, nên cũng phải lang thang nơi này nơi nọ, ở đậu nhà này qua nhà khác, bị con cháu coi thường và khinh bỉ, bị rẫy bỏ và sau cùng đổ bệnh phải đi vào Viện Dưỡng lão, sau ít tháng thì qua đời.
Có linh mục khác, một đời oanh liệt, là tuyên úy trong quân đội, chức cao quyền trọng, khi về già đã đến được đất nước tự do.
Cha sáng lập và phục vụ Cộng Đoàn Việt Nam, lo toan đủ thứ cho mọi người giáo dân xum họp và sống đạo.
Nhưng tuổi già rồi làm sao đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của giáo dân, thế là ngài bị tẩy chay và bỏ rơi.
Tuổi vừa kịp về hưu đã ngã bệnh, đau đớn xa đoàn chiên và chết một mình tại bệnh viện.
Bao nhiêu tuổi mới được gọi là sống thọ. Người ta thường phân biệt tuổi đời qua trung thọ, đại thọ và thượng thọ.
Trong các dịp lễ Thành hôn và Vu quy, chúng ta thường chúc cho cô dâu, chú rể: Trăm năm hạnh phúc, sống ba vạn sáu ngàn ngày hạnh phúc, sống tới tóc bạc răng long, hoặc có con cháu ba bốn đời.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước có ghi nhận:
Ông Ixaác sống được một trăm tám mươi năm. (Stk. 35:28).
Bây giờ, tôi đã được tám mươi lăm tuổi. (Josuê 14:10).
Tác giả Thánh Vịnh đã viết:
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi (Tv. 90:10).
Thế nào là sống đạo Hiếu và sống luân lý đạo đức Kitô hữu?
Bố sống đủ rồi, đã trên 90 tuổi, vậy là quá thọ. Chúng con chỉ muốn lo cho bố được mọi sự tốt đẹp. Khi bố qua đời, có đông người thăm viếng và tiễn đưa bố tới nơi an nghỉ cuối cùng. Bố bị bệnh già, thay đổi theo từng ngày và lúc khỏe lúc yếu. Rồi một ngày bố bị tai biến, nhưng bố còn tỉnh, khuôn mặt bố còn hồng hào và mắt bố vẫn còn nhìn trìu mến.
Chúng con không muốn bố phải kéo dài sự sống trong tình trạng này. Chúng con đồng ý với bác sĩ không truyền thức ăn lỏng vào thân xác cho bố nữa. Nghĩ rằng bố sẽ ra đi sớm kết thúc đúng ngày, như chúng con dự liệu, cho thuận lợi mọi bề trong công ăn việc làm.
Thế nhưng qua 7, 8 ngày rồi, bố vẫn còn rất tỉnh. Vệ sinh cho bố rất sạch sẽ. Bởi có ăn uống gì đâu mà không sạch chứ!
Chúng con đã cắt nguồn thực phẩm nuôi sống bố rồi. Bố không còn cầm cự được nữa, ngày thứ 9, bố nhìn chúng con lần cuối, với sự yêu thương chan hòa và bố đã nhắm mắt lìa đời.
Chúng ta biết rằng: Sự sống dài ngắn không quan trọng. Quan trọng nhất là sống làm sao cho có ý nghĩa. Những ngày tháng trôi qua của cuộc đời nên để lại những dấu ấn tình yêu nơi lòng người.
Chúng ta hãy trân quý từng giây phút, mà chúng ta được sống. Bởi mỗi phút giây trong cuộc sống đời này, đều là những giây phút Chúa ban.
Thực hiện được gì, chúng ta hãy làm ngay và đừng để đến ngày mai.
Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu.
Công ơn cha mẹ như trời, như biển. Ơn cưu mang, ơn sinh thành, ơn dưỡng dục và ơn chăm lo dạy dỗ và yêu thương, con biết lấy gì mà đáp đền cho cân?
Lạy Chúa, xin Chúa chúc lành cho gia đình chúng con, cho ông bà cha mẹ và tất cả chúng con.
Xin cho chúng con luôn biết cố gắng sống trong bình an của Chúa, trong ơn nghĩa của Chúa và trong tình yêu của Chúa. Amen.
Vào một buổi chiều đẹp trời chan hòa gió và nắng, chàng trai và cô gái đã vô tình gặp nhau, khi đang cùng đi dạo trên hành lang ở một bệnh viện.
Ngay từ giây phút đầu tiên, ánh mắt họ chạm nhau, hai trái tim non trẻ bỗng chốc đập loạn nhịp, tiếng sét ái tình đến với họ trong một hoàn cảnh thật trớ trêu.
Cả hai cùng đang lâm bệnh nặng, không có cách nào cứu chữa được. Họ đọc trong mắt nhau cả một sự tuyệt vọng vô bờ bến.
Có lẽ vì cùng trong một hoàn cảnh, nên dù chỉ mới nói chuyện, nhưng dường như đã có cảm giác quen thuộc như hai người bạn đã quen từ lâu.
Và cũng từ đó, những ngày tháng ở trong bệnh viện, họ như hai chiếc bóng không xa rời nhau, ngày ngày cùng nắm tay ngắm mặt trời mọc, rồi chiều xuống ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ. Hai trái tim đang yêu, như được tiếp thêm sức mạnh tràn ngập hạnh phúc và hy vọng, họ không còn cảm thấy bi quan và tuyệt vọng về cuộc sống nữa...
Cuối cùng, cũng đến một ngày, chàng trai và cô gái cùng được thông báo rằng: bệnh tình của họ đã trở nên rất nguy kịch, không còn khả năng cứu chữa nữa, họ chỉ còn đếm sự sống bằng từng ngày, từng giờ. Bệnh viện cũng bất lực trả họ lại về cho gia đình.
Đêm cuối cùng trong bệnh viện, họ cùng nắm chặt tay nhau không nỡ xa rời, cùng hẹn ước: sẽ không bao giờ quên những ngày tháng khó quên ở đây và hẹn sẽ luôn viết thư cho nhau để duy trì liên lạc.
Đó là cách duy nhất để hai trái tim luôn được xích lại gần nhau và cả hai sẽ tiếp cho nhau thêm nghị lực để cùng chiến đấu với sự sống và cái chết đang gần kề. Họ nhìn vào mắt nhau tràn đầy niềm tin và hy vọng...
Cứ thế, ngày tháng chậm chạp trôi đi, những lá thư họ gửi cho nhau vẫn không hề vơi cạn. Từng dòng từng chữ đối với họ đáng quý biết chừng nào, họ động viên nhau, gửi đến nhau những lời yêu thương, hy vọng, những dự định của tương lai, những niềm mơ ước.
Cả cô gái và chàng trai đều như quên đi nỗi đau đớn bệnh tật đem lại, họ sống trong hạnh phúc, lạc quan và niềm tin vô bờ...
Nhưng rồi ba tháng sau đó, bệnh tình của cô gái trong phút chốc trở nên nguy kịch, và cô đã lặng lẽ ra đi, trên tay cô nắm chặt lá thư của chàng trai, miệng cô vẫn đọng lại một nụ cười mãn nguyện:
"... Nếu phải đối diện với vận mệnh, đối diện cái chết, em hãy đừng sợ nhé! Hãy đừng lo lắng, đừng sợ hãi! Bởi vì vẫn còn có anh luôn ở bên em, vẫn còn rất nhiều người thương yêu em ở bên em, sẽ che chở cho em, và cùng em vượt qua những chặng đường khó khăn này. Hãy vững vàng lên! Đừng khóc, dù là địa ngục hay thiên đường, chúng mình sẽ không bao giờ xa rời...".
Mẹ của cô gái run rẩy cầm lá thư của chàng trai trên tay cô òa khóc. Bà biết cô đã ra đi rất thanh thản.
Ngày thứ hai sau hôm cô gái mất, mẹ cô phát hiện thấy trong ngăn kéo bàn học của cô có một tập thư đã dán tem nhưng chưa gửi. Bức thư trên cùng viết: "Gửi cho mẹ".
Bà run run mở thư, đúng là nét chữ quen thuộc của con gái:
"Mẹ thân yêu của con. Có lẽ đến lúc mẹ nhận được lá thư này thì con đã đi rất xa rồi. Nhưng con vẫn còn một tâm nguyện chưa hoàn thành được. Con đã có một lời hẹn ước với một người con trai là con sẽ cùng anh ấy chiến đấu với bệnh tật và cùng nhau vượt qua những ngày tháng cuối cùng này. Nhưng con biết con không thể thực hiện được lời hứa đó. Cho nên sau khi con đi rồi, mẹ hãy thay con tiếp tục gửi những lá thư này cho anh ấy, để anh ấy có thêm nghị lực mà tiếp tục sống, những lá thư này đối với anh ấy rất quan trọng, nó sẽ mang lại niềm tin cho anh ấy. Chỉ cần anh ấy biết con còn khỏe, anh ấy sẽ không từ bỏ con mà ra đi, sẽ còn tiếp tục chiến đấu, tiếp tục sống...".
Nhìn những dòng di thư cuối cùng của con gái, bà mẹ cô gái đã theo địa chỉ trên lá thư tìm đến nhà chàng trai.
Vừa vào đến nhà, đập vào mắt bà là tấm di ảnh của chàng trai đặt trên bàn thờ.
Trong phút chốc, bà cứ nhìn tấm ảnh đó đứng bất động tê dại.
Một lúc sau, một người phụ nữ bước ra, khuôn mặt tiều tụy khắc khổ, vẻ đau đớn vẫn chưa xóa hẳn trong ánh mắt vô hồn của bà, đó là mẹ của chàng trai. Bà cầm ra một tập thư dày đưa cho mẹ của cô gái:
"Đây là những bức thư con trai tôi để lại, nó đã mất cách đây một tháng. Nhưng nó vẫn nói với tôi: nó còn có một người con gái cùng cảnh ngộ đang đợi thư nó từng ngày, vẫn đang cần nó tiếp thêm nghị lực để tiếp tục sống. Cho nên những ngày tháng qua, mỗi tuần tôi vẫn thay nó gửi một bức thư đi cho cô gái đó...".
Nói đến đây, mẹ của chàng trai lại nức nở òa khóc. Mẹ cô gái hai mắt cũng ướt sũng từ độ nào, bà nhẹ nhàng tiến lại choàng tay ôm mẹ chàng trai vào lòng, nghẹn ngào nói:
"Bà yên tâm, rồi chúng nó sẽ được gặp nhau trên thiên đường, như đúng lời hẹn ước...".
****
Giêsu ơi, con đã nhỏ lệ khóc cho cuộc tình buồn của chàng trai với cô gái đoản mệnh, những giọt nước mắt, thương vay khóc mướn cho người, mà quên khóc cho chính mình, một kẻ xa lạ với tình yêu thánh thiêng Chúa dành cho con.
Bất hạnh hơn cô gái, vì con đã không trân trọng đủ tình yêu của người đã yêu mình, yêu cho đến chết và chết để con được sống.
Bất hạnh hơn cô gái, vì con đã chẳng bao giờ có thời gian, để đọc những lá thư tình Giêsu để lại cho con trước khi ra đi. Những trang Kinh Thánh sao mà xa lạ, khô khan, khó hiểu vì Lời Chúa khó hiểu, hay vì con không nâng niu đọc nó như những lá thư tình?
Con không có thời giờ nghiền ngẫm những lá thư tình, vì con bận phải “sống”, mà quên đi rằng: những cánh thư tình đó mang thêm sức sống mới cho con và dạy con cách sống trọn vẹn hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con siêng năng lần mở những trang Kinh Thánh, như nuốt trọn những lời yêu thương, mà Chúa đang muốn nhắn gởi tới con. Và ước chi, như cô gái, con được chết với những lá thư tình, với những lời hẹn ước trên tay. Amen!
-----------------------------
Lời bàn: Được sống và được yêu thương, đó là những điều kì diệu nhất, mà con người có được. Hãy quý trọng những gì bạn đang có, đừng để đến khi không còn nắm giữ được nó, bạn sẽ thấy hối tiếc.
Câu chuyện tình buồn, nhưng nó lại nhắc cho ta lý do vì sao ta phải sống... để được yêu thương!
Ở trung tâm thành phố nọ, trên một con đường sầm uất, đông người qua kẻ lại. Có một chiếc xe hơi hào nhoáng, dừng lại trước một tiệm kem. Một cô bé xinh xắn, với chiếc váy may bằng vải đất tiền, nắm tay mẹ bước xuống xe. Cô bé chạy vội vào tiệm kem và vòi vĩnh với mẹ:
- Con không muốn loại kem có mùi trái cam, vì nó không ngon. Con cũng không muốn loại kem quá ngọt!
Mẹ cô bé nói:
- Con thích loại kem nào, thì con có thể chọn theo ý của con.
Trong tiệm có quá nhiều loại kem, mỗi loại có màu sắc, hương vị khác nhau, trông rất đẹp mắt và hấp dẫn.
Sau khi đã chọn lựa, cô bé ưng ý một cây kem dâu và đưa ngay lên miệng mút…
Cây kem dâu vừa được đưa vào miệng, cô bé vội nhăn mặt phụng phịu nói:
- Kem không ngon, con không ăn đâu, nó không có đâu phọng ở bên trong !
Mẹ cô bé không chút do dự, cầm cây kem ném xuống đất. Họ khúc khích cười với nhau, rồi cùng bước lên xe. Chiếc xe bắt đầu chuyển bánh, cuốn hút trong khu phố đông người ….
Cây kem còn lại dưới đất, không chỉ có một mình, mà bên cạnh nó còn có hai đứa bé, mặt mũi lem luốc, họ là hai anh em.
Người anh vội lượm lấy cây kem lên, không dám ăn ngay, cây kem mà hằng ngày cậu bé cứ đứng trước cửa tiệm kem, dòm vào mà ao ước…
Cô bé gái cũng không khác gì anh mình, cũng muốn được đụng chạm, ngắm nhìn thứ là lạ, mà đối với cô bé chưa một lần đươc nếm thử.
Cô bé dằng lấy trong tay anh và vì lỡ tay, cây kem văng ngay vào lỗ cống gần đó. Cô bé òa lên khóc nức nở, vì tiếc cây kem.
Thấy em khóc, cậu bé dỗ em:
- Đừng khóc, năm ngón tay của anh vẫn còn dính kem, anh cho em mút ba ngón tay, còn hai ngón kia là phần của anh nhe .
*****
Bạn thân mến!
Bạn làm việc bằng nỗ lực của mình, bạn hoàn toàn có quyền đươc hưởng thoải mái những thành quả của mình một cách chính đáng. Đó là bức tranh màu hồng tươi sáng của cuộc đời, hay màu xanh của hy vọng.
Nhưng trong đời sống quanh chúng ta, không phải lúc nào cũng có những màu sắc tươi vui như vậy đều khắp. Nếu như bạn bỏ ra một vài giây, để quay lưng nhìn lại phía sau mình một chút, thì bạn sẽ thấy cuộc sống quanh ta cũng có những bức tranh có màu sắc khác hẳn:
Còn có rất nhiều người đang sống trong sự thiếu thốn, khó nghèo, bệnh tật… vì thiên tai, vì nhân họa… đã mang đến cho họ.
Đôi lúc, trong tủ đựng quần áo, trong tủ đựng thức ăn… của bạn, có những áo quần, những vật dụng, mà bạn lâu lâu mới đụng tới, hay chẳng bao giờ đụng đến nữa. Thế là chúng đành phải chịu cảnh nằm nguyên trong một góc tủ nào đó trong lãng quên, chỉ vì bạn không vừa ý. Hoặc là những thức ăn dư thừa mà bạn đã cho vào thùng rác một cách vô tư...
Vậy mà ở khắp mọi nơi trên thế giới, cũng có thể ở ngay gần bên cạnh bạn, có những người đang nghèo đói, thiếu thốn, bệnh tật… họ đang rất cần đến những thứ đó, họ rất cần đến sự giúp đỡ của bạn.
“Lá lành đùm lá rách”, chúng ta hãy mở rộng tấm lòng của mình, để giúp đỡ cho những ai đang trong cơn hoạn nạn, khó khăn trong cuộc sống, tùy theo khả năng của mỗi người . *****
Lạy Chúa! Con xin lỗi Chúa, vì nhiều khi con đã quá vô tâm, quá ích kỷ và quá hời hợt trước những khó khăn của anh chị em sống xung quanh con.
Xin cho con biết thương yêu tha nhân như chính Chúa đã thương yêu con. Cho dù với khả năng nhỏ bé của con, cũng xin cho con biết mở to đôi mắt ra, để nhìn thấy những khó khăn của những anh chị em sống chung quanh con. Và xin cho con biết mở lòng ra, để giúp đỡ họ, những con người đang cần đế bàn tay mở rộng của con. Amen!
Một câu chuyện cổ tích, mà có lẽ nhiều người trong chúng ta, ai ai cũng đều biết: Đó là chuyện Công Chúa Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn.
Câu chuyện đã nói lên sự việc này:
Nàng công chúa thì dịu hiền, nhưng luôn bị bà hoàng hậu (mẹ kế) tìm cách hãm hại.
Bà hoàng hậu có một thái độ tự tôn quá đáng. Bà tự hào: mình là người đẹp nhất, không ai có quyền vượt qua bà.
Nhưng sự thật không phải thế. Bà đã không bao giờ đạt được như ý muốn. Không bao giờ bà thỏa mãn được tham vọng của mình, vì bà luôn đố kỵ, luôn tìm cách so đo mình với người khác, muốn mình vượt lên trên tất cả.
Chính cái tôi ích kỷ, cái tôi tự tôn đó đã làm hại bà.
Cả cuộc đời, bà không bao giờ được bình an, được yên ổn: Bởi bà luôn tìm cách để hãm hại người khác, để loại trừ người khác, để mình được vươn lên.
Cuối cùng, bà không thể tồn tại được trong sự đố kỵ đó.
Còn nàng công chúa hiền dịu, phải chịu bao sự oan khiên khốn khó, nhưng với lòng chân thành, nàng đã được hạnh phúc.
*****
Trên đây là hai thái độ của cuộc đời đáng ta suy nghĩ:
Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Luca (Lc. 18, 9-14) kể lại chuyện người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Hai người này diễn tả cho chúng ta thấy hai cách cầu nguyện, hai thái độ sống trong xã hội.
- Một người đến đền thờ cầu nguyện, nhưng anh ta chỉ đến là để khoe khoan công đức của mình. Đồng thời anh ta lại chỉ trích người khác trước mặt Chúa.
Anh ta chỉ nhìn thấy chính mình là người đạo đức, thấy mình đã làm được những việc lành này, thấy mình làm được những việc tốt kia, để rồi hãnh diện, để rồi khoe khoan, để rồi tự hào.
Nhưng anh đã không hề nhận ra những gì mình đã và đang có, là đến từ Thiên Chúa, là do Thiên Chúa ban cho.
Anh cũng không hề nhìn thấy những thiếu sót, những khiếm khuyết, những lỗi lầm của mình.
Đã thế, anh còn so sánh, moi móc, soi mói những điều xấu, những điều dỡ, những hèn kém, những yếu đuối, những lỗi lầm của người khác.
Anh cũng không chịu mở to đôi mắt ra, để nhìn thấy bên cạnh anh còn có biết bao nhiêu người giỏi giang hơn anh, tốt hơn anh, thánh thiện hơn anh, đạo đức hơn anh, hoàn hảo hơn anh.
Anh ta chỉ biết có mình thôi. Ngay cả Thiên Chúa trước mắt anh, Đấng mà anh đến để cầu nguyện, mà anh cũng chẳng thấy. Nói đúng hơn, dường như anh coi Thiên Chúa cũng chẳng là gì đối với anh, bởi những công đức của anh đã che lấp đi tất cả.
*****
Còn người kia (người thu thuế, hạng người mà xã hội lúc bấy giờ đánh giá là bọn xấu xa, hạng người tội lỗi), cũng đến đền thờ cầu nguyện, nhưng anh ta không có gì để khoe khoan, anh ta chỉ có con tim chân thành, chỉ nhìn thấy những yếu kém của mình, những lỗi lầm của mình, những thiếu sót của mình, chỉ thấy sự hư không của mình thôi trước Đấng Tối Cao.
Từ đó, anh ta chỉ biết trông cậy vào Tình Thương bao la của Đấng mà anh đang cầu nguyện. Anh không còn nhìn thấy mình nữa, mà trước mắt anh chỉ thấy có Đấng làm cho anh tất cả mọi sự. Anh chỉ biết xin sự khoan dung và tha thứ.
Trong Tin Mừng, chúng ta nghe Chúa Giêsu nói:
"Người này ra về thì được khỏi mọi tội, còn người kia thì không".
*****
Nghe qua câu chuyện, chắc chúng ta cũng cảm thấy khó chịu cái thái độ của người biệt phái kiêu căng. Và có lẽ chúng ta cũng tự nhủ: mình không giống như hắn.
Chính trong giây phút này, coi chừng chúng ta đang mang tâm trạng giống như người biệt phái đó rồi:
Giống trong thái độ loại trừ, giống trong thái độ khó chịu với người khác, giống trong thái độ chỉ nhìn thấy cái xấu của người khác.
Thử nhì lại ta xem:
- Người biệt phái có nhiều điều rất đáng tự hào: anh ta ăn chay, bố thí, anh ta chu toàn lề luật rất tốt. Nhưng chính vì thái độ của anh ta đang làm, mà những công trạng của anh ta trở thành vô giá trị trước mặt Chúa.
Còn chúng ta, tuy không thể so sánh được với người biệt phái về công trạng, nhưng chúng ta lại cũng có chút so sánh, cũng có chút tự hào, cũng có chút hãnh diện, cũng có chút tài năng, cũng có chút công trạng, cũng làm được một số việc tốt lành này khác.
Nhưng nếu xét lại cho kỷ trước mặt Chúa, những công việc đó có đáng là gì chăng, có đáng để ta tự hào không, nhất là khi so sánh với những người chung quanh, thì thực tế chúng ta còn thua xa rất nhiều người.
Nhất là những thứ ta có đó, là do Chúa ban cho, chứ của riêng gì ta, để mà ta so sánh, để mà ta tự hào ?
Nếu nhìn sâu hơn nữa, tội lỗi chúng ta đã từng xúc phạm đến Chúa và đến những người chung quanh, màì nếu đem chất lên bàn cân, thì nó sẽ như thế nào, so với những viện đạo đức cỏn con chúng ta đã làm được ?
Vậy chúng ta còn dám tự hào trước mặt Chúa được nữa không?
Những lần đến trước mặt Chúa cầu nguyện, được bao nhiêu lần chúng ta ra về mà được khỏi tội, và bao nhiêu lần chúng ta ra về với tiếng “không được tha” mà Chúa Giêsu đã nói về người biệt phái.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn lựa thái độ sống sao cho phù hợp, sao cho xứng đáng là một người con hiếu thảo trước mặt Chúa và là anh em của mọi người, để mỗi việc làm, trong từng giây phút sống của cuộc đời con, sẽ là những giây phút cầu nguyện, phát xuất từ lòng biết ơn, và từ lòng thống hối chân thành.
Một hôm, có vị Quận công vào thăm trại tù. Ông là người tốt lành, nhân hậu. Khi ông đến, ông đã hỏi thăm các tù nhân về tội trạng của họ.
Ông lấy làm ngạc nhiên: Vì các tù nhân ông hỏi, ai ai cũng đều nói mình vô tội. Người thì nói là bị cáo gian, kẻ thì nói là vì lòng ghen tỵ mà người ta thêu dệt tội trạng để bỏ tù mình, có người còn nói tại quan toà thích bỏ tù thì kết án, chứ anh ta có làm gì sai đâu!
Nhưng có một người đứng lên thú nhận tội mình: Thưa quận công, tôi là người có tội, trong lúc cần tiền, tôi đã đi ăn trộm, tôi thấy mình đáng bị phạt ở nơi này.
Lúc đó các bạn tù tranh nhau, lớn tiếng xỉ vả anh:
Anh thật tệ, anh không xứng đáng ở chung với những người vô tội.
Lúc đó, vị quận công nhìn anh với lòng thương xót và tuyên bố tha bổng cho anh.
Còn những người kia thì tiếp tục ở lại trong tù, để có thời giờ suy nghĩ về sự công chính giả hiệu của mình.
*****
Chúa Giêsu đến, không phải để cứu chữa người công chính, nhưng là để cứu người tội lỗi.
Hay nói một cách khác:
Ai khiêm tốn và nhận lỗi, sẵn sàng để cho Chúa khám bệnh và điều trị thói hư, lầm lạc của mình thì Chúa mới chữa được. Vì Chúa luôn tôn trọng tự do của con người.
Những người xưng mình là công chính, tự cho mình là đúng, không muốn nghe dư luận, không muốn sửa mình, kể cả những lời nhắc bảo của Chúa, họ cũng không muốn nghe, họ cố tình để ngoài tai, thì làm sao Chúa có thể chữa lành được họ.
Chúng ta biết: Chúa Giêsu, khi muốn chữa bệnh cho ai, thì Ngài thường hỏi:
“Con muốn ta làm gì cho con?”
Chắc chắn Chúa biết người đó phạm tội gì, bệnh tật gì. Nhưng Ngài muốn người đó phải tự thú nhận, và phải tự mình cầu xin ơn tha thứ.
Kế đó, Ngài mới ra tay chữa trị cho lành cả hồn, lẫn xác.
*****
Giakêu là mẫu gương về sự hoán cải thật lòng.
Giakêu biết tội mình, nhưng vì ông thấy nhiều luật sĩ và biệt phái hữu danh vô thực.
Tuy mang danh là đạo đức, nhưng thật ra, nhiều người biệt phái, luật sĩ, cũng tham lam, đâu có thua gì ông. Họ cũng ỷ quyền, cũng áp bức kẻ khác, cũng lạm quyền đâu kém gì ông, mà có khi, ông nghĩ, họ còn tệ hơn ông nữa!
Vì vậy, tuy ông biết việc mình làm là không đúng, nhưng ông nhất định không đến thú tội với bất cứ ai trong bọn người giả hình đó.
Tuy nhiên, thật may mắn cho ông, xu hướng muốn trở về với Chúa, vẫn thôi thúc lòng ông đêm ngày.
Ông là người thức thời: Ông nghe người ta đồn về một ông Giêsu, là một vị tiên tri đầy quyền năng, đối xử nhân từ với người thu thuế và tội lỗi, chứ không như bọn Luật sĩ, Biệt phái giả hình, khinh khi và loại trừ người thu thuế.
Vì thế, ông đã hỏi thăm kỹ càng về ngày giờ Thầy Giêsu sẽ đi ngang qua đó.
Đúng lúc đám đông theo Chúa Giêsu đi ngang, thì ông đã vội vàng trèo lên cây sung, để mong được nhìn thấy Thầy Giêsu, một người đầy lòng thương xót đối với các tội nhân, và cuối cùng, ông đã nhìn thấy Chúa.
Mà đúng hơn, Ánh Mắt Nhân Từ của Chúa đã nhìn thấy ông, trước khi ông nhận ra Ngài.
Ngài đã gọi đúng tên ông. Thật ngỡ ngàng quá. Ông những tưởng chỉ có lòng ông khao khát tìm gặp Chúa, ai nào ngờ Chúa lại thao thức đi tìm ông. Dường như Chúa biết tất cả về ông, về những tội lỗi và lòng chân thành sám hối của ông.
Thật quả đúng như lời người ta đồn đại và còn hơn thế nữa, Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Giakêu đã xúc động vô cùng, trước tấm lòng của vị chủ chăn đi tìm chiên lạc.
Ông chỉ còn biết thốt lên: Tôi đã làm thiệt ai trong thời gian qua, thì xin đền gấp 4 lần, còn phân nửa tài sản tôi, tôi xin chia cho kẻ nghèo khó.
Đối với Giakêu, cuộc đời của ông, nay đã được Chúa Giêsu cứu chuộc rồi. Cho nên của cải, tài sản, ông coi như phân phát hết cũng được, ông không cần gì khác nữa.
Ông đã nhận ra tình thương của Chúa rồi. Từ nay, cuộc đời ông đã tràn đầy ý nghĩa. Ông thấy cuộc đời mình đáng sống và cảm thấy hạnh phúc vô chừng trong tình thương cứu chuộc của Chúa.
Chúng ta hãy đọc chẫm rãi đoạn Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 19, 1 – 10), và hãy suy nghĩ thật kỹ, để cảm nhận được tình thương bao la của Chúa.
Dù chúng ta đang cảm thấy thấy mình là công chính, thì chúng ta cũng hãy xét mình thêm, xem mình đã đáp trả lại tình thương của Chúa có đúng mức chưa?
Chúng ta có dám nói như Giakêu: Nếu tôi có làm thiệt hại danh giá hay vật chất của ai, thì tôi xin đền gấp 4, và phân nửa tài sản của tôi, xin chia cho kẻ khó.
Rõ ràng, chúng ta chưa dám nói như vậy. Điều này cũng cho thấy là chúng ta chưa yêu mến Chúa bằng Giakêu.
Vì vậy, chúng ta phải dành thời giờ nhiều hơn, để lưu lại với Chúa sau mỗi thánh lễ, vừa để cám ơn Chúa sau khi rước lễ, đồng thời xin Chúa ban ơn biến đổi lòng ta, sao cho mỗi ngày ta được nên giống Chúa nhiều hơn nữa.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết nhận ra sự thật về chính mình con, để con được Chúa gột rửa cho nên trong sạch, cho nên hoàn hảo hơn, cho xứng đáng hơn nữa là môn đệ của Thầy chí thánh Giêsu.
Trong cuộc sống ngày nay, xin mọi người đừng quên rằng: Lòng nhân ái vẫn còn tồn tại.
Đây là một câu chuyện có thật đã xảy ra cách đây trên năm mươi năm, vào ngày 31/12, một ngày cuối năm, tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
*****
Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho nên đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt.
Ngày thường, đến chạng vạng tối, trên các đường phố, người người hãy còn tấp nập và tiếng ồn ào vẫn còn vang lên đều khắp.
Thế nhưng, vào ngày cuối năm, mọi người đều mau mau lo về nhà cho sớm, để kịp đón mừng giao thừa, đón năm mới.
Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ yên tỉnh lạ thường. Ông chủ quá phở Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ thì lại là một người rất lanh lợi, rất nhiệt tình, tiếp đãi khách như đón tiếp những người thân trong nhà.
Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ. Một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào, đứa nhỏ khoảng 6 tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ thì mặc cái áo khoác ngoài cũ kỳ đã lỗi thời.
- “Xin mời ngồi!”
Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:
- “Có thể… cho tôi một… tô mì được không?”
Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.
- “Đương nhiên… đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.”
Bà chủ đưa họ vào bàn số 2, rồi quay vào bếp gọi to:
- “Cho một tô mì bàn số 2.”
Ba mẹ con ngồi ăn chung một tô mì, trông rất ngon lành. Họ vừa ăn, vừa trò chuyện khe khẽ với nhau.
- “Ngon quá” - thằng anh nói.
- “Mẹ, mẹ ăn thử đi” - thằng em vừa nói, vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.
Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen:
“Mì thật là ngon ! Cám ơn !”
Rồi cả 3 mẹ con cúi chào chủ quán và bước ra khỏi quán.
- “Cám ơn các vị ! Chúc năm mới vui vẻ” - ông bà chủ cùng nói.
*****
Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn.
Hơn 10 giờ đêm, bà chủ toan đóng cửa quán thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời, liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng của năm ngoái.
- “Có thể… cho tôi một… tô mì được không?”
- “Đương nhiên… đương nhiên, mời ngồi!”
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số 2 như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- “Cho một tô mì bàn số 2.”
Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- “Vâng, một tô mì. Có ngay.”
Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- “Này ông, mình nấu cho họ ba tô mì có được không?”
- “Không được đâu, nếu mình làm thế chắc là họ sẽ không vừa ý đâu.”
Ông chủ trả lời thế, nhưng lại bỏ khá nhiều mì vào nồi nước lèo. Ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ:
“Trông bà bề ngoài khô khan, nhưng lòng dạ bà cũng không đến nỗi nào!”
Ông làm một tô mì to thơm phức, đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh tô mì, vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.
- “Thơm quá!”
- “Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì, thật là may mắn, hạnh phúc quá!”
- “Sang năm, nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!”
Ăn xong, họ trả một trăm năm mươi đồng, trước khi rời khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- “Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!”
Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán lại bàn luận tiếp theo đôi lúc về chuyện 3 mẹ con ăn chung một tô phở.
*****
Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn, đến nỗi không có thời gian nói chuyện.
Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả.
Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và đã ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường, ghi giá tiền của năm nay là “200đ/tô mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/tô mì”.
Trên bàn số 2, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy “Đã đặt chỗ”.
Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện. Hình như họ cố ý chờ cho khách ra về hết rồi mới đến.
Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- “Làm ơn nấu cho chúng tôi… hai tô mì được không?”
- “Được chứ, mời ngồi bên này!”
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy “Đã đặt chỗ” đi, sau đó quay vào trong la to:
“Hai tô mì bàn số 2”
- “Vâng, hai tô mì. Có ngay.”
Ông chủ vừa nói, vừa bỏ ba phần mì vào nồi.
Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi.
Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.
- “Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!”
- “Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?”
- “Chuyện là thế này:
Vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.”
- “Chuyện đó thì chúng con biết rồi” - đứa con lớn trả lời.
Bà chủ đứng bên trong, không dám động đậy để lắng nghe.
- “Lẽ ra, phải đến tháng ba năm sau, chúng ta mới nộp hết. Nhưng năm nay, mẹ đã nộp xong cả rồi!”
- “Hả, mẹ nói thật đấy chứ?”
- “Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ, nấu cơm, làm mẹ có thể yên tâm làm việc, nên công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt. Do đó, số tiền chúng ta còn thiếu, mẹ đã nộp xong hết rồi.”
- “Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.”
- “Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!”
- “Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều! “
- “Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết, đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết, nên hôm đó, con đã thay mẹ đến dự. ”
- “Có thật thế không? Sau đó ra sao? “
- “Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?”
Tiểu Thuần đã lấy đề tài tô mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết đại khái như sau:
“Ba bị tai nạn xe, mất đi, để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc…”.
Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa.
Lại còn: “Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một tô mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có thêm dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại trở nên nhẹ nhàng hơn”.
Vì vậy, Tiểu Thuần viết rằng:
Nguyện vọng của nó là sau này sẽ mở một tiệm mì, sẽ trở thành một ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản. Và cũng sẽ bắt chước vợ chồng chủ quán mà nói với khách hàng những câu rất khích lệ, rất dễ thương như: “Cố gắng lên ! Chúc hạnh phúc ! Cám ơn !”
*****
Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người, chăm chú lắng nghe ba mẹ con nói chuyện, mà nước mắt lăn dài.
- “Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: Anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.”
- “Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?”
- “Bởi vì quá bất ngờ, cho nên lúc đầu con cũng không biết phải nói gì cả, con nói: “Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ, nấu cơm, nên mỗi khi tham gia hoạt động đoàn thể gì đó, nó thường hay vội vàng, hấp tấp để chạy về nhà để giúp mẹ, điều này đã gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi, khi em con đọc xong bài văn, trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ, xin quí thầy cô hiểu cho em.
Mấy năm nay, vào ngày cuối năm, mẹ tụi con chỉ gọi một tô mì cho cả 3 cùng ăn, mà em co nhắt tới trong bài văn, đó là một sự thật, đó là cả một sự dũng cảm của mẹ. Anh em chúng con không bao giờ quên được… Anh em con tự hứa: sẽ cố gắng hơn nữa, để quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng, con nhờ các thầy cô tiếp tục quan tâm giúp đỡ cho em con.”
Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- “Cám ơn! Chúc mừng năm mới!”
Lại một năm nữa trôi qua. Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy “Đã đặt chỗ”, nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.
Năm thứ hai, rồi thứ ba, bàn số 2 vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại.
Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm đều được thay đổi, các bàn ghế đều được thay mới, nhưng riêng bàn số 2 thì vẫn được giữ lại nguyên như cũ.
“Việc này có ý nghĩa như thế nào?”
Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên thắc mắc.
Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện tô mì cho mọi người nghe:
Cái bàn cũ kia, được đặt ngay chính giữa quán, đó cũng là một sự hy vọng: Một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số 2 tuy cũ, nhưng đã trở thành “cái bàn hạnh phúc”.
Khi nghe chủ quan kể lại câu chuyện này, và mọi người ai ai cũng đều muốn thử ngồi vào “cái bàn hạnh phúc” này.
Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua…
Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình, sau khi đóng cửa, đều đã dắt người nhà đến quán Bắc Hải Đình để ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên.
Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay.
Hơn 9g30 tối, trước tiên, vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống.
Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn,… chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người.
Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số 2. Không ai nói ra, nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người thì bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất, đến chuyện nhà bên mới có thêm một chú nhóc nữa…
Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.
Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại.
Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách, vì quán đã hết chỗ, thì đúng lúc đó, một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên. Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:
- “Làm ơn… làm ơn cho chúng tôi ba tô mì được không?”
Gương mặt bà chủ quán chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai, chợt hiện về, và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây.
Đứng sau bếp, ông chủ như đang ngớ người ra, giơ tay, chỉ vào ba người khách, và lắp lắp nói:
- “Các vị… các vị là…”
Một trong hai thanh niên tiếp lời:
- “Dạ vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một tô mì, và nhận được sự khích lệ của tô mì đó, nên ba mẹ con cháu như có thêm nghị lức để sống.
Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ.
Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô.
Tháng tư năm sau, cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng.
Hôm nay, chúng cháu, trước là đến chào hỏi bệnh viện, và thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu.
Còn em cháu thì mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản đã không thành. Hiện cháu đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô.
Cuối cùng, ý định nung nấu từ bao lâu nay của chúng cháu, là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.”
Ông bà chủ quán vừa nghe, vừa gật đầu, mà nước mắt ướt đẫm trên mặt.
Ông chủ tiệm rau, ngồi gần cửa ra vào, đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:
- “Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay, để có ngày gặp mặt những vị này đó sao ? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!”
Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- “Ồ phải… Xin mời! Xin mời! Nào bàn số 2. Cho ba tô mì.”
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- “Có ngay. Ba tô mì. “
*****
Thật ra, cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành, mang tính khích lệ, động viên, chúc mừng.
Nhưng với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm đối với nhau.
Nhưng chính từ câu chuyện này, đã giúp tôi đi đến kết luận rằng:
Chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn và tôi có một chút quan tâm dành cho người khác, thì chúng ta có thể đem đến niềm vui và hạnh phúc cho rất nhiều người, mà không phài quá mất công hay tốn phí gì.
Chúng ta không nên nhỏ nhoi, ích kỷ, bởi tôi tin trong mỗi chúng ta, ai ai cũng đều có ẩn chứa một tấm lòng nhân ái.
Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên, dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét, trong đêm tối âm u, thì nó có thể mang lại sự ấm áp và ánh sáng soi cho mọi người.
*****
Lạy Chúa, đọc xong câu chuyện này, con rất xúc động và rơi lệ.
Xin cho con biết quan tâm nhiều hơn nữa, trong cách ăn nói và trong cách ứng xử, để cuộc sống của con trong những ngày sống ở trần gian này, sinh ích lợi cho con và cho mọi người, đời này và đời sau.
Sau 17 năm chung sống, bỗng vợ tôi muốn tôi đưa một người phụ nữ khác đi ăn tối và xem phim. Cô ta nói: "Em yêu anh, nhưng em biết có một người phụ nữ khác cũng rất yêu thương anh và rất muốn có những khoảng thời gian ở bên anh"
Người phụ nữ, mà vợ tôi nói đến, đó chính là mẹ tôi, hiện đang sống cô đơn từ 20 năm qua, thế mà tôi vì bận công tác và vì chuyện gia đình, nên thỉnh thoảng mới ghé thăm bà ở nhà dưỡng lão.
Đêm đó, tôi gọi điện để mời bà đi ăn và xem phim.
Bà ngạc nhiên và có vẻ lo lắng hỏi: "Có chuyện gì không con? Gia đình con ổn cả chứ?"
Mẹ tôi thuộc loại người phụ nữ hay lo lắng, cho rằng một cú điện thoại muộn hay một lời mời bất ngờ, luôn là dấu hiệu báo trước của những chuyện không lành.
Tôi trả lời: "Con nghĩ rằng, mẹ con mình sẽ rất vui khi có có những giây phút được ở bên cạnh nhau. Chỉ có hai mẹ con mình thôi"
Mẹ tôi suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Mẹ cũng rất thích điều đó".
*****
Chiều Thứ sáu, sau khi tan sở, tôi lái xe đến đón mẹ tôi.
Khi đến nơi, tôi nhận thấy mẹ tôi có vẻ bồn chồn, náo nức về chuyện mẹ con tôi cùng đi ăn tối chung với nhau. Bà đã đứng sẵn ở cửa tự lúc nào đợi tôi tới. Tóc bà uốn xoăn và mặc chiếc áo thật đẹp, áo mà bà đã mặc trong lần sinh nhật vừa qua, miệng thì cười rất rạng rỡ:
"Mẹ khoe với các bà bạn rằng: Mẹ sẽ đi ăn tối với con trai của mẹ và họ rất xúc động về điều này."
Khi đến nhà hàng, mẹ tôi khoác tay tôi, hãnh diện, bước vào như thể bà là Đệ nhất Phu nhân.
Sau khi an vị, tôi đọc menu chọn món, vì mắt mẹ tôi chỉ đọc được chữ to mà thôi.
Tôi bất chợt ngước lên và bắt gặp mẹ tôi đang nhìn tôi âu yếm. Một nụ cười buồn thoáng hiện trên môi bà: "Khi con còn bé, chính mẹ phải đọc menu chọn món".
Tôi trả lởi : "Bây giờ đến lúc mẹ nghỉ ngơi, để con đáp lễ cho mẹ chứ".
Trong suốt bữa ăn, mẹ con tôi nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, những kỷ niệm xa xưa từ thời nảo thời nao.
Thế nhưng, trông mẹ tôi rất thích và bà nói suốt, đến nỗi chúng tôi trễ mất buổi chiếu phim.
Khi về đến nhà, mẹ tôi nói: "Mẹ sẽ đi ra ngoài với con lần nữa, nhưng lần này phải để mẹ mời". Tôi gật đầu đồng ý.
*****
Vừa về tới nhà, vợ tôi hỏi ngay: "Bữa ăn tối của anh với mẹ thế nào ?"
"Tuyệt vời! Hơn cả mức anh có thể tưởng tượng".
Vài ngày sau, mẹ tôi qua đời vì bệnh tim. Chuyện đó xảy ra quá bất ngờ, đến nỗi tôi chẳng còn có cơ hội để làm điều gì đó cho mẹ tôi.
Một thời gian sau, tôi nhận được một lá thư, trong đó có bản sao hóa đơn của nhà hàng, nơi mà mẹ con tôi đã ăn bữa tối cuối cùng với nhau, kèm theo vài dòng chữ:
"Mẹ đã trả tiền trước cho hóa đơn này. Mẹ không chắc mẹ có thể đi ăn với con hay không. Nhưng không sao, mẹ đã trả tiền cho hai phần ăn - một phần cho con và một phần cho vợ con. Con không thể nào hình dung được bữa ăn tối hôm đó có ý nghĩa như thế nào đối với mẹ đâu. Mẹ yêu con, con trai của mẹ!"
Lạy Chúa, tình mẹ con là mối tình cao quí nhất trên đời. Con vẫn biết điều đó. Nhưng cái biết của con đã không mấy khi con nhớ để biến thành những hành động cụ thể, để làm một điều gì đó cho mẹ con, khi mẹ hãy còn sống ở trần gian này.
Con thường hay đổ lỗi cho công việc, cho cuộc sống xã hội quá tất bật, phải lo toan đủ thứ …. Nhưng rồi, ngày tháng cứ qua đi, cho đến ngày con sẽ hối hận thì đã quá muộn, đã quá trễ.
Xin cho con biết sống hiếu thảo thật sự với mẹ con, bằng những việc làm cụ thể, hôm nay, bây giờ, như chính Chúa đã dạy. Amen.
"Tôi là người con gái kế út trong gia đình chín anh chị em. Tôi không rõ ba tôi có phải là tín đồ Phật Giáo không, nhưng ba tôi rất thích phóng sinh các con vật, như chim, cá, rùa mỗi năm vài lần. Mỗi lần rất nhiều và tổ chức long trọng lắm.
Ba tôi rất thương vợ thương con, và rất ghét những gì là gian dối, đặc biệt là ba tôi luôn sẵn lòng giúp đỡ những người kém may mắn.
Má tôi thì hết lòng xây dựng gia đình, hết lòng thương con cái.
Tôi chưa hề thấy má tôi lớn tiếng la mắng con cái, nhưng luôn kiên nhẫn dùng lời lẽ, phân tách, giảng giải cho các con.
Má tôi là tín đồ Phật Giáo, rất sùng bái Phật Giáo và rất thương người.
Trong khi đó, nhìn ra lối xóm, thấy có nhiều người dữ dằn, nhiều người đàn bà lúc nào cũng sẵn sàng tuôn ra những lời chửi bới, nguyền rủa con cái hay người khác, cách độc ác, trong những người này, có nhiều người theo đạo Công Giáo.
Lớn lên, khi tôi đi học, tôi cũng gặp nhiều người bạn Công Giáo, những người này thường hay khinh miệt các tôn giáo khác, mà bản thân họ chỉ thấy cuồng tín, ích kỷ, chứ đời sống của họ không có gì chứng minh cho mọi người thấy đạo Công Giáo là hay, là tốt.
Do đó, đầu óc tôi mang những ý tưởng e dè đối với mấy người Công Giáo, cho tới khi trưởng thành, tôi vẫn luôn nghĩ là sẽ không bao giờ theo đạo Công Giáo.
Khi tôi quen chồng tôi, tôi không biết anh là người miền Bắc và lại là người Công Giáo, bởi anh nói rặt giọng Nam.
Anh đã lôi cuốn tôi, và đã cho tôi thấy được anh là người biết quan tâm tới cha mẹ và các em của anh, nên tôi nghĩ rằng anh có thể là người chồng tốt.
Tới khi biết anh là người Bắc và là người Công Giáo tôi rất phân vân. Tôi viết thư hỏi ý kiến ba má tôi. Ba má tôi để cho tôi tự do, và có lần còn khuyên tôi nên theo Công Giáo, để cho đồng vợ đồng chồng.
Chồng tương lai của tôi, tuy cũng thuyết phục tôi nhiều lần về đạo, nhưng tôi quyết không theo Công Giáo.
Làm sao tôi quên được những ám ảnh từ hồi còn nhỏ về những người Công Giáo kia.
Sau cùng ảnh nhượng bộ: “Đạo ai nấy giữ”, nhưng với vài điều kiện, là tôi phải chấp nhận theo giáo luật, như cho con được rửa tội, và dạy con theo tinh thần đạo, và không được cố tình ngăn cản anh theo đạo anh...
Tôi thấy mỗi bên nhượng bộ nhau một chút thì cũng là phải, nên tôi chấp nhận.
Trong thời gian này, tôi cũng đồng ý tham dự khóa Dự Bị Hôn Nhân, theo đề nghị của anh, để biết những bổn phận làm vợ, làm chồng và làm cha, làm mẹ, để việc giáo dục con cái cho tốt.
Nhờ đó, tôi quen biết và kính trọng các Linh Mục, nhất là cha bác của chồng tôi.
Tôi được làm lễ Gia Tiên, làm Hôn Phối trong Nhà Thờ, được các cha quan tâm, và tôi mến chuộng cách sống của chồng tôi, nhưng tôi vẫn không đổi ý, nhất quyết không theo Công Giáo.
Điều này làm phật ý bố mẹ chồng tôi, là những người Công Giáo gốc, tôi biết những tiếng xì xèo, bóng gió, nhưng tôi cứ nín thinh, cho tới khi sinh đứa con thứ hai, thì sự cay đắng với cha mẹ chồng đã vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi nảy mầm thù ghét đạo Công Giáo.
Thời gian này, tôi được hung tin từ Việt Nam: Má ruột tôi đã vĩnh viễn ra đi.
Nghe tin ấy, tôi đau buồn tới ngã quị. Người mẹ, mà tôi sùng bái như mẫu gương hy sinh đã không còn nữa. Người mẹ, mà từ ngày rời gia đình, tôi vẫn mang theo trong lòng, để có sức phấn đấu sống, nơi đất khách quê người.
Suốt mấy tháng trời, tôi sống thẫn thờ, tâm hồn tan nát, nước mắt tuôn tràn.
Vào lúc tôi ở trong tận đáy của đau buồn, thì Đức Mẹ đã đến để soi dẫn tôi.
Nếu tôi nhớ không lầm, thì sau khi chồng tôi điều đình và cùng nhau bàn bạc, thì tôi chiều ý chồng, tôi bằng lòng chuyện đón tượng Đức Mẹ vào nhà, dù tôi không rõ việc đón tượng Đức Mẹ đến nhà để làm gì.
Chiều ngày 22.7.1995, bác Phổ đưa tượng Đức Mẹ đến nhà tôi, có thêm vài gia đình trong khu xóm đến đọc kinh. Tôi không dự.
Tượng Đức Mẹ ở lại nhà tôi một tuần lễ.
Tối nào, chồng tôi cũng bế con, thắp nến, cầu nguyện cách rất sùng kính trước tượng này. Tôi để mặc, không nghĩ gì.
Rồi hôm thứ tư tuần đó, vào buổi trưa, sau khi đã dỗ cho hai đứa bé ngủ, tôi ngồi một mình ở ghế sôpha, nhìn lên tượng Mẹ, mà tâm hồn tôi thật trống vắng, tuy nhìn Đức Mẹ, mà tôi không có chút ý tưởng nào hết.
Đột nhiên, tôi như thiếp đi, tôi không thấy gì nữa. Bỗng tôi nghe như có tiếng một phụ nữ đang êm ái kể ra cho tôi nghe những nguy nan mà tôi đã trải qua, và chỉ cho tôi biết Thiên Chúa đã quan phòng, sắp xếp tất cả, để che chở bảo vệ tôi.
Tôi hỏi lại là Thiên Chúa biết các việc của tôi sao ?
Giọng người nữ đoan chắc điều đó. Rồi Người an ủi tôi, và cho biết là mọi thử thách đều đã qua, còn khen tôi là đã sống đẹp lòng Chúa...
Tới đây, tôi bừng tỉnh, tôi thấy mặt Đức Mẹ đẹp rạng ngời, với ánh mắt tha thiết đầy yêu thương, như bao dung, khích lệ.
Tôi nhận ra ngay là vừa rồi chính Đức Mẹ đã nói chuyện với tôi.
Hồn tôi bừng tỉnh nhận ra là ngoài người mẹ đã sinh ra tôi, tôi còn có một người Mẹ thánh thiêng ở trên Trời. Nước mắt tôi tuôn trào. Tôi đã khóc vì vui sướng, mà tôi không thể nào diễn tả được, tôi vui sướng đến chừng nào.
Tôi đã sốt sắng ghi tên vào lớp Dự Tòng. Nay tôi đã tin. Tôi nhiệt thành học hỏi giáo lý đạo Chúa. Thời gian thấm thoát, sau sáu tháng thì đã tới ngày vui: Ngày lễ mừng Chúa Phục Sinh năm 1996, tôi đã được nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, chính thức gia nhập đạo Công Giáo.
Tôi tạ ơn Đức Mẹ, cảm ơn các Linh Mục, và cám ơn những ai đã giúp tôi được gia nhập vào đạo Chúa.
Tôi hãnh diện là người Công Giáo.
Nhớ lại câu chuyện "Vết chân trên cát", rõ ràng là Chúa đã đi bên tôi trong những ngày tôi đau khổ. Chúa đã không chấp tội tôi mưu nghịch lại đạo Chúa.
Bây giờ tôi say mê đạo lắm, thích đi lễ để nghe giảng dạy. Tôi rất yêu đời, yêu mái ấm gia đình nhỏ bé đang được Chúa che chở.
Bây giờ tôi nhìn những người không sống đạo tử tế, tôi thấy tội nghiệp cho họ, mà không thấy khinh ghét họ như xưa nữa.
*****
Lạy Chúa, con xin hết lòng bái phục Chúa, vì sự Chúa đã quá kiên nhẫn đối với con, chờ đợi con, hướng dẫn con từng bước, để đưa con đến với Chúa, để con được làm con Chúa. Chúa không hề quan tâm hay ghét bỏ quá khứ của con, một quá khứ con thù ghét Chúa, con thù ghét đạo Chúa. Lạy Chúa, con xin hết lòng cám ơn Chúa.
Lạy mẹ Maria, Mẹ đã đến với con thật nhẹ nhàng, thật êm ái như một giấc mơ. Nhưng nhờ giấc mơ đó, mà con đã được ơn biến đổi, lòng con đã được biến đổi, con đã nếm cảm được một tình Mẹ Thiên Liêng trên Trời đang thương mến con, đúng lúc con đang thiếu vắng tình mẹ ở dưới đất.
Nhờ Mẹ khéo hướng dẫn, mà con đã được đến với Chúa, vả được làm con Chúa. Con xin hết lòng cám ơn Mẹ.
Xin Mẹ giúp con, để con được luôn trung thành với Chúa suốt cả cuộc đời của con. Amen.
Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt.
Không giữ được bình tĩnh, một người đã tát người bạn của mình một cái.
Người kia rất đau, nhưng không nói gì. Anh chỉ lặng lẽ viết lên cát rằng:
- "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát vào mặt tôi một cái."
Họ tiếp tục bước đi, cho tới khi nhìn thấy một ốc đảo giữa sa mạc, nơi họ quyết định sẽ dừng chân và tắm cho mát.
Người bạn vừa bị tát do sơ ý, nên bị trượt chân xuống một bãi lầy và ngày càng lún sâu xuống. Nhưng người bạn kia đã kịp thời cứu anh.
Ngay sau khi hồi phục, người bạn suýt chết đuối khắc lên tảng đá dòng chữ:
- "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi."
Người bạn kia hết sức ngạc nhiên bèn hỏi:
- "Tại sao khi tớ làm cậu đau, cậu lại viết lên cát, còn bây giờ cậu lại viết lên một tảng đá?"
Và câu trả lời anh nhận được là:
- "Khi ai đó làm chúng ta đau đớn, chúng ta nên viết điều đó lên cát, nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn!
Khi chúng ta nhận được một điều tốt đẹp từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá, nơi không cơn gió nào có thể cuốn thổi bay đi."
*****
Một lần Thánh Phêrô hỏi Thầy:
- "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha cho họ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?"
Đức Giêsu đáp:
- "Thầy không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là phải tha đến bảy mươi lần bảy."(Mt 18,22)
Lời Chúa Giêsu đã dạy Phêrô ngày nào, hôm nay hình như Chúa cũng đang nói với con.
Bảy lần đã là khó, nhưng Chúa dạy phải là phải tha đến bốn trăm chín mươi lần (70x7=490).
Con số 490 lần Chúa nói ở đây, có thể hiểu là tha thứ vô giới hạn. Hãy mở rộng lòng để tha thứ cho nhau.
Như trong dụ ngôn người cha nhân hậu, sẽ không phải là 490 lần, mà còn hơn thế nhiều. Tấm lòng bao dung của người cha còn bù đắp lại cho người con tất cả gì anh đã đánh mất, những gì đẹp nhất ông đã dành cho con, người con đã làm phiền ông nhiều nhất.
*****
Ngày 13 thng 5 năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bị Mehmed Ali Agca ám sát.
Một thời gian sau, Đức Thánh Cha đã được các bác sĩ cứu thoát. Ngài đã viết những lời sau đây:
"Tại sao anh lại bắn tôi, khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Cha?"
Ngài cũng tuyên bố trước công chúng:
"Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người mà tôi đã chân thành tha thứ".
Rồi Ngài đích thân đến nhà tù, để thăm Ali Agca và tha thứ cho anh ta.
Đức Thánh Cha còn yêu cầu nhà cầm quyền Italia ân xá cho Ali Agca.
Một tấm lòng bao dung vô bờ bến, một lòng mến không toan tính, một sự tha thứ rất chân thành, một sự tha thứ phát xuất từ chính trái tim yêu thương của Đức Thánh Cha.
*****
Người bạn bị tát đã muốn quên đi hành động nóng giận của anh bạn, như điểm dấu trên cát sẽ chóng bị xóa nhòa, nên anh đã nói:
"Khi ai đó làm chúng ta đau đớn, thì chúng ta nên viết điều đó lên cát, nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn”.
Vì khi tha thứ chính là lúc con người không còn oán giận, tâm hồn tỏa sáng lòng bao dung đối với người làm hại mình.
Trong cuộc sống, đã đôi lần tôi phải chứng kiến những cảnh ăn miếng trả miếng: mắt đền mắt, răng đền răng.
Và còn nhiều hơn nữa những thông tin từ báo chí, từ các trang mạng xã hội, trên mạng truyền thông Internet.
Lòng Bao Dung của con người ngày nay đã không còn được trân trọng. Sự tha thứ hôm nay hình như chỉ còn trên lý thuyết.
- Biết bao chuyện xảy ra, tuy rất ư là nhỏ nhặt, nhưng đã không giải quyết được bằng tình người, mà phải dùng đến bạo lực.
- Biết bao gia đình ly tán, khi vợ chồng không còn tin tưởng, chung thủy với nhau, đã phải đi đến ly hôn, vì thiếu vắng sự tha thứ..
- Biết bao chuyện anh chị em ruột trong nhà, chỉ vì chuyện phân chia tài sản, mà không còn nhìn mặt nhau.
- Và còn biết bao chuyện khác nữa… Cũng chỉ vì thiếu lòng bao dung, nên họ không thể nhẫn nại, để nhường nhịn và tha thứ cho nhau.
Chính vì vậy, mà tha thứ là một hành động rất cần trong cuộc sống con người, vì tha thứ chính là nền tảng xây dựng hòa bình giữa con người với con người, khi một người vì vô tình hay cố ý đã làm phiền hoặc là gây hại đến mình.
Hoặc có người đã từng giúp mình, đã từng làm ơn cho mình, thì xin cũng hãy xử sự như anh bạn trong câu chuyện trên.
Lạy Chúa, lời hát trong Kinh Hòa Bình vẫn luôn văng vẳng bên tai con:
“Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ”.
Xin cho con biết thể hiện tình yêu thương trong các giao tiếp hằng ngày.
Khi người khác có lỗi với con, xin cho con biết khoan dung tha thứ.
Mỗi khi con làm phiền lòng người khác, xin cho con biết can đảm để xin được người đó tha thứ.
Vì con biết tha thứ đã là chuyện khó, nhưng biết xin người khác tha thứ, lại càng khó hơn.
Xin cho con biết trân trọng, quý mến, những người đã giúp đỡ con, như khắc ghi lên đá, nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi được. Amen!
(Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3