QUYỂN NHẬT KÝ CỦA MẸ - Chuyện kể cho các gia đình- Sách 17

Thứ ba - 13/12/2022 05:42
QUYỂN NHẬT KÝ CỦA MẸ - Chuyện kể cho các gia đình- Sách 17
QUYỂN NHẬT KÝ CỦA MẸ - Chuyện kể cho các gia đình- Sách 17
Lm. Phêrô NguyễnVăn Mễn
(sưu tầm)


QUYỂN NHẬT KÝ CỦA MẸ

Nguồn:
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/


---------------------------------

*** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;

2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn

3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com

5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165

**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)

**** Lạy  Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.

----------------------------
Mục Lục

Bài 1: Mỗi biến cố xảy tới, là một lời mời gọi ta nhớ đến thân phận của mình. 2
Bài 2: Sự thanh bạch Chúa đòi hỏi thật dứt khoác. 4
Bài 3: Chuyện một quan toàn quyền, lại nhận lãnh vai một vú em.. 5
Bài 4: BÀI HỌC TỪ MỘT PHO TƯỢNG ĐÁ.. 8
Bài 5: MỘT LỜI NÓI DỐI NGỌT NGÀO.. 10
Bài 6: QUYỂN NHẬT KÝ CỦA MẸ.. 13
Bài 7: SÁU LỜI NÓI CẦN HẾT SỨC CẨN TRỌNG.. 15
Bài 8: BÀI HỌC TỪ MỘT BỆNH NHÂN KHÓ TÍNH.. 17
Bài 9: Chuyện quả chuông mới cần được khắc tên. 20
Bài 10: THÁNH LỄ TRONG TRẠI TÙ.. 21
Bài 11: TÂM SỰ CỦA 2 CON CHUỘT.. 25
Bài 12: CHUYỆN LẠ: XIN ĐƯỢC MÙ MẮT.. 27
Bài 13: CHUYỆN MỌC SỪNG VÌ UỐNG RƯỢU.. 29
Bài 14: CHUYỆN TÁO QUÂN VỀ TRỜI 31
Bài 15: Cầu nguyện theo phong cách Chúa Giêsu. 34
Bài 16: Linh mục Pierre, một cuộc đời vì người nghèo. 37
Bài 17: CÁCH CẦU NGUYỆN CỦA ANH NÔNG DÂN XỨ ARS. 40
Bài 18: Con người sẽ trở nên vĩ đại và cao cả, nhờ tình yêu trao dâng và tặng hiến. 43

----------------------------

 

Bài 1: Mỗi biến cố xảy tới, là một lời mời gọi ta nhớ đến thân phận của mình

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 457

Bạn thân mến,

Biến cố năm 1975 đã làm thay đổi số phận của biết bao nhiêu người trên mảnh đất thân yêu của chúng ta. Bản thân tôi cũng phải đối diện với một tương lai đen tối: các chủng viện đều bị đóng cửa, chẳng ai biết ngày nào mình sẽ được thụ phong linh mục ? Với lòng hăng say nhiệt thành của tuổi trẻ, tôi đã sẵn sàng gác sách vở qua một bên, chấp nhận cảnh giãi nắng giầm mưa, sống những tháng ngày lao động vất vả, cực nhọc để chờ thời,...

Đối với một viên sĩ quan trẻ gần nhà tôi thì đây là một thảm cảnh, có thể nói là "lên voi xuống ngựa". Trước đây không lâu, anh ta chẳng gì cũng là một anh hùng trên chiến trận. Ai ai cũng phải nể mặt. Trong nhà có người hầu hạ. Ra đường có kẻ đưa người đón. Bây giờ nhiều lúc phải rơi lệ vì sự bất lực của mình. Anh ta không biết phải làm gì để nuôi sống gia đình trong lúc này. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi!...

*****

Thật ra cho đến nay nhiều người vẫn còn sống trong bất hạnh vì họ cố níu kéo những gì thuộc về quá khứ. Lẽ dĩ nhiên không ai phủ nhận họ một thời từng là người có danh, có phận, từng làm ông nọ bà kia,.. .

Nhưng một biến cố xảy ra giống như giông bão bất chợt. Nước mưa làm trôi đi lớp phấn son trên gương mặt, những vẻ hào nhoáng bên ngoài vuột khỏi tầm tay! Họ không dám nhìn vào chính mình, tìm cách trốn chạy vào trong vỏ ốc của mình.

Nếu như hôm nay, họ đưa mắt nhìn Đức Giêsu sắp hàng trong đám đông, chờ đợi đến lượt mình chịu phép Rửa, chắc chắn cách sống của họ sẽ thay đổi. Một nguồn an ủi lớn lao sẽ tràn ngập trong tâm hồn họ (Lc 3, 15-16. 21-22)

Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa đã trở nên giống phàm nhân (Pl 2,7).

Ngày lễ Chúa chịu phép Rửa còn làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Giêsu đã xuống thế làm người.

Hôm nay Người chấp nhận từ giã cuộc sống âm thầm lặng lẽ tại Nadarét, sẵn sàng đón nhận tội lỗi của chúng ta vào nơi mình, trở thành tội nhân.

Qua phép Rửa Người biến đổi chúng ta thành tạo vật mới.

Chúng ta tự hỏi: Tôi là ai mà được Thiên Chúa ưu ái đoái hoài tới?

Sau khi chịu phép Rửa, Đức Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha. Người luôn kết hợp cùng Chúa Cha trong khi thi hành sứ mạng cứu chuộc con người. Qua đó Người cũng chỉ cho chúng ta làm thế nào để giữ tấm áo trắng ngày chúng ta chịu phép Rửa được luôn luôn tinh tuyền.

Mỗi lần chúng ta dùng nước phép để làm dấu Thánh Giá, mỗi lần dâng tiếng hát lời kinh, mỗi lần chúng ta cầu nguyện, thì cửa trời sẽ mở ra, chỗ bế tắc trong tâm hồn chúng ta cũng được khai thông. Chúng ta sẽ nghe lời Chúa nhắn nhủ: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".

Phép Rửa nói với chúng ta rằng:

Con cái do cha mẹ sinh ra, nhưng không hoàn toàn thuộc về cha mẹ, bởi vì chúng ta còn là con cái của Thiên Chúa.

Cha ông mình đã nói rất chí lý: "Cha mẹ sinh con, trời sinh tính".

Không ai có thể tự nắm giữ vận mệnh của mình. Số phận của mỗi người đã được bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa an bài. Chúng ta tin rằng, con người do Thiên Chúa tạo dựng, mỗi người được Thiên Chúa trao cho một số khả năng và một sứ mạng. Với ơn Chúa giúp, con người có thể dùng khả năng của mình để chu toàn sứ mạng đã được giao phó cho mình.

Mỗi biến cố xảy tới, là một lời mời gọi chúng ta nhớ đến thân phận của mình sau khi chịu phép Rửa, mời gọi chúng ta nhìn lại con người của mình và canh tân đời sống.

Khi ý thức được mình là ai thì chúng ta mới biết sống sao cho phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Phêrô Trần Minh Đức
(Nguồn: vietcatholic.org)

-------------------

 

Bài 2: Sự thanh bạch Chúa đòi hỏi thật dứt khoác

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 458

Bạn thân mến,

Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, tên Ngô Chí Minh, là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.

Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ, mà ông này đeo đuổi chính là được "qua đêm" với 1.500 người phụ nữ.

Kết cục ông đã bị bắt (http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).

*****

Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ, mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi” (Mt 5,28b).

Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, và dứt khoát với tội, để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu:

“Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5,29-32).

Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm kiếm sự bất khiết.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi chúng ta: Hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Quốc mai sau.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và ban cho con có tự do. Đồng thời, Chúa cũng lại cho phép con sử dụng sự tự do đó, để làm điều thiện hay xấu.

Xin Chúa ban ơn trợ lực, để con biết sử dụng những ân huệ Chúa ban, mà làm những việc tốt, tránh xa những điều xấu, để sau những ngày sống ở trần gian này, con được về bên Chúa, hưởng vinh phúc đời đời. Amen.

-------------------

 

Bài 3: Chuyện một quan toàn quyền, lại nhận lãnh vai một vú em

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 459

Bạn thân mến,

Ông Lorobel, khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia ông đáp tàu trở về Trung Quốc. Cùng trên chuyến tàu đó, có một phu nhân, mang theo một đứa con nhỏ, nhưng bà lại chẳng quan tâm ngó ngàng gì đến đứa bé, khiến nó cứ khóc thét miết suốt ngày đêm. Hành khách trên tàu, ai ai cũng bực mình khó chịu, có người còn thốt ra những lời lẽ rất thô lỗ đối người mẹ, có người còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển.

Ông Lorobel đã quyết định làm một việc, mà ít có ai trong chúng ta có thể ngờ tới: Đó là ông đến gần đứa bé, ẵm nó lên, rồi đặt nó ngồi trên đùi của ông. Và từ giờ này, qua giờ khác, ông cứ liên hồi nói chuyện, đùa giỡn và làm trò đùa, hoặc làm bất cứ điều gì đứa bé thích.

Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên, quên đi chuyện khóc lóc. Và sau khi đã quen rồi, nó lại thích thú quấn quýt bên ông Lorobel.

Hành khách trên tàu cảm thấy dễ chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây với niềm vui của đứa bé. Đứa bé không còn làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm, truyền đạt niềm vui cho hành khách.

Nếu bạn có mặt trên chuyến tàu cùng với ông Lorobel hôm đó, chắc chắn bạn cũng sẽ được chứng kiến một cảnh thật khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền, đầy uy quyền như thế, mà lại nhận lãnh đóng vai trò một vú em. Ông đã không sử dụng uy quyền của mình, để ra lệnh cho người đàn bà, nhưng đã dùng tình thương, để đối xử với sự thiếu sót của bà.

Đây quả thực là một phản chiếu một lời dạy của Chúa Giêsu, được thánh sử Matthêu ghi lại trong Tin Mừng (Mt 5, 38-42) khi dạy chúng ta về bài học:  Khoan dung với kẻ ác.

******

Thật vậy, đền ơn, trả oán, là một áp dụng cụ thể, thường tình, trong công bằng giao hoán ở xã hội, có khi trả thù đến ba bốn đời.

Từ khi có ý niệm về luật pháp, thì việc trả thù, báo oán, mới được giới hạn trong một số quy định.

- Luật của người Babylon viết: “Nếu kẻ nào làm cho một người nào đó trong cùng một giai cấp, mà bị mất mắt, hoặc gẫy tay chân, thì phải chịu mất mắt, hoặc gẫy tay chân, để đền bù lại. Nếu đối tượng là kẻ bần dân, thì chỉ cần đền bù bằng một lạng bạc”.

- Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng lại không phân biệt giai cấp: Mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng.

Trong sách Lêvi lại qui định với một ít tiến bộ hơn: “Ngươi sẽ không được báo oán, không được tư thù với con cái dân ngươi”.

Còn trong sách Cách Ngôn có viết: “Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó bánh ăn, nếu nó khát, hãy cho nó nước uống”.

Như vậy, qua những qui định trên, chúng ta thấy: Dân tộc Israel vẫn còn có một chút gì đó đặc biệt, gọi là dân riêng của Chúa. Tuy thế, họ vẫn không buộc phải tuân giữ những điều này cách tuyệt đối, bởi họ vẫn có quyền đòi hỏi: mắt đền mắt, răng thế răng.

*****

Chỉ khi Chúa Giêsu đến, Ngài mới kéo con người ra khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này.

Có thể xem cái vả vào má, là một cái đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm về tinh thần, và sự kiện tụng để đoạt áo, là một đụng chạm đến của cải, một xúc phạm về vật chất.

Dù bị xúc phạm đến vật chất hoặc tinh thần, thì người môn đệ của Chúa Giêsu không được vịn vào đó để báo oán, nhưng phải đưa má bên kia cho họ vả nữa.

Hành động như vậy xem ra như một sự nhu nhược, cúi đầu, chịu khuất phục, chịu đầu hàng, nhưng chính hành động ấy diễn tả một thái độ quả cảm, sẵn sàng cho đi tất cả, để phục vụ người khác.

Con người càng trở nên cao cả qua việc cho đi, mà không giữ lại cho mình điều gì, dù điều đó là niềm hạnh phúc chính đáng, dù đó là một chút quyền lợi hợp với quyền sống con người.

Càng cho đi, người môn đệ Chúa càng gần gũi với Thầy của mình là Đức Giêsu, Đấng đã cho đi hoàn toàn, cho đi cả chính mạng sống của mình.

Đồng thời, khi cho đi như vậy, con người sẽ lại càng gần gũi với nhau hơn.

Khi trao ban cho người khác điều gì, là mở cửa ngỏ cho họ sự cảm thông, và khi thực hành điều Chúa dạy: “Ai xin thì con hãy cho, ai muốn vay mượn con đừng khước từ”, cũng có nghĩa là đã thêm được một lần nối kết và nhiều nối kết sẽ tạo nên sự bền chặt và tạo nên sức mạnh.

Sợi tơ nhện, tuy mỏng manh, nhưng nhiều sợi tơ, sẽ giữ được con ruồi.

Một sự cho đi của một con người, xét ra thì chẳng đáng là gì, thế nhưng, nếu cả một thế giới cho đi, thì cũng đủ khả năng để cầm giữ được sự ác, để chống lại quyền lực của sự dữ.

Lạy Chúa, thế giới vẫn còn nhiều bóng dáng của sự ác, của sự dữ, vẫn còn nhiều chiến tranh, vì mỗi người chúng con chỉ biết thu góp quyền lợi về cho riêng mình, mà chưa biết cho đi.

Xin Chúa cho con biết sẵn sàng cho đi, để rồi trong trao ban, con sẽ được nhận lãnh, con sẽ gặp được Chúa là chính nguồn bình an, đồng thời, cũng làm cho người sống bên cạnh con, cũng nếm được mùi hạnh phúc thật của Chúa. Amen.

-------------------

 

Bài 4: BÀI HỌC TỪ MỘT PHO TƯỢNG ĐÁ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 460

Bạn thân mến,

Trong những giai thoại về các thánh ẩn tu, vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có câu chuyện sau đây:

Có 7 vị ẩn tu nọ, kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ hoang của người Ai-cập.

Phía trước ngôi đền, có một pho tượng đá. Ðây là pho tượng duy nhất còn sót lại, sau khi ngôi đền bị cướp phá.

Vị cao niên nhất trong bảy tu sĩ ấy tên là Ðu-bô. Ông được anh em bầu lên làm bề trên của cộng đoàn.

Ðể dạy cho anh em một qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi buổi sáng ông ra đứng trước pho tượng, lượm một hòn đá, ném mạnh vào pho tượng đó. Rồi buổi chiều, ông lại trở ra đứng trước pho tượng và lớn tiếng xin lỗi, vì hành động ném đá của ông buổi sáng.

Cử chỉ khác thường này của vị bề trên ấy, kéo dài trong một thời gian khá lâu…

Một ngày kia, không còn làm chủ được tính tò mò, một người anh em trong cộng đoàn, đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy.

Vị bề trên đã trả lời, bằng cách hỏi lại người đó như sau:

- Khi tôi ném đá vào pho tượng, pho tượng có lung lay không?

Người kia trả lời:

- Thưa, không.

Vị bề trên hỏi tiếp:

- Buổi chiều khi tôi đến xin lỗi, pho tượng ấy có để lộ xúc động nào không?

Người anh em kia cũng trả lời:

- Thưa, không.

Bấy giờ vị bề trên mới giải thích:

- Anh em thân mến, chúng ta có tất cả bảy người trong cộng đoàn. Nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất, yêu thương nhau, chúng ta cũng hãy sống với nhau như pho tượng này: Ðừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ, khi có người trong anh em xúc phạm đến mình. Và cũng đừng ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện, khi có người đến xin lỗi mình.

Lời khuyên trên đây của vị bề trên đã được mọi người vui vẻ đón nhận. Và từ đó họ đã sống với nhau trong hòa thuận, an bình, vui tươi, và rất hạnh phúc.

*****

Bạn thân mến,

Những chuyện buồn lòng, trái ý, do những chung đụng, cọ sát, va chạm nhau hằng ngày, là điều không thể tránh. Nhưng phản ứng thông thường và rất tự nhiên của chúng ta khi bị người khác quấy rầy, là chúng ta lớn giọng, tỏ ra khó khó chịu, không hài lòng, bằng cách tỏ thái độ: "Hãy để cho tôi yên!"

Đó cũng là chuyện thường tình thôi. Ai mà chẳng muốn tránh những sự quấy rầy của người khác. Thực tế, ai cũng muốn co cụm lại trong vỏ ốc của mình, để kiếm tìm sự bình an.

Nhưng ta nên nhớ, bình an nội tâm không thể là kết quả của sự trốn chạy, nhất là trốn chạy khỏi tha nhân.

Kinh nghiệm cho thấy: Càng trốn chạy tha nhân, càng khước từ và xua đuổi tha nhân ra khỏi tâm hồn, thì chúng ta càng cảm thấy mình tự đầy đọa mình, tự làm khổ mình, và sẽ bị rơi vào một nỗi cô đơn, trống rỗng, thê thảm.

Một trong những điều kiện để có bình an nội tâm thực sự, đó chính là biết đón nhận tha nhân, là tạo được sự hài hòa với tha nhân.

Qui luật cơ bản, mà vị bề trên kia cho áp dụng trong cộng đoàn của mình, cũng vẫn có giá trị cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đó là một cách sống, sống là sống với tha nhân, sống là sống cho tha nhân.

Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩ, khi con người ta biết chấp nhận nhau, biết tha thứ cho nhau.

Lạy Chúa, Chúa đã bỏ trời xuống trần gian này, để ở giữa chúng con, để sống với chúng con, để sống như chúng con.

Xin cho con biết bắt chước Chúa, mà sống như Chúa đã dạy, mà sống như Chúa đã làm gương cho con. Amen.

-------------------

 

Bài 5: MỘT LỜI NÓI DỐI NGỌT NGÀO

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 461

Bạn thân mến,

Một ngày nọ, có một cậu bé lượm được 1 đôla. Cậu liền đến một cửa hàng bên cạnh đường hỏi:

“Xin hỏi, ở đây bác có Thượng đế bán không ạ?”

Người chủ cửa hàng không nói gì, ngại cậu bé quấy rối, nên đã mời cậu ra khỏi cửa hàng.

Trời đã sắp tối rồi, mà cậu bé vẫn kiên trì, lần lượt đi hết cửa hàng này, đến cửa hàng khác.

Không ngờ, đến cửa hàng thứ 29 thì cậu cũng được người chủ tiếp đón thật nhiệt tình. Ông chủ cửa hàng thứ 29 mà cậu bé vào hỏi, là một ông lão đã hơn 60 tuổi, đầu tóc bạc phơ, vẻ mặt hiền từ.

Ông nhìn cậu bé rồi hỏi: “Này cháu! Hãy nói cho ông biết, cháu mua Thượng đế để làm gì vậy?”

Cậu bé chảy nước mắt, rồi nói với ông lão rằng:

“Cháu tên là Bonnie. Cha mẹ của cháu đã mất từ khi cháu hãy còn rất bé. Chú Rupp của cháu đã nuôi dưỡng cháu từ nhỏ đến bây giờ. Chú của cháu là một công nhân xây dựng, nhưng mới đây, chú đã bị té ngã từ trên cao xuống đất, nên bị hôn mê, bất tỉnh.

Bác sĩ nói rằng: Chỉ có Thượng đế mới cứu được chú của cháu mà thôi.

Cháu biết rằng Thượng đế chắc phải là một thứ vô cùng kỳ diệu, nên cháu muốn mua về, để cho chú của cháu ăn. Như thế chú của cháu mới nhanh khỏi bệnh được ạ!”

Ông lão đỏ hoe đôi mắt hỏi lại: “Vậy, cháu có bao nhiêu tiền nào?”

Cậu bé nhanh nhảu đáp: “Dạ, Cháu có 1 đô la ạ!”

Ông lão vội nói:

“Ôi thật may quá! Giá của Thượng đế đúng bằng 1 đô la đấy cháu ạ!”

Nói xong, ông đi vào ngăn kéo và lấy một chiếc chai đồ uống, có nhãn hiệu “Nụ hôn của Thượng đế” và đưa cho Bonnie.

Ông nói: “Cầm lấy đi cháu! Chú của cháu uống hết chai này, là sẽ khỏi bệnh thôi!”

Bonnie vô cùng mừng rỡ, ôm chai nước vào trong ngực, rồi lập tức quay trở về bệnh viện.

Vừa bước vào phòng bệnh, cậu vui vẻ nói to:

“Chú ơi! Cháu đã đem Thượng đế về rồi đây! Chắc chắn chú sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi!”

Mấy ngày hôm sau, một nhóm các chuyên gia y học, có trình độ cao nhất, đã đến bệnh viện, tiến hành hội chẩn cho chú Rupp của cậu bé Bonnie.

Họ sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới, để chữa bệnh. Và cuối cùng, điều kỳ diệu đã xảy ra: Chú Rupp của cậu bé đã hoàn toàn được hồi phục.

Khi chú của Bonnie ra viện, nhìn số tiền viện phí quá lớn được ghi trên hóa đơn, anh đã suýt ngất xỉu.

Thế nhưng, phía bệnh viện đã nói với chú của Bonnie rằng:

“Mấy hôm trước, có một ông lão đã đem tiền đến thanh toán hết tiền viện phí cho anh rồi. Anh không phải lo. Ông lão ấy là một tỷ phú rất giàu có. Trước đây, ông ấy là chủ tịch của một tập đoàn đa quốc gia, nhưng bây giờ, ông đã về nghỉ ngơi, và ẩn cư bằng cách mở một cửa hàng tạp hóa bán qua ngày.

Nhóm chuyên gia y học có trình độ cao kia, cũng là do chính ông ấy đã bỏ ra một số tiền lớn, để thuê đến chữa trị cho anh đấy.”

Anh Rupp sau khi nghe xong, đã cảm kích vô cùng. Lập tức, anh cùng cháu trai của mình đến tạ ơn ông lão kia. Khi họ đến nơi, mới biết được ông lão đã đóng cửa tiệm tạp hóa và đi du lịch nước ngoài.

Sau này, anh Rupp đã nhận được một lá thư do ông lão kia gửi đến. Trong thư ông viết:

“Anh bạn trẻ! Anh có người cháu trai Bonnie, thực sự là quá may mắn đấy! Vì cứu anh, cậu bé đã cầm 1 đô la đi khắp nơi để mua Thượng đế. Hãy cảm tạ Thượng đế! Chính Thượng đế đã cứu tính mạng của anh đó!”

Nhiều năm sau, cậu bé năm nào đã trưởng thành và còn thi đậu vào trường Y.

Nhớ lại câu chuyện cũ và về ân nhân năm xưa, cậu đã cố gắng hết mình cứu chữa được rất nhiều bệnh nhân và trở thành một bác sĩ tốt.

Bonnie đã đền đáp lại tình nghĩa của ân nhân cũ theo một cách không thể tuyệt vời hơn.

Nếu không có câu chuyện cầm 1 đô la đi mua Thượng đế năm xưa và cuộc hội ngộ đầy bất ngờ với ông lão tỷ phú nọ, thì không biết cuộc đời của Bonnie đã rẽ sang hướng nào ???

Câu chuyện tuy đã khép lại ở đúng thời điểm đẹp nhất, nhưng nó chưa phải là kết thúc, bởi:

Lòng bao dung, tình yêu thương sẽ còn lan tỏa mãi không ngừng.

Ông lão tỷ phú đã cứu mạng người chú của Bonnie, nhưng không phải chỉ có vậy, ông còn cứu vớt cả chính cậu bé nữa:

Ông đã gieo vào lòng cậu bé một đức tin: Tin có Thượng Đế, tin vào quyển năng của Thượng Đế, tin vào cái tốt, cái đẹp của Thượng đế. Và nhất là đã quyết tâm dành cả cuộc đời mình, để đem những cái tốt, cái đẹp của Thượng đế ban cho, chia sẻ cho những người  chung quanh.

Nói dối, tất nhiên là xấu. Nhưng đôi khi, có những lời nói dối thật ngọt nàgo, khi nó có thể mang đến hy vọng cho người khác; đặc biệt là khi lời nói dối ấy xuất phát từ lòng bao dung và thiện tâm.

Và chúng ta cũng hãy tin rằng, Thượng Đế vẫn còn tiếp tục thực hiện những phép lạ thật kỳ diệu trong thế giới hôm nay!

Lạy Chúa, xin giúp con con học cho được tấm lòng từ tâm, bao dung và quảng đại mà Chúa đã dạy và đã làm gương cho con, khi Chúa đã bỏ Trời, xuống trần gian này, để thi ân, để giáng phúc cho con người. Xin Chúa giúp con. Amen.

-------------------

 

Bài 6: QUYỂN NHẬT KÝ CỦA MẸ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 462

- Hắn là người thành đạt, Gia cảnh rất đề huề, Có con ngoan, vợ đẹp, Cuộc sống vạn người mê.

- Cứ mỗi lần giỗ mẹ, Hắn thết cỗ linh đình, Nào sơn hào, hải vị... Để chứng tỏ cái tình.

- Trong một lần dọn dẹp, Đem vứt bớt đồ thừa, Hắn thấy quyển nhật ký, Của mẹ mình năm xưa.

- Tò mò nên hắn đọc, Những con chữ quay cuồng, Bởi những trang nhật ký, Là những câu chuyện buồn:

* Ngày... tháng... năm... mẹ tủi, Con mắng mẹ: Già rồi, Sao còn như con nít, Làm cơm vãi khắp nơi!

- Ừ! Bởi vì tuổi lắm, Nên mắt kém, tay run, Có làm rơi ít hột, Âu cũng chỉ chuyện thường!

- Khi con còn nhỏ dại, Cũng làm vãi khắp nơi, Mẹ quét, lau, gom lại... Đâu trách mắng nửa lời?

* Ngày... tháng... năm... mẹ tủi, Con mắng mẹ: Mặc đồ, Sao lóng nga lóng ngóng,       Y hệt nhành cây khô!

- Ừ! Tuổi già xương cứng, Gân cũng chẳng dẻo dai, Khó xở xoay, quay trở, Sao cứ mắng mẹ hoài?

- Khi con còn nhỏ dại, Cứ hiếu động chân tay, Mẹ mặc hoài mới được, Đâu trách mắng nọ này?

* Ngày... tháng... năm... mẹ tủi, Con mắng mẹ: Điếc à? Trả lời rồi vẫn hỏi, Cứ như trúng phải tà!

- Ừ! Già nên nghễnh ngãng, Nghe lúc được, lúc không,  Mẹ mới đi hỏi lại, Mắng chi để tủi lòng?

- Khi con còn nhỏ dại, Hỏi đủ chuyện trên đời, Mẹ kiên trì đáp lại, Đâu mắng mỏ một lời?

* Ngày... tháng... năm... mẹ tủi, Con mắng mẹ: Bực mình! Cả đêm ho sù sụ, Mất ngủ cả gia đình!

- Ừ! Tuổi nhiều bệnh lắm, Quy luật của tự nhiên, Mẹ đâu mong như thế, Mắng chi để tủi phiền?

- Nhớ khi con nhỏ dại, Đủ thứ bệnh mang vào, Hàng năm trời khóc quấy, Mẹ đâu trách câu nào?

* Ngày... tháng... năm... mẹ tủi, Cứ mỗi bận ăn cơm, Mẹ phải ngồi góc khuất, Bởi người mẹ không thơm.

- Ừ! Kiếp này ta sống, Con nít đến hai lần, Mẹ già không tự liệu, Tất cả cậy con làm!

- Nhớ khi con nhỏ dại, Tè, ị bậy khắp nơi... Mẹ lau chùi, tắm rửa, Có bao giờ chê hôi?

* Ngày... tháng... năm... mẹ yếu, Chắc chẳng thể... nữa rồi, Những dòng này mẹ viết, Là sau cuối trong đời:

- Dù cho con lạnh nhạt, Hay gắt gỏng bấc, chì, Mẹ chỉ buồn đôi chút, Chứ không trách cứ gì!

- Con vẫn là con mẹ, Bé bỏng và đáng yêu, Dù cho theo năm tháng, Con đã đổi thay nhiều...!

*****

- Hắn thẫn thờ nét mặt, Nhìn lên phía bàn thờ: Ánh mắt bà âu yếm, Qua lớp khói hương mờ!

- Hắn nấc lên từng chặp: Con bất hiếu mẹ ơi, Con muốn xin lỗi mẹ, Nhưng đã quá muộn rồi!

*****

- Những ai còn Cha - Mẹ, Hãy thức tỉnh kịp thời, Đừng để thành quá muộn, Ôm hối hận cả đời!

- Mâm cao ngày cúng họ, Cũng chẳng ý nghĩa chi, Nếu khi cha mẹ sống, Đối xử chẳng ra gì!

(Báo Tri Thức)

-------------------

 

Bài 7: SÁU LỜI NÓI CẦN HẾT SỨC CẨN TRỌNG

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 463

Người sống ở đời, nói chuyện thì dễ, nhưng làm sao để lời nói có giá trị, mới là điều khác biệt.

Bất luận ở độ tuổi nào cũng cần tích “khẩu đức”. Những lời không nên nói, thì đừng bao giờ thốt ra. Những chuyện không được kể, thì một chữ cũng đừng nhắc đến.

Đầu tiên, nên hết sức cẩn trọng với  6 loại lời nói sau:

1. Lời nói bộc trực.

Lời nói bộc trực là những lời chưa kịp suy xét, vừa nhìn thấy, đã thuận miệng thốt ra. Không quan tâm cảm nhận của người khác, không đoái hoài sĩ diện của người nghe, chỉ nói cho đã miệng mà không cần biết mình có đang tổn thương ai hay không. Những lời nói bộc trực dễ dẫn đến kết cục không vui, nếu cẩn ngôn một chút, thì người nghe sẽ dễ chịu mà người nói cũng an toàn hơn.

2. Lời nói hồ đồ

Lời nói hồ đồ là những lời đồn thổi, không căn cứ, nhưng có hại cho người và mình. Làm người, nhất định phải làm chủ được những lời mình định nói. Những bàn luận thị phi không rõ ràng, tốt nhất đừng tham gia tùy tiện. Lặng im, là một sự lựa chọn, nhìn thấu, mà không nói tận, cũng là một loại trí tuệ cần tu dưỡng.

3. Lời nói than trách

Những lời than trách, chỉ chứa đựng cảm xúc bi quan, trách hờn của kẻ cầu muốn không được toại nguyện. Thay vì thốt ra những lời buồn bã, tiêu cực, thể hiện sự vô vọng với cuộc sống, thất vọng với cuộc đời, làm ảnh hưởng tâm tình, nhiễu loạn tâm trí, sao không mở rộng lòng ra, nhìn xa một chút, cố gắng nhiều hơn, để ngày mai có sự thay đổi kỳ diệu?

4. Lời nói nhảm nhí

Trước mặt người, đừng bàn chuyện phiếm, sau lưng người, đừng luận thị phi. Những lời nói nhảm, không những lãng phí thời gian chính mình, ảnh hưởng cuộc sống người khác, mà còn hạ thấp giá trị bản thân, hủy hoại thanh danh người bị đề cập. Nên khi nói chuyện, đừng quên tôn trọng người, cũng là tự trọng cho mình. Rất nhiều mối họa từ miệng mà ra, kẻ nói quá nhiều ắt sẽ có sơ suất.

5. Lời nói ngông cuồng

Người ăn nói ngông cuồng, luôn cho mình là đúng, không kiêng nể bất kỳ ai, làm việc huênh hoang, làm người lỗ mãng. Họ không biết, một khi trời đất nổi sấm chớp, ắt sẽ mưa lớn, kẻ ăn nói ngông cuồng tất gặp họa to. Cho nên làm người, tập khiêm tốn thâm trầm, sẽ vững vàng yên ổn.

6. Lời nói độc địa

Những lời độc địa luôn khiến người buồn, gây nên sự tổn thương sâu sắc. Trên đời này, một câu nói ấm áp có thể sưởi ấm suốt ba đông, một lời rủa độc địa khiến lòng người lạnh lẽo ngay giữa những ngày hè. Vết thương của dao, dù sâu cũng có ngày liền thịt, sự tổn thương từ những lời độc địa, vĩnh viễn không thể tiêu tan. Cho nên trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng xin nhớ cẩn trọng ngôn từ, vì lời một khi đã thốt ra, không cách gì thu lại được.

Kết: Giữ mồm giữ miệng thì không phạm lỗi, cẩn thận ăn nói thì không gieo họa. Với người là thiện ý, với mình chính là phúc khí (may mắn), cần hết sức giữ gìn!

-------------------

 

Bài 8: BÀI HỌC TỪ MỘT BỆNH NHÂN KHÓ TÍNH

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 464

Bạn thân mến,

Nữ tu Antoinette vẫn thường hay nhắc đến một bệnh nhân già khó tính nhất trong bệnh viện, như một nhắc nhở cho mình và cho chị em, trong việc thường xuyên cố tu luyện bản thân, qua cách phục vụ bệnh nhân:

Có một bệnh nhân già trong bệnh viện, tính khí rất khác thường, gặp ai ông cũng nhăn nhó, nạt nộ. Có chuyện gì khó chịu một chút là ông cũng la lớn, làm rùm beng lên.

Ngày kia, đang lúc mải mê phục vụ các bệnh nhân, nữ tu Antoinette đã nghe thấy tiếng bệnh nhân già đó hét lên: “Đem cho tôi một quả trứng”.

Nữ tu Antoinette vui vẻ đem đến, nhưng bệnh nhân già lại đó lại nhăn nhó: “Trứng chưa chín đủ, mà lại mang cho tôi ăn à?”.

Và nữ tu Antoinette vui vẻ mang trứng đi luộc lại.

Nhưng rồi bệnh nhân đó lại kiếm lý do khác, để gây phiền hà đến nữ tu: “Luộc trứng chín quá, tôi không ăn nổi đâu. Tôi muốn trứng khác”.

Nữ tu Antoinette không biết phải làm sao, chị bèn mang đến giường ông một lò nấu nhỏ, kê ở bên cạnh giường ông, và trao cho ông một quả trứng mới, để chính ông có thể tự nấu lấy theo sở thích của ông.

Thấy thế, bệnh nhân lại càng nổi giận hơn nữa. Ông đạp đổ bếp, quẳng trứng xuống sàn nhà và quát lớn: “Tôi là bệnh nhân, mà đi luộc trứng à!”.

Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, chỉ biết thinh lặng, cúi xuống, thu sạch và quét dọn.

Lát sau, nữ tu đem đến cho bệnh nhân khó tính ấy một quả trứng khác và nhẹ nhàng nói với bệnh nhân: “Ông hãy dùng thử quả trứng này xem, tôi luộc vừa chín tới thôi”.

Thái độ của nữ tu Antoinette bình tĩnh, kiên nhẫn, chịu đựng… đã làm cho bệnh nhân cảm động ra mặt và lập bập, ấp a ấp úng, nói với giọng đầy xúc động:

“Cám ơn nữ tu. Tôi ăn trứng này và cũng ăn cả lòng tốt của nữ tu nữa. Xin nữ tu tha thứ cho tôi”.

*****

Tình thương bác ái, phải được trải dài trong mọi giây phút, trong mọi hành động của cuộc sống.

Tình thương đó luôn bị thử thách, bởi những thái độ nghi kỵ, đối nghịch, khắt khe, khó tính, thiếu cảm thông của những người sống xung quanh ta.

Khi phải đối diện với những người không thích ta, không hòa hợp với ta, không thông cảm với ta, thì thay vì đối đầu, trả đũa cho hả giận, thì ta hãy tự vấn mình xem:

- Có phải, vì những tật xấu của ta, vì những khuyết điểm của ta, đã khơi dậy nơi họ thái độ đối nghịch với ta hay không?

- Có thể, đôi khi chúng ta là thủ phạm, đã gây nên những sự chống đối của người khác, mà chúng ta lại cũng không hề hay biết nữa.

- Cách sống, cách suy tư, cách hành động của ta, có khi không phù hợp với những anh chị em, có khi gây nên những xúc phạm đối với những anh chị em chung quanh, mà chính ta cũng không hề hay biết.

Chính vì thế, mà ta cần phải thường xuyên kiểm điểm lại chính đời sống của mình, để đừng khơi dậy những ngăn cách với người khác.

*****

Nhưng, cũng có những trường hợp ta bị đối xử cách oan ức, bị ghét bỏ cách bất công, chỉ vì niềm tin của mình vào Chúa.

Lúc đó, chúng ta không còn gì khác để đáp lại, hơn là cầu nguyện: Xin Chúa thêm sức mạnh, để ta có thể tha thứ và yêu thương họ đến cùng, như Chúa muốn.

Và chúng ta cũng đừng bao giờ bỏ cuộc, không bao giờ rút lại điều tốt ta đang thực hiện, như nữ tu Antoinette trong câu chuyện kể trên, bởi Chúa đã dạy:

“Phúc cho kẻ bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5,10).

Tình yêu thương kiên trì của ta chắc chắn sẽ không trở thành vô ích đâu, nhưng sẽ cảm hóa được người đã làm phiền lòng ta. Vào lúc nào, chỉ có Chúa biết mới thôi. Phần ta, ta chỉ cần biết một điều là: “Hãy yêu thương, yêu cho đến cùng”, như Chúa đã dạy và đã làm gương cho ta.

*****

Tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã chia sẻ như sau:

“Bác ái, là tu đức liên lỉ. Tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc. Tất cả con người con tuy có vùng vẫy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu”.

Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người ta đang bất bình, ta sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như ta nghĩ từ đầu đâu:

“Tôi không muốn biết, không muốn nhớ quá khứ của anh em tôi. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em, để thương nhau, giúp đỡ nhau và biết tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau”.

Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, quyết định chọn Chúa hay chối từ Ngài ???.

Và tìm Nước Chúa, là tin tưởng ở tình yêu vô bờ bến của Ngài, là hành động với tất cả hăng say.

Đó là việc làm thể hiện đức mến Chúa và yêu người, ngay trong giây phút hiện tại.

Đó là những lời khuyến khích đầy kinh nghiệm, giúp mỗi người chúng ta sống sứ điệp Phúc Âm của Chúa cách xác thực hơn, hiệu quả hơn.

Ta đừng bao giờ quên Lời Chúa thường xuyên nhắc nhở mỗi người chúng ta:

“Con hãy yêu thương kẻ thù nghịch và làm ơn cho kẻ ghét con. Hãy cầu nguyện cho tất cả những ai bắt bớ và nguyền rủa con, để các con trở nên giống Cha, Đấng ngự trên trời. Ngài làm ơn cho người lành, kẻ dữ và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo” (Matthêu 5,44-45).

Mỗi người Kitô hữu phải như tấm kính, phản chiếu sự trọn lành tình yêu của Thiên Chúa Cha.

Noi theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô, mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta phải chiếu sáng hơn, để anh chị em xung quanh có thể nhìn thấy, mà ngợi khen tình thương của Thiên Chúa trên trời.

Lạy Chúa, trên Thập Giá Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong tim con, để con mỗi ngày được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Amen.

---------------------------

 

Bài 9: Chuyện quả chuông mới cần được khắc tên

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 465

Bạn thân mến,

Hưởng ứng lời kêu gọi của Cha sở: “Tháp chuông nhà thờ mới cần có một quả chuông”, thì liền sau lễ, có một người giáo dân ghé ngay vào nhà xứ, xin dâng một quả chuông. Cha sở vừa hé nở một nụ cười thật tươi, thì bất ngờ bị khựng lại, vì người cho ra điều kiện:

“Con sẵn sàng dâng cúng tiền, để cha mua một quả chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, là phải khắc tên của con trên quả chuông ấy!”.

*****

Đây là thực trạng của rất nhiều người đã biểu lộ niềm tin của mình một cách thực dụng như thế đó.

“Sẵn sàng giúp đỡ”, nhưng sẽ không thể thành hiện thực, khi không được nêu danh tánh và công trạng của mình cách công khai!

Những người này đã quên lời Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng của Matthêu (Mt. 6, 1-6, 16-18).

Chúa dạy các môn đệ của Ngài, là phải hết sức cẩn trọng trong việc thi hành các việc từ thiện bác ái, kẻo sẽ trở thành “công dã tràng”, tức là tốn công vô ích.

Ngài dạy cho các ông: Khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến và với tinh thần vô vị lợi. Không nên phô trương, để cho người đời biết mà ca tụng:

“Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-4).

Nếu muốn được biểu dương, thì hẳn đã được phần thưởng, do người phàm tán tụng rồi.

Và cứ theo như một quy luật: Họ đã được người đời thưởng công rồi, thì họ sẽ không được Thiên Chúa chúc phúc nữa, sẽ không được Thiên Chúa thưởng công nữa.

Vậy, một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần thưởng muôn đời do Thiên Chúa ban tặng, hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời, mau qua, chóng hết, do con người trao tặng?

Vậy, qua lời Chúa dạy, chúng ta hãy cùng nhau làm một bài toán cho chính xác, để tính cho ra, đâu là sự hơn thiệt, để mà tiến bước, để mà sống, để mà thực hiện, sao cho có lợi nhất, theo thánh ý Chúa.

Tuy nhiên, cũng nên nhớ, đáp án chuẩn nhất chỉ có, khi chúng ta kết thúc cuộc sống trần thế này, và lúc ấy, phần thưởng mới được Chúa trao ban.

Nhưng cũng nên nhớ: Chúa chỉ trao ban, khi chúng ta làm việc thiện với lòng tin, lòng cậy trông và lòng mến, mến Chúa, yêu người thật sự.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con tinh thần của Chúa và giúp con thi hành giáo huấn của Chúa vì yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em, để mọi hành động, mọi việc làm của con, đều xuất phát từ tấm lòng khiêm cung và tràn đầy yêu thương, xứng danh là con Chúa. Amen.

-------------------

 

Bài 10: THÁNH LỄ TRONG TRẠI TÙ

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 466

Bạn thân mến,

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã kể về những thánh lễ ngài làm, trong suốt thời gian dài ngài đi cải tạo, thật cảm động như sau:

“Mỗi ngày, với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng Thánh Lễ.

Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi đã dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài.

Chúng tôi đã tự thu xếp, để 5 anh em Công Giáo nằm quanh tôi.

Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng, là tắt đèn, và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân.

Tôi ngồi cúi sát xuống, để dâng lễ thuộc lòng.

Tôi đưa tay dưới mùng, để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ.

Chúng tôi lượm giấy nylon bọc bao thuốc hút, để làm những túi nhỏ, đựng Mình Thánh.

Như thế, Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa đã làm cho chúng tôi sống:

"Ta đã đến, là để chúng có được sự sống, và có một cách dồi dào" ( Ga 10, 10 ).

Như man-na đã nuôi dân Do-Thái đi đường về tới Ðất Hứa, thì Thánh Thể cũng sẽ nuôi con đi cùng Đường Hy Vọng ( x. Ga 6, 53 ).

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần. Chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm Giờ Thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể, biến đổi họ một cách lạ lùng. Nhiều người Công Giáo đã trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công Giáo, Phật Giáo tìm hiểu Phúc Âm và lãnh phép Thánh Tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau khi được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù, trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất, đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể, chứ không phải do sức loài người” ( Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá ).

*****

Bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 1-4; 4, 14-21), giới thiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đấng Cứu Thế. Đấng Mes-si-a, mà Ngôn Sứ Isaia đã loan báo từ hàng trăm năm trước:

1. Sứ mạng thứ nhất: Đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn

Người đến không đem Tin Mừng đến cho giới quý bậc, vương giả, quý chánh khách, quý nhân sĩ học cao hiểu rộng, quý vị kiêu căng, hợm hĩnh, tự phụ về tài năng, về chức tước, về bổng lộc,

Mà Người đến với những thân phận nghèo hèn, những kẻ cùng đinh, những thân phận bên lề xã hội, những người bé nhỏ, khiêm tốn, nhường nhịn, tự hạ, vị tha, chân thành, ý thức bản thân như cát bụi, trước Đấng Tạo Hóa.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ( Lc 4, 18 ).

Đến thờ lạy Đấng Cứu Thế trong máng cỏ Bêlem, những trẻ mục đồng chăn chiên khốn khó, với tâm hồn chân thành, trong sáng, những nhà chiêm tinh thiện tâm, nhiệt tình, khao khát yết kiến Vua Vũ Trụ.

Khởi sự đi rao giảng, Người cũng kêu gọi và chọn những Tông Đồ, từ dân thuyền chài, tầm thường, nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc. Những người sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự thế gian, công việc, gia đình, để đi theo Chúa.

Trong khi đó, bao nhiêu Luật Sĩ, Kinh Sư, Tư Tế và cư dân thành Giê-ru-sa-lem đều nghe biết Đấng Mes-si-a được sinh hạ ở Bêlem, nhưng vẫn lạnh nhạt, hờ hững, làm ngơ, chẳng hề đoái hoài đón nhận và đến thờ lạy Người.

Cũng như trào lưu xã hội hiện nay, đang đua nhau phủ nhận Chúa, đang xua đuổi Người ra khỏi mọi lãnh vực của xã hội. Khi đua nhau vái lạy những con Bò Vàng tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, lạc thú, thay vì kính Chúa, yêu người, thì Tin Mừng đương nhiên trở nên điều xa xỉ, không cần thiết đối với họ.

Do vậy, Tin Mừng chỉ có thể đến được với những tâm hồn khiêm cung, nhỏ bé, đói khát sự công chính, sự thật và chân lý.

Chúa Giêsu vẫn khuyên nhủ mọi người, hãy trở nên trong sáng, hồn nhiên, đơn sơ như trẻ thơ, để dễ dàng nhận được những hạt giống Tin Mừng, ươm chồi, nảy lộc, thành cây xanh tươi, sinh hoa thơm, trái ngọt sau.

2. Sứ mạng thứ hai: Đem tự do cho người tù và bị áp bức

Chúa Giêsu đến thế gian, không phải làm chiến sĩ anh hùng, giải thoát dân Israel khỏi ách đô hộ Rôma, không giải thoát những tù binh hay nô lệ. Nhưng giải thoát con người, khỏi xiềng xích ma quỷ, khỏi quyền lực thế gian đen tối độc ác, khỏi cạm bẫy cám dỗ, khỏi đam mê xác thịt, dẫn dắt con người đến bến bờ hy vọng cứu rỗi.

“Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha… trả lại tự do cho người bị áp bức” ( Lc 4, 18 ).

Ngay tại nơi tù ngục, Tin Mừng vẫn đem lại ánh sáng tự do cho những ai đang quằn quại chịu nhục hình. Giải thoát tâm hồn họ khỏi ách tù đày, khỏi áp bức tra tấn, khỏi thù hận, nghi kỵ, bất mãn, như Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê đã trải nghiệm:

“Dẫu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” ( Tv 23, 4 ).

Nhất là Tin Mừng, còn phá tan vòng kiềm tỏa của ma quỷ, giam hãm con người trong ngục thất tội lỗi u mê, tìm được lối thoát an toàn. Những tù nhân của đam mê vật chất, những con tin của cuộc sống trụy lạc, sớm thức tỉnh, sẽ được tự do trở về với Lòng Thương Xót vô bờ.

3. Sứ mạng thứ ba: Đem ánh sáng cho người mù

“Người sai tôi đi công bố cho người mù biết: Họ được sáng mắt” ( Lc 4, 18 ).

Người đem Tin Mừng đến dẫn dắt, soi sáng, hướng dẫn những ai mù lòa, lạc đường trong tối tăm, trong bóng đêm vô thần. Những người đang bị Chủ Nghĩa Duy Vật, Chủ Nghĩa Hiện Sinh, Chủ Nghĩa Thực Dụng, khuynh đảo, che mất tầm nhìn về tương lai. Nhất là Chủ Nghĩa Duy Tương Đối và khuynh hướng tục hóa, đang thách thức và đe dọa thô bạo đến niềm tin Kitô hữu.

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 119, 105 ).

Trước cái bả danh lợi, sắc dục, của cải, con người dễ dàng mù quáng lao theo chước cám dỗ chiếm đoạt, không còn biết đến công bằng, chánh trực và đạo nghĩa.

Trước những lời nói có cánh, khen ngợi, dụ dỗ, khích động, con người cũng dễ dàng gục ngã, a dua, tán đồng, hoặc bị phỉnh lừa. Đó là chính là lúc cần đến Lời Chúa đến soi sáng phân minh, đâu là thật giả, đâu là con đường chính đáng phải theo.

4. Sứ mạng thứ bốn: Ban phúc Hồng Ân

Đấng Cứu Thế công bố Năm Hồng Ân của Chúa, không chỉ là một năm duy nhất, mà kéo dài cho đến ngày chung thẩm.

Nay, thời thế mạt sắp đến gần, thế nhưng, có bao nhiêu người chịu lắng tai nghe tiếng kêu khẩn thiết trong hoang mạc của ông Gioan Tiền Hô, để kịp thời ăn năn, sám hối ?

Nhiều người đang trở nên điếc đặc, hay mù lòa, trong cái xã hội hỗn độn, phù phiếm, gian manh, lừa đảo, bóc lột, đàn áp, bất nhân, bất nghĩa. Trong đó, con người coi nhau như cừu địch, chỉ biết đua nhau, bước lên đầu, lên cổ người khác, để tiến thân, để hưởng thụ.

Nhưng Đấng Cứu Thế đã kịp thời đến, xua tan bóng đêm hãi hùng, chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng, hóa giải những mưu ma, chước quỷ, mời gọi mọi người quay trở về đường ngay, nẻo chính, về với quê hương Nước Trời.

Lạy Chúa, xin hãy giải thoát con khỏi xiềng xích tội lỗi. Xin hãy mở mắt, mở tai con ra, để con biết đón nhận Tin Mừng, biết đem áp dụng vào đời sống thường ngày.

Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho con biết ăn năn sám hối, biết trở về cùng Chúa nhân lành, hầu con xứng đáng hưởng hồng ân cứu độ Chúa ban. Amen.

-------------------

 

Bài 11: TÂM SỰ CỦA 2 CON CHUỘT

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 467

Bạn thân mến,

Có một con chuột sống trong một nhà thờ ở miền quê.

Một hôm, đang lúc nó đi lang thang dạo mát, thì bỗng gặp một con chuột khác, cũng đang đi rong chơi dạo mát. Nó liền được dịp tâm sự:

“Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội, nhưng chẳng được mấy yên thân, vì hầu như lúc nào cũng có người đến xưng tội, phá giấc ngủ của tôi”.

Nghe thế, con chuột kia vội nói:

- “Vậy thì bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ của tôi ấm áp, sạch sẽ, mà chẳng mấy khi có người đến quấy rầy, yên tĩnh lắm”.

- “Ô ! thế bạn ở đâu vậy?”.

- “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo” (Trích Món quà giáng sinh).

*****

Ba việc đạo đức tiêu biểu, mà những người Do Thái thường làm, là bố thí, cầu nguyệnăn chay.

Người Pharisiêu rất vụ hình thức, nghĩa là luôn làm những việc này trước mặt công chúng, để mọi người đều biết, mà khen họ đạo đức.

Chúa Giêsu cảnh báo những người làm việc đạo đức, chỉ để khoe khoang và lấy tiếng khen của người đời, thì sẽ vô ích trước mặt Ngài (Mt. 6, 1-6, 16-18).

Mọi hành vi đạo đức nhằm phần thưởng nhân loại trần thế, thì sẽ mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu.

Chúa dạy: Hãy làm việc bác ái và các việc đạo đức cách khiêm nhường và làm cách kín đáo, chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.

Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, sẽ thưởng công cho:

“Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con”.

Hơn nữa, việc đạo đức trên nền khiêm tốn và cách kín đáo, sẽ xây dựng nên sự “công chính” theo Tin Mừng, sẽ có chiều sâu nội tâm của các ý hướng, biết quên mình và luôn dành ưu tiên cho danh dự và quyền lợi của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy cho con tinh thần nhỏ bé, khiêm tốn, nhân hậu như Chúa đã dạy và như Chúa đã làm gương cho con, để mọi hành vi và cách sống của con, cũng như mọi việc con làm luôn được kín đáo, luôn xuất phát từ tấm lòng chân thành, khiêm cung, chỉ vì mến Chúa và vì yêu thương anh chị em con. Amen.

-------------------

 

Bài 12: CHUYỆN LẠ: XIN ĐƯỢC MÙ MẮT

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 468

Bạn thân mến,

Có hai đệ tử sau nhiều năm tu tập, được sư phụ cho xuống núi để cứu nhân độ thế.

Sau nhiều tháng đi khắp nơi giúp đỡ dân lành, họ trở về núi để tường trình lại cho sư phụ những việc họ đã thực hiện.

Sau khi báo cáo, sư phụ thấy đệ tử A làm thật khá, nhưng đệ tử B còn khá hơn.

Sự phụ cảm thấy rất hài lòng, liền nói: Hai con làm rất tốt. Ta sẽ ban thưởng cho hai con. Tuy nhiên đệ tử B lập nhiều công trạng hơn, để được công bằng, ta cho đệ tử A xin trước. Nếu đệ tử A xin một, thì ta sẽ cho đệ tử B hai.

Suy nghĩ giây lát, đệ tử A, trong lòng rất bất mãn, bèn nói: Xin sư phụ cho con được mù một con mắt.

*****

Trong câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ và hành động ghen tỵ của đệ tử A đối với đệ tử B, cũng là thái độ và hành động ghen tỵ, thù hiềm của các thính giả đồng hương của Chúa Giêsu, tại Na-gia-rét, trong Tin mừng theo thánh Luca ( 4,22b-24).

Họ không bằng lòng, đối với những sự thành công của Chúa Giêsu, ở các nơi khác, những nơi Chúa đi truyền giáo, và ngay chính tại quê nhà nữa:

Ông này không phải là con ông Giuse thợ mộc, nghèo nàn. Tại sao ông ta nói hay như thế.

Đối với các nhà lãnh đạo tôn giáo, thì họ cảm thấy uy tín của họ bị đe doạ, khi thấy Chúa Giêsu giảng dạy hay hơn họ. Chúa Giêsu đang được đưa lên cao, còn họ đang bị lép vế. Chiến thuật ghen tỵ của họ rất là đơn giản: Họ tìm cách hạ Chúa Giêsu xuống, để họ được đưa lên cao.

Thái độ ghen tỵ, hiềm thù của họ, đã dẫn đến hành động đả phá. Họ đã dẫn đưa Người lên triền núi, để xô Người xuống vực thẳm.

*****

Rút ra bài học từ đoạn Tin Mừng này và nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng và cũng như của xã hội chúng ta nói chung, chúng ta phải chân nhận rằng, lòng ghen tỵ của con người len lỏi khắp mọi nơi trong cuộc sống, từ trong gia đình, cho đến ngoài xã hội, cả trong tôn giáo nữa.

Trong gia đình, thì anh chị em ghen tỵ nhau, khi cảm thấy rằng mình không được thương yêu hơn anh chị em khác trong gia đình.

Nơi nhà trường, học sinh này ghen tỵ học sinh khác, trong khía cạnh học hành.

Nơi xưởng thợ, nhân công này cảm thấy không bằng lòng với nhân công khác trong vấn đề tiền lương bổng, phân công.

Còn trong tôn giáo, các vị lãnh đạo trong đền thờ đã đối xử với Chúa Giêsu, như chúng ta đã thấy rõ….

*****

Quả thật, sống trong xã hội hôm nay, chúng ta thường hay đem chính mình ra để so sánh với người khác:

Chúng ta so sánh quần áo, xe cộ, nhà cửa, công danh, sự nghiệp….

So sánh để rút ra điều hay điều dở, giúp cho cuộc sống chính mình và của người khác khá hơn, hay hơn, thì là điều rất tốt.

Tuy nhiên, so sánh, để rồi mang đến thái độ gièm pha, ghen tỵ, hiềm thù, đả phá, đè bẹp, loại trừ người khác, vì người khác thành công hơn mình, thí quả là điều không tốt.

Con người hay ghen tỵ sẽ không bao giờ cảm thấy hài hòa, hạnh phúc, bởi họ luôn ao ước, tìm kiếm nơi người khác, những thứ mà họ không bao giờ có được.

Lạy Chúa, xin cho con luôn biết người nhìn vào chính bản thân con, để con biết rõ con hơn, để con biết thay đổi những tính xấu nơi con, nhất là tính hay ghen tỵ, hiềm khích, hận thù, để con biết nhìn mọi người, mọi việc, với con mắt đầy yêu thương, bác ái, của người môn đệ Chúa. Amen.

-------------------

 

Bài 13: CHUYỆN MỌC SỪNG VÌ UỐNG RƯỢU

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 469

Bạn thân mến,

Có một ông vua kia rất bận tâm về tình trạng tham nhũng, hối lộ càng ngày càng gia tăng trong vương quốc, nên nhà vua đã tìm đến tham khảo ý kiến của nhà đạo sĩ khôn ngoan nhất, và có lời yêu cầu như sau:

“Xin đạo sĩ vui lòng giúp tôi phương thế, để có thể biết: Ai là kẻ tham nhũng, hối lộ nhất; ai là người không tham nhũng hối lộ, để tôi biết, mà đổi mới việc trị nước”.

Đạo sĩ trao cho nhà vua một bình rượu thuốc kì diệu, với lời dặn dò như sau:

“Xin nhà vua hãy hòa chút rượu này vào trong thức ăn, hay trong nước uống của những người, mà nhà vua muốn biết về tình trạng tham nhũng, hối lộ của họ. Khi dùng rượu này, người nào đã tham nhũng hối lộ, thì lập tức trên trán họ sẽ mọc ra hai cái sừng. Tội tham nhũng càng nặng, thì hai cái sừng đó càng dài”.

Vừa về đến nhà, nhà vua liền ra lệnh mời tất cả các quan văn quan võ trong triều đình đến dự tiệc. Trước đó, nhà vua cũng đã âm thầm cho người thân tín đến pha rượu của đạo sĩ vào các đồ ăn, thức uống được dọn ra cho khách.

Tiệc chưa xong, thì hình tượng kì lạ đã xảy ra, đúng như lời vị đạo sĩ kia đã nói trước. Nơi trán của mỗi quan văn, quan võ trong triều đình đến dự tiệc, đều đã mọc lên hai cái sừng. Kẻ dài, người ngắn, tùy theo mức độ tham nhũng khác nhau.

Mọi người chưa hết kinh ngạc, thì nhà vua đã nổi giận đùng đùng. Vua đứng lên tuyên bố:

“Hôm nay ta mới biết được lòng dạ của các ngươi. Hai cái sừng mọc ra trên trán các ngươi, là dấu chỉ hiển nhiên, tố cáo những hành động tham nhũng, hối lộ, mà các ngươi đã vi phạm.

Chính vị đạo sĩ trên núi kia đã nói, khi trao cho ta bình rượu thần. Ai dùng nó mà có phạm tội tham nhũng, thì sẽ bị mọc hai cái sừng trên trán, như các ngươi vừa chứng kiến.

Hôm nay, chính Ta sẽ ra hình phạt cho mỗi người. Mức độ hình phạt nặng nhẹ, tùy theo hai cái sừng của các ngươi dài hay ngắn”.

Nói đến đây, nhà vua dừng lại, hãnh diện, chờ phản ứng của các quan trong triều.

Rồi nhà vua nâng ly rượu lên uống.

Trớ trêu thay, đây lại là ly rượu có pha chút rượu thần, mà người làm bếp đã len lén pha vào. Mọi người dự tiệc đều cười lớn tiếng, phá tan sự im lặng, khi thấy trên trán nhà vua cũng vừa mọc lên hai cái sừng. Mà hai cái sừng này lại dài nhất!

*****

Câu chuyện trên có thể nhắc cho mỗi người chúng ta một sự thật căn bản này là:

Trước khi muốn kết án và sửa lỗi anh chị em mình, thì mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận, mà xét lại chính cuộc sống của mình, cần đổi mới đời sống của mình khỏi những tật xấu, những điều tiêu cực.

Quả thực, tật xấu của người ta, thì mình nhìn thấy rất rõ. Còn tật xấu của chính mình, thì mình lại mù quáng, không nhìn thấy gì.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: Đừng bận tâm lo lấy cọng rác nơi mắt anh em, mà quên không lấy cái đà to lớn trong mắt mình trước.

“Hỡi kẻ giả hình, hãy lo lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi mới thấy rõ mà lấy cọng rác ra khỏi mắt anh chị em” (Lc 6,41-42).

Nhà vua trong câu chuyện trên đây, cứ mãi lo lắng về những tham nhũng, hối lộ của các quan, của kẻ khác, mà quên xét lại nếp sống của chính mình.

Cha ông ta vẫn nói rằng: Gương sáng thì giúp đổi mới, nhiều hơn là những lời nói suông. Hướng dẫn bằng gương sáng, thì có hiệu lực hơn những lời trách móc.

Thánh Phaolô đã thực hiện điều này, khi Ngài mời gọi các tín hữu hãy noi gương Chúa Giêsu:

“Vậy dù khi ăn, khi dù uống, hay khi làm bất cứ điều gì, anh em hãy làm tất cả, chỉ vì tôn vinh Thiên Chúa… Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là người Do Thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa.

Cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi luôn cố gắng làm đẹp lòng mọi người. Không tìm lợi ích cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.

Vậy, anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Chúa Kitô”. (1Cr 10,31-11.1)

Đó là bí quyết sống của Thánh Phaolô. Ngài muốn luôn luôn đổi mới chính mình, để không phải xấu hổ vào giờ phút chót, vì đã rao giảng Tin Mừng cho anh chị em vào được Nước Trời, mà chính mình thì lại không vào được, vì những tội lỗi, tật xấu, mà mình không lo sửa.

Trong thư 1Cr 9,27, Thánh Phaolô đã tâm sự về cố gắng tu thân, luyện tính của chính mình như sau:

“Tôi bắt thân thể tôi phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại”.

Lạy Chúa! Xin giúp con đổi mới đời sống con, để góp phần vào việc làm cho xã hội con đang sống được thăng tiến, và cho anh chị em con được nhận biết và chúc tụng
Chúa luôn mãi. Amen.

Đóa Hoa Vô Thường

---------------------------------

 

Bài 14: CHUYỆN TÁO QUÂN VỀ TRỜI

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 470

Bạn thân mến,

Chuyện dân gian thường kể: Ngày 23 tháng chạp là ngày ông Táo về trời, để báo cáo những chuyện dưới đất cho ông Trời.

- Ông Táo là ai ?

- Chuyện kể rằng :

Trọng Cao có vợ là Thị Nhi, ăn ở với nhau, mà không có con, nên sinh ra buồn phiền, thường hay cãi cọ.

Một hôm Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi. Sau đó, nàng gặp Phạm Lang và bằng lòng lấy chàng làm chồng.

Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình có lỗi, thì bôn ba đi tìm vợ khắp nơi. Tiền bạc đem theo đã tiêu xài hết, Trọng Cao đành phải đi ăn xin.

Khi Trọng Cao đi ăn xin, tình cờ đến nhà Thị Nhi. Hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà. Hai người kể chuyện cho nhau và Thị Nhi tỏ lòng ân hận.

Sợ Phạm Lang về bắt gặp, Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trốn trong đống rơm ngoài vườn.

Phạm Lang, ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra, nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết, liền nhảy vào đống rơm đang cháy, chấp nhận chết theo chồng. Phạm Lang thấy vợ chết, cũng nhảy vào đống rơm đang cháy chết theo vợ.

Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, có tình, nên phong làm Táo Quân. Táo là bếp. Táo Quân là Ông Bếp.
 
Ngày nay, bếp đun bằng ga, bằng điện. Còn ngày xưa đun bằng rơm, bằng củi. Bếp được xếp đặt bằng ba hòn đất, nối kết bằng cái kiềng ba chân.

Ngày xưa, mọi sinh hoạt trong gia đình đều ở trong bếp. Bếp tượng trưng cho tình cảm gia đình. Ngày Tết cả gia đình ngồi quây quẩn, nấu bánh chưng, bánh tét. Ngọn lửa sưởi ấm cho cả gia đình.

Chẳng có tình cảm nào bằng tình cảm gia đình. Có đi xa, thì mới cảm nhận được.

Nhưng gìn giữ cho thật trọn vẹn, thì thật là gian truân. Trọng Cao và Thị Nhi, vì giận dỗi mà đã bỏ nhau.

*****

Người đồng hương Nadarét đã giận dỗi Chúa Giêsu.

Chúa trách lòng tin của họ không bằng dân ngoại. Chúa nói : “Vào thời ông Ê-li-a khi trời hạn hán suốt 3 năm, 6 tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở nước Ít-ra-en, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xarépta, miền Xiđôn.

Cũng vậy, vào thời ngôn xứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong cùi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi” (Lc 4,25-27).

*****

Thời thánh Phaolô, các tín hữu Côrintô cũng đã ghen tị nhau, cũng đã chia rẽ nhau. Thánh nhân đã kuyên họ hãy nhớ đến phép rửa tội họ đã lãnh nhận, mà cố gắng sống đoàn kết, yêu thương, tha thứ và giải hoà nhau.

Thánh nhân viết :

“Tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí, để trở nên một thân thể” (1Cr 12,13).

Trong câu chuyện dân gian này, mặc dầu Trọng Cao và Thị Nhi có lỗi với nhau, nhưng họ đã nhận lỗi. Vì tình nghĩa của ba người rất chân tình và thắm thiết, nên Ông Trời đã phong cho 3 người làm Ông Táo:

– Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp
– Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa
– Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa.

Tuy đây chỉ là chuyện dân gian, nhưng nội dung cũng có nhiều chất liệu để chúng ta suy nghĩ:

Hằng năm cứ ngày 23 tháng chạp, ông Táo cỡi cá chép bay lên trời, để báo cáo mọi sinh hoạt của gia đình, những việc tốt, cũng như việc xấu.

Thì trong dịp cuối năm, người Công giáo chúng ta cũng nên tìm thời gian, ngồi lại trước mặt Chúa, để tổng kết, kiểm điểm cuộc sống của ta trong một năm qua, về những việc là dữ đã làm, để ăn năn hối lỗi, và để có những quyết tâm chỉnh sửa cho năm mới, sống tốt hơn, thánh thiện hơn, đạo đức hơn.

Lạy Chúa, xin Chúa chúc lành cho năm mới đang đến với con. Xin Chúa chúc lành cho mọi công ăn việc làm, và những dự tình của con trong năm mới này, có được nhiều thuận lợi. Nhất là thêm một năm mới, con lại được thêm tuổi, thêm khôn ngoan, thêm thánh thánh thiện, thêm đạo đức trước mặt Chúa, thêm một nấc thang nữa, để con bước lên gần Trời, gần Chúa hơn nữa. Amen.

-------------------

 

Bài 15: Cầu nguyện theo phong cách Chúa Giêsu

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 471

Bạn hân mến,

Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện: Không cần nhiều lời: Lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần gì, trước khi chúng ta nói ra.

- Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân, gửi phận, nơi bàn tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài, từ sâu thẳm của lòng chúng ta”.

Đức Cha Tihamer Toth kể:

Một triết gia kia buồn, vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn, nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:

- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói.
- Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần.
- Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.

Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã, người học trò hỏi:

- Tại sao thầy buồn thế?

- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc, không chăm sóc gì cho nó nữa .

- Bộ ông ta khùng ư?

- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương ta vô cùng. Ngài sẽ lo cho ta mọi thứ ta cần, thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù ta không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.

- Như thế là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?

- Thì con cũng thế thôi .

Vậy, hãy cầu nguyện, để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào, và để ta cũng có thể yêu thương kẻ khác giống như vậy.

*****

Như thế, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa.

Đã nói chuyện, thì phải có lúc nói, có lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại.

Xin kể ra đây một ít sự kiện, để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế nào.

Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:

- Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chủ. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo”.

Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa”.

Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:

- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ, hơn là nghe giảng?

- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện, mặt đối với Vua trên trời, hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.

Trong tác phẩm: “Năm chiếc bánh và hai con cá” Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện về ông già Jim.

- Mỗi ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Sự việc đó làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc, nên theo dõi. Rồi một hôm ông từ mạnh dạn chặn ông Jim lại và hỏi:

- Ngày nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy?

- Tôi đến để cầu nguyện.

- Không thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút?

- Tôi vừa già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi!

- Ông nói gì với Chúa?

- Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.

Vâng! Đó là lời cầu nguyện thật đơn sơ, nhưng thật cảm động.

Và đây, câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh Gioan Maria Vianney.

Hàng ngày ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một ông lão ghé vào nhà thờ mỗi chiều, sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông luôn quì ở hàng ghế ấy. Quì một chút, rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông vào. Một hôm, ngài gọi ông lại và hỏi:

- Ông ơi, chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một chỗ, ngày nào cũng vậy, mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì đó làm gì vậy?

Ông lão tủm tỉm trả lời:

- Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.

Đây là lời cầu nguyện của thánh Augustinô.

“Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con biết con,
Xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
Quên đi chính bản thân,
Yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
Biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
Tất cả những gì xảy đến cho con
Và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen”.

-------------------

 

Bài 16: Linh mục Pierre, một cuộc đời vì người nghèo

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 472)

Bạn thân mến,

Báo “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” số ra ngày 28-1-2007, đã dành ngay trang bìa, đăng hình “Cha Pi-er-re” cùng với cái tít thật lớn:

Linh mục Pierre, một cuộc đời vì người nghèo,

và dành những trang đầu của tờ báo, để viết về cuộc đời cha Pi-er-re.

Một tờ báo đời, mà viết về một ông cố đạo. Quả thật là một đặc biệt hiếm có !

Trong khi đó, theo báo CG&DT số chúa nhật 28-1 này, thì báo “Người Lao Động” cũng số chúa nhật, song khác ngày, ngày 7-1-2007, trước “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” 21 ngày, đã phỉ báng cha Đắc Lộ, người biến chữ nho thành chữ quốc ngữ, mà cả dân tộc đang dùng.

Cha Đắc Lộ, không những có công với Giáo Hội Công Giáo VN, mà cha còn có công với nước VN. Vì thế, người ta đã đắp tượng ngài, để ở Văn Miếu Hà Nội và lấy tên ngài đặt tên cho một con đường, sau dinh Thống Nhất bây giờ.

*****

Cha Pi-er-re sinh năm 1912 tại Pháp. Ngài đã làm việc từ thiện ngay từ nhỏ.

Đầu tiên, ngài cùng với cha mẹ và phong trào “Thăm Viếng Bệnh Nhân” đến các bệnh viện.

Rồi ngài tham gia vào hội “Hớt Tóc” cho người nghèo.

Ngài muốn đi tu, để dành cuộc đời cho người nghèo.

Đến năm 16 tuổi, ngài mới được dòng Phanxicô đón nhận. Ngài được khấn lần đầu năm 19 tuổi. Được thừa hưởng một phần tài sản do cha mẹ để lại, nhưng ngài đã biếu cho các hội từ thiện.

Năm 26 tuổi ngài thụ phong linh mục. Năm sau, ngài bị gọi đi quân dịch, để đánh lại quân Đức xâm lăng nước Pháp.

Nước Pháp thất thủ, ngài tham gia kháng chiến, lấy bí danh là “Cha Pierre”. Từ đó, ngài mãi mang tên này.

Năm 1942, ngài tổ chức cho vợ chồng người em trai út của tướng De Gaulle vượt biên, sang Thụy Sĩ.

Năm 1944 ngài bị quân Đức bắt và bị giam trong tù.

Ngài trốn tù, chạy sang Tây Ban Nha, rồi sang Argentina, gia nhập lực lượng kháng chiến của tướng De Gaulle.

Thế chiến thứ II chấm dứt, nước Pháp được giải phóng. Ngài lập hội “Em-maus”, qui tụ những người lượm “ve chai”, thành những thợ hồ xây dựng nhà cho những người vô gia cư, không có nhà ở.

Sau này, hội này thành hội từ thiện, giúp những người nghèo. Hội gây qũi bằng cách đi bới các thùng rác, lượm nhặt bất cứ thứ gì có thể bán được.

Các cộng đoàn Em-maus cho tới nay được thiết lập trên 41 nước. Tiếng tăm ngài được biết khắp thế giới.

Tổng thống Mỹ Ei-sen-how-er mời ngài sang Mỹ.

Quốc vương Ma-rốc mời ngài sang để tư vấn cho việc xây nhà cho những người nghèo ở nông thôn.

Năm 1956 thủ tướng Neh-ru Ấn Độ, mời ngài sang giúp ý kiến trong việc cải cách nông thôn.

Năm 1958 ngài giúp nước Pê-ru trong việc giáo dục người nghèo.

Từ Pe-ru, ngài sang Côlômbia, hỗ trợ cho phong trào “linh mục thợ”.

Năm 1959 cha sang E-cu-qua-dor để yêu cầu Giáo hội đừng xây dựng những ngôi nhà thờ đồ sộ trong vùng đồng bào nghèo.

Năm 1985 ngài tổ chức những “quán cơm tình thương”.

Năm 1988 ngài xin Qũi Tiền Tệ Quốc Tế tha nợ cho các nước nghèo.

Tổng thống Pháp Chi-rac đã gọi cha Pi-er-re là “Linh hồn quảng đại của nước Pháp” và năm 1988 khi cha 70 tuổi, tổng thống trao tặng huân chương cao qúi nhất của nước Pháp là “Bảo Quốc Huân Chương”. Nhưng vì chính phủ Pháp chậm trễ trong việc giải quyết nhà cho người nghèo, năm 1992 cha Pi-er-re đã trả lại huân chương cho tổng thống. Và sau này tổng thống trao tặng lại huân chương này cho ngài.

Năm 1989 Đức Cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô II sang Pháp đã mời cha ngồi bên phải.

Suốt đời cha Pi-er-re sống chung với người nghèo, khi thì ngủ trên đường phố, khi thì ngủ ở dưới gầm cầu, các bến xe. Bất cử ở đâu, có người nghèo, là có sự hiện diện của cha.

Nước Pháp đã 17 lần bầu cha là người “nước Pháp yêu mến nhất”.

Năm 1988 được 70 tuổi, cha về nhà dòng, để chuẩn bị chết.

Cha qua đời  ngày 22-1-2007, thọ 95 tuổi.

Thánh lễ an táng của cha là lễ quốc táng ở nhà thờ chính tòa Pa-ri.

Tổng thống Pháp đã phát biểu:

“Sự ra đi vĩnh viễn của cha Pierre làm cho tòan thể nước Pháp xúc động tận đáy con tim. Nước Pháp mất đi một khuôn mặt vĩ đại, một lương tâm ngay chính, một tấm lòng nhân ái cao cả.”

Cuộc đời cha Pi-er-re phản ảnh tinh thần “bài ca đức mến” của thánh Phaolô trong bài đọc 2 thánh lễ hôm nay. Còn bài ca nào ca ngợi lòng mến, bằng bài ca của thánh Phaolô.

Chúng ta hãy nghe những lời ca ngợi của thánh Phaolô:

“Gỉa như tôi có nói được các thứ tiếng của lòai người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chụm chọe, xoang xỏang.

Gỉa như tôi được ơn nói tiên tri… hay có được đức tin chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.

Gỉa như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp, mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).

Tiếp theo, thánh Phaolô đưa ra 15 yếu tố làm nên đức mến:

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.”

Cuối cùng thánh Phaolô nói lên tầm quan trọng của đức mến:

“Đức mến không bao giờ mất được…Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr, 13,8.13).

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa, vì đã ban cho con có nhiều mẫu gương sống “giới luật yêu thương” Chúa dạy, rất cụ thể, rất hào hùng, rất quảng đại, như cha Pi-er-re…, để con biết cố gắng thực hiện trong cuộc sống. Xin giúp con thực hiện điều quyết tâm hôn nay. Amen.

-------------------

 

Bài 17: CÁCH CẦU NGUYỆN CỦA ANH NÔNG DÂN XỨ ARS

(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 473)

Bạn thân mến,

Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Ars, người ta không thể quên câu chuyện sau đây, về một nông dân xứ Ars:

Mỗi ngày, trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát, rồi mới ra đồng.

Khi trở về, nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy.

Trong xứ, ai ai cũng nể và kính phục.

Một hôm có người hỏi anh ta: “Hằng ngày, anh ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?”.

Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.

*****

Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.

Câu trả lời trên của anh nông dân xứ Ars, diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện.

Hoạt động không cầu nguyện, là vô ích trước mặt Thiên Chúa.

Máy móc tự động ngày nay, có thể làm nhiều hơn ta, làm hay hơn ta.

Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện ta nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện, dù có phép lạ, ta cũng đừng tin.

Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”.

Chúa Giêsu đáp: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

Chúa đã dạy đọc kinh Lạy Cha, để giúp chúng ta cầu nguyện, nhưng điểm chính của cầu nguyện là gặp gỡ, là nói chuyện, giữa Chúa và ta.

Khi ta cầu nguyện, đừng lo ta phải nói gì, chỉ vào phòng đóng cửa mà cầu nguyện với Cha của ta một cách kín đáo, chắc chắn Ngài sẽ nhận lời ta. Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.

Những chia sẻ trên đây của Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, tác giả “Đường Hy Vọng” hướng dẫn chúng ta hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng Mt 6, 7-15 mà chúng ta vừa nghe.

*****

Giờ đây chúng ta hãy cùng chia sẻ với nhau những ý nghĩa sâu xa của lời kinh Lạy Cha, mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ.

Trong vài phút suy niệm này, chúng ta hãy chú ý đến tinh thần phải có khi cầu nguyện.

Trong đoạn Phúc Âm trên, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ lời kinh Lạy Cha, như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện:

Tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, và tinh thần đơn sơ khiêm tốn, nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa, hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng:

“Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như những kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì sẽ được nhiều”.

Vì suốt ngày mỏi mệt rao giảng Tin Mừng, nên mỗi khi đêm về quỳ gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, thánh Phanxicô đã có những lúc quá mệt mỏi, phải ngủ gục bên bàn thờ.

Lúc ấy, ngài thường cầu nguyện với Chúa một cách đơn sơ như sau:

“Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần bên Chúa”.

Cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài.

Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc, bóp trán, để trình bày với Chúa.

Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình.

Thánh Phaolô tông đồ giãi bày như sau:

“Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ cầu nguyện cho chúng ta, với những lời kêu van, không thể diễn tả được” (Rm 8,26)

Nhờ bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô hữu sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần.

Chúng ta hãy cố gắng sống trong Chúa Thánh Thần, để phát triển đời sống con người, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nếu ta không phải là người cầu nguyện, thì không ai tin ta làm việc vì Chúa.

Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai như thế nào, thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không, và cầu nguyện ra sao?

Lạy Chúa, xin thương ban cho con được tràn đầy Chúa Thánh Thần, để con biết canh tân chính mình con và anh chị em con, trong môi trường con sống, để tất cả đều được ràn ngập trong yêu thương, yêu Chúa và yêu thương nhau hết mình vì Chúa. Amen.

-------------------

 

Bài 18: Con người sẽ trở nên vĩ đại và cao cả, nhờ tình yêu trao dâng và tặng hiến

 (Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 474)

Bạn thân mến,

Trong một cuộc triển lãm, ghi dấu ngày con tàu Titanic khổng lồ bị chìm sâu dưới đáy đại dương (Tàu Titanic huyền thoại chìm vào ngày 14/4/1912 ), người ta đã trưng bày ra 2 bức ảnh, với 2 chủ đề thật trái ngược nhau.

- Tấm ảnh thứ nhất, chụp cảnh con tàu vĩ đại, đang từ từ chìm sâu xuống lòng biển, trước cặp mắt kinh hoàng của hàng ngàn người.

Tác giả chú thích bên dưới: “Sự yếu ớt của con người và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên”.

- Tấm ảnh thứ 2, chụp cảnh một hành khách quý phái, nhường chỗ của mình trên chiếc cano cứu hộ, cho một phụ nữ.

Người phụ nữ này được cứu sống, còn vị khách chấp nhận cái chết.

Tác giả chú thích: “Sự yếu ớt của thiên nhiên và sức mạnh của tình yêu con người”.

Tổng hợp cả 2 bức ảnh, người ta muốn nói lên một điều, đó là con người thật nhỏ bé và mong manh, trước vũ trụ bao la.

Nhưng con người sẽ trở nên vĩ đại và cao cả, nhờ tình yêu dâng tặng cho nhau.

*****

Hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào sự yếu đuối và mỏng dòn nơi thân phận con người, nhưng chúng ta sẽ tìm thấy được sức mạnh, lớn lao, phi thường, khi tín thác vào ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.

1. Trước hết, chúng ta thấy sự bất lực và mong manh trong kiếp người.

“ Thưa Thầy, chúng con đã vất cả suốt đêm, mà không bắt được gì cả”.

Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 5, 1-11), Phêrô đã giãi bày với Chúa về sự bất lực nơi mình.

Cũng vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô đã tự thú:

“ Tôi không đáng được gọi là Tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cor 15,9).

Đây là 2 con người vĩ đại, là 2 cột trụ của Giáo Hội, nhưng cả 2 đều có chung một quá khứ, chẳng mấy sáng sủa gì.

- Phêrô thì bộc trực, nóng vội, thậm chí còn là một anh học trò phản bội.

- Quá khứ của Phaolô còn đáng sợ hơn. Ngài là một tay sát thủ chuyên nghiệp, chuyên đi lùng bắt và sát hại các Kitô hữu, trong đó có Stêphanô.

Cả Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều bày tỏ sự bất lực nơi thân phận mình. Các Ngài cảm thức được sự mong manh yếu đuối qua các lỗi lầm đã phạm.

2. Nhưng chúng ta lại thấy: Sức mạnh của ân sủng.

“Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”.

Đây là một thái độ của đức tin, tín thác vào quyền năng và ân sủng của Chúa.

Ta nên nhớ: Phêrô là một anh thuyền chài chuyên nghiệp, dày dạn kinh nghiệm. Ông đã từng sinh sống bằng nghề đánh cá suốt bao nhiêu năm qua.

Nhưng con người, dù có tài giỏi đến mấy, cũng sẽ có lúc gặp thất bại cay đắng.

Các Tông đồ đã trải nghiệm thế nào là sự nghiệt ngã của cuộc đời, đặc biệt sau cái chết của Gioan tiền hô trong tù ngục. Vì vậy, sau khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Chúa mời gọi các ông hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi (Mc 6,31).

Đây, không phải là sự nghỉ ngơi thân xác, nhưng Chúa mời gọi các ông lui về, để Thầy trò cận kề bên nhau, ôn lại những gì đã qua, cảm thấu được sự yếu đuối và nghiệt ngã nơi phận con người, hầu mở toang tâm hồn, cho ân sủng Chúa phủ ngập.

Chúa còn nói thêm: “ Không có Ta chúng con không làm được gì” (Ga 15,5).

Nơi Phaolô, chúng ta cũng thấy được sự giằng co giữa tội lỗi và ân sủng, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết.

Chúa nói với Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi”.

Phaolô cảm thức rất sâu sắc sự bất toàn của mình, nên đã tự bộc bạch:

“ Đức Giêsu đến cứu chuộc những con người tội lỗi, và người tội lỗi đầu tiên là chính tôi đây”.

Một con người đã cầm gươm sát hại bao Kitô hữu, lại được ân sủng biến đổi, trở nên một Tông đồ vĩ đại, một sứ giả lừng danh, công bố về tình yêu Thiên Chúa cho con người.

Trong lá thơ gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã thấm thía kinh nghiệm bản thân và đã khẳng quyết:

“Ở đâu tội lỗi càng nhiều, ở đó ân sủng càng chan chứa”.

Trong bài đọc 2 hôm nay, Phaolô cũng nhắc lại sự thâm tín này. Ngài viết:

“ Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Chúa, và ơn người ban cho tôi, đã không vô hiệu. Tôi đã làm việc nhiều hơn các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Chúa ở cùng với tôi” (1Cor 15,4-10).

Tín thác vào sức mạnh của ân sủng và quyền năng Thiên Chúa, là chìa khóa để hóa giải tất cả những vết đen của quá khứ.

Tội nhiều hay tội ít không quan trọng, chỉ cần chúng ta biết trải lòng mình ra, để ơn thánh Chúa tác động.

Thánh Tôma Aquinô đã nói:

“Ai sa ngã trong tội lỗi, đó là một con người bình thường. Kẻ nào ở lì trong tội, đó là ác quỷ. Còn ai biết chỗi dậy sau những nhớp nhúa của tội lỗi và tín thác vào ơn trên, người đó là một vị Thánh”.

Nguyên tắc này chúng ta thấy rất rõ nét nơi Phêrô và Phaolô.

Sau khi Phêrô chối thầy, ánh mắt Chúa đã quét ngang khuôn mặt ông, nơi sân nhà thượng tế Caipha. Tia sáng tình yêu, đã khơi dậy nơi Phêrô cảm thức thống hối, và biến đổi con người mong manh này, trở thành một Tông đồ vĩ đại.

Cũng vậy, ánh sáng phát ra từ trời cao đã chọc thủng đôi mắt thân xác của Phaolô trên đường đi Damas, nhưng cũng chính nguồn sáng tình yêu ấy, lại khai mở cặp mắt đức tin nơi tâm hồn Ngài. Đó là ánh sáng của tình yêu, đã thẩm thấu thật sâu vào tận trái tim của thánh nhân, nên Ngài đã viết:

“Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô”.

3. Và cảm nghiệm cuối cùng, là các ông đã bỏ tất cả mọi sự, nhất quyết đi theo Người.

Đây là đoạn kết của cuộc hành trình biến đổi nội tâm.

Thánh Luca đã kết thúc trình thuật Tin mừng hôm nay, khi nói về sự chiến thắng của ân sủng, trước sức mạnh của tội lỗi.

Ơn Chúa đã tạo ra sự biến đổi:

- Phêrô đã bỏ mọi sự đi theo Đức Giêsu.

- Cũng vậy, chàng đại ca Phaolô một thời tung hoành oanh liệt, đã chấp nhận ‘gác kiếm’ để trở nên một dũng sỹ phục vụ cho Tin Mừng.

Thanh kiếm ngày xưa Ngài đã dùng để sát hại các Kitô hữu, thì nay đã được gác lại, thay bằng một thanh gươm khác, sắc bén hơn, lợi hại hơn, đó là thanh gươm của lòng mến.

Thánh Phaolô đã giải bày thanh gươm tuyệt chiêu ấy qua một bài ca bất hủ, mà chúng ta vẫn gọi là bài ca Đức mến, được viết trong lá thư thứ nhất Ngài gửi cho giáo đoàn Corintô, đó là ân sủng cao quý nhất, trổi vượt hơn tất cả mọi ân sủng (1 Cor 12, 31).

Đức mến, chính là con đường ơn gọi của Thánh Phaolô.

Tình yêu, cũng chính là điều kiện Chúa Giêsu đặt ra, để chọn Phêrô và bác dân chài Galilê đã đáp trả lại cách mạnh mẽ, và rất quyết liệt:

“Phêrô, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?

Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Để nói lên lòng yêu mến đáp trả, các môn đệ đã bỏ mọi sự và đi theo Ngài.

Lạy Chúa, sức mạnh của tình yêu, đã biến đổi 2 con người rất yếu đuối, có rất nhiều thiếu sót, lỗi lầm, lại trở thành những tông đồ nhiệt thành, lại trở thành những cột trụ của Hội Thánh, và đã trở nên thánh cả.

Xin Chúa cũng hãy đốt lên trong con ngọn lửa tình yêu đó, để con cũng được nên tông đồ của Chúa, được trở thành dụng cụ hữu ích cho cánh đồng truyền giáo, được Chúa yêu thương, đời này và đời sau. Amen.

-------------------


Những sách đã in (38 cuốn):
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/nhung-sach-da-in-1654.html

*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)

I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (4 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng– Sách 4

II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5

III. - Chuyện kể cho các gia đình: (17 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17

IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8

V. – Kho sách quý: (4 cuốn)
https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4

----------------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây